Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 184 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 201 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 12:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CÁC BẬC CHÂN SƯ YOGI ẤN ĐỘ

Chương Một

 

Từ ngh́n xưa, những đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ vẫn gồm có việc sưu tầm chân lư và tầm sư học Đạo. Định mệnh đă dẫn dắt tôi đến một vị minh sư thánh triết mà trong cuộc đời siêu việt sẽ tiêu biểu cho đời sống nhân loại trong những thế hệ tương lai. Đó là một trong những vị minh sư, di sản của thời đại cao cả huy hoàng của Ấn Độ, vẫn từng xuất hiện ở mỗi thế hệ loài người để giữ ǵn cho xứ sở của các Ngài thoát khỏi cái số phận của Babylone và Ai Cập! Trong những kư ức thời thơ ấu của tôi, phảng phất có sự nhớ lại cái h́nh bóng xa xăm của một tiền kiếp với những cảnh băng giá trên dăy Hy Mă Lạp Sơn, trong khi đó tôi đă từng là một tu sĩ. Những h́nh bóng của dĩ văng đó cũng gợi cho tôi thấy trước, do một sợi dây liên lạc huyền bí, những h́nh ảnh của tương lai. Tôi sinh ra tại Gorakhpur, một thành phố miền đông bắc Ấn Độ, vào khoảng cuối thế kỷ trước và sống tại đó trong tám năm đầu tiên của đời tôi. Cha mẹ tôi có tám người con: bốn trai và bốn gái. Tôi tên là Mukunda Lal Ghosh, là người con thứ tư trong gia đ́nh, trên tôi c̣ng có một anh và hai chị.

Cha mẹ đều là người tỉnh Bengale. Cả hai đều sống cuộc đời đạo đức gương mẫu, và một bầu không khí hoàn toàn ḥa hợp trong gia đ́nh giúp cho sự phát triển điều ḥa của tám đứa con c̣n nhỏ.
Cha tôi, Bhagabati Charan Ghosh, là một người tốt bụng nhưng nghiêm nghị và đôi khi có vẻ nghiêm khắc. Chúng tôi thương yêu và kính trọng người. Vốn là nhà toán học và lư luận, cha tôi sống thuần bằng lư trí. Mẹ tôi nuôi nấng chúng tôi trong t́nh thương. Khi mẹ tôi qua đời, cha tôi dồn hết cho chúng tôi t́nh phụ tử đậm đà mà từ trước người vẫn đè nén. Từ đó, tôi nhận thấy cái nh́n của người đôi khi phảng phất giống như cái nh́n tŕu mến của mẹ tôi.
Mẹ tôi biểu lộ ḷng kính mến đối với cha tôi hàng ngày bằng cách mặc quần áo sạch sẽ tươm tất cho tất cả chúng tôi mỗi buổi chiều để đón cha tôi đi làm về. Chức vụ của cha tôi hồi đó là phó chủ tịch Công Ty Hỏa Xa Bengale Nagpur Railway, một trong những công ty lớn nhất ở Ấn Độ. Công việc của người đ̣i hỏi một sự xê dịch thường xuyên, bổi đó hồi niên thiếu tôi đă từng sống tại nhiều thành phố khác nhau .

Mẹ tôi luôn luôn bố thí rất rộng răi cho những kẻ nghèo. Cha tôi tuy tốt bụng nhưng thích sống có mực thước, trật tự và điều này cũng áp dụng cho cả việc quản lư ngân sách gia đ́nh. Có lần chỉ trong nửa thánh, mẹ tôi tiêu xài về việc bố thí nhiều hơn số tiền cha tôi kiếm được trong trọn một tháng. Cha tôi bèn nói:
-Tôi chỉ yêu cầu bà một việc, là hăy bố thí trong một giới hạn hợp lư!
Mẹ tôi rất nhạy cảm đối với mọi điều chỉ trích của cha tôi. Người không nói ǵ, lẳng lặng ôm khăn gói bước ra cửa, gọi một chiếc xe ngựa và nói:
-Vĩnh biệt! Tôi trở về nhà mẹ tôi đây!

Đó là lời hăm dọa cổ điển của phụ nữa Ấn, mỗi khi có chuyện xích mích trong gia đ́nh. Chúng tôi bèn khóc. Ông cậu tôi từ đâu th́nh ĺnh bước vào rất đúng lúc, và nói nhỏ bên tai cha tôi một vài lời khuyên đầy minh triết đă từng được trắc nghiệm qua nhiều thế kỷ. Khi cha tôi đă xin lỗi, mẹ tôi bèn để khăn gói ở lại và cho xe ngựa về không. Như thế chấm dứt cuộc bất ḥa duy nhất mà tôi được biết đă từng xảy ra giữa cha mẹ tôi. Một lần khác, tôi nghe mẹ tôi nói:
-Ông hăy đưa tôi 10 rupees để cho một người đàn bà vô phước đang ngồi đợi tôi trước cửa .
Mẹ tôi vừa nói vừa kèm theo một nụ cười rất hấp dẫ, không thể nào từ chối được.
-Tại sao 10 rupees? Một rupee cũng được mà. Khi các cụ nhà tôi qua đời, (cha tôi nói tiếp để tự bào chữa) lần đầu tiên tôi đă biết cảnh nghèo. Bữa ăn trưa của tôi chỉ gồm có một trái chuối nhỏ, mà tôi phải đi học, trường học cách xa đến mấy dậm đường. Về sau vào đại học, tôi nghèo đến nỗi tôi xin tiền trợ cấp mỗi tháng chỉ có một rupee của một vị thẩm phán rất giàu có. Vậy mà ông ta từ chối, viện lẽ rằng tôi đ̣i hỏi quá nhiều!
Mẹ tôi nói:
-Ông thấy chưa? Ngày nay ông cay đắng biết bao nhiêu khi ông nhớ lại sự từ chối đó! Vậy ông có muốn cho người đàn bà kia cũng cảm thấy một sự cay đắng như vậy chăng khi ông từ chối 10 rupees mà bà ấy đang cần dùng cấp bách?
Mẹ tôi kết luận một cách rất hợp lư.
-À! Vậy bà đă thắng.
Cha tôi nói, và đành chịu thua trước một lư luận chặt chẽ như thế.
-Đây là 10 rupees. Bà hăy đưa cho bà ấy với tất cả mọi sự chúc lành của tôi.
Cha tôi dạy dỗ con cái trong ṿng kỷ luật chặt chẽ và chính cha tôi cũng là một người sống rất khắc khổ. Bởi đó, người không khi nào đi xem hát mà chỉ giải trí bằng sự tu dưỡng công phu và đọc sách thánh kinh Bhagavad Gita. Khinh thường mọi sự xa xỉ, người mang những đôi giày cho đến khi cũ mèm không dùng được nữa. Các anh em tôi mua xe hơi khi loại xe này trở thành thông dụng; c̣n cha tôi chỉđi xe buưt để đến sở làm. Ḷng ham mê tài lợi là một điều hoàn toàn xa lạ đối với tính chất của người. Có một lần, sau khi đă góp công thành lập nhà ngân hàng thành phố Calcutta, cha tôi từ chối không nhận phần chia lời đặc biệt của ḿnh và nói rằng người chỉ làm bổn phận trong khi nhàn rỗi, thế thôi.
Sau khi cha tôi về hưu được vài năm, một chuyên viên kế toán người Anh đến xem xét sổ sách của công ty. Ông ta lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà nhận thấy rằng cha tôi không hề đ̣i hỏi phần chia lời của ḿnh. Người chuyên viên tuyên bố:
-Ông ấy đă làm công việc của ba người! Công ty c̣n thiếu ông ta một số tiền lời chưa trả là 125,000 rupees!
Các viên chức Hỏa Xa bèn gửi cho cha tôi một ngân phiếu trả đủ số tiền trên. Cha tôi không nghĩ ǵ đến vấn đề này, thậm chí cũng quên cả việc nhắc nhở gia đ́nh về số tiền đó. Về sau, em trai tôi là Bishnu nhận thấy có một số tiền lớn gởi vào trương mục ngân hàng của cha tôi, mới hỏi người về vấn đề ấy. Cha tôi nói:
-Cần ǵ phải hănh diện v́ một lợi lộc vật chất? Người theo con đường Minh Triết không hề vui mừng v́ được lợi lộc cũng như y không buồn khi phải bị mất mát thua lỗ. Người biết rằng con người bước vào đời không có một xu và từ giă cuộc đời cũng vậy mà thôi .
Ít lâu sau khi thành hôn, cha mẹ tôi trở nên đệ tử của vị Minh Sư Lahiri Mahasaya tại thành Banaras. Việc này càng tăng cường thêm tính chất khắc khổ vốn tự nhiên của cha tôi. Mẹ tôi có lần tâm sự với Uma, chị tôi:
-Ba con với mẹ chỉ gần nhau một năm có một lần, mục đích duy nhất là để có con mà thôi.
Chú Abinash Babu, nhân viên Công ty Hỏa xa trạm Gorakhpur đă giới thiệu cha tôi cho vị tôn sư Lahiri Mahasaya. Chú có thuật lại cho tôi nghe nhiều chuyện lạ lùng về đời sống của các vị Minh Sư Ấn Độ, và luôn luôn kết luận rằng Tôn Sư cao hơn tất cả các vịấy .
- Cháu có bao giờ nghe nói về những trường hợp lạ lùng khiến cho ba cháu trở nên đệ tử của đức Lahiri Mahasaya chưa ?
Chính trong buổi chiều mùa hạ đẹp trời, khi chúng tôi ngồi chơi trước thềm nhà, mà chú Abinash đă hỏi tôi câu hỏi đó, nó làm cho tôi rất ṭ ṃ. Tôi lắc đầu và ngồi lắng tay nghe. Chú bắt đầu nói:
-Nhiều năm trước khi cháu ra đời, có lần tôi yêu cầu ba cháu, hồi đó là trưởng pḥng sở Hỏa xa ở Gorakhpur, hăy cho tôi nghĩ phép một tuần để đến viếng thăm Sư Phụ ở Banaras. Ba cháu bèn chế diễu tôi: "Chú sắp trở thành cuồng tín chăng? Chú hăy siêng năng làm việc trong văn pḥng, nếu chú muốn tiến thân trên đường công danh sự nghiệp." Ngày đó tôi buồn bă trở về nhà do một con đường nhỏ, và gặp ba cháu cũng đang đi kiệu về nhà khi tan giờ làm việc. Ba cháu cho những người phu khiêng kiệu trở về, rồi đi bộ để đàm đạo với tôi. Để an ủi tôi, ba cháu mới nêu cao những lợi ích làm việc để thành công trên đường đời. Tôi nghe một cách uể oải v́ tâm trí tôi lúc ấy chỉ nghĩ đến Tôn Sư là đức Lahiri Mahasaya .
Chúng tôi đi trên con đường ṃn xuyên qua một cánh đồng yên tịnh, mặt trời chiều c̣n chiếu sáng ánh nắng vàng trên ngọn cỏ. Chúng tôi bèn dừng chân ngắm cảnh. Chính trong lúc ấy từ trong cánh đồng, cách chúng tôi vài bước, th́nh ĺnh xuất hiện vị tôn sư của tôi:
-Bhagabati, sao con quá khắc khe với thuộc hạ của con quá vậy?
Giọng nói của tôn sư vang rền làm cho chúng tôi lặng người v́ ngạc nhiên. Nói xong Ngài liền biến mất một cách đột nhiên cũng như khi Ngài xuất hiện. Tôi bèn quỳ suống giữa đường và thốt lên: "Lahiri Mahasaya, Sư Phụ của con!" Ba cháu cũng hoàn toàn lặng người như bị sét đánh, và khi người trở lại sắc thái b́nh thường, người nói:
-Abinash, không những tôi cho chú nghĩ một tuần, mà chính tôi cũng nghĩ phép ngắn hạn để đi Banaras vào ngày mai. Tôi khát khao được chiêm ngưỡng đức Lahiri Mahasaya, người có quyền năng hiện h́nh tùy theo ư muốn chỉ v́ mục đích duy nhất là để xin phép cho chú. Tôi muốn đem vợ tôi theo và yêu cầu tôn sư cho chúng tôi được làm lễ nhập môn để theo học đạo với Ngài. Chú sẵn ḷng giới thiệu chúng tôi chứ?
-Lẽ tức nhiên! Tôi đáp.
Tôi rất vui mừng mà thấy rằng lời cầu nguyện của tôi đă linh ứng và mọi sự đă sẩy ra một cách tốt đẹp.
Chiều hôm sau, chúng tôi lên xe lửa đi Banaras. Qua ngày kế đó, chúng tôi đi lần lần, khi th́ đi ngựa, khi th́ đi bộ trên các đường ṃn để đến nơi am thất v¡ng vẻ của tôn sư. Khi chúng tôi bước vào pḥng khách, chúng tôi nghiêng ḿnh kính cẩn chào tôn sư, c̣n Ngài th́ ngồi trong tư thế liên hoa như thường lệ. Ngài bèn nh́n thẳng vào mắt ba cháu và nói:
-Bhagabati, sao con quá khắc khe với thuộc hạ của con vậy?
Những lời này chính Ngài đă thốt ra hôm nọ ở cánh đồng Gorakhpur.
-Ta rất vui mà thấy con cho phép Abinash đến đây và cả hai vợ chồng con cùng đi!
Kế đó, tôn sư bèn làm lễ nhập môn cho cha mẹ cháu theo đạo pháp Kriya Yoga (Pháp môn chế ngự sự loạn động của giác quan và giúp người hành giả lần lần đạt tới tâm thức vũ trụ, tức Chân Như Đại Thể.) Từ ngày đáng ghi nhớ, khi cái linh ảnh của tôn sư xuất hiện trên cánh đồng, ba cháu và tôi đều sát cánh nhau không rời, hai huynh đệ đồng môn. Đức Lahiri Mahasaya đă chú ư đặc biệt đến cháu ch¡c ch¡n sẽ có liên hệ với Ngài, v́ ân huệ của tôn sư không bao giờ lầm lẫn...
Đức Lahiri Mahasaya từ bỏ thế gian ít lâu sau khi tôi vừa bước vào cuộc đời. Bức di ảnh của Ngài, lồng trong một cái khuôn chạm trổ rất đẹp, luôn luôn được đặt trên một bàn thờ nhỏ của gia đ́nh, bất cứ ở thành phố nào mà cha mẹ tôi di chuyển đến v́ nhu cầu công vụ. Sáng và chiều, mẹ tôi và tôi đều suy ngẫm trước bàn thờ, và dâng hương hoa.
Bức chân dung đó có một ảnh hưởng lạ lùng trong đời tôi. Tư tưởng về tôn sư không ngớt thấn nhuần vào người tôi một cách sâu xa khi tôi càng trưởng thành. Có nhiều khi trong cơn thiền định của tôi, h́nh ảnh của Ngài dường như bước ra khỏi cái khuôn và ngồi trước mặt tôi như là người sống. Khi tôi thử đưa tay lên sờ vào hai bàn chân của Ngài, th́ h́nh ảnh ấy trở thành bức chân dung và lọt vào vái khuôn. Thời gian trôi qua, đức Lahiri Mahasaya không c̣n là bức ảnh trong khuôn mộc mạc tầm thường nữa, mà trong linh giác của tôi Ngài đă biến thành một sự hiện diện rực rỡ huy hoàng. Tôi luôn luôn gửi lời cầu nguyện đến với Ngài trong những khi buồn thảm cô đơn và tôi luôn luôn được một sự hỗ trợ tinh thần rất mạnh mẽ. Lúc đầu, tôi rất buồn v́ tưởng rằng Ngài đă chết, nhưng về sau tôi nhận thức rơ rệt sự toàn thông (hiện diện khắp nơi) của Ngài, và tôi không buồn rầu nữa. Ngài thường viết thơ trả lời cho những đệ tử quá bồn chồn mong muốn gặp mặt Ngài, như sau: "Các con có được lợi ích ǵ mà nh́n thấy cái thể xác vật chất của ta trong khi ta luôn luôn hiện diện trước cái nhăn quang tâm linh của các con."
Nhờ di ảnh của tôn sư mà tôi được khỏi bệnh một cách nhiệm mầu hồi tôi mới lên tám tuổi: Điều này càng tăng thêm ḷng yêu quư của tôi đối với Ngài. Khi cha mẹ tôi c̣n ở Ichapur, tỉnh Bengale, tôi mắc phải bệnh thiên thời, một chứng bệnh hiểm nghèo rất khó chữa. Các y sĩ đă tuyệt vọng và tuyên bố không thể chữa khỏi bệnh ấy. Mẹ tôi ngồi bên giường bệnh và bảo tôi hăy nh́n bức chân dung của Đức Lahiri Mahasaya treo trên tường, ở đầu giường của tôi.
"Con hăy qú trước mặt Ngài bằng tư tưởng!" Mẹ tôi nói, v́ biết rằng tôi không c̣n đủ sức để cựa quậy một ngón tay. "Nếu con có thể chiêm bái Ngài với tất cả tâm hồn, th́ con sẽ được cứu thoát."
Tôi chiêm ngưỡng bức thánh dung và đột nhiên một ánh sáng rạng ngời bao phủ lấy ḿnh tôi và lang rộng khắp pḥng. Cơn buồn mửa và triệu chứng khác đều tiêu tan; tôi cảm thấy hết bệnh. Đồng thời, tôi có đủ sức nghiêng ḿnh tới trước và n¡m lấy bàn tay của mẹ tôi, chứng tỏ cho mẹ tôi biết rằng đức tin vững chắc của mẹ tôi nơi đức tôn sư đă được ứng đáp mỹ măn. Mẹ tôi bèn ôm lấy bức chân dung mầu nhiệm và áp mặt lên g̣ má của bà nhiều lần để tỏ ḷng tôn kính.
-Ôi! Tôn sư cao cả! Xin tạ ơn Ngài đă ban ân huệ để cứu mạng của con tôi.
Khi đó tôi biết mẹ tôi cũng đă nhận thấy cái hào quang sáng rực nhờ đó mà tôi đă cứu chữa khỏi một chứng bệnh hiểm nghèo.
Bức chân dung đó là một trong những tài sản quư nhất của tôi. Ngày xưa, chính đức tôn sư ban bức chân dung này cho cha tôi, hiện nay nó vẫn c̣n mang theo những từ điển và thần lực thiêng liêng. Kali Kumar Roy, bạn đồng mông của cha tôi, có thuật cho tôi nghe lịch sử huyền diệu của nó.
Tôn sư vốn rất ghét chụp ảnh. Mặc dầu Ngài phản đối nhiều lần, nhưng người ta đă chụp được một loạt nhiều bức ảnh một nhóm đệ tử vây chung quanh đức Lahiri Mahasaya. Những người chụp ảnh lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng trong các bức h́nh, không thấy có tôn sư đâu cả và chỗ ngồi của Ngài lại trống trơn, hiện tượng này đă gây nên nhiều lời b́nh luận sôi nổi.
Khi đó, một đệ tử kiêm chuyên viên nhiếp ảnh đại tài là Ganga Dhar Baba mới nhất định chụp cho kỳ được h́nh ảnh của tôn sư mới nghe. Sáng ngày hôm sau, khi tôn sư ngồi tĩnh tọa công phu theo thế liên hoa trên một chiếc ghế dài với một tấm b́nh phong phía sau lưng, Ganga Dhar Babu bèn th́nh ĺnh xuất hiện với cái máy ảnh. Y đă chuẩn bị mọi sự một cách vô cùng chu đáo và chụp liên tiếp mười hai tấm. Khi rửa h́nh xong, th́ trong h́nh chỉ trơ trọi có cái ghế dài và tấm b́nh phong, mà không thấy tôn sư đâu cả!
Xấu hổ và rưng rưng nước mắt, Ganga Dhar Babu đến t́m đức tôn sư. Nhiều giờ lặng lẽ trôi qua trước khi tôn sư phá tan im lặng và nói:
-Ta là Tinh Thần. Máy ảnh của con có thể nào chụp được cái Tinh Thần vô h́nh vô ảnh?
-Con thấy rơ không! Nhưng bạch tôn sư, con rất muốn có một tấm h́nh của cái linh điện bằng xương bằng thịt mà theo con biết, đang làm chỗ trú ngụ duy nhất cho cái Tinh Thần đó.
-Như vậy, con hăy đến đây sáng ngày mai. Ta sẽ cho con chụp một tấm.
Thế là người nhiếp ảnh viên lại có dịp trổ tài. H́nh bóng đức tôn sư từ trước vẫn không ai chụp được, lần nầy hiện ra rơ rệt trên bức ảnh. Từ khi đó, tôn sư không bao giờ chịu cho bất cứ ai chụp ảnh Ngài nữa.
Ít lâu sau khi đă phục hồi sức khỏe nhờ bức chân dung mầu nhiệm của tôn sư, tôi có một linh ảnh lạ lùng. Một buổi sáng khi tôi c̣n ngồi trên giường, bỗng nhiên tôi rơi vào một giấc mơ thâm sâu huyền diệu. Một ánh hào quang rạng ngời và rộng lớn vô biên đột nhiên xuất hiện trước nhăn quang của tôi. Những h́nh ảnh thiêng liêng của các đấng hiền minh thánh triết đắm ch́m trong cơn thiền định trong các hang núi thâm u, diễn ra trước mắt tôi như một cuốn phim trên màn ảnh.
- Quí vị là ai? Tôi cất tiếng hỏi .
-Chúng tôi là các đạo sĩ Yogi trên dăy Hy Mă Lạp Sơn.
Câu trả lời vọng đến tai tôi gây cho tôi một cảm giác say sưa, lâng lâng thoát tục.
-A! Tôi cũng phải lên núi Hi Mă Lạp Sơn để trên nên như quí vị.
Cái linh ảnh biến mất, nhưng những tia sáng như bạc vẫn c̣n nới rộng thành những ṿng tṛn trong không gian vô tận...
-Ánh sáng huyền diệu ôi! Người là ai?
-Ta là Thượng Đế (Ishwara). Ta là "Ánh Sáng." Giọng nói ấy nghe như xuôi rót và trong như tiếng suối bạc chảy trong khe núi.
-Con chỉ muốn hợp nhất với Ngài!
Niềm phúc lạc thiêng liêng ấy tan dần và biến mất c̣n tôi từ ấy luôn luôn khao khát muốn t́m sự hợp nhất với Thượng Đế là đấng trường tồn, nguồn gốc của mọi hạnh phúc và an vui bất tận. Cái kỷ niệm ấy vẫn c̣n tồn tại rất lâu sau khi linh ảnh chấm dứt.
Một kỷ niệm khác hồi thời thơ ấu của tôi cũng đáng ghi nhớ, v́ nó c̣n ghi dấu trên ḿnh tôi bằng một cái thẹo. Một buổi sáng Uma chị tôi, và tôi cùng ngồi chơi dưới một tàn cây to ở Gorakhpur. Trên cành cây, những con két đang mổ vào những trái sung chín đỏ, Uma kêu đau v́ mụt nhọt dưới chân và lấy thuốc xoa bóp chỗ đau. Để giỡn chơi, tôi cũng lấy một chút thuốc và xoa trên cánh tay tôi.
-Em không đau mà cũng thoa thuốc trên tay làm ǵ? Chị tôi hỏi.
-Chị không biết, ngày mai em sẽ bị mụt nhọt. Em thoa thuốc ở chỗ mà nó sẽ xuất hiện.
-Đồ nói láo!
-Chịơi, chị không có quyền mắng em như thế trước sáng ngày mai, rồi chị sẽ thấy đúng như lời em nói. Tôi tức ḿnh nên nói càn như vậy.
Uma không tỏ vẻ hối hận mà c̣n lập lại câu mắng tôi lúc năy. Tôi bèn đáp lại bằng một giọng đầy cương quyết:
-Với tất cả sức mạnh ư chí trong ḿnh tôi, tôi tuyên bố rằng không trễ hơn sáng ngày mai, tôi sẽ có một mục nhọt lớn hơn cánh tay này; c̣n cái mụt nhọt của chị sẽ sưng lên gấp đôi.
Sáng ngày hôm sau, quả thật nơi cánh tay của tôi mọc lên một mụt nhọt khá lớn và đỏ tươi, c̣n mụt nhọt của Uma sưng vù lên trông thật dễ sợ. Chị tôi la hoảng lên và chạy kiếm mẹ tôi:
-Mẹ ơi! Mukunda đă thành phù thủy!
Mẹ tôi nghiêm nghị bảo tôi không bao giờ nên dùng quyền năng của lời nói để làm điều chẳng lành. Tôi vâng lời mẹ từ đó không hề quên lời dạy ấy...
Những lời nói chất phác tầm thường, bề ngoài có vẻ vô tội, mà tôi đă thốt ra với một sự tập trung ư chí mănh liệt, cũng đủ phát ra một sức mạnh vô h́nh ảnh hưởng phá hoại các tế bào trong da thịt. Về sau, tôi hiểu rằng những âm ba rung động của lời chú nguyện có một quyền năng mănh liệt, nó c̣n có thể được sử dụng để giúp chúng ta thoát khỏi những sự khó khăn của cuộc đời .
Gia đ́nh chúng tôi đổi đến Lahore trong tỉnh Punjab. Nhà có đặt một cái trang thờ nhỏ ở ngoài bao lơn để thờ đức Phật Bà Quan Thế Âm. Không hiểu sao tôi có một đức tin chắc chắn rằng trước cái trang thờ thiêng liêng này mỗi lời cầu nguyện của tôi đều được đáp ứng. Một ngày nọ khi tôi đang đứng với chị Uma trước bao lơn tôi thấy có hai con diều giấy bay trên nóc nhà ở phía bên kia đường lộ. Uma thấy tôi suy tư, bèn nói đùa:
- Hôm nay em có vẻ như một nhà Hiền Triết.
-Em đang suy nghĩ rằng đức Phật Mẫu thật là quá tốt lành mà đáp ứng mọi điều em mong ước.
-Chị chắc Ngài đă cho em một con diều giấy kia rồi đấy! Chị tôi vừa nói với một giọng diễu cợt.
-Tại sao không?
Tôi bèn âm thầm cầu nguyện đức Phật Mẫu làm cho một con diều giấy kia rơi vào tay tôi.

Bên Ấn Độ, người ta thích chơi diều giấy, mỗi người chơi diều lại t́m cách cắt đứt sợi dây diều của một kẻ đối phương. Khi con diều bị cắt đứt dây, nó sẽ bay lượn trên không trước khi rơi xuống nóc nhà và một cuộc rượt bắt sôi nổi sẽ diễn ra xem ai bắt được con diều. V́ lẽ Uma và tôi đang đứng trên bao lơn, nên chúng tôi không thể nào rượt bắt kịp những người khác.
Phía bên đường lộ cuộc chơi bắt đầu. Một con diều bị cắt đứt dây, nó liền bay tới gần chỗ tôi đứng. Tự nhiên gió im bặt làm cho con diều ngừng bay hết một lúc, sợi dây của nó vướng vào một cây sương rồng trên nóc nhà bên cạnh, rồi cuốn lại thành một cái gút to x̣a xuống trước mặt tôi. Tôi bèn đưa tay ra nắm lấy sợi dây và đưa con diều cho Uma.
-Đó chỉ là một sự ngẫu nhiên t́nh cờ, và không có dính dáng đến lời cầu nguyện của em. Em hăy bắt luôn con diều kia th́ chị mới tin.
Tuy chị tôi nói vậy, nhưng tôi thoáng thấy trong cặp mắt chị có một sự ngạc nhiên nó đính chánh lời của chị.
Tôi bèn tiếp tục cầu nguyện Phật Bà Quan Âm với tất cả tâm hồn. Một người chơi diều bị cắt đứt dây, con diều bèn nhảy múa trên không theo chiều gió và hướng về phía tôi. Sợi dây lại quấn ṿng quanh cây xương rồng như lúc năy rồi làm thành cái gút lớn hạ xuống trước mặt tôi. Tôi bèn nắm lấy và đưa con diều thứ hai cho Uma.
-Lạ thật, đức Phật Mẫu quả thật đă nghe lời cầu nguyện của em. Chị chẳng hiểu ǵ cả.
Chị tôi liền chạy đi như một con nai tơ bị đuổi.

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 202 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 12:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MÓN LINH VẬT HỘ PHÙ

Chương Hai

 

Điều mong ước lớn nhất của mẹ tôi là lập gia đ́nh cho anh cả tôi. Á! Khi nào tôi nh́n thấy gương mặt vợ của Ananta, tôi sẽ có cảm giác như sồng trên thiên đàng ở hạ giới!” Đó là lời của mẹ tôi thốt ra để bày tỏ ḷng mong ước điển h́nh của người Ấn Độ, là được bảo đảm sự nối tiếp gịng dơi của gia đ́nh.

Khi Ananta thành hôn, tôi mới lên bảy tuổi. Mẹ tôi lúc ấy ở Calcutta lo chuẩn bị mọi việc để cử hành hôn lễ. Chỉ c̣n có cha tôi và tôi ở nhà tại Bareilly, trên miền Bắc Ấn, cha tôi vừa đổi đến đây sau ba năm làm việc tại Lahore.

Tôi đă từng dự các cuộc hôn lễ rực rỡ tưng bừng của hai chị tôi là Roma và Uma. Đối với Ananta là anh cả trong gia đ́nh, th́ những nghi lễ cưới hỏi lại càng đặc biệt và long trọng hơn nữa.

Tại Calcutta, mẹ tôi tiếp đón nhiều quan khách đến từ các vùng xa và để họ tá túc ở một ngôi nhà rộng răi, đầy đủ tiện nghi vừa mua được ở số 50 đường Amherst. Mọi việc đều đă chuẩn bị sẵn sàng: những món ăn cao lương mỹ vị, chiếc kiệu lót lụa thêu thên đó Ananta sẽ được đặt ngồi lên và khiêng đi một cách long trọng đến nhà tân giai nhân, những đèn lồng màu mè sặc sỡ, những con lạc đà và voi bằng giấy nhồi cứng, những dàn nhạc Ấn Độ và Tây Phương, những kẻ làm tṛ hề chuyên nghiệp, những tăng lữ hành lễ tôn giáo theo nghi lễ cổ truyền.

Cha tôi và tôi cũng sắp sửa chọn ngày lên đường đẻ dự lễ cưới cùng với gia đ́nh. Nhưng một đêm nọ tôi thấy một linh ảnh báo trước việc chẳng lành.

Đêm đó vào lúc nửa đêm ở tại Bareilly. Tôi đang ngủ bên cạnh cha tôi trên giường th́ th́nh ĺnh tôi giật ḿnh thức dậy v́ một tiếng động khác thường làm rung rinh chiếc mùng. Cái mùng vén lên và tôi nh́n thấy mẹ tôi.

-Đánh thức cha con dậy!

Tiếng nói của mẹ tôi lúc ấy chỉ c̣n là một giọng nói nhỏ th́ thầm.

- Hai cha con hăy đáp chuyến xe lửa đầu tiên lúc bốn giờ sáng để đi Calcutta ngay lập tức nếu muốn c̣n nh́n thấy mẹ!

Nói đến đó, mẹ tôi ngất xỉu và biến mất!

-Cha ơi! Cha! Mẹ đang hấp hối!

Giọng nói sợ hăi của tôi làm cha tôi thức giấc. Tôi càng khóc lớn hơn. Cha tôi dỗ dành:

-Đó chỉ là một cơn ảo ảnh chứ không có ǵ lạ. Mẹ con đang mạnh khỏe không đau ốm chi. Nếu hôm nay có tin ǵ, chúng ta sẽ đi ngay vào ngày mai.

-Cha sẽ hối hận suốt đời nếu cha không chịu đi ngay cho kịp ngày. Con cũng vậy, con cũng sẽ oán trách cha suốt đời nếu cha không đi cho con kịp nh́n thấy mẹ!

Tôi nói lớn trong cơn thất vọng. Sáng hôm sau, tôi nhận được bức điện tín: “Mẹ đau nặng. Hôn lễ đ́nh lại sau. Hăy đến ngay.”

Chúng tôi hối hả lên đường. Một người cậu gặp chúng tôi, lúc xe lửa ngừng tại một nhà ga lớn ở dọc đường. Một chuyến xe lửa ở đầu kia đi lại ầm ầm như cơn giông, tiếng động mỗi lúc càng lớn khi chuyến xe đến càng gần. Trong cơn đau khổ, tôi cảm thấy muốn nhào xuống đường rầy. Tôi đă không con mẹ, như linh tính tôi đă báo trước, cuộc đời từ nay đối với tôi thật vô vị và không thể chịu nổi. Mẹ tôi là một người tri kỷ lớn nhất mà tôi có trên đời, đôi mắt đen của mẹ tôi là một nguồn an ủi duy nhất, t́nh thương của mẹ tôi là nơi trú ẩn chắc chắn nhất trong thời thơ ấu của tôi.

-Chị c̣n sống chăng? Cậu tôi hỏi.

-Tự nhiên là c̣n! Cha tôi đáp.

Tuy nhiên, tôi không tin tưởng ở lời quả quyết này, và cậu tôi đă khám phá ra nét thất vọng hiện trên gương mặt của tôi.

Chúng tôi đến Calcutta chỉ vừa kịp để chứng kiến cái chết của mẹ tôi. Tôi rơi vào một trạng thái buồn thảm và sự sống đối với tôi không c̣n ư nghĩa ǵ. Nhiều năm trôi qua trước khi tôi có thể ḥa ḿnh với sự thật đă rồi và không thể tránh khỏi. Những tiếng khóc than của tôi vang dội đến tận mây xanh, sau cùng đă động ḷng đức Phật Mẫu thiêng liêng nên ngài đă xoa dịu vết thương ḷng của tôi bằng những lời này:

-Chính Ta đă săn sóc đến con, từ kiếp này sang kiếp khác, suyên qua t́nh thương của vô số những người mẹ đă sinh ra con ở thế gian! Con hăy thấy trong cái nh́n của Ta những tia sáng dịu hiền của những cặp mắt đẹp long lanh và đen huyền mà con đă mất!

Cha tôi và tôi trở về Bareilly, sau khi lễ hỏa táng mẹ tôi đă hoàn tất. Mỗi buổi sớm mai, tôi thức sớm và đén chiêm ngưỡng dưới gốc cây sheoli che bóng mát xuống băi cỏ xnah trước nhà. Những cánh hoa trắng tinh của chây sheoli tô điểm cho cảnh vật càng thêm xinh tươi. Đôi mắt đẫm lệ và sương, tôi thường nh́n thấy một ánh sáng lạ lùng huyền diệu đến với lúc b́nh minh. Một cơn khác vọng t́m chân lư xâm chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy một sức lôi cuốn mănh liệt thúc đẩy tôi đến dăy Hy Mă Lạp Sơn.

Một người anh họ của tôi vừa đi chơi trên dăy Hy Mă Lạp Sơn trở về có đén thăm chúng tôi tại Bareilly. Tôi chăm chú nghe một cách say sưa những chuyện của y tường thuật về những non cao động cả là nơi trú ẩn của các nhà đạo sĩ Yogi.

-Chúng ta hăy đi lên núi Hy Mă Lạp Sơn.

Tôi đề nghị với Dưarka Prasad, lúc ấy đang ở trọ nhà chúng tôi tại Bareilly. Y bèn tiết lộ điều đó cho anh cả tôi là Ananta đang đến thăm cha tôi lúc ấy. Ananta không những mỉm cười về chương tŕnh táo bạo của một đứa em nhỏ mà c̣n diễu cợt tôi:

- Cái áo cà sa vàng của em đâu? Cái đó mới là áo của tu sĩ!

Những lời này gây cho tôi một ảnh hưởng bất ngờ. Trong tâm hồn tôi luôn lởn vỏn những linh ảnh trong đó tôi thấy tôi mặc áo cà sa vàng của nhà tu sĩ và đi hành hương ta bà khắp xứ Ấn Độ. Phải chăng câu nói đó đă làm thức động những kư ức về những tiền kiếp của tôi khi xưa? Dầu sao, tôi sẵn sàng khoát lấy một cách thoải mái và dễ dàng bộ áo vàng của người tu sĩ.

Một buổi sáng nọ, trong khi tôi đang nói chuyện với Dwarka, ḷng sùng kính Thiêng Liêng tự nhiên xâm chiếm hồn tôi một cách đột ngột. Bạn tôi nghe những lời thuyết pháp hùng hồn của tôi một cách uể oải trong khi tôi lấy làm sung sướng mà nghe giọng nói của chính ḿnh!

Trưa hôm ấy, tôi lén trốn đi Naini Tal, dưới chân núi Hi Mă Lạp Sơn. Ananta liền cương quyết đuổi theo bắt tôi trở lại, và tôi lấy làm buồn mà phải quay trở về Bareilly. Từ nay, cuộc hành hương duy nhất mà tôi được phép thực hiện là đi đến gốc sheoli mỗi buổi sớm mai. Tôi càng khóc thầm v́ đă mất đi một người mẹ nhân từ và thánh thiện.

Cái chết của mẹ tôi là một sự thiệt tḥi lớn cho gia đ́nh. Cha tôi không chịu tái giá, và sống góa vợ như thế trong gần bốn mươi năm. Sống cảnh gà trống nuôi con, cha tôi trở nên dịu dàng và mềm mỏng hơn và dễ thông cảm hơn. B́nh tĩnh và lo xa người giải quyết êm thắm tất cả mọi vấn đề trong nội bộ gia đ́nh. Sau giờ làm việc người sống cô độc như một ẩn sĩ trong pḥng riêng, và thực hành pháp môn thiền định. Về sau, tôi có ư định thuê một cô người Anh coi sóc việc nhà và đem lại ít nhiều tiện nghi cho gia đ́nh, th́ cha tôi lắc đầu từ chối:

-Đối với cha, con thấy không, đă dứt mọi sự săn sóc từ ngày mẹ con khuất núi. Cha sẽ không bao giờ chịu nhận sự săn sóc của một người đàn bà nào khác.

Mười bốn tháng sau khi mẹ tôi mất, tôi mới biết rằng mẹ tôi có để lại cho tôi một thông điệp tối quan trọng. Ananta có mặt bên giường bệnh khi mẹ tôi hấp hối, đă nghe những lời trăn trối của mẹ tôi. Tuy mẹ tôi có dặn rằng phải cho tôi biết trong một năm sau, nhưng anh tôi đă đ́nh hoăn lại ngày đó. Anh tôi sẽ rời khỏi Bareilly trong ngày gần đây để cưới người con gái mà mẹ tôi đă chọn lựa. V́ thế, một buổi chiều, anh tôi đến t́m tôi và nói:

-Mukunda, từ lâu, anh đă do dự không muốn cho em biết một tin nó sẽ làm em ngạc nhiên.

Ananta nói với một giọng an phận:

-Anh sợ rằng nếu cho em biết sớm hơn, việc này càng làm cho em muốn bỏ gia đ́nh để xuất gia. Tuy nhiên, em đă có nguồn cả hứng thiêng liêng; cho nên lúc rượt bắt em trở lại gia đ́nh sau khi em muốn lên núi Hy Mă Lạp Sơn, anh đă quyết định cho em biết ngay lời trăn trối của mẹ.

Anh tôi bèn đưa cho tôi một cái hộp nhỏ đụng bức thông điệp của mẹ tôi. Trong đó mẹ tôi viết như sau:

Mukunda con hỡi! Những lời này là lời chúc lành cuối cùng của mẹ gửi đến con. Giờ phút này là lúc mà mẹ phải tiết lộ cho con biết vài sự lạ thường xảy ra sau khi con vừa mở mắt chào đời. Con chỉ là một hài nhi khi mà định mệnh của con được tiết lộ cho mẹ biết, lần đầu tiên vị tôn sư của mẹ ở Banaras. Hôm ấy, tôn sư đang tọa thiền và xuất thần nhập định, vác vịđệ tử lúc ấy đang ngồi tề tựu rất đông chung quanh Ngài đến nỗi mẹ ngồi ẩn khuất ở tận phía sau và không nh́n thấy mặt tôn sư.

Mẹ bồng con trên tay và cầu nguyện cho tôn sư biết có mẹ con ta trong đám đông để ngài ban ân huệ cho chúng ta. Trong khi mẹ đang âm thầm cầu nguyện ráo riết th́ tôn sư mở mắt ra và gọi mẹ lại gần. Đám đông để cho mẹ đi qua và mẹ qú xuống một bên ngài. Tôn sư mới bồng con đặt lên đầu gối ngài và đặt bàn tay tên trán con trong một cử chỉ ban ân huệ tâm linh. Ngài nói: “Này hiền mẫu, con của người sẽ trơ nên một tu sĩ xuất gia. Y sẽ đưa nhiều linh hồn đến cơi Phật.”

Ḷng mẹ tràn ngập niềm vui sướng v́ tôn sư toàn thông đă nghe được lời cầu nguyện thầm kín của mẹ. Trước khi con lọt ḷng mẹ th́ tôn sư đă tiên đoán được rằng ngày sau con sẽ noi theo con đường của Ngài.

Về sau, con hỡi, mẹ đă có dịp tin tưởng một cách chắc chắn rằng con đường của con sẽ đưa con đi xa khỏi cuộc đời thế tục. Một sự kiện độc đáo đă xác nhận sự tin tưởng đó và ngày nay mẹ để lại cho con lời di chúc tối hậu này, trên giường bệnh hấp hối của mẹ.

Đó là về sự gặp gỡ một nhà hiền giả xứ Punjab. Trong khi gia đ́nh ta đang cư ngụ tại Lahore. Một buổi sớm mai, người gia bộc chạy vào pḥng mẹ và nói: “Thưa bà, một người tu sĩ dị kỳ vừa đến đây. Ông ta đ̣i yết kiến mẹ của Mukunda.”

Những lời nói đó làm cho mẹ sửng sốt. Mẹ liền bước ra vái chào người khách lạ. Khi mẹ nghiêng ḿnh kính cẩn chào người, th́ mẹ cảm thấy vầng mẹ đang đứng trước một vị sứ giả của Thiêng Liêng. Người ấy nói: “Này hiền mẫu, tôn sư muốn cho bà biết rằng kiếp sống hiện tại bà ở thế gian này đă chấm dứt. Cơn bệnh sắp tới của bà cũng sẽ là cơn bệnh cuối cùng.”

Nói xong, người im lặng trong một lúc, trong khi mẹ không hề cảm thấy sợ sệt mà tâm hồn mẹ tràn đầy một niềm an tịnh vô biên. Sau cùng người lại nói: “Bà sẽ gửi một món bảo vật hộ phù bằng bạc. Tôi sẽ không đưa cho bà ngày hôm nay, nhưng để chứng thực lời nói của tôi, vật ấy sẽ hiện ra ngày mai khi bà ngồi thiền. Đến giờ hấp hối, bà sẽ yêu cầu người con cả là Ananata hăy giữ lấy vật ấy trong một năm và sau đó hăy chuyển giao cho người con thứ. Người này sẽ nhận lấy vật ấy vào lúc mà y cảm thấy sẵn sàng từ bỏ thế gian để xuất gia tầm Đạo. Khi người này đă giữ món hộ phù ấy trong nhiều năm và vật ấy đă làm tṛn sứ mệnh của nó, nó sẽ tự nhiên biến mất. Y không cần phải dấu nó ở một nơi kín đáo, v́ nó sẽ trở về chỗ cũ!”

Mẹ bèn cúng dường cho vị tu sĩ một món tiền đi đường nhưng vị ấy từ chối và rút lui sau khi đă ban ân huệ cho mẹ. Chiều hôm sau, khi mẹ ngồi thiền, một vật hộ phù bằng bạc tự nhiên xuất hiện trong hai bàn tay của mẹ, đúng như lời vị tu sĩ đă nói trước. Vật ấy trước hết hiện ra làm cho mẹ có một cảm giác lành lạnh và trơn trơn trong bàn tay. Mẹ đă giữ ǵn cẩn thận vật ấy trong hai năm và đă giao cho Ananta.

Mukunda con hỡi, con đừng khóc mẹ nữa, vị tôn sư thiêng liêng sẽ hộ tŕ cho mẹ trong cơi Vô Cùng. Thôi, mẹ từ giă con, và cầu chúc đức Phật Mẫu che chở cho con.

(Mẹ tôi đă biết trước một cách bí mật rằng bà sẽ không c̣n sống bao lâu nữa, do đó tôi mới biết v́ sao mẹ tôi quyết định cưới vợ gấp cho anh tôi.)

Một ánh sáng thần diệu xâm chiếm lấy tôi khi tôi sở hữu món bảo vật ấy; nhiều kỷ niệm đă lăng quên từ đâu nay đă thức động trở lại. Món bảo vật, h́nh tṛn, có một dĩ văng cổ xưa không biết từ đời nào, có khắc chữ cổ Phạn. Tôi đoán rằng đó là món quà tặng của những vị Minh Sư mà tôi đă biết trong những kiếp quá khứ, ngày nay đă đặt tôi dưới sự bảo vệ vô h́nh và bí ẩn của ngài. Nó c̣n có một ư nghĩa huyền diệu khác nữa mà tôi không được phép tiết lộ.

C̣n món bảo vật đă biến mất như thế nào vào những giờ phút đau khổ nhất của đời tôi, và sự biến mất ấy mở màng cho việc gặp gỡ với tôn sư tôi như thế nào, th́ điều đó tôi không thể tường thuật lại trong chương này.

Nhưng người thanh niên bị thất vọng trong chuyến du hành lên dăy Hy Mă Lạp Sơn, đă đi xa, dưới ảnh hưởng pḥ trợ vô h́nh của món bảo vật hộ phù.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 203 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 12:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NGƯỜI ĐẠO SĨ PHÂN THÂN

Chương Ba

 


-Thưa cha, nếu con hứa với cha rằng con sẽ trở về nhà mà không có sự ǵ rắc rối, cha cho phép con đi chơi thành Banaras một chuyến chăng?

- Cha không bao giờ ngăn cản ḷng ham thích đi du lịch của tôi. Dẫu trong lúc tôi c̣n thơ ấu, cha tôi từng cho phép tôi đi hành hương thăm viếng nhiều thành phố và danh lam thắng cảnh, thường là với một vài người bạn. Chúng tôi đi du lịch trên toa xe lửa hạng nhất, với những vé của cha tôi lấy cho, nhờ địa vị của cha tôi trong công ty hỏa xa nên chúng tôi có thể đi du lịch một cách thuận tiện và dễ dàng.

Cha tôi đă hứa chấp thuận lời yêu cầu của tôi. Ngày hôm sau, người gọi tôi lại gần và đưa cho tôi một vé xe lửa đi Banaras, một số tiền rupees và hai bức thư.

Cha có một việc kinh doanh mà cha định đề nghị với một người bạn ở Banaras là Kedar Nath tiên sinh. Rủi thay, cha đă đánh mất địa chỉ của ông ta. Nhưng con có thể chuyển giao bức thư của cha qua sự trung gian của một người bạn khác là đại đức Pranabananda. Vị tu sĩ này, một bạn đồng môn với cha, có một tŕnh đọ tâm linh rất cao và sự tiếp xúc với người sẽ rất hữu ích cho con. Bức thư thứ hai là thư giới thiệu con với vị tu sĩ ấy.

Tôi bước chân ra đi, với ḷng nhiệt thành của tuổi thiếu niên. Khi vừa đén Banaras, tôi liền t́m đến nhà của vị tu sĩ. Một người thân h́nh lực lưỡng ḿnh trần, vận chăn, đang ngồi kiết dà theo tư thế Liên Hoa trên một bậc thềm khá cao> người ấy râu tóc đều cạo sạch, với một nụ cười an lạc thoảng nhẹ trên môi. Để trấn tĩnh tâm hồn c̣n non dại của tôi, người tiếp đón tôi như một người bạn cố hữu, và nói với một giọng ân cần:

-Bằng an đến với con!

Tôi bèn qú xuống làm lễ và sờ nhẹ lên hai bàn chân người theo phong tục bổn xứ.

-Thưa Đại Đức, có phải ngài là Đại Đức Swami Pranabananda không?

Người gật đầu và nói: -C̣n con là con của Bhagabati phải chăng?

Người thốt ra những lời này trước khi tôi có thời giờ móc trong túi ra lấy bức thư của cha tôi. Ngạc nhiên, tôi bèn đưa cho người bức thư giới thiệu mà tôi thấy không cần thiết nữa. Chưa vội xem thư, người đă nói:

-Lẽ tự nhiên, tôi sẽ t́m Kedar Nath tiên sinh để trao bức thư của cha con.

Lại một lần nữa, thần nhăn của vị tu sĩ làm cho tôi ngạc nhiên. Khi ấy, người mới mở thư ra xem và nói vài lời ưu ái về cha tôi.

-Con biết không, tôi hưởng thụ được hai phần hưu bổng, phần thứ nhất là nhờ cha con khi tôi c̣n làm việc dưới quyền của người ở sở Hỏa Xa; c̣n phần thứ hai nhờ ở Thượng Đế, nhờ Ngài mà tôi đă thực hiện được công việc của tôi trong kiếp này.

Tôi nhận thấy câu nói ấy ư nghĩa rất mập mờ bí hiểm.

-Đại Đức hưởng phần hưu bổng của Thượng Đế ra sao? Ngài cho Đại Đức tiền phải không?

Vị tu sĩ bật cười:

-Tôi muốn nói đó là sự bằng an tuyệt vời nó đến với tôi sau nhiều năm thiền định. Hiện nay tôi không cần tiền để làm ǵ; v́ những nhu cầu ít oi của tôi được thỏa măm một cách rộng răi. Sau này con sẽ hiểu ư nghĩa những lời tôi nói.

Kế đó, vị tu sĩ ngưng nói chuyện và thẳng ḿnh ngồi yên bất động như pho tượng đá. Lúc đầu, đôi mắt tu sĩ c̣n như đắm ch́m vào cơi hư không. Sự im lặng này làm tôi bâng khuâng, vả lại vị tu sĩ vẫn chưa nói cho tôi biết làm thế nào tôi có thể gặp người bạn của cha tôi. Tôi nh́n qua một lượt khắp gian pḥng trống trơn và sau cùng tôi chú ư đến đôi guốc của vị tu sĩ đặt dưới chân thềm.

-Con đừng băn khoăn ǵ nữa; người mà con muốn t́m sẽ đến đây trong nửa giờ.

Vị tu sĩ đọc được tư tưởng của tôi, lần này không phải khó khăn ǵ lắm!

Người lại ngồi yên và im như pho tượng. Tôi nh́n đồng hồ tay th́ thấy nửa giờ đă trôi qua. Vị tu sĩ lại nói:

-Tôi chắc là Kedar Nath Babu tiên sinh đă gần đến trước cửa.

Tôi lắng nghe có tiếng chân người bước lên cầu thang. Tôi hoàn toàn ngạ nhiên và những tư tưởng huyên náo đ̣n dập trong trí tôi. Làm sao bạn của cha tôi có thể được mời đến đây mà không do sự trung gian của một người phát thư nào? Từ khi tôi đến đây, vị tu sĩ không có nói chuyện với ai cả, ngoài tôi ra. Tôi bèn bước ra khỏi pḥng và đi xuống cầu thang. Giữa thang lầu, tôi gặp một người gầy ốm, vóc vạc trung b́nh, màu da tái nhợt và có vẻ vội vàng.

-Có phải ông là Kedar Nath Babu tiên sinh? Tôi hỏi với một giọng xúc động.

-Phải, c̣n em là con của Bhagabati đến đợi tôi ở đây? Người vừa nói vừa cười một cách thân t́nh.

-Thưa ông, làm sao ông biết mà đến đây gặp cháu? Sự có mặt khó hiểu của ông ta làm cho tôi phân vân.

- Hôm nay, thật là nhiều chuyện bí hiểm! Cách đay không đầy một giờ, khi tôi vừa tắm xong dưới sông Hằng th́ Đại Đức Swami Pranabananda đă t́m tôi ở tận bờ sông. Tôi không hiểu tại sao đại đức lại biết tôi ở dưới sông vào giờ đó. Rồi đại đức nói: “Con của Bhagabati đợi anh ở nhà tôi. Anh hăy đi theo tôi về nhà.”

-Tôi vui vẻ nhận lời, và cùng đi về với đại đức. Khi đi đường, đại đức chân đi guốc gỗ nhưng đi mau hơn tôi trong khi tôi mang giày bố, nhẹ và gọn, dùng để đi bộ đường xa. Bỗng nhiên, người dừng chân và hỏi:

-Từ đây về nhà, anh đi mất bao lâu?

-Độ chừng nửa giờ.

-Bây giờ, tôi c̣n phải làm việc khác và tạm biệt anh ở đây. Anh sẽ gặp tôi tại nhà với người con của Bhagabati.

-Trước khi tôi có thời giờ để mở miệng, người đă đi ngay và biến mất dạng trong đám đông. Tôi đă hối hả đến ngay cho kịp.

Cách giải thích này càng làm cho tôi rối trí thêm và không hiểu ǵ cả. Tôi hỏi:

-Đại Đức đă xuất hiện trong một linh ảnh hay là ông đă thấy người bằng xương bằng thịt, đă sờ vào ḿnh người và nghe tiếng chân của người đi?

Kedar Nath Babu tiên sinh đâm ra gắt gỏng:

- Em nói cái ǵ vậy? Tôi không có nói láo! Làm sao tôi biết em đợi tôi ở đây nếu đại đức không nói cho tôi biết?

-Ấy là v́ đại đức Swami Pranabananda không hề bước ra khỏi pḥng này từ khi tôi đến đây trước một giờ!

Tôi đáp và thuật lại cho ông ta nghe những ǵ đă xảy ra. Kedar Nath Babu tiên sinh gương đôi mắt lớn:

-Tôi mơ chăng? Tôi không thể tưởng tượng rừng một phép lạ như vậy có thể xảy ra! Tôi tưởng rằng đại đức cũng như mọi người, không ngờ người lại có quyền năng phân thân và xuất hiện ở hai nơi cùng một lúc!

Chúng tôi bước vào pḥng của nhà tu sĩ. Kedar tiên sinh khều tôi nói nhỏ:

-Em hăy nh́n xem, đây chính là đôi guốc cây mà người đă mang dưới bờ sông. Và khi đó, người cũng chỉ vận có một cái chăn!

Kedar tiên sinh vừa nghiêng ḿnh chào, th́ vị tu sĩ đă day mặt về phía tôi với nụ cười bí hiểm.

-Tại sao con ngạc nhiên như vậy? Tính chất đồng thể của hiện tượng giới không phải là điều xa lạ đạo sĩ với các nhà đạo sĩ chân chính. Bất cứ lúc nào, tôi cũng nh́n thấy và tṛ chuyện với các đệ tử của tôi ở Calcatta, chính họ cũng có cái hả năng thắng đoạt mọi chướng ngại vật chất tùy ư muốn.

Để gây sự nhiệt thành trong tâm hồn non nớt của tôi, vụ tu sĩ mới nói về những quyền năng của người, thuộc về loại giống như vô tuyến điện hay vô tuyến truyền h́nh, những quyền năng này hăy c̣n ẩn tàng trong con người. Nhưng thay v́ cảm thấy hứng khởi, tôi chỉ cảm thấy một sự kinh hăi sợ sệt. V́ tôi phải bắt đầu học Đạo dưới sự chỉ dẫn của một vị tôn sư duy nhất là Sri Yukteswar, mà tôi chưa từng được yết kiến dung nhan, nên tôi không thấy có hứng thú muốn chấp nhận tu sĩ Pranabananda làm thầy. Tôi bèn do dự hỏi tu sĩ rằng không viết chính thật là người đang ở trước mặt tôi lúc đó, hay chỉ là cái h́nh bóng của người xuất hiện trước mắt tôi.

Tu sĩ t́m cách giải tỏa nỗi băng khoăn của tôi bằng một cái nh́n đầy hảo ư nó đi sâu vào tận tâm hồn tôi và với những lời nói đầy cảm hứng về vị tôn sư của người.

-Đức Lahiri Mahasaya là vị tôn sư cao cả nhất mà tôi được biết. Ngài chính là hiện thân của Đấng Thiêng Liêng, khoác lấy một thể xác bằng xương thịt!

-

Tôi nghĩ rằng nếu vịđệ tử có thể phân thân để hiện h́nh ở hai nơi cùng một lúc, th́ có sự nhiệm mầu nào mà vị Tôn Sư không thể làm được!

-

Tôi muốn cho con hiểu rằng sự hướng dẫn của một vị tôn sư là một điều quí báu dường nào! Mỗi đêm, tôi tham thiền trong tám giờ, cùng với một bạn đồng môn khác. Ban ngày chúng tôi cùng làm việc ở sở Hỏa Xa. Tôi nhận thấy khổ tâm mà phải tiêu phí trong sở làm cái thời giờ ưúi báu mà tôi muốn dành cho việc hành đạo. Tuy nhiên, tôi đă kiên tâm trong tám năm để dành một vài giờ mỗi đêm cho sự thiền định và tôi đă đạt được những kết quả thật lạ lùng. Phần thưởng mà tôi gặt hái được là những cả hứng tâm linh siêu đẳng đă đến với tôi, nhưng luôn luôn vẫn c̣n một tấm màn, tuy rất mỏng manh tế nhị, nó ngăn cách giữa tôi với Thiêng Liêng. Mặc dầu những cố gắng siêu phàm, tôi vẫn không sao thực hiện được sự hợp nhất tuyệt đối với cơi Vô Cùng. Một hôm tôi đến viếng tôn sư và suốt đêm khẩn cầu người hăy trợ giúp tôi:

-Hỡi Tôn Sư cao cả! Sự hấp hối tâm linh của tôi đă đến mức độ mà cuộc đời đối với tôi chỉ là một gánh nặng nếu tôi không đạt tới cơi Đạo diệu huyền.

-Ta biết làm sao? Con hăy thiền định một cách kiên tâm hơn nữa!

-Tôi lại khẩn cầu ráo riết. Đức Lahiri Mahasaya đưa một tay ra trong một cử chỉ ban ân huệ và nói:

-Bây giờ con hăy về tham thiền trở lại. Ta đă xin Thượng Đế gia ơn cho con.

- Tôi yên ḷng như trút được một gánh nặng, và trở về nhà. Đêm đó, trong cơn thiền định, tôi đă đạt được cái mục đích tối cao của đời tôi. Tấm màn ảo ảnh không c̣n ngăn cách giữa tôi với đấng Tạo Hóa thiêng liêng, và kể từ đó tôi luôn luôn được thụ hưởng món “hưu bổng” tâm linh, không bao giờ dứt.


Gương mặt tu sĩ Pranabananda phản chiếu một ánh hào quang siêu phàm. Ḷng tôi cũng tràn ngập một niềm an tĩnh thiêng liêng, không c̣n sợ sệt băn khoăn như trước. Tu sĩ lại kể:

Vài tháng sau, tôi trở lại thăm viếng đức Lahiri Mahasaya để tạ ơn ngài về cái ân huệ thiêng liêng mà ngài đă ban cho tôi. Xong rồi tôi yêu cầu:

“Bạch sư phụ, con không thể tiếp tục làm việc ở công sở được nữa. Sư phụ hăy giúp cho con thôi việc, v́ con cảm thấy say sưa mùi Đạo không thể nào dập tắt.”

“Con hăy đ̣i tiền hưu bổng ở sở Hỏa Xa.”

“Con phải đưa ra lư do v́ bây giờ?

“Con hăy nói theo ư con nghĩ.

Qua ngày hôm sau, tôi đưa đơn xin nghĩ việc. Viên y sĩ của công ty hỏi lư do. Tôi nói:

“Tôi cảm thấy khi ngồi nơi bàn giấy, một cảm giác ơn ớn dọc theo xương sống nó lan tràn khắp châu thân và khiến tôi không thể làm việc được.”

Viên y sĩ không hỏi ǵ thêm, mà đề nghị với công ty cho tôi nghĩ việc và lănh tiền hưu bổng sớm trước kỳ hạn. Tôi biết rằng đó là do ư chí thiêng liêng của đức Lahiri Mahasaya đă hành động qua sự trung gian của vị y sĩ và các chức viên cao cấp của công ty, gồm có cả cha của con. Họ đă đương nhiên tuân theo những chỉ thị tâm linh của tôn sủ cao cả và đă giải phóng cho tôi khỏi trách nhiệm hằng ngày để dành trọn cuộc đời ḿnh cho sự công phu tu luyện.

Sau cuộc nói chuyện đó, tu sĩ Pranabananda lại đắm ch́m trong cơn im lặng thâm trầm. Kho tôi từ biệt tu sĩ và kính cẩn đặt nhẹ bàn tay lên hai chân người, th́ người ban ân huệ và nói với tôi rằng:

-Cuộc đời con sẽ dành cho sự tu luyện pháp môn Yoga, và sự thoát ly ra khỏi ṿng thế tục. Tôi sẽ gặp lại con và cha con sau này.

Lời tiên tri đó đă được thực hiện.

Kedar Nath Babu tiên sinh cũng đi gần bên tôi khi trời đă sẫm tối. Tôi đưa cho ông bức thư của cha tôi, ông đọc thư dưới ánh đèn ở bên đường lộ.

-Cha em mời tôi nhận một việc làm với Công Ty Hỏa Xa ở Calcutta. Thật là một điều tốt mà làm việc để có ít nhất là một trong hai món hưu bỗng của tu sĩ Pranabananda. Nhưng tha ôi! Không thể được, v́ tôi không thể rời khỏi Banaras và tôi cũng không thể phân thân để cùng xuất hiện một lúc hai chỗ!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 204 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 12:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI TRỐN LÊN DĂY HY MĂ LẠP SƠN

Chương Bốn

 

-Anh hăy bỏ lớp học đi ra với một lư do nào đó, anh gọi một chiếc xe ngựa rồi ngừng lại ở dọc đường tại một ngơi mà không ai nh́n thấy từ phía nhà tôi.

Tới đó chấm dứt lời dặn ḍ của tôi với Amar Mitter, một người bạn cùng lớp ở trường đại học, sẵn sàng trốn theo tôi lên dăy Hy Mă Lạp Sơn. Chúng tôi phải đề pḥng cẩn mật, v́ Ananta theo dơi chúng tôi với cặp mắt nghi ngờ, sẵn sang phá hỏng kế hoạch thoát ly ra khỏi nhà mà tôi đă ôm ấp từ lâu.

Món linh vật gây cho tôi một ảnh hưởng thầm kín mà tôi không ngờ. Chính trên dăy Hy Mă Lạp Sơn đầy băng giá là nơi tôi định gặp vị tôn sư mà dung nhan thường xuất hiện trong những linh ảnh của tôi.

Gia đ́nh tôi lúc ấy đang ngụ tại Calcutta, cha tôi đă được thuyên chuyển đến đây một cách vĩnh viễn. Theo phong tục cổ truyền Ấn Độ, anh cả tôi Ananta đă đem vợ về ở chung với đại gia đ́nh chúng tôi ở số 4 đường Gurpar Road. Trong nhà có một cái gác nhỏ trên đó tôi tham thiền hàng ngày và tự chuẩn bị để gặp gỡ tôn sư.

Buổi sớm mai đáng ghi nhớ đó đến với một cơn mưa báo điềm không tốt. Khi tôi nghe tiếng bánh xe ngựa của Amar lăn trên đường lộ, tôi hối hả tom góp một cái mền, một quyển Bhagavad Gita, một xâu chuổi bồ đề và hai cái chăn vải. Tôi ném gói đồ qua khung cửa sổ. Kế đó tôi vội vàng chạy xuống cầu thang và gặp cậ tôi đứng trước cửa đang mua ra cải.

-Mày làm ǵ mà vội vàng thế? Cậu tôi hỏi và nh́n tôi một cách nghi ngờ.

Tôi mỉm cười một cách vô tư và bước ra đường cái. Với gói đồ trên tay, tôi đến chỗ hẹn với Amar, bước lên xe ngựa rồi cho xe chạy về khu thương mại Chandni Chauk. Từ nhiều tháng nay, chúng tôi đă đẻ dành tiền từng xu từng đồng để sắm đồ Âu Phục, với ư định mặc vào để đánh lạc hướng anh tôi, v́ Ananta gặp khi hữu sự cũng có lúc biết hành động như một thám tử đại tài.

Chúng tôi ngừng xe ở giữa đường đi đến nhà ga để đón người anh họ tôi tên là Jatinda, đă bị thuyết phục về đức tin nơi việc tầm sư học đạo. Y khoác vào bộ âu phục mới mà chúng tôi đă dành sẵn cho y. Với lối ngụy trang sang trọng này, chúng tôi cảm thấy trong ḷng ngập một niềm vui sướng nhẹ nhàng.

-Bây giờ chúng ta phải mang giầy bố.

Tôi dắt bạn tôi đến một tiệm giầy và nói:

-Những đồ vật dụng bằng da toàn là do sự giết chóc loài vật mà có, phải được tuyệt đối cấm nhặt đối với những người hành hương!

Tôi ngừng lại để xé bỏ cái b́a da bọc ngoài quyển kinh Bhagavad Gita và tháo gỡ sợi dây da trên cái nón của tôi.

Đến nhà ga, chúng tôi mua vé xe lửa đi Burdwan, tại đây chúng tôi đi Hardwar, ở dưới chân dăy Hy Mă Lạp Sơn. Khi xe lửa đă lăn bánh chở chúng tôi đi trên lộ tŕnh đă vạch sẵn, tôi mới thả tâm hồn trôi theo cái đà của sự tưởng tượng:

-Này các bạn hăy nghĩ xem! chúng ta sẽ nhập môn học Đạo với các Chân Sư và sẽ trải qua kinh nghiệm tâm thức siêu đẳng. Những tế bào trong thân xác chung ta sẽ chứa đầy một thứ từ điển siêu linh đến nỗi những loài thú dữ trên dăy Hy Mă Lạp Sơn sẽ hiền lành đến đọ liếm chân chúng ta! Những con cọp trên núi cũng sẽ đến với chúng ta như những con mèo khổng lồ và ngoan ngoăn xin chúng ta ban cho những cái vuốt ve tŕu mến!

Cái viễn ảnh có vẻ hấp dẫn đó làm cho Amar nở một nụ cười hứng khởi. Nhưng Jatinda th́ lại có vẻ tư lự, y day mặt về phía cửa sổ và ngắm nh́n cảnh vật bên ngoài.

- Chúng ta hăy chia tiền, Jatinda đề nghị sau một cơn im lặng kéo dài. Mỗi người sẽ tự động mua vé khi tới Burdwan. Như vậy không ai nghi ngờ rằng chúng ta cùng đi trốn tập thể.

Tôi đồng ư không một mảy may nghi ngờ. Đến chiều, xe lửa ngừng tại ga Burdwan. Jatinda đến quầy mua vé, c̣n Amar và tôi đứng đợi trên bến. Một khắc đồng hồ trôi qua, chúng tôi không nghe động tịnh ǵ, bèn đi t́m Jatinda và kêu réo tên y với một niềm thất vọng rơ rệt.

Nhưng y đă trốn mất dạng trong bóng tối của nhà ga.

Hoàn toàn chán nản tôi cảm thấy tuyệt vọng và xuống tinh thần. Cầu xin Thượng Đế che chở cho chúng con khỏi bị cơn thử thách nặng nề như vậy! Kế hoạch tầm sư học đa.o mà tôi đă nghiềm ngẫm cặn kẽ từ bấy lâu nay, giờ đă bị phá hỏng một cách đau đớn chua cay khó bề cứu văn.

-Amar, chúng ta phải trở về nhà, tôi vừa nói vừa khóc như một đứa trẻ nhỏ. Sự phản bội của Jatinda là một điềm gở. Chuyến đi hành hương của chúng ta đă bị thất bại.

-Công phu tầm sư học Đạo của anh chỉ có vậy thôi sao? Anh không đủ sức chịu đựng cơn thử thách do sự phản bội của một bạn đồng hành chăng?

Lời ngụ ư về một sự thử thách có ư nghĩa thiêng liêng ấy đủ gây ảnh hưởng cấp thời là nâng cao tinh thần của tôi lập tức. Chúng tôi giải lao với những loại kẹo mứt ngon có tiếng của tỉnh Burdwan trong khi chờ đợi chuyến xe lửa khác đi Hardwar qua ngă Bareilly. Khi đổi xe ở trạm Moghul Serai, chúng tôi bước lên bến và thảo luận về một vấn đề tối quan trọng.

-Amar, lát nữa những nhân viên hỏa xa sẽ hỏi chúng ta rất nhiều chuyện. Tôi lại càng không dám coi thường ḷng quỉ quyệt của anh tôi! Dầu việc ǵ xảy ra tôi cũng nhất định không nói dối.

-Mukunda, anh hăy b́nh tĩnh ngồi yên. Nhất là đừng cười và đừng nói ǵ cả, cứ để tôi trả lời.

Ngay khi đó, một nhân viên hỏa xa người Anh bước đến gần chúng tôi. Y đưa cho tôi xem một bức điện tín màu xanh mà tôi đoán ra ngay tầm quan trọng của nó.

-Có phải v́ oán hận gia đ́nh mà các anh bỏ nhà trốn đi?

-Không.

Tôi sung sướng v́ câu hỏi vụng về của y giúp chúng tôi khỏi phải nói dối. Tôi trốn đi không phải v́ oán hận ai cả mà v́ ḷng khát khao chân lư.

Người nhân viên quay sang Amar. Cuộc đối thoại tiếp theo đó làm cho tôi phải cố gắng tự chủ mới giữ được sự nghiêm trang của tôi.

-C̣n thanh niên thứ ba đâu? Im lặng. Người nhân viên lên giọng uy quyền:

- Hăy nói mau và phải nói thật.

-Thưa ông, tôi nhận thấy ông đang đeo kính. Ông há chẳng nh́n thấy rằng chúng tôi chỉ có hai người.

Amar vừa cười ranh mănh vừa nói tiếp:

- V́ tôi không phải là một nhà phù thủy, nên tôi tự thấy không có khả năng tạo ra một người thứ ba!

Người nhân viên hơi có vẻ lạc hướng, bèn tấn công chúng tôi trên một địa hạt khác:

-Anh tên chi?

-Tôi tên là Thomas, mẹ tôi là người Anh và cha tôi là người Ấn theo đạo Thiên Chúa.

-C̣n bạn anh tên chi?

- Anh ta tên Thompson.

Tôi phải cố gắng lắm mới khỏi bật cười và luôn dịp lao ḿnh tới trước toa xe lửa khi tiếng c̣i hú lên và xe sắp chạy. Amar chạy theo tôi cùng với người nhân viên hỏa xa, người này tin tưởng câu chuyện vừa rồi là thật đến nỗi y xếp chúng tôi vào một toa thượng hạng dành cho người Âu! Hẳn là y đau ḷng mà thấy những người thiếu niên có gịng máu Anh Quốc trong huyết quản lại đi du lịch một cách vất vả trong toa dành cho người bổn xứ. Khi y đă lễ phép và cáo từ rút lui, tôi mới lăn ḿnh ra trên nệm mà cười măi không thôi. Bạn tôi cảm thấy không có ǵ sung sướng hơn là đánh lừa một nhân viên hỏa xa người Âu.

Lúc ở trên bến, tôi đă đọc được bức điện tín của anh tôi gửi cho sở Hỏa Xa: “Ba thanh niên Bengali mặc Âu Phục đi trốn về hướng Hardwar, qua Moghul Serai. Yêu cầu bắt giữ lại chờ tôi đến nơi. Sẽ xin hậu tạ.”

- Amar, tôi đă dặn anh cẩn thận đừng bỏ quên trên bàn tấm thời khắc biểu có ghi lộ tŕnh của chúng ta, tôi trách bạn bằng một giọng cay cú. Anh tôi chắc là đă t́m thấy bản lộ tŕnh rồi!

Bạn tôi cúi đầu không nói ǵ. Chúng tôi ngừng ở Bareilly, tại đây Dwarka Prasad đă đợi chúng tôi với một điện tín của Ananta. Người bạn thâm giao này cố giữ chúng tôi lại nhưng vô ích: tôi thuyết phục y rằng cuộc hành tŕnh của chúng tôi không phải thực hiện với một mục đích bâng quơ, vô căn cứ. Cũng như lần trước, Dwarka từ chối không chịu đi theo tôi.

Đêm hôm đó, trong khi chuyến xe lửa của chúng tôi ngừng tại một nhà ga dọc đường và tôi đang ngủ ngon giấc, Amar bị một nhân viên hỏa xa khác đánh thức dậy và chất vấn nhưng không bao lâu người cũng bị thuyết phục bởi câu chuyện bịa đặt về “Thomas và Thompson.”

Sáng hôm sau, chúng tôi đặt chân một cách đắt thắng vẻ vang lên thị trấn Hardwar. Những ngọn núi hùng vĩ dựng lên chơm chởm ở đằng xa tận chân trời. Chúng tôi bèn đi mau ra khỏi ga để khỏi lẫn lộ với đám rừng người ở chung quanh. Việc làm đầu tiên của chúng tôi là thay bộ Âu Phục và khoác vào bộ y phục bản xứ, v́ Ananta biết rơ cách ngụy trang của chúng tôi. Trong trí tôi luôn lởn vởn cái ư nghĩ báo điềm rằng có lẽ chúng tôi sẽ bị bắt trở lại.

Sự lo xa bắt buộc chúng tôi phải đi ngay, chúng tôi bèn mua vé đi Rishikesh, thị trấn này là một nơi linh địa mà các chân sư đă từng thánh hóa tự muôn đời về trước. Tôi đă vào toa xe và Amar c̣n ở trên bến th́ tôi nghe tiếng kêu của một cảnh sát viên.... Người này hộ tống chúng tôi đến một gian pḥng của nhà ga, tịch thâu số tiền c̣n lại của chúng tôi và kế đó giải thích cho chúng tôi nghe một cách thủ tục rằng y có bổn phận giữ chúng tôi lại để chờ anh tôi đến.

Khi nghe chúng tôi định đi lên dăy núi Hy Mă Lạp Sơn, người cảnh sát viên thuật lại cho chúng tôi nghe một chuyện dị kỳ:

-Tôi nhận thấy các canh đang say mê với ư định gặp các vị thánh nhân hiền triết. Các anh sẽ không bao giờ gặp được một vị cao cả hơn người mà tôi gặp mới ngày hôm qua! Tôi và một bạn hữu đă tiếp xúc với người lần đầu tiên cách đây năm ngày. Chúng tôi đang đi tuần cảnh trên sông Hằng với mục đích truy nă một kẻ sát nhân, chúng tôi được lệnh phải bắt cho được y, dầu c̣n sống hay chết. Chúng tôi biết y đă cải trang làm một tu sĩ để lường gạt những người hành hương. Bỗng nhiên, chúng tôi nh́n thấy cách đó vài bước có một người tu sĩ giống như h́nh dáng mô tả của kẻ sát nhân nọ. Chúng tôi bèn ra lệnh cho y đứng lại, y không nghe và cứ điềm nhiên đi thẳng. Chúng tôi bèn đuổi theo bén gót, khi đến nơi, tôi bèn dùng toàn lực giáng cho y một búa, y giơ tay đỡ th́ nhát búa chặt y gần đứt liền cánh tay.

Không một tiếng kêu la, cũng không hề để ư chút nào đến vết thương kinh khủng, người lạ mặt vẫn tiếp tục bước. Chúng tôi vượt lên tới trước mặt để chận đường y, khi đó y mới lặng lẽ nói: “Tôi không phải là kẻ sát nhân mà các ông t́m kiếm!” Hoàn toàn hối hận v́ đă chém lầm một vị tu sĩ thánh thiện, tôi bèn quỳ xuống chân người để xin người tha lỗi và lột chiếc khăn trên đầu tôi để xin rịn lại vết thương đang chảy máu lênh láng. “Con ơi, đó là một lỗi lầm không cố ư của con,” vị tu sĩ nói một cách đầy hảo ư. “Con hăy đi đi, và đừng hối hận ǵ, Đức Phật Mẫu thiêng liêng sẽ lo cho tôi.”

Người tu sĩ bèn gắn lại cánh tay đă gần ĺa khỏi thân ḿnh, cánh tay liền dính vào chỗ cũ như là không có việc ǵ xảy ra; máu cũng ngừng chảy một cách mầu nhiệm. “Con hăy đến t́m tôi dưới bóng cây này trong ṿng ba ngày và con sẽ thấy tôi hoàn toàn b́nh phục. Như vậy, con sẽ không c̣n hối hận ǵ.”

Chiều hôm qua, tôi với người bạn cùng đén chỗ hẹn th́ người tu sĩ đă có mạt ở đó. Người cho chúng tôi xem lại vết thương th́ cánh tay đă lành và không để lại một vết tích ǵ, cũng chẳng có một vết thẹo nào!

“Tôi sẽ đi qua ngă Rishikesh để đến những vùng hoang vắng trên dăy Hi Mă Lạp Sơn.” Người nói xong, liền ban ân huệ cho chúng tôi và đi khuất dạng. Cử chỉ ban ân huệ đó làm cho tôi hoàn toàn thay đổi và trở nên một người khác hẳn.

Người cảnh sảt viên kết luận bằng những lời như trên. Cái kinh nghiệm đó đă làm cho y vượt trội hẳn lên trên tŕnh độ của y lúc b́nh thường. Bằng một cử chỉ trịnh trọng, y đưa cho tôi, như để xác nhận câu chuyện vừa rồi, một tờ báo tường thuật sự nhiệm mầu ấy. Có điều là cũng như mọi tờ báo đăng những chuyện kinh dị có tính cách giật gân ở trên thế gian này, dầu là ở Ấn Độ cũng vậy, người phóng viên thuật lại một cách thái quá, nói rằng người tu sĩ đă bị chém gần đứt đầu!

Amar và tôi cả thấy thất vọng v́ không được chiêm ngưỡng vị tu sĩ đă tha thứ cho người đă làm hại ḿnh một cách thản nhiên như một bậc thánh. Xứ Ấn Độ, nghèo nàn từ nhiều thế kỷ về phương diện vật chất, lại có một kho tàng tâm linh dồi dào phong phú bất tận. Thậm chí những nhân viên công lực cũng đụng đầu với các tu sĩ chân chính trên bước đường đời!

Chúng tôi cảm ơn người cảnh sát viên v́ đă cho chsung tôi nghe một câu chuyện làm nâng cao tinh thần. Có lẽ y muốn tỏ ra rằng y sung sướng hơn chúng tôi nhiều v́ y không mất công bao nhiêu mà đă phát hiện được một bậc thánh nhân, c̣n sự t́m ṭi vất vả và khó nhọc của chúng tôi đă kết thúc không phải ở dưới chân Thầy, mà ở bót cảnh sát.

Vừa gần mà lại vừa xa dăy Hy Mă Lạp Sơn, v́ lúc ấy chúng tôi ở trong t́nh trạng bị bắt giữ, tôi nói cho Amar biết rằng tôi quyết định đi trốn. Tôi bèn cười khuyến khích:

-Chúng ta hăy trốn đi khi có dịp thuận tiện, rồi chúng ta có thể đi bộ đến Rishikesh.

Nhưng bạn tôi lại thối chí v́ số tiền c̣n lại của chúng tôi đă bị tịch thâu.

-Đi bộ trong rừng già đầy nguy hiểm, e rằng chúng ta sẽ không đến được đất thánh, mà sẽ chui vào bụng cọp!

Ba ngày sau, Ananta và người anh của Amar cũng đến nơi Amar tiếp đón anh ḿnh một cách tŕu mến và mừng rỡ, c̣n tôi th́ giận ra mặt:

-Anh hiểu tâm trạng của em, anh tôi nói để vỗ về an ủi tôi. Anh chỉ yêu cầu em đi với anh đến Banaras để viếng một nhà mô phạm và đến Calcutta trong vài ngày để thăm cha. Rồi sau đó em có thể đi t́m thầy.

Đến đây Amar xen vào câu chuyện để cho biết rằng y không có sum họp trong bầu không khí gia đ́nh. Về phần tôi, tôi đă nguyện không bỏ ư định tầm sư học đạo. Chúng tôi bè đi Banaras, tại đây những điều sở cầu của tôi được đáp ứng một cách lạ lùng.

Ananta đă sắp đặt một mưu kế tinh vi. Trước khi y đến t́m tôi ở Hardwar, y có ghé ngang Banaras và đă thăm ḍ một nhà bác học mô phạm về việc của tôi. Nhà bác học này và con trai ông hứa sẽ cố gắng thuyết phục tôi đừng theo con đường xuất gia.

Ananta dắt tôi đến nhà vị bác học. Người con trai, một thanh niên lanh lẹ, tiếp đón tôi ở ngoài sân và đưa tôi vào một cuộc thảo luận trếit lư dông dài. Y tự cho là có năng khiếu thần nhăn để đánh đổ ư nghĩ muốn xuất gia của tôi.

-Anh sẽ gặp đủ thứ tai họa và sẽ không thể nào gặp Đạo nếu anh muốn trốn trách nhiệm hàng ngày. Người ta không thể thắng đoạt nghiệp quả của ḿnh nếu chưa thâu thập kinh nghiệm của trường đời.

Những lời nói bất hủ của Sri Krishna lúc đó hiện ra trong trí tôi: “Dẫu cho những kẻ tội lỗi nhất biết dốc ḷng thờ kính Thiêng Liêng, y sẽ được oi như một kẻ thiện nhân v́ thật ra y đă hành động như một thiện nhân. Y sẽ biết làm đúng bổn phận và thẳng tiến đến cơi b́nh an trường cửu. Hỡi thí sinh, con nên biết rằng kẻ nào biết thờ kính Thiêng Liêng sẽ trở nên bất tử.” (Bhagavad Gita)

Tuy nhiên, những lời luận thuyết hùng hồn của người thanh niên đă làm cho tôi bị lay chuyển ít nhiều. Tôi bèn nguyện cầu tất cả tâm hồn: “Cầu xin Thượng Đế hăy soi sáng cho con trong sự nghi nan và hăy chứng tỏ cho con biết ngay rằng Ngài muốn cho con đi theo con đường xuất gia, hay con đường của người thế tục?”

Ngay khi ấy, tôi nh́n thấy ở cách nhà vị bác học một quăng không xa, một vị tu sĩ đạo mạo bước đi chậm răi. H́nh như vị tu sĩ đă nghe lóm được cuộc đàm luận của tôi với người thanh niên tự xưng là có thần nhăn, và người gọi tôi đến gần. Tôi bị thu hút bởi luồng từ điện diệu huyền trong đôi mắt yên lặng của người.
-Con hỡi, đừng nghe lời kẻ ngu dốt này. Đáp lại cầu nguyện của con, Thượng Đế đă dạy ta nói cho con biết rằng trong kiếp này, con đường duy nhất của con sẽ là con đường xuất gia.

Nghạc nhiên và biết ơn về lời khuyên nhủ quyết định ấy, tôi mĩm cười một cách thoải mái.

-Đừng đến gần người ấy! Tên “ngu dốt” gọi tôi từ trong sân nhà.

Vị tu sĩ ban ân huệ cho tôi và từ từ bước đi.

-Người tu sĩ ấy cũng điên như anh!

Lần này chính nhà bác học mô phạm tóc bạc hoa râm đă nói câu “lịch sự” ấy. Cả hai cha con y đều nói với một vẻ mặt u ám:

-Chắc ông ta cũng đă bỏ nhà ra đi với mục đsch viễn vông là đi t́m Thượng Đế!

Tôi bèn lui gót cho Ananta biết rằng tôi không muốn tiếp tục câu chuyện với chủ nhà. Anh ta đành nghe theo và chúng tôi liền đáp xe lửa đi Calcutta.

-Này ông thám tử, ông làm thế nào mà biết rằng tôi đă đi với hai người bạn? Tôi ṭ ṃ hỏi Ananta trên chuyến đi trở về.

Anh tôi mỉm cười chân biếm:

-Tại trường, anh nghe nói Amar bỏ lớp học ra đi không trở lại. Sáng hôm sau anh đến nhà y và t́m thấy một bản thời khắc biểu hỏa xa có ghi dấu lộ tŕnh. Cha của Amar cũng vừa gọi một chiếc xe ngựa và nói với người phu xe với giọng rên rỉ: “Sáng nay tôi không đưa con tôi đi tới trường, v́ nó vừa đi biệt tích!” Người phu xe đáp: “Tôi nghe một đồng nghiệp vừa nói rằng con ông cùng hai thanh niên khác mặc âu phục đă đáp chuyến xe lửa tại nhà ga Howrah. Họ bỏ lại mấy đôi giầy da cho người bạn tôi.” Như vậy anh nắm được ba yếu tố: bản lộ tŕnh, ba người thanh niên, và họ mặc đồ âu phục.

Tôi nghe Ananta tiết lộ những điều ấy với một cảm giác lẫn lộn vừa khen thầm vừa chán nản. Sự rộng răi của chúng tôi đối với người phu xe thật là không đúng chỗ! Ananta nói tiếp:

-Lẽ tự nhiên anh liền gởi ngay mấy bức điện tín cho nhân viên trạm xe lửa mà Amar đă ghi trong thời khắc biểu. Trạm Bareilly có ghi dấu, anh điện cho Dwarka, bạn của em tại đó. Do sự dọ hỏi những người láng giềng ở Calcutta, anh biết Jatinda đă vắng mặt suốt đêm, nhưng đă trở về sáng hôm sau và mặc âu phục. Anh bèn đến t́m y và mời y dùng cơm tối; thấy anh vui vẻ và thân t́nh, y bèn nhận lời.

-Dọc đường, trong khi y không nghi ngờ ǵ cả, anh đưa y ngay vào sở cảnh sát, tại đây đă chực sẵn những cảnh sát mà anh đă móc nối từ trước và chọn lựa những người có vẻ mặt hung tợn. Dưới cái nh́n hung ác của họ, Jatinda phải thú thật với anh tất cả mọi việc:

“Tôi bước chân ra đi với một ḷng vui vẻ nhẹ nhàng. Tôi lấy làm sung sướng với ư nghĩ sẽ gặp các vị chân sư, nhưng khi Mukunda nói rằng, “Đắm ch́m trong cơn đại định trong các động đá, chúng ta sẽ chinh phục cả đến loài thú dữ. Những con cọp lớn sẽ vây chung quanh ta thành một ṿng tṛn và ngoan ngoăn dễ thương như những con mèo,” tôi bèn cảm thấy rộn xương sống và mồ hôi lạnh toát ra như tắm. Tôi nghĩ rằng nếu sự giác ngộ tâm linh của chúng tôi chưa đủ mạnh để chinh phục được loài cọp dữ, th́ liệu chúng có ngoan ngoăn với chúng tôi như mèo không? Tôi đă tưởng tượng rằng tôi chui vào bụng cọp, không phải chui nguyên người vào một lần, mà bị rứt ra từng mảnh!”

Sự oán hận của tôi đối với Jatinda đổi thành một trận cười gịn giă, nó bù lại tất cả những sự lo âu mà y đă gây ra cho tôi sau khi y trốn đi biệt tích. Tôi phải thú thật là cảm thấy hơi khoái chí v́ chính Jatinda cũng không thoát khỏi lưới cảnh sát!

-Ananta, quả thật anh có tâm hồn của một con chó săn!

Tôi vừa nh́n y một cách thích thú nhưng không khỏi đượm một vẻ chán chường:

-Tôi sẽ nói với Jatinda rằng tôi lấy làm sung sướng mà thấy y đă hành động không phải vói ư định phản bội chúng tôi như tôi đă lầm tưởng, mà chỉ v́ bản năng tự tồn!

Đến Calcutta, cha tôi khuyên tôi hăy giảm bớt, ḷng ham thich ngao du, đầu rằng chỉ trong ít lâu, cho đến cuối niên học ban tú tài. Trong khi tôi vắng mặt, người đă dọ hỏi một vị tu sĩ khiêm bác học là đại đức Kebalananda, vụ này hứa sẽ đến nhà thường xuyên để dạy tôi học. Cha tôi nói:

-Vị tu sĩ này sẽ là thầy dạy Phạn ngữ của con.

Cha tôi hy vọng thỏa măn ḷng khát khao học đạo của tôi bằng cách đem cho tôi một vị học giả uyên bác làm thầy. Nhưng ư định đó hoàn toàn bịđảo lộn: vị thầy dạy học của tôi thay v́ dạy tôi một môn học khô khan, lại càng làm cho tôi tăng thêm ḷng khát khao chân lư. Cha tôi cho biết rằng đại đức Kebalananda là một vị đệ tử cao niên của đức tôn sư Lahiri Mahasaya. Tôn sư có đến hàng ngh́n đệ tử bị hấp dẫn bởi nguồn từ điện mănh liệt có sức lôi cuốn của ngài. Về sau, tôi nghe nói rằng tôn sư xem đại đức Kebalananda như một vị thánh đă ngộ Đạo.

Vị thầy dạy học của tôi có một gương mặt đẹp lồng trong một khung tóc đen huyền mà những lọn tóc quăn tḥng xuống tận vai. Đôi mắt đen của người có một nét tinh anh và ngây thơ như tre con. Mỗi cử động của thân ḿnh mảnh dẻ của người biểu hiện sự cương quyết dũng mănh. Luôn luôn dịu hiền và khả ái, người đă dạt tới cơi tâm thức vô cùng. Chúng tôi đă trải qua nhiều giờ thú vị gần bên nhau để thực hiện môn thiền định.

Đại đức Kebalananda rất tinh thông các kinh điển cổ và các thánh kinh Ấn Giáo. Tuy nhiên, tôi không tiến bộ được bao nhiêu về môn Phạn ngữ. Tôi viện bất cứ lư do nhỏ mọn nào để bỏ qua việc học văn phạm, để nói Đạo lư và nói về đức Lahiri Mahasaya. Một hôm vị thầy dạy học của tôi thuật cho tôi nghe một giai đoạn đời sống của người bên cạnh đức tôn sư:

Do một diễm phúc hiếm có, tôi có cái hân hạnh sống trong mười năm gần bên Tôn Sư. Mỗi buổi chiều, đạo viện của ngài ở Banaras là một nơi hành hương của tôi. Tôn sư thường có mặt ở một pḥn gkhách nhỏ trên lầu. Ngài ngồi kiết dà theo tư thế liên hoa trên một chiếc ghế gỗ và các đệ tử ngồi thành một ṿng bán nguyệt chung quanh ngài đắm ch́m trong cơn đại định, ngài ngồi yên đôi mắt lim dim mở hé trụ vào những cơi giới bằng an vô tận. Ngài ít khi nói chuyện. Đôi khi, nhăn quang của ngài trụ vào một đệ tử đang gặp cơn khó khăn và cần được giúp đỡ; khi đó, những lời nói đầy nhân từ của ngài tuôn tràn như suối chảy.

Một sự bằng an tuyệt vời tràn ngập cơi ḷng tôi dưới cái nh́n của Tôn Sư. Hương thơm minh triết của ngài thấm nhuần vào người tôi cũng như hương thơm của hoa sen. Sống gần bên ngài, dầu cho chúng tôi không trao đổi với nhau một lời nào, cũng đủ làm cho tâm hồn tôi hoàn toàn thay đổi. Trong cơn thiền định, nếu tôi gặp một chướng ngại vô h́nh nào, tôi chỉ cần đến ngồi thiền dưới chân Tôn Sư cũng đủ làm cho tôi vượt qua trở lực đó dễ dàng! Ngồi thiền một bên Ngài, những trạng thái tâm thức siêu đẳng đều nằm trong tầm tay tôi, trong khi tôi không thể đạt tới những trạng thái đó dưới sự chỉ dẫn của những vị minh sư khác. Đức Tôn Sư quả thật là một Thánh Điện thiêng liêng mà những cửa bí mật đều mở rộng cho tất cả các đệ tử trên đường sùng tín.

Đức Lahiri Mahasaya không phải là một nhà học giả uyên bác về các Kinh Thánh. Kông cần cố gắng, Ngài dường như có sẵn trong ḷng cả một kho tàng kinh điển thiêng liêng. Sự minh triết của ngài tràn ngập chúng tôi như một biển đại dương muôn trùng. Ngài nắm giữ cái ch́a khóa diệu huyền mở cửa kho tàng minh triết của kinh Phệ Đà, từ ngh́n xưa vẫn từng là nơi tích trữ những viên ngọc quí vô giá của nền Đạo thâm sâu, vi diệu. Khi người ta yêu cầu ngài giải thích những trạng thái tâm thức khác nhau được ghi trong các thánh kinh cổ, ngài gật đầu với một nụ cười: “Để tôi trắc nghiệm những trạng thái đó rồi tôi sẽ nói cho quư vị biết tôi thấy những ǵ.”

Ngài thật khác xa với những vịđạo sư tự nhồi sọ bằng kinh điển, rồi sau đó chỉ tuôn ra những lư thuyết trừu tượng không thể nào thực hiện được!

Tôn sư không bao giờ khuyên chúng tôi hăy tin tưởng một cách mù quáng. Ngài thường nói: “Những danh từ chỉ là cái vỏ bề ngoài. Quư vị hăy tự ḿnh kinh nghiệm lấy Chân Như Đại Thể bằng cách thực hành môn thiền định.”

Dầu cho người đệ tử gặp phải những sự khó khăn như thế nào, Tôn Sư đều khuyên thực hành pháp môn Kriya Yoga như một phương tiện để giải quyết:

-Ch́a khóa của pháp môn này sẽ duy tŕ hiệu lực của nó dẫu cho đến khi tôi không c̣n ở gần bên quư vị. Cái kỹ thuật của nó không có thể mất đi, hoặc trở nên khô cạn, hay lăng quên như sự hiểu biết qua sách vở và lư thuyết suông. Quư vị hăy kiên tâm bền chí trên con đường giải thoát của pháp môn Kriya Yoga, cái sức mạnh của nó là ở sự thực hành.

Tu sĩ Kebalananda kết luận:

-Riêng tôi, tôi coi pháp môn Kriya Yoga như các khí cụ lư tưởng để tự giải thoát bằng sự cố gắng trên đường tu luyện.

Tu sĩ Kebalananda từng chứng kiến một sự mầu nhiệm do đức Tôn Sư thực hiện. Một ngày nọ người thuật lại cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

- Trong các đệ tử của các Tôn Sư, có huynh Ramu làm cho tôi động ḷng trắc ẩn. Hai mắt của huynh đă mù không nh́n thấy ánh sáng, trong khi huynh vẫn hết ḷng phục vụ Tôn Sư một cách sùng tín và trung thành. Một ngày nọ tôi định nói chuyện với Ramu, nhưng huynh đang ngồi dưới chân thầy, và quạt cho thầy bằng một cây quạt đan bằng lá dừa mà huynh đă ra công làm lấy. Khi huynh bước ra khỏi tịnh xá, tôi mới theo dơi và hỏi huynh:

-Ramu, huynh bị mù mắt từ bao giờ?

-Tôi không hề nh́n thấy ánh mặt trời từ khi mới sinh ra.

-Đức Tôn Sư toan năng có thể chữa lành bệnh cho huynh, huynh nên đến mà cầu khẩn người.

Ngày hôm sau, Ramu rón rén bước đến gần bên Thầy. Y có vẻ như hổ thẹn mà cầu xin thêm một ân huệ vật chất ngoài những ân huệ tâm linh mà y đă được hưởng.

-Bạch Tôn Sư, ánh sáng của vũ trụ vốn ở nơi Tôn Sư. Xin Tôn Sư hăy ban cho con một ít ánh sáng huyền diệu đó để cho con có thể nh́n thấy mặt trời.

-Ramu, chắc hẵn là có kẻ nào định gây sự khó khăn cho thầy. Thầy không có quyền năng chữa bệnh bao giờ.

-Bạch Tôn Sư, Phật Tánh thiêng liêng ẩn tàng nơi ngài có cái quyền năng đó!

-À, Ramu, nếu vậy th́ khác. Quyền năng của Thượng Đế vón vô biên! Đấng Tối Cao có quyền năng thắp sáng các bầu tinh tú và chuyền sinh lực vào cơ thể, thế bào các động vật, hẳn có thể phục hồi nhăn quang lại cho con.

Kế đó Tôn Sư đưa tay điểm vào trán Ramu ở tại một chỗ giữa hai chân mày:

Con hăy tập trung tư tưởng vào điểm này, và tưởng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà trong bảy ngày. Ánh sáng mặt trời chừng đó sẽ chói rạng trước mắt kinh ngạc của con.

Một tuần lễ sau, lời tiên đoán của Tôn Sư đă được thực hiện. Ramu có thể chiêm ngưỡng những sự vật kỳ thú của cơi thiên nhiên. Tôn Sư đă dặn Ramu hăy chú niệm danh hiệu đức Phật Di Đà mà y tôn sùng hơn tất cả các vị khác. Ḷng sùng tính của Ramu là từ cái mảnh đất thuận lợi cho Tôn Sư gieo hột giống tốt của sự b́nh phục trường cửu.

Đại đức Kebalananda im lặng một lúc, rồi nói tiếp:

-Hiển nhiên là trong tất cả những sự mầu nhiệm của ngài làm, Tôn Sủ không bao giờ để cho một mảy may ḷng ích kỷ ảnh hưởng đến ư đồ của ngài. Tôn Sư hành động một cách hồn nhiên vô tư, như một đường vận hà để cho nguồn thần lực thiêng liêng, vốn có năng lực chữa trị, mọi bệnh tật được tự do lưu thông xuyên qua ngài.

Vô số những thể xác được đức Lahiri Mahasaya chữa khỏi bệnh tật một cách mầu nhiệm như thế, đàu sao cũng phải có ngày xuống mồ hợc đem hỏa táng. Nhưng c̣n sự thức tỉnh tâm linh chớm nở trong tâm hồn của các đệ tử do bởi sự tiếp xúc với ngài, đó mới là sự mầu nhiệm bất biến và bất tử của ngài.
Tôi không bao giờ trở nên một họ giả ưu tú về môn Phạn ngữ; đại đức Kebalananda đă dạy cho tôi một thứ ngôn ngữ khác c̣n thiêng liêng hơn nhiều.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 205 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 12:59pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NGƯỜI TU SĨ ĐÁNH CỌP

Chương Năm

 

-Tôi đă t́m ra địa chỉ của vị "tu sĩ đánh cọp". Chúng ta có thể đi đến đó vào ngày mai.

Chandi, một bạn cùng lớp, đă đưa cho tôi lời đề nghị hấp dẫn trên. Tôi rất muốn gặp vị tu sĩ hồi trước khi xuất gia đă từng đánh cọp với hai bàn tay không. Một sự hứng khởi nồng nhiệt của tuổi trẻ xâm chiếm lấy tôi khi tôi nghĩ đến một vị tu sĩ có những kỳ công chưa ai từng thấy.

Ngày hôm sau, mặc dù tiết trời lạnh lẽo, nhưng Chandi và tôi cùng vui vẻ ra đi. Sau khi đă t́m kiếm rất lâu tại Bhowanipur, vùng ngoại ô Calcutta, chúng tôi đă t́m thấy nhà vị tu sĩ. Cửa ngoài có những ṿng sắt mà tôi khua với một tiếng động ầm ĩ để báo hiệu. Tuy thế người nô bộc thong dong bước ra và một nụ cười châm biếm dường như muốn nói rằng những tiếng động ầm ĩ đó không thể nào làm mất được sự yên tĩnh nơi này.

Thầm hiểu ư nghĩa của sự trách móc câm lặng đó, chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái khi được mời vào pḥng khách. Một cơn chờ đợi rất lâu làm cho thần kinh chúng tôi căng thẳng cực độ. Tục lệ từ ngh́n xưa ở Ấn độ vẫn đ̣i hỏi sự kiên nhẫn ở nơi người khát khao đi t́m chân lư; một danh sư có thể thử thách người đi t́m đạo bằng cách đó.

Sau cùng, người nô bộc bước vào và đưa chúng tôi vào buồng ngủ, tại đây tu sĩ Sohong Swami đang ngồi trên giường. Thân h́nh lực lưỡng của tu sĩ làm chúng tôi đứng sững trố m¡t nh́n và câm lặng v́ kinh ngạc. Chúng tôi chưa từng thấy người nào có cái thân h́nh to lớn rắn chắc như thế, với những b¡p thịt giống như những quả bóng túc cầu. Người có một cái cổ to lớn khác thường, gương mặt người phảng phất một nét hung tợn nhưng lặng dịu trong sự bằng an, những lọn tóc dài cuốn tṛn thả xuống tận vai, một bộ râu đen phủ dưới càm. Tu sĩ ḿnh trần, chỉ khoát có một tấm da cọp quấn quanh lưng, để lộ một thân ḿnh lực lưỡng đầy những bắp thịt.

Sau một cơn im lặng, chúng tôi chào tu sĩ và bày tỏ ḷng khâm phục của chúng tôi về những kỳ công hiển hách đă qua của người.

-Xin ông hăy nói cho chúng tôi biết bằng cách nào mà chỉ với hai tay không, ông đă chiến thắng con thú dữ nhất rừng già, là con cọp xám trong tỉnh Bengale?

-Các em hỡi, đối với tôi, việc đó chỉ là một tṛ chơi . Tôi luôn luôn sẵn sàng tái diễn những kỳ công đó.

Tu sĩ nở một nụ cười hồn nhiên:

-Đối với các em, một con cọp là một con cọp; đối với tôi, nó chỉ là một con mèo nhỏ!

-Thưa đại đức, tôi nh́n nhận người ta có thể tự kỷ ám thị rằng con cọp chỉ là con mèo, nhưng làm sao khiến cho con cọp cũng tin điều đó?

-Lẽ tự nhiên, sức mạnh cũng là điều cần thiết. Một đứa trẻ sơ sinh có thể tưởng rằng con cọp là con mèo lớn, nhưng con cọp chắc sẽ không chịu hiểu như vậy. Khí giới duy nhất của tôi là hai cánh tay khỏe mạnh.

Tu sĩ đứng dậy, mời chúng tôi đi theo ông ra nơi hành lang và giơ quả đấm thụi một cái vào tường. Một viên gạch liền lăn xuống đất, và một nền trời xanh xuất hiện xuyên qua chỗ lỗ trống. Tôi lảo đảo dưới sự ngạc nhiên: một người có thể chọc thủng một vách tường kiên cố với một quả đấm bằng tay không, hẳn là có thể đánh gẫy quai hàm một con cọp.

-Vài người cũng lực lưỡng như tôi lại thiếu mất sự b́nh tĩnh. Người nào chỉ có sức mạnh thể chất mà không có sức mạnh tinh thần có thể bị sợ hăi trước một con thú dữ khát máu thả rong trong rừng rậm. Một con cọp sống tự do với tính chất hung dữ tự nhiên của nó sẽ nguy hiểm hơn một con cọp trong gánh xiếc đă bị hóa giải v́ chất thuốc phiện!...

Thể theo lời yêu cầu của chúng tôi, tu sĩ vui ḷng thuật lại cuộc đời của ông ta cho chúng tôi nghe:

-Từ thưở nhỏ, tôi vẫn một ḷng ước muốn mănh liệt là đánh cọp. Ư chí của tôi đanh thép không lay chuyển, nhưng xác thân tôi yếu.

Tôi bất giác thốt ra một tiếng kêu ngạc nhiên. Một người lực sĩ to lớn như thế lại nói rằng ḿnh "yếu," điều đó có một cái ǵ làm tôi kinh ngạc.

-Chi bằng tập trung tư tưởng với hết tất cả tâm hồn vào những ư nghĩ sức mạnh và sức khỏe mà tôi đă vượt qua sự trở ngại đó. Tôi đă hoàn toàn có lư mà mong muốn đạt được bằng mọi giá cái sức mạnh tâm linh nó đă giúp tôi hàng phục được chúa sơn lâm.

-Thưa tu sĩ, ông có nghĩ rằng tôi có thể đánh được cọp không?

Đó là lần duy nhất trong đời mà cái tham vọng lạ kỳ đó thoáng qua trong trí tôi. Tu sĩ cười nói:

-Được chứ! Nhưng có nhiều loài cọp dữ. Một vài loại đó lai văng trong đám rừng dục vọng của con người. Không có ích ǵ mà giết loài thú dữ vô tri vô giác. Tốt hơn hết là giết những loài hùm beo lang sói trong nội tâm.

-Xin tu sĩ hăy thuật cho chúng tôi nghe bằng cách nào từ một người khắc phục thú dữ, ông đă trở thành người khắc phục được dục vọng của ḿnh?

Tu sĩ im lặng một lúc, đôi mắt lim dim dường như thả hồn trôi theo những kư ức của một dĩ văng xa xăm. Tôi đoán chắc ông ta đang tự hỏi xem có nên thỏa măn lời yêu cầu của tôi chăng. Sau cùng ông ta bằng ḷng với một nụ cười:

-Khi tôi đạt tới sự vinh quang tột đỉnh, ḷng kiêu căng tự phụ của tôi tăng trưởng đến nỗi tôi quyết định không những đánh bại loài cọp dữ mà c̣n bày ra những tṛ chơi lạ mắt cho chúng tôi tham dự. Tôi có tham vọng là bắt loài cọp beo phải tuân lệnh sai khiến của tôi như những loài vật trong nhà. Tôi biểu diễn trước công chúng và thành công mỹ măn.

Một hôm, cha tôi bước vào pḥng tôi, mặt có vẻ suy tư:

-Con ơi, cha phải dặn con nên đề pḥng cái hiểm họa có thể gây nên bở một sự phản trắc của định mệnh, do sự xoay vần của định luật nhân quả.

-Cha lại đâm ra tin tưởng ở số kiếp nữa ư? Cha tưởng rằng sự dịđoan có thể ngăn chận sự tiến bước của con trên đường vinh quang chăng?

- Cha không biết Nhưng cha tin tưởng ở định luật nhân quả báo ứng như trong kinh điển đă nói. Loài thú dữ ở rừng xanh đang thù ghét con; một ngày kia chúng sẽ hại con.

-Thưa cha, cha biết rằng loài cọp là một giống bất nhân! Khi nó đă ăn thịt một con thú no ngấy đến tận cổ, nó vẫn sẵn sàng lao ḿnh vào một miếng mồi khác; miếng mồi này có thể là một con nai tơ đang nhảy nhót vui vẻ trong rừng rậm! Rồi khi đă cắn chết con nai tơ, nó chỉ uống một ngụm máu tươi của con vật vô tội này và bỏ đi.

-Loài cọp là loài đáng ghét nhất rừng xanh! Biết đâu những quả đấm của con chẳng gieo vào óc chúng một ít minh triết làm cho chúng biết điều hơn Con sẽ dạy cho chúng một bài học về phép xử thế và lịch sự ở đời!

-Cha hăy coi con như một người tập luyện thú dữ chứ không phải là một người giết cọp. Như vậy, những việc tốt của con làm sao lại có thể đưa đến nghiệp quả xấu? Xin cha đừng bắt buộc con phải đổi nghề nghiệp!

Chandi và tôi ngồi im lặng nghe, và lấy làm xúc động về câu chuyện đối thoại đó. Ở Ấn độ, cha mẹ có uy quyền đối với con cái, và một người con không hề căi lời cha mẹ một cách vô ư thức.

Cha tôi nghe một cách kiên nhẫn và giữ im lặng. Một lúc sau, người mới nói một cách nghiêm trọng.

-Con hỡi, cha phải tiết lộ cho con biết một lời tiên tri chẳng lành do một vị tu sĩ thánh đức nói với cha khi cha ngồi thiền hằng ngày ngoài hàng ba: "Tôi có một thông điệp để nh¡n nhủ với con ông. Nó cần phải giảm bớt lập tức những sự đánh đấm hung bạo của nó. Nếu không, trong một cuộc đấu sức tới đây, nó sẽ bị những vết thương kinh khủng làm cho nó dở sống dở chết trong sáu tháng trường. Sau đó nó sẽ từ bỏ cuộc đời trần tục và trở nên một tu sĩ xuất gia".

Lời tiên tri đó không làm cho tôi nao núng chút nào. Tôi nghĩ rằng cha tôi v́ quá tin người nên trở thành nạn nhân của một kẻ cuồng tín vô vị.

Nói đến đây, vị "tu sĩ đánh cọp" có vẻ hối hận về một lỗi lầm trong quá khứ. Ông ta đắm ch́m trong một sự im lặng nặng nề dường như quên cả sự có mặt của chúng tôi. Khi ông ta tiếp tục câu chuyện, th́ ông ta đă hạ thấp giọng, gần như th́ thầm"

Ít lâu sau, khi có lời cảnh cáo đó, tôi đến viếng Cooch Behar, thủ phủ của tiểu bang này. Phong cảnh ngoạn mục của nơi đây hăy c̣n mới lạ đối với tôi, nên tôi định ở lại đây ít lâu để nghỉ ngơi giải trí sau những cuộc đấu sức với thú dữ. Như thường lệ, một đám đông những kẻ ṭ ṃ theo dơi tôi ở ngoài đường, người ta nói th́ thầm vào tai nhau, bất cứ chỗ nào tôi đi qua: "Đó là nhà lực sĩ đánh cọp!" hoặc, "Gương mặt của y giống như hiện thân của chúa sơn lâm!" Trong vài giờ, tin đồn về sự có mặt của tôi đă làm sôi động trọn cả thành phố.


Chiều đến, tôi đang ngồi trong nhà th́ nghe có tiếng vó ngựa chạy ngoài trước; mấy con ngựa ngừng lại trước cửa nhà và vài viên công lực mặc sắc phục, đầu bịt khăn bước vào. Tôi lấy làm hoang mang, tự nghĩ rằng chắc họ sẽ thẩm vấn hỏi cung tôi về những điều mà tôi chẳng biết chi cả. Nhưng không, các nhân viên ấy nghiêng ḿnh chào tôi một cách lịch sự khác thường và nói: "Thưa ông, chúng tôi đến đây để có lời chào ông, do mệnh lệnh của hoàng tử Cooch Behar. Hoàng tử có bày tỏ ư muốn được gặp ông sáng mai tại tư dinh của ngài".

Tôi do dự một lúc. Không hiểu v́ lư do ǵ tôi cảm thấy rất tiếc mà phải gián đoạn sự nghĩ ngơi yên tĩnh của tôi. Nhưng tôi lại xiêu ḷng trước những lời mời mọc khẩn thiết của những nhân viên hộ vệ và tôi bèn nhận lời.

Qua ngày hôm sau, tôi hoàn toàn kinh ngạc mà thấy một chiếc xe song mă đẹp lộng lẫy đến trước cửa để đón tiếp tôi một cách long trọng đến tư dinh của hoàng tử. Một người lính hầu cầm một các lọng che thật đẹp để che nắng cho tôi. Tôi bước lên xe đi một ṿng qua thành phố và những rừng cây ở vùng chung quanh. Hoàng tử đích thân ra đứng trước cửa tư dinh để tiếp đón tôi.Hoàng tử mời tôi ngồi trên chiếc ghế bành lót nệm thêu chỉ vàng của người vẫn dùng thường ngày, c̣n ḿnh th́ ngồi trên một chiếc ghế khác.

Tôi hơi lúng túng và nghĩ rằng sự tiếp đăi trọng hậu nầy, chắc tôi phải trả bằng một giá rất đắt. Sau những lễ nghi thường lệ, phân ngôi chủ khách xong rồi, hoàng tử mới rơ ràng bày tỏ ư định:

-Tất cả thành phố đều vang dội những tin đồn về những thành tích vẻ vang của ông. Có phải thật là ông đă từng đánh cọp với hai bàn tay không?

Tôi gật đầu không đáp.

-Tôi không tin chuyện ấy chút nào! Ông chỉ là một kẻ ăn tốn cơm của thành phố Calcutta mà thôi! Ông hăy nói thật: Có phải chăng ông đă vật ngă những con cọp đă bị cho ăn nhiều thuốc phiện?

Hoàng tử nói câu ấy với một nụ cười hoài nghi, đầy mỉa mai diễu cợt.

Tôi không màng đáp lại lời khinh miệt ấy.

-Tôi thách ông dám đấu với con cọp Raja Begum (một giống cọp rất dữ ở rừng già tỉnh Bengale) của tôi vừa mới bắt được. Nếu ông đánh ngă được nó, rồi trói lại và rời chuồng cọp một cách tỉnh táo th́ tôi sẽ ban thưởng cho ông con cọp ấy! Ngoài ra ông sẽ được thưởng vài ngàn đồng rupees, và nhiều món quà tặng thưởng khác nữa. Nếu ông từ chối, tôi sẽ bêu riếu tên ông ở kh¡p nơi trên lănh thổ vương quốc của tôi, như một kẻ bịp bợm hạ cấp!

Những lời nói sổ sàng ấy làm cho tôi vô cùng bất măn. Tôi nhận lời với cơn giận sôi lên trong ḷng. Hoàng tử lấy làm đắc chí, sửa lại ghế ngồi và ngă ḿnh trên ghế bành với một giọng cười khoái trá; người làm cho tôi nhớ đến những vị hoàng đế La Mă ngày xưa say sưa thích thú khi sắp đem những người tử đạo Thiên Chúa cho thú dữ xé xác ở hiện trường.

-Ông hăy chuẩn bịđấu sức trong ṿng một tuần lễ. Tôi rất tiếc là không để cho ông xem trước địch thủ của ông.

Chắc hẳn hoàng tử sợ rằng tôi sẽ thôi miên con cọp hay là tôi thừa lúc người không để ư mà cho cọp ăn thuốc phiện!

Tôi rời khỏi hoàng cung, và lấy làm thú vị mà nhận thấy rằng bận về, tôi không có lọng che mà cũng chẳng có xe cộ chi cả!

Suốt tuần lễ đó, tôi chuẩn bị cả tinh thần lẫn thể xác để chờ cuộc thử thách sắp tới.

Người gia nô của tôi thuật lại cho tôi nghe nhiều chuyện dị kỳ mà thiên hạ đang đồn đăi, và lời tiên tri chẳng lành của vị tu sĩ thánh đức đă được truyền khẩu khắp nơi, mỗi người lại dậm thêu thêm một ít cho câu chuyện có vẻ ly kỳ.

Y cũng cho tôi biết rằng để chuẩn bị cho cuộc tranh tài thử sức, hoàng tử đang cho dựng lên một khán đài khổng lồ có thể chứa hàng ngh́n khán giả. Ở giữa vũ trường, một cái chuồng bằng sắt với một lồng an toàn chứa con cọp Raja Begum. Con cọp bị bỏ đói và khát máu phát ra những tiếng gầm thét ầm ĩ.

Hoàng tử hẳn là định dùng tôi làm miếng mồi ngon lành để thưởng cọp?

Từ khắp mọi nơi trong thành phố và các vùng phụ cận, dân chúng tấp nập đổ dồn tới các quầy bán vé v́ sự hấp dẫn của một cuộc thử sức tranh tài chưa từng thấy. Đến ngày biểu diễn có đến vài trăm người đến trễ phải trở về v́ hết chỗ. Nhiều kẻ ṭ ṃ đă mạo hiểm chui qua hàng rào để lọt vào trong khán đài.


Câu chuyện đă đến chỗ tột điểm hào hứng và lư thú, Chandi và tôi nín thở ngồi nghe. Tu sĩ nói tiếp:

-Giữa những tiếng cọp rống từng hồi và tiếng th́ thầm sợ hăi của quần chúng, tôi bèn xuất hiện, ḿnh trần và chỉ mặc có một cái quần cụt. Tôi đến mở khóa, bước vào lồng an toàn bằng sắt va khóa trái lại ở phía trong. Con cọp vừa thoáng thấy tôi liền nhảy dựng trong chuồng với những tiếng gầm kinh khủng. Khán giả im bặt và ngồi lặng yên v́ sợ sệt; tôi có vẻ như là một con cừu non trước uy lực của chúa sơn lâm.

Một lúc sau, tôi bước vào chuồng cọp; nhưng khi tôi vừa đẩy lui cánh cửa sắt th́ nhanh như cắt, con Raja Begum đă phóng tới và chụp lấy tôi. Trong cơn bất thần bàn tay mặt của tôi liền bị cào rách nát một cách dễ sợ, máu phun lai láng ở chỗ vết thương. Lời tiên tri của vị tu sĩ dường như sắp sửa thành sự thật.

Tôi định tĩnh tinh thần sau cơn xúc động, v́ đó la vết thương nặng đầu tiên mà tôi đă từng có. Tôi đè bàn tay mặt bị thương trên miếng vải quần cụt để chận máu, và với bàn tay trái, tôi giáng một quả đấm thôi sơn vào hàm cọp. Con cọp lảo đảo, xoay một ṿng trong chuồng và nhảy phóng tới. Khi đó, tôi đă thủ thế sẵn, giáng cho nó một loạt nhiều quả đấm liên tiếp vào đầu.

Nhưng mùi máu tươi làm cho con cọp hăng tiết lên, chẳng khác nào như ảnh hưởng của mùi rượu nồng đối với một bợm rượu bị khác chất men đă từ lâu. Những đ̣n công kích của nó, điểm thêm bằng những tiê"ng gầm thét rợn người, mỗi lúc càng trở nên mănh liệt. Sự pḥng thủ bất toàn của tôi bị trở ngại v́ một bàn tay tàn phế vô dụng, làm cho tôi đỡ không kịp những nanh vuốt bén nhọn của con cọp dữ. Tuy nhiên tôi vẫn can đảm ăn miếng trả miếng. Cả hai đều bị thương rỉ máu, chúng tôi vật lộn nhau trong một trận sống chết, chuồng cọp đă biến thành một nơi vũ trường đầy sát khí, máu phun lênh láng tứ phía. Con cọp bịđ̣n đau, rống lên những tiếng gầm thịnh nộ nghe đến rợn người, và lao ḿnh phóng vào người tôi, làm cho tôi không kịp tránh nên bị té ngửa. "Bắn nó, bắn nó chết đi! Hăy bắn hạ con cọp!" các khán giả hoảng hốt kêu và nhao nhao lên v́ sợ tôi bị cọp giết.

Những cử động của hai địch thủ quần nhau nhanh như chớp, đến nỗi trong cơn náo loạn, phát súng của người gác chuồng cọp bay lạc đạn vào khoảng không. Tôi thu thập tinh thần, gom góp toàn lực và vừa hét lên một tiếng, tôi giáng một quả đấm thôi sơn vào đỉnh đầu nó, con cọp lăn ra bất tỉnh dưới sàn gạch và không c̣n cử động.

-Như một con mèo nhỏ. Tôi bàn góp.

Vị tu sĩ cười thoải mái và nói tiếp:

-Thế là con cọp Raja Begum đă bị hạ.

Với hai bàn tay bị cào sướt một cách kinh khủng, tôi mở rộng hai quai hàm của nó ra và đặt đầu tôi vào miệng cọp trong một lúc, làm cả khán đài đều nín thở! Tôi t́m sợi dây xiềng ở một góc sàn gạch và cột cổ nó vào song sắt của chuồng cọp. Xong rồi tôi mới đi về phía cửa chuồng một cách đắc thắng.

Nhưng th́nh ĺnh, con Raja Begum vươn ḿnh nhảy vọt một cái, bẻ găy xiếng và phóng lên lưng tôi. Vai tôi bị cắn một vết rất sâu làm máu tuông đỏ cả người, tôi ngă quỵ; tuy thế trong một lúc, tôi đă xoay ḿnh ngồi dậy và vật ngă con cọp, một lần nữa nó lại bịđo ván dưới sức mạnh của những quả đấm giáng xuống tới tấp trên đỉnh đầu và trên cổ. Lần này, tôi cột nó chặt hơn và từ từ rời khỏi chuồng sắt.


Lúc bấy giờ, cả khán đài đều thở ra nhẹ nhơm, những tiếng hoan hô hét lên vang dậy cùng một lúc, dường như chỉ thốt ra bởi một người. Tuy tôi bị thương nặng, nhưng tôi đă hội đủ điều kiện của cuộc tranh đấu: đó là đánh chết con cọp, trói nó lại bằng sợi dây xích, và rời khỏi chuồng cọp một ḿnh. Ngoài ra tôi đă đánh nó ngất xỉu đi đến nỗi nó đă bỏ qua một cơ hội tốt là c¡n một cái khi tôi đặt đầu của tôi vào miệng của nó!

Những vết thương của tôi được băng bó vừa xong, tôi được thiên hạ hoan nghêng, khen tặng và tưởng thưởng. Khán giả vừa hoan hô vừa ném ra hằng trăm đồng tiền vàng dưới chân tôi. Cả thành phố đều vui như Tết. Người ta b́nh phẩm liên miên về sự thắng trận vẻ vang của tôi đối với những con cọp mạnh bạo và hung dữ nhất chưa từng thấy. Hoàng tử Cooch Behar giữ đúng lời hết, tặng cho tôi con Raja Begum, nhưng tất cả những quà tặng và tiền thưởng đều làm cho tôi dửng dưng lạnh lùng, không c̣n vui thích nữa. Một sự thay đổi lạ kỳ đă diễn ra trong tâm hồn tôi. Dường như sau khi tôi rời khỏi chuồng cọp, tôi cũng đă khép luôn cả cơi ḷng đối với những tham vọng trần gian.

Tiếp theo đó là một thời kỳ tai họa: Trong sáu tháng trường tôi nằm trước ngưỡng cửa của Tử Thần, ở lằn mức giữa sự sống giữa sự chết v́ máu nhiễm độc do vết thương gây ra. Khi tôi đă b́nh phục lại sức khỏe để có thể rời khỏi Cooch Behar, tôi bèn trở về quê quán.

Một hôm tôi nói với cha tôi:

-Bây giờ con đă biết rằng Tôn Sư của con, chính là vị tu sĩ thánh đức đă đưa ra lời cảnh cáo ngày trước. Làm sao con có thể gặp lại người .

Sự mong ước của tôi vốn chân thật, v́ một hôm vị tu sĩ ấy th́nh ĺnh xuất hiện đến với tôi và nói với một giọng điềm nhiên:

-Thôi con đừng đánh cọp nữa! Con hăy theo thầy sẽ dạy con những con cọp vô minh nó ẩn núp trong đám rừng ảo vọng của ḷng người. Con đă quen với sự hoan hô khen tặng của người đời, từ nay th́ phải là những thiên thần đến chứng kiến và thán phục những thành quả siêu việt của con trên đường hành Đạo!

Vị Tôn Sư của tôi hướng dẫn tôi trên đường tâm linh. Người khai mở những cánh cửa của linh hồn tôi, từ lâu vẫn rĩ sét v́ không có sự trau dồi. Được ít lâu, tôn sư đưa tôi lên dăy Hy Mă Lạp Sơn để hoàn tất công phu tu luyện của tôi.

Tôi và Chandi nghiêng ḿnh dưới chân vị tu sĩ, và lấy làm cảm kích mà nghe được câu chuyện ly kỳ của đời ông. Tôi cảm thấy được đền bù gấp trăm lần sự chờ đợi lâu dài của chúng tôi ở ngoài hành lang lạnh lẽo khi chúng tôi mới đến.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 206 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

VỊ TU SĨ KHINH THÂN

Chương Sáu

 

Đêm qua, trong một phiên họp, tôi đă thấy một vị tu sĩ Yogi khinh thân ngồi lơ lững trên không, độ chừng một thước tây khỏi mặt đất.

Bạn tôi, Upendra, nói với một giọng xúc động. Tôi mỉm cười:

-Tôi có thể đoán tên ông ta, phải chăng là tu sĩ Bhaduri Mahasaya ở tại đường Upper Circular Road?

Upendra gật đầu, hơi bẽn lẽn v́ anh ta thấy rằng câu chuyện ấy không c̣n là mới mẻ đối với tôi. Các bạn tôi để biết rơ sự thích thú của tôi đối với các vị tu sĩ nên họ lấy làm vui sướng mỗi khi họ có thể mách bảo cho tôi một vị có những thành tích dị thường. Tôi nói:

-Người tu sĩ này ở gần nhà tôi, nên tôi thường gặp ông ta.

Lời nói đó làm cho Upendra rất ṭ ṃ, tôi nói tiếp:

-Tôi gặp ông ta trong một trường hợp đặc biệt. Y đă luyện thành thục những phép khí công theo đạo pháp Patanjali. Có một lần tu sĩ Bhaduri Mahasaya biểu diễn trước mặt tôi phép khí công Bhastrika Pranayama cực mạnh như có một cơn giông băo thổi trong pḥng! Kế đó, y dịu bớt hơi thở ồ ạt của y và ngồi yên bất động, đắm ch́m trong một trạng thái siêu tâm thức. Cái ấn tượng yên tĩnh sau cơn giông tố trong pḥng làm cho tôi không bao giờ quên được.

Upendra có vẻ không tin:

-Người ta nói rằng người tu sĩ ấy không bao giờ bước ra khỏi nhà.

Quả đúng như vậy. Tu sĩ sống bế môn nhập thất từ trên hai chục năm nay, người chỉ bỏ luật lệ ấy trong dịp thánh lễ long trọng, khi đó người bước ra khỏi hàng ba trước nhà trong giây lát. Trong những dịp đó, những kẻ hành khất đều tề tựu đông đảo trước cửa nhà, v́ họ biết tu sĩ có hạnh bố thí rất cao.

-Làm sao tu sĩ có thể ngồi lơ lững trên không, bất chấp cả luật thiên nhiên?

Một vài phép khí công có thể làm cho thân thể tu sĩ mất cả trọng lượng và trở nên nhẹ nhàng. Khi đó, người có thể khinh thân bay bổng trên không trung, hoặc ít nhất người có thể nhảy vọt như con ếch. Vài vị tu sĩ không thực hành pháp môn Yoga cổ truyền của Ấn Độ cũng có thể khinh thân trong trạng thái thiền định thâm sâu.

-Tôi muốn t́m hiểu thêm về vị tu sĩ này. Anh có đến dự những buổi họp vào lúc chiều tối đó không? Upendra hỏi với sự ṭ ṃ hiện ra trong đôi mắt.

-Có, tôi thường dự các buổi họp. Tôi hưởng thụ được nhiều điểm minh triết thâm sâu của ông. Đôi khi cái cười kéo dài của tôi làm gián đoạn sự trang nghiêm của các buổi họp. Điều đó cũng không hề làm phật ḷng tu sĩ, nhưng có lẽ các đệ tử không có được cái thái độ hồn nhiên đó.

Buổi chiều đi học về, tôi đi ngang nhà tu sĩ Bhaduri và ghé vào thăm ông. Tu sĩ thường không hay tiếp khách. Người đệ tử có nhiệm vụ canh gác ngoài cửa chận tôi lại hỏi xem tôi có hẹn trước không. Mya khi ấy tu sĩ xuất hiện đúng lúc giúp tôi khỏi bịđuổi ra:

-Hăy để cho Mukunda vô nhà khi nào y muốn.

Đôi mắt tu sĩ điểm một tia sáng:

-Sự bế môn nhập thất của tôi không phải v́ lư do tiện nghi riêng cho tôi, mà là cho kẻ khác. Những người ngoài đời không thích nghe lời thành thật nó làm tiêu tan những ảo ảnh của họ. Những vị chân tu không những hiếm có, mà lại c̣n làm cho người ta hoang mang. Thánh kinh cũng có nói rằng: “Các vịấy thường làm cho người đời đâm ra lúng túng trong cuộc sống của họ!”

Tôi theo chân tu sĩ vào pḥng riêng trên lầu, một gian pḥng đơn sơ mà người không bao giờ bước ra khỏi. Các vị minh sư thường được lánh xa cuộc đời náo nhiệt ồn ào và sống tuyệt đối ngoài ṿng thế tục.

-Bạch Tôn Sư, ngài là vị tu sĩ đài tiên sống bế môn mà tôi được biết.

-Tạo hóa đặt để các nhà hiền giả trên những địa hạt vô cùng khác biệt nhau để cho chúng ta đừng nghĩ rằng Ngài có thể tự giới hạn những luật lệ nhất định.

Tu sĩ ngồi yên trong tư thế Liên Hoa. Người đă trên bảy mươi tuổi, nhưng không có mang dấu vết của sự già nua. Lưng thẳng, vóc dáng lực lưỡng, người có một thân h́nh cân đối lư tưởng về mọi phương diện. Người có cái gương mặt đạo mạo của một vị minh sư, như được diễn tả trong các kinh sách tôn giáo; với một bộ râu chải chuốt, cốt cách thanh cao, người ngồi yên bất động như một pho tượng. Đôi mắt yên lặng đứng tṛng trong cơn đại định, xuất thần.

Tu sĩ và tôi cùng đắm ch́m trong một cơn thiền định thâm sâu. Một giờ sau, giọng nói thanh tao của người kéo tôi ra khỏi cơn thiền định:

- Con nhập thiền khá dễ dàng đấy, nhưng con đă cảm thông được với Thượng Đế hay chửa

Tu sĩ có ư nhắc nhở tôi rằng người ta phải t́m sự Hợp Nhất với Thượng Đế chứ không phải thiết tha với sự tham thiền.

- Con đừng lầm lộn cái phương tiện với mục đích.

Gương mặt người luôn luôn biểu lộ sự bằng an, nở một nụ cười đầy phúc lạc, đôi mắt dịu hiền ưu ái:

-Những thơ tín này từ Mỹ Châu đến; người vừa nói vừa chỉ những gói lớn trên bàn. Tôi giao dịch với nhiều hội tinh thần ở Mỹ, mà hội viên chú trọng đến pháp môn Yoga. Họ đă t́m lại xứ Ấn Độ, nhưng không đi nhầm đường như Kha Luân Bố ngày xưa. Tôi vui ḷng giúp họ. Pháp môn Yoga, cũng như ánh nắng mặt trời, là sở hữu của tất cả mọi người. Điều mà các chân sư coi như cần thiết cho sự giải thoát cũng có giá trịở phương Tây. Cùng một tâm hồn, cùng một quan niệm nhân sinh như nhau, Đông Phương và Tây Phương sẽ phát triển như nhau nhờ ở phép tu giải thoát của pháp môn Yoga.

Tu sĩ đưa cái nh́n yên lặng về phía tôi. Lúc đó tôi chưa hiểu những lời nói đó có tính cánh tiên tri như thế nào. Đến bây gị, trong khi viết những gịng chữ này, tôi mới hoàn toàn nhận định rơ ư nghĩ của những cách nói bóng gió đó, ám chỉ sứ mạng của tôi trong việc truyền bá sang Mỹ Quốc nền minh triết thâm sâu của Ấn Độ.

-Bạch Tôn Sư, ngài nên viết một quyển sách về pháp môn Yoga để giúp ích cho đời.

-Tôi chỉ dẫn các môn đồ. Họ và những đệ tử của họ sẽ là một bằng chứng linh động và có giá trị hơn một quyển sách, nó sẽ bị sừ phá hoại của thời gian và chịu những lời phên b́nh hẹp ḥi nông cạn của người đời.

Tôi c̣n ngồi một ḿnh với tu sĩ cho đến khi các đệ tử tề tựu đến. Tu sĩ Bhaduri có một tài hùng biện lưu loát độc đáo nó làm cho cử tọa say mê. Ngồi nghe tu sĩ thuyết pháp mà có cảm giác như là những luồn sóng êm đềm đưa đẩy chúng tôi một cách nhẹ nhàng ra khỏi bến mê và lôi kéo chúng tôi đến bờ giác.

Những môn đệ bước tới bỏ vài đồng rupees vào cái bao vải bên cạnh tu sĩ, trong khi tu sĩ đang ngồi thiền. Cử chỉ trọng vọng đó là một tập quán thông thường ở Ấn Độ, có ư nghĩa tượng trưng rằng người đệ tử từ bỏ mọi thứ của cải vật chất lại dưới chân Thầy. Một môn sinh lúc từ giă tu sĩ, nói một cách thán phục:

-Bạch thầy, thật là kỳ diệu thay: Thầy đă từ bỏ sự giàu sang sung sướng để t́m Đạo và dạy cho chúng con sự Minh Triết!

Người ta biết rằng tu sĩ Bhaduri lúc thiếu thời đă từ bỏ gia đ́nh giàu có để theo con đường tu luyện pháp môn Yoga. Tu sĩ đáp:

-Con đă nói trái với sự thật! Thầy bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này th́ đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đă từ bỏ và hưinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm, vô thường!

Vị tu sĩ khất thực, áo quần rách rưới tả tơi, lại biến thành một phú ông tâm linh, c̣n người tỷ phú kiêu hănh lại là một kẻ chịu pháp nạn mà không hề hay biết! Đó mới là một điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ, hy sinh! Tu sĩ nói tiếp:

-Thiêng Liêng lo cho tương lai của chúng ta một cách vô cùng minh triết và sáng suốt hơn là bất cứ một công ty bảo hiểm nào!

Sau cùng lời kết luận của tu sĩ là một thông điệp đầy đạo lư:

-Thế gian dẫy đầy những kẻ băn khoăn chờ đợi một sự cứu giúp đến từ bên ngoài. Những tư tưởng đắng cay của họ hiện rơ trước mắt, không dấu được ai. Nhưng đấng tối cao đă ban cho con người từ thuở sơ sinh bầu không khí trong lành và nguồn sữa mẹ, chắc hẳn cũng lo liệu cung cấp mọi thứ nhu cầu hàng ngày cho những đứa con của ngài.

Như thường lệ, sau giờ tan học, tôi vẫn đến tịnh thất của tu sĩ. Với một ḷng ưu ái thầm lặng, tu sĩ đă giúp tôi đạt tới sự ngộ đạo trong cơn tham thiền.

Về sau, các đệ tử thân tín của tu sĩ mới xây cất cho người một đạo viện mới gọi là Nagendra Math.

Tôi xin kể lại đây những lời mà nhiều năm sau, tu sĩ Bhauri đă nói với tôi khi tôi gặp người lần cuối. Ít ngày trước khi tôi lên đường sang Mỹ Quốc, tôi đến từ giă tu sĩ và khiêm tốn qú dưới chân người để xin người ban ân huệ. Người nói:

- Con hăy b́nh yên lên đường sang Mỹ Quốc. Nền minh triết của Ấn Độ sẽ là thần hộ mạng che chở cho con. Con có mang trên trán cái ấn chứng của sự thành công, các dân tộc ở nơi xa xôi kia sẽ dành cho con một sự tiếp đón nồng hậu.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 207 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NGƯỜI CON YÊU CỦA PHẬT MẪU

Chương Bảy

 


-Con hăy ngồi đợi một lát. Ta đang bận chiêm ngưỡng đức Phật Mẫu.

Với ḷng tôn kính, tôi yên lặng bước vào gian pḥng và lấy làm ngạc nhiên trước tác phong hiền đức của Tôn Sư Mahasaya (vị này là đệ tử của đức Ramakrishna, khác với Lahiri Mahasaya đệ tử của đức Babaji). Với cḥm râu bạc trắng và nhuyễn như tơ, đôi mắt lớn chiếu sáng ngời, người có vẻ như hiện thân của sự tinh khiết. Cái cằm ngẩng lên, hai bàn tay nắm chặt là dấu hiệu cho thấy rằng tôi đă gặp tôn sư giữa những cơn tham thiền.

Những lời để tiếp đón giản dị đó gây cho tôi cái phản ứng mănh liệt nhất mà tôi chưa từng cảm thấy bao giờ. Sự bi thảm lớn nhất của tôi là khi mẹ tôi qua đời, bây giờ cơn ray rứt v́ chia ly với đức Phật Mẫu thiêng liêng làm cho tôi đau khổ vô ngần; tôi kêu khóc và nằm vật ḿnh xuống đất. “Con hỡi, hăy b́nh tĩnh lại!” Tôn sư nói với ḷng ưu ái và xúc động.

Trong cơn bi thảm, tôi nắm lấy hai bàn chân của Tôn sư như người bị trôi dạt trên mặt biển vói lấy cái phao cứu mệnh.

-Bạch Tôn Sư, xin tôn sư hăy cầu xin giúp cho con. Tôn Sư hăy hỏi đức Phật Mẫu xem con có thể được Ngài ban ân phúc hay chăng?

Một lời hứa về sự yêu cầu này không phải dễ làm. Tôn Sư phải định tĩnh lại tinh thần. Tôi không nghi ngờ chút nào về việc đức Mahasaya có thể tiếp xúc với đức Quan Thế Âm (Đức Mẹ thế gian, tức phương diện mẫu nghi của Vũ Trụ, được người Ấn giáo tôn thờ dưới biểu tượng nữ thần Kali).
Thật là một điều đáng buồn mà nghĩ rằng tôi mù quáng trước sự hiện diện của đức Phật Mẫu, trong khi Ngài xuất hiện ở gần bên tôi trước nhăn quang tinh khiết của tôn sư! Không chút hổ thẹn, tôi bám chặt lấy chân tôn sư; không màng để ư đến những lời quở trách nhẹ nhàng của tôn sư, tôi không ngớt khẩn cầu người hăy giúp tôi. Sau cùng, tôn sư bằng ḷng với một nụ cười thương hại:

-Ta sẽ chuyển đạt lời cầu xin của con lên đức Phật Mẫu.

Những lời nói ấy có một hàm xúc rất mănh liệt và nhiệm mầu đến nổi trong giây phút tôi đă không c̣n cảm thấy đau đớn.

-Bạch Tôn Sư, xin Tôn Sư hăy giữ lời hứa! Con sẽ trở lại ngay để biết kết quả.

Ḷng tôi tràn ngập một niềm trông đợi đầy hoan lạc, mặc dầu trước đó tôi đă khóc nức nở quên thôi.

Tôi bước xuống cầu thang dài nhiều nấc và những kỷ niệm cũ đă trở lại với tôi. Chính tại ngôi nhà số 50 đường Amherst mà tôn sư Mahasaya hiện đang ở là nơi gia đ́nh tôi cư ngụ trước kia; cũng tại đây là nơi mẹ tôi từ trần. Chính tại đây là nơi mà khi tôi c̣n thơ ấu, tôi đă trăi qua một cơn sầu khổ v́ mất mẹ, và cũng chính tại đây mà ngày hôm nay, tâm hồn tôi bịđau khổ dày ṿ v́ vắng bóng đức Phật Mẫu thiêng liêng... Ḱa là những bức tường vô tri giác, những nhân chứng câm lặng đă chứng kiến sự tuyệt vọng thâm trầm sâu xa của tôi, và sự hồi phục sau rốt của tôi...

Với bước đi nhanh nhẩu, tôi trở về nhà ở đường Gurpar Road. Tôi ẩn trú trong sự biệt lập của gác lầu nhà tôi để đắm ch́m trong cơn thiền định cho đến mười giờ tối. Th́nh ĺnh, một linh ảnh chóa mắt xé tan cái bóng tối ấm cúng của một đêm xuân Ấn Độ. Đức Phật Mẫu thiêng liêng xuất hiện trong một vầng hào quang rực rỡ chói ḷa. Gương mặt ngài điểm một nụ cười dịu hiền, hiện ra với một vẻ đẹp khôn tả:

-Mẹ vẫn luôn luôn thương con, và t́nh thương của Mẹ không bao giờ dứt!

Giọng nói thốt ra với một thứ âm thanh của cơi trời, không hề nghe thấy ở trần gian, vang lên trong như tiếng bạc. Kế đó linh ảnh biến tan dần.

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, tôi đă hối hả chạy đến nhà tôn sư Mahasaya. Tôi bước lên thang lầu của ngôi nhà cũ c̣n dấu vết những kỷ niệm đau buồn và bước vào pḥng tôn sư trên tầng lầu thứ bốn. Cái nắm tay ngoài pḥng có bọc một cái khăn vải, điều này chắc ngụ ư rằng tôn sư không muốn bị ai quấy rầy. Trong khi tôi đang đứng do dự ngoài cửa th́ bàn tay khả ái của vị Tôn Sư đă mở cửa pḥng. Tôi bèn qú xuống chân người. Tuy ḷng tôi tràn đầy nỗi vui mừng, tôi cũng giả vờ nghiêm nét mặt để che dấu niềm phúc lạc thiêng liêng của tôi.

-Bạch Tôn Sư, con biết rằng con đến đây quá cớm để hỏi kết quả. Đức Phật Mẫu có trả lời cho con chăng?

-À! Con láo thật!

Tôn Sư không nói thêm một điều ǵ nữa. Dường như sự nghiêm trang giả tạo của tôi không làm cho người chú ư.

-Tại sao con có vẻ bí mật và tránh né như vậy? Các tu sĩ há chẳng thường hay nói bằng những lời vắt tắt đó sao?

Thấy tôi có vẻ lúng túng, tôn sư nói tiếp:

-Con muốn thử ta chăng?

Nhưng đôi mắt yên lặng của người tràn đầy một niềm thông cảm :

-Ta có thể nói ǵ nữa chăng, ngoài những lời trấn an mà con đă nhận được của đức Phật Mẫu tối hôm qua lúc mười giờ?

Tôn sư Mahasaya có cái bí quyết làm vơi bớt nỗi niềm tân sự tràn đầy của tâm hồn tôi; tôi bèn qú dưới chân người, nhưng lần này, tôi tuôn tràn ḍng lệ v́ quá sung sướng.

-Con nghĩ rằng ḷng sùng kính của con không làm cho đức Phật Mẫu cảm động hay sao, với tấm ḷng từ bi ác ái vô lượng vô biên của ngài? Cái nguyên lư mẫu nghi của vũ trụ mà con đă tôn sùng dưới h́nh thức thiên liêng của đức Phật Mẫu không bao giờ làm ngơ mà không xúc động trước những lời cầu khẩn nhiệt thành của con!

Tôn sư Mahasaya là ai mà mở lời cầu nguyện của người đều được đức Phật Mẫu chiếu cố và ban ân phước? Địa vị của người ở trên thế gian thật là khiêm tốn, cũng như tất cả những bậc hiền nhân thánh triết mà tôi đă biết. Tại tư gia của người Amherst, tôn sư Mahasaya có mở một lớp dạy các nam học sinh ban trung học. Người không hề thốt ra những lời nghiêm khắc; cũng không dùng những biện pháp trừng phạt hay luật lệ để giữ ǵn kỷ luật. Do những lời giáo huấn của người không hề rút trong sách vở, mà tôn sư ban bố sự minh triết bằng tấm gương đạo hạnh hơn là bằng những giáo điều khô khan. Người đặt để trọn cả tâm hồn vào sự chiêm ngưỡng tôn sùng đức Phật Mẫu nên không bắt buộc học tṛ phải biểu lộ sự tôn kính thầy dưới một h́nh thứ bề ngoài. Tôn Sư nói với tôi:

-Ta không phải là Thầy của con. Thầy của con sẽ đến với con trong tương lai. Dưới sự chỉ dẫn của người, con sẽ đạt tới sự minh triết trên đường Đạo.

Mỗi buổi chiều, tôi đều viếng tư thất của tôn sư. Sự có mặt của người là nguồn suối tâm linh dồi dào mà hàng ngày tôi t́m đến để thỏa măn ḷng khát khao đạo lư. Từ trước đế nay tôi không hề biết qú lạy ai với một tấm ḷng sùng kính nhiệt thành như vậy. Bây giờ, tôi coi như một diễm phúc vô biên mỗi khi tôi có dịp đến ngồi bên cạnh người.
Một hôm, tôi đến nhà tôn sư với một tràng hoa tươi.

-Bạch Tôn Sư, đây là ṿng hoa champak mà chính tự con đă kết lại để hiến dâng người.

Tôi vừa nói vừa nân ṿng hoa định quàng lên cổ tôn sư. Nhưng tôn sư tránh qua một bên, và từ chối sự lễ nghi trịnh trọng đó. Sau cùng, khi người thấy tôi bẽn lẽn, người mới nở một nụ cười bằng ḷng:

-V́ lẽ cả hai chúng ta đều tôn sùng đức Phật Mẫu thiêng liêng, bây giờ con có thể dùng tràng hoa để tô điểm cái thánh điện bằng xương thịt này, là nơi trú ẩn của Ngài.

-Tánh chất tâm linh phong phú của người không có chỗ để dung nạp những lư do ích kỷ.

-Ngày mai chúng ta hăy đến viếng đền Dakshineswar mà tôn sư ta đă thánh hóa một cách vĩnh viễn.

Tôn Sư Mahasaya trước kia là đệ tử của bậc thánh sư Sri Ramakrishna.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi một quăng đường dài bốn dặm trên sông Hằng. Chúng tôi vào đền thờ Phật Bà Quan Âm với tám mái bầu tṛn nhô lên cao vút, tại đây tượng đức Phật Mẫu được dựng lên trên một hoa sen khổng lồ đúc bằng bạc với một ngh́n cánh hoa, được chạm trỗ rất công phu và mài dũa sáng bóng. Đức Mahasaya đến chiêm ngưỡng một cách say sưa sùng kính đức Phật Mẫu thiêng liêng, ḷng tôi tràn ngập một niềm kính yêu khôn tả.


Đó là chuyến hành hương đầu tiên của tôi tại ngôi đền này. Tôn Sư giảng dạy cho tôi nghe ư nghĩa của đức Phật Mẫu, phương diện mẫu nghi của vũ trụ càn khôn, biểu tượng của ḷng Từ Bi Bác Ái thiêng liêng.

Một hôm tôn sư đưa tôn đế lớp học. Niềm vui của tôi bỗng bị che ám bởi một người quen cũ từ đâu xuất hiện th́nh ĺnh và rót vào tai chúng tôi một câu chuyện dài tràng giang đại hải. Tôn Sư kề tai tôi nói nhỏ:

-Ta thấy con không thích người này. Ta đă nói với đức Phật Mẫu thiêng liêng, ngài đă hiểu t́nh h́nh bí lối của chúng ta và hứa rằng khi chúng ta đi đến cái nhà ngói đỏ đằng kia, ngài sẽ làm cho y nhớ lại một chuyện gấp để y đi cho khuất mắt.

Người bạn vô duyên kia măi lo nói độc thoại huyên thuyên nên chẳng nghe thấy ǵ, c̣n tôi kiên nhẫn chờ và nh́n về phía căn nhà đỏ đằng trước. Khi chúng tôi vừa đến ngang qua cửa nhà sơn đỏ, ông bamn nói nhiều kia bỗng xoay gót trở lại và hối hả rút lui trong khi y nói chưa dứt câu, cũng không kịp chào từ giă. Chúng tôi thốt lên một tiếng thở dài nhẹ nhơm.

Tôn Sư quàng tay trên vai tôi một cách thân mến:

- Con có thích xem chớp bóng không?

Câu hỏi đó làm cho tôi ngơ ngác. Tuy vậy, tôi cũng nhận lời v́ tôi cảm thấy sung sướng được ở gần bên tôn sư bất cứ trong trường hợp nào. Chúng tôi rảo bước đi mau vào một công viên trước trường đại học Calcutta. Tôn Sư chỉ một cái ghế dài gần bên hồ nước:

Chúng ta hăy ngồi đây trong giây lát. Thầy ta luôn luôn khuyên ta hăy ngồi thiền trước một hồ ao mặt nước phẳng lặng, nó gợi cho ta cái ư niệm yên tĩnh tuyệt đối của tính chất thiêng liêng.

Kế đó, chúng tôi bước vao nhà giảng đường của trường đại học, tại đây đang có một cuộc thuyết tŕnh về một đầu đề khoa học mà tôi nhận thấy vô vị và chán phèo, mặc dù có chiếu h́nh ảnh nhưng cũng vô phương vô vị không kém! Tôi thầm nghĩ: “Đây chắc là cuộc chiếu mà tôn sư đă nói lúc năy.”

Tuy tôi không thích nhưng tôi không muốn bày tỏ một cách quá bộc lộ sự chán ản của tôi, v́ e làm mất ḷng tôn sư. Nhưng tôn sư đă day qua phía tôi và kề vai nói nhỏ:

-Ta thấy rằng con không ưa chiếu bóng này. Ta đă nói với đức Phật Mẫu thiêng liêng. Ngài cũng thông cảm với chúng ta và cho biết rằng điện sẽ tắt trong giây lát và đèn sẽ bật sáng lại khi chúng ta đă ra khỏi gian pḥng này.

Ngay khi đó, cả gian pḥng bị đắm ch́m trong bóng tối. Giọng nói vang rền của vị giảng sư ngưng bặt giữa sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, rồi tiếp tục: “Hệ thống giây điện trong pḥng này chắc bị hỏng.” Tôn sư và tôi thừa dịp đó bèn đứng dậy bước ra khỏi cửa một cách an toàn. Ra ngoài hành lang, tôi quay lại nh́n th́ thấy giảng đường lại bật đèn sáng trưng.

-Con hỡi, buổi chiếu bóng này làm cho con thất vọng, nhưng ta sẽ cho con xem một cuộc chiếu bóng hoàn toàn khác hẵn.

Lúc ấy chúng tôi đang đứng trên vĩa hè trước trường đại học. Tôn Sư lấy tay đặt nhẹ trên ngực tôi, ở ngay chỗ quả tim.

Khi đó tôi cảm thấy một cơn im lặng lạ thường. Cũng như một cuốn phim chớp bóng nói, trở thành một cuốn phim câm khi hệ thống âm thanh bị hỏng, bàn tay sờ nhẹ của tôn sư, do một quyền năng nhiệm mầu nào đó, đă dẹp tan mọi tiếng động chung quanh tôi, làm cho tôi không c̣n nghe thấy ǵ nữa. Cảnh vật ngoài đường người đi bộ, xe điện, xe hơi, xe ḅ, xe ngựa với những bán xe niềng sắt di chuyển khắp nơi mà không có một tiếng vang. Dường như có nhăn quang thần thông, tôi nh́n thấy sự vật diễn ra đằng sau lưng tôi, và ở hai bên tôi cũng rơ ràng như trước mặt. Tất cả mọi hoạt động trong khu vực ấy của thành phố Calcutta diễn ra trước mắt tôi mà không có một tiếng độnh hay một giọng nói của một người nào. Cũng như ánh lửa than hồng c̣n le lói xuyên qua một lớp tro dầy phủ ở trên, một ánh sáng dịu mờ chiếu xuyên qua cái linh ảnh tổng quát của tôi.

Thân thể tôi chỉ c̣n là một cái bóng giữa bao nhiêu những cái bóng khác, với sự khác biệt này là nó bất động, trong khi những cái bóng khác lưu thông, di chuyển qua lại không ngớt. Nhiều thanh niên trong số các bạn hữu của tôi đến gần tôi và đi qua mà không nhận ra tôi, tuy rằng họ dường như nh́n tôi thẳng vào tận mắt.

Cái linh ảnh lạ lùng này làm cho tôi say sưa ngây ngất trong một niềm phúc lạc không thể tả nổi, cũng ví như tôi đă được uống suối cam lồ của cơi tiên giới. Th́nh ĺnh tôi cảm thấy Tôn Sư Mahasaya lại vỗ nhẹ một lần nữa vào chỗ quả tim của tôi. Sự náo nhiệt ồn ào của đám quân chúng lại tràn vào cơi ư thức của tôi. Tôi lảo đảo v́ bị lôi kéo một cách phủ phàng ra khỏi một cảnh mộng mê ly. Chén nước cam lồ đem niềm phúc lạc thần tiên lại một lần nữa lọt ra ngoài tầm tay của tôi. Tôn sư mỉm cười và nói:

- Con hỡi, ta hy vọng rằng con đă thấy cuộc chiếu bóng sau này hạp với sở thích của con?

Tôi sửa soạn cúi lạy dưới chân người. Người bèn phản đối:

- Con không được làm thế. Con biết rằng con cũng là một thánh điện của vị Phật Tánh ngự bên trong! Ta không chịu để cho đức Phật Mẫu hạ ḿnh làm lễ đối với ta qua sự trung gian của con!

Lúc ấy nếu có ai nh́n thấy chúng tôi tránh né đám đông người, chắc sẽ nghĩ rằng chúng tôi đang say rượu. Tôi có cảm tưởng rằng thậm chí những bóng tối của ban đêm cũng say sưa mùi Đạo!

Khi ánh b́nh minh vừa ló dạng, và bóng tối đă lui dần, một ngày mới xuất hiện đă lấy đi mất cái niềm phúc lạc say sưa của tôi trong đêm vừa qua. Nhưng cái kỷ niệm của tôn sư, người con yêu quí của đức Phật Mẫu thiêng liêng, không bao giờ mất trong ḷng tôi.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 208 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde


TÔI GẶP SƯ PHỤ SRI YUTESWAR

Chương Tám

 


“Đức tin nơi Thiêng Liêng có thể giúp ta làm nên mọi việc, trừ việc thi đậu mà không có học bài!” Tôi ngạo nghễ xếp lại quyển sách mà tôi đă giở ra trong một lúc nhàn rỗi và thầm nghĩ:

-Sự dè dặt của tác giả này chứng tỏ sự hoàn toàn thiếu đức tin. Có lẽ y chú trọng thái quá đến việc thi cử.

Tôi đă hứa với cha tôi là sẽ học cho hết chương tŕnh ban Tú Tài. Tôi không tự hào là ḿnh chăm học. Những tháng sau cùng, tôi thường đến ngồi suy tư ở những nơi vắng vẻ trên bờ sông Hằng thay v́ đến lớp học.

Khu đất dành cho việc hỏa táng xác chết, đặt biệt rùng rợn lúc ban đêm, có một sức hấp dẫn rất lớn đối với những tu sĩ Yogi. Người đi t́m chân lư, t́m cái tinh hoa của sự Bất Tử, ắt không cảm thấy ghê rợn trước những cảnh thây ma và sọ người. Tính chất vô thường của sự vật trần gian càng biểu lộ rơ hơn ở gần bên cảnh tượng rùng rợn của những đống xương tàn. Đó là bối cảnh của những cuộc đi chơi đêm của tôi, thật khác xa với lối tiêu khiển của bao nhiêu đứa học tṛ khác!

Tuần lễ thi Tú Tài ở trường Trung Học đă sắp đến. Thời gian chờ đợi thật là một giai đoạn cực h́nh: Tâm trí tôi không hề được phút nào nghĩ ngơi. Trong những đêm làm bạn với xác chết và sọ người, tôi đă thu thập một kiến thức không có dạy ở nhà trường, nhưng c̣n thiếu cái quyền năng của tu sĩ Swami Pranabananda là phân thân để xuất hiện cùng một lúc ở hai nơi!

-À! Mukunda! Mấy hôm nay, anh đi đâu mà biệt tích vậy? Một bạn học gọi tên tôi ngoài đường vào một buổi chiều.

- À, Nantu, chào anh! V́ biệt tích nên bây giờ tôi mới nguy như thế này!

Nantu là một học tṛ giỏi, y cười một cách thoải mái về sự thú nhận của tôi.

-Tự nhiên là anh không đủ chuẩn bịđể ứng phó với những bài thi năm nay. Có lẽ tôi nên giúp anh.

Những lời đó vang dội bên tai tôi như một lời hứa hẹn thiêng liêng. Tôi bèn hối hả đi đến nhà bạn tôi. Y chỉ dẫn cho tôi nghe một cách vắn tắt cách giải đáp những câu hỏi mà y cho rằng các giám khảo có thể đưa ra trong kỳ thi năm nay.

Đó là những câu hỏi hóc búa mà họ sẽ dùng để hạ một số thí sinh. Anh hăy học kỹ những bài giải đáp của tôi, rồi anh sẽ trúng tủ!

Đêm đă khuya khi tôi từ giă bạn tôi ra về. Sau khi đă tự nhồi sọ với những kiến thức mới đó, tôi nhiệt thành cầu nguyện sao cho tất cả những điều đó đừng tiêu tan như mây khói vào những ngày quyết định. Chương tŕnh thi Tú Tài gồm nhiều môn học khác, nhưng trong khi vội vàng, Nantu đă quên môn Phạn Ngữ. Tôi cầu nguyện đấng Thiêng Liêng hăy giúp tôi vượt qua sự thiếu sót đó.

Sáng ngày hôm sau, tôi đi bách bộ dạo chơi và ôn lại trong trí những bài giải đáp vừa học được. Khi tôi đi vào một đường nhỏ qua một khoảng đất trống, tôi thấy trên băi cỏ có vài trang giấy có chữ in; tôi lượm lên xem th́ đó là một bài văn thơ Phạn Ngữ cổ điển. Tôi bèn t́m một học giả hay chữ để giúp tôi b́nh luận về bài văn thơ này. Giọng ngâm nga phong phú của ông ta làm nổi bật những âm điệu và vần thơ bất hủ của thứ cổ ngữ này.

Những câu thơ đặc biệt này chắc sẽ không phải là đầu đề thi năm nay! Nhà học giả nói với một nụ cười hoài nghi.

Tuy vậy, sự hiểu biết tường tận, dầu chỉ có một bài thơ duy nhất, đă giúp cho tôi vượt qua bài thi Phạn Ngữ trong ngày hôm sau. Sự chỉ dẫn của Nantu cũng giúp tôi có một số điểm trung b́nh về những môn học khác.

Cha tôi lấy làm sung sướng mà thấy rằng tôi đă giữ đúng lời hứa. Tôi biết ơn Thượng Đế đă giúp tôi qua sự trung gian của Nantu và đă khiến cho tôi đi rẽ qua con đường tắt trên mảnh đất hoang có rải rác giấy tờ vụn vặt. Như vậy Ngài đă hai lần che chở cho tôi.

Quyển sách mà tác giả đă phủ nhận quyền năng thiêng liêng đối với vấn đề thi cử, lại hiện ra trước mắt tôi. Tôi mỉm cười và thầm nghĩ, “Y sẽ phân vân đến đâu nếu tôi cho y biết rằng sự tham thiền giữa những thây ma nơi nghĩa địa đă giúp cho tôi thi đậu tú tài!”

Với tư cách một cậu tú tài tân khoa, tôi có thể chuẩn bịđể công khai rời khỏi gia đ́nh. Sau khi hội ư với Jitendra Mazumdar, tôi quyết định đến một đạo viện Sri Bharat Kharma Mahamandal ở Banaras để theo một khóa huấn luyện tâm linh.

Tuy nhiên tôi cảm thấy nghẹn ngào khi nghĩ đến việc chia ly với gia đ́nh. Từ khi mẹ tôi qua đời, tôi cảm thấy nẩy nở một t́nh thương đậm đà đối với hai em trai tôi là Sanada và Bishnu. Tôi bèn lui vào nơi ẩn trú của tôi trên gác lầu, là chỡ tôi vẫn công phu tham thiền hàng ngày. Tôi khóc thật lâu và sau cùng tôi cảm thấy có một sự thay đổi diệu huyền trong người tôi, dường như dưới ảnh hưởng của một mănh lực vô h́nh nào. Sợi dây trói buộc của t́nh thương gia đ́nh bị bẻ găy. Quyết định xuất gia tầm đạo của tôi đă trở nên cứng rắn không sao lay chuyển. Tôi lo hoàn tất việc chuẩn bị lên đường.

Cha tôi bằng ḷng cho tôi ra đi một cách luyến tiếc. Tôi hối hả lên đường để đúng hẹn với Jitandra, y đă có mặt tại đạo viện Banaras. Khi tôi đến nơi, tu sĩ Đayananda, vị sư tưởng hăy c̣n trẻ, tiếp đón tôi một cách nồng hậu. Tác cao, hơi gầy, vẻ mặt suy tư trầm tĩnh, tu sĩ gây cho tôi một ấn tượng tốt lành. Gương mặt khôi ngô của tu sĩ phảng phất những nét giống như đức Phật.

Tôi lấy làm sung sướng mà thấy rằng nơi tư thất mới của tôi có một cái gác nhỏ ở đó mỗi buổi sáng tôi có thể tham thiền trong vài giờ. Những đệ tử trong đạo viện không quen thực hành môn thiền định, bèn quyết định giao cho tôi một công việc tổ chức. Họ khen tặng tôi về công việc mà tôi làm ở văn pḥng mỗi buổi chiều. “Huynh không nên nhập Niết Bàn quá sớm!” một bạn đồng môn nói với tôi khi tôi rút lui lên gác. Tôi bèn đến gặp tu sĩ Dayananda trong am thất nhỏ của người, có cửa sổ nh́n xuống sông Hằng:

-Thưa sư trưởng, tôi không hiểu ở đây người ta muốn tôi phải làm ǵ. Tôi đang công phu để đạt tới Đạo một cách trực tiếp. Không được như vậy, th́ không một địa vị, một tín ngưỡng, một sứ mạng nào có thể làm tôi được thỏa măn.

Vị sư trưởng mặc áo vàng sậm vỗ nhẹ lên vai tôi một cách thân mật. Người rầy một cách nhẹ nhàng một vài đệ tử đang đứng gần bên:

-Hăy để yên Mukunda! Y sẽ quen dần với lối sống ở đây.

Tôi nén ḷng một cách lễ phép để khỏi nói rằng tôi lấy làm ngờ về việc đó! Những đệ tử rời khỏi pḥng, không để ư bao nhiêu đến lời khiển trách vừa rồi. Tu sĩ Dayananda nói với tôi:

-Mukunda, cha em gửi tiền cho em đều đều. Em hăy gửi trả về nhà, v́ ở đây em không cần tiền. Một điểm kỷ luật khác là vấn đề ăn uống; khi em đói em hăy đừng để cho người ngoài nh́n thấy!

Tôi không biết bề ngoài tôi có lộ vẻ đói hay không. Nhưng điều mà tôi biết quá rơ, ấy là tôi đói. Ở đạo viện buổi cơm đầu tiên dịon ra vào lúc giữa trưa; ở nhà tôi vẫn có thói quen ăn một bữa thịnh soạn lúc chín giờ sáng.

Khoảng sai biệt ba tiếng đ̣ng hồ đó càng ngày càng trở nên không chịu nổi! C̣n đâu những vàng son ở Calcutta, khi đó tôi có thể quở trách người đầu biếp v́ dọn cơm trễ có mười phút! Có một lần, v́ muốn tự chủ trong sự ăn uống, tôi tập nhịn đói hai mươi bốn giờ. Tôi càng chờ đọi một cách nôn nao hơn đến trưa ngày hôm sau.

-Chuyến xe lửa của sư trưởng Dayananda bị trễ giờ; chúng ta sẽ đợi sư trưởng về mới ăn!

Jitendra đem đến cho tôi cái tin chẳng lành đó. Sư trưởng đi vắng hai tuần nay, để tiếp đón người một cách lễ phép, các đệ tử đợi đến lúc người về đến mới dọn cơm cùng ăn. Mùi hương vịđồ ăn ngào ngạt bay qua lỗ mũi tôi. Tôi phải nằm đo ván để chịu đựng cơn nhịn đói kéo dài vô tận. “Cầu xin Thượng Đế khiến cho xe lửa về sớm.”

Tôi nghĩ rằng lời ngăn cấm của tu sĩ Dayananda bảo tôi đừng lộ vẻ đói ra noài chắc sẽ không áp dụng đối với Thượng Đế! Tuy nhiên, ngài vẫn không đáp ứng lời cầu nguyện của tôi, v́ trời đă về chiều. Màn đêm đă rơi xuống khi sư trưởng bước vào cửa đạo viện; tôi tiếp đón người với một hy vọng tràn trề.

“Sư trưởng c̣n đi tắm và tham thiền xong ,chúng ta mới khởi sự ăn,” đó là lời thông báo của Jitendra, sứ giả của tai họa.

Tôi sắp sửa thấy khó chịu trong ḿnh. Cái bao tử c̣n non nớt vủa tôi không quen chịu nhịn ăn, cồn cào kêu đói. Những cảnh chết đói rùng rợn lởn vởn trong trí tôi. Tôi thầm nghĩ, “Nạn nhân đầu tiên của nạn chết đói sắp đến tại Banaras chắc sẽ là tôi!” Cái cực h́nh đó chỉ chấm dứt vào lúc đồng hồ gơ đúng chín giờ. Than ôi! Buổi cơm tối hôm đó hăy c̣n ghi dấu trong kư ức như một trong những giờ phút tốt đẹp nhất của đời tôi!

Tôi ăn bằng bốn người, và nhận thấy rằng vị tu sĩ Dayananda ăn uống một cách uể oải vô tâm.

-Thưa Sử Trưởng, Sư Trưởng không đói sao? Tôi hỏi tu sĩ sau khi ăn uống no ḷng, bước vào pḥng của người.

-Có chứ! Tôi không ăn uống ǵ cả trong bốn ngày qua. Tôi không bao giờ ăn trên xe lửa, v́ ở đó đầy những rung động nặng nề sấu xa của kẻ phàm tục. Tôi triệt để tuân theo những qui luật của gịng tu của tôi. Tôi bị bận rộn v́ nhiều vấn đề tổ chức, nên chiều nay tôi chỉăn uống sơ sài. Nhưng không sao, ngày mai tôi sẽ ăn cẩn thận.

Tu sĩ nói xong bèn cười một cách thoải mái.

Tôi lấy làm hổ thẹn thầm trong bụng. Nhưng trọn một ngày chịu cực h́nh không thể nào quên được một cách dễ dàng; tôi đánh bạo đưa ra một câu hỏi cuối cùng:

-Thưa Sư Trưởng, tôi có sự nghi ngờ. Nếu theo lời dặn của Sư Trưởng tôi không đ̣i ăn uống khi đói bụng, và nếu không ai mời tôi ăn chắc là tôi sẽ chết đói.

- Chừng đó, em hăy chịu chết!

Những lời nói đó có tác fụng như tiếng quất của ngọn roi da.

- Chừng đó, Mukunda, em hăy chết, nếu cần! Em đừng bao giờ nghĩ rằng em sống không phải nhờ Thượng Đế, mà chỉ nhờ ở đồ ăn! Đấng Thiêng Liêng đă ságn tạo ra đồ vật thựcvà đă cho chúng ta biết đói bụng, chắc hẵn là sẽ lo chu đáo cho chúng ta khỏi phải thiếu thốn điều ǵ. Em đừng nghĩ rằng cơm gạo ban cho em sự sống và tiền bạc hay người đời có thể nuôi dưỡng em được. Họ có thể nuôi em sống được chăng nếu Thượng Đế thu hồi lại ở nơi em hơi thở của sự sinh tồn? Họ chỉ là những khí cụ thụ đọng của Ngài mà thôi. Em có thể bắt buộc cái bao tử tiêu hóa đồ ăn tùy theo ư muốn được chăng? Em hăy suy nghic kỹ, Mukunda, để nhận thấy cái Nguyên Lư độc nhất ở bên ngoài cái hiện tượng biến hóa vô cùng tận.

Những lời nói cương nghị này làm cho tôi cảm thấy lạnh tê người. Thế là cái thành kiến cố hữu cho rằng thể xác thắng đoạt được tinh thần không c̣n đứng vững. Thỉnh thoảng, tôi đă có dịp thưởng thức cái thú vị về sự độc lập huyền diệu của Tinh Thần. Trong bao nhiêu thành phố mà tôi đi ngang qua suốt cuộc đời luôn luôn di chuyển không ngớt của tôi, tôi đă có dịp nhận xét thấy cái hiệu lực của bài học ấy, mà tôi đă thọ lănh trong một đạo viện ở Banaras!

Món của cải duy nhất mà tôi đem theo từ Calcutta là cái linh vật hộ phù bằng bạc của vị tu sĩ thánh đức, mà mẹ tôi đă để lại cho tôi. Tôi đă giữ ǵn nó kỹ lưỡng trong nhiều năm và bây giờ nó được cất giữ dính đáo trong pḥng tôi.

Một buổi sáng, tôi mở cái nắp hộp để ngắm nh́n nó. Những ổ khóa đều c̣n nguyên vẹn, nhưng món linh vật đă biến mất. Buồn rầu, tôi xé cái vỏ bọc ngoài của nó và biết rằng nó đă không cánh mà bay, đúng như lời tiên tri của vị tu sĩ đă làm cho nó xuất hiện từ lúc đầu.

Sự giao thiệp của tôi với những đệ tử của tu sĩ Dayananda càng ngày càng trở nên căng thẳng. Sự tự do của tôi làm phật ḷng đến cả vị sư trưởng. Sự áp dụng giờ giấc tham thiền quá chặt chẽ của tôi, nó vốn là cái lư tưởng v́ đó mà tôi rời khỏi gia đ́nh, đă đem đến cho tôi những sự chỉ trích nặng nề từ mọi giới.

