Tác giả |
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 601 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 11:44am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI MỐT
DẠO ĐỆ CỬU ĐIỆN GẶP GỠ ĐÔ THỊ VƯƠNG
Phật Sống Tế Phật Giáng ngày 29 tháng 3 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Nhân sinh nan thoát quỉ môn quan Kỷ lũ u hồn khứ phục hoàn Phú quí vinh hoa như nhất mộng Kiệm cần tự đắc lạc thanh nhàn
Dịch:
Cửa quỉ người đời tránh được sao U hồn lũ lượt kéo nhau vào Vinh hoa phú quí tuồng hư ảo Vui sống cảnh nghèo chẳng ước ao.
Tế Phật: Đệ Bát Điện và Cửu Trùng Quan đă dạo qua, bữa nay phải tới Cửu Điện thăm ḍ Âm Quan, Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay phải dạo thăm Cửu Điện để sách Địa Ngục Du Kư sớm được hoàn tất, ḷng con tràn trề hứng khởi, nói chẳng nên lời.
Tế Phật: Việc vượt cửa ải Cửu Trùng hết sức quan trọng, con chớ vội khinh thường và sớm lạc quan, nhận trọng trách vượt biển băng ngàn việc làm phải hết sức cẩn thận. Sách Địa Ngục Du Kư nếu như ban bố ra được để khuyên đời th́ con có công rất lớn, mong con có gắng hoàn thành nhiệm vụ. Mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuận lệnh, con đă sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đă tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Con xuống rồi, phía trước người ta tụ tập đông đảo, h́nh như họ tổ chức đón tiếp ḿnh trọng thể lắm.
Tế Phật: Đô Thị Vương ở Cửu Điện sớm được tin bữa nay chúng ta tới thăm, cho nên đă tổ chức lễ nghinh tiếp thật là đặc biệt, chúng ta phải phủi sạch bụi bặm. Con hăy nh́n phía trước, tiếng thanh la, tiếng trống ŕnh tai, đủ loại nhạc khí đang hoà tấu khúc nhạc chào mừng.
Dương Sinh: Bản nhạc này nghe giống như bản dân nhạc cổ điển Nam Bắc Quản Điều.
Tế Phật: Đúng đấy.
Dương Sinh: Nhạc tiên có khác, nghe xong cảm giác lâng lâng, hồn nhẹ nhàng bay bổng như đang sống tại cơi tiên, cảnh này có thật được sao?
Tế Phật: Có thật chứ, người đời bất cứ ai công quả tu đạo tṛn đầy, lúc thư son tới mời gọi về cơi Tiên bên tai họ hẳn là được nghe tiên nhạc. C̣n kẻ không có công đức lớn không được hưởng thú vinh hoa đặc biệt này của cơi trời. Trần gian vào những dịp lễ ban thưởng cũng có hoà tấu âm nhạc, cho nên cơi phàm có nhạc trần, cơi Trời có nhạc tiên, quả không phải là hư truyền.
Nếu như lúc sống tội ác nào cũng phạm th́ hẳn là sau khi chết tai sẽ phải nghe tiếng quỉ khóc, tiếng gươm đao xiềng xích, gặp cảnh này đường về cơi âm khó mà kham nỗi, chắc chắn dọc đường sẽ bỏ chạy để rồi lại bị âm binh tróc nă trói đem về âm phủ. Chúng ta mau nhắm phía trước đi tới, quan viên Cửu Điện hàng ngũ chỉnh tề đang chờ đợi.
Dương Sinh: Lạy chào ra mắt Đô Thị Vương cùng chư vị Tiên Quan, kẻ hậu sinh này là môn đệ của Thánh Đế thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung cùng ân sư Tế Phật phụng chỉ dạo âm ti viết sách, bữa nay tới đây trước xin đa tạ sự tiếp đón nồng hậu, sau kính mong giúp đỡ chúng tôi phương tiện dồi dào.
Minh Vương: Miễn lễ, Dương Sinh mau đứng lên, bữa nay bản vương đặc biệt thiết tiệc khoản đăi hai vị, mau theo tôi vào khách sảnh trong điện nghỉ ngơi.
Dương Sinh: Xin đa tạ Minh Vương quá hậu đăi.
Tế Phật: Chúng ta hăy theo Minh Vương vào trong điện nghỉ ngơi.
Minh Vương: Mời hai vị ngồi, xin chớ làm khách, dạo thăm âm phủ để viết sách, suốt từ Đệ Nhất Điện tới bản điện có thể có thể nói là công lao khổ cực muôn phần, bữa nay bản vương đặc biệt thiết tiệc để hai vị tẩy trần.
Tế Phật: Đa tạ sự chiếu cố của Đô Thị Vương, thầy tṛ chúng tôi rất hân hạnh được dự tiệc tẩy trần, v́ cưỡi đài sen suốt năm qua bị nhiễm nhiều bụi bặm!
Minh Vương: Đâu có, đâu có. Lăo sư phụ tâm vốn thanh tịnh chỉ có bụi bám đầy ḿnh mà thôi, như hoa sen mọc từ bùn chẳng thấy hôi tanh mùi bùn, bản tính trái lại vô cùng thanh cao, tinh khiết, chỉ tiếc đôi chân phàm lặn lội khắp nơi nên cần phải rửa sạch thôi. Trái cây tiên trên mâm mời hai vị dùng tự nhiên, chớ khách sáo.
Tế Phật: Tṛ cưng cứ tự nhiên, khó có cơ hội này, ăn đi.
Dương Sinh: Cảm ơn, cảm ơn. Loại trái cây này giống hệt trái bồ đào ở dương gian, màu đỏ ửng tím, hương vị ngọt ngào thơm mát, ăn rất ngon miệng.
Minh Vương: Đúng, đây là loại bồ đào sắc huyền, mọc tự nhiên ở Côn Lôn, v́ hấp thụ được linh khí của trời đất mà kết trái cho nên vỏ màu đen huyền, ruột kết tinh hương vị quí giá, ăn nhiều đi.
Tế Phật:Ḿnh vừa ăn vừa bàn chuyện, Dương Sinh có thắc mắc điều chi không? Nếu có con hăy xin Minh Vương chỉ giáo.
Dương Sinh: Thưa vâng. Xin Minh Vương cho biết cảm tưởng về t́nh h́nh sinh hoạt tại quí ngục ra sao? Minh Vương: Ha ha, tự biết trách nhiệm của bản ngục quá nặng nề trọng đại. Mắt nh́n hết đám tội hồn nọ tới đám tội hồn kia, bị hành xử những h́nh phạt quá đau đớn ḷng thực quả không nở, song ở đây buộc phải phán quyết thực công b́nh, không thể để t́nh riêng chi phối.
Ước mong chúng sinh sớm quay đầu hướng thiện, trách nhiệm của chúng tôi mới mong hoàn thành. Các cơ quan ở âm phủ đều sinh hoạt một sách hết sức trang trọng nghiêm minh thư thái nhẹ nhàng, giống như các pháp quan ở dương gian luôn luôn chủ trương "Minh kính cao huyền" "Chính tâm hoá nhân" (Gương sáng treo cao) (Ḷng ngay dạy người).
Dương Sinh: À th́ ra là thế. Xin Minh Vương cho biết quí điện cai quản ngục nào?
Minh Vương: Bản điện quản lư đại địa ngục A Tỳ lại c̣n thiết lập thêm 16 tiểu địa ngục để trừng phạt tội hồn.
Dương Sinh: Có người hỏi là sau khi chết phải qua 18 cửa địa ngục th́ làm sao giảng?
Minh Vương: Người đời thường nói giỡn rằng: "Ái cha cha! Sau khi chết phải qua 18 lần địa ngục" nói như vậy tức là chỉ mới đề cập tới địa ngục A Tỳ mà thôi, bởi v́ địa ngục A Tỳ có tới 18 tầng thấu tới tận tâm của đất, nơi đó âm khí dầy đặc tối tăm, bàn tay giơ lên không nh́n thấy ngón, ngập đầy nước đen ś như cà phê, tội hồn đó được uống cà phê tối ngày sáng đêm, Dương Sinh có muốn nếm một ly không?
Dương Sinh: Không dám, không dám, tôi nghĩ uống nước trà tốt hơn, chẳng thích thứ cà phê đó v́ uống vào nó không tiêu.
Minh Vương: Dương Sinh c̣n câu thúc cẩn trọng, mời dùng trái cây tiên.
Dương Sinh: Loại trái cây này trông giống như h́nh tháp 9 tầng ở dương gian, ăn vào hương vị thơm tho ngọt mát, hơn hẳn những loại trái cây trồng ở dương gian. Không rơ tên của loại trái cây này là ǵ?
Minh Vương: Đúng, tên nó là tháp chín tầng, đặc biệt chỉ có Cửu Điện mới trồng được thôi, ăn nó xương cốt cứng mạnh, đại bổ thận tính nguyên căn. Chín tầng là dương cực cho nên trái "tháp chín tầng" rất bổ dương khí, Dương Sinh ăn nó rất tốt.
Tế Phật: ha ha, phần lớn ham lên tháp chín tầng ít thích xuống 18 ngục A Tỳ, kễ cũng hay!
Minh Vương: Hai vị chớ chê tiệc nhỏ của tôi, hăy ăn cho no bụng. Tro bụi c̣n bám đầy người, bây giờ tôi đưa Dương Thiện Sinh ra Thác Cửu Tuyền tắm giặt được không?
Dương Sinh: Thưa ân sư, đi một ḿnh con hơi ngại, mời ân sư cùng đi với con?
Tế Phật: Được.
Minh Vương: Mời hai vị theo tôi.
Dương Sinh: Đa tạ Minh Vương cùng chư vị Tiên Quan đă đích thân hướng dẫn chúng tôi đi. Đường sá thật là mới mẻ trong lành, địa ngục ít thấy những con đường sạch sẽ bằng phẳng như thế này.
Tế Phật: Đường này chỉ dành riêng cho những vị đạo ś có tu luyện qua lại, phàm muốn lên dương gian đón rước thần vị của thần linh đều phải tới đây tẩy trần, sau mới có thể lên dương gian tiếp nhận hương hảo? Bữa nay con quả là may mắn mới được thấy chốn này, hăy thưởng thức cái phong vị tươi mát của Thác Cửu Tuyền. Con có thấy ba vị thần từ phía trước đi tới không, các vị đó sau khi tẩy trần sẽ nhận lănh sắc chỉ lên dương gian đảm nhiệm chức vụ.
Dương Sinh: Nh́n các vị thần đó thấy khí sắc vui tươi tràn trề vẻ rực rỡ hào quang.
Minh Vương: Núi phía trước cao quá, cây cối trên đó lại vô cùng xanh tốt thác nước từ vách đá đổ xuống trông giống như những tấm lụa, tiết trời nóng bức như vậy mà nước mát cứ tuôn ào ào, hẳn là ḷng mát dạ đất mở.
Minh Vương: Đă tới Thác Cửu Tuyền.
Dương Sinh: Quả không sai, trên, vách núi có đề hàng chữ lớn sắc vàng óng ánh "Cửu Tuyền Bộc Bố" (Thác Cửu Tuyền Chín ngọn thác từ trên cao ào ào đổ xuống trong giống như những tấm lụa trải dài.
Minh Vương: Dương Thiện Sinh sắp sửa tẩy trần. Lệnh cho các tương hộ giá lui bước.
Tướng Quân: Xin tuân lệnh.
Minh Vương: Dương Thiện Sinh, hăy đi một ḿnh tới dưới chân thác.
Dương Sinh: Sức nước quá mạnh, con không dám đi một ḿnh, kính mời ân sư đi cùng con.
Tế Phật: Được. Thân Phật của ta đă ba năm không tắm rửa, cũng nên lợi dụng cơ hội này thanh tẩy một phen. Chúng ta đi...
Dương Sinh: Mát quá! A! Mắt con không mở nổi.
Tế Phật: Cố mở ra mới có thể rửa sạch được mắt trần của con.
Dương Sinh: Sướng quá, mát mẻ vô cùng nhưng toàn thân ướt sũng, biết tính sao đây?
Tế Phật: Chớ lo, đợi lát nữa ta dùng quạt bồ quạt một quạt như máy vắt nước quay tít khô liền, mau rửa sạch bàn chân, chỗ đó nước xối không tới c̣n dơ hầy.
Dương Sinh: Xin ân sư đừng mỉa mai con.
Tế Phật: Những chỗ không nh́n thấy thường rất dơ dáy như gan bàn chân, gầm giường, gầm bàn, đó là những căn cứ địa, nếu không đại tảo trừ lỡ nó sinh ra rận sau này làm sao cưỡi gió đè mây được.
Dương Sinh: Đúng đúng, ân sư nói rất chí lư.
Tế Phật: Quả không sai, Thác Cửu Tuyền giống như chín con rồng phun nước, bụi trần gặp nó lập tức sạch sẽ chẳng cần xà bông, bột giặt, thuốc tẩy. Người đời nên giữ ǵn thân tâm trong sạch, để sau khi chết bị khám xét hẳn là tránh được h́nh phạt. Mau đi lên, đă sạch sẽ rồi.
Dương Sinh: Xin ân sư quạt lẹ cho người con khô đi.
Tế Phật: Con hăy nh́n cái quạt bồ này, c̣n hơn cả máy vắt nước.
Dương Sinh: Quả nhiên quần áo khô ngay, thân tâm đều sạch sẽ, đa tạ ân sư cùng Minh Vương.
Minh Vương: Mong Dương Thiện Sinh v́ Thánh Hiền Đường gắng chịu đựng gian lao, thúc ngựa gia roi.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, mong Minh Vương ban cho thật nhiều linh quang.
Minh Vương: Mây tan, mặt trời ló dạng, không rửa cũng sạch, phải hiểu điều đó.
Tế Phật: V́ thời giờ đă trễ, chúng tôi xin cáo biệt tại đây không thể tiễn chân Minh Vương về điện được.
Minh Vương: Không quan hệ, lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Nhờ ơn Minh Vương ban tiệc cùng cho tắm nước Thác Cửu Long Tuyền, tới già không quên, xin cảm tạ chư vị quan viên, mong gặp lại.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 602 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 4:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI HAI
DẠO TIỂU ĐỊA NGỤC DẦU SÔI TƯỚI THÂN M̀NH
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 9 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Vân sơn hữu lộ đạt tiên môn Tùng hạ thâm tư vong nhật hôn Ngă ái dương cuồng kỳ tế thế Lư trung biệt hiện nhất càn khôn.
Dịch:
Mây núi đưa đường tới cửa tiên Dưới thông quên tối nghĩ triền miên Cứu đời đang lúc ta mê mải Lều cỏ càn khôn họp sáng đêm.
Tế Phật: Khí trời bữa nay vô cùng nóng nực, các cửa tiệm, trạm xe đông nghẹt người thở không nổi; đường địa ngục lầy lội trơn trượt cũng đông đúc náo nhiệt lạ thường.
Nh́n lại chùa miếu, thánh đường thê lương ảm đảm, hoa giả cảnh dối, mùi rượu thịt, sắc dục, tiền tài đă phủ ngập những nơi đó từ lâu, để rồi dần dần đắm ch́m xuống đáy đầm lầy hố sâu tội ác.
Bởi vậy, đường địa ngục giờ đây cũng đông nghẹt chứa không hết tội hồn. Mong người đời hăy tỉnh thức. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, con đă sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đă tới nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa ân sư, những người từ phía trước đang đi tới là những thần thánh từ phương nào tới vậy?
Tế Phật: Họ là Ngục Quan cùng Tướng Quân của tiểu địa ngục Dầu Sôi Tưới Thân Ḿnh đến nghênh đón chúng ta.
Dương Sinh: À, th́ ra là vậy. Lạy chào ra mắt Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Miễn lễ, hoan nghênh hai vị đă phụng chỉ tới tham quan.
Dương Sinh: Đa tạ. Nơi cửa các công ty, công xưởng trên dương gian đều thấy treo tấm bảng đề "xin miễn tham quan" tại sao ở đây quí vị lại hoan nghênh tham quan.
Tế Phật: Hừ hừ, công xưởng là chỗ quan trọng, kẻ nhàn rỗi không đước tới đấy. Địa ngục không có cửa, không đón mừng người tới, nhưng người đời không chịu nh́n bảng cảnh cáo viết, lại ngang nhiên lao đầu vào, cho nên không lấy làm lạ khi họ bị bể sọ máu tuôn xối xả, đau đớn kêu la không ngớt.
Ngục Quan: Tế Phật nói rất chí lư, những nơi không nghênh đón Ngài ít lui tới là hơn, kẻo không sẽ bị rớt xuống giếng sâu hối không kịp; cũng xin chớ lưu tâm về việc bữa nay chúng tôi nghinh tiếp quí vị. Bản ngục là ngục Dầu Sôi Tưới Thân Ḿnh trực thuộc quyền cai quản của Đệ Cửu Điện, mời hai vị theo chúng tôi đi xem xét t́nh h́nh.
Dương Sinh: Đa tạ những điều Ngục Quan vừa chỉ dạy. Tiếng kêu từ trong ngục vọng ra, các chảo dầu đang đun lửa bày la liệt trên đất, đă sôi sùng sục muốn bắn tung lên, quỉ binh c̣n hăng say châm thêm dầu, mồi thêm lửa. Tội hồn bị lột sạch quần áo, trói vào cây cột, chảo dầu sôi đặt sát bên, giữa lúc dầu cuồn cuộn réo sôi sùng sục th́ quỉ binh đổ ập nước lạnh vào, thế là dầu sôi và lửa cháy văng khắp ḿnh tội hồn, toàn thân chín đỏ, da thịt bỗng căng phồng, kẻ nào kẻ nấy kêu la thảm không rơ lúc sống họ đă phạm phải tội lỗi ǵ.
Ngục Quan: Để Tôi sai đem một vài tội hồn tới cung khai, hầu khuyên răn người đời.
Dương Sinh: Hay lắm.
Ngục Quan: Đă giải tới. Tội hồn lắng nghe ta bảo: hai vị này là Phật Sống Tế Công cùng Dương Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trên dương gian phụng mệnh xuống âm phủ thâu thập án chứng, hăy mau khai thực những hành vi phạm lỗi lầm lúc c̣n tại thế.
Tội Hồn: Nói ra thực là xấu hổ, tôi lúc sống buôn bán văn bán chữ để sinh nhai, nghĩ rằng viết sách đứng đắn, măi lực sẽ rất giới hạn, sao bằng viết tiểu thuyết dâm ô rồi đem xuất bản có lợi hơn nhiều. Từ đó tôi bèn âm thầm viết, in và bán, kiếm được rất nhiều lời. Sau đó vợ chồng tôi bất hoà đem nhau ra toà ly dị, cuối đời tôi mắc bệnh bán thân bất toại, bèn cho là ác nghiệp quả báo.
Sau khi chết âm binh áp giải tôi xuống địa ngục, lúc đứng trước đài gương soi ác nghiệp tất cả các tội mà tôi đă phạm đều hiện rơ. Nên tôi đă phải trải qua các điện, chịu đủ mọi h́nh phạt nào như cắt tim, chặt tay v.v... c̣n bị giao tới Đệ Cửu Điện để lănh h́nh phạt tưới dầu sôi, hàng ngày chịu thống khổ, cầu xin trời đất xá tội nhưng chẳng được chiếu cố. Nhắn với thế nhân, chớ có viết chuyện dâm ô hại người, để tránh khỏi phải chịu h́nh phạt khắc nghiệt như tôi hiện nay tối tăm không thấy bóng mặt trời.
Ngục Quan: Kẻ viết sách dâm ô ngoài việc chịu h́nh phạt nghiêm khắc ở các ngục ra, cuối cùng c̣n bị đầy xuống ngục A Tỳ, đợi tới bao giờ sách dâm tuyệt tích mới có thể thoát khổ, trở lại kiếp luân hồi, tiếp nhận nghiệp báo. Tội hồn thứ hai mau khai rơ lúc sống người đă phạm tội ǵ?
Tội Hồn: Tôi lúc sống mở tiệm chụp h́nh, kỹ thuật không đến nỗi kém cỏi mà vẫn không đông khách, sau nghe lời dụ dỗ của bạn bè, lén lút quay phim tục tỉu đem bán, kiếm được rất nhiều lời, về sau việc làm ăn bại lộ, bị cảnh sát bắt, bị ra toà án xử phạt. Suốt đời tôi chỉ có phạm mỗi một tội này. Tới khi chết bị đày ải đau đớn khắp các ngục, cuối cùng c̣n bị giải giao tới ngục này lănh thêm h́nh phạt, thống khổ cùng cực không cách chi chịu nổi.
Ngục Quan: Thế nhân không nên xem những thứ tranh ảnh sách báo bẩn thỉu này, để tránh cho tính t́nh khỏi bị uế trược. Nếu sai trái tạo ác nghiệp sẽ khiến thần linh cai quản ba cơi trời đất và người nổi cơn thịnh nộ.
Tế Phật: Bữa nay thời giờ đă trễ, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường, đa tạ Ngục Quan đă cực nhọc chỉ giáo.
Dương Sinh: Bái từ Ngục Quan cùng Tướng Quân đa tạ đă ban phát cho chúng tôi nhiều phương tiện.
Ngục Quan: Chớ khách sáo, lệnh cho các Tướng Quân cùng binh lính hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Đă tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 603 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 4:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI BA
DẠO ĐỊA NGỤC RẮN ĐỘC ĐỎ TÍA CẮN NHOI
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 19 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Sám hối năng tiêu tội nghiệp nhân Trần ai tẩy tận động nguyên thần Thiên đường chỉ nạp tu chân khách Địa ngục nhuyên nghinh tác ác nhân.
Dịch:
Sám hối mới mong giải nghiệp thân Động tâm bụi phủi sạch tinh thần Thiên đường chỉ đón người tu đạo Địa ngục chuyên mời lũ ác nhân.
Tế Phật: Thiên đường chỉ dung nạp người học đạo, tu nhân tích đức, hiền lành chân thật. Địa ngục trái lại chuyên nghinh tiếp kẻ bất nhân ác đức, gian trá lưu manh. V́ mỗi nơi không giống nhau nên đối tượng tiếp đón cũng khác nhau.
Như nơi ṣng bạc mở rộng cửa để nghinh đón những đồng đạo cùng chung chí hướng, đối với việc đánh bài nếu như con không cảm thấy hứng thú, tướng quân cửa sẽ ngăn cấm không cho con vượt qua ao Sấm sét (Lôi Tŕ) một bước.
Điều này đủ chứng tỏ nếu như lúc sống con không ham thích đánh bạc, ắt hẳn con sẽ không đi theo ngă đường đám con bạc ham lao đầu tới. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Con đă sẵn sàng, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đă tới. Dương Sinh mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay ḿnh tới chốn nào đây?
Tế Phật: Con thấy phía trước Ngục Quan đang lo sắp xếp các thuộc hạ để nghinh đón chúng ta, họ là những quan viên của địa ngục Rắn Độc Đỏ Tía Cắn Nhoi. Mau tới trước làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Vái chào ra mắt Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Miễn lễ. Bữa nay phụng mệnh nghinh tiếp nhị vị đạo trưởng tới thăm, kính mời hai vị vào trong ngục tham quan.
Dương Sinh: Cảm tạ hậu ư tiếp đăi của Ngục Quan... Ôi chao! Rắn lớn ḅ kín sàn ngục khiến người ta ai nh́n thấy cũng sợ hăi kinh hoàng. Bầy rắn đỏ tía trườn ḿnh ḅ lúc nha lúc nhúc, con nào con nấy to quá chừng.
Đàn rắn nhắm miệng tội hồn nhoi vào rồi chui ra đằng rún, có nhiều tội hồn thân thể tứ phía bị rắn đục lỗ, máu tươi xối xả tuôn ra, mặt tội hồn không c̣n chút khí sắc, mê man té lăn ra đất. Tiếng rên la nghe điếc cả tai, chứng kiến cảnh này lục phủ ngũ tạng tê buốt, tay chân bủn rủn. Xin hỏi Ngục Quan những người này đă phạm phải các tội ǵ?
Ngục Quan: Bản ngục là ngục Rắn Độc Đỏ Tía Cắn Nhoi, trong ngục toàn rắn độc màu đỏ tía, chúng không nhoi đất mà nhắm tội hồn nhoi miệng, nhoi rốn như vậy là cũng có lư do. Phàm những kẽ tại thế không lo chính đạo, chuyên môn tham nhũng hối lộ, tham lam của công, tham của hại người, tâm địa ác độc như rắn rết, chuyên môn gây đau đớn cho người khác, hành động gian manh, gây chia rẽ giữa người này kẻ nọ, khiến họ âu đả thanh toán nhau, bọn nhắm mắt giết người giấu dao, giấu dùi thừa cơ đâm chém.
Hiện nay trần gian ngành kiến trúc đại phát đạt nhiều nhà thầu lănh xây cất công thự, tư thất v.v... đều bớt công, giảm vật liệu khiến di hai về sau, hành động này như rắn đào hang vô cùng bất chính. Sau khi chết không những phải chịu h́nh phạt ở các ngục khác, mà cuối cùng c̣n bị giải giao tới bản ngục lănh h́nh phạt tối hậu.
Dương Sinh: Rắn cắn nhoi thân người kinh hăi muôn phần, không rơ c̣n có những tội nào khác phải tới đây chịu h́nh phạt nữa không?
Ngục Quan: Tôi chỉ kể đại khái, tội trạng c̣n nhiều, tuỳ theo trường hợp mà phân xử.
Tế Phật: Kể thích âm mưu dùng sừng trâu nhọn dần dần v́ cái nhỏ mất cái lớn, một đời dùng sừng đào khoét liệu rộng được bao nhiêu? Kiếp người lại quá ngắn ngủi, tại sao không sống cho có lương tâm, mà lại đi ỷ tài vơ vét lợi lộc. Nh́n đám tội hồn bị đưa ra pháp trường kia, xiêu xiêu vẹo vẹo, đau đớn ngập tràn chịu đựng cách nào cho thấu.
Trông mong người đời xem xong sách Địa Ngục Du Kư chớ nên dùng sừng trâu nhọn nữa, nếu không sẽ giống kẻ thọc tay vào lỗ bắt trạch, bắt lươn, sẽ có lúc trong lỗ không có trạch có lươn mà có rắn độc. Đó chẳng là tự t́m cái chết hay sao? Bữa nay dạo âm ti tới đây thời giờ đă trễ, Dương Sinh mau chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Đa tạ những điều Ngục Quan vừa giảng giải. Thầy tṛ chúng tôi xin cáo từ.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đừa tiễn...
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 604 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 5:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI BỐN DẠO ĐỊA NGỤC A TỲ.
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 26 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Loan môn văn khoá hưởng kinh thanh Hoán tỉnh thương sinh khí thị danh Đại hạ cao lâu tần kiến lập Bạch niên khứ xứ tại thổ thành.
Dịch:
Chiều xuống cửa thiền vẳng tiếng kinh Trần gian thức tỉnh bỏ công danh Lầu cao nhà lớn xây cho lắm Già thác cũng về ở mă xanh.
Tế Phật: Phía trước Thánh Hiền Đường mới xây cất một toà lầu lớn, người thời nay có diễm phúc nên đều được ở trên không trung, nhưng "tâm an" bao giờ cũng hơn "cư an", tâm nếu như không an định mà ở lầu cao cũng chưa kể là được hưởng phúc lộc. Đời quí nhứt là tâm an, bởi lẻ tâm không an th́ dù có ở nơi cung vàng điện ngọc cũng vẫn cảm thấy bất an chẳng có chi là sung sướng cả.
Dương Sinh: Ân sư nói rất chí lư.
Tế Phật: Mau lên đài sen, chuẩn bị dạo âm ti.
Dương Sinh: Con đă sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đă tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Con xuống rồi, bữa nay ḿnh tới chốn nào đây?
Tế Phật: Bữa nay ḿnh dạo Đại Địa Ngục A Tỳ.
Dương Sinh: Người đời nay rất sơ Ngục A Tỳ, xin thầy dẫn con đi thăm ngục khác.
Tế Phật: Con đừng hăi, đă có ta bên cạnh một chút cũng đừng lo. Nếu như tâm con kinh hoàng, ta ban cho con một viên thuốc "định thần" này, uống mau di rồi theo ta.
Dương Sinh: Đa tạ ân sư đă ban cho con thuốc tiên, uống xong tâm trí cảm thấy yên định lạ thường. Phía trước Ngục Quan đă tới nghinh tiếp chúng ta.
Ngục Quan: hoan nghênh Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh đă thân hành tới chỉ dạy. Bản ngục là Địa Ngục A Tỳ thuộc quyền cai quản của Đệ Cửu Điện, hoan nghênh nhị vị tới tham quan.
Dương Sinh: Cảm tạ sự thành tâm thiện chí của Ngục Quan. Thưa tại sao khuôn viên của Địa Ngục A Tỳ rộng lớn quá thế này?
Ngục Quan: Địa Ngục A Tỳ giống như cái mũi của người ta lớn mà không lớn nhưng lại có thể xuyên qua khắp thân ḿnh, v́ là đường dẫn khí hô hấp cho nên kẻ bị giam tại Địa Ngục A Tỳ đều là thứ quỉ tội ác ngập trời.
Dương Sinh: Con không dám thăm cái động lớn phía trước, bên trong tối om, đen nghịt, chỉ nghe tiếng kêu la rùng rợn cùng tiếng nước nóng sôi sục, hẳn là tội hồn đang bị nhận ch́m trong đó?
Ngục Quan: Những kẻ ở trong động toàn là tội hồn, ngục này có cả thảy 18 tầng, trong ngục cắm đầy chông sắt nhọn hoắt cùng ngập đầy nước sôi. Tội hồn bị Tướng Quân lấy đinh ba đẩy vào cùng bị ḷng đất hút mạnh nên chỉ c̣n kịp nghe tiếng kêu thảm thiết, ngưng một lát, kế đó gào thét không nguôi. Trong ngục bàn tay giơ lên không nh́n thấy năm ngón, kẻ bị hành h́nh ở bên trong vô cùng thống khổ, có thể nói h́nh phạt này là h́nh phạt vô cùng đau đớn.
Dương Sinh: Thường nghe nói người đời rất sợ Ngục A Tỳ là bởi lư do nào?
Ngục Quan: Kẻ bị đày xuống Ngục A Tỳ, phần lớn đều không được siêu sinh, giống như bị toà án ở dương gian kết án chung thân khổ sai vậy.
Dương Sinh: Ngục Quan có thể dẫn vài tội hồn ra đây để thẩm vấn lấy cung không?
Ngục Quan: V́ quí Đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Kư, nên Minh Vương đă ra lệnh cho chúng tôi được phép đem vài tội hồn ra để làm bằng chứng thôi, c̣n b́nh thường những kẻ đă bị đày tại Địa Ngục A Tỳ không bao giờ được thả ra. Dương Sinh hăy nh́n tôi dùng phép lạ... phóng luồng ánh sáng cực lớn vào trong ngục tức th́ toàn bộ khí giới hành h́nh tội nhân ngưng hoạt động. Tướng Quân mau kéo cổ vài tội hồn ra.
Tướng Quân: Xin tuân lệnh... đă kéo được tội hồn ra.
Dương Sinh: Thân thể tội hồn bị hành hạ bầy nhầy, nát như tương, máu me đầm đ́a, hai tṛng mắt ḷi ra, không c̣n nhận ra h́nh dáng con người, thật là đáng thương.
Tế Phật: Để ta tạm thi thố pháp lực cho thần trí bọn họ tỉnh lại, giảm bớt sự đau đớn của xác thân để họ dễ bề thuật lại những hành vi phạm tội.
Dương Sinh: Diệu pháp của ân sư thật quả vô biên, thân thể tội hồn mười phần nát bấy đă hàn gắn lại được h́nh người tới bảy phần, chỉ c̣n ba phần là giống quỉ, không hiểu tại sao?
Ngục Quan: Đây là hai vị đại sư, bọn mi mau thuật lại những hành vi ác độc lúc c̣n tại thế để khuyên răn người đời.
Tội Hồn: Tôi lúc sống phạm vào tội bất hiếu, b́nh thường chỉ ham chơi bời không chịu làm việc, những khi ngửa tay xin tiền mà không được th́ ngoác mồm chửi cha mắng mẹ, có khi c̣n tay đánh chân đá, lúc sống không chịu giữ đạo hiếu, sau khi chết bị chịu tất cả những h́nh phạt ở các ngục khác xong c̣n bị chuyển tới đày tại Ngục A Tỳ vĩnh viễn không được siêu sinh. Kính mong hai vị đại sư thương t́nh xin giùm cho tôi được thoát khỏi ngục A Tỳ, đầu thai làm kiếp trâu chó tôi cũng vui ḷng, bởi v́ ở đây quá đổi thống khổ.
Tế Phật: Trăm đức thiện, đức hiếu đứng dầu, đă không biết phụng dưỡng lại c̣n đánh đập cha mẹ, tội ác thật quá lớn. Tội bất hiếu luật ở âm phủ không tha, ta không có cách nào cả.
Ngục Quan: Đời có lắm kẻ v́ hư dục hôn nhân, v́ tư lợi tiền tài mà phản bội cha mẹ, những kẻ bất hiếu đó nếu như không sớm hối cải, sau khi chết chắc chắn sẽ bị đày xuống Ngục A Tỳ. Tội hồn thứ hai hăy mau cung khai.
Tội Hồn: Tôi lúc sống hiếu sắc, dụ dỗ kết thân với quả phụ cùng nhận trẻ gái mồ côi làm con nuôi để giở tṛ ám muội, tôi nghĩ rằng làm như vậy là được tận hưởng hạnh phúc ở cơi đời, nào ngờ sau khi chết phải đớn đau thống khổ. Cuối cùng tôi c̣n bị phán đày tại Ngục A Tỳ này vĩnh viễn không được siêu sinh. Kính mong sư phụ cứu mạng tôi, nếu như tôi thoát khỏi được cảnh khổ đau này nguyện làm thân chó ngựa của ngài.
Tế Phật: Ta không cần dùng tới chó ngựa. Lúc sống hiếu sắc tham dâm, không đi đường ngay lối thẳng, muôn tội ác tội dâm đứng hàng đầu, đă bị đày đoạ tại Ngục A Tỳ c̣n hối hận được sao!
Ngục Quan: Tội hồn thứ ba, hăy mau thuật lại những hành vi đen tối lúc sinh tiền.
Tội Hồn: Tôi lúc sống chuyên môn chế thực phẩm, thuốc thang rượu chè giả tạo như thuốc tây, rượu tây, ruột ta, nước tương v.v... để kiếm lời thật nhiều. V́ tham làm giàu một cách thất nhân thất đức như vậy cho nên sau khi chết bị đày tại Ngục A Tỳ. Kính mong Phật Sống tế Công xin với Diêm Vương để Diêm Vương xá tội cho tôi, kiếp sau được lên làm người tôi hứa sẽ an phận giữ ḿnh, kiếm tiền một cách có lương tâm.
