|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thống Kê
|
Trang đã được xem
lượt kể từ ngày 05/18/2010
|
|
|
|
|
|
|
Chủ đề: Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt của ThienSu
|
|
Tác giả |
|
Quan Tri Vien 1 Hội viên
Đă tham gia: 07 June 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 333
|
Msg 1 of 33: Đă gửi: 11 April 2005 lúc 1:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính chào qúy hội viên,
Chủ đề "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt của ThienSu" này dành riêng cho hội viên Thiên Sứ vào để viết bài.
Hội viên nào muốn bàn luận về bài viết của hội viên ThienSu xin đặt vấn đề trong 1 chủ đề khác.
Qúy vị vẫn có thể mở chủ đề mới để viết bài trong mục "Văn Hiến Lạc Việt".
Thay mặt Ban Chấp Hành trân trọng thông báo.
QTV1
Sửa lại bởi Quan Tri Vien 1 : 11 April 2005 lúc 1:41pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 2 of 33: Đă gửi: 11 May 2005 lúc 9:59am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính thưa quí vị quan tâm
Hiện nay trong mục này đang có cuộc thảo luận về tính đúng sai của:
Hậu thiên bát quái Lạc Việt(Đổi chỗ Tốn/ Khôn) và liên hệ với Hà Đồ
Với
Hậu thiên bát quái của Văn Vương liên hệ với Lạc Thư
Bởi vậy; để các quí vị quan tâm rộng đường tham khảo; tôi xin tường lại và tiếp tục bài viết:
HÀ ĐỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT
Rất cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Kính
Thiên Sứ
-------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 3 of 33: Đă gửi: 11 May 2005 lúc 10:31am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ ĐỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT
Lời nói đầu
Trải hàng thiên niên kỷ trôi qua trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại; con người không quên chiêm ngưỡng quá khứ. Nhưng trong quá khứ phát triển của nền văn minh nhân loại; có cái ǵ đó không liên tục; mặc dù vẫn nằm trên một trục thời gian. Nó như bị ngắt quăng và giống như một sự chuyển dịch nhảy cóc từ không gian văn minh này sang một không gian văn minh khác; không hề có mối liên hệ chuyển tiếp. Hay nói một cách khác: Nó không có sự kế thừa giữa các nền văn minh. Bởi vậy; trong nhận thức của nhân loại hiện đại; khi nh́n lại những không gian văn minh bị ngắt quăng ấy; đă không khỏi kinh ngạc trước những hiện tượng bí ẩn một cách kỳ vĩ trong quá khứ. Đó là: Kim Tự tháp ở Ai Cập; tượng khổng lồ ở đảo Phục Sinh; những di vật kỳ bí về tri thức thiên văn của nền văn minh Maya …Nhưng tất cả những sự bí ẩn đó đều hiện hữu dưới dạng di vật của quá khứ. Bởi vậy; tuy kỳ vĩ và đầy bí ẩn; nhưng ít mang màu sắc của sự huyền bí. Riêng không gian của văn minh Đông Phương cổ; đă để lại cho nhân loại một di sản văn hóa phi vật thể. Do đó; ngoài sự bí ẩn c̣n là sự huyền bí và thách đố tất cả những tri thức của nhân loại hiện đại. Đó chính là nền Lư học Đông phương. Những hệ quả ứng dụng của nền lư học Đông phương tỏ ra rất hữu hiệu trên thực tế nhằm phục vụ con người. Từ y lư; thiên văn lịch số; xây dựng đến cả sự tiên tri cho số phận của từng con người….Nhưng tất cả cứ như từ trên trời rơi xuống và xuất phát từ một phương pháp luận rất mơ hồ: Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành; mà cho đến bấy giờ người ta vẫn chưa công nhận tính hoàn chỉnh và nhất quán của nó. Không ít học giả vẫn cho rằng: Thuyết Âm Dương và Ngũ hành là hai học thuyết riêng biệt; không liên quan đến nhau và thậm chí phủ nhận Ngũ hành trong ứng dụng. Cho đến tận bây giờ; người ta vẫn không thể t́m ra một nguyên lư hoặc một thực tại nào là nguyên nhân của các phương pháp ứng dụng trong lư số Đông phương?
Nếu chúng ta quán xét kỹ th́ trong sự mờ ảo hỗn độn của nền Lư học Đông phương có một hiện tượng cũng bí ẩn một cách kỳ vĩ; đó chính là Hà Đồ. Hà đồ được coi như một linh vật thiêng liêng đầu tiên của tạo hóa ban tặng cho con người. Người ta quan niệm rằng: Kỳ Lân – Một linh vật thiêng liêng trong tứ linh thuộc huyền thoại Đông Phương – đă mang Hà đồ đến cho vị thánh nhân đầu tiên của con người và khởi đầu cho nền lư học Đông phương huyền bí. “Phục Hy tắc Hà đồ hoạch quái”
Dịch viết:
“Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”.
Hà Đồ chính là sự khởi nguồn của kinh Dịch; một kỳ thư nền tảng của lư học Đông phương.
Sự huyền bí đến kỳ vĩ của Hà đồ không chỉ ở huyền thoại tạo ra nó; mà c̣n bởi chính nội dung của nó đă thách đố trí tuệ của nhân loại trải đă hàng thiên niên kỷ cho đến tận bây giờ: Sự căn nguyên của thuyết Âm Dương trong Chu Dịch lại chính là Hà Đồ mang nội dung Ngũ hành?
Như vậy; ngay từ nguyên lư căn để của Lư học Đông phương là Hà Đồ – tự thân nó tạo ra mâu thuẫn hoàn toàn mang tính phủ định – đă tạo nên sự bí ẩn kỳ vĩ đến huyền bí của một nền văn minh đă ch́m sâu trong quá khứ.
Trải hàng thiên niên kỷ; đă bao nhiêu giấy mực viết về Hà Đồ; theo thống kê của tác giả Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh – trong cuốn: "Kinh Dịch - Cấu h́nh tư tưởng của Trung Quốc" – th́ tính từ thời Tiên Tần đến nay đă có hơn 150 đầu sách viết về Hà Đồ bằng tiếng Hán. Thậm chí người Hoa Hạ đă có hẳn một môn: “Hà Đồ học”; nhưng người ta vẫn chưa biết ǵ về bản chất của Hà Đồ. Nói theo cách nói của Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng; trong cuốn "Kinh Dịch - Vũ trụ quan Đông Phương":
“Bí ẩn vẫn hoàn bí ẩn”.
Điều kỳ lạ là hầu hết những bản văn cổ chữ Hán khi nói đến Hà đồ th́ có vẻ như nó là đồ h́nh căn bản của lư học Đông phương. Ngay từ sách Thượng Thư; thiên Cổ Mệnh cũng ghi:
"Vách bên trái cung điện của Văn Vương có vẽ Hà Đồ.
Khi luận về Kinh Dịch th́ từ thời Tiền Hán cho đến nay; hầu hết các học giả và nhà nghiên cứu trên thế giới đều biết: “Phục Hy tắc Hà Đồ hoạch quái” và những quái hoạch đầu tiên – Tiên thiên bát quái - bắt đầu từ Hà Đồ. Nhưng trong sự ứng dụng theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành từ cổ thư chữ Hán; th́ Hà Đồ lại có vẻ như không hề đóng một vai tṛ ǵ quan trọng trong thực tế ứng dung?!
Sự huyền bí của Hà Đồ cũng không phải chỉ dừng ở đấy. Nguyên ủy xuất xứ của Hà Đồ là một đồ hính bí ẩn xuất hiện trên lưng con Long Mă trên sông Hoàng Hà; vua Phục Hy thấy được và căn cứ vào đó để hoạch quái; tạo ra tiền đề cho môn Dịch học kỳ vĩ của văn minh Đông phương. Điều huyền bí và kỳ lạ này trải đă hàng ngàn năm và cho đến tận ngày hôm nay; như một tiên đề của Lư học Đông phương. Khi các nhà nghiên cứu viết về Kinh Dịch, hoặc những vấn đề liên quan đến nó th́ đều nhắc tới sự huyền bí khó tin này; như sự chấp nhận một thực tế đă tổn tại?
Nhưng từ cái đồ h́nh trên Long Mă này, liên quan ǵ đến các phương pháp ứng dụng của học thuật Đông Phương? Trong Phong thủy chăng? Không thấy nói đến! V́ phi tinh; phân cung thảy đều căn cứ vào Lạc thư? Trong bói Dịch chăng? Không thấy ứng dụng thực tế! V́ 64 quẻ Hậu thiên căn cứ vào đồ h́nh Hậu thiên theo bản văn vhữ Hán chỉ liên hệ với Lạc Thư. Trong Tử Vi chăng? Không rơ ràng; ngoại trừ thiên bàn Tử Vi có chiều ngũ Hành tương sinh thuận giống Hà Đồ. Ngay cả trong Thái Ất phân cung; tính sao; t́m cục đều liên hệ với số Lạc Thư.
Vậy Hà Đồ đóng vai tṛ ǵ trong nguyên lư lư học Đông phương và có liên hệ với thực tế ứng dụng của nó? Điều này cổ thư chữ Hán không hề thể hiện; không phải bấy giờ mà đă hàng ngàn năm trôi qua. Nếu khiên cưỡng mà nói rằng: Từ Hà Đồ vua Phục Hy làm ra Tiên Thiên Bát quái; mà Tiên thiên bát quái là cơ sở của Dịch; do đó: Hà Đồ chính là đồ h́nh căn bản của Lư học Đông phương. Nhưng với cách giải thích y như trong Kinh này; chúng ta sẽ không thể chỉ ra và chứng minh cho mối liên hệ (Dù chỉ tạm chấp nhận ở tính hợp lư cho mối liên hệ đó) từ một đồ h́nh được gọi là Hà Đồ với hệ quả trực tiếp của nó là Bát quái Tiên Thiên.
Nhưng; vi diệu thay! Trong nền văn minh Lạc Việt th́ lại có một h́nh vẽ kỳ bí khẳng định một uy lực thiên nhiên chi phối tất cả vạn pháp có liên hệ với Hà Đồ. Đó chính là bức tranh thờ Ngũ Hổ phường Hàng Trống thuộc về văn minh Lạc Việt. Phải chăng bức tranh này chính là chiếc ch́a khóa mở cánh cửa huyền bí một cách kỳ vĩ của văn minh Đông Phương?
Viết tiểu luận này; người viết không lượng sức ḿnh; chẳng quản tài hèn; trí thiển làm chuyện “Nực cười! Châu chấu đá xe.” chứng minh cho một nguyên lư căn để của nền lư học Đông phương; không như những điều trải hàng ngàn năm mà cổ thư chữ Hán nói tới. Nguyên lư này chính là Hà Đồ và thuộc về văn minh Lạc Việt.
Tiểu luận “Hà Đồ” là một sự tiếp tục của những sách mà tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh đă nói tới và đi sâu vào một chuyên đề t́m bản chất của Hà Đồ trong nền lư học Đông phương và là sự minh chứng rơ nét hơn cho một tiểu luận đă tŕnh bày trong website này :
”Định mệnh có thật hay không?”.
Chính v́ là sự tiếp tục này và để thuận lợi trong việc minh chứng; người viết xin được lặp lại không ít những luận điểm đă tŕnh bày. Người viết cho rằng đây là điều cần thiết nhằm chứng tỏ tính hoàn chỉnh và nhất quán của một luận điểm và là sự tiện lợi chung cho tất cả những quí vị lần đầu t́m hiểu một luận điểm mới về cội nguồn và bản chất lư học Đông phương. Người viết hy vọng rằng: Tuy có sự lặp lại một số luận điểm đă tŕnh bày; nhưng sẽ được các quí vị quan tâm đă xem những bài viết trước vui ḷng lương thứ; v́ nó nhằm diễn tả và minh chứng cho một chủ đề khác là sự phát triển tiếp tục của các luận điểm đă nêu.
Trong tiểu luận này:
Phần trích dẫn được thể hiện bằng chữ hiển thị màu“xanh blue” .
Chính văn của người viết thể hiện bằng chữ “đứng” viết thường.
Tất cả những chữ “đậm” do người viết thực hiện.
Mặc dù đă hết sức cố gắng; nhưng do tài trí c̣n kém cỏi so với ước vọng thực hiện đề tài; bởi vậy; rất hy vọng những cao nhân trí giả quán xét và cho ư kiến đóng góp quí báu.
Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
C̣n tiếp:
LỊCH SỬ HÀ ĐỒ TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN
----------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 11 May 2005 lúc 10:40am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 4 of 33: Đă gửi: 11 May 2005 lúc 10:59am | Đă lưu IP
|
|
|
LỊCH SỬ HÀ ĐỒ TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN
Hầu hết những ai đă từng xem một cuốn sách nói về Kinh Dịch th́ đều được biết đến Hà Đồ qua một câu của Hệ từ:
“Hà xuất đồ; lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”
Trong Chu Dịch; duy nhất chỉ có một ḍng như vậy nói đến Hà Đồ. Tính mơ hồ của nó đă sinh ra bao truyền thuyết thần kỳ. Cho đến tận bây giờ; thực chất Đồ thư là cái ǵ chưa thấy ai bàn được rốt ráo. Đă có hẳn một môn “Hà đồ học” với hàng trăm đầu sách viết về Hà Đồ; nhưng Đồ Thư vẫn là những đồ h́nh bí ẩn.
Trong những cuốn sách nghiên cứu về lư học Đông phương th́ – với tôi – có lẽ cuốn “Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương“ của Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng là một bản tổng kết khá hoàn chỉnh về những tài liệu chủ yếu nói về Hà Đồ. Bởi vậy; tôi xin trích dẫn tư liệu trong sách này để quí vị tham khảo. Đoạn sau đây trích trong chương I có tựa là:
LONG ĐỒ - QUI THƯ :
(Trong các đoạn trích dẫn từ sách này (Từ trang 77 đến trang 90); tôi lược bỏ những phần phiên âm Hán Việt và phần chữ Hán trích kèm minh họa trong nguyên văn)
A – Nguồn gốc
Nói tới Dịch Lư Đông phương; trước hết phải nói tới Hà Đồ và Lạc Thư.
“Hà đồ Lạc thư vốn là nguồn gốc của quái hoạch” (Đồ thư cố thị quái hoạch chi nguyên). Quái hoạch lại là dấu hiệu tượng trưng cho Âm Dương động tĩnh; biến dịch; doanh hư; sinh thành…Hà Đồ Lạc thư chính là hai tài liệu nền tảng của vũ trụ quan Đông phương. Các bậc thánh nhân; sau khi thấy con Long Mă phụ đồ; con Linh Qui phụ thư xuất hiện ở hai sông Hà; Lạc bèn bắt chước theo; rồi đem dung. Từ đó có Tiên Thiên và Hậu thiên bát quái..v.v..và có cả một hệ thống ư niệm về vũ trụ và nhân sinh. V́ vậy; ngay ở đầu sách “Chu Dịch bản nghĩa” ; Chu Hy đă giới thiệu Hà Đồ Lạc Thư bằng h́nh vẽ và chú thích sau đây:
“Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sông Lạc; đấng thánh nhân bắt chước theo”
Như vậy – qua đoạn trích dẫn trên - khi so sánh giữa câu trong Hệ Từ:
“Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”
với câu “Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sông Lạc; thánh nhân bắt chước theo”; quí vị nhận thấy rằng: Đây là hai nội dung khác hẳn nhau. Câu trên là hiện tượng; câu dưới là cách hiểu hiện tượng mà nội dung câu trên đặt ra.
Nhưng cũng tại sao lại có sự khẳng định này từ ông Chu Hy – Một sự khẳng định đă trải hàng thiên niên kỷ cho đến tận bây giờ? Ông đă căn cứ vào đâu để viết những điều này? Chúng ta tiếp tục quán xét đoạn trích dẫn tiếp theo:
Lại nói: “Trời 1; đất 2; trời 3; đất 4; trời 5; đất 6; trời 7; đất 8; trời 9; đất 10. Trời có năm số; đất có 5 số. Năm ngôi tương đắc đều hợp nhau. Số trời có 25; số đất có 30/ Con số này h́nh thành sự biến hóa và điều hành việc quỉ thần. Đó là số của Hà đồ Lạc thư lấy tượng rùa; cho nên số của nó th́: Đầu đội 9; chân đạp 1; sườn trái 3; hông phải 7; vai mang 2/ 4; chân đi 6/8.
Thái Nguyên Định nói: “Về cái tượng của Đồ Thư th́ từ Khổng An Quốc; Lưu Hâm đời Hán; Quan Lăng tự Tử Minh đời Ngụy; đến Khang Tiết tiên sinh là Thiệu Ung; tự Nghiêu Phu đời Tống; ai cũng đều bảo như vậy. Đến Lưu Mục; ông đổi tên cả hai số và được các học giả dùng theo”.
Khảo sát về Hà đồ; Lạc Thư ta thấy người đầu tiên đă ghi lại nguồn gốc xa xưa của chúng là Khổng An Quốc đời Hán. Họ Khổng viết: “Đời Phục Hy có con Long Mă xuất hiện trên sông Hoàng Hà. Nhà vua bèn bắt chước theo những vằn của nó để vạch Bát Quái gọi là Hà Đồ. Đời vua Vũ có con thần qui xuất hiện trên sông Lạc. Nhà vua bèn nhân đó sắp đặt thứ tự thành 9 loại; gọi là Lạc Thư.
Theo Từ Nguyên của Trung Hoa th́ Phục Hy là vị vua thời Thái Cổ Trung Hoa; tượng trưng cho ánh sáng mặt trời; mặt trăng nên gọi là Thái Hạo. Ngài dạy dân cày ruộng; đánh cá; chăn nuôi các giống vật tế thần để sung vào việc bếp nước nên gọi là Bào Hy. Ngài vạch quái làm thư khế; ở ngôi được 115 năm; truyền dược 15 đời; gồm 1260 năm.
Trong sách đă dẫn; các nhà lư học c̣n chỉ ra rất cụ thể về địa danh Hoàng Hà và Lạc Thủy như sau:
Hà tức sông Hoàng Hà; là con sông lớn bực nh́ Trung Quốc sau Dương Tử. Ngày xưa sông này chỉ gọi là Hà; nhưng về sau người Tàu gọi Hoàng Hà v́ nó có nhiều cát vàng. Hoàng Hà xuất phát từ ngọn núi Ba Nhan Khách Thích miền Thanh Hải; chảy về Đông vào t́nh Cam Túc; chéo lên Đông Bắc qua Tràng Thành tới Tuy Viễn; quặt về nam qua Sơn Tây; Thiểm Tây; Hà Nam; lại chéo về Đông Bắc qua Trục Lệ; Sơn Đông rồi ra bể; dài hơn 8800 dặm. Sông Lạc tức Lạc thủy; phát nguyên từ Thiểm Tây; chảy về Đông Nam qua Bảo An; Cam Tuyền rồi hợp với sông Vị để cùng chảy theo phía Đông vào Hoàng Hà.
Cũng trong sách đă dẫn; những nhà lư học sau Hán c̣n miêu tả chi tiết con Long Mă cứ như thật và có vẻ c̣n thật hơn cả quái vật hồ Lokneet:
Long Mă là một con ngựa giống như rồng. Nói Mă Đồ tức là nói chuyện con Long Mă mang tấm đồ xuất hiện trên sông Hà thời Phục Hy. Về sau; khi Đế Nghiêu lên ngôi; Long Mă lại xuất hiện; ḿnh xanh mà vằn đỏ; có mang sách mệnh trời ban cho vua để trị thiên hạ; trong đó ghi rơ việc hưng vong (Từ Nguyên theo sách “Thượng Thư trung hậu”)
Theo sách” Kỳ môn ngữ tổng quy” th́ con Long Mă cao 8 thước 5 tấc (Thước Tàu); xương cổ dài; cánh bên phải nhúng xuống nước mà không ướt; trên đó thánh nhân để bức đồ cổ (Tấm đồ xưa). Long Mă xuất hiện trên sông Mạnh Hà c̣n gọi là Mạnh Độc thuộc huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô; Trung Hoa.
Những tài liệu của Từ Nguyên trên đây tỏ ra khá tỷ mỷ; khá đầy đủ và rơ ràng. Nhưng thực ra xuất xứ của Đồ thư vẫn bao trùm bí mật và hoài nghi. Bởi vậy; nhiều cuộc bàn căi sôi động của tiên Nho càng ngày càng gây thêm sự hào hứng. Nhiều bộ sách cổ từ ngày xửa ngày xưa được lôi ra để chứng minh cho xuất xứ lạ kỳ quái đản. Mâu thuẫn càng tăng; dị biệt càng lắm; bí mật càng thêm bí mật.
Sách “Tống thư phù thụy chi” kể rằng:
“ Khi vua Vũ quan sát sông Hà để trị thủy; thấy một người ḿnh cá rất dài xuất hiện. Người này nói: “Ta là Hà Tinh đây!”. Nói xong; trao Hà Đồ cho vua Vũ; bàn việc trị thủy xong; bèn lui tới vực sâu.
Sách “Vỹ thư”; phần Xuân Thu; thiên Nguyên mệnh bào lại kể khác:
“Vua Nghiêu ra chơi hai sông Hà ; Lạc thấy một con rồng đỏ mang tấm đồ xuất hiện.
Sách “Thượng thư trung hậu” không bảo vua Nghiêu; vua Vũ mà lại bảo:
“Vua Thuấn đến Hạ Tắc th́ thấy con rồng vàng mang đồ xuất hiện”.
Sách “Luận ngữ sấm ngôn”; trái lại; bảo khi cả vua Nghiêu; và Thuấn cùng đi chơi tới sông Hà và Núi Thủ th́ thấy năm ông lăo báo cáo cái ngày con Long Mă ngậm tấm đồ xuất hiện.
Đến sách “Hà Đồ”; thiên Đĩnh tá phụ th́ Nghiêu; Thuấn; Vũ đều không phải cả mà lại là Hoàng Đế. Sách này nói:
Thiên Lăo (Tên một vị quan) tấu với Hoàng Đế: Sông Hà có Long đồ; sông Lạc có Qui thư. Nhà vua nghe lời; ra chơi sông Quỷ Thủy thấy con cá lớn xuất hiện. Khi cá lăn th́ tấm đồ hiện ra.
Sách “Trúc thư kỷ niên” c̣n ghi trường hợp Thiên Lăo tâu với Hoàng Đế như sau:
: Năm thứ 50; đời Hoàng Đế sương mù dày đặc. Nhà vua hỏi th́ Thiên Lăo thưa: “Trời muốn cho ngài những điều huấn giáo quan trọng; ngài chớ nên phạm”. Trời bỗng mưa lớn; Hoàng Đế được đồ thư. V́ tích này nên Lư Bạch mới viết câu: “Thiên Lăo chưởng đồ” trong bài Đại Lạp phú.
Nhưng phải đến “Sơn Hải kinh” của Quách Phác th́ sự ngạc nhiên của chúng ta mới lên tới cùng độ. Sách này ghi rằng ở cả ba đời Phục Hy; Hoàng Đế và Liệt Sơn thị (Tức Thần Nông) đều có Hà đồ xuất hiện cả. V́ vậy Lư Quá trong sách “Tây Khê Dịch thuyết” mới cho biết cứ mỗi khi thánh nhân ra đời th́ Hà Đồ xuất hiện; chứ chẳng riêng ǵ đời Phục Hy. Ông nói:
“Căn cứ theo Sơn Hải Kinh; ta thấy Phục Hy được Hà Đồ th́ Hạ Hậu nhân đó nói Liên Sơn. Hoàng Đế được Hà Đồ th́ người Thương nhân đó nói Qui Tàng; Liệt sơn thị được Hà đồ th́ người Chu đó nói Chu dịch. Như vậy; Hà đồ không phải đạc xuất từ thời Phục Hy. Đức Khổng tử nói: “Chẳng thấy tấm đồ xuất hiện trên sông Hà th́ đời ta hết rồi!”. Câu nói đó có nghĩa là cứ hễ có thánh nhân ra đời th́ Hà Đồ xuất hiện. Bởi thế nên Phục Hy; Hoàng đế và Liệt Sơn thị đều được Hà Đồ mà làm dịch”.
Qua đoạn trích dẫn trên đây; quí vị cũng nhận thấy rằng: Hà Đồ qua bản văn cổ chữ Hán hoàn toàn được giải thích mang tính thần vật huyền bí có tính tôn vinh. Nhưng cũng qua các bản văn cổ chữ Hán; chúng ta không hề t́m thấy một sự khẳng định Hà Đồ như một cơ sở lư thuyết trong ứng dụng thực tế. Ngoại trừ việc cho rằng: Hà Đồ là cơ sở của Tiên thiên Bát quái; nhưng điều này cũng chỉ được nói tới như một tiên đề. Hay nói một cách khác: Trong các phương pháp ứng dụng của Lư học Đông phương – qua bản văn chữ Hán – người ta không thể t́m thấy tính ứng dụng của Hà Đồ. Nhưng Hà Đồ lại được coi như nguyên lư đầu tiên thiêng liêng và huyền bí đến kỳ ảo của nền lư học Đông phương? Sự mâu thuẫn này khiến nhà nghiên cứu nổi tiếng – Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng cũng phải chào thua mà đặt bút viết trong tác phẩm của ông:
Thật là loạn! Hậu thế chẳng biết sở cứ vào đâu! Phục Hy; Thần Nông; Hoàng Đế; Nghiêu Thuấn đều là những vị vua thời Thái cổ. Chữ nghĩa lúc đó chưa có; biết lấy ǵ ghi chép thành sách để tin dùng? Do đó hậu thế viết sách bất quá chỉ nghe truyền thuyết. Mà truyền thuyết th́ mỗi nơi một khác; chẳng ai giống ai; nhất là thời xa xưa đó. C̣n ở thời man rợ; loài người sống thành bộ lạc; trí thức nông cạn; chỉ ham mê vu nghiễn; ma thuật th́ làm sao mà Đồ thư có một xuất xứ rơ ràng đích xác được.
Duy có một điều gây thắc mắc cho chúng ta hiện nay là đứng trước sự hỗn loạn của các truyền thuyết đó; tại sao Hán nho như Khổng An Quốc; Lưu Hâm; vv…lại dám quả quyết Đồ xuất hiện ở sông Hà thời Phục Hy; Thư xuất hiện ở sông Lạc thời Hạ Vũ? Chính sự vơ đoán của Nho gia đầu tiên phát huy Dịch thuyết này đă gây nên những cuộc bàn căi sôi nổi; những lời phê b́nh chỉ trích kịch liệt của đời sau; nhất là khi hậu thế không thể tin ở truyền thuyết mà chỉ biết căn cứ vào lời của Khổng tử trong Dịch hệ thượng: “Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sông Lạc; đấng thánh nhân bắt chước theo đem ứng dụng”.
(C̣n tiếp)
Thiên Sứ
------------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 11 May 2005 lúc 11:02am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 5 of 33: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 10:15am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ ĐỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT
Tiếp theo
Kính thưa quí vị!
Qua đoạn trích dẫn trên của giáo sư Nguyễn Hữu Lượng; quí vị cũng thấy sự hỗn tạp và đầy mâu thuẫn trong các bản văn chữ Hán nói về Hà Đồ. Và chính giáo sư tác giả cũng bị cuốn hút vào mớ ḅng bong ấy; khi ông viết đoạn cuối:
“Trong Dịch Hệ thương:” Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sông Lạc…”.
Đây chính là lời của Khổng An Quốc và Lưu Hâm chú giải Dịch; chứ không phải ư nghĩa đích thực của câu này trong Hệ Từ của Kinh Dịch – mà ai cũng biết – chỉ vỏn vẹn là:
“Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi” .
Để kiểm chứng lại; ai là người đầu tiên đưa ư nghĩa “Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sông Lạc” có phải do đám Hán Nho đưa ra không; giáo sư tác giả đă viết:
Hán Nho có phải là người đầu tiên quả quyết như trên khiến hậu thế có người - Tiền Nghĩa Phương đời Nguyên – lên án họ là tội nhân của Dịch mà người đầu tiên chính là Khổng An Quốc: “Khổng An Quốc thành dịch chi tội nhân”.
Như vậy; với một ḿnh Tiền Nghĩa Phương chưa đủ bằng cớ chứng tỏ Lưu Hâm và Khổng An Quốc là người đầu tiên chú giải dịch một cách chủ quan. Giáo sư tác giả c̣n cẩn thận khảo sát tiếp:
Phải hay không ta chỉ cần xem chú giải của Từ Nguyên qua hai chữ Hà Lạc th́ rơ ngay:
Đây chú giải chữ Hà Đồ: “Khi vua Phục Hy làm vua thiên hạ; thấy con Long Mă mang tấm đồ xuất hiện trên sông Hoàng Hà bèn bắt chước những vằn nét của nó để vạch bát quái. Vằn nét của nó th́ 1; 6 ở dưới; 2;7 ở trên; 3 và 8 ở bên tả; 4 và 9 ở bên hữu; c̣n 5; 10 ở giữa. Hà Đồ c̣n là tên một bộ sách ghi những lời sấm truyền đời xưa; do người đời Minh biên tập trong sách Cổ Vĩ Thư. Sách này có nhiều thiên: Quát Địạ tượng; Thủy khai quan; Giáng tượng; Kế Hạ câu; Đế Lâm hy; Đĩnh Tá phụ; Hà đồ Ngọc bản; Long Ngư Hà Đồ ….Lại c̣n có Lạc Thư sấm gồm những thiên: Linh Hoài thỉnh; Trích lục tích; Lục Vân pháp…. Sách này cùng với sách Hà đồ phụ tá lẫn nhau; cho nên đời mới gọi là sách “Hà Lạc đồ sấm”. Sách này đă mất từ lâu. Có người cố sưu tầm lại ; nhưng c̣n thiếu sót rất nhiều. Tùy thư kinh tịch chí chép: Hà đồ 20 quyển; Hà đồ Long văn 1 quyển. Đời Lương; Hà đồ; Lạc thư có 24 quyển; mục lục một quyển. Cả hai đều nói: Những sách đó xuất hiện từ thời Tiền Hán; có Hà đồ 9 thiên; Lạc thư 6 thiên; rồi từ Hoàng đê`1 đến Châu Văn Vương lại có thêm 30 thiên khác nữa. Hai sách trên c̣n nói: Từ lúc sơ khởi đến Khổng Tử; những lời thêm pha vào 9 bậc thánh (?)được bọn tục nho lấy làm chuộng đem ra học hỏi khảo sát cho nên thiên mục ngày càng nhiểu măi. Đời Tống; đời Lương mới bắt đầu cấm. Tùy Dạng Đế c̣n cho t́m sách đốt đi; nếu ai phạm pháp sẽ bị xử tử. Từ đó những sách này mới không ai học nữa.
Và đây chú giải chữ Lạc Thư: “Vua Đại Vũ trị thủy thấy con thần qui mang chữ có nét trên lưng; đếm số từ 1 đến 9; bèn nhân đó xếp đặt thứ tự làm thành 9 trù. Những nét đó được bố trí như sau: Đầu đội 9; chân đạp 1; bên tả 3; bên hữu 7; đôi vai 2;4; đôi chân 6;8 và giữa số 5. Theo Hậu Hán thư ngũ hành chí nói về thiên Hồng Phạm của Chu Thư th́ từ trù 1 của Ngũ hành trở xuống có 65 chữ đều là bản văn của Lạc thư. Nhưng sách “Thư chính nghĩa” trưng dẫn thuyết của Lưu Hướng lại bảo 38 chữ là bản văn; và thuyết của Lưu Hâm th́ chỉ có 20 chữ là bản văn. Những thuyết của Hán nho đều bảo Lạc Thư có văn tự chứ không thấy nói tới đồ. Đại Đái Lễ chép Minh Đường cổ chế có những điểm 2; 9; 4; 7; 5; 3; 8; 6; 1. Đó là phép Cửu cung. Về sau bọn phương kỹ dựa vào đó để phụ họa mà làm Lạc Thư. Đám hậu Nho sau này cũng theo thuyết đó”
Nhờ chú giải của Từ Nguyên trên đây; ta có thể tin đám Hán Nho là người đầu tiên đă quả quyết: “Đồ xuất hiện ở sông Hà đời Phục Hy; Thư xuất hiện ở sông Lạc đời Hạ Vũ”. Từ đó đến nay; mỗi người h́nh như lặng lẽ chấp nhận một sự vơ đoán táo bạo của Hán nho không một phản ứng. Chẳng thế mà ngày nay các học giả Đông Tây; ai cũng đều cho sự kiện này như một sự kiện lịch sử hiển nhiên.
Như vậy; qua đoạn trích dẫn trên chúng ta đă nhận chân sự thật là: Huyền thoại Hà Đồ Lạc thư chỉ bắt đầu từ thời Hán. Chính văn Kinh Dịch / Hệ từ thượng chỉ viết:
“Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”.
Nhưng những luận điểm của Hán nho lại được coi là luận điểm chính thống về nguyên ủy của Hà đồ truyền tới ngày nay.
Bây giờ chúng ta tiếp tục tham khảo các luận điểm phản bác của chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa trong lịch sử phát triển của nền văn minh này qua các đoạn trích dẫn tiếp theo.
Tuy nhiên không phải ai cũng dễ tính như ai! Ngay trong làng Nho; thiếu ǵ người lên tiếng đả kích Hán nho; nhất là đả kích Khổng An Quốc. Du Diễm đời Tống căn cứ vào câu nói của Khổng Tử trong Dịch hệ thượng: “Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sống lạc; Đấng thánh nhân bắt chước theo” mà cho rằng Đồ Thư đều xuất hiện ở thời Phục Hy; chứ không phải hai thời khác nhau như họ Khổng chia ra. Ông nói: Phục Hy bắt chước Hà đồ; Lạc thư mà hoạch quái. Thế mà Khổng An quốc lại bảo Phục Hy hoạch quái phải bắt chước theo Hà Đồ; c̣n Đại Vũ bày cửu trù phải bắt chước Lạc Thư. V́ sao họ Khổng lại chia làm hai như vậy? Sách “Cửu kinh biện nghi” của họ Trần xét theo Ngọc xuyên văn tập có nói: “Nếu bảo Phục Hy hoạch quái gốc Hà đồ th́ Khổng Tử chỉ cần nói Đồ xuất hiện ở sông Hà; đấng thánh nhân bắt chước theo là đủ rồi. Hà tất phải nói gồm cả Lạc thư vào nữa làm ǵ? Đă nói: Bắt chước theo Đồ; Thư để làm Dịch th́ như thế Đồ ; Thư đều phải có từ thời Phục Hy; chứ sao lại phải đợi măi tới khi vua Vũ trị thủy sau này mới có Lạc Thư? Họ Du tiếp thêm: “Số của Dịch bất quá từ trời 1 đến Đất 10 chỉ có 55 số mà thôi; chứ chưa từng được mệnh danh là Hà đồ; cũng như chưa từng được mệnh danh là Lạc Thư. Thế mà Khổng An Quốc dám bảo “Thời Phục Hy có con Long Mă mang Đồ xuất hiện ở sông Hà; nhà vua thấy vậy bèn bắt chước theo để vạch Bát quái; gọi là Hà đồ; và thời Đại Vũ có con thần qui mang Thư xuất hiện ở sông Lạc; nhà Vua thấy vậy bèn nhân đó xếp đặt điểm số để lập thành cửu trù; gọi là Lạc Thư. Họ Khổng căn cứ vào đâu vậy?”.
Chưa hết; Du c̣n phê bác; chỉ trích nhiều điểm khác: “Thời vua Phục Hy chưa có văn tự. Nhà vua nhân những chấmcủa Hà Đồ; Lạc thư mà hoạch quái; chứ chẳng phải Đồ thư có những số trời sinh sẵn để cho ngài lấy dùng! Nếu Dịch Hệ từ nói: Ngửa trông tượng ở trên trời; cúi xem phép ở dưới đất; quan sát h́nh nét của chim muông cùng với sự thích nghi của đất; gần th́ lấy ở ḿnh; xa th́ lấy ở vật. Do đó mới vách Bát quái. Vậy th́ Phục Hy hoạch quái há chỉ riêng Hà đồ; Lạc thư thôi sao?”
“ Ngoài Dịch ra; không sách nào nói tới Lạc Thư . Thiên Vũ cống chỉ nói tới khơi sông Lạc chứ không nói tới Thư xuất hiện. Khổng An Quốc chú giải Hồng Phạm lấy Cửu trù làm Lạc thư; nên nói: Trời cho vua Vũ Lạc thư. Con thần qui mang Thư xuất hiện; nét chấm bày trên lưng; đếm số từ 1 đến 9. Nhà vua nhân đó xếp đặt điểm số để lập thành cửu trù. Nói như vậy; họ Khổng thực đă dùng số đội 9; đạp 1 của phép cửu cung trong Vĩ thư. Số Cửu cung là số của bọn thuật sĩ chứ đâu có phải số của Dịch! Trong sách Đại Đái Lễ; Minh Đường cổ chế có thuyết 2 – 9; 4 – 7; 5; 3 – 6;1 – 8. Họ Tŕnh chú giải việc bắt chước theo nét chấm; điểm của con rùa vốn bắt gốc từ thuyết họ Khổng. Trương Nam Hiên nói: Trinh Khang Thành say mê Vĩ thư; lấy Hà Đồ làm Bát quái; Lạc thư làm cửu trù. Đó chỉ là điều dơ dáy làm nhớp Thánh Kinh mà thôi. Theo thiển ư của kẻ ngu này; th́ Cửu trù mà Cơ tử tŕnh bày không phải Lạc thư. Nếu lấy Cửu trù của Hồng phạmcố ép làm Lạc thư th́ của Trung Dung cũng có thể cố ép làm Lạc thư được. Số Cửu cung mà Từ Hoa Tử; cũng như Kiền tạc độ đă nói đó;lúc đầu có ai biết số ấy là của Lạc thưvà cũng có ai lấy số ấy làm Hà đồ bao giờ đâu? Tô Đông Pha nói: Cửu cung chẳng có trong Kinh Dịch; bởi v́ số mà Vĩ thư nói đó không phải Dịch số. Chu Tử nói: Đấng thánh nhân nói số th́ nói một cách giản lược; cao xa; rộng răi. Số Cơ; số Ngẫu; từ Trời 1 đến Đất 10 là số tự nhiên; số Đại diễn là số đếm cỏ thi: Kinh Dịch chỉ có hai số đó mà thôi. Kẻ ngu này xin thưa: Nếu bỏ hai số đó ra th́ Dịch há chỉ c̣n lại có cái số gọi là số đội 9; đạp 1 nữa ư? Bọn Hán nho thực đă ghép bừa băi vào đó thôi!”
Tiền Nghĩa Phương đời Nguyên cũng lên tiếng đả kich Hán nho. Ông chê cả Chu Tử; v́ họ Chu đă nghe theo bọn Khổng An Quốc và Lưu Hâm đời Hán. Quốc và Hâm đều bào Phục Hy bắt chước Hà Đồ để vạch quái; hậu thế tin theo hết đời nọ sang đời kia mà chẳng biết tỉnh ngộ. Hiền tài như Chu Tử mà cũng không tránh khỏi quanh co khúc thuyết; cuối cùng cũng chẳng thông hiểu vấn đề!”
Đến cả Chu Tử vốn một tay kiệt hiệt trong làng Nho mà c̣n chẳng hiểu vấn đề. Thử hỏi những kẻ dung tài; lục lục thử bối; xa tải đấu lượng (Lúc nhúc như lũ chuột; đông đến nỗi lấy xe mà chở; lấy đấu mà đong cũng không hết) th́ c̣n hiểu được ǵ nữa?
Họ Tiền c̣n trách Khổng An Quốc lầm lẫn không phải chỉ có một đối với Dịch. Ông nêu ra luận về chế khí thượng tượng gốm 13 quẻ th́ lưới vó một việc do Phục Hy; giao dịch hai việc do Thần Nông và thư khế 9 việc là do Hoàng đế; Nghiêu; Thuấn. Những sự kiện này ghi chú hết sức phân minh; thế mà Khổng An Quốc khi viết tựa sách cho ḿnh lại đưa thư khế của Hoàng Đế; Nghiêu; Thuấn qua cho Bào Hy. Đức Khổng Tử c̣n nói: Bào Hy ngửa trông; cúi xét để vạch Bát quái; thế mà An Quốc dám bảo Bào Hy bắt chước Hà Đồ để vạch Bát quái! Lưu Hâm tin thuyết của Khổng An Quốc nên nối gót lư luận. Thực ra; An Quốc lầm ở trước; Lưu Hâm lầm ở sau; hậu thế tin theo; ngàn thu nhất luật! An Quốc chính là người có tội đối với Dịch!”
Sau khi kết án như vậy; Tiền Nghĩa Phương viện dẫn lời b́nh luận của Dương Tử Văn tức Dương Hùng về những kẻ “hồ ngôn loạn thuyết” này: “Họ nói lộn xộn; tạp nhạp có hại cho chư thánh”
Mặc dù có những Nho gia cao lời chỉ trích như trên; nhưng hậu thế vẫn vui ḷng chấp nhận sự vơ đoán của Hán nho. Phải chăng đó là do tính dễ dăi của đại chúng? Đại chúng dễ tính chỉ v́ đọa tính câu thúc hoặc v́ kém trí để t́m ṭi kê cứu th́ chẳng nói làm ǵ! Các nhà tri thức tên tuổi ở nhiều thời mà cũng chẳng có ư kiến đối nghịch nào th́ quả thật đáng chê trách. Thái Tây Sơn kể rằng: Truyện kư xưa nay cho rằng Khổng An Quốc; hai cha con Lưu Hướng và Ban Cố đều lấy Hà Đồ dành riêng cho Phục Hy; Lạc thư dành riêng cho Đại Vũ. C̣n Quan Tử Minh; Thiệu Khang Tiết th́ lại lấy số 10 làm Hà Đồ; lấy số 9 làm Lạc thư
Đối với Du Diễm; những Nho gia theo thuyết của An Quốc như Quan Tử Minh chẳng hạn; đều lầm cả! Ông công kích Tử Minh và Lưu Mục: Quan Tử Minh lấy số 55 làm Hà Đồ; lấy số 45 làm Lạc thư. Lưu Mục lại đổi ngược hai số; lấy 55 làm Lạc thư; lấy 45 làm Hà Đồ. Có thể nói lấy lầm lại đổi lầm vậy!
Tại sao Hán Nho lại lầm lẫn quá vậy?
Chỉ tại họ dùng “Vĩ thư” để chú giải kinh điển. Theo Từ Nguyên th́ “Vĩ thư” là một bộ sách dựa vào nghĩa của kinh điển để nói về bùa chú điềm mộng: “Bộ sách này gồm 7 loại: Dịch Vỹ; Thư Vỹ; Thi vỹ; Lễ Vỹ; Nhạc Vỹ; Xuân Thu Vỹ; Hiếu Kinh Vỹ. V́ sách có 7 loại nên c̣n gọi là “Thất Vỹ”. Sách nói Khổng Tử đă sáng tác; nhưng thực ra sách xuất hiện vào cuối thời Tây Hán. Cùng truyền với Vỹ Thư có “Hà Lạc đồ sấm”. Hán Quang Vũ vốn là người thích sấm vỹ; nên những sách này thịnh hành lắm. Đại Nho như Trịnh Huyền mà cũng đem ra chú giải. Do đó; Kinh Vỹ được đời rất trọng. Đến đời Tống; đồ sấm mới bị cấm. Tùy Dạng Đế sai người đi khắp nơi sưu tầm đem đốt đi. Những bản truyền ngày nay đều không đấy đủ.
Như vậy; Vỹ Thư vốn là một loại sách sấm kư; vu nghiễn; ít có điều xác thực đáng tin. Nó ghi lại những truyện truyền kỳ bí hiểm; thần thoại hoang đường. Ấy chính Vỹ Thư đă để lại biết bao điều sai bậy mà Du Diễm nêu ra để chỉ trích Hán Nho: “Vỹ Thư có hiều sai bậy; thế mà Hán Nho cho đó là sách của Khổng Tử nên dùng để chú giải Kinh Điển! Có thể nói là lấy bậy để tập bậy vậy!”
Vậy chủ trương của Du Diễm - kiện tướng số một chống Hán Nho – như thế nào? Ông không cho phép Hán Nho chia Hà đồ; Lạc thư ra làm hai thời khác nhau. Ông căn cứ vào câu nói của Khổng Tử trong Hệ từ để quyết rằng thánh nhân đây chỉ Phục Hy và Phục Hy đă lấy cả hai Đồ ; Thư để hoạch quái. Đối với ông ta; Đại Vũ không liên quan ǵ tới Lạc thư; và Lạc thư không xuất hiện ở thời Hạ Vũ. Ông nói: “Nay ta xét câu nói của Đại truyện: Đồ xuất hiện ở sông Hà; Thư xuất hiện ở sông Lạc; đấng thánh nhân bắt chước theo. Thánh nhân đây chỉ Phục Hy; Phục Hy khi hoạch quái lấy nguyên tắc từ ở Hà đồ và Lạc thư”
C̣n Tiền Nghĩa Phương - kiện tướng bậc nh́ chống Hán Nho - chủ trương của ông ra sao? Trong một cuộc phỏng vấn về lư do tại sao người xưa nói tới Hà Đồ liền nhắc luôn tới Lạc Thư mà riêng ông lại loại bỏ Lạc thư ra ngoài; th́ ông trả lời:” Hà đồ được vua Phục Hy lấy đem dùng đă hơn ngàn năm; rồi Lạc thư mới xuất hiện. Đức thánh ta (Khổng Tử) lấy cả hai; chẳng qua v́ hai việc Long Quy phụ văn xuất hiện ở hai sông Hà Lạc giống nhau. Đến khi đấng thánh nhân bắt chước đem dùng để khai sáng mọi vật; hoàn thành mọi việc th́ công dụng của chúng cũng giống nhau. Đó tức là lấy lư mà suy số. Hai việc ấy lại có thể tương thông nhau; cho nên ngài đều nói tới cả hai chứ không phải bảo cứ làm Dịch là phải lấy cả Lạc thư. V́ phát minh Dịch lư nên căn cứ vào Hà đồ chứ không căn cứ vào Lạc thư; đó là điều nên lắm.
Đến đời Minh; một người chủ chương dung ḥa xuất hiện. Đó là Hồ Cư Nhân. Ông chủ trương tương tự Du Diễm cho rằng: Đồ thư đều xuất hiện ở thời Phục Hy; nhưng không loại bỏ Lạc thư và Hạ Vũ ra ngoài như Tiền Nghĩa Phương. Ông nói: “Đồ và Thư đều xuất hiện ở đời Phục Hy. Đời thường nói: “Trời cho vua Vũ Hồng Phạm cửu trù”; phải chăng là đến thời vua Vũ; nhân v́ việc truyền bá Lạc Thư mà phải diễn cái nghĩa của nó thành Cửu Chương đại pháp; chứ chẳng phải đến thời vua Vũ Lạc thư mới xuất hiện. Hoặc có kẻ nói: “Cùng với Qui thư thông dụng ở đời vua Vũ; c̣n có Huyền khuê là điềm lành”. Nhân vua Vũ diễn ra để làm trù; nên nói: “Trời cho vua Vũ Hồng phạm cửu trù”; lại nói: “Vũ cho Huyền khuê; báo cáo sự thành công”.
Ai đúng? Ai sai? Ai phải? Ai trái? Thật khó trả lời. Một thời đại quá xa xôi; như thời đại Phục Hy; Hạ Vũ; không thể cho phép chúng ta khảo cứu tường tận được vấn đề. Hơn nữa; những sử liệu bác tạp rải rác khắp nới; thường chịu cái cảnh tam sao thất bổn; không thể có một sự chuẩn xác đáng tin cậy. Chấp nhận ư kiến của Hán Nho chỉ là sự bất đắc dĩ; mà phủ nhận những phản ứng của hậu nho lại là một điều chẳng nên. Nếu bảo:
“Từ những cuộc thảo luận nảy sinh ánh sáng” th́ trong trường hợp này; quả chưa có một ánh sáng nào khả dĩ phá tan được màn bí mật vẫn bao trùm nguồn gốc của Đồ Thư.
(C̣n tiếp)
Thiên Sứ
-------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 12 May 2005 lúc 10:29am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 6 of 33: Đă gửi: 13 May 2005 lúc 10:59am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ ĐỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT
Tiếp theo
Như vậy; qua phần trích dẫn trên; quí vị cũng nhận thấy một điều là:
Xuất xứ Đồ thư trong bản văn chữ Hán hết sức mơ hồ. Tất cả những luận điểm của Hán Nho và Hậu Nho tuy trải hàng Thiên niên kỷ; nhưng cho nay vẫn chưa hề có một sự sáng tỏ về bản chất đích thực của Đồ thư.
Nhưng sự bí ẩn này không chỉ dừng lại ở cội nguồn xuất xứ của hai đồ h́nh này mà c̣n là thời điểm xuất hiện của nó. Chính thời điểm xuất hiện của Đồ Thư trong lịch sử văn hóa Hán đă góp phần làm tối thêm sự huyền bí của văn hóa Đông phương và là nguyên nhân chính tạo ra các luận điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu hiện đại liên quan đến thuyết Âm Dương và Ngũ hành. Nhưng tại sao đám Hán Nho và Hậu Nho sau đó lại có thể tiếp tục tin vào những điều huyễn hoặc tạp loạn như vậy?
Theo người viết cho rằng: Đồ Thư không phải đơn giản chỉ thấy nói đến trong Kinh Dịch và những sách Sấm Vỹ. Mà nó c̣n được bảo chứng trong một câu nói nổi tiếng trong sách Luận Ngữ (Thiên Tử Hăn) vốn được coi là của Khổng Tử là:
“Phượng điểu bất tri; Hà bất xuất Đồ. Ngô dĩ hĩ phù”
Với câu này; hầu hết các sách tự cổ chí kim đều hiểu như sau:
“Không thấy chim Phượng Hoàng xuất hiện; chẳng thấy tấm đồ trên sông Hoàng Hà; ta không c̣n hi vọng nữa”.
Như vậy; cùng với Hệ từ trong Kinh Dịch - vốn được coi là của Khổng tử - th́ chính Luận Ngữ đă bào chứng cho hiện tượng con Long Mă trên sông Hoàng Hà một cách hợp lư trong tri thức của con người hơn 2000 năm trước; được bổ sung cho đến bây giờ! Sự hợp lư này cũng giống như sự hợp lư của trái Đất vuông trong tri thức của văn minh Âu Châu thời Trung cổ vậy.
Luận Ngữ và Hệ từ trong Kinh Dịch đều được coi là cùng do Khổng Tử viết. Khổng Tử lại được coi là người sáng lập Nho giáo; th́ đám Hậu Nho làm sao dám bác bỏ với cách hiểu như trên?! Tất nhiên; điều này đă làm cho vấn đề trở nên tạp loạn và huyễn ảo trải hàng thiên niên kỷ cho đến tận bây giờ. Xin quí vị tiếp tục xem những đoạn trích dẫn sau đây; trong sách: “Bí ẩn của Bát quái” (Nxb VHTT 1993. Giáo sư: Vương Ngọc Đức; Diêu Vĩ Quân; Trịnh Vĩnh Tường. Người dịch Trần Đ́nh Hiến; từ nguyên bản tiếng Hán do Nhân dân Quảng Tây xuât bản xă ấn hành); chứng tỏ điều này.
Sách viết:
Hà đồ Lạc thư là ǵ? Từ xưa đến nay có rất nhiều người thử t́m hiểu mong t́m ra câu giải đáp. Đă h́nh thành môn “Hà Đồ học”; nhưng chưa có ai giải đáp được câu hỏi này.
Trong thư tịch cổ; Thượng Thư; Cố mệnh là sách ghi chép sớm nhất về Hà Đồ. Chép rằng: Sau khi Văn Vương chết; tại trái nhà phía Đông có trưng bày Hà Đồ. Cố mệnh truyện gắn Hà Đồ với Bát Quái. Phục Hy cầm đầu thiên hạ; có con Long Mă nhô lên mặt nước; do đó; phỏng theo văn của nó mà vẽ Bát quái ; gọi là Hà đồ. “Xuân Thu vĩ” th́ tán thưởng: “Hà thông với Càn (Trời); nhô lên hoa thần; Lạc chảy vào Khôn (Đất) nhả Địa phù”. Ngay cả Chu Dịch; Hệ từ cũng chép: “Hà xuất đồ; Lạc xuất thư thánh nhân tác chi”.
Từ thời Hán đến thời Tống; luôn có những cuộc tranh luận về Hà Đồ Lạc thư. Đến khi Chu Hy biên soạn “Dịch học khởi mông” th́ mới có kết luận sơ bộ; c̣n như thời Tiên Tần có Hà đồ Lạc thư hay ko th́ vẫn là một câu hỏi”.
Trong sách “Chu Dịch và dự đoán học” ông Thiệu Vĩ Hoa viết:
Thuyết “Hà đồ” “Lạc Đồ” trong cuốn Thượng Thư của Tiên Tần. Luận ngữ của Mạnh Tử và trong Hệ từ đều có ghi lại. Nhưng “đồ “ và “thư” thực chất là cái ǵ; chưa có ai nh́n thấy; càng chưa thấy ai nói đến.. Trước thời Tống; không ít Dịch gia khi viết về Dịch; rất ít nói đến “Hà đồ” “Lạc đồ”; một vài người có nói đến th́ cũng chỉ lướt qua. Phong trào nói đến “Hà đồ” “Lạc thư” vào những năm Thái b́nh hưng quốc (Niên hiệu Tống Thái Tôn).”
Như vậy – mặc dù từ thời Hán – các đồ h́nh căn bản của lư học Đông phương như: Hà đồ; Lạc Thư; Tiên Thiên Bát quái; Hậu thiên Bát quái đều được nhắc tới theo cổ thư chữ Hán. Nhưng thời gian thực tế lại do các Đạo gia Thiệu Khang Tiết và Trần Đoàn công bố vào đời Tống cách đời Hán cả hàng ngàn năm. Qua các đoạn trích dẫn chứng minh ở trên; quư vị cũng nhận thấy tính bất hợp lư về tŕnh tự thời gian theo kiểu đèn cù trong sự xuất hiện các hiện tượng liên quan đến thuyết Âm Dương và Ngũ hành trong các bản văn chữ Hán: Chính v́ tính bất hợp lư đó đă khiến nhiều nhận xét và ư kiến khác nhau; thậm chí mâu thuẫn gay gắt; dẫn đến tự phủ định về lịch sử và nội dung của thuyết Âm Dương và Ngũ hành.
Điều rất đáng lưu ư với quí vị quan tâm là:
Qua các đoạn trích dẫn trên cho chúng ta thấy - Dù phản bác hay công nhận – th́ cả hai phe công kích nhau kịch liệt ấy đều mặc nhiên thừa nhận: Hà Đồ Lạc thư - căn nguyên của Kinh Dịch - thuộc về văn minh Hoa Hạ. Cuộc tranh luận bằng những “luận cứ” kiểu này với Hà Lạc; cũng giống như việc các giáo sĩ tranh luận xem các thiên thần đă dịch chuyển các v́ sao trên bầu trời trái Đất bằng cách nào. Nghe nói cuộc tranh luận của các giáo sĩ thời Trung Cổ về cách vận chuyển các v́ sao của các thiên thần; cũng rất ư là sôi nổi và không kém phần gay cấn. Người th́ bảo họ chở sao bằng xe ngựa; người căi lại th́ cho rằng họ vác sao trên lưng như nhà nông vác bao bột từ cối xay lúa; kẻ th́ nói thiên thần lăn sao trên trời như người ta lăn thùng rượu vậy….
Đương nhiên họ không thể t́m ra một cái đúng từ một căn bản sai lầm.
Vậy bản chất thật của Hà Đồ Lạc thư là cái ǵ? Trước khi chứng minh điều này từ văn minh Lạc Việt; xin quí vị tiếp tục t́m hiểu nội dung của Hà Đồ qua bản văn cổ chữ Hán.
Thiên Sứ
C̣n tiếp:
NỘI DUNG HÀ ĐỒ TRONG BẢN VĂN CỔ CHỮ HÁN
------------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 13 May 2005 lúc 11:08am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 7 of 33: Đă gửi: 14 May 2005 lúc 7:14am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ DỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT
(Tiếp theo
NỘI DUNG HÀ ĐỒ TRONG BẢN VĂN CỔ CHỮ HÁN
Trước thời Tần Hán; người ta không thể nào chứng tỏ được một bản văn miêu tả nội dung của Hà Đồ.
Ông Thiệu Vĩ Hoa đă viết trong cuốn "Chu Dịch và dự đoán học”; như sau:
“Thuyết “Hà đồ” “Lạc Đồ” trong cuốn Thượng Thư của Tiên Tần. Luận ngữ của Mạnh Tử và trong Hệ từ đều có ghi lại. Nhưng “đồ“ và “thư” thực chất là cái ǵ; chưa có ai nh́n thấy; càng chưa thấy ai nói đến”.
Đến đời Tống Hà Đồ Lạc Thư do Thiêu Ung (Tức Thiệu Khang Tiết) và Trần Đoàn mới công bố hai đồ h́nh này và Chu Hy kiến giải trong “Dịch học khởi mông” . Do đó; nội dung Hà đồ chỉ có thể t́m hiểu từ các trước tác của các nhà Lư học Tống Nho; mà tiêu biểu là Chu Hy; Tŕnh Di. Nhưng tinh hoa của những trước tác của hai vị này lại nằm trong cuốn “Chu Dịch Đại toàn” . Bởi vậy; những kiến giải về nội dung của cuốn sách này sẽ là những tri kiến tiêu biểu. Xin quí vị xem đoạn trích dẫn dưới đây trích trong sách "Kinh Dịch. Dịch giả Ngô Tất Tố. Nxb T/p HCM 1991/Trang 14.
Kinh Dịch là một pho sách rất cổ trong triết học sử Á Đông. Từ đời nhà Hán trở đi đến đời nhà Thanh; kể có hàng trăm học giả chú thích. Mỗi nhà chú thích tất nhiên có bộ sách riêng. Học thức hẹp ḥi như dịch giả (Tức Ngô Tất Tố. Người viết) ;cũng biết tên được vài chục bộ; lấy trí tưởng tượng mà đoán; số sách chú thích của các nhà Dịch học; ít ra cũng phải có hàng trăm bộ. Nguyên văn bản dịch này là bộ “Chu Dịch Đại toàn” của bọn Hồ Quảng và Kim Âu Tư vâng mệnh Thành Tổ nhà Minh mà soạn ra; nội dung gom góp hầu khắp các lời chú giải của tiên nho. Trong các kinh Dịch lưu hành từ trước đến giờ; bộ này đầy đủ hơn hết. Điều đáng nói là trong bộ Chu Dịch Đại toàn; soạn giả lấy hai cuốn Dịch truyện của Tŕnh Di và Chu Dịch bản nghĩa của Chu Hy làm phần chính; c̣n lời chú giải của các học giả khác chỉ là phần khảo cứu mà thôi…
Vậy các tiên Nho như Chu Hy… nói về nội dung Hà Đồ như thế nào. Xin quí vị tiếp tục xem đoạn trích dẫn sau đây:
* Đồ thuyết của Chu Hy
Hệ từ truyện nói:” Sông Hà hiện đồ;Sông Lạc hiện thư; thánh nhân bắt chước các thứ đó”; Lại nói: “Trời một; đất hai; Trời ba; đất bốn; Trời năm; đất sau; Trời bảy; đất tám; Trời chín; đất mười. Số của trời là năm; số của đất là năm”. Ngôi “năm” tương đắc với nhau mà số nào lại có sự hội họp của số ấy; th́ số của trời là 25; số của đất là 30. Cộng cả số trời đất là 55. Đó là cái để làm thành sư biến hóa mà thông hành với quỉ thần. Ấy là số của Hà Đồ…”
* Lời bàn của tiên nho
Khổng An Quốc nói rằng:
“Hà đồ là khi họ Phục Hy làm vua thiên hạ; có con Long Mă hiện ở sông Hoàng Hà; họ ấy bèn bắt chước cái vằn ấy của nó để vạch ra tám quẻ. Lạc thư là do vua Vũ chữa được nước lụt; có con rùa thần đội vằn; trên lưng có số tới 9; vua Vũ bèn nhân đó mà làm ra chín loài”.
Lưu Hâm nói: rằng:
“Họ Phục hy nối trời làm vua; nhận đồ sông Hà mà vạch ra tám quẻ. Vua Vũ chữa được nước lụt; trời ban cho Thư ở sông Lạc; vua ấy bắt chước thư đó xếp thành chín loại. Đó là chín trù”.
Quan Lăng nói rằng:
“Nét của Hà Đồ; bảy trước; sáu sau; tám ở tả; chín ở hữu. Nét của Lạc thư; chín trước; một sau; ba tả; bảy hữu; bốn tả đằng trước; hai ở phía hữu đằng trước; tám ở phía tả đằng sau; sáu ở phía hữu đằng sau”.
Thiệu Ung nói rằng:
“Tṛn là h́nh sao; số của lịch kỷ có lẽ gây từ đó chăng? Vuông là h́nh đất; những cách chia Châu; đặt “tỉnh” có lẽ phỏng theo đó chăng?
Bởi v́ tṛn là số của Hà Đồ; vuông là nét của Lạc Thư; cho nên vua Hy; vua Văn nhân đó mà làm ra Kinh Dịch; vua Vũ; ông Cơ theo đó mà làm ra thiên Hồng Phạm”.
Chu Hy nói rằng:
“Trong khoảng trời đất; chỉ có một vật là khí; chia làm hai th́ là Âm Dương; năm hành gây dựng; muôn vật trước sau đều bị cai quản trong đó. Cho nên ngôi Hà Đồ; một và sáu cùng tông mà ở về phía Bắc; hai và bảy làm bạn mà ở về phía Nam;ba và tám đồng đạo mà ở về Đông;; bốn và chín thành lứa mà ở về Tây; năm và mười giữ lẫn cho nhau mà ở chính giữa. Nghĩa là cái số của nó chẳng qua chỉ có một Âm ; một Dương; một lẻ; một chẵn để làm gấp đôi năm hành mà thôi.
Gọi là trời tức là khí Dương nhẹ trong; ngôi ở bên trên. Gọi là đất tức là khí Âm nặng đục; ngôi ở phía dưới. Số Dương lẻ nên 1;3;5;7;9 đều thuộc về trời. Đó là số của trời có 5. Số Âm chẵn; cho nên 2;4;6;8;10 đều thuộc về đất. Đó là số của đất có 5. Số của trời và số của đất; đằng nào theo loại đằng ấy; mà cũng t́m nhau. Ngôi “năm” tương đắc với nhau v́ thế.
Trời lấy số 1 mà sinh hành Thủy; đất lấy số 6 mà làm cho thành.(*) Đất lấy số 2 mà sinh hành Hỏa; trời lấy số 7 mà làm cho thành. Trời lấy số 3 mà sinh hành Mộc; đất lấy số 8 mà làm cho thành. Đất lấy số 4 mà sinh hành Kim; trời lấy số 9 mà làm cho thành. Trời lấy số 5 mà sinh hành Thổ; đất lấy số 10 mà làm cho thành. Đó là “Các số đều có hợp nhau”.
“Chất 5 số lẻ thành 25; chất 5 số chẵn thành 30. Hợp cả hai sô thành 55; tức là toàn số của đồ sông Hà. Đó là ư của Phu tử và thuyết của chư nho.”
“Đến như Lạc Thư; tuy là Phu tử chưa hề nói tới; nhưng tượng và thuyết của nó đă có đủ ở trên đây.
Có người hỏi rằng:
“Tại sao ngôi và số của Hà Đồ/ Lạc Thư lại không giống nhau?”.
Đáp rằng:
“Hà Đồ dùng năm số sinh tóm năm số thành cùng ở một phương; ấy là nêu cái toàn h́nh để bảo người ta mà nói về thể của số thường. Lạc Thư dùng năm số lẻ tóm bốn số chẵn; mà số nào ở riêng chỗ của số ấy; đó là chủ về “Dương để tóm Âm” mà gây cái dụng của số biến.
Lại hỏi:
“Tại sao Hà Đồ Lạc Thư lại có số 5 ở giữa?
Đáp rằng:
“Các số lúc đầu chỉ là một Âm một Dương mà thôi. Tượng của Dương tṛn; tṛn th́ đường kính một phần; chu vi ba phần. Tượng của Âm vuông; vuông th́ đường kính một phần chu vi bốn phần. Chu vi ba phần th́ lấy số một làm “một”(**); cho nên nhân với một Dương mà thành ra ba. Chu vi bốn phần th́ lấy số hai làm “một” cho nên nhân với một Âm mà thành ra hai. Đó là nhân ba với Trời; nhân hai với Đất vậy. Hai và ba hợp lại th́ thành ra năm; v́ vậy Hà Đồ Lạc Thư đều lấy số năm làm giữa. Nhưng mà Hà Đồ th́ lấy số sinh làm chủ; cho nên giữa phải là năm; cho đủ tượng của năm số sinh. Một chấm ở dưới là tượng số một của trời; một chấm ở trên là tượng số hai của đất; một chấm phía tả là tượng số ba của trời; một chấm phía hữu là tượng số bốn của đất; một chấm chính giữa là tượng số năm của trời. Lạc thư th́ lấy số lẻ làm chủ; cho nên ở giữa phải là năm cho đủ các tượng của năm số lẻ: Một chấm ở dưới cũng tượng số một của trời; một chấm phía tả cũng tượng số ba của trời; một chấm chính giữa cũng tượng số năm của trời; một chấm phía hữu là tượng số bảy của trời; một chấm ở trên tượng số 9 của trời. Số và ngôi của hai thứ đó có ba chỗ giống nhau; hai chỗ khác nhau là v́ Dương không thể đổi mà Âm th́ có thể đổi; số thành tuy thuộc về Dương nhưng cũng là Âm của số sinh vậy.
Lại hỏi:
“Năm ở chính giữa đành là tượng của năm số; thế c̣n cái số của nó th́ sao?
Đáp rằng:
“Nói về số th́ suốc trong một “đồ” đều có những số đích thực để ghi chép. Nhưng 1; 2; 3; 4 đều ở bên ngoài phương chốn của năm tượng và 6; 7; 8; 9 th́ lại nhân có số 5 mà được cái số của nóđể phủ bên ngoài số “Sinh”.. Một; ba; bảy; chín của Lạc Thư cũng đều ở bên ngoài phương chốn của 5 tượng; mà hai; bốn; sáu; tám lại số nào nhân loại của số ấy để phụ vào cạnh số lẻ. Bởi v́ ở trong là chủ mà ở ngoài là khách; ở giữa là vua mà ở bên cạnh là tôi; đều có ngành ngọn mà không thể trái lẫn.
Lại hỏi:
“Bên nhiều bên ít là cớ làm sao?”
Đáp rằng:
“Hà đồ chủ về hoàn toàn; nên nó cùng cực đến số 10; mà ngôi lẻ; ngôi chẵn của nó đều xét về sự tích thực th́ sau mới thấy chẵn thừa mà lẻ thiếu. Lạc Thư chủ về biến đổi; nên nó cùng cực đến số 9 mà ngôi vị và thực chất của nó đều lẻ thừa mà chẵn thiếu (***). Ắt đều để trống chỗ giữa rồi sau số của Âm Dương mới đều hai mươi.”
Lại hỏi:
“Thứ tự của nó không giống nhau sao?”
Đáp rằng:
“Hà đồ nói về thứ tự sinh ra th́ bắt đầu từ dưới lên trên; đến tả; đến hữu; vào giữa rồi lại bắt đầu từ dưới. Nói về thứ tự vận hành bắt đầu từ Đông; đến Nam; đến giữa; đến Tây; đến bắc theo phía tả mà xoay một ṿng rồi lại bắt đầu từ Đông. Trong các số sinh ở trong: Số Dương ở dưới bên tả; số Âm ở trên về phía hữu. Trong các số thành ở ngoài: Số Âm ở dưới về phía tả; số Dương ở trên về phía hữu. Thứ tự Lạc Thư th́ số Dương bắt đầu từ Bắc đến Đông; đến giữa; đến Tây; đến Nam. Số Âm bắt đầu từ TâyNam; đến Đông Nam; đến Tây Bắc; đến Đông Bắc. Hợp lại mà nói th́ bắt đầu từ Bắc; đến Tây Nam; đến Đông; đến Đông Bắc cuối cùng ở Nam. C̣n vận hành của nó th́ Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ theo phía hữu mà xoay một ṿng rồi Thổ lại khắc Thủy. Hai thứ đều có thuyết cả”.
Lai hỏi:
“Tại sao những số 6; 7; 8; 9 của hai thứ lại không giống nhau?
Đáp rằng:
“Các số 6; 7; 8; 9 của Hà Đồ đă phụ bên ngoài số sinh rồi. Đấy là phần chính của Âm Dương: Già trẻ; tiến lui thừa thiếu. Số chín của nó tức là mấy số 1; 3; 5 trong số Sinh tích lại mà thành ra.; cho nên nó phải từ Bắc sang Đông; từ Đông sang Tây để làm thành phía ngoài của số 4. Số 6 của nó tức là hai số 2; 4 trong số Sinh tích lại mà thành ra. Cho nên nó phải từ Nam sang Tây; từ Tây sang Bắc để làm cho thành phía ngoài của số 1. Số 7 tức là số 9 từ Tây sang Nam; số Tám tức là số 6 từ Bắc sang Đông. Đó lại là sự biến đổi của các số Âm Dương; già trẻ đắp đổi ở “nhà” của nhau(*). Lạc thư ngang dọc 15 mà 7; 8; 9; 6 đắp đổi tiêu; lớn bỏ trống số 5; chia sẻ số 10; mà số 1 ngậm số 9; số 2 ngậm số 8; số 3 ngậm số 7; số 4 ngậm số 6; số 5; 3 lộn góp tới đâu cũng gặp số hợp(*); v́ vậy sự biến hóa vô cùng mới thành ra sự mầu nhiệm.”….
Xem đến đây; người viết tuy tài hèn; trí thiển nhưng ko thể tránh khỏi ngán ngẩm mà than rằng:
Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng đă viết:
”Hiền tài như Chu Tử mà chẳng tránh khỏi quanh co khúc thuyết”.
Phải chăng đây chính là một đoạn khúc thuyết của ông Chu Hy khi nói về Hà Đồ!
Nhưng nếu sự trích dẫn không đầy đủ th́ e rằng có người khó tính sẽ hoài nghi chăng? Bởi vậy nên người viết xin được tiếp tục trích dẫn sự lư giải quanh co khúc thuyết nhàm chán này. Xin quí vị vui ḷng lượng thứ.
(C̣n tiếp)
Thiên Sứ
--------------------------
Chú Thích (Trong sách đă dẫn):
* Hoàng Miễn Trai chua rằng: “Từ 1 đến 10 chỉ nói về sự nhiều ít của số lẻ; chẵn; không phải nói về thứ tự. Trời được số lẻ mà làm ra nước. Cho nên nói rằng: “Số 1 sinh hành Thủy. Số 1 cùng cực th́ thành số 3; cho nên nói rằng: “Số 3 sinh hành Mộc”. Đất được số chẵn mà làm ra Lửa; cho nên nói rằng: “Số hai sinh ra hành Hỏa”. Số 2 cùng cực th́ thành số 4; cho nên nói rằng: “Số 4 sinh ra hành Kim”. Sao lại là vậy? Là v́ dùng một cạnh mà vặn cho tṛn th́ thành 3 cạnh; thế là số một cùng cực th́ thành số 3; dùng hai cạnh mà bẻ cho vuông th́ thành bốn cạnh; thế là số 2cùng cực th́ thành số 4….Số 6 hoàn thành hành Thủy cũng giống như tượng quẻ Khảm; một hào Dương ở giữa; tức là số trời 1 sinh Thủy; số 6 của Đất bao bọc bên ngoài. Dương ít; Âm nhiều th́ Thủy mới thịnh. Số 7 hoàn thành hành Hỏa cũng giống như tượng quẻ Ly; một hào Âm ở giữa tức là số 2 của Đất sinh hành Hỏa; số 7 của trời bao bọc bên ngoài. Âm ít Dương nhiều th́ Hỏa mới thịnh. Khảm thuộc về Dương; Ly thuộc về Âm; ở trong là cái để sinh; ở ngoài là cái để làm cho thành.
* * Số để sinh sản.
*** Hà Đồ số chẵn thừa mà lẻ thiếu; tức là số Trời 25 (5x5); số Đất 30 (5x6). Lạc Thư lẻ thừa mà chẵn thiếu; tức là số trời 25 (5x5); số Đất 20 (5x4). Hà Đồ để trống số 15 ở giữa;Lạc thư để trống số 5 ở giữa th́ số của Âm Dương đều đúng 20. Chu Hy chua vậy.
------------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 14 May 2005 lúc 7:26am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 8 of 33: Đă gửi: 22 May 2005 lúc 7:08am | Đă lưu IP
|
|
|
* Chú thích trong sách đă dẫn
(Tiếp theo):
Chu Hy nói rằng: Ngôi của Lăo Dương (Số Dương già tức là Thái Dương) ở số 1; ngôi của Lăo Âm (Số Âm già tức Thái Âm) ở số 4. Nay Hà Đồ để số 9 của Lăo Dương ngoài số 4; mà số 6 của Lăo Âm th́ lại ngoài số 1. Đó là Lăo Âm; Lăo Dương ở lẫn nhà nhau. Ngôi của Thiếu Âm (Số Âm non) ở số 2; ngôi của Thiếu Dương (Số Dương non) là ở số 3; mà Hà Đồ lại để số 8 của Thiếu Âm ngoài số 3; Số bảy của Thiếu Dương th́ lại ở ngoài số 2. Đó là Thiếu Âm; Thiếu Dương ở lẫn nhà nhau.”
* Hồ Ngọc Trai chua rằng: “ Lạc thư tuy là ngang dọc có số 15; thật ra đều là những số 7; 8; 9; 6 đắp đổi tiêu lớn: Số 1 được 5 thành 9; mà đăp đổi tiêu lớn với số 9 ở phương Nam. Số 4 được 5 thành 8 mà đắp đổi tiêu lớn với số 7 ở phương Tây. Số 2 được 5 thành 7 mà đắp đổi tiêu lớn với số 8 ở Đông Bắc. Những số tiến lên là lớn; lui đi là tiêu. Số lớn đă lui th́ phải tiêu đi; số tiêu đă tiến th́ phải lớn lên.Sáu tiến đến 9 th́ 9 lớn mà 6 tiêu; 9 lui làm sáu th́ 9 tiêu mà 6 lại lớn; 7 tiến làm 8 th́ 8 lớn mà 7 tiêu; 8 lui làm 7 th́ 8 tiêu mà 7 lại lớn. “Bỏ trống số 5; chia sẻ số 9” nghĩa là đem số 5 ở giữa mà trừ đi các số ở ngoài th́ các bề nganh; bề dọc chỉ c̣n 10. Đem số 10 ấy mà chia sẻ đi th́ 9 là số thừa của 1 trừ 10; 8 là số thừa của 2 trừ 10; 7 là số thừa của 3 trừ 10; 6 là số thừa của 4 trừ 10. Thế là “3; 5 lộn góp; tới đâu cũng gặp số hợp”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 9 of 33: Đă gửi: 22 May 2005 lúc 7:10am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính Thưa quí vị!
Sự trích dẫn dưới đây là sự tiếp tục của đoạn trên trong sách đă dẫn; để quí vị tham khảo về nhận xét về nội dung Hà Đồ của các nhà lư học Hoa Hạ.
Lại hỏi: “Thế th́ thánh nhân bắt chước hai cái h́nh đó ra sao?”
Đáp rằng: “Hà Đồ th́ bỏ trống ở giữa; Lạc thư th́ tóm thực tượng . Hà Đồ bỏ trống số 5 và 10; đó là Thái cực; số lẻ 20; số chẵn 20; đó là hai nghi. Lấy 1; 2;3;4 làm 5; 6; 7; 8; đó là tứ tượng;.Chia số hợp của bốn phương để làm Kiền; Khôn; Ly; Khảm. Bù chỗ trống của bốn góc để làm Đoài;Chấn;Tốn; Càn. Đó là 8 quẻ (*). (Tức Tiên thiên bát quái phối với Hà Đồ. Thiên Sứ)
Thực tượng Lạc Thư th́: Một là Ngũ hành; hai là Ngũ tự; ba là Bát chính; bốn là Ngũ kỷ; năm là Hoàng cực; sáu là Tam đức; bày là Kê nghi; tám là Thứ trưng; chín là Phúc cực. Ngôi và số của nó càng rơ rệt lắm.
…………………..
* Chú thích trong sách đă dẫn: Chu Hy chua rằng: Đem h́nh Tứ tượng mà xem th́ Thái Dương ngôi ở một mà số là 9. Kiền được số ấy; Đoài được ngôi ấy cho nên Kiền là 9 mà Đoài là 1. Thiếu Âm ở ngôi hai mà số là 8; Ly được số ấy mà Chấn được ngôi ấy; cho nên Ly là 8 mà Chấn là 2. Thiếu Dương ở ngôi 3 mà số là 7; Khảm được số ấy; Tốn (Có thể là Cấn; sách in sai) được ngôi ấy; cho nên Khảm là 7 mà Tốn là 3. Thái Âm ngôi ở bốn mà số là 6; Khôn được ngôi ấy; Tốn được số ấy; cho nên Khôn là 6 mà Tốn là 4. Nay chia số hợp của 6; 7; 8; 9 để làm Kiền; Khôn; Ly; Khảm mà để vào bốn ngôi chính; theo thứ tự của 1; 2; 3; 4 để làm Chấn; Đoài: Tốn; Cấn bù vào chỗ trống của bốn góc.
Lại hỏi: Lạc thư mà nếu bỏ trống số 5 ở giữa th́ tức cũng là 20; cũng là hai nghi; chiều ngang là Thái cực; lẻ chẵn ngang dọc đều 15; có thể đắp đổi làm ra 7; 8; 9; 6 cũng là tứ tượng; bốn phương chính cũng để làm Kiền; Khôn; Ly ; Khảm; bốn góc chéo để làm Đoài ; Chấn; Tốn; Cấn th́ cũng là 8 quẻ. Hà Đồ 1; 6 là Thủy; 2; 7 là Hỏa; 3; 8 là Mộc; 4; 9 là Kim; 5; 10 là Thổ th́ vẫn là năm hành của thiên Hồng phạm; mà số 55 lại là mục con của chín trù. Thế th́ Lạc thư vẫn có thể làm ra Kinh Dịch; mà Hà Đồ vẫn có thể làm ra Hống Phạm. Biết đâu “Đồ” không là “Thư”; “Thư” không là “Đồ”?
Kính thưa quí vị! Sở dĩ có câu hỏi này v́ sự lư giải mập mờ; khúc thuyết của ông Chu Hy; xuất phát từ sự không hiểu biết bản chất của Hà đồ; Lạc thư. Bởi v́ với cách giải thích (Chứ không phải chứng minh) của ông Chu Hy th́ hiện tượng Đồ và Thư không có sự phân biệt về nội dung. Bây giờ chúng ta tiếp tục quán xét xem ông Chu Hy trả lời câu hỏi này như thế nào?
Đáp rằng: Thời đại tuy có trước sau; số mục tuy có nhiều ít; nhưng lư của nó chỉ có một. Có điều Kinh Dịch là do vua Phục Hy được Hà đồ trước; không cần đợi đến Lạc thư. Thiên Hống phạm là do vua Vũ được riêng ở Lạc thư không cần nhắc lại ở Hà đồ. Vả lại đem Hà Đồ bỏ trống số 10; tức là sô 45 của Lạc thư;bỏ trống số 5 tức là số 50 của phép Đại Diễn. Cộng 5 với 10 là số ngang dọc 15 của Lạc Thư. Đem 5 nhân 10; đem 10 nhân 5 lại đều là số Đại Diễn. Lạc thư th́ 5 lại tự ngậm 5 th́ được 10; cũng thông nhau với số của phép Đại diễn. Cộng 5 với 10 th́ được 15 cũng thông nhau với số Hà đồ. Nếu rơ lẽ đó th́ dù ngang tréo; cong; thẳng không cách nào không thông. Hà Đồ với Lạc thư há có trước sau; kia nọ khác nhau?
Như vậy; qua cách trả lời của ông Chu Hy th́ có lẽ chính ông cũng chẳng hiều ḿnh đang nói ǵ! Những đoạn trích dẫn tiếp theo là của Âu Dương Tu - một danh nho đời Tống – trong sách đă dẫn để quí vị tham khảo những ư kiến khác nhau của các nhà Lư học cổ Hoa Hạ.
Cho Hà đồ Lạc thư là không đủ tin; từ ông Âu Dương trở lại đă có thuyết ấy. Nhưng mà ở thiên Cố mệnh; thiện Hệ từ và sách Luận ngữ đều có nói thế cả và cái số trong hai đồ của chư Nho truyền lại tuy có na ná giống nhau; nhưng không sai trái với nhau. Tính xuôi; suy ngược; ngang dọc; cong thẳng đều có phép tắc rơ ràng không thể phá bỏ đi được. Cũng như Hà đồ từ số 1 của Trời đến số 10 của Đất hợp lại thành số 55 của Trời Đất th́ Kinh Dịch chính ở đó mà ra. Lạc thư từ thứ 1 đến thứ 9 hợp lại đủ số của chín trù th́ thiên Hồng Phạm vẫn do ở đó mà ra. Thiên Hệ từ tuy không nói rơ vua Phục Hy nhận Hà Đồ làm kinh Dịch (Theo sách chữ Hán th́ vua Phục Hy căn cứ vào Hà Đồ làm ra Tiên Thiên Bát quái/Thiên Sứ) ; nhưng ở đó có nói việc :”Ngửa xem; cúi xét; nghiệm gần; nghiệm xa”; th́ biết đâu Hà Đồ chẳng là một việc trong các việc đó? Đại để nguyên do chế tác của thánh nhân; không phải chỉ có một chiều; xong cái khuôn khổ của Pháp tượng chắc phải có chỗ rất quan hệ. Như đời Hồng Mông; khoảng giữa trời đất; khí của Âm Dương đều có tượng; nhưng m2 chưa từng có số. Đến khi Hà Đồ hiện ra; rồi sau cái số 55; hoặc lẻ; hoặc chẵn; hoặc sinh; hoặc thành rơ ràng có thể trông thấy; cái đó là để mở mang trí riêng của thánh nhân; không thể đem ví với những khí tượng mênh mang. V́ vậy; thánh nhân :ngửa lên mà xem; cúi xuống mà xét; gần nghiệm ở ḿnh; xa nghiệm ở vật” tời đó mà sau những sự Âm Dương chẵn lẻ của hai nghi; tứ tượng; tám quẻ có thể nói rơ ra được. Thiên Hệ từ nói về nguyên do thánh nhân làm ra Kinh Dịch; tuy không phải là một điều; nhưng bảo nhờ có Hà Đồ rồi sau việc làm ra Kinh Dịch mới quyết cũng không hại ǵ”.
Như vậy; qua các đoạn trích dẫn trên về “Nội dung Hà đồ trong cổ thư chữ Hán” cho thấy: Những nhà Lư học Hán nho – trải hàng ngàn năm – hoàn toàn vẫn rất mơ hồ về nội dung của Hà đồ và Lạc thư. Với những tri kiến của một nền văn minh thời Trung cổ; họ vẫn phải chấp nhận một xuất xứ huyền bí từ trên lưng con Long mă hiện trên sông Hoàng Hà và một sự lư giải quanh co qua nhận thức thực tế h́nh tượng của Hà đồ được lưu truyền trong dân gian. Họ không thể lư giải được bản chất thật của Hà đồ Lạc thư và tính ứng dụng trên thực tế của hai đồ h́nh này trong Lư học Đông phương. Cho đến tận ngày hôm nay; các nhà nghiên cứu vẫn cứ phải lặp đi lặp lại rằng: “Hà Đồ là đồ h́nh do con Long Mă hiện trên sông Hoàng Hà” và “Lạc thư từ trên lưng con thần qui hiện lên ở sông Lạc Thủy”. Tất nhiên; với quan niệm như vậy; nền văn minh kỳ vĩ của Đông phương vẫn ch́m sâu trong sự huyền bí và vẫn như đang thách đố trí tuệ của con người.
(C̣n tiếp)
Thiên Sứ
--------------------------
Tám nẻo sông Ngân sao lấp lánh.
Một vầng trăng nước sóng chơi vơi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 10 of 33: Đă gửi: 22 May 2005 lúc 7:12am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ ĐỒ VỚI CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU HIỆN ĐẠI
Có thể nói rằng:
Trước khi nền văn minh Lạc Việt vào cuộc; tất cả các luận điểm về Hà Đồ và Lạc thư đều mơ hồ; huyễn hoặc. Điều chứng minh rất đơn giản là: Người ta không thể nào t́m ra một cái đúng từ một cái sai – Hà đồ và Lạc thư không thể bắt đầu từ trên lưng con Long Mă và Rùa thần. Người ta sẽ không thể t́m được bản chất của Hà đồ và Lạc thư từ sai lầm rất căn bản đó. Nhưng đấy cũng chưa phải nguyên nhân chính yếu. Bởi v́ – nếu vấn đề chỉ dừng lại ở sự huyền bí huyễn hoặc cho xuất xứ của Đồ; Thư – th́ trong hơn 2000 năm kể từ khi văn minh Lạc Việt sụp đổ; những nhà nghiên cứu Hoa Hạ cũng có thể t́m ra bản chất của hiện tượng Hà Đồ. Sự bí ẩn của Hà đồ chính là ở chỗ: Không hề có một bản văn cổ chữ Hán nào nói đến sự ứng dụng của Hà đồ trong Lư học cổ Đông phương. Ngoại trừ người ta cho rằng:
“Vua Phục Hy căn cứ vào Hà đồ để lập ra Tiên thiên Bát quái” một cách rất mơ hồ. Sự mơ hồ này khiến chính nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê cũng phải viết trong cuốn sách nổi tiếng của ông – "Kinh Dịch - Đạo người quân tử" – như sau:
Sao hai h́nh đó (Hà đồ và Lạc thư/ Thiên Sứ) giống nhau thế: Số Dương lẻ đều là 25; ở giữa đều có số 5; những ṿng tṛn giống hệt nhau mà sao h́nh bên phải (Lạc Thư/Thiên Sứ) không gọi là Đồ như h́nh bên trái lại gọi là Thư? Nhất là so sánh những h́nh đó với h́nh Bát quái th́ dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ h́nh đó được”.
Bởi vậy; mặc dù có rất nhiều cố gắng; những nhà nghiên cứu cổ kim chỉ có thể có những phát hiện qua h́nh thức của nó với những hiện tượng tương quan (Đă trích dẫn) và không thể t́m thấy bản chất của Hà Đồ và Lạc thư.
Sự bí ẩn của Hà Đồ Lạc thư không phải là điều được chú ư mới vài chục; vài trăm năm mà đă trải hàng thiên niên kỷ.
Do đó; mặc dù những phương pháp ứng dụng của Lư học Đông phương tỏ ra có hiệu quả trên thực tế; nhưng sự t́m hiểu về các nguyên lư Lư học Đông phương qua các bản văn chữ Hán cổ đă hoàn toàn bế tắc. Bởi v́: Một tiền đề căn bản của nền Lư học Đông phương là Hà Đồ vẫn c̣n ch́m trong huyền bí; từ đó kéo theo một hệ thống lư thuyết cần có – là nguyên nhân của phương pháp luận Âm Dương ngũ hành trên thực tế ứng dụng – ch́m trong huyễn ảo. Điều này làm cho tất cả những phương pháp ứng dụng của học thuật cổ Đông phương; như: Thiên văn; địa lư (Phong Thủy); Tử vi …và cả y thuật... đều cứ như từ trên trời rơi xuống mà chẳng biết sở cứ vào đâu. Từ những đoạn trích dẫn tiêu biểu ở trên – với khoảng cách trải hàng thiên niên kỷ từ ngàn xưa đến hiện đại – tôi nghĩ rằng: Hoàn toàn đủ cơ sở để đi t́m một hướng khác cho việc mở cánh cửa bí ẩn của nền Lư học Đông phương.
Để giải mă sự huyền bí Đông phương; người viết cho rằng: cần có sự lựa chọn đúng về cội nguồn xuất xứ và phương pháp hợp lư. Cả hai vế trên: Côi nguồn & một phương pháp hợp lư đều là hai yếu tố cần yếu bổ xung cho nhau; không thể thiếu một trong hai yếu tố này.
Cội nguồn của nền Lư học Đông phương là Hà Đồ th́ ngay từ những bài viết đầu tiên trên website tuvilyso; tôi luôn khẳng định thuộc về nền văn hiến trải gần 5000 của người Lạc Việt một thời kỳ vĩ ở miền nam sông Dương Tử. Tức là một vế của tiêu chí trên đă được xác định trong tiểu luận này và sẽ được tiếp tục minh chứng tiếp theo trong các bài viết dưới đây.
Như vậy; một điều kiện của tiêu chí đă được xác định; phần c̣n lại là sự lựa chọn một phương pháp hợp lư.
Không phải bây giờ mà đă trải hàng thiên niên kỷ cho sự huyền bí kỳ vĩ của văn minh Đông phương. Đă có quá nhiều luận chứng và tiêu chí thể hiện trong sự cố gắng khám phá những bí ẩn của nền văn minh này.
Nhưng tôi có thể khẳng định rằng:
Dù bạn nhân danh bất cứ một phương pháp luận nào; kể cả Thượng đế; hoặc một tri thức trực cảm tâm linh th́ chân lư luôn là duy nhất.
Đức Phật đă dạy:
“Có tám vạn bốn ngàn Pháp môn; tất cả đều tới vô thượng chánh đẳng giác”
Ngay trong Kinh Thánh:
“Thượng Đế là chí tôn (Duy nhất)
Trong ngạn ngữ phương Tây; điều này được mô tả là:
“Tất cả các con đường đều tới La Mă”.
Hoặc gần đây hơn; giáo sư Trịnh Xuân Thuận phát biểu:
“Toàn bộ vũ trụ được chứa trong một hạt cát. Bởi v́ giải thích những sự kiện dù đơn giản nhất cũng phải viện dẫn đến toàn bộ lịch sử vũ trụ”.
Như vậy:
* Chính v́ tính duy nhất đó của chân lư mà mọi sự liên hệ giữa các hiện tương phải hợp lư. Do đó; hợp lư chính là tiêu chuẩn thứ nhất của chân lư; mặc dù chưa phải chân lư. Nhưng không bao giờ có chân lư mà lại không bao hàm tính hợp lư.
* Chính v́ tính duy nhất đó của chân lư nên dù bạn nhân danh bất cứ một phương pháp luận nào th́ phải có tính hoàn chỉnh và nhất quán.
* Chính v́ tính duy nhất đó của chân lư mà mọi hiện tượng đều phải có mối quan hệ tương tác:
Phải viện dẫn đến toàn thể vũ trụ).
Trên cơ sở sự biện minh này; th́ dù nhân danh bất cứ một phương pháp luận nào trong lịch sử tri thức của nhân loại; tính hợp lư vẫn là một trong những tiêu chuẩn của chân lư. Trong các bản văn cổ chữ Hán không có tính hợp lư cho mối quan hệ giữa các hiện tượng và vấn đề mà nó đă nêu ra.
Như vậy; cho dù có thừa nhận Long Mă và Thần Qui là những con vật có thật; đă từng hiện ra ở sông Hoàng Hà và Lạc Thủy mang trên nó h́nh ảnh Đồ Thư; th́ hiện tượng đó cũng không nói lên được điều ǵ; cũng đủ chứng tỏ tính bất hợp lư của nó.
Cũng trên cơ sở của những vấn đề đặt ra về một tiêu chí cho việc khám phá những bí ẩn của văn minh Đông phương; người viết căn cứ vào tiêu chí khoa học hiện đại sau đây:
Một giả thiết khoa học được coi là đúng; phải giải thích một cách hợp lư hầu hết các hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách hoàn chỉnh và nhất quán; phải có tính hệ thống; tính khách quan; tính quy luật với khả năng tiên tri.
Từ cơ sở tiêu chí cho những lư thuyết khoa học này; người viết nhận xét thấy rằng:
Hầu hết những giả thuyết đă viết về Hà đồ từ trước đến nay chưa t́m được bản chất đích thực của Hà Đồ. Hay nói một cách khác: Nó hoàn toàn bất hợp lư và không đủ sức thuyết phục. Sự huyễn ảo đến mức độ bị coi là mê tín của nền văn minh Đông phương cho đến tận ngày nay chứng tỏ điều này. Bởi vậy; việc t́m hiểu giá trị và cội nguồn văn minh Đông phương căn cứ vào tiêu trí của khoa học hiện đại – tức tri thức hiện đại – là một phương pháp có cơ sở. Tôi sở ngộ cho rằng: Chúng ta sẽ không thể t́m được một cái đúng mà bắt đầu từ một cái sai và đây cũng là lư nhân quả.
Việc đi t́m bản chất của Hà Đồ – nguyên lư của nền lư học Đông phương – sẽ tiếp tục bế tắc như nó đă bế tắc trải hàng thiên niên kỷ; nếu chúng ta vẫn chấp vào những hiện tượng được đặt ra trong các bản văn cổ chữ Hán. Bởi vậy; người viết cho rằng:
Cần phải đi t́m ở một nền văn minh khác; đó chính là nền văn hiến Lạc Việt qua những di sản c̣n lại của nền văn minh này trên cơ sở tiêu chí khoa học.
Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
(C̣n tiếp: HÀ ĐỒ TRONG VĂN HIẾN LẠC VIỆT)
Thiên Sứ
---------------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại.
Để áng phù vân đọng nét buồn.
Sửa lại bởi ThienSu : 22 May 2005 lúc 7:27am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 11 of 33: Đă gửi: 26 May 2005 lúc 5:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ ĐỒ TRONG VĂN HIẾN LẠC VIỆT
Hệ từ viết:“Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”
Kính thưa quí vị!
Có thể nói rằng: Nếu nền văn minh Hoa Hạ – mà đại biểu là Khổng An Quốc và Lưu Hâm – có thể áp đặt một cách chủ quan; hiện tượng con Long Mă xuất hiện trên sông Hoàng Hà trên lưng mang Hà đồ và con thần Qui xuất hiện trên sông Lạc mang Lạc thư vào việc giải thích nội dung câu trên trong Hệ từ; th́ câu trên cũng có thể giải thích hợp lư hơn là:
Sự vận động của Thiên Hà là cơ sở của nền thiên văn học Lạc Việt. Đó chính là thực tại của nền lư học Đông phương. Những qui luật vận động và tương tác của nó do các bậc trí giả Lạc Việt chép trong sách của nền văn minh này; nên gọi là Lạc Thư. Tức là sách của nền văn minh Lạc Việt.
Hai cách giải thích này khác nhau hoàn toàn ở chỗ:
Cách giải thích của Hán nho đă không thể chứng minh được sự lư giải của ḿnh; không phải chỉ vài chục; vài trăm năm mà là hàng thiên niên kỷ.
Ngược lại; cách giải thích từ nền văn minh Lạc Việt hoàn toàn có khả năng minh chứng một cách hoàn hảo và chứng tỏ được một nền văn hiến huy hoàng trong quá khứ đến nay trải gần 5000 năm (2789 trước CN – 2005 sau CN).
Để chứng tỏ điều này; quí vị quan tâm xem h́nh dưới đây:
Tranh thờ Ngũ Hổ hàng Trống trang 177/ “T́m về cội nguồn Kinh Dịch” .
Sự giải mă cho h́nh ảnh này sẽ là phần nhập đề cho nội dung chính của tiểu luận này. Nhưng người viết xin được lưu ư các quí vị quan tâm là:
Tất cả những sự giải mă các hiện tượng văn hóa dân gian Việt Nam để t́m vào sự bí ẩn văn hóa Đông phương; Người viết đều không coi là bằng chứng trực tiếp chứng minh cho “cội nguồn văn hóa Đông phương thuộc về người Lạc Việt”. Sự giải mă này chỉ có tính hướng dẫn – khi sự giải mă đúng – để khám phá bản chất đích thực của nền văn minh huyền bí này. Chỉ khi sự khám phá được sáng tỏ th́ chính tính chân lư của sự việc sẽ là bằng chứng chứng minh cho luận điểm trên.
Kính thưa quí vị!
H́nh trích dẫn ở trên; hoàn toàn không xa lạ với người Việt. Trong bức tranh này; điều dễ nhận thấy nhất là: Ngũ Hổ được vẽ với 5 màu của Ngũ Hành sắp theo chiều tương sinh với Hổ vàng lớn hơn hẳn đứng uy nghi ở giữa. Trên đầu Hổ vàng; dưới mặt trời đỏ rực có 7 chấm trắng huyễn ảo. Chân Hổ vàng trấn lên một miếng phù có ghi: “Pháp đại uy nỗ”.Hai bên Hổ Vàng: bên phải có 5 thanh kiếm; bên trái có 5 lá cờ lệnh. Chung quanh phía trên là những đám mây vần vũ huyễn ảo; phía dưới là hai tảng núi cách điệu đối xứng cho hai Ngài Hổ đứng. Đặc biệt những cặp mắt hổ trong tranh đều mở to với màu sắc tương phản tạo cảm giác sáng rực đầy uy dũng. Phong cách vẽ của bức tranh tuy nặng tính qui ước; nhưng h́nh tượng rất có thần. Chính tính qui ước của những h́nh tượng đă cho thấy sự suy nghĩ của người sáng tạo ra nó phải gửi gấm vào đây một ư tưởng.
Đó là ư tưởng ǵ?
Nếu chúng ta lấy cửu cung chồng lên tranh Ngũ Hổ th́ chúng ta sẽ nhận thấy ngay đây chính là h́nh Ngũ hành tương sinh của Cửu cung Hà đồ. Xin quí vị xem h́nh dưới đây:
H́nh Ngũ Hổ trang 29/ "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam."
Như vậy; h́nh tượng Ngũ Hổ với 5 màu của Ngũ hành chính là thể hiện nội dung của Hà Đồ cửu cung. Nhưng nếu mọi việc chỉ dừng ở đây th́ đấy là điều mà ai cũng biết:
“Hà đồ thể hiện qui luật Ngũ hành tương sinh”. Vấn đề tiếp theo khác hẳn sự miêu tả của cổ thư chữ Hán cho rằng “Long Mă hiện trên sông Hoàng Hà mang Hà đồ” là: H́nh bẩy chấm trên đầu ông Hổ vàng.
Người viết bài này đă sưu tầm được rất nhiều tranh Hổ của phường hàng Trống th́ nhận thấy rằng: Hầu hết các tranh Hổ (Vẽ đơn hay Ngũ Hổ) đều có đủ 7 chấm như h́nh vẽ trên (Xin tham khảo thêm: ”Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam”. Tủ sách Tuvilyso). Mặc dù với thời gian lưu truyền có nhiều tranh vẽ không theo một qui luật nhất định; nhưng đều có h́nh tượng tương tự. Điều đặc biệt hơn nữa là: Trên lưng ông Khiết (Dân gian thường gọi là: Con Cóc Tàu) cũng có 7 chấm tương tự. Và điều may mắn là người viết đă phát hiện 7 chấm này chính là biểu tượng của cḥm sao Tiểu Hùng Tinh; cḥm sao định hướng Bắc trên bầu trời. Xin quí vị xem h́nh dưới đây:
H́nh trang 33.Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam.
Qua h́nh minh hoạ chứng minh ở trên; quí vị quan tâm cũng nhận thấy rằng:
Biểu tượng 7 chấm với gạch nối trên lưng Ông Khiết (Con cóc Tàu) và bẩy chấm trên tranh thờ ngũ hổ hoàn toàn gần như trùng khớp về h́nh tượng với sự miêu tả cḥm sao Thiên Cực Bắc trên bầu trời thiên văn hiện đại.Tại sao Tranh Ngũ Hổ lại có h́nh tượng của cḥm sao Thiên Cực Bắc trên bầu trời? Phải chăng đây chính là một mật ngữ cho thấy Hà Đồ liên quan đến bầu trời mà ở đó có sự vận động của các thiên thể? Và phải chăng chính ở đây; trên dải Ngân Hà chia đôi mối t́nh Ngưu Lang Chức Nữ; mới là cội nguồn đích thực của Hà Đồ trong câu: “Hà xuất Đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”?
(C̣n tiếp: HÀ XUẤT ĐỒ)
Thiên Sứ
---------------------------
Tám nẻo sông Ngân sao lấp lánh
Một vầng trăng nước sóng chơi vơi
Sửa lại bởi ThienSu : 26 May 2005 lúc 5:56pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 12 of 33: Đă gửi: 27 May 2005 lúc 10:12am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ XUẤT ĐỒ…
Hệ từ viết:”Hà xuất đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”
Mọi sự suy luận và giải mă sẽ bế tắc; nếu như không có một tư liêu được phát hiện sau đây. Tư liệu này được trích dẫn trong sách:”Chu Dịch – Vũ trụ quan” (Nxb Giáo Dục -1995. Trang 44 - 51) của Giáo sư Lê Văn Quán; như sau:
1.10LẠC THƯ HÀ ĐỒ
Hà đồ và Lạc Thư được phát hiện từ trong quan trắc hiện tượng thiên văn; cấu tạo giản đơn rất tiện cho việc ghi nhớ và lưu truyền. Theo truyền thuyết; Đồ xuất hiện ở sông Hà đời Phục Hy; Thư xuất hiện ở sông Lạc đời Hạ Vũ. Hệ từ thượng; chương thứ XI đă viết:
”Thị cố thiên sinh thần vật; thánh nhân tắc chi; thiên địa biến hóa; thánh nhân hiệu chi; thiên thùy tượng; hiện cát hung; thánh nhân tương chi. Hà xuất Đồ; Lạc xuất thư; thánh nhân tác chi”.
(Cho nên trời sinh ra thần vật, thánh nhân áp dụng theo; trời đất biến hoá, thánh nhân bắt chước; trời bày ra h́nh tượng, hiện ra sự tốt xấu, thánh nhân phỏng ra ư tượng. Bức đồ hiện ra ở sông Hoàng hà, h́nh chữ hiện ra ở sông Lạc, thánh nhân áp dụng theo).
Hệ từ thượng, chương IX lại viết:
“Thiên nhất, địa nhị, thiên tam, địa tứ, thiên ngũ, địa lục, thiên thất, địa bát, thiên cửu, địa thập. Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ. Thử sở dĩ thành biến hoá, nhi hành quỷ thần dă”.
(Trời số 1, đất số 2, trời số 3, đất số 4, trời số 5, đất số 6, trời số 7, đất số 8, trời số 9, đất số 10. Trời có 5 số (1, 3, 5, 7, 9 những số lẻ), đất có 5 số (2, 4, 6, 8, 10 những số chẵn), năm ngôi tương đắc đều hợp nhau. Số trời có 25 (1+3+5+7+9=25), đất có 30 (2+4+6+8+10=30).Tổng số trời đất có 55 (=25+30). Do đó mà thành ra biến hoá và hành động như quỷ thần).
Ở đầu sách “Chu Dịch bản nghĩa”, khi giới thiệu hai h́nh vẽ Hà đồ, Lạc thư, Chu Hy cũng đă trích dẫn đoạn hệ từ trên để chú thích. Ông viết tiếp, và chỉ ra mọi người thấy:
“Thử Hà đồ chi số dă, Lạc thư cái thủ quy tượng, cố kỳ số đái cửu, lư nhất, tả tam hữu thất, nhi tứ vi kiên, lục bát vi túc”.
(Đó là số Hà đồ, Lạc thư lấy tượng rùa, cho nên số của nó là đầu đội 9, chân đạp 1, bên trái 3, bên phải 7, vai là 2, 4, chân là 6, 8)
Rơ ràng là miêu tả h́nh Lạc thư.
A. Kết cấu Lạc thư
Như trên đă nói, Lạc thư cấu tạo bởi những ṿng tṛn đen trắng: đầu đội 9, chân đạp 1, bên trái 3, bên phải 7, vai bên trái 4, vai bên phải 2, chân trái 8, chân phải 6, lưng (ở giữa) 5.Ṿng tṛn đen là số âm (xem h́nh vẽ). Con số Lạc thư vốn từ Cửu cung, dùng số biểu diễn h́nh tượng sao. Thực tế là tượng trời của Lạc thư, có thể xem “Lạc thư cửu tinh đồ” (h́nh Lạc thư 9 sao) đời xưa truyền lại:
H̀NH LẠC THƯ CỬU TINH ĐỒ
Qua h́nh vẽ chúng ta thấy phương vị và con số của 9 cḥm sao, tức là phương vị và con số của Lạc thư. Cung giữa 5 sao gọi là “toà Ngũ đế”, là đầu ngũ hành, ở giữa và giám ngự bốn phương. Dưới “toà Ngũ đế” là ngôi sao “Bắc cực”, luôn luôn ở phương Bắc, lấy đó định vị trí; Bắc cực đối với phía nam cung là chín sao “Thiên kỷ”. Chính giữa phía đông là ba sao “Hà bắc”. Chính giữa phía tây là bảy sao “Thất công”. Bên trái “Thiên kỷ” là bốn sao “Tứ phụ”, bên phải “Thiên kỷ” là hai sao “Hổ bôn”. Bên trái “Bắc cực” là tám sao “Hoa cái”, bên phải “Bắc cực” là sáu sao “Thiên trù”.
Con số 9 cung của Lạc thư 1, 3, 7, 9 là số lẻ, gọi là số dương: 2, 4 , 6, 8 là số chẵn, gọi là số âm. Số dương là chính, vị trí ở bốn điểm chính giữa, đại biểu khí trời. Số âm là phụ, vị trí ở bốn góc, đại biểu khí đất. Số 5 ở giữa thuộc khí đất (thổ), là tổ của ngũ hành, vị trí ở cung giữa.
Các nhà thuật số cho cung ở giữa là hư số, là số không, để quan trắc và tính toán điểm cơ bản của bốn mùa bát tiết. Con số Lạc thư nhiều ít là tiêu chí biến đổi khí hậu ấm, lạnh, mạnh, yếu của ngày đêm, sớm tối.
B. Kết cấu Hà đồ
Hà đồ lấy 10 số hợp với ngũ phương (năm phương), ngũ hành, âm dương, trời đất. H́nh tṛn trắng số lẻ, dương, là trời; chấm đen số chẵn, âm; là đất, và lấy trời đất hợp với ngũ hành (xem h́nh vẽ), kết cấu của nó có mấy đặc điểm như sau:
Số 1 và số 6 cùng ḍng họ, ở phương Bắc, v́ trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành nước. Số 2 và số 7 là bằng (bè bạn), ở phương nam, v́ đất 2 sinh hoả, trời 7 hoá thành lửa. Số 3 và số 8 là bạn bè (hữu), ở phương đông, vị trời 3 sinh mộc, đất 8 hoá thành gỗ. Số 4 và số 9 là đồng đạo (cùng đường), ở phương tây, v́ đất 4 sinh kim, trời 9 hoá thành vàng. Số 5 và số 10 trông giữ nhau, ở giữa, v́ trời 5 sinh thổ, đất 10 hoá thành đất. Đúng như Chu tử đă nói:
“Thiên dĩ nhất sinh thuỷ nhi địa dĩ lục thành chi. Địa dĩ nhị sinh hoả nhi thiên dĩ thất thành chi. Thiên dĩ tam sinh mộc nhi địa dĩ bát thành chi. Địa dĩ tứ sinh kim nhi thiên dĩ cửu thành chi. Thiên dĩ ngủ sinh thổ nhi địa dĩ lập thành chi”.
(Trời lấy 1 sinh thuỷ mà đất lấy 6 thành nước. Đất lấy 2 sinh hoả mà trời lấy 7 thành lửa. Trời lấy 3 sinh mộc mà đất lấy 8 thành gỗ. Đất lấy 4 sinh kim mà trời lấy 9 thành vàng. Trời lấy 5 sinh thổ mà đất lấy 10 thành đất).
Vẽ thành Hà đồ là căn cứ vào 5 sao lặn, mọc, lấy 55 số diễn h́nh tượng 5 sao. Năm sao xưa gọi là “ngũ vị”, là 5 hành tinh trên trời : Mộc gọi là “Tuế tinh”, Hoả là “Huỳnh hoặc”, thổ là “Chấn tinh”, kim là “Thái bạch”, thủy là “Thần tinh”. Năm sao vận hành, phân chia bởi nhị thập bát tú (28 ngôi sao), do quỹ đạo của nó không xa đường mặt trời, cho nên người xưa dùng để ghi ngày. Năm sao vận hành, thời tiết đều biến đổi, nói chung theo tuần tự Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thuỷ, kế tiếp nhau xuất hiện ở bầu trời Bắc cực. Mỗi sao đều vận hành 72 ngày, năm sao vận hành tṛn ṿng trời 360 độ. Đường quỹ đạo của ba sao: Mộc, Hoả, Thổ lớn cho nên ở ngoài, vừa khéo hợp với số 216 thẻ Kiền. Đường quỹ đạo của hai sao Kim, Thuỷ nhỏ cho nên ở trong, vừa khéo hợp với số 144 thẻ Khôn. V́ 5 sao định giờ lặn, mọc có quy luật như dưới đây, cho nên cấu tạo thành h́nh Hà đồ như đă giới thiệu ở trên .
* Hằng ngày sao Thuỷ: Giờ thứ 1 (giờ Tư) và giờ thứ 6 (giờ tỵ) xuất hiện ở phương Bắc. - Hàng tháng ngày 1, 6; 1; 16; 21; 26; mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Thuỷ ở phương Bắc. -- Hằng năm: Tháng 11, tháng 6 lúc hoàng hôn thấy ở phương Bắc.
Cho nên nói “Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 mà thành nước”.
* Hàng ngày sao Hoả: Giờ thứ 2 (giờ Sửu) và giờ thứ 7 (giờ Ngọ) xuất hiện ở phương nam.
- Hàng tháng ngày 2, 7 (tức là mồng 2, mồng 7, 12; 17; …) mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Hoả ở phương Nam.
- Hàng năm tháng 2, tháng 7, lúc hoàng hôn thấy ở phương Nam.
Cho nên nói: “Địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi” (đất hai sinh hoả, trời bảy thành lửa).
* Hằng ngày sao Mộc: Giờ thứ ba (giờ Dần) và giờ thứ 8 (giờ Mùi) xuất hiện ở phương Đông.
- Hàng tháng ngày 3, ngày 8 (mồng ba, mồng 8, mười ba, mười tám…) mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Mộc ở phương Đông.
- Hàng năm tháng 3, tháng 8, lúc hoàng hôn thấy ở phương Đông.
Cho nên nói “Trời ba sinh mộc, đất tám thành gỗ”.
Hằng ngày sao Kim giờ thứ 4 (giờ măo) và giờ thứ 9 (giờ thân) xuất hiện ở phương Tây; - Hằng tháng ngày 4, 9 (mồng 4, mồng 9…) mặt trời, mặt trăng gặp sao kim ở phương Tây.
- Hằng năm tháng 4, tháng 9, lúc hoàng hôn thấy ở phương Tây.
Cho nên nói “Đất 4 sinh Kim, trời 9 hoá thành vàng”.
* Hằng ngày sao Thổ giờ thứ 5 (giờ Th́n) và giờ thứ 10 (giờ Dậu) xuất hiện ở giữa.
- Hằng tháng, ngày 5, 10 (mồng 5, mồng 10…) mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Thổ ở giữa.
- Hằng năm tháng 5, tháng 10 lúc hoàng hôn thấy ở giữa trời.
Cho nên nói: “Trời 5 sinh thổ, đất 10 hoá thành đất”.
Qua đó, có thể thấy, Hà đồ không phải do con người tuỳ ư vẽ vạch. Vạch ra như vậy, là căn cứ vào tượng trời, năm sao lặn và mọc, đó cũng là nguồn gốc của ngũ hành: Thuỷ, Hoả, Thổ, Kim, Mộc. V́ hằng năm tháng 11 trước tiết Đông chí, sao Thuỷ thấy ở phương Bắc, đang lúc giao thời mùa đông, muôn vật ngủ đông (ở ẩn), trên mặt đất chỉ có băng tuyết và nước. Khái niệm hành “Thuỷ” h́nh thành là như vậy.
Tháng 7, sau tiết Hạ chí sao Hoả thấy ở phương Nam, đang lúc giao thời mùa hè, trên mặt đất khô nóng. Khái niệm hành “Hoả” ra đời là như vậy.
Tháng 3 Xuân phân, sao Mộc thấy ở phương Đông, đương lúc giữa thời mùa xuân, cây cỏ nảy mầm sinh trưởng. Khái niệm hành “Mộc” h́nh thành là như vậy.
Tháng 9 Thu phân, sao Kim thấy ở phương Tây, đời xưa lấy kim loại tôi luyện thành binh khí, cho nên lấy “Kim”biểu thị mùa thu khí trời sát phạt. Khái niệm hành “Kim” h́nh thành là như vậy.
Tháng năm sao Thổ thấy ở giữa trời, biểu thị lúc bấy giờ đất ẩm thấp, Mộc, Hoả, Kim, Thuỷ đều lấy cái đó làm điểm giữa, sao Mộc, Hoả, Kim, Thuỷ lặn mọc dẫn đến khi hậu bốn mùa biến đổi, đều là quan trắc từ mặt đất, khái niệm hành “Thổ” h́nh thành là như vậy.
Trên đây; chúng tôi đề cập kết cấu Hà đồ và Lạc thư theo thiên văn.
Kính thưa quí vị!
Qua đoạn trích dẫn trên cho chúng ta thấy một cơ sở về thiên văn học cho nguồn gốc của Hà Đô Lạc Thư. Tư liệu này không thấy giáo sư tác giả cho biết đă trích dẫn hoặc sưu tầm từ đâu. Nhưng trên cơ sở những tài liệu tham khảo ở cuối sách; người viết cho rằng: Nguồn tư liệu này có thể có xuất xứ từ Nhật Bản. Bản vẽ “Lạc Thư cửu tinh đồ” đă chứng tỏ rằng đây là một tư liệu tối cổ v́ khái niệm “Lạc Thư” cho tên gọi của bản vẽ này. Chính bản đồ này với tên gọi Lạc thư đă phủ nhận xuất xứ Hoa Hạ của nó; bởi những điều căn bản sau đây:
# H́nh mà chúng ta quen gọi là Lạc thư trong sách cổ chữ Hán chính là h́nh biểu tượng qui ước của Lạc thư cửu tinh đồ. Và chính “Lạc Thư cửu tinh đồ” với nội dung của nó phủ nhận xuất xứ Hoa Hạ của đồ h́nh mà chúng ta vẫn quen gọi là Lạc thư. Đồng thời cũng chính bản đồ thiên văn với tên gọi ”Lạc thư cửu tinh đồ” đă cho thấy xuất xứ Lạc Việt của nó; bởi chính tên Lạc thư trong tên gọi của bản đồ Cửu tinh này; khó có thể giải thích là đồ h́nh từ trên “lưng rùa”; sự giả thích hợp lư hơn cả là sách của người Lạc Việt. Với sự giải thích này có tính nhất quán và hoàn chỉnh với khả năng giải thích một cách hợp lư các vấn đề liên quan. Chinh bản đồ “Lạc thư cửu tinh đồ” – mặc dù chưa rơ xuất xứ tư liệu – đă phủ nhận tính huyền thoại của đồ h́nh mà chúng ta quen gọi là “Lạc thư” trong cổ thư chữ Hán trải hàng ngàn năm; khi nó cho rằng: Xuất xứ từ lưng rùa trên sông Lạc thủy. Tức là phủ nhận xuất xứ Hoa Hạ của những tiền đề căn bản của Lư học Đông phương thuộc về văn minh Hoa Hạ.
# Cũng từ tư liệu trích dẫn ở trên cho thấy: Hà Đồ – vốn được coi là xuất xứ từ trên lưng con Long Mă xuất hiện trên sông Hoàng Hà trong cổ thư chữ Hán – chính là biểu tượng cô đọng của sự vận động có tính qui luật của Ngũ tinh trên bầu trời. Chính nội dung này đă phủ nhận xuất xứ Hoa Hạ của đồ h́nh mà chúng ta vẫn quen gọi là Hà Đồ.
Kính thưa quí vị!
Để kiểm chứng tính chính xác của tư liệu đă trích dẫn; chúng ta chỉ cần chịu khó nh́n lên bầu trời; lặp lại hiện tượng mà tổ tiên người Việt đă làm và bị thất truyền theo lịch sử thăng trầm của người Lạc Việt: “Ngưỡng dĩ quan ư thiên văn”; th́ chúng ta sẽ thấy ngay tính hiện thực của nội dung: Hà xuất đồ . Từ nay sẽ được hiểu rằng: Những phương vị và sự vận động của các v́ sao trên Thiên Hà của chúng ta (Ngân Hà) mang tính qui luật của sự tương tác trong vũ trụ và được ghi nhận trong sách của nên văn hiến Lạc Việt: “Lạc xuất thư”. Điều này chứng tỏ tính hướng dẫn của cḥm sao Tiểu Hùng tinh trên tranh thờ Ngũ Hổ của người Lạc Việt. Điều này cũng chứng tỏ rằng: Ông Khiết chính là biểu tượng của nền văn minh Khoa Đẩu với tri kiến thiên văn kỳ vĩ có một thời Hoàng kim lộng lẫy ở miền Nam sông Dương Tử.
C̣n tiếp: PHÁP ĐẠI UY NỖ
Thiên Sứ
-----------------------
Tam nẻo sông Ngân sao lấp lánh
Một vùng trăng nước sóng chơi vơi
Sửa lại bởi ThienSu : 01 June 2005 lúc 1:06am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 13 of 33: Đă gửi: 03 June 2005 lúc 9:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHÁP ĐẠI UY NỖ
Kính thưa quí vị quan tâm
Trong cổ thư chữ Hán trải hàng ngàn năm – tính từ khi văn hiến Văn Lang sụp đổ (258 trước CN theo chính sử Việt) – cho đến nay; người ta không thể nào t́m thấy sự ghi nhận tính ứng dụng của Hà Đồ. Ngoại trừ một lần ghi nhận duy nhất; nhưng cũng rất mơ hồ: “Phục Hy tắc Hà Đồ hoạch quái” . Hàng ngàn năm trôi qua; người ta ko thể nào hiểu nổi vua Phục Hy đă lấy cơ sở nào của Hà đồ để làm ra Tiên thiên bát quái? Tất cả mọi phương pháp ứng dụng của nền lư học Đông phương được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán đều liên quan đến Lạc Thư. Điều này những ai đă từng một lần xem qua các môn ứng dụng như căn bản như: Chu Dịch; Thái Ất; Phong thủy đều biết điều này. Vậy trên thực tế Hà Đồ dùng để làm ǵ?
Không phải bây giờ mà đă hàng ngàn năm trôi qua trong văn minh Hán; trong bản văn chữ Hán cho đến tận ngày hôm nay – khi bạn đang đọc ḍng chữ này – Hà đồ không có chỗ đứng trong thực tế ứng dụng; nhưng lại rất đắc địa trong những giá trị tâm linh về tính huyền bí của nó. Trong văn minh Lạc Việt nó được thể hiện một cách bí ẩn trong tranh thờ Ngũ Hổ. Và điều quan trong hơn cả là:
Trong văn minh Việt th́ Hà Đồ được giải thích khác hẳn các bản văn chữ Hán với cḥm sao Tiểu Hùng Tinh (Đă chứng giải) và với sự khẳng định là “Pháp Đại Uy Nỗ” . Hay dịch theo ngôn ngữ hiện đại là:
Quy luật chủ yếu bao trùm lên tất cả.
Kính thưa quí vị!
Như người viết đă hân hạnh tŕnh bày ở trên: Không hề t́m thấy tính ứng dụng của Hà đồ trong cổ thư chữ Hán. Trong Kinh Dịch lần duy nhất được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán về tính dụng của Hà đồ là “Phục Hy tắc Hà đồ hoạch quái” và – theo các nhà Lư học Hán nho – ngài Phục Hy dùng Hà Đồ làm ra Tiên thiên bát quái. Từ thời Hán đến nay trải đă hơn 2000 năm. Và nếu theo truyền thuyết về văn minh Hán th́ điều này đă hơn 6000 năm; từ thời Phục Hy. Bây giờ chúng ta quán xét đồ h́nh Tiên thiên bát quái liên hệ với Hà Đồ (Theo sách cổ chữ Hán).
Quán xét đồ h́nh này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán – chúng ta không hề thấy một sự liên hệ tương thích nào.
* Càn (Trời/ Kim) nằm ở độ số 1 Dương Thủy/ Chính Bắc; Đoài (Kim) th́ nằm ở độ số 6 là Âm Thủy/ Tây Bắc trên Hà đồ.
Như vậy; trường hợp này: Kim quái sinh Thủy.vị
* Ly (Hỏa) nằm ở độ số 9 Dương Kim/ Chính Tây của Hà Đồ.
Như vậy; trường hợp này: Hỏa quái khắc Kim vị.
* Chấn (Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim/ Tây Nam của Hà Đồ.
Như vậy; trường hợp này: Kim vị khắc Mộc quái.
* Khôn (Thổ) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa / Chính Nam của Hà Đồ. Cấn (Thổ) nằm ở độ số 2 Âm Hỏa/ Đông Nam của Hà Đồ.
Trường hợp này: Hỏa vị sinh Thổ quái.
* Khảm (Thủy) nằm ở độ số 3 Dương Mộc/ Chính Đông của Hà Đồ.
Trường hợp này Thủy quái sinh Mộc vị.
* Tốn (Gió/ Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà Đồ.
Trường hợp này; Mộc quái tương ḥa Mộc vị.
Quán xét hiện tượng trên; chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán (Cụ thể là theo Mai Hoa dịch số do Thiêu Khang Tiết công bố vào đời Tống) với Hành của phương vị trên Hà Đồ. Hơn nữa; Tiên thiên bát quái chỉ là một trong những phương tiện để gieo quẻ trong sự tiên tri; chứ không làm nên tính tiên tri. Cái dụng của sự tiên tri lại ở trong Hậu thiên bát quái. Chính Hậu thiên bát quái mới là: “Pháp đại uy nỗ”. Vậy th́ tại sao ông cha ta – Tổ tiên người Lạc Việt – lại khẳng định Hà đồ mới chính là đồ h́nh căn bản; là “Pháp đại uy nỗ”; là qui luật chủ yếu; bao trùm qua sự giải mă chủ quan của người viết?
Để tiếp tục t́m sự bí ẩn qua câu hỏi này; chúng ta tiếp tục quán xét sự tương thích theo cổ thư chữ Hán là: “Hậu thiên bát quái bản Lạc thư dă” [(Đồ h́nh Hậu thiên bát quái xuất phát từ với Lạc thư/ Chu Hy). Xin quí vị quan tâm xem h́nh dưới đây:
Quán xét đồ h́nh trên – theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán – chúng ta cũng không hề thấy một sự liên hệ tương thích nào. Điều này được chứng minh như sau:
* Càn (Trời /Kim) nằm ở Âm Thủy; độ số 6/ Tây Bắc của Lạc thư.
* Khảm (Thủy) nằm ở Dương Thủy; độ số 1/ Chính Bắc của Lạc thư.
* Cấn (Thổ) nằm ở Âm Mộc; độ số 8/ Đông Bắc của Lạc Thư.
* Chấn Mộc nằm ở Dương Mộc; độ số 3/ Chính Đông của Lạc thư.
Các quái vị trên coi như tạm ổn; nhưng sự sai lệch nằm ở phần dưới đây:
* Tốn Mộc/ Gió nằm ở Âm Kim; độ số 4/ Đông Nam của Lạc Thư.
* Ly Hỏa nằm ở Dương Kim; độ số 9/ Chính Nam của Lạc thư.
*Khôn Thổ nằm ở Âm Hỏa; độ số 2/ Tây Nam của Lạc Thư.
* Đoài Kim nằm ở Dương Hỏa; độ số 7/ Chính Tây của Lạc thư.
Như vậy; với ngay cả Hậu thiên bát quái vốn là một cơ sở của những phương pháp ứng dụng bao trùm trên mọi lĩnh vực cũng không hề có sự tương thích với Lạc Thư. Đây chính là nguyên nhân để học giả uyên bác Nguyễn Hiến Lê cho rằng:
Nhất là so sánh những h́nh đó với h́nh Bát quái th́ dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ h́nh đó được”.
Chính v́ tính bất hợp lư của sự liên hệ giữa Tiên Thiên với Hà đồ và Hậu thiên với Lạc thư - được lưu truyền trong cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn năm nay - đồng thời với sự xuất hiện muộn mằn của chính những đồ h́nh này – sau hơn 1000 năm - tính từ thời Hán; nên đă tạo cơ sở cho những luận điểm sai lầm là:
1) Âm Dương trong Kinh Dịch ko liên quan ǵ đến Ngũ Hành.
2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán.
Những sai lầm của luận điểm này v́ những nhà nghiên cứu đă ko xuất phát từ một tiêu chí và phương pháp luận khoa học; chỉ nh́n thấy một cách trực quan từ những sự sai lầm theo nội dung trong bản văn chữ Hán. Sai lầm của những luận điểm này là:
# Luận điểm 1:
* Không giải thích được những hiện tượng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành trong chính Kinh Dịch; như “Hà xuất đồ; Lạc xuất thư” và được cho rằng là cơ sở của Bát quái; mà Hà Đồ Lạc thư tự nó đă bao hàm cả Âm Dương và ngũ hành.
* Không giải thích được các hiện tượng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành được coi là có trước Kinh Dịch; như:
- Trong “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” – Thể hiện phương pháp luận của thuyết Âm Dương ngũ hành như là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán; và thực tế là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán.
# Luận điểm 2:
* Bát quái và tất cả các quẻ; chỉ là một hệ thống kư hiệu chứ không phải là một hệ thống văn tự có nội dung. Nếu tách ra khỏi thuyết Âm Dương Ngũ hành th́ nó sẽ chẳng có ư nghĩa ǵ cả. Cũng như với công thức E = m.c2 của thuyết tương đối; nếu tách hệ thống kư hiệu này ra khỏi thuyết Tương đối sẽ ko thể có nội dung. Và không thể cho rằng: Thuyết Tương đối thuộc về Anhxtanh c̣n công thức E =mc2 lại thuộc về một nền văn minh khác ko liên quan hoặc là sự kế thừa tiếp tục của học thuyết này. Tuy nhiên; luận điểm 2 chứng tỏ một tư duy cao cấp hơn. Bởi v́ – so với luận điểm 1 – nó c̣n thể hiện tính đối chiếu văn bản và nghiên cứu nghiêm túc. Sự sai lầm là do chưa hiểu được bản chất của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ của nó với Kinh Dịch.
Kính thưa quí vị quan tâm!
Tôi luôn cho rằng:
“ Âm Dương Ngũ hành là một siêu lư thuyết vũ trụ quan; hoàn chỉnh và nhất quán; Bát quái chỉ là hệ thống siêu công thức của học thuyết này”
Luận đề này là sự tiếp tục minh chứng luận điểm trên.
Trên cơ sở này với sự hướng dẫn của những di sản văn hóa phi vật thể thuộc về nền văn minh Lạc Việt c̣n lại đến nay; chúng ta tiếp tục quán xét và sự minh chứng tính chất của Hà Đồ trong tính ứng dụng của nó. Từ đó; chúng ta sẽ thấy được giá trị của thông điệp gửi qua bức tranh dân gian lưu truyền qua bao thế hệ người Lạc Việt: “Pháp Đại Uy Nỗ”.
Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
(C̣n tiếp)
Thiên Sứ
-----------------------
Bài tiếp:
HẬU THIÊN BÁT QUÁI LIÊN HỆ HÀ ĐỒ
--------------------
Tám nẻo sống Ngân sao lấp lánh
Một vùng trăng nước ..sóng chơi vơi.
Sửa lại bởi ThienSu : 03 June 2005 lúc 11:27pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 14 of 33: Đă gửi: 03 June 2005 lúc 11:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
HẬU THIÊN BÁT QUÁI LIÊN HỆ HÀ ĐỒ
Hệ từ viết:
Hà xuất đồ ;Lạc xuất thư thánh nhân tác chi
Kính thưa quí vị quan tâm.
Người viết luận đề này đă chứng tỏ với quí vị quan tâm là:
Câu trên trong Hệ từ trong Kinh Dịch mà cụ thể là Chu Dịch được hiểu đúng với nội dung của nó phải là:
Đồ h́nh trên Thiên Hà (Hà xuất đồ) được ghi nhận trong sách của người Lạc Việt (Lạc xuất thư) do các vị thánh nhân Lạc Việt làm ra.
Chu Dịch – Hậu thiên bát quái chính là cuốn sách ứng dụng huyền vĩ tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên; cuộc sống và con người; chính là Pháp Đại Uy Nỗ . Như vậy - với vấn đề được đặt ra - chúng ta hoàn toàn có cơ sở ngay từ chính cuốn Chu Dịch để cho rằng:
HÀ ĐỒ chính là cơ sở của HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Bởi v́; chỉ duy nhất cuốn Chu Dịch nói về sự khởi nguyên của Hà Đồ. Điều này cũng hoàn toàn trùng khớp với sự giải mă bức tranh dân gian nổi tiếng của người Lạc Việt:
Pháp Đại uy nỗ . Xin quí vị quán xét đồ h́nh dưới đây:
HẬU THIÊN BÁT QUÁI LIÊN HỆ VỚI HÀ ĐỒ
Qua đồ h́nh trên – tạm thời để sang một bên những vấn đề liên quan đến vị trí Tốn & Khôn – quí vị quan tâm cũng nhận thấy một sự trùng khớp hoàn toàn cho 4 phương vị chính Đông – Tây – Nam – Bắc là:
* Khảm Thủy/ Chính Bắc trong ứng dụng của Hậu Thiên Bát quái nằm ở độ số 1 chính Bắc/ Thủy của Hà Đồ.
* Chấn Mộc/ Chính Đông trong ứng dụng của Hậu Thiên Bát quái nằm ở độ số 3 chính Đông/ Mộc của Hà đồ.
Hại phương vị chính trong Hậu Thiên bát quái với Hà đồ không đổi so với Hậu Thiên bát quái liên hệ với Lạc Thư theo cổ thư chữ Hán. Nhưng tính hợp lư và nhất quán với hai quái vị trên lại chỉ có ở Hà Đồ liên hệ với Hậu Thiên bát quái từ văn minh Lạc Việt là:
* Ly Hỏa/ Chính Nam trong ứng dụng của Hậu Thiên bát quái nằm ở độ số 7 chính Nam/ Dương Hỏa của Hà đồ (Theo cổ thư chữ Hán phối Hậu Thiên với Lạc Thư th́ Ly Hỏa nằm ở độ số 9 /Dương Kim trên Lạc Thư)
* Đoài Kim/ Chính Tây trong ứng dụng của Hậu Thiên bát quái nằm ở độ số 9 chính Tây/ Dương Kim của Hà Đồ.
Như vậy; chỉ có Hà đồ liên hệ với Hậu Thiên bát quái – được hướng dẫn từ những mật ngữ lưu truyền trong văn hóa phi vật thể trong dân gian Lạc Việt – mới chứng tỏ sự trùng khớp một cách hợp lư; nhất quán mối liên hệ thực tế của sự khởi nguyên nền Lư học Đông phương. Sự kết hợp của Hà đồ với Hậu Thiên bát quái chính là cái ch́a khóa rất quan yếu để mở kho tàng văn hóa Đông Phương đầy huyễn ảo một cách kỳ vĩ; khi bụi thời gian phủ dầy lên nền văn hiến một thời vàng son của người Lạc Việt.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Sự kết hợp Hà Đồ với Hậu Thiên Bát quái chính là cơ sở của PHÁP ĐẠI UY NỖ khi Hậu thiên bát quái đă chứng tỏ sự ứng dụng một cách hiệu quả và kỳ vĩ trải hàng ngàn năm.
Nhưng tất cả chúng ta đều biết:
Hà Đồ Lạc Thư là cơ sở của Bát quái. Vậy; nếu như Hà Lạc là biểu lư cô đọng của thuyết Âm Dương và Ngũ hành th́ Bát quái không thể coi là một kư hiệu tự thân; biểu lư cho một nội dung độc lập không liên quan đến Hà Lạc được. Bởi v́; nếu Bát quái là những kư hiệu tự thân biểu lư cho nội dung độc lập; không liên quan đến Hà Lạc th́ nó sẽ phải xuất phát từ một thực tại khác. Đây là điều vô lư và người viết đă chứng minh ở bài trên về hai luận điểm sai lầm xuất hiện từ những thập niên cuối của thế kỷ trước là:
1) Âm Dương trong Kinh Dịch ko liên quan ǵ đến Ngũ Hành.
2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán.
Như vậy; điều giải thích hợp lư nhất phù hợp với những tiêu chí của khoa học hiện đại là:
Bát quái chính là những kư hiệu theo thuật toán của hệ nhị phân và là siêu công thức của thuyết Âm Dương Ngũ hành được biểu lư cô đọng trong Hà Đồ và Lạc Thư.
Hay nói một cách khác:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một lư thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Bát quái chính là kư hiệu siêu công thức của học thuyết này.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Tất cả những phần chứng minh ở trên mới chỉ mang tính chứng minh cho một nguyên lư lư thuyết. Theo tiêu chí khoa học hiện đại th́ sự chứng minh này chỉ được coi là đúng - nếu từ nguyên lư lư thuyết này lư giải một cách hợp lư tất cả mọi trường hợp liên quan đến nó một cách nhất quán; hoàn chỉnh và khách quan. Bởi vậy; phần tiếp theo đây sẽ là sự minh chứng tính hoàn chỉnh và nhất quán của luận đề này.
Chân thành cảm tạ sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
-----------------------------------
C̣n tiếp:
SƯC MẠNH CỦA QUI LUẬT VŨ TRỤ
(Pháp Đại Uy Nỗ)
----------------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa
Sửa lại bởi ThienSu : 03 June 2005 lúc 11:55pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 15 of 33: Đă gửi: 05 June 2005 lúc 10:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính thưa quí vị quan tâm!
Trong bài viết trước Thiên Sứ tôi tự thấy có một đoạn diễn tả chưa rơ nghĩa v́ viết quá cô đọng. Điều này có thể gây nên sự hoài nghi v́ khó hiểu của một số quí vị và anh em quan tâm. Đó là đoạn sau đây:
Nhưng tất cả chúng ta đều biết:
Hà Đồ Lạc Thư là cơ sở của Bát quái. Vậy; nếu như Hà Lạc là biểu lư cô đọng của thuyết Âm Dương và Ngũ hành th́ Bát quái không thể coi là một kư hiệu tự thân; biểu lư cho một nội dung độc lập không liên quan đến Hà Lạc được. Bởi v́; nếu Bát quái là những kư hiệu tự thân biểu lư cho nội dung độc lập không liên quan đến Hà Lạc th́ nó sẽ phải xuất phát từ một thực tại khác. Đây là điều vô lư và người viết đă chứng minh ở bài trên về hai luận điểm sai lầm xuất hiện từ những thập niên cuối của thế kỷ trước…”
Kính thưa quí vị quan tâm
Tất cả chúng ta ở đây - và cả những ai đă có kiến thức cơ bản về một số môn ứng dụng liên quan đến lư số Đông phương - đều biết rằng: Hà Lạc có trước bát quái và là căn nguyên của Bát quái (Tạm thời chúng ta chưa bàn đến Hậu thiên liên hệ với Lạc Thư hay Hà Đồ). Nhưng Hà Lạc th́ có đủ Ngũ Hành và Âm Dương. Bởi vậy không thể có một hệ thống kư hiệu – (Bát Quái và hệ thống quẻ) - xuất phát từ một căn bản Âm Dương Ngũ hành trên Hà Lạc mà lại chỉ thể hiện Âm Dương mà không thể hiện Ngũ hành. Đó là lư do thứ nhất để:
nếu như Hà Lạc là biểu lư cô đọng của thuyết Âm Dương và Ngũ hành th́ Bát quái không thể coi là một kư hiệu tự thân; biểu lư cho một nội dung độc lập không liên quan đến Hà Lạc được
Về mặt thực tế; phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành được ứng dụng như là một phương pháp luận của một lư thuyết hoàn chỉnh và thống nhất. Nhưng về mặt lư thuyết th́ cho đến ngày hôm nay – khi quí vị đang đọc những ḍng chữ này – chưa một nhà nghiên cứu nào trên thế giới hiện đại chứng minh được thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán. (Xin tham khảo thêm trong Phần II – Chương V. “Lịch sử thuyết Âm Dương và thuyết Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán”T́m về cội nguồn Kinh Dịch. Tủ sách Tuvilyso.com). Trong bản văn Kinh Dịch th́ sự liên hệ tới Hà Lạc rất mơ hồ: “Hà xuất đồ; lạc xuất thư; thành nhân tác chi”. Nhưng kể từ khi tác giả của câu này – vốn được coi là Khổng tử – cho đến ngót hai ngàn năm sau - đời Tống - người Hán mới biết về h́nh tượng của Hà Lạc. Và cho đến bây giờ - đầu thế kỷ 21 - họ vẫn buộc phải giải thích rằng: Đó là do con Long Mă và con Rùa thần đem lại.
Chính v́ sự mơ hồ về Hà Lạc – tức là sự mơ hồ về đồ h́nh biểu lư cô đọng của thuyết Âm Dương và Ngũ hành – nên tính chất của Bát quái trong bản văn của Chu Dịch có vẻ như là một kư hiệu tự thân thể hiện cho một thực tại riêng biệt không liên quan đến Ngũ hành . Cơ sở của sự sai lầm này chính v́ trong bản văn Chu Dịch ghi tương đối cụ thể một số hiện tượng thuộc tính của quái vị; thí dụ:
Càn là trời; là cha; là cửa khuyết ……
Bởi vậy; có vẻ như là bát quái là những kư hiệu tự thân có nội dung và ko liên quan đến Hà Lạc. Và cái quan trong nhất để gây một ư niệm sai lầm chính là hiệu quả ứng dụng của bát quái trải hàng ngàn năm; đă cho làm con người bằng ḷng với những cái đă có trong Chu Dịch; khi mà hàng ngàn năm sau Chu Dịch - Đời Tống - người ta mới biết đến Hà Lạc. Hay nói cụ thể hơn: Trước khi người Hán biết đến Hà Lạc vào đời Tống; người Hán vẫn bói Dịch trải hàng ngàn năm. Do đó sự phát hiện ra Hà Lạc – sau đó cả ngàn năm - có vẻ chẳng liên quan ǵ đến Chu Dịch cả. Tính cách biệt trải hàng ngàn năm đó cũng chính là một yếu tố quan trong thể hiện sự tiếp thu không hoàn chỉnh của nền văn minh Hán về Lư học Đông phương.
Tất cả những điều trên là một số trong những nguyên nhân quan yếu để các học giả hiện đại không thể t́m trong bản văn chữ Hán từ cổ chí kim - có thể chứng minh được về mặt lư thuyết :
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán ; hoàn chỉnh và Bát quái chỉ là một hệ thống kư hiệu siêu công thức của học thuyết này. Đây chính là lư thuyết thống nhất vũ trụ mà cả nhân loại hiện đại đang mơ ước.
Trong tất cả các công trính nghiên cứu về Kinh Dịch và những v/d liên quan mà người viết xem được; tôi chưa thấy ai đặt v/d:
Trước khi:Càn là trời; là cha; là đàn ông; là cửa khuyết th́ bản chất của Càn – cái kư hiệu ba vạch liền ấy – là cái ǵ?
Tôi đă chứng minh rằng: Bản văn Chu Dịch ghi nhận các hiện tượng của bát quái chỉ là những hiện tượng thuộc tính được thể hiện trong ứng dụng. Bản chất của bát quái - trong nguyên lư căn để của nó – không phải là những hiện tượng thuộc tính được ghi nhận (Tôi cũng xin lưu ư quí vị rằng: Những điều ghi nhân đó phần lớn là đúng qua thực tế ứng dụng; nhưng không hoàn chỉnh).
Nhưng người ta không bao giờ có thể khám phá ra những bí ẩn của nó ; khi mà trải hàng ngàn năm qua bị chấp một cách nặng nề về cội nguồn sinh ra nó là nền văn minh Hán . Bởi v́: Về h́nh thức các sách lưu truyền hoàn toàn chỉ thấy bằng chữ Hán. Nền văn minh Hán có “tác giả” hẳn hoi cho hầu hết tác phẩm của ḿnh. Sự hỗ trợ cho những hiện tượng này chính là hiệu quả ứng dụng của Chu Dịch (Nhưng tỷ lệ của hiệu quả này và tại sao lại như vậy th́ vẫn là điều rất bí ẩn).
Chỉ khi nào; người ta nhận thấy tính mâu thuẫn ko thể khắc phục về sự liên quan đến các hiện tượng về thuyết Âm Dương Ngũ hành về cả nội dung lẫn lịch sử phát triển của nó th́ người ta mới nhận thấy tính phi lư về “tác giả” và h́nh thức chữ viết. Tức là khi ấy; những nhà nghiên cứu phải thật sự có tinh thần khoa học với tiêu chí khoa học rơ ràng.
Từ đó cho chúng ta thấy rằng: Bát quái không thể là một kư hiệu tự thân không liên quan đến Hà Lạc. Những ghi nhận trong Chu Dịch về Bát quái chỉ là những hiện tượng thuộc tính của nó.
Khi liên hệ Hậu thiên bát quái với Hà Đồ đă cho thấy bản chất của quái vị đó chính là Âm Dương Ngũ hành.
Vài lời tường sở ngộ.
Xin quí vị quan tâm trở lại với chủ đề trong bài viết tiếp theo:
SƯC MẠNH CỦA QUI LUẬT VŨ TRỤ
(Pháp Đại Uy Nỗ)
Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
-------------------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 16 of 33: Đă gửi: 09 June 2005 lúc 11:23am | Đă lưu IP
|
|
|
SƯC MẠNH CỦA QUI LUẬT VŨ TRỤ
(Pháp Đại Uy Nỗ)
“Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng; nếu giải thích một cách hợp lư hầu hết những hiện tượng liên quan đến nó một cách có hệ thống; hoàn chỉnh và nhất quán; có tính khách quan; tính quy luật và khả năng tiên tri”.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Sự phối hợp Hậu thiên bát quái liên quan đến Hà Đồ; là sự thay đổi có tính căn để nguyên lư của các phương pháp ứng dụng liên quan đến thuyết Âm Dương và Ngũ hành. Nhưng tính hợp lư đă chứng minh mới chỉ giới hạn trong chính nó. Với luận điểm cho rằng: Hà Đồ là quy luật chủ yếu bao trùm (Pháp Đại uy nỗ) ; là cơ sở của Hậu Thiên bát quái Lạc Việt; có nguồn gốc là những hiệu ứng tương tác từ vũ trụ đến Địa cầu; liên quan đến tất cả mọi vấn đề thiên nhiên; cuộc sống và con người – th́ nó phải chứng tỏ một tính lư giải hợp lư cho tất cả mọi phương pháp ứng dụng và hiện tượng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành; theo đúng các tiêu chí khoa học hiện đại.
Trên thực tế những phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành bao trùm trên mọi lĩnh vực liên quan đến thiên nhiên và con người. Bởi vậy; sự lư giải một cách hợp lư cho một nguyên lư căn để của học thuyết này là “Hà Đồ liên hệ với Hậu thiên bát quái” thuộc về văn minh Lạc Việt; cũng phải thỏa măn trong sự hợp lư bao trùm đó. Nhưng sự chứng minh này sẽ không thể hoàn chỉnh; nếu không giải thích một nguyên lư có tính căn để nữa liên quan là. “Hậu thiên bát quái đổi chỗ Tốn & Khôn”. Cơ sở của sự chứng minh này; t/g Nguyễn Vũ Tuấn Anh đă tŕnh bày trong cuốn “T́m về cội nguồn Kinh Dịch” (Tủ sách/Thư viện tuvilyso) quí vị có thể tham khảo. Nhưng trong luận đề này – Để tiện cho việc t́m hiểu và quán xét của quí vị quan tâm – người viết xin được tŕnh bày lại những luận cứ chính như sau:
@ - Luận đề thứ nhất:
Trên thực tế cấu tạo của Bát quái; các nhà nghiên cứu Dịch học cổ kim đă phân loại thành hai nhóm là:
A) Nhóm bất Dịch gồm: Càn ; Khôn ;Ly; Khảm
Đặc tính của 4 quái này là: Không thay đổi thuộc tính quái khi xoay chuyển các quái.
B) Nhóm điên đảo Dịch gồm: Đoài Tốn; Cấn Chấn
Nhóm này lại phân làm có hai cặp Đoài & Tốn; Cấn & Chấn có tính chất sau:
*) Những quái trong cùng một cặp (Đoài& Tốn hoặc Cấn &Chấn) nếu xoay 180 độ th́ thay đổi đặc tính quái cho nhau.
*) Nếu kết hợp hai quái trong cùng một cặp th́ ta sẽ được một cặp Bất Dịch. Chúng ta tạm đặt tên là: “Cặp điên đảo Dịch cùng tính chất ”
@ - Luận đề thứ hai
Từ thuận tự của 64 quẻ được ghi nhận trong Chu Dịch và được bảo chứng bằng Tự quái truyện; t/g Nguyễn Vũ Tuấn Anh sắp lại từng cặp liên tiếp và được 32 cặp quẻ có tính chất đối xứng như sau:
Trên cơ sở 32 cặp quẻ tŕnh bày ở trên; quí vị quan tâm sẽ nhận thấy ngay rằng: Mỗi cặp là một đồ h́nh đối xứng nhau. Trong đó có 4 cặp đối xứng Âm Dương và 28 cặp đối xứng nghịch đảo.
Quí vị cũng nhận thấy rằng:
Để có 32 cặp quẻ có tính đối xứng th́ chúng có 3 phương thức tạo cặp sau đây:
1)Hai quái bất Dịch kết hợp với nhau. Thí dụ:
2) Một quái bất Dịch kết hợp với một “cặp Điên Đảo Dịch cùng tính chất”. Thí dụ:
3) Hai “Cặp điên đảo Dịch cùng tính chất” kết hợp với nhau. Thí dụ:
Như vậy; khi một quái “Điên đảo Dịch” cùng kết hợp với một quái “Điên đảo Dịch” cùng tính chất với nó thành một “Cặp điên đảo Dịch cùng tính chất” và tương đượng một quái bất Dịch trong việc tạo 32 cặp quẻ..
Như vậy:
* Căn cứ vào luận đề thứ nhất về các “Cặp điên đảo Dịch cùng tính chất”;
* Căn cứ vào luận đề thứ hai về qui luật tạo nên tính đối xứng của các cặp quẻ. Đó là:
Để có được 32 cặp quẻ theo đúng thuận tự 64 quẻ trong Chu Dịch th́ qui luật đó sẽ gồm hai quái bất dịch kết hợp; hoặc hai “Cặp điên đảo dịch cùng tính chất” kết hợp; hoặc một “Cặp điên đảo dịch cùng tính chất” kết hợp với một quái bất dịch.
Xét đồ h́nh Hậu thiên Bát quái trong bản văn cổ chữ Hán; chúng ta thấy rằng:
“Cặp điên đảo dịch cùng tính chất” Cấn & Chấn có vị trí ở cạnh nhau cùng tính chất Âm Dương/ Mộc trên Hà Đồ. Trong sự tạo thành thuận tự 64 quẻ/32 cặp quẻ đối xứng; chúng kết hợp để tạo thành một cặp điên đăo Dịch cùng tính chất. V́ vậy “cặp điên đảo dịch cùng tính chất” Đoài &Tốn ko thể ở vị trí cách nhau như đồ h́nh Hậu thiên bát quái được mô tả trong bản văn chữ Hán. Tính hợp lư của thuận tự 64 quẻ Dịch được minh chứng trong Tự quái truyên và đó là sự ứng dụng hữu hiệu trên thực tế trải hàng thiên niên kỷ (Trước khi đồ h́nh HTBQ được công bố vào đời Tống) – lư giải tất cả mọi chuyện liên quan đến con người với khả năng tiên tri – đă chứng tỏ vị trí Tốn & Khôn phải thay đổi theo Hậu thiên bát quái nguyên thủy từ văn minh Lạc Việt.
Xin quí vị xem h́nh dưới đây:
HẬU THIÊN LẠC VIỆT
HẬU THIÊN BÁT QUÁI THEO SÁCH HÁN
Kính thưa quí vị quan tâm.
Như vậy; sự thay đổi vị trí Tốn & Khôn đă chứng tỏ tính hợp lư trong việc giải thích tính kết hợp của Đoài & Tốn trong việc tạo ra thuận tự 64 quẻ/ 32 cặp quẻ trên thực tế. Chính sự thay đổi này và tiếp theo đó là:
Hậu Thiên bát quái nguyên thủy từ văn minh Lạc Việt kết hợp với Hà đồ sẽ là nguyên lư căn để cần yếu trong việc tiếp tục giải thích tất cả mọi trường hợp liên quan một cách hợp lư; hoàn chỉnh và nhất quán; giải thích tính quy luật; tính khách quan và khả năng tiên tri của siêu lư thuyết Âm Dương Ngũ hành; một lư thuyết thống nhất vũ trụ. Đó là những trường hợp thể hiện ở phương pháp ứng dụng trong Thái Ất; Tử Vi; Độn giáp; Tử B́nh; Mai Hoa…..và tất nhiên cần có thời gian.
Hay nói một cách khác: Đó chính là cái ch́a khóa để mở Cánh cửa bí ẩn của văn minh Đông phương . Tất nhiên nó thuộc về VĂN MINH LẠC VIỆT
Tính hợp lư của Hậu thiên Lạc Việt c̣n được chứng tỏ ở những vấn đề lịch sử liên quan:
@ Người Hán khi biết đến đồ h́nh Hậu thiên và Tiên thiên vào đời Tống; th́ trước khi đó cả ngàn năm vẫn ứng dụng 64 quẻ Dịch để coi bói. Và cho đến ngày này khi Chu Dịch lan truyền cả thế giới; nếu như ông Thiệu Khang Tiết ko công bố hai đồ h́nh Tiên và Hậu thiên Bát quái th́ có lẽ chúng ta cũng vẫn coi bói y như người Hán trước Tống và cũng có những tên tuổi như Quản Lộ; Khổng Minh (Thời Hán trước Tống cả ngàn năm) vv… Điều này đă cho thấy rằng: Đồ h́nh Hậu thiên và Tiên thiên liên hệ với Hà Lạc mang tính nguyên lư lư thuyết và khoảng cách của hai đồ h́nh này cho đến thực tế ứng dụng vào khả năng tiên tri rơ ràng là một khoảng cách rất lớn. Chỉ riêng hiện tượng này đă cho thấy: Nền văn minh Hán không thể là chủ nhân của Kinh Dịch; khi mà một đồ h́nh căn để có tính nguyên lư của Kinh Dịch xuất hiện sau sự ứng dụng ngót 2000 năm – tính từ thời Chu Văn Vương được coi là tác giả của Dịch?
Bởi vậy; chính sự sai lệch từ nguyên lư căn để này trong sách Hán và một khoảng cách rất xa từ nguyên lư căn để đến ứng dụng thực tế; đă khiến cho nền lư học Đông phương ch́m sâu trong sự huyền bí trải hàng thiên niên kỷ; khi văn minh Lạc Việt sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử.
Người ta không thể t́m ra một cái đúng từ một cái sai.
Chính v́ tính ứng dụng có trước khi đồ h́nh Tiên & Hậu thiên ra đời – th́ ngoài việc chứng tỏ tính mâu thuẫn về lịch sử phát triển của nó nếu coi thuộc về văn minh Hán - c̣n chứng tỏ: Sự hiểu chỉnh này cũng chỉ mang tính phục hồi một nguyên lư lư thuyết và sự hiệu chỉnh những vấn đề liên quan. Vào thời Hán - trước Tống cả ngàn năm - Quản Lộ đă từng bói như thần mà chẳng cần biết đến Tiên thiên và Hậu thiên bát quái với Hà Lạc ra sao – ít nhất về mặt lịch sử văn bản. Sự hiệu chỉnh đúng sẽ dẫn đến khả năng phục hồi toàn bộ hệ thống lư thuyết là nguyên lư của Kinh Dịch và khả năng cho chúng ta biết đến một thực tại nào là cơ sở nhận thức dẫn đến h́nh thành hệ thống lư thuyết đó? Căn cứ trên tiêu chí khoa học hiện đại th́ tất cả các môn ứng dụng mà chúng ta đang dùng ở đây là: Thái Ất; Tử Vi…..th́ chúng hoàn toàn đáp ứng đầy đủ yêu cầu của tiêu chí khoa học hiện đại.
@ Xét về lịch sử văn bản th́ đồ h́nh Hậu thiên do ông Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống hoàn toàn có thuận tự trùng khớp với tiết V thuyết quái truyện nếu xét thuận tự theo chiều kim đồng hồ từ quái Chấn (“Đế xuất hồ Chấn”…). Nhưng thực tế Tiết V thuyết quái truyện có phải là nguyên lư cho đồ h́nh Hậu thiên bát quái không?
Xin quí vị quan tâm xem tiếp bài viết sau:
GIẢI MĂ NHỮNG HIỆN TƯỢNG VĂN HÓA DÂN GIAN LIÊN QUAN & TIẾT V – Thuyết quái truyện
Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
-------------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại.
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 09 June 2005 lúc 11:38am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 17 of 33: Đă gửi: 11 June 2005 lúc 7:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
Người viết một lần nữa xin được lưu ư quí vị quan tâm là:
Tất cả những sự giải mă một số hiện tượng văn hóa dân gian Việt Nam để t́m vào sự bí ẩn văn hóa Đông phương; đều không là bằng chứng trực tiếp chứng minh cho “cội nguồn văn hóa Đông phương thuộc về người Lạc Việt”. Sự giải mă này chỉ có tính hướng dẫn – khi sự giải mă đúng – để khám phá bản chất đích thực của nền văn minh huyền bí này. Chỉ khi sự khám phá được sáng tỏ th́ chính tính chân lư của sự việc sẽ là bằng chứng chứng minh cho luận điểm trên.
Nhưng vấn đề không chỉ dừng lại ở sự giải mă những giá trị văn hóa dân gian Việt Nam; mà nó c̣n nằm ngay trong cả những truyền thuyết dân gian vốn được coi là thuộc về văn minh Hoa Hạ và của chính Kinh Dịch.
GIẢI MĂ TIẾT V- THUYẾT QUÁI TRUYÊN.
Một hiện tượng có vẻ như là một sự bảo chứng cho thuận tự của đồ h́nh Hậu thiên bát quái lưu truyền trong cổ thư chữ Hán chính là đoạn văn sau đây trong “Tiết V – thuyết quái truyên”:
* “Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đoài. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn”.
Sau đó hàng ngàn năm; đồ h́nh Hậu Thiên bát quái được các đạo gia là Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống th́ hoàn toàn trùng khớp với thuận tự của đoạn văn trên. Xin quí vị quan tâm xem h́nh dưới đây:
THUÂN TỰ HẬU THIÊN BÁT QUÁI VÀ TIẾT V THUYẾT QUÁI TRUYỆN
(Theo cổ thư chữ Hán)
Như vậy; qua đồ h́nh trên chúng ta thấy rằng: Hoàn toàn có sự trùng khớp theo thuận tự của Đồ h́nh Hậu thiên bát quái theo cổ thư chữ Hán - được công bố vào đời Tống - với bản văn Kinh Dịch cổ lưu truyền từ thời Hán trong Tiết V - Thuyết quái truyện. Bởi vậy; có một số nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng: Đồ h́nh Hậu thiên bát quái do các đạo gia thời Tống căn cứ vào Thuyết quái tạo ra.
Nhưng thực tế th́ ngay đoạn văn trên của Tiết V – Thuyết quái truyện lại không hề có một chữ nào xác định đây là cơ sở của đồ h́nh Hậu Thiên bát quái được công bố vào đời Tống. Nghĩa đen của đoạn trên chỉ là:
Đế xuất hồ Chấn = Vua ra cửa Chấn.
Tề hồ Tốn = Làm bằng cửa Tốn.
Tương kiến hồ Ly = Gặp gỡ ở cửa Ly.
Trí dịch hồ Khôn = Suy nghĩ chuyển cửa Khôn.
Duyệt ngôn hồ Đoài = Vui vẻ ở Đoài (hoặc nói chuyện ở Đoài).
Chiến hồ Càn = Tranh chấp ở Càn.
Lao hồ Khảm = Khó nhọc ở Khảm.
Thành ngôn hồ Cấn = Nói xong ở Cấn.
Ngay trong Thuyết quái truyện cũng có một lời giải thích sơ sài về đoạn văn bí ẩn trên.
Chúng ta cùng quán xét toàn bộ đoạn giải thích đó như sau:
** Vạn vật xuất hồ Chân. Chấn; Đông phương dă. Tề hồ Tốn. Tốn Đông Nam dă. Tề dă giả; ngôn vạn vật chi khiết tề dă. Ly dă giả; minh dă; vạn vật giai tương kiến; Nam phương chi quái dă. Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ; hưởng minh nhi trị; cái thủ chư thử dă. Khôn dă giả; địa dă; vạn vật giai trí dưỡng yên. Cố viết: “Trí dịch hồ Khôn”. Đoài chính Thu dă; vạn vật chi sở duyệt dă. Cố viết: “Duyệt ngôn hồ Đoài”. Chiến hồ Càn; Càn Tây Bắc chi quái dă; ngôn Âm Dương tương bạc dă. Khảm dă; Thủy dă; chính Bắc phương chi quái dă; lao quái dă. Vạn vật chi sở quy dă. Cố viết: “Lao hồ Khảm”. Cấn Đông Bắc chi quái dă; vạn vật chi sở thành chung nhi sở thành thủy dă. Cố viết: “Thành ngôn hồ Cấn”..
Bản dịch của Hải Ân “Kinh Dịch với đời sống”(Nxb VHDT 1998):
Vạn vật xuất ra ở Chấn. Chấn ở phương Đông. Hoàn thành mọi việc ở Tốn; Tốn Đông Nam. Hoàn thành có nghĩa là vạn vật trở nên trong sạch hoàn toàn. Ly là sáng; vạn vật đếu thấy nhau; là quẻ của phương Nam. Thánh nhân quay mặt về phương Nam mà trị; là lấy tượng ở đây. Khôn là đất; lo cho vạn vật được nuôi dưỡng; cho nên nói rằng: “Làm cho chúng giúp ích nhau ở Khôn”. Đoài là giữa mùa Thu; vạn vật đều vui vẻ; cho nên nói rằng: “Làm cho chúng vui ở Đoài”. Chiến đấu ở Kiền; Kiền là quẻ chủ ở Tây Bắc; có nghĩa là ở đó Âm Dương kích động nhau vậy. Khảm là nước; là quẻ của phương Bắc; là quẻ khó nhọc; mà mọi vật đều quy phục; cho nên nói rằng: “Khó nhọc ở Khảm”. Cấn là quẻ Đông Bắc; nơi mà lúc đầu và lúc cuố của vạn vật hoàn tất; cho nên nói rằng: “Thành tựu ở Cân”.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Như vậy; Tiết V/ Thuyết quái truyện được chia làm hai phần: Phần một (*) là luận đề và phần hai (**) là sự giải thích của phần trên. Do đó; vấn đề được đặt ra là: Tại sao cùng một ngôn ngữ (Chữ Hán); cùng một tác giả (Vốn được coi là Khổng Tử) lại phải có phần này diễn giải chú thích cho phần kia? Phải chăng phần một (*) là thừa; v́ chỉ phần hai (**) cũng đủ nghĩa? Trên cơ sở sự mâư thuẫn này; người viết cho rằng: Phần một (*) chính là một mật ngữ cho thấy vị trí Tốn Khôn cần phải sửa lại; phần hai là sự che dấu mật ngữ này:
Toàn bộ mật ngữ này đượcgiải mă nghư sau:
1) Đế xuất hồ Chấn = Vua ra cửa Chấn: Sự t́m hiểu phục hồi cố sử thời Hùng Vương (Đế) sẽ gây chấn động; do những thay đổi từ căn để những nguyên lư của thuyết Âm Dương Ngũ hành.
2) Tề hồ Tốn = Làm bằng cửa Tốn: Bỏ vị trí của quái Tốn ở Đông Nam.
3) Tương kiến hồ Ly = Sự việc bắt đầu từ phương Nam.
4) Trí dịch hồ Khôn = Suy nghĩ một phương pháp luận hợp lư để chuyển cửa Khôn. Đương nhiên là chuyển về Đông Nam khi đă bỏ quái Tốn khỏi vị trí này.
5) Duyệt (Có sách dịch là thuyết) ngôn hồ Đoài = Điều này sẽ đúng với nguồn gốc của Kinh Dịch.
6) Chiến hồ Càn = Từ đây sẽ phục hồi một siêu lư thuyết vũ trụ quan (Càn) và gây tranh luận.
7) Lao hồ Khảm = Khó nhọc ở phương Bắc. Cũng có thể hiểu là: Thủy Khảm chủ thần trí; cần có sự suy nghĩ lao tâm mới có thể t́m hiểu được sự thật bao trùm bởi bức màn huyền bí.
8) Thành ngôn hồ Cấn = Cấn chính là tượng của Trái đất (Xin xem “T́m về cội nguồn Kinh Dịch”. Tiêu đề:”Lư giải về nguyên nhân hiện tượng quẻ Cấn ở trung cung trong ứng dụng của thuật phong thủy từ văn minh Văn Lang”; trang 281. Tủ sách tuvilyso đă lư giải). Mọi chuyện sẽ sáng tỏ và hoàn chỉnh khi đặt vị trí Trái Đất là trung tâm của mọi sự diễn dịch.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Vấn đề sẽ tiếp tục đặt ra là: Tại sao trong chính cuốn Kinh Dịch lại tồn tại một mật ngữ cần giải mă để góp phần t́m giá trị đích thực của nó. Để giải thích điều này; người viết cho rằng: Chính tổ tiên người Lạc Việt đă viết tiết V thuyết quái truyện; cài những mật ngữ cho con cháu đời sau t́m về cội nguồn của tổ tiên và phục hồi lại một giá trị tri thức siêu việt bị thất truyền. Các học giả cận - hiện đại bằng phương pháp thẩm chứng văn bản cũng đă có ư kiến cho rằng: “Thuyết quái truyện” được viết rất muộn sau thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Tức là tương đương thời điểm nền văn minh vĩ đại của người Lạc Việt bị sụp đổ ở Nam sông Dương Tử (Năm 258 trước CN). Và không phải chỉ ở Tiết V thuyết quái truyện; mà những di sản văn hóa phi vật thể c̣n lại của người Lạc Việt cũng ẩn chứa nhiều mật ngữ để giải mă những bí ẩn của sự huyền bí Đông phương. Một trong những hiện tượng của truyền thuyết liên quan đến vị trí Tốn Khôn chính là “Sự tích bà Nữ Oa vá trời” vốn được coi là sản phẩm của văn hóa Hoa Hạ.
Giải mă truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời”
Nội dung truyền thuyết này như sau:
Vào thời Hiên Viên; thần nước Cộng Công đánh nhau với thần lửa Chúc Dong. Cộng Công thua trận; húc đầu vào núi Bất Chu; khiến cột trời đổ gẫy. Trời nghiêng về phía Tây Bắc; đất lệch về phía Đông Nam. Nước từ trên trời đổ xuống gây ngập lụt ở khắp nơi. Bà Nữ Oa đốt cỏ Lư thành tro ngăn nước lụt; lấy đá ngũ sắc dưới biển vá trời. Sau đó bắt con rùa lớn đứng đội trời lên. Từ đó; cuộc sống trở lại yên b́nh.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Những chi tiết trong truyền thuyết này theo cái nh́n chủ quan của ngựi viết chính là sự hướng dẫn tới một luận điểm cho rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là siêu lư thuyết vũ trụ quan và Bát quái chỉ là kư hiệu siêu công thức của học thuyết này. Nguyên lư căn để của học thuyết này là Hậu thiên bát quái đổi chỗ Tốn Khôn liên hệ với Hà Đồ và thuộc về văn minh Lạc Việt. Điều này được giải mă qua truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời” như sau:
Trong Tiên Thiên Bát quái trục Càn Khôn là trục thẳng đứng. Nếu ta kẻ một đường thẳng th́ đây chính là cột “chống trời” (Chống trên đất Khôn; đỡ trời Càn). Trong Hậu thiên bát quái th́ thay thế Càn /Khôn bằng Khảm /tượng bằng thần nước Cộng Công và Ly/ tượng bằng thần lửa Chúc Dung. Thủy Hỏa xung khắc tượng cho cuộc chiến của hai vị thần. Danh từ “Bất Chu” c̣n có nghĩa là Hậu thiên bát quái ko phải do nhà Chu (Chu Văn Vương) làm ra. Trong Hậu thiên bát quái từ bản văn cổ chữ Hán th́ Càn ở phía Tây Bắc (Trời nghiêng về phía Tây Bắc); Khôn ở Tây Nam. Nhưng theo sự hướng dẫn của truyền thuyết này th́ Khôn phải ở phía Đông Nam (Khôn/ Đất lệch về phía Đông Nam). Bà Nữ Oa lấy đá ngũ sắc vá trời tức là cơ sở của Bát quái chính là thuyết Âm Dương ngũ hành. H́nh tượng “lấy cỏ Lư; đốt thành tro ngăn nước” cho thấy “đốt” là Hỏa; thành “tro” là Âm Hỏa; “ngăn nước” là Thổ. Như vậy là Khôn Thổ phải ở cung Âm Hỏa.
Nếu Hậu thiên bát quái đổi chỗ Tốn Khôn và liên hệ với Hà đồ sẽ trùng khớp một cách kỳ lạ và thỏa măn tất cả điều kiện trên. Xin quí vị quan tâm xem lại đồ h́nh Hà Đồ liên hệ với Hậu Thiên Bát quái nguyên thủy từ văn minh Lạc Việt ở bài trên. Bà Nữ Oa c̣n có thể hiểu là “Mẹ Cóc”; biểu tượng của sự khai sinh ra chữ Khoa Đẩu (Chữ h́nh con ṇng nọc); ghi lại những giá trị của nền văn minh Lạc Việt; lưu truyền trong Lạc thư là sách của người Lạc Việt.
ÔNG KHIẾT - BIỂU TƯỢNG CỦA NỀN VĂN MINH KHOA ĐẨU
Minh họa: Thiên Sứ
Kính thưa quí vị quan tâm.
Sự giải mă truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời” cho thấy sự trùng khớp hoàn toàn những h́nh tượng được nhắc tới trong truyền thuyết với quan niệm: “Đồ h́nh Hậu Thiên Bát quái đổi chỗ Tốn Khôn liên hệ với Hà Đồ” và thuộc về văn minh Lạc Việt. Người viết xin thống kê những chi tiết trùng khớp sau đây để quí vị tham khảo:
1) Cột chống trời Bất Chu = Không phải nhà Chu tạo ra Kinh Dịch.
2) Thần Lửa và Thần Nước xung khắc; nước từ trên trời đổ xuống = Khảm /Ly thay thế Càn / Khôn
3) Trời nghiêng về phía Tây Bắc = Quái Càn nằm ở phía Tây Bắc của HTBQ. Đây là sự thể hiện rất rơ về phương vị của quái Càn.
4) Dùng đá Ngũ sắc để vá trời = Ngũ hành chính là cơ sở của Bát quái.
5) Đât lệch về phía Đông Nam = Quái Khôn phải ở phía Đông Nam.
6) Đốt cỏ Lư thành Tro – ngăn nước = Tro chính là Âm Hỏa. Nhưng tất cả những ai đă có kiến thức căn bản về sự sinh khắc của Ngũ hành đều biết rằng: Chỉ có Hoả mới sinh Thổ. Như vậy; Khôn Thổ phải ở cung Âm Hỏa. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Hà Đồ liên hệ với HTBQ đổi chỗ Tốn Khôn. V́ như vậy Khôn/ Thổ sẽ nằm ở cung Âm Hoả độ số 2/ Đông Nam của Hà Đồ.
Như vậy; cho dù sự giải mă xuất phát từ tính chủ quan của t/g th́ tính trùng khớp đến kỳ lạ của truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời” với các vấn đề của Kinh Dịch; cũng chứng tỏ nó phải được h́nh thành một cách có chủ ư; để phản ánh một thực tế đă khuất lấp trong văn hóa Đông Phương. Vậy ai là chủ nhân sáng tạo của truyền thuyết này? Người Hoa Hạ sáng tạo ra để tự phản bác họ chăng? Điều này chỉ có thể giải thích rằng: Chỉ có chính chủ nhân của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch - một tri kiến vũ trụ quan siêu việt – mới biết rơ ḿnh phải làm ǵ để bảo vệ những giá trị đích thực của một nền văn minh bị sụp đổ cho con cháu mai sau.
Chính tính hướng dẫn của sự giải mă những truyền thuyết vốn được coi là thuộc về văn minh Hoa Hạ và của chính Kinh Dịch này; lại chứng tỏ một cách sắc sảo hơn nữa của luận điểm cho rằng: Nền văn minh Văn Lang một thời huy hoàng và lừng lẫy ở miền nam sông Dương tử đă sụp đổ vào thế kỷ thứ 3 trước CN và đă bị Hán hóa.
Kính thưa quí vị quan tâm
Sự giải mă một số những giá trị di sản văn hoá phi vật thể; để từ đó t́m ra tính hướng dẫn nhằm khám phá những bí ẩn của văn hoá Đông phương; tạm thời người viết bài này và t/g Nguyễn Vũ Tuấn Anh chưa coi là bằng chứng khoa học trong việc minh chứng cho sự tồn tại của một siêu lư thuyết thống nhất vũ trụ. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa nó không thực sự là một bằng chứng khoa học. Trong tương lai phát triển của tri thức nhân loại; sự giải mă những giá trị văn hoá phi vật thể sẽ được công nhận là bằng chứng khoa học bởi những tiêu chí khoa học cho sự giải mă này (Thiên Sứ tôi dự đoán rằng: Cuối vận 8 hoặc đầu vận 9; sự giải mă những giá trị văn hoá phi vật thể sẽ được thừa nhận với tiêu chí khoa học). Khi ấy; chính những giá trị văn hoá phi vật thể được giải mă sẽ là một yếu tố chứng minh rơ nét cho nền văn minh Việt một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử và trải gần 5000 văn hiến của người Lạc Việt. Điều này sẽ xảy ra giống như trước đây; những giá trị văn hoá phi vật thể chưa được công nhận là bằng chứng khoa học. Nhưng vào năm 2002; cơ quan văn hoá Liên Hợp quốc đă thừa nhận những giá trị văn hoá phi vật thể là bằng chứng khoa học.
Để tiếp tục minh chứng tính hợp lư trong việc giải thích những hiện tượng liên quan – theo đúng tiêu chí khoa học – xin quí vị quan tâm xem tiếp những bài viết trong chủ đề này.
PHÁP ĐẠI UY NỖ
Phương vị Phong Thủy và vị trí Tốn Khôn liên hệ Hà Đồ.
Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
---------------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 18 of 33: Đă gửi: 13 June 2005 lúc 1:38am | Đă lưu IP
|
|
|
PHÁP ĐẠI UY NỖ
– Tiếp theo –
Phương vị Phong Thủy và vị trí Tốn Khôn trong Hậu thiên bát quái liên hệ Hà Đồ.
Kính thưa quí vị quan tâm
Sự liên hệ của Hậu thiên bát quái nguyên thủy với Hà Đồ mới chỉ đạt được tính hợp lư với chính nó trong sự tương quan của Kinh Dịch. Bởi vậy; nó cần phải chứng tỏ tính hợp lư và tính qui luật; sự nhất quán một cách toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực ứng dụng; mới chứng tỏ được tính chân lư của nó trong các phương pháp ứng dụng khác là: Thái Ất; Tử Vi; Phong thuỷ..v.v..
Phương pháp ứng dụng đầu tiên người viết hân hạnh tŕnh bày với quí vị là:
Hậu thiên bát quái phối Hà Đồ trong thuật Phong Thủy
Trước hết chúng ta hăy cùng quán xét chiếc La Kinh. Có thể nói rằng: Chiếc La Kinh dùng trong Phong Thủy là một minh chứng rất rơ nét cho việc Hậu Thiên bát quái liên hệ với Hà Đồ.
Thuận tự theo chiều Ngũ hành tương sinh của 24 sơn hướng của chiếc la kinh hoàn toàn trùng khớp với chiều Ngũ hành tương sinh của Hà Đồ.
Xin quí vị quan tâm so sánh h́nh Phương vị 24 sơn của La Kinh và Hà Đồ liên hệ Hậu thiên bát quái Lạc Việt; dưới đây:
H̀NH LA KINH & HÀ ĐÔ
Qua h́nh trên; quư vị quan tâm cũng thấy sự trùng khớp hoàn toàn về các Phương Vị của Hậu thiên bát quái & Hà Đồ với sự thể hiện phương vị Hậu Thiên bát quái trên La Kinh. Đặc biệt phần phía Nam và Tây của Hà Đồ; sự trùng khớp về phương vị và hành được thể hiện như sau:
* Khảm =Thuỷ; Nhâm Tư Quư = Thuỷ nằm ở phương Bắc của La Kinh. Tương ứng với:
Khảm = Thuỷ nằm ở phương Bắc Thuỷ; độ số 1 của Hà Đồ.
* Chấn = Mộc; Giáp Măo Ất = Mộc nằm ở phương Đông của La Kinh. Tương ứng với:
Chấn = Mộc nằm ở phương Nam Mộc; độ số 3 của Hà Đồ.
* Ly = Ḥa; Bính Đinh = Hỏa nằm ở phương Nam của La Kinh. Tương ứng với:
Ly = Hỏa nằm ở phương Nam Hỏa; độ số 7 của Hà Đồ.
* Đoài = Kim; Canh Tân = Kim tọa vị tại phương Tây của La Kinh. Tương ứng với:
Đoài Kim tọa vị phương Tây Kim; độ số 9 của Hà Đồ.
Như vậy; chính trên chiếc La Kinh này; chúng ta chỉ có thể thấy được dấu ấn của Hà Đồ rất rơ nét và không thể minh chứng được mối quan hệ với Lạc Thư của Hậu thiên bát quái. Người viết đă tŕnh bày ở phần trên: ”Hà Đồ chính là sự vận động của Ngũ tinh trong Thái Dương hệ tương quan với Trái Đất”; hay diễn đạt một cách khác Chính sự vận động của Trái Đất và Ngũ tinh trên quỹ đạo của nó tạo nên độ số Hà Đồ.. Bởi vậy; khi phi tinh - nếu nói theo ngôn ngữ khoa học hiện đại - tức là t́m những hiệu ứng vũ trụ từ sự vận động của các v́ sao gần trái đất; th́ sự hợp lư tiếp theo là phải phi tinh trên Hà Đồ; chứ không thể trên Lạc thư như cổ thư chữ Hán nói tới. Như vậy; với phương pháp phi tinh trên Hà Đồ th́ tính cung phi theo tuổi sẽ có sự hoán vị ở Đoài/ Ly (Do độ số của hai quái này bị thay đổi khi Hậu Thiên kết hợp Hà Đồ). Xin quí vị quan tâm lưu ư là: Nguyên tắc phi tinh không đổi. Tức là: Cũng ra một vào 2; lên 3; xuống 4 .vv…(Người viết xin có một bài viết phụ trong luận đề này về phương pháp phi tinh trên Hà Đồ).
Kính thưa quí vị quan tâm.
Như vậy; người viết đă hân hạnh minh chứng tính dụng của Hà Đồ với Phong thủy qua chính một vật dụng bất ly thân của thuật này là chiếc La Kinh. Nhưng vấn đề không dừng ở đây; bởi v́ c̣n một tiền đề quan trọng liên quan rất chặt chẽ đến Hà Đồ; đó là Hậu thiên bát quái hoán vị Tốn & Khôn trong thuật Phong thủy. Tính hợp lư của sự hoán vị này trong Phong Thủy chứng minh được tính hợp lư của “Quy luật chủ yếu bao trùm” (Pháp Đại uy nỗ). Trước khi minh chứng tính hợp lư của Hà Đồ và Hậu thiên theo văn minh Việt; xin quí vị quan tâm quán xét lại mối tương quan này trong cổ thư chữ Hán là Hậu thiên phối Lạc thư qua h́nh dưới đây:
TỨ TRẠCH HẬU THIÊN PHỐI LẠC THƯ
(Theo cổ thư chữ Hán)
Quán xét đồ h́nh trên chúng ta cũng thấy Bát quái được qui ước phân làm hai loại thường gọi là Đông tứ cung (Màu đỏ) và Tây tứ cung (Màu đen).
* Tây tứ cung theo sách cổ chữ Hán gồm:
Càn/ Tây Bắc – Đoài/ Chính Tây – Khôn/ Tây Nam - Cấn/ Đông Bắc.
* Đông tứ cung theo sách cổ chữ Hán gồm:
Khảm/ Chính Bắc – Chấn/ Chính Đông – Tốn/ Đông Nam – Ly/ Chính Nam.
Đông tứ cung và Tây tứ cung phân đều trên 4 hành của Lạc thư. Nếu chúng ta lấy từng cặp cùng hành trên Lạc thư theo cổ thư chữ Hán; sẽ được 4 cặp để quán xét sau đây:
Qua sự quán xét 4 cặp cùng hành trên; chúng ta cũng thấy rằng: Chúng hoàn toàn không tuân theo một qui luật nhất quán nào. Tính phi qui luật này lại là hệ quả của sự mâu thuẫn giữa độ số Lạc Thư với hành của quái vị đă dẫn giải ở trên ( Ly /Hỏa nằm ở độ số 9 – độ số của Kim. Đoài /Kim nằm ở độ số 7 – độ số của Hỏa). Bây giờ; chúng ta lại quán xét mối tương quan Đông / Tây tứ cung trên cơ sở Hậu thiên bát quái Lạc Việt liên hệ với Hà Đồ; qua đồ h́nh sau:
TỨ TRẠCH HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ
Trên đồ h́nh này; Đông/ Tây tứ cung cũng phân đều trên 4 hành của Hà Đồ. Bây giờ; chúng ta cũng quán xét theo từng cặp cùng hành như trên; chúng ta sẽ có 4 cặp sau:
Quán xét 4 cặp cùng hành chúng ta cũng thấy rằng: Chúng hoàn toàn tuân theo một qui luật nhất quán; có tính đối xứng rất hoàn hảo. Điều quan trọng ở đây là: Tính quy luật và nhất quán của những cặp cùng hành này; lại là hệ quả của một nguyên lư căn để hợp lư với chính nó là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ (Đă chứng giải ở trên); và nó lại thuộc về một hệ thống lư thuyết hoàn chỉnh và nhất quán trong luận đề này là:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán; hoàn chỉnh và là một siêu lư thuyết thống nhất vũ trụ; Bát quái chỉ là kư hiệu siêu công thức của học thuyết này. Hay diễn đạt đúng hơn là:
Chính sự đổi chỗ Tốn Khôn trong Hậu thiên bát quái và phối Hà Đồ làm nên tính qui luật hoàn hảo của Lạc Việt phong thuỷ - tạm thời sự chứng minh giới hạn ở phương pháp Bát trạch minh cảnh.
Như vậy; tính qui luật; nhất quán và hoàn chính của nguyên lư căn để trong thuyết Âm Dương Ngũ hành là “Hậu thiên bát quái Lạc Việt phối Hà Đồ” đă chứng giải tính hợp lư và nhất quán của luận đề này trong thuật Phong Thủy; người viết sẽ tiếp tục chứng giải tính hợp lư “Hậu thiên bát quái Lạc Việt phối Hà Đồ” trong các vấn đề liên quan đến một số hiện tượng trong việc an sao trong Tử Vi; vốn gây tranh căi v́ thiếu một nguyên lư lư thuyết hoàn chỉnh để đối chứng. Phần này sẽ xin được tŕnh bày sau bài phụ lục về phương pháp tính phi cung và phi tinh trên cơ sở Hà Đồ phối Hậu thiên nguyên thủy.
Chân thành cảm ơn quí vị quan tâm.
Thiên Sứ
------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 13 June 2005 lúc 2:00am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 19 of 33: Đă gửi: 13 June 2005 lúc 6:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG TRONG THUẬT PHONG THỦY
Từ Hà Đồ và Hậu Thiên Lạc Việt
Kính thưa quí vị quan tâm.
Tôi rất hân hạnh tường với quí vị sự ứng dung phi tinh trên cơ sở Hậu Thiên nguyên thủy Lạc Việt phối Hà Đồ và những nguyên lư căn bản ứng dụng của nó theo phương pháp này. Sự yêu cầu tha thiết của người viết chỉ là:
Nếu ai ứng dụng những phương pháp này th́ nên nghĩ đến cội nguồn với tâm niệm rằng:
Môn phong thủy vốn gốc thuộc về văn minh Lạc Việt với cội nguồn gần 5000 văn hiến. Bởi v́ tất cả sự ứng dụng ở đây đều bắt nguồn từ một nguyên lư căn để không xuất phát từ cổ thư chữ Hán.
Từ nay; tôi tạm dùng thuật ngữ “ PHONG THỦY LẠC VIỆT để chỉ tất cả các sự ứng dụng trên cơ sở xuất phát hoặc được hiệu chỉnh hay minh chứng từ nguyên lư này.
Một trong những nguyên tắc bao trùm về phương pháp ứng dụng của Phong thủy Lạc Việt là:
Tất cả những trường phái Phong thủy lần lượt xuất hiện trong lịch sử văn minh Hán; thực chất chỉ là sự phát hiện nhanh châm và chuyển ngữ sang Hán từ văn minh Lạc Việt của một phương pháp ứng dụng thống nhất trong Phong Thuỷ - Dương trạch; hoặc Âm trạch trong hơn 1000 năm đô hộ.
Một bằng chứng cho hiện tượng này là:
Chính trường phái gọi là Bát Trạch minh cảnh; khi muốn áp dụng phương pháp này th́ cơ sở của nó là t́m cung Phi cho gia chủ. Nhưng phương pháp tính cung phi lại được ứng dụng theo phi tinh của Huyền không. Bởi vậy phương pháp của Huyền Không và Bát trạch phải có một mối liên hệ chặt chẽ và liên quan tới nhau. Nếu chúng ta bỏ đi nhưng phần lư luận rườm rà; đổi lúc mơ hồ của người đời sau; mà chỉ tính đến phương pháp ứng dụng – của tất cả các sự phát hiện rải rác gọi là trường phái – th́ sẽ thấy một sự tổng hợp tuyệt vời của phương pháp Phong thủy nói chung . Với nguyên lư căn để đă được hiệu chỉnh và chứng minh là “ Hậu thiên bát quái Lạc Việt liên hệ Hà đồ” sẽ dẫn đến một sự giải thích hợp lư tất cả các môn ứng dụng quen gọi là trường phái trên. Từ quan niệm này; chúng ta sẽ thấy tính thống nhất hoàn hảo của các phương pháp ứng dụng Phong thủy giúp ích cho đời sống con người.
* Bát Trạch minh cảnh = Sự liên hệ giữa con người với tương quan phương vị căn nhà.
* Dương trạch tam yếu = Sự liên hệ giữa cấu trúc căn nhà hỗ trợ cho sự tương quan của căn nhà với con người.
* H́nh thể (Loan Đầu)= Sự liên hệ giữa môi trường với vị trí và cấu trúc căn nhà
* Huyền Không = Sự liên hệ giữa ảnh hưởng của sự tương tác vũ trụ lên con người và vị trí môi trường với cấu trúc nhà.
Với sự phân tích ở trên; chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Tất cả các phương pháp ứng dụng đó (quen gọi là trường phái) đều là những yếu tố cần và có sự liên quan rất chặt chẽ trong sự tương tác giữa điều kiện sống của con người với vũ trụ. Điều quan trọng hơn cả là: Tất cả các phương pháp gọi là trường phái đó; đều có một nguyên lư ứng dụng duy nhất - Nếu chúng ta tạm thời bỏ qua các cuộc tranh luận liên quan đến nguồn gốc Lạc Việt hoặc Hoa Hạ - chính là Bát quái và cửu cung. Như vậy; chỉ cần xét đến sự rời rạc mà người ta quen gọi là trường phái này – khi trên thực tế chúng có một nguyên lư căn để duy nhất (Bát quái và cửu cung) và một mục đích duy nhất là: Giúp ích cho con người với sự tương quan ko thể thiếu được v́ tính liên hệ giữa các phương pháp – th́ điều này cũng đủ chứng tỏ nền văn minh Hoa Hạ không có tính liên tục và kế thừa trong sự h́nh thành thuật Phong Thủy.
Tất cả những điều hân hạnh tŕnh bày với quí vị ở trên th́ Lạc Việt Phong Thủy chính là sự tổng hợp của tất cả các trường phái này trong sự ứng dụng của nó. Có sự khác nhau căn bản của Phong thủy Lạc Việt từ ngàn xưa chính là nguyên lư của Hậu thiên Lạc Việt liên hệ Hà đồ để hiệu chỉnh và chứng minh cho tất cả các phương pháp của nó. Từ cơ sở Hậu thiên bát quái nguyên thủy phối Hà Đồ thuộc về nền văn hiến Lạc Việt chúng ta sẽ có một bảng cung phi như sau:
CUNG PHI TRUNG NGUYÊN
(Tính từ 1924 đến 1983)
Năm sinh-----* Tuổi Can Chi-----* Nam -----*Nữ----------* Chú thích
#1954---------# -Giáp Ngọ--------# Khảm 1-----# Cấn 5.
#1955---------#- Ất Mùi-----------#Đoài 9-------# Càn 6-----# (Sách Tàu: Nam/ Ly)
#1956---------#- Bính Thân-------#Cấn 8-------# Ly 7------# (Sách Tàu: Nữ/ Đoài)
#1957---------#-Đinh Dậu --------#Ly 7---------# Cấn 8-----# (Sách Tàu: Nam/ Đoài)
#1958---------#Mậu Tuất---------# Càn 6--------# Đoài 9----# (Sách Tàu Nữ/ Ly)
#1959---------#Kỷ Hợi------------# Khôn 5------# Khảm 1
#1960---------#Canh Tư-----------#Tốn 4--------# Khôn 2
#1961---------# Tân Sửu----------# Chấn 3-------#Chấn 3
#1962---------#Nhâm Dần--------# Khôn 2------#Tốn 4
#1963---------#Quí Măo----------# Khảm 1------#Khôn 5----#(Sách Bát trạch in 1957:
------------------------------------------------------------ ---------------Nữ/ Cấn.Sai)
#1964--------#Giáp Th́n----------#Đoài 9-----# Càn 6 -----#(Sách Tàu: Nam/ Ly)
#1965--------#Ất Tỵ---------------#Cấn 8------# Ly 7--------#(Sách Tàu: Nữ/ Đoài)
#1966--------#Bính Ngọ----------# Ly 7-------# Cấn 8-------#(Sách Tàu: Nam/Đoài)
#1967--------#Đinh Mùi----------#Càn 6------# Đoài 9------#(Sách Tàu: Nữ/Ly)
#1968--------#Mậu Thân---------#Khôn 5-----# Khảm 1
#1969--------#Kỷ Dậu------------#Tốn 4------#Khôn 2
#1970--------#Canh Tuất---------#Chấn 3-----#Chấn 3
#1971--------#Tân Hợi------------#Khôn 2-----#Tốn 4
#1972--------#Nhâm Tư----------#Khảm 1-----#Cấn 5
#1973--------#Quí Sửu-----------#Đoài 9-------#Càn 6-------#(Sách Tàu: Nam/Ly
#1974--------#Giáp Dần----------#Cấn 8---------#Ly 7-------#(Sách Tàu: Nữ/Đoài)
#1975--------#Ất Măo------------#Ly 7-----------#Cấn 8-----#(Sách Tàu:Nam/Đoài)
#1976--------#Bính Th́n---------#Càn 6---------#Đoài 9-----#(Sách Tàu:Nữ /Ly)
#1977--------#Đinh Tỵ-----------#Khôn 5-------#Khảm 1
#1978--------#Mậu Ngọ---------#Tốn 4---------# Khôn 2
#1979--------#Kỷ Mùi-----------#Chấn 3--------#Chấn 3
#1980--------#Canh Thân--------#Khôn 2-------#Tốn 4
#1981--------# Tân Dậu----------#Khảm 1-------#Cấn 5
#1982--------#Nhâm Tuất--------#Đoài 9--------#Càn 6------#(Sách Tàu:Nam/Ly)
#1983--------#Quí Hợi------------#Cấn 8---------#Ly 7--------#Sách Tàu: Nữ Đoài)
Chu kỳ lặp lại từ 1984—Giáp Tư: Nam /Ly; Nữ Cấn
Xin quí vị quan tâm lưu ư
Đây là bảng Tam Nguyên cung phi trên cửu cung Hà Đồ. Phương pháp phi tinh không thay đổi so với trên Lạc thừ trong cổ thư chữ Hán; tức là:
Cũng ra 1; vào 2; lên 3; xuống 4....chỉ có khác là do phi tinh trên Hà Đồ th́ sẽ có thay đổi hướng phi tinh ở phần phía Nam; do Hà Đồ và Lạc thư khác nhau ở phần này.
Chân thành cảm tạ sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
------------------------
Ta về trong cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa
Sửa lại bởi ThienSu : 13 June 2005 lúc 7:16pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 20 of 33: Đă gửi: 22 June 2005 lúc 7:05am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀ ĐỒ CỬU CUNG PHI TINH
Kính thưa quí vị quan tâm.
Sự chứng minh ở trên đă cho thấy rằng:
Hà Đồ liên hệ Hậu Thiên bát quái Lạc Việt chính là cơ sở hợp lư một cách có qui luật; nhất quán; hoàn chỉnh trong những vấn đề liên quan đến nó. Sự liên hệ giữa quái Cấn ở trung cung ứng dụng trong thuật Phong thủy (Nam/Khôn; Nữ/Cấn); cũng là một sự liên hệ rất chặt chẽ trong sự tương quan của Trái Đất với hệ mặt trời (Xin tham khảo: ”T́m về cội nguồn Kinh Dịch”. Tủ sách tuvilyso).
Từ những luận đề chứng minh ở trên về tính tương quan giữa Trái Đất và những hiệu ứng vũ trụ vận động liên quan đến nó – chính là những cơ sở để tạo nên Hà Đồ – th́ tính hợp lư và nhất quán tiếp theo là phương pháp Huyền Không phi tinh phải thực hiện trên Hà Đồ chứ không thể trên Lạc Thư. Từ tất cả những luận cứ đă chứng minh và tŕnh bày ở trên; người viết xin được mô tả đồ h́nh phi tinh trên Hà Đồ và so sánh với phi tinh trên Lạc Thư qua những đồ h́nh dưới đây:
Như vậy – qua sự so sánh giữa hai phương pháp phi tinh ở trên – th́ sai lệch chỉ rơi vào phần phương Nam của Hà đồ. Đặc biệt các vận 3; 5; 7; 9 sự sai lệch có tính khác biệt dẫn đến luận đoán sai lầm ở các phương chính Tây và chính Nam. C̣n trong các vận khác và ở các phương khác th́ sự sai lệch khó nhận biết; do tính chất tương đương của các sao. Như vậy; sự sai lệch này rất hạn chế; nhưng rất quan trọng ở hai phương này.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Nếu chúng ta chỉ giới hạn vấn đề ở sự ứng dụng Phi tinh trên Hà Đồ hay Lạc thư; th́ cùng lắm sẽ chỉ giới hạn ở tính chứng nghiệm hiệu quả trên thực tế. Nhưng ở đây; người viết xin được lưu ư quí vị quan tâm là: Phi tinh trên Hà Đồ là hệ quả tất yếu từ một nguyên lư căn để có sự nhất quán; hoàn chỉnh và hợp lư trong việc giải thích mọi vấn đề liên quan. C̣n phi tinh trên Lạc thư chỉ là hệ quả của một nguyên lư (Hậu Thiên liên hệ Lạc thư/ Trong cổ thư chữ Hán) không thể chứng minh được tính hợp lư với chính nó và sự giải thích một cách hợp lư các vấn đề liên quan.
Sự ứng dụng trong Phong Thủy trên cơ sở “Hà Đồ liên hệ Hậu thiên bát quái Lạc Việt” sẽ không chỉ dùng lại ở hoán vị hai cung Đông Nam và Tây Nam trên Cửu cung và ở ứng dụng phi tinh trên Hà Đồ. Mà c̣n được ứng dụng để hiệu chỉnh một số hiện tượng khác liên quan trong thuật Phong Thủy. Nhưng người viết xin đựơc dừng lại ở đây. V́ luận đề này không nhằm mục đích tŕnh bày toàn bộ những vấn đề liên quan đến Phong thủy; mà chỉ chứng tỏ tính hợp lư từ một nguyên lư căn để được hiệu chỉnh đến một số vấn đề chủ yếu liên quan đến nó. Sự hiệu chỉnh này ko mang tính phủ định những phương pháp ứng dụng vốn là hệ quả của thuyết Âm Dương Ngũ hành – đă chứng tỏ tính hiệu quả trên thực tế từ hàng ngàn năm nay –mà chỉ là sự hiệu chỉnh hoàn thiện và chứng tỏ tính khoa học của nó; trên cơ sở phục hồi những nguyên lư đă thất truyền và chứng minh cho sự kỳ vĩ của nó thuộc về văn minh Lạc Việt.
Để tiện cho sự tham khảo của quí vị quan tâm; phần tiếp theo đây; người viết xin được tường lại vấn đề: “Nguyên lư quái Cấn ở trung cung” từ cuốn “T́m về cội nguồn Kinh Dịch” (Tủ sách tuvilyso.com). Thông qua sự lư giải hiện tượng này; sẽ chứng tỏ rơ ràng hơn luận điểm cho rằng:
Âm Dương Ngũ hành là một lư thuyết thống nhất vũ trụ; chính sự tương tác từ những sự vận động có qui luật trong vũ trụ là tiên đề của học thuyết này.
Chân thành cảm tạ sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
Sửa lại bởi ThienSu : 22 June 2005 lúc 7:09am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|
|
Bạn không thể gửi bài mới Bạn không thể trả lời cho các chủ đề Bạn không thể xóa bài viết Bạn không thể sửa chữa bài viết Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ
|
Trang này đă được tạo ra trong 3.2422 giây.
|