Đau ḷng, một hôm tôi quyết định cầu gnuyện cho đến khi tôi được một sự trả lời. “Hỡi đức Phật Mẫu đại từ bi của Vũ Trụ, xin Ngài hăy dạy con tánh chất từ bi của ngài qua những linh ảnh, hay qua một vị tôn sư mà Ngài sẽ gửi đến con!” Tôi khóc và nguyện cầu rất lâu, giờ khắc vẫn trôi qua mà tôi không nhận được một sự trả lời. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy như bị lôi cuốn thể xác lẫn linh hồn, lên tận những cơi giới cao siêu huyền diệu.

-Tôn sư con sẽ đến trong ngày hôm nay!

Giọng nói ấy, một giọng nói thanh tao của phái nữ với những âm điệu của cơi trời, dường như vọng đến từ khắp nơi và cũng không từ nơi nào.

Cái kinh nghiệm siêu linh đó bị gián đoạn bởi một tiếng kêu lanh lảnh; một đệ tử trẻ ten Habu gọi tôi từ sau bếp ở tầng dưới:

-Mukunda! Thôi đừng tham thiền nữa! Người ta cần anh đi chợ mua đồ.

Nếu trong trường hợp khác, tôi đă phản ứng kịch liệt. Nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi lấy khăn lau nước mắt và lẳng lặng nghe theo. Habu và tôi bước ra cửa đi về phía một chợ ở xa, trong khu vực Bengali của thành Banaras. Mặt trời nóng gắt của Ấn Độ chưa lên đến tột đỉnh, chúng tôi đă mua xong những đồ vật dụng cần thiết và vạch một con đường đi xuyên qua một đám rừng người đông đảo; những đàn bà nội trợ chen lẫn những tăng lữ, hướng dẫn viên du lịch, quả phụ ăn mặc nâu ṣng, người Bà La Môn, người hành khất, và ḅ... Khi đi qua một con đường nhỏ hẹp có vẻ nghèo nàn, tôi quay đầu lại và nh́n thấy một người có vẻ giống như Chúa Giê Su, mặc áo màu vàng sậm của giới tu sĩ và đứng ở phía đầu đường. Người ấy trông dường như một người quen cũ, khiến tôi càng chú ư nh́n kỹ. Bỗng nhiên một sự nghi ngờ xâm chiếm lấy tôi và tôi tự chủ, “Có lẽ ḿnh lầm người tu sĩ này với một người nào khác. Thôi ta đi!”
Mười phút trôi qua, tôi cảm thấy hai chân tôi nặng như ch́, dường như chúng đă trở thành đá và không c̣ng tuân theo ư muốn của tôi. Tôi thử quay lại th́ hai chân tôi đi được như thường. Tôi lại thử tiến bước theo lối đi ngược chiều th́ hai chân tôi lại nặng như ch́, không thể cử động.

“Vị tu sĩ hấp dẫn tôi đến với người bằng một thứ mănh lực từ điển nào đó.” Với cái ư nghĩ đó trong trí, tôi giao những gói đồ cho Habu; y đă quan sát những cử chỉ của tôi một cách ngạc nhiên, sau cùng y bật cười:

-Anh làm ǵ vậy? Chắc anh điên rồi!

Trí óc huyên náo của tôi lúc ấy làm cho tôi không màng đáp lại. Tôi quay đầu trở lại và lẳng lặng noi theo con đường nhỏ hẹp mà tôi đă đi qua. Gần đến đầu đường, tôi nhận thấy gương mặt trầm lặng ấy đang nh́n chăm chú về phía tôi. Chỉ c̣n vài bước nữa và tôi đă qú mọp dưới chân người.

-Kính lạy sư phụ!

Gương mặt thiêng liêng ấy không ǵ khác hơn là gương mặt đă từng xuất hiện trong vô số những linh ảnh của tôi. Đôi mắt yên tĩnh, cái đầu tóc dài dợn sóng xỏa xuống vai như đầu sư tử và bộ râu ngắn vuốt nhọn dưới cằm, chính gương mặt ấy đă chinh phục tôi trong những cơn linh ảnh mê ly, nó tượng trưng một sự hứa hện nào đó mà tôi không hoàn toàn hiểu rơ ư nghĩa.

-Con đây rồi, con đă đến!

Sư phụ tôi lập lại câu ấy bằng tiêng Bengali (thổ ngữ tỉnh Bengale, miền Đông Ấn), giọng nói hơi rung v́ cảm động:

-Ta đă đợi con từ bao nhiêu năm nay!

Kế đó là một cơn yên lặng kéo dài, trong lúc ấy những lời nói cũng bằng thừa. Một nhạc khúc du dương không lời đang vang lên trong ḷng của vị tôn sư và đệ tử. Một tiếng nói trong nội tâm bảo cho biết rằng Sư Phụ đă đắc Đạo và có thể dắt dẫn tôi đến chân lư. Những sự vô minh đen tối của dĩ văng đă tiêu tan trước ánh b́nh minh mới ló dạng trong cuộc đời tôi, tự nó cũng đă xuất hiện từ một tiền kiếp xa xăm nào. Dĩ văng, hiện tại, tương lai, chỉ là một cuộc tuần hoàn tiếp diễn vô tận. Đây không phải là vầng Mặt Trời đầu tiên đă chứng kiến việc tôi ngồi dưới chân thiêng liêng của người!

Bàn tay trong bàn tay, Sư Phụ dắt tôi đến nơi am thất tạm thời của người ở khu Rana Mahal tại Banaras. Người đi với những bước đi chắc chắn. Cao lớn và lưng thẳng, tuy đă có đến năm mươi lăm tuổi đời vào thời kỳ đó, người vẫn nhanh nhẹn và lực lưỡng như một thanh niên. Đôi mắt đen sậm, lớn và đẹp, chiếu sáng ngời ánh mắt minh triết. Những lọn tóc dài hơi xoắn tṛn to tô điểm gương mặt cao quí của người. Nơi người, sức mạnh đi đôi một cách điều ḥa với sự dịu dàng.

Khi chúng tôi đi đến nơi sân thượng của một ngôi nhà trổ ra phía bờ sông Hằng, Sư Phụ nói với một giọng ưu ái:

- Ta cho con cái đạo học viện này và tất cả những ǵ ta sở hữu.

-Bạch sư phụ, con đi t́m sự Minh Triết và ước mong đạt tới chân lư. Đó là những kho tàng mà con đang thèm muốn nơi Sư Phụ!

Bóng hoàng hôn qua mau ở Ấn Độ đă sắp tàn, khi sư phụ lại nói tiếp, đôi mắt người phản chiếu một t́nh thương rộng răi vô biên:

-Ta cho con tất cả t́nh thương của ta, và không điều kiện.

Đó là những lời vô cùng quí báu! Một phần tư thế kỷ trôi qua trước khi Sư Phụ nói lại một lần nữa với tôi về t́nh thương của người.

-Để đáp lại, con có cho ta cái t́nh thường cũng vô điều kiện đó không?

-Bạch sư phụ, con xin kính yêu Sư Phụ măi măi!

-T́nh của thế gian vốn ích kỷ và bắt nguồn từ những ham muốn và thỏa măn dục vọng. T́nh thiêng liêng, vốn cho ra không điều kiện, là vô giới hạn và không thay đổi. Tâm hồn con người khi được tiếp xúc với t́nh thiêng liêng ấy, sẽ vĩnh viễn trở nên siêu thoát.

Kế đó, người đứng dậy và đưa tôi vào một gian pḥng. Chúng tôi ăn xoài và bánh ngọt hạnh nhân, trong khi đó Sư Phụ lái câu chuyện để thăm ḍ tâm hồn của tôi. Tôi rất thán phục về sự minh trết ḥa lẫn với đức khiêm tốn của người.

-Con đừng buồn về việc cái linh vật hộ phù đă biến mất, v́ nó đă hoàn tất sứ mạng của nó.

Sư phụ tôi, chẳng khác như tấm gương thiêng liêng, đă phản ảnh trọn cả cuộc đời tôi.

-Bạch Sư Phụ, sự hiện diện của Sư Phụ là một ân huệ nó bù lại gấp bội phần sự thất lạc đó. Đă đến lúc con cần thay đổi không khí, v́ con cảm thấy không vui trong cái đạo viện này.

Tôi không nói ǵ về dĩ văng của tôi, vả lại điều đó cũng là thừa. Tôi hiểu rằng với đức giản dị và khiêm tốn, Sư Phụ không hề muốn thấy tôi thán phục cái nhăn quang siêu linh của người.

-Con phải trở về Calcutta. Tại sao con lại đặt gia đ́nh ra ngoài t́nh thương của con đối với toàn thể nhân loại.

Lời đề nghịđó làm tôi không vui. Gia đ́nh đă tiên sự trở về của tôi, tuy tôi vẫn dửng dưng trước những lời kêu gọi khẩn thiết trong các bức thư của nhà gửi cho tôi. Ananta, anh cả tôi, đă tuyên bố: “Chúng ta hăy để cho con chim non vỗ cánh tung bay trên những từng trời triết lư siêu h́nh. Rốt cuộc nó sẽ mệt mỏi và sẽ khiêm tốn bay trở về tổ ấm gia đ́nh.”

Những lời nói khiêu khích này hăy c̣n vang dội trong kư ức của tôi, tôi cương quyết không chịu trở về Calcutta.

-Bạch Sư Phụ, con không trở về nhà. Nhưng con sẽ theo Sư Phụ khắp mọi nơi. Xin Sư Phụ cho con biết quư danh và địa chỉ.

-Ta là tu sĩ Swami Sri Yukteswar Giri. Đạo viện chính của ta ở Serampore, đường Rai Ghat Lane. Ta chỉở đây có vài ngày để thăm viếng mẫu thân.

Tôi thầm nghĩ:

-Thiên ư thật là một điều bí hiểm khôn lường! Serampore chỉ cách Calcutta có độ mười hai dặm đường; tuy vậy để cho cuộc gặp gỡ của chúng tôi được thực hiện, chúng tôi phải đến tận nơi thánh địa Kashi (Banaras), là nơi được thánh hóa bởi kỷ niệm của đức Lahiri Mahasaya. Chính đức Phật, đức Shankaracharya, và những bậc hiền nhân thánh triết khác của Ấn Độ cũng đă đặt gót chân lên Banaras và làm cho thành phố ấy trở nên bất tử!

-Con hăy đến với ta trong bốn tuần lễ.

Lần đầu tiên, Sri Yukeswar nói với một giọng nghiêm khắc.

-Ta đă bày tỏ t́nh thương bất diệt và niềm vui của ta khi ta t́m thấy con, và bởi đó mà con đă cải lời ta. Lần tái ngộ sau này con phải làm sao cho ta lại chú ư đến con. Ta rất nghiêm khắc trong việc chọn lựa đệ tử; họ phải tuyệt đối tuân theo kỹ luật tâm linh của ta.

Tôi giữ một sự im lặng kéo dài. Sư Phụ đoán biết dễ dàng sự khó nghĩ của tôi.

- Con sợ về gia đ́nh sẽ bị gia đ́nh chế diễu chăng?

- Con sẽ không trở về nhà.

- Con phải trở về trong ba mươi ngày.

-Bạch Sư Phụ, không khi nào!

Tôi kính cẩn qú xuống chân SưPhụ và từ biệt mà không nói ǵ thêm để làm dịu bầu không khí căng thẳng. Vừa bước chân ra đi trong đêm tối, tôi vừa tự hỏi tại sao sự gặp gỡ huyền diệu đó lại kết thúc bằng một điểm không vui? Sự tương đối ảo ảnh (maya) ở cơi thế gian luôn luôn pha lẫn lộn cái vui với cái buồn. Trí óc c̣n non nớt của tôi chưa đủ tinh luyện thuần thục để chịu nép ḿnh dưới uy quyền của một vị tôn sư.

Sáng ngày hôm sau, tôi nhận thấy rằng sự thù nghịch của các bạn đồng môn trong đạo viện đối với tôi đă tăng gia rơ rệt; mỗi ngày, tôi đều bịđụng chạm với họ một vài lần. Sau đó ba tuần lễ, tu sĩ Dayananda rời đạo viện để di dự một phiên họp tại Bombay. Sự thù nghịch của cả đạo viện bèn có dịp đổ dồn lên đầu tôi:

-Mukunda là một kẻăn bám, y chịu sự nuôi dưỡng của đạo viện mà không đóng góp phí tổn!

Nghe nói vậy, lần đầu tiên mới hối tiếc là đă tuân lệnh của sư trưởng và gởi tiền trả lại cho cha tôi. Buồn rầu, tôi mới t́m gặp Jitendra, bạn duy nhất của tôi và nói:

- Tôi đi đây. Anh hăy vui ḷng chuyển đạt sự hối tiếc và lời chào kính cẩn của tôi cho sư trưởng khi người trở về.

- Tôi cũng sẽ đi! Những công phu thiền định của tôi cũng bị ngăn trở và chỉ trích giống như trường hợp của anh. Jitendra than thở. Tôi vừa gặp một hiền giả lạ chưa từng có. Chúng ta hăy đến gặp người tại Serampore.

Nhân dịp đó, con “chim non” sửa soạn vỗ cánh bay về miền đông, gần bên Calcutta.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 209 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MỘT CHUYẾN DU LỊCH KHÔNG TỐN TIỀN

Chương Chín

 

“Em sẽ làm ǵ, Mukunda, nếu cha không chia phần gia tài cho em. Em đă lăng phí cuộc đời một cách vô lư!” anh cả tôi rầy tôi một ngày nọ.

Sau cuộc hành hương tại Banaras vừa rồi, Jitendra và tôi liền đến nhà Ananta, anh tôi vừa được thuyên chuyển từ Calcutta đến thành phố cổ kính Agra. Banh tôi làm chuyên viên kế toán cho Công Ty Hỏa Xa Bengale Nagpur.

-Ananta, anh biết rằng em không trông mong gia tài nào khác hơn là của Thượng Đế!

-Tiền bạc trước đă, rồi sau mới tới Thượng Đế! Biết đâu cuộc đời c̣n dài!

-Thượng Đế trên hết! Tiền bạc là do Ngài mà có. Biết đâu cuộc đời rất ngắn ngủi!

Câu trả lời của tôi chỉ là ứng khẩu trong một lúc và không có ngụ ư một sự tiên tri nào. Tuy nhiên cuộc đời của Ananta đă sắp kết liễu v́ anh ta từ trần sau đó có vài năm, để bước vào một cơi giới mà tiền bạc không c̣n giá trị ǵ nữa.

-Cái triết lư đó chắc hẵn là em mới học được ở đạo viện, phải chăng? À, tuy vậy em lại rời bỏ Banaras.

Một sự khoái trá chiếu sáng trong đôi mắt của Ananta; anh ta vẫn nuôi hy vọng đem tôi trở về với gia đ́nh.

-Không phải là vô ích mà em sống tại Banaras! Em đă t́m thấy tại thành phố đó tất cả những ǵ mà ḷng em ngưỡng mộ. Tuy vậy, đó không phải là nhà học giả có thần nhăn, hay con trai ông ta!

Ananta, cười lớn về câu chuyện kỷ niệm đó; anh ta phải nh́n nhận rằng nhà học giả nọ chỉ là một kẻ có nhăn quang tầm thường!

-Chương tŕnh em hiện giờ như thế nào, hỡi nhà tu sĩ đi ta bà?

-Jitendra đang rủ em đi Agra để viếng thăm lăng tẩm Taj Mahal. Sau đó chúng em sẽ đến viếng một vị tôn sư mà em vừa mới gặp, vị này có một đạo việng ở Serampore.

Ananta lo sắp đặt mọi thứ tiện nghi cho chúng tôi tạm trú trong nhà. Tối hôm đó, tôi nhiều lần bắt chợt anh ta ngắm nh́n tôi một cách nghĩ ngợi suy tư. Tôi thầm nghĩ rằng cái nh́n đó hẳn là có ngụ ư ǵ, chắc là anh ta đang mưu toan một việc ǵ đây.

Lời giải đáp đă đến ngay sáng ngày hôm sau, vào giờ ăn điểm tâm.

-Như vậy là em không thèm hưởng phần gia tài của cha?

Ananta giả vờ lấy một điệu bộ vô tư để nối lại câu chuyện ngày hôm trước. Tôi đáp với một giọng cương quyết:

-Em ư thức rằng em chỉ trông cậy nơi một ḿnh Thượng Đế mà thôi.

- Nói th́ dễ! Cuộc đời sẽ chứng minh cho em biết trái ngược lại. Nếu em bị dồn vào một t́nh thế nguy cấp không ai giúp đỡ mà chỉ trông cậy vào Thượng Đế th́ em sẽ phải đi ăn mày!

-Không khi nào! Không bao giờ em ngửa tay đi xin, khi mà Thượng Đế có hàng ngh́n cách để bảo dưỡng cho những đứa con của Ngài, để cho họ không cần phải ngữa tay xin ăn!

-Điều đó chỉ là lư thuyết. Nếu anh thách đố em đem những lư thuyết đó ra thực hành, em có dám không?

-Em nhận cuộc thách đố! Quyền năng của Thượng Đế vốn vô biên.

-Để rồi xem. Ngày hôm nay, em sẽ có dịp xác nhận hay bác bỏ điều anh vừa nói.

Ananta ngừng một lúc rồi nói tiếp với một giọng trầm và gằng từng tiếng:

-Anh định gửi em và bạn em Jitendra đi đến Brindaban, thành phố ở gần đây. Hai em sẽ lên đường mà không có một đồng rupee nào, không được xin ăn hoặc xin tiền ở dọc đường hoặc tiết lộ việc thách đố này cho một người nào biết. Các em cũng không được nhịn đói hay thất cơ lỡ vận ở Bridaban. Nếu sau khi đă thực hiện tất cả những điều kiện đó mà các em trở về nhà anh trước nửa đêm, th́ chừng đó anh sẽ là người ngạc nhiên nhất của thành phố Agra này!

-Em nhận cuộc thử thách! Tôi nói không chút do dự.

Như một tia chớp, hiện ra trong trí tôi tất cả những ân huệ tốt lành mà tôi đă được hưởng qua sự can thiệp của Thiêng Liêng; một lần được chữa khỏi bệnh thời khí một cách mầu nhiệm do bức chân dung của đức Lahiri Mahasaya; hai con diều giấy bắt được ngay tại trước mắt Uma do sự cầu nguyện Phật Mẫu tại Lahore; món linh vật an ủi lọt vào tay tôi những giờ tuyệt vọng; thông điệp quyết định của vị tu sĩ lạ mặt ở Banaras, gần nhà của vị học giả Phạn ngữ; cái linh ảnh đức Phật Mẫu, những lời nói từ bi của ngài, sự cầu nguyện đức Phật Mẫu giùm cho tôi qua sự trung gian của đức Mahasaya; sự trợ giúp vào giờ chót trong cuộc thi tú tài; và sau cùng, sự gặp gỡ đức Sư Phụ mà tôi thường thấy trong giấc mộng... Bởi đó, tôi sẽ không bao giờ nh́n nhận rằng những lư thuyết của tôi sẽ tiêu tan khi bị đụng chạm với sự thật phủ phàng!

-Thiện chí của em thật đáng khen!

Anh cả tôi quay lại phía Jitendra, lúc ấy đang trố mắt nh́n chúng tôi, miệng há hốc:

-C̣n em nữa, em sẽ đi theo làm chứng và cũng làm nạn nhân luôn thể!

Nửa giờ sau, Jitendra và tôi mua vé xe lửa đi Brindaban. Trong một góc hẻo lánh của nhà ga, Ananta lục soát ḿnh chúng tôi rất tỉ mỉ và lấy làm hài ḷng mà thấy chúng tôi không có đem theo tiền bạc, ngoài một cái chăn vận ngang lưng!

Jitendra nhận thấy rằng vấn đề đức tin lấn lướt quá nhiều trên lănh vực tài chánh, bèn nói:

-Ananta, ít nhất anh hăy đưa cho tôi vài rupees để tôi có thể gọi điện thoại về nhà khi có việc cấp bách.

- Jitendra! Tôi kêu lên vói một giọng trách móc. Tôi sẽ từ chối không chịu nhận cuộc thử thách này nếu anh đem theo dẫu rằng chỉ có một xu!

-Tiền bạc kêu rổn rảng trong túi sẽ có tác dụng chấn an tinh thần!

Bạn tôi nói xong liền im bặt khi thấy tôi nh́n y với một vẻ mặt nghiêm khắc.

-Mukunda, em đừng cho rằng anh quá tàn nhẫn trong cơn thử thách này.

Ananta hơi dịu giọng. Có lẽ anh ta cảm thấy hối hận, hoặc v́ chuyện gửi hai thanh niên không tiền bạc đi đến một thành phố xa lạ, hoặc v́ anh ta thiếu hẳn đức tin. Anh ta nói:

-Nếu do sự may mắn, hoặc do ân huệ thiêng liêng là em thắng cuộc thách đố ở Brindaban, th́ anh hứa sẽ tôn em làm thầy.

Đề nghị lạ thường này cũng tương xứng với t́nh trạng hi hữu lúc ấy. Trong một gia đ́nh Ấn Độ, người anh cả không bao giờ chịu khuất phục trước một người em; y được các em tôn trọng và vân lời tuyết đối theo tục lệ quyền huynh thế phụ. Nhưng lúc ấy không phải là lúc nói nhiều, v́ chuyến xe lửa đă lăn bánh và bắt đầu chạy.

Jitendra giữ một im lặng nặng nề trong khi chuyến xe lửa nuối cây số trenn đoạn đường dài. Sau cùng, y tự chủ được ḿnh, nghiêng về phía tôi và véo tôi một cái rất đau trên bắp đùi:

-H́nh như Thượng Đế có vẻ không nghĩ đến bữa cơm ch́êi của chúng ta!

- Anh hăy an tâm. Thượng Đế luôn luôn che chở chúng ta.

- Anh có ư định nhắc nhở cho Ngài mau lên một chút chăng: Tôi cảm thấy đói lắm khi nghĩ đến việc ǵ sẽ xảy ra. Tôi rời khỏi Banaras để viếng lăng tẩm Taj Mahal chứ không phải để xây mả của tôi tại đó!

-Hăy can đảm lên, Jitendra! Lát nữa chúng ta sẽ đến viếng thành phố Brindaban từng nổi tiếng v́ nhiều phép lạ đă xảy ra tại đó. Tôi cảm thấy không c̣n ǵ sung sướng hơn là bước chân lên mảnh đất đă được thánh hóa bởi đức Lord Krishna.

Xe ngừng tại một nhà ga, toa xe của chúng tôi mở cửa, có hai người hành khách mới bước vào. Trạm sắp tới đây cũng sẽ là trạm cuối cùng.

-Này các bạn, các bạn có bạn bè quen thuộc ở Brindaban không?

Người hành khách ngồi trước mặt có vẻ rất chú ư đếng chúng tôi. Tôi quay mặt đi chỗ khác:

-Xin lỗi, ông hơi ṭ ṃ nhưng việc ấy không can dự ǵ đến ông!

-Chắc là các bạn rời bỏ gia đ́nh để đi tầm đạo? Tôi cũng vậy, tôi là người rất mộ đạo. Tôi thấy có bổn phận lo lắng cho các bạn không thiếu thốn thứ ǵ, và t́m cho các bạn một nơi trú ngụ dưới ánh mặt trời nóng gắt.

-Thưa ông, ông không cần phải lo cho chúng tôi, ông rất tốt bụng, nhưng ông đă lầm mà tưởng chúng tôi là những kẻ trốn gia đ́nh.

Đến đây, câu chuyện đứt ngang. Đoàn xe lửa ngừng tại nhà ga. Khi Jitendra và tôi vừa bước chân lên bến, hai người hành khách mới quen trên toa xe cùng nắm tay chúng tôi và gọi một cỗ xe ngựa.

Chúng tôi ngừng trước một đạo viện rất đẹp giữa một vườn cây xinh tươi và vun quét sạch sẽ tươm tất, những cây to lớn sầm uất tỏa bóng mát rợp trời. Hai người đồng hành với chúng tôi hẳn là những khách hàng quen thuộc: một người gia bộc tươi cười lễ phép đưa chúng tôi vào pḥng khách. Một bà mệnh phụ đứng tuổi, cốt cách trang trọng cùng bước vào ngay khi đó.

-Thưa ni trưởng, hai vị hoàng thân không thể đến được. Một người đồng hành của chúng tôi thưa với bà ni trưởng của đạo viện. Chương tŕnh của hai vịđă bị thay đổi vào giờ chót; hai vị có nhờ chúng tôi chuyển đạt tất cả sự hối tiếc của các ngài. Nhưng hôm nay chúng tôi có dắt đến hai người khách. Khi chúng tôi nh́n thấy họ trên xe lửa, tôi cảm thấy ngay rằng họ là những người mộ đạo hành hương.

Nói xong, hai người bạn mới vừa đi ra cửa quay lại phía chúng tôi:

- Thôi chào các bạn! Chúng ta sẽ gặp lại nhau, do ư muốn của Thượng Đế!

Bà ni trưởng nói với chúng tôi với một nụ cười của bậc hiền mẫu:

- Chào hai vị tân khách, hai vịđến thật đúng lúc, tôi cũng đang chờ đợi hai vị hoàng thân là những ân nhân của đạo viện. Thật bẽ bàng đến bực nào, nếu phải ra công làm bếp mà lại không có khách đến chiếu cố!

Những lời nói đầy hứa hẹn này có tác dụng gây xúc động manh đối với Jitendra, y bèn khóc sướt mướt. Thay v́ chết đói, y lại gặp tại Brindaban một bữa tiệc sang trọng! Việc ấy thật quá sức trông đợi của y. Bà ni trưởng nh́n y với cặp mắt ngạc nhiên nhưng không nói ǵ. Có lẽ bà ấy đă từng quen thuộc với những cơn “dở chứng” của bọn thanh niên?

Bữa ăn đă sẵn sàng. Bà ni trưởng đưa chúng tôi vào một pḥng ăn phảng phất mùi vị ngon lành thơm phức và lui vào nhà bếp ở gần bên.

Tôi đợi đến lúc ấy mới véo một cái thật đau vào bắp đùi non của Jitendra như y đă véo tôi trên xe lửa:

-Thế nào, ông bạn vô tín ngưỡng? Thượng Đế quả thật có nghĩ đến chúng ta, và lại không trễ giờ tí nào đấy chứ?

Bà ni trưởng bước vào với một cái quạt tay bằng tre đan. Bà quạt mát cho chúng tôi theo kiểu Đông Phương trong khi chúng tôi ngồi trên những tấm nệm thêu màu rực rỡ. Những đệ tử trong đạo viện lo dọn ăn và đi lại lăng xăng không ngớt. Từ thuở bé đến giờ, Jitendra và tôi chưa từng ăn bữa nào ngon như thế!

-Thưa ni trưởng, đó thật là những món ăn xứng đáng với bậc đế vương. Tôi tự hỏi khong biết công việc ǵ cấp bách hơn là bữa tiệc hôm nay đă cầm chân hai vị hoàng thân, quí khách của ni trưởng! Chúng tôi sẽ không bao giờ quên bữa tiệc này suốt cuộc đời chúng tôi!

Lời hứa của chúng tôi với Ananta bắt buộc chúng tôi phải im lặng, nên chúng tôi không thể giải thích cho ni trưởng biết rằng chúng tôi c̣n biết ơn ni trưởng gấp đôi. Nhưng sự thành thật của chúng tôi đă quá rơ rệt. Khi chúng tôi kiếu từ ra về, ni trưởng bèn ban ân huệ và mời chúng tôi khi nào có dịp sẽ trở lại viếng thăm đạo viện.

Bên ngoài, ánh nắng mặt trời nóng như thêu đốt. Chúng tôi đến ẩn núp dưới bóng mát của cây cổ thụ cadamba ở trước cửa đạo viện. Chúng tôi trao đổi những lời gay gắt, v́ Jitendra lại cảm thấy lạc lỏng bơ vơ:

-Anh đă gạt tôi! Bữa tiệc chỉ là một sự may mắn t́nh cờ mà thôi! Làm sao đi viếng thành phố mà không có một xu trong túi và anh làm cách nào để đưa tôi về nhà?

- Anh quên Thượng Đế chóng thật, sau khi anh đă ăn no đầy bao tử!

Những lời nói của tôi trở nên một sự tố giác: -Con người rất chóng quên những ân huệ thiêng liêng; tuy vậy cuộc đời không phải là không có ít nhất một vài lần mà những lời cầu nguyện của ta được chấp thuận.

-Dầu sao, tôi cũng không quên sự lầm lạc  mà tôi đă làm khi tôi chịu đi theo anh!

-Anh hăy im đi, Jitendra! Nếu Thượng Đế đă cho chúng ta ăn no, ắt là Ngài cũng có thể cho chúng ta phương tiện đi viếng Brindaban và trở về Agra!

Đến đây, bỗng có một thanh niên mặt mũi khôi ngô từ đâu rảo bước đi thật nhanh đến gần chúng tôi. Y ngừng bước dưới bóng cây và day về phía chúng tôi:

-Nếu tôi không lầm th́ các bạn chắc là những du khách mới đến thành phố này. Các bạn hăy để tôi dẫn đường cho các bạn đi ngắm cảnh.

Một người Ấn Độ không hề tái mặt một cách dễ dàng, tuy vậy, đó chính là trường hợp của Jitendra. Tôi lễ phép từ chối.

-Các bạn hẳn là không có ư muốn đuổi tôi đi chứ?

Người lạ mặt nói với vẻ mặt lo ngại, nó có thể làm buồn cười ở vào trường hợp khác.

-Tại sao không?

-Bạn chính là thầy tôi! Y giải thích với một giọng khẩn thiết:

- Trong lúc tôi ngồi thiền trưa nay, đức Lord Krishna đă xuất hiện đến với tôi trong một cơn linh ảnh. Ngài chỉ cho tôi hai nhân vật đứng dưới gốc cây này mà một người chính là bạn, là Thầy tôi! Tôi đă nhiều lần nh́n thấy bạn như thế trong cơn tham thiền. Thật là một điều rất hân hạnh nếu các bạn chấp nhận sự giúp đỡ khiêm tốn của tôi!

-Tôi rất sung sướng về cuộc hội ngộ giữa ông bạn với chúng tôi hôm nay. Thật là Trời Phật và người đều không bỏ chúng tôi.

Tôi mỉm cười với người bạn và thầm tạ ơn đấng Thiêng Liêng với sự kính dâng hết tất cả tấm ḷng thành dưới chân Ngài.

-Các bạn hỡi, xin mời các bạn chiếu cố đến nhà tôi.

-Ông bạn thật quá tốt bụng, nhưng việc ấy không thể thực hiện được v́ chúng tôi hiện là khách của anh tôi tại Agra.

-Ít nhất các bạn cũng cho tôi cái hân hạnh được hướng dẫn các bạn đi chơi Brindaban chứ.

Tôi vui vẻ nhận lời. Người thanh niên tên là Prâtp Chatterji, gọi một cỗ xe ngựa. Chúng tôi đến viếng ngôi đền Madanamohana Temple và những nơi thánh điện khác thờ thần Krishna. Trong khi chúng tôi cúng lễ xong ở các đền thờ th́ trời đă tối.

- Các bạn hăy đợi tôi đi mua ít bánh kẹo.

Pratap bước vào một tiệm gần bên nhà ga. Jitendra và tôi đi dạo chơi giữa đám đông người; không khí lúc chiều tối đă mát lạnh. Người bạn mới phút chốc đă trở lại với bánh kẹo và thức ăn.

- Các bạn hăy hạ cố mà nhận cho món quà mọn này.

Pratap vừa tươi cười vừa cầm đưa cho chúng tôi một cuộn giấy và hai vé xe lửa đi Agra! Tôi âm thầm thành kính cảm tạ Thượng Đế đă ban cho chúng tôi quá nhiều ân huệ thiêng liêng.

Chúng tôi đi đến một chỗ hẻo lánh gần nhà ga.

- Pratap, tôi sẽ chỉ dẫn cho anh pháp môn Kriya Yoga của đức Lahiri Mahasaya, vị Yogi lớn nhất của thời đại hiện kim. Bạn sẽ không cần có thầy v́ từ nay pháp môn này sẽ là thầy của bạn.

Lễ nhập môn được hoàn tất trong ṿng nửa giờ.

-Pháp môn Kriya Yoga sẽ là món bửu bối của bạn, tôi nói với người học tṛ mới. Pháp môn rất giản dị này, như bạn đă thấy, có cái quyền năng hối thúc sự tiến hóa tâm linh hồn người chuyển kiếp xuống trần phải trải qua một khoảng thời gian một triệu năm mới có thể thoát khỏi sự trói buộc của ảo giác (maya). Pháp môn Kriya Yoga có thể thu ngắn kỳ hạn đó lại rất nhiều. Cũng như nhà bác học Jagadis Chandra Bóe đă chứng minh rằng sự tăng trưởng của một cái cây có thể được thúc hối mau lẹ vô cùng dưới một tỷ lệ không thể tưởng tượng, th́ sự tiến hóa của linh hồn người cũng được thúc hối mau gấp bội phần do khoa học tâm linh. Bạn hăy trung kiên tập luyện pháp môn ấy rồi bạn sẽ đến gần vị Tôn Sư của các Tôn Sư.

Tôi rất sung sướng mà được truyền thụ cái bí quyết của pháp môn Yoga này, mà tôi đă ra công t́m kiếm từ lâu! Prâtp nói với một vẻ mặt im lặng. Sự tác động của nó, vốn có hiệu năng cát đứt mọi sợi dây trói buộc con người với giác quan, sẽ có thể giải thoát cho tôi bước vào những trạng thái sinh hoạt tâm linh cao siêu hơn. Sự xuất hiện của đức Lord Krisna trong cơn linh ảnh thật đă báo hiệu nhiều việc tốt lành.

Chúng tôi đồng ư tịnh tâm trong giây lát, rồi từ từ đi chậm từng bước về phía nhà ga. Tôi sung sớng bước lên toa xe lửa nhưng Jitendra lại khóc sướt mướt. Những lời từ giă đầy ưu ái của tôi và Pratap lại xen lẫn với những tiếng khóc của người bạn trẻ. Một lần nữa, Jitendra lại nổi khùng, nhưng lần này th́ lại là với chính ḿnh:

-Tôi c̣n thiếu đức tin, tim tôi thật sắt đá! Tôi sẽ không bao giờ c̣n nghi ngờ sự che chở của Thiêng Liêng!

Lúc ấy đă gần nửa đêm. Chúng tôi bước vào pḥng ngủ của Ananta. Nh́n thấy chúng tôi, trên mặt y lộ một vẻ kinh hoàng. Lẳng lặng không nói ǵ, tôi ném cuộn giấy bạc lên bàn.

-Jitendra, hăy nói thật! Các em đă âm mưu những chuyện ǵ rồi?

Những câu chuyện tường thuật kéo dài, nét mặt Ananta mỗi lúc càng có vẻ nghiêm trọng.

-Định luật cung cầu lại c̣n có một khía cạnh hành động khác hẳn và tế nhị hơn là anh vẫn tưởng, Ananta nói với một đức tin nhiệt thành mà anh ta chưa từng biểu lộ bao giờ. Lần đầu tiên anh mới hiểu sự thản nhiên của em đối với những của cải vật chất trần gian.

Một lát sau đó, anh tôi khẩn khoảng yêu cầu tôi truyền dạy pháp môn Kriya Yoga cho anh. Thế là chỉ trong ṿng một ngày, tiểu sư Mukunda đă phải dảm nhiệm việc nhập môn của hai người đệ tử bất ngờ.

Sáng ngày hôm sau, một bầu không khí ḥa hợp chưa từng thấy đă có giữa chúng tôi trong bữa ăn điểm tâm.

Sau khi đă viếng lăng tẩm Tạ Mahal, tôi chỉ c̣n một điều ước mong duy nhất là đến gặp Sư Phụ tôi. Jitendra và tôi liền đón chuyến xe lửa đi về phía tỉnh Bengale.

-Mukunda, đă từ lâu tôi không về thăm gia đ́nh; bây giờ tôi phải về nhà trước đă, rồi có lẽ sau này tôi sẽ đến viếng đạo viện ở Serampore.

Bạn tôi bản tính vốn do dự không nhất quyết định điều ǵ, như chúng ta đă thấy, bèn từ giă tôi ở Calcutta. Chuyến xe lửa địa phương sau đó đă đưa tôi đến Serampore, cách mười hai dặm về phía bắc Calcutta, tôi lấy làm ngạc nhiên mà nhận thấy rằng vừa đúng hai mươi tám ngày đă trôi qua từ khi tôi gặp Sư Phụ tôi ở Bnaras. Chính người đă nói trước với tôi rằng: “Con sẽ đến với ta trong bốn tuần lễ!” Tôi hồi hộp đứng chờ ngoài sân tịnh thất của người ở đường Rai Ghat Lane. Lần đầu tiên tôi sắp sửa bước vào cửa đạo viện, tại đây tôi sẽ trải qua mười hai năm tốt đẹp nhất của đời tôi bên cạnh một vị tôn sư minh triết của Ấn Độ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 210 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG NĂM SỐNG TẠI ĐẠO VIỆN

Chương Mười

 

-À, con đă đến.

Sri Yukteswar ngồi trên một tấm da cọp trải dưới sàn một pḥng khách nhỏ có bao lơn. Người nói với một giọng lạnh lùng, không biểu lộ một sự xúc cảm nào.

-Bạch Sư Phụ, con đến để xin làm đệ tử của Người. Tôi vừa nói vừa qú lạy dưới chân Sư Phụ.

-Con không xứng đáng, v́ con đă căi lời ta.

-Bạch Sư Phụ, con sẽ không làm như vậy nữa! Từ nay, con xẽ triệt để tuân lịnh sư phụ dạy bảo.

-Tốt lắm! Bây giờ ta có thể chịu trách nhiệm về cuộc đời của con.

-Con xin đặt tương lai con trong tay Sư Phụ.

-Trước hết, ta muốn con hăy trở về với gia đ́nh. Con phải vào trường đại học Calcutta để tiếp tục sự học.

-Bạch Sư Phụ, con xin vâng.

Tôi cố dấu sự bất măn. Những sách vỡ nhồi sọ sẽ theo đuổi tôi măi suốt đời hay chăng? Trước hết cha tôi muốn vậy, rồi bây giờ lại đến thầy tôi!

Một ngày kia con sẽ đi truyền giáo ở phương Tây. Quần chúng ở các xứ ấy sẽ sẵn sàng thưởng thức nền minh triết cổ truyền của Ấn Độ hơn, nếu vịĐào Sư Ấn Độ có một cấp bằng khoa cử đại học.

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ biết nhiều hơn con.

Sự bất măn của tôi đă tiêu tan. Việc truyền giáo ở Tây Phương đối với tôi hăy c̣n là một chuyện quá xa vời, nhưng trước hết mọi sự tôi chỉ mong ước làm vui ḷng Sư Phụ.

-Calcutta cách đây không xa, con có thể đến đây mỗi khi con có thời giờ.

-Mỗi ngày nếu có thể được! Con sẽ vui ḷng tuân theo ư muốn của Sư Phụ.

Thế là sự mong ước lớn nhất trong đời tôi đă được thực hiện; những sự ḍ dẫm vô ích và những sự t́m kiếm lâu dài trước kia nay đă chấm dứt. Tôi đă t́m thấy nơi trú ẩn thực sự ở dưới chân Thầy.

-Con lại đây, ta sẽ đưa con đi viếng đạo viện.

Sư Phụ bàn rời tấm da cọp. Tôi liếc nh́n chung quanh và lấy làm ngạc nhiên mà nh́n thấy một bức chân dung của đức Lahiri Mahasaya trên vách. Tôi bấc giác buộc miệng kêu:

-Lahiri Mahasaya!

-Phải, đó là Sư Phụ của ta.

Giọng nói của Sri Yukteswar vang lên với một âm điệu đầy hứng khởi:

-Ngài là một vị tôn sư cao cả nhất trong các vị tôn sư mà ta được biết.

Tôi kính cẩn cúi đầu trước bức chân dung quen thuộc và chiêm bái tự trong đáy ḷng vị tôn sư cao cả đă từng che chở cho tôi từ thuở ấu thơ và đă hướng dẫn bước chân tôi đến đây vào giờ phút đáng ghi nhớ này.

Tôi đi một ṿng xem khắp đạo viện và những dăy nhà phụ thuộc với sự hướng dẫn của Sư Phụ. Đạo viện là một ngôi nhà gạch rộng lớn có hai tầng, kiến trúc theo lối cổ coi rất chắc chắn, chung quanh có sân rộng. Các vách tường ngoài có rêu phủ xanh um, những con chim bồ câu bay lượn trên mái nhà. Phía sau nhà có vườn cây ăn trái với những cây xoài, chuối, và nhiều loại kỳ hoa dị thảo. Những bao lơn của đạo viện nh́n ra sân từ ba phía nhà. Gian pḥng rộng lớn ở tầng dưới hằng năm dùng làm chỗ hành lễ Dủga Pụa. Một cầu thang nhỏ đưa đến phía đường lộ. Đạo viện có bày những bàn ghế, tràng kỷ ở bên trong, tất cả mọi thứ đều rất giản dị, sạch bóng và tiện lợi cho việc sử dụng hàng ngày.

Sư Phụ mời tôi ở lại đạo viện một đêm. Bữa ăn chiều gồm có cơm và rau đậu nấu với đồ gia vị, do sự đảm trách của hai người đệ tử trẻ tuổi có phận sự đi chợ nấu ăn và lo việc nội bộ của đạo viện.

-Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ để cho con nghe vài điều về cuộc đời của Ngài.

Tôi ngồi trên chiếc chiếu, gần bên tấm da cọp của Sư Phụ. Bên ngoài bao lơn, ánh sao chói rạng ngời trong đêm của vùng nhiệt đới.

-Tục danh ta là Priya Nath Karar. Ta sinh ở Serampore, tại đó thân phụ ta có một cơ nghiệp thương mại đồ sộ. Người để lại cho ta cái di sản này, trước kia là nhà ở của gian đ́nh, nay đổi làm đạo viện. Ta không thích sự học ở nhà trường v́ đối với ta nó có vẻ nông cạn. Khi trưởng thành ta quyết định lập gia đ́nh và có một con gái nay đă thành gia thất. Vào độ trung niên, ta có cái diễm phúc gặp gỡ đức Lahiri Mahasaya và theo học Đạo với Ngài. Khi hiền nội của ta qua đời, ta bèn xuất gia theo ḍng của các tu sĩ Swami và lấy tên mới là Sri Yukteswar Giri. Đó là câu chuyện giản dị về cuộc đời của ta.

Sư Phụ mỉm cười mà thấy tôi chăm chú nghe. Những lời nói của người chỉ tŕnh bày những điểm sơ lược của một tiểu sử mà không biểu lộ phần nào về tính chất tâm linh.

Sư Phụ lại im lặng. Tối đến, người đưa tôi tới một pḥng nhỏ để an nghĩ. Giấc ngủ của tôi ở nhà Sư Phụ trong đêm ấy thật mới êm đềm và ngon lành làm sao!

Sáng ngày hôm sau, Sri Yukteswar mới cho tôi làm lễ nhập môn để được truyền thụ pháp môn Kriya Yoga. Trước kia tôi đă thụ giáo về khoa Yoga này với hai vị đệ tử của đức Lahiri Mahasaya, là cha tôi và tu sĩ Swami Kebalananda, vịđỡi đầu của tôi. Nhưng bây giờ với sự hướng dẫn của thầy tôi, tôi lại càng tinh tiến thêm nhiều. Dưới bàn tay ban phép mầu của Sư Phụ tôi cảm thấy nơi tôi chiếu một Ánh Sáng diệu huyền, dường như là ánh hào quang cấu tạo nên bởi vô số vầng Thái Dương rực rỡ huy hoàng. Một nguồn an tĩnh và phúc lạc vô biên tràn ngập tâm hồn tôi; niềm an lạc ấy kéo dài cho đến tận ngày hôm sau. Sau đó, tôi bèn kiếu từ ra về. Sư Phụ dặn tôi:

-Con sẽ trở lại đây trong ba mươi ngày.

Tôi trở về nhà ở Calcutta với lời tiên tri đó ghi nhớ trong ḷng. Trái hẳn với điều tôi e ngại, không ai trong gia đ́nh nhắc nhở tới sự trở về của người con bỏ nhà ra đi hoang.

Tôi trèo lên gác nhỏ và ngắm nh́n nó với cái nh́n tŕu mến, dường như nó làm một bạn cũ. Thật vậy, nó đă tường chứng kiến trong im lặng những buổi tham thiền, những giọt lệ sầu, những cơn băo ḷng, cùng những công phu tu luyện của tôi. Bây giờ, tôi đă t́m được một niềm an tĩnh thiêng liêng dưới chân Sư Phụ.

-Con hỡi, cha lấy làm sung sướng cho cả hai chúng ta. Cha tôi nói khi ngồi với người ngoài sân vào một buổi chiểu. Con đă t́m thấy Sư Phụ con một cách nhiệm mầu, cũng như cha. Bàn tay thiêng liêng của đức Lahiri Mahasaya che chở cho cả hai ta. Sư Phụ con không phải là một vị tu sĩ ẩn dật trên dăy Hy Mă Lạp Sơn hẻo lánh mà gần như một người láng giềng. Những lời cầu nguyện của ta đă được đáp ứng, ta sẽ không bị mất con trong khi con theo đuổi việc học Đạo.

Cha tôi cũng vui ḷng mà thấy tôi định tiếp tục sự học; người liền lo làm những thủ tục cần thiết. Qua ngày hôm sau tôi đă ghi tên vào trường Đại Học Calcutta.

Ngày tháng trôi qua trong cuộc sống yên vui với gia đ́nh. Quư vị chắc hẳn đă đoán biết rằng tôi không chăm chú học lắm! Đạo viện Serampore gây cho tôi một sự hấp dẫn rất mạnh. Sư Phụ chấp nhận sự có mắt thường xuyên của tôi mà không nói ǵ, và điều làm tôi yên ḷng là người ít khi nhắc đến trường đại học. Tuy ai cũng biết rơ là tôi không chú tâm vào việc học, thỉnh thoảng tôi cũng cố gắng làm sao cho có được số điểm trong b́nh cần thiết.

Đời sống tại đạo viện trôi qua một cách lặng lẽ êm đềm. Sư Phụ tôi thức dậy trước lúc b́nh minh và ngồi tĩnh tọa ngay trên giường trong cơn nhập định.

Trước khi ăn điểm tâm, Sư Phụ và tôi cùng đi dạo một ṿng trên bờ sông Hằng. Những cuộc đi bách bộ sớm mai này đèu ghi khắc trong kư ức của tôi! Tôi vẫn không quên những giờ phút thần tiên khi tôi đi bên cạnh Sư Phụ: Mặt trời sớm mai hâm nóng mặt nước sông c̣n sương mờ bao phủ; giọng nói của Sư Phụ chứa đầy minh triết vang dội rơ ràng bên tai tôi...

Bữa cơm trưa do hai người đệ tử trẻ lo việc bếp núc nấu ăn theo chỉ thị của Sư Phụ. Sư Phụ ăn chay trường tuy rằng hồi trước khi xuất gia người có dùng trứng gà và cá. Người dạy các đệ tử nên ăn thức ăn giản dị, phù hợp với thể chất của họ.

Buổi xế trưa, khách thập phương thường đến viếng đạo viện; Sư Phụ luôn luôn tiếp đón họ một cách nhă nhặn lịch sự. Đối với ai đă hiểu rằng ḿnh là một linh hồn chư không phải chỉ là một thể xác vật chất, một phàm ngă giả tạo th́ tất cả mọi người đều như nhau.

Sự vô tư của Sư Phụ vốn căn cứ trên sự minh triết. Những vị tôn sư đạo hạnh cao thâm đă thoát khỏi ṿng tương đối ảo ảnh (maya), mà những đối tượng không c̣n làm cho họ băn khoăn chú ư. Sri Yukteswar không hề biểu lộ một dấu hiệu tôn kính, trọng vọng quá mức những kẻ bần cùng hay dốt nát. Người sẵn ḷng chú ư nghe một điểm chân lư thốt ra từ cửa miệng một đứa trẻ nhỏ hơn là nghe ư kiến của một nhà bác học tự phụ, kiêu căng.

Bữa ăn chiều dọn ra lúc tám giờ tối và đôi khi có những quan khách đến th́nh ĺnh. Sư Phụ cho là ḿnh không làm tṛn bổn phận chủ nhà nếu một vị khách nào rời khỏi đạo viện trong sự bất măn hoặc không được no ḷng. Người không bỏ sót một điều ǵ, không bao giờ bị bối rối v́ có khách đến bất ngờ; không bao giờ cạn hết phương tiện, người có thể bày ra một bữa ăn đầy đủ ngon lành với những vật liệu tối thiểu, hầu như chẳng có ǵ! Tuy vậy, người biết tiết kiệm mà không quá ư hà tiện. Người thường hay nói: “Hăy biết ăn ở rộng răi tùy theo phương tiện của ḿnh,” và “Thói xa xỉ chỉđem đến sự thất vọng, đắng cay.”

Trong những giờ yên tĩnh của trời chiều, chúng tôi ngồi nghe những lời giảng huấn đầy minh triết của Sư Phụ. Mỗi lời nói sâu xa của người đều có mang dấu vết của sự kinh nghiệm tâm linh. Người nói với một lối hùng biện ít ai có. Những tư tưởng của người được cân nhắc kỹ lưỡng do một khối óc phân biện xác đáng, chỉ xuất khẩu thành những câu nói linh động và hùng hồn. Linh hồn người đă ḥa nhập với chân lư một cách chặt chẻ đến nỗi sự thốt ra những chân lư ấy, đối với người thường, dường như là một hoạt động của cơ thể. Tôi ư thức rằng tôi đang đứng trước một hiện thân của Thượng Đế, quyền năng của người bắt buộc tôi đương nhiên phải cúi đầu chịu khuất phục.

Nếu vài người khách đến trễ giờ nhận thấy Sri Yukteswar sắp sửa nhập thiền th́ người liền đánh lạc hướng sự chú ư của họ bằng cách lôi cuốn họ vào một cuộc đàm thoại, v́ người không hề thích phô trương những khả năng siêu đẳng của ḿnh. V́ người đă ḥa hợp thường xuyên với Chân Như Đại Thể nên người có thể nhập thiền bất cứ lúc nào mà không cần phải theo đúng giờ khắc nhất định. Một vị tôn sư đă thực hiện được chân ngă ắt là đă vượt lên cao hơn mức độ tham thiền. “Cái hoa rụng khi trái đă thành h́nh.” Nhưng các vị tôn sư thường tôn trọng những h́nh thức bề ngoài trong việc công phu tu luyện để khuyến khích các đệ tử.

Những cuộc thảo luận về đạo lư thường kéo dài suốt đêm; đôi khi vịđệ tử bắt đầu những cuộc thảo luận này bằng cách nêu ra một vấn đề thật nghiêm trọng. Khi đó tôi cảm thấy mọi sự mệt nhọc và buồn ngủ đều tiêu tan; những lời dạy tốt lành của Sư Phụ là quá đủ đối với tôi.

“Trời đă sáng rồi, chúng ta hăy đi dạo một ṿng trên bờ sông,” những lời nói này của Sư Phụ thường chấm dứt những đêm thức sáng trắng một cách thú vị đó.

Trong những tháng đầu tiên ở tại đạo viện, tôi đă học được một bài học thực tế: “Làm sao để khỏi bị muỗi cắn!” Ở nhà, chúng tôi để ngủ có mùng và tôi lấy làm kinh ngạc mà thấy rằng người ta chỉ ngủ trần ở đạo viện Serampore mặc dù ở đây rất nhiều muỗi. Toàn thân từ đầu đến chân đều có đầy những vết muỗi cắn. Sư Phụ lấy làm thương hại tôi:

-Con hăy mua một cái mùng cho con và một cái cho Thầy.

Người vừa cười vừa nói thêm:

-Nếu con chỉ mua một cái, th́ tất cả muỗi đạo viện này đều bu lại cắn một ḿnh Thầy!

Tôi vui vẻ nhận lời. Mỗi đêm tôi ngủ tại đạo viện, Sư Phụ đều bảo tôi giăng luôn cả hai cái mùng.

Một đêm có thật nhiều muỗi, Sri Ykteswar quên không ra lệnh cho tôi giăng mùng như mọi khi. Tôi lắng tai nghe ngóng và chờ đợi nhưng không nghe thấy ǵ. Tôi bèn lên giường nằm và cầu nguyện thiêng liêng che chở cho tôi khỏi bị muỗi cắn. Nửa giờ sau, tôi ho lớn để làm cho Sư Phụ phải chú ư đến tôi, v́ bầy muỗi khát máu tấn công tôi từ bốn phía với tiếng bay kêu inh ỏi làm cho toi muốn phát điên.

Sư Phụ vẫn nằm yên bất động; tôi bèn rón rén đến gần nhưng không nghe có hơi thở. Đó là lần đầu tiên mà tôi thấy Sư Phụ trong trạng thái xuất thần đại định và tôi lấy làm sợ hăi. Tôi thầm nghĩ: “Hay là Sư Phụ bịđứng tim.” Tôi lấy một tấm kiếng để trước miệng người nhưng không thấy dấu vết hơi thở. Tôi bèn đánh bạo lấy ngón tay bịt hay lỗ mũi và miệng người trong vài phút để kiểm chứng những sự nghi ngờ của tôi. Toàn thân người đều cứng đơ và lạnh buốt. Tôi hoảng sợ vừa chạy ra phía cửa vừa la thất thang để kêu cứu.

-Thế nào, ông y sĩ tí hon! Ông làm khổ cái mũi tôi!

Sư Phụ cười vang lên một cách thật t́nh.

-Tại sao con không đi ngủ? Con tưởng rằng tất cả thế gian phải thay đổi để làm vừa ḷng con hay sao? Nếu con muốn thay thế gian, con hăy bắt đàu ở tự nơi con trước đă, và trước hết, con hăy tự giải thoát khỏi việc sợ muỗi cắn!

Tôi lủi thủi trở lại giường nằm th́ không c̣n thấy bóng một con muỗi nào ở gần bên. Tôi hiểu rằng Sư Phụ chỉ chấp nhận cái mùng để làm vui ḷng tôi mà thôi, chứ thực ra người không hề bị muỗi cắn. Người có quyền năng hoặc khiến cho muỗi đừng cắn hoặc trở nên bất khả xâm phạm trước sự tấn công của chúng. Tôi thầm nghĩ rằng Sư Phụ đă chứng minh cho tôi thấy cái bản lĩnh của người Yogi mà tôi c̣n phải cố gắng tu luyện để đạt tới. Quên hẳn tất cả những sụ chi phối của ngoại cảnh, người Yogi phải trụ tâm hồn vào trạng thái siêu thức. Sự khuyất rối của loại côn trùng sâu bọ, tia nắng gắt của mặt trời v.v... tất cả những sự cảm xúc của giác quan đều phải bị loại trừ. Trong trạng thái đó người Yogi tiếp nhận những âm thanh, những linh ảnh, nhưng đó là thuộc về những cơi giới cao siêu huyền diệu hơn.

Loài muỗi c̣n là đầu đề của một bài học tâm linh khác nữa trong những ngày đầu tiên của tôi ở tu viện. Một buổi chiều, tôi đang thưởng thức cảnh vật êm đềm khi tôi ngồi dưới chân Sư Phụ, th́nh ĺnh con muỗi bay đến quấy rầy sự yên lặng của tôi. Khi nó vừa sửa soạn cắn vào bắp đùi non của tôi, tôi đưa bàn tay lên nhưng rồi lại ngừng tay vào giây phút chót, khi tôi nghĩ đến lời giới răn của đạo sư Patanjali về đức bất sát (Ahimasa) hay bất bạo hành:

-Tại sao con không giết nó?

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ định bảo con sát hại loài sinh vật chăng?

-Không phải vậy, nhưng con đă có ư mưu sát ngay trong tư tưởng rồi đấy!

-Con không hiểu.

-Patanjali dạy rằng người ta phải diệt trừ ngay cả ư định giết chóc.

Như vậy, Sri Yukteswar đọc được tư tưởng tôi một cách rơ ràng như một quyển sách đang mở. Cơi thế gian thật là một nơi khó thực hành thuyết bất bạo động một cách tuyệt đối. Con người có thể bị bắt buộc phải tiêu diệt những ḷai sinh vật nguy hiểm mà không cảm thấy thù ghét hay căm hờn. Mọi sinh vật đều có quyền thở không khí của Maya (ảo ảnh). Vị tu sĩ khám phá ra cái bí quyết của sự sinh hóa, sáng tạo, sẽ ḥa hợp với mọi sắc tướng biểu hiện ra dưới thiên h́nh vạn trạng. Người nào đă thắng được ở tự nơi ḿnh cái tính đa sát, bạo hành, cũng sẽ hiểu được điều đó.

-Bạch Sư Phụ, ta có nên hy sinh tánh mạng ḿnh thay v́ phải giết một con thú dữ chăng?

-Không! Xác thân con người là quí. Nó có khả năng tiến hóa ẩn tàng mà vị trí nằm trong bộ óc và những bí huyệt trong tủy xương sống có thể giúp cho những vị đệ tử tiến hóa cao đạt được những trạng thái tâm linh siêu đẳng. Không một loài sinh vật nào có được một thể xá cấu tạo tinh vi như thế. Thật ra th́ con người mắc một tội lỗi nhỏ nhặt nếu y bắt buộc phải giết một con thú hay một loài sinh vật nào khác. Nhưng kinh Phệ Đà dạy rằng giết hại một mạng người tức là vi phạm luật nhân quả một cách nặng nề.

Tôi thốt ra một tiếng thở dài nhẹ nhơm: những trường hợp mà Thánh Kinh chấp nhận những bản năng thấp kém của con người rất là ít!

Tôi không bao giờ có dịp chứng kiến Sư Phụ đương đầu với một con cọp hay một con beo. Nhưng một ngày nọ người đă khuất phục một con rắn hổ mang dữ tợn chỉ bằng mănh lực của ḷng bác ái. Rắn hổ mang là một loại rắn dữ ở Ấn Độ và mỗi năm có đến trên năm ngàn người bị rắn cắn chết. Việc ấy xảy ra tại Puri, nơi đó Sri Yukteswar có một đạo viện khác tọa lạc trong một khung cảnh thơ mộng thần tiên trên bờ biển vịnh Bengale. Lúc ấy có một vịđệ tử trẻ tuổi tên Prafulla ở bên cạnh Sư Phụ. Prafulla kể chuyện:

Chúng tôi đang cùng Sư Phụ đứng ngoài sân ở gần bên đạo viện. Một con rắn hổ mang dài độ một thước rưỡi th́nh ĺnh xuất hiện, phùng mang to tướng và phóng tới chúng tôi. Sư Phụ b́nh tĩnh mỉm cười tiếp đón con vật chẳng khác như đó là một đứa trẻ nhỏ. Tôi kinh hoàng mà thấy người vỗ hai bàn tay làm nhịp (v́ loại rắn này thường tấn công những vật đang cử động, muốn thoát nạn phải đứng im một chỗ) dường như người muốn cảm hóa con rắn dữ! Tôi bèn đứng yên, hoàn toàn bất động và lặng lẽ khấn vái cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Con rắn ḅ đến gần Sư Phụ rồi ngừng lại, dường như nó bị hấp dẫn bởi cách xử êm ái dĩa bàn lúc năy cũng từ từ xẹp xuống, nó lẵng lặng ḅ qua giữa hai bàn chân của Sư Phụ rồi biến mất dạng trong đám cỏ rậm. Hồi đó tôi không hiểu tại sao Sư Phụ lại vỗ tay làm nhịp và tại sao con rắn không cắn người, nhưng về sau tôi biết chắc chắn rằng Sư Phụ không hề sợ sệt bất cứ một loài mănh thú nào.

Trong những tháng đầu tiên tôi ở đạo viện, một buổi trưa tôi nhận thấy Sri Yukteswar nh́n tôi một cắch chăm chú:

-Mukunda, con gầy ốm quá!

Lời nhận xét ấy làm tôi rất xúc động. Tôi đă uống rất nhiều thứ thuốc bổ nhưng vô hiệu v́ tôi bị chứng đau bao tử kinh niên từ thuở bé. Tôi thất vọng lớn lao đến nỗi có lúc tôi đă tự hỏi rằng cuộc đời có đáng sống hay chăng với một xác thân bịnh hoạn và suy nhược như thế?

-Sự công hiệu của thuốc men chỉ có giới hạn, c̣n cái nguồn sinh lực sáng tạo ra muôn loài th́ vô biên. Con sẽ khỏi bệnh và sẽ trở nên cường tráng.

Những lời nói đó của Sư Phụ đánh thức dậy nơi tôi một đức tin dũng mănh mà không một nhà chữa bệnh nào có thể gây ra được mặc dù tôi đă viếng rất nhiều y sĩ và lang băm!

Tôi càng ngày càng nặng cân. Hai tuần lễ sau, ân huệ bí mật của Sư Phụ đă làm cho tôi trở nên lực lưỡng và nặng cân thêm gấp bội. Chứng đau bao tử kinh niên cũng đă dứt tuyệt.

Trong những trường hợp khác, tôi nhận thấy Sư Phụ cũng đă chữa khỏi một cách mầu nhiệm những chứng bệnh hiểm nghèo: bệnh lao, bệnh đái đường, động kinh hay tê bại. Hơn ai hết, tôi biết Sư Phụ đă chữa khỏi bệnh cho tôi và làm cho tôi từ nay không c̣n vẻ suy nhược như cái xác khô héo nữa.

Về cách chữa bệnh một cách mầu nhiệm này, Sri Yukteswar giải thích:

-Mọi sinh hoạt trong Vũ Trụ Càn Khôn đều chịu sự chi phối của những định luật. Những định luật mà các nhà bác học đă khám phá, nó cai quản cái thế giới bên ngoài, là những định luật thiên nhiên. Nhưng ngoài ra nó cai quản địa hạt của tâm thức, mà chỉ có khoa học huyền môn gọi là Yoga mới có thể xác định được mà thôi. Những cơi giới tâm linh, vô h́nh, huyền bí, cũng có những định luật thiên nhiên, những nguyên tắc tiến hóa riêng của những cơi ấy. Cái tinh hoa của vật chất có thể sở đắc được không phải bởi nhà bác học của thế giới hữu h́nh mà chỉ bởi bậc tu sĩ giác ngộ đă thực hiện Chân Ngă. Chính bởi lẽ đó mà đấng Christ (Chúa) đă chữa lành vết thương cho người gia nô bị một vị tông đồ chém đứt vành tai.

Sri Yukteswar b́nh luận Thánh Kinh một cách tinh vi thâm thúy đến một mức độ hoàn hảo. Những buổi giảng thuyết của Sư Phụ khêu gợi nơi tôi nhiều kỷ niệm êm đềm. Nhưng những viên ngọc quí tiềm tàng trong những tư tưởng của người, không phải dùng để lăn trong vũng bùn của sự lăng trí. Tôi chỉ làm một cử chỉ vô ích, hoặc lo ra, là Sư Phụ liền ngưng bặt:

-Con không nghe ta nói!

Sư Phụ cắt đứt ngang câu chuyện đang nói vào một buổi chiều nọ, nhân dịp theo thói quen, người theo dơi ḍng tư tưởng của tôi.

-Bạch Sư Phụ, con không hề cử động và cũng không chớp mắt; con có thể lập lại từng lời nói của Sư Phụ!

-Tuy vậy, con không hoàn toàn chú ư đến câu chuyện; sự phản đối của con bắt buộc ta phải nói rằng con đang nghĩ trong trí việc thành lập ba đạo viện: một ở vùng đồng bằng, một ở vùng đồi núi, và một ở bờ biển.

Những tư tưởng mơ màng đó thật sự đă có thoáng qua trong trí tôi. Tôi nh́n Sư Phụ như để thú nhận việc ấy:

- Con c̣n làm ǵ được trước một vị tôn sư nh́n thấu suốt cả những tư tưởng thầm kín nhất của ḿnh?

-Con đă cho ta cái quyền đó. Những chân lư thâm sâu tế nhị mà ta vừa nêu ra chỉ có thể lănh hội được dưới điều kiện của một sự chú ư hoàn toàn. Thấy chỉ bước vào địa hạt những tư tưởng thầm kín riêng tư của một người trong trường hợp tối cần thiết; đó là một địa hạt mà mỗi người đều có trọn quyền để tư tưởng tự do phiêu lưu tùy ư muốn. Dẫu cho Thượng Đế cũng không lọt vào đó nếu không được mời! Thầy cũng không mạo hiểm bước vào đó nếu con không muốn.

-Bạch Sư Phụ, con rất hân hạnh được Sư Phụ chiếu cố.

-Những ước mơ lập đạo viện của con sẽ được thực hiện về sau này. C̣n bây giờ, hăy bắt tay vào việc!

Như thế, Sư Phụ đă tiên đoán ba việc quan trọng trong đời tôi. Từ thuở thiếu niên, tôi thường thấy xuất hiện trước nhăn quang của tôi những linh ảnh lạ lùng về ba ngôi kiến trúc tọa lạc trên ba khu đất khác nhau. Những ngôi kiến trúc đó được thực hiện theo thứ tự mà Sư Phụ đă tiên đoán. Trước hết là một trường dạy Yoga cho thanh thiếu niên ở miền đồng bằng tỉnh Ranchi; kế đó là tổng hành dinh của tôi ở Mỹ Quốc trên một ngọn đồi ở Los Angeles; và sau cùng là một đạo viện trên bờ biển Thái B́nh Dương ở California.

Sư Phụ không bao giờ tự hào mà tuyên bố rằng, “Ta đă tiên tri việc nọ việc kia,” mà chỉ nói rằng, “Con có nghĩ rằng việc nọ hay việc kia có thể xảy đến chăng?” Tuy nhiên, những lời nói giản dịấy có hàm xúc một ư nghĩa sâu xa thâm trầm, tuy rằng che dấu nhưng luôn luôn được xác nhận bởi những sự kiện xảy ra về sau.

Sri Yukteswar xét đóan mọi sự một cách rất dè dặt và rất đúng đắn. Người không phải là một triết gia mơ tưởng, nói những lư thuyết vu vơ trong khoảng không. Đầu óc nghĩ trên mây nhưng hai chân đứng vững chắc trên mặt đất, Sư Phụ thu hút được sự thán phục của những người thực tế.

Tấm gương cuộc đời của Sư Phụ đă cho phép tôi qui định một đường ranh giới giữa thực tế tâm linh và khoa thần bí mơ hồ. Sư Phụ không thích những cuộc thảo luận viễn vong sieu h́nh: tâm hồn của người thật rất giản dị. Sư Phụ không hề dùng lời nói ám chỉ hoặc nhắc đến những hiện tượng siêu nhiên mà chỉ làm những việc đó một cách thật sự. Những người khác nói chuyện về những phép lạ mà không làm được: Sri Yukteswar ít khi nói đến những định luật của thế giới vô h́nh nhưng sử dụng những định luật đó trong ṿng bí mật và tùy theo ư muốn. Người giải thích:

Người đă giác ngộ chỉ thực hiện những việc nhiệm mầu tùy theo mệnh lệnh của Chân Ngă. Thượng Đế không muốn những bí mật của Trời Đất được tiết lộ cho kẻ phàm tục. Mặt khác, mỗi người đều có quyền bất khả xâm phạm xử dụng tự do ư chí của ḿnh. Dẫu cho một bậc thánh cũng không được xâm phạm đến cái quyền tự do thiêng liêng đó.

V́ Sư Phụ có một thái độ khiêm tốn, không thích khoa trương nên ít ai biết rằng người là một bậc siêu nhân. Câu nói “Điên rồ thay cho kẻ nào không biết  dấu diếm sự minh triết của ḿnh” bao giờ cũng vẫn đúng.

Khi tôi sờ hai bàn chân thiêng liêng của Sư Phụ, tôi cảm thấy như có một luồng điện chạy khắp châu thân. Các đạo sĩ Yoga dạy rằng người đệ tử khi tiếp xúc với tôn sư, tiếp nhận được một luồng từ điển tâm linh làm cho mọi dấu vết xấu xa của dĩ văng được xóa bỏ, mănh lực của dục vọng trần gian được điều chỉnh lại thăng bằng, và bức màn ảo vọng, vô minh được vén lên trong một lúc để cho y thực nghiệm chân hạnh phúc. Toàn thân tôi dường như được tinh luyện và chiếu diệu một vầng hào quang giải thoát khi mà, theo tập quán Ấn Độ, tôi quỳ dưới chân Sư Phụ. Sư Phụ kể lại:

-Dẫu cho Lahiri Mahasaya im lặng hoặc nói về những vấn đề không liên quan đến đạo lư, ta cũng thâu thập nơi ngài một nền minh triết thâm sâu khôn lường.

Đó chính là điều mà tôi cảm xúc được khi có sự hiện diện của Sri Yukteswar. Những khi tôi mệt mỏi hoặc chán nản, tôi đến đạo viện và tâm trạng của tôi thay đổi lần lần. Một sự yên tĩnh tốt lành xâm chiếm tâm hồn tôi khi tôi nh́n thấy Sư Phụ. Mỗi ngày sống gần bên Sư Phụ đều đem đến cho toi một kinh nghiệm mới về sự minh triết, bằng an và phúc lạc. Sư Phụ không bao giờ cảm thấy thất vọng, ganh ghét, giận hờn hay tha thiết theo thói thường t́nh của thế nhân.

“Tấm màn ảo ảnh vô minh bao phủ thế gian một cách từ từ và êm lặng. Chúng ta hăy t́m nơi trú ẩn bên trong nội tâm của ḿnh.” Đó là câu mà Sư Phụ nhắc nhở các đệ tử hăy công phu theo pháp môn Kriya Yoga vào mỗi buổi chiều tà. Ngày nọ một đệ tử mới bày tỏ sự nghi ngờ khả năng của ḿnh trong việc thực hành pháp môn Yoga, Sri Yukteswar an ủi y:

-Hăy quên cái dĩ văng. DĨ văng của mỗi người đều đầy dẫy những điều hổ thẹn. Cách xử thế của con người không được toàn vẹn khi mà nó không ḥa hợp với thiêng liêng. Trong tương lai, con sẽ tiến bộ dưới những điều kiện cố gắng công phu không ngừng về phương diện tâm linh.

Ở đạo viện của Sư Phụ luôn luôn có những đệ tử trẻ tuổi. Sư Phụ đặt hết cả tâm hồn vào việc trí dục và đức dục của họ. Những môn sinh trong đạo viện đều yêu mến và kính trọng Sư Phụ; người chỉ cần vỗ nhẹ hai bàn tay cùng đủ làm cho họ chạy đến ngay một cách mau mắn. Khi người ngồi yên bất động trong cơn tọa thiền th́ tất cả đều im lặng không ai thốt ra một lời nào. Khi tiếng cười gịn giă của Sư Phụ vang lên một cách vui vẻ th́ tất cả đều thoải mái và coi người như một người bạn.

Sư Phụ ít khi đ̣i hỏi sự phục dịch của các đệ tử và chỉ nhận công tác đó của những vị nào thành thất và sẵn ḷng muốn giúp đỡ. Sư Phụ tự giặt giũ lấy quần áo của ḿnh khi nào các đệ tử quên làm công việc đó. Người khoác chiếc áo màu vàng sậm của giới tu sĩ và mang giầy bằng da cọp hay da hươu theo thói quen của các đạo sĩ Yogi.

Sư Phụ có vẻ hài ḷng về sự tiến hóa tâm linh của tôi v́ người ít khi sửa chữa tôi về khía cạnh đó. Những lỗi lầm chính của tôi là sự lăng trí, tính cau có gắt gỏng, sự vi phạm một vài điểm kỷ luật và đôi khi làm việc cẩu thả, thiếu phương pháp. Về điểm này một hôm Sư Phụ nói với tôi:

-Con hăy xem: những hoạt động của lịnh tôn Bhagabati Charan Ghosh, thật là sắp đặt có mực thước và tổ chức qui của khéo léo dưới tất cả mọi phương diện.

Cha tôi và Sri Yukteswar đều là đệ tử của đức Lahiri Mahasaya. Hai vịđă gặp nhua ít lâu sau khi tôi bắt đầu những chuyến hành hương đến Serampore. Hai người đều có sự quí mến lẫn nhau và cả hai đều xây dựng đời sống tâm linh của ḿnh trên một nền tảng vững chắc.

Tính chất riêng của tôi làm cho tôi thiên hẳn về con đường sùng tín. Lúc đầu tôi lấy làm hoang mang mà nhận thấy rằng Sư Phụ tuy thấm nhuần đức Minh Triết (Jnana) lại có vẻ xa lạ với đức sùng tín (Bhakti) v́ người thường giảng chân lư bằng một phương pháp thuần lư trí, khô khan, máy móc và lạnh lùng. Nhưng khi tôi tự đặt ḿnh trong sự ḥa hợp tâm linh với Sư Phụ, tôi cảm thấy rằng con đường sùng tín mà tôi noi theo để đạt tới Chân Lư lại càng tăng trưởng chứ không giảm sút. Một vị tôn sư đă hoàn toàn giác ngộ có thể d́u dắt các đệ tử trên bất cứ con đường nào thích hợp với họ.

Những sự giao cảm giữa tôi với Sư Phụ tuy im lặng không lời nhưng có ư nghĩa rất nhiều. Lắm khi sự im lặng của người đưa đến một sự giải đáp cho những tư tưởng thầm kín của tôi, làm cho lời nói cũng bằng thừa. Ngồi bên Sư Phụ tôi cảm thấy ảnh hưởng tốt lành của người thấm vào tận chỗ thâm sau bí ẩn nhất của tâm hồn tôi.

Tôi đă có dịp nhận xét sự công b́nh vô tư của Sri Yukteswar trong những tháng nghỉ hè ở trường đại học. Cái viễn ảnh sẽ sống trong nhiều tháng liên tiếp tại đạo viện gây cho tôi một sự hứng thú say sưa. Khi tôi vừa đến, Sư Phụ liền thông báo:

-Con sẽ làm quản đốc đạo viện. Bổn phận của con sẽ gồm có việc tiếp khách và giám sát công việc của những đệ tử khác.

Nửa tháng sau có một thanh niên miền đông tỉnh Bengale tên là Kumar được thu nhận. Y rất thông minh nên không bao lâu y được Sư Phụ mến thương, và v́ một lư do khó tả, Sư Phụ dành cho y một sự ưu đăi rất đặc biệt.

-Mukunda, từ rày về sau Kumar sẽ làm quản đốc đạo viện, c̣n con sẽ lo việc nội trợ và bếp núc.

-Sư Phụ lại ra lệnh như thế khi Kumar vừa đến ở đạo viện mới được một tháng!

Hănh diện với chức vụ mới, Kumar bèn lên giọng hách dịch quyền hành trong đạo viện. Các đệ tử khác ngầm thỏa thuận với nhau để tiếp tục đến nhận chỉ thị của tôi hàng ngày.

-Mukunda thật là khó chịu! Sư Phụ đă giao chức quản đốc cho con nhưng các huynh đệ khác lại đến t́m y và vâng lời y!

Kumar lên tŕnh với Sư Phụ như thế sau đó ba tuần lễ, và tôi nghe lỏm được câu chuyện từ gian pḥng bên cạnh.

-Bởi đó nên ta mới cho nó xuống nhà bếp c̣n con th́ lên pḥng khách!

Giọng nói khinh bỉ của Sư Phụ là một điều bất ngờ đối với Kumar.

-Như vậy, con sẽ hiểu rằng một người lănh đạo có khả năng phải dốc ḷng phụng sự chứ không phải ỷ thế lạm quyền. Con muốn lănh chức vụ của Mukunda nhưng con lại bất lực không kham nổi địa vịđó bằng tài đức của ḿnh. Bây giờ con hăy trở về với công việc ở nhà bếp mà con đă làm từ lúc đầu.

Sau khi xảy ra chuyện ấy, Sư Phụ lại tiếp tục dành cho Kumar một sự biệt đăi và khoan dung như trước. Có ai lường được sự bí ẩn của t́nh thương? Sư Phụ dành cho Kumar những sự ưu đăi tế nhị mà người không dành cho những đệ tử khác. Tuy Kumar đă rơ ràng là người thân tín chọn lọc của Sư Phụ, nhưng tôi không cảm thấy ganh tị.

Thâm chí các tôn sư cũng có những sự biệt đăi, thiên vịđối với một vài đệ tử. Điều này làm cho cuộc đời có những khía cạnh vô cùng phong phú. Bản tính tôi ít khi chú ư đến những chuyện nhỏ nhặt. Tôi ḥai vọng ở Sri Yukteswar những kho tàng tâm linh quí giá khác hơn là những sự biệt đăi hoặc những lời khen tặng.

Một hôm, Kumar gây gỗ với tôi một cách vô lư và thốt ra những lời lẽ nặng nề. Tôi bị chạm tự ái rất nặng.

-Huynh đừng quá nóng, tôi trả lời và cảnh cáo y. Nếu huynh không sửa đổi tánh hạnh, chắc có ngày huynh sẽ bị trục xuất ra khỏi đạo viện.

Kumar phát lên giọng cười ngạo nghễ và lập lại những lời nói của tôi cho Sư Phụ khi người vừa bước vào. Tôi tưởng chắc phen này ḿnh bị quở trách nặng nề, bèn khép nép đứng thu ḿnh vào một góc pḥng.

- Có thể là Mukunda nói có lư!

Sư Phụ đáp lại với một giọng lạnh lùng khác hẳn mọi khi c̣ng tôi không bị trách mắng.

-Một năm sau, Kumar về quê thăm gia đ́nh bất kể đến sự bất măn câm lặng của Sư Phụ, v́ người không bao giờ sử fụng uy quyền đối với các đệ tử. Vài tháng sau đó, khi trở lại đạo viện y thay đổi một cách bất ngờ. Y không c̣n là một chàng thanh niên hiên ngang có gương mặt khôi ngô sáng sủa và trầm lặng, mà là một anh nông dân thô tục mắc phải nhiều tật xấu.

Sư Phụ gọi anh ta lại và lấy làm đau ḷng mà nhận thấy rằng người thanh niên ấy không c̣n thích hợp với đời sống đạo viện.

-Mukunda, con hăy nói với Kumar rằng y phải rời khỏi đạo viện vào sáng ngày mai. Ta không đủ can đảm nói với y!

Sư Phụ rưng rưng giọt lệ nhưng người bèn trấn tĩnh ngay: -Nếu y biết vâng lời ta mà đừng về nhà để bị bạn bè bất hảo lôi cuốn th́ y đă không đến nỗi quá trụy lạc như vậy. Y đă khước từ sự che chở của ta, từ nay cuộc đời cay đắng phủ phàng sẽ là thầy của y.

Sự ra đi của Kumar không gây nơi tôi một sự thỏa măn tự ái nào cả, ḷng buồn man mác, tôi tự hỏi v́ sao một người có cái diễm phúc được Sư Phụ mến yêu lại có thể coi trọng những thú vui phàm tục hơn Thầy. Rượu chè, đàng điếm có tác dụng như những thứ thuốc độc hại người. Trong nội tâm ta vốn có sẵn một niềm phúc lạc mà chúng ta phí công đi t́m một cách vô ích ở khắp mọi nơi.

Có lần Sư Phụ b́nh phẩm về Kumar:

- Trí thông minh có hai mặt: nó có thể xây dựng hay phá hoại, cũng như con dao bén có thể dùng để giải phẫu một mụt nhọt ung thư hoặc để giết người. Trí thông minh chỉđi đúng đường khi nào con người đă phát triển tâm linh và hiểu biết Đạo lư.

Trong số các đệ tử ở đạo viện, có vài người thuộc về phái nữ: Sư Phụ săn sóc tất cả mọi người cũng như những người con trong gia đ́nh. Ư thức được sự b́nh đẳng của tất cả mọi linh hồn, người không phân biệt vấn đề nam nữ. Người nói:

Trong giấc ngủ, người ta không ư thức rằng ḿnh là đàn ông hay đàn bà. Cũng như một người nam không trở thành một người nữ khi y mặc áo quần của người đàn bà, th́ linh hồn cũng vậy: linh hồn khoác lấy một thể xác đàn ông hay đàn bà nhưng thật ra nó vốn không có tính chất nam hay nữ. Linh hồn con người chỉ là một h́nh ảnh thuần khiết và bất tử của đấng Thiêng Liêng.

Sri Yukteswar không tránh né phụ nữ, người không cho rằng phụ nữ là mục tiêu cám dỗ người đàn ông, và nói rằng: “Đàn ông cũng là một sự cám dỗ đối với đàn bà!” Tôi bèn hỏi v́ sao một vị thánh nhân thời cổ đă nói rằng đàn bà là cửa vào địa ngục? Sư Phụ giải thích:

-Chắc hẳn là trước kia một thiếu nữ đă gây nhiều xáo trộn và làm mất sự b́nh an trong ḷng của ông ta. Nếu không, th́ ông ta đă không lên án đàn bà mà chỉ trách ḿnh không biết tự chủ.

Những đệ tử thật ḷng muốn diệt trừ ảo vọng đă tị thấy nơi Sư Phụ những lời khuyên sáng suốt:

-Cũng như người ta ăn uống để giải bớt sự đói khát chứ không phải để thỏa măn sự tham ăn th́ bản năng sinh lư là để lưu truyền ṇi giống theo định luật thiên nhiên chứ không phải để thỏa măn nhục dục thấp hèn. Hăy diệt trừ dục vọng xấu xa ngay bây giờ kẻo nó sẽ theo dơi ta qua tận cơi trung giới khi ta rời bỏ xác phàm. Nếu xác thịt yếu đoosi th́ tinh thần phải được dũng mănh. Trước một sự cám dỗ quá mạnh, ta phải chống lại bằng một sự phân tích khách quan và một ư chí bất khuất. Như thế những dục vọng mạnh mẽ tự nhiên sẽ được chế ngự.

-Chúng ta hăy biết bảo toàn sinh lực. Ta hăy làm như biển đại dương, thu hút về ḿnh tất cả mọi nguồn sông, rạch của giác quan. Trong cái kho vô tận của niềm an tịnh bên trong nội tâm, những mối xúc cảm nhỏ nhặt nhất của thất t́nh lục dục đều là những lổ hổng làm chảy mất đi những nguồn sinh khí bảo dưỡng, nó sẽ bị khô cạn trên băi cát khô khan của duy vật chủ nghĩa. Áp lực chuyên chế của những dục tính xấu xa là kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc con người. Các con hăy tập lấy tính tự chủ và đừng bao giờ mở rộng cửa để dung dưỡng sự yếu đuối.

Ngoài các Kinh Thánh, Sri Yukteswar rất ít chú trọng đến sách vở. Tuy thế, người vẫn biết rơ những phát minh khoa học mới nhất và những nghành học thuật khác của nhân loại. Sư Phụ rất hùng biện trong những cuộc đàm thoại với những vị khách viếng thăm đạo viện: tính t́nh vui ve, người làm cho câu chuyện trở nên sôi nổi hào hứng. Người thường nghiêm trang nhưng không bao giờ có nét mặt sầu thảm. Người nói: “Tu hành không có nghĩa là lúc nào phải có một bộ mặt đưa đám. Các con hăy nhớ rằng tu hành đắc Đạo tức là chấm dứt tất cả mọi điều phiền năo, nghiệp chướng.”

Trong số những nhà trí thức, học giả, bác học từng đến viếng đạo viện, nhiều người tưởng rằng ở đây họ sẽ gặp một tu sĩ thuộc về loại tầm thường cũng như bao nhiêu tu sĩ khác. Họ biểu lộ tâm trạng đó đôi khi bằng một cái cười ngạo nghễ hay cặp mắt khinh thường. Nhưng đến khi ra về họ lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng Sri Yukteswar đă tỏ ra có những kiến thức rộng răi và tầm hiểu biết sâu xa trên mỗi lănh vực chuyên môn của họ.

Sư Phụ rất hiền ḥa và khả ái đối với những khách viếng thăm và tiếp đón họ một cách lịch sự. Tuy nhiên những kẻ ích kỷ, lố lăng ngạo mạn đều bị người cho những bài học thích đáng. Trong những dịp đó, họ bị người dành cho một sự thờ ơ lạnh nhạt hoặc bị chống đối mănh liệt.

Ngày nọ, một nhà khoa học trứ danh đă có dịp chạm trán với Sư Phụ. Ông ta từ chối không nh́n nhận là có Thượng Đế bởi v́ khoa học không thể chứng minh được việc ấy. Sư Phụ nói mỉa mai:

-À, thế là ông chưa t́m ra cái Quyền Năng Thiêng Liêng bằng những công thức hóa học trong pḥng thí nghiệm ư? Tôi đề nghị là ông hăy thử làm một cuộc thí nghiệm khác thường này: ông hăy theo dơi và phân tích những tư tưởng của ông không ngừng trong hai mươi bốn giờ liên tiếp. Chừng đó ông không c̣n thắc mắc về sự không t́m thấy Thượng Đế.

Những người hănh diện về quyền thế và địa vị cao sang của họ ở ngoài đời đă có dịp nhận một bài học khiêm tốn trước mặt Sư Phụ. Một vị thẩm phán địa phương một hôm t́nh cờ đến viếng đạo viện của Sư Phụ trên bờ biển ở Puri. Vị này từng nổi tiếng là một viên chức khắc nghiệt và có đủ quyền hành để đuổi chúng tôi ra khỏi đạo viện nếu ông muốn. Tôi dặn trước Sư Phụ hăy nên cẩn thận tiếp đón ông ta, nhưng Sư Phụ không màng để ư đến lời dặn của tôi chút nào và thậm chí không đứng dậy để tiếp đón vị khác quí ấy. Tôi hơi e ngại và đứng khép nép một bên ở phía gần cửa ra vào. Vị thẩm phán buộc ḷng phải chịu ngồi trên một cái ghế đẩu nhỏ bằng gỗ v́ Sư Phụ không ra lệnh cho tôi lấy ghế bành. Vị thẩm phán hẳn là trông đợi một sự tiếp đón trọng hậu hơn với những nghi lễ xứng đáng với quyền chức của ḿnh, bèn lộ vẻ thất vọng rơ rệt.

Kế đó diễn ra một cuộc thảo luận về đạo lư. Người khách b́nh luận các Thánh Kinh với rất nhiều điểm sai lầm. Khi Sư Phụ vạch cho thấy những điểm đó, th́ ông ta nổi nóng cải lại và nói lớn:

-Đại đức có biết rằng tôi đă đậu thủ khoa trong kỳ thi Tiến Sĩ Triết Học?

Sư Phụ đáp:

-Này ông thẩm phán, ông không phải đang ngồi trước một phiên ṭa. Những lời b́nh luận kém cỏi của ông làm cho tôi nghĩ rằng có lé sự học của ông không được chu đáo lắm. Một bằng cấp khoa cử, tuy vậy, không có liên hệ đến cái tinh hoa thâm thúy của thánh kinh Phệ Đà. Người ta không sản xuất thánh nhân từng kỳ hạn như những vị tân khoa.

Vị thẩm phán bị “chỉnh” bằng cách đó rốt cuộc đành cười lớn một cách thật t́nh. Ông ta nói:

-Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với một vị thẩm phán của trời!

Ít tháng sau đó, ông ta làm một lá đơn chánh thức với những danh từ luật pháp nó đă trở thành bản tính tự nhiên thứ nh́ của ông ta, để xin nhập môn vào đạo viện với tư cách một đệ tử tập sự.

Sư Phụ đích thân chăm lo việc quản lư tài sản của ḿnh. Những kẻ bất lương đă nhiều lần âm mưu chiếm đoạt đất hương hỏa của Sư Phụ. Sri Yukteswar đă cương quyết lật tầy âm mưu đen tối của họ, thậm chí đă đưa họ ra trước pháp luật. Người tự ḿnh đảm nhiệm việc kiện thưa rắc rối này để khỏi phải làm gánh nặng cho các đệ tử. Tôi không bao giờ nghe Sư Phụ đ̣i hỏi tiền bạc hoặc ám chỉ việc cần dùng tiền v́ mục đích này hay mục đích khác. Việc giảng huấn tại đạo viện được hoàn toàn miễn phí cho tất cả các đệ tử.
Ngày nọ một viên thừa phát lại đột nhiên xuất hiện tại đạo viện Serampore với một trát ṭa và có vẻ hỗn láo với Sư Phụ:

-Ông nên từ giả đạo viện để đến thở bầu không khí lương thiện của pháp đ́nh.

Y vừa nói vừa có một nụ cười khinh mạn. Tôi không thể tự chủ được nữa, giận dữ tiến tới:

-Nếu ông c̣n hỗn láo, tôi sẽ đập ông một trận nên thân.

Kanai, một đệ tử trẻ đứng gần đó cũng nói trong cơn thịnh nộ:

-Đồ hỗn láo, chớ buông lời xúc phạm trong chốn đạo viện thiêng liêng.

Sư Phụ bèn can gián chúng tôi: -Các con hăy b́nh tĩnh, đừng nóng giận. Người này chỉ làm bổn phận của y đó thôi.

Viên thừa phát lại ngạc nhiên v́ sự can thiệp đầy hảo ư đó, bất giác thốt ra vài lời xin lỗi và liền kiếu từ ra về mà không đ̣i hỏi ǵ nữa.

Thật là một điều lạ lùng mà thấy một vị tôn sư với một ư chí dũng mănh bất khuất lại có thể b́nh tĩnh được như vậy. Người thật là tiêu biểu cho một bật siêu nhân đúng theo định nghĩa của kinh Phệ Đà: “Nói về sự tốt lành th́ người c̣n êm dịu hơn bông hoa, nhưng khi những nguyên tác đạo lư bị xâm phạm th́ người c̣n dũng mănh hơn sấm sét.”

Cách sử thế toàn vẹn của một bậc thánh nhân gây cho ta một ấn tượng mạnh mẽ sâu sa hơn những lời nói: “Kẻ nào thắng được cơn nóng giận c̣n cương dũng hơn một bậc anh hùng, và người tự chủ được ḿnh c̣n cao cả hơn một viên hỗ tướng chiếm đoạt thành tŕ.”

Tôi thường suy nghiệm rằng Sư Phụ đă có thể trở nên một bậc Hoàng Đế hay một nhà chinh phục tiếng tăm lừng lẫy nếu người chọn con đường lợi danh và những sự thành công theo thế tục. Nhưng trái lại, người đă chọn việc đả phá những thành tŕ của sự hận thù và ḷng ích kỷ, sự triệt hạ những thành tŕ đó mới là ghi dấu sự cao cả của con người.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 211 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

VỊ TU SĨ KHÔNG NGỦ

Chương Mười Một

 


-Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ cho phép con đi lên dăy Hy Mă Lạp Sơn. Con hy vọng rằng trong vùng núi non cô tịch trên đó, con có thể đạt tới sự giao cảm tâm linh với Thiêng Liêng.

Tôi tŕnh với Sư Phụ những lời nói bạc bẽo ấy một ngày nọ. Nhưng điều này đôi khi xảy đến cho tất cả những người tu sĩ, tôi cảm thấy chán nản; những bổn phận hàng ngày ở đạo viện, những bài vở phải làm ở trường đại học bắt đầu làm cho tôi nhàm chán. Tuy rằng tôi chỉ tŕnh bày sự yêu cầu đó sau mọt thời gian sáu tháng sống tại đạo viện của Sri Yukteswar, điều ấy không đủ là một trường hợp giảm khinh: Tôi vẫn chưa hiểu biết rơ tầm mức cao cả tâm linh của Sư Phụ.

Sư Phụ cảnh cáo tôi với một giọng yên tĩnh:

-Những thổ dân trên dăy Hy Mă Lạp Sơn không phải đă đắc Đạo. Chi bằng hăy t́m sự minh triết ở gần bên một người đă giác ngộ tâm linh hơn là giữa những đống đá vô tri bất động.

Không biết đến lời ngụ ư của Sri Yukteswar ám chỉ rằng thầy tôi chính là người chứ không phải là một quả núi, tôi lập lại lời yêu cầu của tôi một lần nữa. Sư Phụ không nói ǵ, tôi lại hiểu lầm rằng sự im lặng đó có nghĩa là sự bằng ḷng, v́ người ta luôn luôn sẵn sàng tưởng mộng là thật.

Tại nhà tôi ở Calcutta, trọn buổi tối hôm đó tôi bận rộn lo việc chuẩn bị lên đường. Khi tôi sửa soạn hành lư gói trong một cái mềm, tôi nhớ đến một cái gói tương tự mà tôi ném qua cửa sổ trên gác nhỏ của tôi cách đây vài năm. Tôi tự hỏi rằng không biết chuyến đi lên núi lần này cũng sẽ thất bại nữa chăng? Lần trước tôi cảm thấy một sự khích động tâm linh rất lớn; nhưng tối hôm nay tôi lấy làm buồn bực với ư nghĩ phải từ biệt Sư Phụ.

Sáng ngày hôm sau, tôi đến t́m nhà học giả Bebari, giáo sư Phạn ngữ của tôi tại trường đại học.

-Thưa ông, ông có nói chuyện với tôi về t́nh bạn giữa ông và một đệ tử của đức Lahiri Mahasaya. Ông có thể cho tôi địa chỉ của ông ấy?

-Anh muốn nói Ram Gopal Muzumdar chăng? Tôi vẫn gọi y là nhà tu sĩ không ngủ. Y luôn luôn thức trinh và đắm ch́m trong một trạng thái đại định. Y ở tại Ranbajpur gần Tarakeswar.

Tôi cám ơn nhà học giả và lập tức đáp chuyến xe lửa đi Tarakeswar. Tôi nghe nói h́nh như tu sĩ đă đạt tới sự giác ngộ tâm linh sau nhiều năm tu luyện pháp môn Kriya Yoga trong các động đá âm u cô tịch.

Ở Tarakeswar có một ngôi đền danh tiếng được người Ấn Độ sùng bái cũng như Lộ Đức của người Thiên Chúa Giáo. Tại đây đă xảy ra vô số những trường hợp chữa khỏi bệnh một cách mầu nhiệm, trong số đó có trường hợp của một người trong thân quyến của tôi.

Bà cô của tôi thuật chuyện cho tôi nghe như sau:

-Cô ở lại ngôi đền hết trọn một tuần. Cô vừa tuyệt thực vừa cầu nguyện cho cậu Sarada của con được khỏi một chứng bệnh kinh niên. Vào ngày thứ bảy, một nhánh dược thảo hiện ra trong bàn tay của cô! Cô đem về làm thuốc sắc cho cậu con uống. Cơn bệnh liền dứt ngay không trở lại nữa.

Tôi bước vào ngôi đền Tarakeswar; trên chánh điện chỉ có một tảng đá mà chu vi h́nh tṛn không đầu không đuôi là biểu tượng của Vô Cực.

Lúc ấy tôi nghĩ rằng người ta chỉ nên chiêm bái Thượng Đế tự trong ḷng mà thôi, nên tôi không chịu qú lạy trước một tảng đá biểu tượng Sức Mạnh Thiêng Liêng. Bước ra khỏi đền tôi liền đi mau đến làng Ranbajpur. Tôi hỏi thăm địa chỉ của tu six với một người đi đường; sau khi suy nghĩ rất lâu, y đáp trịnh trọng như bói quẻ:

Ông đi tới ngă tư, ông quẹo sang tay mặt rồi đi thẳng tới trước.

Theo lời chỉ dẫn đó, tôi đi dọc theo một con kên đào. Trời đă tối. Tiếng rú rùng rợn của những con sơn cẩu, và những ánh đèn lửa lập ḷe là những nét linh động của một vùng làng mạc ở ven rừng già với những cḥm cây rậm rạp diễn ra đến tận chân trời. Ánh trăng mờ làm cho cảnh vật đượm thêm một nét huyền ảo.

Tôi đi lang thang như thế đă được hai tiếng đồng hồ th́ nghe có tiếng lục lạc khua vang bên tai. Một nông dân từ dưới ruộng bước lên đường lộ với một con ḅ. Tôi hỏi:

-Ông cho tôi hỏi thăm tu sĩ Ram Gopal.

-Không có ai tên đó ở trong làng này.

Người nông dân có vẻ nghi ngờ tôi là một thám tử. Để dẹp tan mọi sự nghi hoặc, tôi giải thích cho y nghe mục đích sự t́m kiếm của tôi. Y đưa tôi về nhà và dọn chỗ cho tôi nghĩ một cách rất khả ái. Y giải thích:

- Ranbajpur cách đây rất xa. Lúc năy đến ngă tư, đáng lẽ ông phải quẹo sang bên tay trái chứ không phải tay mặt.

Tôi buồn mà nghĩ rằng người chỉđường đầu tiên quả là một nguy cơ đáng sợ cho khách lữ hành. Sau một bữa ăn ngon lành gồm có cơm xào với ca ri, súp đậu, khoai tây và chuối, tôi bèn lui vào ngơi nghĩ trong một cḥi lá ở ngoài sân. Từ xa vọng lại tiếng ca của dân làng cùng với tiếng trống mridangam (tên một loại trống nhỏ có buộc dây để quàng lên cổ và đánh bằng hai tay, chỉ dùng trong các buổi lễ âm nhạc tôn giáo). Tôi không ngủ được trong đêm ấy.

Sáng ngày hôm sau, tôi lên đường để về làng Ranbajpur. Đi một quăng rất xa tôi mới gặp một nông dân để hỏi thăm đường; đi nhiều chặn như vậy, những người nào tôi gặp cũng đều nói giống như nhau là chỉ c̣n độ chừng hai dặm đường nữa là đến nơi. Đến xế trưa tôi đă đi bộ hết sáu tiếng đồng hồ mà chỉ thấy có đồng trống ở hai bên đường. Mặt trời nóng gắt trên một nền trời xanh thẳm không có một cụm mây làm cho tôi choáng váng. Th́nh ĺnh có một người chậm răi bưới đến gần và ngừng bước trước mặt tôi. Tác người nhỏ thó, gầy ốm, người ấy không có ǵ đáng chú ư trừ ra đôi mắt đen sáng rơ và linh động vô cùng. Y nói:

-Tôi định rời khỏi Ranbajpur nhưng v́ em đến đây với hảo ư nên tôi c̣n đợi em.

Y nói thêm trong khi tôi chưa dứt sự ngạc nhiên:

- Em điên hay sao mà tưởng rằng có thể gặp tôi khi em không báo trước! Giáo sư Behari không có quyền cho em địa chỉ của tôi.

Thấy rằng không cần phải tự giới thiệu nữa, tôi đứng im nhưng hơi bị chạm tự ái v́ sự đón tiếp ấy. Người ấy đột nhiên hỏi tôi:

- Em hăy nói cho tôi biết Thượng Đế ở đâu?

-Ở nơi tôi, ở nơi ông và ở khắp cả.

-Phải chăng là Ngài toàn thông?

Tu sĩ cười và nói tiếp:

-Như thế, này người bạn trẻ, tại sao ngày hôm qua em không qú lạy đấng Thiêng Liêng trong h́nh biểu tượng bằng đá tại đền Tarakeswar? Chính v́ để trừng phạt tội ngạo mạn đó mà em bị một kẻ lạ mặt chỉ lầm đường để cho hôm nay em phải trăi qua một ngày vất vả cực khổ như thế này!

Tôi vui vẻ chấp nhận sự việc đă xảy ra; một nhăn quang sáng suốt như vậy ở nơi người có bề ngoài khiêm tốn nghèo nàn đó làm cho tôi vô cùng kinh ngạc. Một nguồn thần lực tốt lành từ người tu sĩ thoát ra làm cho tôi cảm thấy hết cả mệt nhọc. Y nói:

-Người tu hành thường cho rằng chỉ có con đường của ḿnh là con đường duy nhất. Đức Lahiri Mahasaya dạy rằng đạo pháp Yoga là pháp môn tối thượng giúp cho hành giả đạt tới Thượng Đế ở tận chỗ thâm sâu bí ẩn của nội tâm ḿnh. Nhưng khi đă đạt Đạo trong ḷng ḿnh, hành giả cũng thấy đạo khắp ở mọi nơi. Một ngôi thánh điện dẫu rằng ở Tarakeswar hay ở bất cứ nơi nào khác, cũng đều được sùng kính ngang nhau như một trung tâm thần lực.

Tu sĩ đă từ bỏ thái độ chê trách, đôi mắt người đă lắng dịu. Người vỗ nhẹ trên vai tôi một cách thân ái:

-Này người bạn trẻ, tôi thấy rằng em đă bỏ Thầy ra đi. Lịnh tông sư có đủ những ǵ em cần; em phải trở về với Thầy. Những quả núi đá không phải là Thầy của em!

Tu sĩ Ram Gopal đă lập lại chính cái ư tưởng mà Sri Yukteswar đă thốt ra trong buổi đàm luận cuối cùng của chúng tôi.

- Không có một định luật thiêng liêng nào bắt buộc các vị tôn sư phải chọn một nơi trú ẩn đặc biệt.

Tu sĩ nói tiếp với một cái nh́n mỉa mai:

-Dăy Hy Mă Lạp Sơn dù ở Ấn Độ hay ở Tây Phương không phải là chỗ ở riêng biệt của các vị thánh nhân hiền triết. Điều mà người ta không chịu khó t́m ra trong cái Chân Ngă thâm sâu bí ẩn của ḿnh, th́ người ta không thể t́m thấy bằng cách đi đó đi đây. Khi người hành giả sẵn sàng đi đến tận chân trời góc bể để t́m Đạo th́ Thầy y sẽ xuất hiện ở một bên y.

Tôi im lặng biểu đồng t́nh và nhớ lại lời cầu nguyện của tôi tại đạo viện ở Banaras, rồi tiếp theo đó là sự gặp gỡ của tôi với Sri Yukteswar ở giữa đám đông người.

-Em có một gian pḥng nhỏ để sống biệt lập trong sự yên tịnh chăng?

-Phải, tôi có.

Tôi nghĩ rằng tu sĩ đang lập luận từ đại cương đến chi tiết một cách mau chóng lạ thường.

- Đó chính là cái động đá của em!

Người Yogi phóng đến tôi một cái nh́nh nẩy lửa mà tôi không bao giờ quên:

- Đó chính là ngọn núi thiêng của em! Chính đó là nơi em sẽ đạt tới cơi Đạo diệu huyền!

Những lời nói giản dị đó làm tiêu tan sự ám ảnh của dăy núi Hy Mă Lạp Sơn nó vẫn theo đuổi tôi từ thuở nhỏ. Chính ở giữa những ruộng lúa nóng cháy dưới ánh mặt trời như thiêu đốt mà tôi vĩnh viễn thức tỉnh khỏi cơn mê tuyết lạnh giá băng trên đỉnh núi Hy Mă Lạp Sơn!

-Này người bạn trẻ, sự khác khao tầm đạo của em thật rất đáng khen. Tôi rất mến em.

Tu sĩ Ram Gopal nắm lấy tay tôi và dắt tôi đến một ấp nhỏ với những mái nhà tranh lợp lá dừa, cửa bằng cây mộc mạc.

Tu sĩ mời tôi ngồi dưới mái nhà trang của y. Y mời tôi dùng nước chanh c̣n y bước vào chái bên để ngồi thiền. Bốn giờ sau đó, tôi xă thiền và dưới ánh trăng tôi nh́n thấy đạo sĩ vẫn c̣n ngồi yên bất động. Bụng đói như cào, tôi mới nhận thấy rằng người ta không phải chỉ sống bằng nước lă. Ram Gopal bước đến gần tôi và nói:

-Tôi biết em đang đói bụng. Ḿnh cũng sắp ăn cơm.

Tu sĩ đi nhúm lửa trong cái ḷ đất sét ở bên chái, rồi trong giây lát cơm và đậu nấu đă được dọn ra trên những mảnh lá chuối. Tu sĩ lễ phép từ chối sự giúp đỡ của tôi trong vịec dọn ăn. Từ ngh́n xưa người Ấn vẫn có truyền thống hiếu khách và tiếp đăi trọng hậu khi có khách đến nhà.

Trong cảnh hoang vắng của tôi nơi thôn ấp nhỏ bên ven rừng già, ở bên cạnh người Yogi, những tiếng động ồn ào của thế gian chỉ c̣n là một dư âm đă tàn. Một ánh sáng êm dịu và huyền bí chiếu lóng lánh trong gian pḥng. Ram Gopal trải nệm dưới đất để cho tôi ngủ, c̣n y th́ ngồi trên một chiếc chiếu bằng rơm. Bị lôi cuốn bởi luồng từ điển tâm linh của tu sĩ, tôi đánh bạo hỏi:

-Bạch thầy, xin thầy hăy hạ cố ban phép nhập định cho tôi.

-Tôi rất sung sướng được giúp em có sự giao cảm với thiêng liêng, nhưng đó không phải là vai tṛ của tôi.

Tu sĩ nh́n tôi qua đôi mắt hé mở:

-Không bao lâu thầy em sẽ cho em cái kinh nghiệm đó. Hiện giờ thể xác em chưa được chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế. Cũng như một bóng đèn nhỏ không thể chịu đựng nổi một điện thế quá cao, những dây thần kinh của em chưa sẵn sàng để lưu chuyển luồng từ điển của vũ trụ. Nếu tôi đưa em vào trạng thái đại định như bây giờ, em sẽ bốc cháy như bó đuốc chẳng khác nào tất cả những tế bào trong thân thể em đều bắt lửa.

Người YoGi nói tiếp với một giọng suy tư:

-Em trông mong rằng tôi có thể giúp em đạt tới sự giác ngộ trong khi tôi tự hỏi rằng không biết tôi đă thành công hay chưa, và đă được Thiêng Liêng ban ân phước hay chưa?

-Bạch Thầy, nhưng Thầy đă dốc ḷng t́m Đạo và công phu tu luyện trong hằng bao nhiêu năm.

- Tôi không có công trạng ǵ cả! Đáng lẽ Behari phải thuật lại cho em nghe cuộc đời của tôi. Tôi đă tham thiền suốt hai mươi năm trời trong một hang núi cô tịch, trung b́nh mười tám giờ mỗi ngày. Sau đó, tôi di chuyển đến một động đá c̣n xa xôi hẻo lánh hơn nữa, tại đây tôi ông phu tu luyện trong hai mươi lăm năm và tham thiền hai mươi giờ mỗi ngày. Tôi không càn phải ngủ v́ tôi luôn luôn giao cảm với Thiêng Liêng. Thể xác tôi t́m thấy trong an tĩnh của cơi siêu thức một sự bồi dưỡng c̣n bổ khỏe hơn sự nghĩ ngơi trong trạng thái tiềm thức của giấc ngủ thông thường.

-Trong giấc ngủ, những bắp thịt được thoải mái, bớt căng thẳng nhưng tim, phổi và bộ máy tuần hoàn không hề nghỉ. Trong trạng thái siêu thức, sự hoạt động của những cơ quan trong thân thể tạm thời gián đoạn, và những bộ phận asy được truyền điện do nguồn sinh lực của vũ trụ. Chính nhờ bởi phương pháp này mà tôi không cần ngủ trong nhiều năm. Em cũng vậy, thời gian sẽ đến khi đó em cũng sẽ không ngủ nữa.

Tôi nh́n tu sĩ với đôi mắt ngạc nhiên:


-Bạch thầy, thầy đă thiền định lâu năm như vậy mà c̣n không chắc chắn được ân huệ thiêng liêng, th́ những kẻ sơ cơ như tôi đây c̣n có hy vọng ǵ!

-Em há biết rằng Đạo vốn là vô cùng! Thật là dại dột mà tưởng rằng người ta có thể đạt tới cơi Đạo diệu huyền sau bốn, năm mươi năm thiền định. Tuy vậy, Babaji nói rằng dù cho tham thiền rất ít cũng giúp chúng ta khỏi bị những khổ đau trong cơn hấp hối, và trong những trạng thái sau khi chết em đừng đặt sở vọng tâm linh của em nơi một ngọn núi, em hăy nhắm vào sự giao cảm, hợp nhất với Thiêng Liêng! Nếu kiên tâm bền trí, có ngày em sẽ thành công.

Triển vọng đó làm tôi vô cùng phấn khởi, tôi bèn yêu cầu tu sĩ nói rơ thêm vài chi tiết. Tu sĩ mới thuật lại cho tôi nghe câu chuyện nhiệm mầu về sự gặp gỡ đầu tiên của y với Babaii, Sư Phụ của Lahiri Mahasaya. Đến nửa đêm, Ram Gopal lại đắm ch́m trong im lặng, c̣n tôi nằm xuống sửa soạn đi ngủ. Khi tôi nhắm mắt, tôi nh́n thấy những tia chớp; toàn thân tôi là một ánh hào quang sáng rực. Tôi mở mắt ra: ánh hào quang đó chiếu sáng khắp pḥng, gian nhà tranh trở nên một phụ ốc của cơi Vô Cùng và thấm nhuần những tia sáng vô h́nh mà tôi cảm xúc được bằng một nhăn quang siêu nhiên.

-Tại sao em không ngủ?

-Bạch thầy, làm sao tôi ngủ được với những tia sáng chớp nhoáng xẹt đến từ bốn phía, trong khi tôi nhắm mắt hay mở mắt cũng vậy?

-Thật là một ân phước mà có cái kinh nghiệm đó; những tia sáng vô h́nh không dễ ǵ mà nh́n thấy được đâu!

Tu sĩ nói thêm vài lời đầy cảm t́nh thương mến.

Đến sáng là lúc chúng tôi phải chia tay nhau. Tôi cảm thấy buồn mà phải từ biệt tu sĩ đến nỗi không ngăn được hai gịng lệ chảy trên g̣ má tôi. Tu sĩ nói với giọng thân ái:

-Tôi không để cho em trở về tay không. Tôi sẽ ban cho em một vài ân huệ.

Tu sĩ mỉm cười và nh́n thẳng vào mắt tôi một cách chăm chú. Tôi cảm thấy một niềm an tĩnh tràn ngập tâm hồn tôi như một luồng ân huệ tốt lành, và dột nhiên tôi được chữa khỏi chứng bệnh đau lưng mà tôi đă bị trong nhiều năm qua! Được b́nh phục sức khỏe, đắm ch́m trong một biển đại dương an tĩnh và phúc lạc vô biên, tôi không c̣n khóc nữa.

Tôi cúi ḿnh xuống làm lễ và nắm hai bàn chân của tu sĩ để từ biệt, và đi bộ băng rừng để t́m đường đến Tarakeswar. Vừa trở về thành phố này, tôi lại viếng thăm ngôi đền một lần thứ nh́ và qú lạy trước chánh điện. Tảng đá h́nh tṛn dường như nới rộng chu vi trước nhăn quang siêu linh của tôi cho đến tận những cơi giới xa xăm trong càn khôn vũ trụ, để sau cùng ḥa hợp với Thiêng Liêng.

Một giờ sau, tôi vui vẻ đáp chuyến xe lửa trở về Calcutta. Chuyến du hành của tôi không đưa tôi đến chân núi Hy Mă Lạp Sơn mà lại đến dưới chân Sư Phụ.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 212 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MỘT KINH NGHIỆM VỀ TÂM THỨC SIÊU ĐẲNG

Chương Mười Hai

 

-Bạch Sư Phụ, con đă về.

Sri Yukteswar hẳn đă thấy rơ sự băn khoăn của tôi nhưng người vẫn b́nh tĩnh dường như tôi chỉ vắng mặt có vài giờ chứ không phải vài ngày:

-Chúng ta hăy ra sau bếp để xem có ǵ ăn không?

-Bạch Sư Phụ, sự ra đi vội vàng của con chức hẳn là đă làm mất ḷng Sư Phụ, con tưởng là Sư Phụ đă giận con.

-Không, chắc chắn là không! Sự giận hờn thường chỉ do sự thất vọng mà ra. Ta không trông cậy điều ǵ ở kẻ khác, bởi đó những hành động của họ không thể làm ta phật ḷng. Ta không lợi dụng con để thực hiện những mục đích ích kỷ; chỉ có sự hạnh phúc của con mới có thể làm cho ta được sung sướng.

-Bạch Sư Phụ, người ta thường hay nói một cách mơ hồ về t́nh bác ái. Đây là lần đầu tiên mà con nh́n thấy cái bản chất thiêng liêng của Sư Phụ! Ở ngoài thế gian một người cha cũng không dễ ǵ tha thứ một người con bỏ dở công việc gia đ́nh và bỏ nhà ra đi mà không báo trước. Nhưng Sư Phụ không hề tỏ vẻ bất măn, trong khi con bỏ dở công việc đạo viện ra đi và đặt Sư Phụ trong t́nh trạng bối rối!

Thầy tṛ chúng tôi nh́n nhau, bốn mắt long lanh ứa lệ. Ḷng tôi tràn ngập một niềm hạnh phúc vô biên; tôi ư thức được rằng Sư Phụ tôi, hiện thân của ḷng Từ Ái Thiêng Liêng, đă nhen nhúm ngọn lửa thiêng trong ḷng tôi cho nó trở thành một t́nh thương bao la khắp vũ trụ.

Vài ngày sau, tôi đến ngồi tại pḥng khách của Sư Phụ, lúc ấy vắng người. Tôi định tham thiền nhưng không thể tập trung tư tưởng; tư tưởng tôi tán lọan như một bầy chim bay tản mác trước tiếng súng của người đi săn.

-Mukunda, Mukunda!

Tiếng gọi của Sư Phụ vọng đến tai tôi từ một bao lơn gần đó. Tôi cảm thấy trái ư và thầm nghĩ rằng: “Sư Phụ vẫn thường bảo tôi nên tham thiền; nay người không nên quấy rầy tôi, v́ người biết tôi vào đây để làm ǵ.”

Sư Phụ lại gọi tôi; tôi vẫn im lặng không đáp lại. Lần thứ ba tiếng gọi của người có một giọng trách móc. Tôi phản kháng:

-Bạch Sư Phụ, con đang bận tham thiền!

-Ta biết con tham thiền như thế nào rồi! Tư tưởng con tản mác như là bay trước gió. Hăy lại đây!

Bị nói đúng ngay tâm trang của ḿnh, tôi lẳng lặng cúi đầu đi về phía Sư Phụ.

-Con hỡi, những ngọn núi cao không đem lại cho con những ǵ con muốn.

Sư Phụ nói với một giọng dịu dàng, thương hại tôi. Cái nh́n im lặng của người biểu lộ một tâm hồn tế nhị sâu sắc khôn lường.

-Ước vọng của con sẽ thành sự thật!

Sri Yukteswar ít khi nói những lời bóng bẩy cao xa nên tôi lấy làm bối rối. Người vỗ nhẹ một cái lên ngực tôi, ở chỗ trên quả tim. Đột nhiên, thân ḿnh tôi dường như ngay cứng; hơi thở thoát ra khỏi hai luồng phổi của tôi, dường như bị thu hút bởi một đá nam châm vĩ đại; linh hồn tôi dường như bị dứt ra khỏi thể xác và toát ra ngoài do mỗi lỗ chân lông như một thứ hào quang sáng rỡ. Tôi không c̣n cảm giác được xác thân tôi, tuy rằng những quan năng bị kích động mănh liệt làm cho tôi có ư thức một cách toàn vẹn về sự sống mà tôi chưa từng cảm giác bao giờ. Cái bản ngă của tôi không c̣n giới hạn trong thể xác mà bao trùm cả những nguyên tử của cảnh vật chung quanh. Những nhân vật ở ngoài đường dường như nhẹ nhàng uyển chuyển đi xuyên qua thân ḿnh đă trở nên vô giới hạn của tôi. Những rễ cây lơn nhỏ xuất hiện dưới ḷng đất trở nên trong vắt trước nhăn quang của tôi, và tôi nh́n thấy cả nhựa cây luân chuyển mănh liệt bên trong những rễ và thân cây.

Cái viễn ảnh của vùng chung quanh diễn ra đến vô tận trước mắt tôi. Tầm nhăn quang của tôi đă nới rộng đến khắp nơi khắp chốn làm cho tôi có thể nh́n thấy tất cả mọi sự cùng một lúc. Tôi nh́n thấy cả phía sau lưng tôi, người người qua lại trên đường lộ và tôi thấy một con ḅ trắng từ từ đến gần; con ḅ đi đến cửa đạo viện và lọt vào tầm nhăn quang thông thường của tôi. Khi nó đi qua khỏi cửa tôi vẫn c̣n nh́n thấy nó một cách rơ ràng xuyên qua bức tường rào bằng gạch.

Trong tầm nhăn quang siêu linh của tôi, những vật rung động và rung chuyển như những h́nh ảnh trong phim chớp bóng. Thể xác tôi, thân thể của Sư Phụ, những cột trụ ngoài sân, bàn ghế, sàn gạch trong nhà, cây cỏ ngoài đường cùng vầng mặt trời mọc lúc ban mai rung động mỗi lúc càng mănh liệt hơn cho đến khi tất cả đều biến tan trong một biển lớn với những luồng sóng chớp sáng ḷe như chất lân tinh, chẳng khác nào như chất đường biến tan trong nước.

Một niềm phúc lạc say sưa khôn tả xâm chiếm lấy tâm hồn tôi từng đợt như những luồng sóng dập dồn ngoài biển cả. Một vầng hào quang rực rỡ huy hoàng nẩy nở từ bên trong thân ḿnh tôi nới rộng măi cho đến khi nó bao trùm cả những vùng lục địa, thung lũng, đất điền, biển đại dương, những vầng thái dương và tinh tú, tinh vân, cḥm sao, thậm chí đến cả những giải ngân hà vĩ đại vô biên...

Toàn thể vũ trụ lóng lánh một ánh sáng êm dịu như một thành phố nh́n từ xa lúc ban đêm đều hỗn hợp với cái Chân Ngă vô biên giới của tôi. Những vành ngoài thật rơ rệt xuất hiện ở chỗ chi vi cái linh ảnh của tôi, nhưng tôi c̣n nhận thấy ở xa hơn nữa một thứ hào quang tinh anh chiếu sáng không hề giảm bớt cường độ rực rỡ huy hoàng của nó; giữa cái bối cảnh huyền diệu là h́nh ảnh những bầu hành tinh chiếu một thứ ánh sáng đục và thô thiển hơn nhiều.

Vầng ánh sáng huyền diệu xuất hiện từ Nguồn Gốc thiêng liêng, từng đúc kết những bầu tinh tú, thêu dệt những dăy Ngân Hà, từ từ biến thành muôn ngàn ṿng hào quang rực rỡ huy hoàng khôn tả. Liên tiếp không ngừng, tôi nh́n thấy những tia điển lực sáng tạo kết tinh thành những cḥm sao và phóng ra những tia lửa chói sáng. Hằng hà sa số những bầu thế giới nối tiếp nhau luân chuyển nhịp nhàng từng đợt trong một ṿng hào quang trắng đục, toàn thể nền trời rực sáng lên như một cơn hỏa hoạn khổng lồ.

Tôi biết rằng trung tâm của những linh ảnh đó nằm ở một vị trí trong quả tim của tôi tức là trung tâm trực giác. Bao nhiêu linh ảnh rực rỡ huy hoàng đó toát ra từ những tế bào trong xơ thể của tôi và thâm nhạp vào tận nguồn máy vô h́nh huyền diệu của vũ trụ! Nước cam lồ thiêng liêng của sự trường sinh bất tử vọt ra từ bên trong con người của tôi như một ṿi suối nóng. Tiếng nói của Thượng Đế, Động Từ của sức sáng tạo thiêng liêng vang lên trong thánh ngữ AUM, một rung động của Thiên Cơ huyền diệu.

Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hơi thở đă trở lại với tôi. Với một sự thất vọng lớn lao, tôi nhận định rằng tính chất bao la vô cùng của Vũ Trụ ở chung quang tôi đă không c̣n nữa. Lại một lần nữa tôi bị giam hăm trong cái thể xác ngục tù đốn mạc này, ở trong đó Linh Hồn tôi phải chịu ẩn trú một cách gượng gạo, miễn cưỡng. Như một người con bỏ nhà đi hoang, tôi vừa rời khỏi cái vũ trụ bao la là chỗ cư trú vĩnh viễn của tôi để tự giam cầm trong sự chật hẹp tù túng của thể xác vật chất này.

Sư Phụ đứng yên lặng trước mặt tôi; tôi liền quỳ lạy dưới chân người để tỏ ḷng biết ơn về sự kinh nghiệm siêu linh mà tôi đă từng mong ước từ lâu một cách say sưa nồng nhiệt. Sư Phụ giữ tôi lại và nói một cách b́nh tĩnh, không chút tự hào:

-Không nên mê mẫn say sưa trong cơn đại định! Con c̣n có nhiều việc phải làm ở thế gian này. Thôi, con đi quét bao lơn đi, và sau đó chúng ta sẽ đi dạo một ṿng trên bờ sông Hằng.

Tôi cầm cái chổi và liền hiểu rằng Sư Phụ vừa dạy tôi những bí quyết của một đời sống quân b́nh. Linh hồn phải bay cao trong Vũ Trụ Càn Khôn bao la vô tận, trong khi thể xác phải làm công việc hàng ngày.

Sau đó, khi Thầy tṛ chúng tôi đi dạo trên bờ sông, một niềm phúc lạc say sưa khó tả vẫn c̣n xâm chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy hai thân ḿnh chúng tôi dường như hai h́nh bóng lướt trên đường lộ dọc theo một con sông màu lửa đỏ. Sư Phụ giải thích:

-Tinh thần của Thượng Đế tích cực bảo dưỡng mọi h́nh thể và vật chất trong vũ trụ; những Ngài vốn toàn thông và tiêu diêu trong chỗ hư không bên ngoài hiện tượng giới. Những vị thánh đă thực hiện bản chát thiêng liêng của ḿnh trong khi c̣n ở thế gian, từng kinh nghiệm một đời sống song đôi giống y nhau. Trong khi họ vẫn làm công việc thế gian, tâm hồn họ đắm ch́m trong một trạng thái phúc lạc bên trong nội tâm. Thượng Đế sáng tạo ra con người để cho họ có thể tham dự vào niềm phúc lạc tự tại vô biên của Ngài. Tuy bị dính liền với thể xác, những linh hồn được tạo ra theo h́nh ảnh của Thượng Đế, rốt cuộc phải giải thoát khỏi sự trói buộc của giác quan và hợp nhất với Ngài.

Tôi thu thập được một sự ích lợi rất lớn do sự kinh nghiệm siêu linh vừa qua. Cố gắng hằng ngày để kiểm soát tư tưởng, tôi đă có thể thoát sự nhận định sai lầm rằng tôi là cái thể xác bằng xương bằng thịt này, và chọc thủng cái vỏ cứng của vật chất. Hơi thở, tư tưởng luân phiên hoạt động không ngừng, giống như cơn giông băo làm giao động mặt biển Ánh Sáng với vô số những ngọn sóng vật chất: đất, trời, người, động vật, chim muông, cây cỏ. Người ta chỉ có thể nh́n thấy chân tướng của sự vật trong những lúc biển lặng sóng êm.

Một vị tôn sư chỉ ban cho đệ tư cái kinh nghiệmtâm thức siêu linh khi nào người đệ tử, bằng cách tham thiền, đă tăng cường tinh thần của ḿnh đến mức độ có thể dung túng được những chân trời rộng lớn đó. Tâm trí thức và quan điểm rộng răi cũng chưa đủ. Chỉ có sự kiên tâm tu luyện và thực hành... mới có thể chịu đựng nổi cái kinh nghiệm giải thoát đó. Người hành giả thật tâm tu luyện chắc chắn sẽ đạt tới trạng thái đó; đức tin mănh liệt của y tự nhiên sẽ thúc đẩy y đến gần Thượng Đế.

Sri Yukteswar dạy tôi làm thế nào để nhớ lại cái kinh nghiệm huyền linh ấy tùy ư muốn, và làm sao chuyển đạt nó cho những người nào đă phát triển trực giác một cách khá đầy đủ. Tôi trải qua nhiều tháng trong trạng thái phúc lạc triền miên do sự hợp nhất với Thiêng Liêng. Một hôm tôi hỏi Sư Phụ:

-Bạch Sư Phụ, con muốn biết xem bao giờ con sẽ t́m thấy Thượng Đế.

-Nhưng con đă thấy Ngài rồi!

-Bạch Sư Phụ, không phải. Con không tin như vậy.

Sư Phụ mỉm cười:

-Ta chắc con không nghĩ rằng Ngài là một ông già đạo mạo râu tóc bạc phơ ngồi trên một chiếc ngai vàng ở một góc cạnh nào đó trong vũ trụ càn khôn! Chắc hẳn con tưởng tượng rằng biết được Thượng Đế tức là thủ đắc được những quyền năng nhiệm mầu? Người ta có thể chinh phục cả vũ trụ mà không t́m thấy Thượng Đế, sự thủ đắc tâm linh không thể đo lường bằng quyền năng của ta trên địa hạt vật chất, mà chỉ bởi niềm phúc lạc say sưa mà người hành giả cảm giác được trong cơn tham thiền.

Thượng Đế tức là niềm phúc lạc luôn luôn thay đổi mới không ngừng. Niềm phúc lạc ấy không bao giờ khô cạn; người ta có thể tham thiền trong nhiều năm nhưng vẫn không nắm được nó. Người hành giả nào đă t́m thấy con đường đưa đến niềm phúc lạc ấy sẽ không bao giờ đem đổi nó với bất cứ giá nào.

Người đời chóng chán những lạc thú trần gian! Sự đ̣i hỏi thật là vô cùng, sự thỏa măn chỉ trong chốc lát; con người theo đuổi từ một mục đích này, đến một mục đích khác. Cái mà y khát khao t́m kiếm nhưng vẫn không gặp, đó là Thượng Đế, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người nguồn hạnh phúc vô tận.

Bây giờ con đă hiểu tại sao các vị thánh gọi Thượng Đế là Đấng Vô Cùng. Một đời sống trường cửu vô tận cũng không đủ để đạt tới Ngài.

Thật vậy, nhưng Ngài cũng rất gần chúng ta. Khi mà tinh thần giải thoát khỏi sự kềm hăm của giác quan, th́ chừng đó sự thiền định đưa đến một chứng minh song đôi về Thượng Đế. Trước hết, một niềm phúc lạc luôn luôn đổi mới thấm nhuần vào tâm hồn chúng ta cho đến tận những nguyên tử tế bào trong châu thân. Kế đó, người hành giả luôn luôn được Ngài d́u dắt trong cơn thiền định và những câu hỏi băn khoăng thắc mắc sẽ được giải đáp.

Tôi mỉm cười biết ơn:

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ đă giải tán mọi sự nghi ngờ của con. Bây giờ con biết rằng ḿnh đă t́m thấy Thượng Đế, v́ trong khi tham thiền, tâm hồn con được từ từ thấm nhuần một niềm hạnh phúc và an lạc vô biên, và trong những giờ họat động con được hướng dẫn một cách tế nhịđể có một phép xử thế đúng đắn tốt lành trong mọi công việc, chí đến những phần chi tiết nhỏ nhặt.

Cuộc đời sẽ c̣n đau khổ phiền năo khi con người chưa biết sống đúng theoThiên Ư.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 213 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:26pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CÂY BÔNG CẢI BỊ MẤT TRỘM

Chương Mười Ba

 

-Bạch Sư Phụ, đây là món quà tặng của con: sáu cây bông cải do chính tay con trồng và săn sóc đặc biệt.

Với một cử chỉ trịnh trọng, tôi dân lên cho Sư Phụ cái rổ đựng bông cải. Sư Phụ đáp lại với một giọng sốt sắng:

-Cám ơn con. Con hăy cất trong pḥng con. Ngày mai, Thầy sẽ cần dùng để nấu một bữa tiệc lớn.

Tôi vừa đến Puri để nghỉ hè tại đạo viện trên bờ biển của Sư Phụ. Đó là một ngôi nhà nhỏ, khang trang, với hai tầng lầu do Sư Phụ và các đệ tử dựng lên và day mặt ra vịnh Bengale.

Sáng hôm sau, tôi thức rất sớm và cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng trong bầu không khí miền biển cả với phong cảnh đẹp quanh vùng. Nghe giọng nói thanh tao của Sư Phụ, tôi nh́n thấy mấy bông cải quí và cất kỹ dưới gầm giường. Sư Phụ bảo tôi:

-Chúng ta hăy đi dạo một ṿng trên bờ biển.

Sư Phụ mở đường đi trước, vài đệ tử và tôi đi từng nhóm lẻ tẻ. Sư Phụ nh́n chúng tôi bằng cặp mắt đầy khoan dung:

-Khi các đệ tử bên Tây Phương đi chơi chung với nhau, họ thường đi ăn rập từng bước. Bây giờ các con hăy sắp hàng đôi và tiến tới...

Chúng tôi cất bước đi nhịp nhàng; Sri Yukteswar vừa đi theo vừa hát một bài ca hành khúc. Tôi nh́n theo và thán phục sự tự nhiên b́nh thản của Sư Phụ khi người cùng ḥa ḿnh thi đua sự hăng say với các đệ tử.

-Ngừng lại... ngừng! Đôi mắt của Sư Phụ nh́n quanh để t́m tôi:

-Mukunda, con có nhớ đóng cửa sau của đạo viện?

-Bạch Sư Phụ, con nhớ là đă đóng rồi!

Sri Yukteswar im lặng trong vài phút với một nụ cười trên môi. Sau cùng người nói:

-Không, con đă quên. Sự thiền định công phu không phải là một cái cớ để bào chữa cho sự cẩu thả trong đời sống hằng ngày. Con đă xao lăng bổn phận trông nom đạo viện và con sẽ bị trừng phạt về cái tội đó.

Tôi tưởng Sư Phụ nói đùa khi người nói thêm:

- Trong sáu cây bông cải của con, lát nữa chỉ c̣n lại có năm!

Theo lịnh Sư Phụ, chúng tôi quay trở lại và trong giây lát đă về gần tới đạo viện.

-Hăy đợi một lát, Mukunda; ḱa con hăy nh́n về đằng xa, trên con đường ở bên đạo viện. Một người đang đi trên con đường đó, y là cái lư do sự trừng phạt của con!

Tôi cố dấu sự bất măn với những lời nói lạ lùng đó. Th́nh ĺnh, một người nông dân xuất hiện trên đường lộ với tướng đi xiêu vẹo, hai tay y múa may quay cuồng với những cử chỉ lạ lùng của một người điên. Vừa kinh ngạc, tôi vừa nh́n xem cảnh tượng buồn cười đó. Khi người ấy vừa đi đến một nơi trên đường lộ mà y sẽ khuất tầm nhăn quang của chúng tôi, Sri Yukteswar nói:

-Bây giờ, y sẽ quay đầu trở lại.

Quả thật, người nông phu đổi chiều hướng và noi theo con đường về đạo viện. Sau khi vượt qua một mảnh đất trống, y lọt vào đạo viện do cánh cửa sau mà tôi đă quên khóa lại cẩn thận theo lời dặn của Sư Phụ. Trong giây lát, người ấy bước ra, tay ôm theo một cây bông cải trong sau cây bông cải quí báu của tôi. Bây giờ, y đi một cách vững chải, dường như y đă làm xong một kỳ công hiển hách.

Cuộc đùa nghịch vô lư này không làm cho tôi ngỡ ngàng quá mức, tôi bèn rượt theo tên ăn trộm. Tôi chạy theo đến nửa đường th́ Sư Phụ gọi tôi trở lại và ôm bụng cười lớn. Giữa hai trận cười gịn giă, Sư Phụ giải thích:

-Người điên này đang mơ ước một cây bông cải. Thầy nghĩ rằng thật không phải là một điều dở mà cho y vào lấy một cây trong mấy cây bông cải của con, khi con không biết giữ ǵn cẩn thận.

Tôi vội chạy vào pḥng riêng của tôi và nhận thấy rằng tên ăn trộ hẳn là bị ám ảnh bởi một loại ra cải, nên không đá động đến những chiếc nhẫn vàng, đồng hồ tay và tiền bạc của tôi để răi rác trên giường. Thay v́ lấy trộm của quí này y lại ḅ xuống gầm giường là nơi cát những cây bông cải của tôi, hoàn toàn che dấu đối với những cặp mắt không để ư, lại khêu gợi ḷng tham của y.

Đến chiều, tôi yêu cầu Sư Phụ giải thích hiện tượng khó hiểu đó. Sư Phụ chậm răi lắc đầu:

-Một ngày kia con sẽ hiểu. Không bao lâu khoa hịc sẽ khám phá vài định luật huyền bí về loại đó trong thiên nhiên.

Về sau, khi toàn thể thế giới lấy làm ngạc nhiên trước những phát minh nhiệm mầu về khoa vô tuyến điện, tôi mới nhớ lại lời tiên tri của Sư Phụ. Những quan niệm cổ xưa về thời giang và không gian đều bịđảo lọn, không một gian nhà nào là quá nhỏ để không thể chứa đựng cả Luân Đôn hay Vọng Các! Bằng chứng không thể chối cải về một trong những khía cạnh toàn thông của con người từ nay dường như đă nằm trong tầm hiểu biết của những bộ óc hoài nghi nhất.

Sự so sánh với khoa vô tuyến có thể giúp cho ta hiểu rơ hơn câu chuyện cây bông cải. Sri Yukteswar chẳng khác nào như một vô tuyến điện. Tư tưởng con người không ǵ khác hơn là một rung động truyền đi xuyên qua chất dĩ thái. Cũng như một máy vô tuyến điện thu thanh một bản nhạc nhất định trong số hàng trăm ngh́n chương tŕnh phát thanh truyền đi từ khắp mọi nơi trên thế giới, Sư Phụ tôi đă bắt được những tư tưởng của một người điên bị ám ảnh bởi sự mông ước có một cây bông cải, giữa hằng sa số những tư tưởng của tất cả mọi người, tức bao nhiêu máy truyền thanh trên thế giới. Ư chí mạnh mẽ của Sư Phụ đă hành động xuyên qua không gian và bắt buộc người nông dân đổi chiều hướng quay trở đầu lại do cửa sau bước vào nhà lấy một cây bông cải trong pḥng tôi!

Mọi việc có ư nghĩa đă xảy ra vài ngày sau vụ ăn trộm bông cải. Một cây đèn dầu lửa bị thất lạc. Đă nhiều lần chứng kiến khả năng tiên tri của Sư Phụ, tôi cho rằng đối với Sư Phụ th́ t́m lại cây đèn chỉ là một tṛ chơi trẻ con.

Sư Phụ đoán biết ư nghĩ của tôi. Người hỏi tất cả các đệ tử trong đạo viện với một vẻ mặt nghiêm trọng khác thường. Một đệ tử thú nhận đă dùng cây đèn để đi ra giếng nước ngoài sân sau.

Sri Yukteswar trịnh trọng đưa ra lời khuyên.

-Hăy t́m cây đèn ở gần cái giếng.

Tôi hối hả chạy nhanh đến nơi th́ không thấy đèn đâu cả! Thất vọng, tôi trở lại tịnh xá, Sư Phụ thốt ra một chuỗi cười dài không màng đến sự thất vọng của tôi:

-Tại sao con muốn cho ta phải t́m thấy lại cây đèn? Ta đâu phải là nhà phù thủy!

Người nói thêm với một tia sáng tinh ranh trong cặp mắt:

-Và cũng không phải là một thám tử tài ba!

Khi ấy tôi mới nhận định rằng Sư Phụ từ chối không dùng đến những quyền năng siêu phàm khi bị thử thách hoặc v́ một mục đích tiểu mọn.

Thời gian trôi qua trong cuộc sống ḥa hợp vui vẻ giữa Thấy tṛ Sri Yukteswar định tổ chức một cuộc rước lễ tôn giáo. Người giao cho tôi điều khiển cuộc diễn hành của các đệ tử qua thành phố và vịnh Puri. Ngày rước đèn đă đến, mặt trời b́nh minh xuất hiện với một nhiệt độ nóng bức khác thường.

Tôi hỏi trong cơn tuyệt vọng:

-Bạch Sư Phụ, làm sao con có thể hướng dẫn các huynh đệ đi chân trần trên băi cát nóng như thiêu đốt?

Sư Phụ đáp:

-Ta sẽ tiết lộ cho con biết một điều bí mật. Thượng Đế sẽ đưa đến một cụm mây che bớt ánh nắng và các con sẽ đi đứng dễ dàng không chướng ngại.

Tôi vui vẻ nhận công tác tổ chức cuộc rước lễ. Nhóm đệ tử rời khỏi đạo viện, người đi đầu cầm cây đạo kỳ Sat Sanga (Sat Sanga có nghĩa là “Môn phái của Chân Lư.”)  Trên cây cờ có vẽ một con mắt thánh tượng trưng cho Huệ Nhăn thiêng liêng. (“Nếu mắt ngươi chỉ có một, toàn thân ngươi sẽ chiếu sáng.” Trong cơn thiền định thâm sâu, Huệ Nhăn thức động ở một điểm trên trán, giữa hai chân mày. Các Kinh Sách gọi đó là con mắt Toàn Tri, con mắt thứ ba, con mắt của Thần Shiva, con mắt trực giác v.v...)

Khi chúng tôi rời khỏi đạo viện th́ góc trời ở ngay trên đầu chúng tôi có mây kéo đen nghịt dường như do một phép mầu. Giữa những tiếng kêu ngạc nhiên của tất cả mọi người, một cơn mưa lấm tấm nhẹ hột rơi xuống làm dụi bớt sức nóng trên đường lộ và băi cát nóng cháy da. Trong hai tiếng đồng hồ của cuộc diễn hành, mưa vẫn rơi đều hột không ngừng, đem đến sự mát rượi trong không khí và cả trong ḷng người! Khi chúng tôi trở về đạo viện, cả mây lẫn mưa đều biến tan không c̣n để lại dấu vết.

Khi tôi tỏ ḷng biết ơn Sư Phụ, người đáp:

-Con thấy rằng Thượng Đế che chở chúng ta, Thượng Đế thương yêu và giúp đỡ tất cả mọi người. Cũng như Ngài đă đem mây mưa để ứng lời cầu nguyện của Thầy Ngài thỏa măn mọi điều mong ước chân thành của những người sùng tín. Người đời ít khi nhận thấy Thượng Đế đă đáp ứng bao nhiêu lần những ước vọng của họ. Ngài không thiên vị một vị thiểu số nào, nhưng Ngài lóng nghe những kể nào cầu nguyện Ngài với tất cả tâm hồn. Như vậy, người đời phải có một đức tin tuyệt đối nơi ḷng Từ Bi Bác Ái của đấng Cha Lành trên trời.

Hằng năm, Sri Yukteswar hành lễ bốn mùa, trong những dịp đó các đệ tử tề tựu kéo về đông đảo từ khăp chốn xa gần. Cuộc rước lễ mùa đông cử hành tại Serampore, đó là lần rước lễ đầu tiên mà tôi tham dự, và nó đă đem đến cho tôi một niềm an lạc lạ thường.

Cuộc lễ bắt đầu từ lúc sáng sớm mai bằng một đám rước gồm những đệ tử sắp hàng đi chân trần diễn hành qua các đường phố. Giọng hát của hàng trăm đệ tử cùng ḥa tấu một khúc thánh ca tôn giáo làm dịu tâm hồn, những nhạc công thổi sáo, đánh trống và chụp chơa. Dân chúng làm hứng khởi ném bôn hoa dưới chân chúng tôi, họ lấy làm sung sướng mà nghe chúng tôi suy tôn danh hiệu đấng Chí Tôn trong một khúc thánh ca vang lừng, đem đến cho họ một nét thay đổi mới lạ trong cuộc sống lặng lẻ với những bổn phận quen thuộc hàng ngày. Sau cuộc diễn hành khắp các đường phố, đám rước đă trở về sân đạo viện, tại đó chúng tôi đứng vây quanh Sư Phụ trong khi những bạn đồng môn khác từ những bao lơn trên đầu ném xuống chúng tôi từng đợt những cành hoa cúc và hoa mẫu đơn vàng ánh.

Những quan khách dự lễ bước lên từng lầu trên, tại đây họ được tiếp đăi với món sữa chua và cam ngọt. Tôi vạch một lối đi xuyên qua nhóm bạn đồng môn đang làm bếp. Trong dịp lễ long trọng này, với một số quan khách và đệ tử đông đảo như thế, những nồi chảo khổng lồ được đem ra sử dụng và việc nấu bếp được dặt ở ngoài sân. Những đám lữa củi nhúm trong các ḷ gạch xây tạm phát ra một luồng khói khét làm nghẹt thở, nhưng chúng tôi vẫ làm việc một cách vui vẻ hết ḷng. Ở Ấn Độ, những cuộc thánh lễ tôn giáo không bao giờ bị coi như một việc khó nhọc, mỗi người đều làm bất cứ việc ǵ tùy sức ḿnh, họ đóng góp tiền bạc, cơm gạo, rau trái hoặc phụ giúp một cánh tay lao lực.

Sư Phụ phút chốc đă đến với chúng tôi, người theo dơi mọi công việc chuẩn bị hành lễ. Không hề mệt mỏi, người thi đua sức vóc và niềm hứng khởi trong việc làm với những đệ tử trẻ nhiệt thành nhất.

Trên tầng lầu hai, một nhóm nhạc công và ca sĩ hát các bài thánh ca theo nhịp đàn kéo và trống nhỏ. Sư Phụ lắng tai nghe như một người sành điệu, v́ người có một lỗ tai âm nhạc toàn hảo:

-Hát sai nhịp rồi!

Sau khi đi một ṿng quan sát chỗ nhà bếp, Sư Phụ trở lại nhóm nhạc công lúc năy. Bản nhạc du dương vang lên nhưng lần này th́ hoàn toàn đúng nhịp.

Ở Ấn Độ, âm nhạc được coi như một nghệ thuật thiêng liêng, ngang hàng với hội họa hay kịch nghệ. Thần Brahama, thần Vishnu và thần Shiva, tức Ba Ngôi bất tử của Thượng Đế đều là những vị nhạc sĩ đầu tiên. Trong truyện Thần Thoại Ấn Độ, thần Shiva biểu hiện vị Vũ Công Thiêng Liêng với những vũ điệu thần bí, diễn tả cuộc sống sáng tạo, bảo dưỡng và biến tan của Vũ Trụ, trong khi thần Brahma đánh nhịp theo âm điệu những chụp chơa khua động vang tai và thần Vishnu đánh trống mridanga. Thần Krishna, một hậu thân của thần Vishnu luôn luôn được h́nh dung với một ống sáo mà những âm điệu du dương làm thức tỉnh những linh hồn c̣n đang mê muội trong giấc mơ của ảo giác, tức ảo ảnh của vũ trụ và nhắc nhở họ hăy quay trở về gốc cũ trường cửu muôn đời. Saraswati, vị nữ thần minh triết, được h́nh dung khảy đàn vina, mẹ của tất cả các thứ đàn dây. Bộ kinh Sama Veda chứa đựng những thiên luận nhạc cổ nhất thế giới.

Trong ngày lễ, ban nhạc công trên từng lầu hai đă làm hứng khởi đến cả những tay đầu bếp t́nh nguyện ở chung quanh những ḷ chảo sôi bỏng của họ. Các bạn đạo và tôi cùng vui vẻ hát những bài thánh ca và đánh nhịp bằng hai bàn tay.

Đến chiều, chúng tôi đă dọn cơm chiên với đậu, rau cải nấu với cari và bánh hấp cho hằng trăm quan khách. Sau bữa cơm chiều, chúng tôi trải nệm bằng vải cứng ở ngoài sân, tất cả mọi người đều ngồi xếp bằng trên nệm vải dưới màn trời đầy sao, chăm chú nghe lời giảng đầy minh triết của Sư Phụ về pháp môn Kriya Yoga, theo đó người nêu lư tưởng sống của cuộc đời thanh cao, yên tĩnh, tinh tiến, theo phép ăn uống giản dị và hoạt động cơ thể hàng ngày. Kế đó, nhóm đệ tử trẻ hát những bài thánh ca và cuộc lễ kết thúc bằng một khúc nhạc ḥa tấu. Từ mười giờ tối đến nửa đem, các đệ tử chia nhau rửa chén bát và quét sân đạo viện. Sư Phụ gọi tôi lại gần:

-Thầy hài ḷng về công việc mà con đă làm ngày hôm nay và suốt cả tuần lễ chuẩn bị. Thầy cần dùng đến con, đem nay con có thể ngủ trên giường Thầy.

Đó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến. Chúng tôi ngồi yên lặng trong một lúc, đắm ch́m trong cơn tọa thiền thiêng liêng. Chúng tôi vừa nằm nghĩ trên giường được độ mươi phút th́ Sư Phụ bèn ngồi dậy mặc áo chỉnh tề:

-Bạch Sư Phụ, có chuyện chi?

Tôi c̣n cảm thấy tràn đầy một niềm sung sướng với ư nghĩ được nằm gần bên Sư Phụ.

-H́nh như có vài đệ tử đến trễ do chuyến xe lửa đêm, họ sẽ đến đây trong giây lát. Chúng ta hăy sửa soạn vài món ăn.

-Bạch Sư Phụ, ai lại đến đây vào lúc một giờ sáng?

-Con hăy ngủ yên, hôm nay con đă làm việc nhiều, để Thầy tự làm bếp.

Có một giọng quả quyết trong câu nói của Sư Phụ làm cho tôi phải ngồi dậy và theo người vào bếp. Trong giây lát, nồi cơm nóng và chảo đậu xào gia vịđă bốc khói nghi ngút.

Sư Phụ nở một nụ cười đầy vẻ ưu ái:

-Đêm nay con đă thắng đoạt sự mệt nhọc và không ngại làm một công việc bất ngờ, từ nay về sau không một công việc nặng nhọc nào có thể làm cho con e ngại được nữa.

Khi người vừa dứt lời, tôi nghe có tiếng chân người ở ngoài sân. Tôi bèn chạy xuống cầu thang và đưa vào một nhóm đệ tử. Một người trong nhóm nói thấp giọng:

-Thưa sư huynh, chúng tôi không dám quấy rầy Sư Phụ vào một giờ khuya khoắt như vầy. Chúng tôi đi nhằm chuyến xe khuya, biết là đến trễ nhưng chúng tôi không lẽ trở về mà không chào Sư Phụ.

Sư Phụ đang đợi các huynh, giờ này người đang lo cơm nước cho các huynh đó.

Giọng nói của Sư Phụ vang lên, tôi dắt nhóm đệ tử c̣n vẻ ngạc nhiên vào bếp. Đôi mắt chớp sáng, Sư Phụ quay sang phía tôi:

-Bây giờ con đă được nghe xong tin tức, Thầy hy vọng con lấy làm sung sướng mà thấy các vị khách của ta thật sự đă đi trễ chuyến xe lửa đêm nay!

Nửa giờ sau, tôi theo Sư Phụ vào buồng ngủ và lấy làm hănh diện mà được nằm gần bên một vị tôn sư thánh thiện.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 214 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ĐỂ ĐÁNH LỪA CÁC TINH TÚ

Chương Mười Bốn

 

-Mukunda, tại sao con không đeo một vật phù hộ chiêm tinh?

-Bạch Sư Phụ, bởi v́ con không tin khoa chiêm tinh.

-Vấn đề không phải là tin hay không tin! Thái độ khoa học duy nhất là t́m hiểu xem một vấn đề có đúng không đúng. Luật hấp dẫn vẫn có trước cũng như sau Newton. Thế giới này sẽ hỗn loạn nếu những định luật thiên nhiên chỉ hành động dưới điều kiện là phải được chấp nhận bởi con người.

Những tay thấy bói giả mạo đă làm hoen ố khoa học khảo sát tinh tú. KHoa chiêm tinh có một tầm bao quát trên địa hạt tóan học và triết lư, nó rộng rải đến nỗi chỉ người nào có một tầm hiểu biết kiến thức bao la mới có thể lănh hội được nó một cách toàn diện. Bởi thế, kể ngu dốt không biết quan sát càn tượng, chỉ nh́n thấy ở đó một sự rối rắm không ư nghĩa, nhưng hiền triết lại có một quan niệm khác hẳn.

Những dây liên lạc vô h́nh, những sự tương quan ảnh hưởng, văn có luôn luôn giữa vjn vật trong vũ trụ. Nhịp độ điều ḥa của vũ trụ căn cứ trên sự tương quan. Con người, trong cáo lớp vỏ bằng xương bằng thịt, phải chiến đấu với hai thứ mănh lực: trước hết, sự nhu cầu của thể xác cấu tạo nên bởi tứ đại giả hiệp: đất, nước, lửa, gió; sau đó là những mănh lực phá hoại trong thiên nhiên, thuộc về ngoại cảnh. Khi con người c̣n chịu sự chi phối, kềm tỏa của xác thịt, y c̣n chịu ảnh hưởng của những sức mạnh biến chuyển không ngừng trong vũ trụ càn khôn.

Khoa chiêm tinh nghiên cứu những phản ứng của con người dưới ảnh hưởng khích động của các cầu tinh tú. Những bầu tinh tú vốn không lành không dữ mà chỉ phát ra những làn sóng rung động tích cực hay tiêu cực, thuộc âm hay thuộc dương. Chúng không phù trợ, cũng không làm hại con người, mà chỉ là những khí cụ trung gian do đó được biểu lộ một cách đúng đắn không hề suy chuyển, những mối tác động quân b́nh về nhân quả gây nên bởi những hành động trong quá khứ.

Một người sinh ra đời vào một ngày giờ mà những ảnh hưởng của các bầu tinh tú ḥa hợp một cách đúng đắn với nghiệp quả cá nhân của y. Lá số chiêm tinh của người ấy tiết lộ cái dĩ văng và những ǵ có thể xảy ra trong tương lai. Chỉ những người nào có khiếu linh giác và minh triết sâu xa mới có thể diễn đạt lá số ấy một cách đúng đắn, và những người ấy rất hiếm.

Bức thông điệp khắc trên bầu tinh tú đúng vào ngày giờ sinh của một người không phải là để tăng cường cái định mệnh của y (kết quả của những hành động thiện ác trong quá khứ) mà để gây ra nơi con người cái ư chí giải thoát khỏi cái ngục tù kiềm tỏa của vũ trụ. Người ấy không thể xóa bỏ kết quả của những việc mà y đă làm. Y đă gây ra những duyên nghiệp trong quá khứ, nó sẽ đơm bông kết quả từ từ trong cuộc đời hiện tại của y. Y có thể vượt qua mọi chướng ngại bởi v́ y có những hành động của ḿnh, và bởi v́ y có những khả năng tâm linh vượt ra ngoài ṿng ảnh hưởng độc đoán của các bầu tinh tú.

Sự sợ sệt dịđoan về khoa chiêm tinh biến con người thành một vật thụ động, nô lệ của một sức mạnh mù quáng. Người khôn ngoan sáng suốt thắng đoạt được những bầu hành tin, tức dĩ văng của ḿnh. Khi người ta càng nhận thức được sự hợp nhất tâm linh của ḿnh với Tinh Thần, hay Đại Thể của vũ trụ người ta càng thoát khỏi sự kềm tỏa của vật chất. Linh hồn người vốn tự do trường cửu; vốn bất sinh bất diệt, nó không thể chịu áp lực trói buộc của các bầu tinh tú.

Thượng Đế, chính là Công Lư. Người hành giả ḥa hợp bản thể của ḿnh với đấng Thiêng Liêng sẽ không bao giờ làm một việc bất công. Sự hoạt động của y từ nay sẽ phù hợp một cách tự nhiên với những định luật chiêm tinh. Sự cầu nguyện, sự tham thiền quán tưởng sẽ giúp y giao cảm với Thiên Ư và không một mănh lực nào là cao hơn sự che chở của sức mạnh đó từ bên trong.

-Bạch Sư Phụ, như vậy tại sao Sư Phụ muốn cho con đeo một vật hộ phù chiêm tinh?

Tôi đưa ra câu hỏi đó sau một cơn im lặng kéo dài, trong khi đó tôi suy gẫm rất lâu về những lời vàng ngọc của Sư Phụ.

-Chỉ khi nào người lữ hành đă đi đến mục tiêu cuộc hành tŕnh, y mới không c̣n cần đến bản đồ. Trên đường thiên lư, y phải biết xử dụng mọi con đường thắt để tiết kiệm sinh lực và thời giờ. Những vị chân sư thời cổ đă khám phá được nhiều phương tiện thương ngắn khoảng thời gian mà con người trải qua giữa cảnh vô minh hắc ám của thế gian. Trong cái guồn máy phức tạp của luật nhân quả, có những bộ phận mà một bàn tay minh triết có thể điều chỉnh một cách khéo léo.

Tất cả những tai họa thống khổ của con người đều do bởi y đă vi phạm những định luật thiên nhiên. Các Thánh Kinh nói rằng con người phải tuân theo những định luật thiên nhiên đó trước khi kêu gọi đến quyền lực tối cao của Trời...

Sự cầu nguyện, sức mạnh ư chí, sự tham thiền, sự gần gũi các bậc chân tưởng, việc sử dụng những vật hộ phù chiêm tinh giúp cho ta có thể làm dịu bớt họac tiêu trừ nghiệp chướng do quả báo gây nên.

Cũng như một cái nhà có ống thương lôi được che chở khỏi bị sét đánh, th́ săc thân chúng ta cũng có thể được che chở bằng nhiều biện pháp. Từ nhiều thế kỷ, các nhà đạo sĩ Yogi đă nghiệm thấy rằng vài loại kim khí phát ra một thứ hào quang có thể ngăn ngừa ảnh hưởng khốc hại của các bầu tinh tú. Những luồng từ khí tinh vi lưu chuyển thường xuyên trong vũ trụ, con người không hề biết những luồng từ điển đó ảnh hưởng ra sao, có lợi hay có hại cho thân thể và không thể làm ǵ được để đề pḥng những ảnh hưởng đó.

Vấn đề này đă từng khêu gợi sự chú ư của các vị chân sư thời cổ, các vịấy khám phá những phối hợp tốt lành của những loại khí, thậm chí cả những loại thảo mộc nhưng trên hết là các loại ngọc quí không tỳ vết nặng ít nhất là hai carats. Ngoài xứ Ấn Độ, ít có xứ nào đem việc sử dụng khoa chiêm tinh vào mục đích ngăn ngừa bệnh tật, tai họa, làm một đầu đề nghiên cứu quan trọng. Người ta thường không biết rằng những linh vật hộ phù bằng khí, đá quí hay thảo mộc, chỉ có hiệu nghiệm khi nào người ta đeo những vật ấy dính trên da thịt ḿnh.

-Bạch Sư Phụ, con sẽ nghe theo lời khuyên của Sư Phụ và con sẽ mua một vật hộ phù. Con cảm thấy thích thú với ư nghĩ có thể đánh lừa các bầu tinh tú.

-Thường th́ Thầy khuyên nên đeo một chiếc neo vàng pha bạc và đồng. Nhưng trong trường hợp riêng của con, Thầy muốn con hăy đeo một chiếc neo bằng bạc và ch́.

Kế đó Sư Phụ đưa ra thêm một vài chi tiết.

-Bạch Sư Phụ, trường hợp của con là như thế nào?

-Không bao lâu, những tinh tú sẽ chiếu cố đến con một cách không được thuận thảo lắm, Mukunda! Nhưng con đừng sợ, con sẽ được che chở. Trong chừng một tháng, lá gan của con sẽ gây cho con nhiều lo lắng. Bịnh ấy đáng lẽ kéo dài đến sáu tháng, nhưng món vật hộ phù se thương ngắn thời gian ấy lại c̣n hai mươi bốn ngày!

Qua ngày hôm sau, tôi đến một tiệm kinh hoàn và đặt làm một vật hộ phù. Lúc ấy sức khỏe tôi dồi dào nên tôi quên lững lời tiên tri của Sư Phụ! Người cũng đă rời Serampore để đi Banaras. Một tháng sau, tôi cảm thấy đau nhói bên hông ở chỗ vị trí của lá gan. Những tuần lễ tiếp theo sau đó, tôi bị chứng đau gan nhưng tôi do dự không muốn làm phiền Sư Phụ tôi và hy vọng sẽ có đủ sức chịu đựng cơn thử thách.

Nhưng hai mươi bốn ngày đau đớn đă làm suy yếu quyết định của tôi. Tôi đáp xe lửa đi Banaras, tại đây Sư Phụ tiếp đón tôi với một ḷng ưu ái khác thường, nhưng không để cho tôi có dịp gặp riêng để nói chuyện với người về chứng bệnh của tôi. Nhiều đệ tử hôm ấy đếng viếng Sư Phụ để có dịp chiêm ngưỡng tôn nhân. Bị bỏ rơi, lại đau yếu, tôi bèn ngồi riêng một góc. Sau bữa cơm chiều, những người khách đă rút lui. Sư Phụ mới gọi tôi lên bao lơn lầu bát giác của tịnh xá.

-Phải chăng con đến đây v́ chứng bệnh đau gan?

Sri Yukteswar day mặt qua chỗ khác, rồi đứng dậy đi bách bộ qua lại trong pḥng, vóc dáng cao lớn của người thỉnh thoảng che khuất ánh trăng rọi xuyên qua cửa sổ.

-Con đă đâu hai mươi bốn ngày, có phải không?

-Thưa vâng.

-Con hăy tập môn thể dục trị chứng bao tử mà Thầy đă chỉ dẫn cho con trước đây.

Nếu Sư Phụ biết rơ con đau đớn là dường nào th́ chắc Sư Phụ sẽ không bảo con tập thể dục nữa!

Tuy vậy, tôi cố gắng vâng lời:

Con nói rằng con đau, nhưng thầy nói là không. Làm sao có một sự tương phản như thế được?

Sư Phụ nh́n tôi với đôi mắt ḍ xét.

Tôi lặng người v́ ngạc nhiên. Th́nh ĺnh tôi lấy làm vui mừng mà thấy rằng cơn bịnh của tôi đă nhẹ, tôi không c̣n cảm thấy sự đau đớn nó đă làm cho tôi mất ngủ trong nhiều tuần! Một lời nói của Sư Phụ cũng đủ làm tiêu tan sự đau đớn của tôi dường như là tôi chưa hề bịđau bao giờ.

Với tấm ḷng biết ơn, tôi định qú xuống dưới chân Sư Phụ th́ người đă chận tôi lại:

-Đừng làm tṛ trẻ con! Hăy đứng dậy và nh́n xem vầng trăng đẹp trên khu rừng già!

Nhưng đôi mắt của Sư Phụ long lanh một niềm hạnh phúc, trong khi tôi đứng lặng im trước mặt người. Nh́n thái độ của Sư Phụ tôi hiểu rằng người muốn tôi hăy cám ón, không phải Sư Phụ, mà là Thượng Đế.

Đến nay tôi vẫn c̣n đeo món vật hộ phù bằng bạc và chỉđể tưởng niệm cái ngày đă qua không c̣n trở lại, ngày mà tôi hiểu rằng tôi đă sống bên cạnh một bậc siêu nhân. Trong những dịp khác, khi tôi đưa những bạn bè của tôi đến đạo viện để nhờ Sư Phụ chữa bệnh cho họ, người luôn luôn khuyên họ dùng những vật hộ phù hay ngọc quí và giải thích sự hiệu nghiệm của những vật ấy để ngăn ngừa những sự chẳng lành, căn cứ trên khoa chiêm tinh.

Từ thuở nhỏ, tôi đă từng dùng những vật hộ phù như vậy, một phần bởi v́ tôi thấy rất nhiều người có thái dộ sợ sệt dịđoan vói khoa chiêm tinh, và cũng bởi v́ nhà chiêm tinh của gia đ́nh tôi đă thốt ra lời tiên tri như sau: “Em sẽ cưới hỏi ba lần và bị hai lần góa vợ!” Tôi ngẫm nghĩ đến số mạng đáng buồn của tôi, và có cảm giác như linh hồn một con trừu bị hy sinh trước bàn thờ của ba cuộc hôn nhân!

Em phải chấp nhận số mệnh, Ananta khuyên tôi như thế. Lá số của em đă tiên liệu việc em trốn lên dăy Hy Mă Lạp Sơn hồi c̣n thơ ấu nhưng sẽ bị bắt lại. Như vậy lời tiên tri về ba cuộc hôn nhân cũng sẽ thành sự thật.

Một đêm kia, tôi có linh cảm rơ rệt rằng lời tiên tri ấy là sai. Tôi bèn đem đốt lá số của tôi và gói nhúm tro vào trong bao giấy, trên đó tôi viết gịng chữ: “Những mầm nghiệp quả của quá khứ không c̣n đâm chồi mọc nhánh, một khi nó đă bị cháy tiêu trong ngọn lửa minh triết thiêng liêng.” Tôi để cái gói giấy ở một nơi mà Ananta có thể nh́n thấy rơ ràng, anh tôi đọc xong lời thách thức của tôi bèn có nụ cười khinh miệt:

-Em không thể đốt cháy sự thật một cách dễ dàng như là đốt lá số này.

Quả thật, trước khi đến tuổi trưởng thành, gia đ́nh tôi đă ba lần mưu toan xếp đặt việc hôn phối của tôi. Mỗi lần như thế tôi đều phá hỏng kế hoạch của họ, v́ tôi biết rằng ḷng yêu Đạo Lư của tôi c̣n mạnh mẽ hơn ảnh hưởng của tinh tú gây nên bởi sự hành động của luật quả báo.

Khi một người càng tiến hóa trên đường tâm linh th́ những rung động tinh vi của y càng ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ và y càng ít bịảnh hưởng hơn bởi những chuyển biến không ngừng trong hiện tượng giới.

Những lời nói đó của Sư Phụ thường trở lại trong trí nhớ để trấn tĩnh tâm hồn tôi.

Tôi đă từng yêu cầu các nhà chiêm tinh hăy hoạch định những thời kỳ xung khắc căn cứ theo lá số của tôi, trong những thời kỳ đó tôi vẫn tiếp tục hành động và coi như không có chuyện ǵ; tôi vẫn làm những công việc theo chương tŕnh mà tôi đă vạch sẵn, không màng để ư đến sự sung khắc hay thất bại. Quả thật, tôi chỉđạt được sự thành công bằng một cái giá rất đắt, là va chạm với những khó khăn trắc trở vô cùng lớn lao. Tuy vậy tôi đă có sự quả quyết chắc chắn, đức tin nơi sự che chở thiêngliêng, việc sử dụng khôn khéo quyền tự do ư chid, là những mănh lực vô cùng mạnh mẽ hơn là tất cả những sự phối hợp ảnh hưởng của các tinh tú.

Tôi hiểu rằng lá số chiêm tinh của một người, không có nghĩa là người ấy chỉ là một kẻ nô lệ của quá khứ. Trái lại, nó có một ư nghĩa vinh diệu hơn: do Khoa Chiêm Tinh, đấng Thiêng Liêng t́m cách thức tỉnh nơi con người cái quyết định tự giải thoát khỏi mọi sự trói buộc, hạn chế. Thượng Đế sáng tạo ra con người như một linh hồn có cá tính riêng biệt, một phần tử cần thiết cho cơ cấu toàn diện của vũ trụ, bất luận trong vai tṛ tạm thời nào, dù quan trọng hay nhỏ nhặt tầm thường. Sự giải thoát của y sẽ là một việc tối hậu, nó tùy thuộc nơi sự thành công về đường tâm linh chứ không phải về phương diện vật chất.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 215 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

VÀI KỶ NIỆM LẠ LÙNG

Chương Mười Lăm

 

- Nghe em và con tôi quá đề cao và khâm phục Sri Yukteswar, tôi sẽ đến viếng ông ấy một lần xem sao!

Bác sĩ thú y Narayan Chunder Roy nói với một giọng trịnh thượng, nhưng tôi không tỏ ra bất măn. Ông ta là một người duy vật hạng nặng. Con trai ông, Santosh, khẩn khoản yêu cầu tôi giúp đỡ cha y, nhưng trường hợp này có vẻ tuyệt vọng.

Qua ngày hôm sau, bác sĩ Roy cùng đi với tôi đến đạo viện Serampore, Sư Phụ bằng ḷng tiếp ông ta, cuộc hội kiến ngắn ngủi chỉ là một cơn im lặng kéo dài ở cả đôi bên, sau cùng người khách đứng dậy bỏ về.

-Con đem một người chết tới đây làm ǵ? Sri Yukteswar hỏi tôi khi cánh cửa vừa đóng lại phía sau lưng bác sĩ.

-Bạch Sư Phụ, bác sĩ Roy vẫn c̣n sống!

-Nhưng y sắp chết đến nơi rồi!

Lời nói đó làm tôi xúc động:

-Đó là một điều nặng nề cho người con của ông ta. Santosh hy vọng rằng thời gian sẽ đánh tan những ư tưởng duy vật của cha y. Cầu xin Sư Phụ hăy giúp đỡ người này.

-Được, Thầy sẽ làm vừa ḷng con; gương mặt Sư Phụ vẫn thản nhiên. Người bác sĩ thú ư này không biết rằng y bị chứng đái đường rất nặng và y sẽ phải nằm liệt giường trong ṿng mười lăm ngày. Các bác sĩ phải bó tay và y sẽ từ giă cơi đời trong ṿng sáu tuần lễ kể từ ngày hôm nay nhờ sự can thiệp của con nên y sẽ khỏi bệnh vào ngày đó. Nhưng ta đặt một điều kiện: con hăy khuyên y đeo một vật hộ phù chiêm tinh, chắc chắn là y sẽ nhảy dựng lên như ngựa trước khi bịđem giải phẫu!

Sau một lúc im lặng, trong khi đó tôi ngẫm nghĩ nên làm cách nào để thuyết phục vị bác sĩ thú y, Sư Phụ nói tiếp:

-Khi y cảm thấy khá, con hăy khuyên y nên kiêng ăn thịt. Y sẽ không nghe lời khuyên đó và y sẽ chết trong sáu tháng, đúng vào lúc mà y tưởng là đă khỏi bệnh. Sáu tháng phụ trội đó chỉđược ban cho y là do lời cầu xin của con!

Ngày hôm sau, tôi dặn Santosh hăy đăt làm một vật hộ phù tại tiệm kim hoàn, bảy ngày sau đó, vật ấy đă làm xong nhưng bác sĩ Roy từ chối không chịu đeo.

-Tôi cảm thấy sức khỏe dồi dào. Các con đừng nhát tôi với những bùa phép chiêm tinh dịđoan đó.

Bác sĩ vừa nói vừa nh́n tôi cười ngạo nghễ. Tôi thích thú mà nhớ lại rằng Sư Phụ vừa so sánh vị thú y với một con ngựa chứng. Một tuần lễ trôi qua, vị thú y th́nh ĺnh nhuốm bịnh, nên đành chịu đeo vật hộ phù. Hai tuần sau, viên y sĩ khám bệnh cho y nói vói tôi rằng trường hợp ấy đă tuyệt vọgn và nói thêm nhiều chi tiết về những sự tàn phá trong cơ thể do bệnh đái đường gây ra.

Tôi lắc đầu:

-Sư Phụ tôi nói rằng bác sĩ Roy sẽ b́nh phục, bịnh này chỉ kéo dài trong ṿng một tháng.

Viên y sĩ nh́n tôi với cặp mắt nghi ngờ. Nhưng hai tuần sau, ông ta gặp lại tôi và nói:

-Bác sĩ Roy đă hoàn toàn b́nh phục! Đây là trường hợp lạ lùng nhất trong đời bác sĩ của tôi. Tôi chưa từng thấy một người nào bịnh đang hấp hối mà tự nhiên lại b́nh phục một cách đột ngột như vậy. Thầy của anh chắc chắn là một nhà tiên tri và chữa bệnh!

Trong cuộc gặp gỡ với bác sĩ Roy, tôi có nói cho ông ta biết Sri Yukteswar có lời cảnh cáo ông ta không nên ăn thịt. Sau đó tôi không gặp ông ta trong sáu tháng. Một hôm tôi đang đứng trước hành ba nhà tôi, ông ta từ đâu tiến đến và nói:

-Em hăy nói với Thầy em rằng sở dĩ tôi mau lại sức là nhờ ăn rất nhiều thịt. Quan niệm phản khoa học của ông về vấn đề dinh dưỡng không thuyết phục được tôi!

Lúc ấy bác sĩ Roy quả thật là hiện thân của sức khỏe. Nhưng qua ngày hôm sau, Stantosh hốt hoảng chạy đến nhà tôi:

-Cha tôi th́nh ĺnh ngă lăn ra chết hồi sáng này!

Đó là một trong những kinh nghiệm lạ kỳ nhất của đời tôi trong thời kỳ tôi sống chung với Sư Phụ. Người chữa khỏi bệnh cho viên thú y ngoan cố, không màng để ư đến sự hoài nghi thiển cận của ông ta, và kéo dài đời sống thế gian của ông ta thêm sáu tháng chỉ v́ có lời cầu khẩn của tôi. Sri Yukteswar thường tỏ ra có ḷng ưu ái vô bờ bến đối với những đệ tử chân thành cầu xin người giúp đỡ với tấm ḷng khẩn thiết.

Điều làm tôi hănh diện là tôi có đặc quyền đem những bạn học của tôi đến gặp Sư Phụ. Phần nhiều các bạn tôi trong những dịp đó đă từ bỏ thái độ hoài nghi của họ về vấn đề tôn giáo, một thái độ thịnh hành lúc đương thời.

Một trong những người bạn đó tên Sasim đă trải qua nhiều dịp nghỉ cuối tuần thích thú tại đạo viện. Sư Phụ có nhiều cảm t́nh với người thanh niên này và lấy làm buồn về cuộc đời phóng đăng, vô kỷ luật của y.

-Sasi, nếu con không sửa đổi cách sinh hoạt của con, con sẽ bịđau nặng! Sri Yukteswar vừa nói vừa nh́n bạn tôi một cách tuyệt vọng.

- Ta nói có Mukunda làm chứng; con sẽ không c̣n nói rằng ta không khuyên giải con từ trước.

Sasi cười và nói:

-Bạch Thầy, con xin nhờ Thầy cầu nguyện giùm cho con! Con có nhiều thiện chí nhưng thiếu can đảm. Trên đời này, Thầy là vị cứu tinh của con, con không tin được ai nữa ngoài Thầy ra.

- Con phải đeo một hột đá xanh nặng hai carats. Đeo nó có lợi cho con.

- Con không đủ sức sắm vật ấy. Tuy nhiên, nếu con bị chuyện ǵ nguy cấp, con xin Thầy che chở cho con.

Sri Yukteswar trả lời với một vẻ bí hiểm:

- Trong ṿng một năm, con sẽ đem đến đây ba hột ngọc bích, nhưng lúc bấy giờ th́ những viên ngọc ấy không có ích ǵ cho con nữa.

Câu chuyện vẫn trở lại chung quanh một vấn đề. Sasi thú nhận với một sự tuyệt vọng đáng buồn cười:

-Con không thể tự sửa đổi! Đức tin của con đặt nơi Thầy, c̣n quư báu hơn mọi loại ngọc quí!

Một năm sau, tôi đến Calcutta cùng với Sư Phụ, người ở tại nhà một đệ tử tên là Naren Babu. Vào lúc mười giờ sáng, Sư Phụ và tôi đang ngồi nghỉ trong pḥng khách trên lầu, th́nh ĺnh tôi nghe tiếng mở cửa. Sư Phụ bèn nhỏm dậy và nói một cách nghiêm trọng:

-Sasi đă đến. Một năm vừa trôi qua, hai buồn phổi của y đă hỏng! Y không nghe lời Thầy. Con hăy nói rằng Ta không muốn tiếp y.

Tôi chạy xuống lầu th́ thấy Sasi cũng đang lần từng bước thang đi lên.

-Mukunda, tôi hy vọng rằng Thầy có ở đây!

-Có, nhưng người không muốn bị ai quấy rầy.

Sasi vừa khóc sướt mướt vừa vượt qua trước mặt tôi để thụp xuống lạy Sư Phụ và đặt dưới chân người ba viên ngọc bích thật bích.

-Bạch Sư Phụ, các y sĩ nói rằng con bị chứng hoàn lao cấp số! Họ nói con sẽ không sống được tới ba tháng. Con khẩn cầu Sư Phụ giúp con v́ con biết chỉ có Sư Phụ mới cứu được con.

-Phải chăng đă quá trễ để nghĩ đến việc cải tạo cuộc đời? Con hăy đi đi với những viên ngọc bích vô dụng này, thời kỳ hiệu nghiệm của nó đă qua rồi.

Sư Phụ nói xong th́ ch́m vào một cơn im lặng kéo dài, chỉ c̣n tiếng khóc nức nở của người thanh niên.

Tôi linh cảm rằng Sri Yukteswar chỉ nói vậy để thử thách đức tin của Sasi nơi quyền năng chữa bện của người. Bởi đó tôi không ngạc nhiên khi mà một giờ sau, Sư Phụ ban cho tôi một cái nh́n thương hại và nói:

-Con hăy đứng dậy, Sasi, và đừng làm mất sự yên tĩnh trong nhà người khác! Hăy trả các viên ngọc bích cho người kim hoàn v́ hiện giờ đó là một sự phí tổn vô ích. Con đừng sợ, trong vài tuần con sẽ cảm thấy khỏi bệnh!

Một nụ cười chói sáng trên gương mặt đẫm lệ của Sasi chẳng khác nào như mặt trời xuất hiện sau cơn mưa:

-Bạch Sư Phụ, con cần phải uống thuốc chăng?

Sri Yukteswar tỏ ra giàu ḷng tha thứ:

-Nếu con muốn. Uống thuốc hay không cũng chẳng hại ǵ. Dẫu cho mặt trời mặt trăng dời đi chỗ khác, con cũng không chết v́ bệnh lao! Người nói thêm một cách đột ngột. Bây giời con hăy đi đi kẻo có khi ta lại đổi ư.

Sasi kiếu từ và rút lui. Trong những tuần lễ sau đó, tôi đến thăm y nhiền lần và lấy làm thất vọng mà sức khỏe của y càng ngày càng hao ṃn.

-Sasi sẽ không qua khỏi đêm nay!

Lời tuyên bố của vị y sĩ và t́nh trạng nguy kịch của bạn tôi làm cho tôi phải hối hả lên đường đến đạo viện. Sư Phụ lạnh lùng nghe lời báo cáo của tôi trong khi tôi vừa nói vừa khóc v́ xúc động.

-Tại sao con đến làm phiền ta như vậy? Ta há chẳng nói trước rằng Sasi sẽ khỏi bệnh sao?

Tôi kính cẩn cúi đầu trước Sư Phụ và âm thầm rút lui. Sư Phụ không nói ǵ những trầm ḿnh trong im lặng, đôi mắt hé mở của người đang chiêm ngưỡng một cơi giới xa xăm nào. Tôi trở lại nhà Sasi ở Calcutta ngay khi đó và lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy bạn tôi đang ngồi tỉnh táo và uống sữa!

-Mukunda hỡi! Thật là kỳ diệu. Trong mấy tiếng đồng hồ qua, tôi cảm thấy trong pḥng có sự hiện diện của Sư Phụ, ngay tức khắc chứng bệnh tôi liền thuyên giảm và biến tan đi mất. Tôi biết rằng chính nhờ Sư Phụ mà tôi được hoàn toàn b́nh phục!

Chỉ trong vài tuần, Sasi đă lên cân và sức khỏe dồi dào hơn bao giờ hết. Những sự khỏi bệnh của y lại có những hậu quả bất ngờ: y tỏ ra vô ơn bạc nghĩa, những cuộc viếng thăm đạo viện của y cũng thưa thớt lần lần. Một ngày nọ bạn tôi tâm sự với tôi rằng y cảm thấy hổ thẹn v́ thái độ của ḿnh đến nỗi y không dám đến gặp Sri Yukteswar.

Việc ấy đưa tôi đến kết luận rằng chứng bệnh của Sasi có cái hậu quả bất ngờ là làm cho y bị lệch lạc ư chí và không c̣n biết phép xử thế lịch sử ở đời!

Tôi thường bị xâm chiếm bởi những tư tưởng hoài nghi, vô thần. Tuy nhiên, một ư nghĩ băng khoăn đôi khi cũng thoáng qua trong trí tôi: linh hồn có hay chăng những tiềm năng chưa hề khai thác? Con người có lăng quên mục đích thật sự của ḿnh chăng khi họ không quan tâm đến vấn đề này?

Dijen Babu, một người bạn học cùng lớp, tâm sự với tôi như thế khi tôi mời y đến viếng thăm đạo viện. Tôi bèn đáp:

-Sư Phụ Sri Yukteswar sẽ khai tâm cho anh theo pháp môn Kriya Yoga. Pháp môn này sẽ làm lắng dịu những sự cuồng loạn của ảo vọng bằng một sự giác ngộ thiêng liêng trong nội tâm.

Chiều hôm ấy, Dijen theo tôi đến đạo viện. Trước mặt Sư Phụ, bạn tôi cảm thấy một niềm an lạc thâm trầm xâm chiếm lấy tâm hồn y, và từ đó y thường đến viếng đạo viện luôn. Những điều lo lắng nhỏ nhạt của đời sống hằng ngày không đủ làm thỏa măn con người, trong tánh chất của y cũng c̣n có sự khát khao chân lư. Trong những lời giảng huấn của Sri Yukteswar, Dijen nhận thấy một sự khích lệ thúc đẩy y t́ kiếm tận nơi thâm sâu bí ẩn của nội tâm cái Chân Ngă bất diệt, khác hẳn với phàm ngă chật hẹp, ích kỷ của con người.

Dijen và tôi cùng theo học ban Cử Nhân tại trường Serampore College, trực thuộc trường đại học Calcutta và thường có thói quen đến đạo viện ngay sau giờ học. Sri Yukteswar thường nh́n thấy chúng tôi từ trên bao lơn từng lầu hai và tiếp đón chúng tôi với một nụ cười.

Một hôm, Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, đợi chúng tôi ở ngoài cửa và nói:

-Sư Phụ hôm nay vắng mặt, người có việc gấp phải đi Calcutta.

Ngày hôm sau, tôi nhận được một bử phiếu của Sư Phụ viết như sau: “Thầy sẽ rời khỏi Calcutta sáng ngày thứ Tư, con và Dijen hăy đón Thầy ở ga Serampore trên chuyến xe lửa 9 giờ.”

Sáng thứ Tư, vào lúc 8 giờ rưỡi, một thông điệp thần giao cách cảm của Sư Phụ đi xuyên qua trí tôi: “Thầy mắc bận vào giờ chót, đừng đón chuyến xe 9 giờ.”

Tôi liền báo tin cho Dijen, y đă sửa sọan ra đi những nghe tin ấy th́ nói với giọng bất măn.

-Anh cứ hay nói chuyện linh cảm với linh giác! Tôi chỉ tin những việc đó khi nào có chữ viết của Sư Phụ.

Tôi nhún vai, lặng lẽ ngồi xuống và quyết định ở lại, Dijen vừa bước ra cửa vừa nói lầm bầm và đóng sầm cánh cửa khi đi ra.

Trong pḥng hơi u ám, tôi bèn đi đến chỗ cửa sổ trổ ra ngoài đường. Bỗng nhiên ánh sáng dịu lúc ban mai đổi thành một thứ ánh sáng chói ḷa trong đó cửa sổ song sắt hoàn toàn biến mất dạng. Trên sàng gạch chói sáng, đứng sừng sững giữa pḥng chính là Sri Yukteswar bằng xương bằng thịt rơ ràng!

Bàng hoàng và vô cùng kinh ngạc, tôi thụp xuống dưới chân Sư Phụ và sờ nhẹ hai bàn chân người để tỏ ḷng tôn kính như thường lệ. Sư Phụ mang đôi giày bố màu da cam, đến giày bằng da dừa; tôi nhận ra một cách rơ ràng đó là đôi giầy mà Sư Phụ vẫn thường dung hằng ngày. Chiếc vạt áo màu vàng sậm của người phất qua đụng da mặt tôi, tôi cảm xúc được không những cái vạt áo mà c̣n nhận thấy mặt nhám của đôi giày bố và hai ngón chân cái cộm lên ở bên trong. Quá xúc động đến không thể nói chuyện được, tôi chỉ có thể nh́n Sư Phụ bằng cặp mắt dọ hỏi:

- Thầy rất vui ḷng mà thấy con nhận được bức thông điệp thần giao cách cảm của Thầy.

Giọng nói của Sư Phụ vẫn b́nh thường không thay đổi.

-Thầy không thể hoàn tất mọi công việc kịp thời ở Calcutta và sẽ về đến Serampore trên chuyến xe lửa 10 giờ.

Câm lặng v́ ngạc nhiên, tôi vẫn tiếp tục nh́nh Sư Phụ. Sri Yukteswar nói tiếp:

-Không, đây không phải là một sự hiện h́nh, mà chính là Thầy bằng xương bằng thịt. Thầy ban cho con cái kinh nghiệm hiếm có này do bởi Thiên Ư. Con hăy đợi Thầy tại nhà ga, Dijen và con sẽ gặp Thầy cũng trong bộ áo Thầy đang mặc lúc này, và đi trước Thầy có một thiếu nhi cầm một cái b́nh bằng bạc.

Sư Phụ bèn đặt hai bàn tay lên đầu tôi và nói th́ thầm những lời ban ân huệ. Vừa dứt lời th́ tôi nghe một tiếng động đặt biệt. Thể xác của Sư Phụ từ từ tan ră trong ánh sáng chói ḷa. Hai bàn chân, rồi hai chân biến mất trước hết, kế đó tới thân ḿnh và đầu, cũng ví như một cuộn giấy bị cuốn tṛn lại. Cho đến phút chót, tôi cảm thấy sự đụng chạm nhẹ nhàng của những ngón tay luồn trong mái tóc tôi. Trong giây lát, ánh sánh chói lọi lúc năy đă lu mờ dần, tôi chỉ c̣n nh́n thấy cái cửa sổ song sắt và những tia nắng mặt trời êm dịu.

Tôi ch́m trong một cơn bàng hoàng như tỉnh như mê và tự hỏi phải chăng đó là một cơn nắng quáng đèn ḷa, khiến cho tôi nh́n thấy một ảo ảnh. Trong lúc đó, Dijen mặt mày ngơ ngác bước vào gian pḥng và nói:

-Sư Phụ không về trên chuyến xe 9 giờ, và luôn cả chuyến xe 9 rưỡi! Bạn tôi nói câu đó dường như để xin lỗi.

-Anh hăy đi theo tôi! Tôi biết Sư Phụ sẽ về trên chuyến xe 10 giờ.

Tôi kéo Kijen đi theo tôi, hầu như cưỡng bách, mặc dù y không bằng ḷng. Mười phút sau chúng tôi đến nhà ga th́ chuyến xe cũng vừa đến. Tôi kêu lên:

-Hào quang của Sư Phụ chói ḷa khắp các toa xe lửa! Người đă về!

-Anh chỉ tưởng tượng! Dijen nói giọng châm biếm.

-Chúng ta hăy đợi ở đây.

Tôi diễn tả từng chi tiếh h́nh dáng của Sư Phụ khi người sẽ trở về. Tôi vừa nói xong th́ Sri Yukteswar đă xuất hiện với bộ áo vàng sậm mà tôi đă thấy từ lúc năy. Người đi chậm bước và theo sau một đứa trẻ nhỏ mang một cái b́nh bằng bạc.

Trong một lúc tôi cảm thấy lạnh ḿnh v́ kinh hăi trước sự kiện lạ lùng vừa xảy ra. Cả một bầu thế giới quen thuộc của thế kỷ 20 duy vật dường như sụp đổ trước đôi mắt ngạc nhiên của tôi, tôi tưởng chừng như sống thụt lùi trở lại thời kỳ mà đức Jesus xuất hiện trước thánh Pierre trên bờ biển Galilée!

Khi Sri Yukteswar đi đến chỗ mà Dijen và tôi ngồi bàng hoàng và câm lặng v́ kinh sợ, Sư Phụ vừa mỉm cười vừa nói với người bạn tôi:

Ta cũng có gửi đến cho con một thông điệp, nhưng con không nhận được.

Dijen lặng thinh và nh́n tôi với một vẻ nghi ngờ. Sau khi đưa Sư Phụ về đạo viện, chúng tôi đi đến trường đại học Serampore College. Dijen ngừng lại giữa đường và nói với giọng bực tức:

- À, th́ ra là như vậy! Sư Phụ có gửi thông điệp cho tôi! Tại sao anh dấu tôi? Anh phải trả lời cho tôi rơ.

Có phải lỗi tại tôi chăng nếu tấm gương của linh hồn anh quá lu mờ nên không thể phản chiếu những thông điệp của Sư Phụ?

Dijen liền b́nh tĩnh lại ngay và nói với một giọng đầy hối hận:

-Tôi hiểu anh muốn nói ǵ. Nhưng anh hăy giải thích do đâu mà anh biết trước có một đứa trẻ nhỏ mang một cái b́nh bằng bạc?

Khi tôi vừa kể hết câu chuyện Sư Phụ  xuất hiện một cách nhiệm mầu hồi lúc sáng sớm, th́ chúng tôi đă đến trước cửa trường Serapore. Dijen bèn kết luận:

Những ǵ tôi vừa được nghe về quyền năng của Sư Phụ làm cho tôi nghĩ rằng tất cả những trường đại học của thế giới chỉ là những vườn chơi trẻ con!

 

 

 

 



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 216 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CHUYẾN DU HÀNH LÊN TỈNH KASHMIR

Chương Mười Sáu

 


-Thưa cha, con muốn mời Sư Phụ và bốn người bạn cùng đi với con lên dăy Hy Mă Lạp Sơn trong dịp nghĩ hè. Cha có thể cho con sáu vé xe lửa đi Kashmir và tiền túi để đi đường?

Như tôi đă đoán trước, cha tôi liền bật cười:

-Đây là lần thứ ba mà con xin cha chuyện đó! Phải chăng con đă xin cha như thế trong dịp hè cách đây hai năm? Vào giờ chót, Sri Yukteswar đă từ chối không đi.

-Thưa cha, đúng vậy. Con không biết lần này Sư Phụ có định đi không. Nhưng nếu con cho người biết rằng vé xe lửa đă sẵn sàng th́ con hy vọng Sư Phụ rốt cuộc sẽ chịu đi.

Cha tôi không tin chuyện ấy lắm, tuy nhiên ngày hôm sau người đưa cho tôi sáu tấm vé biếu đặc biệt và một cuộn giấy bạc mười rupees:

- Cha không nghĩ rằng cuộc du hành tưởng tượng của con phải cần dùng đến những thứ này, nhưng dù sao con cũng cứ cầm lấy!

Trong ngày hôm đó, tôi phô trương món quà đó trước mặt Sư Phụ, người mỉm cười về sự hứng khởi của tôi và nói một cách phân đôi, không quả quyết lắm:

-Thầy cũng mong có thể đi được, để xem sao.

Ngoài ra tôi c̣n mời bốn người bạn trong số đó Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, Rajendra Nath Mitra, Jotin Auddy và một bạn khác, ngày lên đường đă định là thứ Hai tuần tới.

Ngày thứ Bảy và Chủ Nhật tôi có mặt ở Calcutta để dự lễ cưới của một người anh họ tổ chức tại nhà tôi. Sáng sớm ngày thứ Hai, tôi đến Serampore với đồ hành lư. Rajendra đă đợi tôi trước cửa đạo viện và nói:

Sư Phụ không chịu đi, người mới bước ra đi dạo một ṿng.

Tôi cảm thấy bất măn, và sau cùng tôi quyết định: -Tôi không thể để cho cha tôi cười một lần thứ ba về những kế họach ngao du tưởng tượng của tôi nữa. Chúng ta cũng cứ đi dù không có Sư Phụ.

Rajendra bằng ḷng. Tôi rời khỏi đạo viện để t́m một đứa gia nô v́ tôi biết rằng Kanai sẽ không đi nếu không có Sư Phụ và tôi cần một người để coi sóc hành lư. Tôi nghĩ đến Behari, trước kia đă từng giúp việc trong gia đ́nh tôi và hiện đang giúp việc nhà cho một vị giáo chức ở Serampore. Trong khi tôi đang đi mau, tôi gặp Sư Phụ ở trước nhà thờ Gia Tô cách ṭa án Serampore không xa. Sư Phụ có vẻ không vui:

-Con đi đâu?

-Bạch Sư Phụ, con nghe Kanai không chịu đi trong chuyến du ngoạn mà con đă sắp đặt. Con phải đi t́m Begari. Sư Phụ có nhớ chăng năm ngoái, nó thích đi chơi Kashmir đến nỗi nó đ̣i đi theo phục dịch chúng con mà không nhận tiền thù lao.

-Thầy nhớ. Tuy nhiên, Thầy không tin rằng lần này nó chịu đi.

Tôi càng bực ḿnh:

-Nhưng, bạch Sư Phụ, đó là cái mộng mà nó vẫn ôm ấp từ lâu kia mà!

Sư Phụ lặng thinh và tiếp tục cuộc đi dạo, c̣n tôi th́ đi đến nhà vị giáo chức. Đến trước sân, Behari tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt nhưng thái độ ấy liền đổi thành một sự dè dặt khó hiểu khi tôi vừa nói đến Kashmir. Với vài lời xin lỗi, y bèn kiếu từ và đi vào nhà người chủ của y. Tôi đợi mất nửa giờ ngoài sân, hy vọng một cách mơ màng rằng chắc có lẽ y vào nhà trong để chuẩn bị hành trang lên đường. Sau cùng tôi gơ cửa. Người chủ nhà bước ra, mỉm cười và nói:

-Behari đă đi chợ bằng cửa sau cách đây độ nửa giờ.

Tôi bước đi trong sự thất vọng và tự hỏi phải chăng v́ lời mời của tôi quá đột ngột hay đó là do ảnh hưởng vô h́nh của Sư Phụ. Khi tôi đi gần đến nhà thờ, tôi thấy Sư Phụ từ từ bước đến. Không đợi cho tôi nói ǵ, người bèn nói trước:

-À vậy là Behari cũng không đi! Bây giờ chương tŕnh con ra sao?

Tôi cảm thấy như một đứa con ngỗ nghịch, quyết định đương đầu với cha:

-Bạch Sư Phụ, con sẽ yêu cầu chú con cho mượn người gia nô tên là Lai Dhari.

Sri Yukteswar đáp với nụ cười:

-Con cứ đi hỏi cậu con nếu con thấy cần. Nhưng Thầy không tin rằng con sẽ thành công.

Tôi từ biệt Sư Phụ và đi vào pháp đ́nh Serampore. Chú tôi là Sarada Gosh làm luật sư tại ṭa án, tiếp đón tôi một cách cởi mở. Tôi nói:

- Hôm nay cháu cùng với vài người bạn đi du ngoạn lên xứ Kashmir. Từ mấy năm nay cháu vẫn hằng mong ước có dịp đi chơi trên dăy núi Hy Mă Lạp Sơn.

-À, chú cũng chung vui với cháu. Cháu có muốn chú giúp đỡ điều ǵ trong cuộc đi chơi này không?

Những lời chú cởi mở đó có vẻ khích lệ đối với tôi:

-Thưa chú, cháu có thẻ mượn người gia nô Lai Dhari chăng?

Lời yêu cầu khiêm tốn này có ảnh hưởng như một tiếng sét đánh. Chú tôi nhảy dựng lên mạnh đến nỗi nó làm lật đổ bàn ghế, những giấy tờ trên bàn bay tản mác tứ phía, cái ống điếu dài đẽo bằng cây dừa của chú lăng long lóc xuống cái sàn gạch. Chú hét lớn trong cơn thịnh nộ:

-Đồ ích kỷ! Thật là hỗn láo! Ai sẽ lo việc nhà cho tao nếu mày đem người nô bộc của tao đi theo mày chơi?

Tôi cố dấu vẻ ngạc nhiên và nghĩ rằng sự thay đổi tâm lư đột ngột này lại là một trong những sự kỳ lạ bí hiểm trong ngày hôm đó. Tôi bèn hối hả rút lui, không màng nghĩ đến ḷng tự ái bị va chạm!

Tôi trở lại đạo viện, tại đây các bạn tôi đă đợi sẵn. Trong trí tôi bắt đầu nảy sinh ra một sự tin tưởng chắn chắn rằng thái độ của Sư Phụ hẳn là có lư do chính đáng. Tôi cảm thấy hối hận vfi đă không chịu vâng lời Sư Phụ.

Sri Yukteswar thấy tôi bèn hỏi:

-Mukunda, con có muốn ở nán lại với Thầy thêm ít lâu chăng? Rajendra và các bạn có thể đi trước và đợi con ở Calcutta, khi đến đó con sẽ có thừa thời giờ đáp chuyến xe cuối cùng lúc chiều để đi lên Kashmir.

-Bạch Sư Phụ, con cảm thấy không vui nếu không có Sư Phụ cùng đi.

Các bạn tôi không hề để ư đến lời tuyên bố này. Họ kêu một cổ xe ngựa, chất hành lư lên xe và đi thẳng Kanai c̣n tôi lẳng lặng ngồi dưới chân Sư Phụ. Sau độ ba mươi phút im lặng hoàn toàn, Sri Yukteswar đứng dậy đi lên pḥng ăn trên lầu hai và nói:

- Kanai, con hăy theo săn sóc Mukunda. Chuyến xe lửa đă sắp khởi hành.

Th́nh ĺnh tôi vặn ḿnh đau đớn với cơn buồn mửa, trong bụng quặn đau một cách kinh khủng. Cơn đau nhức nhối như dùi nhọn đâm vào ruột, tôi cảm thấy như một tội nhân bị quỉ sứ hành h́nh moi ruột dưới địa ngục. Tôi ḅ lết đến chỗ Sư Phụ ngồi và ngă vật xuống chân người, khi đó tôi mới biến tôi đă bị bệnh thời khí Á Châu, một chứng bệnh vô cùng hiểm nghèo! Sư Phụ cùng với Kanai khiêng tôi vào pḥng khách. Bị dày ṿ trong cơn đau đớn, tôi rên siết:

-Bạch Sư Phụ, con xin giao mạng sống của con vào tay Sư Phụ.

Tôi cảm thấy dường như linh hồn tôi sắp sửa bị dứt ra khỏi thể xác một cách tàn nhẫn, phủ phàng!

Sri Yukteswar đặt đầu tôi lên hai đầu gối của người, vuốt trán tôi một cách nhẹ nhàng và nói:

-Con thấy việc ǵ sẽ xảy ra cho con nếu con cùng với các bạn đi ra nhà ga từ lúc này! Thầy đă phải coi chừng săn sóc con một cách kín đáo v́ con đă căi lời Thầy mà muốn đi du ngoạn vào thời kỳ bất lợi.

Sau cùng tôi đă hiểu. Khi một vị tôn sư không chịu phô trương quyền năng của ḿnh trước mắt mọi người th́ người ta có thể nghĩ rằng sự việc đă diễn ra một cách b́nh thường. Sự can thiệp của Sư Phụ đă diễn ra một cách qua âm thầm tế nhị nên không ai hay biết ǵ cả. Sư Phụ đă ảnh hưởng đến Behati; vị luật sư Sarada, tức chú tôi; Rajendra và những người khác; một thứ ảnh hưởng vô h́nh vô ảnh đến nỗi tất cả mọi người trừ tôi ra đều nghĩ rằng sự việc đă xảy ra một cách tự nhiên và không có ǵ ngoài sự b́nh thường. V́ Sư Phụ không bao giờ quên noi theo những tập quán thông thường, người khiến Kanai đi gọi một y sĩ chuyen khoa và báo tin cho chú tôi hay. Tôi kêu nài:

-Bạch Sư Phụ, chỉ có Sư Phụ mới có thể chữa khỏi bịnh cho con. Bịnh trạng của con quá nguy kịch, một y sĩ có thể làm được ǵ?

-Con hỡi, cầu xin Thượng Đế ban ân huệ thiêng liêng cho con! Con đừng băn khoăn về việc gọi y sĩ; y sĩ không c̣n thấy con ở vào t́nh trạng nguy kịch ấy nữa, v́ con đă khỏi bệnh!

Sư Phụ vừa nói xong, cơn đau bụng dữ dội của tôi liền biến mất. Tôi ngồi dậy nhưng hăy c̣n yếu. Không bao lâu vị y sĩ đă đến nơi và khám tôi rất tỉ mỉ rồi nói:

-Em vừa trải qua một cơn đau kinh khủng. Tôi phải lấy máu để thử vi trùng xem sao.

Sáng ngày hôm sau, vị y sĩ hối hả trở lại th́ thấy tôi đă ngồi dậy và cười nói vui vẻ.

-À, em đă nói chuyện được và lại tươi cười dường như mới ngày hôm qua đây em không ở dưới manh vuốt của Tử Thần!

Y vỗ nhẹ vào bàn tay tôi:

- Tôi không chắc là sẽ thấy em c̣n sống hôm nay khi cuộc khảo nghiệm hóa học cho biết là em bị chứng thời khí Á Châu. Em thật là phúc đức có được một vị tôn sư có quyền năng chữa bệnh, một quyền năng thiêng liêng của Trời Phật ban cho! Tôi không nghi ngờ ǵ về việc ấy.

Tôi cũng hoàn toàn đồng ư. Khi vị y sĩ kiếu từ ra về, Rajendra và Auddy xuất hiện ở trước cửa. Họ có vẻ bất măn những sắc mặt họ liền ḥa dịu trở lại khi họ nh́n thấy vị y sĩ và gương mặt hăy c̣n xanh mét của tôi.

-Chúng tôi rất tức giận khi thấy anh không đến với chúng tôi tại Calcutta như đă hẹn trước. Anh bịđau hay sao?

-Phải.

Tôi không thể nín cười khi tôi thấy các bạn tôi đặt đồ hành lư xuống ngay chỗ ngày hôm qua.

Lúc đó Sư Phụ bước vào gian pḥng. Tôi lấy tư cách một kẻ đang nằm dưỡng bệnh để tự cho phép nắm lấy bàn tay Sư Phụ một cách tŕu mến:

-Bạch Sư Phụ, từ năm con mười hai tuổi đến nay con đă mưu toan thất bại nhiều lần để đi lên dăy Hy Mă Lạp Sơn. Bây giờ con tin rằng nếu không có ân huệ của Sư Phụ, đức Phật Mẫu Quan Âm chắc sẽ từ chối không chịu tiếp con ở trên đó!

“Nay con đă khá mạnh khỏe để co thể lên đường, Thầy sẽ cùng đi với con lên Kashmir.” Sư Phụ nói với tôi hai ngày sau khi tôi được chữa khỏi bệnh thời khí Á Châu một cách mầu nhiệm. Chiều hôm ấy, sáu người trong nhóm chúng tôi đáp chuyến xe lửa lên miền Bắc. Trạm ngừng đầu tiên là Simla, một thành phố hùng vĩ dưới chân Hy Mă Lạp Sơn. Chúng tôi đi dạo chơi trên những con đường dốc và chiêm ngưỡng phong cảnh đẹp của miền núi.

-Ai mua dâu không?

Một bà già bán dâu tươi ngồi rao hàng tại một góc chợ của thành phố. Những trái dâu đỏ thắm khêu gợi sự chú ư của Sư Phụ. Người mua một giỏ đầy và đưa cho chúng tôi ăn. Tôi nếm thử một trái nhưng liền nhăn mặt và nhả ra:

-Bạch Sư Phụ, dâu chua quá! Chắc không bao giờ con ăn nữa!

Sư Phụ bèn cười và nói:

-Trái lại, sau này con sẽ thích ăn dau hơn, khi con sang Mỹ Quốc. Trong một bữa cơm tối, bà chủ nhà sẽ dọn ra cho con món dâu chua với đường và kem. Bà ấy sẽ nghiền nát những trái dâu bằng một cái nĩa và con sẽ khen rằng, “Thật là ngon tuyệt diệu!” Chừng đó con sẽ nhớ đến ngày hôm nay ở Simla.

Tôi hoàn toàn quên lửng lời tiên tri đó và chỉ nhớ lại nhiều năm về sau. Sau khi đến Mỹ Quốc, một hôm tôi được mời dùng cơm tối tại nhà bà Alice T. Hasey tại West Somerville, Massachusetts. Đến lúc ăn tráng miệng, bà chủ nhà cầm một cái nĩa, nghiền nát những trái dâu đỏ rồi thêm kem và đường. Bà mời toi dùng và nói:

-Những trái dâu này rất chua, tôi mong đại đức sẽ thích dùng nó với kem và đường.

Tôi nếm thử một muỗng bất giác thốt lên:

-Thật là ngon tuyệt trần!

Khi đó lời tiên tri của Sư Phụ mới trở lại trong kư ức của tôi. Tôi lấy làm kinh ngạc mà thấy rằng nhiều năm trước đây, tinh thần Sư Phụ ḥa hợp với Thiêng Liêng, đă nh́n thấy sự liên hệ về nhân quả giữa các sự việc diễn biến sẽ xảy ra trong tương lai.

Nhóm chúng tôi lại rời Simla để đáp chuyến xe lửa đi Rawalpindi. Tại đây chúng tôi thuê một chiếc xe song mă để thực hiện một chuyến đi bảy ngày đến Srinagar, thủ phủ tỉnh Kashmir. Qua ngày thứ hai của cuộc hành tŕnh bằng xe song mă lên miền bắc, chúng tôi đă thấy xuất hiện dăy Hy Mă Lạp Sơn trước cặp mắt kinh ngạc của chúng tôi. Những bánh xe bằng sắt của chiếc xe song mă kêu rít lên treen con đường lót đá nóng như thiêu đốt dưới ánh mặt trời, nhưng phong cảnh vĩ đại của miền núi đưa tâm hồn chúng tôi lên một trạng thái lâng lâng thoát tục. Auddy bèn thưa với Sư Phụ:

-Bạch Tôn Sư, con rất hân hạnh mà được thưởng thức toàn vẹn phong cảnh huy hoàng này bên cạnh tôn sư.

Lời nói đó của Auddy làm cho tôi khoái chí v́ tôi cảm thấy vai tṛ hướng dẫn của tôi có vẻ quan trọng. Sri Yukteswar đọc được tử tưởng của tôi v́ Sư Phụ day qua tôi và nói nhỏ:

-Con đừng quá vui thích như thế! Auddy ít thưởng thức cảnh đẹp hơn là muốn t́m một góc nào đó để được tự do hút thuốc lá.

Tôi cảm thấy dội ngược, và nói nhỏ lại:

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ quá nghi ngờ chăng? Con không tin rằng Auddy lại nghiện thuốc lá.

Tôi vừa nói vừa nh́n Sư Phụ một cách do dự v́ người thường hay nói đâu trúng đó. Sư Phụ cười nói:

Được rồi. Thầy sẽ không nói ǵ với Auddy. Nhưng con sẽ thấy rằng đến trạm ngừng tới đây, Auddy sẽ không để lỡ cơ hội.

Chiếc xe ngựa ngừng trước một trạm nghỉ. Khi người ta dắt ngựa đi uống nước, Auddy liền thưa:

-Bạch tôn sư, lát nữa xin tôn sư cho phép con ngồi đàng trước với người đánh xe. Con muốn ngồi ngoài để hứng luồng gió cho mát.

Sư Phụ gật đầu và quay qua nói nhỏ với tôi:

-Nó không phải muốn hứng gió mà là thèm thuốc lá.

Chiếc xe song mă lại lăn bánh kêu rít lên trên đường lộ. Đôi mắt Sư Phụ long lanh sáng, người bảo tôi:

-Con hăy tḥ đầu qua cửa sổ và nh́n xem Auddy hứng gió!

Tôi vâng lời và lấy làm ngạc nhiên mà nh́n thấy Auddy đang thở ra những ṿng khói tỏa theo chiều gió. Tôi liền xin lỗi Sư Phụ:

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ luôn luôn nói có lư. Auddy thật sự đang thở khói mù mịt như ống khói tàu!

Tôi chắc là bạn tôi đă xin một điếu thuốc của người đánh xe, v́ tôi biết y không có mua thuốc lá tại Calcutta.

Chúng tôi dong ruỗi trên đường núi gập ghềnh khúc khuỷu và một viễn ảnh huy hoàng đẹp đẽ diễn ra trước mắt chúng tôi đến tận chân trời: sông rạch, thung lũng, vực thẳm, sườn núi cheo leo. Chúng tôi ngủ đêm trong những quán trọ đơn sơ ở dọc đường và tự nấu lấy các bữa ăn. Sri Yukteswar đặc biệt chăm nom bữa ăn của tôi và bảo tôi phải uống nước chanh. Tuy hăy c̣n yếu, tôi lấy lại sức lần lần mặc dù đi du lịch bằng xe ngựa chạy trên đường núi không lấy ǵ làm tiện nghi cho lắm.

Tâm hồn chúng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi khi chúng tôi đến gần trung tâm tỉnh Kashmir, một nơi đất lành với những hồ sen rộng lớn, những vườn hoa mọc trên mặt nước, những chiếc du thuyền màu mè sặc sỡ, con sông Jhelum với vô số những chiếc cầu vồng, những đồng cỏ xanh tươi điểm lác đác những đóa hoa rừng được bao bọc chung quanh bằng dăy Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ!

Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện hàng cầy cổ thụ có tàn che bóng mát và htuê pḥng tại một lữ quán hai tầng. Mùa hè năm ấy, tiết trời tuyệt đẹp, ban ngày th́ nóng, ban đêm hơi lạnh.

Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện Shankara, trong khi tôi đang ngắm nńn đạo viện trên đỉnh một ngọn núi mà nóc nhọn chỏ lên trên nền trời xanh biếc, th́nh ĺnh tôi rớt vào một trạng thái bằng an phúc lạc lạ thường. Dưới mắt tôi, đạo viện Shankara biến thành cái linh ảnh của mọt ngôi kiến trúc mà nhiều năm về sau tôi dùng làm tổng hành dinh Cơ Quan Thực Hiện Chân Ngă của tôi ở Mỹ Quốc. Khi tôi viếng thành phố Los Angeles lần đầu tiên và nh́n thấy ngôi biệt thứ này từ ngọn núi Washington, tôi liền nhận ra ngay ngôi nhà kiến trúc đồ sộ đă từng xuất hiện trong vô số những cơn linh ảnh của tôi.

Sau khi đă trải qua vài tuần lễ nghĩ hè ở tỉnh Kashmir, tôi phải trở về tỉnh Bengale nhân dịp tựu trường ở Serampore College. Sư Phụ c̣n ở lại Srinagar với Kanai và Auddy. Trước khi tôi lên đường, Sư Phụ nói cho tôi biết người sẽ bịđau nặng ở Kashmir. Tôi nói:

-Nhưng Sư Phụ đang dồi dào sức khỏe kia mà.

-Thậm chí, có lẽ Thầy cũng phải từ giă cơi trần.

-Ô, Sư Phụ!

Tôi vừa nói vừa thụp xuống chân người:

-Sư Phụ hăy hứa với con là không rời bỏ thể xác trong lúc này. Con sẽ không thể được nếu không có Sư Phụ.

Sri Yukteswar giữ im lặng nhưng nụ cười đầy vẻ từ ái của người làm tôi yên ḷng. Tôi bèn từ giă người một cách luyến tiếc.

Vài ngày sau khi tôi trở về đạo viện Serampore, tôi nhận được bức điện tín của Auddy, “Sư Phụ đau nặng.”

Tôi gửi một điện tín cho Sri Yukteswar, “Sư Phụ đă hứa không từ bỏ con. Sư Phụ đừng rời bỏ thể xác, nếu không con sẽ chết theo.”

Từ Kashmir, Sư Phụ gửi điện tín trả lời, “Sẽ y như điều con mong ước.”

Vài ngày sau đó, tôi nhận được thư của Auddy cho biết rằng Sư Phụ đă b́nh phục. Nửa tháng sau, khi Sư Phụ và các đệ tử đă về tới Serampore, tôi lấy làm buồn mà nhận thấy rằng Sư Phụ đă sụt cân rất nhiều.

Sri Yukteswar bịđau nặng để cứu chuộc những tội lỗi của các đệ tử! Phương pháp chuyển di bệnh tật là một điều mà các nhà đạo sĩ cao tay vẫn biết rơ. Một người khỏe mạnh có thể giúp đỡ một người yếu đuối bằng cách mang theo một đồ vật nặng thế cho y; cũng giống như thế, một bậc siêu nhân có tŕnh độ tiến hóa cao có thể làm nhẹ bớt gánh nặng thể chất hoặc tinh thần của các đệ tử bằng cách tự ḿnh gánh chịu lấy cái nghiệp quả của họ. Cũng như một người giàu chịu mất một ít tiền để trả nợ cho con cái y để cứu họ thoát khỏi hậu quả của những việc làm bất chánh, một vị tôn sư hy sinh một phần sức khỏe thể chất của ḿnh để làm nhẹ bớt những nỗi đau khổ bệnh tật của các đệ tử.

Người đạo sĩ Yogi biết cái bí thuật giao cảm trên cơi giới vô h́nh với một người b́nh thường, bởi thế bệnh của người này được truyền một phần hoặc tất cả sang thể xác của người Yogi. Một vị tôn sư đă đạt tới hợp nhất tâm linh với Chân Như Đại Thể của Vũ Trụ không c̣n bận tâm đến việc ǵ xảy ra cho cái thể xác bằng xương bằng thịt của ḿnh. Tuy rằng vịấy t́nh nguyện cho xác thân ḿnh nhuốm bệnh để giúp đỡ kẻ khác, tinh thần của người vẫn c̣n nguyên vẹn và không hề thương tổn, người lấy làm sung sướng mà có thể làm nhẹ bới nỗi khổ của kẻ khác.

Người tu sĩ đạt tới sự giải thoát tâm linh, biết rằng thể xác của ḿnh đă hoàn tất cái vai tṛ của nó; từ nay người có thể sử dụng nó bằng cách nào tùy ư. Sứ mạng của người ở trên thế gian là làm nhẹ bớt những nỗi khổ đau của nhân loại bằng mọi phương diện tâm linh, vật chất hay trí huệ; giúp đỡ bằng lời khuyên sáng suốt tốt lành, sức mạnh của ư chí, hay bằng việc chuyển di bệnh tật của người khác sang cho ḿnh. Một vị tôn sư đă hoạt động tự do trên cơi siên thức có thể tự làm cho ḿnh không c̣n biết cảm xúc những sự đau đớn của xác thân. Đôi khi người cũng t́nh nguyện chịu đựng sự đau đớn thể xác một cách can đảm để làm gương cho các đệ tử. Người Yogi hứng chịu sự đau khổ của kẻ khác về phần ḿnh, tức là thanh toán giùm cho họ những oan nghiệt nợ nần mà họ phải chịu theo định luật nhân quả: định luật này vốn hành động một cách máy móc theo phép số học và có thể được điều chỉnh một cách khoa học bởi v́ các bậc siêu nhân đă nếm mùi giải thoát.

Những định luật siêu nhiên không bắt buộc một vị tôn sư phải bịđau nặng nề để chữa khỏi bệnh cho người khác. Sự khỏi bệnh thường xảy ra bởi v́ vị tôn sư biết rơ các phương pháp chữa bệnh một cách nhiệm mầu mà không làm tổn đến sức khỏe của ḿnh. Tuy nhiên trong vài trường hợp rất hiếm, vị tôn sư v́ muốn thúc đẩy mau chóng sự tiến hóa tâm linh của các đệ tử, có thể t́nh nguyện hứng chịu lấy một phần nghiệp quả xấu của họ trên bản thân ḿnh.

Chính bằng cách đó mà đức Giê-Su đă t́nh nguyện cứu chuộc tội lỗi thế gian. Thánh thể của Chúa đáng lẽ không bao giờ có thể bị tử nạn trên thập tự giá nếu Ngài không có t́nh nguyện hợp tác với những định luật huyền bí về nhân quả trong vũ trụ. Ngài đảm nhiệm lấy cái khối nghiệp quả chung của toàn thể nhân loại và đặc biệt nhất là của các vị thánh tông đồ, đệ tử của Ngài, nhờ đó các vị này mới được tinh luyện và trở nên xứng đáng nhận lănh sự giác ngộ tâm linh siêu đẳng.

Chỉ có những bậc tôn sư đă giác ngộ mới có thể thực hiện sự chuyển di tôn sinh lực của ḿnh cho kẻ khác, hoặc hứng chịu lấy bệnh tật của kẻ khác trên xác thân ḿnh. Bí thuật chữa bệnh bằng phương pháp Yoga này thật là ngoài ṿng khả năng của kẻ thế nhân phàm tục, đối với họ nó lại là một điều không nên khuyến khích, bởi v́ một thể xác đau ốm bệnh tật là một chướng ngại cho sự công phu tưởng luyện. Các Thánh Kinh Ấn Độ đều nói rằng bổn phận đầu tiên của con người là giữ cho thể xác được mạnh khỏe, nếu không, tinh thần sẽ không thể bước vào trạng thái thiền định thâm sâu.

Tuy nhiên, một tinh thần dũng mănh có thể bất chấp những chướng ngại của thể chất để thực hiện sự giác ngộ tâm linh. Nhiều vị Thánh đă đạt tới mục đích đó mà khinh thường bệnh tật của thể xác. Thánh Francoise d’Assise trong một t́nh trạng ốm đau tuyệt vọng, đă thực hiện những cuộc chữa bệnh rất nhiệm mầu và thậm chí đă cải tử hồi sinh cho một người.

Tôi được biết một vị tưởng sĩ Ấn Độ bị chứng ung nhọt lở loét khắp cả nửa thân ḿnh, cùng với bệnh đái đường rất nặng đến nỗi xét về những trường hợp thông thường th́ vịấy không thể nào ngồi được hơn một khắc đồng hồ, nhưng tinh thần của người thật tinh tiến dũng mănh phi thường. Bằng một ư chí mănh liệt tưởng sĩ có thể ngồi thiền trong tư thế liên hoa suốt mười tám giờ mỗi ngày không gián đoạn trong trạng thái xuất thần nhập định. Về sau vị ấy thuật cho tôi nghe rằng:

Sau ba năm thiền định công phu, Ánh Sáng thiêng liêng tràn ngập vào thể xác bịnh tật của tôi mà trong cơn xuất thần say sưa mùi Đạo, tôi quên hẳn không c̣n cảm giác được nó nữa. Về sau, do ân phước thiêng liêng, cái thể xác của tôi đă hoàn toàn khỏi hết các bệnh tật.

Một trường hợp lịch sử về việc chữa khỏi bịnh một cách nhiệm mầu là của vua Baber (1983-1530), nhà sáng lập nên đế quốc Mogul ở Ấn Độ. Khi thái tử Humayun vướng phải một chứng bệnh hiểm nghèo thập tử nhất sinh, nhà vua trong cơn lo sợ bèn cầu nguyện Thiêng Liêng hăy để cho người nhuốm bệnh thay cho thái tử. Khi các vị y sĩ đă tuyệt vọng, thái tử Humayun đột nhiên b́nh phục một cách bất ngờ, nhưng Baber hoàng đế lại bịđau nặng và băng hà v́ một chứng bệnh giống như của thái tử. Về sau, thái tử nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế xứ Ấn Độ.

Nhiều người tưởng rằng một vị tôn sư chắc là phải có một sức khỏe phi thường như Hercules. Điều đó hoàn toàn không đúng. Một thể xác đau yếu không phải là một dấu hiệu chỉ rằng vị tôn sư không thể đắc Đạo, cũng như một sức khỏe tát biển dời non không phải là triệu chứng của sự giác ngộ tâm linh. Nói cách khác, sức khỏe của thể xác không phải là cái tiêu chuẩn để xét đoán sự giác ngộ thiêng liêng, người ta phải xét đoán một vị tôn sư ở ngay trên lănh vực tâm linh mà thôi.

Nhiều học giả Tây Phương tưởng lầm rằng một vị tôn sư là người giảng thuyết các vấn đề đạo lư, siêu h́nh bằng lời nói hay bằng sách vở. Trái lại, các bậc hiền triết đă nói rằng một vị tôn sư phải có thể đạt tới các trạng thái siêu thức tùy ư muốn, và ở trong trạng thái đại định một cách thường xuyên không gián đoạn. Chỉ có một băn lĩnh như thế mới có thể chứng tỏ rằng người hành giả đă chế ngự được mọi điều vô minh ảo vọng của trần gian.

Chỉ có những bậc Tôn Sư siêu thoát mới có thể đảm trách việc gánh chịu lấy nghiệp quả của các đệ tử. Sri Yukteswar chỉ bịđau nặng ở Kashmir sau khi đă được các đấng thiêng liêng cho phép giúp đỡ những đệ tử bằng các phương pháp lạ lùng đó. Ít có vị thánh nhân nào có đầy đủ minh triết như Sư Phụ tôi v́ người đă được tới sự ḥa hợp với Chân Như Đại Thể của vũ trụ.

Khi tôi tỏ ḷng ưu ái về sự gầy ốm và sụt cân của người, th́ Sư Phụ vui vẻ trả lời:

Trong cái họa ắt có cái phúc! Bây giờ nhờ gầy bớt Thầy đă có thể mặc cái áo lót của ḿnh hơi chật mà Thầy đă bỏ không mặc đến từ nhiều năm nay!

Tiếng cười vang với một âm thanh trong trẻo của Sư Phụ làm cho tôi nhớ lại lời nói của St. Francois d’Assise: “Một ông thánh buồn rầu là một ông thánh đáng thương hại.”

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 217 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:41pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MỘT CUỘC HOÁN CẢI LẠ LÙNG

Chương Mười Bảy

 


-Với tư cách một người vợ hiền Ấn Độ, chị không phiền trách chồng chị, nhưng chị mong ước làm sao y từ bỏ những quan điểm duy vật của y. Y thường chế diễu những h́nh ảnh treo trong pḥng tham thiền của chị! Em hỡi, chị tin tưởng chắc chắn rằng em có thể giúp chị.

Roma, chị cả tôi, nh́n tôi với cặp mắt van lơn. Tôi đến viếng chị tôi trong giây lát tại nhà chịở Calcutta. Lời yêu cầu của chị làm tôi cảm động v́ chị tôi từ thuở nhỏ vẫn gây cho tôi một ảnh hưởng tâm linh rất lớn và từ khi mẹ tôi mất, chịđă cố gắng điền khuyết sự trống trải đó trong gia đ́nh bằng t́nh thương của chịđối với chúng tôi.

-Thưa chị, lẽ tự nhiên em sẽ cố gắng hết sức để giúp chị.

Tôi mỉm cười để t́m cách dẹp tan sự buồn rầu hiện trên gương mặt chị, trái hẳn với nét mặt b́nh thản và vui tươi hàng ngày.

Một năm trước đây, chị tôi đă yêu cầu tôi chỉ dẫn pháp môn thiền định và chị đă thực hiện những tiến bộ đáng kể trên con đường đó.

Bỗng nhiên tôi có ư kiến:

-Ngày mai tôi sẽ đi viếng thăm ngôi đền thờ đức Phật Mẫu Quan Âm ở Dakshineswar. Chị hăy cùng đi và cố gắng thuyết phục chồng chị cùng đi với chúng ta. Tôi cảm thấy rằng tại nơi đền miếu trang nghiêm đó, đức Phật Mẫu sẽ cảm động được ḷng y, nhưng chị đừng bao giờ hoàn y biết lư do hành hương này.

Chị tôi nhận lời với tấm ḷng tràn đầy hy vọng. Sáng ngày hôm sau, tôi sung sướng mà tháy chị và anh rễ tôi sẵn sàng lên đường. Trong khi chiếc xe ngựa của chúng tôi dong ruỗi trên đường lộ trực chỉ Dakshineswar, anh rễ tôi Satish Chandra Bóe buông lời diễu cợt những vị Chân Sư của quá khứ, hiện tại và vị lai. Tôi nhận thấy Roma khóc thầm trong im lặng. Tôi an ủi chị:

-Chị hăy can đảm lên. Đừng cho y có sự thỏa măn mà thấy chúng ta bực tức những lời nói chế nhạo của y.

Satish nói mỉa mai: -Mukunda, làm sao cậu có thể bị hấp dẫn bởi những kẻ bịp đời giả mạo đó? Chỉ nội một cái h́nh dáng của người tu sĩ cũng làm cho ta dội ngược; có người gầy đét như bộ xương, có người lại to béo như một con voi!

Tôi bất giác bật cười vang lên, sự phản ứng này làm cho Satish cụt hứng, y trở nên im lặng trầm ngâm. Khi cổ xe vừa tới Dakshineswar, y bèn đùa cợt và nói với giọng châm biếm:

-Có phải chăng cuộc đi chơi này có dụng ư để thuyết phục tôi?

Tôi không nói ǵ nhưng y lại nắm lấy tay tôi:

-Này ông tu sĩ, ông đừng quên thương lượng trước với nhà chùa về bữa cơm trưa nay của chúng ta!

-Bây giờ tôi phải tham thiền. Anh đừng lo lắng về bữa cơm trưa. Đức Phật Mẫu sẽ đảm nhiệm việc đó.

-Tôi không cần biết đức Phật Mẫu là ai! Nhưng cậu phải chịu trách nhiệm về bữa cơm trưa của tôi!

Giọng nói của Satish có vẻ như một sự hăm dọa. Tôi đi một ḿnh về phía hành lang có nhiều cột của ngôi đền thờ đức Quan Thế Âm. Tôi chọn một góc có bóng mát gần một cây cột và ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa. Tuy lúc ấy mới khoảng bảy giờ sáng nhưng ánh nắng mặt trời có vẻ sắp sửa nóng gắt. Quên hẳn sự vật ngoại cảnh, tôi sửa soạn ngồi thiền. Tâm trí tôi tập trung vào đức Phật Mẫu Quan Thế Âm mà vị tu sĩ Ramakrishna trước đây đă từng chiêm ngưỡng một cách nhiệt thành tại Dakshineswar. Đáp ứng những lời kêu gọi khẩn thiết của tu sĩ, pho tượng đức Phật Mẫu đă cử động và đă nói chuyện với tu sĩ ở chính ngôi đền này.

Tôi cầu nguyện, “Hỡi đức Phật Mẫu Quan Thế Âm từ bi vô lượng, hằng im lặng trong pho tượng bằng đá, ngài đă cử động, sinh hoạt trước sụ khẩn cầu của đức Ramakrishna, xin ngài cũng chiếu cố đến lời cầu xin khẩn thiết của con hằng khao khát được chiêm ngưỡng sự có mặt của ngài.”

Sự nhiệt thành của tôi mỗi lúc càng tăng, kèm theo với một sự bằng an thiêng liêng trong tâm hồn. Tuy nhiên, năm tiếng đồng hồ đă trôi qua, đức Phật Mẫu mà tôi ghi khắc h́nh dáng trong tư tưởng vẫn không đáp ứng; tôi cảm thấy hơi thất vọng. Đôi khi Thiêng Liêng cũng thử thách người hành giả bằng cách chậm ứng đáp lời cầu nguyện của y. Nhưng Ngài thường xuất hiện trước mắt người tu sĩ kiên tâm bền chí dưới một h́nh thức mà y thường chiêm bái. Người Gia Tô có khi nh́n thấy Phật Thích Ca hoặc đức Quán Âm, người Phật Giáo nh́n thấy đức Giê Su, hoặc thấy một vầng hào quang từ từ nới rộng, nếu sự chiêm bái của y khoác lấy một h́nh thức trừu tượng.

Tôi mở đôi mắt một cách luyến tiếc và thấy một vị tăng lữ bước tới đóng cửa đền vào giờ trưa như thường lệ. Tôi bèn đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi và bước ra sân. Mặt trời giữa trưa rọi thẳng xuống nền gạch như thiêu đốt làm cho hai bàn chân của tôi rất đau đớn như bị phỏng. Tôi vừa đứng giữa sân day mặt vào chánh điện vừa cầu nguyện một lần cuối cùng, "Ôi, Phật Mẫu, ngài đă không xuất hiện trong linh ảnh trước nhăn quang của con và bây giờ th́ ngài đă khuất dạng trong đền thờ, phía sau những cánh cửa đă đóng. Hôm nay con đặc biệt cầu xin Phật Mẫu độ cho anh rễ con.”

Lời cầu nguyện đó tức khắc được đáp ứng. Trước hết một luồng từ điển mát rượi, tốt lành từ trên đi xuống dọc theo xương sống sau lưng tôi, xuống dưới tận hai bàn chân và đem cho tôi một cảm giác khoan khoái dễ chịu vô cùng. Kế đó tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy ngôi đền dường như từ từ nới rộng đến những kích thước khổng lồ không thể tưởng tượng! Những cánh cửa vĩ đại từ từ mở rộng để lộ pho tượng đá của đức Phật Mẫu, lúc đầu c̣n đứng yên, sau đó ngài từ từ cử động và nở một nụ cười tiếp đón làm cho tôi say sưa ngây ngất. Hơi thở toát ra từ hai buồng phổi của tôi dường như bị thương hút bởi một thứ đá nam châm khổng lồ. Toàn thân tôi vẫn yên tịnh nhưng không phải là bất động.

Tâm thức tôi đắm ch́m trong cơn đại định, đă nới rộng một cách kinh khủng; tầm nhăn quang của tôi phóng ra xa đến mấy dặm đường cho thấy sông Hằng ở bên tay trái, phía bên mặt là khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswar. Những vách tường của ngôi đền đều trong suốt, xuyên qua đó tôi nh́n thấy ở đằng xa những người nông dân đang cầy bừa trên những đồng ruộng diễn ra tận chân trời. Tuy tôi không mất hơi thở và toàn thân tôi đắm ch́m trong một sự yên tĩnh lạ lùng nhưng tôi vẫn có thể cử động tay chân. Trong nhiều phút tôi chỉ mở mắt và nhắm mắt, trong cả hai trường hợp tôi đều nh́nh thấy rơ ràng khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswar. Cũng như quang tuyến X, nhăn quang tâm linh soi thấu mọi vật v́ con mắt thần thông đặt trung tâm ở khắp chốn nhưng không đặt chu vi ở đâu cả. Tôi lại hiểu thêm một lần nữa, trong sân đền nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng gắt của mặt trời, rằng chỉ khi nào con người không c̣n say mê vật chất, đắm ch́m trong cơn mơ ảo vọng của cuộc đời thế gian, chừng đó y mới co được sự sống trường cửu muôn đời.

Trong cái linh ảnh của tôi tại Dakshineswar, những vật duy nhất được phóng đại lạ thường là ngôi đền và pho tượng đức Phật Mẫu, kỳ dư đều hiện ra dưới h́nh dáng b́nh thường, tuy rằng bao bọc trong một ánh hào quang lạ lùng, với đủ tất cả các màu sắc rực rỡ của chiếc cầu vồng. Thể xác tôi dường như mỏng như sương và sẵn sàng bay bổng! Hoàn toàn ư thức được cảnh vật ở chung quanh, tôi nh́n chung quanh tôi và thậm chí bước đi vài bước mà không làm gián đoạn giây phút huyền diệu đó. Bên ngoài các bức tường của ngôi đền th́nh ĺnh tôi thấy anh rể tôi ngồi dưới bóng mát của một cây đại thọ. Tôi theo dơi một cách dễ dàng gịng tư tưởng của y: bầu không khí thiêng liêng của ngôi đền làm cho y có đôi chút giảm bớt những ư nghĩ trần tục nhưng y lại có ư nghĩa oán trách tôi. Tôi bèn quay lại pho tượng khổng lồ của đức Quán Thế Âm:

-Bạch Phật Mẫu! Xin Ngài hăy cứu độ tâm linh cho anh rể con!

Pho tượng từ trước vẫn câm lặng bèn thốt ra những lời này, “Lời cầu nguyện của con đă được đáp ứng.”

Tôi sung sướng nh́n Satish. Dường như một giọng nói bí mật nào đă cho y biết rằng y đang chịu ảnh hưởng của một quyền năng thiêng liêng, y bèn đứng dậy và đi tới ngôi đền. Hầm hầm nét mặt, y đến gần tôi với hai bàn tay nắm chặt.

Cái linh ảnh thiêng liêng liền biến mất. Tôi không c̣n nh́n thấy đức Phật Mẫu: ngôi đền lúc năy vấn toàn lớn vĩ đại, nay đă trở lại b́nh thường và không c̣n trong suốt nữa. Một lần nữa thân thể tôi lại quằn quại dưới những tia nắng gắt của mặt trời. Tôi lao ḿnh vào bóng mát của dăy hành lang nhiều cột. Satish bèn giận dữ đuổi theo tôi. Tôi nh́n đồng hồ, lúc ấy vừa đúng một giờ trưa! Cái linh ảnh thiêng liêng đă kéo dài đúng sáu mươi phút.

-Thằng ngốc! Anh rể tôi la lên. Thế là mày vẫn ngồi khoanh tay khoanh chân ở một chỗ suốt sáu tiếng đồng hồ không nhúc nhích! Tao bắt gặp mày tại trận đó nhé! Bữa cơm trưa của tao đâu? Bây giờ đền đă đóng cửa, mày đă không dặn trước cho họ nấu cơm, thế là chúng ta phải ngồi trơ mơm ra đây phải không?

Sự xuất hiện của Đức Quan Thế Âm trong linh ảnh của tôi lúc này hăy con làm cho tôi say sưa ngây ngất. Tôi bèn đáp:

-Đức Phật Mẫu sẽ cho chúng ta ăn no.

Satish nổi cơn thịnh nộ đến cực điểm:

-Đây là lần chót, tao muốn xem thấy đức Phật Mẫu dọn cơm cho chúng ta ăn mà không cần có sự thỏa thuận của nhà chùa.

Y vừa nói dứt lời th́ một vị tăng lữ đi ngang qua sân đền và đến gần chúng tôi:

-Con hỡi, ta đă nh́n thấy ánh hào quang hiện trên gương mặt con trong những giờ tham thiền vừa rồi. Sáng nay, khi các con vừa đến, ta cảm thấy cần để phần cơm dành cho bữa trưa của các con. Thật là trái luật lệ nhà chùa mà mời khách dùng bữa khi họ không dặn trước, tuy vậy ta cũng vui ḷng dành một ngoại lệ cho các con.

Tôi cảm ơn vị tăng lữ và nh́n Satish thẳng vào đôi mắt y. Sự cảm xúc làm cho y đỏ mặt và cúi đầu. Khi một bữa ăn thịnh soạn được dọn ra cho chúng tôi, thậm chí có cả xoài ngon và trái mùa, tôi nhận thấy ông anh rể tôi chỉăn lấy lệ nhưng tâm hồn y vơ vẩn ở đâu đâu. Y có vẻ đắm ch́m trong cơn suy tư thâm trầm. Trong chuyến trở về Calcutta, Satish ḷng đă lắng dịu, nh́n tôi như có ư xin lỗi. Nhưng y vẫn lẳng lặng không nói ǵ kể từ khi vị tăng lữ mời chúng tôi dùng cơm trưa, việc này có cái tác dụng như một phép mầu nó đảo lộn tất cả những ư nghĩ duy vật của y.

Ngày hôm sau, tôi đến thăm chị tôi. Chịđón tiếp tôi một cách nồng nhiệt và nói:

- Này em, thật là một phép lạ! Tối hôm qua, Satish đă khóc trên đầu gối của chị. Y vừa khóc vừa nói: “Em yêu quí, anh thật là sung sướng vô bờ bến mà thấy rằng Mukunda đă thành công trong ư định muốn hoán cải anh. Anh sẽ sửa chữa lại tất cả những điều lầm lỗi của anh đối với em. Kể từ nay, buồng ngủ của chúng ta sẽ dành riêng cho sự cầu nguyện mà thôi, c̣n em sẽ ngủ trong pḥng tham thiền nhỏ của em. Anh cảm thấy vô cùng hối tiếc mà đă diễu cợt Mukunda. Anh sẽ cứu chuộc lại tội lỗi bằng cách sẽ giữ im lặng đối với Mukunda cho đến khi nào anh đă tiến bộ khá nhiều trên đường Đạo. Kể từ ngày nay, anh sẽ tôn thờ đức Phật  Mẫu Quan Thế Âm và hy vọng một ngày kia sẽ được đức Phật Mẫu ban phước lành!”

Nhiều năm sau, tôi đến viếng anh rể tôi ở Delhi. Tôi lấy làm vô cùng vui sướng mà thấy y đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh khá cao, và đức Phật Mẫu đă hạ cố mà xuất hiện trong những linh ảnh của y. Trong những ngày tôi tạm trú tại nhà y, tôi nhận thấy Satish dùng phần lớn thời giờ mỗi đêm để tham thiền trong ṿng bí mật, dẫu trong những khi đau ốm và ban ngày c̣n phải làm việc tại văn pḥng.

Đó là câu chuyện lạ lùng của anh rể tôi, từ một người duy vật đă trở thành vị tu sĩ thánh thiện.

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 218 of 2534: Đă gửi: 04 June 2008 lúc 1:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI TRỞ THÀNH TU SĨ XUẤT GIA

Chương Mười Tám

 

Kỳ thi Cử Nhân Văn Khoa của trường đại học Calcutta đă đến. Tôi không phải là một học tṛ chăm học, rất ít khi đi đến trường và chỉ học bài một cách hối hả, gấp rút vào giờ chót, vài ngày trước khi đi thi. Tuy vậy, do một sự may mắn lạ thường, tôi được ưu điểm về môn triết học và có đủ số điểm trung b́nh về các môn học khác.

Cha tôi không c̣n nỗi vui mừng nào lớn hơn khi nghe tin tôi thi đậu. Người nói:

-Thật cha không dám hy vọng rằng con sẽ thi đậu, Mukunda, con dành quá nhiều thời giờ gần bên Sư Phụ con ở đạo viện!

Trong nhiều năm, tôi không hề dám ước mong có ngày danh hiệu “Cử Nhân Văn Khoa” sẽ đi kèm đàng sau tên tôi. Tôi ít khi dùng danh hiệu ấy mà không nghĩ rằng đó là một ân huệ thiêng liêng ban cho tôi v́ một lư do bí ẩn nào đó mà tôi không được biết rơ.

Bạch Sư Phụ, cha con muốn con nhận một chức vụ trong Công ty Hỏa xa Bengal-Nagpur Railway nhưng con đă quyết liệt từ chối, tôi thưa với Sri Yukteswar một ngày nọ và tôi nói thêm một cách tuyệt vọng. Xin Sư Phụ hăy cho con làm lễ xuất gia.

Tôi nh́n Sư Phụ bằng cặp mắt van xin một cách khẩn thiết. Trong nhiều năm, Sư Phụ đă từ chối lời yêu cầu của tôi để đặt tôi trong một cuộc thử ḷng, nhưng lần này người vui vẻ nhận lời:

-Được rồi. Ngày mai Thầy sẽ làm lễ xuất gia cho con. Thầy rất vui mà thấy con vẫn kiên quyết mong muốn trở thành một tu sĩ. Đức Lahiri Mahasay vẫn thường nói: “Nếu ta không mời Thượng Đế vào nhà trong thời kỳ c̣n xuân xanh th́ Ngài sẽ không đến với ta vào lúc mùa đông của cuộc đời.”

-Bạch Sư Phụ, con không bao giờ quên mục đích ấy, là được xuất gia theo ḍng tưởng sĩ Sưami như Sư Phụ vậy.

Tôi mỉm cười nh́n Sư Phụ với tất cả tấm ḷng quí mến và nhớ đến một câu trong thánh kinh, “Người không lập gia đ́nh th́ lo việc Đạo và t́m cách làm vui ḷng Thượng Đế, c̣n người lập gia đ́nh th́ lo việc đời và t́m cách làm vui ḷng vợ nhà.” (Corinthiens, 1.7:32-33)

Tôi đă quan sát cuộc đời của nhiều bạn hữu đă từng lập gia đ́nh sau khi muốn theo đuổi một đời sống tâm linh. Đắm ch́m trong biển trần gian tục lụy với những nỗi lo âu vô bờ bến, họ đă quên hẳn chí nguyện công phu hành Đạo, tham thiền.

Ngày hôm sau là một trong những ngày đáng ghi nhớ nhất của đời tôi. Đó là một ngày hè sáng sủa đẹp trời vào tháng bảy năm 1914, vài tuần sau khi tôi nhận cấp bằng Cử nhan Văn Khoa. Trên bao lơn đjao viện ở Serampore, áo Sư Phụ nhuộm màu vàng sậm, tức màu áo cổ truyền của giới tưởng sĩ, một mảnh lụa trắng mới nguyên. Khi mảnh lụa đă khô ráo, Sư Phụ quấn nó trên ḿnh tôi để mặc vào cho tôi như biểu tượng của sụe dứt bỏ cuộc đời trần gian. Sư Phụ giải thích:

-Một ngày kia, con sẽ sang các nước Âu Mỹ, ở nơi đó người ta thích lụa hơn. Với ư nghĩa tượng trưng, Thầy chọn cho con manh áo lụa thay v́ manh áo vải theo truyền thống của các ḍng tu sĩ.

Bên Ấn Độ là nơi mà các tu sĩ đều lập nguyện thanh bần, một vị tu sĩ mặc ấo lụa là một cảnh tượng ít có. Tuy nhiên nhiều tu sĩ Yogi cũng mặc áo lụa v́ nó ǵn giữ những gịng từ điển của thể xác hơn là áo vải.

Trong dịp làm lễ cho một người trở thành một tu sĩ xuất gia, có nhiều lễ nghi phiền phức nhưng Sri Yukteswar vốn chủ trương giản dị tối đa trong mọi việc, đă miễn tất cả những nghi lễ đó và chỉ yêu cầu tôi chọn lấy một pháp danh. Người mỉm cười và nói:

-Thầy cho con cái đặc quyền tự ḿnh chọn lấy một pháp danh.

Sau một lúc suy nghĩ, tôi đáp:

-Pháp danh của con là Yogananda.

Danh hiệu này có nghĩa là “Phúc lạc (Ananda) sở đắc được nhờ bởi Hợp Nhất với Thiêng Liêng.”

-Được lắm! Kể từ nay con sẽ từ bở tên Mukunda Lal Ghosh và sẽ lấy pháp danh Yogananda thuộc ḍng tu sĩ Swami.

Tôi quỳ trước mặt Sư Phụ và khi tôi nghe Sư Phụ xướng pháp danh mới của tôi lần đầu tiên, ḷng tôi tràn ngập một nỗi niềm biết ơn sâu xa đối với người. Với một t́nh thương bao la, Sư Phụ đă cố gắng huấn luyện không ngừng để đào tạo chàng thanh niên Mukunda trở nên tu sĩ Yogananda.

Người tu sĩ Sưami thuộc về một ḍng tu cổ xưa do đức giáo chủ Shankara thành lập. Ḍng tu này đă trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ do một truyền thống liên tjuc gồm có các vị Tăng thống đạo hạnh cao thâm để duy tŕ sự nghiệp tâm linh của vị thủy tổ Shankara. Ḍng tu sĩ Swami chủ trương lập nguyện thanh bần, khiết bạch và vâng lời.

Cái lư tưởng phụng sự nhân loại, dứt bỏ mọi điều tham vọng và ái dục trói buộc cuộc đời với thế gian làm cho phần nhiều các tu sĩ Swami đảm trách lấy một công tŕnh cứu tế hay giáo dục ở Ấn Độ và đôi khi cũng ở ngoại quốc. Gjat bỏ tất cả mọi thành kiến về giai cấp, tôn giáo, màu da, nam mữ hay chủng tộc, một tu sĩ Swami hoàn toàn thấm nhuần lư tưởng bác ái đại đồng trong nhân loại. Người nêu cao một mục đích: đó là sự hoàn toàn hỗn hợp với Tinh Thần. Dù trong lúc tỉnh giấc hay khi ngủ mê, tâm thức của người tu sĩ luôn luôn thấm nhuần tư tưởng: “Ta là Chân Ngă, hay Chân Như Phật Tánh,” bởi đó vị tu sĩ Swami tuy thân c̣n ở nơi trần thế nhưng ḷng đă thoát tục và không c̣n vướng bận chuyện trần gian. Chỉ khi đó người mới xứng đáng với danh hiệu của người, v́ danh từ Phạn Ngữ Swami có nghĩa là: người đang t́m cách hợp nhất với Đại Ngă hay Chân Như Phật Tánh. Lẽ tự nhiên cũng cần nói thêm rằng không phải tất cả cát tu sĩ Swami đều đă đạt tới cái lư tưởng tối cao đó một cách đồng đều nhau.

Sri Yukteswar vừa là một tu sĩ Swami lại vừa là một người Yogi. Người tu sĩ Swami xuất gia theo ḍng tu truyền thống của đức giáo chủ Shankara, không hẳn phải là một người Yogi. Người Yogi là người tu luyện theo một pháp môn nhất định dắt dẫn tới sự ngộ Đạo hay giao cảm với Thiêng Liêng; y có thể la người độc thân hay có gia đ́nh, tu tại gia hay xuất gia. Người tu sĩ Swami noi theo con đường luận thuyết triết lư và từ bỏ thế gian: c̣n người Yogi thực hành một pháp môn được qui định một cách chặt chẽ nhằm mục đích chủ trị thể xác lẫn tinh thần và đưa linh hồn đến mục đích giải thoát. Ở mỗi thế kỷ pháp môn Yoga đă từng đem đến cho Ấn Độ những bậc siêu nhân đă đắc đạo giải thoát.

Trái hẳn với người thuwofng, một người Yogi chân chính có thể sống ngoài thế gian mà vẫn trung thành với lư tưởng tối cao của ḿnh. Thật là một điều cao quí mà làm tṛn những bổn phận thế gian, đồng thời chủ trị những dục vọng ích kỷ thấp hèn để nhằm mục đích trở nên một khí cụ hoạt động có ư thức và thuận theo Thiên Ư.

-Những ngày cuối cùng của Ananta sắp đến, y sẽ không c̣n sống được bao lâu nữa!

Những lời nói nầy vang dội trong trí tôi một buổi sáng, khi tôi đang đắm ch́m trong cơn thiền định. Ít lâu sau khi tôi xuất gia theo ḍng tu sĩ Swami, tôi trở về quê quán ở Gorakhpurr để thăm nhà và tạm trú tậ nha của anh tôi. Một cơn bệnh bất ngờ làm cho anh tôi phải nằm liệt giường, tôi săn sóc anh tôi hết ḷng.

Lời báo điềm gở kể trên làm cho tôi rất buồn. Tôi cảm thấy không thể ở nán lại Gorakhpur để chứng kiến một cách bât lực cơn hấp hối của anh tôi. Trước lời xét doán gay gắt của cha tôi, tôi rời khỏi Ấn Độ bằng chuyến tàu đầu tiên khởi hành sang Miến Điện rồi vượt biển Trung Hoa để sang Nhật Bản. Tôi bước chân lên hải cảng Kobé và lưu trú tại đây vài ngày. Trong ḷng buồn bực, tôi không cảm thấy có hứng thú để đi ngoạn cảnh.

Trên đường về Ấn Độ, tàu ghé bến Thượng Hải. Bác sĩ Misra, y sĩ trên tàu, đưa tôi đi dạo phố ngắm cảnh. Tôi có dịp viếng những cửa tiệm để mua ít quà lạ đem về biếu thân nhân và bạn bè. Tôi mua mônt món quà bổn xứ cho Ananta. Người chủ tiệm Trung Hoa vừa đưa cho tôi món quà mới mua, tôi liền đánh rơi xuống đất và nghẹn ngào kêu lên:

-Anh tôi đă mất rồi!

Bác sĩ Misra nh́n tôi với một nụ cười hoài nghi:

-Đại đức chớ vội bi quan, để chờ xem có tin ǵ không đă.

Khi tàu cặp bến Calcutta, tôi cùng lên bờ với bác sĩ Misra. Em út tôi, Bisnu, đă đợi tôi trên bến. Tôi liền nói trước:

-Anh biết rằng Ananta đă từ trần. Em hăy nói trước mặt bác sĩ đây cho biết xem anh mất vào ngày nào.

Bishnu liền nói đúng ngày mà tôi mua món quà biếu cho Ananta ở Thượng Hải. Bác sĩ Misra liền nói:

-Lạ thật! Nhưng chúng ta không nên loan tin nầy, kẻo các giáo sư lại thêm một năm học thần giao cách cảm vào chương tŕnh ban Y Khoa vốn dĩ đă nặng nhọc lắm rồi!

Khi tôi về đến nhà, cha tôi ôm chầm lấy tôi một cách nồng nhiệt khác thường:

-Con đă về!

Cha tôi nói một cách thân ái. Hai gịng lệ chảy xuống hai bên g̣ má cha tôi. B́nh nhật không hề biểu lộ t́nh cảm ra ngoài, người chưa bao giờ tỏ ra với tôi những cử chỉ yêu mến như thế. Tuy nhiên bề ngoài có vẻ nghiêm nghị, người có bên trong một quả tim ưu ái của một người mẹ. Trong gia đ́nh, người đóng một vai tṛ song đôi của bậc phụ mẫu.

Ít lâu sau khi Ananta từ trần, Nalini, em gái tôi, được cứu thoát khỏi nanh vuốt của Tử Thần v́ em được chữa khỏi bệnh một cách nhiệm mầu. Trước khi kể lại chuyện này, tôi xin nói vài lời về cuộc đời của em gái tôi.

Từ thuở nhỏ, tôi và em gái tôi vẫn không thuận nhau. Tôi là một thiếu nhi rất gầy ốm, nhưng Nalini th́ lại c̣n gầy hơn nữa! Do bởi một thứ “mặc cảm” vô ư thức nào đó mà những nhà phân tâm học có lẽ nhận biết được dễ dàng, tôi thường hay trêu ghẹo em tôi về h́nh htù gầy đét như bộ xương của nó, và em tôi cũng trả đũa lại tôi với một sự thất thà ngây ngô của tuổi thơ ấu. Đôi khi mẹ tôi cũng can thiệp vào những cuộc gây gỗ giữa chúng tôi và kéo lỗ tai tôi v́ tôi là nah mà không chịu nhường nhịn em gái.

Thời gian trôi qua, Nalini được cha mẹ tôi đính hôn cho một viên y sĩ trẻ tuổi ở Calcutta tên Panchanon Bose. Chàng rễ được một món tiền hồi môn dồi dào chắc hẳn là để bù trừ lại việc y phải cưới một cô vợ gầy đét như vậy!

Hôn lễ được cử hành rất long trọng. Tối hôm ấy tôi cũng có mặt cùng với một nhóm bạn bè thân quyến vui vẻ tề tựu trong pḥng khách nhà chúng tôi ở Calcutta. Chàng rể ngồi trên ghế dài lót nệm thêu chỉ vàng óng ánh, c̣n Nalini ngồi bên cạnh với một chiếc áo cưới tuyệt đẹp, nhưng than ôi, chiếc áo tân hôn vẫn không thể nào che kín những khía cạnh xương xẩu của cô dâu. Tôi bước lại ngồi gần bên ông em rể mới của tôi và mỉm cười với y một cách thân t́nh. Y chỉ mới nh́n thấy mặt Nalini lần đầu tiên khi cử hành hôn lễ vào sáng ngày hôm ấy, và lúc ấy y mới biết số phần của y phải gặp một người vợ như thế nào trong cuộc sống lứa đôi.

Cảm thấy ḷng ưu ái của tôi đối với y, chàng rể mới đưa mắt ám chỉ Nalini và kề tai tôi hỏi nhỏ:

- Cái đó là cái ǵ vậy?

Tôi đáp:

- Cái đó, thưa bác sĩ, là một bộ xương để cho ông khám nghiệm.

Cả hai chúng tôi đều phát tiếng cười vang trước cử tọa đông đảo gồm quan khách hai họ, sau khi đă cố nín cười mà không được!

Trong những năm kế đó, bác sĩ Bose đă chinh phục được ḷng ưu ái của gia đ́nh chúng tôi và thường được mời đến nhà xem bệnh mỗi khi trong gia đ́nh có người đsau ốm.

Chúng tôi đă trở nên đôi bạn thân và thường nói đùa với nhau về cô em gái tôi. Một hôm em rể tôi tâm sự với tôi:

-Vợ em thật là một trường hợp y khoa kỳ lạ. Em đă thử tất cả mọi thứ bổ dưỡng như dầu gan cá thương, bơ, sữa, mạch nha, mật ông, cá, thịt, trứng gà và nhiều thứ thuốc bổ khác. Rốt cuộc vẫn không mập hêm ra chút nào cả.

Chúng tôi lại cùng nhau cười lớn.

Vài ngày sau đó tôi đến nhà em rể tôi. Tôi không có ư định ở lại lâu và định rời khỏi nhà mà không cho Nalini biết có tôi đến. Khi tôi vừa ra đến cửa th́ tôi nghe giọng nói thân mật của em gái tôi:

- Anh ơi, hăy ở lại. Lần này anh sẽ không trốn thoát. Em có chuyện muốn nói với anh.

Tôi bước lên pḥng của em tôi và ngạc nhiên thấy em rưng rưng nước mắt:

- Anh hỡi, chúng ta hăy quên đi mọi hiềm khích thuở xưa! Em biết rằng từ nay anh đă theo con đường xuất gia tầm đạo và em cũng muốn được như anh.

- Anh đă trở nên lực lưỡng khỏe mạnh như vậy. Anh có thể giúp em chăng?

Kế đó em tôi nói tiếp với niềm hy vọng: Em rất yêu chồng em, nhưng ảnh lúc nào cũng tránh né em, làm em rất tủi thân. Em lo trau dồi tâm tính và công phu tu niệm, nhưng phải chăng em phải chịu gầy ốm và vô duyên bạc phước suốt cuộc đời?

Lời khẩn cầu của em tôi làm tôi rất cảm động. Tôi cảm thấy thương xót cho số phận của em tôi. Một hôm Nalini yêu cầu tôi nhận em làm đệ tử. Em nói:

- Anh hăy thử thách em bằng cách nào tùy ư. Từ nay em chỉđặt đức tin nơi Thượng Đế chớ không c̣n tin tưởng ở thuốc men.

Nói đoạn, em tôi mở nút những chai thuốc bổ trút sạch tất cả xuống máng xối.

Để thử đức tin của em, tôi dặn em hăy kiêng cử ăn thịt, cá và trứng, và chỉ dùng toàn là rau trái mà thôi. Khi Nalini đă ăn chay trường trong nhiều tháng, không ngại nhiều nỗi khó khăn và đă theo đúng những qui luật khác của tôi đưa ra, tôi mới trở lại thăm em. Tôi nói:

-Em đă tôn trọng và tuân theo những qui luật của đời sống tâm linh, phần thưởng của em đă sắp đến!

Tôi mỉm cười và nói một cách trào phúng:

- Em tôi muốn trở nên mập béo như d́ Tám nhà ḿnh không, d́ không c̣n thấy hai bàn chân của d́ từ nhiều năm nay.

- Ôi thôi! Em chỉ muốn được như anh vậy thôi.

Tôi bèn long trọng tuyên bố:-Do ân huệ thiêng liêng, cũng như tôi vẫn luôn luôn nói sự thật, điều ước vọng mà tôi tuyên bố ngày hôm nay sẽ trở thành sự thật.

(Thánh kinh Ấn Độ nói rằng người nào có thói quen nói lên sự thật có thể đạt được quyền năng làm cho lời nói của ḿnh được thể hiện theo ư muốn. Điều mong ước mà y thốt ra với tất cả tâm hồn sẽ được thực hiện.)

-Kể từ bây giờ, thân thể của em sẽ chịu một sự thay đổi nhiệm mầu và trong ṿng một tháng em sẽ cân nặng cũng như tôi.

Điều mong ước mà tôi nói lên bằng tất cả tâm hồn đă được đấp ứng. Trong ṿng một tháng, Nalini đă cân nặng bằng tôi! Những nét tṛn trĩnh duyên dáng làm cho thân h́nh em trở nên vô cùng hấp dẫn và chồng em càng yêu em thêm. Cuộc hôn nhân của em bắt đầu trong những điều kiên không toàn hảo nay đă trở thành một cuộc hôn nhân lư tưởng.

Từ Nhật Bản trở về, tôi nghe nói rằng trong khi tôi vắng mặt, Nalini bịđau chứng bịnh thương hàn. Tôi bèn hối hả đến nhà em th́ lấy làm kinh ngạc mà thấy em ḿnh gầy đét như bộ xương và đang mê man bất tỉnh. Em rể tôi thuật lại rằng lúc em c̣n tĩnh th́ em luôn luôn lập đi lập lại những lời này, “Nếu Mukunda có mặt ở nhà th́ tôi đă không bịđau đến nỗi này.” Y cho biết:

-Tôi và các bác sĩ khác đều tuyệt vọng. Bệnh kiết lại xuất hiện cùng một lúc với bệnh thương hàn!

Tôi bèn cầu nguyện với tất cả tấm ḷng thành và áp dụng những phương pháp chữa bệnh theo khoa Yoga. Bệnh kiết của Nalini liền dứt hẳn nhưng bác sĩ Bose lắc đầu với một vẻ mặt u ám và nói:

-Điều ấy chỉ có nghĩa là vợ em không c̣n chút máu nào nữa.

Tôi liền trấn tĩnh y với một giọng quả quyết:

-Em tôi sẽ hết bệnh. Trong bảy ngày cơn nóng sốt sẽ dứt hẳn.

Một tuần lễ sau tôi lấy làm mừng mà thấy Nalini mở mắt và nhận ra tôi. Kể từ lúc đó em đă lần lần b́nh phục. Khi em đă thấy khỏe hẳn và nặng cân trở lại như trước, than ôi, em lại phải bù trừ cơn bệnh ấy với một giá quá đắt: hai chân em đă bị liệt bại. Những y sĩ chuyen khoa người Anh và Ấn đều tuyên bố rằng em sẽ phải mang tật suốt đời.

Mệt mỏi v́ sự cố gắng mà tôi đă làm để cứu Nalini, tôi bèn đến Serampore để yêu cầu Sư Phụ giúp tôi. Sư Phụ động ḷng trắc ẩn về bịnh trạng nguy kịch của em tôi và nói:

-Em con sẽ sử dụng hai chân lại được vào cuối tháng này. Con bảo nó hăy đeo một hạt trân châu nặng hai carat, không được đục lỗ và cột dính trên da thịt bằng một sợi dây.

Tôi qú dưới chân Sư Phụ để tạ ơn mà mừng rỡ trong ḷng.

-Bạch Sư Phụ, lời nói của Sư Phụ cũng đủ chữa khỏi bệnh cho em con, tuy nhiên, nếu Sư Phụ muốn, con sẽ kiếm mua một hột trân châu ngay lập tức.

Sư Phụ gật đầu bằng ḷng rồi diễn tả h́nh dáng và tính t́nh Nalini, tuy người chưa biết mặt em gái tôi bao giờ.

Tôi trở về Calcutta và mua một hột trân châu cho Nalini. Một tháng sau, hai chân liệt bại của em tôi đă hoàn toàn được chữa khỏi.

Em tôi yêu cầu tôi chuyển đạt sự biết ơn sâu xa của em cho Sư Phụ. Sư Phụ nghe tôi đưa tin lành về trong cơn im lặng và khi sửa soạn kiếu từ, người nói:

-Các bác sĩ đều nói rằng Nalini sẽ không bao giờ có con. Con hăy chuyển đạt cho em con bức thông điệp của thầy, rằng trong vài năm, nó sẽ sanh hai đức con gái.

Quả thật sau đó vài năm, Nalini sanh một đứa con gái và nhiều năm kế đó, lại sanh thêm một đứa con gái nữa. Em tôi vui mừng vô hạn và nói:

-Sư Phụ của anh đă ban phước lành cho gia đ́nh em và cả nhà chúng ta. Một bậc siêu nhân như thế thật là thánh hóa cả xứ Ấn Độ do bởi sự hiện diện của người. Anh hỡi, anh hăy thưa với Sư Phụ rằng nhờ anh mà bây giờ em cũng xin làm đệ tử của Người để được thụ giáo theo phép môn Krisya Yoga.


                                    Sri Yogananda

                                 Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 





  



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 219 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 10:05am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

GẶP MA

 

 Nhánh sông Sài G̣n chảy ngay Thanh Đa có nhiều người tự tử, các xác người trôi sông cũng bị tấp vào đó theo ḍng chảy, nên khu vực Thanh Đa có ma nhiều kẻ đến nơi này cầu cơ lắm.

 Ở các trường học truyện ma đến giờ vẫn c̣n truyền miệng nhau của học sinh. Hồi tôi học lớp mười hai trường THPT Thanh Đa. Hai năm trước v́ sắp thi TN nên nhà trường tổ chức cho học sinh ở lại buổi chiều học thêm các môn thi.

 Lớp của tôi ở sân sau, trong lớp có đèn sáng trưng nhưng ngoài cửa sổ th́ tối thui, c̣n có một cây g̣n to ơi là to ở khu vực ấy. Thấy dơi bay qua bay lại là chuyện thường. Những con dơi to đen có khi bay vù qua lớp làm mấy học sinh nữ hết hồn rồi thôi.

 Tôi c̣n nhớ rơ buổi tối hôm ấy, cả lớp bốn mươi tám người cùng thấy một tà áo dài trắng, trắng mà c̣n sáng nữa...xẹt qua xẹt lại bên ngoài cửa sổ. Cứ đinh ninh là học tṛ nữ nào đó đi vệ sinh, thấy áo trắng ấy cứ đi lại hoài, thầy toán cũng là hiệu phó trưởng Thanh Đa của tôi la lên:

 - Sao cô kia không học mà cứ đi ra hoài vậy ?

 Một lúc sau bóng áo trắng đó cứ đi chậm dần chậm dần rồi mất hút...lát sau thấy thấp thoáng trên ngọn cây g̣n..thẳng đứng rồi biến mất.

 Cả lớp sợ lắm nhưng v́ sợ thầy hơn nên ngồi im mà rù ŕ với nhau, một hồi có lẽ v́ thấy lớp mất tập trung thầy nh́n ra ngoài nói:

 - Không có ǵ hết con dơi trắng đột biến gien đó. Rồi bảo:

 - Hôm nay tôi mệt cho lớp về sớm.

 Ngày hôm sau cả trường xôn xao bàn tán.. rồi v́ kỳ thi sắp đến nên tất cả cũng không quan tâm nữa. Cây g̣n già ấy giờ vẫn c̣n sân sau.

 

                                                               ST

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 220 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 11:24am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CÁI RƯƠNG ẤN ĐỘ

 

 Người bán đồ cổ vừa xoa xoa hai ḷng bàn tay vào nhau và nói:

 - Thưa ông chính cái rương này từ Ấn Độ gởi qua. Đây là loại gỗ quư gỗ này thật đặc biệt hiếm.

 Maax với giọng hơi ngập ngừng:

 - Được rồi. Tôi sẽ mua vật này mà. Chính lúc bước chân vào tiệm Maax đă để ư đến cái rương này, cái rương làm toàn bằng gỗ một màu đen nhánh, lại có những đường gân trắng nổi lên trên rất đặc biệt.

 Mặt rương nổi lên màu sắc địa phương của nó. Hơn nữa kích thước của nó rất vừa ư Max. Rương rộng lối sáu tấc, dài mười tám tấc, cao lối chín tấc. Khi Maax đoán biết chủ tiệm sẳn sàng bán rương với giá mười hai dollars, th́ ư muốn của chàng là xỉa tiền mua ngay vật quư này.

 Tuy nhiên Maax lại lưỡng lự v́ theo ư của chàng giá bán sao rẻ quá, hơn nữa khi giá cả đă ngă ngũ, trông mặt mày chủ tiệm có vẻ thoải mái thấy rơ. Phải chăng loại gỗ đóng rương không phải là loại gỗ quư ?
Hay là cái rương này có điểm nào tệ đây ? Nhưng rồi... việc mua bán đă xong xuôi tiền đă giao, qua ngày mai dù Maax đổi ư th́ sự việc cũng đă quá trễ rồi.

 Trông mặt gỗ rất bóng không một đường rạn nứt nào cả. Nh́n chung cái rương trông rất đẹp ! Nắp rương đậy kín. Cái ch́a khóa lớn dùng để mở trông rất gọn và lúc mở cũng không nghe tiếng động lớn. Maax tỏ ư vừa ḷng.

 Mỗi ngày chàng để ư lau chùi bụi bặm bám trên mặt rương. Đem về nhà chàng đặt rương vào một góc pḥng. Maax nghĩ thầm khi phải dọn nhà đồ vật này đối với chàng rất là tiện. Vả lại trong lúc này, chính cái rương quư này làm cho căn pḥng của Maax giá trị thêm lên.

 Nhiều tuần lễ trôi qua. Thỉnh thoảng Maax lại đưa mắt ngắm xem cái rương quư. Nhưng về sau lâu ngày Maax ít để ư đến. Một tối nọ một sự việc bất ngờ khác lạ xảy đến làm cho Maax suy nghĩ rất nhiều. Trong lúc ngồi vào chiếc ghế bành im lặng đọc sách, không hiểu v́ lẽ ǵ, Maax đưa mắt ra khỏi trang sách nh́n về phía góc pḥng nơi đặt gương. Một ngón tay dài xanh xao tḥ ra khỏi nắp rương.

 Maax ngồi lặng thinh trong chiếc ghế bành, tâm trí như bị tê liệt v́ quá sợ hăi trong thời gian lâu từ hai đến ba phút, cặp mắt không rời khỏi mặt rương. Rơ ràng là một ngón tay thật dài xanh xao, lóng tay không được suôn sẻ, đầu ngón tay là cái móng bầm đen.

 Qua những phút sợ hăi lúc này đến phút giận dữ ngón tay đó vẫn đứng yên. Hiện tượng ấy thật kỳ quái. Buổi tối yên lặng của chàng bỗng nhiên bị phá tan bởi sự xuất hiện ngón tay dị kỳ đó. Maax liền lấy cuốn sách quăng mạnh về phía chiếc rương. Ngón tay biến mất Maax không c̣n trông thấy ǵ nữa.

 Chàng đưa cao ngọn đèn rọi ánh sáng về phía góc pḥng rồi bước mau về phía cái rương, đột ngột mở nắp rương. Bên trong không có ǵ cả. Chàng đậy nắp rương lại lượm cuốn sách cầm tay, trở về chỗ cũ ngồi vào ghế.

 Phải chăng trong mấy ngày qua chàng đọc sách quá nhiều nên bị hoa mắt. Chàng giả vờ tiếp tục đọc sách lại nhưng chốc chốc chàng lại đưa mắt về phía góc pḥng cho đến khi không nhận thấy có ǵ kỳ lạ xảy ra, lúc đó chàng mới lên giường ngủ.

 Nhưng suốt ba bốn ngày sau đó hiện tượng kỳ quái kia cứ ám ảnh măi trí óc Maax. Chàng không dám về khuya và bắt đầu đọc sách ít lại. Trong tuần lễ đầu, chàng đinh ninh là mắt chàng bị quá mệt, nên làm cho chàng nh́n ra hiện tượng kỳ lạ đó.

 Bắt đầu tuần lễ thứ hai nghĩ rằng thị giác đă được nghỉ ngơi vừa sức, chàng mua về nhiều tạp chí và bắt đầu mải mê đọc. Đọc được vài trang Maax ngước mắt nh́n về phía chiếc rương nhưng cũng không thấy ǵ lạ xảy ra.

 Ngồi vững vàng vào chiếc ghế bành Maax chăm chú đọc suốt cả tiếng đồng hồ. Đọc hết một cuốn định đọc qua một cuốn khác, chàng đưa mắt về phía chiếc rương... Cái ngón tay dài xuất hiện bất động, lóng tay không được suôn sẻ móng tay màu bầm đen.

 Maax cố ư cưỡng lại ư muốn chạy sang pḥng bên cạnh, đưa tay về hướng chiếc bàn đặt gần chiếc ghế bành, sờ soạng t́m lấy cái gạt tàn thuốc, nhưng cặp mắt chàng vẫn không rời khỏi chiếc rương.

 Bàn tay chàng đă nắm được cái gạt tàn thuốc, lúc này chàng từ từ đứng dậy nhẹ nhàng đi tới góc pḥng. Lúc chàng bước tới cái rương với khoảng cách chừng một thước th́ ngón tay kia cũng biến mất. Maax mở nắp rương ra. Bên trong rương không có ǵ cả !

 Trí óc Maax đảo lộn. Chàng trở về chổ cũ ngồi vào ghế. Tuy lúc này cái ngón tay quái dị kia không xuất hiện nữa, nhưng chàng cũng không xua đuổi khỏi trí óc được h́nh ảnh ghê rợn lúc này. Trước khi lên giường ngủ một ư nghĩ mới đên trong óc chàng: Sẽ t́m cách thủ tiêu cái rương này !

 Maax vẫn khỏe mạnh. Thật ra hiện tượng kỳ quái đó không phải xuất phát từ thị giác của Maax mà chính là ở cái rương kỳ dị kia. Chàng nhớ lại những chuyện đă qua. Trước hết là cái rương đă bán giá quá rẻ. Thứ hai là chủ tiệm đă tỏ ra vui mừng khi bán được món hàng mà hắn ta cho là rất quư. Nhưng Maax vẫn tin ḿnh. Chàng tự hỏi không biết chàng có bị rối loạn thần kinh không ?

 Sáng hôm sau trước khi đi làm việc, chàng nhờ chủ nhà cho người chở nó đi, vất nó vào nơi chứa đồ phế thải thủ tiêu bằng cách hỏa thiêu nó. Nhưng buổi chiều hôm ấy khi trở lại pḥng trọ, vật đầu tiên trong căn pḥng đập vào mắt chàng lại là cái rương ma quái đó.

 Vừa sợ hăi vừa tức giận, Maax vội vàng t́m chủ nhà tra hỏi lư do nào mà bà ta không chịu nghe lời chàng. Bà chủ nhà ôn tồn giải thích cho chàng nghe là cái rương c̣n tốt quá lại bằng gỗ quư, đem rương bỏ vào chỗ chứa đồ phế thải uổng phí quá. Hơn nữa không có một bác phu rác nào mất trí đến nỗi đang tay châm lửa đốt một chiếc rương trông đẹp như vậy được.

 Nghe lời giải thích đó Maax xin lỗi bà chủ nhà trở về pḥng. Chàng ngồi vào chiếc ghế bành và bắt đầu nh́n không chớp mắt vào chiếc rương. Chàng nghĩ thầm là nếu không c̣n có một việc ǵ xảy ra nữa th́ chàng vẫn giữ lại chiếc rương, c̣n trái lại lần này Maax sẽ cương quyết t́m cách thủ tiêu nó.

 Tối hôm đó Maax định đi dự một buổi ḥa nhạc nhưng một trận mưa dai dẳng giữ chàng ở lại trong căn pḥng của chàng. Trước khi ngồi vào ghế đọc sách, Maax bước lại góc pḥng lấy ch́a khóa trong túi áo khóa rương lại. Cuộc thí nghiệm lần này sẽ quyết định dứt khoát cho ư định của chàng.

 Trong lúc đọc sách chốc chốc Maax lại đưa mắt về phía chiếc rương. Nhưng không có ǵ xẩy ra trước mười một giờ đêm cả. Đến lúc chàng đặt sách xuống, chàng liếc mắt vào góc pḥng nh́n lên cái rương: Ngón tay kỳ lạ kia lại xuất hiện. Và cái ngón tay dài xanh xao, thay v́ bất động lần này dường như ngón tay đó đang cử động. Ngón tay run run tuồng như đang cào vào mặt gỗ với cái móng đen bầm của nó.

 Maax tập trung tất cả can đảm cầm cái gạt tàn và bước lại góc pḥng. Ngón tay ma quái bỗng biến mất đúng vừa lúc chàng đưa tay định ném thật mạnh cái gạt tàn thuốc vào chiếc rương. Tim chàng đập th́nh thịch. Chàng mở nắp rương. Bên trong vẫn trống không.

 Lúc này chàng nghĩ đến cái ch́a khóa chàng để ở túi áo. Một cảm giác ghê rợn đến dựng tóc gáy. Cái ch́a khóa để trong túi áo đă biến mất nhưng lại thấy nằm ở ổ khóa. Chàng lẩm bẩm nghĩ rằng có lẽ chàng đă mất trí. Maax lại khóa chặt rương lần nữa trở lại ngồi vào ghế, nh́n chằm chằm vào chiếc rương ma quái cho măi đến hai giờ sáng.

 Cuối cùng v́ quá mệt mỏi trí óc bị đảo lộn, Maax lên giường ngủ. Trước khi tắt đèn chàng để ư là nắp rương đă được đậy kín và được khóa kỹ. Khi chàng đă thiu thiu ngủ bỗng một cơn ác mộng chợt đến. Trong giấc ngủ chàng nghe như có tiếng cào gỗ làm cho chàng thức dậy.

 Thắp một cây nến chàng đưa mắt về phía trước rương. Cái ngón tay dài lại hiện lên trước mặt rương và đang cựa quậy mạnh. Ngón tay đó lúc lắc trở lại thật mạnh cào lên mặt rương, với chiếc móng bầm đen. Nhưng dường như nó thấy sự xuất hiện của chàng nên bỗng nhiên nó dừng lại. Và... từ từ ngón tay đó ra hiệu cho Maax lại gần.

 Quá sợ hăi Maax không thể vâng lời được. Chàng đặt cây nến xuống bàn và chân bắt đầu bước giống hệt như một người máy. Ngón tay kỳ dị đó như kéo chàng lại gần, chàng giống như một thỏi sắt bị nam châm hút. Đúng vừa lúc Maax bước lại gần chiếc rương th́ ngón tay kỳ dị đó rút vào, và nắp rương tự nhiên mở lên.

 Maax lúc nào cũng bị một sự sợ hăi quá mức thôi miên, chàng bước vào ḷng rương ngồi khom ḿnh, đầu gối chống cằm rồi ngă cả thân ḿnh xuống ḷng rương. Nắp rương tự nhiên đóng sập mạnh và chiếc ch́a khóa tư động quay một ṿng trong ổ khóa..Maax hoảng hốt thức dậy hét lên một tiếng ghê rợn. Chàng ngồi thẳng người trên giường, mồ hôi chảy dầm dề trên trán. Maax qua sợ vội trùm cả tấm ra lên đầu và nằm như vậy cho đến sáng.

 Trời sáng tỏ lấy lại b́nh tĩnh Maax rời khỏi căn pḥng đi pha cà phê uống. Hôm ấy chàng không đến sở mà lại t́m đến nhà một khu phố đổ rác, mà lâu nay chàng từng nhờ cậy người này giúp trong nhiều công việc. Chàng dặn ḍ bác phu thật kỹ về những điều chàng muốn thực hiện. Chàng trao cho bác phu số tiền mười dollars và c̣n hứa sẽ trao thêm tiền khi xong việc.

 Buổi chiều hôm ấy. Maax trở lại căn pḥng riêng của chàng ḷng rất tự tin nhưng vừa bước vào căn pḥng, chàng cảm thấy như quả tim ḿnh thoát ra khỏi lồng ngực.

 Trái với lời dặn của chàng bác phu đổ rác vẫn chưa chịu khiêng cái rương đi vất bỏ. Lần này Maax tỏ ra vô cùng thất vọng hơn là nổi cơn giận lôi đ́nh. Chàng bước ra ngoài gọi điện thoại liên tục cho bác phu đổ rác. Ông này lựa lời xin lỗi, lấy cớ là chiếc xe của ông bị hỏng máy đúng vào lúc ông chuẩn bị đi làm phận sự. Ông đă phải bỏ hết cả ngày sửa chữa xe và xin hứa qua ngày hôm sau sẽ đến sớm để lo tṛn công việc.

 Maax không biết làm ǵ hơn buông thỏng hai tiếng "cảm ơn" và đặt điện thoại xuống. Chàng không muốn trở lại căn pḥng riêng của ḿnh mà tạt vào một quán trong khu phố ăn trưa rồi đi xem chiếu phim luôn.

 Ở rạp chiếu phim ra Maax lại tạt vào một quán cà phê, ngồi cà kê măi cho đến nửa đêm mới về căn pḥng của chàng. Cơn ác mộng đêm hôm trước vẫn c̣n ám ảnh trí óc nên dù đêm qua ngủ rất ít nhưng đêm nay chàng vẫn chưa nhắm mắt được, v́ thế chàng cảm thấy rất mệt mỏi.

 Sau khi xem kỹ là nắp rương được đóng kín, Maax cẩn thận đặt ch́a khóa ở dưới gối nằm rồi nhắm mắt ngủ. Vài giờ sau đó Maax bỗng thức dậy ngồi lên một cách tỉnh táo. Tim chàng đập mạnh hơn lúc nào hết. Trong một phút định thần chàng tự hỏi v́ sao chàng lại ngồi dậy như thế này.

 Có tiếng cào lên mặt gỗ nghe rơ mồn một ở phía góc pḥng. Tay chân của chàng run rẩy chàng nhẩy xuống giường đưa tay ấn nút mở sáng chiếc đèn làm việc ban đêm đặt trên bàn. Không có ánh sáng tỏa ra. Bóng đèn bị cháy hay ḍng điện bị cắt đứt ?

 Chàng mở hộc bàn đưa tay quờ quạng t́m cây nến. Trong lúc chàng sờ soạng t́m nến và diêm th́ tiếng động tăng lên gấp đôi, gấp ba đến nỗi nghe tưởng chừng như vang dội hết cả căn pḥng.

 Toàn thân Maax run rẩy, mỗi sợi lông trên thân ḿnh như đứng lên nhưng chàng cũng lấy hết can đảm, tay cầm cây đèn cầy và nhẹ nhàng bước tới chiếc rương.
Ngón tay kỳ lạ đó trông càng dài ra và gơ liên hồi trên nắp rương. Với nhịp điệu dồn dập tiếng gơ vang ra hết cả mặt rương, có khi cái móng tay bầm tím đó lại cào mạnh lên mặt gỗ.

 Khi Maax bước lại gần ngón tay kỳ lạ đó bỗng đứng yên rồi nằm dài theo mép rương. Maax kinh hoàng khi nghĩ rằng ngón tay ma quái đó đă trông thấy chàng nên mới ngừng họat động và ngón tay đó đang nh́n chằm chằm vào chàng. Và khi Maax đă đứng giữa căn pḥng, lạ lùng thay ngón tay đó giơ lên và h́nh như đang ra dấu hiệu cho chàng lại gần hơn.

 Maax quá kinh sợ khi nhớ lại cơn ác mộng chàng vừa trải qua. Lúc này chính chàng không chịu đựng nỗi sự sợ hăi đó nữa. Chàng vẫn bước tới trước, cử chỉ hành động giống như một người mắc bệnh mộng du.

 Sáng hôm sau hai người phu đổ rác bước theo chủ nhà của Maax vào pḥng chàng. Maax đă rời khỏi pḥng từ lúc nào có lẽ chàng đi làm việc, nhưng hai người phu đổ rác đă biết rơ công việc của họ sẽ phải làm.

 Chiếc rương được khóa kỹ vẫn nằm ở góc pḥng, không có ch́a khóa nằm trong ổ khóa. Bên cạnh rương người ta thấy dấu vết một cây đèn cầy đă cháy rụi. Người chủ nhà tỏ ư không hài ḷng. Bà ta lên giọng tỏ ra bực bội:

 - Đấy hành động đó chỉ nhằm đốt nhà người ta. Tôi sẽ nói cho ông Maax biết về sự sơ xuất đó. Quả thật đáng trách.  

 Hai người phu đổ rác đang h́ hục khiêng chiếc rương, không để ư đến lời nói của bà chủ nhà. Một người than:

 - Bộ cái rương này bằng ch́ hay sao ? Từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ khiêng một cái rương trống mà nặng như thế này.

 Bà chủ nhà nói dặn thêm:

 - Ấy cái rương này được đóng bằng loại gỗ rất chắc...
 Khi chiếc xe chạy tới ven đô, đúng nơi vứt bỏ những đồ phế thải một người phu nói:

 - Tôi không hiểu v́ sao cái thằng cha này lại đem bỏ đi một cái rương trông đẹp như thế này.

 Bạn của anh ta trả lời:

 - Tôi th́ biết rơ đầu đuôi sự việc. Chẳng là anh chàng mua cái rương này của Jason Kinkle mà Kinkle th́ chẳng bao giờ kể rơ lai lịch cái rương cho chàng ta biết... V́ lẽ đó mà chàng ta không muốn giữ cái rương này trong căn pḥng của chàng nữa.

 - Nhưng lai lịch cái rương đó ra sao ? Anh có biết không ?

 Anh phu đổ rác tự cho ḿnh biết rơ câu chuyện không thèm trả lời cho bạn ngay lúc đó, nhưng khi cái rương đă được đẩy xuống đất chàng mới chậm răi:

 - Cái rương này được đem bán ở tiệm bán đồ cũ. Người chủ của nó trước tiên là Stubberton...

 Vừa nói đến đây người phu đổ rác thứ hai cướp lời:

 - Stubberton. Có phải anh chàng bị giết chết bằng cách bỏ...

 - Phải rồi. Bằng cách bị đem nhốt vào rương. Đúng vậy. Chính cái rương mà chúng ta vừa mới chở trên xe đó!

 Cả hai im lặng một hồi lâu. Họ tiếp tục t́m cách xê dịch cái rương lại gần một cái giếng không c̣n dùng nữa, thành giếng đă bể nát, đáy giếng chứa đầy một thứ nước bẩn. Người phu đổ rác đưa tay lau mồ hôi đổ giọt trên trán đoạn tiếp lời:

 - Lúc người ta cạy cái rương ra th́ xác nạn nhân trông đen xám xịt lại. Người ta thấy một ngón tay mắc kẹt ở nắp rương gần nơi ổ khóa nhưng ngón tay ấy cũng không cứu được mạng sống của nạn nhân.

 Nghe bạn kể câu chuyện ma quái đó, người phu đổ rác thứ hai tỏ ra sợ hăi nói lớn:

 - Thôi phải thủ tiêu nó gấp, cái thứ này chỉ mang xui xẻo đến cho chúng ta mà thôi.

 Người kia đáp nhanh:

 - Đồng ư giúp tôi một tay mau lên.

 Hai người lấy hết sức lực đẩy rương xuống đáy giếng. Cái rương trong phút chốc rơi xuống mặt nước đen x́ làm tung một ngọn nước lên cao gần miệng giếng...

 Một người lên tiếng:

 - Thế là yên chuyện chúng ta lại được thêm mười dollars.

 Nhưng rồi... một sự việc lạ lùng xảy ra. Hai người phu đổ rác không bao giờ hy vọng nhận thêm số tiền mười dollar đó nữa v́ kể từ ngày hôm đó, Maax bỗng biệt tích, không ai gặp chàng mà cũng không có ai nhắc đến tên chàng nữa.

 Hai người phu đổ rác tŕnh nội vụ tại cảnh sát cục. Bà chủ nhà không biết tên hai người phu đổ rác, hơn nữa, bà cũng không hay biết ǵ thêm tin tức Maax nên bà cũng chẳng giúp ích ǵ được cho hai người.

 Về sau cảnh sát chỉ biết trả lời một cách lờ mờ về trường hợp của Maax. Họ nói có lẽ anh chàng đă đổi tên và đổi chỗ ở. 




                                                    Josephpayne

                                                       Brennan

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.5361 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO