Tác giả |
|
CDMT Hội viên


Đă tham gia: 12 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 61 of 78: Đă gửi: 03 November 2003 lúc 9:52am | Đă lưu IP
|
|
|
Theo tôi th́ nên xuất phát từ thực tế. Cứ lấy thực tế mà đáng giá. Nếu bạn Co nhan thấy để như thế mà gia đ́nh ḿnh không có ǵ bất thường cả th́ cũng không sao. Theo tôi biết th́ có một cách có thể vẹn cả đôi đường. Đó là dùng cách " Chiêu hồn ép uốn". Tôi cũng không rơ từ đâu có cái tên này. Chỉ biết là cách thức như sau.
- Làm một cái mộ giả
- Chiêu hồn người đă khuất về ngôi mộ giả đó
- C̣n hài cốt th́ vẫn để ở nhà không sao cả.
Tất nhiên để thực hiện được phải là những nhà ngoại cảm. Theo tôi cách này xuất phát từ quan điểm của Đạo Phật. Đó là coi linh hồn con người là bất diệt, cơ thể này chỉ là giả tạm. Do đó khi chết linh hồn tách khỏi thể xác. Nhưng linh hồn đó vẫn quanh quẩn ở thể xác coi như đấy là nhà. Do đó mới phát sinh việc xây mộ và thăm viếng. Việc làm mộ giả sẽ có thể thoả măn được ước muốn của Co nhan.
Có vài lời mạo muội đóng góp. Nếu có ǵ không đúng mong các cao thủ cũng như là bạn Co nhan bo qua cho
---------------------
Đời là bể khổ trầm luân
Mau tu để thoát khỏi luân kiếp này
|
Quay trở về đầu |
|
|
caylanh Hội viên

Đă tham gia: 07 October 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 24
|
Msg 62 of 78: Đă gửi: 03 November 2003 lúc 3:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
dienbatn đă viết:
Thân gửi Co nhan.
Lư do người ta dùng phép lập Đàn chiêu hồn người chết đă Hỏa táng là khi người ta sắp chết,nếu người đó có biết về Dịch lư,hiểu được thời vận,biết rằng,nếu chôn xuống đất,trong thời Bĩ vận sẽ làm hại cho con cháu ,ḍng họ.Họ Hỏa táng để chờ thời cơ có lợi hơn,tương tự như hiện nay một số người có bệnh nan y,họ thực hiện việc đông lạnh để chờ y học phát triển.Một số người khác khi Hỏa táng th́ theo tinh thần của đạo Phật,mong sớm được siêu thoát,không ảnh hưởng đến con cháu ,ḍng họ khi vật đổi sao rời.Thực ra,khi Hỏa táng,người chết sẽ sớm trở lại ṿng Luân hồi,không có tác dụng nhiều cho con cháu và ḍng họ như khi đem chôn xuống đất.Chúng ta có Tâm lư là muốn nhờ Vong linh của người đă khuất Phù hộ cho con cháu,mà quên mất một điều là,Linh hồn của người đó cũng cần mau mau sớm được siêu thoát,nhập ṿng Luân hồi.Chúng ta càng quyến luyến người đă mất,người đó v́ thương con cháu,càng khó siêu thoát.Chính v́ vậy,một số Đạo thường khuyên,người nhà không nên khóc lóc khi Gia đ́nh có người mất .
Như vậy,bạn cứ yên tâm thực hiện di huấn của Cha ḿnh và không phải sợ bất cứ một ảnh hưởng nào dù xấu hay tốt từ hài cốt đă được Hỏa thiêu.
Thân ái.dienbatn. |
|
|
Cám ơn hai bạn conhan va dienbatn đă đưa vấn đề cũng như giải thích về viện hài cốt, nhất là ví dụ b́nh ac-quy cũng như nguyện vọng giải thoát, rất dễ hiểu và ảnh hưởng tốt. Mong 2 bạn giúp thêm ư kiến về trường hợp đă đem chôn mà con cháu không khá hay chỉ trung b́nh và có ư định "bốc mộ" ...
1. khi bốc mộ có nên hỏa thiêu trước khi chuyển lên chùa hay để trong nhà?
2. Và sau khi bốc mộ / hoả táng th́ nên để trên chùa hay để trong nhà ?
3. Việc bốc mộ, hỏa táng sau khi bốc hài cốt có giúp ǵ được cho việc dễ siêu thoát hay tránh những việc không hay đă và đang xảy ra cho con cháu hay không ?
Cám ơn ư kiến của tất cả quư vị,
thân mến,
caylanh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
co nhan Hội viên


Đă tham gia: 05 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 51
|
Msg 63 of 78: Đă gửi: 04 November 2003 lúc 4:08am | Đă lưu IP
|
|
|
Thân chào các bạn và caylanh
Theo thiển kiến của tôi th́ vạn vật đều là TƯƠNG ĐỐI nếu có TUYỆT ĐỐI th́ chỉ "tuyệt đối trong tương đối" thôi, nếu hiểu được lư như vậy rồi dễ thông qua nhiều đường.
V́ vậy ư kiến riêng của tôi là :
1. mỗi người khi sống cần phải có tự tin và nghị lực th́ khi rơi vào mọi hoàn cảnh vận xấu đều có thể thoát ra chờ vận tốt để đi tiếp cuộc đời.
2. Theo tôi được biết DƯƠNG TRẠCH vẫn mạnh hơn ÂM TRẠCH ví dụ như nhiều người thất lạc mồ mả ông cha ḿnh hoăc bị san bằng làm nhà, chơ như ở VN ngày nay, th́ ở nhà tốt vẫn phát đạt khá giả giầu sang...( âm đức ra sao th́ chưa rơ)
3. về phong tục tập quá VN th́ chôn sau 3 năm rồi sẽ bốc mộ cải táng hỏa thiêu cho linh hồn người chết được siêu hóa, để ở đâu tùy đức tin của con cháu (như trường hợp của tôi)
3. bạn đọc kỹ lại những ǵ dienbatn đă viết th́ hiểu rơ hơn và hết băn khoăn.
4. việc con cháu không khá giả chưa chắc do việc chôn hay thiêu, đừng đổ tại mà mang tội, mỗi ḍng họ, mỗi ngành trọng họ đều có thời vận suy thịnh.
Đôi điều trao đổi không tránh sao được thiển cạn sai sót mong các bạn bỏ qua
thân chào
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 64 of 78: Đă gửi: 04 November 2003 lúc 4:32am | Đă lưu IP
|
|
|
Thân gửi Caylanh.
Vấn đề bạn hỏi,dienbatn xin trả lời như sau :
1/Thông thường ở miền Nam Việt nam ,người ta chỉ chôn một lần và không cải táng,có lẽ do đất quá rộng chăng ?.
C̣n ở miền Bắc thông thường sau khi chôn khoảng 3 năm,người ta thực hiện việc cải táng .Thông thường,người ta đưa vào Tiểu là cái ḥm bằng sành ) và đem chôn cố định ở một nơi mà ḍng họ đă chọn làm khu vực Huyệt mộ của ḍng họ.Thông thường đây là một khu vực đă được thày Địa lư chọn trước cho cả một ḍng họ.Tôi thấy ở miền Bắc ít có ai đem hỏa táng bộ xương sau 3 năm chôn cất.
2/Nếu trường hợp sau khi cải táng mà đem bộ xương đó đi Hỏa táng th́ như phần trên dienbatn đă tŕnh bày,tro của hài cốt đă Hỏa táng không có sự phát hay thu năng lượng,do đó không có tương tác giữa Hài cốt với những người c̣n sống trong ḍng họ.Lúc này chỉ c̣n có yếu tố tinh thần mà thôi.Như vậy th́ tùy Gia đ́nh,người ta có thể đưa hài cốt lên Chùa hay thờ ở nhà cũng như nhau cả.Nếu Gia đ́nh thường xuyên phải di chuyển th́ nên gửi lên Chùa,nếu Gia đ́nh có nhà thờ Tổ hay ḍng họ cố định th́ nên giữ ở đó thờ phụng cho tiện.Cả hai cách tác dụng cũng như nhau.Khi Hỏa thiêu,v́ thân xác không c̣n nữa,nên Linh hồn sớm được siêu thoát hơn.Tuy nhiên cũng c̣n trường hợp khác là khi Gia đ́nh được thày Địa lư chọn cho một Huyệt mộ tốt,có thể phát công hầu,khanh tướng hay đế vương tùy theo phúc phận của ḍng họ,trong ḍng họ sẽ quyết định để bộ hài cốt đem chôn,hầu giúp ích con cháu sau này.Tuy nhiên,làm như vậy là làm chậm sự siêu thoát của người đă khuất.
Vấn đề đặt Huyệt mộ rất phức tạp,tự bạn nếu không có kiến thức cao thâm và Đạo cao,đức trọng,th́ bạn không nên tư đặt Huyệt mộ cho Gia đ́nh ḿnh ,mà nên t́m thày Địa lư xứng đáng nhờ giúp đỡ,cái đó cũng là một yếu tố để xem phúc phận của ḍng họ nhà bạn tới đâu.
Thân ái.dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangDuc Thầy Giáo


Đă tham gia: 16 March 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3946
|
Msg 65 of 78: Đă gửi: 06 November 2003 lúc 2:32am | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Dienbatn thân:
Tôi có đọc mấy ngày trước bạn cho tin người ta đào t́m được dấu tích Kinh thành cổ- Phiền bạn cho biết tại mục nào vậy ?
Camon lắm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
caylanh Hội viên

Đă tham gia: 07 October 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 24
|
Msg 66 of 78: Đă gửi: 19 November 2003 lúc 4:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn dienbatn thân,
cám ơn những giải thích của bạn, và mong chờ được đọc tiếp những bài viết của bạn.
thân,
caylanh
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 67 of 78: Đă gửi: 24 November 2003 lúc 2:34am | Đă lưu IP
|
|
|
Thân gửi các bạn trên diễn đàn.
Thời gian qua dienbatn phải theo thầy về núi nhập thất nên ít có điều kiện lên diễn đàn cùng các bạn được.Mong các bạn thông cảm.Nay về lại Thành phố,xin tiếp tục trao đổi phần 2 của bài viết.Rất mong các bạn nhiệt tình ủng hộ dienbatn,ngõ hầu làm được một cái gì đó dù nhỏ bé cho đất Việt thân yêu của chúng ta.dienbatn không dám có tham vọng là có thể khôi phục lại môn ĐỊA LÝ PHONG THỦY LẠC VIỆT của cha ông đã bị thất truyền,mà chỉ muốn cùng các bạn chia sẻ những điều thu lượm được về những kiến thức Phong thủy còn đang lưu truyền trong dân gian Việt nam,công đó là của những nhà Phong thủy còn ẩn dật,không muốn thi thố với đời.dienbatn chỉ là người may mắn,có duyên được truyền lại,và muốn cùng các bạn chia sẻ.Thật sự,theo sự hiểu biết kém cỏi,thô lậu của dienbatn,không chỉ có riêng bộ môn PHONG THỦY LẠC VIỆT (Bao gồm rất nhiều nhánh,ngành,kể cả HUYỀN THUẬT PHONG THỦY,CẢM XẠ PHONG THỦY ...);Mà trong DỊCH,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ HÀ LẠC,TỬ BÌNH,BÁT MÔN ĐỘN GIÁP,LỤC NHÂM ĐẠI ĐỘN....đều có cách tính toán riêng của người LẠC VIỆT,rất chính xác và hoàn hảo.Khi có dịp,dienbatn sẽ viết về những vấn đề đó để các bạn tham khảo.Cha ông ta đã để lại cho chúng ta một kho tàng kiến thức thật là đồ sộ,một hiểu biết về Vũ trụ thật đáng kinh ngạc.
Bây giờ dienbatn xin tiếp tục phần 2 của bài viết HUYỀN THUẬT VÀ KHOA HỌC.Đó là tính KHOA HỌC HIỆN ĐẠI của các phương pháp HUYỀN THUẬT đã nêu ở phần 1 của bài viết.Mong các bạn cùng tham gia,vì thực ra ở nước ngoài,những tài liệu này các bạn có rất nhiều,dienbatn chỉ xin đăng tải lại và dùng nó để giải thích vấn đề mình đã đặt ra.
PHẦN THỨ HAI :TÍNH KHOA HỌC CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP HUYỀN THUẬT :
Trước hết dienbatn xin đăng lại một bài rất thú vị của taydo -Nhà Ngói trong trang THUVIENVIETNAM.COM.Các bạn lưu ý đây là một tài liệu có tính chất tham khảo để có thể rộng đường suy luận -Không phải ý kiến của người viết.
" Loài Người Quên Lãng
Immanuel Velikovski cho ra đời tác phẩm đầu tiên của ông vào năm 1950, khi ông đã 55 tuổi . Cuốn sách làm ông mất 10 năm nghiên cứu, tìm tòi . Khi xuất bản nó gây rất nhiều tranh luận . Các nhà phê bình cho nhiều ý kiến khác nhau . Có người gọi nó là " 1 ví dụ đáng kinh ngạc nhất trong những chuyện phá vỡ những quan niệm phổ thông" . Có người cho nó là " 1 trong những cuốn sách quan trọng nhất từ khi kỹ thuật in ấn ra đời" . Cũng có người cho rằng đây là " cuốn sách tệ hại nhất từ khi con người phát minh ra những vật thể biết chuyển động" . Mặc cho nó đứng liên tiếp 20 tuần đầu bảng " Best Sellers" ở Mỹ, nhà xuất bản đầu tiên của cuốn sách đã phải thu hồi nó lại khi cộng đồng khoa bảng Hoa Kỳ tính tổ chức tẩy chay tất cả sách giáo khoa của nhà xuất bản đó .
Phản ứng cực đoan của giới khoa bảng đối với cuốn sách của V làm cho 1 cuốn sách khác ra đời, có tên " The Velikovski Affair" , mục tiêu chỉ dành phân tích toàn bộ vấn đề chung quanh cuốn sách đó . Các lớp Xã Hội Học (Sociology) đã cho mổ xẻ ý nghĩa của sự phản ứng đối với các ý kiến của V, và ảnh hưởng trên sự tiến triễn về kiến thức khoa học . Báo đại học Princeton (The Princetonian) vào năm 1964 đăng như sau trong mục quan điểm :" Ai cũng có thể hiểu rằng bất cứ người nào có ý kiến ngược lại với những định luật cơ bản của ông tổ vật lý Newton và ông tổ thuyết tiến hoá Darwin đều phải sẵn sàng để chịu những tranh cãi gay gắt . Tuy nhiên, những lên án cá nhân, những cố ý diễn dịch sai sự kiện, những lời trích đăng không chính xác , những nỗ lực để tẩy chay tất cả sách nào có chứa đựng lý thuyết của V, và sự từ chối không cho quyền V trả lời các người chỉ trích trên các tạp chí khoa học chuyên nghiệp cho thấy vấn đề không phải chỉ ở chỗ các ý kiến phổ thông bị thách thức . (Có cái gì đằng sau đó ?) .
Tuy nhiên không phải nhà khoa học nào cũng chống lại V. Giáo sư Hess, khi còn là chủ tịch khoa không gian của Viện Hàn Lâm Khoa Học Quốc Gia (Mỹ), vào giữa thập niên 1960 đã viết cho V như sau: " 1 số tiên đoán của ngài lúc đó bị cho là không thể được; tất cả sau này đều được chứng minh là đúng . Ngược lại, tôi chưa thấy điều tiên đoán nào của ngài đã bị chứng minh là sai" .
Sau đây là 1 vài tiên đoán của V vào năm 1946-1950 :
- Nhiệt độ trên mặt hành tinh Venus rất nóng .
Điều này cho đến năm 1959 các nhà thiên văn đều cho rằng Venus có 1 nhiệt độ trên mặt là 17 độ C , không khác mấy với nhiệt độ trung bình là 14 độ C trên mặt đất . (Venus nhỏ hơn trái đất 1 chút và kề cận mặt trời chỉ sau 1 hành tinh, Mercury) . Vào năm 1963, sau khi phân tích data từ vệ tinh thám hiểm nhân tạo Mariner, các khoa học gia kết luận rằng nhiệt độ trên mặt Venus là 315 độ C . Sau này các khoa học gia còn " đo" lại và kết luận là khoảng 450 C (Khoảng 800 F) . Microsoft Encyclopedia ghi 477C (890F) .
- Venus được bao phủ bởi mây hydrocarbons .
Điều này ngược lại với quan niệm thời đó .
Vệ tinh Mariner cho thấy Venus được bao phủ bởi khí hydrocarbons và bụi dầy 25 km .
Albert Einstein đã từng có những tranh luận bằng miệng và trên giấy với V . Einstein sau này cho rằng phản ứng với V của cộng đồng khoa bảng cũng giống như trường hợp của Johan Kepler (nhà thiên văn học Đức 1571-1630, đã chứng minh 3 định luật về chuyển động của các thiên thể, Keplérs laws - Khi mới đưa ra lý thuyết cũng từng bị báng bổ) và còn lưu ý là thời bây giờ người ta không phân biệt được 1 thiên tài khác với 1 gã gàn dỡ, lập dị . Mới đầu Einstein không hề chấp nhận những giả thuyết của V . Einstein tin rằng Mặt trời và các hành tinh mang tính trung hoà về điện (không nghiêng về dương hay âm) . Ông cho rằng không gian không chứa đựng các từ trường và plasma ( 1 chất liệu hiện hữu trong toàn vũ trụ) . Khi Einstein nhận ra hành tinh Jupiter có phóng xạ radio thiên nhiên (radio noise) , như V đã tiên đoán từ lâu, ông chấp nhận dùng ảnh hưởng của mình để thiết lập các thí nghiệm quan trọng, tốn kém khác mà V đã từng đề nghị . Nhưng chỉ vài ngày sau đó là Einstein qua đời . Trên bàn của ông còn mở cuốn sách đầu tiên của V .
V bao quát rất nhiều vấn đề trong các nghiên cứu của ông . 1 số các câu hỏi mà V đã trình bày các giải thích là :
1. Việc gì đã làm diệt chủng loài voi mammoths ? Chứng cớ giống voi này bị tuyệt chủng rất nhanh là chúng bị đông lạnh ở Siberia . Khi các con voi đông lạnh này được tan ra, chó bắc cực (sled dogs) có thể ăn thịt voi này mà không bị hại gì cả . Darwin đã không thể tìm được sự giải thích cho việc diệt chủng ở loài mammoth, 1 loài voi phát triển hơn là giống voi đang tồn tại .
2. Siberia là 1 trong những vùng lạnh nhất hành tinh này, nhưng dấu vết của san hô (chỉ có ở biển nhiệt đới) đã được tìm thấy ở đây . Điều gì đã làm thay đổi khí hậu cực độ như vậy ?
3. Dãy núi Hi Mã Lạp Sơn cao nhất thế giới, nhưng lại được bao phủ bởi đá trầm tích (ddá dưới đáy biển) . Các vỏ sò ốc, xương cá cũng được tìm thấy ở đó , chứng tỏ là cá tôm cũng đã từng bơi lội trên các mỏm núi này . Điều gì làm chúng nhô cao như bây giờ ?
4. Việc gì đã tạo ra thời dại băng giá ? (Ice age)
5. Tại sao dầu hoả (dầu thô) được người cổ thờ phụng ?
6. Tại sao số 13 được cho là xui xẻo ?
7. Darwin cho rằng những giống loài mới được tiến hoá ra là hậu quả của quá trình chọn lọc tự nhiên (sự sống còn của kẻ nào mạnh nhất) . Sự chọn lọc chiếm thời gian rất lâu mà hậu quả là sự hình thành giống mới . (1 giống loài mới ra đời khi nó không còn có thể phối hợp với giống cũ để sinh sản ra con, hoặc có thể sản sinh ra con nhưng đứa con bị vô sinh) . Từ khi Darwin tuyên bố giả thuyết của ông không có 1 giống thú nào mới tiến hoá được tìm thấy . V đã đưa ra 1 giả thuyết khác về sự hình thành giống mới (không theo thuyết Thượng Đế sáng tạo của Kinh Thánh) .
8. Tại sao 1 người sau khi bị lốc xoáy (tornado) cuốn vào mà vẫn còn sống thì lại tiếp tục ra đồng trống chờ cho cơn kinh hoàng tái diễn ? (Trích trong sách của V: Mới mùa xuân rồi, bầu trời chớp loé nổ tung, còi hụ vang trời , radio tường trình 1 tornado dang hoành hoành trong thành phố, người hàng xóm tôi, vốn sống sót sau 1 trận xoáy trước, vẫn ngồi trước thảm cỏ nhà anh ta, đứa con 2 tuổi ngồi trên đùi anh . Sấm chớp vừa làm cúp hết điện, chẻ đôi cái cây bên kia đường . Vậy mà anh ta vẫn ngồi đó .
9. Tại sao cải cách về lịch trên toàn thế giới tiến hành vào thê" kỹ 8 và 7 trước Thiên Chúa ? Lúc này người La Mã thêm 2 tháng vào lịch của họ . Tây Lịch còn lưu dấu này : September (Sept:7), October (Oct:8), November (Nov:9), Đecember(ec:10) nhưng là tháng 9, 10, 11 và 12 .
10. Tại sao những ngôi mộ ở cổ Ai Cập làm thành hình bầu trời sao phía Nam ngược lại ?
11. Khi đá hoả sơn nguội chúng trở thành nam châm với 2 cực nam-bắc tuỳ thuộc vào từ trường của trái đất lúc đó . Ghi nhận từ khảo cứu địa chất cho thấy cực của trái đất thay đổi đảo ngược hoàn toàn trong thời gian tương đối gần đây . Tại sao ?
12. " Mana từ thiên đàng" (Mana from Heaven - 1 chuyện thuật từ Kinh Thánh) nghĩa là gì ?
13. Tại sao Palestine có nghĩa là " vùng đất của sữa và mật" ?
14. Tại sao người Aztecs, Mayans và Pawnee Indians có tục tế người cho Venus ? (Aztec và Mayan là những nền văn minh kharực rỡ ở Trung Mỹ)
15. Vào năm 3000 trước Thiên Chúa , người Babylon và Hindu có vẽ bản đồ thiên văn trong đó có bao gồm các hành tinh Saturn, Jupiter, Mars và Mercury . Tại sao Venus, 1 hành tinh dễ nhận diện hơn các hành tinh khác trong Thái Dương Hệ lại vắng mặt ?
16. Hiện nay ở Ấn độ, tục thờ bò vẫn còn . Tuy nhiên trước đây ở Ấn bò không được coi là thiêng liêng . Bò đã từng bị tế thần và ăn thịt . Tại sao có sự thay đổi này ?
17. Tại sao người cổ gọi tên Venus là Seth, Lucifer hay Beeslebub, đồng nghĩa với Sa tăng ?
....
Vậy thì Immanuel Velikovski là ai ?
V sinh ra ở nước Nga vào năm 1895 (mất 1979) . Ông học trường thuốc ở đại học Moscow, lấy bằng diploma y khoa vào năm 1921 , cùng lúc ông có học luật và lịch sử cổ văn minh . Sau khi làm bác sĩ 1 thời gian ông học thêm và làm 1 nhà phân tâm học (psychoanalyst) ở Haifa và Tel Aviv (lúc đó là đất của dân Palestine) . Ông có xuất bản 1 số bài về sinh lý học , 1 số được đăng trong tạp chí Imago của nhà phân tâm học nổi tiếng nhất Sigmund Freud . Freud thường xuyên liên lạc với V , năm 1931 Freud có tuyên bố ông hoàn toàn đồng ý với những nghiên cứu của V về khái niệm của 1 tâm lý tập thể . (Tâm lý chung của loài người)
V đến Mỹ vào năm 1939 để nghiên cứu 1 cuốn sách về những giấc mộng của Freud . 3 nhân vật lịch sử Oedipus, Akhnaton và Moses thường xuyên có mặt trong bài vở của Freud . Khi việc nghiên cứu xong xuôi, V chuẩn bị đi tàu về nước thì ông bỗng nghĩ đến 1 ý tưởng mà sẽ làm thay đổi cả cuộc đời ông . V nhất quyết là 1 thiên tai lớn lao đã xảy ra trên quả đất vào thời gian của thời Exodus trong Kinh Thánh, khi Moses dẫn dân Do Thái đi vào sa mạc (khoảng 1500 năm trước chúa Jesus giáng sinh - Taydo: tôi không rành thời gian trong Thánh Kinh . Ai có thể xác nhận lại điều này xin cho biết)
Theo V, trái đất đã kinh qua 1 trong những thảm học ghê gớm nhất trong lịch sử của nó vào khoảng 1500 năm trước TC . V tái phục lại những sự kiện, dựa vào sự phân tích từ lịch sử bằng chữ và bằng miệng, những chứng cớ địa chất, thiên văn và khảo cổ như sau :
Venus là 1 thiên thể mới trong Thái Dương Hệ, bị đẩy ra bởi Jupiter và bắt đầu có mặt trong TDH như là 1 sao chổi . Venus tiến gần đến quả đất . Trái đất đi vào cái đuôi khí của sao chổi và bị bao phủ bởi bụi đỏ li ti, trùm lên sông, biển 1 màu đỏ máu me . Bụi đỏ trong sông làm cá chết, thối rữa, nước sông không còn uống được . Bụi cũng làm cho da người và thú vật bị bỏng, bệnh hoạn và chết chóc . Thú rừng sợ hãi bầu trời rùng rợn, tai hoạ nên kéo về gần thành phố và làng mạc .
Trái đất tiến gần hơn vào đuôi sao chổi .
Đuôi sao chổi, gồm có khí hydrogen dễ cháy và khí carbon cùng với thiên thạch, tiếp xúc với khí Oxy trong khí quyển trái đất gây nên cháy - nổ . Mưa lửa thiên thạch hoà cùng với sấm nổ khắp trời gây nên tàn phá lớn lao . Tuy nhiên, 1 phần lớn khí không bị cháy, bay trên mặt đất , biến thành dầu, thấm vào cát và các rãnh đá . (Trong lịch sử thường xuyên xảy ra mưa lửa ở Mexico, East Indies, Siberia, Irag và Ai cập . Các vùng này đều có dầu hoả dưới đất) . Không quen với tính chất của dầu, 250 giáo sĩ Do Thái bị chết khi họ đốt nhang, làm hơi dầu phát nổ .
Trái đất đi sâu vào cái đuôi sao chổi hơn , đến gần thân sao chổi .
Sự tiếp cận 1 thiên thể có khối lượng gần bằng quả đất tạo ra 1 sự rối loạn trong vòng quay của trái đất . Sự rối loạn này làm cho bầu khí quyển " trôi" nhanh hơn vì quán tính . (Trái đất quay chậm lại, trong khi khí quyển vẫn giữ nguyên vận tốc) . Việc này, cùng với sức hút của sao chổi và ảnh hưởng của đuôi khí của sao chổi làm cho giông bão với tốc độ và sức tàn phá khủng khiếp hoành hoành trên khắp thế giới . Trục của trái đất nghiêng đi, tạo ra 1 vùng có đêm dài và 1 vùng có ngày dài (Nam và Bắc cực) .
Phản ứng vẫn tiếp tục từ sự tiếp cận của 2 khối cầu . Vì bị rối loạn trong sự chuyển động bình thường của nó, trái đất bị rung chuyển từ trong lòng đất, tạo ra động đất khắp thế giới . (Trích sách : Các thành phố bị tàn phá . Thượng Ai cập coi như tan hoang ... Mưa đá hoả sơn và động đất làm cho những ai muốn chạy trốn động đất thì bị giết bởi mưa đá-lửa; còn ai muốn trú thân khỏi mưa đá thì bị chết vì động đất . Nhà cửa sụp đổ, đền đài tan nát . )
Núi cũng bị san bằng . Các núi mới mọc lên . Năng lượng được tạo ra và biến thành nhiệt . Nước sông bốc hơi, ngay cả đáy biển có chỗ cũng bị sôi . Núi lửa phun khắp nơi .
Không phải chỉ có không khí và đất liền là bị ảnh hương nhiều vì sao chổi (Venus) . Các đại dương trong thời gian đầu tiếp cận cũng có khuynh hướng trôi về 2 cực bắc nam, xa dần xích đạo khi trái đất quay chậm lại . Sức hút của sao chổi làm cho nước biển dâng cao cả cây số, có nơi lòi ra đáy biển .
Dân chúng trên địa cầu kinh hoàng, khi đó họ nhìn thấy 1 trình diễn rầm rộ trên bầu trời . Họ cho đó là 1 trận đánh giữa quỷ (trong hình dạng 1 con rắn quái) và thần ánh sáng . " Trận chiến" này thật ra là những xung điện cực kỳ dữ dội giữa dầu và đuôi sao chổi (con rắn quái) . Vì tiếp cận với quả đất nên 2 phần của sao chổi trở nên ma sát lẫn nhau . Sự trao đổi điện cực giữa đầu và đuôi sao làm cho cái đuôi sao thay đổi hình dạng, nó vươn dài ra hơn và bây giờ trông giống như 1 con quái vật hung tợn nhiều chân và đậu Hình ảnh này chính là cơ sở cho hình ảnh con rồng thở ra lửa, xuất hiện rất nhiều trong văn chương hay nghệ thuật khắp nơi trên thế giới nhưng chưa bao giờ có thật .
Rồi quả đất và sao chổi tiến gần đến nhau đến điểm tối đa . Nước biển dâng cao cũng tối đa . Đầu sao chổi không va chạm vào trái đất nhưng sự xung điện cực kỳ lớn khi 2 tinh cầu tiến đến mức tối cận, tạo nên 1 tiếng nổ lớn . Tiếng nổ này đẩy nước biển xuống mặt đất, tạo ra sóng thần trôi lên hướng 2 cực địa cầu, cuốn đi tất cả những gì trên dường của nó .
Sự sống trên trái đất bị huỷ diệt nặng nề . Khoảng 98% dân Do Thái chết trong sự kiện này .
Trái đất bị lệch quỹ đạo, làm cho số ngày trong năm thay đổi . Lịch và đồ đo giờ coi như vô dụng .
Trái đất bị bao phủ bởi 1 màn đen tối trong nhiều thập niên sau đó . Lý do là vì màn hơi từ sao chổi và khói bốc ra từ hàng ngàn núi lửa phun cùng 1 lúc . Tấm màn đen tối này được từ từ vén lên bởi bầu khí quyển tụ đầy điện tích, xúc tác hydrogen và carbon làm thành chất carbohydrates . Chất này ăn được, gọi là " mana từ thiên đàng" , được nói đến bởi nhiều dân tộc trong đó có dân Hy Lạp, Hindus, Maoris và cả người theo đạo Phật (Taydo: Tôi chưa nghe đạo Phật nói đến mana bao giờ . ??) . Thực phẩm này được nướng trong bánh mì, tạo ra vị dầu và mật và rất thơm . Những người sống sót sau thảm hoạ ăn thứ này trong khi trái đất chưa phục hồi lại được ánh sáng mặt trời đủ để trồng trọt . " Mana" rơi xuống đất rất nhiều, làm cho sông có màu sữa .
Trong khi đó Venus vẫn tiếp tục de doạ trái đất, và trái đất lại đi qua cái đuôi của nó khoảng 50 năm sau buổi " gặp gỡ" ban đầu, tạo ra những thiên tai mới, dù ít tàn phá hơn . Khi màn đen sáng dần, kẻ mới đến Thái Đương Hệ , là sao chổi Venus, đã hiển hiện sừng sững trên bầu trời .
Venus băng qua quỹ đạo của trái đất với 1 chu kỳ khoảng 52 năm trong vòng 800 năm sau đó, tạo ra kinh hoàng mỗi lần đến gần . Không còn tiếp cận với quả đất như lần đầu nữa, nhưng Venus cuối cùng đã va chạm vào Hoả tinh (Mars) .
Hậu quả của sự đụng chạm này là Venus đi vào quỹ đạo ổn định của nó, không còn là mối đe doạ cho quả đất nữa . Venus mất đi phần đuôi trong quá trình va chạm và tiếp cận với các hành tinh trong Thái Dương Hệ, trở thành 1 hành tinh được " thuần hoá" .
Tuy nhiên Mars, 1 hành tinh có khối lượng nhỏ hơn quả đất và Venus, bị đẩy ra khỏi quỹ đạo của nó sau trận đụng độ với Venus và trở thành nguy hiểm cho trái đất . Vào ngày 23 tháng 3 năm 687 trước Công Nguyên , Mars gần như va chạm vào quả đất, tạo ra những thiên tai nặng nề tuy không bằng những thảm hoạ thời tiếp cận với Venus . Hạ6u quả của sự tiếp cận này là là Mars bị lệch quỹ đạo bình thường và đi vào quỹ đạo hiện thời .Quả đất cũng bị lệch quỹ đạo, chiều dài của 1 năm thay đổi từ 360 ngày thành 365 1/4 ngày . (Sự tăng thêm 5 1/4 ngày bị coi như là điều xui xẻo, nhiều người không thích xài lịch mới cho nên 2 cuốn lịch vẫn hiện hữu song sọng ) Quỹ đạo của mặt trăng cũng bị ảnh hưởng, lịch trăng từ 10 tháng, mỗi tháng là 4 tuần, mỗi tuần 9 ngày cũng thay đổi thành âm lịch giống như hiện thời .
Sau đó không còn sự thay đổi quỹ đạo nào nữa .
LOÀI NGƯỜI TRONG QUÊN LÃNG
(MANKIND IN AMNESIA)
Tất cả những sự kiện tóm tắt trên có thể chỉ là 1 giả thuyết vô lý . Cho đến 7 trăm năm trước Thiên Chúa, sự đe doạ vẫn còn, tai hoạ vẫn xảy ra . Vậy mà không 1 giấy viết nào ghi lại ? Người Tàu đã có chữ viết từ mấy ngàn năm nay (tài liệu xưa nhất, thô sơ nhất là vào thế kỹ 14 trước Thiên Chúa, thời nhà Sở) . Không lẽ những tai hoạ lớn như vậy không cần 1 chữ ghi lại sao ? Tại sao những công trình lớn như Kim tự tháp đã có vào khoảng 2000 trước TC vẫn tồn tại sau những động đất và hồng thuỷ khủng khiếp như vậy ?
Tuy nhiên, nghi vấn vẫn là nghi vấn . Đây vẫn còn là 1 giả thuyết . V. đã bỏ nữa cuộc đời còn lại dể tranh luận, chứng minh . Rất nhiều khoa học gia lớn đã thay đổi ý kiến như đã nói ở trên .
Nếu sự thật thuộc về V thì người ta cũng còn tự hỏi " Dù sao thì chuyện đã trôi qua mấy ngàn năm, giờ đây nó có ý nghĩa gì không ? Có liên quan gì nữa không ?
Tôi không thực sự hiểu V chỉ muốn tìm hiểu qua’ khư’ như đòi hỏi trong tâm khảm 1 nhà khoa học hay ông muốn chứng minh 1 điều gì đó chăng ?
Nghề nghiệp chính của V là nhà phân tâm học, không phải là 1 vật lý gia hay khoa học gia thực nghiệm hay lý thuyết, dù ông rất uyên bác và rất giỏi về khoa học tự nhiên . V cùng thời với Sigmund Freud và rất được Freud mến mộ .V và Freud đều tin vào khái niệm “Trí nhớ tập thể “ (collective memory) ; nghĩa là loài người co’ 1 trí nhớ, kỹ niệm chung, cũng giô’ng như “bản năng” khi nói đê’n loài vật .
Sự phân tích + phân tâm của V trong cuô’n “Mankind Of Amnesia” có thể làm nhiều người không đồng ý . Ca’ nhân tôi (T Đ) không mấy đồng y’ vơ’i V. Nhưng tôi tri’ch dẫn ở đây cho đầy đủ .
Freud biết rằng 1 nạn nhân của 1 thảm kịch hãi hùng thường tự chối bỏ, quên đi cái thảm kịch đó hoặc cố gắng đối diện để vượt qua nó. Ông cũng cho rằng khi thảm kịch đã trôi qua lâu và chỉ còn tồn tại trong tiềm thức thì cái ước muốn vượt qua nó, **** nó càng lớn . Thêm nữa, 1 nạn nhân của sự mất trí nhớ vì trải qua 1 thảm kịch kinh khủng nào đo’ co’ khuynh hươ’ng râ’t muốn tái diễn lại ca’i kinh nghiệm đo’ . (Thi’ dụ: Trong truyện / phim The Bourne Indentity ) . Thường là họ làm những gì ngày xưa họ bị làm . Chẳng hạn nạn nhân của tuổi thơ bị cha hành hạ đau đớn khổ nhục (mà chỉ còn tồn tại trong tiềm thư’c), lớn lên lại hành hạ chính con cái mình hoặc trẻ nhỏ khác. Hay là người tá điền cực khổ thấp hèn ngày xưa khi lên được vai phú nông thì cũng tàn ác không kém ông chủ cũ của mình .
Freud co’ 1 ý kiến kha’c về mặc cảm của loài người (mà tôi không muốn đăng vào đây vì nó xa xội ghê gớm qua’) . V. thì cho là giống loài người mang trong tiềm thư’c 1 nỗi kinh hoàng kinh nghiệm từ những thảm hoạ mà trái đất đã trải qua khi có loài người . (Khi trước thì chưa có loài người cho nên dù trái đất tạo sơn lập thuỷ kinh khủng thế nào cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ai) ".
(Còn tiếp ).dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 68 of 78: Đă gửi: 24 November 2003 lúc 7:31am | Đă lưu IP
|
|
|
Mời các bạn xem tiếp một tư liệu nữa mà dienbatn đọc được trên THUVIENVIETNAM.COM .
" Không gian thứ tư là ǵ?
Bởi v́ chưa ai có thể đến không gian thứ tư được nên cũng không có ai có thể miêu tả chính xác nó như thế nào cả! V́ vậy chúng ta chỉ có thể nêu ra được giả thuyết về nó mà thôi.Theo một số ư kiến th́ không gian thứ tư được nh́n nhận như sau:
- Nó là một tập hợp vô số các không gian 3 chiều nằm cạnh nhau và cách nhau bởi mọt vùng không gian gọi là "không gian zero", đó là theo cảm nhận bằng giác quan của người 3 chiều như chúng ta.Theo giả thuyết này th́ việc di chuyển trong không gian mà hiện tại đang được gọi là "bước nhảy không gian" thực ra sẽ là một quá tŕnh con người đi qua không gian zero để đến một không gian 3 chiều kế cận, ở đó con người sẽ được tiếp xúc với 1 không gian dạng khác mà có thể so sánh rằng 1 met ở không gian đó bằng hằng ngàn năm ánh sáng ở không gian chúng ta, bằng cách di chuyển như thế chúng ta sẽ đi được một khoảng cách rất lớn so với không gian của chúng ta, khi đến điểm cần đến ta sẽ phải di chuyến 1 lần nữa qua không gian zero để trở về không gian cúa chúng ta, đó chính là lư thuyết về bước nhảy không gian hiên đại. điều này được các nhà khoa học dự đoán sẽ thực hiện được khoảng vào năm 2050, một thời điểm hơi xa chúng ta phải không các bạn, điều này c̣n phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện khách quan khác do đó dự đoán đó chỉ mang tính tương đối mà thôi.
II) Thử nghe lại câu chuyện nói về Không gian Bốn Chiều vừa đuợc bàn căi sâu rộng hiện nay tại các phân khoa Vật Lư tại Hoa Kỳ như sau:
"Đột nhiên mặt đất rung chuyển, nhà cửa, cây cối nghiêng ngả như động đất. Những sinh vật thật lạ sử dụng các loại máy bay quay tṛn trên những nóc nhà trong làng. Ở ngay khoảng đất trước nhà, “họ” đáp xuống và mở cửa khoang máy ra ngoài. Lúc đó, nỗi sợ hăi và khiếp đảm khiến em hoảng loạn. Nhưng khi b́nh tâm, em nhớ lại tất cả..."
Đó là lời kể của em gái 13 tuổi Theodona về cuộc gặp gỡ với người ngoài trái đất trong hai trận cuồng phong xảy ra năm 1998 ở một làng nhỏ thuộc ngoại ô thành phố Shoumen (Bulgaria). Theo lời các cụ già trong làng, đó là hai trận cuồng phong kỳ lạ chưa từng có. Đất đá rung chuyển, nhưng không phải động đất, bởi động đất phải xảy ra trên một vùng rộng lớn chứ không phải chỉ trong phạm vi làng. Tuy nhiên, không ai trong làng nh́n thấy ǵ khác lạ cả. Ngoại trừ Theodona...
Theo sự mô tả của bé gái này, các nhà khoa học phỏng đoán, đó phải là cuộc viếng thăm của những cư dân ngoài trái đất, khi họ sử dụng phi thuyền dạng đĩa bay, có tốc độ rất lớn tương đương tốc độ ánh sáng (300.000 km/s) đáp xuống làng. Theodona kể rằng, "đám người lạ có nhiều h́nh thù khác nhau, có người giống như người Bulgaria với vóc dáng rất đẹp như thiên thần trong các truyện cổ tích, nhưng không ít người diện mạo dữ dằn như quỷ...".
Nhà khoa học vũ trụ Nga Valentin Phomenko đă sang Bulgaria t́m hiểu về "chuyện của cô học tṛ nhỏ vùng Shoumen". Sau một thời gian nghiên cứu, ông kết luận: "Bé gái Theodona thật sự có năng lực giao tiếp và nh́n rơ những các sinh vật lạ từ bên ngoài vũ trụ, trong khi những người khác ở Shoumen đă không có khả năng này". Theo Phomanko, điều đó có liên quan đến một năng lực đặc biệt, giúp Theodona đi vào thế giới thế giới 4 chiều đầy bí ẩn, v́ vậy em đă nh́n thấy những h́nh ảnh mà người khác không thấy được.
Theo các nhà khoa học, năo bộ của con người không thể tưởng tượng được không gian bốn chiều. Điều đó được giải thích như sau: Bạn hăy tưởng tượng các sinh vật ở không gian hai chiều. Chúng sống trên một mặt phẳng và không biết ǵ về sự hiện hữu của không gian ba chiều. V́ vậy, mọi di chuyển của chúng sẽ bị giới hạn trên mặt phẳng ấy và không thể tiến vào chiều thứ ba như chúng ta. Nếu một quả cầu lọt vào thế giới đó, các sinh vật hai chiều mới đầu sẽ nh́n một điểm sáng, rồi đến các h́nh tṛn to dần lên, đến mức cực đại, rồi các h́nh tṛn nhỏ dần, thu lại thành một điểm rồi biến mất. Kết quả là, chúng chỉ nh́n thấy những đường tṛn mà không hiểu “toàn bộ câu chuyện về qủa cầu” ra sao cả!
Nhưng đôi khi, sinh vật hai chiều cũng có thể đạt tới điều kỳ bí. Ví dụ chúng muốn vượt qua khoảng cách từ A tới B trên mặt phẳng. Theo lẽ thường, thời gian cần thiết lên tới cả chục năm. Nhưng v́ một biến cố nào đó, mặt phẳng kia bị cong lại trong không gian ba chiều, khiến điểm A và B trở nên gần nhau, thậm chí trùng lên nhau. Khi đó, điều kỳ diệu đă đến với chúng: khoảng cách chục năm sẽ đạt được chỉ trong phút chốc!
Phomeko giải thích, không gian ba chiều nằm trong cái nôi của không gian bốn chiều. Nếu ai có khả năng xâm nhập vào chiều không gian thứ tư, th́ đối với anh ta, khoảng cách hàng vạn dặm, thậm chí hàng vạn năm ánh sáng không có ư nghĩa ǵ. Anh ta vượt qua trong phút chốc bằng cách đi qua khe hở của chiều thứ 4 này. "Khe hở" đó là biên giới ngăn cách hai thế giới, thế giới của không gian ba chiều và không gian bốn chiều. Đó chính là cơ hội để những sinh vật cấp thấp xâm nhập vào chiều thứ tư, như bé gái Theodona.
Các lư thuyết vật lư hiện đại, như thuyết String, cho rằng vũ trụ có nhiều hơn 3 chiều không gian. Để chứng minh điều này, các nhà khoa học Mỹ sẽ chế tạo một máy đo siêu nhỏ (nano machine), nhằm chỉ ra các hiệu ứng khác lạ, dẫn tới kết luận về sự hiện hữu của các chiều không gian khác.
Nhóm nghiên cứu của Ephraim Fischbach và Dennis Krause, Đại học Purdue (Mỹ), giới thiệu nguyên lư của thí nghiệm này như sau: Theo thuyết String, ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nanomét), không gian sẽ bị "cuộn" lại trong các chiều khác (có thể là chiều thứ 4, thứ 5 hoặc nhiều hơn). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó. V́ thế, nếu người ta xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, th́ người ta có thể kết luận rằng, có chiều không gian thứ 4.
Các nhà khoa học dự định sẽ đo lực hấp dẫn giữa hai lá thép siêu mỏng, đặt cách nhau một khoảng cỡ nanomét (1 nanomét = 1 phần triệu milimét). Để đo được chính xác lực hấp dẫn này, người ta cần loại trừ một đại lượng gọi là hiệu ứng Casimir.
Theo cơ học lượng tử, hiệu ứng này được sinh ra bởi các photon ảo, thường bất ngờ xuất hiện trong chân không rồi lại tự động biến mất. B́nh thường, trong không gian xuất hiện các photon với những bước sóng rất đa dạng. Tuy nhiên, ở giữa hai tấm kim loại hẹp th́ điều đó không thể. Ở đây, chỉ có các photon với bước sóng nhất định. Hệ quả là, giữa hai tấm này sẽ có ít photon hơn bên ngoài. Sự chênh lệch về các photon trong và ngoài hai lá kim loại sẽ tạo ra một lực nhỏ, ép chúng lại với nhau. Lực đó gọi là hiệu ứng Casimir.
Để loại trừ hiệu ứng trên, các nhà khoa học sẽ phải làm thí nghiệm với các lá thép giống hệt nhau, nhưng có đồng vị khác nhau. Ở giữa chúng, hiệu ứng Casimir sẽ giống nhau, nhưng lực hấp dẫn lại khác nhau (lá thép có đồng vị lớn hơn sẽ nặng hơn, và tạo ra lực hấp dẫn mạnh hơn). Bằng cách so sánh hai lực hấp dẫn này, người ta có thể loại bỏ hiệu ứng Casimir ra khỏi phép đo.
Các nhà khoa học hy vọng sẽ thực hiện được thí nghiệm này trong thời gian tới. Nếu thí nghiệm thành công, th́ đây sẽ là một sự kiện chấn động, v́ nó sẽ khẳng định sự tồn tại của chiều không gian thứ 4, điều mà theo Stephen Hawking là không thể tưởng tượng được với năo bộ của con người b́nh thường.
Một vật thể , nếu nh́n bằng nhận thức không gian 3 chiều th́ h́nh thể của nó như b́nh thường. Nhưng nếu nh́n bằng nhận thức của không gian bốn chiều, th́ h́nh thể của nó một phần vẫn như vậy, nhưng cấu trúc của nó lại thêm thành phần khác, và ta lại có thêm những góc nh́n khác về vật đó mà không phải di chuyển qua hướng khác.
Muốn biết được Không Gian 4 Chiều, chúng ta không thẽ dùng sự tưỡng tượng thông thường mà chúng ta có thễ dùng một sự tập trung tư tưỡng như Thiền Định vậy , như sau :
Ví dụ, khi nh́n một cái ống dẫn nước chẳng hạn, nếu dùng nhận thức không gian 3 chiều để nh́n th́ như b́nh thường. Nhưng nếu dùng nhận thức không gian 4 chiều để nh́n, th́ sẽ thấy cấu trúc ống dẫn đó thêm những thành phần khác, và cùng góc nh́n đó, ta không cần di chuyển mà vẫn thấy được ống nước đó ở những góc độ khác. VD : dặt ống nước nằm ngang trước tầm mắt, nếu dùng nhận thức KG 4 chiều nh́n, th́ nó vừa giống vừa khác, phức tạp hơn, nhưng ta vẫn nh́n được đầu của hai ống nước đó như là nó cắm thẳng về hướng mắt ta chứ không phải là đang nằm ngang nữa.
Có điều, muốn nh́n được không gian bốn chiều, th́ phải tu luyện để đánh bật ra khả năng đó., nhưng nó chĩ hiện hữu trong một sát na sanh mà thôi ( y như làn chớp lóe vậy ) Một lần, tôi đă có duyên được nh́n thấy không gian bốn chiều của Kim Tự Tháp, nếu ở KG 3 chiều, th́ nó là h́nh chóp tứ giác, nhưng dùng nhận thức KG 4 chiều để nh́n, th́ nó kỳ quái lắm, trông như virut HIV, rất nhiều khối chóp nhọn đâm ra các hướng.
Nhưng những lần sau th́ không tài nào lập lại được nữa rồi...Thành thử có người Thiền định giỏi họ có thễ xuất hồn từ một điễm nầy đi đến một nơi rất xa vạn dậm trong ṿng sát na sanh ( tích tắc )....nhất là mấy Fakir Ấn Độ họ giỏi về thuật nầy...phải học thuật chuyên về một môn nầy th́ tập lâu ngày sẽ được , như người chuyên bẻ xưong sống cong sát gần 180 độ vậy ...
Học thuật nầy rất vô cùng nguy hiễm nếu không có người đồng môn canh chừng mà cứu giải nếu ḿnh làm sai th́...hồn ngơ ngơ ngẫn ngẫn ...trọn đời...Vă lại nếu đạt đựợc cũng không ích chi cho cuộc đời nầy hết...làm sao nh́n thấy và rờ tủ tiền cũa tỉ phú th́ mới vui...nhĩ...?"
(C̣n tiếp ).dienbatn
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 69 of 78: Đă gửi: 25 November 2003 lúc 3:38am | Đă lưu IP
|
|
|
Dienban thân mến!
Tôi có một vài thắc mắc; hy vọng được Dienban và có ai đó giải thích giùm.
Dienban viết:
1)Venus băng qua quỹ đạo của trái đất với 1 chu kỳ khoảng 52 năm trong ṿng 800 năm sau đó, tạo ra kinh hoàng mỗi lần đến gần . Không c̣n tiếp cận với quả đất như lần đầu nữa, nhưng Venus cuối cùng đă va chạm vào Hoả tinh (Mars) .
Hậu quả của sự đụng chạm này là Venus đi vào quỹ đạo ổn định của nó, không c̣n là mối đe doạ cho quả đất nữa . Venus mất đi phần đuôi trong quá tŕnh va chạm và tiếp cận với các hành tinh trong Thái Dương Hệ, trở thành 1 hành tinh được " thuần hoá" .
Tuy nhiên Mars, 1 hành tinh có khối lượng nhỏ hơn quả đất và Venus, bị đẩy ra khỏi quỹ đạo của nó sau trận đụng độ với Venus và trở thành nguy hiểm cho trái đất . Vào ngày 23 tháng 3 năm 687 trước Công Nguyên , Mars gần như va chạm vào quả đất, tạo ra những thiên tai nặng nề tuy không bằng những thảm hoạ thời tiếp cận với Venus . Hạ6u quả của sự tiếp cận này là là Mars bị lệch quỹ đạo b́nh thường và đi vào quỹ đạo hiện thời .Quả đất cũng bị lệch quỹ đạo, chiều dài của 1 năm thay đổi từ 360 ngày thành 365 1/4 ngày . (Sự tăng thêm 5 1/4 ngày bị coi như là điều xui xẻo, nhiều người không thích xài lịch mới cho nên 2 cuốn lịch vẫn hiện hữu song sọng ) Quỹ đạo của mặt trăng cũng bị ảnh hưởng, lịch trăng từ 10 tháng, mỗi tháng là 4 tuần, mỗi tuần 9 ngày cũng thay đổi thành âm lịch giống như hiện thời.
Như vậy; đây là một thiên tai có quy mô toàn cầu. Nhưng trong một Kinh Xuân Thu - một cuốn sách được coi là của Khổng tử viết lại lịch sử từ khoảng 800 năm trước CN (trước sụ kiện thiên tai toàn cầu mà bài viết đề cập tới) không thấy nhắc tới chuyện này?
2)Dienban co đề cập đến sinh vật trong không gian 2 chiều. Tức là sinh vật này không có bề dày => cực mỏng về lư thuyết.Trên thực tế sẽ không thể tồn tạ. Điều này đă được chính S.Hawking chứng minh trong "Lược sử thời gian". Vậy sinh vật này sẽ tồn tại với sư sống như thế nào? Đây là một thực tế có khả năng tồn tại hay chỉ đơn thuần mang tính lư thuyết?
Hy vọng được sự quan tâm của Dienban và quí vị.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 70 of 78: Đă gửi: 25 November 2003 lúc 8:39am | Đă lưu IP
|
|
|
Mời các bạn cứ tiếp tục suy nghĩ và đọc tiếp những điều này.
"Kẻ thù lặng lẽ
Đúng, đối với những người mê tín, trong tự nhiên có bao điều bí ẩn. Đôi khi để cho một người nghĩ tới điều huyễn hoặc của thế giới bên kia, thì chẳng cần gì to tát cả. Anh ta nhìn thấy một cái gì đó hiếm hoi, lạ lùng hay ghê gớm là lập tức nghĩ ngay rằng anh ta gặp điều bí ẩn, siêu nhiên. Mặc dù hiện tượng đó đã không còn là bí mật đối với khoa học.
Nhưng cũng có khi chúng ta gặp điều bí ẩn mà bản chất của nó chưa được làm sáng tỏ.
Những hiện tượng chưa được giải thích có thể sinh ra những ý nghĩ mê tín, thậm chí cả ở những người đang cố gắng phân tích để hiểu được điều đã thấy hay đã nghe thấy. Bởi điều bí ẩn chưa được lý giải có nghĩa là chưa ai biết giải thích nó như thế nào.
Sau đây là một ví dụ rõ ràng về một điều bí ẩn như thế, một điều bí ẩn có thể gây nên sự mê tín.
… Giáo sư Gavrô rất lo lắng cho các công việc ở phòng thí nghiệm của ông. Đã hai tuần nay rồi, một việc lạ không giải thích được đang diễn ra tại phòng thí nghiệm. Tất cả các cộng việc của ông, kể cả ông nữa, đều thấy sức khỏe suy sút đi. Chẳng cần ở trong phòng quá hai giờ đồng hồ là mọi người đã thấy lả đi; một sự mệt mỏi không tài nào chế ngự được choán lấy cơ thể, đầu óc quay cuồng, khả năng tư duy bị rối loạn. Tất cả các nhân viên trong phòng thí nghiệm đều như thế, không trừ một ai cả!
Gavrô làm việc trong lĩnh vực âm học, và ông đoán được nên đi tìm kẻ thù ở chỗ nào. Hạ âm (tức các âm thanh có tần số thấp) hơn ai hết là thủ phạm gây ra thể trạng ốm yếu của con người. Bản chất của những âm thanh không nghe thấy này còn được nghiên cứu rất sơ sài: người ta chưa rõ chúng ảnh hướng đến con người ra sao. Đồng thời, hạ âm lại là bạn đồng hành thường xuyên của chúng ta. Các cơn giông và những trận gió mạnh, các vụ bùng nổ trên mặt trời đều sinh ra hạ âm. Hạ âm cũng đi kèm theo những tiếng súng và tiếng nổ, các vụ sụt lở và động đất. Hạ âm công nghiệp là hiện tượng phổ biến thường ngày. Những máy thông gió công nghiệp và các máy nén khí, nhưng động cơ điêden, các máy quay chậm đều phát ra hạ âm. Một nguồn thường xuyên tạo ra các âm thanh đó nữa là giao thông thành phố.
Giả định của nhà nghiên cứu người Pháp đó đã tỏ ra đúng đắn. Người ta đã phát hiện thấy là các dao động hạ âm công suất lớn đã được tạo ra do hệ thống thông gió của một nhà máy vừa được xây dựng gần phòng thí nghiệm. Tần số của các sóng âm đó gần bằng bảy hec (tức là bảy dao động trong một giây), và chúng đã ảnh hưởng rất nguy hại đến con người.
Thế đấy, "vị chúa tể ngẫu nhiên" đã hiến cho các nhà khoa học một điều bí ẩn mới làm xao động mọi người; hạ âm và trạng thái cơ thể con người, sức khỏe con người và sự an toàn.
Chẳng bao lâu sau người ta biết rõ rằng thậm chí hạ âm có cường độ không lớn lắm cũng có khả năng làm rối loạn hoạt động của não chúng ta, gây ra choáng, dấn đến chứng mù tạm thời. Còn những âm thanh mạnh với tần số bảy hec có thể làm tim ngừng đập, phá vỡ các mạch máu. Các nhà khoa học đã từng thử trên cơ thể mình xem hạ âm cường độ lớn tác động tâm lý như thế nào, cho biết là đôi khi trong lúc thử nghiệm sinh ra cảm giác hoảng sợ vô căn cứ. Những tạp số khác gây ra trạng thái mệt mỏi, cảm giác buồn chán hoặc chứng say nóng kèm theo chóng mặt và nôn nao.
Trong phòng thí nghiệm của Gavrô, ngay trước mắt những người có mặt, các đồ vật để trong túi như bút, sổ tay, chìa khóa … đều tung lên. Hạ âm với tần số mười sáu hec đã tỏ sức mạnh như thế đấy.
Trên cơ sở nhiều sự kiện và quan sát, hiện nay các chuyên gia đặt nghi vấn rằng chính các hạ âm yếu là một trong những nguyên nhân gây mệt mỏi thần kinh ở người thành phố. Và chúng ta đều biết rằng trong các thành phố, thực tế có những hạ âm hơn những nơi khác. Như đã nói, nguồn thường xuyên sản sinh ra hạ âm là giao thông thành phố và nhiều ngành sản xuất.
Điều gì ảnh hưởng đến việc tái tạo ra hạ âm và quá trình đó như thế nào? Cần phải làm gì để cái "nền tiếng ồn" sinh ra hạ âm không tăng lên một cách không kiểm soát được? Những giới hạn cho phép của hạ âm là thế nào? Hiện nay tất cả những điều đó đang được các nhà khoa học ngiên cứu. Song tôi muốn kể một điều rất bí ẩn mà có lẽ cũng liên quan đến hạ âm.
Năm 1890, chiếc tàu buồm "Manbôrô" chở thịt cừu đông lạnh và lông thú đi từ Niu Dilân sang Anh. Chiếc tàu đã không tới cảng. Và con tàu được coi như đã bị đắm. Hơn hai mươi năm sau, người ta bỗng nhiên phát hiện ra nó ở vùng ven bờ đất lửa. Con tàu chạy hết buồm. Thuyền trưởng con tàu đã gặp chiếc tàu buồm đó đã viết một báo cáo tường trình tỉ mỉ những gì ông ta đã thấy. Tất cả mọi thứ đều ở nguyên vị trí của chúng. Thậm chí cả các thuỷ thủ đã chết nữa: một bộ xương nằm trên bánh lái, ba bộ xương khác nằm trên boong bên cửa nắp, sáu bộ xương các thuỷ thủ trực ban ở vị trí của họ, còn sáu bộ xương khác "đang nghỉ ngơi" ở bên dưới. Trên các bộ xương đó vẫn còn lại những mảnh quần áo.
Điều gì đã xảy ra với đội thuỷ thủ?
Việc điều tra tỉ mỉ nhất cũng chẳng đem lại điều gì. Sổ nhật ký tàu bị rêu phủ, toàn bộ các dòng ghi chép đều không thể đọc được.
Một chuyện còn ly kỳ hơn xảy ra vào năm 1948 với chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước "Urang Mêđơt". Điện báo viên của tàu sau khi phát tín hiệu SOS đã thông báo: "Toàn bộ các sĩ quan và thuyền trưởng đã bị chết … Tôi cũng đang hấp hối". Những người đến cứu nạn đã nhìn thấy một cảnh tượng lạ lùng: tất cả mọi người trong đội tàu đều đã chết và nằm tại chỗ của họ, trên mặt vẫn đọng lại nét kinh hoàng…
Trên các đại dương, các thuỷ thủ đã nhiều lần gặp những con tàu như vậy bị bỏ rơi vì nguyên nhân nào đó không rõ. Người ta đã từng biết nhiều tấn bi kịch xảy ra trên biển như vậy, chúng được nghiên cứu rất cẩn thận ở mức có thể được. Không nghi ngờ gì nữa về tính xác thực của những chuyện đó. Câu hỏi chính vẫn chưa có trả lời; chuyện gì đã xảy ra trên những con tàu bị đội tàu bỏ đi đột ngột hoặc tiếp tục lênh đênh trên đại dương với những người chết cũng đột ngột như thế.
Điều bí mật của biển cả ấy đã từ lâu làm các nhà viết lịch sử hàng hải phải vương vấn, băn khoăn. Những cảnh huống mà trong đó xảy ra các tai biến ấy, thật lạ lùng và khó giải thích. Toàn bộ đội tàu đều chết một cách bất ngờ và cùng lúc vì những nguyên nhân bí ẩn. Trong những trường hợp khác thì tất cả đội tàu biến đi khỏi con tàu bị hư hỏng, hơn nữa nhiều khi họ biến đi rất bí hiểm - các xuồng cứu nạn vẫn còn trên tàu. Điều đó đã xảy ra vào năm 1953 với chiếc tàu thuỷ chở hàng không lớn lắm "Hônchu". Còn vào tháng sáu năm 1969, các báo đều đưa tin: hai chiếc thuyền buồm không người đã được tìm thấy ở vùng quần đảo Axo. Trên boong các tàu đó vẫn còn chứa thức ăn dự trữ, nước uống và các thiết bị cứu nạn.
Có thể dự đoán biết bao nguyên nhân để giải thích điều bí ẩn này! Chẳng hạn các con bạch tuộc khổng lồ đã tấn công tàu, hay đã xảy ra một bệnh dịch bí hiểm nào đó do một thủy thủ mang lên tàu; người ta không loại trừ thậm chí cả khả năng như thế này: người đầu bếp bị điên đầu độc tất cả mọi người trên tàu rồi tự mình nhảy xuống biển…
Song cũng có giả định khác: liệu hạ âm có dính líu đến các sự kiện lạ lùng đó hay không?
Tiện đây ta cũng nên nhớ lại một câu chuyện lý thú xảy ra vào những năm 30. Một đoàn thám hiểm Liên xô làm việc trên tàu "Taimưr" ở Bắc Băng Dương. Các nhà khoa học nghiên cứu các lớp trên của khí quyển. Một lần, khi tiến hành thả quả cầu thám không (người ta gọi các quả cầu "trinh sát" được bơm đầy khí hiđrô có lắp các thiết bị đo lường khác nhau và một máy phát vô tuyến điện như vậy), các nhà nghiên cứu đã chú ý đến một hiện tượng lạ: khi quả cầu được đưa lên với ngang tai thì người ta thấy đau nhói trong tai như có ai đó ép mạnh vào màng nhĩ.
Viện sĩ V. Sulâykin đã quan tâm đến điều bí ẩn này. Trước hết, ông lắng nghe các máy thám sát vô tuyến ở Maxcơva. Chúng tỏ ra hoàn toàn vô hại. Thế có nghĩa biển là thủ phạm? Các nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm ở vùng ven bờ biển Hắc hải và khẳng định: đúng hiện tượng lạ có liên quan đến biển. Thủ phạm hóa ra là các hạ âm sinh ra trong các trận bão và cuồng phong trên các vùng biển mênh mông. Gió to và sóng lớn trở thành nguồn sản sinh ra những dao động hạ âm rất mạnh trong không khí. Thậm chí một trận bão không lớn lắm cũng sinh ra những hạ âm công suất cũng hàng chục kilôoat. Chùng lan truyền đi xa hàng trăm và hàng ngàn kilômet xung quanh.
Khi bay đi xa, những âm thanh lặng lẽ không nghe thấy này dường như báo trước cho mọi loài về cơn giông tố sắp đến. Và nhiều sinh vật biển cảm nhận được rất đúng điều báo trước đó. Những con sứa bơi ngay ra khỏi bờ trước lúc con sóng đầu tiên của trận bão ập tới, còn những con bọ chét biển thì nhảy lên bờ. Chính "giọng nói của biển cả" mà chúng nghe thấy rõ đã báo cho chúng biết về cơn giông tố sắp đến.
Nhân dân ở nhiều vùng ven biển thường truyền tụng các câu chuyện kể về những người có biệt tài đoán không sai về khả năng có bão. Biển còn hoàn toàn êm ả, nhưng ông lão đánh cá đi ra bờ biển đã bảo với mọi người rằng sắp có bão. Có lẽ, những người như thế cũng nghe thấy "giọng nói của biển khơi". Những dao động hạ âm mạnh trong không khí từ xa truyền đến được những người này cảm thụ như những cảm giác đau trong lỗ tai. Ở người khỏe mạnh thì không có hiện tượng ấy, nhưng những người mắc một số bệnh, chẳng hạn như bệnh thấp khớp lại cảm nhận được "giọng" của cơn bão đang ập tới.
Nhưng vì sao tất cả những người tham gia đoàn thám hiểm trên tàu "Taimưr" lại "nghe thấy" hạ âm? Hóa ra là những dao động hạ âm không nghe thấy được đó khi tác động qua lại với hiđrô có trong quả cầu thám không đã làm sinh ra những hạ âm còn mạnh hơn nhiều.
Một trong những điều bí ẩn liên quan đến hạ âm đã được làm sáng tỏ như vậy. Hiện nay ở Liên xô người ta đã chế tạo ra một thiết bị dự báo giông tố. Như những con sứa, thiết bị này tiếp nhận các hạ âm lan truyền tới, tức là tiếng vọng của cơn bão còn cách xa.
Vậy những sóng hạ âm có liên quan đến những tấn bi kịch trên biển cả không? Chúng ta đã biết rằng hạ âm mạnh với tần số bảy hec gây nguy hiểm đến tính mạng. Trong khi đó các sóng hạ âm sinh ra trong cơn bão có tần số xấp xỉ, trung bình chúng có tần số sáu hec. Vậy có lý khi giả định rằng, đôi khi trong cơn bão mạnh ở vùng nhiệt đới, tần số dao động của hạ âm đạt tới bảy hec.
Vì vậy, khi sóng hạ âm mạnh như thế ập tới "che phủ" cả con tàu thì trong khoảnh khắc nó có thể giết chết tất cả mọi người. Việc nghiên cứu tỉ mỉ nhất đều không phát hiện ra sự đầu độc hoặc bệnh dịch nguy hiểm nào. Kẻ giết người vô hình "chỉ" làm tê liệt hoạt động tim mà thôi.
Rất thực tế khi cho rằng các bức xạ hạ âm mạnh với tần số xấp xỉ bảy hec có thể gây ra những cơn điên dại. Một số sự kiện đã nói lên điều này. Người ta biết, chẳng hạn, khi ngoài biển có một cơn bão hình thành và mạnh lên, thì ở trên bờ không chỉ số các vụ tai nạn giao thông mà cả số vụ tự tử cũng tăng lên nữa.
Điều bí ẩn lạ lùng còn đang đợi những nhà nghiên cứu. Nó hoàn toàn bên cạnh chúng ta, nhưng vẫn khó phát hiện biết bao.
Hạt Cát
Biệt Thự sưu tầm -PHỐ RÙM.
(CÒN TIẾP ).dienbatn
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 71 of 78: Đă gửi: 25 November 2003 lúc 8:52am | Đă lưu IP
|
|
|
" Cuốn sách 'Ba phút đầu tiên - Một cách nhìn hiện đại về nguồn gốc vũ trụ'
Cuốn sách này nói về những phút đầu tiên của sự hình thành vũ trụ, theo thuyết vũ trụ học hiện đại nhất gọi là thuyết “mô hình chuẩn”. Nó xuất phát từ thuyết “Vụ nổ lớn” của các nhà bác học Lemaitre và Gamow, nhưng được hiện đại hóa, chính xác hóa sau sự khám phá ra phông bức xạ vũ trụ cực ngắn ở nhiệt độ 3 kenvin (khoảng âm 270 độ C) vào năm 1964 - 1965.
Đây là công lao trực tiếp của hai nhà bác học Mỹ Penzias và Wilson, và họ đã được giải thưởng Nobel năm 1978 về sự khám phá cực kỳ quan trọng này. Nhưng, như cuốn sách này nêu rõ, đó cũng là công lao của một tập thể khá lớn các nhà khoa học trong mấy chục năm trời, trong hàng trăm phòng thí nghiệm, đài quan sát thiên văn, nhóm nghiên cứu lý thuyết, đã đóng góp cho thuyết “Vụ nổ lớn” có được dạng “chuẩn” được nhiều người công nhận như hiện nay.
Bản thân tác giả, Steven Weinberg, một thành viên của Viện hàn lâm khoa học Mỹ, một nhà bác học nổi tiếng có nhiều cống hiến cho vật lý lý thuyết, vật lý hạt cơ bản, lý thuyết trường, dù không phải trực tiếp là một nhà vũ trụ học, nhưng gián tiếp đã tham gia vào cuộc đấu tranh cho “mô hình chuẩn” này. Năm 1979 Weinberg đã được giải Nobel về vật lý cùng với hai nhà bác học khác do sự đóng góp của ông vào việc tìm ra thuyết thống nhất hai tương tác: tương tác yếu và tương tác điện tử.
Cuốn sách này được xuất bản bằng tiếng Việt lần đầu năm 1981. Từ đó đến nay cuốn sách đã được tái bản nhiều lần ở nước ngoài, song vẫn không hề có sửa đổi gì do tính kinh điển của nó. Theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc yêu thích khoa học, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bản in “Ba phút đầu tiên - Một cách nhìn hiện đại về nguồn gốc vũ trụ” của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Ba phút đầu tiên
Trong suốt phần lớn lịch sử vật lý học, thiên văn học hiện đại, rõ ràng là đã không có một cơ sở quan sát và lý thuyết vững vàng để dựa vào đấy người ta có thể xây dựng một lịch sử vũ trụ sơ khai. Bây giờ, điều đó đã thay đổi. Một thuyết vũ trụ sơ khai đã được công nhận rộng rãi đến mức các nhà thiên văn thường gọi nó là “mô hình chuẩn”.
Mở đầu: Người khổng lồ và con bò cái
Nguồn gốc vũ trụ được giải thích trong sách “Edda trẻ”, một sưu tập truyện thần thoại mà nhà tộc trưởng Aixơlen Snorri Sturleson đã sưu tầm vào khoảng năm 1220. Thủa sơ khai - sách của Edda viết - không có gì cả. “Không tìm thấy đất, phía trên cũng không có trời, chỉ có một khoảng trống lớn kinh khủng, và không đâu có cỏ”. Phía bắc và phía nam của khoảng không trống rỗng là những vùng của giá rét và lửa, Niflheim và Muspelheim. Sức nóng từ vùng Muspelheim làm tan các khối băng giá của Niflheim và từ các hạt nước một người khổng lồ xuất hiện, Ymer. Thế thì Ymer ăn gì? Hình như trong truyện cũng có một con bò cái tên là Audhumla. Thế thì nó ăn gì? Không sao, cũng có một ít muối, v. v…và v. v…
Tôi không muốn làm mếch lòng những ai có thiện cảm tôn giáo, kể cả có thiện cảm với tín ngưỡng Viking (Viking: tên gọi những tên cướp biển Scanđinavia thuở xưa (ND).), nhưng tôi cho rằng cũng đúng khi nói rằng câu chuyện trên không cho chúng ta một hình ảnh thỏa mãn lắm về nguồn gốc vũ trụ. Dù bỏ qua mọi điều hết sức trái với những chuyện dĩ nhiên, thông thường, câu chuyện này vẫn làm nảy sinh những câu hỏi nhiều bằng những vấn đề nó giải đáp, mỗi sự giải đáp lại dẫn đến một điều phức tạp mới cho các điều kiện ban đầu.
Chúng ta không thể chỉ mỉm cười khi nghe chuyện Edda và khước từ toàn bộ sự suy đoán về nguồn gốc vũ trụ, lòng ham muốn tìm hiểu lịch sử vũ trụ kể từ buổi sơ khai của nó thực không gì ngăn cản được. Từ lúc khoa học hiện đại bắt đầu, ở những thế kỷ 16 và 17, các nhà vật lý, thiên văn đã nhiều lần trở về nguồn gốc vũ trụ.
Tuy nhiên, quanh một loại nghiên cứu như vậy luôn luôn phảng phất những điều tai tiếng. Tôi nhớ lại lúc tôi còn là một sinh viên và khi đó tự bắt đầu nghiên cứu khoa học (về những vấn đề khác) trong những năm 1950, nghiên cứu về vũ trụ sơ khai bị nhiều người coi không phải là một công việc mà một nhà khoa học đứng đắn phải để nhiều thời giờ vào đấy. Sự đánh giá như vậy cũng không phải vô căn cứ. Trong suốt phần lớn lịch sử vật lý học, thiên văn học hiện đại, rõ ràng là đã không có một cơ sở quan sát và lý thuyết vững vàng để dựa vào đấy người ta có thể xây dựng một lịch sử vũ trụ sơ khai.
Bây giờ, đúng trong 10 năm qua, điều đó đã thay đổi. Một thuyết vũ trụ sơ khai đã được công nhận rộng rãi đến mức các nhà thiên văn thường gọi nó là “mô hình chuẩn”. Nó một phần nào giống cái mà đôi khi được gọi là thuyết “vụ nổ lớn”, nhưng được bổ sung một toa (ở đây chúng tôi dịch “recipe” là “toa” để giữ đúng cách nói hóm hỉnh của tác giả. Còn có thể dịch là “công thức” hoặc “đơn” (ND).) rõ ràng hơn rất nhiều về các thành phần của vũ trụ. Thuyết về vũ trụ sơ khai này là đề tài cuốn sách của chúng ta.
Để thấy được ta sẽ đi tới đâu, có thể cần bắt đầu với một đoạn tóm tắt lịch sử vũ trụ sơ khai như được hiểu trong “mô hình chuẩn” hiện nay. Đây chỉ là một sự lướt qua ngắn gọn - các chương tiếp theo sẽ giải thích các chi tiết của lịch sử này và các lý do khiến ta tin vào nó phần nào.
Lúc đầu đã xảy ra một vụ nổ. Không phải một vụ nổ như thường xảy ra trên trái đất, bắt đầu từ một trung tâm nhất định và lan truyền ra các vùng xung quanh mỗi lúc một xa, mà là một vụ nổ xảy ra đồng thời ở bất cứ điểm nào, lấp đầy toàn bộ không gian ngay từ đầu, trong đó mỗi hạt vật chất đều rời xa các hạt khác. “Toàn bộ không gian” ở đây có thể hiểu hoặc là toàn bộ không gian của một vũ trụ vô hạn hoặc của một vũ trụ hữu hạn, nó tự khép kín như bề mặt một hình cầu. Cả hai khả năng đều không phải dễ hiểu, nhưng việc đó không cản trở gì ta; trong vũ trụ sơ khai, việc không gian là hữu hạn hay vô hạn hầu như không quan trọng.
Sau khoảng 1/100 giây, thời gian sớm nhất mà ta có thể tường thuật với một trăm nghìn triệu (10 mũ 11) độ bách phân (Trong sách, tác giả dùng khi thì độ bách phân cho dễ hiểu, khi thì độ Kelvin. Thực ra, phải dùng đơn vị “kenvin” thay độ bách phân hoặc độ Kelvin (ND).). Như vậy là nóng hơn nhiều so với ở trung tâm của một vì sao nóng nhất, nóng đến nỗi thực ra không có thành phần nào của vật chất bình thường, phân tử, nguyên tử hoặc dù là hạt nhân của nguyên tử có thể bám vào nhau được. Thay vào đó, vật chất rời xa nhau trong vụ nổ này gồm có những loại hạt cơ bản khác nhau, các hạt này là đối tượng nghiên cứu của vật lý hạt nhân năng lượng cao hiện đại.
Chúng ta sẽ gặp những hạt đó nhiều lần trong sách này - hiện giờ chỉ cần gọi tên các hạt có mặt nhiều nhất trong vũ trụ sơ khai, và trong các chương III và IV sẽ có những giải thích chi tiết hơn. Một loại hạt rất phổ biến lúc đó là electron, hạt mang điện âm chạy trong các dây dẫn điện và tạo nên các lớp vỏ của mọi nguyên tử và phân tử trong vũ trụ hiện nay. Một loại hạt khác cũng có rất nhiều trong các buổi sơ khai là pozitron, một loại hạt mang điện dương cùng một khối lượng như electron. Trong vũ trụ hiện nay pozitron chỉ được tìm thấy trong các phòng thí nghiệm năng lượng cao, trong một vài kiểu phóng xạ và trong những hiện tượng thiên văn cực mạnh như các tia vũ trụ và sao siêu mới, nhưng trong vũ trụ sơ khai, số lượng pozitron đúng bằng số lượng electron. Ngoài electron và pozitron lúc đó còn có những loại neutrino, số lượng cũng gần bằng như vậy, những hạt “ma” mang khối lượng và điện tích bằng không. Cuối cùng, vũ trụ lúc đó chứa đầy ánh sáng. Không được xem xét ánh sáng tách rời với các hạt. Thuyết lượng tử cho ta biết rằng ánh sáng gồm những hạt khối lượng bằng không, điện tích bằng không, gọi là photon. (Mỗi lần một nguyên tử trong dây tóc bóng đèn điện chuyển từ một trạng thái năng lượng cao đến một trạng thái năng lượng thấp hơn thì một photon được phát ra). Số photon được phát ra từ một bóng điện nhiều đến nỗi chúng dường như là nhập với nhau thành một luồng ánh sáng liên tục, nhưng một tế bào quang điện có thể đếm từng photon một. Mỗi photon mang một lượng năng lượng và xung lượng xác định, phụ thuộc vào bước sóng ánh sáng. Để mô tả ánh sáng đã tràn ngập vũ trụ sơ khai, chúng ta có thể nói rằng số lượng và năng lượng trung bình của các photon lúc đó xấp xỉ bằng số lượng và năng lượng trung bình của các electron, pozitron hoặc neutrino.
Các hạt đó - electron, pozitron, neutrino, photon - đã được tạo nên một cách liên tục từ năng lượng thuần túy và rồi sau những khoảnh khắc tồn tại lại bị hủy diệt. Như vậy, số lượng của chúng không phải là đã được định ngay từ đầu, mà thay vào đó được cố định bằng sự cân bằng- giữa các quá trình sinh và hủy. Từ sự cân bằng này ta có thể suy ra rằng mật độ thứ xúp (Chúng tôi dịch “cosmic soup” là xúp vũ trụ (một món “hẩu lốn” vũ trụ) để giữ cách nói hóm hỉnh của tác giả (ND).) vũ trụ đó ở nhiệt độ một trăm nghìn triệu độ, lớn gấp khoảng bốn nghìn triệu lần mật độ của nước. Lúc đó cũng có pha một số ít hạt nặng hơn, các proton và neutron, mà trong thế giới hiện nay là những thành phần của các hạt nhân nguyên tử. (Proton mang điện tích dương, neutron nặng hơn một ít và trung hòa về điện). Tỷ lệ lúc đó vào khoảng một proton và một neutron trên mỗi nghìn triệu electron hoặc pozitron hoặc neutrino hoặc photon. Con số đó - một nghìn triệu photon trên mỗi hạt nhân - là con số quyết định cần phải rút ra từ quan sát để tạo ra mô hình chuẩn của vũ trụ. Sự phát hiện ra phông bức xạ vũ trụ được thảo luận ở chương III thực ra là một phép đo con số đó.
Khi vụ nổ tiếp tục thì nhiệt độ hạ xuống tới ba mươi nghìn triệu (3. 10 mũ 10) độ C sau khoảng một phần mười giây; mười nghìn triệu độ sau một giây và ba nghìn triệu độ sau 14 giây. Như vậy đủ lạnh để electron và pozitron bắt đầu bị hủy với nhau nhanh hơn là có thể được tái sinh từ photon và neutrino. Năng lượng được giải phóng trong sự hủy vật chất tạm thời làm giảm tốc độ lạnh dần của vũ trụ, nhưng nhiệt độ tiếp tục giảm, cuối cùng đi đến một nghìn triệu độ sau ba phút đầu tiên. Lúc đó đủ lạnh để photon và neutron bắt đầu tạo thành các hạt nhân phức tạp, bắt đầu là hạt nhân của hydro nặng (hay đơteri) nó gồm một proton và một neutron. Mật độ lúc đó hãy còn khá cao (hơi nhỏ hơn mật độ của nước), cho nên các hạt nhân nhẹ đó có thể hợp lại với nhau một cách nhanh chóng thành hạt nhân nhẹ bền nhất, hạt nhân của heli, gồm hai photon và hai neutron.
Sau ba phút đầu tiên, vũ trụ gồm chủ yếu ánh sáng, neutrino và phản neutrino. Lúc đó vẫn còn chút ít chất hạt nhân, gồm có khoảng 73 % hydro và 27 % heli và một số, cũng ít như vậy, electron còn lại từ quá trình hủy electron và pozitron. Vật chất đó tiếp tục rời xa nhau, càng ngày càng lạnh hơn, loãng hơn. Mãi lâu sau, sau một vài trăm nghìn năm mới bắt đầu đủ lạnh để cho electron kết hợp với hạt nhân thành nguyên tử hydro và heli. Chất khí được hình thành sẽ bắt đầu, dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn, tạo nên những khối kết mà sau này sẽ ngưng tụ lại, tạo ra các thiên hà và các ngôi sao của vũ trụ hiện nay. Tuy nhiên, những thành phần mà các ngôi sao dùng để bắt đầu đời sống của chúng cũng chỉ là những thành phần được tạo ra trong ba phút đầu tiên."
Các bạn cứ chịu khó đọc giải trí đi-Đúng sai hạ hồi phân giải.
(Con tiếp ).dienbatn
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 72 of 78: Đă gửi: 06 December 2003 lúc 4:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Thân gửi các anh trong ban điều hành.
Không hiểu phần bài tiếp theo của tôi đâu mất.Xin các anh coi lại giúp.
dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 73 of 78: Đă gửi: 06 December 2003 lúc 4:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi mới đọc lại thông báo.Xin viết lại tiếp tục.Thôi th́ của đi thay người,không có ǵ phải buồn.
Dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 74 of 78: Đă gửi: 06 December 2003 lúc 5:06am | Đă lưu IP
|
|
|
(Tiếp theo phần KHOA HỌC )
Và phần cuối cùng của cuốn ba phút đầu tiên viết như sau :"Vũ trụ chắc sẽ c̣n tiếp tục giăn nở một thời gian nữa. Về số phận của nó sau đó, mô h́nh chuẩn cho một lời tiên đoán mơ hồ: nó phụ thuộc hoàn toàn vào việc mật độ vũ trụ bé hơn hay lớn hơn một giá trị tới hạn nào đó.
Như ta đă thấy ở chương II, nếu mật độ vũ trụ bé hơn mật độ tới hạn th́ lúc đó vũ trụ là vô hạn và sẽ măi măi giăn nở. Con cháu chúng ta, nếu lúc đó có, sẽ thấy những phản ứng nhiệt hạch đi đến kết thúc chầm chậm trong tất cả các v́ sao, để lại ở sau những loại tro bụi khác nhau; những sao lùn đen, những sao nơtron, có thể cả những lỗ đen. Các hành tinh có thể tiếp tục quay trên quỹ đạo chậm dần đi một ít khi chúng bức xạ sóng hấp dẫn, nhưng không khi nào nghỉ sau một thời gian hữu hạn. Nhiệt độ những phông bức xạ và neutrino vũ trụ sẽ tiếp tục hạ tỷ lệ nghịch với kích thước của vũ trụ, nhưng chúng không thể mất đi; ngay bây giờ ta có thể phát hiện phông bức xạ cực ngắn 3 K.
Mặt khác nếu mật độ vũ trụ lớn hơn giá trị tới hạn th́ khi đó vũ trụ là hữu hạn và sự giăn nở của nó sẽ một lúc nào đó kết thúc, và được thay bằng một sự co ngày càng mạnh. Nếu chẳng hạn, mật độ vũ trụ gấp đôi giá trị tới hạn của nó và nếu giá trị đang được công nhận hiện nay của hằng số Hubble (15 km mỗi giây cho mỗi triệu năm ánh sáng) là đúng th́ khi đó vũ trụ cho đến bây giờ có tuổi là 10000 triệu năm; nó sẽ tiếp tục giăn nở trong 50000 triệu năm nữa và sau đó bắt đầu co lại (xem h́nh bốn). Sự co đúng là sự giăn nở theo chiều ngược lại: sau 50000 triệu năm, vũ trụ sẽ lấy lại kích thước hiện nay và sau 10000 triệu năm nữa sau đó nó sẽ đến gần một trạng thái kỳ dị có mật độ vô hạn.
Suốt ít nhất là phần đầu của giai đoạn co, các nhà thiên văn (nếu có khi đó) sẽ có thể tiêu khiển bằng sự quan sát cả dịch chuyển đỏ lẫn dịch chuyển xanh. Ánh sáng từ những thiên hà gần chắc đă được bức xạ ở một thời điểm vũ trụ lớn hơn so với khi ánh sáng đó được quan sát, do đó khi nó được quan sát, ánh sáng này sẽ có vẻ như dịch chuyển về phía đầu bước sóng ngắn của phổ, nghĩa là về phía xanh. Mặt khác, ánh sáng từ những vật rất là xa sẽ phải được bức xạ ở một thời kỳ khi vũ trụ đang c̣n trong những giai đoạn đầu của sự giăn nở của nó, khi vũ trụ c̣n bé hơn so với khi ánh sáng được quan sát, do đó khi nó được quan sát, ánh sáng đó có vẻ như dịch chuyển về phía các bước sóng dài của phổ, nghĩa là về phía đỏ.
Nhiệt độ của các phông photon và neutrino vũ trụ sẽ hạ xuống, rồi sau đó tăng lên khi vũ trụ giăn nở rồi co lại, luôn luôn tỷ lệ nghịch với kích thước của vũ trụ. Nếu mật độ vũ trụ hiện nay gấp đôi trị số tới hạn của nó, th́ khi đó các tính toán của ta chỉ rơ rằng vũ trụ lúc lớn nhất sẽ đúng gấp đôi bây giờ, như vậy nhiệt độ phông sóng cực ngắn lúc đó sẽ đúng bằng một nửa giá trị 3 K hiện nay, hoặc khoảng 1,5 K. Sau đó vũ trụ bắt đầu co lại và nhiệt độ bắt đầu tăng lên.
Lúc đầu không có báo động ǵ - trong hàng ngh́n triệu năm phông bức xạ sẽ lạnh đến mức cần có một cố gắng lớn mới phát hiện được nó. Tuy nhiên, khi vũ trụ đă co hẹp lại đến một phần trăm kích thước hiện nay, phông bức xạ sẽ bắt đầu ngự trị bầu trời: bầu trời ban đêm sẽ nóng như bầu trời ban ngày hiện nay của chúng ta (300 K). Bảy mươi triệu năm sau đó vũ trụ sẽ co lại mười lần nữa, và con cháu chúng ta (nếu có) sẽ thấy bầu trời sáng một cách không chịu được. Các phân tử trong khí quyển giữa các hành tinh và giữa các sao và trong khoảng không giữa các sao sẽ bắt đầu tách thành những nguyên tử thành phần của chúng, và những nguyên tử sẽ vỡ ra thành những electron tự do và những hạt nhân nguyên tử. Sau bảy trăm ngh́n năm nữa nhiệt độ vũ trụ sẽ là 10 triệu độ; khi đó bản thân các v́ sao và hành tinh cũng sẽ ḥa tan thành một thứ xúp vũ trụ gồm bức xạ, electron, hạt nhân. Sau hai mươi hai ngày nữa nhiệt độ sẽ tăng lên 10 000 triệu độ. Các hạt nhân lúc đó bắt đầu vỡ tung ra thành các proton và nơtron thành phần của chúng, phá hủy toàn bộ công tŕnh tổng hợp hạt nhân trong các v́ sao và theo vũ trụ học. Một thời gian ngắn sau đó electron và pôzitron sẽ được tạo nên với số lượng lớn những va chạm photon - photon, và phông neutrino và phản neutrino vũ trụ sẽ trở lại cân bằng nhiệt với vũ trụ c̣n lại.
Ta có thể nào đưa câu chuyện buồn tẻ này suốt cho đến kết thúc, đến một trạng thái mật độ và nhiệt độ vô hạn không? Thời gian có thể nào dừng lại trong khoảng 3 phút sau khi nhiệt độ đạt một ngh́n triệu độ không? Rơ rằng ta không thể chắc. Mọi sự không chắc mà ta gặp phải ở chương trước, khi th́ khảo sát tỷ mỉ phần trăm giây đầu tiên, sẽ quay lại để làm cho ta băn khoăn khi ta nh́n vào phần trăm giây cuối cùng. Trước hết, toàn bộ vũ trụ đó phải được mô tả theo ngôn ngữ cơ học lượng tử ở những nhiệt độ trên 100 triệu triệu triệu triệu độ (10 mũ 32 K), và không ai có một ư niệm nào về việc ǵ xảy ra lúc đó. Ngoài ra, nếu vũ trụ không thật đồng tính và đẳng hướng (xem cuối chương V), th́ toàn bộ câu chuyện của ta mất hết cả ư nghĩa từ lâu trước khi ta gặp phải những vấn đề của vũ trụ học lượng tử.
Từ các sự không chắc này một số nhà vũ trụ học rút ra một hy vọng nào đó. Có thể là vũ trụ sẽ trải qua một kiểu “nảy bật” vũ trụ và sẽ bắt đầu giăn nở lại. Trong Edda, sau trận cuối cùng giữa các thần và những người khổng lồ ở Rangorak, quả đất bị lửa và nước phá hủy nhưng nước rút lui, các người con của Thor từ địa ngục lại tiến lên mang theo búa của cha và cả thế giới lại bắt đầu một lần nữa. Nhưng nếu vũ trụ quả thực sẽ giăn nở lại, sự giăn nở của nó sẽ chậm dần một lần nữa và sau đó sẽ có một sự co hẹp, kết thúc bằng một Rangorak vũ trụ khác, rồi lại có một lần nảy bật khác nữa, và như vậy tiếp tục măi măi.
Nếu đó là tương lai, nó cũng rất có thể là quá khứ của chúng ta. Vũ trụ đang giăn nở hiện nay có thể chỉ là giai đoạn tiếp theo sự co hẹp trước và sự nảy bật vừa qua. (Thật ra, năm 1965, trong thông báo về phông bức xạ cực ngắn vũ trụ, Dicke, Peebles, Roll và Wilkinson cho rằng đă có một thời kỳ giăn nở và co hẹp vũ trụ hoàn toàn trước đây, và họ lập luận rằng vũ trụ đă phải co hẹp đủ để nâng nhiệt độ lên ít nhất là 10000 triệu độ để có thể phá vỡ các nguyên tố nặng tạo nên trong giai đoạn trước). Nh́n lùi về trước, ta có thể tưởng tưởng một chương tŕnh không chấm dứt giăn nở mà không có lúc bắt đầu nào.
Một số nhà vũ trụ học bị hấp dẫn về mặt triết học bởi mô h́nh dao động, đặc biệt v́, như mô h́nh trạng thái dừng, nó tránh một cách khôn khéo vấn đề “phát sinh trời đất”. Nhưng nó gặp một khó khăn lư thuyết lớn. Trong mỗi chu kỳ tỷ số photon trên hạt hạt nhân (hoặc, chính xác hơn, entropi cho mỗi hạt hạt nhân) được tăng lên chút ít do một loại ma sát (gọi là “độ nhớt khối”) trong khi vũ trụ giăn nở và co hẹp. Với sự hiểu biết hiện nay của ta, vũ trụ lúc đó sẽ bắt đầu mỗi chu kỳ mới với một tỷ số photon trên hạt hạt nhân mới, hơi lớn hơn trước. Cho đến nay tỉ số đó lớn nhưng không phải vô hạn, cho nên khó mà thấy vũ trụ đă trải qua trước đó một số chu kỳ vô hạn như thế nào.
Tuy nhiên, mọi vấn đề đó có thể giải quyết, và dù mô h́nh vũ trụ học nào đó tỏ ta đúng đắn, th́ cũng không làm cho ta an tâm lắm. Đối với con người, gần như khó cản ḷng tin rằng chúng ta có một mối liên hệ đặc biệt ǵ đó với vũ trụ, rằng đời sống loài người không phải chỉ là một kết quả tất nhiên hài hước của một chuỗi tai nạn kéo lui dài đến ba phút đầu tiên, mà rằng chúng ta đă được tạo nên một cách nào đó ngay từ lúc đầu tiên. Trong khi viết điều này tôi đang ở trên một chiếc máy bay cao 30 000 fut, bay trên bầu trời Wyoming từ San Francisco về nhà ở Boston. Phía dưới mặt đất xem ra rất mềm và dễ chịu, có những đám mây mượt mà ở chỗ này chỗ nọ, tuyết nhuộm hồng khi mặt trời mọc, những con đường thẳng tắp trên đất nước từ thành phố này đến thành phố kia. Rất khó nhận ra rằng tất cả những cái đó chỉ là một phần nhỏ bé của một vũ trụ cực kỳ không thân thiện. Lại c̣n khó nhận thức hơn nữa rằng vũ trụ hiện nay đă tiến hóa từ một điều kiện sơ khai không b́nh thường một cách không tả nổi và đứng trước một sự hủy diệt tương lai do lạnh vĩnh viễn hoặc nóng không chịu được. Vũ trụ càng thấy là dễ hiểu bao nhiêu th́ lại h́nh như càng vô nghĩa bấy nhiêu.
Nhưng nếu trong kết quả của nghiên cứu của ta không có điều ǵ an ủi ta, th́ ít nhất cũng có một sự khuây khỏa nào đó ngay trong bản thân việc nghiên cứu. Con người ta, nam hay nữ, không bằng ḷng với việc tự an ủi ḿnh với những câu chuyện về các thần và những người khổng lồ, hoặc tập trung suy nghĩ của ḿnh vào những câu chuyện đời sống hàng ngày; họ cũng chế tạo những kính thiên văn, những vệ tinh nhân tạo và những máy gia tốc, và ngồi ở bàn giấy suốt hàng giờ để xử lư ư nghĩa của các số liệu mà họ thu thập được. Sự cố gắng hiểu về vũ trụ là một trong rất ít cái làm cho đời sống con người được nâng lên cao hơn tŕnh độ của một hư kịch, và cho nó một phần nào dáng đẹp của một bi kịch.".
Cho tới tận giờ phút này Khoa học hiện đại vẫn c̣n đang loay hoay với câu hỏi Giăn nở hay Co hẹp???Trong khi đó Triết học Đông phương ,trên cơ sở Thuyết Âm dương -Ngũ hành từ nhiều ngàn năm về trước đă chỉ ra rằng :Trong quá tŕnh tương tác âm dương,luôn tồn tại quy luật biến đổi,tương tác của các dạng Năng lượng (Khí ),Tụ là h́nh,Tán là Khí,nhưng dù tụ hay tán ǵ đi chăng nữa ,cũng chỉ là những dạng,h́nh thức khác nhau của sự biến đổi h́nh thái của Năng lượng (Khí ).Như vậy Giăn nở hay co hẹp chỉ là một thời điểm,một h́nh thức của sự biến đổi Năng lượng (Khí ) trong quá tŕnh vận động Vô cùng vô tận của Vũ trụ.Qúa tŕnh đó được diễn ra liên tục ,làm cho Vũ trụ trở nên Vô Sanh -Vô diệt ,Không có khởi đầu,không có kết thúc,chỉ có sự biến đổi h́nh thức mà thôi.
(C̣n tiếp ).
dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 75 of 78: Đă gửi: 06 December 2003 lúc 11:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
(Tiếp theo ).
Trong cuốn Lược sử Thời ian của Stephen Hawking có nói đến sự ao ước của các nhà Khoa học như sau :
"Ngay từ buổi b́nh minh của nền văn minh, loài người đă không bằng ḷng nh́n những sự kiện như những thứ rời rạc và không giải thích được. Họ đă khao khát hiểu biết cái trật tự nằm sâu kín trong thế giới. Ngày hôm nay chúng ta cũng vẫn trăn trở muốn biết tại sao chúng ta lại ở đây và chúng ta từ đâu tới....
Một lư thuyết được xem là tốt nếu nó thỏa măn hai yêu cầu: nó phải mô tả chính xác một lớp rộng lớn những quan sát, trên cơ sở của mô h́nh chỉ chứa một số ít những phần tử tùy ư; và nó phải đưa ra được những tiên đoán về các quan sát trong tương lai...
một lư thuyết tốt được đặc trưng bởi điều là: nó đưa ra được nhiều tiên đoán mà về nguyên tắc có thể bác bỏ bởi quan sát...
Mục đích tối hậu của khoa học là tạo ra được một lư thuyết duy nhất có khả năng mô tả được toàn bộ vũ trụ. "
Như vậy hiện nay bản thân Khoa học c̣n đang ước ao tạo ra một Lư thuyết duy nhất có thể giải thích được từ thế giới Vi mô đến Vĩ mô và có khả năng Tiên tri.
Thật là kỳ diệu từ nhiều ngàn năm trước,cha ông chúng ta đă có Học thuyết Âm dương -Ngũ hành thỏa măn được những yêu cầu trên của các nhà Khoa học hiện đại.Không những nó có thể giải thích toàn bộ những quá tŕnh vận động của Vũ trụ,mà nó c̣n có khả năng tiên tri những khoảng thời gian sau đó.Như vậy ,HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CHÍNH LÀ MỘT SIÊU CÔNG THỨC VŨ TRỤ ĐƯỢC BIẾT TỚI TỪ NHIỀU NGÀN NĂM TRƯỚC,NÓ CHÍNH LÀ ĐỈNH CAO CỦA MỘT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI ĐĂ BỊ HỦY DIỆT TRONG CHU KỲ VẬN ĐỘNG CỦA VŨ TRỤ.
(C̣n tiếp )dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 76 of 78: Đă gửi: 07 December 2003 lúc 8:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
Dienbantn thân mến!
Trong bài trước Dienbantn có nói đến không gian 4 chiều.Cá nhân tôi không dám có ư kiến về v/d này. Nhưng theo các sách cổ như Trang Tử Nam Hoa Kinh kết hợp với các cổ thư khác như Kinh Dịch th́ chúng ta chỉ có thể đạt được 6 chiều không gian. Nhưng 6 chiều này được định tính như sau:Gồm 3 chiều không gian hiện tai hướng tới tương lai thuôc Dương và 3 chiều không gian hướng tới quá khứ thuộc Âm =>6 chiều không gian. Phải chăng v́ lẽ này mà các nhà Đạo học tu luyện để đi trong 6 cơi chăng.Về kinh Dịch khi đổi chỗ Tốn Khôn th́ sẽ có hai nhóm Âm Dương; mỗi nhóm có 2 quái bất Dịch và hai quái điên đảo dịch kết hợp thành một quái bất Dịch => Như vậy mỗi nhóm sẽ có 3 cực + thành 6 cực vận đông.Nếu ư tưởng này đúng th́ các nhà khoa học sẽ không thể t́m thấy không gian 4 chiều.Nếu đă coi thuyết Âm Dương Ngũ hành là lư thuyết thống nhất vũ trụ th́ về lư thuyết:tất cả mọi hiện tượng -kể cả tư duy - sẽ không thể vượt qua sự chi phối của nó.
Cảm ơn sự quan tâm của Dienbantn.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 77 of 78: Đă gửi: 08 December 2003 lúc 11:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
Như vậy chúng ta thấy rằng,cho đến tận giờ phút này khi bạn và tôi đang dán mắt vào màn h́nh Vi tính th́ nền Khoa học mà chúng ta coi là hiện đại nhất cũng đang phải băn khoăn tự hỏi :Vũ trụ từ đâu sinh ra ?Nó sẽ đi về đâu ?Giăn nở hay Co hẹp ?Và các chiều của Không gian là mấy ? 2;3;4;5;6 ????
Như vậy,Khoa học lấy ǵ để chứng minh được tính KHOA HỌC của ngay bản thân ḿnh chứ chưa nói đến việc dùng Khoa học hiện tại để chứng minh cái đúng của của các hiện tượng HUYỀN THUẬT mà chúng ta đă xem xét ở trên.Vậy chúng ta lấy ǵ làm cơ sở để xác định sự đúng sai đây ???
Ví dụ cụ thể nhất là học thuyết Tiến hóa sinh vật của ĐÁC UYN.Theo học thuyết này,sinh vật phát triển theo quy luật từ thấp đến cao,và qua cuộc đấu tranh sinh tồn sẽ xuất hiện những loài mới.Nhưng từ khi học thuyết này ra đời cho tới nay loài vượn vẫn chỉ là loài vượn mà không tiến hoá thành người.Trong triết học Đông phương giải thích hiện tượng này khác hẳn.Về phần lư thuyết các bạn có thể tham khảo trong Thuyết Âm dương -Ngũ hành.Nhưng người viết xin nói nôm na hiện tượng đó tương tự như quá tŕnh Cracking dầu mỏ (Chưng cất dầu mỏ ).Trong quá tŕnh chưng cất dầu thô khai thác được từ dưới ḷng đất lên,trải qua nhiệt độ và dưới những áp suất nhất định,chúng ta sẽ nhận được rất nhiều các sản phẩm khác nhau như ét xăng,dầu gazoline,dầu hỏa,nhựa đường (Hắc ín )....Như vậy không phải có những phản ứng hóa học sinh ra những loại hợp chất đó mà bản thân những chất đó đă có sẵn trong thành phần của dầu thô.Chỉ khi có những điều kiện khác nhau sẽ xuất hiện những chất khác nhau.Như vậy có thể lư giải một cách đơn giản sự Vận động của Vũ trụ là tất cả những h́nh thái của Vũ trụ hiện nay đều có sẵn từ trước và tiềm ẩn dưới dạng Năng lượng trong Vũ trụ,trong các điều kiện khác nhau của sự vận động (Năng lượng ) sẽ xuất hiện các dạng Vật chất và tinh thần khác nhau.Người viết cho rằng,bản thân tinh thần cũng là một dạng của Năng lượng và vận động theo Học thuyết Âm dương -Ngũ hành.
(Còn tiếp ).dienbatn
|
Quay trở về đầu |
|
|
dienbatn Hội viên


Đă tham gia: 19 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 326
|
Msg 78 of 78: Đă gửi: 18 December 2003 lúc 4:08am | Đă lưu IP
|
|
|
Thân gửi các bạn trên Diễn đàn.
Đáng lý bài viết này còn tương đối dài trong phần KHOA HỌC,lý giải các Huyền thuật.dienbatn còn muốn nói đến mối quan hệ giữa những nét vẽ của các đạo Bùa với chuỗi xoắn kép ADN,hướng của các nét vẽ thuận,nghịch theo chiều leo cũa cây cối,các tính chất có tác dụng Huyền thuật của những cây Ngải....
Tuy nhiên,vì mới nhận được Thông điệp của Sư phụ chưa cho phép nên dienbatn xin tạm dừng tại đây.Chúc các bạn có một mùa Giáng sinh vui vẻ.
Thân ái.dienbatn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|