Tác giả |
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 1 of 24: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 6:58am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi mới sưu tầm được trên trang WEb này :
http://phapam.good.to
Đây là một trang web có rất nhiều kinh Phật. Xin cho mọi người biết để xem thử. Để giải trừ tội nghiệp của ḿnh.
Nam Mô A Di Đà Phật
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 2 of 24: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:06am | Đă lưu IP
|
|
|
Hoặc trang Web này nữa nha
http://adidaphat.net/phapam/phapam_details.asp?cd_id=44
Mong rằng các bạn sẽ được an lành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 3 of 24: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:12am | Đă lưu IP
|
|
|
Xin chân thành cảm ơn bạn Toithichhoc!
Đă cho mọi người cùng biết web này để học hỏi và tu tập. Thật sự, tôi đă biết web này. Dẫu sau cũng chân thành cảm ơn bạn. Mong sao cho tất cả mọi người cùng được nghe pháp âm của Phật từ web này và tinh tấn tu tập chóng thành đạo quả.
Nam mô Viên Măn Báo Thân Lô Xá Na Phật.
Kính chúc bạn cùng toàn gia quyến thân tâm thường anlạc.
Phổ Quảng
kính
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 4 of 24: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:36am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi Không hiểu Kinh này thuộc về điều ǵ??? Chỉ Vô T́nh đọc thôi mong cao nhân chỉ giáo:
Kinh Tạng Trường A - hàm
Phần i
1. KINH ĐẠI BẢN DUYÊN[1]
------------------------------------------------------------ --------------------
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở động Hoa lâm[2] vườn cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngh́n hai trăm năm mươi người.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi khất thực[3], tụ họp ở Hoa lâm đường[4], cùng nhau bàn luận rằng:
“Các hiền giả Tỳ-kheo, duy chỉ đấng Vô thượng tôn, rất kỳ diệu, oai lực lớn lao, thần thông viễn đạt, mới biết rơ quá khứ vô số đức Phật nhập Niết-bàn, dứt sạch các kết sử, tiêu diệt các hư luận, và cũng biết rơ kiếp số các đức Phật ấy dài hay ngắn, cho đến danh hiệu, ḍng họ thác sinh, sự ăn uống, thọ mệnh dài ngắn, cảm thọ lạc và cảm thọ khổ như thế nào[5]; lại biết rơ các đức Phật ấy có giới như vậy, có pháp như vậy, có trí tuệ như vậy, có giải thoát như vậy, an trụ như vậy. Thế nào, này chư hiền? Đó là do đức Như Lai thông rơ các pháp tính mà biết được hay do chư thiên kể lại?”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ thanh tịnh, nghe rơ các Tỳ-kheo luận bàn như thế, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa lâm đường, ngồi vào chỗ ngồi dọn sẵn. Bấy giờ, đức Thế Tôn tuy đă biết nhưng vẫn hỏi:
“Này chư Tỳ-kheo, các ngươi tụ tập nơi đây bàn luận chuyện ǵ?”
Các Tỳ-kheo bèn đem hết mọi việc bạch lại với Phật. Rồi th́, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Lành thay, lành thay! Các ngươi đă với tâm chánh tín[6] xuất gia học đạo, nên làm hai việc: một là nói năng theo pháp Hiền Thánh, hai là im lặng theo pháp Hiền Thánh. Những điều các ngươi luận bàn phải nên như thế. Như Lai thần thông oai lực lớn lao, biết khắp mọi việc từ vô số kiếp quá khứ, như thế là do thông rơ các pháp tính, đồng thời cũng do chư thiên nói lại.”
Bấy giờ Phật nói bài tụng:
Tỳ-kheo họp pháp đường
Giảng luận pháp Hiền Thánh.
Như Lai từ am vắng
Nghe rơ bằng thiên nhĩ.
Mặt trời Phật rọi khắp,
Phân tích nghĩa pháp giới.
Cũng biết việc quá khứ,
Chư Phật[7] bát Niết-bàn,
Tên, ḍng họ, chủng tộc.
Cũng biết thọ sanh phần.
Vị ấy ở nơi nào,
Ghi nhận bằng tịnh nhăn.
Chư thiên uy lực lớn,
Dung mạo rất đoan nghiêm,
Cũng đến bẩm báo Ta
Chư Phật bát Niết-bàn,
Chỗ sinh, tên, chủng tộc
Âm thanh vi diệu tỏ[8].
Đấng Chí Tôn trong đời
Biết rơ Phật quá khứ.
Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo! Các ngươi có muốn Như Lai, bằng trí túc mạng biết nhơn duyên của chư Phật quá khứ, nói cho nghe chăng?”
Các Tỳ-kheo liền bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nay chính là lúc. Chúng con muốn nghe. Lành thay, Thế Tôn, lúc này thích hợp để giảng thuyết. Chúng con phụng hành.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Hăy lắng nghe, hăy suy gẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các ngươi nghe.”
Lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời, lắng nghe.
Phật nói:
“Này các Tỳ-kheo! Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi[9], Như Lai, Chí chân, xuất hiện ở thế gian.
“Lại nữa, Tỳ-kheo, trong quá khứ cách đây ba mươi mốt kiếp có đức Phật hiệu là Thi-khí[10], Như Lai, Chí chân, xuất hiện ở thế gian.
“Lại nữa, Tỳ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp đó có đức Phật hiệu là Tỳ-xá-bà[11] Như Lai, Chí chân, xuất hiện ở thế gian.
“Lại nữa, Tỳ-kheo, trong hiền kiếp này có Phật hiệu là Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp.[12] Ta nay cũng ở trong hiền kiếp này mà thành Tối Chánh giác.”
Bấy giờ, Phật nói bài tụng:
Qua chín mươi mốt kiếp
Có Phật Tỳ-bà-thi.
Ba mươi mốt kiếp kế
Có Phật hiệu Thi-khí.
Cũng ở trong kiếp này,
Xuất hiện Phật Tỳ-xá.
Nay trong Hiền kiếp này,
Vô số na-duy tuổi[13],
Có bốn Đại Tiên nhân,
Xuất hiện v́ thương đời:
Câu-lưu-tôn, Na-hàm,
Ca-diếp, Thích-ca-văn.
“Các ngươi nên biết, thời đức Phật Tỳ-bà-thi, nhân loại sống đến tám vạn tuổi; thời đức Phật Thi-khí, nhân loại sống đến bảy vạn tuổi; thời đức Phật Tỳ-xá-bà, nhân loại sống đến sáu vạn tuổi; thời đức Phật Câu-lưu-tôn, nhân loại sống đến bốn vạn tuổi; thời đức Phật Câu-na-hàm, nhân loại sống đến ba vạn tuổi; thời đức Phật Ca-diếp, nhân loại sống đến hai vạn tuổi, và nay Ta ra đời, nhân loại sống đến một trăm tuổi, tăng th́ ít mà giảm th́ nhiều.[14]”
Rồi Phật nói bài tụng:
Người thời Tỳ-bà-thi,
Thọ tám vạn bốn ngh́n,
Người thời Phật Thi-khí
Thọ mạng bảy vạn tuổi.
Người thời Tỳ-xá-bà
Thọ mạng sáu vạn tuổi.
Người thời Câu-lâu-tôn
Thọ mạng bốn vạn tuổi.
Người thời Câu-na-hàm
Thọ mạng ba vạn tuổi.
Người thời Phật Ca-diếp
Thọ mạng hai vạn tuổi.
Người thời Ta hiện nay
Tuổi thọ không quá trăm.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi sinh về ḍng Sát-lỵ[15], họ Câu-lị-nhă[16]. Phật Thi-khí và Phật Tỳ-xá-bà, ḍng họ cũng vậy. Phật Câu-lưu-tôn sinh về ḍng Bà-la-môn họ Ca-diếp[17]. Phật Câu-na-hàm, Phật Ca-diếp, ḍng họ cũng vậy. C̣n nay Ta, Như Lai, Chí chân th́ sinh về ḍng Sát-lỵ, họ Cồ Đàm[18].”
Phật lại nói bài tụng:
Tỳ-bà-thi Như Lai,
Thi-khí, Tỳ-xá-bà,
Ba vị Đẳng chánh giác,
Sinh họ Câu-lị-nhă.
Ba đức Như Lai kia,
Sinh vào họ Ca-diếp
Ta nay, bậc Vô thượng,
Dẫn dắt các chúng sanh,
Bậc nhất trong trời người,
Họ Cù-đàm dũng mănh.
Ba đức Chánh giác đầu,
Sinh vào ḍng Sát-lỵ.
Ba đức Như Lai sau
Thuộc ḍng Bà-la-môn.
Ta nay đấng Tối tôn,
Ḍng Sát-lỵ dũng mănh.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cây ba-ba-la[19] chứng thành bậc Tối chánh giác. Phật Thi-khí ngồi dưới cây phân-đà-lỵ[20], thành bậc Tối chánh giác. Phật Tỳ-xá-bà ngồi dưới cây sa-la[21] thành bậc Tối chánh giác. Phật Câu-lâu-tôn ngồi dưới cây thi-lị-sa[22] thành bậc chánh giác. Phật Câu-na-hàm ngồi dưới cây ô-tạm-bà-la[23] thành bậc chánh giùác. Phật Ca-diếp ngồi dưới cây ni-câu-luật[24] thành bậc chánh giác.
Ta nay, Như Lai, Chí chân, ngồi dưới cây bát-đa[25] thành bậc Chánh giác.”
Rồi Phật nói bài tụng:
Tỳ-bà-thi Như Lai
Đi đến cây ba-la
Và ngay tại chỗ ấy
Đắc thành Tối Chánh giác.
Thành đạo, dứt nguồn hữu.
Tỳ-xá-bà Như Lai
Ngồi dưới gốc sa-la
Đắc giải thoát tri kiến.
Thần túc không trở ngại.
Câu-lâu-tôn Như Lai
Ngồi gốc thi-lị-sa
Vô nhiễm, vô sở trước.
Câu-na-hàm Mâu-ni
Ngồi dưới gốc ô-tạm
Và ngay tại chỗ ấy
Diệt các tham, ưu năo.
Đức Ca-diếp Như Lai
Ngồi dưới Ni-câu-luật
Và ngay tại chỗ ấy
Trừ diệt gốc rễ hữu.
Ta nay, Thích-ca Văn
Ngồi dưới cây Bát-đa
Đấng Như Lai, mười lực,
Đoạn diệt các kết sử,
Hàng phục đám ma oán,
Diễn ánh sáng giữa chúng.
Bảy Phật, sức tinh tấn,
Phóng quang, diệt tăm tối;
Mỗi mỗi ngồi gốc cây,
Ở đó thành Chánh giác.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi có ba hội thuyết pháp. Hội đầu có mười sáu vạn tám ngàn đệ tử. Hội hai có mười vạn đệ tử. Hội ba có tám vạn đệ tử. Phật Thi-khí cũng có ba hội thuyết pháp: Hội đầu có mười vạn đệ tử. Hội hai có tám vạn đệ tử. Hội ba có bảy vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-bà có hai hội thuyết pháp. Hội đầu có bảy vạn đệ tử. Hội hai có sáu vạn đệ tử. Đức Câu-lưu-tôn Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử bốn vạn người. Đức Câu-na-hàm Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử ba vạn người. Đức Ca-diếp Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử hai vạn người. Ta nay một hội thuyết pháp, đệ tử một ngh́n hai trăm năm mươi người.”
Bấy giờ Phật nói bài tụng rằng:
Tỳ-bà-thi tên Quán,
Trí tuệ không thể lường,
Thấy khắp[26], không sợ hăi,
Ba hội chúng đệ tử.
Thi-khí, sáng, bất động,
Diệt trừ các kiết sử,
Vô lượng đại oai đức,
Không thể trắc lượng được,
Ngài cũng có ba hội,
Tụ hội các đệ tử.
Tỳ-xá-bà đoạn kết[27],
Đấng Đại tiên tụ hội,
Tiếng tăm khắp các phương,
Pháp mầu được tán thán;
Chúng đệ tử hai hội,
Diễn rộng nghĩa thâm áo.
Câu-lưu-tôn một hội,
Thương xót trị các khổ,
Đạo sư dạy chúng sanh,
Chúng đệ tử một hội.
Câu-na-hàm Như Lai,
Bậc vô thượng cũng vậy,
Thân sắc vàng ṛng tía,
Dung mạo thảy toàn hảo,
Chúng đệ tử một hội,
Rộng diễn pháp nhiệm mầu.
Ca-diếp, mỗi sợi lông[28],
Nhất tâm không loạn tưởng,
Một lời không phiền trọng,
Chúng đệ tử một hội.
Năng nhân Ư Tịch Diệt,[29]
Ta, Sa-môn họ Thích,
Chí Tôn, Trời trên Trời,
Có một hội đệ tử;
Hội ấy, Ta hiện nghĩa,
Quảng diễn giáo thanh tịnh.
Trong tâm thường hoan hỷ,
Lậu tận[30], không tái sinh,
Tỳ Bà, Thi-khí, ba;
Phật Tỳ-xá-bà, hai;
Bốn Phật mỗi vị một
Hội tiên nhân diễn thuyết.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi có hai đệ tử là Khiên-trà[31] và Đề-xá[32]. Đức Phật Thi-khí có hai đệ tử là A-tỳ-phù và Tam-bà-bà[33]. Phật Tỳ-xá-bà có hai đệ tử là Pḥ-du và Uất-đa-ma[34]. Phật Câu-lưu-tôn có hai đệ tử là Tát-ni và Tỳ-lâu[35]. Đức Phật Câu-na-hàm có hai đệ tử là Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu[36]. Đức Phật Ca-diếp có hai đệ tử là Đề-xá[37] và Bà-la-bà. C̣n nay Ta có hai đệ tử là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên[38].”
Bấy giờ, Phật nói bài tụng:
Khiên-trà và Đề-xá
Đệ tử Tỳ-bà-thi.
A-Tỳ-Phù, Tam-bà,
Đệ tử Phật Thi-khí.
Pḥ-du, Uất-đa-ma,
Bậc nhất hàng đệ tử.
Cả hai hàng ma oán,
Đệ tử Tỳ-xá-bà.
Tát-ni và Tỳ-lâu,
Đệ tử Câu-lâu-tôn.
Thư-bàn, Uất-đa-lâu,
Đệ tử Câu-na-hàm.
Đề-xá, Bà-la-bà,
Đệ tử Phật Ca-diếp.
Xá-lợi-phất, Mục-liên,
Bậc nhất đệ tử Ta.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi có vị đệ tử chấp sự[39] là Vô Ưu[40]; Phật Thi-khí có vị đệ tử chấp sự là Nhẫn Hành[41]; Phật Tỳ-xá-bà có vị đệ tử chấp sự là Tịch Diệt[42]; Phật Câu-lưu-tôn có vị đệ tử chấp sự là Thiện Giác[43]; Phật Câu-na-hàm có vị đệ tử chấp sự là An Ḥa[44]; Phật Ca-diếp có vị đệ tử chấp sự là Thiện Hữu[45]; c̣n Ta có vị đệ tử chấp sự là A-nan[46].”
Vô Ưu và Nhẫn Hành,
Tịch Diệt và Thiện Giác,
An Ḥa và Thiện Hữu
Thứ bảy là A-nan.
Ấy là thị giả Phật
Đầy đủ các nghĩa thú;
Ngày đêm không buông lung.
Bảy Thánh đệ tử ấy
Hầu tả hữu bảy Phật
Hoan hỷ và cúng dường,
Tịch nhiên vào diệt độ[47].
“Đức Phật Tỳ-bà-thi có con tên Phương Ưng[48]. Phật Thi-khí có con tên Vô Lượng. Tỳ-xá-bà có con tên Diệu Giác. Câu-lâu-tôn có con tên Thượng Thắng. Câu-na-hàm có con tên Đạo Sư. Ca-diếp có con tên Tập Quân[49]. Ta nay có con tên là La-hầu-la[50].”
Phật lại nói bài tụng:
Phương Ưng, và Vô Luợng,
Diệu Giác và Thượng Thắng,
Đạo Sư và Tập Quân,
Thứ bảy La-hầu-la.
Các con hào quư ấy
Nối dơi hạt giống Phật;
Yêu Pháp, ưa bố thí,
Trong Thánh Pháp, vô úy.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi có cha tên Bàn-đầu[51], ḍng vua Sát-lỵ; mẹ tên Bàn-đầu-bà-đề[52]. Quốc thành của vua trị tên là Bàn-đầu-bà-đề[53].”
Phật bèn nói bài tụng:
Biến Nhăn[54], cha Bàn-đầu,
Mẹ Bàn-đầu-bà-đề.
Thành Bàn-đầu-bà-đề,
Phật thuyết pháp trong đó.
“Đức Phật Thi-khí có cha tên Minh Tướng, ḍng vua Sát-lỵ; mẹ tên Quang Diệu; quốc thành vua cai trị tên là Quang tướng[55].”
Phật lại nói tụng:
Thi-khí, cha Minh Tướng,
Mẹ tên gọi Quang Diệu;
Ở trong thành Quang tướng,
Uy đức dẹp ngoại địch.
“Đức Phật Tỳ-xá-bà có cha tên Thiện Đăng, ḍng vua Sát-lỵ; mẹ tên Xưng Giới, quốc thành vua cai trị tên Vô dụ[56].”
Phật nói tụng:
Cha Phật Tỳ-xá-bà,
Vua Sát-lỵ Thiện Đăng;
Mẹ tên gọi Xưng Giới;
Quốc thành tên Vô dụ.
“Đức Phật Câu-lưu-tôn có cha tên Tự Đắc[57], ḍng Bà-la-môn; mẹ tên Thiện Chi; vua tên An Ḥa và quốc thành cũng theo đó mà có tên là An ḥa.[58]”
Bà-la-môn Tự Đắc,
Mẹ tên gọi Thiện Chi.
Vua tên là An Ḥa,
Cai trị thành An ḥa.
“Đức Phật Câu-na-hàm có cha tên Đại Đức, ḍng Bà-la-môn; mẹ tên Thiện Thắng, vua tên Thanh tịnh và quốc thành này cũng theo đó mà có tên là Thanh tịnh[59].”
Bà-la-môn Đại Đức,
Mẹ tên là Thiện Thắng;
Vua tên là Thanh Tịnh,
Ở trong thành Thanh tịnh.
“Đức Phật Ca-diếp có cha tên Phạm Đức, ḍng Bà-la-môn; mẹ tên Tài Chủ; vua thời đó tên Cấp-tỳ[60], trị v́ quốc thành tên Ba-la-nại.”
Bà-la-môn Phạm Đức,
Mẹ tên là Tài Chủ;
Thời vua tên Cấp-tỳ,
Trị thành Ba-la-nại.
“C̣n Ta có thân phụ tên là Tịnh Phạn ḍng vua Sát-lỵ, mẹ tên Đại Thanh Tịnh Diệu[61]; trị sở thành của vua là Ca-t́-la-vệ.”
Cha, Sát-lỵ Tịnh Phạn,
Mẹ tên Đại Thanh Tịnh;
Đất rộng, dân sung túc;
Ta sinh ra ở đó.
“Đó là nhơn duyên, danh hiệu, chủng tộc và chỗ xuất sinh của chư Phật. Kẻ trí nào nghe đến nhơn duyên đó mà không vui mừng sinh tâm ưa muốn!”
Bấy giờ[62], Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo! Nay Ta muốn, bằng túc mạng trí, sẽ nói về sự tích của chư Phật quá khứ. Các thầy muốn nghe không?”
Các Tỳ-kheo trả lời:
“Nay thật đúng lúc. Chúng con muốn nghe.”
Phật nói:
“Này các Tỳ-kheo, hăy nghe kỹ, hăy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các thầy.
“Này các Tỳ-kheo, nên biết pháp thường của chư Phật.
“Đức Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ cơi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, do hông phải mà vào, chánh niệm không tán loạn. Ngay lúc ấy cơi đất rung chuyển; ánh sáng rực rỡ soi khắp thế gian; những chỗ mặt trời mặt trăng không soi tới cũng đều mong nhờ chiếu sáng. Chúng sinh chốn u minh nhờ đó được trông thấy lẫn nhau và tự biết ḿnh hiện đang sinh ở chỗ nào. Ánh quang minh đó lại soi đến cung điện Ma vương. Phạm thiên, Đế Thích, Sa-môn, Bà-la-môn và các chúng sanh khác, cũng đều được mong nhờ ánh sáng. Ánh sáng của chư thiên tự nhiên biến mất.”
Rồi Phật nói bài tụng:
Mây dày kín hư không,
Ánh chớp chiếu thiên hạ;
Tỳ-bà-thi giáng thai,
Ánh sáng chiếu cũng vậy.
Chỗ nhật nguyệt không tới,
Thảy đều được chiếu sáng,
Thai thanh tịnh, vô nhiễm,
Pháp chư Phật đều vậy.
“Này các Tỳ-kheo, nên biết pháp thường của chư Phật[63]. Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc ở thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, thường có bốn vị thiên thần tay cầm qua mâu, hộ vệ cho mẹ ngài, dẫu loài người hay loài phi nhân đều không thể xâm phạm. Đó là pháp thường.”
Rồi Phật nói bài tụng:
Bốn phương bốn thiên thần,
Có tiếng tăm, uy đức,
Thiên Đế Thích sai khiến,
Khéo thủ hộ Bồ tát.
Tay thường cầm qua mâu,
Hộ vệ không chút rời.
Nhân, phi nhân không hại;
Ấy pháp thường chư Phật.
Được chư thiên hộ vệ,
Như thiên nữ hầu Trời,
Quyến thuộc đều hoan hỷ,
Ấy pháp thường chư Phật.
“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, đây là pháp thường của chư Phật: Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến thân mẹ được an ổn, không có các năo loạn, trí tuệ ngày càng thêm. Mẹ tự xem thai ḿnh thấy rơ thân Bồ-tát đủ các căn tốt đẹp như chất vàng tía không chút tỳ tích, khác nào kẻ có mắt sáng, xem vào đồ lưu ly trong sạch, thấy suốt cả trong ngoài không chút ngăn ngại. Này các Tỳ-kheo, đó là pháp thường của chư Phật.”
Bấy giờ Thế Tôn nói bài kệ:
Như ngọc lưu li sáng,
Ánh sáng như trời trăng,
Nhân Tôn trong thai mẹ,
Khiến mẹ không năo hoạn
Trí tuệ càng tăng thêm,
Xem thai như vàng ṛng;
Mẹ mang thai an lạc,
Ấy pháp thường chư Phật.
“Này các Tỳ-kheo, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến tâm mẹ lúc nào cũng thanh tịnh, không có các dục tưởng, không bị lửa dục thiêu đốt. Ấy là pháp thường của chư Phật.”
Thế Tôn lại nói bài kệ:
Bồ-tát trụ thai mẹ;
Phước trời trên cơi trời;
Tâm mẹ Ngài thanh tịnh,
Không có các dục tưởng.
Dứt bỏ các dâm dục,
Không nhiễm, không gần gũi,
Không bị lửa dục thiêu,
Mẹ chư Phật thường tịnh.
“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến mẹ Ngài giữ trọn năm giới, phạm hạnh thanh tịnh, thuần tín và nhân từ, thành tựu mọi điều lành, an lạc không sợ hăi và khi thân hoại mệnh chung, được sanh cơi trời Đao-lợi. Ấy là pháp thường của chư Phật.”
Bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ:
Hoài thai đấng Chí Tôn,
Tinh tấn, Giới đầy đủ,
Mạng chung lại sinh thiên;
Duyên ấy, nói mẹ Phật.
“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh từ hông phải của mẹ mà ra, cơi đất rung động, ánh sáng chiếu khắp nơi. Khi mới vào thai, những chỗ tối tăm thảy đều được chiếu sáng. Ấy là pháp thường của chư Phật.”
Thái tử sinh, đất động,
Ánh sáng rọi khắp nơi,
Cơi này và cơi khác,
Trên dưới và các phương.
Phóng quang, cho mắt sáng,
Trọn đủ nơi thân trời,
Bằng tịnh tâm hoan hỷ,
Chuyển xưng tên Bồ-tát
“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Khi ấy mẹ Bồ-tát tay vin cành cây, không ngồi không nằm, có bốn thiên thần bưng nước hương đứng trước mẹ mà thưa rằng: “Tâu Thiên mẫu, nay Ngài sanh thánh tử, chớ có ưu lo. Đó là pháp thường của chư Phật.”
Mẹ Phật không nằm, ngồi;
Trụ giới, tu phạm hạnh;
Không lười; sinh Chí Tôn,
Được trời người phụng thờ.
“Này các Tỳ-kheo, pháp thường chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi lúc sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, thân Ngài thanh tịnh không bị ô nhiễm bởi các thứ ô uế. Ví như kẻ có mắt sáng, liệng hạt minh châu sáng sạch lên lụa trắng, thấy rơ cả hai đều không làm bẩn nhau, v́ cả hai đều sạch. Bồ-tát ra khỏi thai cũng như vậy. Đó là pháp thường của chư Phật.”
Như minh châu sáng sạch,
Trên lụa, không vấy bẩn;
Bồ-tát khi xuất thai,
Thanh tịnh, không nhiễm ô.
“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Ngài từ hông phải ra, vừa đến đất, không cần người đỡ, liền đùi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đưa tay lên nói rằng: ‘Trên trời dưới đất, duy Ta là tôn quư’, Ta sẽ cứu độ chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết[64]. Ấy là thường pháp của chư Phật.”
Giống như sư tử bước,
Ngó khắp cả bốn phương;
Nhân sư tử [65] khi sanh,
Đi bảy bước cũng thế
Lại như rồng lớn[66] đi,
Khắp ngó cả bốn phương,
Đấng nhân long khi sanh,
Đi bảy bước cũng thế
Khi đấng Lưỡng túc sanh[67],
Đi thong thả bảy bước,
Ngó bốn phương rồi nói.
Sẽ dứt khổ sinh tử.
Ngay lúc mới sanh ra,
Đă không ai sánh bằng,
Tự xét gốc sinh tử,
Thân này thân tối hậu.
“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, tức th́ có hai suối nước, một ấm, một mát, tự nhiên ở dưới đất tuôn ra, để cúng dường tắm rửa cho Bồ tát. Đó là thường pháp của chư Phật.”
Đấng Lưỡng túc khi sinh,
Hai suối tự tuôn ra,
Để cúng Bồ-tát dùng;
Biến Nhăn[68] tắm sạch sẽ.
Hai suối tự tuôn ra,
Nước suối rất trong sạch;
Một ấm, một lạnh mát,
Tắm đấng Nhất thiết trí.
“Lúc Thái tử mới sanh, phụ vương Bàn-đầu mời các tướng sư và đạo sĩ đến xem tướng Thái tử để biết sự tốt xấu. Bấy giờ, các tướng sư vâng lệnh đến xem, và ngay trước khi chưa mặc áo, họ nh́n rơ các tướng đầy đủ. Bèn đoán rằng: “Người có tướng này sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu tại gia th́ sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, trị v́ bốn châu thiên hạ, đủ bốn thứ quân binh, dùng chánh pháp trị dân, không thiên lệch; thi ân khắp thiên hạ, tự nhiên có bảy thứ báu qui tụ, có ngàn người con dũng kiện hay dẹp trừ ngoại địch, không cần dùng đao binh mà thiên hạ thái b́nh. C̣n nếu xuất gia học đạo, th́ sẽ thành bậc Chánh giác, đầy đủ mười hiệu.”
Rồi các tướng sư tâu vua:
“Con trai của đức vua có ba mươi hai tướng, sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu tại gia sẽ là vị Chuyển luân thánh vương. Nếu xuất gia sẽ thành bậc Chánh giác, đầy đủ mười hiệu.”
Thái tử trăm phước sinh,
Được tướng sư ghi nhận,
Như chép trong điển sách,
Chắc chắn theo hai đường.
Nếu ngài vui tại gia,
Sẽ làm Chuyển luân vương
Được bảy báu hiếm có,
Báu tự hiện cho vua.
Bánh xe vàng ngh́n căm,
Với lưới vàng bao quanh,
Bánh xe hay bay khắp,
Nên gọi bánh xe trời,
Khéo luyện voi bảy ngà,
Cao lớn trắng như tuyết,
Khéo bay qua hư không,
Voi báu là thứ hai,
Ngựa đi khắp thiên hạ,
Sớm đi chiều về ăn,
Lông đỏ, bờm khổng tước,
Là báu vật thứ ba.
Ngọc lưu ly trong sáng,
Chiếu rọi một do-tuần,
Đêm sáng như ban ngày,
Là báu vật thứ tư.
Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Không ai có thể sánh,
Bậc nhất hàng nữ nhân;
Đó là báu thứ năm.
Hiến vua ngọc lưu ly,
Châu ngọc các thứ quí,
Hoan hỷ mà phụng cống,
Đó là báu thứ sáu.
Theo ư niệm Luân vương,
Quân binh tiến thoái nhanh,
Nhậm lẹ theo ư vua,
Đó là báu thứ bảy.
Đó là bảy báu vật,
Bánh xe, voi, ngựa trắng,
Cư sĩ báu, nữ báu,
Quân binh báu thứ bảy.
Nh́n xem mà không chán,
Ngũ dục tự vui đùa,
Như voi bứt dây trói,
Xuất gia thành Chánh giác.
Vua có con như thế,
Đấng lưỡng túc loài người,
Ở đời chuyển pháp luân,
Đạo thành không biếng nhác.
“Lúc bấy giờ, Phụ vương ân cần hỏi lại tướng sư ba lần: ‘Các ngươi hăy xem lại ba mươi hai tướng của Thái tử là những ǵ?’ Các tướng sư bèn khoác áo lại cho Thái tử, và kể rơ ba mươi hai tướng. 1. Bàn chân bằng phẳng đầy đặn, đi đứng vững vàng. 2. Dưới bàn chân có dấu chỉ như bánh xe có ngàn căm, ánh sáng xen nhau. 3. Có màng lưới mỏng giữa kẽ ngón tay, chân như chân ngỗng chúa. 4. Tay chân mềm mại như áo trời. 5. Ngón tay chân thon dài không ai bằng. 6. Gót chân đầy đặn trông không chán. 7. Ống chân thon dài như của nai. 8. Các khớp xương móc lấy nhau như xích chuyền. 9. Mă âm tàng. 10. Đứng thẳng tay duỗi dài quá gối. 11. Mỗi chân lông đều có một sợi lông. Sợi lông ấy xoáy hữu, màu lưu ly xanh biếc. 12. Lông mọc xoay phía hữu, màu xanh biếc thẳng lên. 13. Thân sắc huỳnh kim. 14. Da thịt mịn màng không dính bụi nhơ. 15. Hai vai ngang bằng đầy đặn tṛn đẹp. 16. Giữa ngực có chữ vạn. 17. Thân cao gấp đôi người thường. 18. Bảy chỗ trong người đầy đặn. 19. Ḿnh cao to lớn như cây ni-câu-lô. 20. Hai má như sư tử. 21. Ngực vuông đầy như ngực sư tử. 22. Có bốn mươi cái răng. 23. Răng ngang bằng đầy đặn. 24. Răng khít nhau không hở. 25. Răng trắng, trong sáng. 26. Yết hầu thanh sạch, ăn thức ǵ cũng thích hợp. 27. Lưỡi rộng dài có thể liếm tới mép tai. 28. Tiếng nói trong rơ như tiếng Phạm thiên. 29. Con mắt màu xanh biếc. 30. Mắùt như mắt trâu chúa, trên dưới có hai mí[69]. 31. Có lông trắng giữa hai chân mày, mềm mại kéo ra dài một tầm, thả th́ xoáy trôn ốc về phía hữu như chơn châu. 32. Trên đỉnh có chỗ thịt nổi. Ấy là 32 tướng đại nhân.”
Bèn nói bài tụng:
Đứng vững chân mềm mại,
Không dẫm đất, có dấu,
Tướng ngh́n căm trang nghiêm,
Màu sắc rất tươi sáng.
Thân cao rộng ngay thẳng,
Như cây ni câu loại.
Như Lai, chưa từng có,
Mă âm tàng ẩn kín.
Vàng báu trang nghiêm thân,
Các tướng chói lẫn nhau.
Tuy mồ hôi như thường,
Song bụi đất không dính,
Như sắc trời mịn màng.
Lọng trời tự nhiên che,
Phạm âm, thân vàng tía,
Như hoa vươn khỏi ao.
Vua bèn hỏi tướng sư.
Tướng sư kính tâu vua.
Ngợi khen tướng Bồ-tát,
Sáng chói khắp toàn thân,
Các gân khớp tay chân,
Trong ngoài đều hiện rơ,
Thực vị thảy vi diệu.
Thân ngay ngắn không vẹo,
Bánh xe hiện dưới chân,
Tiếng nói như chim oanh,
Tướng bắp đùi đầy đặn,
Ấy do túc nghiệp thành.
Cùi chỏ tṛn đầy đẹp,
Mày mắt rất đoan nghiêm,
Đấng sư tử giữa người,
Có oai lực hơn hết.
Hai má đều đầy đặn,
Nằm nghiêng như sư tử,
Bốn mươi răng đều đặn,
Dày khít không kẽ hở
Tiếng Phạm âm ít có,
Xa gần tùy duyên nghe.
Đứng thẳng thân không nghiêng,
Hai tay sờ đến gối,
Ngón tay đều, mềm mại,
Đủ các tướng tôn quí,
Mỗi chân lông một sợi,
Màng lưới kẽ tay chân,
Nhục kế, mắt xanh biếc,
Mắt trên dưới hai mí,
Hai vai ngang, tṛn, đầy.
Đủ ba mươi hai tướng.
Gót chân không cao thấp,
Đùi thon như đùi nai,
Đấng Chí Tôn xuất hiện,
Như voi bứt dây trói,
Độ chúng sanh thoát khổ,
Khỏi sanh già bệnh chết.
Ngài đem tâm đại bi,
Truyền dạy bốn chân đế,
Diễn bày các pháp nghĩa,
Được mọi người tôn quư.
Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, lúc Phật Tỳ-bà-thi sinh ra, chư thiên ở phía trên, giữa hư không, tay cầm lọng trắng, quạt báu, để ngăn che lạnh, nóng, gió, mưa, bụi bặm.”
Hiếm có trong loài người,
Đấng Lưỡng túc ra đời,
Được chư Thiên cung kính,
Dâng lọng báu, quạt báu.
“Bấy giờ, Phụ vương cấp bốn người vú: một, cho bú; hai, tắm rửa; ba, bôi hương; bốn, vui đùa. Họ vui vẻ nuôi nấng không hề biếng nhác.”
Nhũ mẫu ḷng từ ái,
Nuôi dưỡng con mới sinh,
Cho bú và tắm rửa,
Bôi hương và vui đùa.
Hương bậc nhất trong đời,
Bôi xoa đấng Chí Tôn.
“Lúc c̣n là đồng tử, con trai con gái cả nước ngắm nh́n Ngài không chán.”
Được nhiều người thương kính,
Như tượng vàng mới thành,
Trai gái cùng nh́n ngắm,
Nh́n măi không biết chán.
“Lúc c̣n là đồng tử, con trai và con gái cả nước đều ẵm bồng, như ngắm hoa báu.” Phật nói bài kệ:
Khi Lưỡng túc tôn sanh,
Được nhiều người thương kính,
Chuyền tay nhau bồng ẵm,
Như ngắm hương hoa báu.
“Bồ-tát khi mới sanh mắt Ngài không nháy như chư thiên trời Đao-lợi[70]. Do cặp mắt không nháy mà có hiệu là Tỳ-bà-thi.”
Đấng Chí Tôn không nháy,
Như chư thiên Đao-lợi,
Thấy sắc mà chánh quán,
Nên hiệu Tỳ-bà-thi.
“Bồ-tát khi sanh âm thanh của Ngài trong suốt êm dịu ḥa nhă như tiếng chim ca-la-tần-già[71].”
Như chim trên núi tuyết,
Uống nước hoa mà hót,
Đấng Lưỡng túc tôn ấy,
Tiếng trong suốt cũng vậy.
“Bồ-tát khi mới sinh, mắt có thể nh́n thấy suốt một do-tuần.”
Do nghiệp quả thanh tịnh,
Ánh sáng trời mầu nhiệm,
Mắt Bồ-tát nh́n thấy,
Khắp suốt một do-tuần.
“Bồ-tát khi sinh, tuổi lớn dần, ở tại Thiên chánh đường[72] để khai hóa. Ân đức ban đến thứ dân, đức lớn đồn xa[73].”
Thơ ấu, ở chánh đường,
Để khai hóa thiên hạ,
Quyết đoán các sự vụ,
Nên gọi Tỳ-bà-thi.
Trí thanh tịnh quảng bác,
Sâu thẳm như biển cả,
Hài ḷng với mọi người,
Khiến trí tuệ tăng trưởng.
“Một hôm, Bồ-tát muốn ra khỏi thành để dạo chơi và quan sát, bèn ra lịnh sửa soạn xe báu để Ngài đi đến viên lâm[74] tuần hành và du ngoạn. Người đánh xe sau khi sửa soạn xa giá xong, tâu Thái tử: ‘Giờ đă đến lúc.’ Thái tử cỡi xe báu đi đến khu vườn công cộng[75] kia. Giữa đường Ngài gặp một người già, đầu bạc răng rụng, lưng c̣m, mặt nhăn, rung rinh trên chiếc gậy, thở kḥ khè theo nhịp bước khó khăn. Thái tử liền xoay hỏi quân hầu: ‘Đó là người ǵ?’ Đáp rằng: ‘Đó là người già.’ Lại hỏi:
‘Già là thế nào?’ Đáp: ‘Già là người mà tuổi thọ sắp hết, không c̣n sống bao lăm nữa. Thái tử lại hỏi: ‘Ta đây cũng sẽ như thế, không tránh khỏi hoạn này chăng?’ Đáp: ‘Phàm đă có sinh tất có già, đâu kể chi sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử buồn bă không vui, liền bảo quân hầu đánh xe về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ về nỗi già khổ mà chính Ngài cũng chưa tránh khỏi.”
Bấy giờ Phật bèn nói bài kệ:
Nh́n mạng già sắp chết,
Chống gậy bước đi run,
Bồ-tát tự suy ngẫm,
Ta chưa khỏi nạn này.
“Bấy giờ Phụ vương hỏi quân hầu: ‘Thái tử xuất du có vui không?’ Đáp: ‘Không vui.’ Lại hỏi lư do: ‘Tại sao vậy?’ Đáp: ‘Tại giữa đường Ngài gặp người già nên không vui.’ Phụ vương mới âm thầm nhớ tới lời tướng sư ngày trước, đoán Thái tử sẽ xuất gia, nay Thái tử không vui, hẳn đúng như thế chăng? Ta hăy dùng mọi cách giữ Thái tử lại thâm cung, đem ngũ dục làm nguôi ḷng Thái tử, để Thái tử đừng xuất gia. Nghĩ xong vua liền hạ lệnh trang sức cung quán, chọn hàng thế nữ để giúp vui Thái tử.”
Phật lại nói bài tụng:
Phụ vương nghe lời ấy,
Sai trang hoàng cung quán,
Tăng thêm bằng ngũ dục,
Muốn để không xuất gia.
“Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo, và trên đường đi, Ngài gặp một người bệnh, thân gầy, bụng lớn, mày mặt sạm đen, nằm lăn trên nhơ bẩn, không ai ngó ngàng chăm sóc. Bệnh rất trầm trọng, miệng không thốt được một lời. Thái tử xoay lại hỏi quân hầu: ‘Đó là người ǵ?’ Đáp: ‘Đó là người bệnh.’ Hỏi: ‘Bệnh là thế nào?’Đáp: ‘Bệnh là sự đau đớn bứt rứt, chết sống không biết lúc nào.’ Hỏi: ‘Ta cũng sẽ như thế, chưa tránh khỏi cái hoạn này sao?’ Đáp: ‘Phải. Phàm có sanh th́ có bệnh, không kể ǵ sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử trở nên buồn bă không vui, liền bảo quân hầu đánh xe trở về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ tới cái khổ bệnh mà Ngài cũng không tránh khỏi.”
(c̣n nữa)
------------------------------------------------------------ --------------------
Chú thích
[1] Bản Hán, Phật thuyết Trường A-hàm kinh, Hậu Tần Hoằng Thỉ niên Phật-đà-da-xá cọng Trúc Phật Niệm dịch, “Đệ nhất phần sơ đại bản kinh đệ nhất”, Đại I tr. 1a-10c. Tham chiếu: Phật thuyết thất Phật kinh, Tống Pháp Thiên dịch (Đại I, No. 2, tr. 150); Tỳ-bà-thi Phật kinh, Tống Pháp Thiên dịch (Đại I, tr. 154); Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh, Vô danh dịch (Đại I, No. 4, tr. 159). Tăng nhất A-hàm, “Phẩm 4 Thập bất thiện”, (Đại II, tr. 790). Tương đương Pāli: D. 14 Mahāpadhāna-suttanta (Deva. Dīg. II. 1), Việt: Trường I tr. 431 “Kinh Đại Bổn.”
[2] Pāli, sđd.: pacchābhattam piṇđapātapaṭipakkantānam: ăn trưa xong sau khi khất thực về.
[3] Pāli, sđd.: pacchābhattam piṇđapātapaṭipakkantānam: ăn trưa xong sau khi khất thực về.
[4] Hán: Hoa lâm đường 華 林 堂; Pāli, sđd.: Karerimaịḍalanāle: trong sảnh đường h́nh tṛn Kareri, viên đường
[5] Hán: sở canh khổ lạc 所 更 苦 樂.
[6] Nguyên văn: b́nh đẳng tín 平 等 信; Pāli: sammasadha. Skt. Samaśraddha.
[7] Nguyên văn: tam Phật三 佛, tức tam Phật đà三 佛 陀 (Skt. Sambuddha): Chánh giác 正 覺.
[8] Nguyên văn: ai loan âm tận tri 哀 鸞 音 盡 知; ai loan âm 哀 鸞 音: ca lăng tần già âm 迦 菱 頻 伽 音 tiềng chim kalaviṅka (một loại sáo).
[9] Tỳ-bà-thi毗 婆 尸; Pāli: Vipassi.
[10] Thi-khí尸 棄, Pāli: Sikkhin.
[11] Tỳ-xá-bà 毗 舍 婆 hay Tỳ-xá-phù 毗 舍 浮, Pāli. Vessabhū.
[12] Hiền kiếp賢 劫, Pāli: Bhaddakappa. Câu-lâu-tôn hay 拘 樓 孫 Câu-lưu-tôn拘 留 孫; Pāli: Kakusandha. Câu-na-hàm 拘 那 含; Konāgamana. Ca-diếp迦 葉; Pāli: Kassapa.
[13] Na-duy 那 維; Pāli: nahuta; Skt. Niyuta; ni-do-đa nguyên 尼 由 多元, na-do-tha那 由 他, na-dữu-đa那 庾 多, na-do-đa 那 由 多; số đếm, tương đương 1 triệu.
[14] Nguyên văn: thiểu xuất đa tiển giảm少 出 多 湔 減. D. 14. appam vā bhiyyo.
[15] Sát-lị, hoặc sát-đế-lị剎 帝 利; Pāli: khattiya, Skt. Kṣatriya.
[16] Câu-lị-nhă拘 利 若; các bản Tống, Nguyên, Minh: Kiều-trần-nh憍 陳 如. Pāli: Koṇḍañña.
[17] Ca-diếp迦 葉; Pāli: Kassapa, Skt. Kaśyapa.
[18] Cù-đàm瞿 曇; Pāli: Gotama.
[19] Ba-ba-la 波 波 羅; các bản Tống Nguyên Minh (sẽ viết tắt TNM): ba-ba-la波 婆 羅. Pāli: pāṭali.
[20] Phân-đà-lị 分 阤 利; Puṇḍarīka, một loại sen.
[21] Bà-la婆 羅; các bản Tống, Nguyên, Minh: bác lạc xoa博 洛 叉. Pāli; sāla.
[22] Thi lị sa 尸 利 沙, dịch là hoa hợp hôn, hợp hoan; Pāli: sirīsa.
[23] Bản Cao li: Ô-tạm-bà-la 烏 暫 婆 羅; TNM: ưu-đàm-ba-la優 曇 婆 羅, dịch là hoa linh thụy 零 瑞; Pāli: udumbara.
[24] Ni-câu-luật 尼 拘 律; TNM: ni-câu-loại尼 拘 類. Pāli: nigrodha.
[25] Bát-đa 鉢 多; Pāli: assattha, Skt. Azvattha.
[26] Hán: biến kiến, thấy khắp; do hiệu Phật Vipassin(Pāli) hay Vipasyin (Skt.), cũng được dịch: quán, kiến, thắng quán, diệu quán sát, chủng chủng quán.
[27] Kết hay kết sử結 使, chỉ sự trói buộc hay thắt chặt của phiền năo ô nhiễm; Pāli: samyojana.
[28] Hán: nhất nhất mao一 一 毛, không rơ nghĩa.
[29] Năng nhân ư tịch diệt 能 仁 意 寂 滅, dịch nghĩa của Pāli: Sakya-muni hay Sakka-muni.
[30] Lậu tận漏 盡: phiền năo ô nhiễm đă cạn nguồn; Pāli: khīṇāsava.
[31] Bản Cao ly: Khiên-trà 騫 茶; TNM: Khiên-đoà騫 荼; Pāli: Khaṇḍa.
[32] Đề-xá提 舍; TNM: Chất-sa 躓 沙; Pāli: Tissa.
[33] A-t́-phù阿毗 浮; Pāli: Abhibhū (Thắng giả ). Tam-bà-bà 三 婆 婆: Pāli: Sambhava (Xuất Sanh)
[34] Pḥ (phù)-Du扶 遊; Pāli: Soṇa. Uất-đa-ma 鬱 多 摩 (Uttama); Pāli: Uttara.
[35] Tát-ni薩 尼; Pāli: Sañjīva. T́ lâu 毗 樓; Pāli: Vidhūra.
[36] Thư-bàn-na 舒 盤 那; Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh (Đại I, tr 160a): Chuyển luân 轉 輪 (Pāli: Cakkavattī, Skt. Cakravartin ?); TNM: Ưu-ba-tư-đa優 波 斯 多; Pāli: Bhiyyosa.
[37] Đề-xá提 舍; Pāli: Tissa. Bà-la-bà 婆 羅 婆; Pāli: Bhāradvāja.
[38] Xá-lợi (lị)-phất 舍 利 弗; Pāli: Sāriputta. Mục-kiền-liên 目 犍 連; Pāli: Moggallāna.
[39] Chấp sự đệ tử 執 事 弟 子 tức đệ tử thị giả, Tỳ-kheo hầu cận; Pāli: bhikkhu upaṭṭhāka aggupaṭṭhāka.
[40] Vô ưu 無 優; Thất Phật phụ mẫu, sđd.: A thâu ca阿 輸 迦; Pāli: Asoka.
[41] Nhẫn hành 忍 行, Thất Phật phụ mẫu, sđd.: sát-ma-ca-rô殺 摩 迦 嚕; Pāli: Khemaṃkara.
[42] Tịch diệt 寂 滅, Thất Phật, sđd.: ô-ba-phiến-đổ; 烏 波 扇 睹; Pāli: Upasanta.
[43] Thiện Giác 善 覺, Thất Phật, sđd.: một-đề-dũ 沒 提 逾; Pāli: Buddhija.
[44] An Ḥa 安 和, Thất Phật, sđd.: tô-rô-đế-lí-dă蘇 嚕 帝 里 野; Pāli: Sotthija.
[45] Thiện Hữu 善 友, Thất Phật, sđd.: tát-lí-phạ-mật-đát-ra薩 里 縳 瞇 怛 囉; Pāli: Sabbamitta.
[46] A-nan阿 難; Pāli: Ānanda.
[47] Tịch nhiên 寂 然, TNM: tịch diệt寂 滅.
[48] Phương ưng 方 膺, Vô lượng 無 量, Diệu giác 妙 覺, Thượng thắng 上 勝, Đạo sư 道 師; không t́m thấy Pāli tương đương.
[49] Tập Quân 集 軍, các bản TNM: Tiến Quân 進 軍.
[50] La-hầu-la羅 侯 羅; Pāli: Rāhula.
[51] Bàn-đầu盤 頭 các bản TNM: Bàn-đầu-ma-đa 盤 頭 摩 多. Pāli: Bandhumant.
[52] Bàn-đầu-ba-đề 盤 頭 婆 提; TNM: Bàn-đầu-ma-na 盤 頭 摩 那. Pāli: Bandumati.
[53] Xem cht. 52.
[54] Xem cht. 26.
[55] Minh Tướng 明 相: Aruna, Quang Diệu光 耀: Pabhāvati, Quang Tướng 光 相: Aruṇavatī.
[56] Thiện Đăng 善 燈: Suppatīta, Xưng giới 稱 戒: Yasavatī, Vô Dụ 無 喻: Anopama.
[57] Tự đắc 祀 得, Pāli; Aggidatta, con cầu tự với thần Lửa. TNM: Lễ Đức禮 德.
[58] An Ḥa 安 和; Pāli: Khema; Thiện Chi 善 枝: Visākhā, An hoà thành: Khemavatī.
[59] Đại Đức 大 德: Yaḷḷadatta, Thiện Thắng 善 勝: Uattarā, Thanh tịnh thành 清 淨 城; Sobhavatī.
[60] Cấp-tỳ汲 毗, Pāli: Kikin. TNM: Ba-la-tỳ 波 羅 毗; có lẽ nhầm tự dạng cấp và ba. Phạm Đức 梵 德; Pāli: Brahmadatta, Tài Chủ 財 主; Pāli: Dhanavatī.
[61] Đại Thanh Tịnh Diệu 大 清 淨 妙, TNM.: Đại Hóa大 化, Pāli: Mahamāya. Tịnh Phạn淨 飯: Sudhodana, Ca-t́-la-vệ 迦 毗 羅 衛; Pāli: Kapilavatthu.
[62] D. 14 (Deva, Dig II. 1h): Phật giảng xong đoạn trên liền đi vào tịnh xá. Truyện kể được tiếp tục vào buổi chiều hôm đó.
[63] Chư Phật thường pháp 諸 佛 常 法 Pāli: dhammatā esā.
[64] Tham chiếu Pāli, D. 14 (Deva Dīgh II, tr. 14): Aggo’ham asmi lokassa, jeṭṭho ‘ham asmi lokassa seṭṭho ‘ham asmi loakassa, ayam antimā jāti, n ‘atthi ‘dāni punabhavo ti, Ta là đấng tối thượng của thế gian, là tối thắng của thế gian, là tối tôn của thế gian. Đây là sự sanh cuối cùng, không c̣n đời nào nữa.
[65] Nhân sư tử 人 師 子, sư tử của loài người; Pāli: naramiuha.
[66] Đại long大 龍; rồng lớn, cũng có nghĩa rắn thần, chúa tể các loài thủy tộc. Pāli: mahānaga.
[67] Lưỡng túc tôn 兩 足 尊, tôn quư giữa loài hai chân, chỉ chư thiên và nhân loại; thường cũng được giải thích là đầy đủ phước và trí, do chữ Hán túc 足 vừa có nghĩa “cái chân” vừa có nghĩa là “đủ.” Pāli: dvipada-seṭṭha; Skt. Dvipadottama.
[68] Xem cht. 26.
[69] Nguyên Hán: nhăn thượng hạ câu huyến眼 上 下 俱 眴, nếu dịch sát: mắt trên dưới cùng nháy; không rơ nghĩa. So sánh Pāli: gopakhuma, có mí mắt như của ḅ cái; nghĩa là, mắt hai mí.
[70] Hán: kỳ mục bất huyến, như Đao lợi thiên 其 目 不 眴 如 刀 利 天; Pāli: D. 14 (Deva Digh II 1, tr. 17): animisanto pekkhati seyyathāpi devā Tāvatimsā: nh́n thẳng sự vật bằng cặp mắt không nháy như chư thiên Tāvatimsa.
[71] Ca-la-tần-già 迦 羅 頻 伽, hoặc âm là ca-lăng-tần-già 迦 陵 頻 伽, dịch hảo thanh好 聲, tiếng hót tuyệt diệu; Pāli: karavīka.
[72] Thiên chánh đường 天 正 堂; TNM: Đại chánh đường 大 正 堂. Pāli: atthakarana: công đường hay pháp đường, để xử kiện. Tham chiếu, D. 14 (Deva Dīgh II 1, tr 17; Trường bộ kinh I tr. 46l): ‘Khi vua Bandhumā ngồi xử kiện, vua đặt hoàng tử Vipaasī bên nách ḿnh để
[73] Tham chiếu, Pāli D. 14 (Deva Dīgh, sđd.: Trường bộ I, tr, 461: “…do hoàng tử Vipassī có thể quan sát và xử kiện đúng luật pháp nên danh từ Vipassī, Vipassī càng được dùng để đặt tên cho Ngài.”
[74] Viên lâm園 林; Pāli: uyyānabhumi: công viên; Skt. Udyāna, viên quán.
[75] Hán: viên quán園 觀, tức viên lâm. Xem cht. 74.
c̣n tiếp....
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 5 of 24: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 12:58am | Đă lưu IP
|
|
|
Xin các cao nhân chỉ giáo giùm đây là thuộc kinh ǵ???
Tôi không hiều lắm!!!xin cám ơn
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 6 of 24: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:25am | Đă lưu IP
|
|
|
100 Bài Kệ Niệm Phật
Triệt Ngộ Đại Sư
HT Thích Thiền Tâm
100 Bài Kệ Niệm Phật: Phần 1
Hán: 1
Nhứt cú Di Đà
Ngă Phật tâm yếu
Thụ triệt Ngũ thời
Hoàng cai Bát giáo
Việt: 1
Một câu A Di Đà
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt
Ngang tám giáo trùm xa.
Lược giải:
Một câu niệm Phật là tâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm, không thể dùng lời nói và tư tưởng để luận bàn suy nghĩ được. Năm thời là: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă, và thời Pháp Hoa. Tám giáo là: Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật và Bất định giáo. Dọc là chỉ cho chiều cao thuộc thời gian. Ngang chỉ cho chiều rộng thuộc không gian. Ư nói câu niệm Phật rất mầu nhiệm, về nghĩa lư bao trùm Năm thời Tám Giáo, về cao rộng suốt cả Thời gian, Không gian.
Hán 2:
Nhứt cú Di Đà
Ư chỉ như hà?
Bạn tri âm thường ít
Mộc nhĩ thiên đa!
Việt 2:
Một câu A Di Đà
Ư chỉ diệu bao nhiêu?
Bạn tri âm thường ít
Kẻ tai gỗ riêng nhiều !
Lược giải:
Như bài kệ trên đă dẫn, ta thấy đại khái ư chỉ của câu niệm Phật cao diệu như thế nào! Cho nên Thành Thời Đại Sư đă nói trong một Đề Từ: " Mà trong A Di hồng danh thâm. Ngh́n muôn khôn t́m ra tri âm! Thiên Như ḷng từ soi chân đăng. Đưa người mau ra ṿng mê lầm...Ôi câu hồng danh mầu thâm xa. Sâu cùng chư tông làng thiền na. Buông ra thâu vào đều như như. Tương tư mơ đầy trời Liên hoa !" Điệu đàn niệm Phật cao siêu mầu nhiệm như thế, trừ ra bậc tri âm, chớ kẻ tai gỗ làm sao nghe thấu? V́ thế nhiều kẻ đă lầm đánh giá Niệm Phật là pháp thấp kém chỉ để cho kẻ ngu dốt, hạng người già cả tu hành. Thất đáng cảm xót v́ cảnh ít tri âm, như lời một bậc tiền bối đă than
Nga nga hồi chí tại cao sơn
Dương dương hồ ư tại lưu thủy
Đàn bá nha ít kẻ tri âm
Những nghe qua xót trộm lại đau thầm
Chung Kỳ mất đập cầm không muốn khảy!
Hán 3:
Nhứt cú Di Đà
Đại ư phân minh
Xà sanh cung ảnh
Dược xuất kim b́nh.
Việt 3:
Một câu A Di Đà
Đại ư thật phân minh
Rắn sanh từ cung ảnh
Thuốc lấy ở kim b́nh.
Lược giải:
Một người tới nhà bạn thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăn quăn chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi chợt sanh ḷng nghi là ḿnh đă nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói. Về đền nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Độ khi luyện thuốc quí, thường dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện xong lại cất thuốc vào b́nh bạc hoặc b́nh vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh nghiệm. Đây ư nói câu niệm Phật rơ ràng là pháp viên đốn đi thẳng vào chân tâm, ngay lúc niệm Phật tức đă thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ b́nh vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền giáo để dứt trừ vọng tưởng, hoặc pháp Tiệm giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có khác ǵ anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu ?
Hán 4:
Nhứt cú Di Đà
Danh dị phương tiện
Phổ nhiếp quần cơ
Bàng thông nhất tuyến.
Việt 4:
Một câu A Di Đà
Phương tiện cực mầu lạ
Nhiếp khắp hết căn cơ
Rẽ thông vào Bát nhă.
Lược giải:
Ấn Quang Đại sư nói: "Tu các môn khác phải nhiều đời mới thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận th́ phải trải qua một muôn đại kiếp tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như quan chức phải từ phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể tướng. Riêng môn Niệm Phật là phương tiệm mầu lạ để mau thành Phật một đời được đới nghiệp văng sanh thoát khỏi luân hồi, một kiếp đă bước lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như Thái tử khi mới sanh ra, đă tôn qúi vượt hẳn quần thần "Môn Niệm Phật lại nhiếp tất cả căn cơ, dưới từ loài qủy súc, hạng ngu tốt dốt nát tật nguyền, trên đến bậc Đẳng giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Tịnh độ. Chữ "Nhất tuyến" đây là chỉ cho môn thiền Trực chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát nhă chân tâm. Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một "đại thiền sư". Lại "Nhất tuyến" cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Độ.
Hán 5:
Nhứt cú Di Đà
Khai văng sanh môn.
Thị đa phước đức
Phi thiểu thiện căn.
Việt 5:
Một câu A Di Đà
Mở đường lối văng sanh
Đó là nhiều phước đức
Chẳng phải ít căn lành.
Lược giải:
Từ khi Vi Đề Hy phu nhân chán cơi đời trược ác, cầu sanh về thế giới đẹp an vui, đức Thích Tôn mới nói ra môn Tịnh độ mở đường lối văng sanh, để hành giả được dễ dàng thuận tiến trên bước đường giải thoát. Muốn làm một bậc thượng thiện nhân cao quư ở cơi đẹp mầu như thế giới Cực Lạc, phải là người có nhiều phước đức căn lành. Theo kinh Vô Lượng Thọ: Chúng sanh nào đời này nghe nói Phật A Di Đà và cơi Cực Lạc, phát ḷng tín nguyện, chí thiết niệm Phật cầu văng sanh. Những chúng sanh đó trong tiền kiếp đă từng gặp nhiều đức Phật, và gieo trồng nhiều phước đức căn lành rồi.
Hán 6:
Nhứt cú Di Đà
Lâm chung Phật hiện
Tứ biện thân tuyên
Lục phương cộng tán.
Việt 6:
Một Câu A Di Đà
Khi lâm chung Phật hiện
Tứ biện khó thân tuyên
Sáu phương đồng khen ngợi.
Lược giải:
Liên Tŕ Đại Sư nói: "Một câu A Di Đà gồm: Đại thiện căn, đại phương tiện, đại phước đức, đại trí huệ, đại giải thoát, đại từ bi. Câu niệm Phật đă có nhiều công đức lớn như thế, nên người niệm Phật mau diệt nhiều tội chướng, mau sanh nhiều phước huệ, khi lâm chung quyết định Phật sẽ hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc. Cho nên chư Phật sáu phương hiện ra tướng lưỡi rộng dài, tiêu biểu cho sự tuyên thuyết pháp môn tối thượng thừa, mà ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Tịnh độ. Đă là pháp môn công đức không thể nghĩ bàn; th́ đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật dù đă dùng Tứ biện tài là: Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Pháp vô ngại biện và Lạc thuyết vô ngại biện, cũng không thể tuyên dương ngợi khen cho hết được.
Hán 7:
Nhứt cú Di Đà
Thành Phật tiêu chuẩn
Dĩ niệm Phật tâm
Nhập Vô sanh nhẫn
Việt 7:
Một câu A Di Đà
Là thành Phật tiêu chuẩn
Dùng tâm hạnh niệm Phật
Chứng vào Vô sanh nhẫn.
Lược giải:
Niệm Phật chẳng riêng khi lâm chung được sanh về cơi Phật mà thôi. Trong hiện tại nếu hành giả nhiếp cả sáu căn , giữ cho tịnh niệm nối luôn, và có thể ngay đời này được ngộ đạo, chứng vào Vô sanh pháp nhẫn. Cho nên gọi: Niệm Phật là tiêu chuẩn thành Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 7 of 24: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:26am | Đă lưu IP
|
|
|
Hán 8:
Nhứt cú Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sanh
Tiện bổ Phật vị
Việt 8:
Một câu A Di Đà
Chứng ba ngôi Bất thối
Chỉ trong một đời này
Được bổ lên Phật vị
Lược giải:
Ba ngôi bất thối chuyển là: Vị bất thối, Hạnh bất thối, và Niệm bất thối. Cứ theo Thiên Thai Giáo, chứng được đệ nhất bất thối tâm trụ, mới lên ngôi vị bất thối. Chứng thập hồi hướng, lên ngôi hạnh bất thối. Và chứng sơ địa mới vào ngôi niệm bất thối. Nhưng ước theo đường lối phổ thông của Đại thừa giáo th́: Phá được kiến tư hoặc mới lên ngôi vị Bất thối. Phục đoạn Trần sa hoặc, lên ngôi hạnh bất thối. Và tiến phá vô minh hoặc mới vào ngôi niệm bất thối. Như thế chứng được ba ngôi bất thối thật không phải dễ! Theo các giáo môn khác, tất phải tu tập trải A Tăng kỳ số kiếp mới chứng nhập được. Với pháp môn tịnh độ, khi được văng sanh kể như vĩnh viễn không c̣n bị thối chuyển nữa. Điều này, theo kinh giáo, gọi là Xứ bất thối. Từ Xứ bất thối, địa vị tam bất thối là cầm chắc trong tay, lần lượt sẽ tiến lên Phật qủa. Cho nên kinh Di Đà nói: là bậc A bệ bạt trí (Bất thối chuyển)". Chư thiện nhơn ở Cực lạc sống lâu vô lượng vô biên A Tằng kỳ kiếp, chỉ trong một kiếp sanh về nơi đó đă dư thời gian chứng lên ngôi Nhứt sanh bổ sứ, được bổ và Phật vị rồi.
Hán 9:
Nhứt cú Di Đà
Măn thập đại nguyện
Khởi đắc Phổ Hiền
Thác giáo liễu biện!
Việt 9:
Một câu A Di Đà
Tṛn đầy mười thập nguyện
Đâu phải đức Phổ Hiền
Dạy lầm cho xong chuyện!
Lược giải:
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Ngh́ Giải Thoát Cảnh Giới, sau khi đức Phổ Hiền nói mười đại Nguyện vương, ngài liền tự phát thệ và khuyên Thiện Tài đồng tử cùng hải chúng Bồ Tát trong biển thế giới Hoa Tạng, đều nên niệm Phật hồi hướng về Cực lạc. Lời phát thệ như sau:
Tôi nguyện khi lúc sắp mạng chung
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại
Diện kiến đức Phật A Di Đà
Liền được sanh về Cơi An Lạc.
Tại sao thế? V́ muốn vào cảnh giới Bất tư ngh́ giải thoát, muốn thành tựu các công đức, muốn chứng Phật qủa phải thật hành mười đại nguyện vương, và muốn không bị nhiều chướng duyên làm cho thối chuyển, muốn sớm mau hoàn măn mười Đại nguyện vương ấy, tất phải cầu sanh Cực Lạc! Cho nên lời đức Phổ Hiền khuyên dạy chư Bồ Tát niệm Phật cầu về Cực Lạc không phải là điều dạy bảo cạn cợt lạc lầm, nói suông rồi cho xong chuyện! Mà chính đó là lời khuyên dạy tối quan yếu, bao gồm ư vị rất sâu sắc, phải suy gẫm nhiều mới thấu hiểu!
Hán 10:
Nhứt cú Di Đà
Bạch ngưu giá cảnh
Kỳ tật như phong
Hành bộ b́nh chánh
Việt 10:
Một câu A Di Đà
Xe gác ách trâu trắng
Chạy lẹ như gió bay
Bước đi thật bằng vững.
Lược giải:
Câu niệm Phật, đối với bậc cao, th́ có niệm đồng với không niệm. Và mặc dù không nghĩ rằng ḿnh là người hay niệm, đức Phật là vị được niệm, tâm niệm hằng rỗng không, nhưng cũng chẳng ngại ǵ câu niệm Phật thường hiển lộ rành rẻ rơ ràng. Như chư Bồ Tát, Tổ sư vẫn đi đứng, nằm ngồi, vẫn ăn cơm mặc áo, vẫn thuyết pháp tụng kinh, mà không thấy có các tướng ấy. Các ngài làm pháp hữu vi mà tâm vô vi, tâm tuy vô vi vi song vẫn làm tất cả pháp hữu vi. Như thế mới chẳng đọa vào lỗi "không và có", tiến lên cảnh giới Đại thừa. Cho nên đức Lục Tổ đă bảo:
Không niệm, niệm mới chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có, không đều chẳng tưởng
Ngồi được Bạch ngưu xa.
Cần nhận rơ: Không và Có trên đây, chẳng phải là không niệm Phật tụng kinh. Đây chính là niệm Phật đi vào cảnh giới chân không, chẳng tưởng nghĩ rằng ḿnh có niệm hay không niệm. Với bậc kém hơn, tuy chưa thể ứng dụng được như thế, nhưng biết niệm Phật tức là đă tiến lên đường tu bằng phẳng, bước đi an ổn vững vàng, lần siêu vào cảnh giới Đại thừa. Như đă ngồi trên xe bạch ngưu, bước đi của nó thật bằng vững, không c̣n lo ngại chi nữa !
Hán 11:
Nhứt cú Di Đà
Như Lai tạng tâm
Thủy ngoại vô lăng
Khí nguyên thị kim
Việt 11:
Một câu A Di Đà
Là tâm tạng Như Lai
Ngoài nước đâu có sóng
Xuyến, vàng vốn chẳng hai!
Lược giải:
Có một tu sĩ hỏi vị thượng tọa: "Niệm Phật để làm ǵ?". Ngài đáp: "Niệm Phật để thành Phật!" Tu sĩ ấy mỉm cười lui về, ư không công nhân. Tu sĩ đó không công nhận, v́ ông chưa hiểu, và chưa ứng dụng được hạnh niệm Phật đi ngay vào Phật cảnh, tức vào tâm tạng của Như Lai. Theo trí phân biệt, ông chỉ chấp nhận và chỉ có thể ứng dụng câu niệm Phật để trừ vọng tưởng, lần lần chứng vào chân như mà thôi. Nếu theo tâm chấp tướng phân biệt, người ta thấy sóng với nước, xuyến cùng vàng khác nhau. Nhưng thật ra, các thứ đó chẳng phải một, cũng chẳng phải hai. Nếu các hành giả niệm Phật từ thí dụ này để t́m hiểu, tất sẽ xóa tan niệm phân biệt, dung ḥa tâm với cảnh, thể nhập pháp môn bất nhị, đi ngay vào tạng tánh Phật, đại khái ư nghĩa như thế. Thuở xưa, một hành giả khi chứng ngộ vào cảnh giới này đă có bài kệ:
Bước đường vô vị đă cùng rồi
Thấy sóng là đâu chỉ nước thôi
Ông Triệu siêu quần chi lắm đó
Mặt mày trông cũng thế mà thôi.
Hán 12:
Nhứt cú Di Đà
Diệu chân như tánh
Xuân tại hoa chi
Tượng hàm cổ cảnh.
Việt 12:
Một câu A Di Đà
Lộ tánh diệu chân như
Sắc xuân nơi hoa sáng
Muôn tượng ẩn gương xưa.
Lược giải:
Thuở xưa, một vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu: "Chư pháp tùng bản lai. Thường tịch diệt tướng" (Các pháp từ xưa nay. Tự tướng thường tịch diệt), bỗng sanh nghi không hiểu. Sau mấy năm tham thiền, ông chợt tỏ ngộ, liền viết tiếp thêm hai câu: "Xuân đáo bách hoa khai. Hoàng Oanh đề liễu thượng" (Xuân đến trăm hoa nở, Oanh vàng kêu liễu biếc!). Câu niệm Phật đă thuần, hành giả sẽ thấy tánh chân như mầu nhiệm lồ lộ hiện bày, không thể dùng lời nói luận bàn, dùng tâm tư nghĩ suy phân biệt được. Cảnh trạng ấy sự sắc xuân hiện nơi trăm hoa đua nở sáng tươi, như oanh vàng kêu hót líu lo trên cành liễu sanh biết, chỉ dùng tâm thiên nhiên mới thể hợp được cảnh thiên nhiên. Nếu nghĩ suy phân biệt, tức là phiền năo vọng động rồi, đâu c̣n chi là sáng suốt, trong đó in cảnh non nước trời mây, gương cùng cảnh tượng dung nhập nhau không nghĩ là đây là kia, là một là khác. Người niệm Phật khi ngộ vào tánh diệu chân như cũng như thế. Thời cận đại ở Trung Hoa, một đêm Hư Vân thượng nhân đang ngồi tịnh ngoài trời dưới ánh trăng sáng, vị Thiền sư đồng tham bước đến ướm hỏi thử:
Mắt cá vẫn nhiều, châu khó nhận
Móng mây dễ lẩn ráng tươi hồng!
Thượng nhân liền đáp:
Gương hàm muôn tượng không kim cổ
Chẳng thuộc âm dương sáng đại đồng.
Thiền sư nghe xong, gật đầu mỉm cười rồi bỏ đi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 8 of 24: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:27am | Đă lưu IP
|
|
|
Hán 13:
Nhứt cú Di Đà
Thanh tịnh thật tướng
Tuyệt nghị, tuyệt tư
Nan danh, nan trạng.
Việt 13:
Một câu A Di Đà
Cảnh thật tướng sạch trong
Tuyệt bàn, tuyệt suy nghĩ
Khó nói, khó h́nh dung.
Lược giải:
Lập lại ư trên, hành giả niệm Phật khi đi sâu vào tam muội, thể thật tướng của chân tâm lồ lộ hiện bày. Cảnh giới này chỉ đem tâm thanh tịnh khế hợp, không thể dùng lời nói diễn tả, dùng tâm niệm phân biệt để nghĩ ngợi phan duyên. Bởi thế nên khi Thủy Lăo Ḥa Thượng đến tham khấu với ư niệm cầu hỏi về chân tâm, vừa mới cúi lạy đă bị đức Mă Tổ đạp cho té lăn tṛn. Thế mà Ḥa Thượng tỏ ngộ, vỗ tay cười ha hả. Sự tỏ ngộ ấy chỉ đương nhân tự hiểu, như người uống nước lạnh nóng riêng ḿnh biết lấy mà thôi. Cũng với y chỉ này, thuở xưa một vị tôn đức đem bài kệ như sau ướm hỏi các môn nhân:
Có pháp không sau trước
Vô h́nh vốn lặng trang
Hay làm chủ muôn vật
Chẳng theo bốn mùa tàn.
Một đệ tử nghe xong, vội ứng tiếng thưa: "Đó là chân tâm!" Liền bị tôn đức rầy quở bác phá.
Hán 14:
Nhứt cú Di Đà
Viên dung pháp giới
Thục thể toàn chân
Giao la vô ngại.
Việt 14:
Một câu A Di Đà
Dụng thông tṛn pháp giới
Soi lặng thể toàn chân
Xen giăng khắp vô ngại.
Lược giải:
Như trên đă nói, khi hành giả chứng Niệm Phật tam muội, căn trần dứt bặt tự tánh Di Đà dung thông tṛn sáng khắp pháp giới. Cảnh tượng ấy lặng lẽ mà chiếu soi, chiếu soi mà lặng lẽ, toàn thể đâu đâu cũng là chân thật. Trong chân thể ấy, hằng sa vô biên thế giới xen giăng nhau, như vô số hạt châu nơi các mắt lưới của trời Đế Thích. Chân cảnh này rất đỗi sâu mầu, trong tứ pháp giới, thuộc về Sự sự vô ngại pháp giới, trong Thập huyền môn, thuộc về Nhân đà la vơng cảnh giới môn.
Hán 15:
Nhứt cú Di Đà
Đại viên trí cảnh
Thân độ ảnh hàm
Trùng trùng yêm ánh.
Việt 15:
Một câu A Di Đà
Gương Đại Viên trí cảnh
Thân độ bóng hàm nhau
Lớp lớp mầu lập lánh.
Lược giải:
Đây là nói tiếp về công hạnh niệm Phật của hành giả khi chứng cùng cực chân cảnh tự tánh Di Đà. Chân cảnh này như thể gương tṛn sáng không ngằn mé, bao gồm muôn tượng sum la, gọi là Đại Viên cảnh trí. Trong thể Đại viên ấy, "Thân" thuộc về phần Chân như tịch chiếu môn. "Độ" thuộc về phần thế giới sanh diệt môn, đều hàm chứa h́nh bóng lẫn nhau. Sự hàm ảnh đó như mỗi hạt châu nơi mắt lưới của trời Đế Thích, đều ngậm chứa h́nh bóng của vô số hạt châu khác. Cảnh hàm ảnh giữa Không với Không, Sắc cùng Sắc, Sắc và Không xen lẫn ngậm bóng nhau ấy, thật là lớp lớp tầng tầng, lấp lánh vô ngại nhiệm mầu khó bề diễn tả.
Hán 16:
Nhứt cú Di Đà
Không Như Lai tạng
Vạn pháp vị h́nh
Nhất chân tuyệt tướng.
Việt 16:
Một câu A Di Đà
Là không Như Lai Tạng
Vạn pháp dứt h́nh dung
Nhất chân tuyệt sắc tướng.
Lược giải:
Tiếp theo ư nghĩa trên, cảnh giới tuy nhiên sum la như thế, song hành giả phải một tâm lặng lẽ thể nhập vào Không Như Lai Tạng. Tâm cảnh này dứt cả muôn pháp, tuyệt cả sắc tướng, chỉ là một thể nhất chân không c̣n phân biệt.
Hán 17:
Nhứt cú Di Đà
Viên măn Bồ Đề
Thiên cảnh vô thượng
Vân biết dữ tề.
Việt 17:
Một câu A Di Đà
Tṛn đủ Bồ Đề đạo
Ráng mây đều ở thấp
Lại không có trời cao.
Lược giải:
Khi hành giả đă thể nhập Không Như Lai Tạng, th́ đạo Bồ đề tṛn đủ, con đường giác ngộ đến mức cao tuyệt rồi. Cảnh giới ấy như trạng thái của người: "Một ḿnh nằm nghỉ trên đỉnh non cao". Khi xưa ông Khấu Chuẩn đời nhà Tống, thuở bé theo cha lên núi Thái Sơn, đă đắc ư đọc lên bốn câu thi cũng mường tượng như hai câu sau của bài kệ trên:
Bất dữ quần phong ngũ
Cảnh vô sơn dữ tề
Cử đầu hồng nhật cận
Hồi thủ bạch vân đề.
Tạm dịch:
Chẳng cùng muôn đảnh đồng bạn
Lại không một núi dám qua
Ngước mắt vầng hồng kề cận
Cúi đầu mây bạc thấp xa!
Nhưng đó chỉ là khẩu khí của một vị Tể tướng, v́ trên c̣n có vầng hồng, c̣n có Thiên Tử. Chưa bằng vua Hồng Vơ đời nhà Minh lúc du ngoạn núi này, cũng tức cảnh hai câu:
Nhứt thượng, nhứt thượng, cánh nhứt thượng
Vô hạn yên vân nhăn để thâu!
Tạm dịch:
Lên cao càng lúc càng cao tít
Vô hạn trời mây dưới mắt nh́n.
Đây mới thật là khẩu khí của một bậc Thiên Tử, đứng trên muôn dân. Có thể mượn hai câu sau này để tạm h́nh dùng cảnh tượng giác ngộ tṛn đầy cao tuyệt của một vị Pháp Vương đứng trên vạn pháp.
Hán 18:
Nhứt cú Di Đà
Đại bát niết bàn
Nhất luân minh nguyệt
Vạn lư không hàn!
Việt 18:
Một câu A Di Đà
Là cảnh Đại tịch diệt
Muôn niệm trống thanh lương
Chỉ một vầng minh nguyệt!
Lược giải:
Khi đă vào thể nhiệm mầu cao tuyệt của Không Như Lai tạng, hành giả niệm Phật ở cảnh giới mà nhà Thiền gọi là "Chẳng cùng muôn pháp làm bạn" (Bất dữ vạn pháp vi lữ). Cảnh giới này như vầng trăng tṛn sáng, chiếu soi muôn dặm, vắng lặng thanh thanh lương, là cảnh Đại tịch diệt hay Đại Bát Niết Bàn vậy. Đây cũng gọi là cảnh "Song vong", người chăn và trâu đều mất, phiền năo cùng pháp trừ phiền năo không c̣n. Như lời xưa đă diễn tả:
Soi lại người, trâu dă mất tung
Dặm ngàn vắng lạnh nguyệt linh lung!
Ư hay đoan bích như ai hỏi
Cỏ biếc hoa tư tươi tự thắm hồng!
Hán 19:
Nhứt cú Di Đà
Khai Bát nhă môn
Thập hư vạn pháp
Nhứt khẩu b́nh thôn.
Việt 19:
Một câu A Di Đà
Mở toang cửa bát nhă
Muôn pháp cơi thập hư
Một miếng nuốt tả cả.
Lược giải:
Bát nhă là trí huệ. Thập hư có nghĩa: cơi hư không ở mười phương. Một câu Phật hiệu, nếu niệm cùng cực, tất mở toang được trí huệ và bao hàm muôn pháp ở mười phương hư không. Muốn một tiếng nuốt trọn muôn pháp cơi thập hư, bên trong hành giả phải tiêu trừ bốn đại năm uẩn thuộc ngă chấp, bênngoài xả bỏ sáu trần cùng thời gian, không gian thuộc pháp chấp. Khi chuyên giữ một câu Phật hiệu, xả trừ quan niệm chấp thân tâm và thế giới như thế, đến lúc sức cực công thuần, tam của đương nhân bỗng mở rỗng rang, bao trùm muôn pháp khắp mười phương, như bọt nước ḥa tan đồng sức hàm chứa cùng biển rộng. Đó gọi là một miếng nuốt tất cả. Thuở xưa cư sĩ Bàng Uẩn đếm tham khấu đức Mă Tổ hỏi: "Thế nào là ư của Tổ Sư Đạt Ma từ Tây phương đến?". Mă Tổ đạp: "Đợi khi nào ông uống một hớp hết nước sông tây giang, ta sẽ nói cho biết!". Cư sĩ nghe xong bỗng đại ngộ. Hành giả niệm Phật nên theo dơi bước đại ngộ này, đừng quan thiệp vào lư giải.
Hán 20:
Nhứt cú Di Đà
Hỏa ốc môn khai
Tùng giả lư nhập
Khoái tùy ngă lai.
Việt 20:
Một câu A Di Đà
Mở cửa nhà đẹp cao
Gọi các hàng tùng giả
Mau theo ta đi vào.
Lược giải:
Hoa ốc đây, chỉ cho cảnh trang nghiêm của thế giới Hoa Tạng. Khi hành giả chứng được Niệm Phật tam muội rồi, tâm cảnh rỗng rang, lần lần đi sâu vào biển thế giới Hoa Tạng, gồm vô biên quốc độ mầu đẹp trang nghiêm. Tự ḿnh giác ngộ chứng được đức trí, lại dùng vô lượng phương tiện khuyên dẫn kẻ hữu duyên đồng bước theo vào nơi hoa ốc để thật hiện đức Bi...Đây là bản nguyện cao cả của người học đạo.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 9 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 2:40am | Đă lưu IP
|
|
|
Phát Bồ Đề Tâm
Thật Hiền Đại Sư
Trích HT Thích Trí Quang
Phát Bồ Đề Tâm
Thật Hiền tôi, một kẻ xuất gia phàm phu, đă bất tiếu lại ngu hèn, khóc mà lạy, khẩn thiết khuyến cáo đại chúng hiện tiền, cũng như nam nữ có đức tin thuần thành trong th́ vị lai. Xin quư vị thương xót, gia tâm một chút mà nghe và xét cho.
Tôi từng nghe, cửa chính yếu để nhập đạo th́ sự phát tâm đứng đầu, việc khẩn cấp để tu hành th́ sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập th́ chúng sanh độ nổi, tâm phát th́ Phật đạo thành được. Cái tâm quảng đại không phát, cái nguyện kiên cố chẳng lập, th́ dẫu trải qua đời kiếp nhiều như cát bụi, cũng y nhiên vẫn ở trong phạm vi luân hồi. Tu hành dẫu có, cũng toàn là lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Do đó mà kinh Hoa nghiêm đă nói, quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp th́ gọi là hành động theo ma vương. Quên mất c̣n thế, huống chi chưa phát. Nên muốn học Như lai thừa th́ trước phải phát bồ đề nguyện, không thể chậm trễ.
Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều sắc thái khác nhau, nếu không tŕnh bày th́ làm sao biết mà xu hướng. Nay xin v́ đại chúng mà nói vắn tắt. Sắc thái tâm nguyện có tám, là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên.
Tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên là thế nào? Đời có kẻ tu hành mà chỉ tu hành một chiều, không cứu xét tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc vụ lợi, hoặc háo danh, hoặc ham cái thú hiện tại, hoặc cầu cái vui mai sau: phát tâm như vậy gọi là tà. Danh lợi không ham, vui thú không màng, chỉ v́ thoát sinh tử, v́ chứng bồ đề: phát tâm như vậy gọi là chánh. Ư niệm này nối tiếp ư niệm khác, ngước lên mà mong cầu Phật đạo, tư tưởng trước liên tục tư tưởng sau, nh́n xuống mà hóa độ chúng sanh, nghe Phật đạo lâu xa cũng không thoái chí khiếp sợ, xét chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như trèo núi cao cả vạn trượng cũng quyết tận đỉnh, như lên tháp lớn đến chín tầng cũng cố tột nóc: phát tâm như vậy gọi là chân. Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch, trước siêng sau nhác, tâm tốt dẫu có cũng phần lớn bị danh lợi xen lấn, thiện pháp dẫu tu cũng phần nhiều bị vọng nghiệp nhuốm bẩn: phát tâm như vậy gọi là ngụy. Chúng sanh giới hết nguyện ta mới hết, bồ đề đạo thành nguyện ta mới thành: phát tâm như vậy gọi là đại. Coi ba cơi như lao ngục, nh́n sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không dám độ người: phát tâm như vậy gọi là tiểu. Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh, có Phật đạo, rồi nguyện độ, nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tan: phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện thành tựu, không thấy một pháp nào ngoài tâm mà có, đem cái tâm vô tướng phát cái nguyện vô tướng, làm cái hạnh vô tướng, chứng cái quả vô tướng, cái tướng vô tướng cũng không thấy có được: phát tâm như vậy gọi là viên.
Biết tám sắc thái khác nhau trên đây là biết cứu xét, biết cứu xét th́ biết lấy bỏ, biết lấy bỏ là có thể phát tâm. Cứu xét như thế nào? Là coi cái tâm của ta phát ra, trong tám sắc thái trên đây, nó là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, ngụy, tiểu, thiên, lấy chánh, chân, đại, viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát bồ đề tâm.
Bồ đề tâm là chúa tể mọi thứ thiện pháp, phát khởi tất phải có lư do. Lư do ấy, nay nói tóm lược th́ có mười thứ, là 1 nhớ ơn nặng của Phật, 2 nhớ ơn cha mẹ, 3 nhớ ơn sư trưởng, 4 nhớ ơn thí chủ, 5 nhớ ơn chúng sanh, 6 nhớ khổ sanh tử, 7 trọng linh tánh của ḿnh, 8 sám hối nghiệp chướng, 9 cầu sanh tịnh độ, 10 làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài.
Nhớ ơn nặng của Phật là thế nào? Thích ca như lai của ta, lúc mới phát tâm, đă v́ ta mà thực hành bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ khổ cực. Khi ta tạo tội, Phật đă xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không biết tin tưởng, tiếp nhận. Ta đọa địa ngục, Phật càng đau xót, muốn chịu thay khổ sở cho ta, nhưng nghiệp ta quá nặng, hết cách cứu vớt. Ta sinh loài người, Phật liền dùng phương tiện làm cho ta gieo trồng thiện căn. Đời đời kiếp kiếp, Phật theo dơi ta, ḷng không lúc nào rời bỏ chốc lát. Khi Phật xuất thế th́ ta c̣n ch́m đắm, nay được thân người th́ Phật đă diệt độ. Tội lỗi ǵ mà phải sinh nhằm thời kỳ mạt pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia, nghiệp chướng ǵ mà không được thấy thân vàng của Phật, may mắn nào lại được thân gặp xá lợi của ngài. Suy nghĩ như vậy mới thấy, giả sử quá khứ không trồng thiện căn th́ làm sao được nghe Phật pháp, không nghe Phật pháp th́ làm sao được biết lúc nào cũng hưởng thụ ân đức của Phật. Ân đức như vậy, núi non cũng khó sánh cho bằng. Trừ phi phát tâm quảng đại, làm hạnh bồ tát, xây dựng Phật pháp, giáo hóa chúng sanh, th́ dẫu xương tan thịt nát cũng khó mà đáp trả. Đó là lư do thứ nhất của sự phát bồ đề tâm.
Nhớ ơn cha mẹ là thế nào? Thương thay cha mẹ sinh ta cực nhọc, mười tháng ba năm thai mang bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt. Mới được thành người, đă đặt hy vọng tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà nay ta đă xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon vật ngọt đă không cung phụng, cúng tế chạp dẫy càng không chu tất. Sống, ta đă không có khả năng nuôi dưỡng cơ thể, chết, ta lại bất lực trong việc tiếp dẫn nghiệp thức. Phương diện thế gian ta đă rất hại, phương tiện xuất thế ta lại vô ích. Hai đường mất cả th́ tội nặng khó mà thoát cho khỏi. Suy nghĩ như thế mới thấy chỉ c̣n có cách thường hành Phật đạo trong trăm ngàn đời kiếp, khắp độ chúng sanh trong mười phương ba đời. Như vậy th́ không phải chỉ cha mẹ một đời, mà song thân nhiều kiếp đều được siêu thoát; không phải chỉ song thân một người, mà cha mẹ tất cả cùng được siêu thăng. Đó là lư do thứ hai của sự phát bồ đề tâm.
Nhớ ơn sư trưởng là thế nào? Cha mẹ tuy sinh dưỡng thân ta, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian th́ không biết lễ nghĩa, không có sư trưởng xuất thế th́ không hiểu Phật pháp. Lễ nghĩa không biết th́ khác ǵ cầm thú, Phật pháp không hiểu th́ cũng như phàm tục. Nay ta được biết qua loa về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp, giới pháp thấm ḿnh, ca sa phủ thân, hết thảy ân đức ấy đều nhờ sư trưởng mà có được. Vậy nếu ta chỉ cầu quả vị nhỏ nhặt th́ chỉ ích lợi được cho bản thân mà thôi. Hăy theo đại thừa, nguyện ước ích lợi hết thảy chúng sanh. Như thế th́ sư trưởng thế gian cũng như sư trưởng xuất thế đều được ích lợi mà ta cung hiến. Đó là lư do thứ ba của sự phát bồ đề tâm.
Nhớ ơn thí chủ là thế nào? Chúng ta ngày nay, mọi thứ nhu yếu đâu phải của ḿnh. Cơm cháo ba buổi, quần áo bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu thụ, toàn xuất từ sức lực kẻ khác mà đem đến cho ta hưởng dụng. Họ dốc sức cày cấy, vẫn khó nuôi miệng, ta ngồi không mà ăn, c̣n không vừa ư. Họ dệt đan măi hoài mà vẫn chịu khốn khổ, c̣n ta bận mặc thừa thải mà không biết thương tiếc. Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời, c̣n ta pḥng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Đem cái cực nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao yên bụng. Lấy cái nhu dụng của người cung cấp cái thân xác của ḿnh, làm sao hợp lẽ. Do đó, trừ phi vận dụng song song cả hai thứ bi trí, trang nghiêm đồng đều cả hai mặt phước tuệ, để thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước, th́ dẫu gạo chỉ một hạt, vải chỉ một tấc đi nữa, vẫn có phần trong sự trả nợ, vẫn khó tránh trong quả báo xấu. Đó là lư do thứ tư của sự phát bồ đề tâm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 10 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 2:40am | Đă lưu IP
|
|
|
Nhớ ơn chúng sanh là thế nào? Ta với chúng sanh, từ bao kiếp đến giờ, đời đời làm cha mẹ nhau, có ơn với nhau. Nay tuy cách đời mờ ám, không biết nhau được, nhưng lấy lẽ mà suy cứu th́ làm sao có thể không có sự báo bổ. Ngày nay là thú vật, nhưng biết đâu ngày trước ta đă không là con cái của chúng. Hiện tại là vi sinh, nhưng biết đâu quá khứ chúng đă không là cha mẹ của ta. Thường thấy nhỏ mà xa cha mẹ th́ lớn lên đă quên hết h́nh dáng song thân, huống chi cha mẹ bà con đời trước, th́ ngày nay kẻ họ Trương người họ Vương, khó mà nhớ nhau cho được. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ quỉ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Ta dẫu không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu cầu vớt. Kinh mới dạy được việc ấy, Phật mới tả rơ cảnh này, c̣n kẻ tà kiến th́ đâu có đủ sức mà biết. Nên bồ tát nh́n sâu kiến cũng thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng. Đó là lư do thứ năm của sự phát bồ đề tâm.
Nhớ khổ sinh tử là thế nào? Ta với chúng sanh, bao kiếp đến giờ, ở măi trong phạm vi sinh tử, chưa được siêu thoát. Không ở trong loài người th́ ở trên loài trời, hết ở thế giới này th́ ở thế giới khác, ra vào đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng cái làm trời, thoáng cái làm người, thoáng cái làm địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cửa đen sáng ra chiều vào, hang sắt mới thoát lại sa. Lên núi đao th́ cả ḿnh không c̣n mảnh da nguyên vẹm, víu cây kiếm th́ một vuông một tấc cũng bị cắt xả. Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào th́ ruột gan nát cả, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào th́ xương thịt tan hết. Cưa sắt mà xả th́ xả ra là liền lại, gió quái mà thổi th́ chết rồi lại sống ngay. Trong thành lửa dữ chỉ nghe cái thảm thét gào, trên bàn chưng nướng toàn nghe cái tiếng thống thiết. Băng tuyết đông lại th́ xanh như sen xanh hết nhụy, máu thịt ră ra th́ đỏ như sen đỏ mới nở. Tại địa ngục, một đêm chết sống thường bị đến cả vạn lần, cũng ở đó, một buổi thống khổ mà nhân gian đă trăm năm. Măi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc, nhưng có ai chịu nghe Diêm vương khuyên bảo. Khi chịu mới biết quá khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp; lúc thoát th́ lại quên ngay, sự tạo nghiệp vẫn y như cũ. Đánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái thảm của mẹ ḿnh; lôi con heo đến ḷ thịt, nào hay đích thị cái đau của cha ta. Ăn thịt con ruột mà không biết, Văn
vương c̣n như thế; ăn thịt cha mẹ mà không hay, phàm phu đều như vậy. Đời trước ơn nghĩa mà đời nay thành oán thù, ngày xưa oán thù mà ngày nay thành ruột thịt. Quá khứ là mẹ mà hiện tại là vợ, túc thế là cha mà hiện tiền là chồng. Nếu có cái trí túc mạng để biết th́ thật đáng hổ đáng thẹn, nếu có con mắt thiên nhăn để nh́n th́ quả đáng cười đáng thương. Trong rừng dơ bẩn mà mười tháng bị gói lại th́ thật khó chịu, ở chỗ máu huyết mà một lần bị dốc xuống quả thật đáng thương. Nhỏ th́ ngây ngô, trước mặt sau lưng cũng chẳng rơ, lớn lên hiểu biết, tham lam dục vọng đều tự hiện. Nhưng, thoáng cái là già bịnh truy tầm, chốc lát mà chết chóc hiện đến. Bấy giờ, gió với lửa giao tranh nên tâm thức bấn loạn trong đó, khí với huyết kiệt lực nên da thịt teo khô từ ngoài, không một sợi lông nào mà không như bị chích đốt, không một kẽ huyệt nào mà không như bị cắt xả. Con rùa đem nấu, sự thoát vỏ của nó tương đối c̣n dễ; nghiệp thức lúc tàn, sự thoát xác của nó quả thật quá khó. Tâm không phải chủ thể vĩnh viễn nên in như thương khách bôn ba đủ chỗ, thân không có h́nh dáng cố định nên khác nào pḥng ốc thay đổi đủ cách. Bụi cả thế giới cũng khó sánh thân luân hồi, nước cả đại dương vẫn không bằng lệ biệt ly. Xương mà chất th́ hơn núi cao, thây mà sắp th́ tràn mặt đất. Giả sử không được nghe lời Phật th́ việc ấy ai thấy ai nghe, chưa được đọc văn Kinh th́ lẽ này ai hay ai biết. Vậy mà có kẻ hoặc vẫn tham luyến như cũ, si mê như xưa, th́ chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời mới được làm người, nhưng một lần hư hỏng là hư hỏng đến cả trăm kiếp. Thân thể con người khó được mà dễ mất, th́ giờ quí báu dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mờ mịt, biệt ly măi hoài, ác báo tam đồ lại phải tự chịu, thống khổ hết nói mà ai chịu thay. Mô tả đến đây, há chẳng buốt dạ. V́ vậy, hăy triệt ḍng sinh tử, vuợt bể ái dục, để ḿnh cùng người thoát, cùng lên bờ giác. Hết thảy công việc phi thường trong bao đời kiếp sắp đến đều bắt nguồn từ cơ hội này. Đó là lư do thứ sáu của sự phát bồ đề tâm.
Trọng linh tánh của ḿnh là thế nào? Nhất tâm hiện tiền của chúng ta cùng ngay với đức Thích ca thế tôn không khác. Vậy mà tại sao Thế tôn từ vô lượng kiếp sớm thành chánh giác, c̣n chúng ta th́ ngu si thác loạn, vẫn làm phàm phu. Thế tôn th́ có vô lượng thần thông tuệ giác, công đức trang nghiêm, c̣n chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền năo, sinh tử thắt buộc. Tâm tánh duy nhất mà mê ngộ lại một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy khả sỉ. Ngọc báu vô giá lún xuống bùn lầy mà nỡ coi như ngói gạch, không chút quí trọng. Hăy vận dụng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô biên phiền năo. Tu đức có công, tánh đức mới lộ. Bấy giờ th́ như ngọc báu được rửa, treo trên phướn cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi là không phụ sự giáo hóa của Phật, không phụ tánh linh thiêng của ḿnh. Đó là lư do thứ bảy của sự phát bồ đề tâm.
Sám hối nghiệp chướng là thế nào? Kinh dạy, phạm một kiết la cũng đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà bị quả báo đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả. Nay chúng ta, hằng ngày, mỗi một cử chỉ cũng như mỗi một động tác, luôn luôn trái với giới luật, mỗi một bữa ăn cũng như mỗi một lần uống, thường thường phạm vào thi la. Một ngày tội lỗi phạm vào, theo lẽ cũng đă vô lượng, huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi phát ra quả báo khó mà nói hết. Hăy lấy ngũ giới mà nói, th́ mười người đă có đến chín kẻ vi phạm, bày tỏ th́ ít mà dấu diếm lại nhiều. Ngũ giới chỉ là giới tại gia mà c̣n không giữ đủ, huống chi các giới sa di, tỷ kheo, bồ tát, thôi th́ khỏi nói. Hỏi cái tiếng th́ nói là tỷ kheo, hỏi cái thật th́ hăy c̣n chưa đủ làm ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ được sao. Phải biết, giới Phật không thọ th́ thôi, thọ th́ không được phạm, v́ không phạm th́ thôi, phạm th́ chung cục tất bị sa lạc. Trừ phi cảm thương thân ḿnh, lại xót xa kẻ khác, thân và miệng cùng bi thiết, tiếng và lệ đều tuôn đổ, để khắp v́ chúng sanh khẩn cầu sám hối, th́ ngàn đời muôn kiếp ác báo cũng khó tránh cho khỏi. Đó là lư do thứ tám của sự phát bồ đề tâm.
Cầu sinh tịnh độ là thế nào? Tu hành cơi này th́ sự tiến đạo rất khó, văng sinh cơi kia th́ sự thành Phật cũng dễ. Dễ nên một đời đă có thể thấu đáo, khó nên lắm kiếp vẫn chưa chắc hoàn thành. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, ai cũng khuynh hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn, đâu cũng chỉ qui. Quả thật sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có cách nào hơn pháp ấy. Có điều kinh luận đă nói, điều lành mà tính chất nhỏ th́ không thể văng sanh, cái phước mang tính chất lớn mới chắc chắn đến được. Cái phước mang tính chất lớn th́ không chi bằng sự chấp tŕ danh hiệu, điều lành hàm tính chất to th́ không chi bằng sự phát tâm rộng lớn. Nên nhất tâm chấp tŕ danh hiệu của Phật hơn cả sự bố thí đến trăm năm, nhất niệm phát tâm bồ đề rộng lớn vượt cả sự tu hành trong nhiều kiếp. Lư do là v́ niệm Phật vốn mong làm Phật, vậy tâm lớn không phát th́ có niệm cũng không làm ǵ, phát tâm vốn để tu hành, vậy tịnh độ không sanh th́ có phát cũng dễ thoái chuyển. Nên gieo giống bồ đề, cày bằng cái cày niệm Phật, th́ trái hạt tuệ giác tự nhiên lớn lên; ngồi thuyền đại nguyện, nhập vào bể cả tịnh độ, th́ tây phương cực lạc quyết định văng sanh. Đó là lư do thứ chín của sự phát bồ đề tâm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 11 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 2:41am | Đă lưu IP
|
|
|
Làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài là thế nào? Thế tôn của ta, từ vô lượng kiếp, v́ ta mà tu đạo bồ đề, khó làm làm được, khó nhẫn nhẫn nổi, nhân trọn vẹn, quả đầy đủ, mới được thành Phật. Phật thành rồi, ngài giáo hóa châu đáo, và nhập vào niết bàn. Nay th́ thời kỳ Phật pháp nguyên chất và thời kỳ Phật pháp tương tự đă mất tất cả, c̣n lại chỉ là thời kỳ Phật pháp cuối cùng. Phật pháp có đó mà hành tŕ vô nhân, tà chánh bất phân, đúng sai hổn tạp, tranh dành nhân ngă, cầu trục danh lợi. Mở mắt ra là thấy nhan nhăn, cả thiên hạ đều như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa ǵ, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn nói đến. Mỗi khi nghĩ ngợi, bất giác rơi lệ. Thân làm con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho ḿnh, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai hậu. Trời cao cũng không che ta nổi, đất dày cũng khó chở ta được. Tội nhân cực trọng, phi ta th́ ai. V́ thế mà đau đớn không thể nhẫn nổi, nhưng toan tính th́ lại không thấy có cách ǵ khác hơn, nên quên ngay tư cách quê kệch, phát liền tâm chí rộng lớn. Như thế th́ dẫu không thể văn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ tŕ Phật pháp trong mai sau. Nên hợp cùng thiện hữu, qui tụ đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát đại nguyện đến bốn mươi tám điều mà nguyện nnào cũng hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp mà tâm nào cũng có thể làm Phật, khởi đầu từ ngày hôm nay cho đến cùng tận biên cương th́ gian. Hết một đời này th́ nguyện sanh Cực lạc, lên chín phẩm xong th́ trở lại Ta bà. Mong sao mặt trời Phật pháp sáng lại, cửa ngơ Phật pháp mở nữa, để tăng giới được trong lặng ở cơi này, dân chúng được tiếp hóa ngay nơi đây, vận hội nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp v́ vậy mà tồn tại lâu bền. Đó là ưu tư chân thành, tha thiết ấp ủ. Đó là lư do thứ mười của sự phát bồ đề tâm.
Như vậy mười lư do đă biết, tám sắc thái đă rơ, th́ khuynh hướng có lối, khai phát có chỗ. Chúng ta đă được thân thể nhân loại, ở chỗ văn hóa, giác quan kiện toàn, cơ thể thanh thoát, tín tâm đầy đủ đă có, ma chướng may mắn lại không. Huống chi c̣n được xuất gia, được thọ cụ túc giới, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được chiêm bái xá lợi, được tu tập sám pháp, được hội ngộ thiện hữu, được hoàn cảnh tốt đẹp. Như vậy nếu ngày nay không phát tâm rộng lớn như trên, th́ c̣n chờ đến ngày nào.
Cúi xin đại chúng thương cho thành tâm ngu muội của tôi, xét cho chí nguyện khổ sở của tôi, mà cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Chưa phát th́ nay phát, phát rồi th́ tiến triển, tiến triển rồi th́ liên tục. Đừngsợ khó mà khiếp hải, lùi bước, đừng cho dễ mà khinh thường, hời hợt, đừng ham mau mà không lâu bền, đừng biếng nhác mà thiếu dũng tiến, đừng uể oải mà không phấn khởi, đừng chần chờ mà kỳ hẹn măi, đừng v́ trí tuệ thiếu thông minh mà nhất thiết không lưu ư, đừng v́ tŕnh độ thiếu lanh lẹ mà tự khinh không có phần. Như trồng cây, trồng lâu th́ rễ cạn ngày càng xuống sâu; như mài dao, mài măi th́ dao đùi cũng thành bén sắc; không thể v́ cạn mà không trồng, mặc cây khô héo, v́ đùi mà không mài, để dao vô dụng.
Lại nữa, nếu cho tu là khổ sở th́ không biết nhác lại c̣n khổ hơn. Tu th́ khó nhọc tạm thời mà an vui vĩnh viễn, c̣n nhác th́ một đời thư thả nhưng lắm kiếp khổ đau. Huống chi lấy pháp môn tịnh độ làm thuyền tàu th́ lo ǵ thoái chuyển, lấy tuệ giác vô sanh làm sức nhẫn th́ sợ ǵ khó khăn. Nên biết, tội nhân địa ngục mà c̣n phát bồ đề tâm từ kiếp trước, huống chi đă làm người, lại làm con Phật, mà không lập đại nguyện ngay trong đời này. Vô thỉ ôn mê, cái ǵ qua rồi đă không thể cản, th́ ngày nay tỉnh ngộ, những cái sẽ đến c̣n có thể theo. Mê mà chưa tỉnh, cố nhiên đáng thương, biết mà không làm, mới càng đáng tiếc. Hễ sợ cái khổ địa ngục th́ sự tinh tiến tự sinh, nhớ cái mau chết chóc th́ tính biếng nhác tự diệt. Điều cần thiết là lấy Phật pháp làm roi dục, lấy thiện hữu làm tay dắt, trong cơn vội vă cũng không tách rời, suốt cả một đời vẫn cố bám víu, th́ không làm ǵ c̣n có sự thoái chuyển được nữa. Đừng nói chỉ nghĩ một thoáng là nhỏ nhẹ, đừng cho mới nguyện mà thôi là vô ích. Tâm chân th́ sự thật, nguyện rộng th́ hạnh sâu. Không gian đâu có lớn, tâm vương mới lớn. Kim cương đâu có chắc, nguyện lực mới chắc. Đại chúng quả thật không bỏ lời tôi, th́ bà con giác ngộ từ đây kết hợp, bạn hữu sen vàng từ đây kết giao, sở nguyện đồng sanh tịnh độ, đồng thấy Di đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành chánh giác. Như vậy th́ biết đâu bâm hai tướng hảo và trăm phước trang nghiêm sau này chẳng bắt đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm nay. Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, như thế thật vô cùng may mắn.
Phụ Lục: Giải thích từ ngữ "Phát bồ đề tâm"
Phát bồ đề tâm là căn bản của việc học Phật, nhưng bồ đề là ǵ, bồ đề tâm là thế nào, phát bồ đề tâm cách nào, cả ba câu hỏi ấy vẫn cần phải giải thích.
I. Giải thích "Bồ Đề"
1. Danh nghĩa của bồ đề: Danh nghĩa của bồ đề tức là định nghĩa về chữ ấy. Bồ đề là dịch âm Phạn ngữ Bodhi. Dịch ư chữ này, nhiều chỗ nói phái cũ dịch là đạo, phái mới dịch là giác. Nhưng cũ là ai, không thấy chỉ rơ, c̣n mới th́ chính là ngài Huyền Trang. Chữ đạo có hai nghĩa: nghĩa thông thường là đường, nghĩa suy diễn là đức lư (bản thể siêu việt). Bồ đề mà dịch là đạo, là lấy cái nghĩa đức lư, và đức lư ấy chính là sở y của bồ đề sẽ nói ở nghĩa thứ 8.
Bồ đề mà dịch là giác, là cái giác trong chữ giác ngộ. Tuy giác là nghĩa chính của bồ đề, nhưng không bao hàm được nghĩa đức lư, huống chi c̣n có thể lẫn lộn với cảm giác, tri giác, ác giác, là những cái giác trái với bồ đề. Tất cả cái giác này, đối với bồ đề, đích thị gọi là mê. Do đó, bồ đề là giác, nhưng là cái giác chống mê, hết mê, cái giác thuần chính mới là nghĩa chữ bồ đề.
V́ nghĩa của chữ bồ đề như trên đây nên ngài La Thập đă dịch là vô thượng trí tuệ - tuệ giác siêu việt (Trí độ luận cuốn 44), và ngài Tăng Triệu cho biết không có chữ nào hơn để dịch, v́ bồ đề là cái chân trí giác ngộ bản thể siêu việt một cách chính xác (Duy ma kinh chú).
2. Loại biệt của bồ đề: Loại biệt của bồ đề là phân loại về tuệ giác ấy. Bồ đề là giác, giác th́ phải hết mê. Nên giác hiện hành th́ mê phải tiêu diệt. Do đó mà phải là tuệ giác của liệt vị thánh giả hết mê mới là bồ đề. Ngoài ra, không có tuệ giác của ai được gọi bằng danh hiệu ấy. Thánh giả hết mê có thể phân ra ba, nên bồ đề có ba loại khác nhau, đó là Thanh văn bồ đề, Độc giác bồ đề, Vô thượng bồ đề.
3. Tự tánh của bồ đề: Tự tánh, hay tự thể tướng, ở đây nghĩa là bản thân. Bản thân bồ đề, theo tam thừa cọng pháp, tức là cả ba loại bồ đề, th́ nó là vô lậu tuệ (tuệ này chính là tuệ tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh); c̣n theo đại thừa bất cọng pháp, tức riêng vô thượng bồ đề, th́ nó là 4 trí thanh tịnh.
Lấy 4 trí thanh tịnh làm bồ đề th́ thật tam thừa thánh giả chưa được gọi là bồ đề, v́ lẽ Thanh văn và Độc giác chưa phải biến tri, c̣n Bồ tát chưa phải vô thượng, mà phải vô thượng chánh biến giác của Phật địa mới thật là bồ đề. Như vậy, nói tam thừa bồ đề chỉ là b́nh đẳng tướng, nói vô thượng bồ đề mới là thù thắng tướng. Thù thắng tướng có nghĩa viên măn cả 4 trí, c̣n b́nh đẳng tướng có nghĩa chỉ được một phần của diệu quán sát trí trong 4 trí ấy. Lấy diệu quán sát trí mà nói bồ đề th́ cả tam thừa đều được gọi là bồ đề, nhưng lấy cả 4 trí mà nói bồ đề th́ chỉ Phật địa mới được gọi là bồ đề thôi. Lấy 4 trí làm bồ đề, nghĩa này Thiên thai tôn gọi là "thật trí bồ đề".
Tuy nhiên, lấy 4 trí làm bản thân bồ đề chỉ là thuyết của Duy thức. Ngoài thuyết này, Câu xá luận nói là 2 trí, Mật giáo nói là 5 trí, đặc biệt và quan trọng, Trí độ luận nói là 3 trí.
4. Tương ưng của bồ đề: Tương ưng của bồ đề là nói về phụ thuộc của tuệ giác ấy. Như ai nấy đều biết, toàn bộ tâm thức chia ra ba hệ thống, là đệ bát thức, đệ thất thức và tiền lục thức. Ba hệ thống của thức khi chuyển thành trí th́ lại có 4 hệ thống gọi là 4 trí: đại viên cảnh trí (đệ bát thức), b́nh đẳng tánh trí (đệthất thức), diệu quán sát trí (đệ lục thức) và thành sở tác trí (tiền ngũ thức). Nói tương ưng của bồ đề là nói tâm vương tâm sở của 4 trí này.
Như trên đă nói, bản thân của 4 trí đích thị là vô lậu tuệ. Khi chuyển thức thành trí, th́ v́ đề cao trí nên dẫu vô lậu tuệ chỉ là tuệ tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh, vẫn giáng thức xuống làm tâm vương tương ưng với nó, đưa nó lên làm chủ và gọi là trí. Tâm vương tâm sở tương ưng với 4 trí, trí nào cũng có 21 thứ: tâm vương: tức thức của nó, 1. tâm sở: biệt cảnh, 4. biến hành, 5. thiện pháp.
5. Năng sinh của bồ đề: Năng sinh là những cái có khả năng phát sinh, tức là duyên. Bồ đề hiện hành là do tiêu diệt mê, vậy nó cũng là pháp duyên sinh. Duyên sinh bồ đề, như các pháp khác, cũng có:
Nhân duyên: chủng tử của vô lậu tuệ (loại bản hữu).
Tăng thượng duyên: thiện hữu (Phật, Bồ tát, sư trưởng, đồng học) và thánh giáo (Phật pháp).
Đẳng vô gián duyên: sự liên tục dẫn sinh vô lậu tuệ của hữu lậu thiện.
Sở duyên duyên: cảnh thánh đă quán tưởng và cảnh khổ đă thấy nghe.
Bốn duyên này chỉ là tổng mục. Chi tiết của duyên sinh bồ đề c̣n nhiều nữa, như kinh luận đă đề cập không ít.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 12 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 2:41am | Đă lưu IP
|
|
|
6. Sở đoạn của bồ đề: Sở đoạn là những thứ bị tiêu diệt, gọi là chướng. Được bồ đề nghĩa là được thánh quả. Do đó, dầu sự được thánh quả của các vị hữu học vẫn có thể gọi là được bồ đề. Nên sơ quả sắp lên của nhị thừa, sơ địa sắp lên của đại thừa, đều do bồ đề tiêu diệt chướng của nó mà thực hiện. Chướng ấy là ǵ, và trí nào tiêu diệt chướng ấy?
- — nhị thừa, phiền năo chướng là sở đoạn, bồ đề trí phần sinh không là năng đoạn.
- — đại thừa, sơ địa th́ lấy phần phân biệt của phiền năo chướng và sở tri chướng làm sở đoạn, đến Phật địa th́ lấy phần chủng tử của 2 chướng ấy làm sở đoạn, c̣n năng đoạn là cả 4 trí của bồ đề (gồn cả 2 phần sinh không và pháp không).
Luận nói, bồ đề, bồ đề đoạn và bồ đề xứ đều gọi là bồ đề. Bồ đề là tự tánh và tương ưng của nó (tức nghĩa thứ 3 và nghĩa thứ 4 ở trên) bồ đề đoạn là sở đoạn của nó (tức nghĩa thứ 6 ở đây) bồ đề xứ là sở duyên của nó (tức nghĩa thứ 7 ở sau).
Khi hai chướng đă đoạn, có nghĩa đă đoạn hoặc: hoặc đoạn th́ nghiệp không c̣n, và khổ (tức sanh tử luân hồi) cũng chấm dứt.
7. Sở duyên của bồ đề: Sở duyên là những đối tượng bị biết, gọi là cảnh. Như đă nói, 4 trí bồ đề tương ưng với tất cả tâm vương tâm sở vậy, vậy hết thảy đối tượng của tâm vương tâm sở đều là sở duyên của bồ đề, có nghĩa bồ đề không pháp nào không biết. Bồ đề lại c̣n tự biết tự tánh (bản thân) của nó, v́ nó là pháp vô lậu. Như vậy, tâm vương tâm sở thuần tính chất vô lậu của các đấng Vô thượng chánh biến tri có khả năng giác ngộ tất cả, có nghĩa tất cả các pháp đều là đối tượng của 4 trí bồ đề. Tuy nhiên, vẫn có một chút khác biệt trong đó, là thành sở tác trí chỉ duyên tục không duyên chân, c̣n 4 trí khác th́ tự tha đều biết, chân tục đều ngộ. Do đó mà trí của Phật đă biến tri cảnh giới của ḿnh, lại biến tri cảnh giới chúng sanh, cả đến chân như cũng là sở duyên của vô phân biệt trí của Phật.
8. Sở y của bồ đề: Sở y là chỗ y cứ, tức bản thể. Bồ đề là pháp do duyên sinh th́ cũng là pháp do duyên diệt, có nghĩa bồ đề sinh diệt ngay trong từng sát na. Nhưng, bồ đề sinh diệt mà vẫn liên tục là nhờ thân chứng chân như, tức bản thể bất sinh diệt. Bồ đề lại không một sát na nào không tương ưng với chân như, nên bồ đề luôn luôn hiện hành.
Bản thể chân như mà bồ đề y cứ này, Thiên thai tôn gọi là "chân tánh bồ đề".
9. Sở khởi của bồ đề: Sở khởi là những cái được phát khởi ra. Những cái bồ đề phát khởi chính là những ǵ Phật địa phát hiện. Những cái ấy là thân độ (cơ thể và vũ trụ) của Phật địa. Thân độ này gồm có tự thọ dụng (đồng đẳng pháp giới), tha thọ dụng (cho thập địa bồ tát) và thắng ứng hóa (cho các thánh giả khác), liệt ứng hóa (cho cả phàm thánh). Thứ 1 là thù thắng tướng của đại thừa, thứ 2, 3 và 4 là b́nh đẳng tướng, quán thông nhân quả, đại thừa và tiểu thừa.
10. Sở tác của bồ đề: Sở tác nghĩa là việc làm. Việc bồ đề làm chính là việc làm của Phật mà kinh Pháp hoa đă nói là khai thị tuệ giác của Phật cho chúng sanh ngộ nhập. V́ việc làm này, Phật hiện làm đến cả rừng ao (kinh Địa tạng), tôi tớ (luận Khởi tín). Như vậy, chúng sanh mà đoạn chướng chứng quả, tất cả đều do năng lực phương tiện xuất từ nguyện lực đại bi của Phật - đều là năng lực của bồ đề.
Nghĩa này cùng nghĩa thứ 9 ở trên, Thiên thai tôn gọi là "phương tiện bồ đề".
Giải Thích "Phát Bồ Đề Tâm"
Trong nghĩa loại biệt (thứ 2) đă nói tam thừa đều là bồ đề, nhưng ở đây chỉ căn cứ Vô thượng bồ đề mà giải thích về bồ đề tâm.
1. Bồ đề tâm nghĩa là tâm cầu bồ đề: Tâm cầu vô thượng bồ đề gọi là bồ đề tâm, tâm ấy là thệ nguyện, tức dục tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh. Dục tâm sở không cầu bồ đề của Thanh văn, Độc giác và
Bố tát, mà chỉ cầu Vô thượng bồ đề, nên gọi là bồ đề tâm. Và như vậy, chữ phát trong từ ngữ phát bồ đề tâm có nghĩa là lập: lập cái chí nguyện mong cầu vô thượng bồ đề, gọi là phát bồ đề tâm. Đó là cái nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất về sự phát bồ đề tâm của người học Phật.
2. Tâm có bồ đề gọi là bồ đề tâm: Tâm có bồ đề gọi là bồ đề tâm, th́ tâm ấy chỉ cho tất cả tâm vương tâm sở tương ưng với bồ đề. Tất cả tâm này có cái tuệ giác bồ đề nên gọi là bồ đề tâm.
3. Bồ đề là tâm gọi là bồ đề tâm: Bồ đề là tâm gọi là bồ đề tâm, nghĩa này có ba:
Thứ nhất, tâm chỉ cho tất cả tâm vương tâm sở tương ưng với bồ đề, bồ đề chỉ cho tuệ tâm sở: trong tất cả
4 hệ thống tâm vương tâm sở của 4 trí, hệ thống nào cũng có tuệ tâm sở nên hệ thống nào cũng gọi là bồ đề tâm.
Thứ hai, tâm vẫn chỉ cho tất cả tâm vương tâm sở, bồ đề vẫn chỉ cho tuệ tâm sở: tuệ tâm sở cũng là tâm nên gọi là bồ đề tâm. Như một người cũng là người nên nói một người cũng là nói về loài người. Nghĩa này không đáng quan tâm.
Thứ ba, tâm vẫn chỉ cho tất cả tâm vương tâm sở, bồ đề chỉ cho năng duyên, đặc tính của tâm vương tâm sở. Đặc tính này chính là cái mà ta gọi là linh giác: tâm vương tâm sở có linh giác bồ đề nên gọi là bồ đề tâm.
Giải Thích Phát Bồ Đề Tâm
Chữ phát có nhiều nghĩa: phát sinh, phát khởi, phát hiện, phát triển, phát minh. Làm thế nào để phát khởi cái chí nguyện mong cầu Vô thượng bồ đề? Lại làm sao để phát sinh cho đến phát minh tuệ giác bồ đề? Nói chung, làm cách nào để phát bồ đề tâm? Dưới đây giải thích về 5 cách ấy.
1. Tự tánh phát: Tự tánh phát là bản thân bồ đề tự phát. Cách này có hai:
Thứ nhất, bản thân ấy là đặc tính linh giác (năng duyên) của hết thảy tâm vương tâm sở. Linh giác tự phát triển th́ sẽ thành toàn giác, gọi là tự tánh phát bồ đề tâm. Điều đáng nói, đặc tính tâm vương tâm sở là linh giác (năng duyên), nên khi c̣n phiền năo th́ đặc tính ấy cũng vẫn y nguyên, nhưng phiền năo chỉ là hiện tượng thác loạn, như bịnh cũng là của cơ thể, nhưng chỉ là thứ hiện tượng thất thường. Do đó mà linh giác bồ đề của tâm không phát triển th́ tâm không bao giờ ổn định được.
Thứ hai,bản thân ấy là chủng tử vô lậu (loại bản hữu) của tất cả tâm vương tâm sở. Tất cả tâm vương tâm sở vô lậu gọi là bồ đề; chủng tử vô lậu phát khởi hiện hành vô lậu, gọi là tự tánh phát bồ đề tâm.
2. Tư trợ phát: Tư trợ nghĩa là hổ trợ. Tự tánh bồ đề mà tự phát được là nhờ sự hổ trợ. Sự hổ trợ này có 2: Thứ nhất là thiện hữu, là sự giáo hóa của chư Phật và Bồ tát. Thứ hai là thánh giáo, là sự huân tập của giáo lư trong ba tạng. Cả 2 yếu tố này hổ trợ cho sự phát bồ đề tâm nên gọi là tư trợ phát.
3. Thiện căn phát: Các thiện căn được thiện hữu giáo hóa và thánh giáo huân tập mà phát sanh và phát triển, các thiện căn ấy tác động và hổ trợ cho thiện tuệ thành vô lậu tuệ, vô lậu tuệ thành vô thượng bồ đề: đó là thiện căn phát bồ đề tâm.
4. Đẳng lưu phát: Đẳng lưu nghĩa là bản thân tự liên tục phát triển. Bản thân bồ đề là vô lậu tuệ. Vô lậu tuệ do hữu lậu tuệ dẫn ra, nghĩa là chính bản thân vô lậu tuệ tự phát triển từ hữu lậu đến vô lậu, phát triển cho đến thành vô thượng bồ đề th́ gọi là đẳng lưu phát.
5. Đoạn chứng phát: Là phát bồ đề tâm bởi sự đoạn chướng chứng chân. Trải qua các địa vị tu chứng, hễ đoạn chướng chứng chân bao nhiêu, th́ vô lậu hiện hành, nghĩa là bồ đề phát hiện bấy nhiêu. Do đó, sự đoạn chứng phát là Sơ địa th́ phát hiện, các địa th́ phát triển, cho đến Phật địa th́ cứu cánh đoạn chứng nên thành cứu cánh phát bồ đề tâm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 13 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Tại sao chúng ta niệm Phật, tôi xin được ra bài đây để các bạn tham khảo:
Niệm Phật Thập Yếu
HT Thích Thiền Tâm
Chương I: Đệ Nhất Yếu
Niệm Phật Phải V́ Thoát Sanh Tử
Lời Phi Lộ
Bản thảo quyển này vừa viết xong, có vài ba đại đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:
- Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền Tông, dường như có ư bài xích Tịnh Độ. Chẳng hạn như trong quyển Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất có câu: 'Niệm Phật tụng kinh đều là vọng tưởng'. C̣n trong đây lại bảo: 'Môn Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật'. Xem ra cũng dường như có ư cho Tịnh Độ là độc thắng, sự việc ấy như thế nào?
Đáp: Không phải thế đâu? Mỗi môn đều có tông chỉ riêng. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của ḿnh, bao nhiêu phương tiện thuyết giáo đều đi về những tông chỉ ấy. Như bên Thiền lấy: 'Chỉ thẳng ḷng người, thấy tánh thành Phật' làm tông chỉ. Tịnh Độ môn lấy: 'Một đời văng sanh, được bất thối chuyển' làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: 'Ĺa thế gian nhập pháp giới' làm tông. Thiên Thai giáo lấy: 'Mở, bày, ngộ vào tri kiến Phật' làm tông. Bên Tam Luận lấy: 'Ĺa hai bên, vào trung đạo' làm tông. Pháp Tướng môn lấy: 'Nhiếp muôn pháp về Chân Duy Thức' làm tông. Mật giáo lấy: 'Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật' làm tông. Và Luật môn lấy: 'Nhiếp thân ngữ ư vào Thi La Tánh' làm tông.
Cho nên, lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh Độ, hay bác niệm Phật tụng kinh, mà chính là phá sự chấp kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh là thấp kém sai lầm, tại sao từ Đức Thích Tôn cho đến chư Bồ Tát, Tổ Sư đều ngợi khen khuyên dạy tụng kinh niệm Phật? Nên biết, Vĩnh Minh thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A Di Đà, mỗi ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại, Phổ Am đại sư cũng nhân tụng kinh Hoa Nghiêm mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo bên Tịnh Độ cũng thế, không phải bác phá Thiền Tông, chỉ nói lên chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy xét t́m hiểu sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thú nhập.
Lại, mỗi môn tuy tông chỉ không đồng, nhưng đều là phương tiện dẫn chung về Phật Tánh. Như một đô thành lớn có tám ngơ đi vào, mà nẻo nào cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn. Không môn từ phương tiện lư tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng th́ dung hội tất cả, sự tức lư, lư tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: 'sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp văng sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: 'Cực Lạc là cơi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?' Đại sư quát bảo: 'Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?' Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.
Đến như nói: 'Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật', chính là lời khai thị của chư cổ đức như: 'Liên Tŕ, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật. Các đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại xương minh về lư mầu của Tịnh Độ pháp môn. Như Triệt Ngộ đại sư, trong tập Ngữ Lục, đă bảo: 'Một câu A Di Đà, tâm yếu của Phật ta. dọc quán suốt năm thời, ngang gồm thâu tám giáo'. Và Kiên Mật đại sư sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu, cũng bảo: 'Đời nay tham thiền chẳng nên không kiêm Tịnh Độ, pḥng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng kinh sợ lạnh ḷng?' Một câu A Di Đà, nếu không phải là bậc thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất không thể hoàn toàn đề khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi kém thiếu!' Thế nên, thuốc không quí tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh Độ với Thiền Tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém. Nhưng luận về căn cơ, th́ Thiền Tông duy bậc thượng căn mới có thể được lợi ích; c̣n môn Tịnh Độ th́ gồm nhiếp cả ba căn, hạng nào nếu tu cũng đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết th́ thời mạt pháp này, người trung, hạ căn nhiều, bậc thượng căn rất ít nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh Độ pháp môn. Đây do bởi ḷng đại bi của Phật, Tổ, v́ quán thấy rơ thời cơ, muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các kinh luận đă nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thật!
Tuy nhiên, như trong kinh nói: chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. V́ vậy Tịnh Độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền Tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật Pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho nên dù đă tùy căn cơ, sở thích của ḿnh mà chọn môn Tịnh Độ, thâm ư bút giả vẫn mong cho Thiền Tông và các môn khác được lan truyền rộng trên đất nước này. Và các môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một điểm lợi ích nhỏ nhen nào, bút giả cũng xin hết ḷng tùy hỷ. Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền Tông và Tịnh Độ nói riêng, đồng cùng đi về chân tánh, tuy hai mà một, đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau, và cũng đều rất cần có mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới.
Mấy vị đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ư tán đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lăo nhơn để kết luận, và chứng tỏ người xưa cũng đă từng đồng quan điểm ấy:
Tức tâm là độ lư không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà
Sắc hiển trang nghiêm miền diệu hữu
Không kiêm vô ngại cơi hằng sa
Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc
Nguyện Phật bao la đức hải hà
Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo măi vào ra!
Thích Thiền Tâm cẩn chí
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 14 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI TẠI GIA TU PHẬT
Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó nhất là tu tại gia, cho nên có câu: Thứ nhất tu tại gia, thứ nh́ tu chợ, thứ ba tu chùa. Ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ lại khó tu hơn một chút v́ phải giữ ḷng ngay thẳng, không gian manh lường cân tráo đấu; ở nhà lại khó hơn nữa v́ bạn ác rủ rê làm ta dễ bị sa đoạ.
1. Quy y Tam Bảo
Muốn tu tại gia trước tiên ta phải "quy y Tam Bảo", và khi ta quy y Tam Bảo th́ vấn đề lễ bái đối với ta rất quan trọng. điều thứ nhất trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát là: "Nhất giả lễ kính chư Phật".
Có một lần ở thành Vương xá, đức Thế Tôn thấy con gia chủ là Thi-Ca-la-việt (Thiện Sanh) sáng nào cũng hướng 6 phương để đảnh lễ trong lúc đầu tóc áo quần đang c̣n ướt sũng. đức Thế Tôn hỏi Thi-Ca-la-việt lễ lạy như thế để làm ǵ? Th́ y thưa rằng lễ lạy như vậy là chỉ để làm theo lời cha dặn trước lúc lâm chung.
Chúng ta đôi khi cũng lễ lạy như vậy, lễ lạy theo thói quen khi bước chân vào chùa, lễ lạy khi nghe tiếng chuông, nhưng chúng ta cũng không ư thức lễ lạy để làm ǵ, và v́ sao phải phải lễ lạy? Hoặc giả chúng ta lễ lạy để cầu xin mua may bán đắt, cầu xin cho con cái thi đậu, cầu xin sức khỏe khi có người thân lâm bệnh. Chúng ta thường chỉ biết lễ lạy với tâm nguyện cầu như thế. Chúng ta đă quên mục đích cao cả khi chúng ta đă "quy y Tam Bảo"là chúng ta phải học đạo của đức Phật, hành đạo như đức Phật, mục đích là xoay đời sống hung ác của ta thành đời sống từ bi, xoay xấu xa trở thành tốt đẹp. Chúng ta thường hay bạ đâu tính đó, ham kinh doanh, ham làm tiền, ham danh vọng, nên đời sống của chúng ta do đó không an lạc, chúng ta không được giải thoát. Khi một đệ tử đến cầu xin đức Phật giải thoát cho y khỏi bao đau khổ, phiền năo, th́ đức Phật hỏi y: Ai ràng buộc ngươi? Ai không cho ngươi được giải thoát?
Quy y Tam Bảo là nương theo Tam Bảo để làm như đức Phật, để tu như đức Phật cho đến khi được chánh đẳng chánh giác. Cho nên, khi chúng ta đă quy y Tam Bảo th́ chúng ta không lạy gốc cây, không lạy bờ sông, không cúng ông Táo. Nếu chúng ta vẫn làm như vậy tức là chúng ta đă quên rằng chúng ta đă quy y Tam Bảo. Như vậy, chẳng khác nào anh làm ruộng gieo giống ngoài đồng rồi bỏ đó, không chăm sóc, không tưới bón, không vun quén, nếu chúng ta quy y Tam Bảo mà chúng ta không tu, không học đạo, không làm theo đạo Phật. Nếu chúng ta nhận định sai th́ một ngày kia chúng ta phải thối tâm và sa đoạ. đức Phật dạy một bài học cho chúng ta là: của cải không đem lại chân hạnh phúc. đức Phật một hôm ngồi trên một đám cỏ ướt mà không lạnh, không thấy khổ, v́ nguyên nhân gây khổ đức Phật đă dứt từ lâu, nên đức Phật vẫn an nhiên tự tại, đức Phật bảo rằng: nằm trong nệm ấm chăn êm mà ḷng tham, sân, si không dứt, luôn luôn lo sợ mất của th́ vẫn đau khổ như thường.
Chúng ta đôi khi quên mục đích quy y và lễ bái Tam Bảo của chúng ta, và nếu chúng ta chỉ lễ bái với mục đích thỏa măn ḷng ham muốn tầm thường bất chính, th́ chúng ta không bao giờ đạt được mục đích cao cả kia. Ngày xưa có một anh thờ vị Thần Lă tổ và trú dạ lục thời anh ấy đều hương hoa lễ bái kính cẩn, chí thành. Ông Thần thấy anh kia tâm thành như vậy, rất cảm động, bèn hỏi anh ấy muốn cầu xin điều ǵ, th́ y đáp là muốn xin Thần cho một chén vàng v́ nhà y nghèo quá. ông Thần liền đưa ngón tay hóa phép và một chén vàng hiện ra cho y. Anh ta mừng quá! Vài hôm sau anh ta lại tiếp tục hương hoa lễ bái thành khẩn như trước. ông Thần lại hiện lên và lại hỏi anh ta muốn cầu điều ǵ? Anh ta liền thưa chén vàng nhỏ quá, không đủ để chi dùng, xin thần cho y một b́nh vàng. ông Thần lại đưa ngón tay ra chỉ và một b́nh vàng đầy ắp hiện ra. Anh ta mừng quưnh. Nhưng chẳng bao lâu anh ta nghĩ rằng ḿnh muốn nhiều thứ hơn nữa, mà mỗi lần cầu xin th́ chỉ được một thứ mất công lễ bái. Lần nầy anh ta sắm nhiều hương hoa, lễ bái nhiều hơn trước và thành khẩn hơn trước. ông Thần thắc mắc quá, chẳng biết anh ta c̣n muốn ǵ? ông hỏi, con c̣n muốn cầu xin điều ǵ nữa? Có phải con muốn đạo không? Hỏi năm ba lần anh ta mới thưa rằng "Chỉ muốn xin ngón tay làm phép của Thần thôi", ông Thần nổi giận đưa ngón tay chỉ một cái, tức th́ nhà cửa, xe cộ, của cải ǵ của anh ta cũng sụp đổ tan tành. Thế mới hay nếu chúng ta lễ bái với mục đích cầu lợi lạc th́ không bao giờ được thỏa nguyện, bởi ḷng tham của chúng ta vô bờ.
2. Lễ bái đúng đắn
Nếu chúng ta không rơ ư nghĩa của lễ bái th́ việc lễ bái trở thành vô ích. V́ sợ sệt mà lễ, v́ lợi lộc mà lễ th́ lễ Phật cũng như lễ gốc cây, bụi bờ không khác. đằng này chúng ta lễ Phật v́ kính trọng đức hạnh cao cả, v́ phục sát đất tâm lượng đại từ đại bi của đức Phật, trí huệ rộng lớn bao la của đức Phật. Chúng ta đă quy y theo Phật th́ tâm lượng ta cũng phải rộng răi bao la, chúng ta cũng phải có trí tuệ sáng suốt, như đức Phật, chúng ta cố gắng bỏ tánh tham lam bỏn xẻn nhỏ mọn hẹp ḥi. Biết rằng đồng tiền không đem lại hạnh phúc tuyệt đối, nó là "một đầy tớ trung thành và đồng thời cũng là một người chủ khắc nghiệt"(ngạn ngữ Tây phương). Nếu chúng ta không để cho đồng tiền làm chủ th́ đồng tiền mới đem lại hạnh phúc cho ta. (Xem câu chuyện anh chàng nghèo khổ nhưng đă phát tâm cúng dường tấm áo choàng duy nhất, rồi vừa la vừa chạy "được rồi, được rồi"; gặp lúc vua ngự ngang qua, cho đ̣i lại hỏi cớ sự. Sau khi biết chuyện, vua khen ngợi tấm ḷng quảng đại của anh ấy và thưởng cho nhiều của cải).
Chúng ta lễ Phật là để cảm ân đức Phật đă giáo hóa chúng ta, đă bày chế ra bao nhiêu pháp môn phương tiện hầu dẫn dắt chúng ta đến Niết bàn, đến giải thoát. Phá trừ ngă chấp là giáo lư cao quư nhất mà đức Phật dạy cho chúng ta. Có người tu lâu năm, đạt được thần thông, bèn lên Thiên đường gơ cửa Thượng đế. Thượng đế hỏi "Ai đó?". Người kia đáp: "Tôi đây". Thượng đế hỏi: Tôi là ai? Người kia đáp: Tôi là tôi. Thượng đế bảo: Nếu tôi là tôi và ông là ông th́ ở đây không có chỗ cho hai người cùng ở, hăy về đi. Người kia trở về tu nữa. Lần sau, khi gơ cửa Thiên đường và Thượng đế hỏi: Ai đó?- Tôi. Tôi là ai? th́ người kia đáp: Tôi là Ngài. Thượng đế mới bảo: "hăy vào". Cho nên khi chúng ta không phân biệt tôi, anh, khi chúng ta không chấp cái "ta"th́ bao nhiêu người cũng như một, đều sống chung với nhau, ḥa thuận vui vẻ.
Đứa bé mới ra đời chưa biết ǵ. đến một tuổi cha mẹ mới đặt cho một cái tên, có khi một cái tên rất xấu xa, và dần dần nó chấp chặc cái tên đó là ḿnh, một khi có ai gọi cái tên ấy mà tán thán, khen ngợi th́ nó lại thấy sung sướng, phấn khởi. Sau này khi lớn lên, khi nghe người khác xưng hô với ḿnh thiếu lịch sự th́ lại phiền muộn. V́ một cái tên bông lông, không đâu mà ḿnh cứ đau khổ, sống chết luân hồi triền miên với nó? Nếu tin hiểu được lời Phật dạy: "Vạn pháp đều như hóa như huyễn"th́ ta không bao giờ đau khổ nữa, không phiền muộn nữa. Cái danh xưng là giả tạm, cái thân là giả hợp, nếu chúng ta hiểu được như vậy, tất chúng ta an lạc, giải thoát (danh xưng như huyễn vô ngă).
Khi lễ Phật, chúng ta nguyện ǵ? Nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền năo, nguyện trí huệ viên măn, nghiệp chướng tiêu trừ, nguyện thường hành Bồ tát đạo. đó là đem lại an lạc cho ḿnh, cho nhân loại, cho chúng sanh. Cái an lạc này là an lạc từ trong tâm mà ra, từ trong ḷng ḿnh phát ra. đức Phật dạy chỉ cái an lạc phát ra từ trong ḷng ḿnh mới là cái an lạc chân thật, c̣n cái an lạc từ ngoài mà có th́ cái an lạc ấy là giả tạo.
Ta lễ bái 10 phương để làm ǵ? và ta lễ ai? Tức là ta lễ tất cả biến pháp giới: Nhất nhất biến lễ sát trần Phật. Tức ta cầu tất cả các đức Phật hộ tŕ để ta: a) diệt trừ được bốn nghiệp phiền năo (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối), b) diệt trừ bốn lư do làm ác (tham lam, sân hận, ngă mạn, ngu si), c) trừ bỏ sáu nguyên nhân phung phí tài sản (cờ bạc, rượu chè, giao du đường phố phi thời, la cà đ́nh đám hí viện, giao du ác hữu, quen thói lười biếng). Như vậy vấn đề lễ bái mới chính đáng.
Kinh đức Phật dạy cho người tại gia. Nếu ai học được đúng đắn sẽ trở thành người tốt nhất. Ngài dạy rằng người tu tại gia cần biết tích lũy tài sản như con ong, như đụn mối. Tiền của chia thành 4 phần: một để tiêu pha, hai phần làm vốn, một phần để dành khi gặp tai biến, khó khăn, làm việc từ thiện cúng dường. Chúng ta đă có nhiều công phu học Phật pháp nhưng ít khi nghe được một pháp vừa như ly sữa ngon ngọt cho trẻ thơ, như bữa ăn ngon cho người lớn, như bữa ăn bổ dưỡng cho người già cả. Ngài dạy dỗ chúng sinh không phân biệt, lời dạy chung, không bỏ ai, không chọn lựa ai; ai cố gắng nghe, th́ hành tŕ được giải thoát trọn vẹn. Mọi căn cơ đều có pháp môn thích hợp.
Sáu nguyên nhân phung phí tài sản
Nhân một buổi sáng đức Phật đi khất thực, thấy chàng Thiện Sanh, con gia chủ, hướng sáu phương lễ bái, đức Phật liền dạy muốn cho việc lễ bái có ư nghĩa, trước tiên không làm 4 hạnh ác là tham, sân, si, mê; sau đó tránh xa 6 nguyên nhân phung phí tài sản mà ở đời ít ai tránh khỏi. đó là:
1. Đam mê rượu: có sáu điều bất lợi là tài sản bị hao tổn, ưa đấu tranh, tật bệnh dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ thân tàng, trí huệ thương tổn, tâm trí không b́nh tỉnh (Câu chuyện một vị ưu bà tắc vô t́nh uống lầm rượu mà phạm mọi giới: ăn cắp gà, sát sanh, tà dâm, nói dối);
2. Du hành đường phố phi thời: không ai che chở cho ḿnh, không ai hộ tŕ gia đ́nh, tài sản không ai trông nom, bị t́nh nghi tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ năo;
3. La cà đ́nh đám hí viện: tâm mơ tưởng vui chơi, bỏ bê vợ con,xao lăng công ăn việc làm, hao tổn tiền bạc;
4. Đam mê cờ bạc: nếu thắng th́ gây thù oán, nếu thua th́ tâm sanh phiền muộn, tài sản bị hao thất, gây ra tranh chấp đánh lộn, tại hội trường lời nói không ai tin, bạn hữu khinh khi, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm;
5. Thân cận ác hữu: đó là những bạn cờ bạc, bạn loạn hành, người nghiện rượu, kẻ bạo động, người lừa gạt;
6. Quen thói lười biếng: luôn luôn kiếm cớ để từ chối làm việc (quá nóng, quá lạnh, quá trễ, quá đói, quá no).
3.Chọn bạn lành mà chơi
Đức Phật dạy phải chọn bạn như thế nào? Chọn thiện hữu tri thức mà giao du, nghĩa là người bạn lành. Có nhiều loại bạn: bạn rượu, bạn cờ bạc, bạn cơ hội, bạn mồm. Bạn giúp ḿnh lúc hữu sự mới đúng là bạn tốt. Ác hữu là bạn cờ bạc đam mê héo ṃn như trăng khuyết, nợ nần như ch́m trong bồn nước. Làm bạn thế nào cho xứng đáng mới đúng là tự giác giác tha.
Có bốn hạng người không phải là bạn: đụng vật ǵ cũng lấy, chỉ biết nói giỏi, khéo nịnh hót, tiêu pha xa xỉ, sợ thế lực, cho ít xin nhiều. Bạn v́ mưu lợi, tỏ lộ thân t́nh trong việc đă qua, hoặc việc chưa đến, mua chuộc cảm t́nh bằng sáo ngữ; khi có công việc tự tỏ bất lực; đồng ư các việc ác, không đồng ư các việc thiện; trước mặt th́ tán thán, sau lưng lại chỉ trích. Tiêu pha xa xỉ, cờ bạc rượu chè, vui chơi bê tha, đ́nh đám, du hành đường phố phi thời: người trí sẽ tránh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 15 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn nên có: người bạn giúp đỡ ḿnh khi hữu sự, khuyên điều lợi ích, người bạn chung thủy, có ḷng thương tưởng tới ḿnh. Ḿnh muốn làm bạn với ai ḿnh cũng cần 4 điều tốt ấy: khuyên nhủ bạn khi bạn vô ư phóng dật, che chở cho bạn, làm chỗ nương tựa cho bạn khi bạn có điều sợ hăi, giúp thành hai lần khi bạn thiếu thốn (câu chuyện Lưu B́nh Dương Lễ). Người bạn trong nạn khổ cũng như lúc vui, thổ lộ tâm t́nh, giữ ǵn những điều bí mật của bạn hoặc tốt hoặc xấu, không bỏ ban khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng v́ bạn. Có câu "Bần cư náo thị vô nhân vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân": có nghĩa là khi nghèo nếu ở ngoài chợ cũng không ai hỏi, lúc giàu nếu có ở núi sâu cũng lắm kẻ t́m đến. đó cũng không phải là bạn.
Đức Phật là người bạn không mời: Ngài không chấp chứa tiền của, Ngài đă diệt trừ ḷng kiêu mạn, đi làm bạn với tất cả mọi người. Trong sự không nói, Ngài nói rất nhiều. Ngài đă diệt trừ ḷng tham, chỉ ăn một bữa ngọ; khất thực buổi sáng (Ngài không khất thực buổi chiều), b́nh đẳng không lựa chọn. Có người chỉ trích Ngài chỉ đi khất thực, không làm lấy mà sống, Ngài đáp lại rằng Ngài cũng đang gieo trồng đây: Trong việc khất thực Ngài gieo hột giống từ bi; Ngài cũng cày bừa: cái cày là tinh tấn, cái bừa là nhẫn nhục, con trâu là thiền định; Ngài cho bạn nghe những điều chưa được nghe, chỉ cho bạn biết con đường lên cơi chư Thiên.
Bạn tốt là người không hoan hỉ khi bạn ḿnh gặp nạn, hoan hỉ khi bạn ḿnh gặp may mắn, cản ngăn khi nghe người khác nói xấu bạn ḿnh. Bạn như hoa, bạn như cân: không phải là bạn. Bạn như hoa là bạn v́ danh vọng, v́ giàu có, v́ lợi lộc. Bạn như cân là bạn luôn luôn đ̣i hỏi sự cân xứng cả hai bên, cân qua cân lại, giúp qua giúp lại, mới làm bạn. Bạn như đất, mới đúng là bạn tốt: tâm thành thiết tha, giúp cho bạn ḿnh được lợi ích, không ganh tị, mà hoan hỉ (như đám đất). Ngược lại, khi bạn sa cơ, nghèo khổ, ḿnh vẫn như như, không bỏ bạn, đó là bạn chắc thật. Không nên gần gũi những người mà ḿnh không coi như bạn thiết, để khỏi bị dẫn dắt vào đường hư hỏng, biếng nhác. Ḿnh làm bạn với ai cũng vậy, thiệt tâm giúp đỡ bạn. Khi bạn bị thất sủng, ḿnh không bỏ. đó là bắt đầu cơ bản để đi đến việc lễ bái sáu phương có ư nghĩa như sau đây.
4. Sáu phương lễ bái
Đó là: Phương Đông chỉ cha mẹ, phương Nam chỉ sư trưởng, phương Tây chỉ vợ chồng, phương Trên chỉ tôn sư (Sa môn, Bà la môn), phương Bắc chỉ bạn bè và phương Dưới chỉ người giúp việc.
Chúng ta phải liên quan với sáu mặt mới sống được, sáu phương đó tương quan mật thiết với chúng ta. Nếu cắt đứt với sáu tương quan này th́ chúng ta không thể sống được. Ḿnh sống đây là sống tương quan với sáu hạng người, vậy ta cư xử thế nào cho đúng, theo lẽ phải, theo luật pháp?
1. Phương Đông: Làm con phải phụng dưỡng cha mẹ, có bổn phận hầu hạ sớm tối, bảo vệ tài sản của cha mẹ, lo lễ tang khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ nuôi con với t́nh thương, con cũng phải phụng dưỡng cha mẹ với t́nh thương, sớm tối viếng thăm, cung kính giữ ǵn truyền thống gia đ́nh. Ngược lại, cha mẹ cũng có 5 bổn phận đối với con cái: cưới vợ gả chồng, lo nghề nghiệp cho con, ngăn ngừa không cho con giao du với bạn xấu, con hư là cha mẹ có một phần trách nhiệm, trao của cải sự nghiệp cho con khi đúng thời. Ḷng thương không sáng suốt làm cho con hư hỏng. Chọn nơi xứng đáng làm vợ làm chồng cho con. Ngày xưa các bậc cha mẹ chọn nơi môn đăng hộ đối, để lại lời than trách của các con, xui con vào đường t́ thiếp. Không nên v́ tham lam mà đưa đẩy con vào đường xấu xa. Ân và oán là do trong gia đ́nh mà ra, khéo tu là hạnh phúc, không tu là dây oan. Như vậy là phương Đông được che chở, không có chi sợ hăi.
2. Phương Nam: Ta phải phụng sự Sư trưởng như phụng sự cha mẹ "Tiên học lễ, hậu học văn", chào hỏi thăm viếng ân cần, hầu hạ Sư trưởng, hăng hái học tập. Ngược lại Sư trưởng có bổn phận huấn luyện đệ tử như ḿnh đă được huấn luyện, thương đệ tử, khen đệ tử khi đệ tử học giỏi, đảm bảo nghề nghiệp cho đệ tử. Như vậy, phương Nam được che chở, không có chi sợ hăi.
3. Phương Tây: đối với vợ, người chồng phải kính trọng, không bất kính, thủy chung, giao quyền hành cho vợ, sắm đồ nữ trang cho vợ, khuyên răn giáo dục vợ khi vợ hổn hào, như chuyện sau đây: Có một chàng kia gặp chị vợ hỗn hào quá, luôn luôn chửi mắng chồng, nguyền rủa chồng khi có điều ǵ không vừa ư. Chàng ta mới đi mua về một cái ḥm để trong nhà. Chị vợ hỏi: Mua ḥm để làm ǵ? Chàng ta đáp là mua về để chôn anh khi anh chết, v́ có thể anh chết th́nh ĺnh chưa biết khi nào. Và mỗi lần chị vợ chửi rủa chồng th́ anh đánh th́nh thịch trên quan tài và khóc rống lên: Chàng ơi, sao chàng chết đi, chàng nỡ bỏ thiếp bơ vơ một ḿnh, không ai giúp đỡ, không ai trông nom, bảo vệ thiếp? Và chàng cứ khóc hoài thảm thiết cho đến khi chị vợ ngưng mắng mỏ, chàng mới thôi khóc. Và vài ba lần như vậy, chị vợ suy nghĩ lại, thấy ḿnh hỗn hào với chồng thật là không nên, và từ đó, không bao giờ chị ta mắng mỏ chồng nữa. đó là một cách giáo dục vợ, đem lại kết quả tốt đẹp. NgườI vợ đối với chồng cũng phải làm hết bổn phận: khéo đón tiếp bà con chồng, trung thành với chồng, giữ ǵn của cải, khéo léo làm mọi việc trong gia đ́nh. Như vậy, phương Tây được an ổn, che chở, không chi sợ hăi.
4. Phương Bắc: Không lường gạt th́ được bạn bè thương tưởng; che chở bạn, bảo vệ tài sản cho bạn, trở thành chỗ nương tựa cho bạn; không tránh xa khi bạn gặp khó khăn; kính trọng gia đ́nh bạn. Như vậy, phương Bắc được che chở lẫn nhau, không ai sợ ai.
5. Phương Dưới: đối với người giúp việc, lo lắng ăn uống và tiền lương đầy đủ. Bắt làm việc nhiều mà trả lương ít coi như mắc nợ người ta vậy; điều trị người giúp việc khi có bệnh hoạn, ốm đau; có miếng ăn ngon chia xẻ cho người giúp việc; thỉnh thoảng cho nghỉ phép. Như thế người giúp việc sẽ trờ thành bạn với ḿnh;nếu không đối xử đúng đắn, người giúp việc sẽ trở thành người thù đối với ḿnh. Ngược lại, đối với chủ, người giúp việc phải thức khuya dậy sớm, thức trước khi chủ thức dậy và đi ngủ sau chủ, tự bằng ḷng với các vật chủ cho, khéo đảm đang công việc, không phải làm cho lấy có; đem danh tiếng tốt về cho chủ. Như vậy, chủ xứng đáng mà tớ cũng xứng đáng, và phương Dưới được che chở, không có chi phải sợ hăi.
6. Phương Trên: đối với Sa môn, Bà la môn, chúng ta phải có ḷng từ, hành động tốt về thân, khẩu và ư; mở rộng cửa để đón Sa môn và Bà la môn, cúng dường các vật dụng cần thiết. Sa môn và Bà la môn đối với chúng ta th́ có ḷng thương tưởng chúng ta, ngăn không cho làm điều ác, cảnh giác khuyên răn, khuyến khích làm điều thiện, làm cho thanh tịnh những điều đă nghe; thương xót chúng sanh với tâm từ bi; là thiện tri thức của chúng ta, dạy chúng ta những điều chưa nghe, chưa biết, làm cho rơ ràng để thực hiện cho được, đó là pháp thanh tịnh, làm cho chúng ta hoàn thành đạo Nhân thừa. Như vậy, phương Trên che chở, hai bên trở thành nơi nương tựa cho nhau, che chở cho nhau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 16 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trên đây là pháp Lễ bái đầy đủ sáu phương theo kinh Thiện Sanh và để kết luận, đức Phật nói bài kệ:
Cha mẹ là phương đông
Sư trưởng là phương Nam
Vợ chồng là phương Tây
Bạn bè là phương Bắc
Nô bộc là phương Dưới
Sa môn, Bà la môn
Có nghĩa là phương Trên
Cư sĩ và gia đ́nh
Đảnh lễ phương hướng ấy
Kẻ trí giữ giới luật
Từ tốn và biện tài
Khiêm nhường và nhu thuận
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác
Bất động giữa hiểm nguy
Người hiền không phạm giới
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng tạo nên bạn
Từ ái tâm bao dung
Dẫn đạo khuyến hóa đạo
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ
Lợi hành bất cứ ai
Đồng sự trong mọi việc
Theo trường hợp xử sự
Chính những nhiếp sự này
Khiến thế gian xây quanh
Như bánh xe quay lăn
Ṿng theo trục xe chính.
Nhiếp sự này vắng mặt
Không có mẹ hưởng thọ
Hay không cha hưởng thọ
Sự hiếu kính của con
Do vậy bậc có trí
Đối với nhiếp pháp này
Như quan sát chấp tŕ
Nhờ vậy thành vĩ đại
Được tán thán danh xưng.
Tṛn bổn phận đối với sáu phương hướng tức là lễ bái sáu phương, hợp với giáo lư đức Phật là từ tốn và biện tài.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 17 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
Ḥa thượng Thích Thiện Siêu
TÁM TRAI GIỚI
(Bát quan trai giới)
1. Chủ ư Phật chế "Tám Trai Giới"
Ḷng từ bi của Phật dạy khắp Phật tử cả không gian vô biên, thời gian vô tận. Ngài muốn hết thảy chúng sinh đều được như Ngài, không c̣n vô minh mà giác ngộ, giải thoát hỏi nhà lửa Tam giới, để bước sang giới thanh tịnh an vui. Chỉ v́ căn cơ trí thức tánh dụng của chúng sinh không đồng mà Phật phải tùy cơ để giáo hóa. Ḷng từ bi của Phật tuy khắp tuy đồng, như ánh trăng chiếu diệu cả muôn phương, nhưng pháp môn dẫn đạo lại chia ra muôn ngàn sai khác. Biết rằng khác mà cố gắng thực hành th́ cũng đi đến chỗ đồng là đồng được giải thoát.
Phật tử chúng ta khi đối trước Tam Bảo phát nguyện quy y, là trong tâm chí ḿnh đă nảy ra một niệm hương thượng, vươn ḿnh ra ngoài bể khổ, phát tâm hướng đến con đường giải thoát, rời bỏ trần lao, đến cảnh thanh tịnh, ĺa địa vị phàm phu bước đến địa vị Chánh giác, xa đời sống ích kỹ hẹp ḥi tà vạy, tập một đời sống vị tha rộng răi chánh đáng. Do vạy, trong đời sống mới, theo con đường chư Phật chỉ dạy, phải tuân hành theo những quy luật của Phật thiết chế. Những quy luật ấy tức gọi là Giới mà hàng tại gia cũng như hàng xuất gia, ai nấy đều phải thọ tŕ, không để trái phạm.
Sau thời kỳ Chánh pháp và tượng pháp, đến thời kỳ mạt pháp cách đạo càng xa, ḷng người nguời thấp kém, một phần là v́ giới luật của hàng Phật tử không được truyền thọ phân minh, một phần nữa v́ đại đa số nghe nói giới luật Phật chế th́ sợ hăi, xem đó như một cái ǵ khắc khổ đối với người ta, là cho người ta mất hết cả tự do, đi đến chỗ hèn yếu. Biết đâu rằng lời thẳng thường khó nghe, thuốc hay thường khó uống, nên ta không thể v́ lẽ trái với thị dục phiền năo mà không giữ, hoặc sợ hăi, khinh lờn. Huống chi Phật là vị như pháp ngữ, soi thấy căn bịnh chúng sinh mà phân chia giới thành nhiều tạng, nào là Ưu-bà-tắc giới,Ưu-bà-di giới, Sa-di giới, Sa-di-ni giới, Tỷ-kheo giới, Tỷ-kheo-ni giới, Bồ-tát giới, mỗi người đều tùy trường hợp của ḿnh mà lănh thọ. Tựu trung, Phật c̣n muốn hàng tại gia có thể xuất gia trong từng thời gian ngắn để gieo nhân xuất thế về sau, nên chế định cho kẻ tại gia phép "Bát quan trai giới". Tuy thọ trong từng thời gian ngắn mà công đức vô lượng vô biên.
2. Bát quan trai giới
Bát quan nghĩa là tám cửa. Ư nói rằng tạo tác tám điều: sát, đạo, dâm, vọng... là mở cửa rộng lớn, chúng sinh từ đó mà đi vào đường tội lỗi, bị sống chết trong nẻo luân hồi ác đạo; nếu muốn giải thoát th́ phải đóng tám cửa ấy lại, nghĩa là phải diệt trừ tám điều: sát, đạo, dâm, vọng v.v. ấy đi. Diệt được tám ác pháp này là đóng kín tám cửa, không để đi đến cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đồng thời cũng tức là mở tám nẻo đường đi lên địa vị Thánh giả.
Trai nghĩa là đúng thời. Trong ba thứ ăn, mặc, ở, người thế gian thường chú trọng bao nhiêu th́ trái lại kẻ tu hành càng biết kiềm chế bấy nhiêu, miễn sao vừa đủ để giúp đỡ đường tu, phải lành xa sự đắm say luyến tiếc, nhất là sự ăn. Trong luật thường chia hai lối: ăn phải thời và ăn trái thời. Từ sớm đến trưa mà ăn là phải thời, từ trưa về tối mà ăn là trái thời. Kẻ tu hành cần y lời Phật chế, không ăn trái thời nên gọi là trai.
Giới là đều răn, điều cấm để hướng thân tâm theo con đường chánh, con đường giải thoát mà lánh xa tội ác.
Tám trai giới là:
1. Xa ĺa sự sát sinh
2. Xa ĺa sự trộm cắp
3. Xa ĺa sự dâm dục
4. Xa ĺa sự nói dối
5. Xa ĺa sự uống rượu.
6. Xa ĺa sự trang sức, hát múa và xem nghe hát múa
7. Xa ĺa sự nằm ngồi những chỗ cao tốt.
8. Xa ĺa sự ăn trái thời.
Tám điều này là cả trai và giới gồm lại. Bảy điều trước là giới, điều thức tám là trai. Ấy là "Tám trai giới" Phật chế cho kẻ tại gia được tập xuất gia trong những thời gian ngắn vậy.
3. Phép thọ "Bát quan trai giới"
Trong kinh Thiện Sinh, kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật dạy: "Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trong những ngày mồng 8, ngày 14, ngày 15 nên đến trước các vị xuất gia Đại đức cầu thọ tám trai giới, chớ để thất thời". Lại có chỗ đức Phật thêm rằng "truyền thọ phép Bát quan trai sáu ngày trong mỗi tháng là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30" (tức là lục trai mỗi tháng). Xuống đến ngày nay, luật pháp không minh, hành tŕ kém sút, nên đă từ chỗ tu tŕ nhất định đi đến chỗ phát nguyện tùy tâm. Dù sao, có c̣n hơn không. Bởi c̣n có phát nguyện, c̣n có tu tŕ, th́ thế nào cũng đến đạo quả giải thoát.
Nếu luận về ngày th́ có hai cách:
a) Phép Bát quan trai thọ tŕ chánh trong một ngày đêm (vào những ngày mồng 8, 14, 23 và 5, 18)
b) Phép Bát quan trai thọ tŕ phụ thêm ngày rước đưa (vào những ngày mồng 1, 4, 5, 6, 7, 9, 13, 16, 17, 19, 22, 24, 28).
Ngày rước ngày đưa nghĩa là hai ngày đêm trước và sau một ngày đêm chánh thọ. Bởi người tại gia thường bị bao vây trong thế duyên ràng buộc, không thể một phút một giờ có thể bỏ hẳn được, nếu không sắp đặt dứt bỏ trước để dự bị thanh tịnh trong một ngày đêm chánh thọ th́ không có lợi ích lớn. Vậy nên muốn cầu thọ "Bát quan trai giới" th́ trước một ngày đêm của ngày đêm chánh thọ, phải một ngày đêm thọ tŕ dự bị chánh giới ấy và sau một ngày đêm chánh thọ, phải một ngày đêm nữa để hoàn thành giới ấy.
Trong hai cách thọ giới "Bát quan trai" trên, cách thọ tŕ chánh phải t́m đến thọ nơi các vị xuất gia, c̣n cách thọ tŕ phụ th́ không, chỉ tự phát nguyện cũng đủ. Trong cách thọ tŕ chánh, có thể ở nhà mà vẫn hành tŕ được, nhưng phải đến thọ với người xuất gia trước đă. Nếu gặp hoàn cảnh minh tướng (b́nh minh vừa tỏ) xuất hiện mà liệu chưa đi đến người xuất gia được th́ phải đối trước tượng Phật phát nguyện thọ giới, rồi vẫn phải t́m đến người xuất gia mà thọ mới đắc giới. Khi đến thọ với người xuất gia dù muộn cũng cần bằng thọ khi minh tướng xuất hiện v́ ḿnh đă phát nguyện.
Nói tóm, thọ tŕ giới "Bát quan trai" phải 20 ngày mỗi tháng kể cả chánh thọ và phụ thọ. Nhưng ngày nay hoàn cảnh người tại gia khó bề thực hành được như thế. Vậy nên phương tiện có thể hành pháp như thế này:
a) Phải thọ mỗi tháng 3 ngày chánh như Phật chế là mồng 8, 14 và 15. Hoặc một trong những ngày ấy.
b) Phải t́m đến các vị xuất gia (Sa-di, Tỷ kheo) truyền cầu thọ giới cho. Ngoại trừ trường hợp không có các vị xuất gia hoặc có mà không cách ǵ t́m đến được, th́ tự phát nguyện trước tượng Phật mà thọ lănh giới, nghĩa là như cách "thọ tŕ phụ" mà thôi.
c) Trước khi thọ, phải một ngày đêm dự bị sắp đặt tất cả chướng duyên để đến một ngày đêm "thọ tŕ chánh" được thanh tịnh.
4. Nghi thức thọ "Bát quan trai giới"
Người thọ giới "Bát quan trai" y phục phải chỉnh tề, nghe gọi là đứng vào giữa bàn thờ Phật, theo tiếng chuông đảnh lễ ba lạy. Xong quỳ xuống, chấp tay nghe Thầy truyền giới dạy:
- Bể khổ vô biên, nếu không nương thuyền Bát nhă không thể lên bờ Giác, luân hồi nhiều nẻo, chẳng thọ tŕ tịnh giới th́ không thể được giải thoát. Chư Phật do tịnh gới mà thành Chánh giác. Đại thừa, Tiểu thừa, đồng thọ tịnh giới, thế gian hay xuất thế đều giữ tịnh giới. Nhưng tại gia Phật tử v́ trần lụy bao vây, không thể quyết chí chung thân thọ tŕ. Bởi thế, Như lai từ bi, phương tiện dạy mỗi một ngày đêm, thọ tŕ tám thứ trai giới này. Tám trai giới này công đức siếu phàm nhập thánh vượt qua ba cơi, thẳng đến Giác ngộ.
Phật tử! (Người thọ giới nói: Mô Phật)
Các người, từ vô thỉ đến nay, tạo các ác nghiệp vô lượng vô biên, nay phải chí thành, tha thiết sám hối, để cho thân tâm thanh tịnh tinh khiết, rồi mới thọ tŕ tám thứ trai giới. Vậy các người hăy đọc theo lời tôi: (Người thọ giới đứng dậy, chấp tay đọc theo).
- Đệ tử... (nói tên họ, hoặc pháp danh) từ vô thỉ đến ngày nay, gây ra tội ác, như ba nghiệp, mười ác, tà kiến v.v. nay hướng lên Tam Bảo trong khắp mười phương, cần cầu sám hối, nguyện đều trừ diệt.
(Đọc ba phen như thế. Xong, Thầy truyền giới xướng:)
Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Thường Trứ Tam Bảo (xướng ba lần, mỗi lần người thọ giới lạy một lạy. Xong, quỳ xuống, chấp tay đọc ba phen theo Thầy:)
Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham sân si,
Tử thân miệng ư phát sinh ra,
Đệ tử thảy đều xin sám hối.
(Ngựi thọ giới đứng dậy, đảnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống, chấp tay, nghe Thầy dạy).
- Phật tử! (Người thọ giới nói: Mô Phật). Đă chí thành sám hối ba nghiệp thanh tịnh rồi, vậy từ giờ này cho đến sáng mai hăy chí tâm tu tập tám thứ trai giới của Phật chế. Tám thứ trai giới là những ǵ?
Một là không được sát sinh
Hai là không được trộm cướp
Ba là không được dâm dục
Bốn là không được vọng ngữ
Năm là không uống rượu
Sáu là không trang sức hương hoa cùng phục sức đẹp, không được múa hát hay cố ư xem nghe múa hát.
Bảy là không được nằm ngồi giườong ghế cao rộng
Tám là không được ăn trái thời.
Tám thứ này, bảy giới trước gọi là giới, nghĩa là đóng bít cửa ngơ ác đạo; giới thứ tám gọi là trai, nghĩa là giống như Như lai, bứoc theo đường lối trung đạo, ăn đúng vào lúc mặt trời vừa đứng bóng. Gồm cả tám thứ giới trai, gọi là tám quan trai giới. Các người nên phát tâm vô thượng, thọ giới vô thượng ấy. Vậy các người hăy nói theo lời tôi chỉ dẫn.
(Người thọ giới nói theo Thầy truyền giới)
- Đệ tử (Người thọ giới xưng tên và pháp danh) qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Nguyện một ngày đêm sống theo tinh hạnh Ưu-bà-tắc (hoặc Ưu-bà-di nếu là đàn bà). Đức Như lai Chí Chân Chánh Biến Giác là Thế Tôn của con (Nói ba lần như thế rồi nghe Thầy dạy).
- Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Tôi đă thọ ba pháp qui y, các người hăy nói theo lời tôi chỉ dẫn (Người thọ giới nói theo Thầy truyền giới):
- Đệ tử! (Người thọ giới xưng tên họ và pháp danh) qui y Phật cảnh, qui y Pháp cảnh, qui y Tăng cảnh. Nguyện một ngày đêm sống theo tinh hạnh Ưu-bà-tắc (hoặc Ưu-bà-di nếu là đàn bà). Đức Như lai Chí Chân Chánh Biến Giác là Thế Tôn của con.
(Nói ba lần như thế, rồi đứng dậy đảnh lễ ba dạy, rồi quỳ xuống, nghe Thầy dạy)
- Đệ tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Tôi đă thọ cho các người ba pháp qui y, ba pháp cứu cánh, thế là giới thể đă viên măn rồi. Nay tôi lại nói rơ giới tướng để các người lạnh thọ giữ ǵn, không được hủy phạm. Vậy các người hăy nói theo lời tôi (Người thọ giới nói theo lời thầy truyền giới).
Như Phật Thế Tôn suốt đời không sát sinh, đệ tử... (Người thọ giới tự xưng tên họ, hoặc pháp danh) thề một ngày đêm xa ĺa sự sát sinh
Như Phật Thế Tôn suốt đời không trộm cướp, đệ tử... thề một ngày đêm xa ĺa sự trộm cướp.
Như Phật Thế Tôn suốt đời không dâm dục, đệ tử.. thề một ngày đêm xa ĺa sự dâm dục.
Như Phật Thế Tôn suốt đời không vọng ngữ, đệ tử... thề một ngày đêm xa ĺa sự vọng ngữ.
Như Phật Thế Tôn suốt đời không uống rượu, đệ tử... thề một ngày đêm xa ĺa sự uống rượu.
Như Phật Thế Tôn suốt đời không trang sức, đệ tử... thề một ngày đêm xa ĺa sự trang sức
Như Phật Thế Tôn suốt đời không múa hát và xem nghe múa hát, đệ tử... thề một ngày đêm xa ĺa sự múa hát và xem nghe múa hát.
Như Phật Thế Tôn suốt đời không ăn trái thời, đệ tử... thề một ngày đêm xa ĺa sự ăn trái thời
(Người thọ giới đứng dậy, đănh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống, nghe Thầy dạy phát nguyện)
Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Các người đă thọ tám trai giới phải phát thệ nguyện. Hết thảy việc thế gian, cho đến việc xuất thế, nếu không phát nguyện, không việc ǵ thành tựu. Vậy các người hăy chí thành phát nguyện theo lời tôi chỉ dẫn (Người thọ giới nói theo).
- Đệ tử... (Người thọ giới xưng tên họ và pháp danh) chí tâm phát nguyện, nguyện do công đức thọ giới "Bát quan trai", giải thoát ba đường, xa ĺa tám nạn, nguyện đem công đức ấy, hồi hướng cho hết thảy hữu t́nh, hoặc thấy, hoặc nghe đồng sinh Tịnh độ, đồng thấy Như lai, đồng chứng pháp nhẫn đồng chuyển chúng sinh, đồng thành Phật đạo.
(Phát nguyện xong, người thọ giới đứng dậy đảnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống nghe Thầy dạy)
- Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Các người, nếu đă thọ tám trai giới rồi, phải giữ từng như giữ tṛng mắt, trong một ngày đêm đừng có hủy phạm. Trong tám trai giới ấy, nếu phạm một giới th́ thành người bất tịnh. Tám trai giới nàylà giới rất vi diệu, làm cho nguời tại gia được xuất gia, vậy các ngươi trong suốt một ngày đêm này, phải nhiếp tâm lại, chánh tâm giữ ǵn như giữ bờ đê, không cho nước chảy, các người nhờ phước thiện đời trước, ngày nay được sinh làm người, được gặp Phật pháp, đựoc thọ tịnh giới, làm căn bản cho Giải thoát, vậy phải trân trọng, đừng nên tự khinh (Người giới đáp lại: Con xin y giáp thực hành). (Xong, đứng dậy đảnh lễ theo lời xướng sau đây, mỗi hiệu một lạy).
Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Thường Trú Tam Bảo
Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Thế tôn
Nhất tâm đảnh lễ Truyền Giới Bổn Sư
Nghi thức truyền "Bát quan trai giới" đến đây là xong. Nếu c̣n th́ giờ th́ sau khi đảnh lễ, nên niệm Phật, c̣n không có th́ giờ th́ thôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 18 of 24: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
5. Ích lợi giới "Bát quan trai"
Điểm này muốn rơ ràng mà vắn tắt, tôi trích dịch lời Phật dạy về "Bát quan trai giới" trong kinh Ưu-bà-tắc Giới để mọi người cùng rơ:
"Thiện nam tử! Nếu ai t́m người xuất gia lănh thọ ba qui y, tám trai giới (bằng cách nói ba lần) trong một ngày đêm th́ người ấy được hoàn thành trai giới Ưu-bà-tắc trong một ngày đêm".
Qua hôm sau, khi minh tướng (mặt trời mọc vào lúc sáng sớm) xuất hiện th́ giới ấy hết. Giới ấy không được tự thọ trước tượng Phật, cần phải thọ với người xuất gia. Thọ rồi căn bản thanh tịnh, cứu cánh thanh tịnh, trang nhiệm thanh tịnh, giác quán thanh tịnh, thế gọi là pháp "Ba quy y, tám trai giới thanh tịnh". Thiện nam tử! Thanh tịnh thọ tŕ Ba qui y, Tám trai giới như vậy th́ trừ diệt đước năm nghịch tội, tất cả tội lỗi khác cũng đểu tiêu diệt. Tám trai giới không được hai người cùng nói thọ một lần... Năng lực của tám trai giới này có thể làm cho các đời sau sinh ra không bao giờ làm ác... Những ai có trách nhiệm... muốn tổ chức thọ "Ba qui y và tám trai giới" này, trước hết phải yêu cầu và khuyến thỉnh địa hạt thuộc phạm vi của ḿnh... trong ngày đêm sắp thọ giới "Bát quan trai" nên đ́nh chỉ tất cả các điều ác, các h́nh phạt. Nếu thanh tịnh thọ tŕ tám trai giới như vậy, th́ người ấy sẽ được rất nhiều đều an lạc, cho đến được phước lạc tối thượng".
"Đức Di-lặc ra đời, người ta sẽ thọ tŕ tám trai giới mỗi lần một trăm năm. Không như bây giờ một ngày đêm, v́ chúng sinh bây giờ đủ cả năm thức ô trọc. Thế nên đức Phật nói với bà Lộc-mẫu rằng: "Thiện nữ! Cho đến loài vô giác như cây sa-la mà nếu thọ tŕ tám trai giới, cũng sẽ được vô lượng an lạc trong loài Người loài Trời, cho đến sẽ được sự an lạc vô thượng. Thiện nam tử! Tám giới này là chuỗi anh lạc trang sức trí-giác-vô-thượng vậy. Giới như vậy dễ thực hành mà kết quả vô lượng. Nếu dễ thực hành mà không thực hành th́ ấy là kẻ phóng dật".
6. Những điều cần ghi nhớ
* Sự sinh sống: Trong các nghề sinh sống đặc biệt là nghề buôn bán, Phật tử tại gia muốn sự sinh sống chân chánh th́ trong nghề buôn bán không nên:
1. Buôn bán khí giới.
2. Buôn bán người.
3. Buôn bán thú.
4. Buôn bán rượu.
5. Buôn ván thuốc độc.
Không những tự ḿnh không nên mà không được khuyên hay tán đồng người buôn bán năm nghề ấy.
* Những điều hại: Đây là năm điều phá hoại giới đức và sự sống chân chánh của người tại gia, người tại gia tuyệt đối phải tránh:
1. Không tin tưởng công đức Tam Bảo.
2. Phá giới đă thọ.
3. Không quyết định.
4. Chấp kẻ có tà thuật ban cho ta sự tội phước.
5. T́m phước nơi người ngoại đạo.
Ai phạm một trong năm điều ấy th́ không c̣n là người Phật tử chân chánh nữa, gọi là người đáng cho các bậc thiện trí thức bỏ rơi, xa ĺa.
* Những điều lợi: Trái lại, năm điều sau đây lợi ích cho giới đức và sự sống chơn chánh của người tại gia, người tại gia tuyệt đối phải giữ:
1. Tin chắc nơi ân đức Tam Bảo.
2. Giữ giới đă thọ.
3. Tâm quyết định.
4. Tin lư nhân quả, không tin tà thuật ngoại đạo.
5. Không xu hướng theo ngoại đạo, chỉ t́m phước nơi người tu theo Phật pháp.
Những người Phật tử tại gia giữ đúng năm điều này, th́ tức là người Phật tử cao thượng, ví như hoa sen không vấy bùn nhơ mà hương sắc kỳ diệu.
* Những điều tiến bộ đạo đức: Đây là mười đều tăng thêm, phát triển đức nghiệp cho người Phật tử tại gia. Người tại gia phải chí tâm thọ tŕ:
1. Qui y Tăng rồi th́, Tăng vui ḿnh vui, Tăng khổ ḿnh khổ.
2. Thân và khẩu thanh tịnh.
3. Lấy đạo làm gốc, nghĩa là mỗi khi làm một công việc ǵ phải noi theo đạo lư làm điều tối trọng hơn hết, không bao giờ quên.
4. Ưa thích bố thí tùy sức ḿnh, nghĩa là có ít cho ít, có nhiều cho nhiều, không để ḷng bỏn xẻn làm chủ.
5. Siêng năng trong việc học hỏi cho thấu rơ lư đạo của Phật đă truyền dạy.
6. Có chánh kiến, nghĩa là có trí tuệ thấy biết điều phải lẽ thật.
7. Tránh xa những người không có ư quyết định. Không tin kẻ tà thuật cho ḿnh hoạ phúc. Chỉ tin lư nhân quả. Làm lành được vui, làm ác phải khổ.
8. Không quên Tam Bảo: Dù gặp hoạn nạn đến nỗi nguy hại đến tánh mạng ḿnh cũng không bỏ đạo, không bỏ ḷng tin Tam Bảo mà nghe theo kẻ khác, tôn kín họ làm thầy, hoặc bảo họ là hơn Tam Bảo.
9. Muôn sự đồng ư cùng nhau.
10. Tu hành chín chắn theo Phật pháp.
Những người tại gia Phật tử hết ḷng sống theo mười đều ấy th́ làm cho sự tu hành của ḿnh mau được kết quả, cũng là hạt giống Niết-bàn được gieo trồng vậy. Tất cả những điều cần thiết trên đây là trích ở trong Luật, nhất là Luật Nam tông (Pali). Những đều này cốt dạy cho người thọ tŕ Tam qui và Ngũ giới. Nói cách khác, người qui y rồi là phải giữ đúng những điều cần ấy. Nay trích ra đây để các vị thọ giới Bát quan trai biết mà giữ, bởi lẽ thọ năm giới c̣n phải giữ huống chi thọ tŕ Tám giới dự tập xuất gia trong thời gian ngắn!
Đạo có khó mới gọi là đạo. Đạo có khó làm mới có hiệu quả lớn. Dù ở từng bực nào trong đạo, Phật tử chúng ta cũng phải cố gắng làm đúng theo đạo mới mong giải thoát, như mục đích chúng ta đi đến với đạo.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 19 of 24: Đă gửi: 02 May 2006 lúc 2:00am | Đă lưu IP
|
|
|
Nghĩa chân thật của ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’
Ḥa Thượng Tịnh Không thuyết giảng
Liễu Nhân sưu tập và ghi chép, Cư sĩ Truyền Tịnh giảo chánh
Dịch theo bản in của Tịnh Tông Học Hội Los Angeles,
*******
1. Ư nghĩa chân thật của ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’
Các bạn đồng học:
Chào các bạn, thầy Ngộ Đạo gởi đến câu hỏi của một vị đồng tu ở trường Đại học Lư Công, Nam Kinh như vầy:'Gần đây có người rao truyền ‘Bổn Nguyện Niệm Phật' chẳng y chiếu những lời dạy trong Tịnh Độ Tam Kinh, chẳng cần tin, chẳng cần phát nguyện, và cũng chẳng cần niệm Phật đều có thể văng sanh”. Nhiều bạn đồng học chưa hiểu sâu vào [giáo nghĩa] Tịnh Tông nghe xong rất hoang mang’, xin pháp sư từ bi giảng giải.
Đây đích thật là một vấn đề rất nghiêm túc và quan trọng, nếu giải thích lệch lạc vấn đề này th́ có thể dẫn dắt rất nhiều đồng tu lầm đường, lạc lối, đánh mất cơ hội niệm Phật văng sanh ngay trong đời này của họ, những người rao truyền lời nói này phải gánh chịu trách nhiệm nhân quả. Trong kinh nói nhất định sẽ đọa địa ngục A Tỳ! Bốn chữ ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’ chẳng sai, nhưng họ giải thích ư nghĩa của nó sai hoàn toàn. Trước khi nhập diệt đức Phật biết rất rơ t́nh huống trong xă hội hiện tại của chúng ta, rơ ràng vô cùng. Trong chương Thanh Tịnh Minh Hối của kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói: 'Tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng'. Những lời trong kinh này là nói về đời hiện tại của chúng ta -- đời pháp nhược ma cường, chúng sanh nhận giả mà chẳng nhận thiệt, chịu nghe lời gạt mà chẳng chịu nghe lời khuyên!
Các vị đồng học Tịnh Tông chúng ta phải học theo đức Phật, đức Phật có tâm nhẫn nại chờ đợi những người này. Tôi cảm thấy nhiều người trong nhóm đồng học chúng ta có nhiệt tâm hơn đức Phật, họ nôn nóng muốn độ hết thảy chúng sanh đến Tây phương Cực Lạc thế giới. Nhưng quay đầu lại và thiệt ḷng phản tỉnh coi tự ḿnh có thể văng sanh được hay chăng? Tự ḿnh chẳng có khả năng được độ mà muốn độ người khác! Trong kinh thường nói câu: 'không có chuyện này!’ (vô hữu thị xứ!), mọi người thường nghe câu này, nghe đến thuộc ḷng luôn. 'Phật không độ người vô duyên', chúng ta phải hiểu những người này chẳng có duyên với Phật, chẳng có duyên nghĩa là không tin. Không tin vào những lời dạy trong Tịnh Độ Tam Kinh, không thể y giáo phụng hành, mà lại nghe những lời rao truyền này, đây tức là chẳng có duyên với Phật, trong đời này họ nhất định chẳng thể thành tựu.
a. Bổn nguyện là ǵ?
Bổn nguyện rốt cuộc là ǵ?
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập th́ chúng ta niệm Phật y theo ‘Bổn Nguyện’. Bạn hăy xem khóa tụng hằng ngày của Tịnh Tông chúng ta, khóa sáng th́ niệm bốn mươi tám lời nguyện, khóa tối sám trừ nghiệp chướng. Nếu chẳng sám trừ nghiệp chướng th́ nhất định không thể văng sanh. Tuy pháp môn này nói ‘đới nghiệp văng sanh’, các vị Tổ sư đại đức xưa nay đă nói đến rất nhiều 'chỉ mang theo nghiệp cũ, chứ không mang theo nghiệp mới’. Những nghiệp mà bạn đang tạo hiện nay th́ không thể mang theo, chữ ‘đới’ nghĩa là ‘đem theo, mang qua bên đó’; việc sai lầm trong quá khứ không sao, hôm nay sửa cho đúng lại. Câu‘không kể quá khứ, chỉ luận hành vi hiện nay' là nguyên lư và nguyên tắc của đới nghiệp văng sanh. Bây giờ vẫn tiếp tục tạo nghiệp th́ chẳng thể văng sanh, nhất định phải hiểu đạo lư này.
Bổn nguyện, có người nói bổn nguyện là nguyện thứ mười tám, nhưng phần đông nhiều người không hiểu rơ nghĩa thú! Nguyện thứ mười tám hàm nhiếp hết thảy bốn mươi bảy nguyện kia một cách rốt ráo viên măn, thiếu một nguyện trong bốn mươi bảy nguyện kia th́ nguyện thứ mười tám sẽ không viên măn. Vị ‘đại đức’ rao truyền ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’ có hiểu đạo lư này hay không?
Bất cứ một nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện đều hàm nhiếp bốn mươi bảy nguyện kia một cách rốt ráo viên măn, nguyện nào cũng như vậy cả. Tuy chúng tôi chưa giảng xong kinh Hoa Nghiêm nhưng mọi người cũng đă nghe kinh chẳng ít. Trong câu‘một tức là nhiều, nhiều tức là một’ (nhất tức thị đa, đa tức thị nhất) của kinh Hoa Nghiêm th́ 'một và nhiều là không hai’ (nhất đa bất nhị) mà! ‘Một tức là hết thảy, hết thảy tức là một’ (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất), người đó có hiểu không? Bổn nguyện niệm Phật là ‘một tức là hết thảy’, cho nên công đức của bổn nguyện rất thù thắng; tuyệt đối chẳng phải nói ‘chỉ dựa vào nguyện thứ mười tám mà thôi, bốn mươi bảy nguyện kia không cần nữa’; nếu bốn mươi bảy nguyện kia đều không thực hiện được th́ nguyện thứ mười tám cũng không làm được luôn. Nguyện thứ mười tám là ǵ? Nguyện thứ mười tám là tổng cương lănh của bốn mươi bảy nguyện kia. V́ vậy lời rao truyền này là của ma thuyết pháp chứ chẳng phải của Phật.
Trước khi nhập diệt đức Phật dạy chúng ta ‘Tứ y pháp’, thứ nhất là ‘Y pháp bất y nhân’. Pháp là ǵ? [Pháp là kinh điển] Kinh Vô Lượng Thọ là kinh đầu tiên của Tịnh Tông. Đời Đông Tấn, Huệ Viễn đại sư xây dựng đạo tràng niệm Phật đầu tiên ở Lô Sơn – Đông Lâm Niệm Phật Đường, những đồng tu có cùng chung chí hướng và đạo tâm gồm có một trăm hai mươi ba người. Lúc đó kinh điển Tịnh Tông chỉ có kinh Vô Lượng Thọ, các kinh kia chưa được phiên dịch. Những người trong đạo tràng Lô Sơn đều y theo kinh này, một trăm hai mươi ba người này đều văng sanh một cách vững vàng, thích đáng. Đạo tràng này vô cùng thù thắng, trang nghiêm, chúng ta phải đi theo đường của người xưa, kế thừa [sự nghiệp của] người xưa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Toithichhoc Hội viên

Đă tham gia: 25 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 157
|
Msg 20 of 24: Đă gửi: 02 May 2006 lúc 2:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Gần đây Ấn Quang lăo pháp sư là người cuối đời nhà Thanh đầu thời Dân Quốc, rất nhiều đồng tu đều biết. Ngài là hóa thân của Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai. Chúng ta chẳng có dịp được gặp lăo pháp sư, nhưng Văn Sao của Ngài vẫn c̣n lưu truyền trong thế gian, [chúng ta] nên đọc tụng kỹ càng, y giáo phụng hành. Ngày nay con đường chúng ta đi là kế thừa Ấn Quang đại sư. Thầy tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, thầy là học tṛ của Ấn Quang đại sư, cả đời thầy làm theo lời dạy của đại sư. Tôi thân cận học hỏi thầy Lư được mười năm, thầy không dám đảm đương vai tṛ của thầy giáo, thầy giới thiệu cho tôi một người thầy. Người thầy này là ai? Tức là thầy của thầy Lư, Ấn Quang đại sư. Do đây có thể biết thầy Lư có đức hạnh, học vấn, và vô cùng khiêm tốn! Thầy dạy tôi phải hết ḷng phát tâm đọc tụng Văn Sao và y giáo phụng hành, được vậy [mới xứng đáng] làm đệ tử của Ấn Quang đại sư.
Tôi khuyên hết thảy các vị đồng tu ở khắp nơi noi theo kinh Vô Lượng Thọ và làm đệ tử của A Di Đà Phật một cách gọn tắt, ổn đáng. Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập kinh Vô Lượng Thọ, nếu cụ Hạ không phải là A Di Đà Phật tái lai th́ phải là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai, nếu không th́ chẳng thể hội tập bộ kinh này được hoàn hảo như vậy. Chúng ta biết ông Vương Long Thư hội tập lần đầu tiên vào triều nhà Tống, ông Ngụy Mặc Thâm hội tập lần thứ hai vào triều nhà Thanh, cả hai đều không hoàn hảo! Thời mạt pháp đích thực có nhu cầu phải hội tập kinh này nên cảm được Phật, Bồ Tát đến thị hiện. Quư vị không tin, nhưng tôi tin; ai tin th́ được lợi ích. Chúng ta biết được những người y chiếu lời dạy trong bản kinh này để tu hành và khi văng sanh có tướng lành trong những năm gần đây rất nhiều, những người chúng ta được nghe nói đến càng nhiều hơn. Nếu các bạn chẳng tin mà cứ nghe theo lời [rao truyền] của người ta th́ không c̣n cách nào để nói nữa?
Ngày nay trong thời đại dân chủ tự do, rộng mở, ai cũng không có quyền can thiệp người khác, thế th́ phải coi duyên phần của chúng ta với đức Phật A Di Đà sâu hay cạn. Chúng ta đọc bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, không cần hỏi lăo cư sĩ là người như thế nào, không cần như vậy. Hăy coi bản hội tập của ngài đúng như pháp hay không? Chúng ta phải xây dựng ḷng tin từ điểm này, chẳng phải mê tín, chẳng phải mù quáng. Tôi đă in năm bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ và bốn bản hội tập chung thành một cuốn và đề tên sách là ‘Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bổn’; trước sau đă in hết hai, ba vạn quyển. Chư vị đồng tu hăy tự xem và so sánh, để quư vị xây dựng ḷng tin vững chắc bằng cách này. Sau đó quư vị hăy quán sát kỹ số người noi theo [lời rao truyền] ‘Bổn Nguyện Niệm Phật’ mà văng sanh được bao nhiêu người? Họ có tướng lành ǵ chăng?
b. Chẳng phát nguyện th́ niệm Phật không thể văng sanh.
Kinh Vô Lượng Thọ dạy rất rơ ràng, điều kiện căn bản của ba bậc văng sanh là: 'Phát Bồ Đề tâm, một hướng chuyên niệm', làm sao có chuyện chẳng phát nguyện mà có thể văng sanh được? Không có đạo lư này! ‘Chẳng phát nguyện, niệm Phật’ người xưa có nói: 'Cho dù mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, chẳng phát nguyện th́ hét bể cuống họng cũng uổng công mà thôi!'
Tại sao vậy? Bạn chẳng chịu văng sanh mà!
Tâm nguyện văng sanh, buông xuống vạn duyên tức là tâm Bồ Đề.
Trong Yếu Giải, đại sư Ngẫu Ích đă dạy chúng ta: ‘Nếu muốn văng sanh tăng cao phẩm vị, nhất định phải có tâm giống như tâm Phật, nguyện giống nguyện của Phật, hạnh giống hạnh của Phật’. Tâm chẳng giống tâm của A Di Đà Phật, nguyện cũng chẳng giống nguyện của A Di Đà Phật, hành vi cũng chẳng giống A Di Đà Phật, cho dù bạn văng sanh th́ phẩm vị cũng rất thấp; huống chi là bạn không thể nào văng sanh được! Chúng ta phải nhớ kỹ nghe!
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phu nhân Vy Đề Hy cầu sanh Tịnh Độ, thỉnh giáo đức Phật Thích Ca:
‘Con phải tu học như thế nào mới có thể văng sanh Cực Lạc thế giới?’
Trước khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải phương pháp tu học cho bà, Ngài đă giảng rơ ‘Tịnh Nghiệp Tam Phước’, giảng rơ cho chúng ta đây là 'Chánh nhân Tịnh nghiệp của ba đời chư Phật'. Nói một cách khác bất luận Phật quá khứ, Phật hiện tại, hay Phật tương lai, hết thảy những người tu hành thành Phật đều xây dựng trên cơ sở, nền tảng này, nếu không có cơ sở này th́ chẳng kể họ ráng sức tu hành ra sao đều không thể thành tựu. Cũng như việc xây nhà, đây là nền móng. Hai câu đầu trong cơ sở này là: ‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng’, người Trung Quốc thường dùng danh từ: ‘hiếu thân tôn sư’. Mọi người ở Tây phương Cực Lạc thế giới đều là người con có hiếu nhất, đều là học sinh giỏi nhất. Trong kinh Vô Lượng Thọ xưng họ là ‘đệ tử hạng nhất của Như Lai’! Làm sao có chuyện ‘chẳng phát nguyện’ này? Việc này hoàn toàn sai lầm! Những người có đầu óc sáng suốt một chút đều có thể phân biệt và nhận ra. Nếu ngay cả việc này cũng không thể nhận ra sự khác biệt, sự học Phật của chúng ta đều là vô ích, nghe giảng kinh bao nhiêu năm nay cũng luống uổng, vô ích! ‘Tịnh Nghiệp Tam Phước’ tức là hạnh của Phật – Hành vi của chư Phật Như Lai được thể hiện trong sanh hoạt thường ngày. Tam Phước, Lục Ḥa, Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện đều là sự hành tŕ của chư Phật. Chúng ta đă làm được chưa? Tôi thường khuyên các vị đồng tu khi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác phải đối chiếu với năm khoa mục này, nếu tương ứng, phù hợp th́ hạnh của quư vị là chánh hạnh; nếu không tương ứng th́ hạnh của quư vị là tà hạnh, tà hạnh chẳng thể văng sanh được đâu!
Cho nên chúng tôi biên soạn năm đề mục của Tịnh Tông thành cuốn sách nhỏ gọi là ‘Nguyên tắc tu hành’, đây là nguyên tắc chúng ta nhất định phải tuân theo trong đời sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật hằng ngày, nhất định chẳng thể làm trái ngược. Nếu làm trái ngược th́ niệm Phật, phát nguyện cũng không thể văng sanh. Tại sao vậy? Nguyện này của bạn là nguyện giả, nguyện suông, không thực tế. Khi chúng ta phát nguyện hồi hướng, bạn lấy ǵ để hồi hướng? Nói suông, hồi hướng suông th́ không được, bạn phải dùng những ǵ thực tế để hồi hướng. Thực tế là ǵ? Thực tế là tu hành chứng quả, đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ. Đây là công đức tu hành chân thật của ḿnh, ḿnh phải dùng cái này để hồi hướng. Hôm nay bạn không phát nguyện và cũng không niệm Phật, làm sao bạn có thể văng sanh cho được?
c. Đời mạt pháp, tà sư nhiều như cát sông Hằng.
‘Đồng tu Tịnh Tông nghe xong khởi lên rất nhiều nghi vấn’, những người này vô tri, ngu muội, là những người đáng thương! Giống như mấy năm trước đây ông Trần Kiến Dân ở Mỹ đă tuyên bố khắp thế giới rằng: ‘đới nghiệp không thể văng sanh’, làm những người niệm Phật khắp thế giới vô cùng phân vân, thắc mắc. Đó là ma, không phải là Phật đâu! Ngay cả những vị như lăo cư sĩ Châu Tuyên Đức cũng lung lay ḷng tin. Khi tôi đến Los Angeles ông ra phi trường đón tôi, vừa gặp mặt liền hỏi: ‘Pháp sư, hiện nay có người nói: ‘đới nghiệp không thể văng sanh’, phải ‘tiêu nghiệp mới có thể văng sanh’, vậy th́ phải làm sao?’.
Tôi bèn nói với ông: ‘Không văng sanh th́ thôi!’.
Ông nghe xong lời này vô cùng hoang mang; tôi nh́n ông đờ cả người, đứng đó nói chẳng nên lời. Tôi nói:
‘Nếu không đới nghiệp, th́ Tây phương Cực Lạc thế giới chỉ có đức Phật A Di Đà cô độc một ḿnh trên đó, ông c̣n lên đó làm ǵ?’
Ông vẫn c̣n chưa hiểu, tôi mới nói thêm:
‘Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát đều là Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn c̣n một phẩm Sanh Tướng vô minh chưa phá trừ, như vậy có phải là đới nghiệp hay không?’.
Nghe xong ông mới tỉnh ngộ -- Quán Âm, Thế Chí đều đới nghiệp, chỉ có một ḿnh A Di Đà Phật là chẳng đới nghiệp mà thôi.
‘Nhưng trong kinh chẳng có nói ‘đới nghiệp văng sanh’?’
Tôi trả lời: ‘Trong kinh có nói đến bốn cơi, ba bậc, chín phẩm hay không?’
‘Có!’
‘Nếu không đới nghiệp th́ mọi người đều b́nh đẳng, vậy th́ đâu có ba bậc, chín phẩm phải không?’
Đây là lời đức Phật dạy chúng ta: 'Noi theo nghĩa chứ không noi theo lời nói', tuy đức Phật chẳng có nói ‘đới nghiệp văng sanh’, [nhưng] có nói đến ba bậc, bốn cơi, chín phẩm, vậy th́ ư tứ của chữ đới nghiệp đều nằm trọn trong đó rồi. Bạn đem theo nghiệp nhiều th́ phẩm vị của bạn thấp; bạn đem theo nghiệp ít th́ phẩm vị của bạn sẽ cao. Đâu có đạo lư chẳng đới nghiệp!
Người học Phật phải khai mở trí huệ, tại sao có thể vừa nghe người ta nói hai ba câu th́ lung lay ḷng tin liền, mê hoặc điên đảo như vậy? Bạn nói người như vậy có đáng thương hay không? Niệm Phật suốt cả đời, bảy tám chục tuổi rồi, vừa nghe lời đồn đăi của người ta th́ lung lay niềm tin, thiệt là đáng thương quá! V́ vậy nên đức Phật dạy chúng ta: 'Y pháp chứ đừng y theo người’, ‘Y nghĩa chứ không y theo lời nói', pháp là kinh điển; kinh điển của Tịnh Tông là năm kinh, một luận, phải hiểu lời dạy của Ngài.
‘Bổn nguyện niệm Phật’ có sai không?
Không sai!
Vậy th́ ‘bổn nguyện’ là ǵ?
Năm kinh, một luận là bổn nguyện, bốn mươi tám nguyện là bổn nguyện của đức Phật A Di Đà, rút một câu trong đó ra th́ không được! Rút ra bất cứ một câu nào trong đó, nếu bạn hiểu được ‘một tức là nhiều’, một câu tức là toàn bộ năm kinh và một luận, nếu bạn có công phu đến mức này th́ có thể hiểu như vậy, có thể như vậy. Nếu không có công phu đến mức này th́ hăy ngoan ngoăn, thực thà theo thứ tự mà bước đi từ từ, học tập theo thứ lớp đàng hoàng, được vậy bạn sẽ thành công. Hễ không đúng như pháp, giải sai, lệch lạc ư nghĩa của bổn nguyện niệm Phật th́ đều là ma hết; ma sợ bạn thành tựu ngay trong một đời này nên mau mau kéo bạn trở lại, đẩy bạn vô địa ngục A Tỳ xong th́ ma mới vui! Được rồi, tôi giải thích vấn đề này cho các bạn đến đây thôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|