Hiểu được lẽ sống, thoát ly được sự chết và sanh về Cực Lạc, tức là bất sanh bất diệt. Nhưng hiểu được lẽ sống và thoát được sự chết, đâu phải là việc dễ! Đối với Phật pháp, phải có một ḷng tin chắc chắn, phải tu tŕ có sẵn, hay nhờ có thiện căn đời trước, đến khi lâm chung gặp được thiện tri thức chỉ giáo cho mà chăm ḷng niệm Phật. Nhờ thần lực của Phật và Bồ tát dắt d́u, mà được sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây, hay văng sanh về Tịnh độ ở phương khác. Như thế, vẫn không phải như lời sai lầm của kẻ si mê trong thế tục đă nói: "Chết rồi là xong".
Bởi v́ chưa rơ được việc sống, th́ đâu biết được việc chết? Sống rồi chết, chết rồi sống; sống với chết không bao giờ thôi, xoay vần quanh quẩn th́ làm sao xong được?
Những người tin Phật, đối với thế t́nh xem bằng đôi mắt lănh đạm, xét được kỹ, nhận được sâu, thấu hiểu cuộc đời là khổ, nhân sinh là đáng thương; v́ đối thế t́nh nhận được rơ ràng, mới gọi là hiểu được lẽ sống. C̣n thế nào là thoát được sự chết? Tức như chúng ta đang sống đây, không luận việc công hay việc tư, thư nhàn hay bận rộn. Đối với một câu danh hiệu A Di Đà, nếu đem toàn thân mà nương tựa, niệm nào, niệm nào cũng cầu đến Lạc bang, tâm nào, tâm nào cũng chán nhàm uế độ. Được thế, th́ đến khi chết quyết được văng sanh; và được thế mới gọi là thoát được sự chết.
Nhưng những kẻ chưa được liễu sinh, chưa chứng thoát tử, th́ như trong Kinh Phật đă dạy: "Họ phải đi vào giai đoạn Trung ấm". Thân Trung ấm ấy sẽ tùy theo nghiệp lực mà thọ sinh, thời gian thọ sinh có lâu mau không quyết định. Những điều đă thuật lại trong tập này là đem phương pháp niệm Phật mà cứu độ cho thân Trung ấm ấy được siêu sinh thoát tử, và được sanh về cơi Cực Lạc.
Nay chia ra từng điều mục và thuật lại như sau. Nếu ai xem rồi, chịu tuần tự y theo pháp mà thực hành cứu độ, th́ sẽ chứng được Vô sanh pháp nhẫn và chắc chắn được liễu sinh thoát tử vậy.
1- THUYẾT MINH VỀ TRUNG ẤM.
Trung ấm cũng gọi là Trung hữu; tức như chúng ta khi thân này đă chết, th́ gọi là Tử ấm cũng gọi là Tử hữu. Đến khi tái sinh thân sau, th́ gọi là Sinh ấm cũng gọi là Sinh hữu. Giữa khoảng đă chết và chưa sanh, trải qua 49 ngày, riêng có một cái thân th́ gọi là Trung ấm (thế tục gọi là linh hồn, kỳ thật tên tuy đồng, nhưng ư nghĩa th́ khác). Nói một cách thiển cận hơn th́ sau khi đă rời khỏi chỗ này, chưa sanh vào chỗ khác, trong khoảng đă chết và chưa sanh, không dính ǵ với hai bên, ở giai đoạn trung gian ấy, th́ gọi là Trung hữu hay Thần thức, tức là Trung ấm vậy. Chỉ trừ những người đă sẵn có tu tŕ và những người chí thiện th́ liền thọ sanh; hoặc sanh về Tịnh độ hay sanh lên Thiên giới. C̣n những người cực ác cũng như thế, tắt hơi thở liền đọa vào ác thú; không vào thân Trung ấm. Ngoài ra đều phải trải qua giai đoạn Trung ấm vậy.
(Đúng theo trong kinh th́ ư nghĩa của thân là tích tụ; nghĩa là chứa nhóm; tức như cái thân của chúng ta đây là do nhiều nguyên chất ḥa hiệp nhóm góp mà tạo thành, nên gọi là tích tụ. Thế th́ sau khi thân này đă chết và chưa thọ thân sau, trong giai đoạn ấy không thể gọi là thân được. V́ trong đó chỉ có nghiệp thức mà thôi, chưa có tinh huyết của cha mẹ ḥa hiệp và những nguyên chất khác để cấu tạo. Cho nên tuy trong giai đoạn ấy có thể tạm gọi là thân, v́ đủ có sự thấy, nghe, hay, biết, qua, lại v. v... nhưng dó chỉ là cái giả ảnh do nghiệp thức biến hiện, trong kinh Phật có chỗ gọi là Sắc công năng: là cái sắc thân do nơi chủng tử của nghiệp thức mà biến hiện. Cho nên thân Trung ấm là một trạng thái tinh tế, không phải có mắt, tai thô tướng như thân này, mặc dù nó vẫn đủ tác dụng thấy, nghe, hay biết. Thế nên nó có thể xuyên qua tất cả chướng ngại vật và cũng bởi thế nên ta không trông thấy được).
2- TUẦN TỰ VÀ TRẠNG THÁI KHI BỐN ĐẠI PHÂN LY.
Trong thân người, chất cứng rắn thuộc về đất, chất lưu động thuộc về nước, hơi ấm thuộc về lửa, sự chuyển động thuộc về gió, bốn nguyên chất này cùng khắp cả thế giới nên gọi là đại.
1. Trạng thái địa đại lấn áp thủy đại
Lúc đó, khắp trong thân người, cho đến một lỗ lông; đều có cảm giác nặng nề mỏi mệt xâm lấn vào trong tạng phủ, cho đến trong các lóng đốt, đều cảm thọ sự áp bức chướng ngại đau đớn xâm ngất, không thể tả được. Thế nên biểu hiện những trạng thái: tay chân co rút, gân mạch run rẩy. Đây là những triệu chứng về địa đại lấn áp thủy đại vậy.
2. Trạng thái thủy đại lấn áp hỏa đại:
Lúc đó, hơi lạnh truyền khắp trong thân thể rồi thấm vào cốt tủy th́ nội tạng rung động, gan ruột đều giá lạnh, khí lạnh trong ngoài xâm lấn nhau, dù cho lửa ḷ cũng khó trừ được sự khổ ấy. Tuy nằm trên băng tuyết cũng không thể sánh nổi một phần trong muôn phần! Bấy giờ bề ngoài nhan sắc nhợt nhạt, hơi thở kḥ khè, thân ḿnh run rẩy; Đấy là triệu chứng của thủy đại lấn áp hỏa đại vậy.
3. Trạng thái hỏa đại lấn áp phong đại:
Lúc đó, sinh cơ đă lui mất hơn phân nửa, sức chống chọi đă yếu dần, sự khổ lại thêm nhiều, nên phong đại thổi hỏa đại, nóng như lửa đốt. Trong th́ ngũ tạng, ngoài th́ tứ chi, khác nào nung nướng, thừa lóng đốt như bị cắt chặt đau đớn quá nên cứng đơ như lẻ gỗ. Khi đó, hiện ra ngoài nhan sắc ửng đỏ, tinh thần tối tăm, hơi thở ra th́ nhiều nhưng hít vào th́ ít. Đấy là triệu chứng của hỏa đại lấn áp phong đại.
4. Trạng thái phong đại phân ly:
Lúc đó, thân thể của người bệnh bỗng nhiên cảm thọ một thứ gió mănh liệt thổi bạt thân thể tan nát như vi trần, hết sức đau đớn ră rời. Khi ấy, bốn đại đều phân ly, sáu căn bại hoại, chỉ c̣n nghiệp thức (trong này nói là nghiệp thức cũng như thông thường nói là thần thức) tùy theo nghiệp lực đă tạo lúc sống c̣n mà thọ sanh.
Xét ra, nếu được sanh về Tịnh độ ở phương Tây th́ được nhờ oai thần của Phật A Di Đà, Ngài đến dẫn đi. Nếu sanh lên Thiên giới th́ có chư Thiên nghinh tiếp, nhờ ở thiện nghiệp của ḿnh nên khi nghiệp thức bỏ thân được nhiều khoái cảm, và không bị những cảnh khổ như trên. Chỉ có một điều rất cần là: gia nhân quyến thuộc phải dè dặt chớ khóc lóc rộn ràng. V́ sợ làm cho kẻ chết bị t́nh thương lôi quấn, tham đắm theo cảnh thế gian, chướng ngại cho sự văng sinh vậy; Cũng không nên gấp rút động đậy như dọn dẹp mền nệm, chùi rửa thay đổi áo quần, cần phải để yên độ tám tiếng đồng hồ, rồi sẽ tắm rửa thân thể, thay đổi quần áo và nhập liệm. Nếu không theo như thế, th́ khi nghiệp thức chưa hoàn toàn bỏ thân, bị xúc động phải cảm thọ sự đau đớn nhân đó mà sinh ra hận tức phải đọa vào ác đạo.
Lại nên xét kỹ lúc sanh thời của người chết, hoặc tuy rằng tin Phật, nhưng biếng nhác không tu tŕ, hoặc v́ chưa đủ tín nguyện thâm thiết, v́ nghiệp chướng nặng nề, th́ khi lâm chung bị mê mờ, tức là hiểu được người đó chưa được văng sanh. Khi ấy, nên mời các vị Thiện tri thức tu Tịnh độ tôn đối trước thi thể của người chết, hay đối trước linh sàng của người chết, v́ vong linh mà khai thị. C̣n gia quyến phải mỗi ngày ba phen luân phiên niệm Phật cứu độ, để dắt d́u cho nghiệp thức của người chết chăm chú về Cực Lạc, v́ khi đó chỗ thọ sinh chưa quyết định, có thể chuyển đổi, nên nếu đúng như pháp mà cứu độ th́ có thể trở vọng về chơn, chuyển phàm thành Thánh một cách dễ dàng.
3- BẮT ĐẦU VÀO CẢNH TRUNG ẤM.
Sau khi người đó hơi thở đă tắt, thần thức rời khỏi thân, nếu chưa liền được giải thoát, th́ phần nhiều phải trải qua một trạng thái tối tăm mờ mịt trong một thời hạn lâu đến ba ngày rưỡi hoặc đến bốn ngày rồi sau mới có cái cảm giác minh mẫn, đó là bắt đầu vào cảnh Trung ấm. Nhờ ở sự minh mẫn ấy nên có thể ở trong một khoảnh khắc mà thấy được gia nhân quyến thuộc...
Lại nữa, thông thường người chết khi nghiệp thức đă rời thân, thường hay mê muội, nên cứ đắn đo mà tự hỏi: Ta đă chết hay chưa chết? Người đó cũng hay mơ màng mà thấy được thân thuộc, mỗi mỗi đều hiện ra trước mắt, in như gặp nhau trong cảnh mộng.
Xét ra th́ trong lúc đó, người chết không tự biết rằng ḿnh đă chết hay chưa chết, th́ những thân thuộc nên mỗi ngày ba phen v́ họ mà luân phiên niệm Phật, để nhờ oai lực của Phật dắt d́u họ được văng sanh về Cực Lạc. Như thế th́ dù có nghiệp duyên cũng không trở ngại được; Ví như mặt trời đă mọc lên, th́ phá tan đêm tối. Cũng như thế, trí tuệ thanh tịnh sáng suốt của Phật có thể tiêu diệt nghiệp lực tăm tối của chúng sanh vậy.
Vả lại trong lúc ấy, nghiệp thức của người chết hoặc đi vào thế giới mới, chính họ cũng đang ngơ ngác, chưa biết ḿnh sẽ đi vào đâu là phải. Thế nên phải nhờ phương pháp niệm Phật để cứu độ cho họ. Phải mời những bậc Thiện tri thức khai thị cho họ biết xu hướng về nước Cực Lạc.
Thiện tri thức sẽ dùng những lời sau đây mà khai thị: "Nguyễn mỗ... nếu người đến trên mặt nước hoặc trước tấm gương mà soi th́ ngươi sẽ không thấy được diện tượng của ngươi hiện vào nữa, v́ thân Trung ấm này đă rời sắc thân tứ đại do huyết nhục tạo nên trong nhân gian. Ngươi nên biết, khi đă vào giai đoạn Trung ấm thân, chỉ có một điều cần thiết là: Lúc này ngươi không nên nhớ nghĩ ǵ nữa, chỉ nên chuyên tâm niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm đến cứu độ. Khi đó, Phật A Di Đà cùng Bồ tát Quán Thế Âm sẽ cảm ứng mà đến. Mong ngươi phải khéo tự phát ư niệm Phật".
Thiện tri thức phải như trên đọc ba phen cho rơ ràng mà khai thị. Gia quyến phải một ngày ba phen luân phiên niệm Phật để cứu độ.
4- SỰ XÚI GIỤC CỦA NỖI L̉NG QUYẾN LUYẾN.
Thân Trung ấm khi chưa được giải thoát, hay chưa trải qua giai đoạn đầu thai th́ nghiệp thức ấy khi mê muội, khi minh mẫn. Có khi bỗng thấy bà con, bạn bè ở vào một nơi nào đó, giống như gặp nhau trong cảnh mộng. Cho nên, họ sẽ đến trước các người trong cảnh mộng đó mà nói năng kể lể; nhưng các người đó hoàn toàn không hiểu được. Khi ấy họ buồn rầu không thể tả xiết, giận dữ khác thường. Bỗng lại nghe người ta gọi đến tên ḿnh mà than khóc; th́ liền thấy được bà con bạn bè đến một bên thây xác của ḿnh than khóc, hay thấy được các phẩm vật đă sắp bày trên bàn thờ. Rồi họ sẽ tự lẩm bẩm rằng :"Ta đă chết rồi! Làm thế nào? Làm thế nào?" Khi đă sanh ra một niệm ấy, th́ tự biết hết sức đau khổ, khác nào con cá bị nướng trong ḷ lửa đỏ! Nhưng đây c̣n là ở trong sự mờ tối, cho nên khi thấy vợ con than khóc liền đến vỗ về an ủi: "Ta c̣n đây, không nên khóc!" Nhưng các người than khóc kia cũng vẫn không thôi nghỉ. Khi dó, trong ḷng họ giận dữ, phẩn uất, cho nên vội vàng bỏ đi. Nhưng trong chừng khoảnh khắc v́ ḷng ái kiến vọng chấp chưa trừ cho nên vội vàng trở lại, để mong đáp lại sự tức giận khi trước đă gặp. Nhưng rồi cũng vẫn không vừa ư những cảnh tượng đă gặp và đă cảm thọ; cho nên vẫn có thái độ như trước. Cứ thế măi, trải qua đôi ba phen gặp gỡ như thế, nên sự buồn bực dập dồn; càng trải qua càng thêm mănh liệt. V́ ḷng phiền muộn xúi giục càng thêm mạnh mẽ, đến nỗi họ không muốn suy xét đến cảnh giới lành dữ như thế nào, dù cho có mất giá trị thế nào, ta cũng không cần mến tiếc. Chỉ cần được thác sanh, để cởi bỏ cái khổ bơ vơ không nơi nương tựa. Những kẻ đầu thai vào ác đạo thường thường đều bởi duyên cớ ấy cả.
(Thân Trung ấm tuy c̣n luyến ái bà con bạn bè, nhưng ngặt nỗi đă bị cách đời, nên không làm thế nào được, cho nên chớ có một mảy may luyến ái; và dù cho trở lại được sắc thân tứ đại, th́ cũng chẳng qua trở lại chịu khổ sanh tử mà thôi. Vậy nên phải dẹp bỏ cái vọng tưởng được sống trở lại; hăy tự yên ổn, chăm ḷng niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm, để cầu Ngài cứu đoä).
Thiện tri thức phải theo như lời đă nói trên mà khai thị. Gia thuộc phải v́ họ mà niệm Phật để cứu độ cho họ.
5- NHỮNG CẢNH TƯỢNG RÙNG RỢN DO ÁC NGHIỆP CHIÊU CẢM.
Khi nghiệp thức đă ở vào giai đoạn Trung ấm, th́ mê rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê, phải cảm thọ những điều không yên ổn, không tự tại. Và có một thứ nghiệp phong mănh liệt, thổi đưa nghiệp thức đi vào phương hướng vô định; cũng như mảy lông bị gió cuốn: qua, lại, lên, xuống đều tùy theo chiều gió thổi. Cái thân ấy không do ở ư ḿnh, phải phiêu lưu không nhất định. Bỗng nhiên lại gặp một thứ ánh sáng vô cùng mănh liệt, vùn vụt chớp ḷe, tia sáng chói ḷa, không thể mở mắt mà xem được. Ánh sáng ấy chuyển biến giống như áng mây mùa thu, hiện ra những h́nh thái lạ lùng để hăm dọa người đă chết. Và ở trong những chỗ ánh sáng mạnh mẽ, lớn lao ấy đă xuyên qua, phát ra một thứ tiếng rất dữ dội, không có ǵ sánh kịp. Nó có thể mạnh gấp ngàn lần sấm sét. Một khi nghe đến càng thêm ghê rợn; có thể tan gan nát mật.
Lại có một loại quỷ Dạ-xoa thật là đáng sợ, nắm cầm rất nhiều binh trượng, hầm hét dậm đạp đua nhau mà đến; muốn giết tính mạng của người chết. Bọn ấy rất đông, giành trước giựt sau, nhảy nhót mà đi đến. Hoặc hiện ra vô số loài ác thú hung tợn rượt đuổi theo; hoặc biến làm người tàn ác để áp bức, hoặc làm cuồng phong, băo vũ, sấm chớp, sương mù phủ kín; đem kẻ chết nhốt vào trong đó. Hoặc là núi lở, bể dậy sấm. Hoặc biến thành luồng lửa mạnh bay đi thiêu đốt. Tất cả những cảnh tượng đă thấy. Tiếng tăm đă nghe, làm cho thân Trung ấm khiếp sợ muốn ngất, hoảng hốt không chỗ nương tựa, lại không có đường để tránh thoát, chỉ có cách là mong nhờ cuồng phong đưa đẩy để lánh thân mà thôi. Trong thấm thoát lại bị đuổi theo lấn áp, rồi chạy đến trên chót núi nh́n xuống thấy có ba cái hố: một trắng, một đen và một đỏ; hết sức sâu thẳm và lại bị thúc giục, toan nhào đầu xuống, khi đó thân Trung ấm không thể không quay ḿnh t́m nơi ẩn núp. Hoặc vào trong hang núi để lánh nạn. Thế nên chuyển sinh đầu thai làm thân: rắn, muông, lang, beo, cọp v.v... luôn luôn phải ở trong khổ thú.
(Như trên đă thuật nên khai thị: "Biến thành nghiệp phong mănh liệt, biến làm ánh sáng mênh mông, biến làm tiếng tăm rùng rợn... đều do nghiệp lực mà chiêu cảm. Nếu biết thân Trung ấm không phải là thân huyết nhục, mà chính là cái thân do một thứ vi tế tứ đại tạo thành; th́ tuy có cuồng phong, lửa cháy, sấm sét... vẫn không thể hại được. Tức như ba cái hố: một đen, một trắng, một đỏ kia cũng là do ba độc tính căn bản là: Tham dục, sân khuể, ngu si từ nhiều đời nhiều kiếp mà hiện ra đó thôi. Trong khi ấy nên thật nhận rằng: Bao nhiêu ác tướng kia đều do nghiệp thức biến hiện, nhưng nay v́ không may phải trải qua cảnh giới ấy, th́ chỉ có cách yên ḷng không rối loạn, chuyên cần niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm để cầu Ngài đến cứu độ").
Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị. Đại chúng phải niệm Phật để giúp cho họ được tiêu trừ nghiệp chướng, th́ sẽ được sinh về Cực Lạc luôn luôn khỏi các khổ năo.
6- PHÂN PHÁN MÀU SẮC HƠN KÉM CỦA HÀO QUANG.
Thân Trung ấm v́ trải qua cảnh khổ, nên tự nghĩ rằng: "Thương thay! Chỗ cảm thọ của ta v́ sao mà khổ thế! Ta sẽ đi t́m chỗ nào có thân thể để sống". Nhân đó bèn chạy khắp bốn phương, tâm ư tán loạn không chịu dừng nghỉ. Có khi th́ ở nơi cầu cống, có khi th́ ở nơi miếu vũ yên lặng và có khi ở nơi các lăng tháp... Nhưng đó chỉ nghỉ tạm trong một lúc chẳng được lâu dài, v́ cái sắc thân tứ đại Trung ấm rất nhẹ nhàng, khác hẳn cái sắc thân lúc sống c̣n thường làm trở ngại. Cho nên, khi đó không khỏi buồn rầu tự biết ḿnh bấp bênh mất chỗ nương tựa. Buồn lo quá đỗi, nên tự nghĩ rằng: "Ta nay chỉ muốn được thân người, dù cho phải đổi mất giá thế nào cũng không tiếc". Cho nên lần lữa t́m lại cái thi thể của ḿnh trước kia, nhưng thi thể ấy, đă bị bà con bạn bè đem bỏ vào ḥm, hay đă chôn xuống đất, hoặc đă dùng lửa mà đốt rồi. V́ thế không có thây nào mà nhập vào, nên buồn rầu khôn xiết. Tâm hồn nguội lạnh như tro tàn: lo buồn rối rắm. Khi đó liền có những luồng ánh sáng yếu ớt của lục phàm (nhân, thiên, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) bỗng nhiên hiển hiện trong đó tùy theo nghiệp lực của kẻ chết cảm ứng với đạo nào th́ luồng ánh sáng của đạo ấy sẽ càng rực rỡ hơn lên. Ánh sáng của đạo trời thời hơi trắng, ánh sáng của đạo người th́ hơi vàng, ánh sáng của đạo A-tu-la th́ hơi lục, ánh sáng của đạo địa ngục th́ như khói đen, ánh sáng của đạo ngạ quỷ th́ hơi đỏ, ánh sáng của đạo súc sanh th́ hơi xanh.
Lại nữa, các cơi Phật trong năm phương cũng phóng ra những hào quang rực rỡ và mạnh như: hào quang sắc xanh chói ḷa, hào quang sắc trắng trong sạch, hào quang sắc vàng trong bóng như ngọc, hào quang sắc đỏ mănh liệt. Như thế có rất nhiều thứ hào quang của Chư Phật chói ḷa lẫn nhau. nhưng v́ nghiệp lực nên kẻ chết sợ hăi những hào quang mănh liệt của Chư Phật đă soi đến, mà chỉ ưa thích những thứ hào quang yếu ớt trong sáu đạo: thiên, nhơn, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đă soi đến mà thôi. Cho nên họ đă đầu thai vào lục đạo, luôn luôn chịu các khổ năo.
(Như trên đă thuật, những ánh sáng của lục đạo dịu dàng dễ chịu, nên làm cho kẻ chết có những cảm giác vừa ư nhưng ánh sáng ấy chính là những ánh sáng lục đạo, không nên tham đắm, cần phải tránh xa. chỉ nên chăm ḷng thành kính tự ḿnh phát tâm, phấn khởi tinh thần mà niệm Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm. Phải bỏ cái dễ mà đi đến cái khó, không nên khiếp nhược, phải đi đến chỗ hào quang mănh liệt, v́ hào quang mănh liệt ấy là hào quang của Chư Phật, hào quang ân huệ, hào quang giải thoát, là hào quang vượt phàm thành Thánh. Nếu đem toàn thân mà nương vào trong đó, tức là bước lên cơi Phật thường thường an vui, xa ĺa cái khổ năo đắm ch́m trong lục đạo).
Thiện tri thức, phải theo như trên mà khai thị, gia thuộc phải ở trong bốn mươi chín ngày ấy, theo tuần tự luân phiên mỗi ngày ba phen niệm Phật để cứu độ. Bởi v́ thông thường người chết, nghiệp của họ phải trải qua bốn mươi chín ngày biến vào giai đoạn Trung ấm. Nếu ở trong bốn mươi chín ngày đó mà niệm Phật cứu độ, th́ quyết định có một ngày nào trong những số ngày ấy, chắc được như pháp mà giải thoát.
7- SỰ PHÂN PHÁN CỦA CẢNH GIỚI MINH PHỦ.
Người ta lúc sống c̣n, làm lành hay làm dữ, đều có quỷ thần xem xét. Nếu làm việc lành th́ có thiên thần coi về việc lành, ghi lại công việc của ḿnh đă làm. Nếu làm việc dữ th́ khi đó cũng có ác thần coi về việc dữ ghi lại những việc dữ của ḿnh đă làm. Cho nên thân Trung ấm một phen thấy vị thần kia, không khỏi hết sức lo sợ khủng khiếp, toàn thân run rẩy, nhưng cứ ngu si mà nói dối rằng: "Tôi chưa từng làm những việc dữ như thế". Khi đó quỷ vương chủ mạng bảo với người chết rằng: "Th́ đây, ta có cái gương chiếu nghiệp này, ngươi nên soi vào đấy. Khi ấy tức th́ trong gương, nghiệp lành hay nghiệp dữ đều hiển hiện rơ ràng; cho nên dù có chối căi cũng không ích ǵ. Khi đó có kẻ ngục chủ h́nh dáng dữ tợn, lấy dây buộc vào cổ người tội mà dắt đi, và dùng những cực h́nh để hành phạt như: chặt đầu, mổ bụng, moi bụng, hút năo, ăn huyết thịt, nhai xương... hết sức đau đớn nhưng vẫn không chết, và sau khi thân thể đă tan nát rồi, dần dần đầy đủ trở lại như cũ và lại chịu cực h́nh tiếp luôn không ngớt.
(Trong khi các vị thần chủ việc lành hay chủ việc dữ hiện ra ở trước mắt để sát hạch tội lỗi, th́ không nên sợ hăi, cũng không nên chối căi, v́ phải biết rằng: thân Trung ấm dù phải trải qua bao phen tan nát đi nữa cũng không thể chết được, huống chi thật tính của tự thân là không thật có, th́ cần ǵ phải sợ? Tức như bọn ngục tốt kia cũng là nghiệp thức biến hiện, tự thể của nó là không, th́ không đúng với lẽ phải. Nếu khi thấy có quỷ vương chủ mạng đến, th́ ngươi nên tự xưng với quỷ vương chính trực ấy rằng: "Tôi, pháp danh... quy y với...". th́ khi đó dù cho người có chịu cực h́nh đi nữa, cũng không tổn hại).
Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị. đại chúng phải niệm Phật mà cứu độ, th́ dù phải trải qua bốn mươi chín ngày mà chưa được văng sanh đi nữa,cũng vẫn có khả năng đắc độ vậy.
8- NHỮNG PHƯƠNG THỨC LÚC CHUYỂN SINH.
Nếu người chết lúc sống c̣n đối với Phật pháp chưa đủ sự tín ngưỡng thâm thiết, th́ thân Trung ấm phải trải qua đường lối quanh co, dần dà không quyết định. V́ vọng niệm bồng bột, cho nên dù đă trải qua nhiều phen khai thị, vẫn chưa được văng sanh. Chính trong lúc đó, người chết cũng không tự biết là ḿnh đă gần đến chỗ thọ sanh. Bấy giờ, thân Trung ấm hoặc gặp phải cuồng phong băo vũ, giá tuyết, mưa đá... làm cho họ tối tăm mù mịt và các loài ác thú xua đuổi theo sau, trong nhất thời sáp đến; nếu người nào nghiệp chướng nặng nề, th́ sẽ bị hăm dọa và v́ trốn tránh mà đi vào cảnh khổ, c̣n ai có đủ nghiệp lành th́ đi đến chỗ an vui. Trong một khoảnh khắc quan hệ và mau chóng ấy nếu đời trước họ chưa có công phu tu tập đoạn tâm, th́ cảm thấy được hai thân nam, nữ giao hội, khi đó tà niệm dấy động, sanh ḷng yêu ghét, nên tức th́ thác sanh. Hoặc thác thai vào các loài súc vật, hoặc thác thai lại làm thân người, tùy theo nghiệp lực sai khác của người chết mà cảm thọ. Nếu người nào về nghiệp đàn ông nhiều th́ thấy đàn bà liền sanh ḷng yêu mến. C̣n người nào về nghiệp đàn bà nhiều, th́ thấy đàn ông liền sanh ḷng yêu mến. Khi đó v́ cảm thọ sự dục lạc nên bị tối tăm và mất cả trí giác. Đấy là thân Trung ấm đă diệt, mà sanh vào thai sanh hay noăn sanh vậy. Sau khi đă thác thai vào một loài nào, th́ phải trải đủ những thời gian tương đương với loài ấy rồi mới được sanh nở. Nếu phải thác sanh làm thân chó, th́ t́m ổ mà nương tựa cho đến lúc khôn lớn. Nếu làm thân một con lợn th́ đi đến trong chuồng mà nương tựa cho đến khi khôn lớn. Nếu làm thân một con kiến, th́ ḅ vào trong hang mà ở, cho đến khi khôn lớn. Nếu làm thân một con trùn, một con gịi, một con nghé, một con dê... đều tùy theo nghiệp lực sai khác, đáng sanh vào loài nào th́ phải sanh về loài ấy, đều phải trải qua ngày tháng và thọ mạng được bao nhiêu, mỗi mỗi đều được tương đương với loài ấy. Khi đă thọ sanh những thân h́nh ấy, th́ dù muốn tránh thoát, cũng không sao thoát được. Và c̣n có những nỗi khổ kịch liệt như đui, điếc, câm, ngọng, ngu si, nhơ bẩn và mặc dầu cho người ta giết hại, sự đau đớn kịch liệt kia không thể nào kể xiết được.
(C̣n có những khổ sở phải sa vào trong ngạ quỷ, địa ngục v.v... rộng như trong kinh đă nói. Nếu được may mắn th́ sanh lên cơi Trời, cơi Người, và A-tu-la tức là ba đạo lành, nhưng các cơi đó đều phải chịu khổ sanh tử luân hồi, không bao giờ thôi nghỉ. Cho nên Thiện tri thức phải theo những lời như sau đây mà khai thị:
Thương thay! Người làm những ác nghiệp ǵ mà bị kết xâu khổ sở như thế. Người từ nhiều kiếp đến nay phải đắm ch́m trong sanh tử mà chưa được ra khỏi, đều do bệnh căn của ác tập này vậy. Nay đây nếu không tự cứu độ, cứ chất chứa những ḷng ghen ghét thương yêu, th́ có khác chi tự hăm ḿnh vào trong bể khổ; trải qua nhiều kiếp không thể ra khỏi đó sao?! Ngươi phải mạnh mẽ mà phấn khởi lên; phải luôn luôn trừ bỏ tà niệm thương ghét rất đê tiện ấy đi, đừng để sanh khởi làm nhơ nhớp tâm niệm, ngươi phải tự trách, tự răn ḿnh như thế, phải lập lời thệ nguyện mạnh mẽ, quyết định không dối ḿnh. Cho nên trong kinh đă nói: "Chỉ có lời thệ nguyện mới đóng bít được thai môn mà thôi".
9- CHUYỂN SANH LÊN THAI GIỚI.
V́ cái niệm cầu sinh của người chết quá bồng bột, dù đă trải qua nhiều phen khai thị cũng vẫn không trừ được ḷng huyễn vọng ấy, cho nên vẫn chưa được văng sanh Tịnh độ. Khi đó, thân Trung ấm v́ nhờ sức thiện nghiệp mà thấy được cảnh giới chư Thiên (các cơi trời) nào là kỷ nữ trang nghiêm chơi bời vui thú, biết bao cảnh tượng đẹp tươi. Khi đó sanh ḷng ưa thích, vội vàng đi đến. Vả có thiên thần đem thiên y (áo của trời) và kỹ nhạc đến rước. Bấy giờ bà con tống táng, dù có than khóc thảm thiết đến đâu cũng không thể làm lay chuyển ḷng họ; trái lại ta thấy người chết vẫn mỉm cười hớn hở, nhan sắc tươi vui. V́ tâm của Trung ấm thân đă duyên vào cảnh giới vui vẻ của chư Thiên, cho nên người đời dù than khóc thảm thiết, họ cũng không nghĩ đến. Nhưng nếu Sinh ấm (thân sau) chưa thành, th́ thân thuộc khóc than c̣n có thể lôi kéo được ḷng họ.
(Sanh lên thiên giới tuy là vui sướng hơn ở nhân gian, nhưng vẫn c̣n trong ṿng tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, chưa khỏi luân hồi, th́ cũng không khỏi được cái khổ hỏa trạch (ví dụ sự khổ trong ba cơi cũng như lửa nung nấu, nên gọi là hỏa trạch) sao bằng sự vui vô lậu hoàn toàn ở Tây phương Cực Lạc!)
10- CHUYỂN SANH VỀ BỐN CHÂU.
Thân Trung ấm đủ có cái thông linh không thể nghĩ ngợi, thông linh ấy chính do nghiệp lực của Trung ấm mà cảm được, có thể ở trong một chốc lát, đi khắp cả bốn đại châu: hoặc quanh núi Tu-di mau chóng hơn trong khoảng một phen cánh tay co duỗi. Tùy theo ư muốn, mống niệm liền đến; cho đến đủ có những huyễn pháp biến hiện.
1. Sanh về Đông Thắng Thần châu. Nếu thân Trung ấm được cảm sanh về Đông Thắng Thần châu th́ liền thấy biến thành một cái hồ, trong đó có những chim hồng, chim nhạn, kết thành bầy lũ, trống mái đuổi nhau dạo chơi trên mặt nước. Nếu kẻ chết đi đến chỗ ấy, tức là sanh về Đông Thắng Thần châu.
(Cần phải cẩn thận chỗ khởi tâm, phải cương quyết chớ đi đến châu ấy: v́ đến châu ấy, dù được an vui, nhưng đắm trước theo sự an vui đó, làm xao lăng chỗ tấn tu, th́ không thể siêu sanh thoát tử được, cho nên không nên đến).
2- Sanh về Nam Thiệm Bộ châu (nghĩa của nó là Thắng kim; v́ ở châu này có thứ kim sắc đặc biệt), thân Trung ấm nếu được cảm về Nam Thiệm Bộ châu, th́ cảm thấy hiện ra những cung điện huy hoàng của châu ấy, thấy như vậy tức là sẽ sanh về Nam Thiệm Bộ châu.
(Nếu ai chưa hết ư niệm cầu sanh th́ nên cầu sanh về châu này; v́ ở đây hiện có Phật pháp lưu hành, vẫn có thể tu tŕ mà siêu thoát)
3. Sanh về Tây Ngưu Hóa châu (cơi này buôn bán đổi chác đều dùng bằng trâu, không dùng đến tiền tệ), thân Trung ấm nếu sắp được cảm sanh về Tây Ngưu Hóa châu th́ sẽ thấy có một cái hồ, hai bên bờ có trâu gặm cỏ, thấy như vậy tức là sẽ sanh về Tây Ngưu Hóa châu.
(Châu này tuy là giàu có thật, nhưng cũng không nên đến; v́ sự giàu có hay làm tăng trưởng tham tâm, mà phế bỏ đạo nghiệp, cho nên không nên đến).
4. Sanh về Bắc Câu Lô châu. (Châu này gọi là Thắng xứ; v́ ở đây sung sướng như cơi Trời). Thân Trung ấm nếu được cảm sanh về Bắc Câu Lô châu th́ sẽ thấy có một cái hồ, và trên bờ cũng có các loài súc vật và cây cối… thấy như vậy tức là sẽ sanh về Bắc Câu Lô châu.
(Châu này tuy sống lâu và sung sướng, nhưng ở đây không có Phật pháp lưu hành th́ càng không nên đi đến, mà cần phải trở lại gấp).
Thiện tri thức nên đối trước linh sàng, theo như trên mà khai thị để cho họ biết mà lựa chọn thân sau.
Trung ấm thân mặc dù rong ruổi ở chốn xa xôi, nhưng một khi nghe kêu gọi th́ lập tức trở lại; v́ họ đủ có thần thông nghiệp lực hữu lậu và những khả năng đặc biệt có thể ghi nhớ những điều đă trải qua và hiểu rơ được sự lư. Lúc sống c̣n, tuy là tai mắt không minh mẫn, nhưng lúc này th́ tính thấy, tính nghe càng minh mẫn hơn, ngặt nỗi nghiệp duyên lôi cuốn nên không khỏi trở vào sanh tử. Lại nữa, thân Trung ấm đă thoát khỏi sắc thân huyết nhục không c̣n là sắc thân thô ngại nữa; cho nên dù là đất, đá, g̣, nhà cửa cho đến lớn như Tu-di cũng không qua được. Chỉ có Pháp tọa Kim cang của Phật và tử cung trong thân mẹ th́ không thể qua khỏi; v́ một khi đă vào trong tử cung, tức thành thân sau vậy.
(Xét trong Mật giáo có nói về cách thức chọn thai rất hay, cho nên thiện tri thức phải theo như sau đây mà khai thị cho kẻ chết: "Ngươi hăy lắng nghe! V́ ngươi cũng đủ có ít nhiều thần thông, th́ nên đi khắp trong các châu mà xem xét; nếu thấy châu nào có Phật pháp lưu hành th́ nên đến đó thọ sanh. Nếu sẽ do nơi vật bất tịnh giao cấu mà xuất sinh (bất tịnh: chỉ chỗ tinh huyết của mẹ cha) th́ ngươi liền cảm giác được một thứ hương vị, nghe rồi sanh ḷng ưa đắm; tức là bị nó hấp dẫn vào trong thể chất bất tịnh mà thác thai. Cho nên trong khi đó, dù có sắc tướng ǵ hiện ra trước mắt ngươi (đây chỉ cho trạng thái trong thai) th́ ngươi không nên khởi lên cảm giác để phân biệt về sắc tướng của vật đó. Như thế đă không nên có tham tưởng, cũng không nên sanh ḷng ghen ghét v́ thông thường thiện thai hay nhận lầm là ác thai, và ác thai hay nhận lầm là thiện thai. Thấy thiện thai cũng không nên sanh ḷng ưa đắm, thấy ác thai cũng không nên sanh ḷng chán nhàm, chỉ phải một ḷng an trú nơi cảnh vô phân biệt. Nếu trái lại th́ bị hoặc nghiệp tà niệm mà phải đọa vào súc sinh. Bởi vậy trong khi có thai tạng nào hiện ra truớc mắt ngươi th́ ngươi cứ yên tâm không nên lo lắng, cần phải chăm ḷng quy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), phải khởi lên ư niệm như sau này: Tôi nay phát nguyện, nguyện làm vị thế vương hay là Bà-la-môn hoặc làm con vị trưởng giả vĩ đại, hoặc làm con bậc Tất địa thành tựu là ḍng dơi trong sạch không nhơ bẩn đủ có chánh tín về Phật pháp và có đại phúc đức, có thể làm lợi ích cho chúng sanh, bởi thế cho nên tôi nguyện sanh vào những ḍng dơi ấy.
Phát nguyện xong, đợi đến khi thấy được hào quang sắc trắng của chư Thiên hay hào quang sắc vàng của loài người; trong đó những cung điện quư báu, nhà cửa đồ sộ, cho đến vườn tược v.v… th́ ngươi hăy buông ḷng mà đi thẳng vào trong đó chớ có đoái hoài. Được vậy, th́ được sanh vào Thiên đạo".
Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị bảy phen.
(Nếu phải thác sanh vào nhà hạ tiện, th́ người chết sẽ nghe có bao nhiêu tiếng tăm rộn ràng ức hiếp, và thấy thân ḿnh đi vào trong cảnh bụi rừng lau sậy, những cảnh không vừa ư. Như sanh vào nhà tôn quư th́ sẽ thấy hoàn toàn yên lặng, hoặc nghe thấy ḿnh được bước lên cung điện ở vào những cảnh tượng vừa ư vậy).
11- T̀NH H̀NH KHI SANH VÀO ÁC ĐẠO
Người chết thường v́ nghiệp duyên nên gặp phải rất nhiều cảnh tượng nguy hiểm như: tối tăm, băo táp, sấm sét, sương mù v.v… khi đó khiếp sợ quá đỗi nên phải t́m phương trốn tránh bỏ thân mạng mà tuôn chạy, th́ lại thấy ở trước mắt: núi đèo, hang hố, cây cối, bụi rừng. V́ muốn vội vàng tránh thoát cho khỏi nên không rảnh rang để lựa chọn chỗ nào; chỉ biết được núp vào một chỗ nào tức không muốn ra khỏi. V́ sợ rằng nếu ra khỏi tức là bị khổ. Chỉ v́ tỵ nạn không muốn ra, nên rốt cuộc không ngờ ḿnh đă trở lại thọ thân hèn hạ và chịu rất nhiều đau khổ. Nay hăy đem t́nh trạng khi đă trở vào ác thú mà lược thuật như sau:
Nghiệp thức của kẻ chết, nếu sắp sanh vào đạo A-tu-la th́ sẽ thấy: có những vườn cây khả ái và những vầng lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy những cảnh tượng ấy mà sanh ḷng vui vẻ đi đến đó, tức là đầu thai vào đạo A-tu-la.
Nếu nghiệp cảm của kẻ chết sắp sanh vào đạo súc sinh, th́ họ tự cảm thấy có những núi non, hang hố, hay có những vực sâu hiện ra trước mắt; nếu muốn đi vào trong đó tức là đầu thai vào đạo súc sinh.
Nghiệp cảm của kẻ chết nếu sắp sanh vào đạo Ngạ quỷ th́ họ tự thấy có một băi sa mạc không cây cối, hoặc có những hang hố, cỏ cây khô héo… đấy là cảnh tượng của Ngạ quỷ, nếu sanh vào trong đó th́ luôn luôn đói khát và hết sức khổ sở.
Chủng loại của quỷ thú rất nhiều, không thể kể xiết được. Nhưng đại khái có thể chia làm hai loại là: quỉ có oai đức và quỉ không có oai đức. Quỉ có oai đức cũng gọi là quỉ có thế lực; v́ đă có thần thông lại giàu của cải. Tuy ở trong loài quỉ nhưng không bị đói khát. Như quỉ Dạ-xoa, quỉ Cưu-bàn-trà. Loài không có oai đức th́ đại khái chia làm ba loại: a/ Loại ít đói như quỉ hy tự (mong cầu người ta thờ cúng), quỉ hy khí (mong cầu đồ vật người ta vất bỏ để mà ăn). b/ Loại đói nhiều, như quỉ châm mao (lông như kim), quỉ xú mao (lông hôi thối), quỉ đại anh (thân đầy lở lói). c/ Loại hoàn toàn đói như quỉ cự khẩu, quỉ châm yết, quỉ xú khẩu (cự khẩu: miệng như lửa; châm yết: cổ như kim; xú khẩu: miệng rất hôi thối). Đến như loài quỉ có oai đức, v́ đời trước có làm việc bố thí cho nên khi chết cảm được đón rước long trọng và hưởng thọ cảnh vui, như khi ở đời được làm quan tước, lấn áp nhân dân, trị dân không đúng phép, nhưng biết đem của cải mà bố thí, th́ chết rồi đọa vào loài quỉ mà làm quỉ Cưu-bàn-trà. Quỉ ấy có thể biến làm cảnh giới ngũ trần vui sướng để hưởng thọ. C̣n những kẻ tính t́nh hay giận hờn, say đắm rượu thịt, nhưng lúc sống c̣n hay làm việc bố thí th́ sau khi chết rồi, đọa vào loài quỉ Địa hành dạ-xoa (địa hành: đi đất) luôn luôn được nghe những âm nhạc vui vẻ và được ăn uống (như trong kinh Chánh Pháp niệm xứ đă nói rơ, ở đây không thể chép hết được).
Nghiệp cảm của người chết nếu sẽ sanh vào địa ngục th́ bấy giờ bỗng nghe có những khúc ca hết sức bi ai buồn bă; nếu họ đi vào trong cảnh ấy, th́ thân không được tự do, hoặc bị xua đuổi vào trong đó mà không có cách ǵ ngăn cản được. trong cảnh ấy (địa ngục) mịt mù tối tăm, nhà cửa hoặc sắc đen hay trắng. Dưới đất th́ có hang hố sâu thẳm, đường xá mịt mờ, hoặc là bị những luồng lửa nung đốt, hoặc bị giá lạnh ngâm thân; có vô số điều khổ sở, chịu khổ ở trong ấy trải qua cũng nhiều kiếp nhiều đời, chẳng biết đến bao giờ ra khỏi được.
Nếu nghiệp cảm của người chết sẽ sanh vào địa ngục, th́ cảm thấy trong thân ḿnh như bị gió lạnh lùng áp bức. Và họ tự thấy, những ngọn lửa bồng bột của địa ngục bốc lên, v́ ưa sự ấm áp nên vội đi vào trong đó. Nếu kẻ chết sẽ sanh vào địa ngục đại hàn, th́ trước hết cảm thấy trong thân ḿnh như bị chạm phải luồng gió nóng, hay bị lửa hồng nung đốt, cho nên khi hơi mát trong địa ngục đại hàn bốc lên, th́ họ cảm thấy sảng khoái dễ chịu. V́ ưa mát mẻ nên vội vàng đi vào trong cảnh ấy, tức là bị bó buộc không thể nào tránh thoát được nữa.
Lại nữa, nếu lúc đang sống c̣n, trong khi gây nghiệp, thường có bạn bè giúp đỡ, th́ khi lâm chung sẽ thấy bạn bè đồng nghiệp với ḿnh ngày trước hiện ra trước mắt. Khi đó v́ xúc động đến cảm hứng ngày xưa nên vội vàng chạy đến trong cảnh đó. Nhưng khi đă đến rồi th́ cảnh ấy hoàn toàn thay đổi và phải chịu mọi điều khổ sở.
(Trong khi thấy, những cảnh tượng như trên, phải giữ vững tâm chí, chớ nên vội vàng đi đến, cần phải nên chăm ḷng cung kính Đức Phật A Di Đà bên thế giới Cực Lạc để cầu Ngài đến cứu độ cho ḿnh là hơn).
Thiện tri thức phải theo như trên mà khai thị bảy phen, để cho họ được văng sanh Cực Lạc. Bởi v́ thân Trung ấm có được tính ghi nhớ phi thường, so với lúc sống c̣n có thể mạnh hơn gấp mười. Tuy khi đang sống c̣n chỉ là tầm thường ngu độn, nhưng khi đi vào trong giai đoạn Trung ấm th́ nhờ nghiệp lực mà có cái sáng suốt phi thường. Cho nên Thiện tri thức nên theo như những lời trên mà khai thị, th́ quyết định có công hiệu. Nhưng hoặc thời họ chưa có đủ tín, nguyện để xu hướng về Tây phương, song nhờ ở sức niệm Phật, cũng có thể cải tạo được ác thú mà sanh lên Nhân đạo hay Thiên đạo. Cho nên công đức niệm Phật quyết không luống uổng.
12- CHUYỂN SANH VÀO LOÀI BÀNG SANH.
Nghiệp cảm của kẻ chết nếu sẽ sanh vào bàng sanh th́ đại khái có thể chia ra bốn loài là: Thai, noăn, thấp, hóa.
1. Đọa vào thai sinh và noăn sinh. Nếu người nào ḷng xan tham tật đố nặng nề, th́ sẽ đầu thai làm các loài như: chó, đó... (thai sinh). C̣n ai ḷng sân hận quá nặng, th́ đọa làm loài rắn rết, ḅ cạp... trong các loài này hoặc thai sinh hoặc noăn sinh không nhất định). C̣n người nào ḷng dâm dục nặng nề, th́ đọa làm loài uyên ương, chim tước, chim cáp v.v... (V́ những loài này dục t́nh nặng nề lắm). Cho nên đến người nào ưa chơi bời lung lạc, th́ đọa làm loài vượn loài khỉ v.v... (thuộc về thai sinh).
Tóm lại, cội gốc của tội lỗi là do ở ngu si mà ra.
Lại nữa, có khi đối với chỗ ḿnh sẽ sanh đến, th́ bỗng thấy những loài hữu t́nh đồng loại vừa ư, nên vội vàng chạy đến. Tuy trong các loài này cũng nương theo nhơn duyên ḥa hợp của cha mẹ mà đầu thai, nhưng những đều kiện câu thúc so với nhân đạo th́ có phần giản dị hơn nhiều; cho nên rất dễ đọa vào.
2. Thấp sinh. Loài thấp sinh (là nương vào chỗ ẩm thấp mà tạo được sanh thân) th́ có khi v́ ngửi được hương vị của chỗ ḿnh sắp đến thọ sanh, sanh ḷng ưa đắm mà liền đến nương vào đó để thọ sanh (hương vị: đại khái như chỗ ẩm thấp, bùn lầy nhơ nhớp, lấy cái đó làm tự thể. Trong đó không có tinh huyết của cha mẹ ḥa hợp). Đi đến nương vào chỗ ẩm thấp để thác sanh hoặc là bạ vào vật ǵ mục nát, hoặc là phân bón v.v... tùy theo nghiệp lực của ḿnh mà đến gần gũi ưa đắm thác sanh.
3. Hóa sinh. Tức như loài rồng là loài kim sí, cũng là gốc ở trong bốn loài: thai, noăn, thấp, hóa mà ra; nhưng nó là loài hóa sinh đặc biệt. Sự hưởng thọ của nó sung sướng như các cơi Trời.
Trung ấm thân nếu thác sanh trong loài này, th́ được cảm thọ cảnh giới sung sướng, đồng như cơi trời không khác. (Những loài này c̣n thuộc về súc sanh, nó là một trong ba ác đạo, vẫn không khỏi sanh tử luân hồi và chịu nhiều khổ năo khác).
13- NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN PHẢI ĐỦ TRONG KHI TIẾN BẠT.
Y theo trong Mật giáo (các kinh điển về Mật tông) để nói, th́ thành tựu Bồ-đề có thể chia ra ba bực: 1- Thượng căn, th́ tức thời thủ chứng (thành Phật). 2- Trung căn, th́ sau khi chết rồi mới được siêu thăng. 3- Hạ căn, th́ đi vào giai đoạn Trung ấm mới được thành tựu. Cho nên nếu thân thuộc biết v́ họ mà làm những việc công đức th́ chắc chắn có công hiệu, nhưng phải lấy niệm Phật làm chủ. V́ thân Trung ấm đủ có thần thông hữu lậu, cho nên sau khi đă trải qua nhiều cảnh tượng hăi hùng hăm dọa, áp bức; họ sẽ tự nghĩ rằng: "Có những pháp lành ǵ để cứu ta được ra khỏi?" Bởi thế, nếu lúc đó có người chỉ bảo cho họ niệm Phật để cầu siêu thăng, th́ họ sẽ hết ḷng vâng lănh vui thích ưa nghe, cho nên hiệu lực không thể tưởng tượng. Nhưng cần phải giữ đúng ba điều kiện sau đây:
1-Trai giới
2- Thành khẩn
Đấy chính là những việc Trường Khanh đă mục kích, mà cũng là việc của kẻ con hiền cháu thảo phải nên biết vậy.
3- Tuyển trạch
Những hạng Pháp sư đối với Giới luật tịnh hạnh c̣n thiếu phạm, hoặc hoài nghi không đứng đắn và ngông cuồng... th́ Trung ấm thân v́ đă có thần thông, cho nên họ biết đó là lừa gạt họ; tức là họ sẽ thất vọng mà sanh ra hối hận. V́ hối hận nên sanh ra tức giận rồi phải đọa vào khổ thú. Cho nên Thiện tri thức phải dùng những lời như sau đây mà khai thị:
"Phật biết rằng thân của bậc Tăng-già tên... tức là thân của Phật. Ngươi phải khởi ư tưởng rằng chỉ nương theo pháp chứ không nương theo người. Mặc dù người tác pháp đó có lầm lẫn thế nào, đều là do cái lỗi của ư thức nơi ta chưa được trong sạch đó thôi. Tỷ như người soi gương, v́ mặt ḿnh không sạch, nêncái bóng trong gương cũng nhơ bẩn. Vậy th́ biết chắc rằng sở dĩ khi tác pháp có sai lầm, đều do tâm niệm của ngươi chưa trong sạch vậy. Ngươi nên khởi tưởng như thế và phải hết ḷng cung kính ái mộ th́ làm phúc ǵ cũng đều biến thành Phật sự thanh tịnh và vẫn không mất lợi của chính ḿnh".
Trong gia quyến nếu muốn rước Pháp sư để làm Phật sự, th́ nên đối trước bàn linh mà chỉ giáo bảy phen như thế th́ dù trong khi làm Phật sự có đôi chút sai lầm, cũng vẫn được lợi ích.
14- VĂNG SANH VỀ TỊNH ĐỘ.
Những hạng người đă sẵn có tu theo Tịnh nghiệp, th́ khi lâm chung họ liền đi đến chỗ họ muốn đến, tức là văng sanh Tịnh độ. Không c̣n phải trải qua những cảnh giới như trước đă nói. Nhưng trong khoảng 49 ngày, nếu ta biết v́ họ mà niệm Phật thế, th́ cũng có thể làm tăng thêm phẩm vị không đến nỗi uổng công.
Đến như việc văng sanh Tịnh độ, thật ra th́ Tịnh độ trong mười phương đều nên văng sanh; nhưng chỉ có thế giới Cực Lạc là có cơ duyên đặc biệt với chúng sanh... xưa nay số người được văng sanh không thể kể xiết.
(Trong khi văng sanh th́ chỗ cảm thấy có nhiều cách, nay nương theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà chia làm chín phẩm, để thuật lại như sau:
1- Thượng phẩm thượng sanh,
2- Thượng phẩm trung sanh
3- Thượng phẩm hạ sanh
4- Trung phẩm thượng sanh
5- Trung phẩm trung sanh
6- Trung phẩm hạ sanh
7- Hạ phẩm thượng sanh
8- Hạ phẩm trung sanh
9- Hạ phẩm hạ sanh
Ba loại vừa nói trên đây (tức là từ Hạ phẩm thượng sanh trở xuống) đều do Thiện tri thức chỉ giáo mà phát tâm niệm Phật và tự ḿnh biết sám hối mà cảm được vậy.
Nói tóm lại, tùy theo tŕnh độ và năng lực mà chia ra có chín phẩm cao thấp không đồng, nhưng khi đă được sanh về Tịnh độ, th́ đều được khỏi sanh tử luân hồi và hoặc chậm hoặc mau đều thành Phật quả vậy.
15- NHỮNG TIÊN TRIỆU ĐƯỢC SANH VỀ TỊNH ĐỘ.
Bậc đă chứng được Vô sanh pháp nhẫn (tức là chứng được thật tánh bất sanh bất diệt của muôn pháp) th́ đối với Tịnh độ trong 10 phương, đều có thể tùy theo ư muốn của ḿnh mà văng sanh. C̣n những kẻ phàm phu hoặc nhờ nguyện lực của ḿnh, hay nhờ thần lực của Phật gia bị mà được sanh về Tịnh độ; th́ đều thuộc về hạng "Đới nghiệp văng sanh" (nghĩa là nhờ ở nguyện lực của Phật mà được sanh về Tịnh độ, nhưng chưa trừ sạch hoặc nghiệp; nên gọi là Đới nghiệp văng sanh). Hai cảnh giới này tuy có cao thấp không đồng nhau nhưng chỗ siêu việt cảnh giới Ta-bà th́ vẫn là một.
Những tiên triệu trong khi lâm chung tùy theo mỗi người mà cảm thấy có khác nhau; nhưng không ngoài Tịnh cảnh hiện ra trước mắt. Hạng thù thắng th́ thấy có Y báo, Chánh báo trang nghiêm đều đầy đủ. Hạng kém hơn th́ chỉ thấy Phật và Bồ tát. Hạng kém hơn nữa, th́ chỉ thấy hoa sen. Nhưng những tiên triệu ấy, đều không dính dấp ǵ với mọi người chung quanh, nên họ không thấy được. Nếu nói đến những tiên triệu mà mọi người chung quanh cũng được cảm thấy; th́ từ những chứng tích văng sanh của các bậc Thánh hiền xưa nay ta có thể khảo cứu mà chia ra làm 10 món thoại ứng:
Tâm niệm được chăm chú vào một cảnh.
1- Nhất tâm bất loạn:
2- Biết trước thời chết đă đến.
3- Tịnh niệm không mất
4- Biết trước mà lo tắm rửa và thay áo quần.
5- Tự ḿnh hay niệm Phật hoặc niệm có tiếng hay niệm thầm.
6- Ngồi ngay thẳng và xấp tay mà chết.
7- Có mùi thơm lạ khắp nhà.
8- Có hào quang sáng soi vào thân thể.
9- Nhạc trời trỗi giữa hư không.
10- Tự nói ra bài kệ để khuyên đồ chúng
Nếu tất cả 10 món điềm tốt trên đây đều được đầy đủ, th́ phẩm vị chắc chắn là cao. C̣n ai chỉ có đủ một vài điềm tốt cho đến 5 điềm tốt mà thôi, th́ cũng được văng sanh.
Đến như nghiệp thức rời bỏ thân này, th́ không phải đồng thời toàn thân đều lạnh, có khi ở trên thân lạnh trước, rồi dần dần lạnh xuống, có khi ở dưới thân lạnh trước, rồi dần dần lạnh lên. Như có bài kệ đă nói: "Nghiệp lành, dưới lạnh trước; Nghiệp dữ, trên lạnh trước. Tim c̣n lưu chút hơi ấm rất lâu, các chỗ khác hơi ấm dần dần hết. Người được xuất thế th́ trên trán lạnh rốt sau. Sanh lên trời, th́ nơi mặt lạnh sau. Sanh vào cơi người th́ nơi rốn lạnh sau. Sanh vào ngạ quỷ th́ hai bên bụng lạnh sau. Sanh vào loài bàng sinh th́ đầu gối lạnh sau (bàng sinh: những loài thân thể nằm ngang như: trâu, ḅ v.v...) Sanh vào địa ngục th́ dưới chân lạnh rốt sau".
Cứ theo đây chứng nghiệm th́ quả báo tương lai của người chết, ta cũng có thể dự đoán mà biết được trước vậy.
(Theo ư nghĩa trong bài kể trên đây để giải thích th́ người nghiệp lành ở dưới thân lạnh trước, v́ nghiệp thức lưu chuyển ở trên; cho nên dưới thân lạnh trước, trên thân lạnh sau. C̣n kẻ ác nghiệp th́ nghiệp thức lưu chuyển ở dưới: cho nên trên thân lạnh trước, dưới thân lạnh sau. Đến như hàng xuất thế, th́ trên trán lưu hơi ấm rất lâu; tức là triệu chứng sanh về Tây phương vậy).
Về tiên triệu của các thú, sở dĩ có khác nhau, là v́ nghiệp nhân lành, dữ của chúng sanh gây ra từ trước mà cảm được. đến khi lâm chung, th́ nghiệp nhân ấy sôi nổi trong tâm thức. Nghiệp nào mạnh, th́ sẽ lôi vào cảnh giới khác tương đương với nó để thọ báo. Như nghiệp lành mạnh, th́ sẽ hiện ra cảnh giới sung sướng; Nghiệp dữ mạnh th́ hiện ra cảnh giới khổ sở.
Cảnh giới sung sướng là tiên triệu sanh lên Thiên thú; cảnh giới khổ sở là tiên triệu sanh vào ác thú. Nếu tới trong hai cảnh giới khổ, vui đó để phân biệt, nó sẽ lôi ta đi đến đâu, để chia làm từng điều mục mà nói; th́ nương vào kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ để thuật lại những điều cốt yếu như sau đây:
A) Nếu nghiệp duyên sẽ lôi cuốn vào Địa ngục, th́ sẽ thấy có 15 món tiên triệu: 1- Gặp phải con trai, con gái và bà con đều nh́n kẻ chết bằng cặp mắt hung dữ ghét bỏ. 2- Người chết đưa hai tay lên mà rờ ṃ giữa hư không. 3- Thiện tri thức dầu có chỉ bảo, họ cũng không chịu tùy thuận. 4- Kẻ chết kêu gào than khóc. 5- Đi ra đại tiện và tiểu tiện mà vẫn không hay biết ǵ. 6- Nhắm nghiền đôi mắt không mở. 7- Thường hay che úp mặt mày. 8- Nằm nghiêng mà ăn uống. 9- Ḿnh mẩy, miệng mồm đều hôi hám. 10- Gót chân, đầu gối luôn luôn run rẩy. 11- Sống mũi xiên xẹo. 12- Mắt bên trái hay động đậy, ta gọi là máy mắt. 13- Hai mắt đỏ ngầu. 14- Úp mặt mà nằm. 15- Thân h́nh co rút và tay bên trái chấm xuống đất mà nằm.
B) Nếu phải bị lôi vào trong Ngạ quỉ, th́ có 8 món tiên triệu: 1- Ưa liếm môi miếng. 2- Thân nóng như lửa. 3- Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống. 4- Mắt thường trương lên mà không nhắm. 5- Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ. 6- Không có tiểu tiện nhưng đại tiện th́ nhiều. 7- Đầu gối bên phải lạnh trước. 8- Tay bên phải thường nắm lại, tức là biểu hiện ôm ḷng bỏn xẻn.
C- Người chết nếu bị lôi vào bàng sinh, th́ có 5 món tiên triệu: 1- Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ. 2- Ngón tay và ngón chân co quắp. 3- Khắp trong thân ḿnh toát ra mồ hôi. 4- Tiếng nói ra kḥ khè. 5- Miệng thường ngậm đồ ăn.
D) Nếu được sanh vào nhân đạo th́ có 10 món tiên triệu: 1- Đến khi chết hay khởi niệm lành, tức là ḷng dịu dàng, ḷng phúùc đức, ḷng vui vẻ, ḷng vô tư. 2- Thân không đau khổ. 3- Ít sự nói phô, chăm ḷng nhớ nghĩ cha mẹ. 4- Con trai, con gái đều đem ḷng thương mến và gần gũi, coi như việc thường, không ưa không ghét. Tai thường muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bậu bạn. 5- Đối với việc lành hay việc dữ, ḷng không lầm loạn. 6- Tâm tính chính trực, không dua nịnh. 8- Thấy bà con chăm sóc sanh ḷng vui mừng. 9- Di chúc việc nhà, có cất đặt của cải ở đâu th́ mách bảo. 10- Sanh ḷng tịnh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến, để đối diện quy y.
E) Nếu nghiệp duyên sẽ lôi lên Thiên thú cũng có 10 món tiên triệu: 1- Khởi ḷng thương mến. 2- Phát khởi thiện niệm. 3- Ḷng thường vui vẻ. 4- Chánh niệm được rơ ràng. 5- Không có những điều hôi hám. 6- Sống mũi không xiên xẹo. 7- Ḷng không giận dữ. 8- Của cải, vợ con, bà con, ḷng không lưu luyến. 9- Mắt được trong sáng. 10- Ngửa mặt lên mỉm cười mà nghĩ tưởng Thiên cung đến rước ta.
Năm khoản vừa kể trên đây, không phải nhất định mỗi mỗi đều phải hiển hiện; chỉ có những điều kiện thiết yếu sẽ được hiển hiện mà thôi. Ta nên xét cho kỹ lưỡng: như hai thú Nhân và Thiên th́ ư thức của họ đều trong sạch, nên gọi là khởi thiện niệm. Nhưng một bên chỉ nghĩ đến Thiên cung mà lăng bỏ việc đời; một bên th́ thương nhớ bà con mà dặn ḍ việc nhà. Như thế th́ rất khác nhau vậy. C̣n hai thú Địa ngục và Ngạ quỉ, th́ ư thức của họ đều mê man nên hiển hiện ra khổ. Nhưng một bên th́ rất trái với từ ḥa, thay đổi thái độ; một bên th́ nóng nảy, đói khát đáng thương. Như thế cũng rất khác nhau vậy. Đến như thú bàng sinh th́ thân thể đă ra mồ hôi, tiếng tăm khàn nghẹt; vẫn c̣n thương tiếc bà con. Như trong kinh có nói: "Nếu sắp sanh vào loài người, th́ có trạng thái thế này: Đưa tay ra giữa hư không mà bắt nắm hoặc để kháng cự vật ǵ chướng ngại, so với tướng trạng thác sanh vào Địa ngục th́ họ cũng đưa tay lên mà rờ ṃ giữa hư không, hai triệu chứng ấy vẫn là giống nhau. Lại có người đến khi chết th́ tâm hồn thành vô kư (vô kư: không hiểu lành dữ là thế nào) th́ t́nh h́nh khổ vui không thể thấy được. Hạng này vẫn là số đông, nếu muốn dự đoán hạng ấy sẽ sanh vào chỗ nào, th́ ta phải đợi đến khi bỏ hơi ấm trong thân mới có thể quyết đoán được (Nên coi bài kệ ở trên kia).
16- CÁCH LÀM VIỆC PHÚC
Cái yếu điểm của việc phúc, phải lấy hạnh bố thí làm gốc; hoặc đem di sản của kẻ chết th́ tốt hơn hết, nếu không th́ lấy của cải của bà con bạn bè mà giúp vào cũng được, để làm việc phúc đức; th́ người chết chắc chắn được lợi ích. Như trong kinh Vô thường đă nói: "Nếu như sau khi tính mạng đă lâm chung, th́ nên lấy y phục mới mẻ của người chết, hoặc lấy những vật thọ dụng của kẻ c̣n sống: chia làm 3 phần, v́ người chết đó mà cúng dường Phật-đà, Đạt-ma và Tăng-già (Tam bảo). Nhờ đó mà người chết dù cho nghiệp nặng cũng trở thành nhẹ và được công đức phúc lợi thù thắng. Không nên đem những y phục tốt đẹp mà mặc cho người chết, để đem đi tống táng. V́ sao? V́ không có lợi ích vậy".
Đấy là cái lệ thường làm ngày xưa bên Ấn Độ, đến như hiện đại, th́ nên đem di sản ấy mà đổi lấy tiền tệ; để dùng trang nghiêm Phật tượng, ấn tống kinh điển, cúng dường Tăng-già. Và làm những việc như: tế bần phóng sinh, hoặc làm việc ǵ có ích cho xă hội.
Nhờ những công đức làm việc phúc đó, th́ người chết dù đọa vào Ngạ quỉ, cũng được hưởng rất nhiều lợi ích. Trong Kinh Ưu-bà-tắc có nói: "Nếu người cha chết rồi bị đọa vào trong Ngạ quỉ, mà người con v́ họ làm những phúc đức, nên biết người cha liền được hưởng thọ. Nếu được sanh lên trời th́ họ không nghĩ đến vật dụng trong cơi người nữa. V́ sao? V́ trên cơi trời đă được đầy đủ bảo vật thù thắng vậy. Nếu phải đọa vào Địa ngục, th́ thân họ phải chịu bao nhiêu khổ năo, cũng không được rảnh rang để nhớ nghĩ, vậy nên không được hưởng thọ. Đọa vào súc sanh, nên biết cũng như thế. Nếu hỏi tại sao ở trong Ngạ quỉ liền được hưởng thọ lợi ích; th́ v́ người ấy sẵn có ḷng tham lam bỏn xẻn, cho nên phải đọa vào Ngạ quỉ. Nhưng khi đă làm Ngạ quỉ thường hay hối hận tội lỗi ngày trước, suy nghĩ muốn được lợi ích, bởi thế cho nên được hưởng".
Đấy là nói rơ chỗ lợi của quỉ thú, c̣n đối với công phu làm việc phúc thật không luống uổng; v́ không những kẻ chết được hưởng, mà bà con hiện tại cũng chung phần được hưởng. Như trong kinh nói: "Nếu như kẻ chết đă thác sinh vào các đạo khác, nhưng c̣n bao nhiêu bà con c̣n đọa trong Ngạ quỉ; nếu có làm việc phúc, tức th́ cũng đều được lợi ích. Vậy nên, người có trí, nên v́ Ngạ quỉ mà siêng năng làm việc công đức".
(Trong khi lấy di sản của kẻ chết mà làm việc phúc đức, để cứu độ cho họ; trước hết phải xét rơ người ấy lúc c̣n sống, tính họ có bỏn xẻn hay không, th́ khi thấy được bà con đem đi di sản mà làm Phật sự hay bố thí, tất họ thấy vật dụng của họ bây giờ thành sở hữu của kẻ khác, liền sanh ḷng giận hờn tiếc nuối. Nhân đó mà khởi lên tà niệm, liền bị nghiệp lực dắt vào ác đạo. Cho nên Thiện tri thức hay là gia quyến của họ phải khai thị cho họ những lời như sau đây.
"Ngươi tên... nay ta v́ ngươi mà đem di sản của ngươi làm Phật sự hay làm việc phúc đức, làm như thế, tức là của cải hữu lậu làm việc vô lậu, nhờ ở công đức này, sẽ được siêu sanh Tịnh độ. Ngươi phải chăm ḷng thành kính niệm Phật A Di Đà cầu Ngài đến cứu độ cho. Đối với di sản cần phải rời bỏ chớ nên bận ḷng, phải hoàn toàn không mến tiếc tham đắm đê tiện mới được. V́ những thế tài (tài sản thế gian) dù có hoàn toàn để lại cho ngươi, ngươi cũng không thể thọ dụng được nữa. Như thế, đối với ngươi nó đă thành vô dụng rồi vậy".
17- CÁCH SẮP ĐẶT CÚNG TẾ
Về cách sắp đặt cúng tế, th́ rất kỵ việc sát sanh, v́ việc sát sanh càng làm liên lụy khổ quả cho người chết. Cho nên thân Trung ấm nếu một phen thấy được việc ấy tức th́ bảo thôi; nhưng ngặt nỗi âm, dương cách trở, nên không thể nào nghe được. V́ thế kẻ sống c̣n, vẫn trở lại làm sát sanh như thường. Đối với kẻ chết không thể ngăn nổi sân niệm khởi lên. Đă thế, nếu một phen sân tâm khởi lên, liền phải đọa vào địa ngục; cho nên người sắp đặt cúng tế cần phải chú ư. Nếu muốn cúng tế, th́ nên dùng đồ chay, hương, hoa, sữa, bánh và đồ trái, chớ dùng những đồ uế tạp và sát hại sanh vật. Như trong Kinh Địa Tạng đă nói: "Làm những việc sát hại, cho đến bái tế quỉ thần; đă không có một mảy may phúc đức, không có lợi ǵ cho kẻ chết mà c̣n kết thêm tội lỗi càng sâu nặng. Dù cho kẻ chết về đời sau của họ, hoặc trong đời này có thể chứng được Thánh quả, hoặc sanh lên Trời; nhưng khi lâm chung bị bà con làm ác nhân ấy (tức là nhân sát hại) cũng làm cho họ phải liên lụy nhiều bề, chậm sanh về chỗ lành. Huống chi kẻ chết đó khi sống c̣n chưa từng làm một chút việâc lành, chỉ một bề nương theo gốc nghiệp mà tạo tác, lẽ phải chịu ác thú, nỡ nào bà con lại gây thêm nghiệp cho họ?
Trong luật Thuận Chánh Lư, quyển thứ ba nói: "Có con quỷ tên là Hy Tự, nó hành động được tự do, có thể đi hết các phương dễ dàng cũng như chim bay giữa trời, qua lại không ngăn ngại. Sở dĩ nó phải đọa làm thân quỷ, duyên cớ có hai: 1- Là lúc b́nh sanh của nó, mê say theo lối bàn luận của thế tục, chắc rằng: chết rồi quyết phải thành quỷ. Cho nên luôn luôn mong mỏi sau khi chết rồi, sẽ được con cháu đem đồ ăn đến cúng tế. V́ chấp chặt tà kiến ấy, và nhờ có căn lành đời trước, nên mới đọa vào loài quỷ này, luôn luôn mong mỏi thờ cúng, bởi thế nên gọi là quỷ Hy tự. 2- Là lúc b́nh sanh hay ưa gần gũi giao thiệp và v́ muốn được giàu có, cho nên chỉ biết tích trữ của cải cho ḿnh, ôm ḷng bẩn chật, dù cho dư dật cũng không chịu bố thí. V́ ác nghiệp ấy, nên phải đọa vào loài quỷ này. Luôn luôn v́ ḷng ưa mến của cải ở đời, cho nên thường hay nương náu chung quanh nhà cửa hoặc những nơi nhơ nhớp. Bởi thế, nếu bà con, bạn bè cúng tế, th́ sanh ḷng cảm khái và hối hận sự bẩn chật của ḿnh ngày trước. Do cái niệm lành ấy, nên được cái phúc hưởng thọ cúng tế".
Trong Kinh Quán Đảnh, quyển thứ sáu cũng có nói: "Những kẻ trong lúc b́nh sanh không làm lành, cũng không làm dữ; th́ sau khi chết rồi không có quả báo ǵ xuất hiện, cho nên sẽ làm loài quỷ và được tự do. Nhưng loài quỷ này thường hay nương náu nơi mồ mả của ḿnh hoặc mồ mả của kẻ khác; dựa theo cái dư khí của cốt tủy mà được hiển linh. Cho nên nếu ai có cúng tế, th́ cũng được hưởng thụ. Đến khi xương tủy đă mục nát, th́ mất chỗ nương tựa, tức liền t́m đến chỗ nào xương tủy chưa mục nát và vô chủ để nương tựa". Trong Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, quyển thứ 16 cũng nói: "Có một loài quỷ tên là Hy vọng, v́ trong lúc sống c̣n, hay ưa buôn bán tính toán, chẳng kể ǵ đến phải chăng, gạt người lấy của, làm như thế mà tự cho là vừa ư. C̣n những việc bố thí, thành tín, phúc đức, giới cấm v.v... th́ không bao giờ nói đến. Luôn luôn đem ḷng bỏn xẻn ganh tỵ, không ưa gần gũi bạn lành. Cho nên, đến khi lâm chung phải đọa vào làm quỷ này. Loài quỷ này mặt mày đen xám, luôn luôn rơi lụy, tay chân lở loét, tóc tai bù xù, kêu gào thảm thiết. Nếu như con cháu có ḷng nghĩ đến tiên linh mà cúng tế, th́ quỷ này mới được uống ăn. Ngoài ra, không bao giờ được hưởng thọ.
18- CÁCH VẬN CHƯỞNG ĐỂ GIÚP ĐỠ SIÊU THĂNG.
Sau khi hơi thở đă tắt, nhưng thân thể chưa toàn lạnh hẳn, th́ cần phải đến gần một bên tai kẻ chết mà kêu gọi; và chuông, khánh phải đánh luôn luôn chớ cho dừng nghỉ, nếu như toàn thân đều đă lạnh, chỉ có đầu và trán là c̣n ấm th́ có thể biết chắc người chết đó được sanh về Tây phương, không phải ngờ vực, và không nên kêu gọi nữa. Cho nên, chỉ v́ họ đánh chuông, niệm Phật, mải cho đến khi hơi ấm ở trên trán đă tản hết, đấy là điều cần mà thôi.
(Hơi ấm dồn vào dưới bàn chân, ấy là sa vào địa ngục; hơi ấm dồn xuống đầu gối, tức sanh loài súc sinh; hơi ấm dồn vào bụng, là đọa vào ngạ quỷ; hơi ấm dồn vào ngực, là chuyển sanh về Nhân đạo; hơi ấm dồn lên giữa chân mày, là sanh lên cơi Trời; hơi ấm dồn lên trán, là siêu sanh về Cực Lạc).
Xét biết trên đầu và trán lạnh trước, c̣n ngực, bụng, đầu gối và các chỗ khác hăy c̣n hơi ấm, th́ biết nghiệp thức của kẻ chết c̣n ở chỗ dương ấm. Khi đó, tiếng niệm Phật, tiếng chuông cứ luôn luôn không ngớt và nên mời người dùng phương pháp vận chưởng (dùng tay mà vần chuyển) để giúp đỡ cho nghiệp thức của kẻ chết được từ nơi chỗ ấm đó mà đi dần lên đến đỉnh môn (trán). V́ kẻ được sanh về Tây phương cần phải từ nơi đỉnh môn mà ra.
Phương pháp vận chưởng phải đưa hai tay ngang nhau mà chuyển lần, và phải úp hở trên chỗ ấm, không nên cho động đến thân, phải cách thân độ nửa tấc. Rồi dùng hai bàn tay xoay trở lên trán mà vận chuyển, thẳng lên cho đến trán. Tinh thần của hai con mắt ḿnh phải chăm chú nơi hai tay và thầm tưởng tượng nghiệp thức của kẻ chết phải theo tay ḿnh mà trở lên trên trán để đi. Khi đó trong miệng thầm khấn rằng: "Nam mô Đại từ, Đại bi A Di Đà Phật, xin Ngài đến tiến dẫn cho vong linh tên... sẽ từ trên đỉnh môn mà ra, mà sanh về thế giới Cực LạÏc phương Tây; quyết định văng sanh!". Phải luôn luôn vần chuyển hai tay, luôn luôn khấn khứa như thế và niệm danh hiệu Phật A Di Đà và danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm.
Như vậy, tinh thần chăm chú, tay vần, miệng niệm, cả ba nghiệp đều thi hành, nếu mỏi, th́ đổi người khác luân phiên tiếp tục. Hoặc nửa ngày hay một ngày, không nên nửa chừng mà thôi nghỉ. Phải làm cho đến khi khắp các chỗ trong thân đều lạnh hết, chỉ c̣n lưu lại một chút hơi ấm trên đỉnh mới thôi. Như thế, nghiệp thức của kẻ chết đă được hiệu Phật và tiếng chuông cảnh tỉnh không thôi; lại được kẻ vận chưởng tâm thần chăm chú trợ niệm không nghỉ, th́ hoặc chậm, hoặc mau, chắc chắn phải xoay trở lên theo đỉnh môn, mà được thấy Phật A Di Đà và văng sanh về Cực Lạc vậy. Nhưng người chú nguyện và vận chưởng đó, cần phải mời được những người tu niệm Phật đă lâu và sẵn ḷng từ bi th́ tốt hơn cả.
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này,
Hồi hướng cho tất cả,
Tôi và các chúng sanh,
Đều được thành Phật quả.
Dịch xong ngày mồng 10,
tháng 11, Kỷ Sửu
Phật lịch 2512
(Nếu không sai, th́ có lẽ các bạn đang c̣n bỡ ngỡ với danh từ Trung ấm thân, mặc dầu nội dung của cuốn sách này đă cung cấp cho bạn thấy rơ trạng thái và năng lực của Trung ấm thân.
Trong Đạo Phật thường dùng danh từ Trung ấm thân để chỉ cho năng lực, động tác của con người – hay một sanh vật cũng thế – trước khi đầu thai và sau khi đă chết (ở giữa thân trước và thân sau, nên gọi là Trung ấm thân).
Đấy, chúng ta thấy tương tự như quan niệm LINH HỒN của người đời thường hiểu. Bời thế cho nên dưới đây chúng tôi xin trích đoạn văn nói về "Cái Hồn" đăng trong báo Viên Âm số 4, năm thứ nhất. Mong rằng với đoạn văn ngắn ngủi này, có thể giúp ích nhiều cho các bạn trong khi nghiên cứu về vấn đề Trung ấm thân hay là LINH HỒN cũng vậy).
Dịch giả cẩn chí
CÁI HỒN
Mùa Đông năm Kỷ Sủu
TÍNH CÁCH: Tính cách của cái hồn cũng như tính cách của ngàn muôn pháp (sự hay vật) khác, theo chỗ hiểu mỗi người, ư nghĩa không y nhau; nên trước khi bàn về cái hồn, cần phải định rơ tính cách của cái hồn, rồi mới có thể bàn được. Định tính cách, chỉ định theo ư tưởng của đại đa số người mà thôi, xin chớ nhận lầm rằng đó là tính cách nhất định của cái hồn theo lư nghĩa Đạo Phật.
Trong thế gian, khi chết th́ nói hồn ra khỏi xác, khi ngủ th́ nói hồn đi chơi, khi dậy th́ hồn nhập xác, cho đến khi chiêm bao có làm việc ǵ, cũng nghĩ là hồn ḿnh làm, thậm chí có nhà Thôi miên thuật, đem riêng một cái h́nh lờ mờ ra ngoài cho là cái hồn, khi chích kim vào, hồn ấy cũng biết đau nữa. Xét như vậy, th́ theo ư tưởng thông thường, cái hồn cũng đủ mắt, mũi, tay chân, biết thấy, biết nghe, biết thương, biết ghét như người thường, chỉ khác v́ người sống không thể thấy hồn được, hoặc chỉ thấy lờ mờ mà thôi.
DUYÊN CỚ: Mấy lâu nay, v́ không định rơ tính cách cái hồn, nên các nhà học Phật đă thường căi nhau về vấn đề ấy, căi nhau măi là v́ mỗi người hiểu mỗi cách.
LỜI LUẬN: Như nói rằng, riêng một phần hồn cũng thấy, cũng nghe, th́ tôi xin hỏi: Đương khi ḿnh sống, cái thấy, cái nghe của ḿnh là hồn thấy, hồn nghe hay thân thấy, thân nghe? Nếu như nói thân thấy, nghe, th́ người chết vẫn c̣n mắt, c̣n tai, sao lại không thấy, không nghe được? C̣n như nói hồn thấy, hồn nghe, th́ cái thấy nghe kia phải nương theo xác thịt mới có, hay riêng một phần hồn cũng có? Như nói nương theo xác thịt mới có th́ cái hồn ra ngoài xác chắc không c̣n thấy nghe nữa, sao người đời lại tin rằng một ḿnh cái hồn cũng thấy, cũng nghe? Vả chăng, nếu hồn cần phải nương theo xác mới thấy, nghe được th́ chỉ nên nói người sống (hồn và xác) thấy, người sống nghe mà thôi, chớ không thể nói riêng phần xác hay là riêng phần hồn cũng thấy, cũng nghe được. C̣n như nói chỉ một phần hồn cũng thấy, cũng nghe, không cần đến xác, th́ hồn ấy ra thế nào? Khi ḿnh đứt một cánh tay, hồn có đứt cánh tay không? Nếu hồn cũng đứt cánh tay th́ hồn với xác là một sao lại chia làm hai? Nếu hồn như hư không không thể đứt được, th́ làm sao hồn của những người mắc bệnh đui không tự thấy đường mà đi, lại phải nhờ người dắt? Dầu cho rằng hồn chỉ có tánh biết, không phải là thấy nghe, không phải là cái cảm xúc cũng không được; v́ ngoài cảm xúc và di ảnh của xác thịt, chúng ta thật không c̣n cái ǵ gọi là tánh biết nữa.
Đến như chiêm bao th́ không thể nói là hồn hay là xác được; chiêm bao do tư tưởng của ḿnh biến ra mọi sự, tư tưởng trong sạch th́ thấy những điềm lành, tư tưởng độc ác th́ thấy những điềm dữ, chớ không chi khác. Nếu như nói thân trong chiêm bao là hồn của ḿnh, th́ c̣n cả cảnh giới trong chiêm bao là ai? Cảnh giới ấy thật có hay không thật có? Nếu như thật có, th́ làm sao những người chung quanh ḿnh lại không thấy? Nếu như do tư tưởng ḿnh mà thành ra, th́ tất cả cảnh giới trong chiêm bao đều là ḿnh, riêng chi một cái thân kia đâu, mà lại nhận là hồn, là xác.
Xét như vậy th́ đủ biết cái hồn biết thấy, biết nghe, biết có ḿnh, có người, biết thương ghét, buồn vui kia, không thật có.
LỜI QUYẾT NGHI: Không thật có… làm sao có nhiều người thấy ma chán chường, lại có người đánh đồng thiếp thấy rơ ông bà, cha mẹ? Muốn trả lời câu này, tôi xin hỏi thêm một câu nữa là nhân vật trong chiêm bao thật có hay không thật có? Chắc ai cũng trả lời rằng không, v́ nếu thật có, sao khi tỉnh dậy lại không thấy.
Nhân vật trong chiêm bao không thật có, nhưng v́ chiêm bao nên in tuồng là có, cũng như con ma vẫn không thật có, nhưng v́ ḷng mê tín và ḷng khiếp sợ nên hóa ra có. Đánh đồng thiếp thấy cái hồn ông bà dưới âm phủ, nào khác chi những người xem múa rối, mắc phải thôi miên thuật, thấy có trâu đi qua ống tre, đó là do tư tưởng của ḿnh hóa ra, chớ không chi khác.
Có người lại nghi rằng: không có hồn th́ làm sao ngày nay chúng ta lại sống được. Nghĩ như vậy là chưa hiểu, chớ tôi nói không có hồn là không có cái hồn theo như lối thông thường, nghĩa là cái hồn có mắt, có mũi, có tay,có chân, biết người, biết ḿnh, biết thương, biết ghét kia, chớ không phải tôi nói không có cái ǵ làm cho chúng ta sống đâu. Cái làm cho chúng ta sống, khi nào cũng vẫn có, sau khi thân chết rồi cũng vẫn có, v́ nếu cái ấy không có th́ cái sống cũng không có, làm sao mà sống được? Nhưng cái ấy là cái ấy, chứ không phải như cái hồn theo lối thông thường đâu. Trong khi cái ấy làm cái thân chúng ta sống; thân chúng ta mới theo cảm giác của loài người mà phân biệt; Nầy là thân, này là cảnh, này là ḿnh, này là người; rồi tưởng tượng ra cái ấy có mắt, mũi, tay, chân. Thật ra th́ không phải thế; cái ấy vẫn làm cho thân sống, vẫn làm cho mắt thấy, tai nghe, vẫn làm cho ta có tư tưởng. Nhưng thật ra cái ấy không riêng một thân nào, không riêng một đời nào cả? Ví như điện khí vẫn khắp cả vũ trụ, không nơi nào là không có, mà tùy theo chỗ dùng của ḿnh, có luồng điện mạnh, có luồng điện yếu, có đèn sáng, có đèn lu; cái ấy cũng vậy, cái ấy cùng khắp mọi nơi, mà cũng tùy theo chỗ hành động của ḿnh khi làm sống cho thân này, khi làm sống cho thân khác, rồi tùy theo thân ḿnh mà in tuồng như có ḿnh, có người, có sống, có chết.
LỜI KẾT LUẬN: Muốn cho có đèn sáng, cần phải làm ra luồng điện mạnh, làm ra cái đèn tốt, cũng như muốn được thân trong sạch, muốn được cảnh vui vẻ, cần phải hành động một cách chánh đáng, đó là lẽ tất nhiên; chớ cái làm cho chúng ta sống đây không thể kêu bằng chi được, gượng mà phải gọi là "TÂM"; một điều chắc chắn là không phải cái hồn tự một ḿnh biết thương, biết ghét, biết thấy, biết nghe đâu.
(Trích trong báo VIÊN ÂM, số 4, năm thứ 1)
Nguyện hồi hướng công đức ấn tống 1.1000 quyển "LIỄU SANH THOÁT TỬ" cầu siêu cho em là Đào Nguyệt Thu, pháp danh DIỆU ĐẲNG được văng sanh Cực Lạc quốc.
TKN Thích Nữ Phương Thanh.
"Vô thường mau lẹ sớm hồi đầu,
Thân này tuy có chẳng bền lâu,
Mải lo danh lợi, chiều nhắm mắt,
Khá mau niệm Phật kẻo bạc đầu.
Khuyên ai tinh tấn t́m giải thoát,
Sống tu kẻo chết biết về đâu!
Ngày đêm gắng nhớ câu niệm Phật,
Nguyện về Cực Lạc khỏi đọa sâu."
Đây là những câu kệ tôi t́m thấy trong những tài liệu tu học mà Diệu Đẳng để lại. Tôi nghĩ rằng: Diệu Đẳng đă dùng những câu kệ này để tỉnh giác cho chính ḿnh. Cho nên đến giờ phút cuối cùng Diệu Đẳng vẫn c̣n nhất tâm niệm Phật không nghĩ đến bất cứ điều ǵ ngoài câu niệm Phật. Trước khi mất một tháng, Diệu Đẳng và tôi đồng nghe mùi thơm hương trầm ngạt ngào trong pḥng của Diệu Đẳng.
Nguyện cầu tất cả chúng sanh trong pháp giới đồng quay về giác ngộ, đồng niệm Phật, đồng về thế giới Tây phương Cực Lạc.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(đệ tử), tức là tâm niệm chỉ ưa cơi Tịnh độ và quyết chí bỏ cơi Ta-bà., th́ thấy có hoa vàng như vầng mặt nhật hiện ra trước mắt, khi đó liền được văng sanh. Sanh rồi phải ở đủ trong hoa sen 12 kiếp, mới được hoa nở và được thấy hai vị Bồ tát nói Pháp cho nghe., th́ trước hết thấy có lửa dữ trong địa ngục bốc lên sau lại bỗng hóa thành luồng gió mát để nâng đưa Thiên hoa; trên hoa ấy có hóa Phật và Bồ tát đi đến đón rước người ấy. Khi đă sanh về trong ao Thất bảo bên cơi ấy rồi, phải trải qua sáu kiếp mới được hoa nở và thấy hai vị Bồ tát nói Pháp cho nghe. (kiếp, nói cho đủ là kiếp-ba; 6 kiếp tức là 6 thời hạn)., th́ chỉ cảm thấy hóa thân của Phật, và hóa thân của Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến rước mà thôi; nhưng cũng được nương trên hoa sen Thất bảo, theo hóa thân mà sanh về trong ao Thất bảo bên cơi ấy. Trải đến 49 ngày hoa nở và được hai vị Bồ tát ấy nói Pháp cho nghe. (Hóa Phật: tức là hóa thân của Phật; là một trong ba thân của Phật)., căn cơ của hạng này rất kém, chỉ nhờ nghe lời Thiện tri thức chỉ giáo, mà vui vẻ tin và thực hành; cho nên khi lâm chung chỉ nhờ nguyện lực mà thôi, chứ không thấy được cảnh ǵ. Nhưng khi đă sanh về cơi ấy rồi, trải qua bảy ngày mới được gặp hai vị Bồ tát: Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, được nghe Pháp âm, rồi cũng chứng được quả Tu-đà-hoàn., cũng thấy có Phật A Di Đà cùng các quyến thuộc phóng ra hào quang sắc vàng; nắm hoa sen Thất bảo đi đến đón rước. Người chết thấy rồi liền sanh về trong ao Thất bảo trong cơi ấy; trải qua bảy ngày hoa sen mới nở, khi đó khen ngợi Đức Di Đà Thế Tôn, nghe Pháp sanh ḷng vui vẻ và chứng được quả Tu-đà-hoàn (Tu-đà-hoàn: Nhập lưu, tức là đă được vào hàng Thánh)., được cảm thấy Phật A Di Đà và các vị Tỳ-kheo làm quyến thuộc đoanh vây; phóng ra hào quang sắc vàng, hiện ra trước người đó để tỏ lời khen ngợi. Người ấy sẽ ngồi trên đài Liên hoa mà sanh về Cực Lạc. Sanh rồi hoa sen liền nở, được nghe Pháp âm nhiệm mầu, chứng được quả A-la-hán (A-la-hán: nghĩa là Bất sanh: không c̣n luân hồi sanh tử), cũng cảm thấy có Tam thánh và các vị Bồ tát nắm hoa sen vàng chung cùng với các vị hóa Phật đi đến đón rước. Thấy rồi liền được sanh về trong ao Thất bảo bên cơi kia; trải qua một ngày đêm hoa sen mới nở và phải nở trong thời hạn bảy ngày mới được thấy Phật., cũng cảm thấy cả Tam thánh và vô số Đại chúng làm quyến thuộc đoanh vây, dùng đài Tử kim đến đón rước. Thấy rồi liền được sanh về trong ao Thất bảo bên cơi ấy; trải qua một đêm th́ hoa mới nở và được thấy Phật.th́ cảm thấy có Tam thánh (Di Đà, Quán Âm, Thế Chí) và vô số hóa Phật, trăm ngàn Đại chúng Tỳ-kheo và vô số chư Thiên cùng cung điện thất bảo hiện ra trước mắt; dùng đài Kim cang đem đến để đón tiếp. Khi đó, liền sanh về Cực Lạc, được nghe Phật nói pháp, chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Sau đó, tùy theo ư ḿnh mà đi khắp mười phương Phật độ và theo thứ tự được Phật thọ kư., đối với Pháp sư phải chọn những bậc đạo hạnh chơn chính mà cầu thỉnh; ngoài ra những hạng phóng đăng phá giới và chỉ biết nh́n đến tài lợi mà thôi th́ đều không nên cầu thỉnh vậy., đối với kẻ chết phải hết ḷng thành kính, nghĩ nhớ để cầu cảm thông, không nên chỉ trang sức bề ngoài mà thôi và cũng không nên giao phó công việc ấy cho kẻ khác làm. Theo như trong bộ bút kư của ông đồ Trường Khanh đời Tống có chép: "Ở Thông Châu có ông Tư Mă Dưỡng Khiêm, đă từng v́ vong phu nhân (tức người vợ chính đă chết) mà làm rất nhiều Phật sự. Nhưng vài năm sau người tiểu thiếp của ông, một hôm bỗng chết, cách một đêm mới tỉnh lại, mà than khóc bảo với Tư Mă rằng: "Thiếp chết đi vào nơi Minh phủ, thấy vong phu nhân bị giam trong một ngục tối, phu nhân nói với thiếp rằng: "Ở đây khổ sở không thể nói được. Vậy xin gấp gấp v́ tôi mà làm việc công đức để cứu độ". Thiếp hỏi: "Vậy sau khi phu nhân đă chết rồi, Tướng công đă từng v́ phu nhân làm nhiều Phật sự, đều là vô ích cả sao?". Phu nhân đáp: "Chính thế, v́ việc tụng kinh sám hối vẫn phải chọn những nhà Sư hữu đạo, gia chủ phải trai giới chí thành th́ mới có thể diệt tội thêm phúc được. Nhưng đây th́ trái lại; trước kia thầy Sa-môn tụng kinh nhà trên, mà Tướng công th́ đánh cờ nhà dưới như vậy th́ có ích ǵ?". Tư Mă nghe nói cũng khóc ̣a lên, và sau đó mới chọn những danh Sư có giới đức, sửa sang rất chỉnh đốn, làm đạo tràng luôn ba đêm ngày"., cả nhà ai nấy đều phải nhất luật giữ ǵn trai giới, dù có khách khứa cũng không được thiết đăi rượu thịt; ngoài ra các thứ ô uế khác đều phải dè dặt giữ ǵn. |