Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 186 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Khai quang Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 23: Đă gửi: 29 March 2006 lúc 11:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Kính chào tất cả quư vị và các bạn!
Kính mong tất cả quư vị và bạn cho ư kiến để t́m cái chân cái nguỵ trong bài viết này.
Chân thành cảm ơn
Phổ Quảng
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 23: Đă gửi: 29 March 2006 lúc 11:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Pháp thân

Tại sao trên [h́nh] tượng Phật có một trường? Có nhiều người giải thích không được; cũng có người nói: ‘Trên tượng Phật có trường là v́ hoà thượng hướng vào tượng Phật niệm kinh mà sinh ra’, tức là trường do hoà thượng tu luyện ở trước [tượng] sinh ra. Tuy nhiên hoà thượng tu luyện cũng vậy, ai tu luyện cũng vậy, loại năng lượng ấy là tản xạ, không định hướng; nên chăng là toàn bộ sàn, trần, tường nơi Phật đường đều có trường ấy như nhau. Vậy cớ sao chỉ có trường ở trên tượng Phật mới mạnh như thế? Đặc biệt ở các tượng Phật trong núi sâu, hoặc tại sơn động, hoặc tạc trên vách núi, thường hay có tồn tại trường ấy. V́ sao xuất hiện trường này? Có người giải thích thế này, giải thích thế kia, giải thích thế nào cũng không giải thích được thông. Kỳ thực trên tượng Phật có trường ấy là v́ trên Phật tượng có một Pháp thân của Giác Giả. Pháp thân của Giác Giả ấy tại chỗ đó, do đó nó có năng lượng.

Thích Ca Mâu Ni hay Bồ Tát Quán Âm cũng vậy, nếu như trong lịch sử thật sự có nhân vật ấy, mọi người thử nghĩ xem, khi họ tu luyện, th́ họ cũng là người luyện công phải không? Người ta sau khi tu đến một tầng rất cao nào đó ở xuất thế gian pháp, th́ sẽ sản sinh ra Pháp thân. Pháp thân được sinh ra từ bộ vị của đan điền người ta, là do Pháp và công cấu thành, là thể hiện xuất ra ở tại không gian khác. Pháp thân được trang bị đầy đủ uy lực rất lớn của bản thân họ; nhưng ư thức của Pháp thân, tư tưởng của Pháp thân chịu sự khống chế [điều hành] của chủ thể. Nhưng bản thân Pháp thân cũng là một sinh mệnh cá thể hoàn chỉnh, độc lập, hết sức thực tại; do vậy bản thân [nó] cũng có thể thực thi bất kể sự việc ǵ một cách độc lập. Sự việc mà Pháp thân thực thi là giống với, giống như đúc với sự việc mà chủ ư thức của người ta mong muốn thực thi. Sự việc ấy bảo bản thân thực thi th́ sẽ thực thi như thế nào, [th́ để] Pháp thân thực thi cũng lại như thế ấy; đây chính là điều mà chúng tôi gọi là ‘Pháp thân’. Tôi muốn làm một sự việc nào đó, ví như giúp đệ tử tu luyện chân chính điều chỉnh thân thể, [th́] đều do Pháp thân của tôi làm. Bởi v́ Pháp thân không mang cái thân thể thường nhân như thế này, nên [Pháp thân] thể hiện tại không gian khác. Thể sinh mệnh ấy cũng không cố định bất biến; Pháp thân có thể biến thành lớn thu thành nhỏ. Có lúc Pháp thân biến thành rất lớn, lớn đến mức không nh́n được toàn bộ đầu của Pháp thân; có lúc biến thành rất nhỏ, nhỏ đến mức nhỏ hơn cả tế bào.

Khai quang
[H́nh] tượng Phật chế tạo từ công xưởng chỉ là một tác phẩm nghệ thuật. ‘Khai quang’ chính là thỉnh mời một Pháp thân của Phật vào tượng Phật; rồi sau đó, coi tượng Phật như một thân thể hữu h́nh [của Phật] nơi người thường để thờ cúng. Người luyện công có cái tâm kính ngưỡng ấy, [th́] khi tu luyện, Pháp thân trên tượng Phật sẽ v́ họ mà hộ Pháp, coi sóc họ, bảo hộ họ; đây là mục đích chân chính của khai quang. Chỉ khi phát xuất chính niệm trong nghi thức khai quang chính thức, hoặc có Đại Giác Giả tại tầng rất cao, hoặc có người tu luyện ở tầng rất cao có lực lượng [quyền lực] ấy th́ mới có thể thực hiện được sự việc này.

Trong chùa giảng rằng tượng Phật cần phải khai quang; họ nói rằng tượng Phật chưa qua khai quang th́ không linh. [Về] các hoà thượng trong chùa hiện nay, các đại Pháp sư chân chính, đều đă [qua đời] không c̣n tại thế. Từ sau “Đại cách mạng Văn hoá”, trong những tiểu hoà thượng có những vị không được chân truyền [nhưng] hiện nay làm trụ tŕ; có rất nhiều điều bị thất truyền. Hỏi họ khai quang để làm ǵ? Họ nói: ‘Khai quang xong, tượng Phật sẽ linh’. Cụ thể linh [nghiệm] ra sao, họ không nói rơ được. Do đó họ chỉ cử hành nghi lễ, đặt một cuốn tiểu kinh văn vào trong tượng Phật, sau đó lấy giấy hồ [kín] lại, [rồi] hướng vào đó niệm kinh, và họ nói rằng đă khai quang xong. Nhưng đă đạt được khai quang chưa? C̣n phải xem họ niệm kinh ra sao. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng chính niệm, [đạt đến được] niệm kinh nhất tâm bất loạn, th́ thật sự có khả năng tạo ra chấn động đến thế giới pháp môn tu của Ông, như thế mới mời được Giác Giả. Một Pháp thân của Giác Giả này sẽ đến và nhập lên [tượng Phật], như thế mới đạt được mục đích khai quang.

Có hoà thượng ở đó [vừa] niệm kinh, vừa nghĩ trong tâm: ‘Khai quang xong [người ta] đưa ḿnh bao nhiêu tiền nhỉ.’ Hoặc là vừa niệm kinh vừa nghĩ: ‘Người kia xử tệ với ḿnh quá’. Họ ở đó cũng có lục đục tranh chấp, hiện nay vào thời kỳ mạt Pháp, không thể không thừa nhận những hiện tượng ấy; tại đây chúng tôi không [định] phê b́nh Phật giáo; vào thời kỳ mạt Pháp có những ngôi chùa chẳng hề thanh tịnh. Khi trong đầu họ nghĩ những thứ ấy, phát sinh những niệm đầu không tốt như thế, hỏi các Giác Giả có thể đến không? Hoàn toàn không đạt được mục đích khai quang. Tuy vậy [cũng] không tuyệt đối, cũng có một số chùa và Đạo viện cá biệt vẫn c̣n tốt.

Ở một thành phố nọ tôi thấy một hoà thượng, tay đen thui. [Vị ấy] nhét cuốn kinh văn vào tượng Phật, dán dán lại, miệng lẩm nhẩm đọc một chập là coi như khai quang xong. Lại lấy một tượng Phật nữa, lại lẩm nhẩm một chập; mỗi một lần khai quang là 40 đồng. Hoà thượng hiện nay đă biến [khai quang] thành hàng hoá thương mại, kiếm tiền bằng khai quang tượng Phật. Tôi nh́n một cái là thấy ngay khai quang chưa được, hoàn toàn không khai quang; hoà thượng ngày nay c̣n làm cả những việc như thế. Tôi c̣n thấy một việc ǵ nữa? Trong chùa có một vị kia, trông giống như một cư sỹ, nói là khai quang tượng Phật; vị này hướng mặt một chiếc gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu lên thân của tượng Phật, họ nói thế là khai quang xong. Đúng là đă đến mức thật quá tức cười! Phật giáo hôm nay đă phát triển đến mức độ ấy; nó c̣n là một hiện tượng rất phổ biến.

Một bức tượng Phật lớn bằng đồng chế tạo tại Nam Kinh, [được] đưa đến đặt trên Đại Dữ Sơn ở Hồng Kông; tượng Phật rất to lớn. Nhiều hoà thượng trên toàn thế giới đến để khai quang tượng Phật này; trong đó có một hoà thượng hướng mặt tấm gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu rọi lên mặt của tượng Phật [và] gọi đó là khai quang. Một đại hội lớn đến thế, ở một trường hợp nghiêm túc đến thế mà c̣n làm những việc ấy; tôi nhận thấy rằng thật đáng buồn thay! Không lạ ǵ, Thích Ca Mâu Ni giảng: Đến thời kỳ mạt Pháp, hoà thượng độ bản thân c̣n rất khó, độ nhân lại càng khó hơn. Thêm vào đó c̣n có nhiều hoà thượng đứng tại góc độ của bản thân ḿnh mà giải thích kinh Phật; cái thứ gọi là ‘Vương Mẫu Nương Nương kinh’ cũng lọt được vào trong chùa; những điều không phải là kinh điển trong Phật giáo cũng lọt vào trong chùa; làm loạn lung tung cả, bây giờ thật loạn. Tất nhiên, vẫn có những hoà thượng tu luyện một cách chân chính, và c̣n rất tốt. Khai quang trên thực tế là thỉnh mời Pháp thân của Giác Giả về ngụ trên tượng Phật; đó là khai quang.

Nếu bức tượng Phật ấy chưa được khai quang th́ không thể [thờ] cúng; nếu [thờ] cúng th́ sẽ mang đến hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng ǵ? Hiện nay những [người] chúng ta làm khoa học về [thân] thể người đă phát hiện rằng, ư niệm của con người chúng ta, tư duy trong đại năo con người có thể sinh ra một loại vật chất. Chúng tôi ở tầng rất cao nh́n thấy nó thật sự là một loại vật chất; tuy nhiên loại vật chất ấy không giống như h́nh thức sóng điện năo mà hiện nay chúng ta nghiên cứu phát hiện ra, mà là một loại h́nh thức đại năo hoàn chỉnh. B́nh thường người thường nghĩ tưởng về một vấn đề ǵ th́ phát xuất ra một thứ có h́nh thái đại năo; bởi v́ nó không có năng lượng, nên [sau khi] phát xuất ra một thời gian ngắn liền tản mất; nhưng năng lượng của người luyện công th́ được bảo tŕ trong một thời gian lâu hơn. [Tôi] không nói rằng bức tượng Phật ấy sản xuất ra khỏi công xưởng liền có tư tưởng; [nó] không có. Nhưng có những chiếc chưa được khai quang, họ mang [chúng] lên chùa rồi cũng không đạt được mục đích khai quang. Nếu như t́m đến khí công sư giả, [hoặc] người theo tà môn oai đạo để khai quang, th́ nó càng nguy hiểm hơn: cáo, chồn sẽ gắn lên đó.

Như vậy nếu tượng Phật kia chưa được khai quang, chư vị lên đó bái [lạy], th́ rất nguy hiểm. Nguy hiểm đến mức độ nào? Tôi đă giảng rằng nhân loại phát triển cho đến hôm nay, hết thảy đều đă bại hoại; hết thảy mọi thứ ở trong toàn bộ xă hội, trong toàn bộ vũ trụ đều theo nhau trở nên bại hoại; hết thảy mọi sự việc ở chốn người thường chúng ta đều là do tự ḿnh tạo thành hết. Muốn cầu chính Pháp, [muốn] theo chính Đạo đều rất khó; can nhiễu đủ mọi phương diện. Muốn cầu Phật, hỏi ai là Phật? Muốn cầu rất khó. [Nếu] không tin [th́ hăy] để tôi giảng: Hễ người thứ nhất đến trước tượng Phật chưa được qua khai quang mà bái [lạy] một cái là hỏng rồi. Hiện nay bái Phật hỏi có mấy người mang trong tâm mong muốn cầu Phật đắc chính quả? Những người như thế quá ít. Mục đích của đại đa số người bái Phật là ǵ? Tiêu tai, giải nạn, phát tài, [họ] cầu những thứ ấy. Đó có phải là những điều trong kinh điển Phật giáo không? Hoàn toàn không phải những thứ ở tầng này.

Chẳng hạn người bái Phật cầu tiền, bái [lạy] trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ Tát Quán Âm, hoặc tượng Phật Như Lai mà nói: ‘Cho con xin phát tài’. Tốt thôi, một ư niệm hoàn chỉnh bèn h́nh thành. [V́] nó hướng đến tượng Phật mà phát xuất ra, nên [nó] lập tức gắn lên tượng Phật. [Thân] thể tại không gian khác, có thể phóng lớn thu nhỏ; [nó] gắn lên thân kia rồi, th́ tượng Phật ấy sẽ có một đại năo, sẽ có tư tưởng; nhưng chưa có thân thể. Những người khác cũng đến bái [lạy], bái tới bái lui, sẽ cấp cho nó một năng lượng nhất định. Đặc biệt nếu người luyện công th́ c̣n nguy hiểm hơn; hễ bái [lạy] th́ dần dần cấp năng lượng cho nó; nó sẽ h́nh thành một thân thể hữu h́nh; tuy nhiên thân thể hữu h́nh ấy h́nh thành tại không gian khác. Sau khi h́nh thành rồi th́ nó ở không gian khác; nó có khả năng biết được một số [Pháp] lư trong vũ trụ; do vậy nó có thể v́ người mà làm một chút việc, như thế nó cũng tăng trưởng một chút công; nhưng giúp đỡ người ta là có điều kiện, có tính công. Tại không gian khác nó hành động tự do như ư, khống chế người ta hết sức tự do như ư. Cái thân thể hữu h́nh ấy so với h́nh tượng của bức tượng Phật th́ giống hệt như đúc; [đây] chính là Bồ Tát Quán Âm giả, Phật Như Lai giả do con người bái [lạy] mà nên, là do con người bái [lạy] mà xuất lai; h́nh dáng [nó] trông giống hệt như tượng Phật, h́nh tượng của Phật. Nhưng tư tưởng của Phật giả, Bồ Tát giả [ấy] cực kỳ xấu, [nó truy] cầu tiền. Nó sinh ra ở không gian khác, nó có tư tưởng, nó hiểu biết được một chút [Pháp] lư, nó không dám làm những điều xấu nghiêm trọng, nhưng nó dám làm những điều xấu nhỏ nhặt. Có những lúc nó giúp đỡ con người, nếu không giúp đỡ con người th́ [nó] đă hoàn toàn là tà, nên cần phải giết nó. Giúp như thế nào? Một người kia nói: ‘[Con] cầu xin Phật giúp đỡ giúp đỡ, con có người nhà đang lâm bệnh’. ‘Tốt, ta giúp ngươi’. Nó liền để chư vị bỏ tiền vào ḥm công đức: tư tưởng của nó cần tiền. Tiền bỏ vào ḥm công đức nhiều bao nhiêu, [nó] liền làm bệnh chư vị mau khỏi bấy nhiêu. Bởi v́ nó có năng lượng, ở không gian khác có thể thao túng người thường. Nhất là khi người có công đến bái [lạy], th́ c̣n nguy hiểm hơn. Người luyện công cầu điều chi? Cầu tiền ư? Mọi người thử nghĩ, người luyện công cầu tiền tài là sao? Cầu mong giúp thân nhân tiêu nạn tiêu bệnh chính là chấp trước đối với t́nh cảm thân quyến. Phải chăng muốn chi phối vận mệnh của người khác; mỗi người đều có vận mệnh của ḿnh chứ! Nếu chư vị bái [lạy] nó, lẩm nhẩm: ‘Con xin được phát tài’. Tốt thôi, nó giúp chư vị; nó muốn chư vị cầu nhiều tiền, càng cầu nhiều tiền chút nào, nó lấy được của chư vị thêm chút ấy; giao hoán b́nh đẳng mà. Người khác bỏ tiền vào ḥm công đức cho nó; nó để chư vị được [tiền]. Được như thế nào? Ra khỏi cửa th́ nhặt được ví tiền, [hoặc được] đơn vị [công tác] thưởng tiền; dù sao th́ nó cũng để chư vị được tiền. [Nhưng] nó không thể giúp chư vị một cách vô điều kiện phải không? Bất thất bất đắc; [nó] lấy một phần công của chư vị; hoặc lấy của chư vị những thứ như đan đă luyện thành, nó cần những thứ ấy.

Những Phật giả ấy có những lúc rất nguy hiểm. Rất nhiều người chúng ta đă khai thiên mục và tưởng rằng tự ḿnh đă nh́n thấy Phật. Có người nói rằng hôm nay ở chùa có một nhóm chư Phật đến, ông Phật kia tên là ǵ đă dẫn một nhóm chư Phật đến. [Lại] nói hôm qua một nhóm như thế như thế đă đến, hôm nay một nhóm như thế như thế đă đến, một lúc rồi rời đi, lại một nhóm nữa đến. Là ǵ vậy? Chính là cái loại này. Chúng không phải là Phật thật, mà chúng là [Phật] giả; loại này rất là nhiều.

Nếu như xuất hiện t́nh huống này ở chùa, th́ thật nguy hiểm hơn nữa. Hoà thượng mà bái [lạy] nó, như thế nó sẽ quản hoà thượng: ‘Ngươi chẳng phải đang bái [lạy] ta? Ngươi rất minh bạch đang bái [lạy] ta! Tốt lắm, chẳng phải ngươi muốn tu luyện? Ta sẽ quản ngươi, ta sẽ để ngươi tu như thế như thế’. Nó an bài cho chư vị, vậy chư vị tu thành th́ sẽ tu đến đâu? Tu là do nó an bài, th́ các pháp môn trên kia đâu có nhận. Nó an bài, th́ chư vị tương lai sẽ quy về nó [cai] quản. Vậy chư vị chẳng phải tu cũng như không hay sao? Tôi nói rằng hiện nay nhân loại muốn tu đắc chính quả thật rất khó. Hiện tượng thế này rất phổ biến; tại danh sơn đại xuyên có người chúng ta thấy Phật quang, phần đông là thuộc loại này; chúng có năng lượng, nên có thể hiển hiện ra được. Đại Giác Giả chân chính không tự dưng hiển hiện như thế.

Trong quá khứ những cái gọi là ‘địa thượng Phật’, ‘địa thượng Đạo’ này tương đối ít; nhưng hiện nay rất nhiều. Khi chúng làm điều xấu, ở trên sẽ muốn giết chúng; định giết th́ chúng liền chạy vào tượng Phật. Các Đại Giác Giả thông thường không tự dưng can thiệp vào [Pháp] lư nơi người thường; Giác Giả càng cao càng không phá hoại [Pháp] lư nơi người thường, không động tới một chút nào. Không lẽ đột nhiên đánh sét làm vỡ tan tượng Phật; họ không làm những việc ấy; do đó nó chạy vào tượng Phật th́ [họ] cũng không quản. Nó biết là muốn giết nó, nó liền chạy. V́ vậy Bồ Tát Quán Âm mà chư vị thấy có phải là Bồ Tát Quán Âm không? Phật mà chư vị thấy có phải là Phật không? Rất khó khẳng định.

Rất nhiều người chúng ta liên tưởng về vấn đề này: ‘Tượng Phật ở nhà ḿnh th́ thế nào nhỉ?’. Có thể có nhiều người đă nghĩ đến tôi. Để trợ giúp học viên tu luyện, tôi dạy chư vị làm thế này: chư vị vừa cầm cuốn sách của tôi (v́ trong sách có ảnh tôi) hoặc ảnh chụp h́nh tôi, tay chư vị bê tượng Phật, làm thủ ấn đại liên hoa, sau đó như là cầu tôi vậy: ‘Cầu Sư phụ khai quang cho’. Sau nửa phút là vấn đề giải quyết xong. [Tôi] nói với mọi người rằng, [việc này] chỉ giới hạn trong những người tu luyện chúng ta; khai quang cho bè bạn thân quyến là không được, chúng tôi chỉ quản người tu luyện thôi. Có người nói rằng đưa [h́nh] tượng Sư phụ đến nhà bạn bè thân quyến để trừ tà; tôi [ở đây] đâu phải để trừ tà cho người thường; ấy là [hành vi] bất kính lớn nhất đối với Sư phụ.

Giảng đến vấn đề địa thượng Phật và địa thượng Đạo. C̣n một t́nh huống nữa, Trung Quốc cổ đại có rất nhiều người tu luyện tại núi sâu rừng già. V́ sao hiện nay không có? Kỳ thực không phải là không có, mà là không để người thường biết; cũng không thiếu đi chút nào; những vị này đều có công năng. Mấy năm nay không phải là những vị này không có mặt, họ đều có cả đấy. Hiện nay trên thế giới c̣n có vài ngh́n; Trung Quốc nước ta tương đối nhiều hơn. Đặc biệt là ở các danh sơn đại xuyên đều có, một số núi cao cũng có. Họ dùng công năng bít [hang] động lại, do đó không thấy được sự tồn tại của họ. Họ tu luyện rất chậm, chiêu [pháp] của họ không lanh lợi, [v́] họ không nắm được trung tâm của tu luyện. C̣n chúng ta trực chỉ nhân tâm, chiểu theo đặc tính tối cao của vũ trụ chúng ta mà tu luyện, chiểu theo h́nh thức ấy của vũ trụ mà tu luyện, nên đương nhiên công tăng trưởng rất mau. V́ các pháp môn tu luyện cũng như h́nh kim tự tháp, chỉ có ở giữa là đại đạo [đường lớn]. C̣n tiểu đạo [đường nhỏ] ở các bên, th́ tâm tính tu luyện không nhất định là cao; có khi tu chưa cao đă khai công rồi; c̣n so với các đại đạo tu luyện chân chính th́ [chúng] khác biệt nhiều lắm.

Họ cũng có đồ đệ truyền thừa; môn của họ tu cao đến đó, tâm tính của họ cũng cao đến đó; do đó đồ đệ của họ cũng tu được cao đến đó [thôi]. Là tiểu đạo thế gian càng ở biên th́ thuyết pháp càng nhiều, phương pháp tu tŕ cũng phức tạp, không có nắm trúng trung tâm mà tu. Người ta tu luyện chủ yếu là tu tâm tính, họ vẫn không hiểu rơ điểm này; họ tưởng rằng nhờ chịu khổ là có thể tu luyện. Do vậy họ trải qua một thời gian rất lâu dài, tu qua hàng mấy trăm năm, trên ngh́n năm, th́ họ mới tăng được một chút công ấy thôi. Thực ra không phải là họ dựa vào chịu khổ mà tu xuất lai; v́ sao tu xuất lai? Giống hệt như con người: vào thời trẻ tâm chấp trước rất nhiều; cho đến lúc già, th́ thuận theo năm tháng trôi qua, tiền đồ vô vọng, th́ những cái tâm kia đă tự nhiên dứt bỏ đi, rơi rụng đi; những loại tiểu đạo ấy cũng dùng phương pháp như vậy. Nên khi họ dựa vào ngồi đả toạ, định lực, chịu khổ, th́ họ phát hiện rằng cũng có thể tăng công. Tuy nhiên họ lại không biết rằng cái tâm chấp trước của người thường kia đă dần dần từ bỏ qua những năm tháng gian khổ; cái tâm kia dần dần rơi rụng đi th́ công tăng lên được.

Chúng ta có phương hướng rơ ràng, thật sự chỉ thẳng vào cái tâm ấy, vứt bỏ cái tâm ấy; như vậy tu được mau lẹ phi thường. Tôi từng đi qua một số địa phương, thường hay gặp những người kia, đă tu rất nhiều năm. Họ nói: ‘Không ai biết được chúng tôi ở đây; công việc của ông chúng tôi không quan tâm, cũng không gây rối loạn’. Đó là thuộc về những người tương đối tốt.

Cũng có [kẻ] không tốt; không tốt th́ chúng ta cũng cần xử lư. Ví dụ, lần đầu tiên tôi đến Quư Châu truyền công, trong lúc ở trên lớp, th́ có một người đến t́m tôi, nói rằng lăo sư gia anh ta muốn gặp tôi, rằng sư gia của anh ta là người như thế như thế, đă tu luyện rất nhiều năm. Tôi nh́n một cái th́ thấy người này mang theo âm khí, rất không tốt, mặt vàng như sáp. Tôi bảo tôi không gặp ông ấy, không có thời gian, từ chối thẳng. Kết quả ông lăo của anh ta không vừa ư, [và] bắt đầu phá quấy tôi, hàng ngày phá rối. Cá nhân tôi không thích đấu với người ta, tôi cũng không thèm đấu với ông lăo ấy. Ông ta quăng đến cái ǵ không tốt th́ tôi thanh lư, thanh lư hết xong, tôi lại truyền Pháp của ḿnh.

Quá khứ vào triều Minh có một người tu Đạo, khi tu Đạo bị mắc phụ thể là rắn; sau đó người tu Đạo tu không thành kia chết đi, và con rắn này đă chiếm hữu thân thể của người tu Đạo ấy, rồi tu xuất được h́nh người. Ông sư gia của anh kia chính là h́nh người mà con rắn kia tu thành. V́ bản tính của ông ta không đổi, [ông ta] lại hoá thành con rắn lớn đến phá rối tôi. Tôi thấy vậy là thái quá, tôi bèn bắt nó trong tay, dùng một loại công mạnh mẽ phi thường, gọi là ‘hoá công’, hoá phần nửa dưới của nó, hoá thành nước; nửa thân trên của nó bỏ chạy về.

Một hôm trạm trưởng trạm phụ đạo Quư Châu của chúng ta được đồ tôn của ông ta t́m đến, nói rằng sư gia muốn gặp bà. Bà trạm trưởng đến, vào đến hang động th́ thấy tối đen không trông thấy ǵ cả; chỉ thấy một h́nh ảnh ngồi ở đó, mắt phóng ra ánh sáng xanh lục; hễ [ông ta] mở mắt th́ động sáng, c̣n nhắm mắt th́ trong động lại tối đen. Ông ta nói bằng thổ ngữ địa phương: ‘Lư Hồng Chí lại đến, lần này chúng tôi không có ai làm chuyện kia nữa; tôi đă nhầm. Lư Hồng Chí đến để độ nhân’. Đồ tôn hỏi ông ta: ‘Thưa sư gia, thầy đứng dậy đi, chân của thầy bị sao thế?’ Ông ta nói: ‘Tôi không dứng dậy được nữa, chân của tôi bị thương rồi’. Hỏi ông ấy bị thương ra sao, ông ta bèn bắt đầu kể về quá tŕnh phá rối của ḿnh. Đến Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1993 tại Bắc Kinh ông ta lại phá rối tôi. V́ ông ta cứ làm điều xấu, ông ta phá hoại việc tôi truyền Đại Pháp, nên tôi đă triệt để tiêu huỷ ông ấy. Sau khi tiêu huỷ, những sư tỷ, sư muội, sư huynh, sư đệ của ông ta đều muốn hành động. Lúc đó tôi nói với họ mấy câu; họ đều cảm thấy kinh hoàng, khiếp sợ lắm, không ai dám hành động ǵ nữa, và cũng hiểu ra chuyện này. Trong số họ một số [người] vẫn hoàn toàn là người thường, [mặc] dù đă tu một thời gian rất dài. Đây là vài thí dụ được nêu ra khi giảng về vấn đề khai quang.

Khoa chúc do
Khoa ‘chúc do’ là ǵ? Trong giới tu luyện, tại quá tŕnh truyền công có nhiều người cũng coi nó là điều được truyền trong phạm trù tu luyện; kỳ thực nó không phải là điều thuộc phạm trù tu luyện. Nó là loại truyền thừa kiểu như quyết khiếu, chú quyết, kỹ thuật. H́nh thức mà nó sử dụng kiểu như vẽ bùa, đốt hương, đốt giấy, niệm chú, v.v.; nó có thể trị bệnh, phương pháp trị bệnh hết sức độc đáo đặc biệt. Lấy ví dụ thế này, ví như một người mọc mụn nhọt trên mặt, họ bèn dùng bút lông chấm [son] chu sa vẽ trên mặt đất h́nh tṛn, trong ṿng tṛn vạch một h́nh chữ thập; [họ] bảo người kia đứng vào trung tâm của ṿng tṛn, rồi họ bắt đầu niệm chú quyết. Sau đó lấy bút son vạch h́nh tṛn lên mặt người kia, vừa vẽ vừa niệm chú, vẽ tới vẽ lui, đến khi chấm một điểm lên chỗ mụn nhọt, niệm chú đến đó cũng vừa xong, bảo rằng đă khỏi rồi. Chư vị thử sờ vào [chỗ mụn nhọt], th́ thấy đă nhỏ lại, không đau nữa, nó đă khởi tác dụng. Những bệnh nhẹ th́ họ có thể trị được, c̣n bệnh nặng th́ không được. C̣n nếu như đau cánh tay th́ làm sao? Miệng bắt đầu niệm chú, họ bèn bảo chư vị duỗi tay ra, lấy miệng thổi vào huyệt hợp cốc tại tay này, và làm cho nó xuất ra ở huyệt hợp cốc của tay kia; cảm thấy như một luồng gió; sờ lại, th́ nó không c̣n đau như thế nữa. [Họ] c̣n dùng đến những việc đốt giấy, vẽ bùa, dán bùa, v.v.; họ làm những việc ấy.

Trong các tiểu đạo thế gian của Đạo gia, [người ta] không giảng tu mệnh, hoàn toàn là toán quái, xem phong thuỷ, đuổi tà, trị bệnh. Những tiểu đạo thế gian thường dùng đến những thứ này. Nó có thể trị bệnh, nhưng các phương pháp nó dùng đến là không tốt. Chúng tôi không giảng là nó dùng cách ǵ trị bệnh; nhưng những người tu Đại Pháp chúng ta không được dùng chúng, bởi v́ chúng mang theo những tín tức rất thấp và rất không tốt. Các phương pháp trị bệnh ở Trung Quốc cổ đại được phân thành những khoa mục; ví dụ: tiếp cốt, châm cứu, án ma, thôi nă, điểm huyệt, khí công trị bệnh, thảo dược trị bệnh, v.v. phân thành khá nhiều loại. Mỗi loại phương pháp trị bệnh gọi là một ‘khoa’; khoa chúc do này được liệt vào khoa thứ 13, do đó tên đầy đủ của nó là ‘khoa 13 chúc do’. Khoa chúc do không thuộc về những điều trong phạm trù tu luyện, nó không phải là công đắc nhờ tu luyện, mà là một thứ thuật loại.



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 23: Đă gửi: 29 March 2006 lúc 11:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Ngôn ngữ vũ trụ

‘Ngôn ngữ vũ trụ’ là ǵ? Đó là một người đột nhiên có thể nói một loại lời nói kỳ điệu bí ẩn, líu lo ríu rít, líu lo ríu rít; [họ] nói những ǵ, chính họ cũng chẳng biết. Người có công năng tha tâm thông có thể hiểu được ngụ ư đại khái, nhưng không thể hiểu được người kia nói cụ thể những ǵ. Ngoài ra có người có thể nói được nhiều loại ngôn ngữ khác nhau. Có người c̣n cho rằng [điều này] thật xuất sắc, nh́n nhận đó là bản sự, là công năng. [Thật ra] nó không phải là công năng, cũng không phải là bản sự của người tu luyện, nó không đại biểu cho tầng của chư vị. Vậy nó là ǵ? Chính là do tư tưởng của chư vị bị một loại linh thể ngoại lai khống chế; chư vị lại c̣n cho rằng tốt lắm, chư vị thấy hoan hỷ, chư vị thấy cao hứng; chư vị càng cao hứng th́ nó khống chế chư vị càng chắc chắn hơn. Đă là một người tu luyện chân chính, chư vị chịu để nó khống chế là sao? Hơn nữa nó đến từ tầng vô cùng thấp; do vậy, chúng ta là những người tu luyện chân chính, nên [chúng ta] không thể chiêu mời những phiền phức đó được.

Con người là trân quư nhất, là anh linh của vạn vật; chư vị chịu để những thứ ấy khống chế là sao? Ngay cái thân thể của ḿnh chư vị cũng chẳng thiết, thật đáng buồn thay! Những thứ ấy có thứ gắn lên thân người, có thứ không gắn lên thân người mà cách thân người một đoạn; nhưng chúng thao túng chư vị, khống chế chư vị. Chư vị muốn nói chúng liền cho chư vị nói, nói cứ líu lo ríu rít cả lên. C̣n có thể truyền nữa; người khác muốn học, dám lớn mật mà mở miệng ra, th́ liền nói được. Kỳ thực những [linh thể ấy] chúng đi thành từng nhóm từng bầy; chư vị muốn nói là chúng liền đến để chư vị nói.

V́ sao xuất hiện t́nh huống này? Cũng như tôi đă từng nói, chúng cũng muốn đề cao tầng của ḿnh; nhưng ở chỗ [chúng ở] không có khổ mà chịu, nên không thể tu luyện, không thể đề cao [tầng]. Chúng bèn nghĩ ra một cách: giúp con người làm việc tốt; nhưng chúng không biết rơ thực hiện ra sao; nhưng chúng biết rằng năng lượng chúng phát ra có thể có đôi chút tác dụng ước chế đối với người mang bệnh, có thể tạm thời giải trừ sự đau đớn cho bệnh nhân, nhưng không thể trị được bệnh; do vậy chúng biết cách khởi tác dụng bằng cách dùng miệng của người ta mà phát ra; chuyện là như vậy. Có người gọi đó là lời của trời; cũng có người gọi đó là lời của Phật, [nói thế] là phỉ báng Phật. Tôi nói rằng [ăn nói như thế] thật là hàm hồ!

Mọi người đều biết rằng Phật không dễ mở miệng. Nếu tại không gian này của chúng ta mà mở miệng nói, có thể ông [Phật] sẽ gây động đất cho nhân loại; điều ấy đâu có được! Chấn động ầm ầm như thế. Có người nói: ‘Thiên mục tôi thấy ông [Phật] nói chuyện với tôi’. Không phải ông ấy nói với chư vị. Có người nh́n thấy Pháp thân của tôi cũng làm việc ấy; [thực ra] không phải là [Pháp thân] nói với chư vị; ư niệm mà Pháp thân xuất ra có mang theo âm thanh lập thể, chư vị nghe thấy giống như nghe được Pháp thân nói vậy. Thông thường Pháp thân có thể nói tại không gian ḿnh đang ở; nhưng sau khi truyền dẫn qua đây th́ chư vị nghe không rơ Pháp thân nói ǵ. Bởi v́ khái niệm thời-không của hai không gian là khác nhau; một thời thần của không gian chúng ta, tức là hai giờ đồng hồ hiện nay. Nhưng tại các đại không gian kia, th́ một thời thần của chúng ta là bằng một năm; vậy so với thời gian của Pháp thân th́ chậm hơn.

Quá khứ có câu “một ngày phương trời, ngh́n năm mặt đất”; ấy là nói về các thế giới đơn nguyên không có khái niệm không gian và thời gian; chính là những thế giới mà các Đại Giác Giả cư ngụ; ví như thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly, thế giới Pháp Luân, thế giới Liên Hoa, v.v; chính là những nơi ấy. C̣n thời gian tại các đại không gian kia lại nhanh hơn [chúng ta]; nếu chư vị có thể tiếp thu được [âm thanh], th́ nghe được họ nói chuyện; có người [có được] thiên nhĩ thông, tai của họ đă khai mở; nhưng lúc có thể nghe họ nói chuyện, th́ chư vị cũng không nghe rơ. Chư vị nghe ǵ cũng như thế: như tiếng chim hót hoặc tiếng máy hát quay nhanh; nghe không được nội dung. Tất nhiên có người có thể nghe được âm nhạc, có thể nghe được [người ta] nói chuyện. Nhưng nó cần phải thông qua một loại công năng đóng vai tải thể, để tiêu trừ sự sai biệt về thời gian, truyền cho đến tai chư vị, [có vậy] chư vị mới có thể nghe rơ ràng; chính là t́nh huống như vậy. Có người nói rằng đó là ngôn ngữ của Phật, [thực ra] nó hoàn toàn không phải.

Một khi các Giác Giả gặp mặt, hai người chỉ [cần] mỉm cười, liền hiểu nhau ngay. Bởi v́ đây là truyền cảm tư duy không dùng âm thanh; điều tiếp nhận được có mang theo âm thanh lập thể. Khi họ mỉm cười, th́ ư kiến đă trao đổi xong rồi. Cũng không chỉ dùng h́nh thức [trao đổi] ấy, cũng có lúc [họ] dùng một phương pháp khác. Mọi người đă biết, trong Mật tông, các lạt-ma Tây Tạng chú trọng những phép thủ ấn; tuy nhiên chư vị có hỏi các lạt-ma về những thủ ấn ấy là ǵ? Họ nói với chư vị rằng đó là yoga vô thượng. Cụ thể là ǵ? Họ cũng không biết. Kỳ thực đó là ngôn ngữ của các Đại Giác Giả. Khi có nhiều người, [Đại Giác Giả] làm những đại thủ ấn, trông hết sức đẹp mắt, các loại đại thủ ấn; khi có ít người, họ làm những tiểu thủ ấn, trông cũng rất đẹp mắt; các loại tư thế tiểu thủ ấn vô cùng phức tạp, vô cùng phong phú, bởi v́ chúng là ngôn ngữ. Trước đây những điều này đều là thiên cơ, [nay] chúng tôi đă giảng ra. Những ǵ dùng ở Tây Tạng là một vài động tác đơn thuần dành cho luyện công; họ đă quy nạp chúng, hệ thống hoá [chúng]. Chúng chỉ là một loại ngôn ngữ đơn thuần dùng cho luyện công, hơn nữa chỉ là một vài h́nh thức để luyện công; [c̣n] thủ ấn chân chính th́ rất phức tạp.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 4 of 23: Đă gửi: 29 March 2006 lúc 11:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Xin được hỏi các bạn đoán ra tác giả của bài viết trên chưa ah!
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 5 of 23: Đă gửi: 30 March 2006 lúc 1:45am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Tôi xin được tiếp tục post tiếp về đề tài khai quang

Thần pháp sư Dương Trùng Dương
NGUYỄN VĂN ghi

Thần pháp sư Dương Trùng
Dương đang biểu diễn tạo
tiếng chuông và đọc chú...
tại văn pḥng chính của ông

LTS: Nhân chuyện điêu khắc gia Ưu Đàm nghỉ hè về thăm gia đ́nh, hứng chí muốn đúc tượng cho mọi người, thầy Vũ Công Lư có ư kiến về việc điểm nhăn với những vật vô tri vô giác. Chuyện này được thiên hạ khoái biết thêm, nhờ phóng viên Việt Weekly t́m thầy Dương Trùng Dương hỏi thêm, may ra, với kinh nghiệm mấy chục năm trong nghề, thầy Dương nói cho nghe về “khai quang điểm nhăn”.

VW: Thưa ông, thế nào là “điểm nhăn khai quang”?
DTD: Tôi cần dùng một vài ví dụ khoa học để minh hoạ cho ư niệm “khai quang điểm nhăn” về tâm linh. Ví dụ như cái điện thoại, b́nh thường, nó chỉ là một vật vô tri, vô giác, nếu ta không activate nó, cho điện vào, th́ nó không thể dùng được. Cái máy computer cũng vậy, không có điện vào, th́ không làm ǵ được. Nói nôm na, nó không được “khai quan điểm nhăn”. Cái điện thoại hay là máy computer khi nào được “gọi” một số nào đó, cách nào đó, nó sẽ trở nên hữu dụng. Người Á Đông chúng ta rất tin tưởng vào vấn đề tâm linh, một bức tượng, một vật thể, nếu gọi đúng tên, đúng lúc, th́ sự linh thiêng sẽ ứng nghiệm. Tôi nói là sự cầu khẩn đó ứng nghiệm không phải là ngẫu nhiên, mà các vật thể đó đă được các vị thầy làm cho trở nên linh vật, huyền bí. Như một hoạ sĩ, sự xuất thần vẽ ra một bức tranh đẹp trong hàng ngàn bức tranh? Về h́nh tượng, họ đă nhập tâm, nhập thần vào trong đó. Tôi có nghe nói bức tượng “Thương tiếc” của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cũng là một bức tượng thiêng, một phần cũng là do ông ấy đă tập trung vào việc tạc tượng. C̣n đối với một số người có niềm tin vào các bức tượng như Phật, tượng Thần tài v.v. mua về, để trong nhà, để trong tiệm để thờ, mong may mắn. Có thể những bức tượng này sẽ linh thiêng, nhưng chuyện đó rất hy hữu. V́ sao, những tượng đó chưa được “khai quang điểm nhăn”.
VW: Như vậy, việc khai mở, làm cho một vật từ vô tri trở nên linh thiêng, phải có thầy chỉ dẫn?
DTD: Đúng như vậy. Phải có những vị thầy biết được bộ môn khai quang điểm nhăn, tức là phải biết được mật mă, để khai mở. Một ví dụ như muốn khai mở tượng ông Thần tài. Một vị thầy phải biết đọc một số câu thần chú thế nào. (nói tới đây, ông Dương Trùng Dương mang ra một cuốn sách cũ kỹ, vẽ h́nh ngoằn ngoèo) Ví dụ như “thần phụng thỉnh tiên sư khai quang điểm nhăn.” Rồi muốn mở mắt cho tượng, phải đọc tiếp: “Thần phụng thỉnh tiên sư, khai nhăn lưỡng nhăn quang minh…” muốn mở hai lỗ tai, phải đọc “Thần phụng thỉnh tiên sư, khai lưỡng nhĩ…” và những câu khác, cộng thêm những nghi thức khai quang điểm nhăn khác nữa mà xin phép tôi không được nói rơ ra trên báo chí.
VW: Ở đây, ông có giúp thân chủ “khai quang điểm nhăn” không?
DTD: Có. Tôi vẫn thường giúp cho các thân chủ muốn tượng, ảnh, tượng Phật, tượng thần tài, thổ địa, các vật thờ bổn mạng của ḿnh v.v. tôi có khả năng khai quang điểm nhăn. Nếu không có khả năng khai quang, th́ một bức tượng chỉ là một khối đồng, một khối đất thôi.
VW: Xin ông cho biết nghi thức, điều kiện nào để thực hiện một cuộc “khai quang điểm nhăn”?
DTD: Dĩ nhiên là tùy thuộc vào khả năng của mỗi vị thầy, sở học của họ. Mỗi vị sẽ có cách thức để làm khác nhau. C̣n về điều kiện nào để có được sự linh thiêng từ một vật, th́ cũng phải có một vài điều kiện bắt buộc. Ví dụ như muốn “khai quang điểm nhăn” cho cái chuông, th́ cái chuông đó phải có những điều kiện bao nhiêu phần trăm về thành phần tạo thành, về đồng, về thau, về thép v.v. Cái chuông đó sẽ khai mở để làm ǵ. Mỗi cái chuông sau khi khai mở, sẽ có khả năng khai mở bao nhiêu ṿng luân xa, mỗi tiếng chuông khi gơ, hay kéo lên, sẽ giúp ǵ cho con người. (nói tới đây, thần pháp sư Dương mang ra một cái chuông nhỏ, ông kéo cái chuông từ những âm vực nhỏ, từ từ tới lớn lên, nghe càng lúc càng lớn, tiếng nghe rung khác thường)…Khi bạn nghe tiếng chuông này, bạn chú ư vào tiếng của nó, sẽ thấy thảnh thơi, an b́nh. Thông thường, nh́n vào cái chuông, ai cũng nghĩ là vật để đảnh, để gơ lên tiếng. Nhưng thực ra, cái chuông này sẽ khác với các cái chuông khác v́ đă được tôi “khai quang điểm nhăn” rồi. Sự khác biệt giữa vật vô tri và vật linh thiêng là nhờ các thầy pháp sư đọc thần chú, cộng thêm những nguyên tắc khác về tâm linh. Đi sâu vào vấn đề rất phức tạp.
VW: Nói về vấn đề “Khai nhăn”, nhăn có phải là mắt không? Và như thế nào là khai mở mắt mà không phải là những giác quan khác?
DTD: Trong con người, cần phải hiểu rơ sự linh thiêng của mỗi bộ phận trong cơ thể. Người ta vẫn nói “Con mắt là cửa sổ tâm hồn”, nếu nói về các vị thầy giỏi, không cần dùng ống nghe, chỉ nh́n vào đôi mắt, là biết một người khoẻ hay bệnh. Đôi mắt có thể đọc thấy rằng người đó sắp bệnh, đă bệnh, bị bệnh đă lâu…Bệnh ǵ v.v. Nh́n vào đôi mắt, có thể biết người đó vui hay buồn, hận thù, đau khổ hay hạnh phúc. Một người tinh anh th́ đôi mắt ra sao, kẻ ngu si đôi mắt thế nào. Khai nhăn, là mở mắt cho một vật nào đó từ vô tri trở nên linh thiêng. Một vị thầy pháp giỏi, phải biết thêm về khoa nhăn và khoa cơ thể học…để nh́n vào mắt và biết hầu như nhiều vấn đề trong cơ thể của con người. Con mắt được dùng làm biểu tượng trong tôn giáo, trên đồng đô-la v.v. Con mắt quan trọng.
VW: Một vật nếu bị kẻ gian ác “khai quang điểm nhăn” sẽ trở nên xấu, có hại cho mọi người, có đúng không?
DTD: Đúng. Ông Vũ Công Lư đă nói đúng. Nếu một người thầy cố t́nh hại người khác, th́ gọi là “ếm” vào vật thể đó, làm cho nó trở nên vật ác. Mọi vật trên đời đều có âm và dương, xấu và tốt, đen và trắng v.v. Từ luật bù trừ này, th́ vị thầy có thể bỏ vật âm vào nhiều hơn vật dương, xấu nhiều hơn tốt, gọi là “ếm”. Thay v́ làm cho tượng đó thành tốt, th́ lại làm cho nó trở nên xấu.
VW: Nhân nói về bức tượng “Thương tiếc”, nghe dư luận đồn rằng bức tượng đă được “khai quang điểm nhăn” và có thể di chuyển được, ông nghĩ sao?
DTD: Ai trong chúng ta cũng đă nghe nhiều về sự linh thiêng của bức tượng này, những người thấy và kể lại mỗi người một câu chuyện khác nhau. Sự thực th́ nói th́ nói, nhưng cũng cần phải chứng minh. Tượng “thương tiếc” tôi có biết tác giả, ông Nguyễn Thanh Thu là người có tài, đă xuất thần, tinh hoa qua bức tượng. V́ bức tượng này được đặt ở ngay tại nghĩa trang, nơi nhiều âm khí, nên có thể lâu ngày, bức tượng đó đă được nhập vào nhiều linh khí. Do đó, tôi nghĩ là bức tượng này là một linh vật là lẽ đương nhiên. Có nhiều người đă đến nghĩa trang sớm, do sương phủ, nên không thấy bức tượng, hoặc bị một ảo giác làm cho không thấy, nên họ nghĩ là bức tượng biết đi chăng?
VW: Tại đây, chúng ta có Tượng Đài Việt Mỹ, ông nghĩ nó có thể trở nên là linh vật hay không?
DTD: Nh́n vào bức tượng Đài Việt Mỹ, không biết có ǵ là linh thiêng hay không, hay chỉ là một tượng đài kỷ niệm không hơn không kém. Tôi không thấy có cái hồn trong bức tượng này. Bức tượng này không có sự thu hút, làm cho những người xung quanh phải trầm trồ lên v́ sự tâm linh của họ vào. Ví dụ một người đàn lên, nhưng không ai nghe, v́ người nhạc sĩ không đàn giỏi, đàn có hồn. Th́ bức tượng đài Việt Mỹ cũng không có hồn, có lẽ người nghệ sĩ làm bức tượng chỉ chú tâm đến giá tiền, nên không chú ư đến mặt tâm linh của bức tượng. Do đó, một bức tượng linh thiêng cần có những tố chất rất quan trọng, khác hẳn những quan niệm thông thường của đại chúng. Có nhiều bức tượng nhỏ nhỏ, nhưng rất linh thiêng v́ người nghệ sĩ đă để toàn bộ tinh thần vào trong đó.
LTS: Thần pháp sư Dương Trùng Dương, người hiện đang được dư luận chú ư v́ từ phía Việt Nam cho biết đă gởi về địa chỉ của ông ở Mỹ nhiều thủ cấp người, để dùng trong vấn đề luyện bùa ngải. Tại Little Saigon, chúng tôi đă có dịp tiếp xúc và hỏi ông Dương về vụ việc, ông đă xác nhận chuyện có order, nhưng “có cũng được, không có cũng ok.”. Ông Dương Trùng Dương hành nghề thầy pháp được nhiều năm, và theo ông cho biết, ông học theo phái Bùa lỗ bang. Ở số báo trước, ông Dương đă nói về việc “Khai quang điểm nhăn”, dưới đây là phần cuối của câu chuyện.

VW: Thưa ông Dương, tại sao các vật vô tri như đá, đất sét lại trở nên linh thiêng được?
DTD: Như tôi đă tŕnh bày ở số trước, không phải vật nào cũng linh thiêng, mà tùy theo cơ duyên của mỗi vật, tùy theo việc vật đó có được các vị thầy làm bùa, phép, đọc thần chú để khai quang điểm nhăn lên nó hay không v.v. Mặt khác, một số địa linh cũng góp phần làm cho vật đó thêm linh thiêng. Ở Việt Nam, người dân vẫn tới các nơi chùa chiền nổi tiếng linh thiêng như Lăng Ông Bà Chiểu, nơi thờ đức Tả Quân Lê Văn Duyệt rất linh thiêng. Niềm tin là một năng lượng vô cùng đặc biệt. Một sức mạnh vô song. Nếu tất cả mọi người đều dồn niềm tin vào một vật nào đó, th́ càng ngày, mỗi người đều mang một chút tâm linh của họ, để vào đó, cho vào đó…Cầu nguyện ngày càng nhiều. Th́ cũng giống như cục nam châm, ngày càng phát ra…Sức nhỏ được nhỏ, sức lớn được lớn…Niềm tin dồn vào thành ḍng điện và biến vật vô tri thành có linh tánh. Con người sống nhờ vào niềm tin, và con người cũng là một máy phát điện vô cùng kỳ diệu. V́ vậy, anh hỏi tại sao vật vô tri lại có thể linh thiêng, tôi nói là v́ con người tin vào vật đó, truyền niềm tin vào vật đó, nên nó trở nên linh thiêng. Điều có thể thấy ngay, là có những bức tượng, bức tranh, bức ảnh, nh́n vào là có hồn ngay, v́ tác giả đă truyền cái hồn nó vào một phần, phần khác do tự vật thể đó có cơ duyên nào đó, nên trở thành linh thiêng. Nhưng vật linh thiêng hiếm lắm, c̣n vật vô duyên th́ nhiều. Qúi mới hiếm, những vật tầm thường th́ ở đâu cũng có.
VW: Trong khả năng của ông, xin cho biết ông có thể làm cho một vật vô tri trở nên linh thiêng hay không?
DTD: Tôi đă từng làm bùa, giúp cho những bức tượng khai mở, khiến cho thân chủ cảm thấy những bức tượng như thần tài, vật đeo đem lại may mắn cho họ. Từ vật b́nh thường, được khai mở th́ trở nên tốt quá. Thành ra, không tin cũng phải tin, v́ tâm linh liên hệ tới sự sống của con người, đúng theo khoa học thông thường lẫn huyền bí được liên hệ chặt chẽ với nhau, mà tôi là người đă nghiên cứu từ nhiều năm qua.
VW: Nói tới giờ phút này, th́ hai khuynh hướng khoa học thực nghiệm và huyền bí vẫn chia thành hai ngả, có nhiều người thắc mắc, cho rằng nếu có thể khai mở, hay “ếm” bùa lên một bức tượng, th́ tại sao không đem tượng mấy nhà độc tài ra ếm, ra khai mở cho rồi, việc ǵ phải tốn bao nhiêu công sức, chiến tranh để dẹp đi, ông nghĩ sao về nhận định chung này?
DTD: Hầu hết các vị vua chúa độc tài hay minh vương, đều có tượng đúc rất nhiều.Tuy nhiên, tượng đó có đứng vững với ḷng ngưỡng mộ của mọi người hay bị người ta đạp đổ…Nh́n vào lịch sử, chúng ta thấy chỉ rất ít những h́nh tượng c̣n lại, không bị thời gian làm mất đi. Ví dụ như h́nh tượng đức Chúa, đức Phật…Của những người thánh thiện th́ được lưu truyền, từ hồi tạo thiên lập địa. Ngược lại, có những tượng, h́nh bắt người ta phải thờ, phải chiêm ngưỡng, nhưng tới ngày tới giờ, tất cả những tư tưởng trong đầu người ta, trong xă hội đó không chấp nhận sẽ tiêu diệt các thần tượng đó, ví dụ như Lê-nin, Hít-le, Saddam Hussein v.v. đă bị hủy bỏ. V́ sao? Theo tôi, không phải các thần, tượng xấu này không bị ếm toán, bị bỏ bùa đâu. Mà họ cũng đang bị âm thầm bỏ bùa, ếm toán, và nhất là ḷng người, niềm tin bị suy xụp. Như tôi nói ở trên, niềm tin của con người rất mạnh, nó có thể phá hủy nhiều thứ, chứ đâu phải chỉ là h́nh, tượng. Khi con người bất phục, th́ không có ǵ ngăn cản được họ. Nhất là sự bất phục này xuất phát từ oan nghiệt, th́ sự hủy diệt sẽ không tránh khỏi. V́ thế nói rằng, tại sao Osama Bin Laden, Saddam Hussein không bị trừng trị ngay? Câu hỏi này đang được thời gian trả lời. Hiện nay, các nhà độc tài này đang bị hủy diệt, phải đào tẩu, phải trốn chui trốn nhủi. Mặc dù cả thế giới lên án, mọi cường quốc đều tập trung năng lực, khả năng quân sự để t́m cách tiêu diệt các chế độ độc tài mà vẫn chưa được…Chưa được nhưng sẽ được. Vấn đề là thời gian. Một yếu tố vô cùng quan trọng mà người thường không nh́n thấy, là thời gian sẽ là thước đo chính xác nhất của mọi sự việc. Tại sao có tiệm ăn này thành công, mà tiệm khác lại không? Tại sao có người làm báo giỏi mà kẻ khác ra báo là śu śu ển ển, rồi sập tiệm, đóng cửa? Có phải là do thiếu khả năng, thiếu chuyên nghiệp không? Có phải là do thiếu lănh đạo, thiếu lập trường không? Không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, theo tôi, sở dĩ các vị độc tài, các thế lực đi ngược lại sự tự nhiên, trào lưu chung, chưa bị triệt tiêu, c̣n có yếu tố phúc đức. Yếu tố này vô cùng quan trọng. Tại sao Saddam Hussein ba đời mới bị tiêu diệt bởi đời ông Bush “con”? Họ t́m mọi cách để triệt hạ các vị độc tài, nhưng không làm được, v́ các vị vua, chúa đều có cung phúc đức, có sao Đế Vương và nhiều điều bí nhiệm khác mà người thường không có được. Tục ngữ có câu: “Con vua th́ lại làm vua, con săi ở chùa th́ quét lá đa” nói lên phần nào cái mệnh của gịng giống, về sự nối kết giữa số và mạng, giữa các vấn đề phúc đức của mỗi người. Nh́n lại trường hợp của Saddam Hussein, v́ đă làm bao nhiêu điều ác đức, bao nhiêu việc trái với nhân quần, nên đă bị nguyền rủa, ếm toán, bị trù ẻo v.v. cuối cùng, đă phải đền tội cả 3 đời: Từ ông ta, con cái, cháu chắt. Nói tóm lại, câu trả lời của tôi, là ông Saddam Hussein đă bị những vị thầy khắc chế, để đúng ngày đúng giờ phải trả giá. Những trường hợp lớn th́ như thế, nhưng c̣n chuyện nhỏ ngoài đời như thành bại, thiệt hơn đều có yếu tố tâm linh và có những hệ quả từ việc làm phúc đức từ những kiếp trước, mà chúng ta hay nói là “phúc đức ông bà để lại”, đúng là như vậy.
VW: Thưa ông Dương Trùng Dương, là một thầy pháp sư có nhiều kinh nghiệm, trong quá khứ, ông có làm những việc ǵ…ác cho người khác hay không?
DTD: Mỗi vị thầy đều có những lời nguyền rất độc với vị tổ sư của ḿnh. Nếu v́ ham lợi nhỏ, về tiền tài, danh vọng hay bất kỳ một chuyện ǵ khác, đi ngược lại với lời thề, hoặc với những quan điểm luân thường đạo lư đều phải trả giá. Trong nghề của tôi, đại ư có một lời thề là “lợi 1 ngày, trả giá 3 năm”, cho thấy sự trả giá rất nặng, rất ghê gớm. Tất nhiên, con người ai cũng có tự do để làm những ǵ ḿnh muốn. Có những hậu quả ghê gớm, người ta biết rất rơ nhưng vẫn làm. Riêng tôi, chưa có làm điều ǵ trái với đạo lư. Các thân chủ của tôi đều hài ḷng. Một số người hơi sốt ruột khi muốn cho việc họ cần phải xong ngay, nhưng tôi nói, chữa bệnh cũng cần phải có thời gian, v́ nếu đă bị bệnh, bị bùa ma nặng mới nhờ tới thầy, mà đ̣i khỏi ngay th́…kẹt nhau quá. Quan trọng là niềm tin. Nếu tin th́ sẽ qua khỏi. Phải không?ª



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 9:19am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Quán đỉnh




Trong giới tu luyện có một t́nh huống, gọi là ‘quán đỉnh’. Quán đỉnh là một h́nh thức [nghi thức] tôn giáo trong phương pháp Mật tông của Phật gia. Mục đích là cá nhân đă trải qua quán đỉnh rồi th́ không thể tái [gia] nhập môn khác, [họ đă được] thừa nhận là đệ tử chân chính của môn này. Hiện nay việc này kỳ lạ như thế nào? Luyện công cũng xuất hiện h́nh thức tôn giáo này, các công pháp Đạo gia cũng làm quán đỉnh, chứ không [c̣n] chỉ có Mật tông. Tôi đă giảng: hễ lấy cờ hiệu Mật tông mà giảng công pháp Mật tông ngoài xă hội thảy đều là giả. Tại sao nói như vậy? Bởi v́ Đường Mật ở nước ta đă tiêu mất trên một ngh́n năm rồi, hoàn toàn không tồn tại; v́ chịu hạn chế ngôn ngữ nên Tạng Mật vẫn luôn không truyền vào vùng đất người Hán chúng ta một cách hoàn chỉnh. Đặc biệt [v́] đây là Mật giáo, nên cần phải tu luyện bí mật trong chùa, hơn nữa phải trải qua sự trao truyền bí mật từ sư phụ, sư phụ mang [học viên] đi tu bí mật. Không thực hiện được điểm này, th́ tuyệt đối không thể truyền ra được.

Có nhiều người ôm giữ mục đích như thế này lên Tây Tạng học công: theo mọi người bái sư học Tạng Mật, tương lai làm khí công sư, nổi danh, phát tài. Mọi người thử nghĩ xem, các Phật sống lạt-ma thật sự được chân truyền đều có công năng rất mạnh, đều có thể thấy trong tâm người đến học công suy nghĩ những ǵ. Vị kia đến để làm ǵ, nh́n một cái liền hiểu rơ cái tâm ấy ngay: ‘Muốn lên đây học những điều này, [sau] ra làm khí công sư phát tài nổi danh; đến để phá hoại phương pháp tu Phật này’. Pháp môn tu Phật nghiêm túc nhường ấy liệu có thể để chư vị v́ cầu danh lợi [muốn] làm khí công sư này nọ mà tuỳ tiện phá hoại không? Chư vị có động cơ ǵ? Do đó hoàn toàn không thể truyền cho vị kia được; [họ] sẽ không được chân truyền. Tất nhiên, có khá nhiều chùa, [họ] có thể đắc được một số thứ da và lông. Nếu như tâm không chính, khi muốn làm khí công sư mà phạm việc xấu, như thế sẽ chiêu mời phụ thể. Con động vật phụ thể cũng có công, nhưng [đó] không phải là Tạng Mật. Người thật sự lên Tây Tạng cầu Pháp, có thể lên đó rồi sẽ ở lại luôn mà không trở ra nữa; ấy là những người chân tu.

Rất lạ là hiện nay có nhiều công pháp Đạo gia cũng giảng quán đỉnh. Đạo gia là dẫn theo mạch, hỏi làm quán đỉnh ǵ đây? Theo tôi biết, [khi] tôi truyền công tại phía nam, đặc biệt ở vùng Quảng Đông có khá nhiều, có khoảng trên mười công pháp làm loạn lung tung đang giảng quán đỉnh. Ư nghĩa là ǵ? Họ quán đỉnh cho chư vị rồi, chư vị sẽ là đệ tử của họ, không thể học công khác được nữa; nếu học công khác họ sẽ trừng phạt chư vị; họ làm những điều như thế. Đó chẳng phải tà môn oai đạo là ǵ? Điều họ truyền là chữa bệnh khoẻ người, quần chúng học rồi cũng chỉ là muốn được thân thể khoẻ mạnh. [Họ] làm vậy để làm ǵ? Có người nói, rằng luyện công của ông ta sẽ không được luyện công khác nữa. Ông ấy có khả năng [cứu] độ người ta đến viên măn không? Đúng là đưa đệ tử đi sai đường rồi! Có nhiều người làm như vậy.

Đạo gia không giảng điều này, vậy mà đă xuất hiện những ǵ là quán đỉnh. Tôi phát hiện ông khí công sư làm quán đỉnh lợi hại nhất, công trụ ông ấy cao ngần nào? Chỉ cao như toà nhà hai hoặc ba tầng là hết; tôi thấy rằng là một đại khí công sư nổi danh lẫy lừng như thế, công [của ông] đă rớt xuống thật đáng thương. Hàng trăm người xếp thành hàng, [để] ông ấy quán đỉnh cho người ta. Công của ông hữu hạn, chỉ cao ngần ấy; công này sẽ sớm hạ xuống, không c̣n nữa, hỏi lấy ǵ để quán [đỉnh] cho người ta, chẳng phải lừa người là ǵ? Quán đỉnh chân chính, nh́n tại không gian khác, th́ xương cốt của người ta từ đầu đến chân đều biến thành giống như bạch ngọc. Chính là dùng công, vật chất cao năng lượng [để] tịnh hoá thân thể, quán toàn bộ từ đầu đến chân. Ông khí công sư kia có thể làm được điều này không? Ông ta không thể. Ông ta làm ǵ đây? Tất nhiên [ông ấy] không nhất định làm tôn giáo; mục đích là học xong công của ông, th́ đă là người của ông, chư vị phải tham gia học ông, học những điều của ông ấy. Mục đích là kiếm tiền của chư vị; không ai học th́ ông không kiếm được tiền.

Đệ tử Pháp Luân Đại Pháp cũng giống đệ tử các pháp môn Phật gia khác, tức là được thượng sư quán đỉnh nhiều lần; nhưng không để chư vị biết. Người có công năng có thể biết; người nhạy cảm cũng có thể cảm thấy; khi ngủ hoặc một lúc nào đó có thể đột nhiên một luồng nhiệt tuôn từ trên đỉnh đầu xuống thông thấu toàn thân. Mục đích của quán đỉnh không phải cấp công thêm cao cho chư vị; công là bản thân chư vị tu luyện xuất lai. Quán đỉnh là một phương pháp gia tŕ, chính là giúp chư vị tịnh hoá thân thể, làm thân thể chư vị thanh lư thêm một bước nữa. Cần quán [đỉnh] nhiều lần, mỗi tầng đều cần giúp chư vị thanh lư thân thể. Bởi v́ ‘tu tại tự kỷ, công tại sư phụ’, nên chúng tôi không giảng h́nh thức [nghi thức] quán đỉnh.

Một số người c̣n làm những ǵ là bái sư. Giảng đến đây, tôi thuận tiện đề cập một điều; có nhiều người muốn bái tôi làm Sư. Thời kỳ lịch sử chúng ta hiện nay đă khác với xă hội phong kiến Trung Quốc; quỳ gối dập đầu có được tính là bái sư không? Chúng ta không làm cái việc h́nh thức ấy. Có nhiều người chúng ta nghĩ thế này: ‘Ḿnh dập đầu đốt hương bái Phật, trong tâm thành kính th́ sẽ tăng công’. Tôi nói rằng thật khôi hài; luyện công chân chính toàn dựa vào bản thân mà tu; cầu ǵ cũng vô dụng. Không bái Phật, không đốt hương, [mà] chiểu theo tiêu chuẩn người tu luyện mà tu luyện một cách chân chính, [th́ khi] ông [Phật] gặp chư vị sẽ rất vừa ư. Ở nơi khác chư vị toàn làm điều xấu, chư vị dập đầu đốt hương cho ông, [th́] ông gặp chư vị sẽ rất khó chịu; đó chẳng phải đạo lư là ǵ? Tu chân chính dựa vào bản thân. Hôm nay chư vị dập đầu bái sư xong, ra khỏi cửa lại muốn ǵ làm nấy, hỏi có tác dụng ǵ? Chúng tôi hoàn toàn không giảng h́nh thức [bái sư] này; chư vị có thể c̣n làm ô uế danh dự của tôi [ấy chứ]!

Chúng tôi cấp chư vị nhiều như thế; tất cả mọi người chỉ cần thực tu, dùng Đại Pháp để yêu cầu bản thân một cách nghiêm khắc, [th́] tôi đều coi chư vị là đệ tử; chỉ cần chư vị tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chúng tôi sẽ coi chư vị là đệ tử. Nếu chư vị không muốn tu, th́ chúng tôi không có cách nào. Nếu chư vị không tu, th́ chư vị mang danh [đệ tử] hỏi có ích ǵ? Học viên vào kỳ thứ nhất hay học viên vào kỳ thứ hai [cũng như nhau]; nhưng chư vị chỉ luyện mấy động tác kia th́ đă là đệ tử chúng tôi chưa? Chư vị phải thật sự chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính của chúng tôi mà tu luyện, th́ mới có thể đạt được thân thể khoẻ mạnh, th́ mới có thể thật sự lên cao tầng. Do đó chúng tôi không giảng những việc h́nh thức ấy; chỉ cần chư vị tu luyện, th́ là người trong môn chúng tôi. Những Pháp thân của tôi điều ǵ cũng biết; chư vị nghĩ ǵ họ đều biết; điều ǵ họ cũng có thể làm được. Chư vị không tu luyện th́ họ không quản chư vị; [c̣n nếu] chư vị tu luyện th́ [họ] sẽ giúp đến cùng.

Có công pháp trong đó người luyện công không gặp sư phụ, nói rằng hướng về một phương nào đó mà dập đầu, trả vài trăm đồng là được. Chẳng phải lừa ḿnh dối người là ǵ? Ngoài ra người này rất tự nguyện. Từ đó trở đi duy hộ đối với công này, [đối với] người [của công] này; cũng lại nói với người khác, rằng đừng học công khác. Tôi thấy thật quá khôi hài. C̣n có người làm những ǵ là ‘mô đỉnh’; cũng không biết người ấy chạm một cái th́ có tác dụng ǵ.

Không chỉ những ǵ truyền công dưới cờ hiệu Mật tông là giả, mà tất cả môn truyền công dưới [cờ hiệu] Phật giáo cũng đều là giả. Mọi người thử nghĩ xem, phương pháp tu luyện mấy ngh́n năm của Phật giáo đều [có] h́nh thức như thế, ai mà thay đổi [nó] đi th́ có c̣n là Phật giáo không? Phương pháp tu luyện là tu Phật một cách nghiêm túc, hơn nữa [nó] cực kỳ huyền diệu; thay đổi một chút là loạn ngay. V́ quá tŕnh diễn hoá công là cực kỳ phức tạp; cảm giác của con người không là ǵ hết; không thể dựa vào cảm giác để tu luyện. H́nh thức tôn giáo của hoà thượng chính là phương pháp tu luyện; hễ thay đổi th́ không c̣n là những điều của môn ấy nữa. Mỗi một môn đều có Đại Giác Giả chủ tŕ, mỗi môn cũng tu xuất được rất nhiều Đại Giác Giả, không ai dám tuỳ ư thay đổi phương pháp tu luyện của môn ấy; c̣n một khí công sư nhỏ bé, hỏi có được mấy uy đức dám coi thường Chủ mà thay đổi pháp môn tu Phật? Nếu như đă thay đổi rồi, th́ đó có c̣n là pháp môn kia nữa không? Khí công giả có thể phân biệt được.



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 7 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 9:21am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử




Mọi người biết chăng? Tôi làm việc ǵ đây? Đối với tất cả học viên tôi đều dẫn dắt như là đệ tử, bao gồm cả người tự học mà có thể tu luyện một cách chân chính. Truyền công lên cao tầng, mà không dẫn dắt chư vị như thế th́ không thể được; điều ấy tương đương với [việc làm] vô trách nhiệm, làm loạn. Chúng tôi cấp cho chư vị bao nhiêu thứ như thế, cho chư vị biết được bao nhiêu [Pháp] lư mà người thường không đáng được biết; tôi truyền Đại Pháp này cho chư vị, lại c̣n cấp cho chư vị rất nhiều thứ nữa. Giúp chư vị tịnh hoá thân thể rồi, với lại c̣n liên quan đến một số vấn đề nữa; do vậy không dẫn dắt chư vị như đệ tử, [th́] hoàn toàn không thể được. Tiết lộ cho một người thường nhiều thiên cơ tuỳ tiện như thế, điều ấy không được phép. Nhưng có một điểm, thời đại hiện nay đă biến đổi, chúng ta cũng không phải theo h́nh thức dập đầu chắp tay lạy nữa. H́nh thức ấy không có tác dụng ǵ; làm thế giống như tôn giáo; chúng ta không làm như vậy. Bởi v́ chư vị dập đầu xong, bái sư xong, ra khỏi cửa lại quay lại là chư vị khi xưa, nơi người thường muốn làm ǵ liền làm nấy, chỉ v́ danh lợi của ḿnh mà tranh mà đấu, th́ hỏi [giập đầu bái sư] có tác dụng ǵ? Chư vị [thậm chí c̣n] có thể lấy cờ hiệu của tôi làm bại hoại danh dự Đại Pháp!

Việc tu luyện chân chính đều dựa vào cái tâm của chư vị mà tu; chỉ cần chư vị có thể tu, chỉ cần chư vị có thể tu một cách vững bước tinh tấn và kiên định, th́ chúng tôi sẽ dẫn dắt chư vị như là đệ tử; [nếu] chẳng đối xử như thế th́ không thể được. Nhưng có một số người vẫn không nhất định có thể thật sự tự coi bản thân họ là người tu luyện mà [tiếp tục] tu; có người không thể [làm được như vậy]. Nhưng rất nhiều người sẽ đi theo tu luyện thật sự. Chỉ cần chư vị c̣n tu, th́ chúng tôi sẽ dẫn dắt chư vị như những đệ tử.

Hàng ngày cứ luyện mấy bộ động tác ấy, vậy có thể tính là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp không? Không nhất định [là vậy]. Bởi v́ tu luyện chân chính cần chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính chúng tôi đề ra mà [tự] yêu cầu, cần phải thật sự đề cao tâm tính bản thân; ấy mới là tu luyện chân chính. Chư vị cứ luyện các động tác ấy, [nhưng] tâm tính không đề cao lên, không có năng lượng lớn mạnh để gia tŕ mọi thứ, [th́] chưa nói chuyện tu luyện được; chúng tôi cũng không thể coi chư vị là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp. Chư vị nếu cứ như thế măi, đành rằng chư vị luyện công, nhưng không [thực sự] chiểu theo yêu cầu của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, chư vị không đề cao tâm tính, ở chốn người thường chư vị vẫn hành xử như xưa, rất có thể chư vị vẫn gặp phải những sự cố phiền phức này khác; [khi] xử lư không đúng, chư vị thậm chí có thể nói Pháp Luân Đại Pháp đă làm cho chư vị luyện công thiên [sai] như thế; điều này có thể xảy ra. Vậy nên chư vị phải chiểu theo yêu cầu tiêu chuẩn tâm tính của chúng tôi mà hành xử, ấy mới là người tu luyện chân chính. Tôi đă nói cho mọi người vậy là rất rơ; do đó mọi người đừng t́m tôi để làm cái việc bái sư h́nh thức ấy; chư vị chỉ cần thật sự tu, th́ tôi sẽ đối đăi như vậy với chư vị. Pháp thân của tôi nhiều không tính được; không chỉ là số học viên này, dẫu nhiều hơn nữa tôi cũng quản được.

Công pháp Phật gia và Phật giáo
Công [pháp] Phật gia không phải là Phật giáo, điểm này tôi giảng rơ cho chư vị; thực ra công [pháp] Đạo gia cũng không phải là Đạo giáo. Trong chúng ta có một số người cứ không hiểu rơ điều này. Một số vị là hoà thượng ở chùa, cũng có một số vị là cư sỹ, họ tự cho rằng họ hiểu biết nhiều điều trong Phật giáo, nên họ chẳng e dè ǵ mà cứ tuyên truyền những điều trong Phật giáo cho các học viên chúng tôi. Tôi nói với chư vị rằng, chư vị đừng làm thế; bởi v́ đây là sự việc trong các pháp môn khác nhau. Tôn giáo có h́nh thức của tôn giáo; c̣n ở đây chúng tôi truyền một bộ phận pháp môn tu luyện của chúng tôi; trừ các đệ tử chuyên tu của Pháp Luân Đại Pháp, th́ [chúng tôi] không giảng h́nh thức tôn giáo; vậy nên [chúng tôi] không phải là Phật giáo trong thời kỳ mạt Pháp.

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; c̣n có nhiều Đại Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu luyện có 84000 pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 84000 pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ ǵ với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại.

Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni sáng lập vào 2500 năm trước đây tại Ấn Độ cổ. Thời ấy Thích Ca Mâu Ni khai công khai ngộ rồi, trong kư ức của Ông nhớ lại những điều bản thân ḿnh đă tu luyện trước đây, [Ông] lấy những điều [tu luyện] ấy truyền rộng ra độ nhân. Pháp môn của Ông bất kể có xuất ra bao nhiêu vạn cuốn kinh sách, kỳ thực là 3 chữ, đặc điểm pháp môn của Ông gọi là “Giới Định Huệ”. Giới, chính là cấm hẳn hết thảy dục vọng nơi người thường, cưỡng chế chư vị vứt bỏ những truy cầu lợi ích, đoạn tuyệt khỏi hết thảy những điều thế tục này khác. Như thế tâm của họ sẽ biến thành ‘không’, điều ǵ cũng chẳng mong nghĩ, họ có thể định lại được; chúng {Giới và Định} tương phụ tương thành [cho nhau]. Sau khi định lại được rồi, th́ cần đả toạ thực tu, dựa vào định lực mà tu lên; đó chính là phần tu luyện chân chính của pháp môn ấy. Họ cũng không giảng thủ pháp, không cải biến bản thể của ḿnh. Họ chỉ tu cái công [xác định] tầng cao thấp của ḿnh, vậy nên [họ] chỉ một điều là tu tâm tính của ḿnh; không tu mệnh nên cũng không giảng diễn hoá của công. Đồng thời trong khi định th́ họ tăng cường định lực, trong khi đả toạ th́ chịu khổ, [và] tiêu nghiệp của họ. Huệ, ấy chính là chỉ người đă khai công khai ngộ, đại trí đại huệ. Thấy được chân lư của vũ trụ, thấy chân tượng của mỗi tầng không gian; thần thông đại hiển. Khai huệ, khai ngộ ấy, c̣n được gọi là ‘khai công’.

Thời Thích Ca Mâu Ni sáng lập pháp môn này, ở Ấn Độ có 8 tôn giáo đang đồng thời lưu truyền. Có một tôn giáo thâm căn cố đế gọi là Bà La Môn giáo. Trong những năm tại thế, Thích Ca Mâu Ni đă luôn luôn phát sinh h́nh thái đấu tranh về ư thức [quan điểm] với các tôn giáo khác. V́ điều mà Thích Ca Mâu Ni truyền là chính Pháp, do đó trong suốt quá tŕnh truyền Pháp, Phật Pháp mà Ông truyền càng ngày càng hưng thịnh. C̣n các tôn giáo khác càng ngày càng suy tàn; ngay cả Bà La Môn giáo vốn đă cắm rễ sâu nơi ấy cũng lâm vào trạng thái bên bờ diệt vong. Nhưng sau khi Thích Ca Mâu Ni [nhập] niết bàn, các tôn giáo khác lại bắt đầu hưng thịnh trở lại; đặc biệt là Bà La Môn giáo, lại bắt đầu hưng thịnh trở lại. C̣n khi ấy trong Phật giáo xuất hiện t́nh huống ǵ? Có một số tăng nhân đă ở các tầng khác nhau khai công, khai ngộ rồi, [nhưng] mà tầng mà [họ] khai [công khai ngộ] lại tương đối thấp. Thích Ca Mâu Ni đạt đến tầng Như Lai; c̣n nhiều tăng nhân không hề đạt được đến tầng ấy.

Tại các tầng khác nhau Phật Pháp có các hiển hiện khác nhau; nhưng [tầng] càng cao [th́] càng tiếp cận chân lư, [tầng] càng thấp th́ càng viễn ly với chân lư. Vậy nên một số tăng nhân khai công khai ngộ tại tầng thấp rồi, họ dùng hiển tượng trong vũ trụ mà họ thấy tại tầng của bản thân ḿnh, t́nh huống mà [họ] hiểu được và [Pháp] lư mà [họ] ngộ được, để giải thích những lời mà Thích Ca Mâu Ni đă từng giảng. Nghĩa là, đối với Pháp mà Thích Ca Mâu Ni từng giảng có các tăng nhân tiến hành giải thích thế này, [hoặc] giải thích thế khác. Lại có một số tăng nhân lấy những điều bản thân ḿnh tham ngộ mà giảng nói như thể đó là lời của Thích Ca Mâu Ni, chứ họ không giảng [bằng] những lời nguyên gốc của Thích Ca Mâu Ni. Như thế làm diện mục của Phật Pháp đều sai hết cả, hoàn toàn không c̣n là Pháp mà Thích Ca Mâu Ni đă truyền; rốt cuộc đă làm Phật Pháp trong Phật giáo tại Ấn Độ tiêu mất. Đó là bài học lịch sử quan trọng bậc nhất; vậy nên Ấn Độ sau này không c̣n Phật giáo nữa. Trước khi tiêu mất, Phật giáo trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng kết hợp với những điều của Bà La Môn giáo, mà h́nh thành tại Ấn Độ một tôn giáo [đến] hiện nay, gọi là Ấn Độ giáo. [Họ] cũng không thờ cúng Phật, mà thờ cúng những thứ khác; [họ] cũng không tin theo Thích Ca Mâu Ni; đă xảy ra t́nh huống như thế.

Phật giáo trong quá tŕnh phát triển, đă xuất hiện một số lần cải tổ rất lớn. Một lần [xảy ra] không lâu sau khi Thích Ca Mâu Ni không c̣n tại thế; có người căn cứ theo [Pháp] lư ở cao tầng mà Thích Ca Mâu Ni giảng, để sáng lập ra Đại Thừa Phật giáo. [Họ nh́n] nhận rằng Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng công khai là giảng cho người [tu] b́nh thường nghe, dùng để giải thoát tự thân, đạt đến quả vị La Hán, không giảng phổ độ chúng sinh; nên [họ] gọi đó là Tiểu Thừa Phật giáo. Hoà thượng tại các nước Đông Nam Á bảo lưu theo phương pháp tu luyện nguyên thuỷ từ thời đại của Thích Ca Mâu Ni; người Hán chúng ta gọi đó là Tiểu Thừa Phật giáo. Tất nhiên tự họ không thừa nhận [điều ấy]; họ nh́n nhận rằng họ kế thừa những điều nguyên gốc của Thích Ca Mâu Ni. Quả đúng là như vậy; trên cơ bản họ kế thừa phương pháp tu luyện của thời đại Thích Ca Mâu Ni.

Đại Thừa Phật giáo vốn đă qua cải tổ ấy, sau khi truyền nhập vào Trung Quốc chúng ta, ở Trung Quốc chúng ta [Đại Thừa Phật giáo] đă cố định lại; đó chính là Phật giáo đang lưu truyền ở nước ta hiện nay. Trên thực tế th́ nó đă thay đổi toàn bộ diện mạo so với Phật giáo của thời đại Thích Ca Mâu Ni: từ trang phục cho đến toàn bộ các trạng thái tham ngộ, [và] quá tŕnh tu luyện đều đă đổi khác. Phật giáo nguyên thuỷ chỉ nh́n nhận Thích Ca Mâu Ni là tổ tôn để thờ cúng; nhưng [trong] Phật giáo hiện đại đă xuất hiện khá nhiều vị Phật cũng như các Đại Bồ Tát; hơn nữa đó là tín ngưỡng đa Phật. Xuất hiện tín ngưỡng đối với rất nhiều Phật Như Lai; trở thành một chủng Phật giáo đa Phật. Ví dụ: Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Đại Nhật Như Lai, v,v.; cũng xuất hiện nhiều Đại Bồ Tát. Như vậy, toàn thể Phật giáo đă hoàn toàn khác xa với [Phật giáo] nguyên sơ do Thích Ca Mâu Ni sáng lập thuở xưa.

Tại thời kỳ ấy c̣n phát sinh một quá tŕnh cải tổ nữa, từ Bồ Tát Long Thọ truyền xuất ra một chủng phương pháp mật tu; [nó] từ Ấn Độ đi qua Afghanistan, sau đó tiến vào vùng Tân Cương nước ta mà truyền vào đất người Hán; [lúc ấy] đúng vào [triều] đại nhà Đường, nên gọi đó là ‘Đường Mật’. Bởi v́ Trung Quốc chúng ta chịu ảnh hưởng rất mạnh của Nho gia, quan niệm đạo đức khác với các dân tộc nói chung. Trong pháp môn tu luyện Mật tông này có [những] điều của nam nữ song tu, xă hội thời ấy không thể tiếp thụ; do vậy vào thời kỳ diệt Phật trong những năm Hội Xương [triều] đại nhà Đường th́ nó đă bị trừ dứt hẳn; Đường Mật đă bị tiêu mất ở nơi người Hán chúng ta. Nhật Bản hiện nay có [môn] gọi là ‘Đông Mật’, thời ấy đă học từ Trung Quốc chúng ta; nhưng họ không hề qua quán đỉnh. Theo Mật tông giảng, không qua quán đỉnh mà học những điều của Mật tông, th́ thuộc về trộm Pháp, không được thừa nhận là thân thụ. Một nhánh khác từ Ấn Độ, Nepal truyền nhập vào Tây Tạng, gọi là ‘Tạng Mật’, từ đó lưu truyền đến nay. Trên cơ bản Phật giáo có những việc như thế; một cách rất đơn giản và khái quát, tôi đă nói một lượt về quá tŕnh diễn biến phát triển của nó. Toàn thể Phật giáo trong quá tŕnh phát triển, c̣n xuất hiện [những môn] giống như Thiền tông do Đạt Ma sáng lập, c̣n có Tịnh Độ tông, Hoa Nghiêm tông, v.v.; tất cả đều chiểu theo điều Thích Ca Mâu Ni từng giảng rồi tham ngộ [mà] ra; chúng đều thuộc về Phật giáo đă qua cải tổ. Trong Phật giáo có hơn mười pháp môn như vậy; chúng đều đi theo h́nh thức tôn giáo, do đó đều thuộc về Phật giáo.

Các tôn giáo sinh ra trong thế kỷ này; [mà] không chỉ thế kỷ này, mấy thế kỷ trước ở các vùng khác nhau trên thế giới cũng có nhiều tôn giáo mới xuất sinh; phần đông chúng đều là giả. Các Đại Giác Giả độ nhân, [họ] đều có thiên quốc của bản thân ḿnh; Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà Phật, Đại Nhật Như Lai, v.v., các Phật Như Lai ấy độ nhân, [họ] đều có thế giới do bản thân ḿnh chủ tŕ. Tại hệ Ngân Hà này của chúng ta, có trên một trăm thế giới như thế; Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng có thế giới Pháp Luân.

Những pháp môn giả kia độ nhân th́ độ đi đâu? Họ không độ nhân được; điều họ giảng ra không phải là Pháp. Tất nhiên có một số người đă sáng lập tôn giáo, mục đích ban đầu [là] họ không muốn sẽ làm ma phá hoại chính giáo. Họ khai công khai ngộ tại các tầng khác nhau, họ thấy được một chút [Pháp] lư; nhưng so với các Giác Giả [có khả năng] độ nhân th́ họ khác xa: họ rất thấp. Họ phát hiện một số [Pháp] lư, phát hiện một số điều ở nơi người thường là sai; họ cũng [khuyên] bảo người ta làm điều tốt như thế nào; ban đầu họ cũng không phản đối các tôn giáo khác. Cuối cùng người ta tín phụng họ, cho rằng họ giảng có đạo lư; sau đó ngày càng tin tưởng hơn; kết quả một số người sùng bái họ, không sùng bái tôn giáo. Tâm danh lợi của họ xuất hiện, [họ] bảo đại chúng phong [cho họ] làm [vị] nào đó; từ đó trở đi họ lập ra một tôn giáo mới. Tôi nói với mọi người rằng chúng đều thuộc về tà giáo; dẫu chúng chẳng hại người, chúng vẫn là tà giáo. Bởi v́ chúng can nhiễu đến [việc] con người tin vào chính giáo; chính giáo là độ nhân, c̣n chúng th́ không thể. Dần dần phát triển, họ quay ra làm điều xấu. Gần đây có nhiều [thứ] loại này đă lưu truyền vào Trung Quốc chúng ta; ví dụ cái gọi là ‘pháp môn Quán Âm’ chính là một trong số ấy. Vậy nên mọi người phải hết sức chú ư; nghe nói rằng một nước ở đông Á có trên 2 ngh́n loại [như vậy]; tại Đông Nam Á và các nước tây phương khác, điều ǵ cũng có [người] tin; có một quốc gia trực tiếp [công khai] có Vu giáo. Những thứ ấy đều là ma xuất hiện tại thời kỳ mạt Pháp. Thời kỳ mạt Pháp là không phải chỉ nói đến Phật giáo; mà c̣n nói về rất nhiều không gian từ một tầng rất cao trở xuống đều đă bại hoại rồi. Mạt Pháp không chỉ nói đến mạt Pháp của Phật giáo, mà c̣n là xă hội nhân loại không [c̣n] duy tŕ đạo đức tâm Pháp để ước [chế câu] thúc nữa.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
DaiBi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 27 November 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 124
Msg 8 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 6:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn DaiBi

Đại Bi có một lời khuyên: ai là Phật Tử đừng nên đọc bài này.

To phoquang: DaiBi bó tay với bạn rồi, nghiệp báo về sau bạn tự chịu lấy.
Quay trở về đầu Xem DaiBi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaiBi
 
saokhue
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 34
Msg 9 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 8:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn saokhue

           Chào bác phoquang !

     Bác post bài về phật pháp rất hay thường khi mà đạt đến thượng tầng th́ thường bị ác ma quấy rầy , chúc bác Thân tâm an lạc    

__________________
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
Quay trở về đầu Xem saokhue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saokhue
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 10 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 8:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Kính chào DaiBi!
Như đă giới thiệu ở trên, Tôi post bài này cho mọi người hiểu biết thêm và tham cứu thấy được cái chân cái nguỵ vào thời mạt pháp này. Có nhiều người đă giảng dạy như thế ấy! dựa vào Phật Pháp, cứ ngỡ là chánh pháp mà thực ra...
Sau khi đọc qua bài viết trên. Thế Xin hỏi DaiBi biết ai là tác giả không?
Những ǵ làm tôi tự khắc biết.
Kính chúc quư vị và các bạn vạn sự kiết tường, luôn đi đúng chánh pháp
Phổ Quảng
thânchào


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 11 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 8:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

                Chào bạn

    Hăy tự giải thoát cho chính ḿnh đi Đai Bi ơi , Bỏ bớt tâm đố kỵ , Tịnh khẩu nghiệp lại đi.

Chào
Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 12 of 23: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 9:05pm | Đă lưu IP Trích dẫn Learner

Kính hai thầy Phổ Quang và Đại Bi,

Nói về Pháp thân của Đức Phật, con có đọc bài của Sunbeam mới post lên do thầy TNH nói Pháp.

Con xin được trích một đoạn và xin hai thầy cho ư kiến
............
Phật tử tu học một cách sâu xa để giúp ta sống trong chánh niệm, từ bi, và an lạc. Kinh sách nói có 84 ngàn pháp môn, cánh cửa của sự tu học. Nếu bạn may mắn t́m thấy một cánh cửa, và cho rằng cánh cửa của bạn là cánh cửa duy nhất, th́ đó không phải là tinh thần đạo Bụt. Thật ra, chúng ta phải mở ra thêm nhiều cánh cửa mới cho các thế hệ tương lai. Chúng ta đừng sợ có quá nhiều cánh cửa - đúng ra, ta nên lo ngại không có thêm những cánh cửa mới. Thật tội nghiệp cho con cháu chúng ta, và con cháu của họ, nếu chúng ta hài ḷng với 84 ngàn cánh cửa hiện có. Mỗi người chúng ta, với sự tu tập và tâm từ bi, có thể mở ra những Cánh Cửa Pháp mới.

Xă hội đang biến đổi, con người thay đổi, đời sống chính trị và kinh tế ngày nay không c̣n giống như thời Bụt và Chúa nữa. Bụt trông cậy nơi chúng ta để Giáo Pháp tiếp tục phát triển như một thực thể sống động - không phải một giáo pháp cứng đọng, mà là một Pháp Thân (Dharmakaya), một thực thể giáo lư thiêng liêng


Bụt dạy Pháp thân của Ngài quan trọng hơn nhục thân. Ngài muốn dạy chúng ta phải thực hành Giáo Pháp để đạt tới Niết Bàn ở đây và bây giờ. Giáo Pháp sinh động không phải là những thư viện chứa kinh điển hay các băng thâu những bài giảng hay. Pháp sinh động là sống tỉnh thức trong chánh niệm, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày của Bụt cũng như của quư vị. Khi tôi nh́n thấy quư vị bước đi với chánh niệm, tôi tiếp xúc được với sự an lạc, với sự hiện diện của quư vị một cách sâu xa. Khi quư vị săn sóc các anh chị em của ḿnh, tôi nh́n thấy Giáo Pháp sống động trong quư vị. Nếu có chánh niệm, quư vị có thể tiếp xúc với Pháp thân của Bụt.
Bụt nói rằng: "Nhục thân của Ta không quan trọng. Nếu thầy có Pháp thân với thầy, nếu thầy tin Pháp, thực tập Giáo Pháp, th́ ta luôn luôn ở bên thầy." Chúa Giêsu cũng từng nói: "Khi có hai, hay ba người họp nhau cầu nguyện trong Ta, Ta ở đó cùng họ."

Kính (learner)

Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
DaiBi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 27 November 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 124
Msg 13 of 23: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 12:20am | Đă lưu IP Trích dẫn DaiBi

phoquang đă viết:
Sau khi đọc qua bài viết trên. Thế Xin hỏi DaiBi biết ai là tác giả không?


DaiBi đoán là ông Lư giáo chủ của pháp luân công.
Quay trở về đầu Xem DaiBi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaiBi
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 14 of 23: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:48am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Luật Nhân Quả trong cuộc sống xă hội và khoa học

Thái Minh Trung, MD




Luật Nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh.

               Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự sợ hăi mê tín mù mờ. Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín dị đoan. Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là v́ ông thần đất đai giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu th́ tế lễ bằng con gà không có hiêäu quả, rồi đến con bo,ø đến khi sự cuồng tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần như dân tộc Incas đă từng làm. Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày đi đứng làm cái ǵ quan trọng th́ phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh cái sợ hăi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh được những điều xấu. Nếu quả thật có như vậy th́ thế giới này không có sự đau khổ v́ mọi sự đều như ư con người muốn. Ông vua dù có mướn thầy địa lư giỏi nhất nước để xây cung điện nhưng nếu không thương dân, lấy thuế cắt cổ, lúc hết thời th́ ngai vàng vẫn bị mất như thường. Nói về hành động cá nhân, nếu không nhận thức có luật nhân quả th́ không có ǵ ngăn cản con người làm việc ác miễn sao trốn tránh được cặp mắt của luật pháp là được, cho nên xă hội rất bấp bênh. Nếu vua và dân hiểu được luật nhân quả th́ đất nước dễ thanh b́nh và dân sẽ được hạnh phúc.



               Khi Đức Phật giác ngộ th́ Ngài nhận ra luật nhân quả là nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất. Mọi hiện tượng từ tâm lư đến vật chất đều có những sự liên quan vô h́nh rất chặt chẽ, đó là luật nhân quả. Luật nhân quả là sợi dây vô h́nh nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có thể thay đổi biến cố đó theo chiều thuận cho ta, thay v́ phải lo sợ hối lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc thỏa măn điều ta mong ước. Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng và mặc cảm tội lỗi(ta có tội nặng quá vị thần không giúp được).      &n bsp;     

               Luật nhân quả rất đơn giản, nếu muốn có một kết quả tốt th́ ta phải tạo nhân lành. Thí dụ như khi ta nuôi dưỡng một ư nghĩ hận thù th́ ta không thể vui cười hồn nhiên được. Khi ta gạt gẫm người khác th́ tối về ngủ không yên giấc v́ sợ bị phát hiện. Khi ta gieo hạt lúa th́ không bao giờ được cây cổ thụ. Khi con người bắt đầu hiểu được như vậy th́ họ lấy về được một phần sức mạnh của những vị thần linh. Họ bắt đầu làm chủ được tương lai của họ và lấy lại định mệnh của họ từ tay các vị thần. Hiểu và tin được luật nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh (spiritual revolution) v́ sự nhận thức đó sẽ phá tan gông cùm của sự mê tín và giúp con người làm chủ được cuộc sống của họ.



Luật Nhân quả và khái niệm không gian thời gian.

               Khi đi từ thế giới tâm linh qua thế giới vật chất th́ sự thể hiện của luật nhân quả thay đổi từ rơ đến mờ. Sự thể nghiệm ở thế giới tâm linh rất nhanh và rơ nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế giới vật chất th́ luật nhân quả bị loăng ra v́ phải trải qua nhiều thời gian mới hiện ra rơ được. Cũng v́ thế mà khi con mắt bị vậït chất làm mờ rồi rất khó mà nhận thức luật nhân quả. Thí dụ như kẻ trộm thành công một vài lần rất khó nhận thức rằng ḿnh sớm muộn ǵ sẽ vào tù. Nếu kẻ trộm đó nhận thức rằng ḿnh cần phải thay đổi ḷng tham của ḿnh (thế giới tâm lư) th́ trong tức khắc có khả năng thay đổi được chiều hướng cuộc sống ḿnh bằng cách học nghề và làm ăn lương thiện. Ngược lại nếu anh ta cứ tiếp tục hành nghề bất lương, ḷng tham càng lớn và ăn trộm càng táo bạo hơn, th́ một thời gian sau đó anh bị bắt vào tù và sẽ hối hận (thế giới vật chất). Như vậy khi nhận thức ở tâm linh th́ chuyển nghiệp (karma) rất nhanh, đợi khi nó thể hiện ở cơi vật chất rồi th́ cái thời gian thay đổi rất chặm chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở. Với đời sống con người có giới hạn thời gian, sự nhận thức có được khi hoàn cảnh xấu xảy ra đôi lúc quá trễ. Con người có thể không c̣n đủ thời giờ để cải thiện. Ngoài ra khi họ tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở lại điểm ban đầu rất là gian nan. Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn học lại th́ tuổi cao, kiến thức đổi khác nhiều, bạn bè cùng lứa đă có sự nghiệp thành công hết. Anh ta phải khuất phục sự chậm chạp của tuổi cao và ḷng mặc cảm để đi học lại. Mặc dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang hàng với các bạn được v́ mất khoảng thời gian quá lâu trong tù.

               Khi hiểu được luật nhân quả th́ câu hỏi có định mệnh (destiny) hay không là tùy nơi con người. Định mệnh có thật khi ta để lực (force) nhân quả lôi cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lư biến thành cái quả ở thế giới vật chất. Định mệnh không có khi ta chủ động biến chuyển những tư tưởng (nhân) xấu thành tốt và theo đó diễn biến (quả) tốt lành sẽ đến với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở thế giới vật chất rất khó khăn v́ có người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ đâm ra chán nản và cho rằng không có luật nhân quả. Sở dĩ như vậy v́ con mắt phàm không thể nh́n thấu được quá khứ và không hiểu được những khúc mắc của nghiệp.   Nhưng nếu có người nào đó giữ được tâm hồn tha thứ buông xả th́ mặc dù biến cố xấu đến với họ đó, nhưng cái tác động trên tâm lư tạo sự đau khổ giảm đi rất nhiều. Th́ đó chẳng qua là một điều lành trong một biến cố dữ. Hiểu được luật nhân quả ở tâm th́ ta nhận thức rơ hơn và ta sẽ thấy sự thay đổi nhanh hơn.



Nhân-duyên-quả

               Nghiệp (karma) là những biến cố vui buồn xảy ra trong đời người. Nghiệp, ḍng sông nhân quả trong cuộc đời con người, rất là phức tạp.   Nghiêäp không phải đơn giản như một cái máy, ta bấm nút (nhân) th́ máy hoạt động (quả). Nghiệp có thể ví như một ḍng sông và nhân quả là những phân tử (molecule) nước lưu chuyển, tác động lẫn nhau trong ḍng sông đó. Ngoài nhân-quả ra c̣n yếu tố duyên nửa. Duyên là những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc ngược lại ngăn cảng hoặc đ́nh trệ sự nối liền của nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả. Sự sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên. Như vậy duyên đóng vai tṛ điều chỉnh (modulation) nhân-quả. Thí dụ dễ hiểu là khi ta gieo hạt lúa (nhân) trong đồng ruộng ẩm ướt ph́ nhiêu (duyên) vài tháng ta sẽ có những cọng lúa xanh mượt (quả). Nếu có người lữ hành băng qua sa mạc và làm rơi một hạt lúa th́ ngàn năm sau hạt lúa đó vẫn là hạt lúa (nghịch duyên). Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi vào một nơi ẩm ướt trên sa mạc th́ hạt lúa sẽ mọc thành cọng lúa nhưng rất yếu ớt v́ thiếu phân bón. Như thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên khác nhau sẽ cho ta kết quả khác nhau. Thực tế nhân quả không đơn giản như trên mà hoạt động như một mạng lưới nhện (web).

               Một nhân có thể là khởi đầu của một chuỗi phản ứng (chain of events). Những yếu tố duyên tác động lên chuổi phản ứng đó để cho ra nhiều kết quả ở nhiều từng lớp khác nhau. Thí dụ: Có một người v́ ḷng tham (nhân) phá rừng bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng ḿnh. Trời mưa, không có rễ cây hút nước (duyên) nên tạo thành lụt (quả), loài chim mất môi sinh (duyên) dời đi nơi khác (quả). Không có chim ăn (duyên) nên sâu bọ lan tràn đồng ruộng (quả). Không có cây hút thán khí (CO²) nên từ đó khí hậu bị ô nhiễm. Một nhân thiếu sáng suốt sẽ gây ra rất nhiều hậu quả tai hại về sau mà ta khó có thể lường trước được.

               Giới luật là nhằm biến đổi cái duyên để cho cái nhân tham, sân và si không có cơ hội để biến thành quả dữ (tham-ăn trộm, sân-giết chóc, si-đau khổ). Xuất gia là tránh xa những duyên có thể dẫn đếøn quả dữ và gần gũi với những duyên khuyến khích quả lành được biểu hiện. Tuy nhiên thay đổi duyên ở thế giới vật chất không bền vững lắm. Thí dụ ḷng tham tiền có thể biến thành tham chùa ḿnh được đẹp nhứt, sân (giận) có thể biến thành bực bội khi đệ tử quên chấp tay xá ḿnh, và si là chấp vào thời gian tụng kinh mà không hiểu ư kinh tạo ra sự tranh chấp hơn thua. Cho nên vào cảnh tịnh mà c̣n giữ mầm mống tham, sân, si th́ cảnh tịnh đó sẽ trở nện cảnh ưu phiền.

               Thiền tông chú trọng đến cái duyên ở tâm là tư tưởng. Tham, sân, si mà không có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng th́ dần dần sẽ tự tiêu ṃn. Cho nên giữ giới nơi tâm th́ hiệu nghiệm hơn là giữ ở thân hay cảnh. Nếu tâm ta nuôi dưởng sự bực dọc mà miệng th́ tụng kinh th́ khó có thể mà ta có được hạnh phúc v́ càng tụng kinh, càng mệt mỏi th́ sự bực dọc càng nhiều hơn nữa. Một trong những phương pháp thiền là ta nhận thức sự bực bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo từng hơi thở nhẹ nhàng rồi dần dần sự bực bội đó sẽ tan biến. Đó là một cách “tụng kinh sống” hữu hiệu nhứt. Tung kinh sống là tụng ư (thay v́ chữ) kinh trong từng hơi thở, trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi. Nói một cách khác, thiền hay tụng kinh sống làkhi ta ư thức không tạo cái duyên nuôi dưỡng tham, sân, si trong tâm ta. Nếu ta không nuôi chúng th́ tự động chúng sẽ rời bỏ ta. Rồi ta sẽ trở về sống với con người hạnh phúc của ta.



Nhân quả và Thiên Chúa giáo.

               Mặc dù Thiên Chúa giáo không đề cập nhân quả một cách trực tiếp nhưng tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh đều khuyên răng con chiên hăy củng cố ḷng tin Chúa, thương người, giúp đỡ xă hội th́ sẽ được cuộc sống hạnh phúc trong vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa khuyên con chiên tạo nhân lành (ḷng tin, thương người, tha thứ), tạo duyên lành (xây dựng một xă hội lấy nền tảng là sự yêu thương đùm bọc lẩn nhau, truyền đạo cho nhiều người được nhận thức) th́ kết quả cuộc sống hạnh phúc sẽ dễ được thực hiện trên thế gian này và nếu tất cả mọi người làm được th́ sẽ được hạnh phúc trong vĩnh cửu.



               Tuy nhiên có nhiều con chiên quá cuồng tín dùng sức mạnh áp đặt niềm tin lên kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. Điều dễ hiểu là v́ cái nhân là tham (muốn cá nhân ḿnh được nhiều phước khi dẫn người khác vào đạo), sân (bực tức khi người ta không theo đạo ḿnh) và si mê (ngạo mạn coi đạo ḿnh trên tất cả các đạo khác) th́ kết quả sẽ là chiến tranh và đau khổ. Vấn đề này không hẳn xảy ra ở đạo Chúa mà c̣n gặp ở nhiều tôn giáo khác hoặc ngay cả ở đạo Phật (phái này chê bai phái khác). Đó là v́ con người mê lầm không chữa trị cái tham, sân si nơi chính ḿnh mà muốn thay đổi thế gian. Muốn cái quả khác cái nhân th́ không bao giờ có được. Nếu có kẻ nào nói làm được hẳn là họ tự gạt chính họ, sống trong ảo tưởng u mê. Tôn giáo cũng như thuốc, trị đúng bịnh th́ thuốc hay, dù có thuốc quư mà dùng sai bịnh th́ thuốc quư có thể thành độc dược. V́ thế không thể nói thuốc này hay hơn thuốc kia được. Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng, nếu ta ở nhiều nơi khác nhau th́ ngón tay sẽ chỉ nhiều hướng khác nhau, nhưng khi nh́n thấy mặt trăng (cứu cánh) th́ chỉ có một.



               Tác động trên tâm lư của Thiên Chúa giáo là dùng t́nh thương người và sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu (quả). Nếu ta tin vào một Thượng Đế công bằng bác ái ở bất cứ mọi nơi và mọi lúc, th́ ta giao phó cho Ngài xử phạt những bất công trong cuộc đời ta. Như thế ta không mất ngủ bực tức t́m cách trả thù hay t́m những lời nói đâm thọc xỏ xiêng. Với ḷng tin đó ta sẵn sàng tha thứ kẻ muốn ám hại ta, tâm ta được an ổn và ta gieo rắc sự an ổn đó cho những người chung quanh ta. Làm được như vậy, mặc dù ta không mở miệng truyền giáo nhưng sẽ có rất nhiều người theo v́ họ mến ta. Như thế lời cầu nguyện hữu hiệu nhứt phát xuất từ tư tưởng tha thứ thương yêu chớ không phải từ miệng nói tiếng thương yêu trống rỗng. Giáo đường chân thật của một linh mục hay mục sư là sự an ổn của con chiên khi họ cảm nhận được t́nh thương và sự tha thứ chân t́nh qua hành động của vị mục sư đó, chớ không phải cái giáo đường bằng ngói, bằng gạch. Cái giáo đường vật chất không bao giờ làm ấm được ḷng người. Ta không thể nào gieo rắc sự an lành chung quanh ta nếâu ta không có cái nhân của sự an lành đó trong tâm ta. Ta có thể dối chính ta chớ không thể dối với Thượng Đế và luật nhân quả được.



Nhân quả và y khoa.

               Tuy nhân quả xuất xứ từ Phật giáo nhưng không hạn chế ở phạm vi tôn giáo. Hiểu được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc pḥng ngừa bịnh tật. Trong Đông Y có câu người y sĩ giỏi trị bịnh lúc mà bịnh chưa phát triển. Y khoa hiện đại cũng đồng ư với vấn đề ngưà bịnh hơn là chữa bịnh. Cách tốt nhứt cho con người về vấn đề sức khỏe và xă hội về vấn đề tài chánh là thay đổi cuộc sống để ngừa bịnh.   Muốn ngừa bịnh (quả) ta phải hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bịnh (nhân), t́m cách làm suy giảm những nguyên nhân gây ra bịnh, t́m cách không tạo duyên xấu để cho hậu quả bịnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành để ngăn ngừa bịnh.



               Bây giờ ta hiểu nguyên nhân của nhiều chứng bịnh là do vi trùng (bacteria) và vi khuẩn (virus) có kích thươcù nhỏ hơn vi trùng gây ra. Để làm suy giảm những nguyên nhân tạo ra bịnh, những nhà thuốc sáng chế ra các loại thuốc trụ sinh. Sự ỷ y có thuốc trụ sinh để trị bịnh mà không cần pḥng ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không phân biệt đưa đến sự ra đời của những siêu vi trùng (“super bugs”) có sức kháng trụ sinh. Về phần bịnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không tạo cái duyên cho những loại vi trùng xâm chiếm cơ thể họ. Vaccine (chích ngừa) là cách pḥng ngừa bịnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm (immune system) để chống lại bịnh. Vaccine là một cách thay đổi duyên làm cơ thể không thuận cho sự phát triển của bịnh. Một cách ngừa bịnh khác nữa làta ăn ở vệ sinh, t́m cách tránh những nơi dễ gây ra bịnh tật là góp phần vào sự củng cố những duyên không thích hợp cho bịnh phát triển. Thực tế, ta không thể nào diệt trừ được tất cả những nhân tạo bịnh mà cách dễ dàng nhất là biến đổi cái duyên không thuận cho bịnh-quả phát triển. Con đường trị bịnh bằng cách diệt trừ nhân một cách hoàn toàn rất nguy hiểm v́ có thể đưa đến sự mất cân bằng môi sinh và có thể tạo nhiều mối hiểm nguy khác. Thí dụ như khi ta đi du lịch ở những nước khác dễ bịnh tiêu chảy v́ ở điều kiện ta sống không có loại vi trùng đó (nhân bị diệt) nên cơ thể ta không có chất miễn nhiễm, dễ sanh ra bịnh. Đứng trên phương diện năng lượng (sức lực, thời gian, tài chánh), dùng duyên để pḥng ngừa quả là áp dụng năng lượng một cách hữu hiệu nhứt.



Nhân quả và tâm lư học.

               Stress, sự căng thẳng tinh thần, là vấn đề lớn của thời đại. Stress có thể coi như cái cửa mở cho nhiều bịnh tật vào thân thể ta. Những triệu chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực bội và mất ngủ . Ngoài ra nhức đầu, buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập nhanh cũng có thể là một triệu chứng của stress nửûa. Thuở xưa, Đức Phật có cho một thí dụ rất thích hợp với stress ngày nay. Thí dụ rằng có một người bị mũi tên bắn bi thương. Người đó lo âu muốn biết mũi tên này từ đâu tới, ai bắn, lư do nào bắn, rồi lo sợ cho tính mạng, không biết vết thương như thế nào...người đó cứ mải lo mà quên t́m cách tháo gỡ mũi tên ra. Tính chất của lo âu là nó không bao giờ chịu dừng ở hiện tại mà lại có chiều hướng lẩn quẩn ở quá khứ hoặc tương lai. Chính v́ vậy mà sự lo âu ngày càng tăng v́ khi tư tưởng lẩn quẩn ở quá khứ và tương lai th́ ta sẽ không giải quyết được vấn đề và t́nh trạng vô định đó tạo nên cái duyên làm cho lo âu càng lớn dần.



               Một khoa tâm lư trị liệu (psychotherapy) trị stress là Cognitive behavioral psychotherapy, tạm dịch là tâm lư trị liệu qua nhận thức. Ta nhận thức ta có những tư tưởng sai lầm dẫn đến sự lo âu đau khổ (1), quán xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không có liên hệ ở thực tế (2), sau cùng thay thế vào đó những tư tưởng thích hợp với thực tại hơn (3). Khi nhận thức thích hợp với thực tại th́ ta sẽ t́m được biêän pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu. Thí dụ anh A có triệu chứng hay lo (general anxiety disorder). Khi bị chủ sở phê b́nh, anh về ngủ không được, liên tưởng đến ngày mai ḿnh sẽ mất việc, không có tiền trả tiền nhà, vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... Qua khâu tâm lư trị liệu, anh kiểm duyệt lại thực tế th́ không thấy có dấu hiệu nào chủ sở sẽ đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa khuyết điểm nhỏ mà thôi, vợ chồng lúc nào cũng ḥa thuận(2)... Khi nhận thức như vậy, anh cảm thấy yên tâm và hiểu rằng ḿnh có phản ứng quá đáng (3). Khi nh́n ở khía cạnh nhân duyên quả, th́ khi anh nhận thức rằng cái nhân sai lầm không quan trọng lắm, không để những tư tưởng lo âu thổi phồng sự thật ( nghịch duyên), và anh t́m cách học hỏi trao giồi nghề nghiệp th́ kết quả sẽ tốt đẹp. Như thế hiểu được nhân quả th́ cuộc sống ta sẽ nhẹ gánh lo âu.



Tóm lại

               Nhân quả không phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một quy luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả c̣n là một lực (force) gắn liền hai biến cố với nhau qua không gian và thời gian.



               Ta khó có thể thay đổi nhân ở quá khứ, nhưng điều dễ làm là thay đổi duyên ở hiện tại để quả dử khó có thể biểu hiêän được. Ở thế giới vật chất, duyên lành là bạn tốt, nơi chốn yên tịnh (chùa, nhà thờ, hoc đường...). Ở thế giới tâm lư, duyên lành là ư muốn học hỏi, trao giồi trí tuệ, cố giữ ḷng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần duyên lành th́ quả xấu khó thể hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt hơn.



               Nếu ta c̣n giữ tâm tham, sân, si làm nhân và nuôi dươnơg những tư tưởng tham,sân, si (ác duyên) th́ không bao giờ biến đổi được cuộc sống hay xă hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào cũng hiện theo tâm. Người mang tâm xấu lên thiên đàng sớm muộn ǵ cũng biến cảnh thiên đàng thành địa ngục.



               Hiểu được nhân quả th́ ta nắm giữ được ch́a khóa mở cửa tự do trong đời ta và giúp ta làm chủ lấy cuộc đời. Không hiểu nhân quả th́ ta sẽ sống trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu của cuộc sống vô định, bắp bênh.



               Hiểu được nhân quả giúp ta định hướng dễ dàng và có một hướng đi và một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó khăn.





Sửa lại bởi phoquang : 09 April 2006 lúc 7:50am
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
raybin65
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 05 July 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 117
Msg 15 of 23: Đă gửi: 06 July 2006 lúc 7:38am | Đă lưu IP Trích dẫn raybin65

thế các bác có thể cho biết phương thức khai quang một tượng phật không

 

Quay trở về đầu Xem raybin65's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi raybin65
 
vun_vo
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 02 September 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1149
Msg 16 of 23: Đă gửi: 06 July 2006 lúc 7:43am | Đă lưu IP Trích dẫn vun_vo

khai quang tượng phật th́ khó khăn chi đâu ,cần ǵ ở nhà tự ḿnh làm lỡ gặp vong oan vào th́ khổ cả gia đa.o.Ba.n mang vào chùa nhờ thầy (sư) khai quang xong mang về thờ th́ an lành mà hưởng phúc của thầy của ta...

__________________
hạnh phúc từ đôi tay
tương lai từ tri thức
góp vào, vun vô, ǵn giữ
Quay trở về đầu Xem vun_vo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vun_vo
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 17 of 23: Đă gửi: 07 July 2006 lúc 9:51am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

có rất nhiều phương pháp khai quang một h́nh tượng Phật Bồ Tát tùy theo ḍng pháp và tùy theo từng vị thầy nữa. Có thể xin các bạn cứ góp ư cho vấn đề này được rơ hơn, xin gửi lời cảm ơn các bạn trước nhé. Chúng ta sẽ cùng t́m hiểu về vấn đề này, xin các bạn cứ tŕnh bày những ǵ các bạn biết về vấn đề này để mọi người cùng hiểu. Thực sự vấn đề này đă làm cho tôi phải đau đầu trong một khoảng thời gian dài v́ chỉ các vị xuất gia mới quyền khai quang h́nh tượng Phật Bồ Tát c̣n hàng cư sĩ th́ không được phép làm việc này cũng như các Ngài ít tiết lộ. Nhưng tôi cũng đă trao đổi và học hỏi với nhiều vị Thầy và các đạo hữu cũng như trong mộng về vấn đề này, bây giờ th́ vấn đề này đă được giải tỏa có thể gọi là đầy đủ tạm thời nhưng chắc chắn là chưa hoàn thiện hết v́ c̣n nhiều phương pháp khác nữa mà tôi chưa biết, xin các vị đóng góp cho. Tôi sẽ viết về chủ đề này trên một diễn đàn vào một thời gian thích hợp gần đây nhất.

Thực sự trong kinh điển nhà Phật không hề đề cập đến vấn đề khai quang h́nh tượng Phật Bồ Tát ( từ thời Phật c̣n tại thế ). Sau này do các vị yêu cầu nên Chư Tăng mới làm lễ khai quang an vị Thánh Tượng Phật Bồ Tát nhằm làm để an tâm cho các vị cư sĩ tu tập thôi. Bởi quư Ngài lấy phương châm " Phục vụ chúng sanh, chính là phụng sự Chư Phật vậy ". Thực sự vấn đề này đứng trên quan điểm Phật giáo Chánh Tín th́ không đúng lắm, chúng ta tôn thờ tôn tượng các Ngài chỉ là h́nh thức phưong tiện giúp cho chúng ta có niềm tin và học hỏi các đức tín tôn quư của các Ngài mà vững bước tu tập khi thấy tôn nhan của các Ngài; chứ chúng ta không nên xem các h́nh tượng này là một vị Thần linh ban bố mọi điều cho chúng ta. Đây là ư nghĩa thực của việc học Phật tu nhơn là Phật giáo Chánh tín là học Phật Chánh Pháp. Nên biết là vậy.


p/s: Các vấn đề về việc khai quang mà chúng ta trao đổi ở đây chỉ giúp cho chúng ta hiểu và biết theo tri thức của thế gian phàm t́nh. Chứ không v́ nó mà coi là sự huyền bí bí mật chỉ có các bậc xuất gia biết, chúng ta biết chỉ là biết và không nên làm theo các phương thức này. Bởi chúng ta là người học Phật Chánh tín không nên quá tin vào việc tôn tượng đă khai quang hay chưa. Việc này chẳng là vấn đế lớn mà việc lớn nhất của chúng ta là phải tu tập sao cho thoát khỏi sinh tử luân hồi khi trong hiện kiếp làm người này. ( Nếu có thể được th́ chúng ta chỉ nên sái tịnh an trí tôn tượng Phật Bồ Tát mà theo cách mà các vị vua bên Ấn Độ thường làm là được; đây là cách mà Ngài Đường Huyền Trang trong Tây Vức Du Kư có đề cập đến. Theo thiển ư tôi, đây là phương pháp đúng đắn nhất không bày vẽ cầu th́ sẽ đúng Pháp hơn cả )

Vấn đề này có thể được giải tỏa rơ cho quư vị bằng cách tham khảo ư của HT. Thánh Nghiêm, tôi thấy Ngài là bậc Cao Tăng có thể giải tỏa nhiều thiên kiến của nhiều người, quư vị xem tại Link
Kính chúc quư vị vạn sự kiết tường.
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Phổ Quảng
kính


Sửa lại bởi phoquang : 07 July 2006 lúc 9:56am
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 18 of 23: Đă gửi: 09 July 2006 lúc 10:23am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

xin cám ơn liên hữu Phổ Quang !
Cầu cho liên hữu luôn được thân tâm an lạc
Nam Mô A Di Đà Phật

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
Dinh Hue
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 78
Msg 19 of 23: Đă gửi: 10 July 2006 lúc 1:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn Dinh Hue

raybin65 đă viết:
thế các bác có thể cho biết phương thức khai quang một tượng phật không

Thỉnh tượng phật vào chùa nhờ sư trụ tŕ tụng chú và khắc tên ḿnh đằng sau bức tượng rồi sau đó để trước chánh điện ba bữa là xong.  Khai quang lối này linh hiển lắm.

Quay trở về đầu Xem Dinh Hue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dinh Hue
 
abeo
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 July 2006
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 29
Msg 20 of 23: Đă gửi: 11 July 2006 lúc 12:48am | Đă lưu IP Trích dẫn abeo




__________________
Abeo
Quay trở về đầu Xem abeo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi abeo
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.2188 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO