Tác giả |
|
TTDoanDienKhanh Hội viên
Đă tham gia: 12 January 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 42
|
Msg 101 of 470: Đă gửi: 29 May 2007 lúc 5:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
to Judas 79
Cam on
__________________ ThaiTuDoanDienKhanh.
Chân, Thiện, Mỹ là cội nguồn của hạnh phúc ?
|
Quay trở về đầu |
|
|
judas79 Hội viên
Đă tham gia: 24 March 2007
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 98
|
Msg 102 of 470: Đă gửi: 23 June 2007 lúc 1:08am | Đă lưu IP
|
|
|
Cho tới bây giờ, giới luật của các tôn giáo thường có tính cách tiêu cực, cấm làm cái này cấm làm cái kia, nếu lỡ làm th́ phạm tội, gọi chung là giới cấm. Nếu cần thọ giới, tôi sẽ đi t́m giới tích cực, đó là những giới khuyên ta nên làm điều lợi ích. Xin lấy thí dụ để hiểu:
Giới tiêu cực &nb sp; Giới tích cực Không được trộm cắp Nên bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khó Không được sát sinh Nên t́m cách cứu mạng sinh vật Không được tham sân si Nên học thương yêu, hiểu biết
Mới nh́n qua, bạn có thể thấy hai cái không khác nhau mấy, nhưng thật ra khác nhau nhiều lắm. Nếu học giới tích cực bạn sẽ thấy cuộc đời mang một màu sắc mới, không c̣n màu sắc của ảm đạm, u buồn, đáng ngán. Một người biết thương yêu giúp đỡ kẻ nghèo khó làm sao có thể ăn trộm ăn cắp được? Giới tích cực bao trùm giới tiêu cực, nhưng giới tiêu cực không bao trùm được giới tích cực. Tôi không trộm cắp nhưng tôi cũng không bố thí giúp đỡ ai cả. Tôi không sát sinh nhưng ai chết th́ mặc kệ, đâu liên quan ǵ đến tôi. Giới tiêu cực là những hàng rào ngăn cấm. Giới tích cực là những chân trời mở rộng thênh thang, những cánh đồng bát ngát đón mời ta vào thế giới tự tại và do đó không thể gọi là giới được v́ giới tức là hàng rào. Chỉ v́ so sánh với giới tiêu cực nên tạm gọi là giới tích cực mà thôi.
http://www.thuvienhoasen.org/trisieu-daogi-01.htm
|
Quay trở về đầu |
|
|
judas79 Hội viên
Đă tham gia: 24 March 2007
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 98
|
Msg 103 of 470: Đă gửi: 09 July 2007 lúc 7:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
Nuôi Dưỡng Hạt GiốngTốt NhatHanh có đoạn:
(trich từ thuvienhoasen.net)
"Tàng thức ta chứa đựng mọi hạt giống, tốt cũng như xấu. Một số do ta gieo trồng trong đời sống hàng ngày, một số do ông bà cha mẹ và xă hội trao truyền. Một hạt lúa nhỏ xíu chứa đựng cái biết của bao nhiêu thế hệ cây lúa về cách thức đâm chồi, trổ lá, ra hoa và h́nh thành bông lúa. Thân thể và tâm thức ta cũng vậy, được trao truyền cho ta từ bao nhiêu thế hệ; ông bà cha mẹ đă gieo trồng trong ta biết bao hạt giống an vui, hạnh phúc và cả những hạt giống khổ đau, buồn giận v.v... "
Nghiệp được xem là 1 hành động có tác ư, một hành động có tác ư có thể gieo vào tàng thức 1 tân chủng tử thiện hay bất thiện.
Sư ông Nhất Hạnh lai nói " ông bà cha mẹ và xă hội trao truyền" Mong cao nhân chỉ dạy.
Sửa lại bởi judas79 : 09 July 2007 lúc 7:39pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
tontan Hội viên
Đă tham gia: 24 April 2007 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 43
|
Msg 104 of 470: Đă gửi: 17 July 2007 lúc 7:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
Hihihi chào anh Judas,
Chờ măi không thấy các bậc cao nhân diễn đàn giúp anh, thôi th́ em xin trích dẫn đôi ḍng mà chính sư ông Nhất Hạnh đă viết trong cuốn "ĐẠO PHẬT QUA NHẬN THỨC MỚI -- Vấn Đề Nguyên Nhân Đầu Tiên Trong Đạo Phật "
"Trong những bài trước, chúng ta đă thấy rằng, theo đạo Phật; các hiện tượng vũ trụ luôn luôn biến chuyển và sinh diệt, không lúc nào dừng nghỉ. Sự sinh diệt của những hiện tượng ấy được thể hiện trên đường lối nhân duyên (paticca samuppada). Một hiện tượng phát sinh, không những chỉ do một "nhân" tiền hữu, mà c̣n là do vô số các "duyên" (điều kiện giúp cho sự phát sinh) khác. Các duyên này cũng không phải tự nhiên mà có. Chúng cũng là một "quả" do vô số "duyên" khác tạo nên. Như thế, "một" hiện tượng có liên quan (dù gần dù xa) với "tất cả" các hiện tượng của vũ trụ.
Nói "hiện tượng" đây tức là nói một "ḍng hiện tượng". Bởi v́ khi nói đến một hiện tượng, ta thường nghĩ đến cả lịch tŕnh phát sinh, trưởng thành, hư hoại, và tan ră (thành, trụ, hoại, không) của hiện tượng ấy. Có thành, trụ, hoại, không tức là có chuyển biến, mà có chuyển biến th́ cố nhiên nó không phải là "một" hiện tượng đồng nhất bất biến. "Nó" là một "ḍng hiện tượng", bởi v́ "nó" của phút sau đă không phải "nó" của phút trước. Với lại, trước khi "nó" (ḍng hiện tượng) phát hiện, ta bảo rằng chưa có "nó". Kỳ thực, "nó" đă có muôn ngàn nhân duyên tiền hữu rồi, sở dĩ ta không nhận được "nó" là v́ ta không thấy được "nó" bằng cặp mắt thiển cận mà thôi."
Chúc anh ngũ ngon.
|
Quay trở về đầu |
|
|
judas79 Hội viên
Đă tham gia: 24 March 2007
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 98
|
Msg 105 of 470: Đă gửi: 18 July 2007 lúc 9:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thanks bro,
"The Tao of Physics" (Đạo của vật lư)
http://www.thuvienhoasen.net/daocuavatly-00.htm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Don.J Hội viên
Đă tham gia: 05 March 2006 Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
|
Msg 106 of 470: Đă gửi: 21 January 2008 lúc 8:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bác ơi
Lâu quá không thấy bác trở lại chủ đề, cháu muôn ḥi về ngu hành nap âm. ?
cháu
DJ
Sửa lại bởi Don.J : 21 January 2008 lúc 9:03pm
__________________ Không Thấy Không Tin
|
Quay trở về đầu |
|
|
Don.J Hội viên
Đă tham gia: 05 March 2006 Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
|
Msg 107 of 470: Đă gửi: 07 February 2008 lúc 9:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chúc dien đàn một na7m an khang thịnh vương.
(bấm vao đây nếu quên mật khẩu bi hư,)
__________________ Không Thấy Không Tin
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 108 of 470: Đă gửi: 20 February 2008 lúc 8:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn BCH đă sửa chữa link "Gởi mật khẩu qua email"
Dj,
Thanks về báo cáo Link "bấm vào đây nếu quên mật khẩu" tuy khó hiểu.
Bác sẽ trở lại tuần sau.
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 109 of 470: Đă gửi: 21 February 2008 lúc 11:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
Hinh 4
Hinh 3
Hinh 2
Hinh 1
(c̣n tiếp)
Sửa lại bởi nhatly : 21 February 2008 lúc 11:40pm
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
chindonco Trợ Giáo
Đă tham gia: 28 March 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 5248
|
Msg 110 of 470: Đă gửi: 22 February 2008 lúc 12:13am | Đă lưu IP
|
|
|
Không biết anh nhatly muốn chứng minh điều ǵ mà dùng đến bát quăng âm. Tuy nhiên anh chú thích Mi Fa chỉ nửa cung th́ đúng, c̣n La Si chỉ nửa cung th́ sai mà phải là Si Do mới là chỉ nửa cung.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 111 of 470: Đă gửi: 22 February 2008 lúc 12:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Cam ơn anh Chin nhắc nhỡ.
Tôi sửa lai h́nh 3.
Hinh 3 xin sửa lai
khi tiếp, sẽ có bài tại sao dùng Âm trong Ngũ hành nạp Âm.
NL
Sửa lại bởi nhatly : 22 February 2008 lúc 7:03am
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 112 of 470: Đă gửi: 26 February 2008 lúc 10:01am | Đă lưu IP
|
|
|
"Hiện tướng bản thể vũ trụ là một tṛ chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính ḥa âm và bất ḥa âm. Nếu người biết được tṛ chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; th́ trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay, kẻ đó không biết được ḥa âm vũ trụ trong tṛ chơi này. Nói thế không có nghĩa là bản thể vũ trụ ở trong t́nh trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhưng nó chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nh́n bản thể vũ trụ như là một phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. V́ tùy thể này, nói lên được sự hiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi chúng ta đang ở trong t́nh trạng sinh khởi, nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà hiện ra các khổ tướng báo thân có sai khác. Nhưng về mặt nhất thể , th́ hiện tướng chính là bản thể, và bản thể chính là hiện tướng.
Do đó, cuộc đại ḥa âm, hay bất đại ḥa âm trong vũ trụ, cũng tùy theo đó mà hiện hữu như một thực tại giữa chúng ta, không thể không chấp nhận. V́ kẻ biết được hay không biết được tṛ chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo của ư niệm, nhưng khi ư niệm vừa khởi lên, liền sau đó phát hiện ra âm thanh hoặc tương đồng hoặc tương khắc với với thế giới âm thanh bên trong hay bên ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trược này, hầu hết chúng sanh đă mang vào trong mỗi tướng thể một khổ quả nào đó, cùng nằm trong một cộng nghiệp không thể tránh khỏi luật tắc luân hồi, đă mang và sẽ đưa chúng sanh vào con đường khổ. Chính v́ khổ ngiệp của chúng sanh đang vây khổn mà các đức Phật Thế tôn cùng các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyện đó, sự xuất hiện của Bồ tát Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhất trong hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Ngài đă chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ căn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồt tát, đă nói lên đầy đủ ư nghĩa hạnh nguyện đó.
Trong nhiều bộ kinh, có nói về đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhưng chúng ta không thấy đề cập đến phương pháp chứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề cập đến sự chứng ngộ ấy, kinh Lăng Nghiêm trực chỉ ghi rơ rằng: Sau khi đức Thế tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của 24 Thánh đệ tử xong, đến lượt Bồ tát Quán Thế Âm bày tỏ chỗ sở chứng của ḿnh như sau: " Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là: hà sa số kiếp về trước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánh định th́ phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự tánh th́ sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, th́ nghe và đối tượng bị nghe đều hết. Nghe đă hết không trụ, th́ giác và đối tượng của bị giác đều không khi không giác đă tṛn đầy, th́ không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đă mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt." Thế giới phơi mở trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi. Cảnh giới này trên đồng với Như Lai một từ lực, dưới hợp với tất cả chúng sanh trong sáu đường, và đồng với chúng sanh một ḷng bi ngưỡng.
Đến đây, chúng ta thấy hạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, gặp nhau trong ḷng bi ngưỡng đối với chúng sanh đại thể. Nhưng về ư nghĩa danh từ có sự khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm ư nghĩa luôn luôn ở trong chiều hướng phản phục cái nghe nơi tự tánh. Như vậy, cái nghe ở trong chiều hướng nội. Một khi tâm đă phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không c̣n, nên không có sự đối đăi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Như lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trước mắt. Lúc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội. Như vậy kinh Lăng Nghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán Thế Âm. Ngược lại trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn lại lập cứ trên quả đức để hiển nghĩa, th́ Âm chính là tiêu đích của văn tầm cứu. Dù là tịch thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế Âm Bồ tát cũng thấu suốt tất cả. Âm thinh từ trạng thái tâm lư đến lúc phát ra ngoài, phải qua một tiến tŕnh chuyển động của cơ thể. Có sự liên hệ giữa một ư niệm khi phát khởi, và các sợi thần kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoài cửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ra vô tận, và sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếp giao này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu ḥa âm, hay bất ḥa âm, tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng người, từng loại chúng sanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗi người, mỗi sự vật, chính ngay trong ư niệm, trong mặc thức, không phát ra bên ngoài, hay chưa khởi phát ra ngoài, nhưng nó có tác động của tâm thức can thiệp vào. Ở đây, c̣n gọi là tâm thanh, là tiếng nói của tâm.
(trích từ Quán Âm Bồ Tác / Thich ViÊm Lư)
c̣n tiếp
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 113 of 470: Đă gửi: 07 March 2008 lúc 11:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀ PHÁP QUÁN THẾ ÂM
“Khoa học không lương tri chỉ là sự tàn lụi của tâm linh. Đó là câu châm ngôn Pháp: “ Science sans conscience n’est que ruine de l’âme ” thường được nhắc nhở đến, mỗi khi người đời gặp tai nạn do khoa học gây nên.
Tuy nhiên, không phải tất cả những phát minh của khoa học đều đem lại khổ đau cho con người. Từ thế kỷ 15, 16 có những phát minh như phát minh về ấn loát, về hơi nước, về điện v.v... đă đem lại rất nhiều lợi ích cho nhân loại, đă làm cho cuộc sống của con người trên quả đất càng thêm tươi đẹp. Do đó chúng ta thấy rằng nếu v́ lợi ích chung mà chúng ta áp dụng khoa học để sáng tạo th́ đó là tiến bộ về cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, c̣n nếu v́ quyền lợi riêng tư của 1 số ít cá nhân, của 1 số nước mà phát minh những vũ khí giết người hàng loạt th́ đó là tàn phá, hỗn loạn, hủy diệt.
Nhưng trên thực tế, dù các tôn giáo, các tổ chức từ thiện, các nhà hiền triết, từ lâu đă lớn tiếng kêu gọi các lănh tụ trên thế giới hăy thương yêu nhau, hăy tương trợ lẫn nhau, chiến tranh đến ngày nay vẫn c̣n lan tràn, hết khu vực này lại sang khu vực khác, ngay trong 1 nước hoặc trong nhiều nước. Đau thương, tang tóc vẫn sờ sờ trước mắt. Như đă nói, bao lâu khổ đau c̣n dày ṿ chúng sanh th́ pháp Quán Thế Âm c̣n phải được hành tŕ liên tục, không gián đoạn. Pháp Quán Thế Âm chính là cứu khổ, cứu nạn, pháp vô úy cần phải được phổ biến khắp nơi, khắp chốn. Sở dĩ chúng sanh đau khổ là v́ lục căn c̣n nhiễm lục trần, v́ tâm của chúng sanh c̣n bị nhiễm ô, c̣n bị cuốn bởi ngoại cảnh.
Nhưng muốn cho lục căn khỏi bị nhiễm ô th́ chúng ta phải tu tập pháp nhỉ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là 1 pháp dễ hành nhứt, dễ giúp đạt kết quả nhanh nhứt. Trong 6 căn chỉ có nhỉ căn là căn có nhiều công đức hơn hết, đúng như lời nhận xét của Bồ Tát Văn Thù khi Ngài chọn lấy pháp này làm pháp tu chánh yếu cho chúng sanh mai sau trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La Hán và Bồ Tát.
Nhưng để cho thích hợp với người đời nay, Chân sư chúng tôi không ngần ngại gọi nó dưới 1 cái tên khác, đó là pháp lắng nh́n, lắng nghe vô sở thọ. Nói cách khác, đó là pháp nghe như không nghe mà lại nghe như thật, pháp thấy như không thấy mà lại thấy như thật.
Tuy chúng ta sống trong đời, lúc nào cũng nghe, cũng thấy, nhưng chúng ta không khổ, không lo, không sợ, đó là v́ chúng ta biết cách nghe, biết cách thấy theo pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu chúng ta không khổ, không lo, không sợ tức là chúng ta đă được giải thoát khỏi các phiền năo đang trói buộc người đời. Mà giải thoát được tức là chúng ta đả được an vui và hạnh phúc ngay trong đời này, chớ không cần phải đợi đến lúc lâm chung, ĺa bỏ thân xác mới trở về cơi Cực Lạc hay Thiên Đàng để được hưởng hạnh phúc đời đời như các tôn giáo thường dạy.
An vui, hạnh phúc khổ đau, sầu thảm, tất cả đều ở nơi tâm ḿnh. Nếu tâm ḿnh đă vô sở thọ, đă vô trụ rồi th́ đâu c̣n phân biệt an vui hay khổ đau ?
V́ thế mới nói rằng thành tựu được pháp lắng nh́n, lắng nghe vô sở thọ rồi th́ chúng ta liền được tự tại, tức là được tự do trong hiện tại, chúng ta liền được an nhiên trước mọi diễn biến của cuộc đời.
Song song với việc hành pháp bất nhiễm như trên, chúng ta c̣n phải chiếu soi nội tâm để kịp thời giác các tạp niệm và vọng niệm luôn xẹt ra trong đầu.
Áp dụng chơn lư Ngũ uẩn giai không, nói cách khác, vọng tức chơn, chúng ta mới thấu rơ vọng niệm, tạp niệm cũng đều là chơn niệm. Áp dụng thường xuyên chơn lư đó, chúng ta lần hồi sẽ chứng ngộ vô phân biệt trí, b́nh đẳng tánh trí. Mà chứng ngộ như thế là chúng ta đă ḥa nhập được Chơn Như, đă hoàn tất lộ tŕnh đi từ Sắc trở về Không.
Lộ tŕnh này tuy dài và khó nhưng chúng ta không nên ngại núi e sông, chúng ta hăy vững tâm từng bước, từng bước tiến lên bằng cách phát huy tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả của Bồ Tát Quán Thế Âm qua pháp Phổ Môn cứu khổ cứu nạn của Ngài. Chúng ta không cần phải đợi đến khi ḥa nhập được Chơn Như hoàn tất lộ tŕnh tu Huệ, mới phát đại nguyện độ sanh, bởi lẽ thế giới, đất nước khổ đau đang chờ đôi bàn tay cứu vớt của chúng ta. Chỉ cần tỏ ngộ được Phật tâm nơi ḷng th́ chúng ta có thể bắt đầu song tu Phước Huệ. Phước ở đây không phải là báo mà người đời thường mong cầu khi họ bố thí, giúp người, trái lại song tu phước huệ có nghĩa là song tu công đức và trí huệ.
Công đức ở trong Chơn Như mà Chơn Như th́ vô h́nh, vô tướng, trùm khắp vũ trụ bao la, nên công đức cũng vậy, cũng vô biên, không bờ, không bến, không thể suy lường.
Nhưng muốn tạo dựng công đức và trí huệ, chúng ta phải giữ tâm vô sở thọ, vô trụ khi đối cảnh, đối pháp, khi làm việc hay rảnh rỗi nghĩa là tâm chúng ta lúc nào cũng b́nh thường, không loạn động.
Mà hễ tâm không loạn động, được b́nh thường th́ huệ khai, trí huệ hiện bày. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tùy duyên ứng phó mọi việc trên đời để đem lại lợi lạc cho người.
V́ thế chúng ta mới thấy rằng công đức tức là trí huệ. Tuy phân tách làm hai nhưng công đức và trí huệ chỉ là 1 mà thôi. Lúc đầu khi chúng ta c̣n chấp th́ việc tu phước chỉ nhằm mục đích hưởng phước báo. Nhưng khi 1 niệm đă ngộ, tâm không c̣n chấp nữa, th́ phước báo năm xưa liền biến thành rừng công đức.
Hành pháp Phổ Môn cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm với tâm vô trụ tức là song tu Phước huệ, song tu công đức và trí tuệ.
Sau cùng, nếu muốn gia tốc việc xây dựng, củng cố và hoàn măn công đức, chúng ta không thể không hành tŕ Mật Tông với các câu chú của Bồ Tát. Tùy sở thích, chúng ta có thể tŕ niệm 1 thần chú mà thôi như thần chú Bát Nhă hay thần chú Chuẩn Đề. Thành tựu 1 thần chú tức là chúng ta sẽ thành tựu tất cả bài chú c̣n lại của Ngài, bởi lẽ lúc đó chúng ta đă có đủ thần lực để có thể thành tựu mọi thần chú khác. Lúc đó lực tâm của chúng ta đă ḥa nhập cùng với lực của vũ trụ, cả 2 lực nay thành 1 lực. “
(Trich từ Hành tŕ pháp Quán thế Âm/ Tịnh Huệ : http://www.thuvienhoasen.org/hanhtriphapquantheam.htm)
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 114 of 470: Đă gửi: 12 March 2008 lúc 8:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Trich từ Thu vien Hoa Sen / Thạc sĩ Lê Mạnh Thát
“ Bối cảnh văn hóa Tín ngưỡng thời Hùng Vương
Hai vấn đề tiếp theo là nếu Phật giáo truyền vào nước ta vào thời điểm đó, tức vào những thế kỷ trướoc tây lịch, t́nh trạng văn hóa tín ngưỡng của dân tộc ta vào thời ấy như thế nào và những kinh điển ǵ của Phật giáo được dân tộc ta tiếp thu?
Về vấn đề thứ nhất, ta biết nền văn hóa Hùng Vương đă đạt được một số thành tựu rực rỡ. Trước tiên, nền văn hóa này đă xây dựng được một bộ máy công quyền dựa trên luật pháp, để bảo vệ biên cương và điều hành đất nước. Dấu vết cụ thể là bộ Việt Luật, mà vào năm 43sdl sau khi đánh bại được đế chế Hai Bà Trưng, Mă Viện đă phải điều tấu: "Hơn mười điều của Việt Luật khác với Hán Luật", như Hậu Hán thư 54 tờ 9a8-10 đă ghi. Sự kiện "điều tấu" này về Việt Luật đối lập với Hán Luật xác định cho ta một số điểm. Thứ nhất, việc Lưu Tú sai Mă Viện dẫn quân đánh Hai Bà Trưng vào năm Kiến Vũ thứ 18 (42 sdl) thực chất không phải là một đàn áp khởi nghĩa đơn thuần, mà là một cuộc xâm lược đối với một đất nước có chủ quyền dưới sự lănh đạo của Hai Bà Trưng trên cơ sở luật pháp của bộ Việt Luật. Bộ Việt Luật này ngày nay đă mất, giống như số phận của Hán Luật. Tuy nhiên chỉ một việc đặt Việt Luật ngang với Hán Luật. Tuy nhiên chỉ một việc đặt Việt Luật ngang với Hán Luật cho phép ta giả thiết nó là một bộ luận hoàn chỉnh với các qui định và điều khoản được ghi chép rơ ràng, để cho Mă Viện đem so sánh với Hán Luật và phát hiện có "hơn mựi việc" sai khác. Với một bộ luật như thế tồn tại, tất nhiên một chính quyền khởi nghĩa của Hai Bà Trưng không thể có đủ thời gian để thiết lập. Một khi đă vậy, Việt Luật là một điểm chỉ chắc chắn về sự tồn tại của một chính quyền Hùng Vương độc lập năm 110 tdl cho đến 43 sdl. Chỉ một tồn tại liên tục lâu dài cỡ đó mới cho phép ra đời một bộ luật hoàn chỉnh và có tác động rộng răi trong xă hội. Chính v́ tác động rộng răi này mà Mă Viện bắt buộc phải bắt tay ngay vào việc điều chỉnh các điều khoản của Việt Luật cho phù hợp với Hán Luật, như đă thấy.
Hai là, để có một bộ máy công quyền quản lư bằng luật pháp, xă hội Việt Nam thời Hùng Vương phải có một bước phát triển cao, một cơ cấu tổ chức phức tạp cần quản lư bằng luật pháp. Nếu căn cứ vào truyện 87, tức Ma Điệu Vương Kinh, của Lục độ tập kinh 8, ĐTK 152 tờ 49a 10-12 ta có thể thấy một phần nào cách quản lư bằng luật pháp này: "Có kẻ không thuận hóa th́ tăng nặng thuế và việc công ích, đem một nhà máy này sống giữa năm nhà người hiền, khiến năm nhà này dạy một nhà kia, người thuận theo trước th́ thưởng. Bề tôi giúp việc th́ dùng người hiền, mà không dùng ḍng dơi quí phái" (hữu bất thuận hóa giả trùng dao dịch chi, dĩ kỳ nhất gia xử vu hiền giả. Ngữ gia chi gian lệnh ngũ hóa nhất gia, tiên thuận giả thưởng. Phụ thần dĩ hiền, bất dĩ quí tộc).
Ba là để duy tŕ cho một cơ cấu xă hội phức tạp như vậy, tất nhiên đ̣i hỏi phải có một nền kinh tế phát triển đa dạng, năng động, một nền văn hóa có bản sắc đặc tính riêng. Và cuối cùng, để có một bộ luật như Việt Luật, ngôn ngữ tiếng Việt thời Hùng Vương quyết đă đạt đến một tŕnh độ phát triển chính xác, đủ để phát biểu những qui định thành một văn bản pháp quy. Và để ghi những văn bản pháp quy đó, tiếng Việt phải có một hệ thống chữ viết riêng, mà dấu tích ngày nay ta có thể thấy qua bài "Việt ca"_1 ghi trong Thuyết uyển 11 tờ 6a11-4a4.
Bài Việt ca và ngôn ngữ việt thời Hùng Vương
Thuyết Uyển là bộ sách duy nhất đă chép lại nguyên văn một tác phẩm văn học khác với tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca mà có khả năng là Lưu Hương (77-6tdl) đă rút tư liệu từ bí phủ nhà Hán. Khi mới lên ngôi năm 33tdl, Hán Thành đế đă giao cho Lưu Hương giữ chức Hiệu trung ngũ kinh bí thư, như Tiền Hán thơ 36 tờ 5b4-10 đă ghi. Văn nghệ chí trung Tiền Hán thư 36 tờ 1a 11-b7 cũng chép: "Đến đời Hữu Vũ (140-86tdl), Thi thiếu, Thư rơi, Lễ nát, Nhạc đỗ. Thánh thượng bùi ngùi nói: Trẫm rất đau xót". Do thế, đưa ra chính sách cất sách, đặt quan chép sách, dưới tới truyền thuyết các nhà đều sung bí phủ. Đến đời Thành đế (32-6 tdl) cho là sách đă tán vong nhiều, bèn sai yết giả Trần Nông t́m sách sót ở thiên hạ, ra chiếu quang lục đại phu Lưu Hướng hiệu đính kinh truyện chư tử thi phú [...]. Mỗi một sách xong, Hưóng bèn xếp đặt thiên mục, tóm tắt đại ư, chép ra tâu vua". Cũng Tiền Hán thư 36 tờ 22a7: "Hướng thu tập truyện kư hành sự viết Tân tự, Thuyết uyển gồm 50 thiên, tâu vua". Bản thân Lưu Hương trong lời tâu dâng sách Thuyết uyển ở Thuyết uyển tự tờ 2a 13-b6 cũng nói: "Bề tôi Hướng nói Thuyết uyển tạp sự của Trung thư_1, do [Hướng] hiệu đính (...) sự loại lắm nhiều, chương cứ hỗn tạp...". Riêng Tăng Củng, khi viết về Thuyết uyển, trong Thuyết Uyển tự tờ 1a5-7, cũng đề cập xa gần tới bài Việt ca: "[Lưu] Hướng lựa cọn sự tích hành trạng do truyện kư trăm nhà chép lại, để làm ra sách Thuyết uyển tâu lên, muốn lấy làm phép răn".
Thuyết uyển được viết vào những năm 18-12 tdl. Về một bài ca của người Việt gọi là Việt ca, Thuyết Uyển 11 tờ 6a11-7a4 ghi thế này: "Tương Thanh Quân bắt đầu ngày được phong mặc aó thúy, đeo kiếm ngọc, đi giày the, đứng trên sông Du. Quan đại phu ôm dùi chuông, huyện lịnh cầm dùi trống, ra lệnh bảo: "Ai có thể đưa vua qua sông?" Quan đại phu nước Sở là Trang Tân đi qua nói chuyện. Bèn đến giả bộ vái ra mắt, đứng lên nói: Thần xin cầm tay vua, được không?" Tương Thành Quân giận, đổi sắc mà không nói ǵ.
"Trang Tân né chiếu, chấp tay nói: "Chắc có ḿnh ngài không nghe việc Ngạc quân Tử Tích thả thuyền chơi trong gịng Tân ba, cỡi thuyền Thanh hàn rất lộng lẫy, trương lộng thúy, cầm đuôi tê, trải chiếu vạt đẹp. Khi tiếng chuông trống xong, th́ chèo thuyền. Người Việt ôm mái chèo ca. Lời ca nói:
Lạm hề biện thảo
Lạm dư xương hộ
Trạch dư xương châu
Châu khán châu
Yên hồ tần tư
Tư mạn dư
Hồ chiêu thiền tần dũ
Sấm thật tùy hà hồ.
Ngạc quân Tử Tích nói: "Ta không biết lời ca Việt. Ông thử v́ ta nói bằng tiếng Sở". Lúc đó mới gọi Việt dịch, bèn nói tiếng Sở rằng:
Kim tịch hà tịch hề khiền trung châu lưu
Kim nhật hà nhật hề đắc dự vương tử đồng chu
Mông tu bị hảo hề bất tí cấu sĩ
Tâm cơ ngoan nhi bất tuyệt hề tri đắc vương tử
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi
Tâm duyệt quân hề quân bất tri.
Dịch:
Chiều nay chiều nào hề nhổ ḍng trung châu
Ngày nay ngày nào hề được cùng thuyền với vua
Được ăn mặc đẹp hề không trácn nhục hổ
Ḷng từng ngang mà không dứt hề biết được vương tử.
Núi có cây hề cây có cành
Ḷng thích vua hề vua chẳng rằng.
"Lúc đó, Ngạc quân Tử Tích dơ tay áo dài đi mà che, đưa mền gấm mà phủ. Ngạc quân Tử Tích là em mẹ vua Sở Thần, làm quan đến lịnh doăn, tước là chấp khuê. Một lần chèo thuyền, mà người Việt c̣n được vui hết ư.
Nay ngài sao vượt hơn Ngạc quân Tử Tích, bề tôi sao riêng không bằng người chèo thuyền? Xin cầm tay ngài, sao lại không được?".
"Tương Thành Quân bèn đưa tay mà đi lên, nói: "Ta thuở nhỏ cũng thường nổi tiếng sang trọng về đối đáp, chưa từng bỗng bị nhục nhă như thế. Từ nay về sau, xin lấy lễ lớn nhỏ, kính cẩn nhận lệnh".
Thông tin về bài Việt ca này, được ghi trong truyện Nguyên Hậu trong Tiền Hán thư 98 tờ 8b4-6 như sau: "Nguyên trước Thành đô hầu Thương thường bệnh, muốn tránh nóng, theo vua, mượn cung Minh Quang, sau lại đục thành Trường An dẫn nước sông Phong đổ vào hồ lớn trong nhà ḿnh, để đi thuyền, dựng lọng lông chim, trướng màn vây khắp, chèo thuyền hát lối Việt" (trấp dịch Việt ca).
Thành đô hầu Thương túc Vương Thương (?-14tdl) làm đại tu mă đại tướng quân, phụ chính cho Hán Thành đế những năm 17-14 tdl. Việc Thương lấy thuyền cho dựng lọng lông chim gợi cho ta h́nh ảnh các thuyền với người mặc áo mũ lông chim trên những hoa văn trống đồng Ngọc Lũ, một trống đồng có niên đại gần gũi với Vương Thương. Không những thế, Thương lại cho người cầm chèo hát bài hát tiếng Việt mà từ đây ta gọi là bài Việt ca. Thương lại la đồng đại cuả Lưu Hướng (77-6 tdl) người Việt Thuyết Uyển và đầu tiên chép trọn bài Việt ca bằng tiếng Việt và dịch ra tiếng Sở như ta đọc ở trên. Một người tầm cỡ như Vương Thương làm đại tư mă đại tướng quân từ năm 17-14 tdl tất không thể nào Hướng không biết tới. Cho nên, nếu Thương đă đục cả "thành vua" (đế thành) dễ dẫn nước sông vào hồ minh cho người ta "chèo thuyền hát Việt ca", th́ những bài "Việt ca" naỳ không thể không lôi cuốn sự chú ư của Hướng, một người "chuyên dồn ḷng vào kinh thuật, ngày đọc sách truyện, đêm xem trăng sao, có khi không ngủ đến sáng" Như thế, bài "Việt ca", mà Lưu Hướng chép luôn cả nguyên văn chữ Việt của nó vào Thuyết uyển, dù có xuất phát từ bí phủ đi nữa, th́ ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của lối hát Việt ca thịnh hành tại kinh đô Trường An nhà Hán trong các gia đ́nh quyền quí thời đó, trong đó có Vương Thương.
Bài Việt ca này không thể xuất hiện chậm hơn năm 16tdl, năm Lưu Hương hoàn thành Thuyết Uyển. Ta biết Trang Tân và Tương Thành Quân là những nhân vật thế kỷ thứ IV tdl, c̣n Ngạc quân Tử Tích là con thứ tư của Sở Cung vương, và tự sát lúc B́nh Vương lên ngôi. Sở cung vương trị v́ giữa những năm 590-560 tdl, c̣n Sở B́nh Vương lên ngôi năm 528 tdl_1. Việc lưu hành của bài Việt ca do thế, phải xảy ra vào thế kỷ thứ VI-V tdl, nếu không sớm hơon, để cho chuyện Trang Tân và Tương Thành Quân ghi lại và được nghe đến. Và tiếng Việt như thế không chỉ hiện diện như một ngôn ngữ của giống người Việt, mà c̣n như một ngôn ngữ có chữ viết tương đối hoàn chỉnh, để cho Lưu Hương có thể chép lại nguyên văn cùng bản dịch "tiếng Sở" của nó có từ một bản văn nào đó trong bí phủ của hoàng cung nhà Hán. Sự kiện Việt ca được chép cả nguyên bản lẫn dịch bản chứng tỏ người viết bản gốc ấy tương đối thông thuộc cả hai ngôn ngữ cùng hệ thống chữ viết của chúng. Và người này tối thiểu phải sống trước thời Lưu Hướng, để cho tác phẩm cuả ông ta có đủ thời gian đi vào "bí phủ" và "trung thư" của nhà Hán.
Bài Việt ca này, có thể đọc, chấm câu và cắt nghĩa như sau:
Cách đọc tiếng Việt theo đề nghị của chúng tôi:
Lắm buổi điên đảo
Lắm giờ chung gọ
Nước giờ chung đuốc
Đuốc cành đuốc
Yên dạ ǵn vua
Vua vẫn cờ
Dạ sao thân ǵn vua
Xiêm thực vị há hổ.
Để tiện cho công tác tham khảo, chúng tôi nhân đây viết bài ca này theo hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời Hán theo hệ phát âm nghiên cứu Karlgren:
glâm jiei b'ian ts'ôg
glâm dio t'iang g'o
d'àk dio t'iang tiôg
tiôg kâm tiôg
gian g'o dz'ien siwo
siwo mwân dio
g'o t'jog d'ân dz'ien diu
ts'âm ziek zwie g'â g'o
Theo cách cắt nghĩa và chấm câu như trên th́ bản dịch chữ Hán trên phải tổ chức lại cho tương đương với bài ca chữ Việt như thế này:
Bản dịch chữ Hán:
Kim tịch hà tịch hề khiển trung châu lưu
Kim tịch hà nhật hề đắc dự vương tử đồng chu
Sơn hữu mộc hề
Mộc hữu chi
Tâm duyệt quân hề
Quân bất tri
Tâm cơ ngoan như bất tuyệt hề đắc tri vương tử
Mông tu bị hảo hề bất tí cầu sĩ.
Như thế là vào những năm 40-1 tdl, loại h́nh âm nhạc Việt ca, đă bắt đầu chiếm lĩnh sinh hoạt văn hóa của một bộ phận quí tộc Trung Quốc, cụ thể là Vương Thương, làm đại tư mă đại phụ chính vào những năm 17-14 tdl. Lưu Hướng, với tư cách Hiệu trung bí thư, và trong quá tŕnh "đi t́m di thư trong thiên hạ", như Tiền Hán thư 10 tờ 5a8-9 ghi, đă sưu tầm và chép bản Việt ca này vào trong Thuyết Uyển. Cũng có khả năng là người Việt tại nước ta đă ché và gởi lên Trung Quốc những bản văn tiếng Việt đó làm quà cống. Thuyết Uyển không phải là một bộ sách thường, mà là một bộ sách dâng vua. V́ thế, việc chép bài Việt ca tiếng Việt vào Thuyết Uyển chứng tỏ rằng bài Việt ca này đă phổ biến khá rộng răi trong giới quí tộc Trung Quốc chứ không phải chỉ trong quần chúng, và t́nh trạng phổ biến đó đưa đến sự quen thuộc của người yêu tích đối với cả nhạc lẫn lời của các bài Việt ca. Trong thời cổ đại, đây có thể nói là trường hợp đầu tiên và duy nhất, mà một bài thơ nưóc ngoài chép bằng tiếng nước ngoài cùng với bản dịch tiếng Hán xuất hiện trong một tác phẩm cổ điển Trung Quốc.
Qua bài Việt ca như thế, ta có thể khẳng định là vào thời Hùng Vương đă xuất hiện một ngôn ngữ Việt nam, mà ta có thể t́m thấy trong Lục Độ tập kinh, trong đó c̣n bảo lưu trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt, cung cấp cho chúng ta một số lượng đáng kể các tá âm cho việc nghiên cứu tiếng Việt cổ và phục chế lại diện mạo tiếng nói ấy cách đây hai ngàn năm
Lục Độ tập kinh
Lục Độ tập kinh là văn bản đầu tiên và xưa nhất, ngoài bài Việt ca, tập thành những chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước, mất nước v.v... làm cột sống cho chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam và truyền thống văn hóa Việt Nam_1. Lục độ tập kinh được Khương Tăng Hội dịch vào thời Tam Quốc, từ một truyện bản Lục độ tập kinh tiếng Việt, gồm có cả thảy 91 quyển.
Bản kinh lục xưa nhất hiện c̣n là Xuất tam tạng kư tập 2. ĐTK 2145 tờ 7a27-b1 ghi về Lục độ tập kinh như sau: "Lục độ tập kinh 9 quyển, hoặc gọi là Lục độ vô cực kinh... Thời Ngụy Minh đế (228-240) Sa-môn Thiên Trúc Khương Tăng Hội dịch ra vào đời Ngô Chúa Tôn Quyền (222-252) và Tôn Lượng (253-258)". Cao Tăng truyện 1, ĐTK 2059 tờ 326a21 ghi thêm là Khương Tăng Hội dịch Lục độ tập ở chùa Kiến sơ. Pháp Kinh viết Chúng kinh mục lục 6, ĐTK 2146 tờ 144a11, năm Khai Hoàng 14 (594) trong mục Tây phương chư thánh hiền sở soạn tập ghi: "Lục độ tập 4 quyển, Khương Tăng Hội đời Ngô dịch". Phí Trường Pḥng viết Lịch đại tam bảo kư 5, ĐTK 2034 tờ 36b24, năm Khai Hoàng 17 (597) viết: "Năm Thái Nguyên thứ nhất (251 sdl), ở Dương Đô chùa Kiến Sơ, dịch các kinh Lục độ tập v.v.. 4 bộ 16 quyển" Đạo Tuyên soạn Đại Đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230a6-c23 ghi: "Lục độ tập kinh 9 quyển, một chỗ gọi Lục Độ vô cực kinh, một gọi Độ vô cực kinh, một gọi Tạp vô cực kinh. Xem Trúc Đạo tổ lục và Tam tạng kỳ... Đời Tề Vương nhà Ngụy trong năm Chính Thủy (241-249) Sa-môn Thiên Trúc Khương Tăng Hội ở chùa Kiến Sơ dịch...". Các nhà viết kinh lục khác, như Minh Thuyên trong Đại Châu sanh định chứng kinh mục lục, Ngạn Tôn trong Chúng kinh mục lục 2 ĐTK 2147 tờ 161b7 ở mục Hiền thánh tập truyền, Trí Thăng trong Khai nguyên Thích giáo lục 2 ĐTK 2154 tờ 490b4-591b23, Tỉnh Mại trong Cổ Kim dịch Kinh đồ kư 1 ĐTK 2152 tờ 352a26-b22, Tỉnh Thái trong Chúng kinh mục lục 2 ĐTK 2148 tờ 195a28 v.v... cũng đều có liệt kê Lục Độ tập kinh hoặc 8 hoặc 9 quyển, và đều nhất trí là được Khương Tăng Hội dịch.
Văn từ và nội dung Lục độ tập kinh chứa đựng một số nét khiến ta nghi ngờ nó không phải là một dịch phẩm từ nguyên bản tiếng Phạn. Chẳng hạn, truyện 49 của Lục độ tập kinh 5, tờ 28a22-24, có câu phát biểu của anh thợ săn nói rằng: "[Tôi] ở đời lâu năm, thấy nho sĩ tích đức làm lành, há có bằng đệ tử Phật quên ḿnh cứu mọi người, ở ẩn mà không dương danh, ư?", th́ rơ ràng nếu Lục độ tập kinh do "thánh hiềm soạn ra", th́ chắc chắn không phải là "thánh hiền phương Tây" (tức Thiên trúc hay Ấn Độ) v́ "phương Tây" thời ấy làm ǵ có "nho sĩ" của phương Đông? Do vậy, đây phải là một phát biểu của "thánh hiền phương Đông", mà trong trường hợp này, lại là một "thánh hiền" của nước ta, để đến năm 251, Khương Tăng Hội mới dịch nó ra tiếng Trung Quốc. Và cũng chính dựa vào bản Lục Độ tập kinh tiếng Việt này mà bản dịch ra tiếng Trung Quốc của Khương Tăng Hội mới mang tính "văn từ điển nhă" như Thang Dụng Đồng nhận định trong quyển Hán Ngụy Lưỡng Tấn Nam Bắc triều Phật giáo sử_1 và dẫn đến việc họ Thang giả thiết là bản Lục độ tập kinh tiếng Trung Quốc này không phải do Hội dịch, mà có khả năng là do Hội viết ra. Thức tế, là Khương Tăng Hội đă dùng một bản đáy tiếng Việt, chứ không phải tiếng Phạn, để dịch Lục độ tập kinh ra tiếng Trung Quốc. V́ vậy khi đọc lên, ta nghe gần gũi, có cảm tưởng như một bản văn viết chứ không phải là một bản dịch từ nguyên bản chữ Phạn hay một phương ngôn nào đó cuả Ấn Độ. Nếu đọc kỹ hơn, ta phát hiện thêm một sự kiện hết sức lạ lùng, nhưng rất quan trọng và có nhiều ư nghĩa đối với không những Lịch sử Phật giáo Việt Nam mà c̣n với Lịch sử văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam nữa.
Ngôn ngữ Việt
Sự kiện đó là trong một số câu của Lục độ tập kinh, Khương Tăng Hội đă không viết đúng theo ngữ pháp Trung Quốc mà lại theo ngữ pháp Việt Nam, ta có cụ thể các đoạn:
1. Truyện 13, tờ 7c13: "Vương cập phu nhân, tự nhiên hoàn tại bản quốc trung cung chính điện thượng tọa...".
2. Truyện 14, tờ 8c5: "Nhĩ vương giả chi tử, sinh ư vinh lạc, trưởng ư trung cung..."; cùng truyện, tờ 9b27: "Lưỡng nhi đổ chi, trung tâm đát cụ...".
3. Truyện 26, tờ 16b2: "... Thủ thám tầm chi, tức hoạch sắt hỷ, trung tâm sảng nhiên, cầu dĩ an chi...".
4. Truyện 39, tờ 21b27: "... Trung tâm hoan hỉ".
5. Truyện 41, tờ 22c12:"Vương bôn nhập sơn, đồ kiến thần thọ".
6. Truyện 43 tờ 24b21:"... trung tâm chúng uế..."
7. Truyện 44 tờ 25a26: "trung tâm nục chiên, đê thủ bất vân"
8. Truyện 72, tờ 38b25: "... tuyệt diệu chi tượng lai tại trung đ́nh, thiếp kim cung sự".
9. Truyện 76, tờ 40a 8: "... cửu tộc quyên chi, viễn trước ngoại dă"; cùng truyện, tờ 40b 5: "Vị chúng huấn đạo trung tâm hoan hỉ".
10. Truyện 83, tờ 44c1: "... dĩ kỳ cốt nhục vi bệ thăng thiên"; cùng truyện tờ 45a 19: "Ngô đương dĩ kỳ huyết, vi bệ thăng thiên".
11. Truyện 85, tờ 47b26: "... trung tâm gia yên"; cùng truyện tờ 47c16: "... trung tâm đài yên".
Như thế, qua 11 truyện với 15 trường hợp ngữ pháp tiếng Trung Quốc thời Khương Tăng Hội đă không được chấp hành; ngược lại, chúng được viết theo ngữ pháp tiếng Việt, như ta biết hiện nay. Trong số 15 trường hợp này th́ có đến 11 trường hợp liên quan đến chữ "trung tâm". Muốn nói "trong ḷng" mà nói "trung tâm" theo ngữ pháp tiếng Trung Quốc là không thể chấp nhận. Chữ "trung tâm" với nghĩa chỉ nơi chốn, "trong", đến thời Vương Dật (khoảng 89-158) chú thích Sở từ và Trịnh Huyền (127-200) chú thích kinh Thi đă được qui định hẳn là luôn luôn đứng sau danh từ hay đại danh từ nó chỉ nơi chốn. Qua những phân tích chi tiết_1, cụm từ "trung tâm" từ thế kỷ VI tdl cho đến thế kỷ I sdl về sau cho đến thời Khương Tăng Hội, việc sử dụng nó cực kỳ hiếm hoi, thực tế chỉ có ba lần. Thế mà trong giai đoạn đó, một tập sách ngắn như Lục độ tập kinh lại có đến 8 trong số 15 trường hợp ngôn ngữ bất b́nh thường lại sử dụng từ "trung tâm". Do vậy, những trường hợp "trung tâm" vừa dẫn phải được viết theo ngữ pháp tiếng Việt. Những trường hợp "Thần thọ" để diễn tả ư niệm "thần cây" và "bệ thăng thiên" để diễn tả "bệ thăng thiên" cũng thế. Từ đó, đưa đến một kết luận rằng là có khả năng Khương Tăng Hội đă sử dụng một nguyên bản Lục độ tập kinh tiếng Việt để dịch ra bản Lục độ tập kinh tiếng Trung Quốc mà ta hiện đang dùng làm nguyên bản tiếng Việt như vậy mới giải thích nổi tại sao ngữ pháp tiếng Việt đă ảnh hưởng một cách có hệ thống và toàn diện đối với dịch bản Lục độ tập kinh tiếng Trung Quốc hiện có.
Quan niệm về chữ hiếu của dân tộc Việt Nam
Về tư tưởng hiếu đạo, tối thiểu cứ vào cuộc tranh luận do Mâu Tử lư hoặc luận ghi lại xung quanh truyện Thái tử Tu Đại Noa và căn cứ vào chính truyện Tu Đại Noa, trong Lục độ tập kinh 2, ĐTK 152 tờ 8b7, ta biết có sự khác biệt cơ bản giữ tư tưởng hiếu đạo của người Việt Nam và hiếu đạo của người Trung Quốc. Hiếu đạo của người Trung Quốc theo câu mở đầu của Hiếu kinh là: "Thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương đó là khởi đầu cuả hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, đó là kết cục của hiếu". (Thân thể phát phu, thọ chi phu mẫu, bất cảm tổn thương, hiếu chi thủy. Lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, hiếu chi chung).
Người vấn nạn nơi điều 9 trong Mâu Tử lư hoặc luận cũng dựa vào lư lẽ trên bài bác Mâu Tử, th́ Mâu Tử chỉ ngay: "Thái Bá cắt tóc, vẽ ḿnh, tự theo tục của Ngô việt, trái với nghĩa thân thể tóc da; vậy mà Khổng Tử ca tụng, cho có thể gọi là chí đức [...] Dự Nhượng nuốt than, sơn ḿnh. Nhiếp Chính lột mặt, tự vẫn. Bá Cơ dẫm lửa, hạnh cao cắt mặt. Quân tử cho là dũng và chết v́ nghĩa. không nghe ai chê là tự hủy hết".
Lại nữa, một quan niệm đạo hiếu như trong Hiếu kinh như thế không thể nào phù hợp với ngay chính tập tục sống rất phổ biến cuả người Việt Nam vào thời Hùng Vương mà Tiền Hán thư 28 hạ tờ 31a5-12 đă ghi lại: "Đất Việt (...) nay là Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, đều là phần của Việt... xâm ḿnh cắt tóc để tránh hại của giao long"
Nhan Sư Cổ (581-645) dẫn Ứng Thiệu (khoảng 130-190) giải thích tục xâm ḿnh cắt tóc của người Việt, nói: "Thường ở trong nước, nên cắt tóc xâm ḿnh, cho giống với con rồng, để không bị thương hại".
Tục cắt tóc xâm ḿnh của người Việt như vậy xuất hiện rất sớm, từ thế kỷ trước Dương lịch người Trung Quốc đă biết đến và ghi lại, để cho sau này Ban Cố (32-92 sdl) chép vào Tiền Hán thư. Một khi tục cắt tóc xâm ḿnh đă phổ biến như thế, th́ ngay câu đầu của thuyết hiếu đạo Trung Quốc nghe đă không lọt tai đối với người Việt. Người Việt làm sao giữ hiếu đạo được theo Hiếu kinh nếu họ đă cắt tóc xâm ḿnh? Từ thực tế đó, bắt buộc người Việt phải có một đạo hiếu khác với đạo hiếu của người Trung Quốc. Và đạo hiếu này được công bố rơ ràng trong kinh Tu Đại Noa của Lục độ tập kinh 2. ĐTK 152 tờ 8b7; "Giúp nghèo cứu thiếu, thương nuôi quần sinh, là đứng đầu của hạnh? (Chẩn cùng tế phạp, từ dục quần sinh, vi hạnh chi nguyên thủ).
Khi xác định đứng đầu mọi hạnh (hạnh chi nguyên thủ) là việc "giúp nghèo cứu thiếu thương nuôi quần sanh", th́ đây là một định nghĩa hoàn toàn mới về chữ hiếu, bởi v́ theo Đỗ Khâm trong Tiền Han thư 60 tờ 9a12 th́ "hiếu đứng đầu mọi hạnh của con người" (hiếu, nhân hạnh chi sở tiên), và đây cũng là ư chính của Hiếu kinh, mà Tiền Hán thư 71 tờ 9a9-10 đă dẫn: "Hiếu kinh nói:"Tính của trời đất, con ngựi là quí. Hạnh con người không ǵ lớn hơn hiếu".
Nội dung đạo hiếu của người Việt Nam thời tiền Phật giáo như hoàn toàn khác hẳn đạo hiếu của người Trung Quốc. Cần nhớ là chữ hiếu trong tiếng Phạn không có một từ tương đương với chữ hiếu cuả tiếng Hán. Từ một nội dung chữ hiếu như thế, ta mới thấy Lục độ tập kinh 5 ĐTK 152 tờ 28a22-24, truyện 49, đă lên tiếng phê phán đạo hiếu của người Trung Quốc: "Tôi ở đời lâu năm, tuy thấy Nho sĩ tích đức làm lành, há có ai như đệ tử Phật quên ḿnh cứu người, âm thầm mà không nêu danh ư?" (Xử thế hữu niên, tuy độ Nho sĩ tích đức vi thiện, khởi hữu nhược Phật đệ tử, thứ kỷ tế chúng ẩn xứ nhi bất dương danh dă hồ?).
Hai thành tố chính của đạo hiếu Trung Quốc là "thân thể tóc da không dám tổn thương" và "lập thân hành đạo, nêu tên với hậu thế" từ đó đă bị khái niệm đạo hiếu của người Việt Nam phản bác. Và không chỉ hai thành tố này cuả Hiếu kinh bị phê phán, một quan niệm khác do Mạnh Tử nêu lên, đó là "bất hiếu có ba, không người nối dơi là lớn nhất" (bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại) cũng bị Lục độ tập kinh ở truyện 86, tờ 48a7-10, mạnh mẽ phê phán: "Người đạo cao th́ đức rộng. Ta muốn cái đạo vô dục, đạo đó mới quí. Đem đạo truyền cho thần, đem đức trao cho thánh, thần thanh truyền nhau cái sự giáo hóa vĩ đại không hư nát, đó mới gọi là sự nối dơi tốt lành. Nay người muốn lấp nguồn đạo, chặt gốc đức, th́ không đáng gọi là kẻ vô hậu ư?" (Đạo cao giả quyết đức thâm, ngô dục vô dục chi đạo, quyết dục trân hỉ. Dĩ đạo truyền thần, dĩ đức thọ thánh, thần thánh tương truyền ảnh hóa bất hủ, khả vị lương tự giả hồ! Nhữ dục điền đạo chi nguyên phạt đức chi căn, khả vị vô hậu giả hồ!).
Vấn đề vô hậu của đạo hiếu từ b́nh diện sinh lư đă chuyển sang b́nh diện đạo đức và học thuật, không nhất thiết phải có sự thừa tự về mặt sinh vật học mới gọi là hiếu, đạo hiếu theo quan niệm của Mạnh Tử, mà c̣n có một lối thừa tự khác, sự nối dơi khác, nối dơi về chân lư, nối dơi về học thuật, nối dơi về đạo đức. Quan niệm nối dơi này cuả ngựi Việt thời kỳ tiền Phật Giáo hoàn toàn phù hợp với quan niệm thừa tự Pháp của Phật giáo.
Nhưng không chỉ có thế, quan niệm nối dơi này mang hai đặc tính cần lưu ư trong cuộc đấu tranh để giữ ǵn ṇi giống của người Việt. Thứ nhất, để bảo vệ sự tồn tại như một dân tộc, người Việt phải xác định ḿnh có một nền văn hóa, một nền đạo đức học thuật cần phải nối dơi, cần phải bảo vệ mà nếu không nối dơi được th́ dân tộc không thể tồn tại với tư cách là một dân tộc được. Xuất phát từ quan điểm nối dơi như thế, người Việt không đi đến một chủ nghĩa nối dơi cực đoan, như sự nối dơi về mặt sinh vật học của chủ nghĩa ưu sinh (eugenics) hiện đại, gây tác hại và tốn bao sinh mạng đối với những dân tộc khác. Bảo vệ nền văn hóa của ḿnh, bảo vệ lối sống (hạnh) của ḿnh, người Việt sẵn sàng mở rộng đôi tay đón nhận những người từ dân tộc khác đến sống chung trở thành một bộ phận của dân tộc ḿnh.
Đây là đặc điểm thứ hai của quan niệm thừa tự của người Việt tiền Phật giáo. Họ có quan niệm như thế cũng phải thôi, bởi v́ địa bàn sinh tồn của họ, cụ thể là vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ vào thời xa xưa đă tồn tại những dân tộc khác. Cho nên, những giao lưu về huyết thống giữa các dân tộc khác nhau tất phải xảy ra. Do đó, nếu chỉ dựa vào sự nối dơi theo quan điểm sinh vật học, th́ người Việt đă không phát triển và h́nh thành được một cộng đồng dân tộc thuần nhất. Họ phải dựa vào một quan điểm khác để có sự thuần nhất ấy, đó là, sự thuần nhất về mặt văn hóa và lối sống.
Trong bối cảnh của một nền chính trị, kinh tế và văn hóa như thế, đă nổi bật lên một số tư tưởng, tín ngưỡng của người Việt đời Hùng Vương mà ngày nay ta c̣n t́m thấy trong các thư tịch cổ và được chứng thực một phần nào bởi các di liệu khảo cổ học.
Quan niệm chữ Nhân
Về quan niệm "trị dân, giúp nước" th́ từ thời Hùng Vương xa xưa, ta đă thấy xuất hiện một lư thuyết nhân nghĩa hoàn toàn khác với quan điểm nhân nghĩa của người Trung Quốc, và được t́m thấy trong Lục độ tập kinh. Tư tưởng nhân nghĩa này đề cập đến ḷng thương, nhưng ḷng thương này, "không chỉ giới hạn trong việc thương người mà c̣n bao trùm hết cả sinh vật cho chí đến cả cỏ cây" (Hoài vô ngoại chi hoằng nhân, nhuận đăi thaỏ mộc). Đây là một tư tưởng hết sức rộng lớn, không có trong Nho giáo. Đối với Nho giáo, nhân nghĩa có một nội dung hết sức hạn chế. Thiên Tận tâm chương cú thượng trong Mạnh Tử nói rất rơ: "Ḷng nhân của Nghiêu Thuấn không yêu khắp mọi người, mà trước hết yêu bà con và người tài giỏi".Cho nên, dù Mạnh Tử có thể dễ dàng đồng ư với tư tưởng nhân nghĩa của Lục độ tập kinh, là: "[Vua] lấy nhân từ trị nước, dung thứ dạy dân" [vương] trị dĩ nhân hóa dân, dĩ thứ cư bỉ], quyển 4, tờ 22a 19; hay "lấy điều nhân để trị nước" (trị quốc dĩ nhân); v́ Mạnh Tử cũng chủ trương "tam đại được thiên hạ là nhờo nhân, mất thiên hạ cũng v́ bất nhân", nhưng ta thấy quan điểm nhân nghĩa của hai bên cách xa nhau một trời một vực. Và sự khác biệt này vẫn tồn tại qua hàng ngàn năm, mà ta có thể phát hiện không mấy khó khăn trong trường hợp Nguyễn Trăi, như chúng tôi đă có dịp chứng tỏ_1, dẫu từ nhân nghĩa vẫn được sử dụng.
Cần nhớ là giống như trường hợp chữ hiếu, chữ nhân nghĩa không có từ tương đương trong tiếng Phạn. Do thế, tư tưởng nhân nghĩa phát biểu trong Lục độ tập kinh phản ảnh khá trung thực tư tưởng nhân nghĩa của dân tộc ta thời tiền Phật giáo, tức tư tưởng thời Hùng Vương, lúc Phật giáo từ Ấn Độ bắt đầu truyền bá khắp nơi. Từ một định nghĩa đơn giản như: "phù hiếu sát giả bất nhân" (thích giết là không có ḷng nhân), theo Lục độ tập kinh quyển 4, tờ 19a, cho đến một khẳng định cương quyết như: "Ngô ninh tổn xu mệnh bất khứ nhân đạo dă" (ta thà chịu tổn mạng chứ không bỏ đạo nhân) ở tờ 18c17-18; hoặc "bất nhân nghịch đạo ninh tử bất vi dă" (bất nhân trái đạo thà chết chứ không làm), quyển 2 tờ 6b22, đưa đến quan niệm Bồ tát v́ ḷng nhân, nhẫn cho đến loài sâu bọ cũng không giết được ghi trong truyện 32, tờ 19ả: "Quán Bồ Tát chi thanh nhân, quyên phi kỳ hành nhu động chi loại, ái nhi bất sát" (thấy sự nhân từ trong sạch của Bồ Tát, các loài ḅ bay máy cựa uốn trườn, đều thương không giết)
Truyện 48, tờ 27c13 cũng nói về chữ nhân theo phản cách: "Tham dục là người điên, nào có ḷng nghĩa nhân" (tham dục vi cuồng phu, phi hữu nhân nghĩa tâm".
Chữ Nhân như thế được đề cao qua nhiều cụm từ khác nhau, thể hiện không những giáo lư t́nh thương của Phật giáo, mà c̣n truyền thống nhân đạo thời Hùng Vương cuả dân tộc Việt Nam. Cụ thể là từ "Nhân ái" trong truyện 68, tờ 36c20; từ "nhân nghĩa" trong truyện 48 tờ 27c13: từ "nhân từ" trong truyện 91 tờ 52a 16; từ "Nhân đạo" trong truyện 31, tờ 18c17-18 v.v...
Tín ngưỡng
Tin quỷ là một nét đặc trưng của tín ngưỡng ngựi Việt. Từ đó, tối thiểu cho đến năm 110 tdl mới bắt đầu truyền qua Trung Quốc do Dũng Chi thực hiện. Theo Tự Thiếu Tôn, sống khoảng 43-06tdl, làm quan dưới thời Hán Nguyên đế (43-32tdl), viết phần Vũ Đế bản kỷ trong Sử Kư 12 tờ 16b8-17a1, và mục Giao tự chí của Tiền Hán thư 25 hạ tờ 1a5-10, kể là sau khi nghe người Việt tên Dũng Chi nói về sự hiệu nghiệm của việc thờ quỷ: "Ngựi Việt tục tin quỷ, kẻ thờ đều thấy quỷ, nhiều lần có hiệu nghiệm. Xưa vua Đông Âu kính quỷ, thọ đến 160 tuổi. Đời sau khinh lười nên suy vi".
Hán Vũ đế bèn "khiến thầy bói Việt lập đền thờ (quỷ) Việt, dựng đài mà không đàn, cũng thờ trời, thần, thượng đế và trăm quỷ, nhưng dùng gà để bói. Vua tin. Thờ quỷ Việt và bói gà bắt đầu dùng (từ đó)".
Thế rơ ràng tục thờ quỷ theo lối người Việt, từ sau khi Nam Việt diệt vong năm 110 tdl, mới bắt đầu phổ biến ở Trung Quốc với sự ủng hộ tín thành của người lănh đạo cao nhất nước Hán là Hán Vũ đế và do người Việt là Dũng Chi truyền vào. Trước thời Hán Vũ đế, c̣n có tục lên nóc nhà gọi hồn người chết, được ghi trong Lễ kư. Về việc thờ quỷ và gọi hồn người chết này, về sau đă được Mâu Tử đề cập tới, khi có người vấn nạn v́ sao ông không tin vào thuyết "người chết sẽ sống lại". Điều thứ 12 của Lư hoặc luận đặt vấn đề:
"Đạo Phật nói người ta chết th́ phải sinh lại. Tôi không tin điều ấy đúng thế" Mâu Tử trả lời: "Người đến lúc chết, nguời nhà trèo lên nóc nhà mà gọi. Chết rồi th́ c̣n gọi ai? Bảo là gọi hồn phách nó. Mâu Tử nói: "Thần hồn trở lại th́ sống, không trở lại th́ thần hồn đi đâu?. Trả lời: Thành quỷ thần"_1.
Tục người Việt tin quỷ như vậy, thực tế là tin người chết không phải chết là hết, mà những người chết đă thành quỷ thần, và đáng được thờ phụng. Đấy có thể nói là những thông tin bằng tư liệu thành văn đầu tiên nói về tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt.
Những thông tin này ngày nay có thể được chứng thực bởii các di liệu khảo cổ học t́m thấy ở các ngôi mộ ở Lũng Ḥa (Phú Thọ)_2, Thiệu Dương (Thanh Hóa)_3, Việt Khê (Hải Pḥng)_4 và Lạch Trường (Thanh Hóa)_5, mà về mặt thời gian trải dài từ thiên niên kỷ thứ II tdl đến tihên niên kỷ thứ I tdl. Đó là các vật tùy táng từ thô sơ dân dă như ŕu, đục, nồi, bát, hạt chuỗi, hoa tai, suốt xe chỉ v.v.. của Lũng Ḥa cho đến hiếm quư sang trọng như trống đồng, đèn đồng, Đồ Sơn then, đỉnh, b́nh, ấm v.v... và thậm chí cả vũ khí nữa như dao, dao găm, giáo, mũi tên v.v...Tất cả đồ tùy táng này có ư nghĩa ǵ, nếu không phải để cho các người đă chết có dịp dùng chúng, để phục vụ họ bên kia thế giới. Nói khác đi, đă từ lâu tổ tiên người Việt quan niệm chết không phải là hết. Cho nên, khi một thành viên của gia đ́nh và cộng đồng vĩnh viễn ra đi, người ta cần đưa tiễn họ với một số vật dụng thân thiết, để họ có cơ hội dùng tới. Tục tin quỷ của người Việt như thế đă tồn tại lâu đời, trước khi Phật giáo truyền vào và Tự Thiếu Tôn ghi lại.
Việc kết hợp thờ người chết và bói gà này cho đến ngày nay vẫn c̣n tồn tại trong tập tục tang ma của người Việt Nam. Chẳng hạn khi cúng ngựi chết th́ dùng ba trứng gà; khi mở cửa mả th́ dùng con gà kéo lôi ba ṿng rồi thả đi, tin rằng hồn người chết sẽ theo con gà đó mà ra khỏi mả. Ngay cả việc cúng ông bà vào ba mươi tết hay tảo mộ cũng phải có cúng một con gà v.v...
Tục bói gà này, khi Trương Thủ Tiết viết Sử kư chính nghĩa 12 tờ 16b12-13 ghi nhận là vào năm 736 c̣n lưu hành ở Việt Nam: "Phép bói gà, dùng gà một con, chó một con, đang sống th́ chú nguyện, xong liền giết. Gà chó đem nấu chín, lại đem cúng. Riêng lấy gà, trên xương hai mắt nó từ có lỗ nứt giống h́nh vật người là tốt. Nếu không đủ là xấu. Nay Lĩnh Nam c̣n làm phép đó".
Đến thời Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) viết Thiên Nam ngữ tục lục vào năm 1685, th́ thay v́ bói gà bằng lỗ nứt tại con mắt, đă ghi nhận phép bói gà bằng chân trong liên quan tới việc Lư Phục Man chống lại Trần Bá Tiên khi vua Lư Nam đế (ở ngôi 544-547) thất trận:
"Chiêm Thành tuy nhỏ ở xa
Sự Trung Quốc loạn nó ḥa đă hay
Bằng con nó động đến nay
Nó xưa trong náu, nó rày ngoài xung
Cái ngài cái ắt khôn mong
Phục Man dầu có anh hùng mà chi"_1
Trong đó các từ con, cái, trong, ngoài, náu, xung, động, ngùi là những từ chuyên môn trong khoa bói chân gà tại Việt Nam nếu không phải là thời Lư Phục Man tức khoảng năm 548, th́ cũng là của thời Thiền sư Chân Nguyên ở thế kỷ XVII. Điểm cần lưu ư ở đây là việc thờ quỷ, cúng bói gà, là nhằm phục vụ cho việc được sống lâu,cho việc thấy được quỷ, cho việc tiên đoán một số sự kiện trong tương lai v.v... Nói cách khác, đây là một tín ngưỡng có tính cách quyền năng để phục vụ cho những yêu cầu t́m đến quyền năng cuả dân Việt từ thời cổ xưa.
Trên bối cảnh của một nền tín ngưỡng và tư tưởng học thuật như vậy, Phật giáo đă truyền vào nước ta. Thế th́, Phật giáo truyền vào Việt Nam với một hệ thống giáo lư nào? Việc nhà sư Phật Quang trao cho Chữ Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá thần, mà không có một lời giảng thuyết giáo lư nào, càng làm cho vấn đề rắc rối thêm. Ta chỉ biết sau đó Chữ Đồng Tử cùng Tiên Dung dựng gậy và nón lên thành phố xá lâu đài. Và điều này cũng báo cho ta biết ít nhiều về tính chất của nền Phật giáo Chữ Đồng Tử, Tiên Dung đó là tính chất quyền năng. Tuy nhiên, để hiểu rơ hơn nội dung giáo lư của nền Phật giáo thời Hùng Vương, ta phải trở lại phân tích thêm Lục độ tập kinh, mà bản dịch ra tiếng Trung Quốc do Khương Tăng Hội dịch từ tiếng Việt hiện c̣n được bảo lưu trong Đại Tạng.
Lịch Pháp Việt Nam
Lục độ tập kinh ngày nay có cả thảy 91 truyện. Trong số các truyện này có một số truyện ta có thể truy về thời các vua Hùng c̣n nắm giữ quyền hành, nghĩa là trước biến cố năm 43sdl, khi cuộc kháng chiến vệ quốc do Hai Bà Trưng lănh đạo thất bại. Cơ sở cho một việc truy t́m như vậy dựa trên một hiện tượng khá đặc thù của những truyện này. Đó là hiện tượng sử dụng lịch pháp. Trong Lục độ tập kinh có 10 truyện đề cập đến đơn vị thời gian, tức các truyện:
Truyện 9, ĐTK152, tờ 4b19, cl và c9:"Một thời 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật), "hai thời 180 ngày" (nhị thời bánh bát thập nhật), "thỉnh ở lại ba thời" (thỉnh lưu tam thời).
Truyện 14, tờ 9a13 "Hai mươi mốt ngày th́ đến núi Đàn Đặc" (Tam thất nhị thập nhật năi chí Đàn Đặc sơn)
Truyện 24, tờ 14c23: "Bố tát thấy Phật, vui vẻ qui y, thỉnh Phật và Tăng ở lại nhà ḿnh bảy ngày cúng dường trọn lễ" (Bồ tát đồ Phật, hân nhiên tự quy, thỉnh Phật cập Tăng thất nhật lưu gia, dĩ lễ cúng dường); cùng truyện tờ 15a2: "Bảy ngày như thế, đều không lười mơi" (thất nhật nhược tư đô vô giải)
Truyện 25 tờ 15c27: "Ở thai mười tháng" (Xử thai thập nguyệt).
Truyện 61, 34a2: "Mười ngày sau" (thập nhật chi hậu)
Truyện 76 tờ 40b12: "Bé trong bụng mẹ... ba tam tuần ngày, thân thể thành h́nh" (Nhi tại mẫu phục.. tam thập bát thất nhật, thân thể giai thành)
Truyện 79, tờ 42b9-12: "... rồng vui vẻ làm mưa gió bảy ngày bảy đêm. Đức Phật ngồi ngay không động không lay, không thở, không hít. Bảy ngày không ăn th́ được thành Phật. Ḷng vui, không c̣n tưởng. Rồng rất vui mừng, cùng bảy ngày không ăn, mà không có niệm đói khát. Hết bảy ngày, mưa gió tạnh" (... Long hỉ, tác phong vũ thất nhật thất dạ. Phận đoạn tọa, bất dộng bất dao bất suyễn bất tức. Thất nhật bất thực, đắc Phật. Tâm hỉ, đô vô hữu tưởng. Long đại hoan hỉ, diệc thất nhật bất thực, vô cơ khát niệm. Thất nhật tốt, phong vũ chỉ)
Truyện 83, tờ 44c17: "Vua vui vẻ bày tiệc, rượu nhạc bảy ngày" (Vương hỉ, thiết tửu vi nhạc thất nhật); cùng truyện tờ 45a8: "Bẻ trúc để ghi th́ đi đường bảy ngày mới về tới vương quốc" (dĩ trúc vi soán hành đạo thất nhật, năi chí vương quốc); tờ 46a14-16: "Vua nói: Hăy ở lại bảy ngày nữa [...] sau bảy ngày có đại thần vương đến chỗ vua trời chúc mừng" (Vương viết "Thả lưu thất nhật [...], thất nhật chi hậu, hữu đại thần vương chỉ thiên vương sở hạ viết...); tờ 45c1 "Bố thí bảy ngày; không ai thiếu thốn mà không được đầy đủ" (bố thí thi thất nhật, vô phàm bất túc).
Truyện 88, tờ 50b13-23: "Trong một trăm năm, phàm có ba trăm mùa xuân, hạ đồng. Mỗi mùa có một trăm. Lại trong 1200 tháng, các tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi thứ bốn trăm thánh. Trong ba vạn áu ngàn ngày, xân một vạn hai ngàn ngày. Hạ nóng, đông lạnh, mô4i thứ một vạn hai ngàn ngay. Trong một trăm năm, một ngày hai bữa... Trong 100 năm, đêm ngủ trừ năm mươi năm... Con người thọ 100 tuổi chỉ vui có mười năm" (Bách tuế chi trung phàm cánh tam bách thời, xuân hạ đông nguyệt các cánh kỳ bách dă. Cánh thiên nhị bách nguyệt xuân hạ đông tiết các cánh tứ bách nguyệt. Cánh tam vạn lục thiên nhật, xuân cánh vạn nhị thiên nhật, hạ thử đông hàn, các vạn nhị thiên nhật. Bách tuế chi trung, nhất nhật tái phạn... Bách tuế chi trung, dạ ngọa trừ ngũ thập tuế... Nhân thọ bách tuế, tài đắc thập tuế nhĩ).
Ta thấy truyện 98 này ghi nhận một năm có 360 ngày, chia thành ba mùa [thời], mỗi mùa có 120 ngày, ậy mỗi mùa có 3 tháng: "Trong một trăm năm phàm lại có 300 mùa, xuân hạ đông mỗi mùa có 100, tức 1200 tháng, xuân hạ đông tiết, mỗi tiết có 400 tháng, tức 36.000 ngày, mùa xuân lại có 12.000 ngày, mùa hạ nóng, mùa đông lạnh, mỗi mùa 12.000 ngày". Rơ ràng, một ghi nhận như thế bộc lộ quan điểm lịch pháp của Phật Giáo Ấn Độ, mà ta ngày nay c̣n t́m thấy trong Xá đầu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh, ĐTK1501 tờ 419c1-2 & b4-6 và Phạn bản Sàradùlakarnàvadàna của nó hiện c̣n bảo lưu: "Ba mươi ngày là một tháng, kể 12 tháng là một năm", và một năm chỉ có ba mùa là dông, xuân và hạ. Điểm lôi cuốn là Xá đâu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh do Trúc Pháp Hộ dịch vào khoảng những năm 265-313, th́ trước đó hơn nửa thế kỷ", Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm lại thực hiện một bản dịch sớm hơn dưới tên Ma đăng già kinh gồm hai quyển thượng hạ. Ngoài chuyện ghi nhận ở quyển hạ ĐTK1500 tờ 409a13-4 là "ba mươi ngày đêm gọi là một tháng, 12 tháng này gọi là một năm"; c̣n nói ở tờ sau [410a18-9]: "Hễ năm th́ có 365 ngày... tháng có 30 ngày". Dầu sao đi nữa, việc chia một năm có 360 ngày thành 12 tháng và ba mùa của Lục độ tập kinh có vẻ là một phản ảnh khá trung thành quan điểm lịch pháp của Phật giáo vào những thế kỷ trước và sau dl.
Tuy nhiên, nếu t́m hiểu tiếp, ta thấy truyện 9 của Lục độ tập kinh 1 ĐTK152 tờ 4b19 và 4c1& c9 lại nói đế "một mùa 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật) và "hai mùa 180 ngày" (nhị thờ bách bát thập nhật). Thế cũng có nghĩa một năm có tới bốn mùa, chứ không phải ba mùa. Lịch pháp Ấn Độ thời tiền Phật giáo của giai đoạn Vệ đà tiền kỳ, tức khoảng những năm 1500-100tdl, thường chia 12 tháng cuả một năm thành 6 mùa là lạnh ['sarad] và rét [vasanta], hạ [gŕsma], mưa [varsa], thu ['sarad] và rét [hemanta], như Rigveda x.90; 6; i.131, 4 v.v... đă ghi. Đến giai đoạn Vệ đà hậu kỳ [1000-300tdl], sáu mùa vừa kể trên rút gọn lại c̣n ba mùa là đông, hạ và mưa, và xếp đặt các tháng c̣n lại cho phù hợp, mà ta có thể thấy trong Taittiriya samhità. Việc rút gọn lại c̣n ba mùa này sau đó đă được nền lịch pháp Phật giáo chấp nhận, như đă nói trên. Vậy, rơ ràng sự kiện truyện 9 nói tới bốn mùa dứt khoát không liên hệ với lịch pháp Ấn Độ và Phật giáo. Thế phải chăng nó chịu ảnh hưởng của lịch pháp Trung Quốc?.
Đúng là lịch pháp Trung Quốc từ thời Ngũ đế [2550-2140tdl] đă đề cập tới bốn mùa xuân hạ thu đông, như Nghiêu điển trong Thượng thư chú sở 2 tờ 5b10-6b3 dă viết [vua Nghiêu] bèn sai hai họ Hy, Ḥa xét chuyển vận của trời, trăng và sao, để thế mệnh trời, mà báo cho dân biết thời tiết [...] Khi ngày dài nhất, sao là Hỏa, th́ là giữa hạ [...]. Khi đêm dài nhất, sao là Hư, th́ là giữa thu [...] Khi ngày ngắn nhất, sao là Măo, th́ là giữa đông [...]. Tuy vậy, nó cũng viết tiếp: "Vua nói: Này các ngươi Hy, Ḥa năm quay lại sau ba trăm với 6 tuần và 6 ngày, lấy tháng nhuận đặt đúng bốn mùa, để nên năm".
Viết như thế, không những lịch pháp Trung Quốc từ xa xưa đă xác định mỗi năm có 365 ngày, mà c̣n dùng chế độ 10 ngày là một tuần. Chế độ 10 ngày một tuần này được sử dụng rất là phổ biến. Đọc Tả truyện chú sở 43 tờ 2b11 và 44 tờ 2b5 các năm Lỗ Chiêu Công thứ 5 và 7, ta thấy nói "số của ngày là mười" (nhật chi số thập), "trời có mười ngày" (thiên hữu thập nhật). Thiên Chu quan của Lễ Kư cũng ghi nhận : "Họ Phùng tướng giữ các việc 12 năm, 12 tháng, 12 giờ, 10 ngày (thập nhật), 28 ngôi sao". Đặc biệt, hệ thống 10 ngày đây không chỉ tồn tại trên sách vở hiện lưu truyền, mà c̣n thấy trên các văn tự giáp cốt mới khai quật, như Quách Mạt Nhược_1 đă chứng tỏ. Nói cách khác đi, lịch pháp Trung Quốc chỉ dùng hệ thống 10 ngày, để chia ngày của tháng, mà thời Nghiêu Thuấn đă gọi là tuần. Hệ thống này Lục độ tập kinh 6 ĐTK 152 tờ 34a2 trong truyện 61 chỉ sử dụng một lần, và chỉ dùng chữ 10 ngày trơn, tức "sau mười ngày", mà không dùng đến chữ tuần. Ngược lại, hệ thống tuần ngày được nói đến một cách rộng răi. Cụ thể là các truyện 14 tờ 9a13, 24 tờ 14c23, 54 tờ 31b12, 79 tờ 42b9-12 và 83 tờ 44c17, tờ 45a8 & c1 và tờ 46a15. Đặc biệt, truyện 76 tờ 40b12 để tính thời gian thai nhi ở trong bụng mẹ, đă dùng số 38 bảy ngày [tam thập bát thất nhật]. Điều này có nghĩa dù truyện 9 có nói tới hệ thống bốn mùa, hệ thống ấy không nhất thiết phải xuất phát từ lịch pháp Trung Quốc.
Kết luận đây hoàn toàn phù hợp với một báo cáo của Lưu An [? - 122tdl] về quan hệ lịch pháp giữa Trung Quốc và Việt Nam thời cổ đại c̣n ghi lại trong Tiền Hán thư 64 thượng tờ 2a10-b1 nói rằng: "Việt là đất phương ngoài, là dân cắt tóc xăm ḿnh, không thể lấy phép tắc của nước mủ đai mà xử lư nó. Từ thời Tam đại hưng thịnh, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc, chẳng mạnh không thể phục chúng, chẳng uy không thể ngăn chúng, cho là đất không thể ở, là dân không thể chăn, không đáng làm phiền Trung Quốc".
Bảo là "từ thời Tam đại, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc", Lưu An muốn xác nhận rằng từ những triều đại nhà Hạ (2140-1711tdl), nhà Thương (Ân 1711-1066tdl) và nhà Chu (1066-256tdl), người Việt ta đă không "chịu chính sóc", tức đă không dùng lịch pháp Trung Quốc. Do thế, việc truyện 9 chia 360 ngày của một năm thành 4 mùa, mỗi mùa 90 ngày, phải nói là xuất phát từ lịch pháp Việt Nam thời Hùng Vương hậu kỳ, nếu không phải là tiền kỳ cùng lúc với thời Ngũ đế (2550-2140tdl) bên Trung Quốc.
Xác định này càng được củng cố thêm, khi ta phân tích lịch pháp Ấn Độ, để xem thử t́nh trạng sử rộng răi hệ thống 7 ngày có xảy ra, như đă xảy ra trong Lục độ tập kinh hay không. Đúng là người Ấn Độ từ xa xưa rất thích con số 7, mà chứng cớ có thể t́m thấy dễ dàng trong Rigveda i.62,7 [nói đến phần của thế giới, 7 rặng núi, 7 tiên nhân], i.63,7 [7 suối, 7 đại cương, 7 thành phố], i.72,6 [7 ngọn lửa, 7 âm, 7 lễ, 7 bước lên trời..] v.v... Tuy nhiên trong lịch pháp của họ không dùng tới hệ thống tuần 7 ngày. Mahàbhàrata 1.1.35 sau khi kể về sự h́nh thành thế giới và mọi vật sinh xuất, đă viết:
samvatsarartavo màsàh paksàhoràtrayah kramàt / yac cànyad api tat sarvam sambhùtam lokasàk sikam / 35
năm, mùa, tháng, tuần, ngày, đêm cũng lần lượt xuất sinh và đó là sự sinh của tất cả mọi vật được biết trên thế gian này.
Chữ mà chúng tôi dịch là tuần, trong tiếng Phạn là paksa. Và chữ paksa thực tế không có nghĩa là tuần, như ta thường hiểu theo dạng 10 ngày cuả tuần Trung Quốc hay dạng 7 ngày của tuần hiện nay. Ngược lại, trong lịch pháp Ấn Độ nó dùng để chỉ đơn vị 15 ngày, mà trong lịch pháp tiền kỳ gọi là nguyệt tiền [pùrva/apùryamàna-paksa] và nguyệt hậu [apara/apa-kśyamàna], rồi sau đó gọi là bạch nguyệt ['sukla/'suddha] và hắc nguyệt [krisna/tàmisra], như có thể thấy trong Áo nghĩa thư Kauśtaki upanisad, các kinh Kausika, Kàtyàyanasrauta, 'Sankhàya nasrauta, bộ luật Manu v.v... Đặc biệt lối chia hắc nguyệt bạch nguyệt này được sử dụng rất phổ biến trong lịch pháp Phật giáo, để qui định các lễ tiết của ḿnh, cụ thể là lễ bố tát [posadha] trong Luật tạng và các lễ khác trong mật giáo. Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát cập chư tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiên ác tú diệu kinh, quyển thượng ĐTK 1299 tờ 393a 1-2, viết rất rơ:
"Hễ tháng th́ có hai phần hắc và bạch. Từ ngày mồng một đến ngày 15 là bạch nguyệt. Từ ngày 16 đến ngày 30 là hắc nguyệt".
Thế rơ ràng trong lịch pháp Ấn Độ và Phật Giáo rất ít sử dụng hệ 7 ngày. Cần chú ư ngay trong tạng kinh Nam truyền bằng tiếng Ba lỵ, thời gian thai nhi nằm trong bụng mẹ cũng chỉ dùng hệ 9 hay 10 tháng [M.i.4.u. Mahàtanhà sankhayasuttam: màtà nava và dasa và màse gab- bham kucchinà pariharati...], chứ không dùng hệ 7 ngày. C̣n tuần của lịch pháp Trung Quốc th́ dứt khoát có 10 ngày, như câu trong Nghiêu điển dẫn trên cho thấy.
Nói tóm lại, theo chúng tôi, hệ thống lịch chia năm ra làm 360 ngày, rồi phân bổ thành bốn mùa, mỗi mùa gồm có 3 tháng, mỗi tháng có 30 ngay cùng với việc dùng hệ 7 ngày làm tuần là một di sản của lịch pháp thời Hùng Vương c̣n được bảo lưu trong Lục độ tập kinh qua 10 truyện đă dẫn trên, trừ truyện 88 phản ảnh hệ thống lịch pháp của Phật giáo Ấn Độ. Và để bảo lưu được một hệ thống lịch sử như thế, các truyện ấy phải lưu hành vào thời hệ thống lịch đó đang c̣n hiệu lực, tức đang c̣n sử dụng chính thức và công khai. Đối cách nói, chúng phải xuất hiện tại Việt Nam trước biến cố năm 43 sdl, khi nhà nước Hùng Vương bị quân đội nhà Hán dưới sự chỉ huy của Mă Viện đánh bại. Nếu xuất hiện sau, khi bộ máy cai trị đàn áp của Mă Viện đă thiết lập, th́ dứt khoát một bảo lưu như thế không thể nào xảy ra, v́ Viện đă cố t́nh thực hiện một chính sách huỷ diệt tàn bạo chưa từng thấy trong lịch sử, như bắt đày những người lănh đạo chính trị và tinh thần [cừ soái>, điều tấu lại Việt Luật "hơn mười việc" và thu gom trống đồng, ngoài việc giết sạch những người chống đối vũ trang và xây dựng thêm đồn canh để bảo vệ cho bạo quyền do Viện mới thiết lập.
Xác định được một phần nào hệ thống lịch pháp thời Hùng Vương như vậy không những giúp ta sửa sai một quan niệm lưu hành khá phổ biến trước đây là "Nay không thấy dấu tích ǵ giúp ta biết cách xếp đặt ngày tháng của dân Lạc Việt xưa", mà c̣n giúp khẳng định lời đoán của Hoàng Xuân Hăn rằng "văn hóa Trống đồng của nước Văn Lang chắc đă dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-300 ngày cũng không hẳn là vô lư"_1. Nhưng quan trọng hơn đối với chúng ta là việc xác định được hệ thống lịch vừa nói đưa ta đến một nhận thức mới không những về Phật giáo nước ta, mà c̣n về thời đại Hùng Vương cùng những thành tựu nhiều mặt của nó, trong đó có cả tư tưởng, văn học và khoa học kỹ thuật. Riêng đối với Phật giáo nhờ xác định hệ thống lịch, ta cũng xác địhnh được những kinh truyện nào đă truyền vào và lưu hành ở nước ta, khi triều đại Hùng Vương đang c̣n tồn tại. Và do việc nghiên cứu các kinh truyện ấy, ta sẽ biết học thuyết nào của Phật giáo được nhân dân ta chấp nhận và sinh hoạt Phật giáo vào giai đoạn ấy ra sao. Hiện có 7 truyện như thế đang có mặt trong Lục độ tập kinh và chúng tất phải lưu hành, khi hệ thống lịch Việt Nam đang có hiệu lực, nghĩa là trước năm 43 sdl, lúc triều đại Hùng Vương c̣n thực hiện chức năng quản lư đất nước của ḿnh."
(c̣n tiếp
Sửa lại bởi nhatly : 12 March 2008 lúc 9:59am
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 115 of 470: Đă gửi: 14 March 2008 lúc 7:45am | Đă lưu IP
|
|
|
Theo TS Lê mạnh Thát, ta có thể suy rằng hệ thống lịch pháp TQ với 365 ngày một năn không thỏa măn diều kiện “Lục thập hoa giáp” ma chỉ con số 360 của lich pháp Lạc việt mới thỏa điều kiện “Lục thập hoa giap” qua ngũ hành nạp âm. Thiếu cơ sỡ này không một môn khoa hoc “Huyền bí” nào có thề h́nh thành và ứng dụng.
Bảo là "từ thời Tam đại, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc", Lưu An muốn xác nhận rằng từ những triều đại nhà Hạ (2140-1711tdl), nhà Thương (Ân 1711-1066tdl) và nhà Chu (1066-256tdl), người Việt ta đă không "chịu chính sóc", tức đă không dùng lịch pháp Trung Quốc. Nói khác Lich Pháp Lạc việt chắc hẳn đă xuất hiên rât lâu trước nhà Hạ, nói xa Ngũ đế [2550-2140tdl]. Và như thế xác định đươc một phần nào thới đại Hùng vương như sử sách đă ghi 2879-258 không gi sai trái.
Trích http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2002/02/3B9B9106/
Năm dương lịch được tính bằng đơn vị thời gian trái đất quay một ṿng quanh mặt trời.
Một ṿng quay của trái đất quanh mặt trời hết 365,2422 ngày (356 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây). Để tiện tính toán, người ta tính chẵn 365 ngày là một năm dương lịch. Do trong 365 ngày có 12 lần mặt trăng tṛn khuyết nên người ta chia thành 12 tháng. V́ 365 không chia hết cho 12 nên đành phải chia thành tháng đủ (31 ngày) và tháng thiếu (30 ngày). Riêng tháng 2 cũng là tháng thiếu nhưng chỉ có 28 ngày. Như vậy cộng 12 tháng vừa đủ 365 ngày, đó là năm b́nh thường.
Nhưng c̣n dư 5 giờ 48 phút 46 giây th́ tính sao đây? Trong 4 năm liền, số dư đó cộng lại suưt soát một ngày, và một ngày đó được cộng vào tháng 2 của năm thứ tư. Năm thứ tư ấy gọi là “năm nhuận”, có 366 ngày. Tháng 2 của năm nhuận có 29 ngày, ngày thứ 29 ấy gọi là “ngày nhuận”.
Năm âm lịch
Năm âm lịch được tính bằng chu kỳ tṛn khuyết của mặt trăng (mặt trăng c̣n được gọi là sao “Thái âm”). Người xưa phát hiện ra mặt trăng tṛn khuyết rất có quy luật, b́nh quân mỗi lần mặt trăng tṛn khuyết là 29,53 ngày. Họ đă lấy khoảng thời gian đó làm đơn vị đo thời gian và gọi là “tháng”. Tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày.
Do trong chu kỳ từ ngày lạnh đến ngày nóng và từ ngày nóng đến ngày lạnh, mặt trăng thay đổi tṛn khuyết hơn 12 lần, nên người xưa lấy 12 tháng (tháng âm lịch) thành một “năm” (năm âm lịch). Một năm đó có 354 hoặc 355 ngày. Đó là năm âm lịch thực sự. Thời cổ đại, Trung Quốc và Ai Cập là hai nước sử dụng năm âm lịch sớm nhất thế giới.(?)
Năm âm dương lịch
Thế nhưng một chu kỳ thời tiết thay đổi nóng lạnh là 364 ngày, trong khi 1 năm âm lịch chỉ có 354 - 355 ngày, mỗi năm c̣n dư 10-11 ngày, 3 năm liền dư hơn 1 tháng. Để phù hợp với chu kỳ thay đổi thời tiết nóng lạnh, người xưa đă cộng thêm 1 tháng vào năm thứ ba, năm đó sẽ có 13 tháng, tháng được cộng thêm vào gọi là “tháng nhuận”, năm đó sẽ có 384 hoặc 385 ngày.
Thời tiết thay đổi nóng lạnh là do trái đất quay nghiêng quanh mặt trời. Trái đất quay quanh mặt trời một ṿng, thời tiết thay đổi nóng lạnh một lần. Một ṿng quay này là cơ sở h́nh thành dương lịch. Bởi vậy dùng cách chia tháng nhuận để tính lịch phù hợp với chu kỳ thay đổi thời tiết, tức là kết hợp giữa âm lịch và dương lịch. Cách tính lịch như vậy không c̣n là âm lịch thuần túy nữa mà là kết hợp giữa lịch âm và lịch dương.
Âm nhạc là ǵ? Là sự kết hợp có nghệ thuật của Động và Tỉnh . Ở một khoảng nào đó, tiếng động có tần số 64HZ-23,000HZ, con ngưởi thu nhân đươc qua thính giác và gọi sự kết hợp có nghệ thuật đó là âm nhạc của loài người. Với súc vật dao động trong khoảng 16HZ(voi) - 150.000 HZ (một loại cá heo, porpoise), ngoài khả năng “nghe thấy” của loài người chắc hẳn cũng mang nhịp điệu âm nhạc.
(http://www.lsu.edu/deafness/HearingRange.html)
Nghệ thuật ở đây là môt sự kết hợp khéo léo tài t́nh những phương tiên tạo âm kèn, trống, sáo, .., để diễn đạt một trạng thái tâm ư, vui buồn, trầm tư, nỗi loạn,..
Âm thanh dùng trong âm nhạc thường có bốn đặc tính: cao độ, trường độ, cường độ và âm sắc, (tiếng ca, đàn dương cầm, đàn vĩ cầm, đàn ghita, sáo, kèn, đàn tranh, đàn bầu,.. cùng tấu lên một đoạn nhạc ở cùng một độ cao, do sắc thái khác nhau mà tai ta phân biệt được tiếng của từng nhac sĩ, nhạc cụ … Đặc tính này gọi là âm sắc.)
Tuy nhiên, từ khi phim (bộ) xuất hiện th́ thâm chí tiếng chó sủa, mèo cào, bom rơi, đạn bay ... cũng được lồng theo ḍng nhạc chính,(Do Re Mi Fa Sol La Si , / Họ Xữ Xàng Xe Cống Liêu,/Cung Thương Giốc Chủy Vũ) , tạo nên một phong cách mới trong hỉnh thức soạn nhạc. Không một tiếng động nào không thể xử dụng như là một nhạc khí nhằm diễn đạt một cách sống động một trạng thái tâm ư vui buồn, trầm tư, nội loạn ... Nói khác nhà soạn nhac phim bộ đă đem lại "chiều thứ ba" cho âm nhac thuần túy, hay âm nhạc vũ trụ thu hẹp.
Tiến xa hơn, bên ngoài khoảng thu nhận thính giác, Động -Tỉnh của vũ trụ hay âm nhạc của vũ trụ mang tinh cách vỉ mô như sự va chạm của vẫn thạch, tiếng chuyển ḿnh của một ngôi sao vừa tạo lập, tiếng gảo thét của vật chất đang cuốn về lỗ đen, ở thế giới vi mô tiêng rít lên của năng lương, alpha, beta, gamma… đươc phóng thich từ phân tử Uranium 238, Thorium 234, C14… đang tự hủy hoại, hay nhịp điệu sóng điên từ từ các ngôi sao xa gần…
Trờ lại phần âm nhạc thuần túy loài người
(C̣n tiếp)
Sửa lại bởi nhatly : 14 March 2008 lúc 8:29am
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
Don.J Hội viên
Đă tham gia: 05 March 2006 Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
|
Msg 116 of 470: Đă gửi: 22 March 2008 lúc 2:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cũng theo TS Lê Mạnh Thát th́ Chữ Động Tử là Phật tử đầu tiên và ông viết" Cho nên, vị Hùng Vương của thời Chữ Đồng Tử ta cũng có thể xác định vào những thế kỷ tđl, có khả năng là Hùng Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức khoảng thế kỷ II-III tđl."
Lịch sữ VN bi lùi lại cả ngàn năm?
__________________ Không Thấy Không Tin
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhatly Hội viên
Đă tham gia: 22 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 149
|
Msg 117 of 470: Đă gửi: 23 March 2008 lúc 12:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
DJ
Đây là đề tài tranh luận của nhiều sử gia, hoc giả chưa ngă ngũ.
"có khả năng" là chưa xác quyết.
Thương Tọa Thich Trí Siêu, Dominici Lương Kim Định là hai người bác rât kính nễ.
__________________ Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
|
Quay trở về đầu |
|
|
Don.J Hội viên
Đă tham gia: 05 March 2006 Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
|
Msg 118 of 470: Đă gửi: 30 March 2008 lúc 6:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
Theo yêu câu một số bạn, DJ up load lại 5 hinh của bác nhatly. DJ không biết là sao dán lên trang TVLS, hai la có trang bị xóa sau vài ngày.
link dl:
Hinh Excel
__________________ Không Thấy Không Tin
|
Quay trở về đầu |
|
|
Don.J Hội viên
Đă tham gia: 05 March 2006 Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
|
Msg 119 of 470: Đă gửi: 30 March 2008 lúc 6:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
TESTING
__________________ Không Thấy Không Tin
|
Quay trở về đầu |
|
|
Don.J Hội viên
Đă tham gia: 05 March 2006 Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
|
Msg 120 of 470: Đă gửi: 30 March 2008 lúc 6:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thưa bác
created new account cho bác và đă gởi theo email.
hy vọng h́nh không mất.
cháu DJ
Sửa lại bởi Don.J : 30 March 2008 lúc 6:43pm
__________________ Không Thấy Không Tin
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|