Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 220 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Linh Tinh (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Linh Tinh
Tựa đề Chủ đề: Cội nguồn văn minh thế giới ở đâu Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 61 of 110: Đă gửi: 16 May 2004 lúc 9:59am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Sáng nay v́ bận rộn công việc nên tôi chỉ xem lướt qua. Bài của bạn Pháp Vân đưa lên rất có giá trị tham khảo. Nhưng tôi c̣n có một số điểm chưa thật thông với luận điểm của ông Trần Đại Sỹ.
Tuy nhiên; thực sự là những công tŕnh của ông Trần Đại Sỹ rất giá trị nếu như có sự sắp xếp; chọn lọc.       
Tôi hy vọng những tư liệu của ông do bạn Pháp Vân đưa lên sẽ làm sáng tỏ nhiều việc.
Cảm ơn Pháp Vân và quí vị.
Thiên Sứ

Sửa lại bởi ThienSu : 16 May 2004 lúc 10:15am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 62 of 110: Đă gửi: 24 July 2004 lúc 6:49am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Kinh gửi các bạn quan tâm cội nguồn văn hoá dân tộc,


TRUYỀN THUYẾT SƠN TINH VÀ THỦY TINH

Đă là người Việt, giù ở đâu th́ chúng ta đều được nghe kể chuyện truyền thuyết Sơn tinh và Thủy tinh.
Hiện nay tại huyện Từ Liêm có ngôi đền cổ gọi là Quán cũ thờ Tản Viên Sơn Thánh và hai người em kết nghĩa là Cảm Hóa Đại Vương và Minh Trạc Đại Vương.
Đến nay trong đền vẫn c̣n giữ được đôi câu đối:

"Bách Việt sơn hà lưu chính khí,
Tam vương uy phúc giáng linh từ"
(Lược theo NHỮNG VỊ THẦN ĐƯỢC THỜ Ở HÀ NỘI - Tác giả Vũ Thanh Sơn. NXBHN-2004, Tr 28)

Truyện kể vào đời vua Hùng Vương thứ 18, nhà vua có một người con gái tên là Mỵ Nương. Mỵ Nương đến tuổi trăng tṛn, vua cha kén rể. Cùng lúc có hai người là Sơn Tinh và Thủy Tinh, ngang tài ngang sức không ai hơn ai. Thấy thế Vua liền ra lễ vật và hạn: Sáng sớm ngày mai, ai có voi chín ngà, gà chín cựa và ngựa chính hồng mao mang lễ trước th́ Ta gả công chúa cho.

Sáng sớm tinh mơ, Sơn Tinh nhờ có sách ước, đă đem lễ vật đến trước nên đón được Mỵ Nương về làm vợ.
Thủy Tinh đến sau lại không có lễ vật “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chính hồng mao ” thật mà là hàng giả - Sơn Tinh không lấy được Mỵ Nương liền nổi giận lôi đ́nh, hóa cơn sớm sét mưa gió đuổi theo Sơn Tinh bằng cách dâng nước. Nhưng nước dâng tới đâu th́ Sơn Tinh hóa núi cao tới đấy. Bị thua, thế là hàng năm Sơn Tinh trả thù bằng cách hóa mưa gió trên thượng ngàn đổ nước xuống đồng bằng sông Hồng.

Truyền thuyết muốn hay ẩn sử ? Phải chăng đây cũng là mật ngữ lưu truyền của Tổ tiên thầm nhắn nhủ con cháu phải giữ ǵn sách ước của Sơn Tinh. V́ sao vua Hùng lại đ̣i lễ vật: “Sáng sớm ngày mai, ai có voi chín ngà, gà chín cựa và ngựa chính hồng mao mang lễ trước th́ Ta gả công chúa cho.”

Xin thử giải mă:

1/ Voi chín ngà là Bát quái Tiên thiên
<=> Cộng số Tiên thiên đối Tâm và trung cung sẽ thành 9 ngà.

2/ Gà chín cựa là Hà Đồ
<=> V́ số 9 ở cung Đ̣ai (số 9 tứ chính Dậu)

3/ Ngựa chín hồng mao là Lạc Thư
<=> V́ số 9 ở cung Ly (số chín tứ chính Ngọ)

Th́ ra vua Hùng Vương thứ 18 của nước Việt chúng ta quá siêu đẳng. Ngài biết được rằng phải chọn ai để giữ được Mệnh nước sau này.

Cảm ơn các bạn quan tâm hướng về cội nguồn dân tộc.
Pháp Vân
      
     


Sửa lại bởi phapvan : 24 July 2004 lúc 6:57am
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 63 of 110: Đă gửi: 24 July 2004 lúc 8:05am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Đức Tản Viên Sơn thánh là một trong tứ trụ Thiên Vương hộ quốc của người Việt. Theo truyền thuyết Ngài lấy Ngọc Hoa công chúa. Sau đó; Ngài đă khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán và triều đ́nh rút lên Tây Bắc. Sự tích "Tản Viên Sơn thánh" là một truyền thuyết riêng về một vị thần hộ quốc. "Sơn tinh Thuỷ tinh" là một truyền thuyết riêng. Mặc dù cả hai truyền thuyết này cùng có xuất xứ từ cuối thời (hoặc đời) Hùng Vương thứ 18và cùng có mầu sắc thần thoại. Nhưng không liên quan với nhau về nội dung.
Theo sở ngộ của tôi:
Sở dĩ Ngài được phong làm một trong tứ trụ Thiên Vương hộ quốc v́ công lao ǵn giữ những tinh hoa văn hoá Việt. Tôi cho rằng: Những di sản văn hoá dân gian truyền thống của người Việt c̣n lưu truyền ; ẩn chứa những mật ngữ /Ch́a khoá mở cánh cửa bí ẩn của văn hoá Đông Phương/ là do Ngài sắp đặt.
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm góp ư của quí vị.
Thiên Sứ
--------------
Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua...
Ḥn vong Phu. Nhạc sĩ Lê Thương.

Sửa lại bởi ThienSu : 24 July 2004 lúc 10:15am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 64 of 110: Đă gửi: 24 July 2004 lúc 10:40am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Kính thưa quí vị!
Truyền thuyết c̣n lưu lại có xuất xứ thời gian từ cuối đời (hoặc thời) Hùng Vương thứ 18 có ba chuyện nối bật là:
*Truyền thuyết Đầm Nhất Dạ.
*Truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ tinh.
*Truyền thuyết về Ngài Tản Viên Sơn thánh.
Với quan niệm phản khoa học cho rằng thời Hùng Vương chỉ tốn tại từ thế kỷ thứ V hoặc thứ VII trước công nguyên. Những học giả và nhà nghiên cứu ủng hộ quan niệm trên đă gán ghép một cách chủ quan cho rằng 18 thời Hùng Vương gồm 18 người làm vua. Bởi vậy để giải quyết mâu thuẫn có 3 truyền thuyết có xuất xứ từ thời (hoặc đời)Hùng Vương thứ 18. Họ đành nhét "3 trong 1" y như cách quảng cáo của dầu gội đầu Choise. Tức là:
Chử Đồng Tử lấy người chị; Tản viên Sơn thánh và Sơn tinh là một người lấy người em. Híc! Nhưng họ ko thể giải thích được trong truyền thuyết Sơn tinh thuỷ tinh đă khẳng định "Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái duy nhất là Mỵ Nương". Chính v́ Duy nhất chỉ có một nên mới tranh nhau và làm nên nội dung câu chuỵện truyền ngôi chấm dứt triều đại Văn Lang. Hic! Bùn wá!
Bi wờ /theo quan điểm lịch sử mới về thời Hùng Vương vốn được "cộng đồng quốc tế công nhận"/ th́ truyền thuyết này có lẽ phải sửa lại là:
Vua Hùng Vương thứ 18 có hai cô con gái. 1 đă gả cho Chử Đồng Tử c̣n lại duy nhất có một người là Mỵ nương. Nếu vậy th́ khi uưnh nhau phải có thêm đoạn: Sơn Tinh và Vua Hùng gọi Chử Đồng Tử về hợp sức uưnh nhau với Thuỷ Tinh (Ngài Chử Đồng tử cũng có phép mừ).
và cũng chả cần phải thách cưới: Voi chín ngà gà chín cựa...làm ǵ; chỉ cần một cuộc chạy thi 100 mét. Thằng nào về trước sẽ mần Pḥ mă. Híc!
Tôi nghĩ rằng:
Tất cả các phương pháp luận dù nhân danh bất cứ một luận thuyết nào trong kho tàng tri thức của nhân loại trong lịch sử và trong cả tương lai có thể phủ nhận một chân lư:
Nền văn minh Lạc Việt là một nền văn minh vĩ đại trong cổ sử.
Tôi có thể khẳng định qua trang web này với tất cả các học giả trên quốc tế rằng:
Truyền thuyết về thời Hùng Vương có một kết cấu chặt chẽ không thể phủ nhận. Chính những truyền thuyết này sẽ là một bằng chứng sắc sảo cho cội nguồn dân tộc Việt với 5000 văn hiến.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị và các học giả vào thăm trang web này.
Thiên Sứ


Sửa lại bởi ThienSu : 24 July 2004 lúc 8:02pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 65 of 110: Đă gửi: 24 July 2004 lúc 8:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Hôm nay Thiên Sứ tôi buồn cái sự đời! Ở không xem lại các bài viết trong topic này. Chợt thấy một thiếu sót là có một ư của bạn "Guets" đặt ra ở trang 1 mà Thiên Sứ tôi chưa trả lời.
Nôi dung vấn đề dặt ra như sau:
Theo truyền thuyết và những điều được ghi nhận trong chính sử th́ thời Hùng Vương tồn tại 2622 năm. Nhưng lại chỉ có 18 đời vua Hùng. Vậy mỗi vị vua tồn tại trung b́nh 2622 năm:18 => Khoảng gần 150 năm cho một đời làm vua.Quả thật là vô lư!
Tôi được biết đây không phải chỉ là ư kiến cá nhân của bạn Guets mà là một luận điểm phổ biến của "Hầu hết các nhà khoa học trong nuớc có quan điểm lịch sử mới về thời Hùng Vương và họ cho rằng quan diểm của họ được cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận". Híc!
Trước hết tôi xin gửi lời chia buồn đến cái trí thức hạn hẹp của cái công đồng khoa học thế giới ủng hộ quan điểm
lịch sử mới/phủ nhận nhận thức truyền thống lịch sử 5000 của dân tộc Việt. Giá những người này thông minh một chút/ và quả là có tinh thàn khoa học thật sự/ họ sẽ có đủ khả năng vào đây đặt câu hỏi; tôi sẽ trả lời cho họ và chỉ ra cái sai lầm của họ khi phủ nhận truyền thống lịch sử dân tộc Việt.
Trờ lại cái luận diểm trên. Sai lầm của họ như sau:
* Chủ quan áp đặt 18 đời Hùng Vương chỉ là 18 người làm vua. Căn cứ vào đâu để khẳng định 18 đời vua Hùng chỉ là 18 người làm vua? "Cái gọi là khoa học" nào chứng minh điều đó? Síc! Phải chăng họ quan niệm "đời" chỉ thời gian sống của một con người? Trong dân gian; nôm na thường dùng chữ "Đời" chỉ một thời đại. Như đời nhà Minh; đời nhà Nguyễn....Nếu căi nhau về mặt danh từ th́ cũng chỉ là chủ quan cho khái niẹm về chữ "đời". Híc! tất nhiên ko thể đem cái chủ quan để minh chúng cho một luận điểm gọi là khoa học.
Truyện có 18 đời vua Hùng xuất hiện đầu tiên trong truyền thuyết dân gian: "Sự tích 100 trứng/trăm con". Đoạn cuối của truyền thuyết có nói:
...Đưa người con cả lên làm vua truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.
Những người học giả...vờ đó đă chủ quan/ hiện thực hoá một huyền thoại (khác với giải mă một huyền thoại) áp đặt 18 đời thành 18 người vua làm tiền đề cho con số chia!
Đây là sai lầm quan trọng nhất của các nhà gọi là "khoa học".
Được nhiên; khi tiền đề đă sai th́ việc làm sau đó của họ mà ho dương dương tụ đắc về con số chia chỉ là việc "lấy số gà trừ đi số vịt".
Híc! Thật là một điều đáng buồn!
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ


Sửa lại bởi ThienSu : 24 July 2004 lúc 8:51pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
dienbatn
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 19 June 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 326
Msg 66 of 110: Đă gửi: 24 July 2004 lúc 10:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn dienbatn

Bác Thiên sứ nói đúng rồi. Theo quan điểm của một số vị học giả ... vờ và Tiến sĩ bị bấm lỗ thì Thời Hùng Vương chỉ có đúng 18 ông Vua họ Hùng và do vậy mà Lịch sử nước Việt nhà mình bị ăn cắp đi trên hai ngàn năm.Cái mà các vị đó nhân danh Khoa học thật là hài hước. Có lẽ cái zene Tầu nó ăn sâu trong đầu từ lâu nên họ quên rằng Thời Hùng Vương bao gồm Thập Bát Thế đại Vương triều, trong mỗi Thế Đại đó có nhiều ông Vua ở các Chi khác nhau.dienbatn đề nghị Huynh DaoKy post lên tên tuổi cụ thể của Thập Bát Thế Đại Vương triều lên đây cho bà con đọc chơi.dienbatn đang đi Ta bà nên không mang theo tư liệu.
Thân ái. dienbatn.
Quay trở về đầu Xem dienbatn's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dienbatn
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 67 of 110: Đă gửi: 26 July 2004 lúc 11:52am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Dienbantn thân mến!
Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá đă cất công sưu tầm được Ngọc phả Hùng Vương gồm 18 thời đại. Mỗi thời đại gồm nhiều vị vua. Nhưng những học giả ...vờ cũng ...vờ luôn.Và đây cũng không phải là cái vờ duy nhất của cái cộng đồng khoa học quốc tế có quan điểm phủ nhận 5000 văn hiến Việt.
Tiêu chí khoa học là:
Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng khi có khả năng giải thích một cách hợp lư hầu hết những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó và có khả năng tiên tri.
Luận điểm mới phủ nhận giá trị truyền thống lịch sử văn hoá Việt không thoả măn điều này.
Qua trang web tuvilyso; tôi có thể chắc chắn với bạn và những ai quan tâm với lịch sử văn hoá Việt trên thế giới rằng:
Tất cả những ai có quan diểm phủ nhận truyền thống 5000 năm văn hiến của người Việt mà nhân danh khoa học; th́ chỉ là một sự hạn hẹp về trí thức một cách đáng thương hại. Dù cho họ có bất cứ một học vị nào.
Bởi v́; họ không thể đưa ra một tiêu chí khoa học nào để biện minh cho lập luận của họ. Di vật khảo cổ không phải là điều kiện duy nhất chúng minh cho lịch sử.
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ


Sửa lại bởi ThienSu : 26 July 2004 lúc 1:01pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 68 of 110: Đă gửi: 28 July 2004 lúc 12:51am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

TÌM HIỂU VĂN HÓA NGUỜI VIÊM VIỆT CỔ


Tìm hiểu nền văn hoá của người Viêm Việt cổ có một nền văn minh đã thành hình một Quốc Gia có chủ quyền lâu đời gần 5.000 năm.
Cách đây 58.000 năm về truớc, việc loài người cổ đại di cư khỏi Vùng Bắc Phi Châu để hình thành đại chủng tộc Nam Á gồm : Việt Tộc, Trung Hoa, Nhật bản, Đại Hàn, Mả Lai, Nam Dương và thổ dân Châu Úùc. Xa hơn nửa tận Bắc và Nam Mỹ làThổ Dân Eskismos, thổ dân Indians, Apaches, Mexicans .v.v…
NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI :
     Theo phụ bản của báo US New & World Report , January 29,2001.
Nguồn gốc loài người phát xuất từ cái nôi miền Trung Châu Phi, người Phi Châu nguyên thuỷ có cách đây 175.000 năm về trước. Từ nơi đây họ di cư chia làm 3 nhánh lớn phân bố nhỏ ra cách đây khoảng 65.000 , 58.000 sang Châu Á , muộn nhất là, 50.000 : Từ 20.000 năm và 9.000 năm di cư sang Châu Aâu.
Quá trình di cư của con người cổ đại thành hình các dân tộc ở các Đại Lục : Châu Phi, Châu Á, Châu Aâu, Châu Uùc và Châu Mỹ .
I- Nhánh thứ 1 di cư lên hướng Bắc Phi cách đây khoảng 75.000 năm chia ra 5 nhóm nhỏ :
-Nhóm 1,2,3 :
-Đi sang Châu Aâu. Hình thành các dân tộc Châu Âu Cách đây khoảng 50.000 năm, 20.000 năm và muộn nhất 9.000 năm .
-Nhóm 4,5 :
     -Di cư lên vùng cao nguyên dải Hymalaya qua Trung tâm Châu Á:- cách đây 75.000 năm.
nhóm thứ 4 chia ra làm ba toán nhỏ di cư theo các hướng :
1.     Toán a :
Tiến xuống vùng Nam Châu Á, đồng bằng sông Dương Tử ; phát triển thành Viêm Việt tộc cách đây khoảng 58.000 năm.
2.     Toán b :
chia làm hai nhóm nhỏ Di cư qua hướng Đông Bắc eo biển Béring sang Alaska Châu Mỹ, thành hình các chủng tộc người Eskismos, Siberia, Indians, và các dân tộc Bắc và Nam Mỹ, có cách đây khỏang 18.000. Còn lại một tóan tiến xuống miền Nam Châu Á cách đây khoảng 12.000 năm hình thành các dân tộc : Hung Nô, Mông Cổ, Trung Hoa, Cham Pa, Nam Dương v.v.
3.     Toán c :
Di cư thẳng xuống hướng cực Nam Châu Á khoảng 40.000 năm hình thành các dân tộc : Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, Mả Lai, Nam Dương và sau cùng là Thổ dân Úùc Châu.v.v. . .
-Nhóm 5 Di cư qua các vùng Nam Á tiến lên Bắc Á xuyên qua biển qua Alaska Bắc Châu Mỷ và rồi xuống Nam Mỹ thành hình các dân tộc: Siberians, Koreans, Eskismos, Indians, Apaches, Mexicans, American v.v. . .
·     II-Nhánh Thứ 2 :
     -Di cư lên miền Tây Bắc Phi Châu khoảng 175.000 năm trước đây để hình thành các dân tộc Bắc Phi. .
     -Từ trung tâm Châu phi họ tràn xuống miên Nam Châu Phi thành các dân tộc ở Nam Phi cách đây 125.000 năm.
·     III Nhánh Thứ 3 :
Di cư về hướng Trung Đông Châu Phi cách dây 160.000 năm thành hình các dân tộc, Ả Rập, Ai Cập, Do Thái, v.v. . .

NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT :
     Dân tộc Việt cổ gọi là Viêm Việt là một nhánh của đại chủng Mogol Nam Á, là một dân tộc có một nền văn minh nông nghiệp rất sớm ở Á Châu. Từ Thời Đại Phục Hy, Nử Oa có cách nay hơn 5.000 năm. ( So với các di chỉ khảo cổ thì còn cách xa niên đại này, có đến 17.000 năm như di chỉ ở Hoà Bình ).
     Nhân loại đã làm một hành trình từ cái nôi chung ở Châu Phi vào Trung Đông khoảng 75.000 năm, trải qua hàng ngàn năm trong cuộc di dân họ đã mở rộng địa bàn về hướng Tây vào Châu Á qua dải Hymalaya và hướng Bắc vào Châu Aâu, hướng Đông sang Bắc Châu Mỹ.
     Hầu hết các dân tộc Châu Á điều xuất phát từ 2 gốc chung, vài giống người thường gặp ở Đông Nam Châu Á như : Việt Nam, Mả Lai, Tân Guinée và dòng khác như Mông Cổ, Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Tây Bá lợi Á, Exkimo. Người cổ đại di cư bằng thuyền bè sang các đảo quốc Indonesia rồi sang Uùc Châu.
     Người thượng cổ di chuyễn từ dải Hymalaya xuống vùng Dương Tử và phát triển nền văn hoá Nông Nghiệp định cư , thành những bộ lạc ở rải rác dọc theo hai bờ sông Dương Tử đến vùng biển Nam Hải thì dừng lại, sau đó lại phát triển về phương Nam của Châu Á, thành hình Dân tộc Viêm Việt.

THEO SỬ LIỆU VIỆT NAM VÀ TRUNG HOA

     Trong các bộ sử ký: Đại Việt Sử Ký, Khâm định Việt Sử, An Nam Chí Lược, Đại Việt Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , Sử Ký Tục Biên, hay những tập truyện ký có từ lâu đời như : Việt Điện U Linh, Lỉnh Nam Trích Quái, hoặc Giao Chỉ Ký, Giao Châu Ký của Triệu Công , Tăng Cổn người Trung Quốc đời Đường thế Kỷ thứ IX. Trong Nhị Thập Tứ Sử của Trung Quốc có ghi về sử nước ta vào thời đầu Công Nguyên như :” Thuỷ Kinh Chú . Của Lịch Đạo Nguyên đời Bắc Nguỵ “ Thượng thư Đại Truyện , của Phục Thắng đời Hán “ Lâm Aáp Ký, Giao Châu Ngoại Vực Ký v.v.” Thì nguồn gốc Dân Tộc chúng ta được ghi như sau : "Cháu 3 đời Vua Thần Nông Là Đế Minh, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lỉnh gặp bà Vụ Tiên cưới về sau đó sinh ra Lộc Tục, Vua Đế Minh tế cáo trời đất ở Thiên Đài ( Núi Ngũ Lỉnh Vùng Hồ Nam ), phong con trưởng lên làm vua phương Bắc tức Vua Nghi, phong con thứ tức Lộc Tục làm vua phương Nam. . ."
     Vậy nguồn gốc dân tộc Việt Nam là con cháu họ Thần Nông ? Có nhiều học giả cho rằng Thần Nông là người Trung Hoa, có người thì cho Thần Nông là gốc người Viêm Việt, có người thì nói Thần Nông là " Ông Tổ Chung của Viêm Việt và Trung Hoa ?"

A-/ THẦN NÔNG LÀ NGƯỜI VIÊM VIỆT ?

     Trong các học giả cho Thần Nông là người Việt như GS. Kim Định, GS. Mộng Văn Thông cho rằng Thần Nông là Vua Viêm Việt, vì người Trung Hoa thời nhà Chu gọi chúng ta là Viêm Bang. Còn các học giả khác đều cho rằng Thần Nông là ông tổ của Trung Hoa như Đào Duy Anh, " Thần Nông là ông vua thời thượng cổ của Trung Hoa trước thời vua Nghiêu, Vua Thuấn, dạy dân làm ruộng, họp chợ, bày các cây thuốc chỉ cách trị bệnh. . . ."Theo câu sử trên thì chúng ta thấy Thần Nông là ông tổ chung của hai tộc Hoa, Việt. Theo BS. Trần đại Sỹ " Xét triều đại Thần Nông, khởi từ 3118 trước TL, khi đến Đế Minh thì chia làm hai nhánh như sau :
1/ Các Triều đại nối tiếp Thần Nông Bắc Hoàng Hà :
Đế Nghi. 2889-2884 tr. TL.
Đế Lai.    2843-2794 tr. TL.
Đế Ly.         279 3-2751 tr. TL.
Đế Dũ Võng. 2750-2696 tr TL.
Đến đây triều đại Thần Nông Bắc chấm dứt đổi sang triều đại Hiên Viên Hoàng Đế (tên là Hữu Hùng Thị ),từ năm Giáp Tý 2697 tr. TL. Các nhà chép sử Trung Hoa lấy thời đại này làm kỷ nguyên lập quốc của mình. Nhà chép sử Tư Mã Thiên khởi chép quyển một "Ngũ Đế Bản Kỷ" . Xem Hiên Viên Hoàng Đế là vị Quốc Tổ của Trung Hoa.
2/ Triều Đại nồi tiếp Thần Nông Nam Hoàng Hà:
Thái Tử Lộc Tục sinh năm 2919 tr. TL lên Ngôi Năm Nhâm Tuất 2879 tr. TL, lúc 41 tuổi. Hiệu là Kinh Dương Vương, sau này người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc, tính đến nay đã 4879 năm, cho nên chúng ta vẫn tự hào có trên ’bốn ngàn năm văn hiến."
Thời Tam Hoàng Của Viêm Việt Tộc :
-Thiên Hoàng Bàn Cổ.
-Địa Hoàng Toại Nhân.
-Nhân Hoàng Hửu Sào.
Thời Ngũ Đế :
-Phục Hy Thánh Đế.
-Thần Nông Viêm Đế.
-Đế Khôi.
-Đế Thừa.
-Đế Minh.
Thời Thập Bát thế ( An Dương Vương Không xem là người ngoài họ Hồng Bàng. Trải qua 68 đời vua trong 18 chi họ Hồng Bàng trị vị được 2622 năm)
01/-Kinh Dương Vương   2879 _ 2794 tr. TL.
02/-Lạc Long Quân .      2793 _ 2525 tr. TL.
03/-Hùng Quốc Vương.   2524 _ 2255 tr. TL.
04/-Hùng Hoa Vương     2254 _ 1918 tr. TL.
05/-Hùng Hy Vương      1917 _ 1713 tr. TL.
06/-Hùng Lân Vương    1712 – 1632 tr TL.
07/-Hùng Chiêu Vương   1631 _ 1431 tr. TL.
08/-Hùng Vỷ Vương .     1430 _ 1331 tr. TL.
09/-Hùng định Vương .   1330 _ 1251 tr. TL.
10/-Hùng Uy Vương .     1250 _ 1162 tr TL.
11/-Hùng Trinh Vương.   1161 _ 1055 tr. TL.
12/-Hùng Võ Vương .     1054 _ 969 tr. TL.
13/-Hùng Việt Vương .     968 _ 854 tr. TL.
14/-Hùng Anh Vương .     853 _ 753    tr. TL.
15/-Hùng Triệu Vương .   752 _ 661   tr. TL.
16/-Hùng Tạo Vương .    660 _ 569 tr. TL.
17/-Hùng Nghị Vương .    568 _ 408 tr. TL.
18/-Hung Duệ Vương .     408 _ 208 tr. TL.
19/-An Dương Vương .      207 _ 179 tr. TL.

Đến năm 179 tr. TL đất nước Văn Lang mới lọt vào tay của Triệu Đà, kể từ đây Dân Tộc Việt bị đô hộ kéo dài trên một ngàn năm trong tay của tộc phương Bắc.

Theo sử của Trung Hoa thì Thần Nông là 1 trong 3 vị vua đầu tiên của Trung Hoa. Nhưng trên thực tế thì Thần Nông làm vua truyền được 8 đời mới bị Hiên Viên Hoàng đế diệt. Thần Nông theo nghĩa từ Hán là ông Thần Canh tác nông nghiệp là người đầu tiên phát minh ra nền nông nghiệp, nếu như Thần Nông đã dạy dân canh tác trồng trọt thì chỉ mới hơn 5.000 năm về trước, vậy nền Nông Nghiệp thời Tiền Sử còn quá trẻ so với các di chỉ khảo cổ cho chúng ta thấy rằng : " Nền Nông tác của các dân tộc Đông Nam Á khu vực Hòa Bình đã có sự canh tác trồng trọt cách đây khoảng 17.000 năm, như vậy ông tổ Thần Nông của chúng ta còn quá trẻ so với sự việc hiểu biết canh tác trồng trọt của các tộc người Đông Nam Á Châu thời Thượng Cổ"
Còn một chuyện phi lý nửa của người Trung Quốc, là tộc người ở khu vực Tây Bắc Á một dân tộc có truyền thống "Văn hóa Du mục", thì làm thế nào có chung một vị tổ tộc dân Viêm Việt định cư, có nền "Văn Hóa Nông Nghiệp"? Hơn nửa vua Thần Nông có tên là Viêm Đế của tộc Viêm Việt, theo nghĩa từ Viêm là"Nóng" là "Lửa" tức là "Ông vua Lửa" thì làm thế nào đi xuống "Nước" để làm Nông Nghiệp. Nếu nói rằng Vua Viêm Đế đem lửa vào Trung Hoa cách đây hơn 5.000 năm thì cũng sai, vì thật ra loài người đã biết đến sử dụng lửa cách đây khoảng 300.000 năm rồi !
Đầu đuôi là như vậy, ta có thể kết luận rằng : -Tộc Người Phương Bắc họ "đã nhặt nhạnh" từ những câu chuyện truyền khẩu dân gian từ đâu đó, của 70% dân số các tộc dân thuộc Viêm Việt còn lẩn tránh ở lại nơi địa phương củ không có điều kiện di dân về phương Nam và họ bị đồng hóa cải biến trở nên Văn hóa riêng của Hoa tộc ( Những trận đánh vượt sông Hoàng Hà xâm chiếm đất của Tộc Viêm Việt, như trận Trác Lộc năm 2696-2690 tr. TL. Cả 2 bờ Bắc và Nam sông Hoàng Hà đều bị rơi vào tay của Hiên Viên Hoàng Đế ( Hữu Hùng Thị ). Các bộ tộc Viêm Việt, có đến 70% dân số trốn lánh chiến tranh ở lại nơi vùng đất mà từ xưa nay bao đời họ đã sinh sống, thay vì tất cả theo chân vua Hùng Hiền Vương cùng các bộ lạc Viêm Việt về Động Đình Hồ.)

LIÊN HỆ GIỬA DÂN TỘC VIÊM VIỆT VÀ DÂN TỘC TRUNG HOA
                
     Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế của Viêm Tộc        &nb sp; 
                        Thiên Hoàng
Người Homo Sapiens     Bàn Cổ     Thời kỳ khai sơn phá thạch. 100.000 năm trước.

                        Địa Hoàng
Người Modern            Toại Nhân       Sử Dụng Lửa, làm chín thức ăn.
                        
                    Nhân Hoàng
                       Hữu Sào                           

Làm nhà trên cây, 50.000 - 30.000 năm trước

                       Thời Ngũ Đế

Phục Hy và Nử Oa (1) 3434 tr.CN                    
                                                            HOA TỘC
Viêm Đế Thần Nông (2)         &nb sp; -Xuất Hiện Hoa Tộc
3118.tr TL         &nbs p;       du cư xuống Bắc Hoàng Hà.
-Đế Khôi (3)
-Đế Thừa (4)
-Đế Minh(5)                                           
                (Năm 2696 tr,CN Xuất hiện Hửu    Hùng Thị thủ lỉnh Hoa tộc diệt Triều đại Thần Nông Bắc rồi xưng là Hiên Viên Hoàng Đế. )
                                                         TAM HOÀNG của HOATỘC
                              :Thiên. Địa. Nhân:
                    -To 841;i Nhân, Phục Hy, Thần Nông

                               Ngũ Đế gồm :

                    1-Hiên Viên Hoàng Đế 2696-2598 tr.TL

                    2-Thi& #7871;u Hạo 2597-2513 tr TL.
                                                        3-Xuyên Húc 2513- 2359 tr TL.

                    4-Đ 871; Nghiêu 2359-2 256 tr TL

                    5-Đ 871; Thuấn 2256- 2208 tr TL

DÒNG VIÊM VIỆT CHIA LÀM HAI NHÁNH:                                 
THẦN NÔNG NAM         &nb sp;       THẦN NÔNG BẮC
Kinh Dương Vương (1)         &nb sp;  Vua Nghi
Lạc Long Quân   (2)       ;       Vua Lai
                                   Vua Ly
                                   Vua Dũ (Bị diệt)
                              chấm dứt Thần Nông Bắc
Chi cấn Hùng Quốc Vương 2543- 2254 tr (3)         &nb sp;    
Chi Chấn Hùng Hoa Vương 2254- 1918 tr TL (4)                         Thời kỳ Tam Đại Hoa Tộc.

                Đế Quýnh nhà Hạ. 2207-2205 Tr.TL
                Đế Kiệt nhà Hạ 2205-1766 tr TL
                       Nhà Thương. 1766-1122 tr. TL
                       Đế Ốc Đinh nhà Thương.                            Đế Tổ Cảnh nhà Thương.
                       Đế Nam Canh nhà Thương.
                       Đế Tiểu Ất nhà Thương.
                       Đế Tổ Giáp nhà Thương.

Chi Tốn Hùng Hy Vương 1918-1713 Tr TL(5)         & nbsp;     Chi Ly Hùng Hồng Vương 1750-1712 tr TL(6)
Chi Khôn Hùng Chiêu Vưống 1631-1431 tr TL (7)       
Chi Đoài Hùng Vĩ Vương 1431-1332tr TL (8)         &nb sp;     Chi Giáp Hùng Định Vương 1332- 1252 tr TL (9)         &nb sp;Chi Ất Hùng Uy Vương 1251- 1162 tr TL (10)         &n bsp;   Chi Bính Hùng Trinh Vương 1162-1055 tr TL (11)                                 -Nhà Chu 1122-256 tr TL
                                      -                               -Thành Vương nhà Tây Chu
Chi Đinh Hùng Vũ Vương 1055- 969 tr TL (12)          -                               -Mục Vương nhà Tây Chu.

Chi Mậu Hùng Việt Vương 968-854 tr TL (13)          -                               -Lệ Vương nhà Tây Chu.

Chi Kỷ Hùng Anh Vương 854- 755 tr TL (14)          -                               -Bình Vương nhà Đông Chu.

Chi Canh Hùng Triệu Vương 755- 661 tr TL (15)          -                               -Huệ Vương nhà Đông Chu.

Chi Tân Hùng Tạo Vương 661- 568 tr TL (16)          -                               -Linh Vương nhà Đông Chu.

Chi Nhâm Hùng Nghi Vương 568 – 409 tr TL (17)          -                               -Uy Việt nhà Đông Chu.

Chi Quý Hùng Duệ Vương 408- 258 tr TL (18)          -                               -Noản Vương nhà Đông Chu.

Thục Phán An Dương Vương 258– 208 tr TL (-50 năm ?)     -    &nb sp;          -Doanh Chính diệt 6 nước lập ra nhà Tần.
           ( Yên. Hàn. Sở. Triệu. Nguỵ. Tề )
Triệu Đà 208- 111 tr TL     ( thay vì năm 179 tr.CN ?)     -                               -Lưu Bang lập nhà Tây Hán.

Thời kỳ Bắc thuộc thứ lần I     111- 39 sau TL         &nbs p;-         &nb sp;       -Vương Mãn soán ngôi nhà Tây Hán.

Trưng Nữ Vương 40 sau TL         &nbs p;           -      ;           ;  -Quan Vũ nhà Đông Hán.

Thời kỳ Bắc Thuộc lần II   43 - 544 sau TL                          -Tam Quốc.phân tranh
           -Tư Mã Chiêu lập nhà Tấn
Nhà Tiền Lý 544 – 602                            -                   -Nam Bắc triều : Nguỵ , Tề, Chu.
              -Tống, Tề, Lương, Trần.
Thời Kỳ Bắc Thuộc lần III . 602 – 939                 -                   -Tuỳ Dương Đế. . . Đến đời Đường Ngũ Đại

Vua Ngô Quyền đánh quân Nam Hán 939-944                    -Đời Nhà hậu Lương,

Vua Đinh Bộ Lỉnh 968- 980.                               -Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu.

Vua Lê Hoàn đánh Tống 981-1009                 
                  -Triệu Khuông Dẩn lập nhà Tống.
                  -Tống Thần Tông, Tống Nhân Tông
Vua nhà Lý 1010-1225                            -
Lý Thường Kiệt đánh Tống
Vua nhà Trần 1225 – 1400                      -                 -Nhà Nguyên { -Nguyên Thái Tổ)

Vua Nhà Hồ 1400 – 1407                                    -Nhà Minh. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.

Vua nhà Hậu Lê 1427-1527                      -                 -Minh Thành Tổ.

Vua Nhà Mạc 1527 – 1592                               -nt-

Chúa Trịnh 1545 – 1770.                            -                 -Lý Sấm vương soán ngôi nhà Minh

Chúa Nguyễn Hoàng 1558-1770                            -Nhà Thanh diệt nhà Minh. . . .   Khang Hy

Vua Quan Trung 1771- 1789                      -               -Vua Càn Long nhà Thanh.

Vua nhà Nguyễn ( Gia Long ) 1802 - 1945                 -               -Vua Càn Long, Gia Khánh nhà Thanh.

Và các Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức                
        -Đạo Quang, Hàm Phong, Quang Tự, Phổ Nghi.
Hàm Nghi. . . . đến vua Bảo Đại                      -        -Cách mạng năm Tân Hợi 1911. Tôn Văn.

Chủ Tịch ***                            -        -Cách mạng Vô sản Chủ Tịch Mao T Đông.

                   ----------------

BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT

     Từ khi khai quốc các vị vua Tổ của Họ Hồng Bàng truyền được tổng cộng 2622 năm trải qua 18 dòng chi Vua Hùng tổng Cộng là 43 vị Vua. 27 thế kỷ trị vì các Vua tổ không ngừng phát triển nền văn hoá của Tộc Viêm Việt và Chống lại những cuộc ngoại xâm giử vững truyền thống dân tộc, đồng thời di cư về phương Nam để an cư lạc nghiệp. Cho nên khi đọc sử chúng ta lại thấy một địa bàn Quốc Gia rộng lớn từ bờ sông Hoàng Hà cho đến cực Nam Thanh Hoá ngày nay.
Cổ sử của Trung Hoa cho rằng : " Đất của Dân Tộc Việt là ở lưu vực sông Bộc Tỉnh Sơn Đông, người Đời Châu gọi là Rợ Đông Di, có tục Nhuộm răng đen ăn trầu. " gồm các tộc : Hoàng Việt, Việt Câu Tiển, Ngô Việt, U Việt, Việt Thường, Lạc Việt, cho nên ta gọi chung là Bách Việt.
Tóm lại theo cổ sử của Mường Việt cổ, cùng cổ sử Trung Hoa thì "Vua Viêm Đế Thần Nông làm Vua đến 8 đời ở đất Hoàng Hà rồi mới bị Hiên Viên Hoàng Đế Trung Hoa diệt. Vậy Thần Nông là vị tổ Của Dân Tộc Viêm Việt."
B-/THẦN NÔNG LÀ AI ?
Dù rằng chuyện ông Thần Nông có thật hay không vẫn là ông tổ của chúng ta vì sử sách đã ghi như thế, vậy Thần Nông là ai ?
-Thần Nông theo từ Hán Ngữ là một vị Thần Nông Nghiệp hay là người đã phát minh ra cách trồng trọt và thuần dưởng thú vật, dạy dân biết sử dụng cây cỏ để trị bệnh.
-Nông theo Ngôn Ngữ Việt cổ có nghĩa là cái Bọc, cái Túi hay là vật tròn như quả Trứng. Nông Phải là “Nông Nghiệp” mà có nghĩa là “Bầu Hư Không”.
-Nông có nghĩa là Cạn không sâu, (liên hệ với nước).
-Nông cũng đồng biến âm tiếng Nang ( cái Bọc ).
-Nông cũng biến âm ra tiếng Không, tiếng Nòng. ( Aâm )
-Viêm Đế Thần Nông là "Oâng vua hư không" làm ra lửa là "Mặt Trời Nóng", là nguồn sinh tạo ra thế giới vạn vật.
Do đó hiểu theo Ngữ nghĩa âm tiếng Việt cổ thì có nghĩa là : Thần Nòng, Thần Bọc, Thần Trứng, Thần Nang, tức là giống Cái thuộc tính Aâm.là Thần Hư Không, Thần Trứng vũ trụ, là Nử Thần Hư không Vũ Trụ ( Vô Cực ) = Nòng = O .
-Còn hiểu theo thuộc tính Dương giống Đực có nghĩa là Oâng Thần Nóng( Viêm Đế ) : Thần còn gọi là Kỳ,Kẻ, Kèo, là Nọc hay là Thần Nống, Thần Nóng, Thần Nọc = l .
-Còn hiểu theo lưởng tính là đây là khối ÂM, DƯƠNG sinh tạo ra Thế Giới Vạn Vật, trong ÂM có DƯƠNG, trong DƯƠNG có ÂM. Thời Mẩu Hệ thì gọi là "Nử Thần Trứng Aâm Dương Vũ Trụ". Thời Phụ Hệ thì gọi đó là " Oâng Thần Nóng Vũ Trụ hay Thần Nông ". Vì vậy người Việt có tín ngưỡng thờ " Chim Bồ Nông ( mang tính ÂM ) hay Chim Bồ Cắt Hồng Hoàng ( mang tính DƯƠNG )" ta gọi là "Điểu Tục" (Người thời Viêm Việt ăn mặc trang trí kết lông chim làm váy, làm mũ đội đầu như người Da Đỏ ở Mỹ,) những đề tài theo Điểu Tục còn ghi lại trên Trống Đồng Đông Sơn, Miếu Môn, Ngọc Lủ. Hoàng Hạ .v.v. .
Tóm lại những âm nghĩa "Thần Nông" trên đây ( Vì thời cổ chúng ta không chưa có chử quốc ngử, mà chỉ có Hình ngữ nghĩa là Ngôn Ngữ sơ khai. ) thì Thần Nông là danh tính chỉ 2 người, có hai cực là Nam, Nư.û Aâm và Dương như vậy Người Việt Cổ của chúng ta có tục thờ Thần Trứng Vô Cực Vũ Trụ. Hiện nay còn tộc người AO Naga ở Assam sống ở cực Tây của Tỉnh Vân Nam Trung Hoa. Tộc Ao Naga chính là Tộc Aâu mà ngày xưa đã từng kết hợp với Tộc Lạc để lập thành nước "Aâu Lạc", họ cũng thờ vị Thần Bầu Trời Hư Không gọi là ANung, âm ngữ A có liên hệ với cổ ngữ Việt Mường là Ả = phái Nử: Cô Nàng, Cô Nường, Cô Nương, phái Nam : A = Tá , Đá, có nghĩa là Ông, Ngài, như cổ ngữ của Dân Tộc Mường, Mán hai tộc này cũng là thành phần của đại Tộc Viêm Việt. Có hai họ BỘC và VIỆT.
Thời Mẩu hệ :
A Nung là = Ả Nàng = Ả Nang = Ả Nòng = Ả Nung.
Thời Phụ Quyền thì :
A Nung là = Tá Nung = Đá Nung = Đá Nang = Đá Nông.
Như vậy ANung là Thần Trứng Vũ Trụ có tròng đỏ mặt trời trông giống “ Con Mắt” nên ký hiệu    ¤    & nbsp;là một vòng tròn có chấm giửa, nên sự tôn thờ tín ngưỡng tự nhiên này từ thời cổ đại đến ngày hôm nay. Cũng như trong nền tín ngưỡng Đạo Cao Đài thờ “ Con Mắt “ là thờ Thượng Đế, một vị Thần Chủ Tể của Hư Không, đây không phải là sự ngẩu nhiên duy lý từ ngàn xưa của dân tộc Việt mà một minh triết được vị chủ tể Vũ Trụ dẩn truyền cho dân tộc Việt trong thời đại quy nguyên phản bổn. . .
Thần Nóng, Thần Mặt Trời, sinh tạo thế giới. Người Việt chúng ta theo tín ngưỡng thờ bái Vũ Trụ trong đó có các vị Thần Nam là Thần Mặt Trời vũ trụ, Thần Nữ là Mẹ Hư Không Trứng Vũ Trụ, còn những linh vật Biểu Tượng như : Chim Bồ Nông, Chim Bồ Cắt Hồng Hoàng, hoặc thờ Trứng biểu tượng cho cuộc tạo sinh. Cũng như Mẹ Aâu Cơ sanh các Vua Hùng Vương từ trong trăm trứng, thì ở Miền Bắc nước ta vẫn còn có nơi thờ Bọc Trăm Trứng hay Thần Trứng đó là sự sinh tạo vũ trụ. Việc Thờ Thần trứng có khắc trên trống đồng Đông Sơn. Cũng như người Việt cổ chúng ta các tộc khác cũng thờ " Linh Vật " tạo Sinh Vũ Trụ như các nước Đại Hàn, Nhật Bản, Ai Cập, Maya, Trung Hoa, Aán Độ. Gọi đó là trứng hổn mang (. Do đó ông Tổ Thần Nông Của Chúng Ta là Một Vị Thần Tạo Sinh ra Thế Giới có lưỡng tính Âm Dương là Thần Nòng thuộc nữ tính, Thần Nọc thuộc nam tính )

NGÔN NGỮ ĐỜI VIÊM VIỆT CỔ

Riêng chử viết thời ấy là chử Khoa Đẩu, là một loại chử Nòng Nọc ký hiệu là “ O , I    ( O, I ) nay còn thấy ở trong các chử cổ và chử hiện Kim, từ Á cho tới Âu, mà chử Nòng Nọc là liên hệ ruột thịt với chúng ta thuộc về hai họ Nòng Nọc Và Bọc Việt Mặt Trời, cổ ngữ trên mà cha ông chúng ta dùng trên bốn ngàn năm trước đây, còn được xác nhận qua thư tịch cổ như sách "Thông Chí" của Trịnh Tiều : " Về đời Đạo Đường, Phương Nam có Họ Việt Thường, dùng thông ngôn hai lần đến chầu dâng Rùa Thần chừng Nghìn Tuổi, vuông hơn ba thước, lưng có nét chử Khoa Đẩu, Chử Nòng Nọc từ khi mở ra Đất Trời trở về sau. Vua Nghiêu sai cận thần sao chép lấy làm Lịch Rùa."
Trong Đạo Đức Kinh Lão Tử có nói đến một Nước nhỏ nằm trong vùng phía Nam sông Dương Tử như sau : ". . . Nước ấy dạy dân học chử "Khoa Đẩu", chế biến các thức ăn ngon, mặc những quần áo đẹp, yên nơi mình ở, vui cùng với phong tục . . ." Trích lại " Tìm lại bản kinh Quy Lich năm Mậu Thân 2353 trước CN." (Của M. V. T.)
Những chử viết Nòng Nọc của Dân Tộc Việt Gồm : Hoàng Việt ( người Việt ở dọc hai bờ sông Hoàng Hà ) Việt Câu Tiển, Việt Ngô, Mân Việt, Việt Thường, U Việt, Bộc Việt, Lạc Việt.
Do đó ta thấy có 2 mẩu tự cơ bản của chử Nòng Nọc: do nút thắt dây thừng mà ra : “O” là nút thắt, “ l “ là đọan thẳng cách khoảng của nút thắt.
Nòng Âm tính là: " O ".
Nọc Dương tính là : " I ."
Hệ Thống Bát Quái Nho Việt Nòng Nọc:
Việt dịch Nòng Nọc gồm 2 nguyên Aâm Dương của tứ hành : Nóng, Lạnh, Đất đá, Nguyên khí (Chúng ta không có Mộc) . Trong cỏi tạo hóa sinh thì nó là Lửa, Nước, Đất và Gió, Văn Hóa Nông Nghiệp theo người Việt Cổ thì chỉ nằm gọn trong Đất Ruộng và Nước, hình ngữ học là Hình Vuông (trên con lưng Rùa Thần) và Hình Tròn (trên lưng Long Mã). Các quẻ dùng trong Bát Quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài đều là xa lạ với ngôn ngữ thông dụng của Trung Hoa. Cho nên theo Richard Wilhelm thì " Dân Tộc Trung Hoa không phải là xuất xứ của Kinh Dịch nguyên khởi, các tên của các quẻ trong Bát Quái không có trong ngôn ngữ thường dùng của họ. Mà chính xác là của tộc Dân Viêm Việt cổ đại " :
CÀN = NỌC = CỘC : -Là Trời, là Vua, là Cha, là con Trai.
CÀN=CẦN, CHÀN, CHANG, có nghĩa : Lửa Mặt Trời, Nóng, Nắng, Nọc, phái Nam. Thí dụ :
“-Trời nắng chàn-chang “( trời nắng nóng ) hay “ Tính nết Cộc cằn “ ( Nóng nảy mẩn cảm )
KHÔN= NÒNG = NÔNG : Là Đá + Khí Vũ Trụ, Hoàng Hậu, là Mẹ là con gái. ( Khôn = Đất, Đá rộng bao la, chứa đựng mọi vật trong cỏi tạo sinh, thời mẩu hệ xem người Mẹ là kho tri thức hiểu biết trong cách thức ăn, ở sự hoà nhập sinh hoạt vào thế giới xã hội con người. Khôn là Túi chứa đựng vật chất, hay kho tri thức cuộc sống, thế nên đến nay chúng ta vẩn còn sử dụng từ ngữ thí dụ : “ Túi Khôn Con Người “ hay từ “ Nòng cốt ” ( là cái cơ bản chủ yếu )
KHÔN= HƯ KHÔNG (mang Aâm tính), NÒNG, NANG, NƯỜNG, NÙNG, Có nghĩa : Khôn là Không, Khôn là Nòng, là Lạnh, là Nàng, là cô Ả, phái nử . là : “Bầu,Túi “chứa đựng sự sinh hoá
LI : Là lửa mặt đất.
LI=LÓ, RÍ, RI , cũng có nghĩa là lửa ( lửa ngầm không phát to lớn nhưng nó mãi có sức nóng ngầm không thay đổi ) “ Nóng râm ri “ ( lửa nóng)
KHẢM : Là Nước mặt đất. ( nước hảm ao,tù ) không phải là nước sông, biển.
KHẢM=KHAU, KHAP, HẢM, KĂN, RẮN, có liên hệ với nước.
CẤN : Là Núi, Nỏng, Gò, Đống, Trụ Cột,
CẤN=NÂNG, CẦN (Nọc), NẤNG,
ĐOÀI : Là Chằm, Đầm chứa Nước .
ĐOÀI=ĐÌA, ĐẦM, ĐOÁI, có nghĩa vùng đất thấp trủng có chứa nước,là cảnh buổi chiều trên Ao, Hồ, Đồng ruộng, không trung còn mặt trời hoàng hôn”
CHẤN : Là Lôi, là Sấm.( theo Hán ngữ )
CHẤN=TRẤNG, CHẤNG, TRỐNG, CHỐN, làm nên tiếng âm thanh chấn động. ( Trống trường thành lung lay bóng nguyệt ).
TỐN = TỐ : - Là Gió, là : “ø Dông Tố, Bảo Tố.”
TỐN=TỐ, TÔN, DÔNG, DÓ, Có nghĩa là Gió Lớn, “ Dông Tố “ theo Việt Ngữ cổ.
Như vậy tên của tám Quẻ Bát Quái là những tên của Viêm Việt Cổ, nó rất xa lạ với ngôn ngữ của Trung Hoa Tiếng Phổ Thông dùng hằng ngày.
             
NÒNG NANG VÔ CỰC.

Lưỡng Nghi : ( Nọc = Nóng. ( ll )     Nòng = lạnh ( 00 )
                Nang = Càn. ( lll )         Nàng = Khôn ( 000 )
Tứ Tượng : Tứ Hành của cỏi tạo sinh
    Nóng= Lửa. Thái Dương( ll ).
         N&ogra ve;ng = Nước. Thái Aâm ( 00 )
                Nống= Nọc Đá Thiếu Dương ( 0l ).
                Nông= khí Thiếu Aâm ( l0 )
   Bát Quái :         
                NỌC = CÀN ( lll ) .
           NÔNG = KHÔN ( 000 )
           LÓ, RI = LI ( l 0 l )     
           KHAP = KHẢM ( 0l0 )
                NẤNG. = CẤN ( 00l )           
                TỐ = TỐN ( l l 0 )   
              ĐÌA    = ĐOÀI ( 0 l l )                    TRẤNG = CHẤN ( l 00 )

Tất cả các quẻ trong Bát Quái lại là cốt tuỷ của Ngôn Ngữ Việt Cổ, các âm ngữ biến Dịch mà thành, sự sinh tạo ngữ âm này cũng bắt nguồn cách phát âm của người Việt cổ trong ngôn ngữ Nòng Nọc mà sinh ra, thí dụ từ ngữ Thần Nông của Hán Ngữ là sao chép âm ngữ của ta là Nòng ( Trứng ) Nang ( Trứng , Bọc ) . Tóm lại nền Văn Hóa Kinh Dịch Nguyên Thủy là của Dân Tộc Viêm Việt ở Sông Hoàng Hà. Thời Phục Hy Nam Xuất Hà Đồ, ( có nghĩa trên sông Hoàng Hà Phía bờ Nam có con Long Mã dâng cho Phục Hy Hình Ngữ Nòng Nọc để vẻ ra Bát Quái hình Tròn ( xuất xứ từ Nước ). Lạc Thư là Văn Hóa ghi chép từ trên lưng con Rùa Thần, bằng chử Khoa Đẩu những chấm tròn đếm từ 1 đến 9 của Dân Tộc Viêm Việt ở sông Lạc ( một chi nhánh phụ lưu của Hoàng Hà ), vì thế Lạc Thư vẻ theo hình thái Đồng ruộng thời Hùng Vương là hình vuông ( Ma Phương phát xuất từ Đất, chia ra 9 ô cộng ngang, dọc, chéo đều có số tổng là 15, liên hệ tới Hùng Vương và 15 Châu, Vào thời này số đếm của dân tộc Việt cũng đã có từ : Một cho đến Chín tức là phép toán “Cửu Tiến”. Aán Độ và Trung Quốc chỉ có sử dụng phép toán “Thất Tiến” . Như vậy Phục Hy đúng là người của Dân Tộc Viêm Việt, cũng như Chu Dịch, Liên Sơn Dịch, Quy Tàng Dịch đều có Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, còn trong dịch Việt Nòng Nọc chúng ta thì không có Kim, Mộc mà chí có phần Tứ Hành là Lửa, Nước, Gió, Đá Đất.
Trong sách An Nam Chí Lược của Cao Hùng Trưng có chép " Nguyên đất Nam Man khi chưa có Quân Huyện ( Lúc ấy chưa Bắc thuộc Trung Hoa ) có ruộng Lạc theo nước dâng lên xuống mà khẩn ruộng ấy là Lạc Dân, cai trị Dân ấy là Lạc Vương. Đều có ấn đồng thau xanh. Gọi là nước Văn Lang lấy thuần phác làm tục, thắt nút thừng làm trị,( lúc này chưa có chử viết ) Truyền được 18 Đời. " ( Ngô Sĩ Liên Đại Việt Sử Ký Toàn Thư .)

NHỮNG TỘC NGƯỜI CÓ LIÊN HỆ GẦN VỚI NƯỚC VĂN LANG:

     Theo Thuỷ Kinh Chú là một cuốn sách viết khảo sát các con sông trong Đại lục TQ vào thời Bắc Nguỵ của Lịch Đạo Nguyên thì : - Nước Văn Lang là Sài Lang vì dân tộc nơi đây lấy biểu tượng con vật là SÓI, LANG. Nhưng không phải như vậy tên Văn Lang của chúng ta là : “ Người RẠNG SÁNG “ vì âm ngữ của người Việt cổ vần “ N “ và “ L “ như nhau chử “ S “ và “ TH ” . Cũng có thể là một sự kết hợp giửa hai tộc là Tộc Việt Lang và Tộc Bộc Lang ( ở vùng Lưỡng Quảng ) nên gọi chung là Văn Lang tức là “người rạng sáng” cũng như trước kia thời Kinh Dương Vương Lộc Tục đặt tên nước là XÍCH QUỶ có nghĩa là : “ Người Lửa Mặt Trời “. Cho nên Tứ Di mà người từ thời Nhà Chu gọi dân tộc Việt là : Người Lửa Mặt Trời ; Người Nước Mặt Trời ; Người Gió mặt Trời ; Ngưới Đá Mặt Trời . thể hiện trên là bốn chi nòng cốt của Người Việt Cổ, cho đến khi thành lập Quốc Gia Văn Lang thì ý nghĩa cũng không khác đó là : “Người Rạng Sáng” con cháu của Thần Mặt Trời.
     Mãi đến đời Thục Phán An Dương Vương thì được ông kết hợp lại Tộc Aâu và Tộc Lạc định danh tính của 2 tộc này làm tên của Quốc Gia Aâu Lạc. Vì Aâu là theo họ Ngoại, còn Lạc là theo họ Cha, ( Thục Phán ở nước Ba Thục, nước Tê Giác ) nằm trên phía Bắc của Văn Lang, củng là một Chi của ngành Aâu ) còn Văn Lang là chi ngành Lạc ).
Hiện nay tại vùng Lưởng Quảng của Trung Quốc vẫn còn dân tộc Choang hay người Thổ Lang, cách đây 4,5 thế kỷ vẩn còn được gọi là người Lang cũng là thành phần dân tộc Bách Việt là Bộc Lang và Việt Lang. Địa Danh Lưỡng Quảng chính là Lưỡng Lang ( Việt) ở vào thế kỷ thứ 6 TrCN, trở về trước, nay đã Hán hóa đọc trại âm là Lang = Wouảng , vì trong ngôn ngử Hán không có Phụ âm “ R”. Xem thế thì chúng ta biết rằng thời ấy vùng Lưỡng Quảng là địa bàn sinh tụ thời kỳ cổ của dân tộc Việt, nên các thành tố ngôn ngữ “ Lang “ khá trùng hợp vào địa giới quốc gia Văn Lang vào thời cổ đại, ta có thể thấy qua các Địa Danh cổ ngữ có nhiều ở các tỉnh hiện nay ở Trung Quốc Như : Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Hồ Nam, nhất là ở Lưỡng Quảng. Qua việc nghiên cứu thời đại các vua Hùng giúp chúng ta hiểu rỏ thêm nhiều dân tộc ở Đông Nam Á.
     Ở Miến Điện có tộc người Môn có Văn Hóa và ngôn ngữ cũng giống như dân tộc thiểu số người Mường , Thái nước ta.
Thời nhà Hạ năm 2020 TrCN, người TQ chia đất nước ra 9 châu lớn trong đó có Châu Kinh tức là Kinh Việt ( Châu Kỳ ) hay còn gọi là Dương Việt ( Thành Châu Dương). Khu Tứ giác bờ Tây Sông Hán chủ vùng đất cũng là một chủng gọi là Việt cạnh đó có một ngọn núi tên là núi Kinh, Tỉnh Hồ Bắc nằm trong khu tứ giác đó cũng là đất của chũng Bách Việt . Đến Thế kỷ thứ 21 Trước CN sự phân hóa hình thành các dân tộc rỏ nét trong giòng Bách Việt còn lại trong các tộc người thờ Điểu Tục gồm Việt Lang, Bộc Lang, Bạch Lang, Dạ Lang, Tchang Lang, Văn Lang tất cả những tộc người này ở từ Lưỡng Quảng Trung Quốc đến Thanh Hóa Bắc Trung bộ Việt Nam.
     Khi Quốc Gia Văn Lang Thành Lập lần 2 xem Châu Phong ( Đất Tổ Hùng Vương) là Trung Tâm Văn Hóa của Nhà Nước Văn Lang ( Người Việt cổ chúng ta đưa tất cả Di hài cốt của Ông cha táng nơi đất củ ( Từ Nam Hoàng Hà và Bắc Ngũ Lĩnh ) cải táng lại nơi Lỉnh Nam đất Phong Châu. Người Việt Cổ xem Hài cốt Tổ tiên như chính sinh mạng của mình, vận mạng người sống đều hàm ơn của Tổ tiên nên họ quan niệm thuật Phong thuỷ Aâm Dương Trạch, Người Sống thì có nhà, người chết thì có cái mồ, của cải làm ra được đều phải chia cho người chết, táng theo trong huyệt mộ để tỏ lòng hiếu kỉnh vi tại tiền.

Người Trung Quốc xem các dân tộc khác là Man Di họ xếp dân tộc Bách Việt Chúng ta gồm : Tứ Di gồm Đông Di, (Tây)Âu Di, Lạc Di, Giao Di. Tất cả tứ di ở trên đều là có chung nguồn gốc tổ tiên là Đế Minh và Bà Vụ Tiên, ngoài ra còn có dân tộc người AoNaGa ở Tây Nam Trung Quốc, Vương Quốc LaNa( ở ChiangMai Thái Lan) có nghĩa là người Lang Mới là thành phần Dân tộc Bách Việt của chúng ta .( di tích khảo cổ cho thấy có những rìu bằng đồng gọi là Phủ Việt, các tầng văn hóa có vết tích lên hệ văn hoá dân tộc Việt Cổ )
Nhật Bản và Đại hàn có chung dòng máu Đông Di. Nay Tây Phương gọi là Tungus ( Đông Quốc ).
Cờ Nam Hàn có tượng Lưởng Nghi ( hình ảnh trứng Vũ Trụ ) trong cổ sử Đại Hàn Trong Thập Nhị Tứ Sử của TQ ghi : “ Rợ Đông Di Tam Hàn thành lập 3 tiểu quốc 1- Câu Cú Lệ. 2- Bách Tế. 3- Tân La ( Sila 936 S.CN). Đời Tây Chu gọi dân tộc trên là Lạc Di vốn là dân tộc Lạc Việt.
Cờ Nhật Bản có hình ảnh của hình trứng Vũ Trụ Thái Cực và Nhật Bản thì tự nhận họ là con cháu Thái Dương Thần Nử ( đó là hình ảnh của Thái Dương Thần Nử Aâu Cơ, theo cổ thư của Nhật vị Thần Nử này là tổ đời thứ 6 của Lạc Di, cũng giống như chúng ta vì Mẹ Âu Cơ cũng là đời thứ 6 nếu tính từ đời Viêm Đế Thần Nông :
1 ) Viêm Đế Thần Nông + Nử Thần Nòng Trứng Vô Cực.
2 ) Đế Khôi + ???
3 ) Đế Thừa + ???
4 ) Đế Minh + Vụ Tiên.
5 ) Kinh Dương Vương + Long Nữ.
6 ) Lạc Long Quân + Aâu Cơ .
7 ) Hùng Quốc Vương + Hoàng Hậu vợ Hùng Quốc Vương. . .
Như vậy Nhật Bản chính là con cháu âu Cơ Thái Dương Thần Nử thuộc chi Aâu Tày.
Người Mả Lai cũng là thuộc chi Giao sống trên Sông Nước thuộc dòng Lạc.
Người Aâu OA ở ASSAM tộc Naga là thuộc họ Nọc Việt Mặt Trời. Ơû cực Tây tỉnh Vân Nam.Trung Quốc.

TÍN NGƯỠNG NGƯỜI VIỆT CỔ:

Thời cổ đa số dân tộc Viêm Việt có Tín Ngưỡng thờ Thần Trứng vũ trụ, thờ Mặt Trời tức là Vũ Trụ Giáo, vì tất cả những vật có biểu tượng Lửa từ Bầu Trời ( Nọc ), Nước từ Bầu Trời ( Nòng ) hay từ Trứng Vũ Trụ, do đó mới có Điểu Tục xem Chim Hồng Hoàng Bồ Cắt là Linh Vật của Trời, thờ Bọc Trứng là vật Tạo Sinh
Các thị tộc bộ lạc của người Việt cổ biết trao đổi mua bán, dần dần tạo cái thế cho một quyền lực thống nhất tối cao để thống trị các bộ lạc anh em, nên vị đứng đầu quyền lực này được gọi là Hùng Vương là những người có tài trí. Chính quyền Trung Ương tức là nói đến Vua Hùng, là người đứng đầu trong thế Chính Trị và Quân sự của đất nước Văn Lang biết sử dụng Huyền thuật, Y thuật, Học thuật Dịch lý. ngòai ra Vua Hùng còn là một vị Giáo Vương thờ TRỜI một tín ngưỡng thời cổ đại lưu truyền, Vị Vua thay quyền năng TRỜI mà dẫn dắt tinh thần của dân tộc
·     -Nền Tôn giáo cổ đại của người Việt là thờ TRỜI, Lưởng nghi : NÒNG ( âm ) và NỌC ( dương ) trong thế giới tạo sinh . Vị sơ nguyên tổ của Người Việt cổ biết vẻ ra Bát Quát Nòng Nọc ( Dịch Việt ) vào Thiên Niên Kỷ thứ tư Tr.CN .
·     -Y thuật thời này Người Việt cổ biết nuôi trồng những cây cỏ, sản, vật để làm thuốc chửa bệnh.
·     -Các Huyền thuật của các vị Tư tế trong những nơi thờ tự , là nghi thức giao cảm, thông công thế giới vô hình, họ biết cách sử dụng năng lực siêu nhiên để làm nên những sự việc ngòai năng lực con người.
Luật pháp thời này có tính chất tín ngưỡng, những tập tục, những điều cấm kỵ mang hình thức Tôn Giáo, về tinh thần Người Việt cổ ý thức kỷ luật, tính bất khuất chống ngọai xâm được rèn dủa nhạy bén qua những thời kỳ chiến tranh với các tộc người phương Bắc, nó trở thành một đặc tính của dân tộc.
Xã hội thời kỳ đầu xây dựng nước Văn Lang của người Việt cổ, là một tập hợp các dân tộc bộ lạc trong Bách Việt di cư từ lưu vực sông Hoàng Hà, sau đó hình thành một nhà nước phong kiến đơn giản là những thủ lỉnh trong tập đòan chống lại kẻ xâm lược, ngay trong thời kỳ này các Vua Hùng cũng phải lao động cấy cày như dân, nhưng quyền lực Vua Hùng chi phối cả tòan dân, trên thì có Vua dưới có các lảnh chúa cai trị các vùng đất được vua phong ban, việc hình thành các đẳng cấp theo nhu cầu thời bấy giờ, Xã hội người Việt cổ đã trở thành một Nhà Nước sơ khai theo thể chế Dân Chủ quân sự, nó thích hợp cho quá trình đấu tranh, lao động sản xuất, bảo tồn nòi giống, người Việt đã kinh nghiệm những thất bại từng trải qua trong những cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước Việt cổ với các chủng tộc khác, đó cũng là lý do tại sao dân tộc Việt di dân từ Hòang Hà đến phía Nam núi Ngũ Lỉnh rồi sau cùng đến đất Phong Châu.
Khi chiến tranh xảy ra, Người Việt cổ thông báo cho nhau bằng cách đánh trống đồng, người nào có trống đồng tức là người có đầy đủ quyền năng để dân chúng phục tùng mệnh lệnh, các Bộ tổ chức lực lượng vũ trang cùng liên kết với nhau chống giặc ngọai xâm, theo mệnh lệnh của Vua Hùng, Trống Đồng là một phản ảnh văn hóa kỷ thuật cao của dân tộc Việt trong thời bấy giờ, những chi tiết minh họa trên tang trống nói lên sự sinh họat và tín ngưỡng Tôn giáo thờ TRỜI và nền văn hóa Nông Nghiệp .
     Những tập tục lể hội tín ngưỡng như : cầu Thủy Thần mang tính chất về Nông Nghiệp, thờ cúng Vật Tổ ( Totem ) các lòai Chim Thiêng Liêng, Phụng Hòang Đất hay con Ròng nước ( Trăn Nước ), tóm lại người Việt cổ có tín ngưỡng tổng hợp thờ cúng các hiện tượng tự nhiên và các Thần Động vật khác có khả năng sát hại con người. Tuy những hình thức thờ TRỜI và cúng bái đa thần, ngòai ra người Việt cổ còn thờ Nhân Thần, một ý thức về nòi giống và tập thể cộng đồng , đã dẫn đến người Việt cổ sùng bái trước hết là Tổ Tiên, những người đứng đầu cộng đồng dân tộc của mình, vị Nhân Thần lớn nhất, tối cao nhất làm chủ các miền đất đai của dân tộc hiển nhiên là : Các Vua Hùng qua các triều đại. Việc sùng kính các Nhân Thần cụ thể này là một tiền bản sắc dân tộc đi đến chổ đồng nhất, họ hệ thống các vị Thần Trừu Tượng tồn tại trong quan niệm tín ngưỡng từ trước như : Thủy Thần, Thần Núi, Thần Lửa, Thần Đất .v.v. . .
Hiện tượng đặc sắc tín ngưỡng thờ những vị Nhân Thần là những người dựng nước đầu tiên là Tổ Tiên của dân tộc, tức là Đức Kinh Dương Vương, Long Mẩu, Lạc Long Quân, Aâu Cơ và các Anh hùng dân tộc như : Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Hai Bà Trưng .v.v. . .

Tóm lại chúng ta thấy rằng vào thời Hùng Vương việc thờ Ong Bà Tổ Tiên là một nền Đạo mặc nhiên của Dân Tộc. Song song với việc thờ Tổ Tiên thời Hùng Vương còn tôn thờ những Anh HuØng Văn hóa, hay có công trong cuộc chiến đấu chống ngọai xâm, dù tín ngưỡng thời Hùng Vương đa dạng pha trộn chằng chéo với nhau chưa có một hệ thống chủ đạo chung, nhưng phong cách của tín ngưỡng thời này nổi bậc nhất là nền tôn giáo thờ cúng TRỜI và Tổ Tiên rất đậm nét bản sắc văn hóa của dân tộc. Điều này đã chứng tỏ suốt một tiến trình lịch sử văn hóa tinh thần của dân tộc Việt cho mãi đến nay.. Trống Đồng cũng là vật biểu của vũ trụ giáo, bằng chứng cho chúng ta thấy là” Quốc Gia Xích Quỷ “ là nói đến Dân Tộc Lửa Mặt Trời hay là Ngưởi Lửa đỏ Mặt Trời, đó là hiện tượng sự sùng bái tự nhiên, ngay chính các Vua Hùng đều là những vị "Giáo Vương đạo Trời"dụng tín ngưỡng để cai trị dân :
_Thờ cúng Trời, Đất.
_Thờ cúng Tổ Tiên và các Đấng Thần Thánh.
_Thờ cúng các hiện tượng tự nhiên.
_Thờ Vật Tổ như : Ròng, Rắn, Chim Hồng, Chim Bổ Cắt, Chim Lạc (?) Thú Như : Hươu Sủa ( Ky Yang).
_Thờ sinh thực khí của giống Nam, Nử.( Nguồn Aâm Dương tạo sinh )
_Biểu tượng cũng như tín ngưỡng của Quốc Gia : Mặt Trời với 14 nọc tia sáng ( trên trống Đồng ) các con chim Hồng Hoàng bay lượn quanh mặt trống. . .( 14 Bộ và trung ương Văn Lang ).
Các tượng thờ này tìm trong các di chỉ khảo cổ. Đào Thịnh, Sông Mã, Văn Điển, Phong Châu làng Đông kỵ Phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Điển hình có những buổi lể hội.
              
Việc Vua Hùng là một vị lảnh đạo tín ngưỡng tinh thần, chúng ta thấy qua thư tịch cổ : Đại Việt Sử Lược là loại thư tịch cổ nhất còn truyền lại ngày nay, cũng nói Vua Hùng Đóng đô ở Phong Châu lập nước Văn Lang như sau : ". . . Đến đời Trang Vương Nhà Chu năm 698-682 trước CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ thường, dùng ảo thuật áp phục các Bộ Lạc, tự xưng là Hùng Vương . . . " Thời thái cổ những người biết được pháp thuật hô phong hoán vũ, đi mây về gió, xuống các cỏi Aâm rước các hồn, chỉ có các Thầy Mo, Bà Đồng, Thầy Pháp. Như vậy Vua Hùng Vương phải là người am hiểu pháp thuật, là một vị giáo sĩ của Vũ Trụ Giáo tự xem mình là Thiên tử tức là Con Trời, lại còn là vị thầy thuốc chửa bệnh còn được gọi là Lang, và toàn dân tộc xem như con của Vua Hùng. Hùng Lân Lang là người biết làm pháp thuật và chửa bệnh bằng tín ngưỡng, cho nên Hùng Vương áp đảo được các bộ lạc khác tuân theo tôn xưng làm Vương của họ, thì quả là vị Giáo Vương của Đạo Trời.
Dân tộc Việt chúng ta là một dân tộc hiếu hòa nên thời kỳ Văn Lang phát triển giao lưu văn hóa với các nước ngòai, người Việt cổ tiếp thu nhanh những yếu tố giúp cho việc kỷ thuật sản xuất và kinh tế , về văn hóa thời này thông dụng Ghi chép lại gọi là "Thừng Văn" kết trên mo cau, vỏ cây, hoặc là truyền khẩu trong Dân gian. Chử viết người Việt cổ sử dụng chử viết Nòng Nọc âm dương hay lối thắt gút, gồm những đọan dây to nhỏ có thắc gút nhuộm màu sắc khác nhau, nó là một văn bản truyền đạt thông tin, văn hóa cho thời ấy, nếu khi dùng vào việc thống kê tính tóan, thì mổi nút thể hiện là một con số hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn .v.v. . . ( cũng giống như “Kipu “ của Đế Quốc INCA ở PêRu Nam Mỹ) ).
Một mặt khác chúng ta biết rằng vào thời Hùng Vương những người có tài, trí đều là những người sau này được đứng vào hàng lảnh đạo nhân dân, cho nên những Quang Lang ( ý nghĩa là sáng lạng chứ không phải là Quan tước ) con Vua Hùng Vương được truyền các học thuật như : VIỆT DỊCH NÒNG NỌC, Y THUẬT, HUYỀN THUẬT của Tôn Giáo MẶT TRỜI. Vì thế Hùng Vương là một người am hiểu VIỆT DỊCH NÒNG NỌC , biết sử dụng Việt Dịch để cải biến hoàn cảnh xuyên qua nhiều chiều không gian nơi cỏi tạo hoá, nên được các Bộ khác quy phục tôn xưng là người có tài trí pháp thuật. Nên tất cả con của Vua Hùng Vương phải am tường Việt Dịch bằng chứng là Hoàng Tử Tiết Liêu ( Lang Liêu ) làm Bánh Dầy và bánh Chưng dâng lên vua Hùng , sau đó được vua cha truyền ngôi.
-Bánh Dầy = Bánh Thầy ( cha ) biểu tượng là NỌC = DƯƠNG.
-Bánh Chưng = Bánh U ( Mẹ ) biểu tượng là NÒNG = ÂM.
     Ngoài ra Bánh Dầy và Bánh Chưng còn nói lên HÀ ĐỒ Và LẠC THƯ ( ý nghĩa Trời Tròn Đất Vuông ) là một biểu tượng của VIỆT DỊCH NÒNG NỌC.
     Tín ngưỡng của người Việt cổ Thờ TRỨNG VŨ TRỤ, THẦN MẶT TRỜI ( là con mắt của Vũ Trụ ), Phần Tứ Hành của cỏi tạo hoá sinh là : LỬA, NƯỚC, GIÓ, ĐẤT ĐÁ. Nên khi các dòng tộc Việt chia ra làm bốn Chi theo Aâm Dương tứ hành : Chi Lửa, Chi Nước, Chi Gió, Chi Đất Đá.
     Người Việt cổ có quan niệm Vũ Trụ Quan gồm ÂM DƯƠNG = LẠNH NÓNG. Chứ không như Chu Dịch của Trung Hoa là :    Trời và Đất . Và như thế trải qua các thời đại Chu Dịch mới hoàn chỉnh như ta thấy hôm nay.

THỨC ĂN VÀ TẾ THỰC CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ .

     Theo Lỉnh Nam Trích Quái thì người Việt cổ vào thời Nhà Nước Văn Lang “ Lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang ( bột báng ) và cây Tung Lư làm cơm, lấy cầm thú, Ba Ba làm mắm, lấy rể củ gừng làm muối, sản xuất được nhiều gạo nếp lấy ống tre mà nấu nướng trên lửa để dùng( tục này các dân tộc Tây Nguyên hiện nay vẫn còn nấu cơm bằng ống tre Lồ ồ non ). “ ở đây chúng ta chú ý cây Quang Lang ( bột báng ), con Vua Hùng cũng được gọi là Quang Lang, chử quang đây là “ Sáng , lạng “ chứ không phải là quan tước,   như vậy bột báng là một loại thức ăn quý, nhu cầu cần thiết, mặc dù chúng ta cũng biết làm ra lúa gạo, là một thức ăn quốc hồn quốc tuý, còn cây tung lư là cây kè bột hiện nay thổ dân tại Nam Dương vẫn còn dùng như một thức ăn chính yếu của họ…
     Mãi đến sau này Người Việt cổ biết canh tác các loại khoai củ, đậu , đổ bổ sung cho thức ăn hằng ngày của họ, khi đánh bắt được thú vật hoăïc hải sản, lúc đầu họ xẻ thịt muối phơi khô, hoặc làm mắm để ăn dần, sau này mới ăn thức ăn tươi nấu nướng chín.
Tế thực là vật tế như giết thú vật Trâu, Dê, Bò, Lợn, Xôi, oản .v.v. . . Họ lấy máu và thịt đem đốt cháy dâng tế các vị thần linh của Vũ Trụ Giáo.
Có nhiều Bộ Lạc uống máu tươi khi hiến tế sinh vật đó là một hình thức nghi lễ của các tín ngưỡng thờ thần ngày xưa ( Hiện nay không còn tập tục ấy nhưng một số ít dân Việt còn thích nếm mùi máu tươi sinh vật như : Aên tiết canh Gà, Vịt, Heo, Trâu, Bò . v.v. . .

TRANG PHỤC VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ:
     Người Việt cổ búi đầu, đội mủ lông chim, Nam thì vấn Khố, Nử thì mặc váy xẽ vạt kết lông chim. Người Việt cổ mặc khố dây, khố dảy. Còn mặc áo thì phải chui qua đầu như mặc áo Poncho, Nử mặc váy xoè kết lông chim xẽ vạt trước sau, đầu đội mủ lông chim Trỉ dài, Chân đi hài bện bằng loại cỏ sậy mọc theo các bải đầm lầy. Dân tộc ta sinh sống gắng liền với sông nước và ruộng nước cho nên nhu cầu ăn mặc giản tiện như thế để dể sinh hoạt trong môi trường sông nước . Chính Triệu Đà thế kỷ Thứ 2 trước CN sau khi chiếm đất xưng vương thành lập nhà nước Nam Việt đã mệt thị Dân Tộc ta như sau : "- Cởi trần mà cũng xưng Vương ".
Người Việt Cổ làm nhà sàn hoặc nhà ở trên cây, hoặc xây nhà tròn bằng đất sét bện cỏ khô, có đào đường ngầm đi vào bên trong ngôi nhà. Trong sách Lâm Aáp Ký có ghi “ Phía Nam Chu Ngô có giống người được gọi là Văn Lang, họ không biết xây nhà mà ở trên cây, hoặc làm nhà dưới mặt đất, ăn sống những cá thịt ( thực chất là những món thịt cá này được muối để dành ăn lâu dài không bị phân huỷ hư thối), họ buôn bán các chất thơm, các loại ngọc quý, và sơn hào, họ biết “Đao canh thuỷ chủng” loại lúa mọc dưới nước, thường ở gần con sông nhỏ tên là Bộc Văn Lang ( 2 vùng trước kia của hai họ dân tộc ta gọi là Bộc Lang và Việt Lang tức là Lưởng Lang ngày nay trở thành tên gọi là Lưởng Quảng : Quảng Đông và Quảng Tây TQ. Phía trên là địa phận của nước Kinh Sở cũng là một thành phần của bộ tộc Bách Việt của chúng ta địa danh ấy bây giờ cũng có tên là Quảng . . .)
     Những cái vốn Văn Hóa Thái Nho mà cha ông chúng làm nên với bãn chất chân thuần phác con người Việt tộc, vốn gắng bó với nền nông nghiệp đã hơn năm ngàn năm qua, cái Tinh Thần bất khuất kiên cường của dân tộc không lùi bước trước áp lực của ngoại bang, chúng ta dù bị đô hộ hơn một ngàn năm nhưng không bị đồng hóa, không vong bản, mất gốc, bằng chứng tất cả các nền văn hóa khác du nhập vào đây đã bị Việt Nho Hóa, chúng ta dung hòa mọi hình thái, tư tưởng để xữ dụng làm lợi ích cho dân tộc cho đất nước.
     Bàn tay thiêng liêng vô hình của cha ông chúng ta luôn gắng bó cùng vận mệnh đất nước xoay chuyễn cho dân tộc Việt luôn tiến lên theo bước tiến của nhân loại, là một dân tộc có chiều sâu về tâm linh, minh triết luôn ý thức về Dân tộc tính, là đại gia tộc có chung giòng máu Rồng Tiên, luôn giử vững chử Việt như : Viêm Việt, Việt Thường, Hoàng Việt, Hùng Việt, Lạc Việt, Nam Việt, Đại Cồ Việt rồi đến Việt Nam, sự gắng bó này rất đặt sắc chúng ta không quên nguồn cội của Dân tộc, có các tộc chi khác còn nằm sâu lại vùng đất bên Trung Hoa, không màn đến tên Việt, một mặt khác các triều đại Phong kiến Trung Hoa cố xoá bỏ cái tên Việt mà 70% dân tộc Bách Việt còn ở lại vùng đất Việt củ, ngay cả tên Lưỡng Lang : Lang Việt và Lang Bộc cũng được đổi danh tính là Lưỡng Quảng.
     Ngày nay chúng ta trở về nguồn cội không có nghĩa là phải hành hương về vùng đất Việt củ, mà là quay về cái cội nguồn Tổ Tiên trong lòng Dân Tộc, xả bỏ những kỳ thị, ngăn che, thù nghịch, cùng nhau phấn đấu vực dậy cái tinh thần đoàn kết đã bị cảnh đời với bao biến cố làm thay đổi trong những thập kỷ qua, xa hơn nửa để biết chúng ta còn có những anh em thuộc dòng Tộc Viêm Việt ở những địa phương trong Năm Châu Bốn Bể, mặc dù bây giờ đã khác tiếng nói, khác phong tục tập quán, nhưng họ vẫn còn một chút gì ảnh hưởng trong nền Văn Hóa của tổ tiên Viêm Việt, thì chúng ta đã làm trọn sứ mạng Bốn Biển là anh em, tất cả nhìn nhau trong tinh thần Đại Đoàn Kết thế giới xây dựng một thế giới hoà bình an lạc./.


                                            


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 69 of 110: Đă gửi: 28 July 2004 lúc 5:02am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Anh Dao Ky đă bỏ công lớn ghi lên cho chúng tôi biết những tư liệu lịch sử; nhằm chứng minh Việt tộc với nền văn hiến 5000 năm. Tôi chỉ xin được bổ sung thêm là:
Lạc Việt là một danh từ chung chỉ toàn thể bách Việt; ko phải là danh tù riêng chỉ một bộ phận người Việt trong Bách Việt.
Tôi sẽ xin chứng minh điều này.
Vài lời tường sở ngô.
Thiên Sứ

Sửa lại bởi ThienSu : 28 July 2004 lúc 5:04am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 70 of 110: Đă gửi: 28 July 2004 lúc 7:34am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Cảm ơn Huynh Daoky dầy công khái quát thời dựng nước - phả hệ Vua Hùng, văn hóa và tín ngưỡng của đất nước có quốc hiệu Văn Lang
Kính
Pháp Vân
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 71 of 110: Đă gửi: 30 July 2004 lúc 2:13am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

Hi all!
Chao ThienSu, PhapVan !

DaoKy nghĩ những đóng góp ấy cũng không là ǵ cả. Những tư liệu trên DaoKy bỏ ra một thời gian tham khảo, nhận định thấy hoàn toàn phù hợp những thành tố và địa bàn cư trú người Viêm Việt, sau khi Kinh Dương Vương thành lập nhà nước "Xích Quỷ" ( Tiếng Hán gọi nhà nước đầu tiên của ta ),rồi đến giai đoạn Đức Quốc Phụ Lạc LOng Quân thành lập nhà nước "Bách Việt". Trên thực tế không phải Đức Quốc Mẫu Âu Cơ Tiên Mẫu sinh 100 trứng đâu! Đó là Đức LLQ sử dụng quyền biến của Hà Đồ Lạc Thư để kết hợp 100 bộ lạc Viêm Việt thành một "Đế Quốc Mặt Trời Lửa Đỏ" gọi là Bách Việt. Một hôm Ngài triệu tập quần thần công bố rằng: "-Quốc Mẫu đă sinh ra 100 trứng và sẽ nở ra 100 Hoàng tử..." Sau đó ông đưa ra một bọc bằng lụa trắng trong ấy có 100 viên trân châu chiếu sáng ngời! Sau này ông phân định 45 con theo Cha sinh sống vùng biển tức thuộc ḍng Lạc ( Nọc). và 55 con theo Mẹ Âu Cơ về đồng bằng sinh sống phát triển tức ḍng Âu (Ṇng).
Sau này đến đời Hùng Quốc Vương các bộ phận dân tộc Bách Việt chia ra gịng Lạc như Giao Việt, Hoàng Việt, Mân việt, Ngô Việt, Lạc Việt, Kinh Việt, Nước Sở cũng là những ḍng của Kinh Việt .v.v.
Gịng Âu Tày. ở Quư Châu, Vân Nam, Người Ba Thục, Người Âu OA ở ASSAM Naga Miến Điện. v.v.
Vài hàng mạn đàm, những lời của DaoKy sẽ không đúng như sự hiểu biết của các bạn, hy vọng các bạn đừng chấp. Chúc các bạn vui vẻ. Thân
DaoKy


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
dienbatn
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 19 June 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 326
Msg 72 of 110: Đă gửi: 02 August 2004 lúc 11:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn dienbatn

Ừa, vậy phải như vậy chứ bác DaoKy.Dạo này công lực ngồi gõ của bác tăng lên siêu hạng rồi đó. Hoan hô bác Daoky.dienbatn dạo này đang đi Tabà nên ít lên mạng.Cảm ơn bác đã hưởng ứng . Thân ái.dienbatn.
Quay trở về đầu Xem dienbatn's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dienbatn
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 73 of 110: Đă gửi: 03 August 2004 lúc 9:22am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

hello Dienbatn!
Lâu quá Đệ không về nhà sao cứ mãi ta ba ha à? Đây cũng là cái nghiệp đó thôi hiihihi!!! khi nào về ghé huynh nha . Chúc Đệ vui vẻ và gặp nhiều tài lộc. Thân.
Huynh DaoKy.



__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 74 of 110: Đă gửi: 03 August 2004 lúc 3:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Huynh Đao Ky thân mến!
Đệ có vài lời gửi đến huynh v́ biết rằng: Huynh có ḷng với văn hoá Việt. Nhưng nội dung bài viết của huynh có điểm mà đệ cho rằng: Thuộc về những luận điểm mà những người theo quan điểm lịch sử mới đang lợi dụng - không có cơ sở khoa học - để phủ nhận truyền thống lịch sử 5000 năm văn hiến (Có nội dung cao cấp hơn văn hoá)của dân tộc Việt. Đệ cho rằng đây không phải ư muốn của huynh; mà có thể chỉ là một sai lầm mà thôi. Bởi vậy; nhưng đệ không yên tâm nên viết gửi đến huynh.

Huynh viết:
Người Việt cổ búi đầu, đội mủ lông chim, Nam th́ vấn Khố, Nử th́ mặc váy xẽ vạt kết lông chim. Người Việt cổ mặc khố dây, khố dảy. C̣n mặc áo th́ phải chui qua đầu như mặc áo Poncho, Nử mặc váy xoè kết lông chim xẽ vạt trước sau, đầu đội mủ lông chim Trỉ dài, Chân đi hài bện bằng loại cỏ sậy mọc theo các bải đầm lầy. Dân tộc ta sinh sống gắng liền với sông nước và ruộng nước cho nên nhu cầu ăn mặc giản tiện như thế để dể sinh hoạt trong môi trường sông nước . Chính Triệu Đà thế kỷ Thứ 2 trước CN sau khi chiếm đất xưng vương thành lập nhà nước Nam Việt đă mệt thị Dân Tộc ta như sau : "- Cởi trần mà cũng xưng Vương ".
Người Việt Cổ làm nhà sàn hoặc nhà ở trên cây, hoặc xây nhà tṛn bằng đất sét bện cỏ khô, có đào đường ngầm đi vào bên trong ngôi nhà. Trong sách Lâm Aáp Kư có ghi: Ộ Phía Nam Chu Ngô có giống người được gọi là Văn Lang, họ không biết xây nhà mà ở trên cây, hoặc làm nhà dưới mặt đất, ăn sống những cá thịt ( thực chất là những món thịt cá này được muối để dành ăn lâu dài không bị phân huỷ hư thối), họ buôn bán các chất thơm, các loại ngọc quư, và sơn hào, họ biết ỘĐao canh thuỷ chủngỢ loại lúa mọc dưới nước, thường ở gần con sông nhỏ tên là Bộc Văn Lang ( 2 vùng trước kia của hai họ dân tộc ta gọi là Bộc Lang và Việt Lang tức là Lưởng Lang ngày nay trở thành tên gọi là Lưởng Quảng : Quảng Đông và Quảng Tây TQ. Phía trên là địa phận của nước Kinh Sở cũng là một thành phần của bộ tộc Bách Việt của chúng ta địa danh ấy bây giờ cũng có tên là Quảng . . .)


Đây chính là một h́nh ảnh rất thô thiển về dân tộc Việt mà huynh có thể t́m trong những cuốn sách mà từ đó dẫn tới luận điẻm phủ nhận truỳen thống 5000 văn hiến của dân tộc Việt. Những h́nh ảnh này đệ thấy không có cơ sỏ khoa học mà chỉ là sự áp đặt chủ quan của luận điểm phủ nhận văn hoá dân tộc. Về y phục dân tộc Việt; đệ đă chứng minh ngay trong trang web tuvilyso này. Đệ tuy tài hèn; nhưng cũng nhận thấy sự chứng minh của đệ rất chặt chẻ. C̣n việc đưa ra h́nh ảnh tổ tiên ta "ở trần đóng khố" mà một số sách nói tới /Huynh viết lên/ là căn cứ vào yếu tố nào? Những lập luận này hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Họ căn cứ vào một hiện tương Triệu Đà ở trần đóng khố để làm luận cứ chứng minh cho dân tộc Việt ở trần đóng khố ư? Đấy chỉ là một hiện tượng. Hiện tượng này có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Thí dụ: Hiện tượng này là một thủ đoạn nhằm đánh lạc hướng suy luận của sứ giả nhà Hán chẳng hạn. Mục đích làm cho sứ giả Hán coi thường thực lực của Nam Việt sẽ không chú ư và để cho Triệu Đà rảnh tay làm việc khác. C̣n sách Lâm Ấp kư viết từ hồi nào? Tộc Văn Lang là tộc nào? Có thể chứng minh được tộc Văn Lang là người Việt không? (Chỉ thấy nói nước Văn Lang trong cổ sử Việt)

Huynh viết:
     Bàn tay thiêng liêng vô h́nh của cha ông chúng ta luôn gắng bó cùng vận mệnh đất nước xoay chuyễn cho dân tộc Việt luôn tiến lên theo bước tiến của nhân loại, là một dân tộc có chiều sâu về tâm linh, minh triết luôn ư thức về Dân tộc tính, là đại gia tộc có chung gịng máu Rồng Tiên, luôn giử vững chử Việt
Để viết những lời này chứng tỏ huynh có ḷng với tinh thần dân tôc. Nhưng vấn đề hiện nay không phải là danh từ và khẩu hiêu; mà là phải chứng minh cho tínhxứng đáng của ḷng tự hào về cội nguồn 5000 văn hiến. Ḷng tự hào này không ăn nhập với h́nh ảnh người Việt ở trần đóng khố.
Huynh viết tiếp:
như : Viêm Việt, Việt Thường, Hoàng Việt, Hùng Việt, Lạc Việt, Nam Việt, Đại Cồ Việt rồi đến Việt Nam, sự gắng bó này rất đặt sắc chúng ta không quên nguồn cội của Dân tộc, có các tộc chi khác c̣n nằm sâu lại vùng đất bên Trung Hoa, không màn đến tên Việt, một mặt khác các triều đại Phong kiến Trung Hoa cố xoá bỏ cái tên Việt mà 70% dân tộc Bách Việt c̣n ở lại vùng đất Việt củ, ngay cả tên Lưỡng Lang : Lang Việt và Lang Bộc cũng được đổi danh tính là Lưỡng Quảng.

Huynh Dao Ky thân mến!
Đệ rất buồn. Luận điểm cho rằng: Lạc Việt chỉ là một bộ tộc trong cộng đồng Bách Việt chính là một trong những cơ sở nhằm phủ nhận giá trị văn hoá dân tộc Việt. Huynh Dao Ky hăy xem lại đoạn viết dưới đây của Nguyễn Việt Thắng trong bài phản biện bài viết của nguyễn Tiến Lăng; trong topic: Kinh Dịch/ Di sản sang tạo của người Việt:

Nguyễn Việt Thắng viết:
Nước Việt hoàn toàn không đồng nghĩa với cộng đồng Bách Việt. Nước Việt Nam ngày nay gồm nhiều cộng đồng dân tộc, trong đó người Kinh (Việt) có số dân đông nhất, cộng đồng này được cho là có nguồn gốc Bách Việt, và cũng chỉ là một phần của Cộng đồng Bách Việt vốn có rất nhiều dân tộc.
Nguyễn Việt Thắng

Thanhnienonline/ Do bạn Leminhchi pos trong topic: KinhDich/ Di sản sáng tạo của người Việt.

Luận điểm Lạc Việt chỉ là một bộ tộc trong cộng đồng Bách Việt được ông Đào Duy Anh chứng minh và đệ đă phản bác trong topic: Nước Văn Lang & Người Lạc Việt /Linh Tinh/tuvilyso . Huynh có thể tham khảo.
Huynh Dao Ky thân mến!
Đệ hoàn toàn v́ chân lư mà huynh cũng nhiệt t́nh và thấm nhuần như cha ông truyền lại:
Dân tộc Việt có lịch sử văn hiến gần 5000
Bởi vậy; dù rất khuya ; nhưng vẫn viết những lời chân thành để tường với huynh. Nếu huynh cảm thấy những luận diểm của đệ có ǵ sai xin cứ phản bác. Người xưa có viết "Quân tử tranh luận để cầu t́m chân lư" . Hy vọng huynh quan tâm và cho ư kiến.
Thân
Thiên Sứ


Sửa lại bởi ThienSu : 03 August 2004 lúc 3:59pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 75 of 110: Đă gửi: 06 August 2004 lúc 12:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Hai Huynh Daoky và Thiên Sứ kính mến,

"Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lư đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu"

Xin hai Huynh giải thích giúp bài thơ trên cho Đệ.

Kính !
Pháp Vân
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 76 of 110: Đă gửi: 07 August 2004 lúc 4:10am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Pháp Vân thân mến!
bài thơ trên được chạm và treo trong Hoàng cung ở Huế.
Từ ngàn xưa; các vị vua chúa Việt Nam vẫn một ḷng tưởng nhớ công ơn tổ tiên khai quốc mở đầu cho lịch sử gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt.
Dân tộc duy nhát trên thế giới tôn xưng văn hiến chính là dân tộc Việt Nam. Trong tiếng Anh không có từ tương đương.
Tất nhiên với một cội nguồn văn hiến trài hàng ngàn năm th́ ko thể có việc người dân nước đó trải từ lập quốc đến Triệu Đà chỉ "Ở trần; đóng khố" và mặc áo "lông chim". Con cháu của Rồng: Sức mạnh vũ trụ. Tiên: Trí tuệ siêu việt/Tiên được biểu tượng bằng h́nh ảnh chim Phượng Hoàng. Y phục của những nữ công trong cung đ́nh Huế có những dải lụa dài chính là sự cách điệu những vẻ đẹp của chim Phượng. Đấy chính là sự tiếp tục những nét truyền thống tự ngàn xưa.
Những cơ sở của nền văn hiến Lạc Việt từ thời Dựng nước này sẽ được minh chứng trong một thời gian không c̣n xa nữa.
Vài lời tường sở ngộ.
Thiên Sứ
----------------
Ta cố đợi ngàn năm.
Một ngàn năm nữa sẽ qua...
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 77 of 110: Đă gửi: 07 August 2004 lúc 1:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Pháp Vân thân mến!
Bài thơ trên có nghĩa là:
* Đất nước Việt với lịch sử văn hiến trải hàng thiên niên kỷ.
* Tri thức và những giá trị văn hoá (Xa thư: tri thức nhiều dến nỗi phải chở bằng xe) của nến văn hiến ấy bao trùm trên một đất nước rộng lớn.
* Những điều đó bắt đầu tính từ thời Hùng Vương lập quốc đến nay.
* Người Nam (bách Việt)vẫn hướng tới một xă hội đạo lư (Vương đạo)mà h́nh ảnh tiêu biểu của xă hội ấy là thời Đường Ngu (Nghiêu Thuấn).
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của bạn và quí vị.
Thiên Sứ
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 78 of 110: Đă gửi: 10 December 2004 lúc 6:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Thưa ông Thiên Sứ. Theo Tự mà nói th́ Thiên Sứ là người mang sứ điệp truyền đi. Theo Tử Vi th́ Thiên Sứ luôn ở cung Tật Ách, h́nh như cái tên nó vận vào người th́ phải. V́ ông xứng là người đang truyền một sứ điệp bên cạnh những người bạn tri ngộ của ông (nói về Tự), c̣n cái nghĩa thứ 2 th́ ông tự đánh giá qua câu này mà ông viết:
Tôi tin rằng sẽ lột danh hiệu và bằng cấp các loại của tất cả nhửng học giả trong và ngoài nước; nhưng lỡ ngu xuẩn chứng minh cho luận điểm phủ nhận 5000 năm văn hiến của dân tôc. Người đầu tiên tôi đă làm là ông Đào Duy Anh.

Tôi đă nghĩ: rằng hăy tôn trọng những công việc ông/các ông đang làm, v́ thiết tưởng đó cũng là hướng đi của các ông, ít ra chúng ta đều tự do trước niềm tin cá nhân, bản thân tôi tự nhận xét là đă thiếu chọn lọc diễn đạt khiến có những "sự chạm" không cần thiết. Nhưng đến lúc này, khi tôi đương đọc những ḍng ông viết trong cái ét xe của ông với tinh thần "hư tâm cầu học" ráng bắt chước cổ nhân, mà không bợn nghĩ đến những "cái va" không vui ǵ cho tất cả chúng ta, 1 điều đáng tiếc mà lỗi bắt đầu từ tôi, th́ tôi không muốn đừng nữa.

Việc ông dùng những ngôn từ như vậy, cách ăn nói (đúng ra th́ là cách type trên keyboard mới đúng nhỉ) như vậy khiến tôi không biết ông được giáo dục trong một nền giáo dục nào nữa, thưa Bác Dịch Thông Kinh Tiên Sinh.

H́nh như cái Đạo Dịch mà ông tiếp thụ không phải của Tàu mà chẳng phải của Ta nốt! V́ hổng lẽ các tiên tổ của con Lạc cháu Hồng của bác và tôi lại có những câu thế chăng? Tôi nghe nói: không có nền văn hóa cổ nào biểu hiện trong lành, nên thơ như hoa văn Trống Đồng và văn hóa Đông Sơn cả, v́ những hoa văn đó là h́nh hoa lá, chim muông, gái giai chèo thuyền, giă gạo, tham gia lễ hội, các h́nh kỉ hà, trang điểm cách điệu hồn hậu... các nhà Khảo Cổ ngu dốt trong nước chúng tôi (tuy tôi không KC nhưng cho họ là đồng bào vậy) chưa t́m ra dấu hiệu thô lỗ dữ dằn nào của các di vật, như các h́nh giao chiến, chém dă thú... mà ta sẽ bắt gặp trong hầu hết các văn hóa khảo cổ (do con người đang ở giai đoạn đương gần với thiên nhiên tục tính và cuộc sống gay gắt của họ). Tôi chưa nghĩ được 100% minh triết Dịch là của cha ông ta, nhưng đến nay th́ nghĩ: chẳng nhẽ người Đông Sơn trong cuộc sống c̣n bấp bênh phải đương với bao sức mạnh tự nhiên, thú dữ, kẻ thù... mà đă đạt đến tŕnh độ lịch sự nên thơ như thế, hổng lẽ họ đă viết riêng biệt truyền cho ông 1 bộ Việt Dịch trong đó cho phép 1 sĩ phu (xưa mà thông đạo Dịch th́ không phải đạo nhân cũng là sĩ phu đó) thấm nhuần Dịch Đạo nói với các tiên sinh đồng nghiệp (v́ bác đang làm công việc khoa học mà lại) và đồng bào như vậy?

Logic bác diễn đạt không cho phép hiểu 1 nghĩa nào khác hơn (dẫu dùng logic h́nh thức hay logic nội dung) là: Ô.Đào Duy Anh cũng là 1 trong số "nhửng học giả" (tôi lưu ư là NHỮNG chứ không phải NHỬNG) "ngu xuẩn" mà ông đang định lột bằng lột danh họ ra. Ông yên tâm, ông Đào không có bằng (học vị) ǵ cao cả, chỉ là 1 trí thức tự rèn luyện là chính (không Cô Le ví lại Luy Ni Véc Si Tê như các học giả - nghĩa là học không thật) như bây giờ đâu, c̣n hàm GS ông Đào nhận là hàm đặc cách. Nói về bằng th́ ông Đào xoàng lắm, kẻ thực học th́ cần ǵ lông công móng phượng tô điểm thưa ông, ông lột làm ǵ và có ǵ mà lột?
Quyển Kinh Dịch quư báu của ông tôi không hân hạnh được học, nhưng ông đừng nói là Dịch Hùng Vương hay Dịch Lạc Hồng đấy nhé, v́ tuyệt nhiên các Vua Hùng có thể mới chỉ dựng được Nhà Nước Sơ Khai như tôi nói sai th́ cũng tuyệt nhiên không thể ở tŕnh độ lỗ măng như ông, ví dầu các vị để lại 1 bộ Việt Dịch ắt Dịch đó không dạy một vị thức giả ăn nói như vậy. Ông chớ có đem những lời như vậy từ Phờ Răng mà đưa vô viếng Quốc Tổ Hùng Vương nhé, kẻo Ngài nơi Cơi Kia lại phải Phờ Râu mất.

Thế mà các vị đều tự hào là những thức giả DỊCH học cơ đấy. Tôi đă luôn cố ư nói đến 1 tinh thần trí thức cổ Á Đông như một dụng ư ngầm liên tưởng (hầu như trong mỗi dip type trên bàn phím.)

Có câu này kính các vị: Học Dịch thông th́ trên thấu thiên lí, giữa thấu nhân sinh, có thể dự đóan thịnh suy bĩ thái của cả lịch sử, ấy có nhẽ là bực Đại Sĩ, thông vừa th́ có thể dự đóan được các mối nhân sinh, ấy là Trung Sĩ chăng, cả trung và đại sĩ đă thông dự 1 phần vào huyền nhiệm của Giời Đất, hành động hoát nhiên theo Đạo (mà Đạo là ǵ th́ mời bác về đọc Đạo Đức Kinh nhé, v́ mặt này bác cũng thông nữa, v́ bác trích dẫn luôn luôn), kẻ hạ sĩ không đủ căn cơ, không thấu được Đạo Trời cho đến mực, th́ cũng ra cốt cách con người, kém hơn khi bĩ cực có thể bói tóan tạm độ nhật, coi như chữ Thánh Hiền không vô dụng. C̣n như Xú Sĩ th́ nhấn ch́m trong mớ lí thuyết u u minh minh, lập ḷe ma trơi, cuồng ngôn loạn ngữ. Kẻ luyện Công Phu gọi là tẩu hỏa.

Tôi lưu ư là Ô.Đào Duy Anh sai lầm không ít, và sai lầm là chuyện thường trong nghiên cứu. Ông Newton bảo "muốn lớn th́ hăy đứng trên vai những người khổng lồ", ông không update mà lại "chấp" ông Đào cách nay 5 thập kỉ làm ǵ, mà ông biết với tốc độ chóng mặt trong công bố kết quả nghiên cứu KH hiện nay rồi chứ. Ông Đào giúp nước nhà XÂY DỰNG NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP từ chỗ chưa có ǵ, ông tự coi không phải sử gia chuyên nghiệp, chẳng qua nước nhà khi cần người th́ ra làm, những sự khiếm khuyết ở ông mặc ḷng, không có SV hay nhà KH cho đến người dân (nếu họ biết tên ông) gọi ông như Thiên Sứ đâu. Hay ông lại cho rằng mấy chục triệu dân chúng tôi trong nước "không có thằng nào khôn" kiểu như cụ Khuất "cả đời say chỉ ḿnh ta tỉnh". Tỉnh kiểu ăn nói như vậy th́ xin nhường ông tỉnh.
Lăo tử dặn Khổng Tử (Sử Kí- nhưng tôi cho đoạn này Tư Mă cũng chép nhầm nốt, nhưng ư nghĩa của nó đáng để trí thức phương Đông quan tâm): ông hăy bỏ cái chí kiêu căng, hiếu thắng của ông đi, không ích ǵ cho ông đâu. Câu này là dành cho cái câu sau của ông: Tôi tin rằng sẽ lột danh hiệu và bằng cấp các loại của tất cả nhửng học giả trong và ngoài nước
Nếu có quả thực như thế th́ cũng không ai nói thế thưa ông, cái anh GÔ LOA anh ấy dạy anh những điều hay thật, nhưng tôi cũng ngờ là anh Gô Loa không có làm điều đó, v́ một số trí thức cũ học trường Tây tôi có dịp học không nói thế bao giờ cả.

Xin thưa anh là chữ Việt anh c̣n chưa viết đúng chính tả, anh trân trọng nó giùm tôi với, v́ nó là di sản phi vật thể có nguồn gốc từ thời Hùng Vương đó, cái này th́ tôi tin không cần các anh chứng minh. Các anh tự hào là vệ sỹ của nền văn hóa trác tuyệt Văn Lang, cội nguồn của văn minh phương Đông (chữ của các anh đó nhé) th́ cũng mong các anh trân trọng cái chữ Việt một tư. Nói ra đâm người tiểu tiết. Nhưng h́nh như 1 cuốn tự điển tiếng việt anh cũng chưa có đọc, và chưa hề nghe nói đă làm nghề viết th́ phải coi tự điển hay sao ấy. Đương nhiên là các anh ở tŕnh độ văn minh "không thèm chính tả" v́ "thiên hà ngôn tai", ngôn ngữ chẳng qua là hạn hẹp của "thế giới nhị nguyên" mà các ông hay nói mà, đếm xỉa làm ǵ.



Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 10 December 2004 lúc 6:39pm
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 79 of 110: Đă gửi: 10 December 2004 lúc 8:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Thiênkhôitimvui thân mến!
Khi tôi muốn chứng minh ai là sai tôi thường trích nguyên văn và không chừa một chữ nào. Không như những kẻ quanh co; khúc thuyết chỉ nói mà không dẫn chứng được. Bị vặn hỏi th́ quay quắt lảng tránh. Tôi chưa xem hết bài viết trên. Nhưng qua cách viết của anh th́ tôi định lượng được khả năng tư duy của anh. Nên tôi sẽ chép hết xuống và trả lời từng ư một mà không cần phải xem trước bài viết này. Chữ của thienkhoitimvui trích dẫn hiển thị màu xanh:

@Thưa ông Thiên Sứ.
Không dám! Xin chào! Có ǵ cứ nói!

@Theo Tự mà nói th́ Thiên Sứ là người mang sứ điệp truyền đi. Theo Tử Vi th́ Thiên Sứ luôn ở cung Tật Ách, h́nh như cái tên nó vận vào người th́ phải. V́ ông xứng là người đang truyền một sứ điệp bên cạnh những người bạn tri ngộ của ông (nói về Tự),
Cái câu Thiên Sứ đóng cung tật ách th́ có một vài trang web có nói đến để nhận xét về bỉ phu. Bỉ phu cũng không quản ngại lắm. V́ đó là suy luận chủ quan của mỗi người, C̣n đúng sai nó c̣n lệ thuộc vào khả năng tư duy.

@ c̣n cái nghĩa thứ 2 th́ ông tự đánh giá qua câu này mà ông viết:
Tôi tin rằng sẽ lột danh hiệu và bằng cấp các loại của tất cả nhửng học giả trong và ngoài nước; nhưng lỡ ngu xuẩn chứng minh cho luận điểm phủ nhận 5000 năm văn hiến của dân tôc. Người đầu tiên tôi đă làm là ông Đào Duy Anh.

Khi bỉ phu phản bác ai thường trích hết chứ không bao giờ ngắt đoạn để xuyên tạc ư của câu viết. Một câu viết liên quan đến ư toàn thể bài viết. Ngay bài viết này là một thí dụ.

@Tôi đă nghĩ: rằng hăy tôn trọng những công việc ông/các ông đang làm, v́ thiết tưởng đó cũng là hướng đi của các ông, ít ra chúng ta đều tự do trước niềm tin cá nhân, bản thân tôi tự nhận xét là đă thiếu chọn lọc diễn đạt khiến có những "sự chạm" không cần thiết.
B́nh thường với những nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực khác th́ đúng là rất cần tôn trọng; chứ không nên chụp mũ nhau như Lư senko chụp mũ mấy nhà bác học Liên Xô nghiên cứu di truyền học trước kia. Nhưng đây là vấn đề liên hệ đến cả một danh dự và tương lai của một dân tộc. Bởi vậy; nếu không thật chắc chắn mà đă vội khẳng định và phổ biến quan điểm của ḿnh th́ là một hành động xúc phạm đến dân tộc đó. Dă có những chính phủ bị phản đối v́ sách giáo khoa của họ làm tổn hại tinh thần dân tộc của quốc gia khác phải xin lỗi.

@ Nhưng đến lúc này, khi tôi đương đọc những ḍng ông viết trong cái ét xe của ông với tinh thần "hư tâm cầu học" ráng bắt chước cổ nhân, mà không bợn nghĩ đến những "cái va" không vui ǵ cho tất cả chúng ta, 1 điều đáng tiếc mà lỗi bắt đầu từ tôi, th́ tôi không muốn đừng nữa.
Đây có phải lần đầu tiên bỉ phu va chạm với anh đâu mà phải khách sao quá vậy? Cứ tự nhiên.

@Việc ông dùng những ngôn từ như vậy, cách ăn nói (đúng ra th́ là cách type trên keyboard mới đúng nhỉ) như vậy khiến tôi không biết ông được giáo dục trong một nền giáo dục nào nữa, thưa Bác Dịch Thông Kinh Tiên Sinh.
Thế à? Tôi lại cứ tưởng những thằng tự phỉ nhổ lên dân tộc ḿnh mới là những thằng mất dạy chứ.

@H́nh như cái Đạo Dịch mà ông tiếp thụ không phải của Tàu mà chẳng phải của Ta nốt!
Vậy th́ Dịch của Cambot chăng?

@ V́ hổng lẽ các tiên tổ của con Lạc cháu Hồng của bác và tôi lại có những câu thế chăng?
Tôi không đồng hạng với những kẻ phủ nhận tổ tiên côi nguồn. Tôi đề nghị không có bác và tôi.

@Tôi nghe nói: không có nền văn hóa cổ nào biểu hiện trong lành, nên thơ như hoa văn Trống Đồng và văn hóa Đông Sơn cả, v́ những hoa văn đó là h́nh hoa lá, chim muông, gái giai chèo thuyền, giă gạo, tham gia lễ hội, các h́nh kỉ hà, trang điểm cách điệu hồn hậu... các nhà Khảo Cổ ngu dốt trong nước chúng tôi (tuy tôi không KC nhưng cho họ là đồng bào vậy) chưa t́m ra dấu hiệu thô lỗ dữ dằn nào của các di vật, như các h́nh giao chiến, chém dă thú...
Các di vật khảo cổ ấy không nói rằng: Dân tộc cội nguồn dân tộc Việt chỉ gồm liên minh 15 bộ lạc. Nên đi đúng chủ đề.

@mà ta sẽ bắt gặp trong hầu hết các văn hóa khảo cổ (do con người đang ở giai đoạn đương gần với thiên nhiên tục tính và cuộc sống gay gắt của họ). Tôi chưa nghĩ được 100% minh triết Dịch là của cha ông ta, nhưng đến nay th́ nghĩ: chẳng nhẽ người Đông Sơn trong cuộc sống c̣n bấp bênh phải đương với bao sức mạnh tự nhiên, thú dữ, kẻ thù... mà đă đạt đến tŕnh độ lịch sự nên thơ như thế, hổng lẽ họ đă viết riêng biệt truyền cho ông 1 bộ Việt Dịch trong đó cho phép 1 sĩ phu (xưa mà thông đạo Dịch th́ không phải đạo nhân cũng là sĩ phu đó) thấm nhuần Dịch Đạo nói với các tiên sinh đồng nghiệp (v́ bác đang làm công việc khoa học mà lại) và đồng bào như vậy?
Chân lư chỉ có một; không quanh co. Dịch của Tàu th́ không có của Việt Nam và Hàn quốc (Cờ Hàn Quốc là bốn quái dịch đấy). C̣n đă là của Việt Nam th́ không có của hai nước kia.

Logic bác diễn đạt không cho phép hiểu 1 nghĩa nào khác hơn (dẫu dùng logic h́nh thức hay logic nội dung) là: Ô.Đào Duy Anh cũng là 1 trong số "nhửng học giả" (tôi lưu ư là NHỮNG chứ không phải NHỬNG) "ngu xuẩn" mà ông đang định lột bằng lột danh họ ra. Ông yên tâm, ông Đào không có bằng (học vị) ǵ cao cả, chỉ là 1 trí thức tự rèn luyện là chính (không Cô Le ví lại Luy Ni Véc Si Tê như các học giả - nghĩa là học không thật) như bây giờ đâu, c̣n hàm GS ông Đào nhận là hàm đặc cách. Nói về bằng th́ ông Đào xoàng lắm, kẻ thực học th́ cần ǵ lông công móng phượng tô điểm thưa ông, ông lột làm ǵ và có ǵ mà lột?
Tôi xin nói một sự thật là: Tôi chẳng quan tâm lắm đến ông Đào Duy Anh. Chỉ v́ một người bạn nói đến ông Đào Duy Anh với quan điểm giống cái số đông kia và nhắc tới hào quang của ông ta. Tôi yêu cầu đưa tài liệu của ông ấy cho tôi xem. Tôi hứa với bạn tôi rằng tôi sẽ chứng minh ông ta sai ngay sau khi xem xong; nếu cho tôi xem tài liệu đó. Tôi thực hiện lời hứa. Thật thật chia buồn.

@Quyển Kinh Dịch quư báu của ông tôi không hân hạnh được học, nhưng ông đừng nói là Dịch Hùng Vương hay Dịch Lạc Hồng đấy nhé, v́ tuyệt nhiên các Vua Hùng có thể mới chỉ dựng được Nhà Nước Sơ Khai như tôi nói sai th́ cũng tuyệt nhiên không thể ở tŕnh độ lỗ măng như ông, ví dầu các vị để lại 1 bộ Việt Dịch ắt Dịch đó không dạy một vị thức giả ăn nói như vậy. Ông chớ có đem những lời như vậy từ Phờ Răng mà đưa vô viếng Quốc Tổ Hùng Vương nhé, kẻo Ngài nơi Cơi Kia lại phải Phờ Râu mất.
Chưa xem th́ không bàn vội và cũng đừng vội nói ở đây quanh co làm ǵ. Tôi rất lỗ măng. Tôi đă đuổi vài vị ra khỏi nhà chỉ v́ xúc phạm đến tổ tiên của tôi. Trên thế gian này cũng không ít người lỗ mạng. Nhưng vấn đề là họ có ḷng tự trọng và nhân cách v́ dân tộc họ không?

Thế mà các vị đều tự hào là những thức giả DỊCH học cơ đấy. Tôi đă luôn cố ư nói đến 1 tinh thần trí thức cổ Á Đông như một dụng ư ngầm liên tưởng (hầu như trong mỗi dip type trên bàn phím.
Tự phủ nhận cội nguồn tổ tiên của ḿnh từ 5000 năm văn hiến xuống c̣n 15 bộ lạc ở trần đóng khố th́ thật là mất dạy chứ trí thức ǵ?

Có câu này kính các vị: Học Dịch thông th́ trên thấu thiên lí, giữa thấu nhân sinh, có thể dự đóan thịnh suy bĩ thái của cả lịch sử, ấy có nhẽ là bực Đại Sĩ, thông vừa th́ có thể dự đóan được các mối nhân sinh, ấy là Trung Sĩ chăng, cả trung và đại sĩ đă thông dự 1 phần vào huyền nhiệm của Giời Đất, hành động hoát nhiên theo Đạo (mà Đạo là ǵ th́ mời bác về đọc Đạo Đức Kinh nhé, v́ mặt này bác cũng thông nữa, v́ bác trích dẫn luôn luôn), kẻ hạ sĩ không đủ căn cơ, không thấu được Đạo Trời cho đến mực, th́ cũng ra cốt cách con người, kém hơn khi bĩ cực có thể bói tóan tạm độ nhật, coi như chữ Thánh Hiền không vô dụng. C̣n như Xú Sĩ th́ nhấn ch́m trong mớ lí thuyết u u minh minh, lập ḷe ma trơi, cuồng ngôn loạn ngữ. Kẻ luyện Công Phu gọi là tẩu hỏa.
Quanh co khúc thuyết.

Tôi lưu ư là Ô.Đào Duy Anh sai lầm không ít,
Không cần nhắc lại sai lầm của ông ấy làm ǵ. Tội nghiệp. Cái này tôi nói rồi.

@ và sai lầm là chuyện thường trong nghiên cứu. Ông Newton bảo "muốn lớn th́ hăy đứng trên vai những người khổng lồ", ông không update mà lại "chấp" ông Đào cách nay 5 thập kỉ làm ǵ, mà ông biết với tốc độ chóng mặt trong công bố kết quả nghiên cứu KH hiện nay rồi chứ. Ông Đào giúp nước nhà XÂY DỰNG NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP từ chỗ chưa có ǵ, ông tự coi không phải sử gia chuyên nghiệp, chẳng qua nước nhà khi cần người th́ ra làm, những sự khiếm khuyết ở ông mặc ḷng, không có SV hay nhà KH cho đến người dân (nếu họ biết tên ông) gọi ông như Thiên Sứ đâu.
Đây ko phải là điều tôi quan tâm. Không nên dựng đứng những câu chuyện cài nhau làm ǵ.

@ Hay ông lại cho rằng mấy chục triệu dân chúng tôi trong nước "không có thằng nào khôn" kiểu như cụ Khuất "cả đời say chỉ ḿnh ta tỉnh". Tỉnh kiểu ăn nói như vậy th́ xin nhường ông tỉnh.
Đoạn này th́ nhằm chứng minh dân tộc Việt có cội nguồn là 15 bộ lạc đấy phải không? Khoa học nhỉ?
Muốn chứng minh một giả thuyết là đúng th́ phải có luận cứ chắc chắn. Khoa học không có số đông. Đối lập dân trong nước với một người nhân danh Việt Kiều Pháp như tôi nhằm mục đích ǵ? Dù bỉ phu chót giời sinh có lỗ măng; ăn tục chửi thể đi chăng nữa. Nhưng nếu đă gọi là khoa học th́ tư tưởng khoa học nó không lệ thuộc vào cá tính của người đó.
Ông S,W. Hawking nghe nói rất sợ vơ. Không lẽ ông áy sai. Biện minh cho luận điểm của ḿnh là khoa học mà phải chứng minh cá tính người phản biện là xấu hơn th́ mới chứng tỏ chân lư chăng?

@Lăo tử dặn Khổng Tử (Sử Kí- nhưng tôi cho đoạn này Tư Mă cũng chép nhầm nốt, nhưng ư nghĩa của nó đáng để trí thức phương Đông quan tâm): ông hăy bỏ cái chí kiêu căng, hiếu thắng của ông đi, không ích ǵ cho ông đâu. Câu này là dành cho cái câu sau của ông: Tôi tin rằng sẽ lột danh hiệu và bằng cấp các loại của tất cả nhửng học giả trong và ngoài nước
À! Chuyện ǵ cũng có thể xảy ra. Nếu những kẻ nào chứng minh rằng : Cội nguồn dân tộc Việt chỉ là một liên minh 15 bộ lạc; xuất hiện vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ I trước Cn; mà không có lập luận dủ sức thuyết phục; mà lại quanh có khúc thuyết; lảng tránh những hiện tượng và lập luận mà nó không chứng minh được; th́ ko cần đến tôi; nếu họ tự sỉ th́ cũng nên từ bỏ cái bằng của họ.
Tin trên báo: Một Giáo sư sử học của Nhật chứng minh rằng: Dân tộc Nhật không phải con Thái Dương thần nữ; đă bị cách chức về đuổi gà.

Nếu có quả thực như thế th́ cũng không ai nói thế thưa ông, cái anh GÔ LOA anh ấy dạy anh những điều hay thật, nhưng tôi cũng ngờ là anh Gô Loa không có làm điều đó, v́ một số trí thức cũ học trường Tây tôi có dịp học không nói thế bao giờ cả.
Hê! Hê! Hê! Buồn cuời quá! Đang lộn tiết mà cũng ko nhịn được cuời. Dân tộc Pháp là một dân tộc rất tôn trọng văn hoá.

@Xin thưa anh là chữ Việt anh c̣n chưa viết đúng chính tả, anh trân trọng nó giùm tôi với, v́ nó là di sản phi vật thể có nguồn gốc từ thời Hùng Vương đó,
Ơ! Thế à! Thế mà tôi lại cứ tưởng chữ Việt tôi đang viết đây c̣n gọi là chữ Quốc Ngữ mà mở đầu là do ông A lếch dầu (Xăng mắc quá đổi thành dầu)- Đờ Giỏi (Không dám gọi bằng Dốt v́ sợ xúc phạm). Ông ấy lấy chữ Tây phiên âm tiếng Việt đấy chứ. Vậy là ra té ra bây giờ có người lại nói nó có từ thời Hùng Vương lận? Thế sao bài viết trước của anh lại bảo cái nhà ông giáo sư Hà Văn Tấn chỉ là giả thuyết chưa chắn chắn về chữ viết của thời HÙng Vương.
* Đúng là bỉ phu ẩu đánh máy hay sai lổi chính tả thật. Nhưng không sao đâu. Nếu có in sách gửi nhà xuất bản đă có ban biên tập sửa chính tả rất kỹ.

@ cái này th́ tôi tin không cần các anh chứng minh. Các anh tự hào là vệ sỹ của nền văn hóa trác tuyệt Văn Lang, cội nguồn của văn minh phương Đông (chữ của các anh đó nhé) th́ cũng mong các anh trân trọng cái chữ Việt một tư. Nói ra đâm người tiểu tiết. Nhưng h́nh như 1 cuốn tự điển tiếng việt anh cũng chưa có đọc, và chưa hề nghe nói đă làm nghề viết th́ phải coi tự điển hay sao ấy. Đương nhiên là các anh ở tŕnh độ văn minh "không thèm chính tả" v́ "thiên hà ngôn tai", ngôn ngữ chẳng qua là hạn hẹp của "thế giới nhị nguyên" mà các ông hay nói mà, đếm xỉa làm ǵ.
Thực ra th́ bỉ phu ở bên Pháp lâu wá! Sợ quên cội nguồn tiếng Việt. Cũng định mua vài cuốn. Nhưng đụng cuốn nào th́ lại thấy báo chí bảo rằng chưa chính xác nên chưa mua đấy thôi. Thông cảm vậy. Cái này không phải lỗi tại tôi.


Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 10/12/2004 lúc 6:39 chiều
Tại sao lại phải sửa vậy? Sai chính tả hả. Nếu có cuốn từ điển tiếng Việt nào khà dĩ tin được giới thiệu cho bỉ phu mua một cuốn nha.


__________________
VÔ NGĂ|*|ngô ngôn ức triệu thiết vô ngôn|*|VÔ CỐ
Cái lày tiếng Tàu; Ngộ không piết nên lâu có lói d́ lược.

Thiên Sứ
------------
Thế gian biến đổi muôn màu vẻ
Đức Phật từ bi phải mỉm cười



Sửa lại bởi ThienSu : 10 December 2004 lúc 8:49pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 80 of 110: Đă gửi: 10 December 2004 lúc 9:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

tôi chỉ thêm 1 điểm (về ngôn ngữ)
- ông nhầm lẫn kí tự ghi âm với lại ngôn ngữ mất rồi. và cái ông Xăng Dầu của ông không phải chỉ ḿnh ông ấy kí âm tiếng việt thành "chữ viết quốc ngữ", đó là công tŕnh tập thể! ông đem tiếng việt trao copyright cho Cha Cố Đạo Ḍng Báp Tít là "yêu nước" là "văn lang" lắm lắm.
- mọi người biết 3 kiểu kí âm ở Nhựt , nên hẳn ông nói ở Nhật có 3 tiếng Nhật.
- ông Nguyễn Trăi sáng tác chắc không dùng Tiếng Việt ông nhỉ? v́ lúc đó cha cố A Lếch của ông chưa tạo ra tiếng Việt mà.
- làm sao mà ông mua nổi 1 cuốn tự điển chứ, bởi ngoài ông và các bạn tri ngộ (coda: tường sở ngộ, coda 2: tường sở nghi) ra th́ có ai và công tŕnh nào khoa học đâu.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 

<< Trước Trang of 6 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.6143 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO