Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 276 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Theosophy Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 61 of 73: Đă gửi: 07 January 2010 lúc 8:23am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Dựa theo nguồn thông tin từ Brazil (mà ta phải thừa nhận là cũng “lạ thường” như Edgar Cayce), lớp vỏ ether của hành tinh chúng ta tỏa ra đến 400,822 km, vượt khỏi bề mặt rắn của hành tinh Trái đất, và mặt trăng của chúng ta nằm trong vùng ŕa của lớp vỏ ether khổng lồ này. Ether được mô tả như là “ether lỏng”, tạo nên vật chất sơ cấp và cơ sở cho các electron và proton, cho tất cả vật thể và hiện tượng vật chất. Phát biểu này, cũng vẫn hoàn toàn đồng ư với phát biểu của Edgar Cayce.

Kết quả của các nghiên cứu của Ngài Oliver Lodge, Giáo sư Todeschini và Tiến sĩ Seeseman, kết hợp với những lời xác nhận của Cayce và Kraspedon, chỉ đến một sai lầm khoa học khổng lồ, kết quả của những kết luận sai lầm trong nền vật lư đương đại: “Tất cả các kết quả thí nghiệm (mới) đó,” Todeschini phát biểu, “phủ nhận định đề về vận tốc cố định của ánh sáng, được xem như nền tảng của các lư thuyết vật lư từ 1905 đến tận ngày nay, và cho phép chúng ta khẳng định rằng một lư thuyết như vậy không phù hợp với thực tế vật lư.”

“Kết quả của tất cả các thí nghiệm quang học (bởi Todeschini) chứng minh cho chúng ta rằng vận tốc ánh sáng là tương đối so với một hệ quy chiếu, cũng giống như vận tốc của mọi thứ khác trong chuyển động.” Todeschini tiếp tục nhắm vào các sai lầm trong lư thuyết đương đại bằng các phát biểu rằng “…sự co rút của các vật thể và sự giăn nở của thời gian được dự đoán trong các phương tŕnh biến đổi Lorentz và làm nên nền tảng của nguyên lư tương đối giả của Einstein hoàn toàn không xảy ra trong hiện thực tự nhiên; thật vậy, chúng đă được mặc nhiên chấp nhận (như chúng ta đă chỉ ra) theo sau một sự diễn dịch vật lư sai lầm trong cả quang sai thiên văn và thí nghiệm của Michelson.” (9)

Các lư thuyết của Einstein, Heisenberg và Schrodinger trở nên rất đáng ngờ nếu sự tồn tại của ether có thể được xác minh, và đây không phải một nhiệm vụ dễ dàng để cho thấy sự bỏ đi của tất cả những lư thuyết vật lư đă được chấp nhận đó. Một sự đánh giá lại sắp đến sẽ chứng minh tính đúng đắn trong một phát biểu của Max Planck, “Một chân lư khoa học mới không chiến thắng bằng cách thuyết phục các đối thủ của nó và làm cho chúng nh́n thấy ánh sáng, mà thay vào đó là bởi các đối thủ của nó chết đi và một thể hệ mới lớn lên và quen thuộc với nó.”
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 62 of 73: Đă gửi: 09 January 2010 lúc 7:24am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Các ứng dụng về năng lượng

Tiềm lực khoa học của một quốc gia – khả năng ứng dụng khoa học để giải quyết các vấn đề tương lai trong khoa học và kỹ thuật, ví dụ như khủng hoảng năng lượng hiện nay – là một máy đo trước hết về sức mạnh trí tuệ và sáng minh và sau đó là sức mạng công nghiệp của nó. Sự nhanh nhạy và sức mạnh khoa học của một quốc gia có thể được xem xét dựa trên mức độ mà nó cung cấp một môi trường cho những thành viên sáng tạo của nó và nuôi dưỡng sự phát triển của các phát minh khoa học.

Thông tin sau đây là một trích đoạn từ quyển sách của một tác giả người Đức, Forschung in Fesseln (Research in Shackles), xuất bản năm 1972.

Edgar Cayce đă đề cập nhiều lần các khí cầu vào thời đại Atlantis có khả năng bay “không cần dùng đến cánh” (195-70) và được đẩy bằng cách áp dụng các lực điện.

Kỹ thuật trái đất hiện nay bị giới hạn ở việc sử dụng sức đẩy phản lực, nhưng các “Vật thể bay không xác định” (UFO) khó nắm bắt cho thấy nhiều đặc tính của tàu bay thời Atlantis của Edgar Cayce. Phim ảnh về các vật thể như vậy cho thấy chúng không có cánh, và đă có nhiều báo cáo về sự nhiễu điện và từ có liên quan đến các chuyến bay qua các vùng đông dân. Sự tồn tại của những vật thể như vậy bị bác bỏ v́ chúng thách thức các lời giải thích của khoa họcl một lối giải quyết tương tự cũng đă được dùng cho các kết quả nghiên cứu về ether, các bằng sáng chế Mỹ không được công khai, và những kết quả thí nghiệm gắn liền với lực đẩy khả dĩ của các UFO.

Người đọc sẽ nhớ lại các phát biểu của chúng ta về thí nghiệm của Philipp Lenard, trong đó các tia Lenard dường như mở ra một đường dẫn trong không khí, và lời xác nhận của Ngài Oliver Lodge rằng “chúng ta chỉ có thể nắm lấy nó (ether) bằng điện.” Sự định nghĩa về ether của Dino Kraspedon như là một “chất lỏng ether” thực sự khớp với h́nh ảnh về vật chất cơ bản của tất cả các vật thể vật chất.

Những người thí nghiệm cùng các tia Lenard đă xác nhận rằng họ đă có thể “phân ră” oxy, nitro, và các loại hơi khác làm nên bầu khí quyển, và đặt giả thuyết rằng họ đă có thể cho các nguyên tố đó trở lại với trạng thái “ether”, từ đó tạo ra một vùng chân không tại đó.

Trên nền tảng của công việc thí nghiệm bắt đầu từ năm 1926 và kéo dài đến ngày nay, Thomas Townsend Brown, một kỹ sư và nhà phát minh người Mỹ, đă có thể tạo ra một lực đẩy bằng cách nạp b́nh ngưng làm bởi các vật liệu đặc biệt; ông cuối cùng đă có các tụ điện h́nh cầu, dạng đĩa trong một môi trường chân không rơ ràng, từ đó loại bỏ được lời giải thích chính thống về “gió ether” như là nguồn gốc của lực đẩy UFO. Rất rơ ràng, không thể có gió ở đó, tức là, sự chuyển động của không khí, trong một chân không. Brown mô tả cách đạt được lực đẩy theo hướng của cạnh tích điện dương của các cánh máy bay này:

“Các kết quả này, vốn là những kết quả quan trọng nhất từ quan điểm của hiệu ứng Biefeld-Brown mà từ đó lực đẩy được tiếp tục, ngay cả khi không c̣n ánh lóe chân không, làm cho rotor tăng tốc theo chiều âm sang dương đến điểm có điện thể phải được giảm xuống nếu không thí nghiệm sẽ gián đoạn v́ nguy cơ rotor sẽ bay mất. Nói ngắn gọn, có vẻ là có một bằng chứng mạnh mẽ rằng hiệu ứng Biefeld-Brown thực sự tồn tại theo hướng từ âm sang dương trong một chân không vào ít nhất 10 mũ -6 torr.”

Các vật thể không hề có vật đẩy, không phản lực, không có các thành phần chuyển động. Không có các hao hụt do ma sát. Sự tiết kiệm năng lượng hay tăng hiệu suất trở nên rơ ràng nếu ta xét rằng thực tế, năng lượng đầu ra sử dụng được của các nhà máy điện chỉ vào khoảng 34% tổng năng lượng đầu vào; các tổn hao nhiệt động lực (hoạt động chuyển nhiệt thành cơ năng trong các turbine và dynamo) lên đến 45%, không tính phần có thể gọi là hao tổn nhiệt trong ệh thống. Hiệu suất năng lượng của hệ thống đẩy được khám phá bởi Brown, dựa trên một vật thể được nạp điện cao với một cạnh dương dẫn lên, là gần 100%! T.T. Brown đă được trao nhiều bằng sáng chế Mỹ (10) – và công tŕnh của ông lại bị lờ đi! Các kết quả thí nghiệm của ông đơn giản là không phù hợp với hệ thống lư thuyết khoa học ngày nay. Từ khi lư thuyết bị quẳng ra ngoài cửa sổ, người ta thậm chí c̣n không được có ư kiến rằng các thí nghiệm của Brown là có thể giải thích được như là “kéo căng ether,” sử dụng từ ngữ của Ngài Oliver Lodge.



Sửa lại bởi nickname : 12 January 2010 lúc 7:19am
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 63 of 73: Đă gửi: 12 January 2010 lúc 7:19am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Tuy nhiên, Brown không phải người duy nhất quan sát được một hiệu ứng như vậy. Tiến sĩ Erwin J. Saxi, một cựu sinh viên của Albert Einstein người Áo và hiện đang cư ngụ tại Mỹ, đă công bố các báo cáo về những chuyển động không thể lư giải được của một con lắc được nạp điện, lại cũng theo chiều từ âm sang dương. (11)

Các kết quả giống như vậy cũng đă được đạt đến bởi Tiến sĩ Horace C. Dudley, người đă áp một lượng điện tích dương lên bề mặt của các mẫu tên lửa thu nhỏ và nhờ vậy tăng cường lực đẩy có ích và độ bay cao lên sáu lần. Ông nạp điện lên đến 425,000 volts và gọi phát minh đă được cấp bằng của ḿnh là “Tên lửa Điện trường”. (12)

Một nhà phát minh khác thuộc cùng lĩnh vực là Thiếu tá Alexander de Seversky, người đă tạo ra một máy bay nặng-hơn-không-khí được đẩy đi mà không hề dùng đến bất cứ bộ phận chuyển động nào, cũng lại sử dụng thứ mà ông gọi là “phản lực ion”, dựa trên sự áp dụng năng lượng tĩnh điện cao áp. Người tiên phong trong lĩnh vực hàng không nổi tiếng này, người nhận bằng sáng chế của ḿnh vào năm 2964 (13), vừa qua đời không lâu mà không có bài b́nh luận nào của cộng đồng khoa học, để giải thích cho phát minh của ông như là một ứng dụng đơn giản của – bạn đoán được rồi đấy! – “gió điện”. Thực tế là T.T. Brown đă có thể chỉ ra rằng nguyên lư phản lực mới hoạt động ngay cả trong một bồn dầu, với mô h́nh mẫu hoàn toàn t́m trong dầu, dĩ nhiên là hoàn toàn không được biết tới. Popular Mechanics dẫn lời Thiếu tá de Seversky bằng cách phát biểu rằng nguyên lư mới “sẽ chứng minh phương pháp hiệu quả nhất chuyển điện năng thành chuyển động. Nó là một máy bay, được thiết kế để hoạt động trong bầu khí quyển. Nhưng nó sẽ có thể làm được những thứ mà chưa có loại máy bay hiện tại nào đạt được… Chúng ta đang khám phá một nguyên lư hoàn toàn mới mẻ về cách bay lượn. Chúng ta chỉ đang ở tại vị trí của Anh em nhà Wright đă ở đó vào năm 1903. Chúng ta chỉ vừa bắt đầu nh́n thấy các khả năng.”
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 64 of 73: Đă gửi: 14 January 2010 lúc 7:55am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Các thí nghiệm trở nên thường xuyên hơn, hiệu ứng của một vật thể được nạp điện trong một môi trường lỏng (gồm cả không khí, cũng được xem là môi trường lỏng), đă được xác minh trong các thí nghiệm đường ống gió, và thuật ngữ “Điện Khí động lực” đă được đặt cho hiệu ứng quan sát được. Người ta đă hi vọng rằng các tiếng nổ đáng sợ do bay quá tốc độ âm thanh của quân đội và máy bay dân dụng sẽ có thể tránh được bằng cách áp dụng các vật nạp điện dương cao áp trên các cạnh lên thay cho các cánh nghiêng của các máy bay thông thường hiện nay. Một bài viết khoa học đă được công bố (14) – và không có ǵ hơn xảy ra trong vấn đề này.

Khái niệm mới về “phản lực trường” đă được chấp nhận trong thuật ngữ kỹ thuật. Thuật ngữ đă trở thành chính thức trong một báo cáo kỹ thuật mở của U.S. Air Force Systems Command ở Edwards, California. Báo cáo dựa trên một nghiên cứu được chỉ đạo bởi một nhóm 28 thành viên của tổ chức này với ư định dự báo trước sự phát triển của loại phản lực mới được mong chờ trong năm kế đó. Nghiên cứu ghi vào tháng sáu 1972, và trong chương “Phản lực Trường” có liệt kê các loại lực được chọn, chẳng hạn như “electrostatic effects”, “electromagnetic spacecraft propulsion” và “antigraviry propulsion”. Thuật ngữ “ether propulsion” không được ghi vào, như chúng ta có thể dự đoán được. (15)

Các ví dụ trên về các thí nghiệm được thực hiện thành công và các bằng sáng chế đă rọi nguồn sáng mới vào những lời xác quyết của Edgar Cayce liên quan đến vấn đề ether và khả năng của các máy bay Atlantis cổ, thứ có khả năng làm được tốt hơn loại máy bay tốt nhất hiện nay. Chỉ một ư nghĩ đơn thuần về một khả năng như vậy, dĩ nhiên là tạo nên một ư tưởng “dị giáo” về khoa học, và lư do cho tựa đề Research in Shackles, quyển sách kể trên của tác giả, trở nên rơ ràng một lần nữa.

Trừ khi các nguồn năng lượng mới hoặc các phương pháp hiệu quả hơn để sử dụng các nguồn năng lượng hiện nay được phát hiện, thế giới phương Tây có thể đi đến chỗ phá sản, với các quốc gia bị hăm dọa nằm ngoài nền tự do kinh tế của họ. Hi vọng của người viết là bằng cách soi ít ánh sáng vào cuộc tranh luận ether sẽ giúp ngăn ngừa được thảm họa này.

Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 65 of 73: Đă gửi: 18 January 2010 lúc 8:49am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Các Bức xạ chưa được biết đến và Sự bức xạ H́nh thể

Trong nhiều dịp, Edgar Cayce nhắc đến một loại năng lượng mà ông gọi là “radionic (xạ, cảm xạ) vibrations”, “etheric energies” hay “aetheronic energies”. Thực sự có những rung động hay năng lượng có các tính chất hoàn toàn khác với những ǵ nằm trong phổ điện từ. Sử dụng những rung động này, ông Galen Hieronymus đă có thể t́m ra dấu vết các vận động sinh lư của các phi hành gia Mỹ ṿng quanh mặt trăng. Năng lượng lạ này không thể hiện đặc tính nhiễu thông thường của các năng lượng E/M; cường độ của các tín hiệu không phụ thuộc vào khoảng cách từ người gửi. Ta có lư do để cho rằng các rung động này của ether là nền tảng thực sự cho tất cả những hiện tượng được gọi là psychic, vẫn chưa được giải thích cho đến ngày nay. Năng lượng này đă được gọi là: “Eloptic Energy” bởi Hieronymus, “Prana” bởi các nhà siêu h́nh Ấn Độ, “Orgone Energy” bởi Wilhelm Reich, “Bio-Cosmic Energy” bởi Dr. Brunler, “X-Force” bởi nhà khoa học Anh Eeman, “Nervous Ether” bởi Richardson, “Odic Force” bởi Baron von Reichenbacj, “Animal Magnetism” bởi Mesmer, “Vital Fluid” bởi các nhà giả kim thời trung cổ, “Mumia” bởi Paracelsus, và “Vis Medicatric Naturae” bởi các nhà khoa học y khoa.

“Eloptic Energy hoạt động trong một môi trường khác,” Galen Hieronymus phát biểu. Ông nói thêm rằng năng lượng này có thể bị khúc xạ xuyên qua một lăng kính và được truyền đi dọc theo các tia sáng. Nó cũng có thể được truyền theo các dây đồng, bị cô lập bởi các loại vật liệu nhất định, và được dẫn xuyên qua các b́nh ngưng hay tụ điện: “Năng lượng từ một người có thể được truyền đi cùng với các tia sáng và ghi lên một tấm phim nhạy sáng, và lại dội lên bức ảnh được tạo ra từ tấm phim đó. H́nh ảnh đó có thể được chuyển đi xa đến bất cứ đâu khỏi người đó, và nó sẽ hành động như là tái tạo chính người đó, thay đổi từng thời điểm mỗi khi người đó thay đổi. Chính do nguyên lư này mà chúng tôi đă dùng để theo dơi những phi hành gia đi vào không gian, và kiểm tra họ khi họ thay đổi do căng thẳng ‘G’ và những ảnh hưởng mà họ phải chịu. “ Những phát biểu này rất có thể bị xem là tiếng hú của một nhà khoa học điên, nếu không phải nhờ vào một thực tế là, vào khoảng thời điểm chuyển giao của thế kỷ, Giáo sư R. Blondlot ở Nancy, Pháp đă phát hiện ra một bức xạ có cùng đúng các tính chất đó; ông gọi nó là bức xạ “N”, đặt theo tên của vùng Nancy. Nhà nghiên cứu nhận giải Nobel (1903, về vật lư) người Pháp, Giáo sư Jean Becquerel, người đầu tiên phát hiện ra các hiện tượng mà sau này được gọi là “radio-activity” bởi Marie Curie (Xin hăy so sánh điều này với “radio-activity-device” của Cayce!), tŕnh bày sự phát hiện các tia “N” của ông trong một bài báo khoa học  ở Pháp. (16) Ông nhấn mạnh một khác biệt nổi bật với bức xạ E/M, đó là các tia “N” có vận tốc lan truyền dọc theo dây dẫn rất chậm. Điều đó cũng đă được khẳng định không chỉ bởi Hieronymus ở Mỹ, mà c̣n bởi Eeman (“Eeman-circuits”) ở Anh và một người Đức, Dr. med. Et phil. Joseph Wuest. (17)

Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 66 of 73: Đă gửi: 20 January 2010 lúc 7:57am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Có lẽ tính chất đáng kinh ngạc nhất của loại năng lượng ether mới này là sự hiệu quả đặc biệt của nó đối với các bức ảnh. Các thí nghiệm Hieronymus t́m thấy được một nguồn trợ giúp hoàn toàn bất ngờ - một nhà nghiên cứu người Đức tên Geffken, người vào năm 1919 đă ghi lại trong quyển sách Neues ũber N-Strahlen (Tin tức mới về các Tia“N”) của ông: “Năng lượng ghi lên bức ảnh có khả năng xuyên thấu một tấm b́a dày, nhưng sẽ mất hết năng lượng nếu bức h́nh được giữ ba ngày trong một vùng hoàn toàn tối. Nếu được phơi ra ngoài ánh sáng sau giai đoạn này, nó sẽ khôi phục lại hiệu quả của nó, nhưng năng lượng đă trở nên yếu hơn.” Ông c̣n t́m thấy rằng sự nhiễm bẩn các bức h́nh xuất hiện nếu chúng được giữ cùng nhau, đặc biệt khi quay mặt vào nhau, và khuyên rằng nên giữ các bản sao trong những b́a giấy trắng sạch riêng biệt.

Chiếc “Máy Abrams” nổi tiếng, sử dụng các loại radionic energy, đă được gọi là “black box” bởi v́, cũng như với thiết bị của Hieronymus, light rays entering it shorted it out. Trong mọi trường hợp, ta có đủ các mẫu số chung trong tất cả các phát hiện này để bảo đảm cho các cuộc điều tra nghiêm túc. Sự quan trọng phi thường của việc nghiên cứu về chủ đề đặc biệt này (ether-radiations) đă được nh́n nhận bởi Rudolph Hess, người đại diện của Adolf Hitler, người đă bí mật cấp nguồn vốn cho Joseph Wuest. Sự kiện này được chính Dr. Joseph Wuest kể cho người viết mới một vài năm về trước. Chỉ Chiến tranh thế giới lần thứ II mới kết thúc nghiên cứu của ông. Nếu các phát biểu trên nghe có vẻ điên rồ, chúng ta không nên quên rằng sự điên rồ của thời đại Galileo giờ đây đă được thừa nhận rộng răi như những “thực tế khoa học”.

Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 67 of 73: Đă gửi: 23 January 2010 lúc 7:15am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Một ví dụ cho những hiện tượng chưa được lư giải là telepathy (thần giao cách cảm), là điều không thể giải thích được bằng lư thuyết điện từ. Tầm quan trọng của sự phát hiện cơ chế lan truyền của telepathy đă được diễn đạt bởi nhà khoa học Soviet Vasilyev: “Phát hiện ra một loại năng lượng như vậy sẽ có giá trị ngang với việc phát hiện ra năng lượng hạt nhân!”

Psychometry (khoa đo nghiệm tinh thần) là một ví dụ khác về một dạng năng lượng vẫn c̣n bí ẩn có thể được giải thích bởi lư thuyết ether. “Aka-threads” của các tu sĩ Polynesian Kahuna cổ xưa và nỗi sợ của một số thổ dân bị chụp ảnh sẽ ảnh hưởng đến tâm trí. Spirit apparition (sự hiện h́nh của ma quỷ) trở nên giải thích được như là một sự cô đặc của thứ ether khó nắm bắt gây ra bởi sự tác động của các thực thể được gọi là ma quỷ. Sự tụt giảm nhiệt độ quan sát được trong tất cả các t́nh huống đó hỗ trợ cho giả thuyết về một sự chuyển đổi năng lượng ether thành một loại cái ǵ đó bán vật chất. Giáo sư người Thụy Sĩ, Eugen Matthias, phát biểu rằng chúng ta đang thực sự đối mặt với một “pre-physical state of matter”, (18) và không ǵ có thể diễn đạt bản chất ether tốt hơn định nghĩa này, một định nghĩa hầu như tương đồng với định nghĩa của Edgar Cayce.

Con người đă bước trên mặt trăng, nhưng nguyên nhân căn bản của mùi hương – the physical radiation-transmitting energies of the fragrance of a flower – vẫn chưa được giải đáp. Cơ thể vật chất của chúng ta và các cơ chế hoạt động của chúng vẫn không thể được giải đáp đầy đủ bằng vào các quá tŕnh nguyên tử và hóa học thông thường. Các bác sĩ khoa thần kinh (psychosomatic) đều biết rằng một mối ràng buộc tinh-thần-và-vật-chất nắm giữ chiếc ch́a khóa để điều trị phần lớn các căn bệnh đang vây quanh nhân loại ngày nay. Có thể nào môi trường trung gian mà trong đó “tâm trí” đang hoạt động chính là ether? Điều này sẽ giải thích cho nhiều thứ ví dụ như telepathy, và khiến cho dễ dàng hiểu được như là một máy phát sóng và máy nhận mở cùng một tần số. Nó cũng giải thích cho các hệ quả quan trọng mà các hoạt động tư tưởng tác động lên thế giới vật chất. Các ví dụ từ tài liệu của Edgar Cayce về vấn đề riêng biệt này là quá nhiều và nổi tiếng để có thể t́m đào sâu hơn vào đó.

Sự hiểu biết bất toàn của chúng ta không có câu trả lời cho tác động bí ẩn của kim tự tháp, một “sự phát xạ h́nh thể” đă được quan sát. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu đă nhắc đến trong bài viết này đă quan sát thấy rằng loại năng lượng trong vấn đề này có thể bị khúc xạ, phản xạ, phân cực và thậm chí là hội tụ(19). Không phải rất có thể kim tự tháp chính là một dụng cụ cực kỳ công hiệu để hội tụ ether sao? Sau rốt, các tác dụng của việc ướp xác và khử nước trong một kim tự tháp được xây dựng và đặt hướng hợp lư không hề được phát minh bởi những người Czech hay Xô Viết. Chúng cũng đă cũ xưa như Ai Cập và Atlantis.

Chúng ta không thể làm ngơ trước vai tṛ của ether, một loại năng lượng sinh học vũ trụ, đó như là một dây liên kết giữa tâm trí và vật chất trong các hiện tượng PK đă được báo cáo lại. Nếu chúng ta muốn điều tra ma thuật của Uri Geller, chúng ta sẽ phải điều tra các đặc tính của ether trước tiên. Ta không phải là xoay sang một hướng khác nếu chỉ v́ các chủ đề về ether và năng lượng ether được nhắc đi nhắc lại trong các tài liệu của Edgar Cayce. Mà hơn tất cả, chúng ta không thể tiếp tục làm ngơ trước các chứng cứ thấy được, là kết quả của những năm tháng nghiên cứu không đo đếm được, đă chỉ rơ sự tồn tại của ether và các ứng dụng hữu ích khả dĩ trong thế giới của chúng ta.

 

CHÚ THÍCH

(xem bản tiếng Anh)

Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 68 of 73: Đă gửi: 23 January 2010 lúc 7:30am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Một vài sách tham khảo về chủ đề ether:

Occult Chemistry – C.W.Leadbeater: khá phức tạp, có thể chỉ cần đọc phần đầu liên quan đến ether.

The Etheric Double – A.E.Powell: viết chi tiết về etheric body (cái phách) cấu tạo từ ether.

The Chakras – C.W.Leadbeater: về 7 luân xa thuộc về etheric body.

The Hidden Side of Things – C.W.Leadbeater: chỉ có 1 phần nhỏ liên quan gián tiếp đến ether, nhưng là một quyển sách hay nên đọc.



Sửa lại bởi nickname : 15 February 2010 lúc 8:01am
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 69 of 73: Đă gửi: 15 February 2010 lúc 8:04am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Some glimpses of Occultism

CHƯƠNG III

CÁC TRƯỜNG THẦN BÍ CỔ XƯA

Mỗi một đất nước, một dân tộc, một tôn giáo đều luôn có những trường thần bí (Mysteries – ND) của nó. Nhưng cái cách mà chúng ta dùng từ ngữ đó ngày nay khó mà diễn đạt được một ư tưởng chính xác về ư nghĩa của nó trong những thời đại xa xưa, điều mà chúng ta đang muốn hướng đến vào tối nay. Điều quan trọng thực sự trong đó đơn giản chỉ là điều ǵ đă được ẩn giấu; nhưng khi chúng ta nghe về nó trong mối liên hệ với các vấn đề tôn giáo nó dường như gợi lên trong chúng ta nhiều hơn là như vậy. Chúng ta đă mang theo một niềm tin tôn giáo theo một phương hướng nào đó, một trong những tuyên bố của nó là tất cả những giáo lư của nó có thể được hiểu biết bởi một đầu óc tối tăm nhất. Nếu tuyên bố này là đúng, đó sẽ là một lồi thú nhận cho sự thất bại của phần tôn giáo đó, v́ nó sẽ có ư nghĩa rằng nó không có những lời dạy dành cho một người có suy nghĩ; nhưng điều đó không hề đúng đối với Kitô giáo nguyên thủy, như tôi đă chỉ ra trong bài nói chuyện của tôi về chủ đề đó (xem chương II – ND). Nó có những lời dạy bí truyền, cũng như tất cả những học thuyết lớn khác, nhờ đó nó sẽ hữu ích cho tất cả mọi tầng lớp của nhân loại, mà không phải chỉ là một. Nhưng cái ư tưởng sai lầm đă được kiên tŕ ghi khắc vào chúng ta khiến ta cảm thấy một sự ngờ vực đối với những niềm tin thông minh hơn vốn thỏa măn mọi yêu cầu, và nghĩ về chúng như những phần ẩn giấu thừa thăi của chân lư, hay căm ghét chúng. Trong những ngày xa xưa ta không có những suy nghĩ như vậy; nó được nh́n nhận rằng chỉ có những người đạt đến một tŕnh độ nhất định trong cuộc sống mới thích hợp để nhận lănh những chỉ dẫn cao cấp hơn, và những người mong muốn điều đó phải tự làm việc để có đủ tiêu chuẩn cho nó. Ngày nay lại có một xu hướng yêu cầu tất cả mọi kiến thức mà không nỗ lực chút nào để có sự chuẩn bị cần thiết, và càu nhàu rằng nó đă bị giữ lại một cách thô lỗ, bởi v́ chính các Đấng Cao Cả với sự minh triết của ḿnh đă thấy trước những nguy hiểm của việc đặt những sự thật nhất định vào những đầu óc chưa sẵn sàng để đón nhận chúng. Hiểu biết là sức mạnh, và con người phải chứng minh họ xứng đáng trước khi có thể được tin tưởng giao cho sức mạnh đó, v́ mục tiêu của toàn bộ kế hoạch là sự tiến hóa của con người, và lợi ích của sự tiến hóa sẽ không được thực hiện bằng cách công bố bừa băi những sự thật huyền bí.

Người ta công nhận rộng răi rằng sẽ thật ngu ngốc khi giao thuốc nổ vào tay trẻ con để chơi đùa, và ta có rất nhiều bằng chứng quanh đó rằng có những mảnh sự thật huyền bí được cho phép công bố đă bị lạm dụng tệ hại. Sự thật về sức mạnh của tư tưởng và ư chí và khả năng của tác động mesmeric (xem chương VI – ND) đang t́m cách được chấp nhận rộng răi, và kết quả tức th́ là chúng ta nh́n thấy hàng loạt những quảng cáo luôn có sẵn trước mắt, rằng sẽ chỉ cho chúng ta biết cách thành công trong công việc bằng cách sử dụng bất chính sức mạnh của những thứ đó lên những người anh em của chúng ta, bằng cách đó chúng ta có thể được lợi trong khi họ gánh chịu hậu quả. Một người chưa tiến hóa luôn hiểu sai và lạm dụng bất cứ một mảnh nhỏ kiến thức cao cấp nào. Với những người hiểu biết, đó là một niềm an tủi to lớn và nguồn động viên mạnh mẽ nhất để sống ngay thẳng với một chân lư sâu sắc về sự hợp nhất của chúng ta với Đấng Thiên Liêng; tuy nhiên chính sự thật đó cũng đă được đem ra bào chữa cho những dục vọng đê hèn nhất bởi những người chưa tiến hóa trong số tín đồ Vệ Đà. Lịch sử của đế chế Atlantis là một cảnh báo mạnh mẽ nhất về những hậu quả khủng khiếp của việc sử dụng sai lạc các kiến thức huyền bí.

Trường thần bí Eleusis

V́ vậy sự tồn tại của những lời dạy bí mật c̣n hơn cả sự hợp lư, mà sự có mặt của nó trong tất cả mọi tôn giáo trên thế giới cũng được lư giải. Nhưng mặc dù nó có thể được lần ra trong tất cả các tôn giáo, khi ta nói về những Trường thần bí đầu óc ta chỉ hướng đến một hay hai nơi – chủ yếu là các Trường thần bí Bacchus và Eleusis liên quan đến nền tôn giáo của Hy Lạp cổ, và trong một dạng thấp hơn và c̣n cổ xưa hơn là Ai Cập và Chaldaea. Các văn bản về chủ đề này là khá ít, và cũng chỉ có một ít thông tin được rút ra từ đó. Đánh giá của Thomas Taylor có lẽ là tốt nhất, mặc dù trong đó vẫn có nhiều điểm thiếu chính xác. Dù vậy, có một lượng trực giác dồi dào trong cuốn sách của ông – quá nhiều khiến cho ta khó mà không giả sử rằng chính ông có khả năng đă có mối liên hệ trực tiếp với các trường Huyền bí trong một kiếp trước nào đó. Iamblichus, chính là một đạo đồ, đă viết về chủ đề này, nhưng ông đưa ra c̣n ít thông tin hơn Taylor – có khả năng v́ ông bị ràng buộc chặt chẽ bởi lời thế giữ bí mật. Một tác giả người Pháp tên Foucart gần đây cũng đă viết về chủ đề này. Một chương trong quyển Orpheus của ông Mead tóm tắt về tất cả những ǵ mà các học giả đă biết – một chương nên được đọc bởi tất cả những ai quan tâm đến khía cạnh này của đời sống cổ xưa. Những thông tin loại này mà tôi phải mang đến cho các bạn được đạt được bằng một cách thức khác – không phải là học những mảnh kiến thức sót lại của chúng ta, mà bằng sự điều tra cùng trí nhớ. Tôi trước đây đă có dịp nói rằng có những thành viên nhất định của Hội chúng ta đă kiên nhẫn nghiên cứu các kư ảnh về tiền kiếp, để học hỏi những luật mà qua đó việc luân hồi được thực hiện, và cái cách mà những hành động của một kiếp sống tạo ra các kết quả không thể tránh được trong kiếp tiếp theo. Trong quá tŕnh nghiên cứu chúng tôi t́m thấy rằng một vài thành viên trong đó đă có liên hệ với những Trường thần bí này, và đă liên tục được nhận vào học hỏi nó. Tất nhiên việc nhận vào đó hoàn toàn không thể được nhầm lẫn với những điểm phân chia các Giai đoạn trên Thánh Đạo, v́ điều này thuộc một mức cao hơn rất nhiều, và tất cả những điều thần bí ấy chỉ là một bước chuẩn bị cho họ. Tuy nhiên, có những cấp độ xác định trong những Trường thần bí, và một người gia nhập vào đó sẽ cam kết giữ im lặng về những ǵ họ được nh́n thấy. Ngày nay một cam kết như vậy vẫn có hiệu lực, mặc dù nó có thể đă được thốt lên vào hai ngàn năm trước; nhưng những người tiếp nhận lời thề có thể giải phóng cho người đệ tử, và khi xét đến những phần nhất định đă được truyền dạy. Nguyên nhân là thế giới ngày nay đă tiến hóa đôi chút, và v́ vậy một thử nghiệm xa hôn được thực hiện; và nhiều điều từng được truyền dạy chỉ với những lời thề nhập môn nay đă được công bố cho thế giới trong các tác phẩm Theosophy. Nhiều thông tin trong này từng được xem là bí mật và thiêng liêng; và ngày nay, mặc dù nó không c̣n bí mật nữa, nó vẫn thiêng liêng, luôn luôn. V́ vậy mặc dù tôi sẽ không thể kể cho các bạn tất cả về những Trường thần bí Eleusis cổ xưa đă được truyền cho các học viên, tôi có thể mang đến cho các bạn một bản phác thảo về một phần lớn trong đó.

Điều đầu tiên mà tôi muốn nhấn mạnh là sự buộc tội khiếm nhă hết sức thường xuyên đối với những Trường thần bí này bởi những kẻ thù của nó là hoàn toàn không có một cơ sở nào – ít nhất là cho đến khi mà thời đại huy hoàng của giống dân c̣n có liên quan. Ta cũng không bao giờ nên quên rằng rất nhiều thông tin như vậy của chúng ta về các Trường thần bí đă đến với ta thông qua sự thù ghét cay đắng và vô lương tâm của những cây bút Kitô giáo; và mặc dù những cây bút này căm phẫn bác bỏ sự ám chỉ rằng trong Giáo Hội của họ không có những điều thần bí đúng nghĩa nào, và tuyên bố rằng những bí ẩn của họ về mọi mặt đều cũng tốt và sâu sắc và rộng răi như những ǵ của các đối thủ “tà đạo” của họ, tuy vậy họ lại mang đến sự buộc tội điên cuồng và kinh tởm nhất chống lại đạo đức của những người tham gia vào những tổ chức khác với họ.

 

Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 70 of 73: Đă gửi: 16 February 2010 lúc 6:27am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Cách làm của những tu sĩ

Có lẽ chúng ta khó mà nhận thức được cái cách mà chúng ta hoàn toàn chỉ có được một khía cạnh nào đó của tất cả những tranh căi này, và cái cách mà chúng ta hoàn toàn nằm trong tay của những kẻ có óc bè phái đầy cay nghiệt và vô lương tâm. Chúng ta có ở châu Âu một thời kỳ đen tối, kéo dài trong nhiều thế kỷ, khi sự dă man của Kitô giáo đóng dấu trên tất cả mọi kiến thức, mọi hiểu biết, và hầu hết các môn thuật; một thời kỳ mà trong đó không một ai có thể đọc hay viết ngoại trừ các thầy tế và tu sĩ, do đó bất cứ thứ ǵ mà chúng ta có về các ghi chép của các thời đại trước đó, bất cứ thứ ǵ ta có về các kinh điển nguyên thủy, tất yếu đều đến với chúng ta thông qua bàn tay họ, v́ chỉ có họ có thể sao chép các bản thảo. Trong thời đại của sự in ấn toàn cầu, và kiến thức tuôn tràn, chúng ta khó mà hiểu được điều đó có nghĩa là ǵ – về một quyền lực to lớn được đặt vào tay của những tu sĩ trung cổ. Một ít bản thảo xưa hơn có thể được t́m ra ở đâu đó, nhưng phần lớn tất cả các kinh điển của các thời đại xa xưa đều đi qua sự kiểm duyệt của Giáo hội trong giai đoạn tin tưởng mù quáng nhất của nó.

Một điều khác mà chúng ta phải nhận thức được đó là các tu sĩ không có khái niệm về điều mà ngày nay chúng ta gọi là đạo đức văn chương. Họ hoàn toàn sẵn sàng trích dẫn tùy ư mà không hề cảm tạ; họ không thấy có bất cứ lư do nào khiến họ không dùng các tài liệu mà họ t́m thấy ở bất cứ nơi đâu, và họ chỉ đề cập đến nơi họ kiếm được nó khi mà họ nghĩ rằng cái tên của người viết sẽ tiếp thêm sức mạnh cho lư lẽ của ḿnh. Cũng thường khi họ có điều mà họ nghĩ là đáng nói, họ quy cho nó tên một người nổi tiếng để đảm bảo nó được chú ư đến. Trong khi trích dẫn tranh luận của đối thủ, họ không bận tâm để đối đăi công bằng với kẻ thù, hay nói rơ sự việc một cách công tâm; ta biết từ chính sự thú nhận của họ rằng họ chỉ trích dẫn những điều phù hợp với luận điệu của họ trong lúc đó, dùng những ǵ họ nghĩ là có thể được làm sáng tỏ, và hoàn toàn bỏ qua phần c̣n lại. Từ đó chúng ta chỉ có phần tường thuật hết sức thiếu thốn về những ư kiến của các đối thủ họ, và chúng ta có một ư tưởng về những ǵ họ thực sự biết hay truyền dạy cũng chỉ ở mức mà chúng ta sẽ biết về thần học Thiên Chúa giáo La Mă khi ta lấy lời lẽ của một tín đồ Tin lành hung hăng nhất làm lời hướng dẫn duy nhất về nó.

Khi xem xét về vấn đề các Trường thần bí chúng ta biết rằng đă từng có một cuộc tranh căi đặc biệt gay gắt, và những cây bút Kitô giáo không bao giờ ngần ngại dùng bất cứ vũ khí nào mà họ có thể nghĩ là có thể kiếm cho họ một điểm. Nếu đó là một vu cáo được nhiều người biết đến, họ sẵn ḷng chộp lấy nó và phóng đại nó lên – thậm chí có thể là với thành kiến, họ thực sự tin vào nó; và bằng cách đó họ chấp nhận và lặp lại những lời buộc tội khiếm nhă vô căn cứ về phía những Trường thần bí. Đôi khi trong những lời đáp trả của họ chúng ta t́nh cờ tập hợp được những điều đại chúng nói về họ, và khi đó ta bắt đầu biết được về độ tin cậy được đặt vào những câu chuyện đó. Tiếng đồn buộc tội Nhà thờ Kitô giáo phạm phải những tội ác kinh tởm nhất – lời kết án phổ thông nhất là ở những buổi họp kín họ hiến tế con người và thích thú với việc ăn thịt người. Lời tuyên bố rằng họ giết hại và ăn thịt trẻ con thường xuyên lặp đi lặp lại; và không khó để thấy v́ sao điều đó lại xảy ra. Họ tổ chức Lễ ban thánh thể trong cánh cửa đóng kín, và nói về nó như việc hội hợp để chia phần cơ thể và máu của Con của Người; và người ta có thể dễ dàng thấy được cái cách mà lời tuyên bố đó có thể bị giải thích sai lạc bởi những kẻ ngu dốt, và thật không đáng cho những nhà sử học khi chú ư đến những lời đồn đơn thuần về cả hai phía trong một tranh căi thần học.

Chắc chắn là trong cái thời kỳ dài mà những Trường thần bí được phát triển rực rỡ, một sự rèn luyện căng thẳng nhất đă được đ̣i hỏi từ tất cả những người dự tuyển, và sự trong sạch cực điểm được bảo tồn; nhưng có khả năng là trong những thời buổi suy tàn của cả Hy Lạp và La Mă, ngay chính những Trường thần bí cũng chia xẻ cùng sự xuống cấp chung đó ở một mức độ nhất định, cũng giống như, ta sẽ nhớ rằng, t́nh thương (agapae – ND) Kitô giáo cũng bị thoái hóa thành những cuộc truy hoan cuồng dại và đáng trách nhất. Trường thần bí Bacchic trở thành một nghi lễ đơn thuần vào phút cuối, khi Bacchus hay Dionysos bị xem như là vị thần rượu, thay v́ được nh́n nhận như là sự biểu lộ của Thượng Đế, nơi xuất phát của tất cả nguồn sống và năng lực. Thật vậy, sự sống và năng lực đôi khi được tượng trưng bằng rượu, hay đúng hơn là nước trái nho, và bằng cách này nhận thức sai lạc của đám đông đă xuất hiện.Nhưng điều này chỉ xảy ra vào cuối Đế chế, khi mà tất cả những Trường thần bí đă rút lui vào phía sau, và chẳng có ǵ ngoài lớp vỏ c̣n sót lại. Chúng ta không thể phán xét chúng từ những di tích của thời đại đó, cũng như ta không thể phán xét La Mă vĩ đại từ t́nh trạng của nó khi lâm vào thời kỳ suy tàn vô vọng. Thay vào đó chúng ta hăy xem xét về chúng vào đỉnh cao của vinh quang và phẩm chất.

Các Trường thần bí là ǵ

Cũng như đa phần đều biết rằng, có hai loại, các Trường thần bí Lớn và Nhỏ. Điều mà người ta không biết chính là luôn luôn, ở phía sau và vượt lên trên tất cả, là Trường thần bí thật sự về đường Đạo, mà cả hai trường kia đều hướng đến. Giáo lư huyền học luôn luôn mở rộng cho những ai đă sẵn sàng để bước vào; các phẩm chất cần thiết không bao giờ thay đổi, v́ chúng không phải được áp đặt độc đoán, mà là điều thiết yếu cần cho sự tiến bộ. Ngày nay đường Đạo và vài giai đoạn của nó, và những phẩm chất cần thiết, được mô tả rộng răi trong các cuốn sách và bài diễn thuyết, cũng như đă lâu lắm rồi trong các kinh sách Ấn Độ; nhưng ở Hy Lạp và La Mă dường như không có các thông tin rơ rệt về vấn đề này được đưa ra, và sự tồn tại về khả năng của sự tiến bộ đó hẳn là cũng không được biết đến dù cho đó là những người được kết nạp của các Trường thần bí Lớn cho đến khi họ thực sự phù hợp để nhận được lời kêu gọi bí ẩn từ bên trong.

Nhưng với các Trường thần bí mà chúng ta đang nói đến, một số lớn đă được nhận vào; thật vậy, một tác giả kinh điển có nói đến sự quy tụ của ba mươi ngàn người được kết nạp, con số đó, khi chúng ta suy xét đến số dân tương đối nhỏ của hy Lạp, cho ta thấy sự tổ chức các Trường thần bí hoàn toàn không hề tách biệt như ta tưởng. Quả thực, các cuộc điều tra của chúng tôi chỉ ra rằng tất cả những người nghiêm túc và có suy nghĩ tự nhiên là sẽ t́m đến chúng như là trung tâm của hiểu biết tôn giáo. Người ta đôi khi tự hỏi rằng làm sao mà những đất nước vĩ đại như La Mă hay Hy Lạp lại có thể vẫn thỏa măn với cái mà chúng ta thường gọi là tôn giáo của họ - một mớ hỗn độn những chuyện hoang đường khó nghe, trong đó nhiều thứ thậm chí c̣n không có được sự đứng đắn, mô tả những vị gọi là thần linh và nữ thần linh rơ ràng là rất con người trong hành động và càm xúc, và liên tục căi lộn với nhau. Sự thật là không ai từng thỏa măn với nó, và đó hoàn toàn không phải là những ǵ mà chúng ta gọi là một tôn giáo, cho dù rơ ràng nó đă được xem là như vậy bởi nhiều người ngu dốt. Nhưng tất cả những người có học thức và suy nghĩ học hỏi về nhiều thứ trong các hệ thống triết học, và trong nhiều trường hợp họ cũng được kết nạp vào các Trường học của những Điều thần bí; và chính những lời dạy cao cấp này mới thật sự nhào nặn cuộc sống của họ, và đưa họ đến nơi mà chúng ta gọi là tôn giáo – trừ khi, thực sự, họ thành thật tin theo thuyết bất khả tri, cũng như rất nhiều người có học hiện nay.

Hơn nữa, chính là thông qua những lời dạy của các Trường thần bí này mà người ta lần đầu tiên học hỏi được ư nghĩa thật sự của các truyện thần thoại của nền tôn giáo công truyền – v́ thoạt tiên chúng có một ư nghĩa, và với những học viên Theosophy nó thường nằm ngay gần phía bề mặt. Trong quyển sách của tôi về Bên kia Cái chết tôi đă giải thích ư nghĩa mà các Trường thần bí chỉ ra trong các câu chuyện về Tantalus và Sisythus; truyện thần thoại về Tityus hiển nhiên cũng là biểu tượng cho kết quả của những cảm xúc nhất định trong cơi trung giới; trong khi truyền thuyết về Persephone hay Proserpine tất nhiên là một ngụ ngôn huyền bí về sự giáng hạ của linh hồn vào vật chất. Hăy nhớ lại câu chuyện kể cho chúng ta rằng Prosperine đă được mang đi khi cô đang hái bông hoa thủy tiên (narcissus – ND), và ngay lập tức các bạn có được một gợi ư về mối liên hệ với một câu chuyện khác. Narcissus được giới thiệu như là một chàng trai trẻ với vẻ đẹp ḱ lạ, anh yêu chính h́nh ảnh phản chiếu của ḿnh trong một hồ nước, và v́ vậy bị lôi cuốn mạnh mẽ khiến anh ngă xuống và chết đuối. và sau đó được một vị thần biến thành một bông hoa xinh đẹp. Ta sẽ thấy ngay lập tức rằng một câu chuyện như vậy không thể có ư nghĩa nào trừ ư nghĩa biểu tượng, và bằng vào ánh sáng của giáo lư triết học của các thời đại nó không khó để giải thích được. Tất cả những hệ tư tưởng tương tự đều dạy rằng linh hồn vốn không ch́m ngập trong vật chất, và không cần thiết phải như vậy, nhưng bởi sự thật là y bị thu hút bởi chính h́nh ảnh của ḿnh trong các điều kiện thấp hơn của vật chất, v́ vậy thường được tượng trưng bởi nước. Bị dối gạt bởi h́nh ảnh phản chiếu này, y đồng hóa chính ḿnh với phàm ngă thấp thỏi, và trong một thời gian ch́m đắm cùng vật chất; tuy vậy hạt mầm thiêng liêng vẫn c̣n đó, và chẳng mấy chốc y lại trồi lên như một bông hoa. Nay ta thấy rằng chính là khi Proserpine đang cúi ḿnh trước bông hoa thủy tiên cô đă bị bắt giữ và mang đi bởi Ham Muốn, hoàng đế của cơi giới thấp này; và dù rằng cô đă được cứu khỏi sự giam cầm hoàn toàn nhờ những nỗ lực của người mẹ, nhưng sau đó cô vẫn phải sống cuộc đời nửa cơi dưới và nửa cơi trên – có nghĩa là, một phần đang trong kiếp luân hồi và một phần ở ngoài nó.



Sửa lại bởi nickname : 23 February 2010 lúc 8:39am
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 71 of 73: Đă gửi: 23 February 2010 lúc 8:40am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Trường thần bí Nhỏ

Đây là một ví dụ về cái cách mà trong đó những câu chuyện ngụ ngôn ḱ cục và dường như vô vị này được đưa vào các chỉ dẫn Thần bí và trở nên rực rỡ và đẹp đẽ. Sự giải thích liên quan đến đời sống cơi trung giới chủ yếu được đưa ra trong các Trường thần bí Nhỏ, nơi chủ yếu liên quan đến khía cạnh này của chủ đề. Trung tâm thờ cúng và làm việc của nó là ở Agrae, và những người được tiếp nhận vào đó được gọi là Mystae, và mặc một bộ áo da hươu đốm sáng như là trang phục thần bí của họ, tượng trưng cho thể cảm xúc. Sự thích đáng của biểu tượng này được nhận thấy ngay lập tức bởi bất cứ nhà thần nhăn nào, hay bởi một học viên Theosophy đă xem xét các h́nh ảnh trong quyển sách Man, Visible and Invisible của tôi, bởi y sẽ nhớ rằng những dải và đốm biểu thị các xúc cảm và t́nh cảm khác nhau, và những thay đổi chớp nháng rất rơ ràng trong đó. Cũng ư tưởng đó được biểu diễn bởi lớp da báo được mặc bởi những thầy tế Ai Cập đă kết nạp khi đang dâng lễ cúng, và da hổ hay linh dương cũng rất thường được sử dụng bởi những nhà Yogi phương Đông.

Nói chung, Trường thần bí Nhỏ chủ yếu liên quan đến cơi trung giới, và Trường thần bí Lớn với cơi trời. Họ dạy nhiều hơn thế, dĩ nhiên, nhưng sự thực đầu tiên và cũng nổi bật nhất chính là những kết quả nhất định, không tránh được, kéo theo sau những hành động nhất định, và v́ vậy cuộc đời của một người sống trên cơi trần chỉ quan trọng chủ yếu như một sự chuẩn bị cho cuộc đời tiếp đó. Trường thần bí Nhỏ chỉ dạy một cách sinh động về phần đời sống trung giới với những kết quả này, mô tả nó bằng cách chỉ ra những bài học khách quan ấn tượng nhất từ thực tế cuộc sống. Trong những thời đại trước khi người giải thích huyền môn mô tả cho những học viên hệ quả của một thói xấu hay tội ác nào đó, ông dùng sức mạnh huyền bí học của ḿnh để vật chất hóa một ví dụ nào đó về số phận mà ông đang mô tả - trong vài trường hợp, người ta nói, ông làm cho người đang chịu đựng có thể nói và giải thích về điều kiện mà y đang trải qua như là hậu quả của việc bỏ qua các định luật muôn đời khi c̣n ở cơi trần, các định luật thống trị các cơi giới. Đôi khi, thay v́ như vậy, một h́nh ảnh sinh động về trạng thái của một nạn nhân của chính những hành động dại dột của ḿnh sẽ được vật chất hóa để chỉ dạy cho người mới nhập đạo.

Trong những thời đại suy tàn không c̣n những người giải thích huyền môn có đủ quyền năng tạo ra những h́nh minh họa huyền bí học này, và do đó vị trí của họ được thay thế bởi những diễn viên hóa trang đại diện cho những người thống khổ, hay đôi khi bằng những h́nh ảnh ma quái phóng ra bằng những tấm gương lơm – hay thậm chí bằng những bức tượng tinh xảo hay các h́nh vẽ máy móc. Tất nhiên là nó được hiểu rơ bởi tất cả những người liên quan rằng đó chỉ là những h́nh ảnh tượng trưng, và không ai lại bị đánh lừa để cho rằng chúng là những trường hợp thực tế. Tuy vậy, một vài cây bút viết về các thầy tu, không nhận thức được điều này, và vài người trong số họ đă bỏ nhiều thời gian và trí óc để “vạch trần” những điều dối trá mà chưa từng gạt gẫm bất kỳ ai, ít ra là tất cả những người đặc biệt quan tâm đến nó. Một quư ông tên Hippolytus, người dường như đă từng là Maskelyne và Cook ở thời kỳ đó, đặc biệt sốt sắng với những điều này, và bản ghi chép về các phương tiện mà nhờ đó ánh sáng được tạo ra một cách bí ẩn, và những gợi ư của y về việc sử dụng loại mực vô h́nh, thật sự là một quyển sách rất buồn cười.

Giờ đây, chúng ta có thể ghi nhận, rằng công việc chính yếu của các đạo sư của các Trường thần bí Nhỏ là truyền dạy kỹ lưỡng cho các học tṛ của ḿnh về kết quả chính xác trong đời sống trung giới của các suy nghĩ mà hành động cơi trần. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhiều chỉ dẫn cũng được đưa ra về nguồn gốc vũ trụ, và sự tiến hóa của con người trên trái đất đă được giải thích đầy đủ, một lần nữa với sự trợ giúp của những cảnh tượng và h́nh vẽ minh học, được tạo ra thoạt tiên bởi sự vật chất hoa, nhưng sau đó là mô phỏng bởi rất nhiều cách. Những người hướng dẫn dường như luôn phân biệt hai lớp học viên trong đó, và chọn ra từ đó những người họ nghĩ là có khả năng được huấn luyện đặc biệt để phát triển các năng lực tâm linh. Những người này nhận được chỉ dẫn đặc biệt về cách mà thể cảm xúc có thể được sử dụng như một phương tiện, và có những bài tập xác định để thực hành, để phát triển chúng về phương diện nhăn thông và tiên thị.

Những môn đồ có một số câu tục ngữ và cách ngôn đặc biệt với họ, một vài câu trong đó rất đặc thù và có tính Theosophy. “Chết là sống, và sống là chết”, là một câu nói cần được giải thích cho các học viên Theosophy, những người hiểu, ít nhất là đến một mức độ nhất định, về sự chân thực và sống động hơn rất nhiều của cuộc sống trên bất cứ cơi giới khác nào so với sự giam cầm trong xác thịt. “Những ai theo đuổi sự thật trong lúc sống cũng sẽ theo đuổi chúng sau khi chết; những ai theo đuổi cái phi thực trong lúc lúc sống cũng sẽ theo đuổi chúng sau khi chết”, cũng là một phát biểu hoàn toàn cùng hướng trong các sự thật về t́nh trạng sau khi chết mà Theosophy đă cho chúng ta biết thật rơ, và nó nhấn mạnh một chân lư lớn mà chúng ta rất thường thấy cần phải nhắc lại, rằng cái chết hoàn toàn không hề thay đổi con người thật, mà cái khuynh hướng và h́nh thức suy nghĩ của y vẫn c̣n lại giống hệt như trước đó.



Sửa lại bởi nickname : 23 February 2010 lúc 8:43am
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 72 of 73: Đă gửi: 27 February 2010 lúc 8:59am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Trường thần bí Lớn

Xoay sang các Trường thần bí Lớn, chúng tôi t́m thấy rằng trung tâm nghi thức của họ rằng ở Eleusis, gần Athens. Các môn đồ của họ được gọi là Epotai, và đạo phục nghi thức của họ không c̣n là một tấm da hươu, mà là một bộ lông cừu vàng – nguồn gốc, tất nhiên, của toàn bộ truyện thần thoại về Jason và những người bạn đồng hành. Nó tượng trưng cho thể trí, và năng lực xác định vận hành trong đó. Những ai đă từng nh́n thấy hào quang lộng lẫu của tất cả những ǵ thuộc về cơi giới trí tuệ đó, đă từng nhận thấy các xoáy cuộn tạo ra từ sự phát sinh không người và sự va chạm của các h́nh tư tưởng, những người nhớ rằng màu vàng rực rỡ là màu sắc đặc biệt biểu lộ cho hoạt động trí tuệ, sẽ thừa nhận rằng đây không phải là một biểu tượng vụng về. Trong phân lớp này, cũng giống như trong lớp thấp hơn, ta có hai loại người – những người có thể được chỉ dạy để sử dụng thể trí, và tạo quanh nó một thể tạm bằng vật chất trung giới mà đôi khi được gọi là mayavirupa, và một phần rất lớn những người chưa sẵn sàng cho sự phát triển này, nhưng dẫu sao cũng vẫn được chỉ dẫn về vấn đề cơi trí tuệ và các sức mạnh và năng lực tương ứng. Cũng như trong các Trường thần bí Nhỏ người ta học hỏi kết quả chính xác sau khi chết của những hành động nhất định và loại đời sống trên cơi trần, th́ ở Trường thần bí Lớn người ta học được cách mà các nguyên nhân phát sinh trong cuộc sống thấp sẽ được giải quyết nơi cơi trời. Trong Trường nhần bí Nhỏ sự cần thiết và phương pháp điều khiển cảm xúc, dục vọng và t́nh cảm được làm rơ; trong Trường thần bí Lớn cũng những chỉ dạy đó được đưa ra về vấn đề điều khiển tâm trí.

Khía cạnh khác của giáo lư Theosophy, về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người, cũng được tiếp tục ở đây, và ở một mức độ cao hơn hẳn. Thay v́ chỉ được hướng dẫn về những nét phác chính của sự tiến hóa bằng việc luân hồi, và các giống dân trước mà qua đó con người đă phát triển nơi thế giới này, những môn đồ nay nhận được một lời miêu tả về toàn bộ hệ thống như chúng ta đang có lúc này đây, bao gồm bảy dăy hành tinh và mối quan hệ của chúng với thái dương hệ như là một thể thống nhất. Các thuật ngữ của họ khác với chúng ta, nhưng chỉ dẫn vẫn hoàn toàn giống nhau về bản chất; khi chúng ta nói về những đợt sự sống và luồng sóng sinh hoạt, họ nói về các thời đại và phát xạ, nhưng chắc chắn là họ hoàn toàn nắm rơ chúng, và họ mô tả chúng cho các học viên của ḿnh với những linh ảnh tuyệt vời về tiến tŕnh của vũ trụ và những điều tương tự nơi cơi trần. Cũng như trong trường hợp của các trạng thái sau khi chết, sự mô tả của họ thoạt tiên được tạo bởi các phương pháp huyền bí học; và sau đó, khi họ đánh mất chúng, th́ bởi các phương tiên máy móc và h́nh ảnh, các kết quả đạt được kém hơn rất nhiều. Những h́nh minh họa về những mầm phát triển được cho thấy qua những bức ảnh hay mô h́nh, trong cùng cách mà chúng ta sẽ thấy được một số trong đó bằng kính hiển vi, được dùng để chỉ dạy về sự tiến hóa vũ trụ nhờ vào luật tương đồng. Có thể là một hiểu lầm trong việc mô tả này về một vài quá tŕnh tái tạo đă bị bóp méo thành một ư tưởng không đúng đắn, và hạt mầm đă được gieo mà từ đó sẽ mọc lên thành những lời buộc tội sai lầm và ngu ngốc của những tín đồ Kitô giáo ngu ngốc và thiếu hiểu biết.

Một vài người lấy làm lạ rằng tại sao phải mất công giải thích các quá tŕnh tiến hóa phức tạp trong quá khức, mà rốt cuộc lại hoàn toàn không có ư nghĩa rơ rệt trong thực tế đời sống. Ta chỉ có thể trả lời rằng điều đó là quan trọng để một người biết được đôi điều về cách mà y đă trở thành người như y hiện nay, nhờ đó y có thể hiểu được tốt về cái tương lai đang nằm phía trước, và thấy được từ cách thức tiến bộ trong quá khứ cách tốt nhất để phát triển thêm trong các kiếp sống kế tiếp. Chúng ta có thể ước lượng được tầm quan trọng của một giáo lư như vậy đối với tâm trí của các Đấng Cao Cả mà từ các Ngài tất cả mọi tôn giáo đă xuất hiện, từ sự thật nằm trong mỗi tín ngưỡng trên thế giới, dù là giữa những người dă man, chúng ta luôn t́m thấy vài dấu vết của sự nỗ lực giải thích nguồn gốc thế giới và con người, dù nó thường chỉ có thể nằm trong những câu chuyện thần thoại rối rắm và khó hiểu nhất.  Chúng ta có một ví dụ nổi bật về điều này trong phần trước của kinh Cựu Ước, với những lời tường thuật về các chuyển hoán vốn là truyền thống giữa những người Do Thái. Trong lần liên lạc cuối cùng từ Nhóm Huynh Đệ, những người đứng sau và d́u dắt các vấn đề của thế giới, chúng ta một lần nữa lại thấy được ư nghĩa nổi bật được gán cho nguồn gốc của con người và hệ thống, từ phần sách được dành cho chúng trong tác phẩm bất hủ của Bà Blavatsky The Secret Doctrine.

Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 
nickname
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 247
Msg 73 of 73: Đă gửi: 05 March 2010 lúc 9:22am | Đă lưu IP Trích dẫn nickname

Các biểu tượng được sử dụng

Trong số nhiều sự kiện thú vị liên quan đến các Trường thần bí là việc sử dụng các phương tiện hay vật báu tượng trưng trong các nghi thức của họ, và ư nghĩa của điều đó có lẽ sẽ cần được giải thích. Một trong số đó là Thyrsus, một cây gậy với h́nh nón thông trên đỉnh; và đôi khi người ta nói rằng nó trống rỗng, và chứa đầy lửa. Cùng công cụ tượng trưng đó được t́m thấy ở Ấn Độ, ở đó người ta thường dùng bảy đoạn tre nối liền. Khi một thí sinh được kết nạp vào y thường được miêu tả như một người đă được Thyrsus chạm vào, ngụ ư rằng đó không phải chỉ là một biểu tượng, mà có một công dụng thực tế. Nó ám chỉ dây sống lưng kết thúc ở năo bộ, và nguồn lửa chứa trong đó chính là luồng hỏa xà thiêng liêng mà tiếng Bắc Phạn gọi là kundalini. Nó được từ hóa bởi người chỉ dẫn và đặt lên lưng của người dự tuyển nhắm đánh thức năng lực tiềm ẩn trong y. Nó cũng có thể đă được dùng trong việc tạo ra các trạng thái xuất thần, và có thể là nguồn lửa trong đó thường không chỉ có từ của thú vật mà c̣n có điện. Sức mạnh tiềm tàng của kundalini có liên hệ mật thiết với sự phát triển huyền bí và nhiều loại huyền thuật thực hành, nhưng bất cứ cố gắng đánh thức hay sử dụng nó mà không có sự giám sát của một vị thầy đủ khả năng sẽ là cực kỳ nguy hiểm.

Một nhóm h́nh tượng thú vị khác là các món đồ chơi của thần Bacchus, hay Dionysos thời thơ ấu. Như tôi đă có nói, Dionysos là một trong các tên gọi được dùng cho Thượng Đế, và thời thơ ấu ám chỉ bước đầu của sự biểu lộ. Trong thời thơ ấu này ngài được mô tả là đang chơi đùa, và các món đồ chơi là một con quay sợi, một trái bóng, một tấm gương và một bộ xúc xắc. Các bạn có thể nghĩ đây là nhữnh h́nh tượng tối nghĩa, nhưng nếu bạn có thể nh́n thấy bạn sẽ hiểu ngay lập tức, v́ các món đồ chơi này là vật chất mà trong đó các cơi giới được tạo ra. Con quay sợi là nguyên tử, luôn quay tṛn; và các nguyên tử là những viên gạch mà trong đó thái dương hệ được xây nên. Bộ xúc xắc không phải là loại thường, mà tất cả đều khác nhau, và chúng là các khối đa diện Platon – các khối đều duy nhất tồn tại – h́nh tứ diện, h́nh lập phương, h́nh tám mặt, h́nh mười hai mặt và h́nh hai mươi mặt. Các khối này có thể được xem là các loại vật liệu xây dựng, dù là theo một cách nh́n khác. Chúng tượng trưng cho nguyên tử của các cơi giới khác nhau trong tự nhiên – chúng không phải h́nh dạng của các nguyên tử này, mà chúng chỉ cho các học viên huyền bí học thực hành một số đặc tính cơ bản của các nguyên tử, và phương hướng mà trong đó lực của chúng có thể được tuôn chảy qua. Ta có thể biến chúng thành một dăy bảy thứ bằng cách thêm một điểm vào đầu thấp và h́nh cầu vào đầu trên, và khi đó chúng cho ta một chuỗi liên tục có một ư nghĩa ẩn tàng sâu sắc. Trái bóng mà ngài chơi cùng tất nhiên là trái đất, và tấm gương soi là vật chất cơi trung giới, thứ luôn sẵn sàng phản chiếu và lưu giữ mọi thứ, và do đó thường được tượng trưng bởi nước, như trong câu chuyện về Narcissus. Thật thú vị khi thấy cái cách mà tất cả những điều ḱ cục và rơ ràng vô nghĩa trở nên sáng tỏ và rực rỡ khi ta học hỏi và hiểu được chúng. Các học viên Theosophy cũng nên chú ư rằng việc ám chỉ trái đất bằng một trái bóng cho thấy sự hiểu biết của các đạo sư về h́nh cầu của nó, và h́nh nguyên tử được vẽ bởi bà Besant trong quyển The Ancient Wisdom có dạng một con quay sợi  là không hề vụng về.



Sửa lại bởi nickname : 05 March 2010 lúc 9:24am
Quay trở về đầu Xem nickname's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nickname
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

<< Trước Trang of 4
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.9219 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO