Tác giả |
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 21 of 38: Đă gửi: 13 November 2004 lúc 3:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Thưa ông Thiensu,
Tôi tin bài viết của tôi có 1 hệ luận kỹ lưỡng, ông đọc chưa kỹ thôi. Ngoài ra tôi dùng phương pháp giải cấu (de-contruction) để đọc nghĩa trong truyền thuyết. Tôi thật khó trả lời hết cho ông v́ bản thân những câu trả lời nằm hết ở bài viết rồi. Chỗ nào tôi để ra kẻ hở là mong người khác trám vào, v́ kiến thức tôi chưa đủ.
Chẳng hạn tôi nói Khổng Tử "biên soạn" chứ có nói ông ta "sáng tạo" đâu. Chính ông ta cũng từng bảo "Nhi thuật bất tác" mà...
Về câu hỏi Lạc Long Quân và chế độ Mẫu hệ ông nhầm v́ tôi đoán ông nghĩ Mẫu hệ = Mẫu quyền. Mẫu hệ khác Mẫu quyền nhưng phụ hệ với phụ quyền lại tương đối giống đấy thưa ông.
Ông đọc không kỹ th́ tôi xin đưa ra ví dụ: ông chưa đọc hết, mà thấy tôi nói khuyết điểm không có chữ viết (hay ít là là một thứ văn tự dễ hiểu) của văn minh Thần Nông th́ ông bác ngay. Vấn đề này tôi đă quay lại ở cuối bài với chữ viết trên trống đồng. Hiện tượng này giống việc sáng tạo ra chữ Nôm của người VN lắm. Muốn đọc giỏi chữ Nôm phải giỏi cả chữ Hán. Thành ra chữ Nôm không tiện dụng, nếu không học Hán th́ trí nhớ cao lắm thuộc một hai trăm chữ Nôm là cùng. Không tiện dụng với dân thường nên hệ quả ra sao th́ ai cũng đă biết.
Kính ông
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 22 of 38: Đă gửi: 13 November 2004 lúc 4:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Nha Quynh thân mến.
Tôi đọc từng đoạn và câu hỏi cho từng đoạn. Chứng tỏ tôi đọc rất kỹ. Những câu hỏi của tôi rất cụ thể; tôi nghĩ bạn có thể vui ḷng trả lời hoặc nói rơ hơn ư của ḿnh.
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 13 November 2004 lúc 4:19am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 23 of 38: Đă gửi: 14 November 2004 lúc 9:15am | Đă lưu IP
|
|
|
Thưa ông Thiensu,
Tôi gửi phiên bản mới của bài viết đầu tiên vào nhưng không được. Nó trả lời hầu hết câu hỏi của ông và xác định lịch sử VN với 3200 năm, từ năm Nhâm Tuất 1199 TCN.
Chắc bài viết dài quá, gần 9 ngàn chữ.
Kính
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 24 of 38: Đă gửi: 14 November 2004 lúc 9:21am | Đă lưu IP
|
|
|
Trương Thái Du
Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn
(phiên bản tháng 11.2004)
Bài viết này gợi mở một khả năng, vẽ nên đôi nét sơ sài nhất về thời bán sử Việt Nam trước công nguyên. Tôi mong người Việt Nam đọc giả thuyết, nghiền ngẫm nó và sẽ phản bác, bổ sung hoặc cải sửa tùy thích, bằng bất cứ lư lẽ khả dĩ nào. Cái được mà tác giả hoài băo ở đây là hậu duệ của vua Hùng, của An Dương Vương sẽ thêm một lần nữa t́m đến với tiền nhân oanh liệt thời khai sử, cùng nhau thảo luận những thông điệp nhân văn ẩn ḿnh trong các truyền thuyết đẹp như tranh thủy mặc. [1] Vài điểm tóm tắt nội dung của giả thuyết:
a. Nhà nước Văn Lang sơ khai được h́nh thành tại Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đă chạy giặc Sở xuống vùng Phong Châu thuộc đồng bằng sông Hồng khoảng TK 7 đến TK 8 TCN.
b. Không tồn tại nước Âu Lạc mà chỉ có nước Tây Âu Lạc do hậu duệ của Thục Hầu (Tứ Xuyên) lưu vong dựng lên, ở khoảng giữa tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây Trung Quốc hôm nay. Âu Lạc nghĩa là Đất Nước.
c. Văn minh Thục có niên đại 5000 năm, là một nền văn minh đô thị phát triển rất rực rỡ. Bị nhà Tần chiếm trong thời Chiến Quốc, nhiều nhóm Thục đă di cư. Họ có thể là hạt nhân của văn minh Khơ Me và Chiêm Thành. Người Thục bị Triệu Đà truy đuổi tại Tây Âu Lạc đă chạy xuống đồng bằng sông Hồng, xây dựng đô thị Cổ Loa sơ khai và sau đó bị đồng hóa vào cư dân Văn Lang Phong Châu bản địa.
d. Triệu Đà người gốc nước Triệu thời Chiến Quốc, ông ta chưa từng đem quân xuống chiếm đóng đồng bằng sông Hồng.
e. Trên trống đồng có ít nhất hai kư tự, đều mang nghĩa Trời, Mặt Trời.
f. Giao Chỉ là một địa danh cố định từ năm 111 TCN trở về sau. Trước đó cái tên Giao Chỉ không phải là tên mà người Trung Quốc dùng để gọi vùng đất đồng bằng sông Hồng.
1. Lư thuyết địa đàng Phi châu và những cuộc di dân
Lư thuyết địa đàng Phi châu cho rằng loài người tiến hóa từ giống khỉ tại châu Phi. Những cuộc di cư sau này đă đưa con người đến khắp nơi trên mặt đất. Tôi xin dùng công tŕnh nghiên cứu di truyền của Spencer Wells làm nền tảng cho bài viết này. [2] Mặc dù c̣n rất nhiều ư kiến của các nhà nhân chủng học thế giới không đồng t́nh với Wells, nhưng nói chung họ chỉ thắc mắc ở thời điểm di cư. Tôi sẽ dùng cách khảo nghiệm duy lư với văn hóa, khảo cổ và lịch sử để cọ sát với lư thuyết di truyền của Wells, hầu mong đưa ra một giả thuyết tham khảo.
Với kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: Cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn ra cách nay 60 ngàn năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á, đến Đông Nam Á họ chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất đến châu Úc. Nhánh thứ hai rẽ lên phía bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ nam Trường Giang. Cuộc di dân thứ hai cũng từ Phi châu cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đă h́nh thành tiến vào Ấn Độ và vùng tây bắc Trung Hoa. Cuộc di dân thứ ba (không sử dụng trong bài viết này) diễn ra cách nay 40 ngàn năm, đoàn người đến Trung Á và sau đó tràn qua châu Âu.
Tại sao họ ra đi? Tất cả các nền văn minh sơ khai đều thờ mặt trời. Những chữ viết đầu tiên của nhân loại ở khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc nhiên ở chữ “mặt trời”: một ṿng tṛn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai Cập là Ra, tại Lưỡng Hà là Samat, ở Nhật là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần, Thái dương thần nữ). Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận châu Mỹ đều tin ḿnh là con trời hoặc con của thần mặt trời. [3] H́nh ảnh mặt trời trên trống đồng Đông Sơn th́ thật ấn tượng. Về góc độ khoa học, mặt trời là nguồn sống của trái đất, là năng lượng cho tiến hóa. Đi về phía đông, di cư về phương đông chính là đến gần hơn với mẹ mặt trời. Và thật không có h́nh ảnh nào đẹp đẽ bằng: loài người đă đi theo ánh sáng mặt trời để phủ kín trái đất.
Tại sao cuộc di cư đầu tiên của người Tiền Đông Nam Á dừng lại bên ḍng Trường Giang mà không phải xa hơn về phía bắc? Trường Giang hung dữ và quá rộng lớn, đă phần nào cản bước đoàn di dân. Thêm nữa, theo ngành thủy văn, Trường Giang dưới tác động của lực coriolis, bờ bắc lở trong khi bờ nam bồi lắng. Cư dân nông nghiệp có xu hướng chọn vùng phù sa màu mỡ định cư lâu dài. [4] Họ chỉ tiến qua bờ bắc khi đối mặt với nạn nhân măn, hoặc dưới các nguyên cớ khác.
Phân nhánh của đoàn di dân thứ hai tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ. Ba di chỉ đồ đá có mối liên hệ rơ ràng tạo thành tam giác trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ: Đại Địa Loan (hơn 8000 năm) nằm ở mạn phải ḍng Thanh Thủy, Tần An, Cam Túc; Bán Pha (khoảng 6 ngàn năm) thuộc Tây An, Thiểm Tây; và Giả Hồ (cũng hơn 8000 năm) tại Hà Nam. Bán Pha và Giả Hồ đều về phía bờ nam Hoàng Hà. Ngoài ra trên bờ bắc Hoàng Hà tại làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn Tây người ta vừa đào được 1 tường thành dài 130m, 4500 tuổi. [5] Nó cho thấy hướng phát triển ban đầu của văn minh Hoa Hạ. Di vật của Hoa Hạ chứng tỏ nó không dính dáng ǵ đến con người của bờ nam Trường Giang, vào thời điểm đó. Kiểu hạn canh trong sản xuất nông nghiệp và quần cư tại các khu đô thị sơ khai cũng là đặc điểm riêng biệt của văn minh Hoa Hạ. Như vậy nền văn minh Hoa Hạ h́nh thành quốc gia Hạ sơ khai, khoảng năm 2200 TCN phần nào đă sáng tỏ. Các nhà khảo cổ cũng tin rằng lúc này chế độ mẫu hệ của văn minh Hoa Hạ dần dần được thay bằng phụ hệ. Những truyền thuyết truyền hiền, rồi truyền ngôi cho em và cuối cùng là cho con trai trưởng của dân tộc Trung Hoa ẩn chứa quá tŕnh biến chuyển kia. [6]
2. Sự h́nh thành và phân ră văn minh Thần Nông
Thời điểm dừng lại bên ḍng Trường Giang, đoàn di dân Tiền Đông Nam Á đă tạo nên một không gian văn hóa và chủng tộc gần gũi khá rộng lớn: phía nam là đồng bằng sông Cả, sông Mă (Việt Nam hôm nay), phía tây cận cao nguyên Tây Tạng, phía đông giáp biển Thái B́nh Dương. Tôi tạm gọi đây là văn minh Thần Nông.
