Tác giả |
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 21 of 73: Đă gửi: 09 July 2009 lúc 10:10am | Đă lưu IP
|
|
|
The Secret Doctrine
Isis Unveiled
2 quyển này có nhiều bản mà nn cũng chưa t́m xem bản nào là bản đầy đủ nhất. Quyển Isis Unveiled có bản lên đến hơn 2000 trang. Các bạn có thể t́m thêm, trong scribd hoặc ở nơi khác.
Các sách của ông Leadbeater và bà Besant có rất nhiều trên www.anandgholap.net, bao gồm luôn quyển Man: Whence, How and Whither.
Các tác phẩm của Chân Sư Djwhal Khul do bà Bailey đứng tên có lẽ có đủ trên trang www.lucistrust.org, kể cả 2 quyển Esoteric Healing và A Treatise on the Seven Rays. Các bạn chỉ cần đăng kư 1 tài khoản miễn phí là có thể đọc được sách trong phần Books Online.
Các quyển trên rất hay và có nhiều vấn đề lớn liên quan đến nhân loại. Nhưng để có thể đọc được, các bạn nên đọc kỹ các sách cơ bản và tất cả sách tiếng Việt mà ở bài đầu tiên nn đă nói tới. Sách Theosophy tiếng Việt cũng không nhiều nên các bạn sẽ không cần lo phải đọc quá lâu đâu.
Sửa lại bởi nickname : 10 July 2009 lúc 5:03am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 22 of 73: Đă gửi: 10 July 2009 lúc 5:04am | Đă lưu IP
|
|
|
Nhưng chủ yếu, những hạn chế này là không ṭ ṃ, ích kỷ trong việc sử dụng năng lực, và không phô diễn các hiện tượng. Có nghĩa là, cùng những lư do sẽ điều khiển hành động của một người có suy nghĩ đúng đắn nơi cơi trần cũng được mong muốn áp dụng trên cơi trung giới và thượng giới; người học viên dù trong trường hợp nào cùng không bao giờ sử dụng năng lực do những kiến thức bên ngoài đă trao cho y để phục vụ cho lợi ích trần tục của bản thân, hay thực sự có liên hệ với lợi ích ở mọi mức độ; và y không bao giờ được cho phép điều mà trong phạm vi tâm linh gọi là “sự kiểm chứng” – tức là, là không được làm bất kỳ điều ǵ sẽ chứng minh ở mức không thể chối căi đối với những người hoài nghi nơi cơi trần rằng y sở hữu cái mà họ xem như một năng lực bất thường.
Về điều kiện sau này người ta thường nói, “Nhưng tại sao không chứ? Sẽ thật dễ dàng để bác bỏ và thuyết phục người c̣n nghi ngờ, và nó tốt cho y!” Những người phê b́nh quên mất sự thực tế là, trước hết, không ai trong số những người biết bất kỳ điều ǵ muốn bác bỏ hay thuyết phục những người hoài nghi, hay tự làm ḿnh phiền phức v́ thái độ của những người đó; và thứ hai, họ không hiểu nó sẽ tốt hơn rất nhiều cho một người hoài nghi bởi y sẽ từ từ phát triển nhận thức hữu lư về tự nhiên, thay v́ đột nhiên trưng ra với một quả đấm. Nhưng vấn đề đă được suy xét một cách đầy đủ từ nhiều năm trước trong quyển Occult World của ông Sinnett, và sẽ là vô ích nếu lặp lại lư lẽ đă được tŕnh bày trong đó.
Thật sự rất khó để một vài người bạn của chúng ta nhận ra rằng sự tán gẫu vớ vẩn và tính hiếu kỳ vô ích, những thứ mà hoàn toàn lấp đầy cuộc sống của phần lớn người ngốc nghếch trên đời, không thể có một chỗ đứng nào trong cuộc sống đúng nghĩa của những người đệ tử; và do đó đôi khi họ hỏi rằng, ngay cả khi không có mong muốn để thấy, liệu một nhà thần nhăn có thể (ở đây có chữ “not”, nhưng nếu vậy khá tối nghĩa? -nn) t́nh cờ quan sát bí mật mà người khác đang cố giữ kín, cũng giống như ánh nh́n của một người ngẫu nhiên rơi trúng vào một câu trong một lá thư của người khác đang nằm trên mặt bàn. Dĩ nhiên y có thể, nhưng nếu thế th́ sao? Một người có danh dự sẽ ngay lập tức quay đi, trong trường hợp này hay trường hợp khác, giống như y chưa từng nh́n thấy. Nếu những người phản đối có thể nắm bắt ư nghĩ rằng không một học viên nào quan tâm đến vấn đề riêng của người khác, trừ khi y đang cố gắng giúp đỡ họ trong giới hạn cho phép, và rằng y luôn có cả một thế giới đầy công việc riêng để chú tâm, họ sẽ không quá khó khăn để hiểu sự thật về thế giới rộng lớn của nhà thần nhăn được huấn luyện.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 23 of 73: Đă gửi: 10 July 2009 lúc 8:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Ngay từ những chi tiết nhỏ mà tôi đă nói về các hạn chế ở người học viên, có một điều rất rơ ràng là trong rất nhiều trường hợp y sẽ biết nhiều hơn hẳn những ǵ y được tự do nói ra. Điều này hiển nhiên cũng đúng trong nhận thức vô cùng rộng lớn của chính các vị Chân Sư Minh Triết cao cả, và đó là lư do tại sao những người có được đặc ân bước vào thế giới có sự hiện hữu của các ngài vô cùng cẩn thận trong lời nói, vượt hơn cả sự dạy bảo trực tiếp. Bởi v́ ư kiến của một chân sư, hay ngay cả một trong những đệ tử lớn của ngài, là những ư kiến của một người có khả năng phán đoán chính xác vượt xa chúng ta.
Phẩm vị và các năng lực đă khai mở của ngài thật sự là di sản của toàn nhân loại, và, mặc dù hiện tại chúng ta c̣n xa để đạt được những sức mạnh to lớn này, chúng chắc chắn sẽ là của chúng ta một ngày nào đó. Tuy nhiên thế giới cũ này sẽ thật là khác biệt khi toàn thể nhân loại sở hữu nhăn thông cao cấp! Hăy nghĩ về sự khác biệt trong lịch sử khi tất cả đều có thể đọc từ các kư ảnh; trong khoa học, khi tất cả các quá tŕnh mà con người hiện nay đang lư luận có thể được quan sát toàn bộ; trong y học, khi bác sĩ và bệnh nhân đều có thể thấy rơ ràng và chính xác những ǵ đang thực hiện; trong triết học, khi tất cả mọi khả năng xảy ra tranh căi về nền tảng đều không c̣n nhờ, bởi tất cả đều có thể thấy một khía cạnh rộng lớn hơn của chân lư; trong lao động, khi trí năo và trái tim của trẻ nhỏ đều mở ra trước mắt người thầy sẽ h́nh thành cá tính cho chúng; trong tôn giáo, khi không c̣n bất cứ khả năng tranh căi nào về các giáo lư rộng lớn, v́ sự thật về các trạng thái sau khi chết, và Đại Luật thống ngự thế giới, đều rơ ràng với mọi con mắt.
Trên tất cả, sẽ dễ dàng hơn biết bao cho những người phát triển cao có thể giúp đỡ những người khác trong những điều kiện tự do hơn. Các khả năng mở ra trước trí tuệ giống như những viễn cảnh huy hoàng trải dài về mọi hướng, v́ vậy cuộc tuần hoàn thứ bảy chắc chắn là một thời đại hoàng kim thực sự. Thật tốt cho chúng ta là những năng lực to lớn này sẽ không được sở hữu bởi toàn thể nhân loại cho đến khi nó đă phát triển đến một mức độ cao về đạo đức cũng như hiểu biết, nếu không chúng ta sẽ chỉ lặp lại một t́nh trạng c̣n tồi tệ hơn sự suy thoái kinh khủng của nền văn minh Atlantic vĩ đại, mà những thành viên của nó đă thất bại trong việc hiểu được rằng năng lực càng to lớn nghĩa là trách nhiệm càng nặng nề. Tuy nhiên hầu hết chính chúng ta đă từng là những con người đó; chúng ta hăy hy vọng rằng chúng ta đă học được sự khôn ngoan từ thất bại đó, và khi các cơ hội của một cuộc sống rộng lớn hơn mở ra trước chúng ta một lần nữa, lần này chúng sẽ chịu đựng được thử thách một cách tốt đẹp hơn.
HẾT
Chú thích của nn:
+ Nếu nn không lầm th́ từ “cuộc tuần hoàn” được dùng để dịch chữ Round trong nhiều sách tiếng Việt trước đây. Vấn đề này nằm trong sự nghiên cứu về sự h́nh thành thái dương hệ, các hệ thống hành tinh, các dăy hành tinh, sự sinh hóa và chuyển đổi qua các hành tinh… Đây là các vấn đề vĩ mô mà nn thấy hiện tại chúng ta chưa cần lắm, nên có lẽ nn sẽ post sau này. Tất nhiên, nếu các bạn muốn đọc trước nn cũng sẽ không từ chối.
+ Nền văn minh Atlantic thuộc về giống dân thứ 4. Một số sách Theosophy cũng đă có viết rơ về vấn đề này. Nhưng nn cũng nghĩ hiện nay chúng ta chưa cần quan tâm đến chúng lắm. Chúng ta cứ đi chầm chậm vẫn hơn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 24 of 73: Đă gửi: 11 July 2009 lúc 12:21am | Đă lưu IP
|
|
|
VÀI LỜI VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
T́nh trạng các tôn giáo đấu đá phê phán lẫn nhau đă có từ rất lâu. Người này dựa vào giáo lư của ḿnh mà đả kích tôn giáo của người khác, cứ triền miên chưa bao giờ thôi. Hy vọng vài lời sau đây sẽ nói lên được vai tṛ của các tôn giáo và sự thống nhất của chúng.
- Một ví dụ cũ: ánh sáng trắng đi qua tấm thủy kinh màu đỏ th́ ra màu đỏ, qua tấm thủy tinh màu xanh th́ ra màu xanh. Như vậy mỗi một tôn giáo đều không phải chân lư, mà nó là sự biểu lộ của chân lư. Tấm kính thủy tinh ở đây là tŕnh độ trí tuệ của con người, hoàn cảnh không gian thời gian, đặc tính của dân tộc… Mỗi một tôn giáo ra đời là để giúp cho một số người trong một hoàn cảnh nhất định tiến bộ về tinh thần. Các đặc điểm khác nhau khiến các tôn giáo có sự tŕnh bày khác nhau về chân lư. V́ vậy, sự khác biệt không phải là lư do đúng đắn để khích bác, bài trừ lẫn nhau. Việc trích dẫn kinh sách để nói tôn giáo khác sai lầm cũng giống như nói màu xanh là chân lư, v́ vậy màu vàng là tà ma, rơ là một điều lố bịch. V́ câu từ trích dẫn từ kinh sách cũng chẳng phải màu trắng chân lư.
- Sự khác nhau, và ngay cả đối lập và phủ định lẫn nhau đều vô nghĩa, v́ chúng thống nhất trên các cơi cao. Ta hăy làm rơ điều này bằng một ví dụ về sự thiếu sót trong nhận thức. Giả sử có một tấm giấy h́nh chữ nhật. Ta uống cong nó và nhúng hai đầu 2 bên vào nước. Như vậy ta sẽ có tấm giấy cắt mặt nước tạo thành 2 đoạn thẳng. Như vậy nếu có một sinh vật sống trên mặt nước và chỉ có nhận thức trong không gian 2 chiều, nó sẽ thấy rằng 2 đoạn thẳng đó hoàn toàn không có liên hệ ǵ với nhau cả. Nhưng với ta, 2 đoạn thẳng đó chỉ là một phẩn của một h́nh chữ nhật mà sinh vật kia hoàn toàn không hiểu nổi. Điều này có nghĩa là, các tôn giáo đều thống nhất với nhau nơi các cơi cao, cho dù trong nhận thức bị giới hạn trong không gian 3 chiều của con người chúng có vẻ khác biệt và mâu thuẫn. Có nhiều người rất thích lư luận, đến mức có người dùng ư luận để chứng minh rằng linh hồn chỉ là một loại vật chất, v́ nó tương tác được với vật chất. Chắc chắn là họ có một trí tuệ rất phát triển và khả năng lư luận sắc bén. Nhưng họ quên mất một điều rằng một lư luận, từ ngữ do bộ năo tạo ra đều bị giới hạn trong không gian 3 chiều, v́ vậy hoàn toàn không thể được áp dụng cho các vấn đề cao hơn, ở các cơi giới cao hơn. Những ǵ tưởng khác biệt, hoàn toàn không khác, những ǵ tưởng mâu thuẫn, chỉ là các khía cạnh khác nhau của một vấn đề thống nhất.
- Tính tương đối của các tôn giáo: Ta nên nhớ rằng các tôn giáo lớn hiện nay đă ra đời từ hơn 2000 năm trước. Nó chỉ đáp ứng nhu cầu của con người thời đại đó mà thôi. Mọi bà mẹ đều biết cách chăm sóc con ḿnh như sau: thời gian đầu cho bú, từ từ cho ăn bột, cứng cáp rồi th́ cho ăn cơm. Vậy nên các tôn giáo cũng như các món ăn tinh thần của nhân loại trong từng thời kỳ. Nếu hiểu được điều này, ta sẽ chấp nhận các khuyết điểm của mọi tôn giáo và không tuyệt đối hóa nó. Mọi tôn giáo đều là cái tốt nhất cho con người ở thời đại và hoàn cảnh của nó, nhưng nó không đúng ở mức tuyệt đối. Và hơn nữa, điều này có nghĩa là khi nhân loại đă phát triển hơn, giống như một đứa nhỏ đang trướng thành dần, th́ các tôn giáo cũ đă không c̣n phù hợp, đứa nhỏ không thể ăn bột được nữa. Ta có thể nhận thấy rơ điều này, khi mà hiện nay, các tôn giáo cũ đều được con người hiểu biết rất dễ dàng. Những kiến thức mà đối với tŕnh độ con người 2000 năm trước là rất cao siêu, th́ giờ đây đa phần mọi người đều hiểu được rất mau chóng. T́nh trạng khao khát, không thỏa măn về tâm linh của nhân loại đă xảy ra một thời gian rồi, và một tôn giáo mới cũng sẽ sớm xuất hiện, khôi phục lại tính đúng đắn các tôn giáo cũ, hợp nhất chúng lại nhờ chân lư duy nhất mà chúng dựa trên, và đưa ra các khía cạnh mới về chân lư.
Sửa lại bởi nickname : 11 July 2009 lúc 12:23am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 25 of 73: Đă gửi: 11 July 2009 lúc 9:32am | Đă lưu IP
|
|
|
TRÍ TUỆ VÀ NIẾT BÀN
Nhiều người cho rằng sự phát triển trí tuệ có thể làm người ta không đến được giải thoát, niết bàn, hay sự sống đời đời. Nhưng đó là một ư nghĩ sai lạc. Việc biến ḿnh thành trơ trơ như gỗ đá không thể giúp một con người được giải thoát, trừ khi niết bàn là sự trống rỗng tịch diệt, và với những ai hiểu như vậy nn không có ǵ để nói thêm v́ nn không có cách nào chứng minh được vấn đề này. Nhưng nn tin rằng niết bàn, hay sự sống đời đời không phải như vậy, v́ chẳng có ích ǵ khi Thượng Đế tạo ra con người với mục đích chịu đựng đau khổ để rồi biến mất một cách vô nghĩa. Và nếu niết bàn không phải sự trống rỗng, ta biết rằng ta không thể tự biến thành gỗ đá để đạt được nó. Để hiểu được giải thoát là ǵ, th́ có lẽ ta nên hiểu trói buộc là ǵ trước, đó là vấn đề tại sao con người sinh ra và luân hồi. Nguyên nhân thực sự của nó là nhu cầu biểu lộ của linh hồn. Linh hồn muốn được biểu lộ cũng như Thượng Đế biểu lộ bằng vũ trụ này. Linh hồn có toàn thiện hay không, nn không biết. Nhưng dù có hay không, th́ chắc chắn một điều rằng nó không toàn thiện ở cơi trần này. Linh hồn nếu có toàn thiện th́ nó chỉ toàn thiện nơi cơi giới tinh thần của nó, nhưng nó chưa có khả năng để biểu lộ toàn bộ sức mạnh của ḿnh nơi các cơi thấp. Để làm được điều đó, linh hồn nhập vào vật chất và học hỏi cách chế ngự nó. Khi mục tiêu được hoàn thành, tức linh hồn đă hoàn thành tất cả các bài học có nơi các cơi thấp, nó không cần phải tái sinh nữa. Khi đó, linh hồn đă làm chủ được vật chất và có khả năng biểu lộ hoàn toàn, con người trở nên hoàn thiện và được giải thoát, đạt đến niết bàn, sống một cuộc sống đời đời. Và như vậy, trí tuệ, đạo đức, cũng như tất cả các khía cạnh của con người phải được hoàn thiện trước khi có thể được giải thoát. Đối với những người như vậy, trái đất này không c̣n ǵ để họ học hỏi, không c̣n một bí ẩn nào trước sự minh triết của họ. Mọi người đều ngưỡng mộ trí tuệ của Einstein, nhưng ông không phải một người hàon thiện, v́ vậy, trí tuệ ông hoàn toàn không thể so sánh được với Thần Thánh, với Đấng Christ hay Phật Thích Ca. Những Đấng Cao Cả này đă từng là người như chúng ta, và đạt đến sự hoàn thiện trong bao nhiêu kiếp luân hồi. Trí tuệ của các Ngài vượt xa Einstein, khả năng âm nhạc hơn hẳn Wagner… tất cả mọi khía cạnh đều nằm ngoài sức tưởng tượng của con người. Vậy tại sao trong lịch sử không hề thấy những biểu hiện này? Ta có thể thấy là, không một người thầy nào lại thể hiện kiến thức đại học với một học sinh lớp một cả. Cũng với lư do như vậy, các Đạo Sư cao cả không khoe khoang kiến thức trước nhân loại, v́ điều đó không giúp ích ǵ cho ai hết. Các Ngài không như chúng ta. Trong khi chúng ta bé nhỏ và hèn mọn với những khả năng ít ỏi th́ chúng ta cứ muốn ph́nh to ra, thể hiện bản thân đến mức tối đa; c̣n các Ngài quá cao tuyệt, quá vĩ đại, các Ngài tự giới hạn bản thân lại để có thể giúp đỡ cho người khác, đó là đức khiêm tốn thực sự.
Cho nên điều cuối cùng mà nn muốn nói rất đơn giản, chỉ là ta cần phát triển tất cả mọi khía cạnh, trong đó có cả trí tuệ, để có thể đạt đến sự toàn thiện và giải thoát, hoàn toàn không phải tự biến ḿnh thành cục đá mà được.
Sửa lại bởi nickname : 11 July 2009 lúc 9:37am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Tue Quang Hội viên
Đă tham gia: 06 April 2009
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 117
|
Msg 26 of 73: Đă gửi: 11 July 2009 lúc 10:47am | Đă lưu IP
|
|
|
Đọc bài viết nickname cũng thấy hay
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 27 of 73: Đă gửi: 12 July 2009 lúc 6:34am | Đă lưu IP
|
|
|
Cảm ơn Tue Quang, rất vui v́ bạn đă quan tâm đến chủ đề.
Sửa lại bởi nickname : 12 July 2009 lúc 6:35am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 28 of 73: Đă gửi: 12 July 2009 lúc 6:36am | Đă lưu IP
|
|
|
NN xin dịch trích đoạn để tóm lược các cách hoạt động của nhăn thông không gian, tức khả năng nh́n thấy các vật vô h́nh ở khoảng cách xa. Ông Leadbeater đă phân nhăn thông không gian thành 5 loại chính:
1- Bằng sự trợ giúp của một tinh linh thiên nhiên (nature-spirit).
Phương pháp này không nhất thiết phải bao gồm sự sở hữu một năng lực “tâm linh” nào về phần người thí nghiệm; y chỉ cần biết cách kêu gọi một thực thể trung giới nào đó t́m hiểu thay y. Điều này có thể được thực hiện cả bởi cần khẩn lẫn ra lệnh: có nghĩa là, người thực hiện có thể hoặc thuyết phục trợ lư trung giới của y bằng cách thỉnh cầu và đề nghị cho hắn những ǵ hắn muốn, hay y có thể bắt buộc giúp đỡ bằng cách ra lệnh với một ư chí phát triển cao. (bỏ qua vài câu) Trong mọi trường hợp, như tôi cũng đă nói, phương pháp này hoàn toàn không phải nhăn thông, mà là ma thuật; và nó được nói đến ở đây chỉ để giúp người đọc không bị lẫn lộn khi cố gắng phân loại các trường hợp sử dụng nó dưới một trong các tiêu đề sau.
2- Bằng các ḍng vật chất trung giới.
Phần này chúng ta sẽ quay lại sau, nn chỉ xin tóm tắt lại: Ta có thể tạo ra một đường dẫn bằng vật chất trung giới để chuyển tải các rung động, cũng giống như dây điện thoại cơi trần vậy. Việc nh́n qua đường dẫn này không khác mấy nh́n bằng một ống nḥm cơi trần trong nhiều trường hợp. Nhưng các vật nh́n thấy có kích thước nhỏ, nhưng do khả năng của nhăn quan trung giới, các vật nhỏ đều được nh́n thấy rơ nét (dĩ nhiên là chỉ với năhn quan đă phát triển hoàn toàn).
3- Bằng cách phóng xuất một h́nh tư tưởng.
NN tóm tắt: Phương pháp này cao hơn phương pháp trước v́ đ̣i hỏi một khả năng làm chủ tương đối năng lực cơi thượng giới. Phương pháp này tạo ra 1 h́nh giả thay ta đi đến nơi muốn quan sát, có thể chuyển đổi góc nh́n theo ư muốn, và cho h́nh ảnh giống như ta đang trực tiếp đến vị trí cần quan sát vậy. Phương pháp này hiếm gặp ở những người không có sự huấn luyện hơn phương pháp thứ hai v́ đ̣i hỏi ư thức nơi cơi thượng giới.
4- Bằng cách di chuyển trong thể cảm xúc.
5- Bằng cách di chuyển trong thể trí tuệ.
Ư kiến của nn: 2 phương pháp sau này là cái người ta thường gọi là xuất hồn (dĩ nhiên là từ dùng sai, v́ không có linh hồn nào xuất ra cả), xuất vía, nhưng phương pháp cuối cùng cơ lẽ đặc biệt hiếm gặp v́ đ̣i hỏi năng lực khá cao ở thượng giới. Trong phim Tây Du Kư, Tôn Ngộ Không hay dùng năng lực này. Và nn có 1 giả thuyết rằng khi nói xuống biển gặp Long Vương là nói đến cơi trung giới, c̣n trên thiên đ́nh, th́ có lẽ là thượng giới, và dĩ nhiên Ngọc Hoàng ở đây không phải Thượng Đế, mà chắc là phiên bản Trung Hoa của Thiên Đế Anh Tra trong thần thoại Ấn Độ.
Trong huyền bí học, nước chính là biểu tượng của cơi trung giới. Bài kế tiếp chúng ta sẽ nói kỹ hơn về vấn đề này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 29 of 73: Đă gửi: 12 July 2009 lúc 11:14am | Đă lưu IP
|
|
|
Rất xin lỗi các bạn, nhưng hiện tại nn chưa t́m ra lại các sách có chứa vấn đề này. NN sẽ cố gắng thực hiện điều này trong thời gian sớm nhất. Tạm thời, nn xin tiếp tục dịch quyển Clairvoyant.
CHƯƠNG -8-
NHĂN THÔNG THỜI GIAN: TƯƠNG LAI
Ngay cả khi, chúng ta lờ mờ cảm thấy có thể nắm bắt được ư tưởng rằng toàn bộ quá khứ có thể hiện diện một cách đồng thời và linh hoạt trong một tâm thức đủ hứng khởi, chúng ta vẫn gặp phải một khó khăn lớn hơn khi cố gắng để hiểu cái cách mà toàn bộ tương lai cũng có thể được lĩnh hội trong tâm thức đó. Nếu chúng ta có thể tin vào học thuyết của Hồi giáo về số mệnh, hay lư thuyết của Calvin về tiên định, khái niệm đó sẽ là dễ dàng, nhưng như chúng ta biết, cả hai đều là những sự bóp méo sự thật một cách lố bịch, chúng ta cần t́m một giả thuyết khả chấp hơn.
Vẫn c̣n nhiều người phủ nhận khả năng của sự thấy trước, nhưng một sự phủ nhận như vậy chỉ cho thấy sự thiếu hiểu biết của họ về bằng chứng của vấn đề. Một lượng lớn các trường hợp được xác thực không chừa một chỗ nào cho sự nghi ngờ về sự thật này, nhưng bản chất của nhiều trường hợp trong đó khiến cho sự giải thích hợp lư là rất không dễ dàng. Hiển nhiên là linh hồn sở hữu một lượng nhất định năng lực tiên tri, và nếu sự kiện được thấy trước luôn luôn cựcu kỳ quan trọng, ta có thể giải sử rằng một kích thích đặc biệt chỉ trong lúc đó đă cho phép y gây một ấn tượng rơ ràng lên phàm ngă về những ǵ y thấy được. Chắc chắn đó là lời giải thích cho nhiều trường hợp thấy trước cái chết hay thảm họa khủng khiếp, nhưng vẫn có một số lớn các trường hợp được ghi chép không thể được giải thích như vậy, v́ những sự kiện được báo trước thường quá tầm thường và không chút quan trọng.
Một câu chuyện nổi tiếng ở Scotland về linh cảm sẽ minh họa cho ư của tôi. Một người đàn ông không tin tưởng vào các vấn đề huyền bí đă được báo trước bởi một nhà tiên tri vùng Highland về cái chết sắp đến của người hàng xóm. Lời tiên tri được đưa ra với số lượng chi tiết đáng kể, bao gồm sự miêu tả đầy đủ về đám tang, với tên của bốn người hộ tang bên quan tài và những người khác sẽ đến đó. Người nghe dường như đă cười vào toàn bộ câu chuyện và nhanh chóng quên mất nó, nhưng cái chết của người hàng xóm đúng vào thời điểm được báo trước đă nhắc lại lời cảnh báo, và y quyết định làm sai lạc một phần của sự dự báo bằng cách tự trở thành một trong những người hộ quan. Y đă sắp xếp được vấn đề như ư muốn, nhưng ngay khi tang lễ sắp bắt đầu y lại bị gọi đi khỏi vị trí v́ một vấn đề nhỏ nào đó, tŕ hoăn y trong chỉ một hay hai phút. Khi vội vàng quay lại, y ngạc nhiên thấy rằng đám rước đă bắt đầu àm không có y, và lời dự báo đă hoàn toàn chính xác, v́ bốn người hộ tang chính là những người đă được nói đến trong linh ảnh.
Bây giờ đến một vấn đề rất vụn vặt, có lẽ không thể nào quan trọng với bất kỳ ai, được thấy trước hàng tháng trước đó một cách rơ ràng; và mặc dù một người nhất quyết cố gắng thay đổi sự an bài biết trước y vẫn hoàn toàn thất bại, không thể ảnh hưởng nó một chút nào. Hiển nhiên điều này rất giống với thuyết tiên định, ngay trong những chi tiết nhỏ nhất, và chỉ khi xem xét vấn đề này từ các cơi cao chúng ta mới có thể thoát khỏi lư thuyết đó. Dĩ nhiên, như tôi đă nói trước đó về một nhánh khác của vấn đề, một lời giải thích đầy đủ vẫn vượt quá tầm của chúng ta, và rơ ràng cần phải như vậy cho đến khi sự hiểu biết của chúng ta lớn hơn rất nhiều so với hiện tại; điều tốt nhất mà chúng ta hy vọng có thể làm lúc này là chỉ ra hướng để có thể t́m ra lời giải thích.
Chắc chắn rằng bất cứ điều ǵ đang xảy ra lúc này là kết quả của những nguyên nhân vận hành trong quá khức, v́ vậy những ǵ sẽ xảy ra trong tương lai sẽ là kết quả của những nguyên nhân đang hoạt động. Ngay ở dưới đây chúng ta cũng có thể dự tính được rằng nếu những hành động nhất định xảy ra th́ sẽ có những kết quả nhất định tiếp nối, nhưng sự dự đoán của ta luôn luôn có khả năng bị quấy nhiễu bởi sự xen vào của các yếu tố mà ta đă không thể tính đến. Nhưng nếu ta nâng cao tâm thức lên cơi thượng giới ta có thể thấy xa hơn rất nhiều các kết quả của các hành động của ta.
Ta có thể theo dấu, lấy ví dụ, hậu quả của một lời nói ngẫu nhiên, không phải chỉ lên người đă thốt ra nó, mà cả xung quanh y trên rất nhiều người khác mà nó đi qua trong ṿng tṛn đang mở rộng, cho đến khi nó dường như đă ảnh hưởng toàn bộ đất nước; và một cái nh́n vào một linh ảnh như vậy th́ hiệu quả hơn nhiều bất cứ số lượng lời giáo huấn đạo đức nào nói về sự cần thiết phải thận trọng cao độ trong tư tưởng, lời nói, và hành vi. V́ vậy ta không chỉ thấy từ cơi giới đó hậu quả của mỗi hành động, mà ta c̣n thấy được nơi đâu và bằng cách nào những hậu quả của các hành động khác tưởng chừng không liên hệ với nó sẽ có thể can thiệp và điều chỉnh nó. Thực tế, người ta có thể nói rằng những hậu quả của mọi nguyên nhân vận hành trong lúc này đều được nh́n thấy rơ ràng – rằng tương lai, như nó sẽ xảy ra nếu hoàn toàn không có những nguyên nhân mới sẽ nảy sinh, nằm ngay trước mắt chúng ta.
Những nguyên nhân mới dĩ nhiên sẽ nảy sinh, bởi con người có ư chí tự do; nhưng trong trường hợp của người b́nh thường sự sử dụng tự do của họ có thể được tính toán trước với độ chính xác đáng kể. Người trung b́nh có rất ít ư chí đúng nghĩa nên y gần như là con người của hoàn cảnh; hành động của y trong các kiếp trước đặt y trong những môi trường nhất định, và ảnh hưởng của chúng lên y thật sự là nhân tố quan trọng nhất trong cuộc đời khiến cho tương lai của y gần như có thể được dự đoán chính xác hoàn toàn. Với người phát triển cao vấn đề lại khác hẳn; v́ y cũng có các sự kiện chính của cuộc đời được sắp đặt bởi các hành động trong quá khứ, nhưng cái cách mà y cho phép chúng ảnh hưởng ḿnh, các phương pháp mà y đối mặt với chúng và có thể chiến thắng chúng – những thứ đó hoàn toàn thuộc về y, và chúng không thể được thấy trước ngay cả trên cơi thượng giới mà chỉ có các khả năng.
Nh́n xuống cuộc đời một người từ bên trên theo cách này, nó giống như thể ư chí tự do của y chỉ có thể được thực hiện ở những khúc quanh nhất định trong cuộc đời. Y đi đến một điểm trong cuộc đời nơi mà tại đó rơ ràng có hai hay ba con đường mở ra trước y; y hoàn toàn tự do để lựa chọn cái y thích, và dẫu cho một người nào đó biết rơ bản chất y sẽ có thể cảm biết hầu như chắc chắn lựa chọn của y sẽ là ǵ, một sự hiểu biết như vậy về phần người bạn hoàn toàn không phải một sức mạnh hấp dẫn.
Nhưng khi y đă chọn, y phải đi với nó đến cùng và nhận lấy các hậu quả; khi đă bước vào một con đường riêng biệt y có thể, trong nhiều trường hợp, bị bắt buộc đi tiếp trên một quăng đường dài trước khi y có cơ hội rẽ hướng. Vị trí của y có giống với người lái một đoàn tàu; khi y đến một ga đầu mối y có thể có những điểm chọn đường này hay đường khác, và v́ vậy có thể đi trên bất cứ tuyến đường nào y thích, nhưng khi y đă đi qua một một trong số chúng y bị bắt buộc phải chạy dọc con đường mà y đă chọn cho đến khi y đến các điểm khác, nơi có một cơ hội lực chọn lại được trao cho y.
Bây giờ, nh́n xuống phía dưới từ cơi thượng giới, những điểm khởi hành mới sẽ được thấy rơ ràng, và tất cả các hậu quả của mỗi lựa chọn sẽ trải dài trước mắt chúng ta, chắc chắn sẽ được giải quyết đến từng chi tiết nhỏ nhất. Điểm duy nhất sẽ vẫn không chắc chắn sẽ là điểm tối quan trọng mà y sẽ phải lựa chọn. Chúng ta sẽ, thật vậy, sẽ không có một mà là một vài tương lai vẽ ra trước mắt, và không nhất thiết phải có khả năng quyết định xem cái nào sẽ vật chất hóa chính nó thành sự thực trọn vẹn. Trong hầu hết các trường hợp ta sẽ thấy một xác suất rất lớn đến nỗi ta không cần do dự khi đi đến một quyết định, nhưng trường hợp mà tôi đă miêu tả là hoàn toàn có thể xảy ra về mặt lư thuyết. Tuy nhiên, ngay cả khi những kiến thức này sẽ cho phép ta dự đoán nhiều thứ một cách an toàn; không khó để ta h́nh dung rằng có một sức mạnh cao cả hơn nhiều so với chúng ta có thể luôn luôn thấy trước mọi lực chọn được thực hiện, và từ đó tiên đoán với sự chắc chắn tuyệt đối.
Tuy vậy, trên cơi bồ đề (buddhic plane, trên mental plane 1 cơi -nn), một quá tŕnh tính toán tỉnh thức phức tạp như vậy là không cần thiết, v́, như tôi đă nói trước đó, trong một cách mà dưới này hoàn toàn không thể giải thích được, quá khứ, hiện tại, và tương lai tất cả đều hiện hữu cùng một lúc. Ta chỉ có thể chấp nhận sự thật này, v́ nguyên nhân của nó nằm trong năng lực của cơi giới này, và cách mà năng lực này hoạt động tự nhiên là hoàn toàn không thể hiểu được bằng bộ óc vật chất. Tuy nhiên bây giờ và sau đó ta có thể bắt gặp một gợi ư đưa ta đến gần hơn cái khả năng mơ hồ có thể hiểu được vấn đề. Một gợi ư như vậy đă được đưa ra bởi Ngài Olive Lodge trong diễn văn gửi đến British Association ở Cardiff. Ông nói;
“Một ư tưởng sáng sủa và có ích là thời gian chỉ là một phương thức tương đối để nhận biết các sự vật; ta tiến triển xuyên qua các hiện tượng ở một tốc độ nhất định và sự tiến triển chủ quan này chúng ta giải thích trong một cách thức khách quan, như thể các sự kiện nhất thiết phải di chuyển trong trật tự này và với đúng tốc độ này. Nhưng đó có thể chỉ là một cách để nhận biết chúng. Các sự kiện có thể trong một cách nào đó vẫn luôn hiện tồn, cả quá khứ và tương lai, và có thể là chính chúng ta đang đi qua chúng, chứ không phải chúng đang diễn ra. Sự tương tự của một người lái tàu trong một chuyến tàu hỏa sẽ giúp ích cho việc này; nếu y không bao giờ rời tàu hay thay đổi vận tốc ccủa nó y sẽ có thể xem các cảnh vật tất yếu là đang nôi tiếp nhau và không thể hiểu được sự cùng tồn tại của chúng… Từ đó, ta hiểu được một khả năng có khía cạnh chiều thứ tư về thời gian, sự không lay chuyển được của ḍng chảy thời gian có thể là phần giới hạn tự nhiên hiện nay của chúng ta. Và nếu ta có một lần nắm được ư niệm quá khứ và tương lai có thể thực sự đang hiện tồn, ta có thể thấy rằng chúng có thể có một ảnh hưởng quyết định lên tất cả hành động hiện tại, and the two together may constitute the 'higher plane' or totality of things after which, as it seems to me, we are impelled to seek, in connection with the directing of form or determinism, and the action of living beings consciously directed to a definite and preconceived end".
Thời gian hoàn toàn không có thật trong chiều không gian thứ tư; tuy nhiên xem xét nó trong lúc này từ quan điểm đó có thể giúp ích phần nào để hiểu được điều không tưởng. Giả sử ta giữ một vật h́nh nón bằng gỗ thẳng góc với một tờ giấy, và chậm răi đẩy nó xuyên qua điểm đầu tiên. Một vi sinh vật sống trên bề mặt tờ giấy, và không có năng lực hận thức ǵ ngoài bề mặt đó, sẽ không chỉ không bao giờ thấy vật h́nh nón như một khối thống nhất, mà c̣n không thể nhận thức được một h́nh dạng ǵ giống như vậy. Tất cả những ǵ nó thấy sẽ là sự xuất hiện đột ngột của một ṿng tṛn nhỏ xíu, cứ lớn lên một cách từ từ và hết sức lạ lùng cho đến khi nó biến mất khỏi thế giới của nó cũng đột ngột và không thể hiểu được như nó đă xuất hiện.
V́ vậy, cái thực tế là một loạt các mặt cắt của h́nh nón đối với y sẽ là các giai đoạn liên tiếp trong đời sống của một ṿng tṛn, và nó sẽ khôn thể hiểu được ư tưởng là những giai đoạn kế tiếp đó lại có thể được nh́n thấy cùng một lúc. Nhưng nó là như vậy, dĩ nhiên, chúng ta có thể, nh́n xuống từ một chiều khác, dễ dàng thấy được rằng vi sinh vật kia đơn giản là bị một ảo tưởng sinh ra từ chính hạn chế của nó, và vật h́nh nó tồn tại như một khối trong suốt thời gian. Ảo tưởng của chúng ta về quá khứ, hiện tại, và tương lai có thể không toàn không khác ǵ, và quan điểm đạt được về thứ tự của các sự kiện từ cơi bồ đề tương ứng với quan điểm vật h́nh nón là một khối duy nhất. Đương nhiên, bất kỳ sự cố gắng kết thúc gợi ư này đặt chúng ta vào một loạt các nghịch lư gây kinh ngạc; nhưng sự thật vẫn là sự thật, và sẽ đến lúc nó trở nên rơ như ban ngày đối với nhận thức của chúng ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 30 of 73: Đă gửi: 13 July 2009 lúc 9:54am | Đă lưu IP
|
|
|
"Thời gian hoàn toàn không có thật trong chiều không gian thứ tư; tuy nhiên xem xét nó trong lúc này từ quan điểm đó có thể giúp ích phần nào để hiểu được điều không tưởng. Giả sử ta giữ một vật h́nh nón bằng gỗ thẳng góc với một tờ giấy, và chậm răi đẩy nó xuyên qua điểm đầu tiên. Một vi sinh vật sống trên bề mặt tờ giấy, và không có năng lực hận thức ǵ ngoài bề mặt đó, sẽ không chỉ không bao giờ thấy vật h́nh nón như một khối thống nhất, mà c̣n không thể nhận thức được một h́nh dạng ǵ giống như vậy. Tất cả những ǵ nó thấy sẽ là sự xuất hiện đột ngột của một ṿng tṛn nhỏ xíu, cứ lớn lên một cách từ từ và hết sức lạ lùng cho đến khi nó biến mất khỏi thế giới của nó cũng đột ngột và không thể hiểu được như nó đă xuất hiện.
V́ vậy, cái thực tế là một loạt các mặt cắt của h́nh nón đối với y sẽ là các giai đoạn liên tiếp trong đời sống của một ṿng tṛn, và nó sẽ khôn thể hiểu được ư tưởng là những giai đoạn kế tiếp đó lại có thể được nh́n thấy cùng một lúc. Nhưng nó là như vậy, dĩ nhiên, chúng ta có thể, nh́n xuống từ một chiều khác, dễ dàng thấy được rằng vi sinh vật kia đơn giản là bị một ảo tưởng sinh ra từ chính hạn chế của nó, và vật h́nh nó tồn tại như một khối trong suốt thời gian. Ảo tưởng của chúng ta về quá khứ, hiện tại, và tương lai có thể không toàn không khác ǵ, và quan điểm đạt được về thứ tự của các sự kiện từ cơi bồ đề tương ứng với quan điểm vật h́nh nón là một khối duy nhất. Đương nhiên, bất kỳ sự cố gắng kết thúc gợi ư này đặt chúng ta vào một loạt các nghịch lư gây kinh ngạc; nhưng sự thật vẫn là sự thật, và sẽ đến lúc nó trở nên rơ như ban ngày đối với nhận thức của chúng ta."
Như các bạn thấy, từ đầu đến giờ chúng ta sử dụng khá nhiều ví dụ về sự khác biệt của ư thức trong không gian hai chiều và ba chiều. Điều này thật sự có ích v́ chúng ta chưa có được cơ hội trải nghiệm trực tiếp về không gian 4 chiều. V́ thế sự so sánh này có thể cho chúng ta một ư niệm về giới hạn tâm thức của chúng ta trong không gian 3 chiều, và những khả năng mà con người đạt được khi có được ư thức trên một chiều đo khác.
NN xin được dịch tiếp:
V́ thế, khi tâm thức của người học sinh đă phát triển đầy đủ trên cơi bồ đề, sự thấy trước hoàn hảo là hoàn toàn có thể đối với y, mặc dù y có thể không, hay đúng hơn, y sẽ không thể mang toàn bộ kết quả của điều thấy trước vào cuộc sống này một cách đầy đủ và có trật tự. Tuy nhiên, sự thấy trước nhiều điều một cách rơ ràng chắc chắn sẽ nằm trong khả năng của y, bất cứ khi nào y muốn; và ngay cả khi y không cố ư, những ánh chớp tiên tri vẫn thường xuyên đi vào đời sống thông thường của y, v́ vậy y thường có một trực giác tức thời về cái cách sự việc sẽ diễn ra ngay cả trước khi chúng bắt đầu.
Với loại thấy trước hoàn hảo này, chúng ta thấy rằng, như các trường hợp trước đó, loại nhăn thông này có ở mọi mức độ, từ những linh cảm mơ hồ đôi khi xảy ra khó có thể được gọi là thấy trước, đến khả năng biết trước thường xuyên và tương đối hoàn hảo. Tên của loại năng lực sau này không được chính xác cho lắm, tuy nhiên đó là một năng lực đặc biệt thú vị và sẽ được nghiên cứu kỹ lưỡng và có hệ thống hơn trước đó.
Chúng ta thường được cho biết rằng nhăn thông này không phải hiếm xảy ra nơi những người Highland ở Scotland, mặc dù họ chưa hề khẳng định điều đó. Những trường hợp thỉnh thoảng xảy ra có mặt ở hầu hết mọi quốc gia, nhưng nó luôn luôn thường thấy nhất giữa những người miền núi và người sống ẩn dật. Ở Anh Quốc, ta thường được nghe về đặc điểm riêng biệt này của chủng tộc Celtic, nhưng thực tế, các trường hợp xảy ra tương tự nhau giữa các dân tộc trên khắp thế giới. Ví dụ như, người ta cho rằng nó rất thường thấy ở những người nông dân vùng Westphalia.
Đôi khi nhăn quan thứ hai bao gồm một h́nh ảnh rơ nét cho thấy trước một sự kiện sắp xảy ra; hay có lẽ thường gặp hơn là những cái nh́n thoáng qua về tương lai bằng những h́nh ảnh biểu tượng. Đáng chú ư là những sự kiện thấy trước luôn là những việc tồi tệ - trong đó điềm chết là thường thấy nhất; tôi không nhớ được một trường hợp nào mà linh thị không thuộc loại buồn thảm nhất. Nó có cả một hệ thống biểu tượng khủng khiếp của chính nó – một hệ thống biểu tượng với vải liệm và ma trơi, và những thứ chết chóc ghê rợn khác. Trong vài trường hợp nó dường như phụ thuộc phần nào vào vị trí địa lư, v́ người ta nói rằng những cư dân có loại năng lực này ở đảo Isle of Skye thường mất nó khi rời đảo, ngay cả khi chỉ là đi vào đất liền. Nhăn quan này đôi khi di truyền trong một ḍng họ qua nhiều thế hệ, nhưng đây không phải một định luật, v́ nó thường xuất hiện rải rác nơi một người trong ḍng họ không phải chịu ảnh hưởng bi thảm của nó trong một khía cạnh khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 31 of 73: Đă gửi: 13 July 2009 lúc 9:54am | Đă lưu IP
|
|
|
Chúng ta đă có một ví dụ trong đó h́nh ảnh chính xác về một sự kiện sắp xảy đến đă được nh́n thấy trước đó vài tháng. Đây là một ví dụ khác và có lẽ c̣n ấn tượng hơn, tôi sẽ tŕnh bày nó chính xác như tôi đă được nghe kể bởi một trong những nhân vật trong câu chuyện.
“Chúng tôi đi vào rừng, và đă đi được khoảng một giờ mà không đạt được nhiều kết quả, khi khi Cameron, người đang ở bên cạnh tôi, đột ngột dừng lại, tái mét như người chết, và, trỏ thẳng ngay trước mặt, thét lên hăi hùng:
“‘Đó! đó! lạy Thượng Đế nhân từ, nh́n ḱa!’
“‘Đâu? cái ǵ? cái ǵ vậy?’ tất cả chúng tôi bối rối la hét, khi chúng tôi xộc đến chỗ cậu ấy và nh́n quanh chờ đợi chạm trán một con hổ- hay một con rắn- chúng tôi không biết, nhưng hẳn phải là thứ ǵ đó đáng sợ, v́ nó đủ sức gây ra một phản ứng thật mạnh lên người bạn rất tự chủ của chúng tôi. Nhưng không thấy có hổ hay rắn ở đó – không có ǵ ngoài Cameron đang chỉ trỏ với vẻ mặt tái nhợt, thảng thốt và nhăn cầu th́ nh́n trừng trừng vào thứ ǵ đó mà chúng tôi không thấy được.
“‘Cameron! Cameron!’ tôi hét lên, nắm chặt tay cậu ấy, ‘v́ Chúa, nói ǵ đi! Chuyện ǵ vậy?’
“Vừa khi những lời đó thốt ra từ miệng tôi, một âm thanh trầm, nhưng rất đặc thù đập vào tai tôi, và Cameron, cánh tay đang chỉ thẳng rớt xuống, nói bằng một giọng khàn khàn, không tự nhiên, ‘Đó! cậu nghe không? Tạ ơn Chúa nó qua rồi!’ và ngă xuống đất mê man.
“Một sự bối rối trong chốc lát khi chúng tôi mở cổ áo, và tôi hắt vào mặt cậu ấy một ít nước mà tôi may mắn c̣n lại trong b́nh, trong khi một người khác cố đổ rượu mạnh vào giữa hai hàm rằng siết chặt; và ngồi dưới chỗ trú tạm, tôi th́ thào với người bên cạnh (một trong những người hoài nghi nhất), “Beauchamp, lúc năy cậu có nghe thấy ǵ không?’
“‘Tại sao chứ, có,’ cậu ta trả lời, ‘một âm thanh kỳ lạ, thật vậy; một tiếng nổ hay va đập từ rất xa, nhưng rất đặc trưng; nếu không phải là hoàn toàn không thể, tôi sẽ thề rằng nó là tiếng súng hỏa mai’.
“‘Hoàn toàn giống cảm giác của tôi’, tôi lẩm bẩm; ‘nhưng suỵt! cậu ấy đang tỉnh lại’.
“Trong một hay hai phút cậu ta đă có thể nói th́ thầm, và bắt đầu cảm ơn chúng tôi và xin lỗi v́ đă gây rắc rối; và cậu ta sớm ngồi dậy, dựa vào một cái cây, và nói bằng một giọng chắc chắn dù vẫn c̣n nhỏ:
“‘Các bạn của tôi, tôi cảm thấy nợ các bạn một lời giải thích về cách cư xử kỳ lạ của tôi. Tôi thật muốn có thể tránh được phải giải thích điều này; nhưng rồi cũng đến lúc phải làm điều đó, và có lẽ tốt nhất là ngay lúc này. Có lẽ các bạn nhận thấy trong suốt chuyến đi của chúng ta các bạn luôn diễu cợt các giấc mộng, điềm gở và các linh ảnh, tôi luôn luôn né tránh đưa ra ư kiến về vấn đề này. Tôi làm vậy là v́, trong khi tôi không hề muốn tham gia vào sự diễu cợt hay kích động tranh căi, tôi hoàn toàn không thể đồng ư với các bạn, v́ tôi biết quá rơ từ kinh nghiệm kinh khiếp của chính tôi rằng thế giới mà con người đồng ư gọi là siêu nhiên cũng thật như, hay có lẽ, c̣n thật hơn cả thế giới này của chúng ta. Nói cách khác, tôi, cũng như nhiều người ở nước tôi, bị nguyền rủa với linh thị - cái năng lực đáng sợ cho thấy trước các tai họa chẳng mấy chốc sẽ xảy ra.
“‘Ngay lúc này đây tôi có một nhăn quan như vậy, và sự khủng khiếp ghê gớm đă kích động tôi như các bạn đă chứng kiến. Tôi đă thấy trước một một xác chết – không phải của một người được chết tự nhiên một cách thanh thản, mà của một nạn nhân của một tai nạn dễ sợ; một đống kinh tởm không ra h́nh thù ǵ, với một khuôn mặt trương ph́nh, dập nát, không c̣n nhận ra được. Tôi thấy vật dễ sợ đó được đặt trong một quan tài, và tang lễ được cử hành nơi đó. Tôi nh́n thấy nghĩa địa, tôi thấy vị mục sư; và mặc dù tôi chưa bao giờ thấy trước đó, tôi có thể h́nh dung ra cả hai một cách rơ ràng trong tâm trí tôi lúc này; tôi thấy anh, chính tôi, Beauchamp và tất cả chúng ta và nhiều người nữa, đứng quanh như những người đưa ma; tôi thấy những người lính nâng súng trường lên sau khi buổi lễ kết thúc; tôi nghe thấy loạt đạn họ bắn – và sau đó tôi không c̣n biết ǵ hơn’.
“Khi cậu ta nói về loạt đạn tôi rùng ḿnh liếc qua Beauchamp, và nét hăi hùng chết điếng trên khuôn mặt đẹp trai của anh chàng hoài nghi là không thể quên được.
Đây chỉ là một t́nh tiết (và hoàn toàn không phải là t́nh tiết kiểu mẫu) trong một câu chuyện đáng chú ư về kinh nghiệm tâm linh, nhưng v́ lúc này ta chỉ quan tâm đến ví dụ về linh thị mà nó đem lại, tôi cần phải nói rằng sau đó cùng ngày nhóm lính trẻ đă phát hiện ra xác của người sĩ quan chỉ huy của họ trong điều kiện kinh khủng đă được Cameron miêu tả một cách sống động. Câu chuyện tiếp tục:
“Khi, vào tối hôm sau, chúng tôi đến đích, và sự buồn phiền sâu lắng được xóa bỏ nhờ những người đứng đầu, Cameron và tôi lặng lẽ ra ngoài đi dạo, cố gắng gạt bỏ sự ảm đạm làm tê liệt tinh thần của chúng tôi. Đột nhiên cậu ta nắm chặt cánh tay tôi, và chỉ xuyên qua những hàng rào thô sơ, nói bằng giọng run rẩy. ‘Đúng, nó đó! cái nghĩa địa tôi nh́n thấy hôm qua’. Và sau đó, khi chúng tôi được giới thiệu với vị giáo sĩ của đồn, tôi nhận thấy, dù các bạn tôi th́ không, sự rùng ḿnh không ngăn được của Cameron, và tôi biết cậu ta đă nhận ra vị mục sư trong linh ảnh”.
Với tính hợp lư về mặt huyền bí học của toàn bộ câu chuyện, tôi cho rằng cái nh́n của ông Cameron là một trường hợp linh thị thuần túy, và nếu như vậy việc hai người hiển nhiên ở gần ông ta nhất (chắc chắn là một – có thể là hai – đă chạm vào ông) tham gia đến một mức độ trong việc nghe thấy loạt đạn, trong khi những người khác không ở đủ gần th́ không nghe thấy, cho thấy rằng sự xúc cảm mănh liệt mà cái nh́n đó tác động lên người nh́n thấy đă sinh ra các rung động trong thể trí của ông và thể trí này đă truyền đạt đến những người tiếp xúc với ông, như trong sự chuyển di tư tưởng thông thường. Bắt cứ ai muốn đọc phần c̣n lại của câu chuyện sẽ t́m thấy nó ở trang 457 của quyển Lucifer tập 2.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 32 of 73: Đă gửi: 18 July 2009 lúc 6:56am | Đă lưu IP
|
|
|
Các căn cứ của những ví dụ có bản chất tương tự như thế này có thể được tập hơp lại một cách dễ dàng. Về các trạng thái biểu tượng khác nhau của loại thị lực này, một vài trong những người sở hữu nó thường nói rằng nếu khi gặp một người sống họ thấy một tấm vải liệm ma quái phủ quanh y, đó là điềm báo chắc chắn cho cái chết của y. Ngày qua đời sắp đến được xác định bởi cả phạm vi mà tấm vải liệm phủ quanh thân xác, hay bởi thời gian trong ngày mà linh ảnh được nh́nt hấy; v́ nếu là vào sáng sớm họ nói rằng y sẽ chết trong cùng ngày hôm đó, nhưng nếu là lúc chiều tối, nó chỉ sẽ xảy ra trong ṿng một năm trở lại.
Một biển thể (và là một biến thể đáng lưu ư) của dạng linh thị biểu tượng là sự h́nh ảnh không đầu của người sắp chết được hiện ra trước người có linh thị. Một ví dụ của loại này được t́m thấy trong quyển Signs before Death, chuyện xảy ra tại gia đ́nh Dr. Ferrier, mặc dù trong trường hợp đó, nếu tôi nhớ không lầm, linh ảnh chỉ hiện ra ngay thời điểm chết, hoặc rất gần lúc đó.
Chuyển từ những người quan sát thường xuyên sở hữu một năng lực nhất định, mặc dù sự biểu thị của nó chỉ thỉnh thoảng mới hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát, chúng ta đụng phải một lượng lớn các trường hợp linh thị riêng lẻ ở những người không có được nó một cách đều đặn. Có lẽ phần lớn các trường hợp này xuất hiện các trong giấc mơ, mặc dù những ví dụ về linh thị trong lúc thức hoàn toàn không thiếu. Đôi khi sự thấy trước báo hiệu một sự kiện đặc biệt quan trọng đối với người nh́n thấy nó, và chứng minh rằng Linh hồn đang cố gắng tạo nên ấn tượng đó. Trong các trường hợp khác, sự kiện không có vẻ ǵ là quan trọng, hay có ǵ liên hệ với người nh́n thấy nó. Đôi khi rất rơ ràng rằng ư định của Linh hồn (hay một thực thể đang cố gắng giao tiếp, dù nó là ǵ) là cảnh báo cho phàm ngă về một tai họa sắp xảy đến, cả khi nó có thể được ngăn chặn hay, nếu không thể làm ǵ khác, th́ sự chuẩn bị cũng sẽ giảm thiểu được cú sốc đó.
Sự kiện thường được báo trước nhất, có lẽ không phải là không hợp lư, là cái chết – đôi khi cái chết của chính người nh́n thấy, đôi khi là một người thân thiết của y. Loại linh thị này rất thường thấy trong các tác phẩm văn học về vấn đề này, và đối tượng của nó rất rơ ràng, đến nỗi có lẽ chúng ta không cần thiết phải viện dẫn các ví dụ về nó; tuy nhiên một hay hai trường hợp trong đó linh ảnh thấy trước, mặc dù hiển nhiên là có ích, có tính cách ít ảm đạm hơn, có thể sẽ thú vị với người đọc. Ví dụ sau đây được chọn ra từ tài liệu của nhà nghiên cứu huyền bí, bà Crowe với quyển Night Side of Nature, trang 72.
"A few years ago Dr. Watson, now residing at Glasgow, dreamt that he received a summons to attend a patient at a place some miles from where he was living; that he started on horseback, and that as he was crossing a moor he saw a bull making furiously at him, whose horns he only escaped by taking refuge on a spot inaccessible to the animal, where he waiting a long time till some people, observing his situation, came to his assistance and released him.
"Whilst at breakfast on the following morning the summons came, and smiling at the odd coincidence (as [Page 134] he thought it), he started on horseback. He was quite ignorant of the road he had to go, but by and by he arrived at the moor, which he recognized, and presently the bull appeared, coming full tilt towards him. But his dream had shown him the place of refuge for which he instantly made, and there he spent three or four hours, besieged by the animal, till the country people set him free. Dr Watson declares that but for the dream he should not have known in what direction to run for safety".
Một trường hợp khác, trong đó khoảng cách giữa sự cảnh báo và hiện thực cách nhau xa hơn hẳn, được Dr.F.G.Lee nêu ra trong quyển Glimpses of the Supernatural, quyển 1, trang 240.
"Mrs. Hannah Green, the housekeeper of a country family in Oxfordshire, dreamt one night that she had been left alone in the house upon a Sunday evening, and that hearing a knock at the door of the chief entrance she went to it, and there found an ill-looking tramp armed with a bludgeon, who insisted on forcing himself into the house. She thought that she struggled for some time to prevent him so doing, but quite ineffectually, and that, being struck down by him and rendered insensible, he thereupon gained ingress to the mansion. On this she awoke.
"As nothing happened for a considerable period, the circumstance of the dream was soon forgotten, and, as she herself asserts, had altogether passed away from her mind. However, seven years afterwards this same housekeeper was left with two other servants to take [Page 135] charge of an isolated mansion at Kensington (subsequently the town residence of the family), when on a certain Sunday evening, her fellow-servants having gone out and left her alone, she was suddenly startled by a loud knock at the front door.
"All of a sudden the remembrance of her former dream returned to her with singular vividness and remarkable force, and she felt her lonely isolation greatly. Accordingly, having at once lighted a lamp on the hall table - during which act the loud knock was repeated with vigour - she took the precaution to go up to a landing on the stair and throw up the window; and there to her intense terror she saw in the flesh the very man who years previously she had seen in her dream, armed with the bludgeon and demanding an entrance.
"With great presence of mind she went down to the chief entrance, made that and other doors and windows more secure, and then rang the various bells of the house violently, and placed lights in the upper rooms. It was concluded that by the acts the intruder was scared away.
Những đoạn trong ngoặc kép chỉ là những chuyện kể đơn thuần, các bạn có thể đọc được dễ dàng nên nn xin phép không dịch để có thể đi nhanh hơn.
Những bài trước v́ vài lư do nn không biết chữ quá nhỏ, có lẽ các bạn cũng đă phóng to trước khi đọc nhưng nn thật sự rất lấy làm tiếc v́ điều này, thành thật xin lỗi các bạn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 33 of 73: Đă gửi: 18 July 2009 lúc 7:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Rơ ràng trong trường hợp này giấc mơ đă thật sự có ích, v́ nếu không có nó người quản gia đáng kính chắc chắn ǵ sẽ mở cửa theo thói quen sau khi nghe gơ cửa.
Tuy nhiên, không phải chỉ trong giấc mơ linh hồn mới gây ấn tượng lên phàm ngă rằng y nghĩ cần phải biết điều ǵ đó. Ta sẽ t́m được nhiều trường hợp cho thấy điều đó từ trong sách vở, nhưng thay v́ trích dẫn từ đó tôi sẽ kể một trường hợp được thuật lại chỉ mới cách đây vài tuần bởi một phụ nữ có quen với tôi – một trường hợp mà, dù không có nhiều t́nh tiết li kỳ, nhưng ít nhất nó có giá trị v́ sự mới mẻ.
Bạn tôi, lúc đó có hai đứa con nhỏ, và trong một thời gian ngắn trước đó đứa lớn bị cảm nặng (như trước đó đă được cho là như vậy), và bị nghẹt mũi hoàn toàn ở phần trên trong vài ngày. Người mẹ không nghĩ nhiều về điều này, cho rằng nó sẽ qua nhanh, cho đến một ngày bà đột nhiên nh́n thấy trong không trung trước mắt h́nh ảnh một căn pḥng, ở giữa là một cái bàn trên đó con bà nằm mê man hay đă chết, với vài người đang cúi xuống cô bé. Những chi tiết nhỏ nhặt nhất của khung cảnh đều hiện ra rơ ràng trước bà, và bà đặc biệt chú ư rằng đứa con mặc áo ngủ màu trắng, trong khi bà biết rằng tất cả quần áo loại đó của cô con gái nhỏ đều có màu hồng.
Linh ảnh gây cho bà một ấn tượng rất sâu sắc, và gợi ư lần đầu tiên rằng đứa nhỏ có thể đang mắc một bệnh ǵ đó nghiêm trọng hơn là cảm lạnh, v́ vậy bà mang nó tới bệnh viện để kiểm tra. Người bác sĩ giải phẫu chăm sóc nó phát hiện sự hiện diện của một khối u nguy hiểm trong mũi mà ông tuyên bố là cần phải được cắt bỏ. Một vài ngày sau đó đứa nhỏ được đưa đến bệnh viện để giải phẫu, và được đưa lên giường bệnh. Khi người mẹ đến bệnh viện bà nhận ra là đă quên mang theo bộ áo ngủ của đứa nhỏ, và v́ vậy các y tá đă phải dùng cái khác, màu trắng. Ca phẫu thuật của cô bé được tiến hành trong bộ áo trắng này vào ngày hôn sau, trong căn pḥng mà người mẹ đă thấy trong linh ảnh của bà, mọi chi tiết đều được tái tạo lại một cách chính xác.
Trong tất cả những trường hợp này sự thấy trước đều đạt được kết quả của nó, nhưng các quyển sách có đầy những chuyện về những lời cảnh báo bị bỏ qua hay theo sát, và những tai họa xảy ra tiếp đó. Trong vài trường hợp thông tin được trao cho một người nào đó hầu như không có khả năng can thiệp vào vấn đề, như trong trường hợp lịch sử khi John Williams, một giám đốc hầm mỏ xứ Cornwall, thấy trước đến từng chi tiết nhỏ nhất, tám hay chính ngày trước khi nó xảy ra, vụ ám sát ông Spencer Perceval, Bộ trường Bộ tài chính Anh khi đó, trong hành lang Hạ nghị viện. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, vẫn có một điều ǵ đó có thể thực hiện được, v́ chúng ta đọc được rằng ông Williams đă bị ấn tượng mạnh đến mức hỏi ư kiến các bạn ông xem có nên đến Luân Đôn để cảnh báo ông Perceval không. Không may là họ đă can ngăn ông, và vụ ám sát xảy ra. Nó không có vẻ ǵ là người ta sẽ để tâm đến ông nhiều, ngay cả nếu ông có lên thành phố và thuật lại câu chuyện; nhưng dù vậy vẫn có khả năng là sẽ có một vài sự pḥng bị có thể sẽ ngăn cản được vụ giết người này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 34 of 73: Đă gửi: 20 July 2009 lúc 11:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
Không nhiều điều cho ta thấy được tác động nào trên các cơi cao đă dẫn đến linh ảnh tiên tri kỳ lạ này. Những người trong câu chuyện hoàn toàn không biết lẫn nhau, v́ vậy nó không thể được tạo ra từ một sự cảm thông giữa họ. Nếu là một nỗ lực của một người trợ giúp muốn ngăn chặn cái chết đang đe dọa, sẽ thật lạ lùng khi không t́m được ai gần hơn ông Cornwall để có thể gây ấn tượng về linh ảnh. Có lẽ là ông Williams, khi đang ở trên cơi trung giới trong lúc ngủ, đă bằng cách nào đó t́nh cờ bắt gặp h́nh ảnh phản chiếu tương lai này, và tất nhiên cảm thấy khiếp sợ, do đó, chuyển nó xuống hạ trí với hy vọng là bằng cách nào đó có thể làm một vài điều để ngăn chặn nó; nhưng ta không thể phân tích trường hợp này một cách chắc chắn nếu không khảo sát các tiên thiên kư ảnh để biết được điều ǵ đă thực sự xảy ra.
Một trường hợp điểm h́nh của tiên thị hoàn toàn không có mục đích được thuật lại bởi ông Stead, trong quyển Real Ghost Stories (trang 83), về bạn ông là cô Freer, thường được gọi là cô X. When staying at a country house this lady, being wide awake and fully conscious, once saw a dogcart drawn by a white horse standing at the hall door, with two strangers in it, one of whom got out of the cart and stood playing with a terrier. She noticed that he was wearing an ulster, and also particularly observed the fresh wheel-marks made by the cart on the gravel. Nevertheless there was no cart there at the time; but half an hour later two strangers did drive up in such an equipage, and every detail of the lady's vision was accurately fulfilled. Mr. Stead goes on to cite another instance of equally purposeless prevision where seven years separated the dream (for in this case it was a dream) and its fulfillment.
Tất cả những trường hợp này (và chúng chỉ là những lựa chọn ngẫu nhiên từ hàng trăm trường hợp như vậy) cho thấy một khả năng thấy trước nhất định là hoàn toàn có thể đối với linh hồn, và những trường hợp như vậy hiển nhiên sẽ xảy ra thường xuyên hơn nếu không phải v́ sự đậm đặc và kém phản ứng của các hạ thể ở phần đông những người mà ta gọi là văn minh – những đặc tính chủ yếu được quy cho sự duy vật quá đáng của thời hiện đại. Tôi không nói đến những lời tuyên bố tin tưởng vào vật chất như thường thấy, mà muốn nói đến một thực tế rằng trong mọi vấn đề thiết thực trong đời sống hàng ngày hầu như mọi người chỉ hướng theo những lối suy xét về lợi ích trần tục ở h́nh thức này hoặc h́nh thức khác.
Trong nhiều trường hợp linh hồn có thể chưa tiến hóa cao, và sự thấy trước do đó là rất mơ hồ; trong những trường hợp khác y có thể thấy một cách rơ ràng, nhưng có thể nhận thấy các hạ thế của y quá thiếu cảm thụ đến nỗi tất cả những ǵ y có thể đưa xuống bộ năo vật chất có thể chỉ là một linh cảm không rơ ràng về tai họa sắp đến. Mặt khác, có những trường hợp trong đó một linh cảm hoàn toàn không phải do linh hồn gây ra, mà là một thực thể bên ngoài, v́ một lư do nào đó quan tâm đến người có linh cảm. Trong tác phẩm mà tôi đă trích dẫn ở trên, ông Stead nói với chúng ta về sự chắc chắn mà ông cảm nhận trước nhiều tháng rằng ông sẽ bị bỏ mặc trong sự thay đổi của tờ Pall Mall Gazette, mặc dù từ quan điểm thông thường khả năng xảy ra điều đó là gần như không có. Dù sự biết trước đó là kết quả của ấn tượng gây ra bởi chính linh hồn ông hay của một gợi ư thân thiện từ một người khác th́ ta cũng không thể nói chắc nếu không có một sự điều tra nhất định nhưng sự tin chắc của ông vào nó là hoàn toàn hợp lư.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 35 of 73: Đă gửi: 23 July 2009 lúc 8:45am | Đă lưu IP
|
|
|
C̣n một loại nhăn thông thời gian mà ta không nên bỏ qua không nhắc đến. Đó là một loại khá hiếm, nhưng cũng có đủ các ví dụ được ghi nhận đáng để ta chú ư đến, mặc dù không may là các chi tiết được đưa ra thường không gồm đủ những ǵ ta cần để có thể phán đoán một cách chắc chắn. Tôi muốn nói đến những trường hợp mà các đoàn quân ma hay bầy thú ma đă được nh́n thấy. Trong quyển The Night Side of Nature (trang 462 trở đi.) chúng tôi đă thuật lại vài h́nh ảnh như vậy. Trong đó ta được kể rằng tại công viên Havarah Park, gần Ripley, nhiều người có tiếng tăm đă nh́n thấy một đoàn lính trong quân phục trắng, số lượng lên đến vài trăm người, đi qua nhiều thế trận khác nhau và sau đó biến mất; và vài năm trước đó một đoàn quân hư ảo tương tự đă được trông thấy ở vùng lân cận Inverness bởi một người nông dân đáng kính và con trai ông.
Cũng trong trường hợp này số lượng của đoàn quân là rất lớn, và những người xem thoạt tiên đă không hề nghi ngờ rằng họ là những h́nh hài có thật bằng xương bằng thịt. Họ đếm được ít nhất mười sáu cặp hàng dọc, và có nhiều thời gian để quan sát từng chi tiết. Những hàng trước đi hàng bảy, và theo sau bởi nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ, mang theo đồ hộp và những dụng cụ nấu nướng. Đàn ông mặc quần áo đỏ, và phù hiệu (arms – nn không chắc ư tác giả là gi) của họ sáng lên dưới ánh mặt trời. Ở giữa họ là một con thú, một con nai hay ngựa, họ không phân biệt được, mà họ đang hung hăng lao thẳng đến với những lưỡi lê.
Người trẻ hơn trong hai người quan sát khác thấy rằng thỉnh thoảng những hàng sau buộc phải chạy để đuổi kịp những hàng đầu; và người già hơn, từng là một người lính, nói rằng điều đó luôn xảy ra, và khuyên y rằng nếu y có phục vụ quân đội hăy cố đi phía trước. Chỉ có một sĩ quan cưỡi ngựa; ông cưỡi một con ngựa chiến màu xám, và đội một mũ viền vàng và áo choàng Hussar xanh, với tay áo rộng có đường kẻ đỏ. Tuy nhiên, họ đă lo sợ bị ngược đăi hay bị cưỡng ép đi cùng đoàn quân mà họ kết luận là đến từ Ireland, và đổ bộ ở Hyntyre; và trong khi họ trèo lên một con đê để tránh khỏi đường của đàon quân, toàn bộ đă biến mất.
Một hiện tượng cùng loại đă được nh́n thấy vào nửa trước thế kỷ này tại Paderborn ở Westphalia, và được nh́n thấy bởi ít nhất ba mươi người; tuy nhiên, vài năm sau, một cuộc duyệt binh với hai mươi ngàn quân đă được diễn ra ở cùng địa điểm đó, ta có thể kết luận rằng h́nh ảnh đó là một loại tiên thị - một năng lực không phải hiếm gặp ở vùng đó.
Tuy nhiên, những đám đông ma quái như vậy, đôi khi được nh́n thấy tại nơi mà một đoàn quân người thường không thể nào hành quân được, dù trước hay sau đó. Một trong những lời tường thuật đáng kể nhất về những sự hiện h́nh ma quái đó được đua ra bởi cô Harriet Martineau, trong quyển The English Lakes. Cô viết như sau:
"This Souter or Soutra Fell is the mountain on which ghosts appeared in myriads, at intervals during ten years of the last century, presenting the same appearances to twenty-six chosen witnesses, and to all the inhabitants of all the cottages within view of the mountain, and for a space of two hours and a half at one time - the spectral show being closed by darkness! [Page 142] The mountain, be it remembered is full of precipices, which defy all marching of bodies of men; and the north and west sides present a sheer perpendicular of 900 feet.
"On Midsummer Eve, 1735, a farm servant of Mr.Lancaster, half a mile from the mountain, saw the eastern side of its summit covered with troops, which pursued their onward march for an hour. They came, indistinct bodies, from an eminence on the north and disappeared in a niche in the summit. When the poor fellow told his tale, he was insulted on all hands, as original observers usually are when they see anything wonderful. Two years after, also on a Midsummer Eve, Mr. Lancaster saw some men there, apparently following their horses, as if they had returned from hunting. He thought nothing of this; but he happened to look up again ten minutes after, and saw the figures, now mounted, and followed by an interminable array of troops, five abreast, marching from the eminence and over the cleft as before. All the family saw this, and the manoeuvres of the force, as each company was kept in order by a mounted officer, who galloped this way and that. As the shades of twilight came on, the disciple appeared to relax, and the troops intermingled, and rode at unequal paces till all was lost in darkness. Now of course all the Lancasters were insulted, as their servant had been; but their justification was not long delayed.
"On the Midsummer Eve of the fearful 1745, twenty-six persons, expressly summoned by the family, saw all [Page 143] that had been seen before, and more. Carriages were now interspersed with the troops; and everybody knew that no carriages had been, or could be, on the summit of Souter Fell. The multitude was beyond imagination; for the troops filled a space of half a mile, and marched quickly till night hid them - still marching. There was nothing vaporous or indistinct about the appearance of the spectres. So real did they seem, that some of the people went up the next morning, to look for the hoof-marks of the horses; and awful it was to them to find not one footprint on heather or grass. The witnesses attested the whole story on oath before a magistrate; and fearful were the expectations held by the whole countryside about the coming events of the Scotch rebellion.
"It now comes out that two other persons had seen something of the sort in the interval - viz., in 1743 - but had concealed it, to escape the insults to which their neighbours were subjected. Mr. Wren, of Wilton Hall, and his farm servant, saw, one summer evening, a man and a dog on the mountain, pursuing some horses along a place so steep that a horse could hardly by any possibility keep a footing on it. Their speed was prodigious, and their disappearance at the south end of the fell so rapid, that Mr. Wren and the servant went up, the next morning, to find the body of the man who must have been killed. Of man, horse, or dog, they found not a trace; and they came down and held their tongues. When they did speak, they fared not much better for having twenty-six sworn comrades in their disgrace. [Page 144]
"As for the explanation, the editor of the Lonsdale Magazine declared (volume II, page 313) that it was discovered that on the Midsummer Eve of 1745 the rebels were 'exercising on the western cost of Scotland, whose movements had been reflected by some transparent vapour, similar to the Fata Morgana'. This is not much in the way of explanation; but it is, as far as we know, all that can be had at present. These facts, however, brought out a good many more; as the spectral march of the same kind seen in Leicestershire in 1707, and the tradition of the tramp of armies over Helvellyn, on the eve of the battle of Marston Moor".
Những trường hợp khác được trích dẫn trong đó những bầy cừu ma được nh́n thấy trên những con đường nào đó, và dĩ nhiên có nhiều câu chuyện khác nhau ở Đức về những đoàn người ngựa với những thợ săn và những tên cướp.
Bây giờ trong những trường hợp này, như rất thường xảy ra khi nghiên cứu về các hiện tượng huyền bí, có vài nguyên nhân khả dĩ, bất kỳ nguyên nhân nào cũng hoàn toàn đủ để tạo ra những sự kiện đă được quan sát đó, nhưng với sự thiếu vắng những thông tin đầy đủ hơn thật khó để có thể làm được nhiều hơn là ước đoán những nguyên nhân khả dĩ nào đă hoạt động trong một trường hợp riêng biệt.
Lời giải thích thường được gợi ư (bất cứ khi nào toàn bộ câu chuyện không bị chế nhạo là dối trá) là những ǵ được thấy là một sự phản chiếu bởi ảo tượng (mirage) của sự di chuyển của một đoàn thể có thực, diễn ra ở một nơi xa xôi. Chính tôi đă từng thấy ảo tượng thông thường vài lần và nhờ đó biết được vài điều về sức mạnh phi thường của sự dối gạt; nhưng với tôi dường như chúng ta nên cần có một loại ảo tượng hoàn toàn mới, hoàn toàn khác với những ǵ khoa học biết đến hiện nay, để giải thích những câu chuyện về những đoàn quân ma, trong đó có vài cái đi qua người xem trong ṿng một vài năm.
Trước hết, chúng có thể, rơ ràng như trong trường hợp Westphalian đề cập ở trên, đơn giản là những ví dụ về sự thấy trước trên một quy mô khổng lồ - bởi những ai, và v́ mục đích ǵ, không dễ để biết được. Ngoài ra, chúng có thể thường thuộc về quá khứ thay v́ tương lai, và trong thực tế là những phản chiếu của các cảnh tượng từ tiên thiên kư ảnh – mặc dù ở đây nguyên nhân và cách thức của sự phản chiếu đó lại vẫn không rơ ràng.
Có nhiều chủng loại tinh linh thiên nhiên có đầy đủ khả năng, nếu v́ một lư do nào đó chúng muốn làm vậy, tạo ra những sự xuất hiện như vậy nhờ vào năng lực mê hoặc phi thường của chúng (Xem Theosophical Manual, Quyển số 5, trang 86), và hành động như vậy sẽ hoàn toàn ḥa hợp với sự thích thú của chúng trong việc chơi khăm và gây ấn tượng với con người. Hay nó cũng có thể là một ư định tử tế của chúng cảnh báo các bạn cúa chúng về những sự kiện mà chúng biết là sắp xảy ra. Nó có vẻ là thông qua một lời giải thích nào đó dọc theo những hướng này sẽ là phương pháp có lư nhất để giải thích cho loạt hiện tượng lạ thường được miêu tả bởi cô Martineau – tức là, nếu những câu chuyện kể cho cô có thể tin cậy được.
Một khả năng khác là trong vài trường hợp xảy ra với những người lính chỉ đơn giản là những tinh linh thiên nhiên thực hiện vài điệu nhảy múa trật tự trong đó chúng thật sự vui thích, mặc dù cần phải thừa nhận là những thứ này hiếm khi có thể bị nhầm lẫn thành sự hành quân ngoại trừ bởi những người thiếu hiểu biết nhất.
Những bầy thú trong phần lớn ví dụ hầu hết chỉ là các kư ảnh, nhưng có những trường hợp mà chúng, như những “thợ săn hoang dă” trong truyện Đức, thuộc về một loại hiện tượng hoàn toàn khác nh́n chung là nằm ngoài chủ đề hiện tại của chúng ta. Nghiên cứu sinh huyền bí học sẽ thấy quen thuộc với thực tế là những hoàn cảnh xung quanh một nơi có sợ hăi hay cảm xúc dữ dội, như một vụ giết người đặc biệt kinh khủng, đôi lúc có khả năng tái tạo lại trong một h́nh dạng mà chỉ cần một sự phát triển năng lực “tâm linh” thật nhỏ cũng có thể thấy được; và thỉnh thoảng nhiều con thú khác nhau tạo thành một phần của môi trường xung quanh đó, và do đó chúng thường được tái tạo theo chu kỳ bởi tác động của sự ăn năn của kẻ sát nhân. (Xem Manual 5)
Những từ "tâm linh" viết trong ngoặc kép dịch uừ chữ psychic, liên quan đến các vấn đề đồng cốt, nh́n thấy ma quỷ... V́ nó không có liên quan mật thiết hai chiều đến sự tiến hóa tâm linh thực sự nhưng nn không biết dùng từ ǵ nên đành tạm dùng như vậy.
Hầu như nền móng của sự thật nằm dưới những câu chuyện khác nhau về những kị mă và đoàn thợ săn ma thường có thể được quy vào loại này. Đây cũng là lời giải thích, rơ ràng, cho vài h́nh ảnh về các đoàn quân ma quỷ, chẳng hạn như diễn lại đáng chú ư của trận chiến ở Edgehill, xảy ra vào khoảng vài tháng vài tháng sau ngày của cuộc chiến đấu thực sự, như đă được xác nhận bởi một thẩm phán của ḥa b́nh, một mục sư, và những người chứng kiến khác trong một quyển sách nhỏ kỳ lạ đương thời có tựa Prodigious Noises of War and Battle, at Edgehill, near Keinton, in Northamptonshire. Theo quyển sách trường hợp này đă được điều tra vào lúc đó bởi vài sĩ quan quân đội, những người rơ ràng nhận ra nhiều bóng ma mà họ nh́n thấy. Điều này có vẻ hoàn toàn giống một ví dụ về năng lực khủng khiếp của những cảm xúc không bị đè nén của một người tự tái sản xuất chính nó, và tạo ra theo một cách kỳ lạ một loại h́nh ảnh vật chất hóa của chúng.
Trong vài trường hợp rơ ràng là những đàn thú được nh́n thấy đơn giản là những bầy tinh chất nhân tạo dơ bẩn tạo ra h́nh dạng đó để sống bằng sự phát xạ ghê tởm của những nơi đặc biệt kinh khủng, chẳng hạn như nơi đặt giá treo cổ. Một ví dụ loại này được cung cấp bởi “Gyb Ghosts” nổi tiếng, hay những hồn ma của giá treo cổ, mô tả trong quyển More Glimpses of the World Unseen, trang 109, được nh́n thấy lặp đi lặp lại trong h́nh dạng của những bầy sinh vật trông như lợn nhưng méo mó không ra h́nh thù ǵ, xô đẩy, reo ḥ và đánh nhau đêm này qua đêm khác tại tượng đài tội ác ghê tởm đó. Nhưng những trường hợp này đúng hơn là thuộc về chủ đề của sự hiện h́nh ma quỷ chứ không phải nhăn thông.
Đến đây là hết chương 8, nn kết thúc việc dịch quyển sách này, chúng ta sẽ chuyển sang những vấn đề thú vị khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 36 of 73: Đă gửi: 26 July 2009 lúc 12:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Sau khi đă có một cái nh́n thoáng qua về thế giới rộng lớn mà thần nhăn mở ra trước chúng ta, ta có thể bước sang nghiên cứu vấn đề cấu tạo các thể vô h́nh của con người. Ví dụ như A lại da thức, giờ đây ta có thể nghiên cứu nó một cách cụ thể với các h́nh ảnh, cấu tạo vật chất và các đặc tính xác định của nó.
NN sẽ dần dần dịch quyển Man Visible and Invisible, các bạn có thể đọc tại đây.
Sửa lại bởi nickname : 26 July 2009 lúc 12:03am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 37 of 73: Đă gửi: 26 July 2009 lúc 2:21am | Đă lưu IP
|
|
|
Man Visible and Invisible
Examples of Different Types of Men as
Seen by Means of Trained Clairvoyance
C. W. Leadbeater
WITH
FRONTISPIECE, THREE DIAGRAMS,
AND TWENTY-TWO COLOURED ILLUSTRATIONS
THE THEOSOPHICAL PUBLISHING HOUSE
Adyar, Madras 600 020, India
Wheaton Ill., USA. London, England
First Edition 1902
Second Edition: revised and enlarged
PUBLISHER’S NOTE
THIS book was first published in 1902 and it has continued to be in demand through the years since then. Because of the great interest in extrasensory perception and in invisible aspects of man’s nature, it is now being published for the first time in a paperback edition in a slightly abridged form. A few passages which are not relevant today have been eliminated, but they do not affect the main thesis of the work. The original language of the author remains the same, with two exceptions. So as not to confuse the reader with the modern scientific use of the term “atom”, a change has been made in some places in the text by substituting the word “unit” where the author is referring to ultimate units of matter. In some places the word “savage” has been replaced by the term “primitive man” or “undeveloped man”. A brief appendix has been added to explain a few technical terms. The original colored plates, painted under the direction of Mr. Leadbeater, have been used.
CHƯƠNG I
NHỮNG ĐIỀU NÀY ĐƯỢC HIỂU BIẾT NHƯ THẾ NÀO?
CON NGƯỜI là một sinh thể phức tạp lạ lùng, và sự tiến hóa của nó, quá khứ, hiện tại và tương lai, luôn luôn là một đối tượng nghiên cứu thú vị với tất cả những ai có thể nh́n thấy và hiểu được. Xuyên qua những quăng thời gian tiến hóa vô hạn nào mà con người dần dần trở thành cái y đang là, nấc thang nào trên cái thang dài của sự tiến bộ mà y đă đạt được, những khả năng nào của những bước tiến xa hơn mà bức màn của tương lai phủ trước chúng ta, đó là những câu hỏi về những những điều không khác ǵ nhau – những câu hỏi vẫn luôn được t́m thấy xuyên suốt các thời đại bởi những người có một chút suy nghĩ.
Ở thế giới phương Tây những câu trả lời được đưa ra có rất nhiều và rất khác nhau. Có nhiều sự xác nhận mang tính giáo điều, dựa trên những sự diễn dịch khác nhau về sự thiên khải được họ đưa ra; có nhiều sự ước đoán khéo léo, kết quả của nhiều trường hợp tranh luận gần với siêu h́nh học. Nhưng chủ nghĩa giáo điều gặp phải chúng ta với một câu chuyện rơ ràng là vô lư xét theo vẻ ngoài, trong khi những ước đoán chủ yếu di chuyển dọc theo những đường hướng duy vật, và cố gắng đạt đến một kết quả thỏa măn bằng cách lờ đi nửa số hiện tượng mà chúng ta phải nhắc đến. Cả giáo điều hay suy đoán đều không đạt đến được vấn đề từ quan điểm thực tiễn, như là một vấn đề có thể được nghiên cứu và điều tra như mọi ngành khoa học khác.
Theosophy đi tiên phong với một lư thuyết dựa trên những nền tảng hoàn toàn khác biệt. Trong khi không hề làm giảm giá trị của kiến thức đạt được cả bởi việc nghiên cứu các kinh điển cổ xưa hay bằng lập luận triết học, nó xem cấu tạo và sự tiến hóa của con người như các vấn đề, không phải để ước đoán, mà là điều tra nghiên cứu. Khi được khảo sát như vậy, chúng tỏ ra là những bộ phận của một kế hoạch vĩ đại, liền lạc và dễ hiểu – một kế hoạch mà, trong khi tán đồng và giải thích nhiều lời giảng dạy tôn giáo xưa cũ, nhưng vẫn không hề phụ thuộc vào đó, v́ nó có thể được thẩm định lại từng bước một bằng cách sử dụng các năng lực tinh thần mà, dù hăy c̣n tiềm ẩn với đa phần nhân loại, đă đi vào hoạt động nơi một số người trong các học viên của chúng ta.
Về lịch sử trong quá khứ của nhân loại, lư thuyết này không những dựa trên bằng chứng nhất quán về truyền thống của các tôn giáo trước đó, mà c̣n dựa trên sự khảo sát một kư ảnh xác định – một kư ảnh có thể được trông thấy và tra cứu bởi bất cứ ai sở hữu mức độ nhăn thông cần thiết để đáp ứng với các rung động của vật chất được chia nhỏ một cách tinh tế mà qua đó nó được gây ấn tượng. Trong kiến thức về tương lai đang chờ đợi nhân loại, nó phụ thuộc, trước nhất, vào sự suy luận hợp lư từ tính cách của tiến tŕnh đă trải qua; thứ hai, vào thông tin trực tiếp được cung cấp bởi những người đă đạt đến những trạng thái mà với hầu hết chúng ta vẫn cấu thành một tương lai xa hơn hoặc gần hơn; và thứ ba, vào sự so sánh mà bất cứ ai có đặc ân nh́n thấy chúng có thể tạo ra giữa những người đă tiến hóa cao ở mọi mức độ. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng một đứa trẻ không có cách nào biết được diễn tiến của tự nhiên có thể lư luận rằng nó sẽ chẳng mấy chốc lớn lên và trở thành người lớn, đơn thuần nhờ thực tế là nó đă lớn lên đến một mức độ nào đó theo một cách nào đó, và rằng nó thấy quanh nó những đứa nhỏ khác và những người trẻ tuổi khác ở mọi giai đoạn phát triển giữa mức độ của nó và của người lớn.
Sự nghiên cứu về t́nh trạng của con người vào lúc này, về các phương pháp trước mắt cho sự tiến hóa của một người, và về hệ quả lên sự tiến hóa đó của các tư tưởng, cảm xúc, hành động của y – tất cả được các học viên theosophy xem như một vấn đề gắn với các quy luật nổi tiếng như một nguyên tắc chung, rộng lớn, và do đó gắn với sự quan sát tỉ mỉ, với sự so sánh cần mẫn nhiều trường hợp để nhận thức được chi tiết cách hoạt động của những quy luậtt này. Nó, thật vậy, đơn giản là vấn đề của quan năng, và quyển sách này được đưa ra với hy vọng, trước hết, là nó sẽ giúp cho những học viên nhiệt thành chưa sở hữu quan năng này có thể nhận thức được cách mà linh hồn và các thể của nó hiện ra khi được xem xét bởi các phương tiện của nó; và kế đó, là những người đang bắt đầu tập luyện nhăn quan này một cách hơn hoặc kém hoàn hào, có thể qua nó hiểu được ư nghĩa của cái mà họ nh́n thấy.
Tôi hoàn toàn nhận thức được rằng thể giới nói chung vẫn chưa bị thuyết phục bởi sự hiện hữu của sức mạnh của thông nhăn; nhưng tôi cũng biết rằng tất cả những ai đă thực sự nghiên cứu về vấn đề đều t́m thấy chứng cứ không thể chối căi được của nó. Nếu có một người thông minh nào đó đọc những câu chuyện đă chứng thực được trích dẫn trong quyển Clairvoyance của tôi, và sau đó chuyển từ chúng sang những quyển sách mà từ đó chúng được chọn ra, y sẽ thấy ngay rằng có một số lượng chứng cứ khổng lồ ủng hộ cho sự hiện hữu của năng lực này. Với những ai có thể tự ḿnh nh́n thấy, và hàng ngày vẫn sử dụng quan năng cao cấp này trong hàng trăm cách khác nhau, sự không chấp nhận rằng thị lực như vậy là tự nhiên của đại chúng có vẻ thật buồn cười. Với nhà thần nhăn vấn đề này không đáng để phải tranh căi. Nếu một người mù đi đến chỗ chúng ta và bảo đảm với chúng ta rằng không có cái ǵ như là thị giác vật chất thông thường, và rằng chúng ta đă bị lừa khi tin rằng chúng ta sở hữu năng lực này, đến lượt chúng ta chắc chắn sẽ không cảm thấy nó đáng bỏ công tranh căi mệt mỏi để bảo vệ cho ảo tưởng của chúng ta. Chúng ta đơn giản să nói: “Tôi thật sự nh́n thấy, và thật vô ích khi cố thuyết phục rằng tôi không nh́n thấy; tất cả mọi kinh nghiệm hàng ngày của cuộc đời tôi cho tôi biết là tôi có thấy; tôi sẽ không bị thuyết phục từ bỏ hiểu biết chắc chắn của tôi về các sự thật hiển nhiên.” Và đây chính xác là cái mà nhà thần nhăn được rèn luyện cảm thấy khi những người ngu dốt tuyên bố rằng y hoàn toàn sở hữu một năng lực mà ngay lúc đó y dùng để đọc suy nghĩ của những người phủ nhận nó trước y!
V́ thế, trong cuốn sách này tôi không cố thử chứng minh rằng nhăn thông là một sự thực; tôi làm vậy v́ đă có nó, và sẽ tiến hành miêu tả những ǵ được thấy bởi phương tiện đó. Và ở đây tôi cũng sẽ không lặp lại các chi tiết được đưa ra trong quyển sách nhỏ mà tôi đă đề cập như những phương cách của nhăn thông, nhưng sẽ tự hạn chế trong những phát biểu vắn tắt về các nguyên tắc rộng của vấn đề như là sự cần thiết để quyển sách này có thể dễ hiểu đối với những ai chưa nghiên cứu các tác phẩm theosophy khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 38 of 73: Đă gửi: 26 July 2009 lúc 7:44am | Đă lưu IP
|
|
|
CHƯƠNG II
CÁC CƠI GIỚI TRONG TỰ NHIÊN
ĐIỂM đầu tiên cần phải được nhận thức rơ là sự phức tạp phi thường của thế giới xung quanh chúng ta – sự thật là nó bao gồm nhiều hơn rất nhiều so với những ǵ nằm trong phạm vi của nhăn quan thông thường.
Chúng ta luôn biết rằng vật chất tồn tại ở nhiều trạng thái khác nhau, và nó có thể bị biến đổi trạng thái bằng cách thay đổi áp suất và nhiệt độ. Chúng ta có ba trạng thái của vật chất thường được biết đến, rắn, lỏng và khí, và lư thuyết của khoa học cho rằng tất cả các chất đều có thể, dưới sự thay đổi phù hợp về nhiệt độ và áp suất, tồn tại trong tất cả các trạng thái đó.
Khoa hóa học huyền bí chỉ cho chúng ta một trạng thái khác cao hơn thể khí, trong đó tất cả các chất mà chúng ta biêt đều có thể được biến đổi hay chuyển hóa; và với trạng thái đó chúng ta cho nó cái tên dĩ thái (etheric). Ta có thể có, lấy ví dụ, hydro ở trạng thái dĩ thái thay v́ ở dạng khí; ta có thể có vàng hay bạc hay bất kỳ nguyên tố nào cả chất rắn, lỏng, hay khí, hay ở trạng thái khác cao hơn mà ta gọi là dĩ thái này.
Trong khoa học thông thường ta nói về một nguyên tử oxy, một nguyên tử hydro, một nguyên tử của bất cứ chất nào mà các nhà hóa học gọi là nguyên tố, lư thuyết hiện nay nói rằng một nguyên tố không thể bị phân chia nhỏ hơn, và rằng mỗi nguyên tố có các nguyên tử của nó và một nguyên tử, như ta có thể thấy trong nguồn gốc Hy Lạp của từ đó, có nghĩa là cái không thể bị chia cắt, hay phân chia nhỏ hơn. Khoa học huyền bí luôn luôn dạy rằng những cái gọi là nguyên tố hoàn toàn không phải là nguyên tố theo đúng nghĩa của nó; rằng cái mà ta gọi là nguyên tử oxy hay hydro có thể bị chia cắt dưới các điều kiện nhất định. Bằng cách lặp lại quá tŕnh chia nhỏ này ta thấy rằng có một chất ở đằng sau mọi chất, và sự kết hợp khác nhau của những Đơn vị cơ bản của nó cho ta cái mà trong hóa học gọi là một nguyên tử oxy hay hydro, vàng hay bạc, liti hay bạch kim, v.v. Khi tất cả những thứ này được phân chia ra ta có lại một tập hợp các Đơn vị hoàn toàn giống nhau, ngoại trừ rằng một số mang tính dương (positive) một số mang tính âm (negative).
Ư kiến của nn: Các bạn lưu ư rằng quyển sách này được xuất bản lần đầu vào năm 1902, các hiểu biết của khoa học về nguyên tử thời này chưa cho phép dự đoán sự phân chia của chúng. Và lúc bấy giờ các nhà khoa học huyền bí dựa trên hiểu biết thực sự về nguyên tử của ḿnh đă nói trước rằng “nguyên tử” của các nhà khoa học phổ thông sẽ bị chia nhỏ.
Và nn xin trích thêm 1 câu trong quyển Isis Unveiled của bà Blavatsky: “Scientists who are reforming the science of physics upon the basis of the atomic theory of Demokritus, as restated by John Dalton, conveniently forget that Demokritus, of Abdera, was an alchemist”. Ta có thể chắc chắn rằng các nhà giả kim là những người rất hiểu biết về cấu tạo của vật chất trong thế giới này, và việc họ bị chế nhạo là một điều hiển nhiên nếu ta xét lại lịch sử thế giới khi mà những người đi trước thời đại, chẳng hạn như Galilei, chưa bao giờ có được kết quả tốt đẹp cả. Với sự vô ơn của ḿnh, làm sao nhân loại có thể trách được những minh triết cao cả lại bị giấu kín và đôi khi được truyền dạy như các câu chuyện ngụ ngôn?
Việc nghiên cứu những đơn vị này và các khả năng kết hợp của chúng tự nó luôn là một trong những vấn đề lư thú nhất. Tuy nhiên, ngay cả những thứ được xem như các đơn vị này cũng chỉ từ quan điểm của cơi trần chúng ta; có nghĩa là, có những phương pháp mà bằng cách đó ngay cả chúng cũng có thể bị chia nhỏ, nhưng khi chúng bị phân chia như vậy chúng cho ta vật chất thuộc về mộ vương quốc khác của tự nhiên. Tuy vậy vật chất cao hơn này cũng không phải đơn giản mà là phức tạp, và chúng ta sẽ thấy có tồn tại một chuỗi các trạng thái của chính nó, tương ứng rất rơ rệt với các trạng thái của vật chất cơi trần mà ta gọi là rấn, lỏng, khí, hay dĩ thái. Một lần nữa, bằng cách tiếp tục phương pháp của chúng ta đủ xa chúng ta đạt đến một đơn vị khác – đơn vị của vương quốc của tự nhiên mà các nhà huyền bí học đặt cho cái tên cơi trung giới.
Sửa lại bởi nickname : 26 July 2009 lúc 7:52am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 39 of 73: Đă gửi: 26 July 2009 lúc 9:24am | Đă lưu IP
|
|
|
Việc nghiên cứu những đơn vị này và các khả năng kết hợp của chúng tự nó luôn là một trong những vấn đề lư thú nhất. Tuy nhiên, ngay cả những thứ được xem như các đơn vị này cũng chỉ từ quan điểm của cơi trần chúng ta; có nghĩa là, có những phương pháp mà bằng cách đó ngay cả chúng cũng có thể bị chia nhỏ, nhưng khi chúng bị phân chia như vậy chúng cho ta vật chất thuộc về mộ vương quốc khác của tự nhiên. Tuy vậy vật chất cao hơn này cũng không phải đơn giản mà là phức tạp, và chúng ta sẽ thấy có tồn tại một chuỗi các trạng thái của chính nó, tương ứng rất rơ rệt với các trạng thái của vật chất cơi trần mà ta gọi là rấn, lỏng, khí, hay dĩ thái. Một lần nữa, bằng cách tiếp tục quá tŕnh chia nhỏ của chúng ta đủ lâu chúng ta đạt đến một đơn vị khác – đơn vị của vương quốc của tự nhiên mà các nhà huyền bí học đặt cho cái tên cơi trung giới.
Sau đó toàn bộ quá tŕnh có thể được lặp lại; bằng cách chia nhỏ hơn nữa đơn vị trung giới ta nhận thấy đang đối mặt với một thế giới c̣n cao hơn và thanh bai hơn, mặc dù vẫn là một cơi giới vật chất. Một lần nữa ta thấy vật chất tồn tại ở các trạng thái xác định rơ rệt tương ứng ở một mức độ cao hơn với các trạng thái mà chúng ta đă quen thuộc, và kết quả của sự nghiên cứu một lần nữa lại đưa ta đến một đơn vị - đơn vị của vương quốc tự nhiên thứ ba to lớn này, mà Theosophy gọi là cơi trí tuệ (mental world, c̣n dịch là thượng giới). Với những ǵ mà chúng ta biết, không có giới hạn nào về khả năng của sự phân chia này, nhưng có một giới hạn nhất định thật sự trong khả năng quan sát nó của chúng ta. Dù sao đi nữa, ta có thể thấy đủ để chắn chắn về sự tồn tại của một số lớn những vương quốc này, mỗi cái có nghĩa là một thế giới trong chính nó, mặc dù trong một cách hiểu khác rộng hơn chúng là những hợp phần của một cái toàn thể kỳ diệu.
Trong tác phẩm của chúng ta những vương quốc tự nhiên này thường xuyên được gọi là những bầu (plane, thường dịch là cơi), v́ trong nghiên cứu của chúng ta đôi khi sẽ tiện lợi để tưởng tượng chúng như cái này ở trên cái khác, tùy theo mức độ đậm đặc khác nhau của vật chất mà chúng được cấu tạo thành. Ta thấy rằng trong biểu đồ kèm theo (h́nh II) chúng được vẽ theo lối này; nhưng cần phải cẩn thận ghi khắc trong đầu rằng sự sắp xếp này chỉ nhằm để tiện lợi và giống như một phép tượng trưng, và thật sự không có cách nào miêu tả mối tương quan thật sự của những cơi giới khác nhau này. Không bao giờ được tưởng tượng chúng như nằm chồng lên cái khác như các ngăn của tủ sách, mà phải là chất đầy cùng một không gian và thấu nhập lẫn nhau. Có một sự thật thường được biết đến trong khoa học là ngay cả trong những chất cứng nhất hai nguyên tử không bao giờ chạm vào nhau, luôn luôn mỗi nguyên tử có trường hoạt động và rung động của nó, và mỗi phân tử lại có không gian lớn hơn của nó; v́ vậy luôn luôn có khoảng không gian giữa chúng dưới bất cứ trường hợp nào. Mỗi nguyên tử cơi trần đang trôi nổi trong một biển trung giới – một biển vật chất trung giới bao quanh nó và lấp đầy mọi kẽ hở trong vật chất cơi trần này. Đến lượt vật chất cơi thượng giới lại thấu nhập vật chất trung giới với cùng một cách thức; do đó tất cả những vương quốc khác nhau này hoàn toàn không tách biệt trong không gian, mà cùng hiện hữu quanh chúng ta ngay tại đây và ngay lúc này, v́ vậy để thấy chúng và nghiên cứu chúng, ta không cần thiết thực hiện sự di chuyển nào trong không gian, mà chỉ cần khai mở trong chính chúng ta các giác quan mà nhờ đó chúng có thể được nhận biết.
(nn thu nhỏ lại cho gọn, các bạn có thể xem h́nh trên trang anndgholap với kích thước lớn hơn. Đồng thời những h́nh này nn sắp xếp lại theo các đoạn văn bản để chúng ta dễ theo dơi.)
Có 7 cơi, mỗi cơi có 7 cơi phụ (subplane) hay c̣n gọi là cảnh, tương ứng với cách phân chia các trạng thái vật chất của cơi đó theo độ đậm đặc. Chú ư là trạng thái etheric có thể chia làm 4 loại, nên tổng cộng có 7 cảnh trong mỗi cơi. NN nói sơ qua các cơi nay một chút (khi đến phần các thể của con người chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn mối tương quan giữa các thể và các cơi), đi từ trên xuống:
7 – Mahaparanirvanic plane: Đại Bát Niết Bàn, có nghĩa là Cơi Lớn trên Cơi vượt quá Niết bàn. Trên cơi này c̣n cơi ǵ th́ chỉ có Thượng Đế mới biết, tạm thời chúng ta chẳng có khả năng nào biết điều đó cả.
6 – Paranirvanic plane: Bát Niết Bàn, có nghĩa là Cơi vượt quá Niết Bàn. Monad (có khi được dịch là Chơn Thần) ngụ tại nơi đây, điểm chơn linh, tia lửa trong khối lửa sự sống vĩ đại của Thượng Đế ngụ tại nơi này, có thể được xem là Đơn vị Tâm thức cao nhất của con người, Đơn vị này như 1 tế bào của Thượng Đế vậy, vẫn phân chia và vẫn hợp nhất, trí óc phàm không nhận thức được những vấn đề ở cơi cao như thế này.
5 – Nirvanic plane: Niết Bàn, cơi giải thoát đối với trái đất chúng ta, ai đạt được ư thức hoàn toàn nơi cơi này được giải thoát hoàn toàn, và dĩ nhiên, họ vẫn tiếp tục tiến lên chứ không dừng lại ở đó, nếu trải qua vô lượng kiếp tiến hóa rồi dừng lại ở đó th́ có vẻ hơi lạ và hụt hẫng?
4 – Buddic plane: Cơi Bồ Đề hay cơi Trực giác (Intuitional plane), nơi đây tâm thức một người bao trùm tất cả, và mọi người đều có tâm thức như vậy, đây là nền tảng vững chắc cho những ǵ gọi là “vạn vật đồng nhất thể”… và của t́nh huynh đệ đại đồng thực tế chứ không phải lư thuyết. Theosophy có một ví dụ về giọt nước chứa đựng cả đại dương để tạm h́nh dung cơi này, c̣n th́ chẳng từ ngữ nào diễn đạt được.
3 – Mental plane: Cơi trí tuệ, hay c̣n gọi là cơi thượng giới, cơi trời, thiên đàng (devachan: cơi của các thiên thần)
+ Thượng thiên: cơi trời vô sắc giới, gồm 3 cảnh cao của cơi thượng giới. Linh hồn là một phân thân nhỏ nhoi của Monad, ngụ tại đây, và sự luân hồi chỉ diễn ra ở 3 cơi thấp này. Các thể thấp được thay thế như thay áo qua mỗi lần luân hồi, c̣n các thể cao không bao giờ thay thế.
+ Hạ thiên: cơi trời sắc giới, gồm 4 trạng thái thấp cơi này.
2 – Astral plane: Cơi trung giới, cơi t́nh cảm (emotional plane), cơi dục vọng (desire plane). Đây là cơi giới duy nhất sau khi chết con người c̣n liên hệ với cơi trần trong một giới hạn nào đó, sau khi lên thượng giới, con người không c̣n liên hệ với trần gian nữa.
1 – Physical plane: Cơi trần.
Sửa lại bởi nickname : 26 July 2009 lúc 9:38am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 40 of 73: Đă gửi: 26 July 2009 lúc 10:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHƯƠNG III
THỊ LỰC THÔNG NHĂN
ĐIỀU NÀY đặt trước ta một vấn đề khác rất quan trọng. Tất cả những loại vật chất thanh bai hơn này không chỉ tồn tại ở thế giới bên ngoài, mà chúng c̣n tồn tại trong con người nữa. Y không chỉ có xác thân mà chúng ta nh́n thấy, mà bên trong y c̣n có cái mà ta có thể mô tả như những cơ thể tương thích với những cơi giới khác nhau này của tự nhiên, và trong mỗi trường hợp chứa đựng vật chất của cơi giới đó. Trong thân xác cơi trần của con người có chứa chất ête cũng như chất rắn mà ta thấy được (xem H́nh XXIV và XXV); và vật chất ête này là dễ dàng thấy được đối với nhà thần nhăn. Cũng như vậy với một nhà thần nhăn phát triển cao hơn, người có khả năng tiếp nhận vật chất trung giới thanh bai hơn hơn, nh́n thấy được con người ứng với mức độ đó bởi một khối vật chất, mà trên thực tế là cơ thể (body) của y hay phương tiện hoạt động (vehicle, chữ này vẫn thường được dịch là thể) trên cơi giới đó; và cũng y như vậy về phần cơi trí tuệ. Linh hồn con người không chỉ có một thể, mà là nhiều thể, khi đủ tiến hóa y có thể biểu lộ chính ḿnh trên tất cả những mức độ khác nhau của tự nhiên này, và và từ đó y được cấp cho một phương tiện thích hợp làm bằng vật chất thuộc về mỗi mức, và thông qua những phương tiện khác nhau này y có thể tiếp nhận các ấn tượng từ cơi giới tuong ứng với chúng.
H́nh XXIV H́nh XXV
Normal Health Aura___________________Health Aura in Diease
Chúng ta không nên nghĩ con người tạo ra những phương tiện này cho ḿnh cho quá tŕnh tiến hóa trong tương lai, v́ mỗi người đều sở hữu chúng ngay từ đầu, mặc dù y không hề ư thức về sự tồn tại của chúng. Chúng ta vẫn luôn sử dụng loại vật chất cao này trong chúng ta trong một chừng mực nhất định, và một tư tưởng rơ ràng là có thể nh́n thấy được bởi một nhà thần nhăn, như một rung động trong loại vật chất đó, trước hết tạo nên bên trong toàn thể con người đó, và kế đó ảnh hưởng lên vật chất có cùng mức độ đậm đặc trong cùng cơi giới xung quanh y. Nhưng trước khi tư tưởng này có thể tạo hiệu quả lên cơi trần nó phải được truyền tải từ vật chất cơi trí tuệ xuống vật chất trung giới; và khi nó đă kích thích những rung động tương tự ở đó, đến lượt vật chất trung giới lại ảnh hưởng lên chất ête, tạo ra những rung động đồng cảm trong đó; và nó lại tiếp tục trên vật chất đặc hơn của cơi trần, chất xám trong năo bộ.
V́ vậy mỗi lần ta suy nghĩ, ta đi qua một quá tŕnh dài hơn nhiều những ǵ ta biết; cũng như mỗi lần ta cảm giác điều ǵ ta trải qua một quá tŕnh mà ta hoàn toàn không hay biết. Ta chạm vào một chất nào đó và cảm thấy nó nóng quá, và ta giựt tay khỏi nó ngay lập tức như ta nghĩ. Nhưng khoa học nói với ta rằng quá tŕnh này không xảy ra tức th́, và không phải tay mà là năo bộ cảm nhận; chính những dây thần kinh truyền đạt ư tưởng về nhiệt độ cao đến năo bộ, và năo bộ ngay lập tức gửi ngược lại chỉ thị rút tay lại dọc theo các dây thần kinh; và sự rụt tay lại diễn ra như một kết quả của tất cả những điều này, mặc dù nó có vẻ là tức th́ với chúng ta. Quá tŕnh này có một khoảng thời gian xác định, có thể đo đạc được bằng các dụng cụ đủ tốt; tốc độ chuyển động của nó hoàn toàn được xác định và biết rơ đối với các nhà sinh lư học. Cũng giống như vậy tư tưởng có vẻ là một quá tŕnh tức thời; nhưng không phải như vậy, v́ mỗi tư tưởng đều đi qua các giai đoạn mà tôi đă mô tả. Mỗi một ấn tượng mà ta nhận được trong năo bộ thông qua các giác quan phải đi qua những mức độ vật chất khác nhau này trước khi nó đạt đến con người thực thụ, chân ngă (ego, nn vẫn dịch là linh hồn), linh hồn (soul) bên trong.
Ta có ở đây một loại hệ thống truyền tín hiệu (telegraphy, điện báo, có lẽ do đặc điểm thời đại mà ông dùng từ này) giữa cơi trần và linh hồn; và cần nhận thức rằng đường dây điện báo có các trạm trung chuyển. Không phải chỉ từ cơi trần mà những ấn tượng này có thể được tiếp nhận; vật chất trung giới trong một người, lấy ví dụ, không chỉ có khả năng tiếp nhận một rung động từ chất ête và truyền nó đến vật chất thượng giới, mà nó hoàn toàn c̣n có khả năng tiếp nhận các ấn tượng từ vật chất xung quanh cơi giới của nó, và truyền chúng qua thể trí (mental body, làm bằng vật chất cơi thượng giới) đến con người thục thụ bên trong. V́ vậy con người có thể sử dụng thể cảm xúc (astral body, c̣n dịch là cái vía) trong việc tiếp nhận các ấn tượng cũng như quan sát cơi trung giới quanh y; và cũng y như vậy thông qua thể trí tuệ y có thể quan sát và thu thập thông tin từ cơi thượng giới. Nhưng để có thể làm những điều này, trước hết y phải học cách hỏi chúng được thực hiện; có nghĩa là, y phải học cách tập trung ư thức (consciousness) trong thể cảm xúc hay trong thể trí, cũng như vào lúc này nó đang được tập trung nơi bộ năo vật chất. Tôi đă tŕnh bày đầy đủ vấn đề này trong quyển Clairvoyance của tôi, do đó không cần thiết phải nói thêm ở đây.
Sửa lại bởi nickname : 27 July 2009 lúc 10:13am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|