Tế Phật: Chế rượu, thuốc giả mạo tội ác quá lớn, không nghĩ ǵ tới đạo đức, mạng sống con người, thử hỏi nuốt những thứ đó vào bụng có khác ǵ uống thuốc độc, người mất hết lương tri, hại người quá nhiều. Xử đày ngươi tại Ngục A Tỳ uống nước đất đen để giải độc, mùi vị ra sao mi tự hiểu biết, c̣n ta hoàn toàn bất lực.
Ngục Quan: Tội hồn thứ tư hăy mau thuật lại những hành vi ác độc lúc c̣n tại thế.
Tội Hồn: Lúc sống tôi chuyên môn buôn lậu, hút á phiện chích ma tuư, sau v́ xài tốn quá nhiều tiền tôi buôn lậu luôn cả mấy thứ này, thành một đời hại quá nhiều người. Sau khi chết Diêm Vương cả giận phán đày tôi vĩnh viễn tại Địa Ngục A Tỳ, ở đây hàng ngày chịu thống khổ quá đỗi, hối hận lúc sống đă phạm vào tội ác quá lớn, hiện tại vô phương cứu chữa.
Tế Phật: Buôn lậu là đă phản bội luật pháp quốc gia, lại c̣n buôn lậu cả ma tuư để làm hại đồng bào, luật dương thế chẳng tha, luật âm phủ không cứu. Phàm tại thế buôn lậu cùng nghiện ngập buôn bán ma tuư tội thật quá lớn, những kẻ phạm phải tội này hăy mau mau buông dao đồ tể, làm lại cuộc đời, nếu như ngoan cố sau khi chết chắc chắn sẽ bị đày xuống Ngục A Tỳ muôn ngàn năm chẳng thể siêu sinh.
Ngục Quan: Bốn tội hồn cung khai đă xong, hy vọng người đời sau khi đọc xong sách Địa Ngục Du Kư, những ai trước đây đă trót phạm phải lỗi lầm, từ nay nếu như biết ăn năn hối cải, ta sẽ sẵn sàng tha thứ, hy vọng người đời mau mau quay dầu thức tỉnh, chớ có tham lợi lộc nhất thời mà bị sa vào đường cùng ngơ cụt.
Tế Phật: Thời giờ đă trễ, chúng ta chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Xin cáo từ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân. Cảm tạ sự tiếp đăi nồng hậu.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đă tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 605 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 5:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI LĂM
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI GẶP GỠ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Thập Điện Diêm quan thiểu thuyết t́nh Hoành hành đáo thử đảm tâm kinh Không lưu vạn quán nhi tôn chỉ Minh lộ chỉ văn khiếu khổ thanh.
Dịch:
Diện nọ Diêm Vuơng chẳng vị t́nh Ngang tàng tới đó mật gan kinh Bạc tiền để lại con vui hưởng Âm phủ cha đi khóc một ḿnh.
Tế Phật: Dạo âm ti đă tới điện thứ mười, Địa Ngục Du Kư đă gần tới đoạn chót, nhưng đoạn chót này lại rất thảm v́ điện thứ mười là điện chuyển bánh xe, chúng sinh bị chuyển tới nơi trời đất tối tăm, mơ mơ hồ hồ chẳng rơ phương hướng đông tay nam bắc là đâu. Tất cả chúng sanh sống nơi cơi thế đều muốn nhớ lại việc của kiếp trước cho nên kẻ tu đạo đều tự hỏi rằng "ta là ai"? Nếu như trả lời được "ḿnh là ai" th́ c̣n cần ǵ người đắc đạo. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin ân sư chầm chậm, thưa có người hỏi con là họ muốn in tặng sách Địa Ngục Du Kư, th́ cầu nguyện phải thắp nhang khấn trước mặt ông Táo, nhưng hiện nay bếp nhà nào nhà nấy đều đun bằng hoả ḷ không đâu thấy c̣n ông "đồ rau" (ba cục đất nặn cao dùng để bắt nồi lên đun nấu) th́ làm cách nào kiếm được ông Táo bây giờ?
Tế Phật: Nhà ở tiến từ bùn đất thấp bé tới xi măng cốt sắt cao to, mỗi người sống trong đó đâu có phải v́ thay đổi bếp mà người ta quên ông Táo, để mất tiêu ông Táo luôn đâu. Thực ra chỉ là trang bị cho bếp đẹp đẽ hơn thôi. Nhớ lại thời xưa bếp núc dơ dáy đầy khói, tro, mồ hóng mà Thần Táo vẫn c̣n giáng lâm mỗi nhà kia mà.
Việc ăn uống của người đời đều phải lo liệu ở bếp, ăn uống là việc để duy tŕ mạng sống, một ngày chẳng thể thiếu, cho nên có câu: "Hữu yên chi xứ tức hữu nhân" (Nơi nào có khói tức có người). Do đó nhân số thịnh suy mới gọi là "nhân yên" (khói người). Hiệu quả của ông Táo công gọi là "Ty Mệnh Chân Quân" là vị chủ tể coi về mạng sống của Trời và thức ăn của đất ban cho con người.
Bếp xưa ḷ nay giống nhau v́ đều dùng lửa nấu ăn, nên chẳng có chi khác biệt, cho nên c̣n gọi là Táo Thần là hoả Thần, cũng gọi là "Hoả Đức Tinh Quân" (Vua Sao đức lửa). Lấy thần đèn mà luận th́ ngày xưa châm dầu vào đèn ngày nay bật công tắc, tuyệt nhiên không v́ thế mà thần Thánh không giá lâm đền đài miếu mạo. Chẳng kể khoa học phát đạt, kiến trúc cao ốc trăm tầng, tính linh của con người vẫn không hề giảm, Thần Thánh vẫn ở sát bên ta, ông Táo vẫn ở trước mắt ta.
Dương Sinh: A th́ ra là thế, nhà cửa tuy kiến thiết tối tân, nhưng gạo, muối, dầu, dấm vẫn dùng như xưa. Con đă lên đài sen, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đă tới, xuống đài sen.
Dương Sinh: Điện thứ mười ở trước mắt, đám đông ồn ào kia h́nh như tới nghinh tiếp chúng ta.
Tế Phật: Đúng rồi, chuyển Luân Vương dẫn Minh Quan cùng Tướng Quân ra nghinh tiếp chúng ta, con mau đến làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Lạy chào ra mắt Chuyển Luân Vương, kẻ hậu sinh là môn sinh của Thánh Đế thuộc Thánh hiền Đường ở Đài Trung, phụng chỉ dạo thăm âm phủ viết sách, nay tới Điện Thứ Mười, kính xin Minh Vương giúp đỡ phương tiện.
Minh Vương: Chớ khách sáo, hai vị từ Đệ Nhất Điện tới Đệ Thập Điện, trải qua hầu hết những ngă đường tối tăm, công cứu đời quả là cao sâu, kính mời vào trong điện nghỉ ngơi.
Dương Sinh: Đa tạ Minh Vương .
Tế Phật: V́ thời giờ có hạn, tôi thấy chẳng cần phải nghỉ ngơi, xin trực tiếp dẫn Dương Sinh đi thăm các khu của Điện Thứ Mười, chẳng rơ ư của Minh Vương thế nào?
Minh Vương: Ư của tế Phật đă như vậy, tôi cũng xin vâng.
Dương Sinh: Điện Thứ Mười có điểm đặc biệt là tội hồn quá đông, vượt hẳn các điện phủ khác là tại sao?
Minh Vương: Bởi v́ bản điện là địa ngục cuối cùng trong số các Điện Phủ. Chúa tể Chuyển Luân là cửa ải của đường ra ngoài vĩ đại, cho nên các âm hồn ở âm phủ được chuyển bánh xe đều tụ tập tại đây nên trách vụ của bản điện cũng rất bận rộn và phức tập, để tôi đưa lên "Quan Sinh Đài" (Đài xem sự sống) tham quan.
Dương Sinh: Đa tạ. Đài này quá cao, thang lầu "Hồi chuyển" bắc thẳng lên mây, leo lên hẳn là hoàn toàn kiệt sức.
Tế Phật: ta giúp sức con một tay để con leo lên.
Dương Sinh: Cảm tạ sự giúp đỡ của ân sư.
Tế Phật: Muốn lên thang trời mà không dùng tâm lực th́ làm sao lên nổi? Tu đạo không cầu tiến cuối cùng cũng chẳng thể lên cao.
Dương Sinh: Đă lên tới chóp đỉnh, phía trên giống hệt như cái đài quan sát, phía trước chỉ nghe tiếng ŕ rầm hỗn tạp, nh́n bốn bề mênh mông không thấy bến thấy bờ, đây là đâu đây?
Tế Phật: Muốn lên Đài Quan Sát Sự Sống phải leo hết 360 bực thang lầu, con số một ṿng trời, chúng ta ở đây cũng đă là Thiên Đài nên cách âm phủ cũng rất xa. Phía trước mênh mông một dảy chính là Tứ Đại Bộ Châu, bởi mắt huệ của con chưa khai mở cho nên tâm nh́n bị giới hạn, để ta ném một viên ngọc sáng xuống.
Dương Sinh: Ân sư ném viên ngọc sáng ra như đêm sương gặp ánh sáng, quả nhiên cảnh sắc cực xa ở phía trước con đều thấy rơ . Nh́n phía trước giống như từ trên không trung nh́n xuống mặt đất lớn vậy. Cảnh trí bốn phía khác biệt nhau, phía kia giống như nước Mỹ dân chúng cư ngụ đông đúc, người đi lai và nhà cửa kiến trúc giống y như h́nh ảnh chiếu trên màn bạc.
Tế Phật: Quả đúng, đất đó là nước Mỹ, ở trên Thiên Đài có thể nh́n thấy h́nh ảnh của khắp Tứ Đại Bộ Châu. Bánh xe chuyển vận của Điện Thứ Mười như rắc hoa khắp trời, tuỳ nhân duyên mà chuyển sinh nơi các xứ. Đài đă xem xong, chúng ta xuống chứ.
Dương Sinh: Dạ dạ.
Tế Phật: V́ thời giờ đă muộn t́nh h́nh các ty của Điện Thứ Mười ngày khác tới thăm tiếp, xin cáo từ Minh Vương.
Minh Vương: Thời giờ đă trễ chúng tôi chẳng thể lưu giữ. Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Con đă sẵn sàng, mời ân sư trở lại hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 606 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 5:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI SÁU
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI THĂM HỎI SỞ CHUYỂN KIẾP
Phật Sống Tế Phật Giáng ngày 19 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Luân hồi lục đạo thán vô kỳ Hướng thiện cần tu thiếu tráng th́ Nghịch nhĩ trung ngôn quân thiết kư Thần tiền sám văng thượng năng truy.
Dịch:
Luân hồi sáu ngă khổ muôn đời Hướng thiện tu ngay thuở thiếu thời Tiếng xấu lời hay ghi nhớ măi Ăn năn Tiên Thánh mới nên người.
Tế Phật: Sáu ngă luân hồi như bánh xe chuyển động không lúc nào ngừng nghỉ, kẻ bị kẹp dưới bánh xe thành "quỉ bánh xe" rất hiếm có cơ hội trốn thoát t́m đường sống. Hy vọng trong cái chết chúng sanh t́m ra được cái sống, chớ nhắm gầm xe, miệng cọp mà đâm đầu vào.
C̣n như sợ hay không sợ phải vào cửa địa ngục th́ tin rằng đă là kẻ thông minh hẳn đều hiểu rằng nên lánh xa là hay hơn cả, để c̣n kịp đến nước Thần Tiên sám hối lỗi lầm quá khứ hầu kịp chuyến xe tiến về tương lai. Sửa soạn dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa, con đă chuẩn bị xong, mời ân sư lên đường .
Tế Phật: Bữa nay lại tới thăm Điện thứ Mười gặp gỡ Chuyển Luân Vương... đă tới nơi, xuống đài sen.
Dương Sinh: Chuyển Luân Vương đă chờ sẵn phía trước để nghinh đón chúng ta.
Minh Vương: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiên Sinh lại tới thăm bản Điện Thứ Mười, lần trước v́ thời giờ eo hẹp cho nên chưa thể giới thiệu tỉ mỉ cặn kẻ được. Bữa nay có dịp may gặp lại tôi xin thân hành hướng dẩn hai vị đi thăm các ty.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đă tận t́nh chỉ giáo.
Minh Vương: Điện Chuyển Luân tuyệt đối không v́ t́nh riêng, người nào nhận nghiệp báo của người đó, chuyển đông chuyển tây, văng nam văng bắc đều căn cứ theo nhân duyên tạo tác của mỗi chúng sanh mà định. Bữa nay tôi xin hướng dẫn hai vị tới thăm Sở Chuyển Kiếp.
Tế Phật: "Đạo" và "kiếp" khác nhau, kẻ hướng về "đạo" chân thành tu tập th́ đắc "đạo" quả, lên thiên đường không phải tới Sở Chuyển Kiếp. C̣n như kẻ không tuân đạo đức, phản bội luân lư tự nhiên gặp "kiếp" và phải chịu sự phán quyết của các ty sở chuyển kiếp.
Minh Vương: Mau đi theo tôi, phạm vi sở chuyển kiếp cực rộng, các ty có người lo liêu các hồ sơ án lịnh, sở chuyển kiếp của bản điện chia làm tám ty, hai vị tới sở nghỉ ngơi, tại đây sẽ giới thiệu t́nh h́nh các ty, hầu tiện việc thông báo cho người đời được rơ.
Dương Sinh: Phía trước có biển đề "Sở Chuyển Kiếp" tội hồn do âm binh áp giải tới quá đông, âm binh đều phải tŕnh hồ sơ lên các quan viên, không rơ họ sẽ giải quyết ra sao?
Minh Vương: Mời hai vị vào trong nghỉ ngơi tôi sẽ giải thích rơ vấn đề.
Dương Sinh: Các quan viên trong sở mới chợt nh́n thấy chúng tôi đă đ́nh mọi công tác, tất cả đều nghiêm chỉnh sẵn sàng đón tiếp chúng tôi.
Tế Phật: Dương Sinh ngồi xuống đi. Minh Vương đă hậu đăi như thế này con chớ có rụt rè.
Minh Vương: Đây là vị Trưởng Sở của Sở Chuyển Kiếp.
Trưởng Sở: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm, việc phụng chỉ viết sách tuy tốn hao nhiều máu và mồ hôi những công lao vô cùng sâu dầy.
Minh Vương: Mời quư vị dùng trà. Tôi xin giới thiệu t́nh h́nh 8 ty lớn của Sở Chuyển Kiếp để thế nhân hiểu rỏ thứ tự của việc chuyển kiếp luân hồi. Đầu tiên người chết phải qua Phúc Thần, Thành Hoàng, âm binh hoặc quỉ Hắc Bạch Vô Thường dẫn nhập Quỉ Môn Quan cùng tới Giao Bạ Sảnh khai hồ sơ lư lịch.
Dù tới để du lịch hay nhận lănh h́nh phạt cũng phải tuần tự trải qua từ điện số 1 tới điện số 9. Kẻ có tội đă hoàn tất việc thụ lănh h́nh phạt th́ được giao qia bản điện chuyển kiếp luân hồi, nơi quan trọng nhất của bản điện là Sở Chuyển Kiếp. Sở này được chia làm 8 ty: 1. Ty Tra Nghiệm, 2. Ty Kế Thiện, 3. Ty Khảo Quả, 4. Ty Ân Oán, 5. Ty Thọ Mệnh, 6. Ty Chi Phối, 7. Ty Chưởng Kiếp, 8. Ty Thụ Sinh.
1. Ty Kiểm Tra: Ty này lănh nhiệm vụ sưu tra những tội hồn sau khi các điện đă xét xử và trừng phạt xong, thủ tục này có hoàn tất tội hồn mới được lănh giấy chứng nhận hết can án. Trước khi đầu thai phải đến Ty Kiểm Tra khai báo để ty này kiểm soát lại xem thủ tục ở các ngục trước đây đă thực hoàn chỉnh chưa và đúng hay sai. Nếu như sai hoặc không hoàn chỉnh sẽ bị kêu trở lại ngay lập tức. Phải làm như vậy là để pḥng ngừa sự làm việc tắc trách của các âm hồn.
2. Ty Kế Thiên: Ty này sưu tra những người làm việc thiện xem họ đă hành thiện được nhiều hay ít rồi mới quyết định cho họ hưởng phúc trạch dầy hay mỏng. Lúc sống nếu như chịu tu nhân tích đức sẽ được đầu thai làm con trai nơi phước địa, lớn lên làm quan, nhẹ bước thanh vân, công danh hiển đạt, là phú thương ở nhà lớn, của cải nhiều vô số kể, là kẻ tay trắng sau có gia cư, là kẻ được hưởng phúc trạch của tổ tiên trọn đời vinh hoa phú quí.
Nếu đầu thai làm con gái cũng được là vợ quí nhân đạt quan hưởng phúc ấm, lại sinh con quí tử, lúc làm cha mẹ sẽ được hưởng phúc khi con khôn lớn. Trường hợp của những người vừa kể trên đều là do lúc sống có công lớn tu nhân tích đức, đó là luật phúc báo do ty này thi hành, một sợi tơ, một cọng lông không thể sai trệch. Đây chính là trách vụ của Ty Kế Thiện.
3. Ty Khảo Quá: Ty này chuyên khảo hạch kẻ sắp đầu thai có hay không có tội lỗi. Nếu kẻ đầu thai muốn chuyển kiếp làm người ắt bị khảo sát sưu tra tội ác lỗi lầm nặng hay nhẹ, nhiều hay ít. Nếu là kẻ lúc sống thiện tâm ít ỏi, làm lỗi sơ sơ, sinh ra đời được cơm no áo ấm, được bóng râm của cha mẹ che chở, chồng vợ hoà thuận, con cái hiếu thảo. Kẻ công tội tương đương ra đời là người b́nh thường, sống lâu, áo cơm đủ ăn đủ mặc, cha mẹ vợ chồng con cái sum hợp, sống suốt đời vất vả không được hưởng phúc thong dong.
Kẻ không có công mà có tội ra đời phải chịu lận đân, đói rét, nghèo hèn, cô quả, cha con anh em chồng vợ khuyết hăm. Kẻ tội quá nặng ra đời chịu bần cùng khốn khổ, bị tàn tật, đầu và tay chân bất toàn, bị bệnh ngớ ngẩn, điếc, mù, câm, làm ăn mày. Như con trai lúc sống buông bỏ ngũ luân bát đức, con gái không giữ tam tùng tứ đức, tạo nghiệp ác quá nặng ắt bị phạt đầu thai làm kiếp súc sinh, hoặc côn trùng sâu bọ. Đó là luật ác báo do Ty Khảo Quá đảm trách.
4. Ty Ân Oán: Ty này coi việc đầu thai làm con trai hay con gái ra đời để đền ơn báo oán. Như kiếp trước chịu ân huệ của người t́nh c̣n ràng buộc, được lịnh ra đời đền đáp họ. Kiếp trước mắc cái nợ chửi mắng, khinh khi, tranh dành, tới chết oán khí chưa tiêu cũng được ra đời báo đền, do đó nói "Đức báo đức, cừu báo cừu, oán báo oán".
Lại có loại oan hồn phụ nữ si t́nh quá nặng, lúc sống cắn răng chịu nổi oán cừu mà chưa có dịp báo thù, sau khi chết không thích làm người thích làm quỉ dữ bắt hồn kẻ địch phải chết v́ tai nạn dọc đường cùng ở chốn hang sâu núi thẳm để báo thù một cách thảm thiết. Bản ty này xét cái quả thấy có nổi oan ức đó nên cho phép báo oán để an ủy cái tâm của kẻ chết. Đó là chức vụ của Ty Ân Oán.
5. Ty Thọ Mệnh: Ty này nắm giữ tuổi thọ của những người có tài năng danh vọng. Những người sống ở thế gian được hưởng phú quí và trường thọ, người được hưởng phú quí nhưng đoản thọ, kẻ đă nghèo c̣n tổn thọ, người nghèo mà sống lâu, ra đời để chịu chết đuối, chết đau buồn, sinh ra được ít ngày ít tháng ít năm th́ chết yểu, nhiều trường hợp không giống nhau.
Kẻ phạm pháp mà chết, những người bị kẻ khác mưu hại, tất cả đều có số mệnh. Đó là trách nhiệm của Ty Thọ Mệnh. Nhưng c̣n nói về kẻ chết oan, sinh ra làm người, không biết giữ phận, gặp hoạ quẩn trí tự giết ḿnh, làm việc không cẩn thận đưa đến cái chết là do ḿnh không do số mệnh.
6. Ty Chi Phối: Ty này chi phối việc cha con chồng vợ của thế nhân. Nếu người đời sinh ra con trai có hiếu hay bất hiếu, lấy vợ là hiền phụ hay ác phụ đều có căn do, họ gặp nhau đều do duyên tiền định.
Như tên Giáp lúc sống thường cho tên Ất vay tiền, tới chết nếu chưa trả nổi, tuy Ất không có tội nhưng khi chuyển kiếp làm người, luật âm phủ sẽ bắt tên Ất đầu thai làm con trai hiếu thảo của tên Giáp để đền ơn, nên gọi là con cái trả nợ cha mẹ. Lại ví dụ tên Giáp lúc sống dùng mưu kế chiếm đoạt của cải của tên Ất khiến tên ất uất hận mà chết, sau khi chết tên Ất tố cáo tên Giáp với Minh Vương.
Luật âm phủ phê chuẩn tên Ất tái đầu thai làm con trai kiêu căng phá hoại gia cang của tên Giáp th́ đó gọi là con cái đ̣i nợ bố mẹ. Chồng vợ cũng vậy kẻ lấy được vợ thảo, sanh con đẻ cái thành mẹ hiền, kẻ lấy vợ ác độc, gặp sự tốt lành hay éo le đều do nhân duyên thiện ác xui nên, kiếp trước tạo nhân, kiếp sau ắt nhận quả báo hết sức công bằng, không sai trệch mảy lông sợi tóc. Đó là trách vụ của Ty Chi Phối.
7. Ty Chưởng Kiếp: Ty này lo việc vô sổ những người chuyển kiếp luân hồi, như người đại thiện được hưởng phú quí mấy đời, kẻ đại ác phải chịu cùng khổ bao đời, kẻ nghiệp nặng phải đoạ làm súc vật mấy kiếp, có thể trở lại làm người hay vĩnh viễn đoạ làm côn trùng sâu bọ đều có ấn định rơ rệt, cho nên nói "số mệnh khó tránh".
Đến như kẻ có số được hưởng phú quí nhưng lại đột nhiên tạo ra ác nghiệp, kẻ số chịu cùng khổ nhưng gắng tu nhân tích đức, thiện ác cân nhắc bù qua sớt lại, hạn cùng khổ được thâu ngắn lại.
Cho nên nói "Cần năng bổ khuyết hư năng phí thời" (chăm chỉ th́ được bù đắp, vui chơi th́ phí thời gian). Ngoài ra c̣n có ba đài Bắc Đẩu Thần Quân, phụng Ngọc chỉ của Ngọc Đế giám sát rồi thông báo cho Minh Vương để Minh Vương ra lệnh cho ty này giảm bớt hoặc gia tăng. Đó là chức vụ của Ty Chưởng Kiếp.
8. Ty Thụ Sinh: Ty này coi việc đầu thai cho chúng sanh nên chuyên cung cấp những bằng chứng hiển nhiên. Người chết sau khi bị các điện phán xét và trừng trị xong, đến lúc chuyển kiếp luân hồi đầu thai th́ hồ sơ lư lịch lưu giữ ở ty trên được giao qua Ty Thụ Sinh lo liệu tiếp, sau khi hoàn tất xong nếu được đầu thai th́ được cấp giấy chứng nhận, và quan coi việc đầu thai mới được phép chuyển kiếp luân hồi.
Nếu là kẻ sĩ sẽ lănh nghiên bút, là thương gia lănh bàn toán, là nhà nông lănh cầy bừa, là thợ thuyền lănh dụng cụ, là muông thú chim chóc loài nào lănh loại lông của loài đó rồi đầu thai. Kẻ nào làm nghề nấy, đúng lúc hợp cơ duyên.
Song v́ nghiệp quả không giống nhau nên cần phải có giấy chứng nhận mới có thể đầu thai. Đó là chức vụ của Ty Thụ Sinh. Tám Ty trên là nơi chúng sinh lănh bằng chứng chuyển kiếp đầu thai, đă nhập luân hồi tức kể như là số kiếp cho nên nói "chuyển kiếp". V́ thời giờ đă trễ, sự kiện luân hồi bữa khác sẽ thảo luận kỹ càng hơn.
Tế Phật: Đă tới giờ, chuẩn bị trở lại Hiền Đường, đa tạ sự giảng giải của Minh Vương.
Dương Sinh: Làm phiền Minh Vương tốn công giảng giải, xin tạm biệt...
Tế Phật: Đă tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 607 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 7:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI BẢY
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI THĂM QUÁN BÀ MẠNH
Phật Sống tế Công Giáng ngày 26 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Thập điện du hoàn công diệc viên Thâu tài ấn tống quảng lưu truyền Bảo thư giá trị linh chi quí Giáo hoá nhân tâm quan thánh hiền.
Dịch:
Điện nọ thăm xong mọi việc yên Góp tiền in tặng để lưu truyền Sách hay hoa lạ bao yêu quí Dạy dỗ người đời học Thánh Tiên.
Tế Phật: Dạo âm ti tới Điện Thứ Mười, từ hai năm nay, chư sinh bảo hộ pháp lư giúp đỡ viết sách người ngoài họ tưởng là phạt đứng lâu như vậy hẳn là có chuyện ǵ đây? Kỳ thật, đứng lâu như vậy mới là thế đứng chính đáng, mới là động tác cơ bản của kẻ xử thế, tu đạo phải đứng thật lâu mà vẫn không khó chịu, nếu đứng xiêu vẹo ngă nghiêng làm sao thành được Đại La Kim Tiên? Mọi người đều tưởng nằm thẳng dẳng trên nệm, thư nhàn sảng khoái, nếu thế sẽ giống hệt thứ tiên lười, quỉ biếng chẳng thể ngang nhiên đứng thẳng lưng, làm tay hảo hán đè mây lướt gió. Dương Sinh nghe ta nói có đúng không?
Dương Sinh: Thưa đúng lắm, ân sư dạy như vậy tất là chính đáng, bởi lẽ chân đứng không vững tức là không có lập trường, đất đứng đă không có nói chi tới tu đạo?
Tế Phật: Kẻ đứng không vững hẳn là nằm ngồi cũng chẳng yên, cho nên tu đạo trước hết phải "lập định" rồi sau mới làm chủ được bản tính, mới thâu hồi nổi cái tâm rối rắm động loạn. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, chúng ta bữa nay tiếp tục dạo thăm Điện Thứ Mười.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, xin ân sư hăy khởi hành.
Tế Phật: Đă tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Điện Thứ Mười, Minh Vương ở phía trước, xin chào ra mắt.
Minh Vương: Miễn lễ, hai vị bữa nay lại tới thăm, rất hoan nghênh. Bửa trước chỉ mới thăm Sở Chuyển Kiếp, tạm giới thiệu t́nh h́nh các ty, bữa nay hẵn là sẽ được t́nh h́nh sáu ngă luân hồi, v́ thời giờ có hạn chúng ta mau đi tới phía trước.
Dương Sinh: Cảm tạ sự hậu đăi của Minh Vương cùng sự hướng dẫn của chư vị quan viên... Đă tới Sở Chuyển Kiếp bữa trước, người ta quá đông đúc, gồm đủ mọi giống người thuộc các nước từ Á qua Âu họ đang chuẩn bị đầu thai chăng?
Minh Vương: Người đời sau khi chết, phàm những kẻ phạm tội đều phải qua các ngục để xử trị cho nên địa ngục cũng giống như "Quốc Tế Pháp Định". Các loại nhân sĩ chuyển kiếp luân hồi đầu thai đều lo lănh giấy chứng nhận, giống như dương gian xuất ngoại phải lo giấy xuất cảnh vậy.
Dương Sinh: Đă tới Ty Thụ Sinh, trong này người càng đông hơn, giống như cảnh chen chúc nơi bến xe đ̣.
Tế Phật: ha ha, đây đều là những người muốn lên đài chuyển kiếp luân hồi, như cảnh dương gian tại bến đợi xe, xe vừa nổ máy bánh không ngừng chuyển động. Chỗ hành khách mua vé t́nh quá nhỏ người mua vé đi các nơi là những âm hồn chuyển kiếp đầu thai các chốn trên thế giới lại quá đông.
Minh Vương: Tế Phật nói rất đúng, người đời sau khi chết phải qua các điện để xét xử và thụ h́nh mới được đưa đi đầu thai. Đường luân hồi quá vô t́nh, tuy cùng đi một chuyến xe chuyển kiếp luân hồi nhưng mục đích của mỗi kẻ lại khác nhau, nhân duyên của mỗi người không giống nhau, vẫy tay xuống xe, một đời chỉ hay lo lúc sinh hoạt trong cùng một hoàn cảnh.
Dương Sinh: Phía trước người ta tụ tập quá đông, giống như đang uống nước trà đá lạnh để giải khát. Bữa nay trời quá nóng nực, tôi cũng khát nước quá, tới trước uống một ly cho khỏi khát có được không?
Minh Vương: Không thể được, đó là quán Bà Mạnh, kẻ đầu thai đều phải húp "cháo lú", nếu như Dương Sinh húp phải, sau khi trở lại trần gian liệu có tránh khỏi là kẻ mơ mơ hồ hồ, quên hết mọi sự không c̣n nhớ ǵ nữa không?
Dương Sinh: Lợi hại tới mức đó sao?
Tế Phật: Con chớ tưởng đùa, Minh Vương không nói giỡn đau.
Dương Sinh: Quán bên đường quả nhiên có đề ba chữ Mạnh Bà Đ́nh (Quán bà Mạnh). Xin Minh Vương giới thiệu t́nh h́nh ở đây cho tôi rơ được không?
Minh Vương: Mạnh bà Đ́nh do Bà Mạnh cai quản, bà ta phụng Mệnh Ngọc Đế phụ trách công tác cho các âm hồn húp cháo lú trước khi đầu thai, v́ nếu không sau khi đầu thai sẽ nhớ lại chuyện tiền kiếp, hài nhi sẽ t́m kiếm và nhận ra thân thuộc, tạo nên cảnh lớn bé vô trật tự, ngũ luân không c̣n phân biệt, kiếm thù oán, đời sẽ đại loạn.
V́ vậy tạo vật đă biến hoá một cách kỳ diệu, dùng cháo lú để cho kẻ đầu thai húp vào quên hết mọi chuyện kiếp trước. Cháo này có đủ năm vị chua, cay, măn, ngọt, đắng hổn hợp, cho nên uống vào không c̣n biết đông tây nam bắc, đầu óc quay cuồng mơ mơ hồ hồ tự rơi vào một trong sáu ngả của bánh xe chuyển kiếp.
Tế Phật: Thứ "cháo lú" này cũng là "cháo mê hồn" v́ sau khi ăn vào thân hồn điên đảo, dương gian cũng có loại cháo này.
Dương sinh: Thưa, con chưa từng nghe nói.
Tế Phật: Cũng như rượu vậy, con hăy nh́n kẻ uống rượu quá độ, không c̣n phân biệt được đông tây nam bắc đi lầm đường lạc lối, thậm chí sai cả nhà, giống như kẻ mất linh hồn, có như vậy mới có thể lăn vào ṿng luân hồi.
Kẻ không muốn đầu thai ác đạo th́ đâu dám ăn tới? Kẻ say rượu dám băng ḿnh qua biển lớn, dám đút đầu dưới bánh xe, nước lửa không sợ, gan mật quá lớn! Trong lúc họ mê man bất tỉnh, bị rơi vào ṿng luân hồi mà chẳng hay. Một sớm dă rượu tỉnh lại th́ đă xa trời, giống hệt như đầu thai chuyển kiếp một sớm bừng sáng tỉnh lại thấy xa cách cơi đời ở giữa không trời đất khác.
Dương Sinh: Cháo lú diệu dụng như vậy cho nên người đời sau khi chết ai mà chẳng uống.
Minh Vương: Dương Sinh c̣n có điểm chưa rơ, âm hồn sau khi qua các điện sữa trị lúc tới đây th́ sự đói khát đă tới mức cùng cực, Điện Thứ Mười lại giáp giới dương gian, phía ngoài quán bà Mạnh nóng như thiêu như đốt, phàm âm hồn tới đây đều muốn vào quán uống trà đá giải khát, đó chẳng phải là tự đâm đầu vào lưới sao? Nếu ngày hè nóng nực đi hàng vạn dậm đường hẳn là miệng cảm thấy khát vô cùng, tại cuối con đường có một cái quán mát mẻ, lại có trà đá lạnh uống không phải trả tiền, ai mà chẳng tranh uống trước?
Có kẻ c̣n cho một ly là quá ít, bèn rót lấy rót để chẳng ngừng. Dầu vậy bọn giảo hoạt tới đây, tuy miệng khát nhưng v́ rơ thứ cháo này lợi hại nên không vào quán Bà Mạnh ăn uống, tức th́ mặt đất tự nhiên bắn ra một móc sắt móc chặt lấy người khiến chẳng thể giẫy giụa, rồi gái hầu của Mạnh Bà cưỡng bức đổ vào miệng. Đó gọi là "rượu dâng không uống uống rượu phạt" vậy.
Dương Sinh: Dĩ nhiên là húp cháo này có thể quên việc kiếp trước, nhưng tại sao hiện nay trẻ thơ trên thế gian ra đời lại có thể thông minh hiểu biết bội phần, có phải tại phẩm chất cháo này kém cỏi không?
Minh Vương: Dương Sinh có điểm c̣n chưa rơ, v́ từ vô thủy tới nay, con người đă trải qua ngàn vạn kiếp luân hồi, húp cháo lú đă quá nhiều lần, lâu rồi trở thành thói quen, do đó mà trẻ con sinh ra ngày nay mới vô cùng khôn ngoan, cho nên nói "đầu quỉ óc quỉ" là bởi v́ húp cháo lú nhiều lượt, dần thành thói quen cho nên đầu óc nó khôn ngoan tinh xảo.
Đó chẳng phải là điều tốt, hăy nh́n kẻ nghiện rượu, uống măi chẳng say, mất hết tri giác, thật quá tàn nhẫn. Cho nên thế gian càng ngày càng nhiều kẻ bất nhân bất nghĩa, càng lắm kẻ linh hoạt tinh ranh nên dễ bị lạc đường. Do đó trí xảo có ǵ là đáng mừng đâu?
Dương Sinh: A th́ ra là thế.
Tế Phật: Đă cận giờ, t́nh h́nh sáu ngă chuyển kiếp lân hồi kỳ tới sẽ lại t́m hiểu tiếp cũng được.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương chỉ rơ bến mê, khai mở nhiều lẽ thâm diệu để chỉ dẫn chúng sanh, quả khó mà có được! Khó mà có được! Xin cáo từ.
Minh Vương: Dương Sinh mau lên đài sen chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Con đă sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuóng đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 608 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 8:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI TÁM
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI THĂM SÁU NẺO LUÂN HỒI
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 3 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Nhất nhất nhân thân vạn kiếp nan Đoan hành đạo đức chính y quan Bạt mao đái giác phi vi bối Thủy lục đầu sinh sương nguyệt hàn.
Dịch:
Một mất thân ḿnh vạn kiếp nguy Tuân theo đạo đức chỉnh xiêm y Sừng lông xác mọc đời phi nghĩa Đất nước sương trăng lạnh noăn thai.
Tế Phật: Nếu không tu để kiếp người rớt xuống kiếp cầm thú th́ sẽ bị khổ sở tới vạn kiếp, bởi vậy phải lo sửa đổi y phục cho trang nghiêm, tuân hành đạo đức sống ngay thẳng. Nếu không bị đầu thai làm kiếp thú ḿnh mọc sừng lông hành động phi nghĩa, làm kiếp sâu bọ chui rúc chốn đất bùn nước đục, gió trăng sương tuyết lạnh lùng. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, thưa tại sao ân sư không nói thêm nhiều câu nữa?
Tế Phật: Lắm lời ắt sẽ sai lầm, nói nhiều ắt sinh quái gở, do đó nói ít là hay hơn cả, nói nhiều giá trị cũng chẳng bằng tiền.
Dương Sinh: Vâng vâng, con đă lên đài sen, chuẩn bị sẵn sàng...
Tế Phật: Đă tới nơi. Bữa nay trở lại Điện Thứ Mười xem rơ thực trạng sáu ngả luân hồi, con phải gắng lên tinh thần... Minh Vương Điện Thứ Mười đă tới.
Dương Sinh: Vái chào ra mắt Minh Vương.
Minh Vương: Hoan nghênh hai vị tới thăm bản điện, lần trước chỉ mới đến xem quán Bà Mạnh, hôm nay phải tới xem xét cảnh trí đài Chuyển Kiếp Luân Hồi. Mời tế Phật cùng Dương Thiện Sinh theo tôi tới phía trước.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương lại một lần nữa hao tổn tinh thần để hướng dẫn và giảng giải chúng tôi thấu hiểu.
Minh Vương: Không có chi, đấy là nhiệm vụ của tôi. Chúng sinh ở dương gian nếu như không cải tà qui chánh ắt hẳn đài Chuyển Kiếp Luân Hồi sẽ quay miết không ngừng th́ chúng sanh quả là bất hạnh.
Dương Sinh: Ḍng sông phía trước nước đỏ cuồn cuộn chảy, đó là sông ǵ vậy?
Minh Vương: Đó là Xích Hà (Sông Đỏ) tức ḍng tinh huyết của chúng sinh tuôn chảy, nh́n sông đỏ cuồn cuộn chảy tựa t́nh tham ái của chúng sinh dào dạt vô chừng.
Dương Sinh: Bên sông c̣n có vật ǵ giống như h́nh chiếc bánh xe chuyển động không ngừng?
Minh Vương: Đó là đài Bánh Xe Chuyển Tiếp (Chuyển Luân Đài) cũng là Xe Sông Tía (Tử Hà Xa) đang ch́m nổi trong sông Đỏ, quay miết không ngừng.
Dương Sinh: Tại sao bên cạnh c̣n có thêm cây cầu bắc qua?
Minh Vương: bản điện là chốn chuyển kiếp luân hồi, biên giới âm phủ tới đây là chấm dứt, cho nên cây cầu là điểm nối các ngă đường khắp chốn. Tiếp theo c̣n có sáu cây cầu khác cắt bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gỗ, tre.
1. Cây Cầu Vàng: Phàm tại thế gian có công lớn tu nhân tích đức, sau khi đi thăm các ngục, được âm phủ phê chuẩn cho băng qua cầu này lên thiên đường. Nếu như công quả tṛn đầy, là kẻ sĩ chân tu sau khi chết, có người chỉ mới tới âm dương giới (biên giới âm phủ và dương gian) là lên thiên đường cực lạc ngay, không phải đi qua cầu này.
2. Cây Cầu Bạc: Phàm tại thế tu nhân tích đức đạt mức trung, sau khi chết tới Sở Tu Thiện tu luyện, thời kỳ khảo hạch thông thuộc kinh điển, nếu trúng tuyển được tới "Cửu Tuyền Bộc Bố" (Thác Cửu Tuyền) thanh tẩy tính linh, qua cầu này lên dương thế nhậm chức thần, tiếp nhận sự sùng bái của cả hàng vạn người, nhang khói không dứt.
3. Cây Cầu Ngọc: Phàm tại thế có công tích thiện, sau khi trải qua sự thẩm xét của các điện xong được đầu thai nơi nhà kẻ phú quí chốn phúc địa ở cơi dương gian, sẽ qua cầu này mà vào đài chuyển kiếp luân hồi đầu thai.
4. Cây Cầu Đá: Phàm tại thế công tội ngang nhau đầu thai làm thường dân, qua cầu này vào đài chuyển kiếp luân hồi.
5. Cây cầu Gỗ: Phàm tại thế tội nhiều hơn công sẽ đầu thai làm giới bần tiện hạ cấp, chịu nghèo khổ cô quả, sẽ qua cầu này mà vào đài chuyển kiếp luân hồi.
6. Cây Cầu Tre: Phàm tại thế phạm tội ác quá lớn, phản bội thiên lư nhân luân, trộm cướp giết người dâm loạn ác nghiệp tràn đầy, sẽ đầu thai làm loài thai ( súc vật) noăn (chim muông) thấp (cá tôm cua) hoá (côn trùng) qua cầu này mà vào đài chuyển kiếp luân hồi.
Dương Sinh: Đa tạ Minh Vương đă khai mở. Tại sao trên cầu Vàng và Bạc dấu chân người quá ít, c̣n cầu khác quá đông đúc giống như cố chen chúc đuổi theo cho kịp thời giờ.
Tế Phật: "Ta đi cầu gỗ dành riêng của ta, người đi nẻo đường dương gian của người". Không dính dấp với nhau, đó là các âm hồn sắp chuyển kiếp luân hồi, húp xong cháo lú mê mê tỉnh tỉnh chen chúc đi trên các ngả đường dành sẵn cho ḿnh, người bận y phục quan tước, kẻ vác dụng cụ người mang nghiên bút, kẻ mặc da thú, kẻ đội đầu thú có sừng, kẻ điên điên khùng khùng, mỗi người mỗi vẻ biểu lộ rơ bản năng nao nức lên dương thế.
Minh Vương: Họ đều mất lư trí giống như cầm dao mà chẳng biết phen này đi, người không chết th́ ắt ta sẽ chết, lại c̣n hí hửng ra chiều đắc ư. Cảnh dương gian cũng giống hệt cảnh này, thế mới biết hố sâu bẫy người, lửa thiêu c̣n bốc cháy, hiện tượng luân hồi chuyển kiếp sinh sôi nẩy nở thấy cũng chẳng khác ǵ cảnh đó.
Dương Sinh: Họ mê mê đắm đắm đi trên cầu Ngọc, Đá, Gỗ, Tre nhắm đài chuyển kiếp luân hồi mà lao vào, có kẻ rớt xuống mất tiêu chẳng thấy bóng tăm, chẳng hiểu những kẻ đó làm cách nào để có thể chuyển kiếp đầu thai?
Minh Vương: Người đời cần phải hiểu thật rơ sự việc này, tôi sẽ giảng giải rành rẽ dưới đây: Vạn vật chuyển sinh hẳn là do hai khí âm dương kết cấu mà thành. Đài chuyển kiếp luân hồi cũng giống như cửa ngơ âm dương của người đời, nam nữ lúc động t́nh tâm thần ắt hôn mê, huyết dâng tràn giống như sông Đỏ, dưới đài Chuyển Kiếp Luân Hồi lớp lớp sóng dâng trào, nước cuốn qua đẩy đưa bánh xe chuyển kiếp, giống như cái guồng nước quay theo nước chảy, sinh ra sức hút. Những âm hồn mê mê tỉnh tỉnh này sẽ tuỳ nhân duyên của mỗi kẻ, mà bị cuốn hút vào trong bánh xe chuyển kiếp luân hồi.
Giống như cơ thể của người mẹ trên đời do tinh huyết mà cấu tạo thành bào thai, tính linh đă nhập vào cơ thể thai nhi, mười tháng mang thai, một sớm tới giờ, ắt linh thể này sẽ theo đài chuyển kiếp chào đời. Kêu một tiếng từ Tử Hà Xa (bánh xe sông Tía) nhào ra, máu nước cùng tuôn. Khóc một tiếng, hoảng kinh tỉnh thức nh́n lại đă tới trần gian.
Ngoài ra c̣n bốn loại sinh vật là: thai (trâu ḅ) noăn (gà vịt) thấp (cá tôm) hoá (côn trùng) tùy thuộc mà sinh sản, tùy theo khoảng thời gian dài ngắn khác nhau, mà nuôi dưỡng bào thai nơi đài chuyển kiếp luân hồi. Người đời lúc hoài thai v́ hà xa (xe sông) chuyển động, cho nên thường ói mửa. Đó là lúc bào thai choáng váng, giống như cảnh ngồi xe chóng mặt, nôn nao.
Dương Sinh: À th́ ra là vậy, Minh Vương nếu như không giảng rơ người đời hiện nay chẳng hiểu.
Minh vương: Đài Chuyển Luân giống h́nh bát quái trong có một ṿng tṛn là h́nh thái cực, vốn gọi là vô cực, vô cực nhất động sinh thái cực, thái cực sinh âm dương, cho nên đài chuyển luân chuyển động tức nhiên sinh sôi nẩy nở không ngừng, bên trong có sáu lỗ để chui ra nên gọi là sáu nẻo luân hồi.
Lỗ thứ nhất: đầu thai làm công hầu khanh tướng. Lỗ thứ hai: đầu thai làm sĩ nông công thương (bao gồm cả loại nghèo khổ, cô quả). Lỗ thứ ba: đầu thai làm trâu ḅ...Lỗ thứ tư: đầu thai làm gà vịt. Lỗ thứ năm: đầu thai làm cá tôm... Lỗ thứ sáu: đầu thai làm sâu bọ...Mỗi loài chiếu theo công tội riêng ḿnh mà thành h́nh.
Tế Phật: Giống hệt như công xưởng ở thế gian, v́ nguyên liệu hơn kém nên sản phẩm cũng khác nhau. Như gỗ tốt có thể xây cất nhà cửa, gỗ xấu chỉ dùng để nấu nước nấu cơm. Con người chuyển kiếp luân hồi cũng vậy, nếu kiếp trước lương thiện, khi đầu thai cũng gặp được đường ra tốt. Bởi vậy các loại nhu yếu phẩm của chúng sanh cần phải sửa đổi cho tốt hơn, mới có thể tránh khỏi đầu thai làm kẻ ác nhân.
Dương: Có thể nói riêng về sáu ngả luân hồi được chăng?
Tế Phật: Sáu ngă luân hồi gồm: ngả trời, ngả người, ngả a tu la, ngả địa ngục, ngả quỉ đói, ngả súc sinh; đó là căn cứ vào mỗi loài mỗi bậc mà phân loại. Ngả trời tức ngả thiên đường nơi Tiên Phật Thánh Thần ở thuộc hệ thống ngả trời, sau khi các vị đó đă chứng quả thành đạo, chẳng cần húp cháo lú, không phải qua đài chuyển kiếp luân hồi mà bay thẳng lên thiên đường. Điểm này mong chúng sinh tỉnh ngộ để thoát lư sáu nẻo luân hồi.
Kẻ có nguyên lực hay túc duyên, luôn ôm ấp ḷng từ bi, thấy chúng sinh chưa được độ sinh ḷng trắc ẩn, nên thường chuyển kiếp đầu thai tu chân học đạo, quyết chí dạy dỗ để khai sáng dẫn đường cho chúng sanh, như các vị giáo chủ, sư tổ của các tôn giáo, hẳn là phải có căn cốt Tiên Phật, do đó nói tiên Phật không rời chúng sanh.
Từ xưa tới nay Tiên Phật phát nguyện giáng thế cứu độ chúng sinh rất nhiều. Cho nên ở tại cảnh giới "bất sinh bất diệt". Tiên Phật thường giáng trần gian, địa ngục do đó "luân hồi" đổi là "lai hồi" để xem xét, chớ không chỉ đầu thai chuyển kiếp mới được gọi là "luân hồi". Đúng ra có tới ba ngàn đại thế giới, đường qua lại tại sao chỉ chia làm sáu ngả.
Cho nên phải nói "vạn nẻo luân hồi" mới phải. Tính linh thông cùng nhau chứ không ở riêng một cảnh giới nào, như cùng một gốc toả ra muôn nẻo khác nhau, muôn nẻo khác nhau lại thâu về một gốc, chúng sinh nên hiểu điều đó. Dương Sinh những điều mắt thấy bữa nay mới đúng là sáu nẻo luân hồi.
Minh Vương: Đại khái t́nh h́nh chuyển kiếp ở Điện Thứ Mười đă tiết lộ trong sách Địa Ngục Du Kư. Hy vọng người đời gắng liễu ngộ cùng thể nghiệm. Đầu thai chuyển kiếp tuy do âm phủ phán quyết, nhưng kỳ thực là con đường thế nhân tự t́m tới, nếu như không mau tu tâm dưỡng tính, một sớm đánh mất thân ḿnh, hẳn là muôn kiếp khó t́m lại được.
Kính cẩn đưa tiễn Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh trở lại Hiền Đường, cùng chúc gặp nhiều may mắn trong việc hoàn thành cuốn sách, để sớm cứu độ hết thảy chúng sinh.
Dương Sinh: Cảm kích lời vàng của Minh Vương đă phá nỗi mê chấp ngàn đời, thế nhân quả là được ơn phước. Hẹn gặp lại. Con đă lên đài sen, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Toàn bộ Điện Thứ Mười địa ngục tới đây kể như đă dạo thăm xong. Trọng trách nặng nề này đă nhẹ bớt được phân nửa, Dương Sinh cũng đă quá cực nhọc, rằm tháng tám mùa thu năm nay thiên kư sự này in thành sách, tinh thần Tam Tào ( thần, nhân quỉ) hẳn là đều vui mừng, chắc chắn bút mực không thể nào tả nổi.
Bởi vậy chúng sanh trong thiên hạ, nên in tặng sách này thật nhiều để phổ biến chân lư, đề cao chính pháp, đó cũng là tâm nguyện của ta. Qua mười điện địa ngục, đă tới lúc b́nh ḿnh ló dạng, mong chúng sinh có thể ngộ được cái tâm lư trong sạch, dứt bỏ được cái tâm lư chật hẹp của riêng ḿnh, mở rộng con tim từ bi hân hoan tràn ngập đất, ngả thiên đường cũng ở ngay trước mắt...
Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 609 of 2534: Đă gửi: 07 August 2008 lúc 8:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI NĂM MƯƠI CHÍN
DẠO KHU B̀NH DÂN Ở ÂM PHỦ
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 9 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Nhân gian bách nghiệp cạnh phân tranh Địa phủ b́nh dân t́nh dạ doanh Đại hoạn khu thân nan khán phá Âm hồn đáo thử động u t́nh.
Dịch:
Bách nghiệp người đời măi cạnh tranh B́nh dân âm phủ tối kinh doanh Cái thân đại hoạ không lo lắng Hồn tới âm ti nặng chĩu t́nh.
Tế Phật: Thế gian trăm nghề cạnh tranh nhau cách dị thường, âm phủ dưới trời sao đêm ảm đạm, khắp nơi cũng hành nghề sầm uất. Lăo tử nói: "Ngô sở dĩ hữu đại hoạn, vị ngô hữu thần; cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?" (Sỡ dĩ ta có nạn lớn, v́ ta có thân, tới khi ta không c̣n thân, ta đâu có nạn). Cái thân xác giả tạm này dĩ nhiên bỏ th́ thương vương th́ tội, do đó người đời tới âm phủ rồi mà vẫn c̣n động ḷng trắc ẩn nghĩ có kỳ lạ không? Bữa nay ta dẫn Dương Sinh đi thăm khu B́nh Dân để được tỏ tường, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đă sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đă tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Thành âm phủ này náo nhiệt lạ thường, người ra kẻ vào nhiều vô kể, kẻ nào kẻ nấy vẻ mặt hớn hở vui tươi, không một âm binh áp giải, nên rất tự do, trên vách thành thấy đề ba chữ "Khu B́nh Dân", chẳng rơ phía trong đó t́nh h́nh ra sao?
Tế Phật: Khu B́nh Dân tức là khu "B́nh Hồn" (hồn yên). Phàm người trần sau khi qua đời, những vong hồn công và tội ngang nhau, kẻ tại thế không kết ân oán với ai ắt khỏi phải đầu thai, vào thẳng khu B́nh Dân ở âm phủ.
Sở dĩ gọi là khu B́nh Dân tức là được hành nghề tự do, tại thế nếu làm nghề nông hay buôn bán, lúc tới đây cũng có thể hành nghề cũ, lấy thương, nông làm chính để tự lực cánh sinh. Khác hẳn xă hội khoa học tiến bộ ngày nay trên dương gian không cần phải làm lụng vất vả mà vẫn sống sung sương, c̣n những kẻ tới đây dĩ nhiên phải nhờ vào đôi tay làm việc cực nhọc mới mong duy tŕ sự sống. Chúng ta hăy vào trong xem xét t́nh h́nh.
Tướng Quân Giữ Cửa: Thần Thánh từ phương nào tới khu này đây?
Tế Phật: Ta là Phật Sống Tế Công, phụng chỉ hướng dẫn người phàm tham quan quí khu để viết sách khuyên đời.
Tướng Quân: T́nh h́nh của bản khu làm sao có thể tiết lộ được?
Tế Phật: Ngọc Chỉ đây, mau vào trong thông báo.
Tướng Quân: Ngu chức phạm thượng, xin Phật Sống tha tội, tôi phải vào trong thông báo ngay mới được.
Khu Trưởng: Xin Tế Phật tha thứ, Dương Sinh che chở v́ Tướng Quân không biết hai vị. Bữa nay hai vị quá bộ tới thăm khu B́nh Dân, xin tha tội về việc không nghinh đón.
Tế Phật: Cũng tại không thông báo trước, xin chớ bận tâm.
Khu Trưởng: Kính mời hai vị vào trong tham quan.
Dương Sinh: Cảm tạ sự tiếp đăi của Khu Trưởng, Khu Trưởng ở đây có giống Khu Trưởng ở dương gian không?
Tế Phật: Này Dương Sinh con chớ nhiều lời, sở dĩ kêu Trưởng chỉ v́ tôn xưng, c̣n đích thực là Chủ Quản khu B́nh Hồn.
Dương Sinh: Các kiểu kiến trúc pḥng ốc trong khu này toàn bằng gỗ, không thấy có lầu cao nhà lớn như ở dương gian.
Khu Trưởng: Khu B́nh Dân là nơi âm hồn cư ngụ, tính của gỗ và đất lại có liên quan với nhau, cho nên âm hồn ở nhà gỗ rất thích hợp.
Dương Sinh: Có quán ăn, quán tạp hoá, người tụ họp đông đảo chẳng khác ǵ dương gian, cũng có một số người để tóc dài, bận đồ xưa, chẳng rơ lư do tại sao?
Khu Trưởng: Trong khu này có một số âm hồn thuộc triều đại khác, v́ vậy ai nấy giữ cách sinh hoạt riêng của ḿnh như lúc c̣n sống, cho nên nh́n thấy tự nhiên có chút khác nhau, để tôi đưa hai vị ra đồng xem cách thức canh tác ngoài ruộng.
Tế Phật: Âm dương đôi ngả, nhưng tâm lư giống nhau, lúc sống không lo tu chính đạo cho nên sau khi chết không quên được nghề nghiệp kiếp trước. Do dó nói "chết mang nghề nghiệp theo", như cách sinh hoạt ở đây, vong hồn không bỏ nghề nghiệp trước họ chỉ thích làm nghề cũ.
Dương Sinh: Ruộng đất ngoài đồng, khắp nơi đều có người canh tác, tất cả chỉ nhờ vào đôi tay làm việc khó nhọc cần cù, không hề có một con trâu hay cái cày máy giúp sức.
Khu Trưởng: Sau khi chết chẳng thể so sánh với lúc c̣n sống th́ làm sao hưởng phúc, cho nên chỉ nhờ cậy ở năng lực tự nhiên làm việc để sống.
Dương Sinh: T́nh h́nh sinh họat của những người này ra sao?
Khu Trương: Sinh hoạt giống như người ở thế gian, ngày ba bữa ăn uống, làm lụng nghỉ ngơi có giờ giấc, v́ hồn phách của họ c̣n mê loạn, thất t́nh lục dục, do đó cũng có hôn nhân qua lại, b́nh thường làm lụng vất vả khổ cực sống lâu thành thói quen.
Dương Sinh: Có phải họ sẽ vĩnh viễn làm việc ở đây?
Khu Trưởng: Chẳng phải, họ cũng có mệnh thọ quản chế, hết hạn được trở về nghỉ ngơi để chuyển kiếp đầu thai.
Dương Sinh: Chẳng rơ dương gian đốt giấy vàng, giấy tiền, chi phiếu cùng lễ vật cúng bái ở đây họ có được hưởng không?
Khu Trưởng: Vấn đề này là một nghi vấn mà thế gian cứ tranh luận hoài, tôi xin đặc biệt tŕnh bày như sau: Tổ tiên người đời sau khi tạ thế, có kẻ đốt giấy vàng, giấy bạc, giấy tiền, chi phiếu...để cho người chết sử dụng, nhưng những người này lại đều là những "thân đợi tội" ở âm phủ, bởi vậy họ không được hưởng tiền bạc đó.
Tục ngữ nói: "vận lai hoàng thổ biến thành kim" (Vận tới đất biến thành vàng) lấy dương gian hiện tại mà luận th́ ở đó th́ tấc đất tấc vàng, đất có thể biến thành vàng là sự thật. C̣n như thể tro than giấy vàng, giấy bạc, giấy tiền..cúng cho người chết cuối cùng đều về đất.
Cho nên đất có thể sinh ra vàng là gốc ở cái lư ngũ hành tương sanh tương khắc. Giấy qua lửa thành tro nhưng vàng thếp th́ lại bất diệt, tro hoá thành đất, hơi là khí ngũ hành. Âm hồn nhận được giấy vàng của con cháu đời sau, là do ngũ tạng nhận được khí đó, giống như người hấp thụ phần dinh dưỡng, mới có thể tiếp tục sinh trưởng.
Dương Sinh: Cớ sao vẫn nghe nói trong lúc nằm mơ con cháu thường thấy ông bà cha mẹ hiện về xin tiền để tiêu?
Khu Trưởng: Thức ăn của các vong linh là khí, cho nên đồ cúng chưa từng bị vong hồn nuốt mất là bởi vong hồn chỉ hít khí vị mà thôi. Vong hồn v́ phải làm việc để sống hoặc sau khi bị h́nh phạt, nguyên khí không đủ, cho nên có kẻ trở lại dương gian hướng người thân xin ăn, đ̣i tiền, đó là cầu yểm trợ nguyên khí.
Đốt giấy tiền, vàng bạc chẳng cần nhiều lắm, nhận được chút ḷng hiếu thảo của con cái là đủ rồi, tại dương thế chính ḿnh sống giàu sang, tổ tiên cũng không có cách ǵ nhận được cái phần "phúc khí", cho nên việc cúng bái là cốt để yên ḷng người chết, để đạo lư tồn tại.
Như "phúc khí", "môi khí" (khí mốc) chẳng phải là loại khí sao? Bởi vậy đốt giấy để hoả khí hoá âm khí của vong hồn, để trợ nguyên khí rất là điều đúng, người đời chớ có khinh thị. Tuy nhiên chẳng cần đốt quá nhiều lỡ vong hồn không có may mắn để nhận sẽ lăng phí.
Do đó đốt giấy tiền, vong hồn sẽ chỉ hấp thụ được khí, chớ không dùng để mua bán được. Ở âm phủ có loại tiền riêng lưu hành, tuyệt đối không nhờ cậy dương gian cung cấp.
Tế Phật: Giấy tiền chỉ hữu dụng đối với những vong hồn b́nh thường, c̣n nếu là kẻ có công đại thiện ở cơi thế, hoặc kẻ tu đạo sau khi chết họ "qui chân", nguyên linh đạo khí của họ sung thiên, không dùng "tục tiền, tục khí" để bổ sung, điểm này mong người đời hiểu rơ.
Dương Sinh: Ân sư nói rất chí lư, tuy nhiên những xưởng in giấy bạc âm phủ ở dương gian lại bất nhất, nên phẩm chất chế tạo sai biệt quá lớn, mang tới ngân hàng nhà nước ở âm phủ không hiểu làm sao sử dụng.
Tế Phật: Ha ha, công xưởng chế tạo tiền âm phủ ở dương gian quá nhiều, nên phần đông chỉ nhằm kiếm lời thành bớt công, giảm vật liệu, nếu như không chế tạo thực thà đó là tự tác nghiệp, ta đă từng thấy âm phủ hoàn trả lại những món đồ không đủ tiêu chuẩn rất nhiều.
Dương Sinh: Âm hồn ở khu B́nh Dân với vong hồn phạm tội có chi bất đồng?
Khu Trưởng: Vong hồn ở khu B́nh Dân được tự do không quá bị trói buộc, muốn tới dương gian có thể được phê chuẩn, khoản bảy tháng thay phiên nhau ra ngoài. Nếu là tội hồn th́ trái ngược hẳn, lúc thường chịu h́nh phạt, trừ phi tự ḿnh tế sao hoặc t́nh trạng đặc biệt, c̣n không khó được ra ngoài, ngoại trừ tháng bảy, kẻ có tội nhẹ có thể ra ngoài đi đây đi đó.
Dương Sinh: A th́ ra là vậy.
Tế Phật: Khuyên người đời lo tu thân học đạo giác ngộ chân lư thấy được ảo thân là giả, để sau khi chết không c̣n ảo tưởng là ḿnh vẫn c̣n sống ở thế gian, đến khu Binh Dân lại c̣n muốn làm việc nặng nhọc vất vả, rất khó chữa trị nổi. Không vượt được đường tử sinh ắt sinh như tử, tử như sinh, sinh sinh tử tử, lăn lóc măi trong ṿng luân hồi, vĩnh viễn không có ngày ngóc đầu lên nổi.
Bữa nay thời giờ đă hết, chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Khu Trưởng: Lệnh các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Cảm tạ sự chỉ dẫn của Khu Trưởng, xin cáo từ.
Tế Phật: Đă tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 610 of 2534: Đă gửi: 08 August 2008 lúc 10:05am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI SÁU MƯƠI
DẠO SỞ TU THIỆN TY THƯỞNG THIỆN VÀ TY PHẠT ÁC
Phật Sống Tế Công giáng ngày 19 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Hồn qui tụ thiện tái tu công Luyện tính ma tâm khổ dụng công Đạo pháp văn thi thâm cứu học Nhân gian cứu thế hiển linh thông.
Dịch:
Trường học hồn ơi gắng trả bài Tu tâm sửa tánh chẳng hề sai Thi văn đạo pháp lo t́m hiểu Cứu độ trần gian hiện thánh thai.
Tế Phật: Bữa nay dạo địa ngục đă định tới Sở Tụ Thiện cùng Ty Thưởng Thiện và Ty Phạt Ác. Sách Địa Ngục Du Kư viết tới đây đă gần kết thúc, ta rất vui mừng thấy nhiều kẻ phát thiện tâm ấn tống rất là nhiệt thành, quả ḷng từ bi với con người là một, có như vậy mới không phụ công lao khó nhọc suốt hai năm qua bôn ba âm phủ của thần và người, chỉ mong sao chúng sanh trong thiên hạ nhận ra chân lư quay về nẻo đạo, theo đường lương thiện.
Địa Ngục Du Kư là một cuốn sách mà chơn lư phù hợp với mọi tôn giáo, phàm kẻ chịu khó đọc sẽ có lợi ích cho tâm thần vô kể, ta ra công hô hào là mong chúng sanh bỏ ác theo thiện, làm sự lành, tránh sự dữ, được người gọi là kẻ tốt, một phen hết lời kêu gọi tu tâm, mong người có ḷng trong thiên hạ cùng lên tiếng gọi đàn. Dương Sinh sửa soạn lên đài sen.
Dương Sinh: Con đă sẵn sàng, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đă tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Sở Tụ Thiện đă ở ngay trước mắt, phía ngoài rất sạch sẽ, khuôn viên trồng các loại cây cảnh và hoa, khác hẳn cảnh nhà lao tối tăm ở âm phủ.
Tế Phật: Sở Tụ Thiện cũng là nhà trường ở chốn âm phủ, chuyên môn chỉ dạy các thần chức và nhân viên tới tu luyện.
Dương Sinh: Cửa sổ đă mở, các quan viên đă xếp hàng nghinh đón ḿnh.
Tế Phật: Sở Trưởng cùng các quan viên trong sở đă tới, Dương Sinh mau tới trước làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Xin ra mắt Sở Trưởng cùng chư vị Tiên Quan.
Sở Trưởng: Miễn lễ, hoan nghênh Dương Thiện Sinh cùng Tế Phật tới thăm, đợi đă lâu! Mời hai vị theo tôi vào trong để tiện tham quan.
Tế Phật: Rất cám ơn. Bữa nay tới đây quấy rối, xin Sở Trưởng ban ân chỉ giáo, cùng giới thiệu t́nh h́nh của quí sở cho Dương Sinh đươc rơ.
Sở Trưởng: Lẽ đương nhiên bản sở có tên là Tụ Thiện Sở c̣n gọi là Sở Hợp thiện, phàm người đời lúc sống công đức lớn lao nhưng chưa đạt tới tiêu chuẩn "thăng thiên giới chứng quả" đều được dẫn vào Sở Tụ Thiện tu luyện để chuẩn bị "thượng thăng thiên giới" hoặc trở lại trần gian tiếp nhận chức Thần cứu đời giúp người.
Dương Sinh: Người ở phía trước có phải là Trang Kiến An, một môn sinh cũ của bản đường không?
Tế Phật: Phải rồi, bữa nay được tương hội tại đây phải nói là có chút nhân duyên.
Dương Sinh: trang tiên sinh nh́n thấy tôi mắt muốn ứa lệ...
Sở Trưởng: Trang Thiện Hồn, người chớ bi thương, bữa nay đặc biệt sắp xếp cho các anh là đồng đạo với nhau được tương hội tại đây, có thể kể lại t́nh cảnh sau những ngày từ giă cơi trần.
Trang Thiện Hồn: Bữa nay được hội kiến Dương thiện Sinh tại đây, trong, trong ḷng đà cảm động nói không được, nước mắt bi thương lại c̣n tuôn trào. Lúc sống nhập môn Thánh Hiền Đường, đă nhận được sự chiếu cố của Quan Ân Chủ cùng chư vị đồng tu do đó mà tôi hăng hái ra sức công quả.
Hằng ngày tới toà soạn tạp chí Thánh Hiền trả lời thư tín, ḷng những tưởng gắng công quả tương lai có thể tiêu dao cơi thiên đường, song v́ quá si mê nên c̣n lưu lại chút tơ duyên t́nh ái nơi cơi thế, cho nên sau khi rời trần gian tuy có Phúc Thần dẫn đường, cùng Ân Chủ bảo hộ, song v́ gây lỗi quá nhiều, công tội ngang nhau, tư cách không đủ để lên thiên đường.
Lúc tại thế, Ân Chủ kỳ vọng ở tôi quá nhiều, luôn dạy dỗ khuyến khích, song v́ tôi trí tuệ nông cạn nên chưa thể nghiệm cùng giác ngộ nổi Thánh ư, không làm chủ được thân, tâm nguyện chưa thành nên thân chết trước. May mắn nhờ lúc sanh tiền một ḷng chân thành, Ân Chủ mới dẫn tôi đi tham quan tinh trạng xử phạt tại các ngục, sau đó trở về Sở Tụ Thiện tu luyện.
Lúc cử hành đám tang, tôi được các vị đồng đạo của hiền Đường thắp nhang, đi đưa, ḷng tôi tràn đầy cảm kích nói không được, xin Dương Sinh cho tôi gởi lời cám ơn tới các bạn đạo. Tôi ở đây hàng ngày học văn, học đạo luôn luôn bị khảo hạch. Chúng tôi phải trao đổi, vun bồi ḷng từ bi như thấy của không tham, thấy sắc không mê... môn nào cũng phải khá vượt mức.
Những đề thi đều do Tiên Phật hoá phép, như muốn chúng tôi đi tới nơi nào, hốt nhiên bên đường hiện đầy vàng, có gái đẹp tới dẫn dụ, nếu như tâm thần không định sẽ bị thi rớt, liền coi như không hợp cách phải tu luyện lại. B́nh thường có Tiên Phật Thánh tới đây giảng dạy đạo pháp, tuy không bị xử phạt nhưng hương vị của sự học bài và trả bài cũng chẳng dễ dàng hấp thụ.
Sở Trưởng: Sở Tụ Thiện chuyên môn huấn luyện những người sẽ đăm nhận chức Thần hoặc để thay thế những vị Thần linh sức đạo yếu kém. Do đó mà học viên luôn bị khảo nghiệm, tới bao giờ đạt được cốt cách thần Thánh mới cho tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, có kẻ v́ nhờ gặp duyên cho nên được Thần Tiên độ về thiên đường tu luyện thêm, có kẻ trở lại dương gian đảm nhiệm chức thần.
Trang Thiện Hồn: Xin nhờ Dương tiên sinh nói lại với các con tôi là phải chăm lo tu thân học đạo. Con tôi Văn Hiền tính trực, làm không nổi việc lớn th́ thật đáng buồn! Hy vọng bạn đạo của Thánh Hiền Đường thấy rơ được điều đó mà cố gắng giúp đỡ. Nhớ thuở trước tôi từng nói "ước ǵ ḿnh được theo Dương thiện Sinh xuống dạo âm phủ" chẳng ngờ lời nói đó giờ đây thành lời sấm, ước mong đó giờ đây thành sự thực. nay tôi muốn làm công quả thật nhiều cho Thánh hiền Đường nhưng nhục thể đă mất nên chẳng thể có sức.
Tế Phật: Sở Tụ Thiện t́nh h́nh đại khái như vậy, chúng tôi c̣n phải tới tham quan hai ty Thưởng Thiện và Phạt Ác. Xin cáo từ.
Dương Sinh: Xin Trang tiên sinh giữ ǵn cẩn thận, việc ở Thánh hiền Đường chớ có bận tâm.
Trang thiện Hồn: Cảm tạ Dương Thiện Sinh.
Sở Trưởng: Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen, chúng ta tới nơi khác tham quan.
Dương Sinh: Con đă lên đài sen, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đă tới ty Thưởng thiện.
Dương Sinh: Quả không sai, phía trước có tấm bảng đề ba chữ "Thưởng Thiện Ty"
Quan Coi Ty: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm.
Tế Phật: Hôm nay thầy tṛ chúng tôi tới quí ty tham quan, xin giới thiệu sơ lược t́nh h́nh.
Dương Sinh: Các vong hồn tới đây đều do Phúc thần dẫn đường, không cần khí giới áp giải hoặc roi đánh đập, coi vẻ họ rất tự do.
Quan Coi Ty: Phàm người đời sau khi tạ thế, kẻ công nhiều hơn tội, một số tới đây trước để chờ xử lư. Những vong hồn tới bản điện đều tự do tự tại, có thể uống trà nhàn đàm suốt ngày, hoặc đánh cờ tiêu khiển. Ty Thưởng Thiện chỉ là nơi các vong hồn lương thiện tạm thời nghỉ ngơi mà thôi. Những người tới đây, sau khi được một thời gian sẽ được dời sang sở Tụ Thiện hoặc gởi tới các điện sưu tra quyết định.
Dương Sinh: À ra nguyên lai là như vậy.
Tế Phật: V́ thời giờ có hạn, chúng tôi phải tới Ty Phạt Ác tham quan, xin cáo từ.
Quan Coi ty: Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen, dời đây không xa sẽ tới ty phạt Ác... Đă tới.
Dương Sinh: Đây với ty Thưởng thiện hoàn toàn khác nhau, tấm biển trên cửa đề ba chữ "Ty Phạt Ác" vong hồn tới đây đều bị âm binh áp giải, giống hệt như bị bắt bớ.
Quan Coi Ty: hoan nghênh hai vị đạo trưởng. Bữa nay quí vị thân hành tới tham quan, bản ty cảm thấy vô cùng vinh dự, quí vị viết sách khuyên đời, công đức thật là vô lường.
Tế Phật: Quan Ty quá khen, thầy tṛ chúng tôi tới đây, v́ thời giờ eo hẹp, kính mong Quan Ty giới thiệu gấp t́nh h́nh của quí Ty.
Quan Coi Ty: Được lắm, bản ty gọi là Ty Phạt Ác. Phàm những kẻ trên đời gian manh hại người, phản bội lẽ Trời, thần ba cơi tuần du ngày đêm theo dơi báo cáo về âm phủ. Nếu tội quá nặng bản ty ắt triệu nguyên thần (thần khí nguyên linh) của y tới âm phủ trừng phạt.
kẻ ở thế gian mà thần khí bị sửa trị ở âm phủ th́ chỉ cảm thấy mơ mơ hồ hồ, thống khổ vạn phần. Lúc này người phàm mắc bịnh có cảm giác đầu chóng váng đau nhức, toàn thân bần thần khó chịu, chỉ biết là ḿnh có bịnh, thân tâm khó chịu buồn bực, không rơ đó là bịnh ma hăm thân, hồn phách đă tới âm phủ chịu h́nh phạt.
Lúc khỏi bịnh là phút hồn phách được thả về dương gian tinh thần cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái. Những kẻ đang bị áp giải đi ngang qua kia cũng là hồn phách của người trần, đó là loại công tác thứ nhất của bản ty, c̣n loại công tác thứ hai là trừng phạt những phàm nhân sau khi chết.
Cũng có kẻ v́ tội ác quá nặng, phải giao cho bản ty sửa trị trước, đợi các điện sưu tra ấn chứng của tội hồn xong mới giải giao tới để họ liệu tiếp, cho nên bản ty chỉ là chỗ tạm thời câu lưu mà thôi.
Dương Sinh: th́ ra nguyên nhân là như vậy, cảm tạ sự chỉ giáo của quí ty.
Tế Phật: Thời giờ đă trễ, chúng ta sửa soạn trở lại hiền Đường.
Quan Coi Ty: Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chĩnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Con đă sữa soạn xong, mời ân sư trở lại hiền Đường.
Tế Phật: Thánh hiền Đường đă tới, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 611 of 2534: Đă gửi: 08 August 2008 lúc 10:32am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI SÁU MƯƠI MỐT
DẠO AO MÁU NHƠ CÙNG ĐIỆN ĐÔNG NHẠC
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 25 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Du minh lịch tận vạn trùng sơn Huyết hăn như lưu bất yếm phiền Thiện ác thùy ngôn vô báo ứng Thiên đường địa ngục hiện ban ban.
Dịch:
Dạo xem âm phủ vượt ngàn sông Khổ cực gian lao chẳng nản ḷng Thiện ác ai tin không báo ứng Thiên đường địa ngục hiện song song.
Tế Phật: Trải qua khắp ngả đường âm phủ, những ǵ trông thấy đều là các vong hồn si mê! Lúc chưa sinh ta không rơ ai là ta? Sau khi sinh ta không rơ ta là ai? Hai mắt mông lung lại không biết ai là ta? Chúng sanh mê tới mê lui, giống như đứa học tṛ lười biếng, đeo túi cơm theo chân người tới trường, chỉ biết ăn cơm đùa rỡn, tới kỳ thi một hỏi ba không biết, có thể nói uổng phí cả công lao của cha mẹ đă nuôi nấng đứa con ngu muội si mê.
Ta gởi lời ở đây nói với chúng sanh dưới gầm trời rằng: đă sinh làm con người th́ phải đội trời đạp đất làm điều tốt lành ơn nghĩa, không được quỉ quỉ ma ma chuyên làm những việc xấu xa bất nhân ác đức, để tránh lúc sống quen đi đường tối ám, sau khi chết thành quỉ vô luân, măi măi kéo dài th́ thật là tham lam. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa thầy bữa nay tới đây, tại sao phía trước lại thấy có một cái ao, nh́n từ xa giống như có bóng người ch́m nổi, hụp lặn ở trong, cùng tiếng kêu cứu mạng vọng cả tới đây. Ôi! Lại c̣n có cả mùi tanh tưởi bay tới nữa sao?
Tế Phật: Phía trước là ao Máu Nhơ (Huyết Ô Tŕ), bữa nay ta dẫn con tới đây thăm, hăy lên tinh thần. Mau tiến tới trước để tiện coi xét kỹ càng xem ra sao.
Dương Sinh: Trên đường âm binh áp giải rất nhiều người nhắm cái ao đi tới.
Tế Phật: Những tội hồn đó đều bị đem tới ao Máu Nhơ.
Dương Sinh: Mùi tanh hôi càng nồng nặc, tiếng kêu cứu mạng càng vang dội, nguyên nhân nước trong ao giống hệt Máu Nhơ tanh tưởi vô cùng.
Tướng Quân Giữ Ao: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thân hành tới thăm, chúng tôi đă được giấy thông báo cho nên biết trước hai vị bữa nay sẽ tới. Xin mời vô trong tham quan.
Dương Sinh: Bởi v́ ở đây nh́n thấy rất rơ ràng, tôi thiết tưởng chẳng cần phải tới sát bờ ao, chỉ mong Tướng Quân nói rơ về t́nh cảnh các tội hồn chịu h́nh phạt ở ao Máu Nhơ.
Tướng Quân: Được được. Ao này gọi là ao Máu Nhơ, vị trí ở phía dưới cầu Nại Hà, tội hồn khi đi qua cầu đó té xuống hố rắn độc nên bị rắn độc nhai nuốt, cắn bị thương, máu tươi tuôn thành sông cuốn chảy vào ao này mà thành ao Máu Nhơ. Những kẻ bị nhận ch́m dưới ao, lúc tại thế đều phạm vào các tội nhơ bẩn.
Dương Sinh: Xin Tướng Quân giảng giải rơ ràng hơn nữa.
Tướng Quân: Thần Thánh vốn không thể giả dối khinh nhờn nhơ bẩn, vậy mà vẫn thường có những kẻ khóc lóc chửi rủa thần minh, hoặc dùng những tiếng tục tỉu dơ dáy mắng mỏ người trên, cùng vu khống giá hoạ cho kẻ khác đều thuộc loại tim ruột nhơ bẩn. Có kẻ bày tṛ dâm giữa ban ngày ban mặt giữa trời chẳng sợ tam quang (mặt trời mặt trăng tinh tú), chẳng hổ người nh́n, chôn vùi liêm sĩ, nhơ bẩn cùng cực.
Có kẻ chuyên môn bán sắc lấy tiền, mỗi lời nói ra đều là lời tục tỉu. Có kẻ tham dâm quá độ, tới động thăm hoa không ngớt, ô nhiểm cả thể xác lẫn linh hồn, hoặc miệng thích ăn đồ nhơ để tẩm bổ cơ thể hoặc ham bày tṛ bổ dưỡng nhơ bẩn thuộc bọn tà môn, những kẻ ham thích làm thịt giết hại sinh linh, làm ô uế miếu đường Thần Phật, kinh sách Thánh Hiền, sau khi chết đều phải chịu cái khổ, bị nhận ch́m dưới ao Máu Nhơ này.
Tế Phật: Tục truyền: Phàm phụ nữ bất hạnh chết v́ sinh đẻ cũng bị quăng xuống ao Máu Nhơ này là lời ngoa truyền. Sinh đẻ nuôi dưỡng là lẽ thường của trời đất hoá công, chẳng may thác đă là sự thảm, không lẽ c̣n đem quăng xuống ao máu bẩn!
Cho nên người đời như có thân quyến sinh đẻ mà bệnh thác, phải gắng làm nhiều việc thiện hoặc tụng niệm kinh kệ, hoặc ấn tống kinh sách thánh hiền để đem công đức này hồi hướng, ắt có thể giúp đỡ cái tâm của vong hồn bớt kinh hoàng sợ hăi.
V́ lúc sản phụ lâm bồn, tâm vô cùng hoang mang thống khổ. Nếu như bất hạnh thác đi, nhất thời hồn phách bất an, thân nhân phải lo tu nhiều công đức, để cầu Thánh Thần Tiên Phật hoá độ.
Tướng Quân: Tế Phật nói rất chí lư, mong người đời hiểu rơ.
Tế Phật: V́ c̣n cần đi nơi khác, t́nh h́nh ao Máu Nhơ đă rơ đại khái. Chúng tôi xin cáo từ.
Dương Sinh: Cảm tạ sự hướng dẫn của Tướng Quân.
Tướng Quân: Không có chi, có điều ǵ thất lễ, xin tha thứ.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị tới điện Đông Nhạc.
Dương Sinh: Thưa, con đă sẵn sàng, mính mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đă tới điện Đông Nhạc, Dương Sinh xuống đài sen.
Đông Nhạc Đại Đế: Nghinh tiếp Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm, quí vị phụng chỉ viết sách, bữa nay mới tới bản điện, thực chờ đợi quá lâu.
Tế Phật: V́ Đại Đế quyền uy vô thượng, bần tăng lại bắt đầu đi thăm từ Đệ Nhất Điện, quí điện lại toạ lạc ở sau chót, đó chính là ư "hậu lai cư thượng" (Tới sau mà ỏ cao trên hết). Kính mong Đại Đệ chớ bận tâm.
Đại Đế: Tế Phật chớ buồn ḷng đă có công thân hành tới bản điện là ta vui mừng rồi. Thánh hiền Đường ở Đài Trung phát huy đạo đức chân lư kể từ khi dựng Thánh Đường tới nay đă trước tác Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên Chân Kinh, Ngọc Hoàng Phổ Độ Thánh Kinh, Tu Đạo Chỉ Nam, Sơ Thuật Cổ Kim Thiện Ác Nhân Quả Báo Ứng, Thánh Hiền Chân Lư...
Các kinh sách Thánh Hiền này đều ấn tống để quảng bá, khuyên hoá bốn phương, nhân tâm thế đạo ảnh hưởng kẻ hướng thiện không biết bao nhiêu mà kể, ḷng ta đă sớm cảm tạ vạn phần. Bữa nay Dương Thiện Sinh lại theo Tế Phật tới thăm bản điện, lẽ tất nhiên được tiếp đăi nồng hậu, mời hai vị vào trong điện nghỉ ngơi rồi chúng ta cùng đàm luận.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế đă yêu mến giúp đỡ.
Đại Đế: Mời hai vị ngồi, lệnh Tướng Quân mau dâng trà.
Tướng Quân: Tuân lệnh... Đă dâng lên.
Tế Phật: Cảm tạ Đại Đế ân ban.
Dương Sinh: Trà ngọt trái ngon, mùi vị chẳng sai, có thể mang về dương gian một ít chăng?
Đại Đế: Trái này chỉ ăn ở đây mới ngon thôi.
Tế Phật: Dương Sinh này, con chớ ham ăn, cây ăn trái trong vườn nhà con đă kết quả sai chíu chít, chỉ cần chịu khổ chăm sóc, con sẽ đủ ăn.
Đại Đế: quả đạo mới là thứ trái thực dụng, nó có mang h́nh dáng quả nọ trái kia đâu, nhưng ăn th́ hoàn hảo, dùng th́ được tất cả mà vẫn c̣n bị mục nát, trở thành vật vô dụng.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư cùng Đại Đế con đă liễu ngộ, thật quá xấu hổ, xấu hổ!
Tế Phật: Xin Đại Đế giới thiệu về chức vụ của các Ty thuộc quí điện, thưa có tiện không?
Đại Đế: Đông Nhạc tức núi Thái Sơn là ngọn đầu tiên trong Ngũ Nhạc, trực thuộc sự cai quản của các ty nơi Đệ Thập Điện ở âm phủ, có thể nói là đơn vị tư pháp tối cao giống như toà Tối Cao Pháp Viện ở dương gian. bản ngục chỉ cai quản sửa trị tất cả các hồn phách u uất tán loạn cùng việc thăng giáng quỉ thần bất kỳ ở dương gian hay là âm phủ.
V́ bản điện có thể tâu thẳng với Ngọc hoàng Thượng Đế rồi ra lệnh thi hành nhiệm vụ. Các bậc sơn thần, thổ thần, biên giới thần, thiên thần, địa thần đều qui tu tại Đông Nhạc, phàm mười điện dữ kiện án lịnh có ǵ nghi vấn không giải quyết được tức th́ chuyển giao tới đây để bản điện lo liệu.
Cho nên bản điện ở vào địa vị cao hơn mười điện, hơn nữa trên đỉnh Đông Nhạc lại có U Minh Giáo Chủ, quản lư phổ độ để cho mọi việc được hoàn hảo. Tôi nắm quyền cai quản, kiểm soát âm phủ không giống các ty chức khác.
Dương Sinh: Kẻ hạ sinh có một nghi vấn. Kính mong Đại Đế chỉ giáo. Quí điện đă cai quản tất cả u hồn tán quỉ, tại sao dương gian vẫn c̣n thấy người này kẻ kia bị tà ma quấy phá, hoặc hồn quỉ xâm phạm, có thể nói là pháp luật ở âm phủ c̣n có kẽ hở không?
Đại Đế: Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt, lưới đất dầy đặc, thoát mà chẳng được lâu. Điều Dương Sinh nói rất đúng, dương gian hiện có rất nhiều du hồn tán quỉ. Âm luật tuy nghiêm nhưng không tuyệt đối xoá bỏ tâm từ bi, cho nên nói "t́nh lư pháp kiêm cố" (Pháp luật nh́n bao quát cả t́nh lẫn lư).
Không thiếu những vong hồn lúc sống bị oan ức mà thác, âm ti cho phép báo oán nhưng tới khi dương gian, thường thường ư khí làm việc không phân đen trắng, thấy người là quấn quít, nếu gặp người trần nguyên tính của thần hồn thịnh vượng hoặc đạo đức cao thâm, ắt nó không dám bén bảng tới gần.
Những du hồn tán quỉ nếu như không tôn trong. pháp lệnh làm quấy ở trần gian một sớm bị phát hiện ắt bị thần thánh ở dương gian hoặc đội tuần sát của bản điện bắt được sẽ đem về khép tội, lúc đó hẳn nó hết đường chối căi, công và tội được xét xử đúng theo luật đă ấn định.
V́ chư thần ở địa phủ muốn nỗi oán hận của chúng sinh tiêu tan, cho nên mới phóng thích quỉ hồn để báo oán, nếu như tội phạm ở dương gian sau khi được thả ra, có kẻ đă thay h́nh đổi dạng gia tăng sự tàn hại, ỷ thần cậy thế khinh rẽ đồng loại, người đời bị hồn quỉ ám ốp thân tâm là bởi lư do trên.
Dương Sinh: Đại Đế nói rất đúng.
Tế Phật: Cảm tạ Đại Đế đă khai mở cho biết rơ, v́ thời giờ đă trễ chúng tôi chuẩn bị hồi đường.
Đại Đế: Hai vị gian nan khổ cực, nguyện chúc cho Dịa Ngục Du Kư sớm viết xong, việc phổ biến giáo hoá chúng sanh cũng mong sớm thấy có kết quả. Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chĩnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế cùng chư vị Tướng quân xin cúi lạy giă từ. Con đă lên đài sen, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 612 of 2534: Đă gửi: 08 August 2008 lúc 10:55am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỒI SÁU MƯƠI HAI
LẠY GẶP BỒ TÁT ĐỊA TẠNG VƯƠNG VIẾT XONG DU KƯ MỞ HỘI LỚN.
Phật Sống Tế Công Giáng ngày 6 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1978.
Thơ:
Thiên hoá pháp vũ kết dao thiên Ngọc quyển tu thành nhất đoá liên Thánh sách phù quang thuỳ vạn cổ Du thư tự tự kư hoàn toàn.
Dịch:
Kinh vàn mưa pháp Phật trao truyền Quyển ngọc tu thành một đoá sen Sách Thánh hào quang ngời vạn thuở Lời lời Du Kư chép không quên.
Tế Phật: Hôm nay là ngày vui sướng v́ mất trọn hai năm dạo thăm âm phủ để ghi chép sách Địa Ngục Du Kư, giờ đây mới tới được chương kết thúc.
Bộ sách quí giá hiếm hoi trên đời này đă nói hết chân lư của nhân sinh, có người không tin, nhưng trạng huống có thật mà chư sinh dạo âm phủ suốt hai năm qua hẳn đă thấy rơ như màn ảnh hiện h́nh người thật, việc thật.
Cho nên ta hy vọng chúng sinh dưới gầm trời, tin cái có chẳng thể tin cái không, lănh hội được "sinh" là cái khởi đầu nhỏ nhoi, "tử" mới là cái kéo dài bất tận.
Do đó lúc sống dù có biết trước cũng chẳng thể nhận ra được một phần trăm "chết". Hăy nh́n đám u hồn đang kéo đi lũ lượt trên ngả đường dẫn tới âm phủ! Tự cổ chí kim, kẻ sĩ trung hiếu tiết nghĩa sau khi chết, một luồng linh quang phấp phới bay lên thiên đường, lưu lại hương thơm muôn đời, hiện rơ tâm trung trinh, đại tiết.
C̣n nếu như bọn phản bội chân lư, chính nghĩa, luân thường, sau khi chết linh hồn ô uế chẳng thể kham nổi tối tăm trầm luân ở địa ngục. Nguyện chúng sanh sau khi đọc xong sách Địa Ngục Du Kư như tỉnh cơn mộng lớn, chớ lại si mê trong cảnh t́nh phàm tục v́ càng rơi càng sâu, cuối cùng không cứu chữa!
Bữa nay là lần dạo âm ty cuối cùng, Dương Sinh hăy lên tinh thần, y phục đoan trang, chuẩn bị xuống âm ti lănh thưởng.
Dương Sinh: Thưa ân sư, niềm vui ngập tràn ḷng, con nói chẳng nên lời, hai thầy tṛ phụng chỉ viết sách, nhiệm vụ sắp hoàn thành mới có thể nhẹ nhơm thư thả một chút.
Tế Phật: Người có chí việc ắt thành, Trời không phụ kẻ có ḷng, mong gắng tinh tiến, mau lên đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay đài sen tại sao to lớn một cách đặc biệt, lại có hào quang tỏa bốn phía?
Tế Phật: V́ từ hai năm nay ḿnh luôn lui tới âm phủ dương gian để phục vụ, nên đoá sen này cũng được điêu luyện mà trở thành to lớn, mạnh mẽ phát hào quang.
Dương Sinh: À th́ ra nguyên nhân là như vậy, quả là ảo diệu vô cùng...
Tế Phật: Đă tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: A! Quảng trường trước mặt náo nhiệt quá, tiên nhạc diễn tấu vang vang bên tai, các bàn tiệc chạm trổ bằng ngọc thạch đă bày biện sẵn, nhưng quan khách đi đi lại lại đều là những người con chưa từng nh́n thấy bao giờ. Có người mặc áo tu sĩ bay phấp phới, cũng có sa di, nho sĩ cùng nhân sĩ các nước đều bận đồ tu hành, chẳng rơ họ từ phương xa nào tới?
Tế Phật: Nhân phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Kư sắp xong, U Minh Giáo Chủ đặc biệt thiết yến tại trước cung Địa tạng để ban lễ ăn mừng. Bữa nay chúng ta là thượng khách, con thấy tiên sứ, sa di, nho sĩ, các vị tân khách cùng Bồ Tát Địa tạng Vương đă tiến ra nghinh tiếp chúng ta, mau tiến lại lạy chào ra mắt.
Dương Sinh: Vái chào Bồ Tát Địa tạng Vương cùng chư vị Đạo Trưởng. Tại hạ là môn sinh của ân Chủ Quan Đế thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo tế Phật dạo địa ngục viết sách, thừa hưởng tâm từ bi của Bồ Tát Địa Tạng Vương, sắc lệnh cho các ty các ngục ở âm phủ giúp đỡ công tác viết sách, bữa nay nhiệm vụ hoàn thành, đặc biệt theo ân sư cùng tới bái tạ, không quản nhọc nhằn, Giáo Chủ bày biện cảnh trí như thế này, thật ra là quá ngạc nhiên và cảm động.
Giáo Chủ: Mời Dương Thiện Sinh đứng lên, nhà ngươi cùng Tế Phật quá gian lao khổ cực, đă từ hai năm nay bôn ba khắp nẻo đường địa ngục, tâm cứu độ chúng sinh quí giá thực là hiếm có, ta bữa nay đặc biệt thiết yến để chúc mừng, công thành mà sách cũng thành, mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh vào trong, đăng thượng toà.
Dương Sinh: Thưa không dám.
Tế Phật: Bữa nay U Minh Giáo Chủ Bồ Tát Địa Tạng Vương đặc biệt v́ ḿnh thiết yến, ta thấy hà tất phải chối từ, khổ cực suốt hai năm mới được một chút vinh dự này, theo ta lên trên ngồi.
Dương Sinh: Xin ân sư ngồi, c̣n con đứng hầu. Tiệc hội mừng này, người tới mỗi lúc mỗi đông, người nào người nấy đầu tỏa hào quang, tin tưởng là đạo hạnh sâu dầy.
Giáo Chủ: Bữa tiệc hôm nay cốt để chúc mừng sách Địa Ngục Du Kư đă viết xong, nhân v́ địa ngục đều được các tôn giáo trên thế giới thừa nhận, cho nên bất luận đạo Nho, Thích, Gia Tô, Hồi, hay các tôn giáo mới thiết lập khác, từ giáo chủ cho chí tín đồ đều mời tham dự hết, do đó mà chư thiên đă phái các tiên sứ, thiên sứ tới tham dự hội lớn. Dao Tŕ Kim Mẫu c̣n đặc biệt ban đào tiên cùng rượu Quỳnh Tương, Dương Thiện Sinh ngươi thật là có phước.
Dương Sinh: Cảm tạ sự chiếu cố của Thánh, Phật, Tiên, Thần, thuộc các tầng trời, hiện thời tiếng thiên nhạc hoà tấu vang vang...
Giáo Chủ: Hội lớn sắp khai mạc, giáo chủ các tôn giáo cùng Quan Âm Đại Sĩ cũng giáng lâm.
Đại Sĩ: Bữa nay may mắn gặp Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh.
Dương Sinh: Lạy chào Quan Âm Đại Sĩ.
Giáo Chủ: Đă tới giờ khai mạc đại hội, tấu Thánh nhạc... Chư vị yên vui. Quư vị đều là khách quí từ thiên đường bữa nay xuống thăm địa phủ, khiến âm ti đại phóng quang minh, nhân Thánh Hiền Đường tại tỉnh Đài Trung ở Đài Loan thuộc Nam Thiên Bộ Châu khâm phụng Ngọc Chỉ của Ngọc Đế, dạo âm phủ viết sách để khuyên hoá thế đoạ nhân tâm, khí ô trược lắng trong.
Phật Sống tế Công tính thích khôi hài, người đời gặp Tế Phật muôn ḷng đều vui v́ Tế Phật mượn cớ điên cuồng giúp đời, mỗi lời mỗi tiếng như giọt sương ngọt ngào, vị thuốc tiên, vị nước cam lồ tuyệt diệu có thể cải tử hoàn sinh, cho nên Ngọc Đế ra lệnh Tế Phật phải lo dẫn đường, không những là người thấu suốt âm ty mà c̣n có thể chuyển thiên cơ một cách hết sức sinh động cùng tuyệt vời.
Dương Thiện Sinh là đệ tử chính của đàn cơ Thánh Hiền Đường tính linh trong lành sáng suốt, theo Phật Sống trải khắp các ngục mười cửa điện, công khuyến thế sâu dầy. Bữa nay sách hoàn tất, đặc biệt cử hành tiệc này một là để biểu lộ ư chúc mừng, hai là để bày tỏ thế giới tuy lớn nhưng tại linh giới các giáo không hề thấy có cửa ngơ như bữa nay tại đây, nhân sĩ các giáo ngồi chung, hoà khí vui tươi, hiển lộ rơ cảnh tượng đại đạo hết sức vô tư không hề phân biệt chia rẽ.
Mong chúng sanh trong thiên hạ nhận rơ lẽ này mà t́m về chân lư, tu tâm dưỡng tánh, tôn kính giữ ǵn đạo đức Khổng Mạnh. Nếu như vứt bỏ luân lư cương thường sẽ càng thêm tính dă man, hẳn là không được hưởng phúc văn minh chút nào. hành đại đạo, coi thiên hạ là chung, từ cái yên nhỏ mà đun đẩy thế giới tiến đến đại đồng, đó mới là hạnh phúc của chúng sinh. Xin ngừng lời tại đây. Khai tiệc...
Tế Phật: Dương Sinh, đừng làm khách. Đây là rượu Quỳnh Tương cùng đào tiên Vương Mẫu, ăn uống vào có thể kéo dài tuổi thọ.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư, con không khách sáo, nhân cơ hội này con ăn nhiều hơn...
Giáo Chủ: Hoan nghênh Sư Tổ Lữ Thuần Dương đă tới.
Lă Tổ: Xin Giáo Chủ chớ quá lễ độ, tôi kính vâng lời dạy của Ngọc hoàng, đặc biệt mang giấy ban khen sách tới giao cho Dương Sinh đem về làm phần thưởng cho việc viết sách của thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Lạy tạ ơn Trời.
Giáo Chủ: Mời Sư Tổ dùng tiệc.
Lă Tổ: Đa tạ...
Giáo Chủ: V́ thời giờ đă muộn, sự tiếp đăi như có điểm nào không được chu toàn, xin chư vị cao minh chân chính tha thứ. tế Phật cùng Dương Thiện Sinh bữa nay tới đây dự hội, tôi cảm ấy ḷng vui sướng vạn phần, cửa thiền phát huy đạo giáo, ứng thiên cơ thuyết pháp là một nghĩa cử thuận ḷng trời, hợp ḷng người.
Quyển sách Địa Ngục Du Kư nọ viết nên được là hoàn toàn nhờ dựa vào bút liễu cành đào, thông tính linh truyền chân lư của Thánh xưa ban. Người đời nên hiểu sự dụng tâm của Trời, cố gắng tôn kính vâng theo lương tâm thiên lư, sau khi chết mới được miễn h́nh phạt của mười cửa điện.
Danh xưng Bồ Tát Địa Tạng là tiếng tôn xưng nơi cửa Phật, c̣n như cửa đạo lại tôn xưng tôi là Phong Đô Đại Đế, cũng như âm phủ c̣n gọi tôi là Phong Đô Địa Ngục, người đời phần lớn chưa rơ, bữa nay nhân Địa Ngục Du Kư viết thành, phụ làm lời nói cuối sách để người đời được tỏ.
Tế Phật: Đài sen hiện giờ lơ lửng giữa không trung, từ hai năm nay chư sinh thuộc Hiền Đường gian lao khổ cực mới gặt hái được đạo quả, ta không có lễ vật ban tặng, nên đem toà sen này ban cho Dương Sinh để làm vật kỷ niệm v́ suốt hai năm qua thầy tṛ ra vào chốn u minh viết sách, hy vọng Dương Sinh rất yêu quí nó.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư đă ban toà sen nhận xong mới cảm thấy thẹn thùng. Con nguyện tôn trọng lời thầy dạy cùng trong mong từ đây măi măi về sau ân sư có thể tùy thời mở đạo.
Tế Phật: Phật ở bên cạnh con, chỉ cần con giữ vững tâm Phật, ắt có thể thành Phật vậy.
Giáo Chủ: B́nh rượu Quỳnh Tương đặc biệt này, mời Dương Thiện Sinh mang về Thánh Hiền Đường tặng toàn thể môn sinh uống, họ cũng quá khổ cực gian lao. Phàm kẻ ấn tống hay thuyết giảng sách Địa Ngục Du Kư để khuyên đời, ngày đêm Du Thần tùy thời đi tuần để kiếm tra rồi về báo cáo.
Địa phủ đều có hồ sơ lưu giữ, phàm có điều sở cầu đều có thể hiệu nghiệm như âm thanh tương ứng. Hy vọng nhiều người phát tâm in tặng để truyền bá khắp trong thiên hạ, công đức kêu gọi ḷng người thực tỉnh thức quả là vô lượng. Sau hết xin chúc Thánh Hiền Đường môn sinh công quả tṛn đầy, vận may hưng phát.
Tế Phật: Dương Sinh, chúng ta chuẩn bị trở lại thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Cảm tạ Ngọc Đế, Giáo Chủ Ân Sư cùng chư vị Đạo Trưởng đă che chở chỉ dạy, vĩnh viễn khó quên ơn, ước mong tái ngộ.
Giáo Chủ: Mời quư vị đang an toạ đứng lên, tiễn chân Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Rượu Quỳnh Tương phải giữ khéo, đó là báu vật sau hai năm khổ cực gian lao mới thâu hoạch được.
Dương Sinh: Thưa con sẽ không để thất lạc, đă giữ kỹ thành quả này, giấy khen cũng cất trong bọc. Con đă lên đài sen. Mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: V́ ai mà khổ cực v́ ai mà gian nan? Âm Dương Giới, Quỷ Môn Quan, đi khắp cơi Âm Tào Địa Tạng, hai năm vắt cạn tâm huyết, tung hết sức lực là cốt mong chúng sinh bỏ ác theo thiện đến nay nguyện ước đă thành.
Cái c̣n lại chỉ là nh́n chúng sinh có quay đầu hướng vào bờ hay không mà thôi. Địa Ngục Du Kư viết xong, tâm thần được vui vẻ thanh nhàn. Muốn tu, không tu ta chẳng quản, đoạ địa ngục, lên thiên đường đều do người đời tự ḿnh đi tới.
Nhớ đấy nhớ đấy! Mong ước chúng sinh như hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác. ta cùng đồng tử Ngọc Hư phải trở về trời trả sắc chỉ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 613 of 2534: Đă gửi: 08 August 2008 lúc 11:26am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
NGỌC CHIẾU
Bản đường ty lễ thần đăng đài ngày 3 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978.
Đức Thánh dạy: Phút này Ngọc Chỉ sắp giáng, lệnh cho Thành Hoàng ngoài 5 dậm, Phúc Thần ngoài 10 dậm nghinh tiếp. Tất cả đệ tử nghiêm chỉnh đón giá.
Kim Khuyết Nội Tướng Từ giáng bút.
Thơ:
Bát nguyệt trung thu ban thánh điển Đại Thiên thế giới phóng quang minh Chước thư nghi thức nghi long trọng Xá tội tiêu khiên công cáo thành.
Dịch:
Tháng Tám trung thu ban thánh điển Đại Thiên thế giới phóng hào quang Trang nghiêm kính cẩn khi dâng sách Oan giải tội tha để thưởng công.
Đức Thánh dạy: Ta đêm nay phụng mệnh mang sắc chỉ tới tuyên đọc. Thần nhân phủ phục.
Khâm phụng Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế chiếu viết: "Xét Thánh Hiền Đường ở Đài Trung do quyết nghị của Thánh Hội Linh Tiêu đă phụng mệnh trước tác sách Địa Ngục Du Kư, kể từ rằm trung thu năm Bính Th́n bắt đầu khai bút tới rằm tháng tám năm Mậu Ngọ này vừa đúng hai năm. Trong khoảng thời gian này Dương Thiện Sinh đă dạo thăm mười cửa điện phỏng vấn các ngục, những bằng chứng thâu lượm được cao như núi, được tiết lậu hết trong sách Địa Ngục Du Kư, kho tài liệu này trước đây đă đăng tải từng kỳ trên tập chí Thánh Hiền Đường để phổ biến trong các giới đồng bào.
Tới rằm tháng tám năm nay in thành sách xong đem 108 cuốn bày lên hương án, đốt ba cuốn, một dâng Thiên Đ́nh, hai dâng Địa Phủ, ba dâng các Thần hoàng cơi nhân gian dưới gầm trời để tỏ ḷng sùng bái chư thần ba cơi đất trời người. Các ty ở âm phủ rất ngợi khên thành quả tốt đẹp này, nên ngoài việc chiếu theo công ban thưởng và đại xá cho các tội hồn một lần c̣n cử hành hội lớn để chúc mừng, cùng dâng bản tường tŕnh lên đức U Minh Giáo Chủ.
Chốn dương gian những ai không quản ngại gian lao khổ cực dốc tâm công quả trong việc viết sách, in tặng, cùng phổ biến có thành tích đều được ban thưởng. Phải ghi rỏ tên họ địa chỉ số lượng sách và sở nguyện của những người in tặng sách, vào tờ biểu chương để c̣n đốt và tâu lên thượng giới các công tŕnh đáng ghi nhớ của những tấm ḷng quảng đại thiết tha v́ đạo nghĩa. Suốt hai năm qua chư sinh chịu bao khổ cực gian lao mới đạt được kết quả lớn lao, mong tiếp tục gặt hái được nhiều thành công khả quan hơn nữa hầu sửa ngay thế đạo, dẹp sạch phong hoá đồi truỵ để mạnh tiến đến đại đồng. Chớ trái lệnh Trẫm"
Kính cẩn vâng lời không dám xao nhăng, cúi đầu tạ ơn Thiên vận ngày 3 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978.
ĐỀ BẠT
Phật Sống Tế Công giáng.
Về Học thuyết linh hồn, dầu với phương tiện khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay cũng chỉ thâu tỏ được một đôi phần nhỏ nhoi không đáng kể. Do đó ngoài phương thức dầy công tu luyện tinh thần, khai thông huệ nhăn chẳng thể nh́n rơ được vấn đề. Cơ thể con người do ba nguyên tố "tinh, khí, thần" tổ hợp, c̣n cái thân huyển ảo túi cơm giá áo này làm sao có thể tồn tại được lâu, bởi một sớm đất nước gió lửa biến hoá ắt xương thịt rữa nát tan thành tro bụi, người ra đi để lại lầu hoang gác trống.
Cũng nhờ vậy mà linh hồn được chuyển kiếp, thân xác được hoá sinh, con người thay h́nh đổi dạng, mang bộ mặt mới chào đời. Những bậc tiên tri thuộc các tôn giáo cổ kim trong ngoài, hoặc những vị có năng lực thông tỏ siêu linh, mắt họ đều có thể nh́n rơ việc này và làm chứng cho lời nói của ta.
Việc trước tác sách Địa Ngục Du Kư là do ḷng trời thương xót chúng sinh từ lâu đắm ch́m trong cơi hồng trần. Đă từ lâu ba khối trược ác độc "tham sân si" mặc sức hoành hành nhận ch́m đạo đức gây nhiều nghiệp chướng khiến xă hội ngày càng đoạ lạc. Bởi vậy cần phải gấp rút xây dựng lại giềng mối đạo cho đời, cùng hoàn cảnh sống tốt đẹp cho người, đặc biệt được phép tiết lộ cảnh huống trung thực ở âm phủ để cảnh cáo và biến cải thế tục.
Kêu gọi cùng hướng dẫn quay về đường nhân từ, đẩy mạnh chân lư đạo nghĩa, để bồi đắp ḷng tin tưởng nhiệt thành, trí lương tri sáng suốt, kẻ phàm nếu có duyên may gặp được sách Địa Ngục Du Kư này nếu như chịu khó đọc và nghiền ngẫm ắt là "buông dao đồ tể". Ta chân thành cầu chúc đọc giả "Minh tâm kiến tánh và thành Phật".
Hai năm qua ḷng ta đă xúc động quá nhiều, giờ đây sóng tâm lại cảm ứng cùng Thái Thượng, kính cẩn dẫn mấy câu để thay lời kết ở cuối sách: "Hoạ phước vô môn, duy nhân tự chiêu. Thiện ác chi báo, như ảnh tuỳ h́nh". (hoạ phước không cửa, chỉ tại người tự chuốc . Thiện ác trả vay như bóng theo h́nh).
Thánh Hiền Đường, bần tăng tế Công kính bạt.
Ngày 29 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1978.
Lời Cuối Của Bản Đường.
Thơ:
Liễu ngộ do như dạ đắc đăng Vô song ám thất hốt khai minh Thử thân ất hướng kim sinh lộ Cánh đăi hà thời độ thử thân.
Dịch:
Ngộ đạo quả như tối gặp đèn Sáng bừng pḥng kín giữa đêm đen Thân này không gắng đời này độ Đợi đến đời nào mới độ thân.
HẾT
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 614 of 2534: Đă gửi: 08 August 2008 lúc 12:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
SỰ TÍCH SÔNG NHÀ BÈ
Ngày xưa ở đất Gia Định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại trong các Nha các Ty. Sau hơn hai mươi năm luồn lọt chức quyền, hắn đă làm cho biết bao gia đ́nh tan nát, biết bao người bị oan uổng, do đó hắn đă vơ vét được rất nhiều tiền của.
Vợ hắn chết sớm lại không có con, nên tiền bạc của hắn không biết tiêu vào đâu cho hết. Ngoài số chôn cất hắn đem tiền tậu ruộng, làm nhà nhiều vô số kể. Ruộng đồng của hắn c̣ bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch cả hàng ngh́n hàng vạn giạ lúa.
Khi thấy cuộc sống quá thừa thăi, hắn bèn thôi việc về nhà sống một cuộc đời trưởng giả. Một hôm có người mách cho Thủ Huồn biết, chợ Mạnh Ma ở Quảng Yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn vậy người sống phải chờ đến mồng một tháng sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi t́m.
Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đă ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con, rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, đến Quảng Yên, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa ḷng thương nhớ. Khi gặp vợ Thủ Huồn không dám hỏi v́ thấy vợ ăn mặc rất đài các.
Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được, hắn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ, kể cho vợ nghe cảnh sống của ḿnh từ lâu nay. Hắn liền hỏi vợ:
- Bà lâu nay làm ǵ?
- Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có ǵ đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
- Tôi nhớ bà quá. Tôi muốn theo bà xuống dưới ấy ít lâu có được không?
- Đi theo tôi th́ cũng được, nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm. Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đă đến cơi âm. Hắn rùng ḿnh khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp vợ bảo chồng:
- Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua.
- Ông cứ ẩn tạm trong buồng vắng này, v́ không thể lên buồng tôi trên kia được, tôi sẽ kiếm cách cho ông đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
Chiều hôm đó, người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép của Diêm Vương và nói:
- Bây giờ ông có thể đi được rồi. Nhưng phải nhớ là không được vào cung vua và cung hoàng hậu, c̣n những nơi khác th́ ḿnh cứ việc đi xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy ṿng chung quanh nhà bếp rồi sẵn đó bước đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la thét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy pḥng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông, trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt.
Thủ Huồn lân la hỏi lăo cai ngục:
- Thứ gông to này để làm ǵ vậy?
- Để chờ một thằng rất ác nghiệt xuống đây. Tất cả các cái gông trong này đều đă có chủ cả, cứ xem gông to hay gông nhỏ th́ biết tội ác của từng người ngay.
Thủ Huồn lại hỏi:
- Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai vậy?
Lăo cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dầy, chỉ vào một hàng chữ rồi đọc:
- Hắn là Vơ Thủ Hoằng, tức là Thủ Huồn, người ở Đại Nam quốc, Gia Định tỉnh, Phúc Chính huyện...
Nghe vậy Thủ Huồn giật ḿnh mặt xám ngắt, nhưng hắn vẫn cố giữ vẻ mặt điềm tĩnh hỏi thêm:
- Thế nào? Hắn có tội ǵ?
Lăo cai ngục mắt vẫn không rời cuốn sách:
- Khi làm thơ lại, hắn bẻ mặt ra trái, làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây…
Lăo cai ngục nói tiếp:
- Nghe tôi đọc này: Năm Ất Sửu, hắn sửa hai chữ “ngộ sát” thành “cố sát” làm hai mẹ con Thị Nhàn bị án chết, để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài, việc này Thủ Huồn được hối lộ mười nén vàng, mười nén bạc và một trăm quan tiền.
Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn B́nh Ca bị hai mươi năm tội đồ, chỉ v́ trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm...
Nghe đến đó th́ Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của ḿnh trên dương trần kia, dưới này đều rơ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng: - Thế vợ hắn có cùng đeo gông với hắn không hở ông?
- Ồ! Ai làm người ấy chịu chớ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đă xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng:
- Ví như nếu hắn muốn hối cải th́ phải làm thế nào?
Lăo cai ngục đáp:
- Đă vay th́ phải trả! Nếu hắn muốn th́ phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi th́ may ra...
Từ biệt lăo cai ngục và những h́nh cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không c̣n bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đ̣i về, liền đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm Vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt của âm phủ. Lúc chia tay, hắn bảo vợ:
- Tôi về trang trải công nợ, có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống, bà nhớ lên chợ đón nghe. Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn cho gọi những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa… rồi đem ruộng đất của ḿnh cúng cho làng cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết các sư săi ở các chùa trong vùng tới nhà ḿnh làm lễ cúng, tốn kém kể cả tiền vạn.
Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường như vậy. Ai xin ǵ được nấy. Có những người trước đây chửi hắn, bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Họ thường kháo với nhau:
- Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước th́ sau thế nào cũng đội nón ra đi mà thôi.
- Có lẽ v́ hắn không con, biết để của cũng chả được ǵ nên hắn làm cho vợi bớt đi ấy mà.
Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về ḿnh, nhưng hắn chẳng nói ǵ cả, cứ việc vung của làm phúc không tiếc tay. Cứ thế sau ba năm, Thủ Huồn đă tiêu tán hết ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc t́m đến chợ Mạnh Ma.
Hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cơi âm thêm một lần nữa. Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lăo cai ngục vẫn là lăo cai ngục trước kia. Cách bố trí y hệt như xưa, cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, nơi cắt tay...Duy chỗ để gông th́ có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn c̣n nguyên h́nh như xưa th́ lại có những cái trước bé nay đă lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông của hắn đă nhỏ hẳn đi ít nhiều, tuy vẫn c̣n to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân la hỏi lăo cai ngục:
- Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ h́nh như to lắm th́ phải?
- Đúng đấy! Lăo đáp.
- Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đă biết chuộc lỗi nên cái gông ấy đă nhỏ lại bớt. Nếu hắn gắng hơn nữa th́ rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng bái. Lần này hắn bán hết tất cả những ǵ c̣n sót lại kể cả nhà hắn ở. Hắn đến Biên Ḥa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật, rồi xuôi Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngă ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện. V́ ḷng sông rộng và nước chảy rất xiết. Cũng v́ thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta c̣n ngần ngại chưa dám di cư sang bên này để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn sắm sửa đầy đủ trên bè dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó.
Hễ ai lỡ đường đến đấy th́ hắn cho họ trú ngụ tại bè của ḿnh, kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền, giúp họ vốn liếng sang sông mà lập nghiệp. Thủ Huồn làm công việc đó một cách sốt sắng để giúp người cùng khổ, măi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc tức là con của Gia Khánh. lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong ḷng bàn tay vua có mấy chữ: “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”, nên nhà vua cần biết rơ gốc gác Thủ Hoằng là ai.
Sứ giả t́m đến nơi và đi hỏi gốc tích th́ biết rằng Thủ Hoằng chính là Thủ Huồn ngày trước. Khi biết rơ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc mừng lắm, liền cúng vào ngôi chùa Biên Ḥa ba pho tượng vàng.
Do việc đó mà người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cơi âm, mà c̣n được Diêm Vương cho đi đầu thai làm vua bên Trung Quốc. Ngày nay ở Biên Ḥa có một ngôi chùa cổ c̣n mang tên là Chùa Thủ Huồn để nhớ đến gốc tích này.
Chỗ ngă ba sông Đồng Nai và Gia Định c̣n gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm ḷng tốt của Thủ Huồn, đối với khách bộ hành Nam Bắc đi qua con sông đó, do vậy mà nay vẫn c̣n có câu hát ru:
Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định Đồng Nai th́ về. Hiện nay ở Biên Ḥa Đồng Nai vẫn c̣n ngôi chùa Thủ Huồn này. Không biết là có đổi tên ǵ mới không.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 615 of 2534: Đă gửi: 09 August 2008 lúc 10:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔI LỌ CỔ TRONG L̉NG HUYỆT
Chương Một
Theo phước ấm tổ tiên họ Đặng Trần độ tŕ, lăo đă thành công trong bước đầu, và như vậy có thể tin chắc là bởi sự kết phát hài cốt, cũng sẽ gặp được may mắn. Thầy Địa lư chừng như sợ mẹ con Đặng Mẫu không hiểu rơ lẽ huyền bí của sự kết phát, nên lại vui vẽ giải thích thêm:
- Sở dĩ lăo phải chịu tốn công chiêu hồn thâu phách ông tổ thất đại ḍng Đặng Trần vào h́nh nhân để chôn theo cùng với hài cốt khi cải táng, chỉ là v́ lăo nghĩ rằng: theo thường t́nh thiên hạ, mỗi khi những thiếu nhi bi yểu tử, các bậc làm Cha Mẹ, hoặc thân nhân không mấy khi khâm liệm cẩn thận.
Chọn lựa quan tài đóng bằng gỗ tốt như người lớn bị mệnh chung, mà trái lại chỉ gói ghém qua loa, rồi dùng cây xấu đóng ḥm, hoặc lấy chiếu hay giát giường bó lại, đoạn đem chôn cất cho sớm xong xuôi viện cớ:
Đó là nghịch cảnh, con cái chết trước Cha Mẹ! Với sự an táng cẩu thả ấy trải qua hàng trăm năm, lẽ tất nhiên hài cốt phải bị tiêu hao, có khi tan biến mất hết, chỉ c̣n trơ lại trong áo quan, một mớ xương tàn vụn vặt, trông không khác ǵ một thứ đất bị nghiền nhỏ vậy.
Sự liên hệ huyền bí, giữa người quá văng với bộ hài cốt nằm dưới huyệt sâu, chẳng cần nói ai cũng biết là vô cùng quan hệ.
Nó c̣n ảnh hưởng cả tới những thân nhân c̣n sống ở dương thế, nên mỗi khi hài cốt bị xâm phạm, tức khắc con cháu phải gánh chịu những sự ốm đau, tật bệnh hay làm ăn lủng củng, thua thiệt đủ đường.
Trong trường hợp hài cốt tan biến thành đất vụn , linh hồn người đă khuất hẳn cũng giảm bớt một phần nào sự linh ứng, chứ không c̣n có thể hiển hiện, biến hóa dễ dàng đuợc như khi hài cốt c̣n nguyên vẹn.
Do đó muốn cho ngôi mả sớm quán khí, để có thể kết phát trước thời gian của Ngọc Hoàng ấn định, lăo mới phải tốn công chiêu hồn, thâu phách ông tổ bảy đời trong ḍng họ Đặng Trần, lấy h́nh nhân có hồn phách quy tụ đầy đủ thay thế cho người quá vảng, để hài cốt có sinh khí tiếp nhận tinh hoa của long mạch, hầu hết chóng đem đến cho con cháu trong họ sự kết phát, như phần số thiên đ́nh đă ấn định, mà lăo từng rơ được trong cuốn sổ luân hồi chuyển kiếp khi nằm chiêm bao, tiếp xúc với Thổ Thần.
Với sự thâu hồi hồn phách giờ đây và nạn yểu tữ của người có hài cốt nằm sâu dưới huyệt, lăo tin chắc thế nào cũng đạt được kết quả mong muốn, v́ theo sự hiểu biết của lăo, những người chết non bao giờ cũng khôn ngoan, linh thiêng hơn người thường.
Nên một khi được ám trợ thêm bằng bùa chú, phù phép, chắc sao cũng phải giúp đở đắc lực cho ngôi mả mau quán khí, để linh hồn được sớm phiêu diêu nơi non Bồng nước Nhược, hay chốn cực lạc tây phương.
Đó là sợi dây liên hệ giữa hai thế giới âm dương : người có hài cốt an táng đúng chỗ quư địa. có long mạch dồn tới sẽ được mát mẻ vong linh, cũng như con cháu trên trần gian được huởng vinh hoa phú quư.
ĐÔI LỌ CỔ TRONG L̉NG HUYỆT
Đúng ngày 16 tháng chạp năm ấy, lễ cải táng sẽ được cử hành vào giờ Mùi, do sự lựa chọn ngày giờ rất cẩn thận của thầy địa lư.
Ngay tại chánh huyệt, nhà phong thủy đă bắt đầu dựng tạm một căn lều chung quanh che vải đỏ bịt bùng, mà theo lời thầy địa lư, mục đích để tránh sự xung sát giữa linh khí của hài cốt với ánh thái dương, rất có thể xẫy ra khi cần phải mở tiểu sành, để xếp lại xương cốt, với các thứ bùa chú và đồ trấn yểm trước khi hạ huyệt.
Chẳng những cần phải giử ǵn cho mớ hài cốt mà luôn cả đến huyệt đào, thầy địa lư cũng không muốn cho huyệt bị để lộ thiên một giờ khắc nào v́ làm như thế, khí thiêng liêng của long mạch ít nhiều cũng sẽ bị thương tổn, gây ảnh hưởng không hay cho sự quán khí của mộ phần.
Với tất cả sự thận trọng chu đáo ấy, từ mờ sáng hôm 16. Thầy địa lư đă gọi Trung trở dậy, thúc giục chàng phải đi gọi mấy người anh em trong họ cường tráng, khoẻ mạnh để nhờ họ đi cất lều ở tại chánh huyệt, rồi sau đấy mới đào huyệt theo đúng kích thước và sự chỉ dẩn vô cùng cặn kẻ của nhà phong thuỷ.
Cứ mỗi lần đào sâu chừng một thép mai, thầy địa lư lại bảo mọi người tạm nghỉ tay, để lăo đích thân đem la-kinh đến đặt thử trên mặt đất, đo lường lại cẩn thận từng phân tấc tính toán rất kỹ lưỡng, rồi mới yên tâm ra lệnh cho đám trai tráng đào tiếp .
Mới bắt đầu đào, lớp đất bên trên không có chi lạ hết. Nó giống in như những khu ruộng khác, đất đào lên chỉ là một thứ đất thịt, dẻo quánh, nên những chàng thanh niên lực lưỡng phải khó nhọc lắm mới đào được sâu tới hai gang tay.
Đến đây, màu đất bổng đổi khác, đang từ đen sẩm, đổi thành sắc đỏ chói, tươi như có pha trộn với chất son tàu. Một chàng trai, em họ Trung, tinh nghịch, lượm một cục lên xem, đoạn, vạch thẳng một nét dài trên trên chiếc áo bông của người đứng bên cạnh dệt bằng thứ vải hồng dầy nhuộm vơ già, th́ lạ lùng thay, nét vạch dài bằng thứ đất lấy trong huyệt, trông đỏ chót, tươi thắm lóng lánh như có lẫn cả chất kim loại nhỏ, không làm sao mà giặt giũ cho sạch được nữa.
Đồng thời một luồng ôn khí, thoang thoảng có hương vị như chất trầm hương đốt cháy bốc ra, làm cho mát dịu cả khu chánh huyệt, khiến cho mấy chàng thanh niên cường tráng, đang xuưt xoa trước những trận gió cuối đông tê buốt thịt da chợt cảm thấy nóng bừng cả thân thể, ngứa ngáy cả tay chân, đến nỗi phải cởi bỏ bớt những chiếc áo bông dầy cộm ra vắt tạm trên cột lều.
Mặt người nào cũng đỏ ửng như lúc quá chén say sưa, mặc dầu thực sự, họ thấy khỏe mạnh, vui vẻ hơn bao giờ hết, hăng say làm việc một cách vô cùng thích thú, như có một mảnh lực huyền bí, thiêng liêng nào ám trợ vậy.
Trước những hiện tượng kỳ dị ấy, thầy địa lư đắc chí, nở một nụ cười khoái trá, vuốt râu sung sướng, mừng thầm cho sự thành công của lăo: đă t́m được đúng chánh huyệt.
Đám thanh niên lực điền vẫn h́ hục, gắng sức làm việc luôn tay, và chỉ chịu tạm nghỉ mỗi khi có lệnh của thầy địa lư, để lăo dùng la kinh đo lường, khảo nghiệm lại phương hướng .
Đào sâu độ chừng thêm ba thép mai nữa th́ sắc đất lại càng đỏ tươi, ẩm ướt hơn nhiều, đồng thời mùi trầm cũng tăng gia hương vị ngạt ngào gấp bội, như đâu đây đang có đặt sẵn một chiếc lư hương khổng lồ bí mật nào vậy.
Chợt em họ Trung reo lên:
- Ồ lạ chưa ! Có cái chai, cái bát ǵ đây này, anh em ơi ! Hăy ngừng tay lại đă nào ...
Cả bọn lập tức nghỉ việc, đứng ngơ ngác nh́n quanh.
Nhà phong thủy cũng kinh nghi không kém vội vén áo nhảy luôn xuống đáy huyệt, vừa đúng lúc em họ Trung đang cúi rạp người sát mặt đất dùng những ngón tay nhẹ nhàng, thận trọng bới nhanh từng ḥn đất một, ở góc huyệt về phía Đông Nam.
Cả bao nhiêu cặp mắt cùng đổ dồn theo một chiều hướng cả về phía chàng thanh niên đang bới đất, chăm chú theo dơi sự chuyển động của mấy ngón tay đen sạm của người em họ Trung, hồi hộp đợi chờ ...
Tiếng chàng trai này bỗng vang lên, mừng rỡ
- A ! Đây rồi ! Một cái lọ.. à mà hai cái lọ sành anh em ạ!
Đám thanh niên đổ xô cả lại, bao quanh người em họ Trung, nhưng họ chưa kịp trông thấy ǵ, th́ nhà Phong thủy đă tiến vội đến, nói mau:
- Đâu lọ đâu? Lấy lên đưa cho lăo coi nào.
Em họ Trung lần lượt bới đất, lấy ra được hai chiếc lọ, chiều cao được chừng hơn một gang tay, như kiểu chiếc nậm đụng rượu ở các đ́nh miếu ngày xưa.
Cầm cả hai chiếc lọ giơ cao trước mặt cho mọi người cùng coi, thầy địa lư với cặp mắt lăo luyện của một khách giang hồ dầy dạn phong sương, đă nhận thấy ngay được tính cách của đôi lọ cổ, qua lớp men da rạn và một hàng chữ triện khắc ch́m sâu vào lớp sứ, nổi hằn những đường vân chằng chịt vô cùng tinh xảo .
Bề ngoài không có ǵ đáng gọi là qúy báu hết. Mới trông qua ai cũng tưởng nó giống in như những chiếc nậm đựng rượu, mà có khi giá trị c̣n kém hẵn những chiếc nậm tầm thường ấy nữa là khác, v́ chất da rạn, màu nâu nhạt, bị đất bùn bám khắp chung quanh, trông nham nhở bẩn thỉu vô cùng.
Như trên đă nói, thầy địa lư không nh́n cổ vật bằng cặp mắt nông nổi, mà trái lại, c̣n thận trọng xem xét kỷ lưỡng, từng ly từng tư, có lúc dốc ngược hẵn lên, để đọc những chữ triện dưới đít lọ, có lúc giơ ngang tầm mắt, để soi men lọ qua ánh mặt trời, hy vọng khám phá được cái ǵ mới lạ.T́m một chiếc đủa tre, nhà phong thủy moi móc mớ đất mà lăo tưởng nhét chặt đầy trong lọ, qua bao năm tháng, cổ vật nằm sâu dưới địa huyệt.
Nhưng chỉ mới bới được một chút đất, đóng chặt ở phía trên lọ, lăo chợt kêu khẻ một tiếng kinh dị, v́ trái với sự dự đoán: chiếc lọ không chứa đầy đất như lăo vẫn yên trí mà chỉ có một lớp dầy, dài chừng một ngón tay ở ngay miệng lọ giống hệt một chiếc nút gắn chặt vậy.
Lấy hết những miếng đất nhỏ c̣n sót lại ở bên trong ra, thầy địa lư lại nghiêng chiếc lọ, nheo mắt nh́n kỷ và lắc mạnh. Không thấy ǵ rơi ra cả, nhưng trong ḷng chiếc lọ vẫn như c̣n chúa đựng một vật chi mà lăo không sao đoán được.
Lăo vội đưa hai ngón tay vào, ấn thử, rồi lôi mạnh ra . Đó là một vuông lụa h́nh chữ nhật khá rộng, nếu cuộn lại để vừa khít ḷng chiếc lọ cổ. Có lẽ khởi thủy, vuông lụa vốn màu nguyệt bạch, nhưng qua năm tháng thời gian, nhất là bị chất bùn đất thấm vào, nó đă đổi màu, biến qua sắc vàng nhạt, lốm đốm, năm ba vết nhơ đen sẩm hoặc tím bầm!
Trên mặt vuông lụa có thêu bốn chữ triện, mỗi chữ to bằng chiếc chén uống nước, chia đều ở khoảng giữa rất sắc xảo, rơ ràng: "Tổ Tiên Tích Đức" bằng chỉ ngũ sắc, nét thêu vô cùng khéo léo, không biết có từ bao giờ, mà vẫn giữ nguyên được mẩu chỉ tươi đẹp như vừa hoàn thành được chừng mấy năm trước đây vậy. Ở góc dưới cùng về phía tả, có thêu hai chữ "Chí Công" nét thảo tung hoành, cực kỳ tương kính.
Bốn chữ "Tổ Tiên Tích Đức", tuy thêu ở chính giữa, nhưng lại ch́m lẫn vào một bức tranh, thêu h́nh một thanh niên, nét mặt khôi ngô quả cảm, linh động dị thường là cặp mắt sáng ngời, mà người thợ thêu đă dựng công phác tả một cách cực kỳ khéo léo, khiến cho ai thọat nh́n vào, cũng nhận thấy ngay được vẻ tinh anh chí khí của chàng thanh niên.
Nằm dài dưới đất, đầu ngước cao lên cho thân mẫu chàng là một lăo phụ, dáng điệu hiền ḥa, phúc hậu, dùng kim và chất chàm đặc, thích lên lưng bốn chữ "Tận Trung Báo Quốc", nét nhỏ li ti vô cùng tinh xảo, chứng tỏ tác giả bức thêu, phải có một bàn tay điêu luyện đến mức độ phi thường, mới lột tả được trọn vẹn h́nh ảnh rất linh động của hai mẹ con chàng thanh niên trong bức thêu kỳ xảo ấy.
Vừa gật đầu khen ngợi đường thêu trác tuyệt và nét mặt hiên ngang, nhưng không kém phần tuấn nhả của chàng trai nằm dưới đất, thầy địa lư vừa bảo mọi người:
- Bức tranh thêu tích "Nhạc mẫu dạy con" thật khéo, đẹp lạ lùng, tưởng trên đời này khó ḷng có được một bức thêu thứ hai như thế nữa?
Rồi như sợ mọi người không hiểu, lăo vội giải thích thêm :
- Ngay từ khi mới khôn lớn, Nhạc Phi ở đời nhà Tống đă được Mẹ dùng đại nghĩa dạy dổ. Muốn con lúc nào cũng ghi nhớ bổn phận của một thanh niên yêu nước, Nhạc mẫu đă chích vào lưng Nhạc Phi bốn chữ "Tận Trung báo quốc" !
Nhờ có sự dạy dỗ nghiêm khắc của Mẹ, lúc thiếu thời, mà đến khi ra đời. Nhạc Phi mới nỗi tiếng là một v́ danh tướng, có biệt tài cứu nước, an dân, lưu tên tuổi ngàn thu trong sử sách.
Đặc biệt hơn hết, bất cứ ở địa vị nào, khi c̣n hàn vi cũng như lúc đă hiển đạt, khi c̣n ở quê hương cũng như lúc mới được triều đ́nh phong làm Nguyên Soái, cầm quyền sinh sát của trăm vạn hùng binh, để chống lại với giặc Kim từ phương Bắc kéo đến xâm lấn Trung Nguyên và giặc Động Đ́nh Hồ ở trong nước nổi lên làm loạn, Nhạc Phi vẫn luôn luôn nhớ lại lời mẹ dạy:
Tận trung báo đền nợ nước, trong tất cả mọi trường hợp, đều hết ḷng giúp đở bạn bè, lấy nghĩa khí, đạo đức ra cảm hóa mọi người, kể cả kẽ thù không đội trời chung với ḿnh.
V́ vậy, đức độ của Nhạc Phi nhiều phen, đă cảm hóa được những kẻ cường ngạnh nhất đời, để sau khi hối cải, trở thành bằng hửu tâm giao với Nhạc Phi.
Sau khi lập được nhiều công lớn, họ Nhạc Phi bị gian thần hăm hại, Hiện ở bên Tàu, vẫn c̣n có đền thờ Nhạc Phi, quanh năm dân chúng phụng thờ, khói hương nghi ngút.
Chiếc lọ thứ hai cũng có một vuông lụa, màu sắc, kích thước giống in hệt vuông lụa thứ nhứt, nhưng trên mặt lụa lại thêu bốn chữ triện khác: "Tử Tôn Hiển Vinh" .
Ở góc dưới cùng, về phía bên hữu, cũng có hai chữ "Chí chánh" viết theo lối thảo như ở tấm lụa kia, và liền sát đấy, c̣n có một dấu son dài đóng khung, trên ghi "Minh Triều Binh Bộ Thượng Thư Hoàng ..."
H́nh thêu mô tả một ông già râu tóc bạc phơ, vận y phục sặc sở, xanh đỏ loè loẹt như trẻ nít, đang giơ tay hoa chân, múa may trước một lăo bà cằn cổi, lông mày bạc trắng như thoa phấn .
Thầy địa lư nh́n bức thêu, luôn mồm xuưt xoa khen ngợi tinh thần tuyệt xảo của những đường chỉ, màu sắc ḥa hợp cực kỳ linh động, khiến cho ai thấy cũng phải giựt ḿnh kinh ngạc tưởng chừng như chính mắt ḿnh được chứng kiến cảnh múa may, quay cuồng của ông già bằng xương, bằng thịt ở ngay trước mặt, rồi ung dung giải thích cho mọi người đang ngơ ngác đứng nh́n ở chung quanh.
- Bức tranh này chắc là thêu cảnh ông già Lăo Lai, đă ngoài 70 tuổi, c̣n giả bộ như trẻ thơ, mặc quần áo xanh đỏ của con nít, rồi ra sân múa cho me già coi, để bà cụ vui ḷng tưởng như con trai ḿnh hăy c̣n bé dại lắm. Tác giả dụng ư khuyên người đời phải hiếu thảo với mẹ cha. Có thế mới được hưởng phúc sau này.
Lăo chợt ngừng bặt, nét mặt đăm chiêu, như suy nghĩ một điều ǵ quan trọng, một lúc lâu, rồi mới lẩm bẩm trong mồm, vừa đủ cho Trung đứng gần đấy nghe rơ :
- Quái nhỉ? sao lại là Minh Triều Binh Bộ Thượng Thư Hoàng? Không lẽ viên quan nhà Minh nào đó, đă lần ṃ sang được tận đây, t́m thấy ngôi đất quư báu này, rồi ghi dấu sẵn sàng cẩn thận, để dành đấy cho con cháu đem hài cốt tổ phụ qua an táng!
Bỗng lăo im bặt, đoạn gật gù nói tiếp:
- Hay có lẽ là Thượng Thư Hoàng Phúc ! V́ chỉ có họ Hoàng mới đủ tài trí làm nỗi việc này, trước khi bị binh tướng B́nh Định Vương bắt sống.
Theo dă sử, Hoàng Phúc há chẳng đă nổi tiếng là tay danh sĩ về đời nhà Minh, từng am hiểu cả Nho, Y, Lư số sao? Nhà phong thủy nhíu mày, vỗ tay, đánh đét một cái vào đùi, nói lớn một cách hân hoan, như vừa khám phá được một điều ǵ mới lạ :
- Thôi, đúng rồi ! Đúng là Hoàng Phúc thật rồi !
Lăo c̣n nhớ các cụ ngày trước thường truyền tụng rằng: Khi bị quân sĩ vua Lê bắt trói, giải vào tŕnh quân sư Nguyễn Trải, viên thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc đă tiên đoán được vận mạng của ḿnh, nên vẫn giữ vững vẻ ung dung, b́nh thản của một nhà Nho lỡ bước sa cơ, không chịu khuất phục trước uy vơ, cường quyền, thản nhiên nói với vị quân sư tài ba thao lược của B́nh Định Vương rằng:
- Kẻ bại trận này tuy thất thế, song đại nhân chỉ bắt được tôi, chứ không giết nỗi tôi đâu, v́ long mạch mả tổ nhà tôi, từ ngàn dậm dồn tới, sẽ bảo vệ cho tôi giữ toàn tính mạng.
Quả nhiên, sau đấy vua Lê tha tội cho họ Hoàng theo lời yêu cầu xin của Ông Nguyễn Trải. Và để đền đáp ơn cứu tử, Hoàng Phúc đă vẻ tặng Ông Nguyễn Trải một bức truyền thần, hiện c̣n treo tại đền thờ họ Nguyễn ở làng Nhị Khê, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông Bắc Việt .
Nghe đâu thời đấy, Hoàng Phúc c̣n xin ông Nguyễn Trăi đưa đi coi mấy ngôi mả tổ, và nhân dịp này đă đề nghị cải táng gấp rút mộ phần Ông tổ tam đại, ḍng họ Nguyễn v́ ngôi mả này trông thẳng vào một g̣ đất h́nh thanh kiếm tuốt tràn, nếu cứ để vậy, chắc chắn thế nào cũng gặp đại hoạ, có khi đến bị tru di tam tộc.
Nhưng Ông Nguyễn Trải tự tin ở ḷng trung nghĩa của ḿnh, khẳng khái từ chối mà nói rằng :
- Mệnh ta do tự Trời định! Há v́ một chút địa h́nh mà phải cải táng phần mộ tổ tiên sao ?
Hoàng Phúc cố năn nỉ nhiều lần mà Ông Nguyễn Trải vẫn khăng khăng không chịu nghe lời.
Quả nhiên sau khi giúp vua Lê đánh đuổi giặc Minh ông được phong thưởng tới chức Quan Phục Hầu, nhưng lại bị gian thần vu cáo, buộc vào tội mưu toan giết vua, khiến cho cả ba họ đều bị tru di chỉ trừ một đứa con nhỏ.
Nhờ sự tiên đoán của Hoàng Phúc, lượng tính được cả ngày giờ năm tháng, người nhủ mẫu đem đứa con nhỏ của ông Nguyễn Trải đi lánh nạn qua Động Đ́nh Hồ, không may bị băo ch́m ghe, đang lúc nguy cập, bỗng được con cháu Hoàng Phúc vâng theo lời trăn trối của họ Hoàng đón đường cứu thoát, để đền đáp ơn cứu mạng năm xưa của quan Phục Hầu Nguyễn Trải.
Chính con cháu Hoàng Phúc, theo đúng lời họ Hoàng căn dặn trong di chúc, không những đă sắm sửa thuyền bè, chờ đợi sẵn ở Động Đ́nh Hồ, để khi người nhủ mẫu, gia đ́nh họ Nguyễn, đưa đứa con côi của Nguyễn Trải lánh nạn tới đấy, gặp cơn phong ba, băo táp, đắm thuyền sẽ không đến nỗi uổng mạng.
Sau đấy, thân nhân Hoàng Phúc c̣n đưa cả người nhủ mẫu và đứa con côi của ông Nguyễn Trải, qua Tàu giúp đở, cho ăn học thành tài, chờ đến khi nỗi oan thấu Trời của ông Nguyễn Trải được giải tỏ, mới thu xếp cho trở về làng cũ ở Việt Nam.
Biệt tài về Nho, Y, Lư, Số của Hoàng Phúc đă khiến người đương thời rất kính phục, không c̣n coi họ Hoàng như những kẻ thù xâm lăng khác.
Với bằng cớ hai bức tranh thêu, nằm trong hai chiếc lọ cổ, có ghi dấu riêng của Hoàng Phúc, đủ chứng tỏ họ Hoàng đă từng đặt chân đến đây, t́m được ngôi đất này, nhưng có lẽ thấy nhà ḿnh ít phước đức, không thể nào được hưởng sự kết phát, nên đành phải bỏ ra về Tàu, với sự tiếc hận, được minh chứng bằng cách lưu lại dưới huyệt sâu mấy vật kỷ niệm, để đời sau biết cũng đă có người "có mắt xanh" hiểu rơ những chuyển vận của long mạch, và chỗ nào h́nh thể kỳ khúc, có đủ điều kiện kết phát của môn phong thủy huyền bí .
Như vậy, nơi đất này nhất định thế nào cũng phải kết phát đúng như sự dự tính của lăo.
Nói xong, lăo đem tất cả hai chiếc lọ và hai bức tranh đến ngồi trên một mảng đá gần đấy để tiện trông coi công việc đào huyệt của đám thanh niên.
Mấy chàng trai trẻ trong họ Đặng Trần lại h́ hục, tiếp tục làm việc một cách hăng hái, say sưa hơn trước, v́ trước mắt họ, viễn ảnh huy hoàng của sự kết phát, từ lúc được nghe lời giải thích của thầy địa lư, lúc nào cũng như chập chờn, múa lượn trong đầu óc họ, với cảnh ngựa xe phú quí áo măo xênh xang, sau khi ngôi mả được quán khí, long mạch bắt đầu vận chuyển, đem lại một sự hiệu nghiệm hiển nhiên cho con cháu họ Đặng Trần, cả trong công việc làm ăn, buôn bán như sự học hành thi cử.
Đào sâu được chừng hơn một thép mai nữa, một thanh niên bỗng kêu lên giật giọng :
- A ha ! Đất mới đào sao lại biến sang màu vàng, và bốc hơi ấm áp lạ lùng lắm anh em ơi !
Nhà phong thủy đang măi mê quan sát kỹ lưỡng hai chiếc lọ cổ, chăm chú nh́n ngắm từng nét vẽ, nét chữ, vết men rạng cực kỳ tinh xảo trên da lọ, chưa kịp mở ra coi lại hai bức tranh, có thủ bút của quan B́nh Bộ Thượng Thư triều Minh nào đó, chọt nghe thấy tiếng kêu từ dưới huyệt phát ra, vội rời khỏi chổ ngồi, buớc nhanh về phía mọi người đang đào đất, hấp tấp hỏi lớn :
- Ǵ thế, hữ các chú em ?
Em họ Trung vọt lên mặt đất, vừa xoa tay phủi bới đất, vừa lễ phép nói rằng :
- Lạ lắm Cụ. Màu đất đang đỏ, bỗng tự nhiên biến qua màu vàng rất đẹp.
Đồng thời trong huyệt đang bốc ra hơi mát mẻ, cũng lại đổi qua khí ấm áp lạ lùng, mà hương thơm lại c̣n bốc ngát nhiều hơn nữa.
Thầy địa lư, chừng như đă hiểu rơ v́ sao cớ sự thay đổi ấy, nên chỉ mỉm cười, ung dung đến bên bờ huyệt, cúi đầu nh́n xuống.
Dưới những bàn chân đen sạm, gân guốc của những chàng trai lực lưỡng đang chống cán mai đứng nh́n lăo, chờ đợi sụ phán đoán của nhà phong thủy nhiều kinh nghiệm, lăo thấy lờ mờ như có một luồng khí trắng phảng phất từ ḷng đất bốc lên, mơ hồ, cuồn cuộn, xoáy thành những ṿng tṛn, bay lướt qua đám thanh niên, nhưng bọn này, có lẽ măi chăm chú theo dơi sự phán đoán của nhà địa lư, nên chẳng ai trông thấy .
Măi miết nh́n sững luồng khí trắng, lăo ngạc nhiên, khi thấy những làn hơi huyền ảo ấy, chỉ bàng bạc bốc cao lên được tới miệng huyệt, rồi chợt như có một mănh lực kỳ bí ǵ đó, đẩy mạnh xuống, khiến những ṿng tṛn cấu tạo toàn khí trắng, lại phải rút gọn cả xuống ḷng đất, xoay tít như chong chóng một lúc, đoạn bất th́nh ĺnh lại bốc cao lên như trước.
Nhà phong thủy hiểu đó là linh khí của huyệt thiêng, và yên tâm một phần nào về sự chu đáo của ḿnh từ trước khi đào huyệt: chiếc lều tuy cất sơ sài, cũng tạm thời che đuợc cho âm khí, từ trong ḷng đất bốc lên, khỏi bị xung khí thái dương.
Không muốn nói dài ḍng, e lở mất th́ giờ tốt đă ấn định, thầy địa lư phải giả bộ như không nghe rơ câu hỏi của người em họ Trung, cứ thản nhiên thúc giục họ phải vét sạch đất vụn, nện lại một lần nữa cho ḷng huyệt thật bằng phẳng, rồi bắt cả bọn đi ngay xuống cánh đồng làng dưới, đào gấp rút ngôi tổ mộ bảy đời của họ Đặng Trần.
Thầy Địa lư cũng đi theo, đích thân trông coi việc làm của mấy chàng trai trẻ.
Chính Đặng Mẫu được lăo ủy thác cho ngồi canh gác trong lều, mà chiếc khảm thờ có đặt h́nh nhân ông tổ bảy đời họ Đặng Trần đă được thầy địa lư trịnh trọng đem ra ngoài lều từ khi mới đào huyệt. Lăo căn dặn Đặng Mẫu phải triệt để ngăn cản không cho một loài vật nào bất cứ là to hay nhỏ, thứ nhất là các loài chuột, rắn, mèo, chó tới gần cái huyệt đă được đào sẵn.
Trung ṭ ṃ, mấy lần hỏi lăo xem v́ cớ ǵ phải ngăn cấm, không cho các loài vật đến gần, nhưng lăo chỉ cười khan, lắc đầu không chịu nói rơ.
Ngôi tổ mộ bảy đời của họ Đặng Trần đúng như lời tiên đoán của thầy dịa lư, quả như đă bị tiêu hao gần hết. Cả mớ hài cốt chỉ c̣n có một chiếc xương sống với cái đầu lâu.
Nhưng một chàng trai vừa đặt tay vào định đem lên rửa, th́ cả hai thứ bỗng tan vụn ngay, mớ xương tàn vụn rơi lẫn lộn cả vào một chất nước sền sệt bốc ra mùi hôi rất khó chịu.
Nhà phong thủy lấy ra trong túi áo bà ba một gói bột nhỏ màu vàng, rắc vào quan tài. Chốc lát, mùi uế khí biến đâu mất hết. Đám thanh niên đang đứng ngoănh mặt nh́n về phương Bắc, cố tránh luồng gió, bốc hơi uế khí tanh hôi để khỏi phải nhổ vặt, e làm phật ḷng Trung đứng đấy.
Bỗng thấy mớ xương tàn không có bốc ra mùi hôi nồng nặc như trước nữa, đều cả mừng xúm ngay lại, hốt hết bộ hài cốt, đă bị biến thành chất bùn sền sệt, đặc quánh vào chiếc tiểu sành, có lót sẵn giấy trâm kim, và vải đỏ trên vẻ chi chít bùa chú bằng chu sa.
Tiểu hài cốt, sau đấy, được khiêng ngay tới cánh đồng làng Đào Xá vào đầu giờ Thân.
Ḷng huyệt được trải một lá cờ bát quái khá lớn màu đỏ, chia thành nhiều ô ngang dọc, nối tiếp nhau bằng những h́nh thù kỳ dị, kèm liền bên cạnh những chữ son đỏ chói, viết ngoằn ngoèo, không ra nôm, mà cũng chẳng ra tự, chi chít như đàn kiến lửa, bám quanh chữ "Phúc" ở giữa, rất to, viết theo lối thảo, nét bút tung hoành vừa sắc xảo, vừa tương kính.
Chiếc tiểu sành đựng tàn cốt được chính tay thầy địa lư đặt ngay ngắn vào giữa lá cờ, theo đúng phương hướng, đă ấn định từ trước rất cẩn thận bằng chiếc la-kinh.
Xong xuôi đâu đấy rồi, nhà phong thủy mới gọi Đặng Mẫu, bưng chiếc khăm thờ tới bên huyệt, rồi chính tay lăo đón lấy h́nh nhân, mà lăo đă thâu nhập được cả ba hồn bảy vía và khai quang điểm nhản trong nữa tháng trời làm lễ nhượng tinh.
H́nh nhân vẫn giữ nguyên vẹn những nét linh động như đêm hôm lăo mới thâu được đầy đủ hồn phách người quá văng.
Mở nắp tiểu sành ra, thầy địa lư trịnh trọng, hai tay khẻ nâng h́nh nhân, đặt nằm lên trên mớ tàn cốt, đầu gối về hướng Nam, chân đạp về phương Bắc.
Một thanh gươm nhỏ không hơn một con dao bổ cau, bằng gổ soan đào, đẽo gọt rất công phu khéo léo được đặt vào tay phải h́nh nhân, và tay trái là một lá cờ lệnh màu xanh đậm, một mặt viết hai chữ "phú quư", một mặt viết hai chữ "hiển vinh" bằng kim nhũ.
Khắp ḿnh h́nh nhân phủ kín giấy vàng, giấy bạc và bùa chú, bằng giấy bản, vặn chéo lại với nhau, trên đầu thắt múi, buộc mỗi cái đeo một cái nút chỉ ngũ sắc, cũng kết lại thành bùa.
Bốn góc tiểu, có đặt bốn ống nứa nhỏ trong để bảy hạt gạo nếp, bảy hạt đậu xanh, bảy đồng tiền điếu, bảy cái kim khâu và bảy đạo bùa đặc biệt vẽ trên vóc vàng.
Thấy mọi việc cần thiết đă được chuẩn bị chu đáo, đâu vào đấy cả rồi, thầy địa lư mới đặt la-kinh lên trên h́nh nhân được phủ kín bùa chú với giấy vàng, chạm chú phân kim án hướng lại một lần nữa, xe dịch, xoay sở, những góc nào chưa thiệt ngay ngắn, cân đối, đoạn bảo Trung thắp bảy ngọn nến, cắm chung quanh chiếc tiểu hài cốt dưới đáy huyệt.
Ḷng huyệt rộng như một chiếc giường lớn, nên nhà phong thuỷ vẫn đứng yên bên cạnh tiểu hài cốt, đốt nhang, hướng lên không trung khấn vái. Đoạn một tay chống nạnh, một tay cầm bó nhang, nhà phong thủy thư phù lên mớ hài cốt, có h́nh nhân nằm trên, vừa lâm râm niệm chú.
Tiếng ŕ rầm quái gở mỗi lúc một to hơn, theo đà cử động của bàn tay cầm nhang, và nhịp chân bước đều chung quanh chiếc tiểu. Bỗng lăo ngừng lại, hai mắt mở to trừng trừng như tóe ánh lữa ra bốn phía mặc dầu lúc b́nh thường, mắt lăo không lấy ǵ làm tinh tường cho lắm, hướng thẳng về phía h́nh nhân gối đầu vung mạnh cánh tay cầm nhang, đảo lia lịa theo h́nh bát quái.
Đồng thời một chân bước lên trước, lăo nhận mạnh liên tiếp bảy lần, mỗi lần được điểm theo mấy câu phù chú quái gở và một hơi hú dài nghe ghê rợn như ma quỉ gào thét giữa đêm khuya.
Đám trai tráng, tuy vẫn đứng trên bờ huyệt, theo dơi hành động của thầy địa lư từ đầu cũng không khỏi giật ḿnh, toàn thân nổi gai ốc, ớn lạnh, bàng hoàng.
Sau mỗi lần nhận long mạch, ở một góc tiểu hài cốt, nhà phong thủy lại đặt bó nhang xuống, bắt quyết và nếm gạo muối ra chung quanh.
Trước quang cảnh ma quái, kỳ dị ấy mấy thanh niên họ Đặng Trần, toàn là những lực điền, vừa khỏe mạnh, vừa can đảm cũng cảm thấy sợ hăi, hết lấm lét nh́n thầy địa lư lại trông trộm Trung, bâng khuâng như lạc vào một sào huyệt bí hiểm của hồ ly tinh vậy!
Nhằm cuối tiết đông thiên, bầu trời ảm đạm, giăng mắc mây đen dầy đặc, chốc chốc một cơn gió lạnh lồng lộng thổi lên, làm tê buốt thịt da những người đang đứng trên bờ huyệt, trong lúc Trung đứng sau lưng nhà phong thủy ở dưới hố sâu, cảm thấy ấm áp la thường, như ngồi ở giữa một gian nhà kín đáo.
Trời lúc ấy đă gần tối.
Tiếng trống thu không từ trong điểm canh ở hai làng Đào Xá, Mai Lĩnh đă văng vẵng đưa tới tai mọi người nhờ làn gió đông, giá rét kinh hồn !... Trong cảnh hoàng hôn tẻ lạnh nơi đồng vắng tiếng niệm chú kỳ dị, trầm bỗng của thầy địa lư vẫn liên tiếp nỗi lên, ê a đứt nối, có lúc như rền rỉ du dương, có khi lại chợt cao vút hẵn lên.
Bất thần hét to một tiếng cực kỳ man dại, rồi lại hú dài lanh lănh như tiếng ma quỹ, từ thế giới vô h́nh vọng tới, làm cho Đặng Mẫu run sợ nép ḿnh sau em họ Trung, tay lẩy bẩy lần tràng hạt, mồm không ngớt niệm phật lầm rầm, thỉnh thoảng lại hướng về phía huyệt vái dài rất thành khẩn.
Đứng sát bờ huyệt ở phía sau lưng thầy địa lư, Trung ngơ ngác theo dơi cử chỉ lạ lùng, kỳ bí của lăo già, nhiều lúc thấy rùng ḿnh, bâng khuâng, sợ hải...
Bỗng chàng co rút một chân lên, suưt bật ra một tiếng kêu hăi hùng, kinh dị, v́ đúng lúc thầy địa lư cắn chót lưỡi, phun máu tươi lên mớ giấy vàng bạc và bùa phép che phủ h́nh nhân, th́ Trung cảm thấy mặt đất dưới chân chàng như rung chuyển nhịp nhàng.
Mùi trầm hương mỗi lúc một thơm gấp bội.
Hơi nóng cũng bốc ra nhiều hơn, cuồn cuộn như mây khói, chập chờn bay lượn chung quanh chiếc tiểu hài cốt.
Đồng thời ánh sáng mấy cây nến, như bị một sức huyền bí nào đè ép hẵn xuống, đang cháy đều to ngọn bỗng lụi đi, nhỏ như những sợi chỉ xanh rờn, nhường chỗ cho một ánh sáng kỳ bí, lộng lẫy rực rỡ, khác thường. Cả ḷng huyệt như chan ḥa ánh hào quang tuyệt diệu.
Trước những hiện tượng quái dị ấy, nhà phong thủy thêm phấn khởi, tin tưởng mănh liệt sự thành công của ḿnh, nên càng cao giọng hộ thần niệm chú, chân nhận long mạch, tay bắt ấn quyết, chừng một lúc lâu, khi ước lượng đă tới đầu giờ Tuất, thấy bóng đêm mỗi lúc một thêm dầy đặc, che kín cả cánh đồng mênh mông bát ngát, lăo mới tự tay kéo bốn mép lá cờ bát quái may bằng vải đỏ, trên vẻ chi chít bùa chú với nhiều hàng chữ son kỳ bí, dùng để trải lót ḷng huyệt.
Kéo đầu bốn phía lá cờ cho thật ngay ngắn đoạn xem xét lại một lần nữa rất cẩn thận, lăo mới thận trọng buộc túm bốn đầu vải lại với nhau, làm thành một gói lớn, bọc kín chiếc tiểu hài cốt nằm ở bên trong.
Đặt la kinh lên trên, lăo phân kim ám hướng kỹ lưỡng rồi tung mấy nắm gạo, muối, kim, tiền ra khắp chung quanh mặt đất, xong xuôi đâu đấy, mới hạ lệnh cho các thanh niên trong họ Đặng Trần cùng hợp lực lấp kín huyệt lại, kẽo quá mất giờ đă ấn định.
Tảng đất cuối cùng vừa được đắp lên ngôi mộ, th́ trời chuyển mưa, sấm nổ vang rền, chớp giật chói ḷa, khiến cho cả bọn cuống quưt, thu xếp vội vàng xẻng, cuốc, mạnh ai nấy chạy theo những bờ ruộng gập ghềnh để về trong làng cho kịp trước khi trời đổ mưa. Nhưng không kịp.
Trong lúc thầy địa lư c̣n đang bọc chiếc la-kinh bằng vuông vải đỏ, để cất gọn vào trong cái khăn gói nhỏ đeo bên ḿnh cho gọn, th́ mưa như trút nước xuống, gió giật liên hồi, làm lăo tối tăm mặt mũi không biết đường nào mà đi nữa.
Sau một phút hoang mang, lăo mới định thần, vén gọn quần áo lên, rồi lầm lũi biến ḿnh vào mưa gió.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 616 of 2534: Đă gửi: 09 August 2008 lúc 11:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔI LỌ CỔ TRONG L̉NG HUYỆT
NGÔI MẢ BẮT ĐẦU KẾT PHÁT
Sáng hôm sau vừa trở dậy thấy trời lạnh ráo, thầy địa lư vội chỉnh tề khăn áo, định ra đồng thăm xem ngôi mả tối hôm qua đắp có được chu đáo không, nhưng Đặng Mẫu đă cầm ấm nước sôi, từ dưới bếp đon đă đi lên vui vẻ nói :
- Nhà cháu hôm qua mua được gói trà ngon lắm, xin mời cụ hăy nán lại sơi vài chén cho ấm bụng, rồi sẽ đi, kẻo trời vẫn c̣n giá lạnh lắm.
Nhà phong thủy gật đầu, quay vào phía giường tre, lấy chiếc khay đựng bộ đồ trà ra lau chùi, vừa đúng lúc Trung từ ngoài sân, đem chiếc ấm gan gà với một bao trà làm bằng thiếc, ngoài c̣n bọc giấy bóng đỏ, trông rất đẹp mắt.
Giơ tay đón chiếc ấm và bao trà, thầy địa lư thận trọng bốc lằn giấy bóng bọc ngoài, mở nắp hộp, lật ngữa lên thong thả đổ từng cánh trà xinh xắn vào đáy, rồi mới trút xuống ấm.
Đặng Mẫu vừa định rót nước sôi, th́ lăo đă nhanh nhẹn đón lấy, đoạn bằng một cử chỉ cực kỳ kiểu cách, lăo thong thả cầm siêu nước sôi, rót vào ấm, lắng nhẹ hai ba cái rồi mới dùng nước sôi cẩn thận tráng kỹ bốn chiếc chén hạt mít nhỏ xíu và một chén to, mà các tín đồ trà đạo thường gọi " một tống" với "bốn quân".
Bộ ấm chén này theo lời thuật lại của thầy địa lư, là của gia bảo ḍng họ Vơ, không biết có từ bao giờ, mà lăo chỉ biết rằng từ khi có trí khôn, thuở c̣n tḥ ḷ mũi xanh, cắp sách đi học ngày ê a mấy chữ "tri, hồ, giả, giă..." lăo đă phải luôn luôn đóng vai thổi lửa để thân phụ lăo, thuở ấy là "Thầy đồ Nghệ" vừa ngồi dạy học, vừa tự tay pha lấy nước, uống từng ngụm nhỏ, khoan khoái c̣n hơn người nghiện rượu khi nhấp chén.
Thế rồi sao dời vật đổi, lúc lớn khôn ra đời, dù nhiều phen phải lận đận, bôn ba qua tỉnh này tỉnh nọ, mỗi lần có dịp trở về cố lư, lăo vẫn thấy thân phụ nâng niu giữ gỉn bộ đồ trà, đích thân lau chùi lấy trước khi dùng, cũng như sau khi đă uống xong, cũng không hề trao phó cho một ai làm hộ công việc ấy, kể cả Bà Đồ, hay người Trưởng tràng từng nổi tiếng là thận trọng, chu đáo nhất trong đám môn sinh.
Lăo được thừa hưởng bộ đồ trà này, ngay sau khi thân phụ lăo tạ thế, nên cũng bắt chước người cha đáng kính thuở sinh thời, chăm chút giữ ǵn, khi c̣n ở quê nhà mỗi ngày ba bữa, sớm trưa và chiều tối, đem ra sử dụng đoạn lau chùi rất kỷ lưỡng, coi như bảo vật gia truyền, mặc dầu có giá trị thực sự, lăo cũng không biết xuất xứ của bộ đồ trà ấy, ra đời từ bao giờ, mà chỉ biết nó là sản phẩm từ bên tàu đưa qua đây.
Lăo chưa hề chịu rời xa bộ đồ trà này lâu tới một vài tháng, kể cả những khi ngược xuôi bôn tẩu. Ngay lúc đội lốt hành khất đến làng Đào Xá, để thử thách ḷng trung hậu của me con Trung, lăo cũng chỉ tạm dấu bộ đồ trà ấy một nơi, v́ sợ đem theo sẽ bị lộ h́nh tích, hay gieo mối nghi ngờ cho mọi người.
V́ không cần biết nó có từ đời vua nào bên Trung quốc, hoặc về đời Tống, đời Đường hay nhà Minh, nhà Thanh nhưng cứ trông sơ qua cái màu gan gà, nước men bề ngoài, với cái kiểu xinh xắn của chiếc ấm và mấy chiếc chén, người ta cũng biết ngay nó không phải là loại tầm thường, dễ kiếm như đa số những bộ đồ trà khác trên đất nước này.
V́ vậy chỉ phải bắt buộc tạm xa rời nó có mấy bữa, khi thấy mẹ con Đặng Mẫu thành thực kính mến lắm, coi lăo như một bậc trưởng thượng, trong gia đ́nh, là lập tức lăo đem ngay bộ ấm chén ấy đến nói dối là, mượn được của một người quen biết ở vùng Vĩnh Phúc Yên.
Mẹ con Đặng Mẫu tuy không mấy khi lưu ư đến giá trị hiếm có bộ đồ trà, nhưng mỗi khi có dịp pha nước, cũng không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên v́ nước từ trong chiếc ấm gan gà rót qua cái chén hạt mít cũng cùng một màu men, lại thơm ngon lạ lùng, hương vị khác hẳn thứ nuớc pha bằng ấm to, hay rót qua những chiếc chén khác, dù người pha nước vẫn dùng có một thứ trà với một thứ nước y hệt nhau.
Đă mấy lần không thế nào nhịn nổi nữa, Trung có hỏi lăo về tính chất khác biệt giữa hương vị của cùng một thứ trà, nước được pha qua hai thứ ấm khác nhau, nhưng nhà phong thủy chỉ cười, nói lảng ngay sang truyện khác.
Uống tàn ấm nước th́ đă bắt đầu giờ Măo, thầy địa lư vội chỉnh tề lại khăn áo để đi ra đồng xem, ngôi mộ hôm trước có lở sụt chỗ nào không, v́ lăo sợ khi thấy cơn mưa, bọn thanh niên họ Đặng vội vàng quá, không chịu nện đất cho thật mịn, để lở sụt hay chỗ cao chỗ thấp không đều, có thể làm tổ cho rắn chuột sau này th́ nguy hiểm lắm.
Trung năn nỉ xin đi theo, v́ chàng cũng cảm thấy nóng ruột, muốn biết ngôi mả đă có ǵ khác lạ sau một buổi lễ, mà theo sự nhận xét của chàng, thật là vô cùng kỳ dị, không hề thấy tận mắt hay được nghe ai nói tới bao giờ cả.
Lạ lùng hơn nữa chung quanh ngôi mả lại c̣n phủ kín cả cỏ non, đượm hơi sương buổi ban mai, trông lóng lánh như những hạt kim cương bám đầy mớ cỏ xanh rờn, không lưu lại một chút ǵ của một ngôi mả mới, vừa được an táng chưa tới một ngày một đêm.
Nh́n những đám cỏ vừa rậm vừa cao, Trung ngơ ngác, ngước trông thầy địa lư, chưa kịp nói rơ ư ḿnh, th́ nhà phong thủy, h́nh như đă hiểu được thắc mắc của chàng thanh niên ngư phủ vội nói trước :
- Chú em chắc hẳn ngạc nhiên, muốn hỏi v́ sao mà ngôi mộ lại vừa to vừa cao, có cả cỏ mọc phủ kín chung quanh chứ gi ?
Đoạn, thân mật vổ vai chàng trai họ Đặng, lăo vui vẻ nói tiếp :
Kể ra cũng không có ǵ là lạ, nếu chú em chịu khó nhớ lại lời lăo đă từng nói với bà cụ cùng chú em, từ khi lăo mới có ư định: t́m giúp cho họ Đặng Trần một ngôi đất quư. Mà đă gọi là đất quư có thể kết phát được, th́ những hiện tượng kỳ dị xẫy ra là thường, không có chi đặc biệt hết.
Mả vừa cải táng hôm qua mà sáng nay lại vụt to cao hẳn lên, rồi lại có cỏ mọc kín cả chung quanh, đó là nhờ được linh khí âm dương, nhờ có long mạch trợ lực, nên mới xui khiến cho ngôi mả cao to khác thường. Cứ nh́n cỏ mọc xanh rờn như thế, đố ai dám bảo đây
là mả mới vừa táng chưa được một ngày đấy?
Thầy địa lư nói tiếp :
- Chú em không đi đâu xa không biết: có nhiều người hoặc lúc chết gặp được giờ linh, hoặc tổ tiên tu nhân tích đức, dầy âm công làm được nhiều điều từ thiện, cứu thế độ nhân, xả thân giúp đở thiên hạ, khi chết v́ tai nạn như bị hổ vồ chết tha xác vào rừng thẳm, núi cao ăn hết thịt c̣n xương liệng bỏ một nơi, không ngờ lại gặp đất quư, mối đùn lên thành g̣ đống trong khoảnh khắc, con cháu sẽ làm ăn linh lợi, bán đắt buôn may học hành tấn tới, phúc chí tâm linh thi đâu đậu đấy.
Có người cùng khốn khổ sở quá, phải tha phương cầu thực, lê tấm thân túng quẩn đi nhờ bà con, cô bác bố thí cho đồng tiền bát gạo, để sống cho trọn tháng qua ngày, nhưng gặp một ngày nào đấy, bị ốm đau tật bệnh cảm mạo gió sương, không có cơm thuốc đầy đủ, thở hơi cuối cùng ở xó chợ, đầu đường, khiến làng xóm phải chôn cất, vùi dập, hoặc bằng chiếc quan tài gỗ xấu, hay bằng manh chiếu rách, hay chiếc vạt giường để gọi là bọc gói thân cho khỏi bộc lộ thi thể.
Ấy thế mà kẻ xấu số lại được chôn vùi vào huyệt quư, tạo sự kết phát hiển hách cho ḍng họ, mặc dầu khi chôn cất, không có thầy địa lư, án hướng phân kim, không có bùa chú, vàng mả chi hết.
Gặp những trường hợp như thế, mộ phần trong đầu hôm sớm mai, sẽ được mối đùn lên cao ngất, cơ hồ như không có sức người nào làm được, v́ ngoài bề ngoài cao ráo, ngôi mả thiên táng dù mới chôn cất cũng có cỏ mọc xanh um đất mịn nhẵn lỳ, như có sẵn đă từ bao nhiêu năm tháng. Người tinh tế đến đâu, cũng không sao nhận định được, đó chỉ là một ngôi mả mới.
Thầy địa lư kể tiếp:
- Theo lời đồn đăi của thiên hạ quanh vùng này, th́ trước kia ở bên Mai Lĩnh, cũng có một người nghèo khổ quá sức đến nỗi quanh năm cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. V́ vậy lúc nào anh ta cũng ốm yếu xanh xao. Một ngày kia gặp lúc mưa to gió lớn, trời đất rét cắt thịt xẽ da, anh ta co ro vào nằm trong xó quán chợ ở tổng dưới, không ngờ đến nửa đêm lại có một thiếu phụ, cũng khổ sở túng thiếu như anh ta, run rẩy vào nằm bên cạnh anh ta ở trong quán chợ.
Việc phải đến đă xẩy đến cho đôi bên, tuy ở trong cảnh ngộ bi đát, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, hai tâm hồn đau khổ ấy có dịp được sống gần nhau, cũng không sao giữ cho con tim khỏi rung động. Họ v́ thế đă yêu nhau với tất cả niềm rung cảm. Nhưng đến gà gáy thiếu phụ chợt tỉnh giấc, th́ thấy người bạn gối chăn đă tắt thở tự bao giờ. Chị này hoảng hốt bỏ trốn ra ngoài hiên đ́nh nghe ngóng...
Bước thêm một bước, lấy chân gạt gạt chút bùn ruộng bám dưới đế giày, thầy địa lư tiếp tục dẫn chứng, Trung vẫn bám sát theo sau nghe không bỏ sót một chữ nào:
"Trời sáng rơ dân làng thấy có người đàn ông nằm chết co quắp trong quán chợ, vội tri hô lên đi báo hương chức đến làm biên bản tŕnh quan rồi mai táng. Không có áo quan mà cũng chẳng có vải lụa ǵ khâm liệm, viên lư trưởng trong làng ra lệnh cho hai chú tuần phiên đi lấy một manh chiếu rách, gói ghém qua loa thi hài kẻ xấu số, rồi dùng chiếc giát giường bằng tre bọc ngoài, lồng dây thừng vào khiêng ra đồng mai táng.
Bọn tuần phiên, anh này nhường cho anh khác, không ai chịu nhận lănh công việc nặng nề ấy. Sau viên lư trưởng phải hứa cho ai đi chôn xác chết sẽ được thưởng một chai rượu với một quan tiền.
Hai anh Mùi và Giáp vốn là hai tên sau rượu, nên hăng hái nhận lời. Họ đem tiền đi mua đồ nhắm về uống rượu, định nhờ hơi men, để lấy thêm can đảm lo việc mai táng người chết. Họ uống măi, uống li b́ măi suốt từ đầu giờ Tỵ cho đến khi mặt trời xế bóng, họ vẫn cứ khề khà chén chú chén anh, mặc dầu lưỡi anh nào cũng ríu lại nói chẵng nên lời.
Viên phó lư ra điếm điểm danh tuần trăng, thấy thế quát mắng om x̣m, họ mới cuống quít vươn vai đứng dậy, loạng choạng ghé vai vào chiếc đ̣n ống, nâng bỗng xác chết gói sơ sài trong mảnh giát giường.
Lúc đầu, họ tuy say rượu, cũng vẫn cố gượng, nhưng sau mỗi lúc, hơi men một thấm dần vào tạng phủ, lại thêm những luồng gió lồng lộng từ bốn phía đồng trống thổi tới, khiến cả hai anh đều thấy choáng váng mặt máy, chân đang bước bỗng như có ai níu kéo lại. Họ hè nhau, mím môi nghiến răng, cùng cố gắng vừa khiêng vừa chạy nhanh ra ngoài đồng.
Trời chợt đổ mưa tầm tă, sấm sét nổ vang, chớp giật xanh lè, ngoằn ngoèo như những con măng xà nhắm thẳng hai người xẹt tới. Hai chú tuần hoảng sợ, cuống cuồng, vội vứt phịch bó giát giường xuống vệ ruộng, ôm đầu loạng choạng chạy lộn trở về đường cũ, vào ẩn dưới mái đ́nh, định khi tạnh mưa, sẽ ra đào đất chôn vùi cho người bạc số..
Trời vẫn mưa như trút nước. Gió vi vu lạnh rét kinh hồn. Hơi men trong tạng phủ hai chú tuần phiên càng lúc càng bốc lên đầu, lên mắt, bất giác cả hai cùng ngũ thiếp đi từ lúc nào không biết. Khi họ choàng tỉnh giấc, thấy mưa đă tạnh từ bao giờ, vầng đông đang bắt đầu le lói ở chân trời..
Trong xóm tiếng gà eo óc gáy ran, mấy bác nông dân đang thong thả dắt trâu ra đồng, họ mới giật ḿnh nhớ tới bổn phận và xác chết liệng ở ven bờ ruộng. Họ hớt hải chạy vội ra ngoài cánh đồng th́ lạ thay, nơi họ mới đặt thi hài kẻ xấu số đêm qua, lúc ấy đă biến đâu mất.
Đồng thời chỗ bờ ruộng trũng, mấp mô toàn gốc rạ, cũng nhường chỗ cho một g̣ đất lớn, rộng vừa bằng một chiếc chiếu cao, chừng hơn đầu người, chung quanh, cỏ mọc xanh um, trên g̣, dây leo chằng chịt bám chặt vào một bụi khúc tần, tươi tốt. Hai anh tuần ngơ ngác t́m kiếm măi mảnh giát giường.
Họ hỏi nhau, và nhất định tin rằng chính đấy là nơi họ đặt xác chết, không thể nào sai lầm được..
Dù cho đêm tối, gió mưa giăng mắc ngập trời, và hơi men ngấm sâu vào gan phổi, họ cũng vẫn nhớ mang máng rằng, nơi họ tạm quàn thi hài ở bên một bụi khúc tần, cách một cây gạo lớn mọc chơ vơ ở giữa cánh đồng không xa, mà về mùa hạ nắng rực, những nông dân thường kéo nhau đến ngồi dưới gốc cây nghỉ mát, để ăn cơm trưa hay uống nước và hút thuốc lào mỗi khi mỏi mệt..
Vậy mà nh́n kỹ khắp nơi, cây gạo vẫn c̣n kia mà bó giát giường lại biến đâu mất! Đồng thời bụi khúc tần cũng thay đổi vị trí đang từ dưới ruộng bỗng lại mọc trên g̣ cao. Mà cái g̣ mối lại càng lạ hơn nữa.
Từ thượng cổ đến giờ, dân cư ở chung quanh đây, có ai nghe nói ngoài cánh đồng có g̣ đống ǵ đâu, vậy mà chỉ có một đêm mưa gió, chiếc g̣, mô đất cao ấy không hiểu do mănh lực huyền bí ǵ, lại tự nhiên mọc ra, đem theo cả bụi khúc tần với mớ dây leo chằng chịt? Thật là quái dị ra ngoài sức tưởng tượng của mọi người.
Thiên hạ đồn vang hết thảy đều tin chắc rằng, người xấu số chết gặp giờ linh, đă được hai chú tuần đinh, đặt thi hài vào đúng huyệt quư, nên mối đùn thành g̣ đống trong có một đêm mưa gió. Trong lúc ấy người thiếu phụ trốn tránh dưới mái đ́nh, nghe biết chuyện ấy, tuy hồi hợp nửa mừng nửa sợ, nhưng không dám nói ra cho ai biết. Rồi chị ta thấy thân thể chuyển động, bụng mỗi ngày một lớn dần, trước c̣n tưởng là bệnh báng chướng, bệnh phù sau thấy ́ ạch thèm của chua, chị ta mới biết ḿnh đă thụ thai với kẻ qua đường bạc phước.
Sau thiếu phụ nở nhụy khai hoa, cho ra đời được một đứa con trai rất kháu khỉnh khôi ngô. Tuy không biết đích xác họ tên người bạn đường, người thiếu phụ cũng vẫn nhớ mang máng rằng, trong những câu chuyện hàn huyên trước khi đắm ḿnh vào mộng, khách qua đường có nói sơ qua là họ Nguyễn, nguyên quán làng Mai Lĩnh, gia đ́nh hiện thời sa sút.
Dù khốn quẩn song ông cha mấy đời trước, cũng đă từng giàu có phong lưu, giữ những vai tṛ then chốt trong thôn xóm. Một ngày cũng là nghĩa nên thiếu phụ căn cứ theo lời tiết lộ của người quá văng, cũng cho con trai mang họ Nguyễn và nhất là để an ủi vong hồn kẻ xấu số, thiếu phụ c̣n đặt tên con là Phong Vân. Chú bé Nguyễn Phong Vân hay ăn chóng lớn lạ lùng..
Thiếu phụ cũng lần hồi xoay xở được chút vốn liếng nhỏ mọn, dựng một quán nước ở bên đường để làm kế mưu sinh nuôi nấng đứa con côi thơ dại.
Năm Nguyễn Phong Vân lên năm tuổi, đi theo trẻ con trong xóm đến đùa nghịch ở trước trường ông kép Ban, một vị danh sĩ thuở bây giờ, nhưng v́ vô duyên với đèn sách, năm, bảy lần đi thi, đều chỉ đậu tú tài, hết tú tài đơn lại đến tú tài kép, nên buồn tức không thèm mang lều đi tranh tài với sĩ tử bốn phương nữa, nhất định về ở lỳ quê nhà, việc chi tiêu lớn nhỏ đều trông cậy cả vào tài tháo vát của bà Tú.
Muốn cho gia đ́nh đỡ hiu quạnh, ông Tú liền nảy ra ư định thiết trường tại gia, thu nạp một số môn sinh để hàng ngày "Tiếng tri đồ dả giă" của những trẻ em đến thụ huấn, làm cho mái nhà tranh của ông Tú thêm rộn ràng ấm cúng.
Chú bé Nguyễn Phong Vân đến chơi đùa ở trước căn nhà của ông kép Ban với đám bạn bè đồng trang lứa, nhưng khác hẳn với bọn trẻ đang tuổi ham mê nghịch ngợm, chú bé Vân mỗi khi thấy ông Kép Ban, cất tiếng sang sảng giảng dạy kinh sách, hay các học tṛ trong trường ê a đọc bài, b́nh phú b́nh văn là chú bé vội vàng bỏ dở hết mọi tṛ đùa giởn, để cố nghiêng tai nghển cổ lắng nghe, chăm chú theo dơi từng câu, từng chữ của Thầy đồ giảng dạy cũng như của đám đệ tử ở phía trong đồng thanh lập lại.
Tuy không am hiểu nghĩa lư chi hết, nhưng do một sự huyền bí kỳ dị lạ lùng xui khiến chú bé Vân thuộc ḷng được tất cả những kinh sách, thi, phú của thầy tṛ ông Kép Ban đă đọc ở trong lớp, kể cả những bài khó khăn nhất.
Mỗi khi về đến nhà, chú bé Vân lại đọc làu làu những bài văn đă học được cho mẹ nghe, làm mọi người trong làng rất đỗi ngạc nhiên, một đồn mười mười đồn trăm, khắp cả vùng Đào Xá, Mai Lĩnh đều cho Vân là thần đồng xuất thế.
Ông Kép Ban nghe biết truyện kinh ngạc vô cùng, từ đấy đặc biệt lưu ư, quan sát tỉ mỉ hành vi cử chỉ của chú bé, và rất hài ḷng khi thấy bé Vân đĩnh ngộ thông minh tuyệt trần, hai mắt sáng ngời nét mặt biểu lộ sự trung hậu mẫn tiệp, hơn hẳn đám trẻ con trong làng một trời một vực..
Một ngày kia Ông Kép gọi bé Vân vào lớp học, hỏi thăm về gia cảnh và tên tuổi. Bé Vân đối đáp rất trôi chảy lễ phép, khiến cho ông Kép Ban càng quư mến, muốn t́m cách giúp đỡ cho bé Vân sớm thành tài.
Hôm sau Ông Kép đi t́m đến tận quán nước, nói với thân mẫu Vân cho chú bé đi học. Ông Kép tha thiết đề nghị với thiếu phụ: xin cho chú bé Vân theo hẳn ḿnh ăn ở luôn tại trường, cho tiện sự học hành giảng dạy. Thấy thiếu phụ c̣n ngần ngại, chưa quyết định có nên nghe theo hay không, ông Tú giải thích rơ ràng thêm:
- Cứ như sự nhận xét của lăo, cháu Vân quả thực là đứa trẻ thông minh đĩnh ngộ phi thường. Với tài năng thiên phú ấy, mà có được thêm một sự học hỏi chu đáo nữa, th́ sự thành đạt sau này, có thể được coi là chắc chắn và rực rỡ vô bờ bến.
- Nhưng trái lại, nếu không gặp được thầy hay bạn tốt, th́ với tài năng thiên phú ấy, bé Vân sẽ dùng sự thông minh, quyền biến của ḿnh để làm những điều xằng bậy, bạo thiên nghịch địa, tán tận vô lương, th́ sự nguy hại, không c̣n biết thế nào mà ước lượng được nữa?
Nhạc Phi về đời nhà Tống, khi ra đời nổi danh tài trí, trung dũng, tín nghĩa, khoan ḥa, cũng là nhờ lúc nhỏ dại gặp được thầy hay bạn tốt.
C̣n Tần Cối cũng về đời nhà Tống, tuy thông minh xuất chúng, nhưng lại đem dùng tài trí hơn người ấy để dối vua hại nước, giết hại danh thần lương tướng, mưu cầu phú quư trên xương máu đồng loại, lưu tiếng xấu đến muôn đời sau.
Thiếu phụ nghe Ông Kép Ban nói măi cũng chuyển ḷng, không c̣n nghi ngại e dè chi nữa, nhận ngay lời cho bé Vân nhập môn tại trường ông Kép.
Ông Kép đối đăi với bé Vân thân mến như đối đăi với con cháu trong nhà, chẳng những hết dạ trông nom dạy dỗ, mà c̣n săn sóc chu đáo cho Vân cả từ bữa ăn, giấc ngủ đến sách vở áo quần. Con trai ông Kép được nuôi dạy sắm sửa thế nào, th́ bé Vân cũng được nuôi dạy sắm sửa như vậy. Nhờ thế bé Vân học hành tấn tới vô cùng.
Một mănh lực kỳ bí nào đó đă giúp Vân học một biết mười, chỉ mới chính thức nhập môn chưa đến một năm trời, mà chú bé trên đầu môn để trái đào, đă áp đảo được cả những bạn đồng môn vừ học lâu, vừa nhiều tuổi hơn Vân khá nhiều. Cả trường và luôn cả sĩ tử trong vùng đều kính phục Vân, coi Vân như một nhân tài xuất chúng.
Năm 17 tuổi Vân đậu Tú tài, rồi mấy năm sau lại đậu Tiến sĩ được bổ vào Hàn Lâm. Mẹ Vân cũng được triều đ́nh ân thưởng "Tiết Hạnh Khả Phong". Con cháu về sau đều hiển đạt liên tiếp tới năm đời liền mới bị suy sụp.
Đó là trường hợp mả thiên táng.Thi hài kẻ xấu số dù được chôn cất trong lúc rất t́nh cờ, hay dù bị chết đường chết chợ, cũng vẫn gặp được cái huyệt, tạo nên sự kết phát lạ lùng, không khác ǵ những ngôi mả có thầy địa lư chính tông phân kim, án hướng cẩn thận khi cải táng."
Thầy địa lư đứng ở phía đầu ngôi mộ, vừa chăm chú quan sát những g̣ đống, chạy dài đằng trước mặt, vừa say sưa kể cho Trung nghe những giai thoại về môn phong thủy huyền bí, chợt lăo bước vội về phía Đông Nam, mặt đang hồng hào bỗng tái mét, hai mắt láo liêng biểu lộ sự kinh hoàng đến tột độ, chân run lập cập, miệng lắp bắp không biết phát ra thứ âm thanh ǵ nửa như kinh hoàng, nửa như ăn năn sám hối như người đắc tội với đáng bề trên.
Trung hốt hoảng hấp tấp theo muốn hỏi, nhưng thấy lúc này mặt thầy địa lư trông nghiêm nghị quá, lại sợ hăi không dám mở lời. Trung c̣n đang hoang mang với bao mối kinh nghi thắc mắc, th́ nhà phong thủy đă kêu lên sững sốt:
- Sao lại lạ lùng thế này. Kỳ quái?
- Thật là kỳ quái...
Nghe có tiếng chân bước mạnh sau lưng, thầy địa lư bàng hoàng như vừa sực tỉnh cơn ác mộng, lúc bấy giờ mới nhớ là có chàng thanh niên ngư phủ họ Đặng Trần đi theo, liền quay phắt lại, kéo tay Trung chỉ về góc mả phía Đông Nam nói qua giọng hốt hoảng:
- Chú em xem ḱa! cả ngôi mộ cao đều, mà sao chỗ này lại...
Lăo c̣n ngập ngừng chưa kịp nói hết câu, th́ Trung theo
ngón tay lăo chỉ đă nhận định được nguyên cớ khiến lăo phải sững sốt kinh nghi từ lúc năy đến bây giờ: đó là góc Đông Nam ngôi mả bị sạt hẳn xuống gần sát mặt ruộng.
Nh́n kỹ ngôi mộ giống hệt một cái bát úp, bị sứt mẻ mất một miếng nhỏ, mà nếu không đến gần tận nơi, chẳng bao giờ nh́n thấy được rơ ràng, v́ ngôi mả đắp tṛn, cao vọt lên do một mănh lực huyền bí tạo thành như một cái g̣ lớn, mà nứt nẻ, lại lớn bằng một cái chồi trông đàng xa, sao mà trông thấy được vết sạt lở?
Trung không nói ǵ lẳng lặng đi khuân đất, đắp vào chỗ bị sạt, trong khi thầy địa lư cứ ngây mặt đăm chiêu suy nghĩ, mồm lẩm bẩm những ǵ không rơ, nửa như chỉ bảo cho Trung điều ǵ đó, nửa như ngưng thần niệm chú...
Trung h́ hục một lúc lâu, mới đắp được chỗ bị sạt, cao như mấy góc mả khác. Có khác chăng, chỉ v́ toàn thể ngôi mộ đều phủ cỏ xanh um với màu đất xuống mặt, như một ngôi cổ mộ, mặc dầu ngôi mả mới được cải táng chưa quá một ngày một đêm, c̣n chỗ đất mới đắp thêm, th́ trơ màu đất thịt cỏ non chưa kịp mọc một cây nào, trông như một mụn vải vá xấu xí, giữa một chiếc áo lụa nơn nà vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 617 of 2534: Đă gửi: 09 August 2008 lúc 11:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔI LỌ CỔ TRONG L̉NG HUYỆT
Chương Hai
ƠN ĐỀN OÁN TRẢ
Nhưng lạ thay sáng hôm sau, nhà phong thủy lại cùng Trung đi ra ngoài cánh đồng thăm mả, th́ thấy chỗ đất vừa đắp hôm trước, không hiểu v́ sao lại bị sụt xuống tới mặt ruộng, như lúc chưa được bồi đắp lại.
Và đúng bảy lần đắp đi đắp lại măi mà ngôi mả vẫn bị khuyết hăm mất một góc nhỏ, không thể ǵ bồi đắp cho hoàn toàn được trọn vẹn như những ngôi mộ khác.
Thật là kỳ dị!
Sự việc xăy ra, như có một bàn tay bí mật nào đó, hoặc cố t́nh đùa nghịch hay do một ác ư chi xui khiến đă nhân dịp đêm tối, ra đào trộm đất ở một góc mộ phần, để gây sự xáo trộn cho gia đ́nh họ Đặng.
Nhưng sự thực không phải thế, v́ đến đêm thứ tư, thấy ngôi mả tổ cứ luôn luôn bị phá hoại măi, Trung tức bực vô cùng liền rủ người em họ ra che sơ sài một túp lều con ở sát bên mộ, nằm thức suốt đêm canh gác.
Họ không chịu ngủ phút nào. Trọn đêm hai người cùng chăm chú nh́n vào ngôi mả, chốc chốc lại đốt lửa hút thuốc lào và truyện tṛ, chờ đợi những truyện kỳ dị xảy ra. Nhưng ba bề, bốn bên vẫn yên lặng như tờ, ngoài những tiếng giun dế nỉ non và gió đồng xào xạc.
Vậy mà đến sáng, nh́n đến ngôi mả, một góc vừa được đắp tṛn lại đêm trước, dường như vẫn bị một bàn tay huyền bí nào đó, đào trộm tới sát mặt ruộng. Càng lạ lùng hơn nữa, là chỗ đất đào ấy, lại biến đâu mất hết cả đất vụn, chứ không thấy vứt bừa băi, tung toé như đất đắp trên mộ, như những trường hợp đào hầm đào hố khác.
Lúc đầu, hai chàng thanh niên họ Đặng Trần c̣n ngỡ là đă ngũ quên, để cho kẻ gian đào mả mà không biết. Nhưng đêm sau, cả thầy địa lư cũng ra ngoài lều nằm với hai anh em họ Đặng, và lần này cẩn thận hơn, họ c̣n thắp tới hai đĩa đèn dầu chàm, khêu cao ngọn suốt đêm, chiếu ánh sáng tuy không sáng lắm, cũng đủ cho ba người phân biệt được cảnh vật chung quanh một châu vi chừng nửa sào ruộng.
Song vô ích !...
Sáng hôm sau, ngôi mả vẫn bị mất một góc như thường. Nhà phong thủy ṿ đầu, bứt tai, tức bực như muốn phát điên trước sự việc quá bất ngờ ấy.
Mẹ con Trung c̣n đang vui mừng, hí hởn khi thấy ngôi mả mới, chỉ sau một đêm to cao hẳn lên, giờ đây thấy bị sụt một góc cũng hoảng hốt, lo sợ đứng ngồi không yên, luôn miệng thở ngắn than dài, buồn phiền, chán ngán.
Sau 7 đêm liên tiếp, hiện tượng kỳ dị vẫn xảy ra đều đều, một cách cực kỳ quái gở.
Thầy địa lư không c̣n nghi ngờ ǵ nữa về sự phá hoại do oán thù, ghen ghét của bàn tay người đời tạo ra nữa, mà hoàn toàn tin tưởng rằng đó là hậu quả tai hại của công việc phân kim, án hướng, phù chú, bùa phép lúc an táng hài cốt tổ phụ họ Đặng Trần.
Nhưng nhà phong thủy trứ danh ấy, không sao khám phá nổi sự bí mật và nguyên cớ v́ đâu, đến nỗi xẩy ra hiện tượng lạ lùng kia? Càng nghĩ lăo càng lo, v́ kinh nghiệm đă cho biết rằng, những phần mộ tự nhiên bị sụt lở, hết thảy đều bị động, gieo rắc sự nguy hại cho gia chủ.
Ngôi mộ tổ bảy đời của họ Đặng Trần, dù được an táng tại cát huyệt với phương pháp trấn yểm cực kỳ chu đáo, với sự bổ trợ của những bùa chú cực kỳ linh nghiệm, do những pháp sư pháp thuật cực kỳ cao thâm bên Tây Khương luyện dẫn, nên chỉ sau một đêm đă cao vọt hẳn lên, từ một ngôi mả thường bỗng biến thành một g̣ đất lớn, lại có cỏ mọc xanh um, phủ kín chung quanh đủ chứng tỏ hài cốt đă quán khí, sự kết phát không c̣n là điều nghi ngờ viễn vông nữa.
Nhưng nếu quả thật như sự suy luận của lăo, th́ sao một góc mả lại bị lở sụt, đắp đi đắp lại nhiều lần, vẫn không cao khỏi mặt ruộng chút nào, lạ là sau khi đắp lại và bị sụt lở không có một chút đất, đá, cỏ vương văi xung quanh?
Thật là lạ lùng quái gở. Đi gần trọn một đời đóng vai thầy địa lư, lăo chưa hề bao giờ gặp phải hiện tượng khác thường ấy? Lăo lo buồn đến mất ăn, mất ngũ luôn mười hôm liền, tính từ ngày làm lể cải táng.
Cuối cùng lăo quyết định phải phụ đồng triệu thỉnh ông tổ băy đời ḍng họ Đặng Trần lên hỏi xem v́ đâu lại có sự kỳ dị ấy?
Nghĩ ra cách giải quyết này, lăo cảm thấy vơi bớt mối lo ngại, v́ lăo rất giỏi về khoa phụ đồng. Hàng năm cứ đến ngày giổ thân phụ lăo, khi ngừng gót phiêu lăng ở quê nhà, lăo thường phụ đồng, triệu vong hồn thân phụ lăo về để hỏi các việc họa phước trong gia đ́nh.
Có được chứng kiến giờ phút thiêng liêng của người quá văng hiện về, qua cốt đồng của một chú bé chừng 12, 13 tuổi, hoàn toàn thơ dại, ngây ngô, vậy mà đă nói trúng tất cả những điều quan trọng về quá khứ cũng như hiện tại ở trong nhà, người ta mới tin việc phụ đồng là đúng, là thực, chứ không phải là chuyện mê tín dị đoan.
Trung có một đứa em họ xa, tên là Cu Tư, năm ấy vừa đúng 12 tuổi nhưng ngờ nghệch đần độn vô cùng, có khi suốt ngày không mở miệng nói chuyện với ai một câu nào. Bà con, cô bác có sai bảo ǵ, nó cũng chẳng hề biết vâng dạ bao giờ, mặc dầu vẫn ngoan ngoăn làm theo lời chỉ dạy.
Do tính nết ngu đần ấy, Cu Tư được thầy địa lư chọn cho ngồi đồng.
Từ buổi trưa, nó đă được Trung bắt tắm gội sạch sẽ, thay đổi quần áo chỉnh tề, và phải ngồi luôn trên giường tre, không được ra khỏi nhà nửa bước.
Đúng đầu giờ Tuất, nhà phong thủy thắp đèn, châm nhang, đốt bùa, rồi làm lễ, khấn vái khá lâu trước bàn thờ, có dựng một cành phan với ba lá phướn trên vẽ bùa chú và tên tuổi mộ phần ông tổ bảy đời họ Đặng. Cu Tư được gọi vào ngồi xếp chân ṿng trón, chỉnh tề ở trên chiếc chiếu, trước bàn thờ, đầu phủ một vuông khăn đỏ, tay cầm cành phan.
Thầy địa lư vẫn quỳ trước bàn thờ, khấn vái, rồi cất giọng trầm bỗng sai âm binh triệu thỉnh vong hồn người quá văng.
Từng xấp giấy vàng, giấy bạc, với bùa chú được đốt sau mỗi khóa cúng.
Đặng Mẫu ngồi ngoài, đă được thầy địa lư căn dặn từ trước, thấy mỗi khi dứt tiếng ê a, lại tung gạo, muối, mè với đậu xanh ra khắp bốn phương. Đến chừng gần hết giờ Tuất th́ cành phan chợt lay động, đồng thời chiếc khăn đỏ trên đầu Cu Tư cũng rung chuyển nhẹ nhàng.
Đầu thằng Tư mỗi lúc một đảo nhanh hơn, mạnh hơn, theo nhịp điệu bổng trầm của bài sai âm binh mà pháp sư vẫn không ngớt tiếng từ đầu khóa lễ.
Thằng Cu Tư đang đảo đầu lia lịa, chợt hét lên một tiếng lớn, rồi hất tung chiếc khăn đỏ ra, hai mắt mở to, long lanh sáng chói, mặt đỏ gay gắt như những buổi nó đi chăn trâu giữa trời nắng trưa hè.
Nh́n dáng điệu lanh lợi của Cu Tư lúc bấy giờ không một ai có mặt trong đám cúng, lại có thể ngờ được rằng đó là một thằng bé mục đồng ngây ngô, đần độn, nổi tiếng là đứa ngốc dại, để hàng ngày làm tṛ cười cho bọn trẻ chăn trâu tinh quái trong vùng.
Trong lúc ấy, Đặng Mẫu vẫn luôn tay lần tràng hạt, xuưt xoa hết van khấn lại niệm phật lâm râm với vẻ mặt cực kỳ thành khẩn.
Thầy Địa lư lấy rượu hỏa thang cho Cu Tư rửa mặt, rồi rót liền tiếp ba ly rượu khác mời "con đồng" uống tẩy trần, rồi mới đem một chiếc bát nhỏ trong có mười tờ giấy gấp vuông vắn giống nhau, để cho "con đồng gắp phong thư" thử xem là "con đồng" có thực sự được người quá văng nhập hồn vào thân xác không, hay đây chỉ là kẻ xảo trá, tạo sự lên đồng, để đùa nghịch quấy phá.
Trong mười tờ giấy gấp vuông vắn giống nhau, thầy địa lư chỉ viết tên họ người đă chết, đang được triệu thỉnh, lên trên một mảnh giấy, c̣n chín mảnh kia th́ để trắng.
Nếu là hồn ma chính thức trở về dương thế, nhập vào thân xác "con đồng" th́ con đồng sẽ tḥ tay, gắp đúng "phong thư" có ghi từ trước, tên họ của ḿnh. Lúc bấy giờ, pháp sư mới hỏi hồn ma những điều cần thiết.
Thấy chiếc bát đựng phong thư được đưa ra trước mặt, Cu Tư, hồn cốt được triệu thỉnh không cần phải nh́n vào chiếc bát, hai mắt vẫn láo liêng trông thẳng vào lá phướn rung chuyển nhẹ nhàng trước bàn thờ, đầu vẫn lắc, quay đều tám phương bốn hướng, thản nhiên đặt tay vào cầm lấy một mảnh giấy trong cái bát đó, giơ lên cao.
Nhà phong thủy vội đón, mở ra xem. Nét mặt nặng trĩu lo âu của lăo chợt biến đâu mất, để nhường chỗ cho vẻ vui mừng, hớn hở, v́ "con đồng" đă gấp đúng phong thư có tên tuổi của tổ phụ họ Đặng trần.
Sau khi đốt liên tiếp ba mớ giấy vàng, rót xuống đất ba ly rượu, ném ra bốn phía ngoài sân bảy mớ gạo đậu, thầy địa lư thắp thêm nhang, quỳ lạy khấn vái trước bàn thờ, rồi mới cất tiếng dơng dạc hỏi hồn ma.
- Hồn đă gắp đúng phong thư, quả thiệt hồn là tổ phụ họ Đặng Trần rồi.
....
- Vậy xin hồn cho con cháu biết, ngôi mộ vừa táng tại cánh đồng làng Đào Xá của hồn, có bị sai lệch động trệ ǵ không?
Hồn ma nhập xác Cu Tư, vẫn đảo đầu nhè nhẹ, cặp mắt long lanh nh́n thẳng vào lá phướn, lắc đầu lia lịa.
Thầy địa lư chau mày hỏi tiếp :
- Hồn bảo không sai lệch, động trệ ǵ th́ tại sao, cả ngôi mả được quán khí, đất đùn cao hẳn lên như một chiếc g̣ lớn, mà chỉ riêng một có một góc ở phía đông nam lại sụt xuống tới mặt ruộng. Đắp đi đắp lại bao nhiêu lần, cũng vẫn không được cao đều như các phía khác.
Như vậy là nghĩa lư ǵ ?
Hồn ma bỗng giơ tay, phác một cử chỉ ngăn chặn lời nói của pháp sư, đoạn đằng hắng ba lần, rồi mới cất giọng sang sảng, khác hẳn giọng nói lè nhè, ấp úng của Cu Tỳ lúc b́nh nhật, mà nói rằng :
- Các người tham lam lắm, nên Thổ thần mới phải ra oai trừng phạt đó.
Hướng về Thầy Địa lư, hồn ma trong thể xác thằng Cu Tư chậm răi nói tiếp :
- Người đă đọc sách thánh hiền, thấu triệt lẽ huyền bí của Tạo Hóa, thông suốt luật quả báo luân hồi, vậy mà vẫn u mê, đắm ch́m trong sự tham lam, ngoan cố.
Trước đây, nhà ngươi đă cố ư làm trái đạo trời, cưỡng nghịch sự an bài của thần thánh, muốn đền ơn đáp nghĩa cho ḍng họ nhà ta ( họ Đặng Trần) mà vô t́nh, suưt làm cho ḍng họ nhà ta, bị thiệt mất một ngôi đất kết phát.
Theo sự xếp đặt huyền bí của Hóa công, con cháu ta sau này, thế nào cũng phải được hưởng vinh hoa, phú quư do ngôi đất trời phật đă dành riêng cho con cháu ta.
...Ngươi không cần t́m giúp. Tạo Hóa cũng xui khiến cho chúng nó kiếm được.
Sự giúp đỡ của nhà ngươi, chỉ là làm cho sự kết phát được mau chóng hơn hạn định một thời gian nào đó thôi, chứ sức người sao cưỡng nổi ư trời.
Nhưng nhà ngươi lại không chịu hiểu thế, cứ muốn làm quá sức ḿnh, định trấn yểm cả con Hỏa, khiến cho Thổ thần phải mấy phen hiển linh, để ngăn cản không cho ngươi thực hành ư định ngông cuồng ấy.
Nếu ta không khéo kêu cầu, van xin Thượng Đế th́ con cháu ta có bao giờ c̣n được hưởng thụ ân lộc của Trời Phật nữa?
Tưỡng thế là xong, không ngờ đến khi đào huyệt, để cải táng cho ta, nhà ngươi lại phát sanh tánh gian tham, chiếm đoạt cả đôi lọ cổ với hai bức thêu làm của riêng, khiến cho Thổ thần không những phải nổi giận, làm sụt hẳn một góc mả, mà chính hồn phách ta, tuy trước kia, có được nhà ngươi làm lễ nhượng tinh chiêu hồn triệu phách.
Nhưng v́ bùa chú của ngươi chưa đúng phép, phải cần có đôi lọ cổ với hai bức tranh thêu ám trợ mới thực linh động, đủ sức tinh anh như người có trọn vẹn cả âm hồn, thất phách, để đương đầu với Thổ thần, hầu hiển linh cho ngôi mả được cao đều như khi mới đắp...
Thầy Địa lư, lắc đầu tỏ ư hoài nghi rồi sẵng giọng hỏi hồn ma:
- Hồn ma bảo thế nào? Hăy nhắc lại cho pháp sư nghe thử? Sao đôi lọ cổ với hai bức tranh thêu, lại có thể tăng cường hồn phách là nghĩa ǵ hử?
Hồn ma nhập trong thân xác Cu Tư chợt ngoảnh hẳn đầu về phía thầy địa lư, trừng mắt nh́n nhà phong thủy như có vẻ tức bực, đoạn trề môi, nói thao thao bất tuyệt:
- Nhà ngươi chỉ biết một không biết hai, chỉ biết qua môn phong thủy với hướng chuyển vận của long mạch, mà không am tường tinh vi phép an hồn, định phách, chỉ căn cứ vào sự truyền dạy mập mờ trong sách vở, không hiểu triệt được tinh tế những nét huyền bí của hai bức tranh thêu và công dụng của đôi lọ cổ, nên mới gây ra điều trở ngại cho sự kết phát của con cháu ta sau này.
Do đấy, mà hôm nay, ta mới phải về đây, mách bảo rơ ràng cho ngươi biết để t́m cách cứu văn những điều khuyết điểm sai lầm trước.
Nhà ngươi có biết những bảo vật t́m thấy ở trong cát huyệt kia là của ai không?
Nói tới đây, hồn ma ngừng lại, như để chờ sự trả lời của pháp sư.
Nhưng thấy mọi người vẫn ngơ ngác nh́n ḿnh, hồn ma lại ung dung nâng chén rượu rót sẵn, đặt trước mặt, uống thẳng một hơi cạn hết, rồi thản nhiên nói tiếp:
- Đó là của Hoàng Tướng Công về đời nhà Minh bên Trung Hoa đấy. Nguyên lúc bấy giờ Nam Bắc giao tranh, Hoàng Tướng Công đi theo tướng Minh, bị quân ta vây bắt giải vào nạp cho quân sư của vua Lê là ông Nguyễn Trăi.
- Vốn là bậc chính nho, quân tử, trọng sĩ khí và danh dự dù ở trong cảnh lỡ bước, sa cơ, Hoàng Tướng Công cũng không chịu khuất phục cứ đứng yên, chẳng chịu quỳ lạy vị quân sư của vua Lê.
Ông Nguyễn Trăi tức giận, thét giáp sỹ đem ra trảm quyết.
May được người mạc khách, giúp việc văn án dưới trướng quân sư, vốn có cặp mắt tinh đời, nhận xét được nét hào hùng khẳng khái, và vận số của Hoàng Tướng Công, nên tiến ngay ra, hết sức khuyên can, xin tha tội cho Hoàng Tướng Công.
Thấy lời biện bạch hữu lư, ông Nguyễn Trăi chẳng những tha tội cho Hoàng Tướng Công, c̣n trọng đăi Tướng Công, coi người bại tướng ấy như một bạn chí thân tâm phúc vậy. Người mạc khách cứu mạng cho Hoàng Tướng Công, chính là Đặng Trần Diên, ông tổ hai mươi đời của ta đó! Trong thế phả ḍng họ Đặng Trần, có ghi rơ việc này!
Nhà ngươi cứ bảo Trần Trung cho coi sẽ rơ ngay đầu đuôi gốc ngọn.
Tuy nhiên ta cũng có thể tóm tắt đại khái cho nhà ngươi biết rằng:
Sau khi được tổ phụ ta xin tha tội, Hoàng Tướng Công vội t́m đến tận nhà cảm tạ và năn nỉ xin tổ phụ ta đưa đi coi các phần mộ trong ḍng họ.
Tổ phụ ta có ngỏ ư muốn xin Tướng Công táng giúp cho một ngôi mả để đem lại sự kết phát cho con cháu, v́ tổ phụ ta cũng có am hiểu sơ qua về môn phong thủy, nên Cụ biết rơ là mồ mả trong họ chẳng có ngôi mộ nào kết phát cả.
Nhưng sau khi suy tính rất kỹ lưỡng, bấm số âm dương biết đích xác ḍng họ nhà ta c̣n bạc phước lắm chưa được thụ hưởng ân huệ của Trời Phật nên Hoàng Tướng Công từ chối, hứa sẽ t́m cho một ngôi đất quư vào đúng hai mươi đời sau.
Tổ phụ ta không tin, cho lời nói của Tướng Công là vu khoác, v́ làm sao mà để mả được cho hai mươi đời sau? Vậy mà sự thực, có ai ngờ đâu lại đúng như lời Tướng Công đă hứa!
Nhà ta lúc ấy c̣n kém âm công, phước đức quá chưa đủ điều kiện cần thiết để hưởng thụ sự kết phát vẻ vang, do một ngôi mả táng nhằm cát huyệt tạo nên: v́ mức độ phú quư của con cháu, bao giờ cũng tùy thuộc âm đức của tiền nhân, mà cho tới lúc ấy, tổ phụ ta chưa làm được nhiều điều từ thiện th́ đâu có xứng đáng hưởng thụ hiển vinh?
Vả lại, họ Hoàng nếu không muốn t́m đất th́ thôi, chứ một khi đă định táng giúp mả cho gia đ́nh nào, th́ nhất định phải đặc biệt lưu tâm, t́m kiếm những ngôi đất cực kỳ quư báu, kết phát to, th́ đâu ǵ khó khăn lắm, chứ không thể an táng một cách tắc trách, gặp sao hay vậy, gia chủ cứ gọi là mát mặt cũng đă lấy làm măn nguyện rồi.
Với danh tiếng lẫy lừng của một bậc chính nhân, quân tử, lại từng am hiểu tường tận các môn học huyền bí, lư, số, y, nho, Hoàng Tướng Công không thể làm được một công việc ǵ trái với ư muốn, nên sau khi biết đích xác âm công, đức độ của nhà họ Đặng Trần c̣n bạc nhược quá, Hoàng Tướng Công bèn nảy ra ư định: táng giúp cho gia đ́nh ân nhân một ngôi mả giả tạo, tại một khu đất rất quư ở cánh đồng giữa hai làng Mai Lĩnh, Đào Xá.
Nhưng không phải mả chôn hài cốt, nhưng chỉ chôn mấy món bảo vật, mà Tướng Công đă đích thân dùng biệt tài trấn yểm, để giữ long mạch tồn tại tới bây giờ, hầu báo đền ơn tri kỷ!
Nhờ thông suốt được cả quá khứ, vị lai, nhà danh sĩ Trung Hoa biết rằng: đến năm nay, nhằm đúng tháng này, nhà ngươi sẽ t́m thấy ngôi đất có chôn sẵn bảo vật kia để táng giúp tổ mộ cho họ Đặng Trần.
Kỳ diệu hơn nữa, là Hoàng Tướng Công c̣n đoán được cả ư định của nhà ngươi phải làm phép nhượng tinh: thâu hồn, triệu phách ta, v́ hài cốt một tiểu nhi, chôn sâu dưới ḷng đất lâu ngày giữ sao được trọn vẹn?
Hài cốt không toàn vẹn, th́ nói ǵ đến sự kết phát nữa?
Họ Hoàng hiểu rơ huyền vi kỳ diệu ấy, và không những thế Người c̣n biết luôn đến cả sự bất lực của nhà ngươi, nên Tướng Công mới chôn sẵn lọ cổ và tranh thêu, tượng trưng thân thể, hồn phách của ta, để chứng tỏ cho thiên hạ sau này biết rằng:
Mấy đời trước, đă có người t́m thấy ngôi đất này, song v́ tôn trọng mệnh trời, người t́m được đất không dám cưỡng chiếm, mà để dành trả lại cho ḍng họ, có đầy đủ âm công, đáng được hưởng thọ ân huệ tối hậu của Phật Trời!
Bề ngoài th́ thế, song dụng ư chánh yếu của Hoàng Tướng Công không phải chỉ dùng để đựng đồ vật tầm thường như thế mà thôi đâu? Tướng Công c̣n có thiện chí cao quư hơn nhiều, nghĩa là muốn đáp đền ơn thâm, nghĩa trọng cho ḍng họ Đặng Trần, v́ Người không bao giờ quên được ơn cứu tử khi lỡ bước, sa cơ, suưt làm quỷ không đầu, trước quân trướng B́nh Định Vương Lê Lợi.
Cũng bởi tiên đoán đươc sự sơ sót của nhà ngươi, họ Hoàng mới chôn sẵn đôi lọ cổ với hai bức tranh thêu có ghi chú tên tuổi, ngày sanh tháng đẻ của ta, ở dưới huyệt sâu, có ư muốn ám trợ cho nhà ngươi khi làm lễ nhượng tinh, sẽ thâu hoạch được toàn vẹn kết quả mỹ măn.
Nhưng nhà ngươi lại tham lam, ngu muội quá, không chịu hiểu rơ dụng ư thâm trầm, kín đáo của cổ nhân, nên mới chiếm đoạt cả mấy thứ bảo vật kia, mà nhà ngươi chỉ biết qua giá trị cổ kính, mỹ thuật chứ không bao giờ biết rằng đó là những bùa phép vô cùng linh ứng thiêng liêng.
Có mănh lực phi thường mầu nhiệm không những bảo vệ cho hồn phách ta, được quy nguyên trong hài cốt, mà c̣n tăng cường sự hiển linh gấp bội, giúp cho ngôi mả mau quán khí kết phát.
Các món bảo vật chôn dưới huyệt, nhà ngươi đào được, đă do Hoàng Tướng Công, khổ công chế luyện với tất cả khả năng và kinh nghiệm già dặn của một nhà phong thủy chính tông, có sức hiểu biết, quán thông kim cổ, học vấn uyên thâm, không những về thi văn, kinh điển mà c̣n bao quát cả các phép hú gió, kêu mưa, di san đảo hải.
Do đấy, chắc chắn ḍng họ Đặng Trần hai mươi lăm năm nữa mới có người làm rạng rỡ tông môn, Hoàng Tướng Công phải t́m cách duy tŕ long mạch của ngôi đất, hiện đang an táng hài cốt ta, vừa để tránh sự chiếm đoạt của người khác, vừa để cho long mạch không giảm bớt phần linh ứng do thời gian vận chuyển quá lâu ngày, v́ như người đă biết, có mạch đất nào tồn tại vĩnh viển đâu?
Giữ cho long mạch từ mấy trăm năm trước, để dành cho con cháu ta bây giờ thọ hưởng. Hoàng Tướng Công quả thật đă làm một công việc phi thường, có thể nói là cổ kim chưa từng thấy.
Hành động ấy khiến Tướng Công cũng bị giảm thọ một kỷ. Nhưng Người vẫn vui ḷng và sẵn sàng tuân theo số mạng, v́ có thế mới đền đáp được ân nghĩa của tổ phụ ta, đă cứu mạng cho Tướng Công lúc trước.
Nh́n những món bảo vật mà nhà ngươi đă t́m thấy không một ai có thể ngờ được rằng: đó là những loại bùa chú, trấn yểm cực kỳ linh ứng, theo phương pháp bí truyền của những vị pháp sư ở xứ Tây Khương.
Mới nh́n qua, ai cũng tưởng giá trị của các thứ bảo vật chỉ thu hẹp trong phạm vi tầm thường của đôi lọ lâu đời hay bức tranh thêu đẹp mắt, song sự thực mỗi đường thêu là một nét bùa huyền bí, mỗi sợi chỉ là một sợi dây phép nhiệm mầu, chẳng những giữ được ḷng mạch không bị suy giảm, mà c̣n có mănh lực kỳ dị, làm mờ mắt những nhà phong thủy tinh tế nhất, khi đi qua đấy, để dành riêng cho con cháu ta bây giờ.
Nhà ngươi sở dĩ tránh khỏi nạn đó, chỉ là v́ lúc này đă đến thời kỳ ḍng họ nhà ta hết cơn bỉ cực, thằng Trung mở đường vinh hiển cho con cháu trong họ trong ṿng hai trăm năm.
Nhưng tánh gian tham của nhà ngươi, đă vô t́nh làm hại nó, tŕ hoăn hẳn sự kết phát tới ba mươi năm, và giảm luôn cả thời gian hưởng thụ phú quư của họ Đặng Trần mất hai mươi năm.
Đó là về phần thằng Trung! C̣n nhà ngươi?
Vẫn hay rằng ngươi là ân nhân của ḍng họ nhà ta, đă tận tâm lo lắng cho mẹ con thằng Trung, không quản ngại tốn kém cả công lẫn của, cố gắng thành toàn cho con cháu ta hiển đạt.
Lại cũng chẳng phải cố ư gian tham, chiếm đoạt các bảo vật, đào thấy dưới đáy huyệt làm của riêng tư, mà đó chỉ là vô t́nh lẽ không đáng trách phạt.
Nhưng Thổ thần tâu tŕnh Thượng Đế, hạch tội ngươi về tánh cưỡng chiếm mấy món bảo vật linh thiêng, từ lâu nay đă trở thành linh vật của Thổ thần bản hạt, nên Thượng Đế nhân đấy, lại lục tội cố ư tránh mệnh Trời của nhà ngươi lúc trước, để giảm thọ ngươi mười năm, và con trai ngươi, cũng sẽ mắc phải tai ương một tháng.
Chỉ giờ Ngọ ngày mai là ngươi nhận được tin không may của gia đ́nh, ngươi sẽ biết lời ta chẳng sai chạy mảy may!
Mẹ con Đặng Mẫu hoảng sợ, hướng vào hồn ma vái lạy lia lịa, xuưt xoa kêu cầu, khấn ông tổ hỷ xả, tha tội cho con cháu người trần mắt thịt...
Trong lúc ấy, thầy địa lư cũng kinh hoảng sửng sốt như kẻ mất hồn, mồ hôi ướt đẫm ḿnh, hỏi vội:
- Hồn sống khôn, thác thiêng, xin phù hộ độ tŕ cho chúng tôi, và xin mách bảo cho chúng tôi biết phương cứu văn sự sai lầm, chênh lệch ấy.
Thằng Cu Tư, giơ tay tự rót rượu, uống luôn ba chén liền, rồi mới dơng dạc
- Ta biết rơ ḷng dạ ngay thẳng của nhà ngươi, tận tâm kêu cầu Thượng Đế xin tha tội cho ngươi, nhưng Thổ thần tức giận nhà ngươi lúc trước, mấy phen toan cưỡng lệnh thiên đ́nh, nên cứ tâu xin Thượng Đế trừng phạt.
Tuy nhiên, Thượng Đế cũng thấu triệt tánh trung trực, đôn hậu của nhà ngươi, nên chỉ bắt con trai nhà ngươi phải chịu tai nạn qua loa ít ngày, rồi sẽ b́nh yên vô sự.
Bây giờ, nhà ngươi phải lắng tai nghe kỹ lời ta căn dặn: ngay giờ Tí đêm mai, chờ cho thiên hạ ngủ yên, đợi lúc chó không sủa, gà không kêu, nhà ngươi phải lẳng lặng đem các món bảo vật, để y nguyên như lúc mới đào được, đem ra chôn cách mộ phần của ta bảy bước về hướng Đông Nam, cũng đào sâu như khi đào huyệt.
Chôn xong, phải làm lễ an thần, và cần nhất, không được đắp cao như nấm mộ, cứ lấp phẳng, ngang mặt ruộng là được rồi!
Ngừng một phút, vẫy tay ra hiệu cho Trung đem chiếc điếu bát đến bên ḿnh.
Trung vội đem điếu đến, nhồi thuốc, châm đóm, rồi đưa xe điếu cho hồn ma, Cu Tư b́nh nhật, không biết hút thuốc lào, vậy mà lúc ấy nó lại rít thẳng một hơi dài, tiếng kêu tanh tách ḍn tan, rồi ngửa cổ, thở khói lên mái nhà một cách ngon lành, thích thú, đoạn rung đùi nói tiếp:
- Nếu hôm an táng hài cốt ta nhà ngươi thận trọng một chút, khi t́m thấy các thứ cổ vật cứ để nguyên đấy, rồi chôn luôn cả cùng với hài cốt ta, th́ linh khí giữ được toàn vẹn, chỉ trong ṿng bách nhật, thằng Trung sẽ gặp điều may mắn đặc biệt, đưa tới sự vinh hoa phú quư rất dễ dàng.
Tiếc thay! Tiếc thay !
Họ Đặng Trần nhà ta, phải mất thêm ba mươi năm nữa đợi chờ, mới có cơ hội mở mày, mở mặt được với thiên hạ.
Âu cũng là mạng số!
Nói xong, Cu Tư lại rót rượu uống thêm ba chén nữa, rồi múa hai tay, rú lên một tiếng lớn, ngă lăn kềnh xuống chiếu...
Thầy Địa lư đang định hỏi thêm hồn ma ít điều hoạ phước nữa của gia đ́nh, chợt thấy Cu Tư rú lên, rồi ngă vật xuống chiếu th́ biết là hồn ông tổ họ Đặng đă xuất khỏi thân xác Cu Tư, vội chạy đến nâng đầu nó dậy.
Nó ngáp dài, vươn vai, mở bừng mắt ra, bàng hoàng như đứa ngủ say vừa chợt tỉnh.
Mọi người trong nhà xúm vào hỏi chuyện nó lăng xăng tíu tít, bắt nó phải kể lại cảm tưởng lúc được hồn ma nhập xác, nhưng nó chỉ ú ớ, ngây ngô, ngơ ngác như ngày thường, chẳng c̣n một chút tinh anh lanh lợi nào như khi hồn ma đang c̣n nhập xác nó nữa.
Gặng hỏi măi, nó vẫn ấp úng chỉ lập đi lập lại có một câu: cháu đang ngồi chợt thấy rùng ḿnh, ớn lạnh xương sống, rồi đầu nặng chĩu như trước mắt như có trăm ngàn con đom đóm lập ḷe... Rồi cứ thế mê đi, chẳng c̣n biết đă làm ǵ nói ǵ nữa.
Mọi người cũng ngạc nhiên khi thấy đứa em họ Trung, cúi sát tận mồm Cu Tư, ngửi đi ngửi lại, hít mạnh nhiều lần, đoạn kêu lên sửng sốt :
- Ô hay! Thằng bé này vừa uống tới hơn mười chén rượu, mà sao bây giờ lại chẳng thấy có mùi rượu chi hết là nghĩa lư ǵ?
Trung nghe thế, cũng ṭ ṃ ghé mũi ngửi thử, th́ quả nhiên mồm Cu Tư chẳng có chi khác lạ ngoài hơi thở dập dồn của một đứa bé vừa trải qua một cơn hồi hộp, ngỡ ngàng.
Muốn thử thách thêm nữa, đứa em họ Trung c̣n đem điếu ra, nhồi thuốc lào, và châm lửa sẵn sàng, đưa se ép Cu Tư phải hút.
Thằng này không chịu hút, nhưng mọi người cố ép, cứ đem se vào miệng nó nài nỉ măi, bất đắc dĩ nó phải nhắm mắt rít...
Nhưng tiếng guốc điếu vừa kêu tanh tách được hai tiếng nhát gừng, khô khan, gượng gạo th́ Cu Tư bỗng sặc hơi, nước mắt nước mũi chảy ṛng ṛng, mặt đỏ gay như người say nắng, buông vội xe điếu ra, ho khù khụ đàm răi đầy mồm.
Lúc bấy giờ, mọi người mới tin chắc là đúng ông tổ họ Đặng Trần đă nhập đă nhập vào Cu Tư để mách bảo các việc trong nhà.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 618 of 2534: Đă gửi: 09 August 2008 lúc 11:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔI LỌ CỔ TRONG L̉NG HUYỆT
VẠ GIÓ TAI BAY
Sáng hôm sau nhà phong thủy không trở dậy sớm như thường lệ, v́ những việc xẩy ra trong đêm qua, do lời tiết lộ của cốt đồng, đă khiến lăo phải hoang mang lo sợ, không phải chỉ riêng cho bản thân lăo, mà c̣n thắc mắc cho cả gia đ́nh, không biết trong thời gian lăo lê gót phong trần đi khắp đó đây, vợ con lăo có được sống yên vui không?
Từ gần nửa năm nay, lăo chẳng nhận được tin tức chi tiết của gia đ́nh, v́ một lẽ rất dễ hiểu, vợ con lăo nào có biết rơ nơi ăn chốn ở của lăo bao giờ đâu ?
Quen sống cuộc đời giang hồ, lấy gió trăng làm bạn, đem tài học uyên bác đi thử thách thiên hạ, để gặp ai trung hậu, phúc đức, th́ tặng cho một ngôi đất quư, mà rủi nơi nào, chỉ gặp toàn những kẻ "mắt trắng", không ai biết đến lăo, th́ lăo lại ung dung xách khăn gói lên đường...
Do đấy, chẳng nơi nào lăo chịu ở lâu một tháng.
Nhưng từ khi đến vùng Mai Lĩnh, Đào Xá trước khi gặp mẹ con Đặng Mẫu, lăo đă t́m được ngôi đất quư, rồi mới trá h́nh hành khất lỡ độ đường để đi thử ḷng thiên hạ.
V́ vậy lăo mới phải ở lại vùng này lâu ngày để cố gắng yểm trừ con Hỏa, giúp cho họ Đặng Trần tránh khỏi tai họa khi ngôi mả tổ được kết phát.
Mải mê với công việc t́m đất và trấn yểm lăo đă quên lăng cả vợ con ở miền Trung, nên đêm qua, khi thấy cốt đồng hiện về báo trước vận hạn của con trai lăo, nhà phong thủy không khỏi giật ḿnh, phập phồng lo sợ cho vận mạng mấy người thân yêu trong gia đ́nh, trong suốt thời gian lăo mắc "đi giang hồ" để lo việc thiên hạ!
Ôm mối tâm tư sầu muộn, nặng chĩu bên ḷng, nhà phong thủy trằn trọc thâu đêm, nhiều lúc cố chợp mắt muốn t́m giấc ngủ, mong tạm quên niềm lo âu thắc mắc, nhưng cặp mắt lăo cứ mở trừng trừng, nh́n lên mái nhà, mặc dầu trong bóng đêm dầy đặc, lăo không hề phân biệt được ǵ, ngoài màu đen tăm tối.
Măi đến khi gà gáy báo sáng, lăo mệt mỏi quá, mới thiếp đi được chừng nửa trống canh.
Trong lúc ấy, mẹ con Đặng Mẫu đă chuẩn bị sẳn sàng nước sôi và ấm chén để chờ lăo trở dậy là có ngay mấy chén trà tàu uống cho sảng khoái tinh thần.
Nhưng lăo nằm măi cho đến lúc mặt trời đă lên cao tới hai con sào, mới chịu uể oải trở dậy, thần sắc bơ phờ hai mắt quầng thâm, chứng tỏ lăo đă trải qua một đêm lo nghĩ mông lung và mất ngủ hoàn toàn.
Mẹ con Đặng Mẫu lấm lét nh́n thầy địa lư với vẻ mặt xót thương ái ngại và bảo nhỏ nhau một câu ǵ không biết, mà chỉ thấy Trung lặng lẽ gật đầu rồi tất tả đi thẳng xuống bếp.
Đặng Mẫu bưng khay trà lên.
Thầy địa lư chưa uống xong tuần nước thứ ba th́ Trung đă đem lên một bát cháo đậu xanh, nóng hổi, ngon lành để mời lăo điểm tâm cho đỡ mệt.
Nể lời khuyên mời chí thiết của hai người, nhà phong thủy mới chịu nâng chén lên, gượng húp vài miếng cháo nóng, rồi vươn vai đứng dậy, định ra ngoài đồng thăm mộ và chuẩn bị công việc đem chôn mấy món bảo vật, mà hồn ma truyền bảo đêm trước. Nhưng lăo vừa bước xuống đất, th́ thấy đầu váng, mắt hoa, loạng choạng suưt ngă, nếu Trung không nhanh tay đỡ kịp, để d́u lăo vào nằm trong ổ rơm.
Bất giác lăo ngủ quên lúc nào không biết, cho măi đến lúc nghe quanh ḿnh có tiếng chuyện tṛ, xào xạc của nhiều người, lăo mới bàng hoàng tỉnh dậy, dụi mắt nh́n quanh.
Lăo c̣n ngơ ngác, chưa định thần hẳn th́ chợt có tiếng cất lên vui mừng niềm nở:
- Lạy Bác ạ, Bác đă dậy! Bác vẫn khoẻ mạnh chứ.
Lăo vội đứng hẳn dậy, nh́n kỹ và cũng rú lên mừng rỡ:
- Ồ ! Thằng Thanh ! Cháu Thanh ra đây từ bao giờ ?
- Sao lại t́m được đến nơi Bác ở? Hừ ! Giỏi thật!
Th́ ra, lăo đă nhận diện được đứa cháu họ, gọi lăo bằng Bác, vừa bằng trạc tuổi của con trai lăo, mà thuở thơ ấu, chúng là đôi trẻ rất thân thiết, tuy khác nhà, song không hề dấu diếm nhau một điều ǵ.
Chợt nhớ tới lời của cốt đồng nói đêm trước, lăo hỏi vội Thanh:
- Gia đ́nh Bác có được b́nh yên không hở cháu? Từ khi Bác ra đi, trong xóm làng có ǵ khác lạ không? Thanh nh́n xuống đất, đáp qua giọng buồn thảm năo nề:
- Thưa Bác, nhiều chuyện biến đổi lắm! V́ thế, cháu mới phải lặn ṃ ra tận đây để t́m Bác. Cháu khởi hành từ hạ tuần tháng mười, nhưng tới bây giờ mới đến được đây, là v́ vừa đi c̣n vừa hỏi thăm, lúc th́ có người nói mới gặp Bác ở tỉnh Đông, có kẻ lại bảo vừa trông thấy Bác đi ở mấy phủ huyện vùng Nam Định, Hà Đông, sau nhờ gặp một người lái bè, nói chắc chắn là vừa gặp Bác ở chợ Đào Xá, nên cháu mới biết đường t́m tới nơi chứ không th́ cũng đến phải về suông.
Thầy địa lư lo lắng, cắt ngang:
- Nhưng có việc ǵ cần kíp, mà cháu phải tốn công t́m Bác như thế? Nói mau cho Bác biết đi, kẻo Bác nóng ruột lắm rồi!
Thanh bỗng ngửng đầu lên nh́n nhà phong thủy, mắt chớp lia lịa mấy cái liền, rồi mới cất giọng thê thảm trả lời:
- Bác ra đi gần nửa năm nay, mấy tháng đầu, Bác gái với các anh, các chị cháu trong nhà, vẫn yên ổn làm ăn, mỗi người mỗi việc, chẳng xẩy ra chuyện ǵ đáng tiếc cả.
Bỗng cách đây chừng nửa tháng, ở làng bên có đám cướp đến giết ông cự phú và vơ vét hết bạc vàng với đồ quư giá. Quan trên tra hỏi, th́ không biết sao, một đứa lại khai là có gửi anh cả Duy nhà ta mười thoi vàng với ba mươi nén bạc.
Bác gái bồn chồn lo sợ quá, đă cố nhờ người đi khiếu oan, đi vận đông nhiều nơi, mà tiền mất, người vẫn bị giam. Hôm mới rồi, Quan huyện c̣n về làng, vào tận nhà bác, khám xét khắp mọi chỗ, song chẳng bắt được ǵ khả nghi, đáng gọi là tang vật hết, nên nhờ thế Bác gái với các anh chị trong nhà, mới không bị liên lụy.
Tuy nhiên, bác gái v́ lo buồn, khóc lóc ngày đêm thành ra đau yếu, ốm liệt giường liệt chiếu, phải cho gọi cháu tới, bảo cháu đi t́m Bác, để mời Bác về giải cứu cho anh Duy cháu. Bác gái có căn dặn rằng:
- Thế nào Bác cũng phải về ngay, th́ may ra mới lo liệu kịp thời, để giải cứu cho anh Duy, chứ nếu chậm trễ, quan Án Sát trên tỉnh đem ra pháp đ́nh luận tội th́ lúc ấy, dù Bác có về, cũng vô ích, không c̣n có đường lối nào cứu gỡ nữa đâu?
Nhà phong thủy há hốc mồm, hai mắt chớp lia lịa, rồi ràn rụa ngấn lệ, theo dơi từng lời nói của đứa cháu họ về tai họa của con trai và bệnh trạng của người vợ ở quê nhà. Lăo không ngờ chỉ có mới mấy tháng trời, mà gia đ́nh lăo lại gặp vạ gió tai bay liên miên đến như thế? Lăo thở dài năo nuột, thẫn thờ suy nghĩ một lúc lâu rồi mới lấy lại được sự b́nh tĩnh tâm hồn để bảo Thanh:
- Sự thể cần kíp như vậy, th́ thế nào Bác cũng phải về quê mới xong! Nhưng khốn nỗi ở đây, Bác c̣n mắc dở có câu chuyện chưa thu xếp kịp. Vậy cháu hăy ra về trước đi. Bây giờ mới có quá giờ Ngọ, trời c̣n sớm, cháu đi được tới đâu hay tới đó, tối th́ ngủ đỡ lại, đến mai sẽ đi tiếp.
C̣n Bác tối nay và ngày mai, Bác sẽ cố gắng lo liệu, thu xếp các công việc ở đây cho gọn gàng, chu đáo rồi sáng sớm ngày kia, Bác cũng sẽ lên đường. Có khi bác đi gấp, có thể c̣n đuổi kịp cháu, cũng không biết chừng. Nhưng nếu cháu về được trước, th́ nhớ nói với Bác gái và mọi người trong nhà là Bác sẽ có mặt ở gia đ́nh trong sớm tối. Các việc rồi sẽ thu xếp xong xuôi, không có chi đáng lo ngại hết.
Một nhà phú hộ trong làng, thấy Trung chăm chỉ, hiền lành gọi đến gả con gái cho Trung rồi lại giúp thêm trâu ḅ, thóc giống để vợ chồng Trung có thể cày cấy được nhiều hơn nữa? Do đấy, chẳng bao lâu, họ Đặng đă nghiễm nhiên là một gia đ́nh khá giả vào bậc trung lưu ở làng Đào Xá.
Năm sau, vợ Trung sinh con trai đứa nhỏ rất đĩnh ngộ, được đặt tên là Đặng Trần Thường. Trần Thường năm lên 7 tuổi, được cha mẹ cho nhập môn theo học ông Bảng Văn ở làng bên.
Cùng học với Thường, c̣n có cả Ngô Thời Nhiệm, một học sinh xuất sắc nhất trường ông Bảng lúc bấy giờ. Do đó, dù Thường là đứa trẻ thông minh chăm chỉ cũng không sao vượt nổi được Ngô Thời Nhiệm.
Trong những ngày b́nh văn ở trường, cũng như khi khảo khóa ở Tổng, ở Huyện, Thời Nhiệm luôn luôn được khen thưởng ưu hạng, mặc dầu Trần Thường hết sức cố gắng, cũng không sao b́ kịp được.
Tánh hiếu thắng của họ Đặng, từ đấy, c̣n kèm thêm tánh ghen ghét, người tài giỏi hơn ḿnh, nên v́ vậy, bề ngoài tuy cùng học một trường, đôi bạn trẻ vẫn chẳng mấy khi ưa nhau.
Ông Bảng Văn nhiều khi c̣n vô t́nh, đốt cháy thêm ngọn lửa căm hờn giữa Trần Thường và Thời Nhiệm, v́ những lúc b́nh văn, thử thách câu đối các học tṛ, thấy Ngô Thời Nhiệm quá lanh lợi, xuất sắc, ông Bảng thường không tiếc lời ngợi khen, khuyến khích, tin tưởng là tương lai sẽ vô cùng rực rỡ, gieo rắc thêm niềm hận thù trong tâm trí chàng trai họ Đặng.
Sinh nhằm thời ly loạn, lớn khôn giữa lúc đất nước đang bị hoạ đạo binh giữa quân đội của Bắc B́nh Vương với Chúa Nguyễn Ánh, nên Đặng Trần Thường theo pḥ Nguyễn Ánh ở miền Nam, c̣n Ngô Thời Nhiệm th́ đem hết tài học sở trường ra giúp Vua Quang Trung dựng nghiệp lớn.
Quả nhiên, nhờ học vấn uyên thâm uẩn súc, nhờ mưu kế biến ảo phi thường, Thời Nhiệm đă lập được nhiều công to, được Bắc B́nh Vương vô cùng quư trọng, coi Nhiệm như một bậc sĩ phu quán thông kim cổ. Trong khi ấy, Trần Thường theo pḥ Chúa Nguyễn Ánh cũng luôn luôn có dịp phát triển tài năng, giúp Nguyễn Vương rất đắc lực trong công cuộc tranh dành non sông với vua Quang Trung.
Thế rồi vua Quang Trung bỗng bị bạo bệnh, băng hà giữa lúc đang mưu toan nhiều điều ích quốc lợi dân, khiến cho triều thần cũng như sĩ thứ, lê dân, không một ai không khóc thương, tiêc hận cho sự nghiệp dở dang của vị đệ nhất anh hùng áo vải, người đă từng phá tan hai mươi vạn quân Thanh, bắt sống hàng ngàn viên dũng tướng của Thanh triều.
Vua Quang Trung về trời. Cuộc chiến tranh giữa nhà Tây Sơn với Nguyễn Ánh cũng biến chuyển theo. Đang ở thế chủ bại, Nguyễn Ánh quật khởi lần hồi, rồi dần dà diệt được nhà Tây Sơn, thống nhất nước Việt Nam. Nhiều danh tướng, công thần Tây Sơn bị bắt.
Đặng Trần Thường lẽ tất nhiên, đă lập được công lớn. Họ Đặng chợt nhớ đến mối thù từ thuở c̣n cắp sách đi học với Ngô Thời Nhiệm, liền truyền lệnh cho quân sĩ đi bắt Thời Nhiệm.
Ngô Thời Nhiệm bị trói quặt hai tay ra sau lưng, đi theo hai tên lính đến doanh trại họ Đặng, nhưng sắc diện không hề thay đổi hay có vẻ sợ sệt chi hết.
Đặng Trần Thường ngồi oai nghiêm trên chiếc sập gụ phủ vóc hồng, lưng ngă vào một chiếc đệm bông dầy, tay tựa trên một xấp gối xếp. Trước sập gụ, có đặt một chiếc án thư, trên bày đủ thứ văn phong tứ bảo, hai bên dàn hai giá binh khí trên cắm các loại kiếm, kích qua, mâu, trùy đồng, tầm xét, cực kỳ nguy nga, tráng lệ.
Hai tên lính áp giải Ngô Thời Nhiệm tới trước quan trường rồi ấn vai Thời Nhiệm bắt qú xuống. Vốn là nhà Nho mảnh khảnh, Thời Nhiệm không sức chống cự, lảo đảo ngă phệt xuống thềm gạch.
Từ trên sập gụ, họ Đặng phóng hai luồng nhỡn tuyến gay gắt như muốn thuyết phục kẻ đối diện, vốn là bạn đồng học thuở ấu thơ, rồi gằn giọng mỉa mai:
- Hừ ! Oan gia không ngờ lại có ngày nay! Thời Nhiệm! Hăy ngẩng cao đầu cho ta coi mặt nào! Đoạn cười nhạt, y tiếp lời nham hiểm:
- Ta c̣n nhớ rơ, năm xưa. Cụ Bảng Văn thường khen ngợi nhà ngươi tài cao học rộng, mẫn tiệp, thông minh, bước đường hoan lộ hẳn sẽ cao vút chín tầng mây, không một ai ở trong trường theo kịp, kể cả ta... Vậy mà... có ai ngờ đâu? Sự thể lại có ngày nay!
Ngô Thời Nhiệm như không màng đến sự sống chết, thản nhiên ngẩng cao đầu nh́n người bạn cũ, rồi cười mỉm, nửa như mỉa mai, nửa như đau khổ, chẳng nói một lời nào. Thấy thế, họ Đặng lại càng gay gắt hơn nữa :
- Nhớ lại thời kỳ c̣n theo học một trường, nhà ngươi vẫn nổi tiếng là "đệ nhất văn nhân" vậy nếu quả thực "danh bất hư truyền" nhà ngươi hăy thử đối lại đôi câu đối này của ta xem sao? Nếu hay, ta sẽ liệu cách khoan hồng cho nhà ngươi...
Dứt lời, họ Đặng ung dung cất cao giọng, sang sảng ngâm một vế câu đối:
"Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?"
Họ Đặng chưa dứt tiếng ngân cuối cùng của chữ "ai" th́ Ngô Thời Nhiệm đă ngồi xếp chân ṿng tṛn, trên nền gạch thản nhiên đối lại:
"Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, Gặp thời thế, thế thời phải thế".
Đặng Trần Thường gật đầu, như có ư khen ngợi vế câu đối đầy đủ ư nghĩa, rất chỉnh với vế của Thường.
Tuy nhiên, Thường vẫn sai quân lính áp giải Ngô Thời Nhiệm đến trước Văn Miếu, kết tội là "Nho gian" rồi nọc Nhiệm ra đánh cho đến chết.
Nhưng Đặng Trần Thường sau đấy, cũng bị vua Gia Long nghi ngờ hạ ngục.
Rồi Thường cũng bị chết đói trong ngục tối.
Quả đúng như lời tiên đoán của Thầy địa lư:
" Mai Lĩnh chi sơn khuất khúc, họa cập Hàn, Bành. "
Th́, Đặng Trần Thường sau bao năm trời nằm gai nếm mật, theo pḥ Nguyễn Ánh, nhiều khi suưt nguy tới tính mạng, bôn Nam, tẩu Bắc, lắm phen tưởng gần đất xa trời, vậy mà khi dựng nên nghiệp lớn, thống nhất được đất nước Việt Nam, họ Đặng lại chỉ được hưởng phú quư có mấy năm trời, rồi bị hạ ngục chết đói giữa chốn tăm tối lao tù.
Châu Lang
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 619 of 2534: Đă gửi: 10 August 2008 lúc 2:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN BÍ NÚI CẤM
Người dân Khơme ở An Giang thường gọi núi Cấm là Thalot, một ngọn núi được coi là đẹp nhất trong bảy ngọn núi thuộc dăy Thất Sơn ở miền Tây Nam Bộ.
Theo sách của các nhà phong thủy th́ dăy Thất Sơn chạy dọc theo sườn Tây An Giang giữa miền đồng bằng màu mỡ chính là nơi khí âm dương hội tụ mà núi Cấm là một long huyệt.
Nơi đây có rất nhiều loài hoa quả, chim muông cộng với rừng cây thác nước, hang động thật kỳ thú và hấp dẫn.
Ngay tại cửa núi có một ngôi miếu thờ sơn thần mà ai qua đó cũng dừng lại thắp nhang. Hai bên đường lên núi là rừng cây um tùm. Vượt qua bức tường đá, trước mắt du khách hiện ra một khung cảnh đẹp như tranh.
Ḍng thác đổ từ trên cao xuống các tảng đá xếp chồng lên nhau làm bọt nước bắn tung toé, tiếng thác đổ vang vọng trong gió núi lúc xa gần, những khối thạch nhũ lâu năm ở động Thủy Liêm tạo thành những h́nh thù, làm cho người xem thêm giàu trí tưởng tượng, và những đám mây bay ngang che khuất ánh mặt trời, tạo cảm giác những h́nh thù vừa thấy như biến mất...
Tiếp tục cuộc hành tŕnh du khách sẽ lên chùa Phật Lớn. Ngôi chùa nằm trong không gian tĩnh mịch, ch́m đắm bên những gốc bồ đề cổ thụ nhuốm màu thời gian hơn một thế kỷ.
Phóng tầm mắt ra xa, du khách sẽ thấy con kinh Vĩnh Tế, con kinh gắn liền với tên tuổi Thoại Ngọc Hầu, chạy dài và tiếp giáp với sông Giang Thành chảy ra biển Hà Tiên.
Không có cái dáng dấp hùng vĩ và trùng điệp như những dăy núi ở Tây Nguyên, nhưng ngoài vẻ đẹp hoang sơ kỳ bí, núi Cấm ở An Giang c̣n là một phên dậu mà thiên nhiên đă ban tặng, để bảo vệ sườn tây Tổ quốc từ thuở khẩn hoang lập ấp cho tới mai sau.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 620 of 2534: Đă gửi: 13 August 2008 lúc 8:43am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁI MIẾU BÊN ĐƯỜNG
Tôi tin là mỗi người chúng ta đều khác nhau về thể chất, tinh thần và tâm linh. Do vậy mỗi người đều có những kinh nghiệm về siêu nhiên không giống nhau và đặc thù. Có những người gặp những chuyện lạ vài lần, có người cả đời chả bao giờ gặp cả. Vấn đề tin hay không tin về siêu nhiên cũng bắt đầu từ đây mà ra cả.
Chuyện xẩy ra khoảng năm 1960 tới 1965 ở Sài G̣n khi ba tôi làm cho môt trường trung học công lập. Trong thời gian mùa hè, có ba giáo sư trẻ phải đi coi thi và chấm thi ớ miền Trung khoảng hai tuần.
Tới tỉnh đó, họ thấy môt cái miếu thờ một nhân vật nào đó mà họ không biết tên. Họ bàn tán, phê b́nh đây chỉ là chuyện hoang đường, láo lếu, bậy bạ rồi bỏ đi.
Ban đêm ba người về pḥng ngủ. Pḥng ngủ rộng có ba cái giường, có mùng và có một cái rương ở cuối pḥng đế ai muốn sử dụng th́ dùng.
Khi ba người tắt đèn đi ngủ, th́ tự nhiên có một bóng đèn màu đỏ không sáng lắm, cứ đi quanh lơ lửng từng mùng một chậm chậm, làm ai cũng sợ xanh máu mặt.
Một người can đảm bật đèn lên, th́ bóng đèn đỏ biến mất ngay trong cái rương ở cuối pḥng, nắp rương bật mở tung ra (không hiểu tại sao).
Ba người cứ để đèn sáng như vậy tới sáng và dĩ nhiên không ai ngủ được cả. Sáng hôm sau, cả ba người phải ra cái miếu xin tạ tội, khấn vái xin được tha. Điều lạ là mấy tối sau, không có chuyện ǵ xấy ra cả . Đây là chuyện có thật mà tôi biết được từ ba tôi khi tôi ở trung học.
trung khôi
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|