Thổ nhưỡng và khí hậu tổng thể của khu vực quy định một số đặc điểm của nền văn minh này: sinh sống bằng nghề nông mà chủ yếu là trồng lúa nước, thuần hóa trâu ḅ làm sức kéo; nghiên cứu thiên văn lịch pháp phục vụ mùa màng, làm thủy lợi; dùng cây cỏ chữa bệnh và khai sinh Đông Y; sử dụng thành thạo ghe thuyền, đánh cá, khai thác thủy sản; họ ăn trầu, nhuộm răng, xăm ḿnh, cắt tóc ngắn, cài nút áo bên trái…
Văn minh Thần Nông phát triển đều đặn, có nhiều thành tựu nhưng lưu cữu hai khuyết điểm rất lớn: không tạo ra được chữ viết (hay ít ra là thứ kư tự phổ thông, tiện dụng); do đời sống tự cung tự cấp gắn chặt với lao động trên ruộng lúa nước nên bảo thủ, dẫn đến mất cơ hội đột phá chấm dứt chế độ mẫu hệ. Hệ quả là nền văn minh Thần Nông tồn tại rất lâu ở dạng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc, chậm vươn đến h́nh thức nhà nước sơ khai.
Sau một thời gian phát triển tại chỗ, những con người của văn minh Thần Nông đủ sức vượt ḍng Trường Giang. Họ tiến lên phía bắc, giao tiếp với văn minh Hoa Hạ cũng đang trên đường xuôi về phương nam. Xin hiểu sự giao tiếp này bao gồm cả những tranh chấp, và không thể không có xung đột. Thần thoại Trung Quốc kể chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu (con cháu Thần Nông) nói lên điều đó.
Văn minh Hoa Hạ và văn minh Thần Nông tiếp xúc nhau ở khoảng giữa hai lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, đă góp phần tạo nên một nền văn minh bắt đầu có hiến sử là văn minh Trung Nguyên – Hoa Hạ (Trung Hoa). Văn minh Hoa Hạ sẵn có phần bổ khuyết khuyết điểm của văn minh Thần Nông. Nó hấp thụ tất cả tinh túy của văn minh Thần Nông để lớn mạnh vượt bậc, rồi quay ra chèn ép chính thân sinh Thần Nông của ḿnh. Song nó cũng thu nhận h́nh ảnh Thần Nông vào hệ thống huyền thoại Tam Hoàng, Ngũ Đế mô tả thời khởi thủy của ḿnh. [7] Cái tên Trung Quốc bắt đầu sinh ra từ đây. Nguyên thủy, nó mang nghĩa quốc gia ở giữa thiên hạ v́ kiến thức đương thời chỉ mới biết hai nền văn minh, hai chủng tộc lớn là Thần Nông và Hoa Hạ. Chỉ một phần đất đai của văn minh Thần Nông ḥa nhập với văn minh Hoa Hạ. Phần lớn c̣n lại v́ trải trên địa bàn quá rộng, rải rác suốt bờ Trường Giang, đặc biệt là phía nam Trường Giang, vẫn tách biệt, đây chính là vùng Bách Việt, như cách gọi của người Trung Hoa sau này.
Thành công rực rỡ nhất của cuộc liên giao Thần Nông và Hoa Hạ biểu hiện ở nhà nước Sở đông đúc, rộng lớn, giàu có và tiến bộ, từng làm bá chủ chư hầu đe dọa vương triều Thần Chu (chỉ c̣n là h́nh thức sau khi nước Sở ra đời). Sở cũng là nước kế cuối trong lục quốc bị Tần thôn tính sau này, bằng rất nhiều binh lực và xương máu, dù Sở giáp ranh với Tần. Tuy vậy, chưa đầy 13 năm sau khi mất nước, một vị anh hùng có tiền nhân đời đời làm tướng nước Sở là Hạng Vũ, đă đứng lên lấy danh nghĩa phục Sở tiêu diệt nhà Tần, chia đất cho thiên hạ và tự xưng là Tây Sở Bá Vương. Năm 202 TCN Hạng Vũ bại vong trước Lưu Bang. Cao Tổ nhà Hán cũng là người nước Sở. Lịch sử bi hùng của nước Sở tồn tại hơn 500 năm đă vĩnh viễn khép lại.
Lịch sử nước Sở bắt đầu bằng việc Thành Vương phong tước Tử của nhà Chu cho Mị Dục Hùng, [8] ở vùng biên viễn phía nam vương quốc Chu. Dục Hùng vốn từng lập công với nhà Chu. Đến đời Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng (khoảng đầu thời Đông Chu, dưới ngai Hoàn Vương năm 719 đến 697 TCN), nước Sở đă tiêu diệt và sáp nhập rất nhiều lân bang và bành trướng đến vùng Trường Giang. Dù không được Hoàn Vương chấp nhận, Hùng Thông vẫn tự xưng là Sở Vũ Vương và làm chủ các nước chư hầu ở phương đông. Hùng Thông mất, con là Hùng Si nối ngôi cùng các vương triều tiếp theo mở rộng nước Sở xa dần về hướng đông nam, vượt qua ḍng Trường Giang hùng vĩ.
3. Nhà nước sơ khai Văn Lang
Những biến cố lịch sử diễn ra trên mảnh đất Việt Nam tương đối rơ ràng từ thời Mê Linh liệt nữ trở về sau. Sách sử xưa nhất do chính người Việt viết c̣n lưu truyền đến ngày nay chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 14. Tuy nhiên có một truyền thuyết được nhắc đi nhắc lại là thủy tổ Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Thần Nông, Kinh Dương Vương lấy Long nữ Động Đ́nh Hồ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới Âu Cơ và đẻ 100 trứng, nở trăm con. Cuộc chia ly êm dịu diễn ra sau đó: Âu Cơ đem 50 người con lên rừng, Lạc Long Quân dẫn số c̣n lại xuống biển. Nước Văn Lang do Hùng Vương, người con cả theo Lạc Long Quân dựng lên, đóng đô ở Phong Châu, vùng trung du tương đối bằng phẳng thuộc đồng bằng sông Hồng.
Rơ ràng đă có một cuộc di cư nằm ẩn trong chính truyền thuyết trên. Khoảng cách giữa Động Đ́nh Hồ và Phong Châu là gần 1000 km theo đường chim bay. Sâu hơn nữa, tham khảo B́nh Nguyên Lộc, tôi nghĩ có lẽ truyền thuyết 100 trứng kia nói về cuộc chia tách đại chủng tộc Thần Nông làm hai nhánh lớn: Tây Âu và Lạc Việt. Người Tây Âu đi về vùng núi non phía tây, và ít nhiều thay đổi tập quán sinh sống truyền thống của nền văn minh Thần Nông. Người Lạc Việt tản về phương đông và lưu giữ gần đủ đặc điểm cũ. Bản thân Tây Âu và Lạc Việt vẫn tiếp tục phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ nữa. Con số 100 trứng, đáng ngạc nhiên, trùng khớp với tên Bách Việt mà người Trung Hoa đặt ra, để gọi những nhóm dân bờ nam trung và hạ lưu Trường Giang. Đây rơ ràng là dấu vết giao lưu văn hóa Thần Nông và Hoa Hạ, bởi Kinh Thi có câu “Tắc bách tư nam” (hàng trăm con trai), vậy một trăm hay bách nghĩa là nhiều.
Nếu đồng ư với không gian truyện cổ tích là Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân ở Ngũ Lĩnh (rặng núi phía nam Động Đ́nh Hồ) th́ sẽ giải mă được “giặc Ân” trong một truyện cổ tích khác là “Thánh Gióng”. Thật vậy, Ân – Thương mất nước bởi dân Chu năm 1066 TCN, việc họ nam tiến trước hoặc lưu vong sau thời điểm 1066 TCN và đụng độ với Lạc Việt là hoàn toàn có cơ sở. Khảo cổ học đă xác định tương đối chính xác kinh đô Ân – Thương nằm giữa tỉnh Hà Nam hiện đại, cách Động Đ́nh Hồ chỉ vài trăm cây số theo đường chim bay. Rất có thể liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang, hạt nhân của Thần Nông và Lạc Việt, h́nh thành ở khu vực từ rặng núi Ngũ Lĩnh đến bờ nam Trường Giang mà trung tâm là Động Đ́nh Hồ, sau khi nhà nước Ân – Thương ra đời (khoảng năm 1700 TCN). [9] Tôi tạm tính một đời vua Hùng trung b́nh 25 năm, chuyện Thánh Gióng xảy ra năm 1066 TCN, suy ra Hùng vương thứ 18 lên ngôi năm 741 TCN. Con số 741 TCN rất thuyết phục, v́ nó xê dịch không nhiều với năm tháng nước Sở h́nh thành và bành trướng về phía nam. Đại Việt sử kư toàn thư ghi năm thứ nhất họ Hồng Bàng là năm NHÂM TUẤT 2079 TCN. Theo chuỗi luận của tôi đưa ra th́ kỷ nguyên Văn Lang bắt đầu cũng từ năm Nhâm Tuất nhưng là NHÂM TUẤT 1199 TCN.
Văn minh Trung Hoa phát triển xuống, những con người bất khuất nhất không chịu đánh mất bản sắc và lề thói để ḥa nhập với văn minh Trung Hoa đă ra đi. Kẻ ở lại cùng người mới xây dựng nên nước Sở. Là cư dân sinh sống bằng ruộng lúa nước, sử dụng thành thạo thuyền bè nên cuộc di cư h́nh thành hai cách lên đường chính là bộ hành và hải hành, họ chia thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ túa về ba phương Tây – Đông – Nam hoặc xuôi Trường Giang ra biển. Mục đích đầu tiên của họ là t́m kiếm một vùng đồng bằng sông nước khác lập nghiệp. Những con người giỏi giang nhất luôn đi xa nhất, t́m được mảnh đất ưng ư nhất, và cuối cùng họ đă đến miền bắc Việt Nam ngày nay. Hiện thực thế kỷ 21 chứng minh điều đó, hậu duệ của đoàn người lưu vong kia lập nên Việt Nam, quốc gia duy nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa và thâu nhập đất đai và con người vào nền văn minh Trung Hoa.
Đất mới lúc ấy cũng có thể đă có người sinh sống, nhưng chắc chắn dân cư rất thưa thớt, đầm lầy nhiều, rừng nhiệt đới rậm rạp, mùa mưa th́ ngập lụt tràn lan. V́ lẽ đó vùng định cư trung tâm được chọn là miền trung du Phong Châu cao ráo. Mang trọn bản sắc Văn Lang ra đi, những con người bất khuất, yêu chuộng ḥa b́nh và tự do vẫn gọi quê mới là Văn Lang, lănh tụ của họ xưng là Vua Hùng, danh chính ngôn thuận tiếp nối Vua Hùng của nước Văn Lang ở Động Đ́nh Hồ. Hành tŕnh t́m kiếm Phong Châu c̣n ít nhiều đọng lại trong truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, ở đời vua Hùng thứ 18.
Các di chỉ khảo cổ đă khai mở ở Việt Nam không thể bác được giả thuyết di cư này: Phùng Nguyên niên đại 3500 năm (chưa có đồ đồng), Đồng Đậu niên đại trên 3000 năm, G̣ Mun vào cỡ thế kỷ 8 TCN, Đông Sơn thế kỷ thứ 7 TCN. Đặc biệt, mọi di chỉ đều nằm trên các khu đồi cao ráo, càng củng cố dự đoán về thổ nhưỡng đă nói.
Niên đại xa nhất của trống đồng t́m được ở Việt Nam và Trung Quốc cũng rất gần nhau: khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. [10] Địa bàn chính đào được trống đồng rất rộng lớn, nó bao gồm bắc Việt Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông. Ba nơi nhiều trống đồng nhất là Đông Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam), Vạn Gia Bá (Vân Nam) và Khu tự trị dân tộc Trang (Quảng Tây). Đáng ngạc nhiên là kiểu trống đồng đẹp nhất cũng là kiểu xưa nhất. Giả thuyết của tôi lư giải được điều này: trên đỉnh cao của ḿnh, nhà nước Văn Lang sơ khai ở Động Đ́nh Hồ, vừa bị văn minh Trung Hoa chèn ép, vừa không vượt lên chế độ phụ hệ được, đă phân hóa thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ trôi giạt khắp nơi. Kỹ nghệ đúc đồng tuyệt diệu của họ lan về các hướng theo đoàn di dân. Và thật đáng tiếc, từ đây nền văn minh khu biệt của từng đoàn người lưu vong lần hồi thoái trào, trống đồng ngày càng thô hơn.
Văn Lang Phong Châu ở góc độ nào đó, là bước lùi so với Văn Lang Động Đ́nh Hồ. Con người Văn Lang mất quá nhiều thứ trên đường đến châu thổ Hồng Hà. Ràng buộc giữa các thị tộc ngày càng lỏng lẻo, dân ít, địa bàn cư trú dàn trải, lũ lụt chia cắt, dần dần thủ lĩnh tối cao mất hết quyền lực, trở thành biểu trưng tinh thần đơn thuần. H́nh ảnh vua Hùng trong thực tế cuộc sống tự động biến mất, nhưng nó măi măi lưu truyền giữa tâm thức con người Văn Lang để hoài nhớ về một thời hoàng kim bất diệt.
4. Giải cấu truyền thuyết An Dương Vương
Gần đây, việc khám phá di chỉ Tam Tinh Đôi [11] cách Thành Đô 40km (Tứ Xuyên, Trung Quốc) đă hé mở một nước Thục cổ đại có lịch sử từ năm 3000 TCN. Văn minh Thục phát triển rực rỡ, đă h́nh thành lối quần cư đô thị bề thế hơn cả đỉnh cao triều đại Thương – Ân. Họ là dân tộc đầu tiên của nhân loại biết sử dụng gạch chưa nung để xây nhà cửa, thành quách. Phải chăng họ là nhánh “lên ngàn” của văn minh Thần Nông hoặc một nhánh của đoàn di dân Tiền Đông Nam Á? Sử kư, phần “Truyện Trương Nghi” kể rằng Tần Huệ Vương đă nghe lời Tư Mă Thác đánh Thục, truất phế Thục Vương làm chức Hầu. Như vậy hoàn toàn có khả năng Thục Hầu và nhân dân Thục muốn tránh nhà Tần bạo ngược đă lên đường lưu vong. Đoàn người đi về phương Nam tạo nên cộng đồng Khương, sau này bị nhà Hán lấn tiếp, họ theo ḍng Cửu Long đến vùng đất Campuchia ngày nay và góp phần xây dựng nên nền văn minh Khơ Me kiêu hùng. Đoàn người đi về hướng đông dừng chân ở vùng giáp ranh tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, lập nên nước Tây Âu Lạc. Chương “Nam Việt Úy Đà liệt truyện” của Sử Kư chép về nước Tây Âu Lạc này rất rơ, nhiều sử gia không liên hệ được sử liệu đă mạnh dạn nghĩ Tư Mă Thiên viết nhầm Âu Lạc thành Tây Âu Lạc!
Sau khi gồm thâu lục quốc nhất thống Trung Nguyên, năm 214 TCN Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân và dân ô hợp vượt Ngũ Lĩnh, đánh Bách Việt chiếm lấy vùng đất phía đông nam nước Tần rồi lập ra các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Nước Tây Âu Lạc của Thục Phán nằm trong Tượng Quận. Nước Văn Lang Phong Châu phía nam Tượng Quận, hoàn toàn không dính dáng đến cuộc chiến kia. Nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đă vào rừng kháng chiến và kết quả là đă giết được Đồ Thư.
Sách sử Việt Nam và Trung Quốc đều ghi nhận sơ sài Triệu Đà người huyện Chân Định (nay thuộc Hà Bắc, TQ). Không ai xét sâu hơn Chân Định vốn là đất Triệu thời chiến quốc. Sử Việt chép theo sử Trung Quốc, c̣n sử Trung Quốc tuân thủ tư tưởng đại nhất thống của triết học Tiên Tần (khởi đi từ Khổng Tử, với nguyên ủy “Tôn Chu nhương Di, nội chư Hạ nhi ngoại Di địch”) nên xóa hẳn các tên gọi của Tam Tấn. Tần Đại Đế áp dụng thành công tinh hoa nhân đạo của triết học Tiên Tần, đă chấm dứt vĩnh viễn cảnh chiến quốc nồi da xáo thịt. Tần Thủy Hoàng ra đời tại kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Mẹ Triệu Cơ của ông, được Sử Kư ghi nhận là con nhà tai mắt tại đấy. Khi cha ông theo Lă Bất Vi trốn về Tần, mẹ con Tần Thủy Hoàng phải ẩn ḿnh trong dân chúng Triệu và chịu nhiều cảnh cơ cực. Sau khi Trung Nguyên nhất thống, người Triệu lại phải họa đi xây Trường Thành, họ căm tức vua Tần nên bịa chuyện dè bỉu Tần Thủy Hoàng là con hoang của Triệu Cơ và Lă Bất Vi. Dân gian c̣n đem cả nàng Mạnh Khương gần hai trăm năm trước từ nước Tề đến khóc bên Trường Thành để trù úm đại công nghiệp của Tần Đại Đế. [12] Sẵn ác cảm cũ, vua Tần bắt rất nhiều con dân cứng đầu cứng cổ ở Triệu xung vào đạo quân viễn chinh của Đồ Thư. Triệu Đà ở trong số đó. Sau này cháu Triệu Đà là Minh Vương Anh Tề làm con tin ở Trường An cũng thành thân cùng một người con gái nước Triệu (Sử Kư viết là người huyện Hàm Đan). Bà ta chính là Cù hậu, do làm nội ứng cho nhà Hán chiếm Nam Việt, nên đă bị thừa tướng Lữ Gia giết. Những người Triệu bị đày tập trung tại quận Nam Hải thời đó đă quần cư và tạo thành nhóm dân tộc nhỏ mang tên Triều Châu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc hôm nay.
Năm 208 TCN Triệu Đà thành lập nước Nam Việt. Hán Cao Tổ b́nh định xong Trung Nguyên không c̣n sức giải quyết Nam Việt, nên năm 196 TCN đành phong Triệu Đà làm Nam Việt Vương, và dặn Nam Việt phải ḥa hợp với Bách Việt. Khi Cao hậu tiếm quyền, Trường Sa Vương cấm vận kinh tế Nam Việt ḥng làm Nam Việt suy yếu để dễ bề xâm lăng. Triệu Đà lập tức đem quân đánh Trường Sa, cắt đứt đường thông thương với nhà Hán và chốt giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hậu sai Lâm Hi Hầu hỏi tội Triệu Đà, chiến cuộc biên cương giằng co hơn một năm rồi nhà Hán băi binh v́ đám tang Cao Hậu.
Rảnh tay với Hán, Triệu Đà dùng tiền của đút lót quư tộc Tây Âu Lạc và Mân Việt để hai nước này chịu lệ thuộc. Sự kiện Trọng Thủy kết hôn với Mỵ Châu chắc chắn ghi nhận thỏa hiệp dễ dăi của những người lănh đạo Tây Âu Lạc trước âm mưu của Triệu Đà. Trận chiến đánh vào ḷng người toàn thắng, năm 179 TCN Triệu Đà tấn công và sát nhập Tây Âu Lạc vào Nam Việt. Từ đó Nam Việt rất rộng lớn, Triệu Đà đường hoàng tự xưng Nam Việt Vũ Đế, đi xe mui lụa vàng như vua Hán. Triệu Đà người Hoa Bắc chỉ quen đánh nhau trên bộ, cho nên không thể tồn tại khả năng ông ta đă tấn công An Dương Vương tại đồng bằng sông Hồng. Măi đến đầu công nguyên đường bộ khai thông Hoa Nam và Bắc Việt mới h́nh thành bởi người Hán lưu vong tránh họa Vương Măng, tuy vậy chắc chắn đường rất khó đi nên đoàn quân của Mă Viện mới phải dùng thuyền.
Một bộ phận nhân dân Tây Âu Lạc, những con người bất khuất từng giết Đồ Thư, đă đem tàn quân và bầu đàn thê tử chạy đến châu thổ Hồng Hà. Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đă ghé vào bờ biển trung bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm bắt đầu khởi sắc từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Những liên hệ Thục – Khơ Me – Chàm trong bài viết này chỉ thuần lư thuyết, trên cơ sở nghiên cứu văn bản và h́nh ảnh, nhưng tôi tin đô thị sơ khai Cổ Loa, cách dùng gạch chưa nung của người Khơ Me và người Chàm chắc chắn có dấu ấn văn minh Thục cổ đại.
Người Tây Âu Lạc và người Lạc Việt ở Văn Lang Phong Châu thực ra rất gần gũi về chủng tộc (các nhóm di dân Tiền Đông Nam Á) và có thể cả ngôn ngữ nữa. Nhóm dân Tây Âu Lạc mất nước nhanh chóng ḥa hợp cùng nhân dân bản xứ trên mảnh đất bắc Việt, cải tên nước là Âu Lạc. Họ nối các g̣ đất, đồi nhỏ thành hai ṿng đê ngăn thủy triều và nước lụt tại Cổ Loa, Đông Anh và quần cư trong ấy. Hai ṿng đê cũng có thể trở thành chiến lũy, tường thành chống ngoại xâm khi cần. Đến năm 43, Mă Viện củng cố hai ṿng ngoài và xây thêm ṿng thành nhỏ thứ ba ở giữa để tạo nên Kiển Thành. Độ cao của dấu vết tường thành Cổ Loa xưa xấp xỉ cao độ các con đê hai bờ sông Hồng, sông Đuống xung quanh, xác tín giả thiết Cổ Loa vừa là đê vừa là thành lũy.
Rút kinh nghiệm xương máu ở Tây Âu Lạc, người Âu Lạc tạo dựng quan hệ ngoại giao mềm dẻo với Nam Việt để yên ổn sinh sống và làm ăn. Năm 111 TCN Nam Việt bị Lộ Bác Đức xóa tên khỏi bản đồ. Nhà Hán cho người sang thuyết phục Âu Lạc theo ḿnh, với chính sách rất thâm độc là để quí tộc Âu Lạc tiếp tục quản lư những vùng đất của họ. Lănh tụ Âu Lạc phản đối, tùy tướng của ông ta là Hoàng Đồng đă lật đổ vua, quyết định thuần phục nhà Hán trên danh nghĩa để tránh chiến tranh. [13]
Năm 110 TCN nhà Hán phong tước cho Hoàng Đồng, Thạch Đái được cử sang làm Thứ sử quận Giao Chỉ, phủ trị ở Long Uyên. Với sự giúp sức của Hoàng Đồng, Thạch Đái ủy lạo và hợp thức hóa danh vị Lạc Hầu, Lạc Tướng bằng ấn đồng đeo cổ. Chắc chắn mục đích tối thượng của Thạch Đái là âm thầm chia rẽ các liên minh của quí tộc Âu Lạc, không cho Lạc Hầu, Lạc Tướng có cơ hội đoàn kết xây dựng nhà nước chống xâm lăng. Từ Thạch Đái trở đi, phủ trị Long Uyên vẫn tồn tại nhưng chức Thứ sử, Thái thú đôi khi khiếm khuyết và quan trấn nhậm cũng chẳng thường xuyên có mặt. Thực ra Hán triều thừa biết ở thời điểm đó cai trị trực tiếp Âu Lạc là không tưởng, v́ quân ít, thủy thổ khắc nghiệt và chắc chắn người Âu Lạc sẽ chống đối đến cùng. Lịch sử Trung Quốc cũng ghi nhận sự mệt mỏi của nhà Hán sau những năm dài xâm lược phương nam, nhiều thân vương, đại thần dâng tấu chương đề nghị vua Hán tạm chấm dứt nam tiến. Thậm chí có thời gian dài họ bỏ hẳn, chẳng ngó ngàng ǵ đến đảo Hải Nam đă chiếm được hoàn toàn năm 111 TCN.
Tuy vậy trong hệ thống hành chính Hán, nước Âu Lạc vẫn được chia làm 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân thuộc Giao Chỉ Bộ. Trung tâm hành chính của Giao Chỉ Bộ là Nam Hải tức Phiên Ngung, kinh đô cũ của Nam Việt. Xin lưu ư Bộ Giao Chỉ và Quận Giao Chỉ là hai tên gọi khác nhau. Sử gia Việt Nam đă nhiều lần nhầm lẫn, họ suy luận tên Quận đặt cho tên Bộ th́ hiển nhiên Quận Giao Chỉ phải là trung tâm của Bộ Giao Chỉ. Giao Chỉ mang nghĩa là nơi liên giao giữa Trung Hoa và những khu vực phía nam mà họ chưa có ư niệm rơ ràng. Bộ Giao Chỉ là mảnh đất liên giao của nhà Hán với Viễn Nam, Quận Giao Chỉ lại là mảnh đất liên giao của Bộ Giao Chỉ với các miền xa khác. Theo tôi chuỗi luận để đặt tên Quận Giao Chỉ và Bộ Giao Chỉ là như vậy. Cũng cần hiểu rằng năm 111 TCN kiến thức địa lư của nhà Hán về Quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và vùng phụ cận rất mơ hồ. Thời Chu c̣n có từ “Đông Giao” để chỉ vùng đất phía đông xa xôi. Do đó Giao Chỉ thời Chu chưa chắc là Giao Chỉ thời Hán. An Nam Chí Lược của Lê Tắc viết: “Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận”. Hiểu theo nghĩa Giao Chỉ đă nói th́ vùng đất Quảng Tây Trung Quốc thời Tần chính là Giao Chỉ. Khi nhà Tần bành trướng xong Tượng Quận, hiểu biết ngọn ngành về Tượng Quận th́ Giao Chỉ dịch chuyển xuống đồng bằng sông Hồng, phía nam Tượng Quận.
Nước Âu Lạc vĩnh viễn đi vào quá khứ. Văn minh đô thị mới nhen nhóm ở Cổ Loa đă lụi tàn v́ người gốc Thục chia rẽ và mau chóng tự đồng hóa ḿnh với cư dân bản xứ. Đặt giả định Âu Lạc là một nhà nước hoàn thiện, con người Âu Lạc có ư thức sâu sắc về quốc gia và từng bị Triệu Đà thôn tính bằng quân sự (như quan niệm của sách vở chính thống Việt Nam lâu nay), ta sẽ thấy diễn biến lịch sử ôn ḥa từ năm 111 TCN đến năm 34 là không b́nh thường.
Sau cả thế kỷ ổn định và phát triển trong nước, xă hội Hán cuối cùng cũng có những thay đổi về chất và lượng, bắt đầu manh nha công cuộc cải cách lớn của Vương Măng. Đầu công nguyên, ḷng tham của vua Hán sống dậy, lập tức Nhâm Diên và Tích Quang được cử sang quận Giao Chỉ và Cửu Chân tiến hành những chính sách mị dân, nhằm thăm ḍ tiềm lực thuộc địa cũng như khả năng phản kháng của nhân dân nếu áp đặt cai trị trực tiếp. Công việc bọn này chưa xong th́ Vương Măng tiếm ngôi, Trung Nguyên hỗn loạn. Thái thú Giao Chỉ và Cửu Chân không thuần phục Vương Măng, cắt đứt liên lạc với trung ương, chào đón dân Hán di cư để tạo vây cánh. Ít lâu sau Lưu Tú diệt được Vương Măng, thành lập nhà Đông Hán. Năm 29 Đặng Nhượng (người thay Nhâm Diên làm thái thú Giao Chỉ) về triều cống Lạc Dương, có lẽ âm mưu cũ đă được Quang Vũ đế cân nhắc. Năm 34 Tô Định nhậm chức Thái thú Giao Chỉ và bắt đầu áp dụng chế độ kềm kẹp hầu mong biến mảnh đất Âu Lạc hôm nào thành miếng bánh ngon trên bàn tiệc thực dân. Dưới sức ép mới, nhân dân Giao Chỉ đă nổi dậy. Mê Linh liệt nữ thất bại trước Mă Viện chính thức biến Giao Chỉ và Cửu Chân thành quận huyện trực trị của nhà Hán, mở đầu kỷ nguyên 800 năm nô lệ cay đắng.
Ngoài trọng trách thực dân, Mă Viện phải gánh vác nhiệm vụ dựng cột đồng “chuẩn” ở Giao Chỉ và Nhật Nam để đo bóng mặt trời vào những ngày giờ nhất định trong năm. Từ số liệu ấy, người Tàu sẽ định được vị trí chính xác của Giao Chỉ và Nhật Nam, bổ xung vào địa đồ nhà Hán. Có thể Mă Viện đă bỡn “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, song không ngoài mục đích giấu giếm bí quyết khoa học thiên văn địa văn của dân tộc ḿnh dưới màn sương hư ảo. Trường hợp Cao Biền sau này dễ hiểu hơn, ông ta sử dụng thuốc nổ phá gềnh thác hiểm trở cho tàu bè qua lại, nhưng bịa đặt đă dùng phép thuật sai thiên lôi hành sự. Nhà Hán mất 154 năm từ lúc dụ Âu Lạc phụ thuộc đến khi vẽ xong địa đồ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và áp dụng chế độ trực trị đến huyện sở. Cách tính 800 năm thực sự bắc thuộc của tôi là có căn cứ (đă bớt ra vài đoạn gián cách người Việt giành được độc lập như thời Lư Nam Đế và Khúc Thừa Dụ).
5. Thông điệp nhân văn
Ngoài yếu tố lịch sử, truyền thuyết Kinh Dương Vương và An Dương Vương c̣n mang những thông điệp nhân văn luôn cần được con người Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào giải mă.
Đất nước và tổ quốc: Sử Kư Tư Mă Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia” thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”. Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho “đất”. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: “Xă tắc lưỡng hồi lao thạch mă – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Hồ Quư Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. [14]
Nền văn minh lúa nước được xây dựng từ “Đất” và “Nước” là điều không ai có thể phủ nhận. Người Việt Nam c̣n gọi tổ quốc ḿnh là “Đất nước” có nguyên căn sâu xa như vậy. Chuỗi luận này có thể dẫn đến việc giải nghĩa từ Âu Lạc là “Đất nước”. [15]
Bài học đoàn kết: Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đă chia rẽ, làm suy yếu nền văn minh Thần Nông. Hai nhánh Lạc Việt và Tây Âu, dù người xuống biển, kẻ lên rừng nhưng đều mất địa bàn sinh sống, phải bước vào hành tŕnh ra đi, trôi giạt. Cả ngàn năm sau họ mới t́m lại được nhau trong nhà nước Âu (Cơ) – Lạc (Long Quân) sơ khai, non trẻ và yếu ớt.
Bài học chiến tranh: Mỵ Châu đại diện cho nhân dân Tây Âu Lạc, Trọng Thủy đại diện cho người Nam Việt. Họ chính là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của chiến tranh. Nỗi đau của dân tộc này biến thành ngọc trai, rửa ở cái giếng ai oán thăm thẳm của dân tộc kia, sẽ lấp lánh vẻ đẹp vĩnh hằng của ḥa b́nh và ḥa hợp.
Bài học cảnh giác: Cảnh giác, trước tiên là cảnh giác với chính ḿnh, cảnh giác với kẻ thù ở hàng thứ hai. Nhà cầm quyền Tây Âu Lạc đă bị vàng bạc và hôn nhân chính trị lung lạc. Ỷ thành cao, vũ khí lợi hại, An Dương Vương buông thả, ruồng bỏ nhân tài Cao Lỗ, khiến nước mất nhà tan.
Biển cả và tự do: Lạc Long Quân là con rồng của biển cả. Ông dặn con cháu nếu nguy cấp hăy quay về phía biển gọi “Cha ơi!”. Bại trận, An Dương Vương ra bờ biển, lạnh lùng xử tử Mỵ Châu rồi lấy sừng tê rẽ nước mà đi. Thông điệp “ra với biển” đă trở thành tiềm thức trong khối óc mỗi con người Việt Nam từ đó trở đi. Sau này dân Việt Nam đă hơn một lần ra với biển đi t́m tự do: những tùy tướng của Mê Linh Liệt Nữ chạy vào Cư Phong rồi lên thuyền thẳng tiến đến Malacca, họ là người Minangkabau ở Maylaysia và Indonesia hôm nay; hậu duệ nhà Lư th́ giong buồm đến Cao Ly; Hồ Quư Ly đáng lẽ không bị bắt làm tù binh nếu không tắp vào bờ biển bắc trung bộ… Thông điệp “ra với biển” ở thế kỷ 21 chắc chắn là mở ṿng tay Việt Nam với bè bạn năm châu, từ bỏ suy nghĩ thủ cựu, chấm dứt các h́nh thức bế quan tỏa cảng.
6. Từ Kinh Dịch đến chữ viết của tổ tiên người Việt Nam
Trong quá khứ, không ít sử gia như Kim Định đă nghiệm rằng Kinh Dịch chứa rất nhiều yếu tố vay mượn từ văn minh Thần Nông. Gần đây một bài báo ở Việt Nam tự hào tuyên bố Kinh Dịch chính là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt. Tôi quan sát rất kỹ các tranh luận xưa nay và tự hỏi: “Ngôn ngữ điện toán hiện đại chỉ cần hai tín hiệu CÓ và KHÔNG, khi thể hiện trên giấy nó tương đương số 1 và số 0. Năo điện toán dễ dàng đọc mọi văn bản chỉ toàn 0 và 1 đan xen, nối nhau thành chuỗi, v́ tốc độ xử lư thông tin của nó rất cao. Nguyên lư khởi đầu của Dịch là Âm Dương sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Sau Bát Quái c̣n có thêm 64 Quẻ. Kư hiệu Dương là một vạch liền, Âm là một vạch đứt. Hoàn toàn tồn tại khả năng văn minh Trung Hoa đă mượn thứ kư hiệu này của văn minh Thần Nông và phát triển thành Kinh Dịch. Như vậy tại sao không thể đặt giả định hệ thống kư hiệu xây dựng từ hai đơn tố Âm và Dương là những chữ cái của một thứ ngôn ngữ bí hiểm nào đó trong văn minh Thần Nông”.
Đến đây th́ tôi thấy cần xét lại một “khuyết điểm lưu cữu lớn” của văn minh Thần Nông là không có chữ viết, đă đề cặp ở mục số 2. Hai đơn tố Âm và Dương rơ ràng đă đan xen, tạo thành chuỗi. Việc nó có thể dùng làm số đếm (hệ nhị phân), chữ cái hoặc chữ viết hay không, không c̣n phụ thuộc vào khả năng biểu đạt của hai đơn tố ấy, mà phụ thuộc vào khả năng xử lư tín hiệu của con người thời đó. Tôi đă loại bỏ được chất hoang tưởng trong giả định của ḿnh.
Tôi đă đến viện bảo tàng lịch sử thành phố *** xem 1 chiếc trống đồng Đông Sơn. Trống đồng là linh vật của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều nhà khoa học đă đồng ư trống đồng lưu giữ dấu ấn thờ mặt trời của con người buổi b́nh minh lịch sử. Ở giữa mặt trống có mặt trời tỏa tia. Nửa ngoài mặt trống có 2 cặp ṿng tṛn đồng tâm chứa rất nhiều vạch liền xếp cạnh nhau. Theo ngôn ngữ Dịch, một vạch là Dương (trong lưỡng nghi), hai vạch là Thái Dương (trong tứ tượng), ba vạch là Càn (trong bát quái), sáu vạch là Càn Vi Thiên (trong 64 quẻ). Tất cả đều chỉ mặt trời hoặc ông trời. Nếu nói những nét liền kia nằm cạnh nhau là những chữ CÀN - CÀN – CÀN… liên tục tức TRỜI - TRỜI - TRỜI… liên tục th́ khả dĩ chăng? Hay Thái Dương – Thái Dương – Thái Dương…? Đây chỉ là sự t́nh cờ th́ thật lạ. Nhiều vạch quá, nh́n qua tủ kiếng tôi không thể đếm được bao nhiêu vạch. Nếu tổng số các vạch đó luôn chia hết cho 6, ở bất cứ chiếc trống đồng nào th́ giả thuyết của tôi hữu lư nhất. Ngoài ra c̣n có một ṿng tṛn đồng tâm khác chạy những đường hoa văn h́nh “dấu ngă”, liên kết các “dấu ngă” này là những ṿng tṛn nhỏ, có chấm chính giữa. Đây cũng có thể là chữ “mặt trời” giống như chữ “mặt trời” ở nhiều nền văn minh sơ khai khác.
Giả thuyết tôi đưa ra nếu đúng sẽ dẫn đến sự xét lại: Ngôn ngữ Dịch là của văn minh Thần Nông. Dùng cơ sở “Phục Hy đặt ra bát quái” [16], Khổng Tử đắp tượng Văn Vương và Chu Công cho học thuyết của ông, bằng cách khẳng định hai người này đă viết “Thoán từ” và “Hào từ”. Khả năng “Thoán từ”, “Hào từ” và “Dịch truyện” đă được chính Khổng Tử biên soạn, là rất lớn. Cho đến lúc này, theo tôi, chỉ nên đặt câu hỏi Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam chăng? Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục, chưa so sánh được ngôn ngữ Dịch khởi thủy với Kinh Dịch. Lịch sử Trung Hoa vẫn tồn nghi nguồn gốc Kinh Dịch hai ngàn năm nay. Người Việt Nam hiện đại đang có niềm tin xác đáng hơn bao giờ hết để bước vào cuộc truy t́m bản quyền Kinh Dịch. “Mỏ vàng nhân văn” này hứa hẹn trữ lượng nguồn sống tinh thần vô biên cho con cháu Tiên – Rồng.
Tóm lại, tôi tạm dừng công việc của ḿnh ở đây. Nếu có những người ủng hộ trí tưởng tượng của tôi, xin hăy t́m đến các di vật khảo cổ. Câu trả lời thật thuyết phục c̣n ở rất xa và có thể chẳng bao giờ ta thấy được. Tuy nhiên tṛ truyện với các vật tạo tác linh thiêng của tổ tiên ḿnh không bao giờ nhàm chán và vô nghĩa. Dù rằng sẽ không ai chứng minh được tôi đúng song chứng minh tôi sai lại càng khó hơn. Cuối cùng cách giải mă ngôn ngữ trên trống đồng của tôi vẫn nên tham khảo, v́ không lời khen tặng nào là quá đáng đối với trống đồng và những con người cổ xưa đă đúc nên chúng.
7. Kết luận
Bất cứ một giả thuyết nào cũng tự chứa trong nó phản giả thuyết, tức là những yếu tố, những mâu thuẫn có thể triển khai và phá vỡ giả thuyết ấy. Cao Hành Kiện nói rất chính xác: “Những qui luật lớn lao của lịch sử khi không thể giăi bày loài người được, th́ con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của chính ḿnh. Loài người không phải chỉ có lịch sử, mà c̣n lưu lại văn học”. [17] Với tư cách một cá nhân đi t́m nguồn cội chính ḿnh, tôi muốn khai thác thật sâu áng văn học dân gian truyền miệng nói về thủy tổ Kinh Dương Vương và An Dương Vương, có tham khảo lịch sử, văn hóa và khảo cổ, để viết nên một thứ tạp văn lịch sử nhiều cảm tính. Hợp nhất - phân ră, lên cao - xuống thấp, chói lọi - lu mờ, thành công - thất bại, quần cư - tản mát, đến và đi… những cặp phạm trù này xoắn lấy nhau, v́ nhiều nguyên nhân, liên tục đổi chỗ suốt quá tŕnh hướng tới tương lai của bất cứ một nền văn minh nào trên thế giới. Văn minh Văn Lang và Âu Lạc chẳng thể là ngoại lệ, song sức sống không thể phủ nhận của Văn Lang và Âu Lạc ở chỗ nó đă không bị tiêu diệt hoặc đồng hóa bởi Trung Hoa, một nền văn minh tầm cỡ của nhân loại.
Đà Lạt tháng 11.2004
Thư tịch và chú thích
Nam Việt Quốc Sử, Trương Vinh Phương, Quảng Đông Nhân dân xuất bản xă, 1995.
Sử Kư Tư Mă Thiên, NXB VH, 1988.
Chiến quốc sách, NXB Trẻ, 1989.
Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục, 1999.
Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam, B́nh Nguyên Lộc, Bách Lộc xuất bản, 1971.
Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB GD, 2003.
Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim.
Khâm định Việt sử, Quốc sử quán triều Nguyễn.
Và một số trang web.
1. Chuỗi tạp văn lịch sử của tôi gồm nhiều chủ đề có liên quan đến thời bán sử Việt Nam, xin tham khảo thêm bài “Từ Hai Bà Trưng đến những khắc khoải lịch sử - Phiên bản tháng 6.2004” và “Bảo tàng lăng mộ Nam Việt Triệu Văn Vương tại Quảng Châu – Phiên bản tháng 3.2004”.
2. http://news.nationalgeographic.com/news/2002/12/1212_021213_ journeyofman.html
3. Ông trời là mặt trời đă được người Trung Hoa nhân cách hóa, đây là dấu vết rơ ràng của việc h́nh thành tín ngưỡng tế tự trời đất của văn minh Trung Hoa.
4. Bạn đọc thử xem xét các thành phố lớn ở Việt Nam: trên con đường nam tiến của những con người sinh ra từ nền văn minh lúa nước, nơi đặt đô thị dần dần chuyển vị trí từ bờ bồi (phù sa màu mỡ) sang bờ lở (thuận tiện cho thủy vận giao thương). Hà Nội và Hải Pḥng gốc đều bên mạn nam sông Hồng và sông Cấm. Huế trải suốt hai bờ Hương giang. Đến Đà Nẵng và Sài G̣n th́ chỉ phát triển ở bên lở của sông Hàn và sông Sài G̣n. Văn minh đô thị Việt Nam thành h́nh, yếu tố cần cho thương gia đă thắng yếu tố thiết yếu với nhà nông. Hai trung tâm buôn bán cổ là Phố Hiến và Hội An tọa lạc tại bờ lở, càng nhấn mạnh lập luận của tôi.
5 Bạn đọc có thể kiểm chứng thông tin khảo cổ Trung Quốc tôi đă đề cặp tại rất nhiều trang web tiếng Anh. Phiên âm La Mă của các địa danh này như sau: Dadiwan, Gansu ( Đại Địa Loan, Cam Túc); Banpo, Shaanxi (Bán Pha, Thiểm Tây), Jiahu, Henan (Giả Hồ, Hà Nam); Taosi, Shanxi (Đào Tự, Sơn Tây).
6. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đ́nh mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền th́ đi xa hơn, quyền hành gia đ́nh và xă hội nằm tất ở nữ giới, lănh tụ chắc chắn phải là nữ giới.
7. Người Việt Nam hiện đại hay lầm lẫn ở đây, họ cho rằng Thần Nông là người Tàu, họ đôi lúc phản đối việc xem thủy tổ Kinh Dương Vương của ḿnh là cháu Thần Nông. Có người góp ư với tôi: nếu Thần Nông gốc Tàu th́ họ đă gọi là Nông Thần.
8. Tiên tổ vua Sở là Mị Dục Hùng, con cháu ông ta lấy tên tiền nhân làm họ, có vẻ rất giống một vài nhóm dân tiền Đông Nam Á như Khơ Me. Con gái Vua Hùng tục gọi Mị Nương. Nước Sở c̣n có tên gọi khác là nước Kinh! Những cái tên chồng chéo này chắc chắn phải có mối tương giao văn hóa nào đó.
9. Nếu khảo cổ Việt Nam t́m ra bất cứ di chỉ đồ đồng nào, niên đại trước 1700 TCN, có liên hệ rơ ràng với các di chỉ đồ đồng đă công bố như Đồng Đậu, G̣ Mun, Đông Sơn; giả thuyết của tôi sẽ hoàn toàn sụp đổ.
10. Xiaorong Han, Who invented the Bronze Drum? Nationalism, Politics, and a Sino - Vietnamese Archaeological Debate of 1970s and 1980s. Asian Perspectives, Vol.43, Spring 2004.
11. http://www.china.org.cn/e-sanxingdui/index.htm
12. Sách Mạnh Tử có nói “Vợ Hoa Chu và Kỷ Lương khóc chồng ḿnh mà biến cải được phong tục trong nước”. Câu này vốn lấy từ chuyện nàng Mạnh Khương nước Tề khóc tế chồng chết trận làm thành lũy sụp mấy thước. Đây cũng là thông điệp thù oán chiến tranh, yêu chuộng ḥa b́nh của nhân dân Trung Hoa thời chiến quốc.
13. Kịch bản này không hề vô tưởng, nó đă từng xảy ra với Mân Việt năm 135 TCN.
14. Xin các bậc thông Nho đọc đến đây đừng bảo tác giả nói bậy về chữ Âu. Tôi tin âm Âu mang nghĩa Việt nhưng phải mượn chữ Hán để viết. Tôi muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm.
15. Nếu bạn đọc thay các chữ “Âu” bằng “Đất”, “Lạc” bằng “Nước” vào toàn bộ bài viết này, tôi tin nội dung tôi muốn chuyển tải sẽ sáng tỏ hơn nhiều. Biết đâu cuộc chia ly của cha rồng mẹ tiên trong truyền thuyết lại chính là dấu ấn của một đợt hạn hán khủng khiếp nơi đồng bằng phía nam trung lưu Trường Giang.
16. Phục Hy là một nhân vật cổ tích rất phức tạp. Các yếu tố của văn minh Thần Nông và Hoa Hạ đan xen, chồng chéo và ḥa lẫn vào nhau tạo nên Phục Hy. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết cụ thể này, giải mă h́nh tượng Phục Hy sẽ khiến mạch văn đứt găy. Xin hẹn bạn đọc cơ hội khác.
17. Diễn từ nhận giải Nobel của CHK, theo tanvien.net.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 25 of 38: Đă gửi: 14 November 2004 lúc 10:32am | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Nha Quỳnh viết:
Nếu khảo cổ Việt Nam t́m ra bất cứ di chỉ đồ đồng nào, niên đại trước 1700 TCN, có liên hệ rơ ràng với các di chỉ đồ đồng đă công bố như Đồng Đậu, G̣ Mun, Đông Sơn; giả thuyết của tôi sẽ hoàn toàn sụp đổ.
Khảo cổ Việt Nam theo tôi biết th́ chưa t́m ra. Nhưng các nhà khảo cổ quốc tế đă t́m ra cả ĐỒ SẮT ở biên giới Đông Bắc Thái Lan. Tức là một địa danh thuộc biên giới Văn Lang hoặc cận Văn Lang có niên đại khoảng từ 1400 năm đến 1700 năm trc CN. bạn cũng biết khi kỹ thuật luyện kim và nền văn minh phát triển th́ con người mới dùng đồ sắt. Đây là niên đại tương đương với Đức Phù Đổng thiên vương dùng roi sắt; ngựa sắt đánh giặc Ân.
Bạn có cần tài liệu khảo cổ này không?
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của bạn và quí vị.
Thiên Sứ
---------------
Ta về trong cơi vô thường.
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa
Sửa lại bởi ThienSu : 14 November 2004 lúc 10:34am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 26 of 38: Đă gửi: 14 November 2004 lúc 10:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
Dạ thưa,
Trong phiên bản mới của bài viết tôi đă định lại tuổi của dân tộc VN là 3200 năm, đất nước VN là 2700 năm. Tôi tính từ thời nhà nước Văn Lang sơ khai.
Theo khảo cổ, hạt lúa nước xưa nhất của nhân loại niên đại 12 ngàn năm tại Hồ Nam, TQ, đó là đất của Văn Lang. Cho nên nói văn minh của tổ tiên người Việt bao nhiêu năm cũng được, miễn là dưới 12 ngàn năm. Nếu mai sau khảo cổ thấy 1 hạt lúa 15 ngàn năm th́ thời gian tiếp tục kéo dài nữa.
Lịch sử văn minh phản căn cứ trên khảo cổ. Giả thuyết di cư của tôi sẽ bị phá vỡ nếu có 1 di chỉ đồ đồng xa hơn 1700 TCN tại đồng bằng sông Hồng. C̣n di chỉ đồ sắt ông nói chắc của nước Thục cổ đại (5000 năm), không ảnh hưởng ǵ đến giả thuyết của tôi.
Kính thư
T.T.Du
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 27 of 38: Đă gửi: 14 November 2004 lúc 11:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Nha Quynh thân mến!
Tôi xin lưu ư bạn mấy vấn đề sau đây:
1)Chính sử Đại Việt ghi nhận:
Nước Văn Lang; quốc gia đầu tiên của Việt tộc ghi nhận thành lập năm 2879 trước Công Nguyên. Mọi sự xét lại chính sử dù là 1 năm cần phải có luận cứ vững chắc.
2) Bạn viết:
Lịch sử văn minh phản căn cứ trên khảo cổ. Giả thuyết di cư của tôi sẽ bị phá vỡ nếu có 1 di chỉ đồ đồng xa hơn 1700 TCN tại đồng bằng sông Hồng. C̣n di chỉ đồ sắt ông nói chắc của nước Thục cổ đại (5000 năm), không ảnh hưởng ǵ đến giả thuyết của tôi.
Vậy theo bạn th́ phải chăng:
A) Nước Thục cổ đại cách gần 5000 năm có văn minh đồ sắt từ giữa thiên niên kỷ thứ II trước CN. Điều này có ảnh hưởng ǵ đến nước Văn Lang láng giềng?
B) Nếu bạn cho rằng di vật đó củax nước Thục th́ phải chăng: Biên giới chiều dọc của nước Thục cổ đại đến Đông Bắc Thái Lan? Vậy những di vật đồ đồng phát hiện ở nước Văn Lang - và cả Hoa Hạ - c̣n sau di vật đồ sắt của nước Thục láng giềng chăng?(C̣n di chỉ đồ sắt ông nói chắc của nước Thục cổ đại).
Nếu bạn đă coi luận đề của bạn là khoa học th́ bạn phải có trách nhiệm giải thích các hiện tượng liên quan một cách hợp lư. Nhất là khi bạn luôn cho rằng:
Lịch sử văn minh phản căn cứ trên khảo cổ ; vậy khi tôi đưa ra một chứng tích khảo cổ đúng ư bạn; bạn lại đẩy cho nước Thuc? Vậy th́ tất cả những di vật khảo cổ đào được trên đất Trung Hoa hiện đại có đúng là sản phẩm của dân tộc Hán ko? Đào được ở đất Hoa Kỳ có đúng là của Anh; Pháp không? Ở đây tôi chưa bàn đến việc bạn cần chứng minh là: Phải có di vật khảo cổ?
Tại sao lại phải? Nếu ko có th́ quá khứ nhân loại sụp đổ hết sao?
Riêng cá nhân tôi.
Tôi luôn khẳng định rằng:
Dân tộc Việt Nam có gần 5000 văn hiến. Lịch sử lập quốc bắt đầu từ 2879 trước CN (Theo chính sử Đại Việt)với nhà nước Văn Lang.
Biên giới Văn Lang: Bắc giáp Động Đ́nh hồ; Nam giáp Hồ Tôn. Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông hải và là cội nguồn của văn minh Đông phương.
Những luận điểm này nhân danh khoa học; và được chứng minh qua các bài viết trên cơ sở những tiêu chí khoa học hiện đại; ngay trên trang web tuvilyso này.
Tôi sẵn sàng trả lời tất cả những câu hỏi mang tính chất học thuật. Trên thực tế tôi không hề từ chối trả lời hoặc tham biện với bất cứ một câu hỏi hoặc sự tham biện phản bác nào.
Tôi vẫn chờ đợi bạn trả lời những câu hỏi của tôi.
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 14 November 2004 lúc 11:15pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 28 of 38: Đă gửi: 16 November 2004 lúc 12:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
"Dân tộc Việt Nam có gần 5000 văn hiến. Lịch sử lập quốc bắt đầu từ 2879 trước CN (Theo chính sử Đại Việt)với nhà nước Văn Lang."
Đối chiếu lịch Việt: giờ Th́n, ngày mùng 10 tháng 3 năm Nhâm Tuất - thời điểm lập Quốc.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 29 of 38: Đă gửi: 20 November 2004 lúc 11:05am | Đă lưu IP
|
|
|
Thưa quí vị,
Các vị đang trong trang web này ai cũng thông hiểu Dịch cả, vậy mà không thể chấp nhận lẽ BIẾN DỊCH : đến và đi, lên cao rồi xuống thấp, hưng và suy... của nền văn minh Thần Nông (mẹ đẻ của Văn Lang).
Mấy hôm nay tôi xem rất kỹ mấy quẻ, quái của dịch và dường như chắc chắn đó là những kư tự của văn minh Thần Nông, của nước Văn Lang Động Đ́nh Hồ. Các vị nh́n ngang Quái KHẢM, sẽ thấy chữ Thuỷ = một vạch thẳng ở giữa, hai chấm mỗi hai bên, đó cũng là nguyên uỷ của chữ Thủy trong Hán Văn. C̣n quái Đoài tôi đoán là "Biển".
Tôi lại xét ngũ hành, ngũ hành ở nhạc là ngũ cung, và chắc chắn ở khoa học vật lư hiện đại sẽ là không gian năm chiều. Phương tây đang mơ hồ lư thuyết năm chiều này, ai ngờ nó nằm sẵn trong ngũ hành Á Đông rồi.
Từ đó tôi trở lại cách tôi t́m ra nguồn gốc dân tộc Việt Nam và 3200 lịch sử: tôi đă sử dụng chiều thứ năm để lật ngược các truyền thuyết. Triết học phương tây nói đó là de-contruction, giải cấu luận. Tuy vậy tên gọi kia cũng chỉ là tên gọi mà thôi, phép ngũ hành là phương pháp tôi áp dụng.
Liên hệ thực tế:
1. Bói Kiều của người VN bắt nguồn từ truyền thống bói Dịch của văn minh Văn Lang Động Đ́nh Hồ.
2. Dịch bảo Càn Trời, Khôn Đất. Mẹ Âu Cơ là biểu trưng của đất. Do đó suy luận Âu Lạc là đất nước của tôi không sai.
Hiểu lẽ biến dịch, th́ 5000 năm lịch sử (theo niềm tin cũ) hay 3200 năm lịch sử theo lư thuyết của tôi cũng như nhau mà thôi. Tôi tin một ngày không xa nữa khảo cổ ở Hoa Nam sẽ t́m ra những di vật có khắc, tạc, in kư tự của Văn Lang, tức là các quái, các quẻ trong kinh dịch...
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 30 of 38: Đă gửi: 26 November 2004 lúc 1:53am | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Nha Quỳnh thân mến!
Tôi thành thật xin lỗi v́ trả lời bạn chậm trễ; v́ mải mê trên quệ cũ với "Cuộc say nửa tháng; trận cười thâu đêm".
Chúng ta lại tiếp tục bàn về ư kiến của bạn cho rằng:
Hiểu lẽ biến dịch, th́ 5000 năm lịch sử (theo niềm tin cũ) hay 3200 năm lịch sử theo lư thuyết của tôi cũng như nhau mà thôi.
Theo tôi và có lẽ tất cả mọi người đều rất khó hiểu khi bạn cho rằng: 5000 năm và 3200 năm lịch sử của người Việt đều như nhau? Bạn lại cho rằng: Đó là lẽ biến Dịch? Bạn có thể giải thích rơ thêm:
*Căn cứ vào lư thuyết nào của Dịch để khi biến Dịch th́ 5000 năm văn hiến của người Việt và 3200 năm lại như nhau?
Bạn c̣n viết:
Các vị đang trong trang web này ai cũng thông hiểu Dịch cả, vậy mà không thể chấp nhận lẽ BIẾN DỊCH : đến và đi, lên cao rồi xuống thấp, hưng và suy... của nền văn minh Thần Nông (mẹ đẻ của Văn Lang).
Bạn có thể nói rơ hơn:
* Nếu chấp nhận lẽ biến Dịch theo ư bạn th́ điều này có liên quan ǵ đến việc thời điểm lịch sử của người Việt? Phải chăng cơ sở của sự thay đổi thời điểm lịch sử lập quốc của người Việt từ gần 5000 năm lịch sử xuống c̣n 3200 năm - theo lập luận của bạn - chỉ là công nhận lẽ biến dịch?
Vài lời tường sở nghi.
Cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Thiên Sứ
------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buốn
Sửa lại bởi ThienSu : 26 November 2004 lúc 1:57am
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 31 of 38: Đă gửi: 07 December 2004 lúc 11:48am | Đă lưu IP
|
|
|
ThienSu đă viết:
Bạn Nha Quynh thân mến!
Tôi xin lưu ư bạn mấy vấn đề sau đây:
1)Chính sử Đại Việt ghi nhận:
Nước Văn Lang; quốc gia đầu tiên của Việt tộc ghi nhận thành lập năm 2879 trước Công Nguyên. Mọi sự xét lại chính sử dù là 1 năm cần phải có luận cứ vững chắc.
2) Bạn viết:
Lịch sử văn minh phản căn cứ trên khảo cổ. Giả thuyết di cư của tôi sẽ bị phá vỡ nếu có 1 di chỉ đồ đồng xa hơn 1700 TCN tại đồng bằng sông Hồng. C̣n di chỉ đồ sắt ông nói chắc của nước Thục cổ đại (5000 năm), không ảnh hưởng ǵ đến giả thuyết của tôi.
Vậy theo bạn th́ phải chăng:
A) Nước Thục cổ đại cách gần 5000 năm có văn minh đồ sắt từ giữa thiên niên kỷ thứ II trước CN. Điều này có ảnh hưởng ǵ đến nước Văn Lang láng giềng?
B) Nếu bạn cho rằng di vật đó củax nước Thục th́ phải chăng: Biên giới chiều dọc của nước Thục cổ đại đến Đông Bắc Thái Lan? Vậy những di vật đồ đồng phát hiện ở nước Văn Lang - và cả Hoa Hạ - c̣n sau di vật đồ sắt của nước Thục láng giềng chăng?(C̣n di chỉ đồ sắt ông nói chắc của nước Thục cổ đại).
Nếu bạn đă coi luận đề của bạn là khoa học th́ bạn phải có trách nhiệm giải thích các hiện tượng liên quan một cách hợp lư. Nhất là khi bạn luôn cho rằng:
Lịch sử văn minh phản căn cứ trên khảo cổ ; vậy khi tôi đưa ra một chứng tích khảo cổ đúng ư bạn; bạn lại đẩy cho nước Thuc? Vậy th́ tất cả những di vật khảo cổ đào được trên đất Trung Hoa hiện đại có đúng là sản phẩm của dân tộc Hán ko? Đào được ở đất Hoa Kỳ có đúng là của Anh; Pháp không? Ở đây tôi chưa bàn đến việc bạn cần chứng minh là: Phải có di vật khảo cổ?
Tại sao lại phải? Nếu ko có th́ quá khứ nhân loại sụp đổ hết sao?
Riêng cá nhân tôi.
Tôi luôn khẳng định rằng:
Dân tộc Việt Nam có gần 5000 văn hiến. Lịch sử lập quốc bắt đầu từ 2879 trước CN (Theo chính sử Đại Việt)với nhà nước Văn Lang.
Biên giới Văn Lang: Bắc giáp Động Đ́nh hồ; Nam giáp Hồ Tôn. Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông hải và là cội nguồn của văn minh Đông phương.
Những luận điểm này nhân danh khoa học; và được chứng minh qua các bài viết trên cơ sở những tiêu chí khoa học hiện đại; ngay trên trang web tuvilyso này.
Tôi sẵn sàng trả lời tất cả những câu hỏi mang tính chất học thuật. Trên thực tế tôi không hề từ chối trả lời hoặc tham biện với bất cứ một câu hỏi hoặc sự tham biện phản bác nào.
Tôi vẫn chờ đợi bạn trả lời những câu hỏi của tôi.
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Thiên Sứ |
|
|
thưa bác Thiên Sứ, bác đúng là vị thiên sứ mang tin vui đến cho toàn dân tộc, và thưa với bác là lịch sử dân tộc không chỉ có 5000 ngàn năm như bác nói đâu, những 1000.000 năm đó.
và điều đó thay đổi ǵ nhỉ?
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 32 of 38: Đă gửi: 07 December 2004 lúc 12:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Thiênkhôitimvui thân mến!
Người ta có thể t́m thấy những di vật khảo cổ trên vùng đất của người Lạc Việt có niên đại hàng chục ngàn năm về trước. Nhưng chúng ta cần phân biệt lịch sử tiến hoá và lịch sử dân tộc. Theo sự thống nhất của các sử gia quốc tế th́:
Lịch sử của một dân tộc được tính từ thời điểm lập quốc của dân tộc đó
Dân tộc Việt có thể tồn tại từ hàng vạn năm trước đây. Nhưng thời điểm lập quốc th́ theo chính sử ghi nhận là năm 2879 trước Công nguyên. Bởi vậy; tôi coi đây là thời điểm khởi nguồn của lịch sử dân tộc Việt.
Thiên Sứ
--------------
Tám nẻo sông Ngân sao lấp lánh
Một vùng trăng nước sóng chơi vơi
Sửa lại bởi ThienSu : 07 December 2004 lúc 12:19pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 33 of 38: Đă gửi: 07 December 2004 lúc 2:28pm | Đă lưu IP
|
|
|
hiện tại mốc lập quốc của chúng ta k0 xác định đc năm cụ thể, chỉ ước lượng, và tất nhiên có nhiều luồng quan điểm.
quan điểm của bác cũng đáng chú ư, nhưng theo tôi th́ kể cả với đà tiến của KH LS th́ cũng k0 xác định đc chính xác về năm tháng đâu.
tôi thấy 0 hứng thú với mốc niên đại bằng hứng thú với thành tựu về văn hóa việt cổ, như cái trống đồng mà ẩn chứa trong nó 1 kĩ thuật đúc siêu đẳng đến bí hiểm (hiện nay khoa luyện kim cũng khong làm đc) với lại tư tưởng trên hoa văn trống đồng cũng rất là bí ẩn c̣n chờ các nhà KH.
tôi không mong ǵ trở lại thời gian nhưng quả đúng là: bao giờ cho bằng ng xưa.
tôi thuộc diện ng tin vào câu nói: 4000 năm lịch sử đất nước. nhưng tôi 0 câu nệ thời gian cho bằng cái minh triết dân gian của văn hóa việt.
bác ơi, trăm năm một tiếng thở dài, dù 1 tr năm cũng chỉ là 1 buổi sáng vũ trụ thôi mà!
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 34 of 38: Đă gửi: 08 December 2004 lúc 1:25am | Đă lưu IP
|
|
|
ThiênKhôit́mvui viết:
hiện tại mốc lập quốc của chúng ta k0 xác định đc năm cụ thể, chỉ ước lượng, và tất nhiên có nhiều luồng quan điểm.
Bạn lưu ư rằng: Bộ sử xưa nhất của dân tộc Việt ghi nhận rất cụ thể:
Thời điểm lập quốc của dân tộc Việt là 2879 trước CN.
Tôi biết rất rơ hiện nay có nhiều quan điểm nhân danh khoa học không công nhận mốc lịch sử này. Nhưng tất cả những lập luận đó đều ấu trĩ và phản khoa học. Tôi đă chứng minh điều này.
Nội cái đám bát nháo; lao sao tŕnh bày quan điểm này nọ với mục đích phủ nhận quan niệm văn hoá sử truyền thống của dân tộc Việt được chính sử ghi nhân; đă cho thấy một sự khôi hài; v́ người nọ chứng minh người kia sai. Những lập luận của họ đúng là:"Thờn bơn méo miệng; chê trai lệch mồm". Tôi không quan tâm đến cái đám bát nháo ấy; dù họ là cái ǵ. Tôi chỉ quan tâm; lập luận có thực sự khoa học hay không.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 08 December 2004 lúc 4:16am
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 35 of 38: Đă gửi: 08 December 2004 lúc 8:23am | Đă lưu IP
|
|
|
- bác dựa vào cuốn sử nào?
- p.p đổi niên biểu của bác? v́ sử xưa không dùng Tây lịch?
- bác dựa vào đâu để chứng minh nguồn tư liệu bác sử dụng là viết đúng lịch sử NHƯ LÀ NÓ ĐĂ XẢY RA?
tôi lưu ư bác là nhiều cuốn sử VN thời Phong Kiến chỉ ghi thời Hùng Vương , Hồng Bàng vào bộ Ngoại Kỉ thôi.
việc sử dụng các tư liệu thông sử phải đc xử lí, đối sánh liên ngành mới có thể khẳng định
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 36 of 38: Đă gửi: 08 December 2004 lúc 8:41am | Đă lưu IP
|
|
|
Thienkhoitimvui(Chữ màu xanh):
@- bác dựa vào cuốn sử nào?
Trả lời: Dại Việt sử kư toàn thư.
@- p.p đổi niên biểu của bác? v́ sử xưa không dùng Tây lịch?
* Các nhà nghiên cứu đổi sẵn từ lâu rồi(Khi tôi chưa đẻ).
@- bác dựa vào đâu để chứng minh nguồn tư liệu bác sử dụng là viết đúng lịch sử NHƯ LÀ NÓ ĐĂ XẢY RA?
Tôi không hiểu bạn nói ǵ? Bởi v́; khi tôi phản biện điều ǵ; tôi trích dẫn đầy đủ; không có nói ngang. Tất cả những bài viết của tôi trên diễn đàn đều thể hiện điều này. Đây là một thủ đoạn; chứ không phải một sự tranh biện học thuật.
@tôi lưu ư bác là nhiều cuốn sử VN thời Phong Kiến chỉ ghi thời Hùng Vương , Hồng Bàng vào bộ Ngoại Kỉ thôi.
* Đúng vậy; nhưng đó là tư liệu lịch sử; được ghi nhận trong chính sử.
@việc sử dụng các tư liệu thông sử phải đc xử lí, đối sánh liên ngành mới có thể khẳng định
* Liên ngành? Là những ngành nào nhỉ? Ngày xưa khi tôi đi học . Các giáo viên khẳng định với tôi rằng: Dân tộc Việt nam có lịch sử hơn 4000 năm văn hiến (Trên cơ sở cột mốc thời điểm lâp quốc 2879 trước CN). Bây giờ cái liên ngành của bạn khẳng định điều ǵ về cội nguồn dân tộc? Bạn hăy nói thẳng ra đi. Sao cứ phải quanh co thế nhỉ; nếu quả thực là bạn tự thấy bạn là khoa học? Bạn cần ǵ ở tôi?
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 10 December 2004 lúc 6:35pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 37 of 38: Đă gửi: 08 December 2004 lúc 9:24am | Đă lưu IP
|
|
|
- Điều ǵ xảy ra nếu bộ DVSK ghi không chính xác, và họ có điều kiện chính xác không khi từ thời Hùng Vương tới ho là 1 bao la của thời gian năm tháng, trong điều kiện tŕnh độ của sử học bấy giờ?
- Các nhà viết sử ta nói rất rơ: chuyện quá xa xưa, nay không thể khảo cứu, ghi lại để tồn nghi cơ mà?
- Theo tôi họ ghi lại như vậy cũng tốt, nhằm dành cho đời sau minh xác.
- DVSK cũng dựa tư liệu sử Tàu thôi, cộng với truyền thuyết.
- Liên ngành interdiscipline: phải có những cộng tác dân tộc học, nhân chủng học, văn hóa học, khảo cổ học, cả ngôn ngữ học cộng vào với thông sử th́ mới khẳng định đc độ tin cậy của thông sử.
- ta đọc thần phả, thấy sự "quá thọ" của 1 đời vua Hùng mấy trăm năm là không ổn rồi.
- Việc này không dính líu ǵ tới việc tôn vinh hay không tôn vinh dân tộc cả.
- Tôi rất sợ tinh thần AQ của chúng ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 38 of 38: Đă gửi: 08 December 2004 lúc 10:28am | Đă lưu IP
|
|
|
Thiênkhôitimvui viết:
@Điều ǵ xảy ra nếu bộ DVSK ghi không chính xác, và họ có điều kiện chính xác không khi từ thời Hùng Vương tới ho là 1 bao la của thời gian năm tháng, trong điều kiện tŕnh độ của sử học bấy giờ?
Với phương pháp luận của bạn th́ bạn căn cứ vào đâu để phủ nhận?
@- Các nhà viết sử ta nói rất rơ: chuyện quá xa xưa, nay không thể khảo cứu, ghi lại để tồn nghi cơ mà?
Điều này chứng tỏ tính khách quan của tài liệu đă ghi nhận. Nên cho dù Ngô Sĩ Liên không tin cũng phải ghi vào.
@- Theo tôi họ ghi lại như vậy cũng tốt, nhằm dành cho đời sau minh xác.
Vậy tôi cũng có quyền minh xác chứ nhỉ?
@- DVSK cũng dựa tư liệu sử Tàu thôi, cộng với truyền thuyết.
Cuốn sử Tàu nào viết về cổ sử Việt để sử gia Việt căn cứ vào đấy nhỉ?
@- Liên ngành interdiscipline: phải có những cộng tác dân tộc học, nhân chủng học, văn hóa học, khảo cổ học, cả ngôn ngữ học cộng vào với thông sử th́ mới khẳng định đc độ tin cậy của thông sử.
Trước năm 1992. Tất cả thế hệ Việt đều được chính thức dạy trong nhà trường rằng: Dân tộc ta tự hào về hơn 4000 năm văn hiến. Cái liên ngành của thời đó và bây giờ khác nhau ở chỗ nào?
@- ta đọc thần phả, thấy sự "quá thọ" của 1 đời vua Hùng mấy trăm năm là không ổn rồi.
Tôi nghe cái luận điệu này không dưới một ngàn lần. Và đă phản bác trong mục Văn Hiến Lạc Việt.
@- Việc này không dính líu ǵ tới việc tôn vinh hay không tôn vinh dân tộc cả.
Vậy tại sao bạn lại cho người khác là sưng phồng và phải báo động?
@- Tôi rất sợ tinh thần AQ của chúng ta.
Bạn yên tâm đi. Ở Việt Nam không có nhân vật AQ; Bây giờ có luật bản quyền ; ai xâm phạm bị truy tố đấy. AQ là nhân vật của nhà văn thuộc về đất nước Trung Hoa vĩ đại dấy!
Thiên Sứ
------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 17 December 2004 lúc 10:32am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|