Msg 132 of 283: Đă gửi: 29 March 2007 lúc 3:41am | Đă lưu IP
|
|
|
Trang 50 - 53
của người có số hay không tức là Thiên Mă ở Dần phải của
người tuổi Mộc và Thiên Mă ở Thân phải là người tuổi Kim mới đắc cách.
Biết rằng Thiên Khốc là Âm Kim phải đi theo chiều nghịch th́
chỉ có người tuổi âm mới là thuận cách v́ Thiên Khốc được đứng trong tam hợp
tuổi này (ṿng Thái Tuế) nhất là hai tuổi Măo Dậu, Thiên Khốc đóng cặp sát nách
với Thái Tuế. Hai vị trí này đưa thanh thế của người danh chính ngồn thuận của
người có tư cách không hèn có tài diễn thuyết khuất phục được chúng nhân. C̣n
các Dương cung tức là các tuổi Dương, Thiên Khốc đứng ở thế thường xuyên trái
nghịch với Thái Tuế, phải nhờ nghị lực của Thiên Mă trợ giúp như hai cung Tư
Ngọ, sở dĩ kén Tư Ngọ v́ không có Hư đồng cung với Tuế Phá (Lănh tụ đối lập).
C̣n Thiên Hư không bao giờ xa cách Tuế Phá là tư cách của
người ôm hận, bất măn nên trong số bao giờ cũng sắp sếp cho có Thiên Mă để làm
việc.
Vậy Khốc – Hư là tư cách của bại tinh và chỉ hành hiệp được
ở bốn cung Tư Ngọ (lănh tụ đối lập) và Măo Dậu riêng cho Thiên Khốc được danh
chánh mà thôi.
TUẦN - TRIỆT
Tuần Triệt trong tử vi, từ cổ xưa đến nay không thấy sách
nào nói đến cái sứ mạng rành mạch của hai sao này làm việc, mà xem ra nó lại có
một nhiệm vụ như khá quan trọng trong cách phán quyết của nó, nay tôi chỉ xin
tŕnh bày một ít ư kiến gọi là phân tách kinh nghiệm của tôi.
Nh́n vào vị trí của hai sao này đónh ở Thiên Bàn, Triệt theo
hàng Can của tuổi ấn định vị trí hai tuổi một chỗ đứng tức là có 5 vị trí cho
10 Can
TRIỆT
|
TRIỆT
|
TRIỆT
|
|
|
TRIỆT
|
|
|
|
TRIỆT
|
|
Tuổi GiápKỷ Triệt ở Thân Dậu
- Ất Canh Ngọ
Mùi
- Bính Tân Th́n,
Tỵ
- Đinh Nhâm Dần
Măo
- Mậu Quư Tư
Sửu
Chỉ c̣n lại hai cung Tuất Hợi là không có Triệt.
Thấy rằng Triệt ở Thân Dậu nghĩa là phân chia ranh giới giữa
hai cung Dương và Âm của hai tuổi Giáp (Dương) và Kỷ (Âm) th́ anh hưởng tất
nghiêng về tuổi đương số Giáp (Dương) hay Kỷ (Âm) để khép khín lại có nghĩa là
chặn đứng theo chiều thuận hay nghịch, cắt ngang mọi liên lạc nên mới có nghĩa
là Triệt Lộ và cũng v́ thế tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng (chưa rơ chữ) (Tất cả hung dữ chiếu lại
đều được b́nh an) v́ Triệt đă khép kín cửa, quân trộm cắp chỉ c̣n nước đứng
ngoài đường. Phần ở trong có những ǵ phải th dọn xáo trộn cảnh trí là cảnh nhà
gặp lúc biến bị phong tỏa v́ một lẽ ǵ tịch hiện nay tẩy uế thiếu vệ sinh.
C̣n Tuần chiếm nhiệm cả 5 vị trí như của Triệt và thêm một
vị trí giữa Tuất Hợi nghĩa là 6 vị trí đều nhau. Mỗi vị trí đều đứng với một
con giáp trên và một con giáp dưới. Như tuổi Giáp Ngọ th́ Tuần đóng ở Th́n Tỵ
tức là sau Giáp Ngọ và đầu Giáp Th́n có nghĩa là cây cầu bắc nối hai con giáp
để luân chuyển thời gian bất tuyệt. Vậy Tuần chỉ là cái gạch nối 2 quăng thời
gian hai con Giáp (Tuần Không) như một cái xe đang chạy ngon trớn gặp cây cầu
bắc nối hai bờ sông, tất nhiên xe phải siết thắng bớt tốc độ để lên cầu qua
sông.
Xin định nghĩa Triệt là Triệt Lộ không vong là phong tỏa
khép kín cắt đứt liên lạc, là cái thắng trước của xe. C̣n Tuần là Tuần trung
không vong là cây cầu nối tiếp giữa hai đoạn là ḱm hăm bớt từ từ, lâu dài, cầm
chừng là cái thắng sau của xe.
Hai cái đó đều có nghĩa là không. Cái “không” của Triệt là
tan nát biến thể thành không, cái không của Tuần là trung gian kiềm chế không
cho phép quá trớn cũng là không.
Một vài trường hợp của Tuần Triệt như đóng ở Mệnh làm thí
điểm, điều chính yếu là phải phân biệt âm dương để biết mức độ nặng nhẹ. Dương
nhân theo chiếu thuận là đến cung Dương đụng ngay Triệt. Người Âm theo chiều
nghịch là đến cung Âm bị Triệt chặn ngang th́ ảnh hưởng đương đầu phải là nặng
quá bán (70%). Trường hợp vận hành cũng vậy, cung trước là đường giao thông đi
tới đèn đỏ trước mặt cung sau là quăng đường đă vượt qua đèn.
Mệnh bị Triệt đời phải chịu nhiều khó khăn lúc niên thiếu,
bị Tuần th́ luôn luôn bị trục trặc ḱm hăm lúc bắt tay thực hiện công việc. Nếu
bị cả Tuần lẫn Triệt th́ đời bị vùi xuống đất đen, không phải là Tuần Triệt phá
nhau cho đương số được thong thả.
Trường hợp Tuần – Triệt phá nhau như sau:
a) Mệnh
có một Triệt hay một Tuần khi gắp đại vận gặp Tuần hay Triệt là đương nhiên
người đợc thỏa măn, chỗ này cái nọ tháo gỡ cái kia.
b) Thân
bị một Triệt nếu gắp Tuần sơm quá không tháo nổi, phải đến ngoài 30 tuổi trở đi
mới thành công.
c) Mệnh,
Thân bị cả Tuần lẫn Triệt tức là không c̣n ǵ để tháo gỡ, ngay khi đến đại vận
tam hợp tuổi ảnh hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa măn 50% là tối đa.
d) Ba
trường hợp trên người Dương đóng cung Dương, người Âm đóng cung Âm bị Triệt hay
Tuần đương đầu.
e) Người
Dương đóng cung Âm, người Âm đóng cung Dương có Triệt hay Tuần khi đại vậ gặp
Tuần hay Triệt (Nghĩa là bị Triệt gặp Tuần, bị Tuần gặp lại Triệt) thời vận tốt
mở làm hai lần chậm chậm ở hai cung đại vận gặp Tuần hay Triệt ở giữa.
Trường hợp Thiên Mă đóng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi như ở mục
Thiên Mă đă nói.
Mă ở Dần phải là người tuổi Mộc mới làm chủ và sử dụng nó
thành công. Mă ở Tỵ cho người Hỏa mệnh, Mă ở Thân của người Kim mạng, Mă ở Hợi cho người Thủy, Thổ mạng. Bốn con Mă
này bị Triệt là con Mă què, ngựa ăn hại, nếu gặp Tuần lại là trường hợp đắc
dụng.
Biết rằng Tuần là cây cầu bắc nối 2 giai đoạn đường đời, 2
vị trí
a) Th́
Thiên Mă ở Dần bị Tuần lại là Ngựa chiến của người Hỏa Mệnh.
b) Th́
Thiên Mă ở Tỵ bị Tuần lại là Ngựa bạch của người Kim Mệnh.
c) Th́
Thiên Mă ở Thân bị Tuần lại là Ngựa ô của người Thủy Mệnh.
d) Th́
Thiên Mă ở Hợi bị Tuần lại là Ngựa ăn no của người Mộc Mệnh.
Tuy nhiên trước khi Mă đắc dụng phải chùng bước th́ mới nhảy
thành công.
TƯ THẾ CỦA TỪNG NHÓM
TINH ĐẨU
Ở phần phân tách luận đoán, việc đầu tiên đem tử vi chia
thành Lưỡng nghi, Lưỡng nghi phân ra tứ tượng, rồi tuần tự ra bát quái v.v..
th́ thấy đâu là phe phái và phản ứng khi
chúng gặp nhau
Cũng như một gia đ́nh có nội ngoại, con cháu sau này ngày
một sanh sản ra xa lẫn nhau, sự phân biệt vẫn là nội hay ngoại khiến sự sinh
khắc, chế hóa nặng hay nhẹ là cùng phe hay khác phái
__________________ Hello
|