Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 146 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 221 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 8:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÂY TẠNG HUYỀN BÍ

THỜI THƠ ẤU

Chương Một

 


- A ha! A ha! Đă lên tới bốn tuổi rồi mà không ngồi vững trên lưng ngựa! Mi sẽ không bao giờ trở nên một người hùng! Rồi đây cha mi sẽ nói sao?
Vừa nói xong, ông Tzu thẳng tay quất vào mông con ngựa một ngọn roi da, đầu ngọn roi cũng đét luôn cả vào người kỵ mă bất đắc dĩ, và nhổ luôn một băi nước bọt xuống đất một cách khinh bỉ.
Những nóc nhọn và mái bầu bịt vàng của điện Potala chói sáng dưới ánh mặt trời nóng gắt. Gần bên chúng tôi, hồ sen trong vắt của ngôi Đền Rắn dợn sóng lăn tăn. Đằng xa, trên đường ṃn gồ ghề đá sạn, những khách lữ hành vừa rời khỏi thủ đô Lhasa cố gắng thúc giục những con Yak (ḅ Tây Tạng) đi mau hơn, với những tiếng kêu inh ỏi. Từ những đồng cỏ xanh ở kế cận, vọng đến tai tôi những tiếng kèn khổng lồ do những sư săi nhạc công thực tập thổi kèn ở một nơi vắng vẻ.
Nhưng tôi không có thời giờ để ngắm nh́n những cảnh vật vẫn từng diễn ra hằng ngày mà tôi đă quen mắt nhàm tai. Công việc của tôi trong hiện tại ; ôi, một công việc khó nhọc thay, là ngồi vững trên lưng con lừa nhỏ bất kham của tôi. Nhưng con lừa Nakkim lại có những ư nghĩ khác. Nó muốn tách khỏi người kỵ mă tí hon của nó, để có tự do ăn cỏ, nằm lăn trên đất và chơi một ḿnh.
Ông Tzu là một ông thầy rất khó chịu. Suốt đời, ông luôn luôn nghiêm khắc và khó tánh; trong lúc hiện tại, trong vai tṛ vơ sư quyền thuật và huấn luyện viên kỵ mă cho một đứa trẻ lên bốn tuổi, ông thường tỏ ra bất măn và nổi nóng hơn là kiên nhẫn. Xuất xứ từ vùng Kham, ở miền Đông xứ Tây Tạng, ông được chọn lựa cùng với vài người khác nhờ bởi vóc vạc cao lớn và lực lưỡng. Nhiều người có tác cao hơn hai thước và được tuyển dụng làm những sư săi cảnh binh trong các tu viện. Họ mặc áo dài và độn vai rất cao để cho có vẻ to lớn, lấy lọ boi mặt để cho có vẻ hung tợn, và sử dụng những cây gậy to và dài để trừng phạt những kẻ bất hảo.
Như vậy ông Tzu là một vị sư săi cảnh binh, kiêm chức vơ sư dạy quyền thuật và môn cưỡi ngựa cho một thiếu nhi con nhà quư tộc!
Không thể đi đứng được lâu v́ bị tật ở chân, ông ta chỉ di chuyển bằng cách đi ngựa. Năm 1904, quân Anh dưới quyền chỉ huy của đại tá Younghusband, đă xâm lăng xứ Tây Tạng và gây nên nhiều sự tàn phá, thiệt hại. Chắc hẳn là họ nghĩ rằng phương tiện tốt nhất để thu phục được t́nh thân hữu của Tây Tạng là bắn phá nhà cửa, làng mạc và giết hại dân tộc của xứ ấy. Trong cuộc pḥng thủ diệt địch, ông Tzu đă bị đạn bắn vẹt mất một phần xương háng bên trái khi ông chiến đấu ngoài mặt trận.
Cha tôi là một trong những viên chức có quyền thề nhất trong Chánh phủ. Người thuộc ḍng quư tộc và có thế lực rất mạnh trong việc quốc chính. Cha tôi cao gần tới hai thước, và có một sức mạnh phi thường. Hồi c̣n thanh niên người đă có lần ra sức giở hỏng một con lừa khỏi mặt đất; người là một trong những người Tây Tạng có thể chiến thắng những thổ dân vùng Kham trong những cuộc so tài về môn đô vật.
Xứ Tây Tạng đă trải qua một thời kỳ loạn ly. Năm 1904 khi quân đội Anh xâm lăng lănh thổ Tây Tạng, vị Quốc vương xứ này là đức Đạt Lai Lạt Ma sang tị nạn bên xứ Mông Cổ, giao quyền nhiếp chính lại cho cha tôi và cùng với những viên chức trong nội các trong khi ngài vắng mặt. Năm 1909, ngài trở về nước sau một thời gian sống tại Bắc Kinh. Năm 1910, quân Trung Hoa, được khích lệ tinh thần bởi cuộc xâm lăng thành công trước đây của quân đội Anh, bèn đem quân tấn công thủ đô Lhasa. Một lần nữa đức Đạt Lai Lạt Ma lại lưu vong tị nạn nhưng lần này ngài sang Ấn Độ. Năm 1911, trong cuộc cách mạng Trung Hoa, quân Tàu bị đánh bật ra thủ đô Lhasa, sau khi đă gây nhiều cảnh giết chóc tang thương đối với dân chúng Tây Tạng. Năm 1912, đức Đạt Lai Lạt Ma trở vể thủ đô Tây Tạng. Trong khi ngài vắng mặt, suốt thời kỳ vô cùng khó khăn ở quốc nội, cha tôi đă cùng với các quan chức đồng liêu trong nội có đảm đương trọng trách của Chánh Phủ. Mẹ tôi thường nói rằng trách nhiệm nặng nề đó đă làm cho cha tôi giảm thọ rất nhiều. Một điều chắc chắn là người không có thời giờ săn sóc con cái và người không hề có dịp biểu lộ t́nh phụ tử đậm đà đối với chúng tôi.
Dường như tôi có cái khả năng đặc biệt là hay làm cho cha tôi nóng giận nên ông Tzu, bản tính vốn đă khắc nghiệt, lại được cha tôi giao phó trách nhiệm là bắt buộc tôi phải vâng lời tuyệt đối, bằng lời êm dịu hay "Bằng roi vọt nếu cần."
Ông Tzu lại coi việc cưỡi ngựa dở của tôi như là một sự sỉ nhục cho vai tṛ huấn luyện viên của ông ta. Ở Tây Tạng, trẻ con trong các gia đ́nh quư tộc tập cưỡi ngựa trước khi tập đi! Làm một người kỵ mă giỏi là một điều tối cần thiết trong một xứ núi non không có phương tiện giao thông, một xứ mà mọi sự di chuyển đều là bằng cách đi ḅ hay cưỡi ngựa. Con nhà quư phái tập cưỡi ngựa hằng giờ hằng phút mỗi ngày. Khi họ đă tập luyện tinh nhục đến mức tuyệt luân, họ có thể đứng vững trên yên ngựa đang phi nước đại, và bắn cung hay bắn súng vào các mục tiêu di động.
Đôi khi từng đoàn kỵ mă đă tập luyện thuần phục phi nước đại trong những cánh đồng, và trong khi săi ngựa như bay họ đổi ngựa với nhau bằng cách nhảy từ yên ngựa này sang yên ngựa khác. Trong khi đó, năm lên bốn tuổi, tôi lại thấy khó khăn mà ngồi vững trên một yên ngựa.
Xứ Tây Tạng là một nước sùng thượng thần quyền. Sự "Tiến bộ" của thế giới bên ngoài không làm cho dân tộc xứ ấy ham thích. Người Tây Tạng chỉ muốn tự do thiền định suy tư và vượt qua những giới hạn của xác thể. Từ lâu, những nhà hiền triết của xứ này vẫn từng biết rằng những tài nguyên phong phú của xứ Tây Tạng khêu gợi ḷng tham của các nước Tây phương và họ biết rằng khi nào người ngoại bang đến xứ này là sẽ không có ḥa b́nh.
Nhà tôi ở tại khu Lingkhor, một khu vực sang trọng của thủ đô Lhasa, ở bên đường lộ bao quanh đường phố, và ở dưới bóng mát của điện Potala. Chung quanh Lhasa có ba đường ṿng đồng tâm, con đường ở ṿng ngoài, cũng gọi là đường Lingkhor là con đường quen thuộc của khách hành hương.
Cũng như tất cả các ngôi nhà khác ở Lhasa, vào lúc tôi mới sinh, nhà tôi chỉ có hai tầng ở phía day mặt ra đường lộ. Mọi người đều bị tuyệt đối cấm nhặt không được cất nhà nhiều tầng và vượt quá chiều cao đó, v́ không ai được phép từ trên cao nh́n xuống đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng v́ lịnh cấm này thật ra chỉ áp dụng mỗi năm có một lần vào dịp rước lễ hằng năm, nên nhiều người dân Tây Tạng cất trên nóc bằng của nhà họ thêm một tầng nữa bằng cây ván có thể tháo gỡ được dể dàng, mà họ có thể sử dụng mỗi năm trong mười một tháng.
Nhà tôi ở là một ngôi kiến trúc cổ bằng đá, h́nh vuông, xây trên một khu đất rộng và bao bọc xung quanh một cái sân giữa.
Năm 1910, trong cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa, nhà tôi bị tàn phá hết một phần, nhất là những vách tường phía trong. Về sau, cha tôi đă cho xây cất lại bốn tầng lầu. V́ những tầng lầu này không day ra ngoài đường cái, tức con đường Ling khor, nên chúng tôi không thể từ trên cao nh́n xuống đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuộc rước lễ hằng năm, thành thử không ai phàn nàn hay phản đối.
Cánh cửa lớn trổ ra cái sân giữa rất kiên cố và trở nên xám đen với thời gian. Quân Tàu không chọc thủng nổi cánh cửa dày và chắc nịch này nên chúng đă triệt hạ một góc tường để lọt vào nhà.
Từ một văn pḥng đặt ở ngay phía trên cái cửa này, người quản gia để ư quan sát những kẻ ra vào. Người quản gia này có quyền thâu dụng hoặc sa thải những kẻ nô bọc, và chăm lo chu đáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Khi những tiếng kèn trong những tu viện đón chào bóng hoàng hôn, đánh dấu một ngày sắp tàn, th́ những kẻ hành khất của thủ đô Lhasa tề tựu đến trước cánh cửa sổ của vị quản gia để nhận lănh những phần ăn của họ trong chiều hôm đó. Theo thủ tục đó, tất cả những nhà danh giá quư tộc bố thí cho kẻ nghèo ở trong vùng của họ ở. Những kẻ tù phạm bị xiềng xích cũng thường đến xin ăn, v́ khám đường rất hiếm và họ đi rảo khắp các nẻo đường để xin của bố thí.
Ở Tây Tạng, những kẻ tù phạm không bị khinh khi hay đối xử tàn tệ như những kẻ hạ cấp. Người ta biết rằng phần nhiều trong thành phần của họ có lẽ ở vào t́nh trạng của những người tù phạm kia nếu họ bị bắt quả tang, bởi đó những kẻ phạm pháp ít may mắn hơn được đối xử một cách tương đối dễ chịu.
Có hai vị sư săi trú ngụ trong các pḥng ở phía tay mặt gian pḥng của vị quản gia; đó là các vị tư tế có phận sự cầu nguyện Trời Phật gia hộ cho gia đ́nh chúng tôi. Những gia đ́nh quư tộc bậc trung hay bậc thấp hơn chỉ có một vị tư tế trong nhà; cấp đẳng xă hội của gia đ́nh tôi bắt buộc phải có hai vị. Các vị tư tế này không được hỏi ư kiến trước mỗi biến cố hay quyết định quan trọng, và họ có bổn phận cầu nguyện các đấng Thiêng liêng che chở và ban ân huệ cho gia đ́nh chúng tôi. Ba năm một lần, họ lại trở về tu viện của họ, và những sư săi khác đến thay thế.
Mỗi chái ở hai bên hông nhà là một đền thờ nhỏ trong đó những ngọn đèn thắp bằng bơ cháy sáng ngày như đêm trên một bàn thờ bằng gỗ chạm. Trên bàn thờ, bảy chén nước Thánh được lau chùi sạch bóng và được thay nước mới nhiều lần trong ngày.
Các vị tư tế được ăn uống đầy đủ, họ dùng các thức ăn như người trong gia đ́nh, để cho những lời cầu nguyện của họ được sốt sắng hơn và để cho thần thánh biết rằng họ được biệt đăi.
Ở bên trái gian pḥng vị quản gia, là pḥng của vị cố vấn luật pháp, vị này có phận sự xem xét cách giữ ǵn nhà cửa của gia đ́nh tôi cho đúng theo nghi thức của nhà quyền quí. Người Tây Tạng rất tôn trọng luật lệ, và để làm gương cho dân chúng, cha tôi phải xử thế như một công dân gương mẫu.
Anh tôi, Paljor, chị tôi, Yasodhara và tôi cùng ở tại phần mới xây cất của ngôi nhà. Paljor không sống được lâu v́ không có đủ sức khỏe để chấp nhận cuộc sống khắc khổ, dành cho mọi đứa trẻ con nhà quư tộc. Anh tôi qua đời trước khi lên bảy tuổi. Khi ấy Yaso lên sáu và tôi mới lên bốn. Tôi vẫn c̣n h́nh dung anh tôi, chỉ c̣n là một cái xác không hồn, ngày mà những Âm Công đến lượm xác anh tôi để làm lễ "điểu táng" tức là chặt từng mảnh quăng cho kên kên ăn theo phong tục bổn xứ.
Khi tôi trở thành người con trai kế nghiệp của gia đ́nh, th́ sự giáo dục của tôi được săn sóc chu đáo. Năm tôi lên bốn tuổi, tôi hăy c̣n là một kỵ mă quá dở! Cha tôi vốn dĩ đă là một người rất nghiêm khắc, nay với tư cách là một chức sắc của giáo hội, bèn đặt tôi vào một thứ kỷ luật sắt để làm gương cho sự giáo dục của những đứa trẻ khác.
Ở xứ Tây Tạng, một đứa trẻ thuộc giai cấp càng cao th́ sự giáo dục của nó lại càng nghiêm khắc. Và nhà quư tộc đă bắt đầu chủ trương một kỷ luật ít khắc khổ hơn cho sự giáo dục thiếu nhi, nhưng cha tôi không đồng ư, viện lẽ rằng những đứa trẻ nghèo hèn không hy vọng có một đời sống tiện nghi sung sướng hơn trong tương lai, cần phải được đối xử một cách dịu dàng tử tế khi chúng c̣n nhỏ. Trái lại, những đứa trẻ con nhà quư tộc, được thụ hưởng mọi thứ tiện nghi sung sướng khi đến tuổi trưởng thành, nên cần phải được giáo dục trong sự khắc khổ tối đa khi chúng tôi c̣n nhỏ, để nhờ sự kinh nghiệm trong đau khổ mà chúng mới biết thương người về sau này. Đó cũng là quan điểm chánh thức của chánh phủ Tây Tạng. Chánh sách đó rất tai hại đối với những đứa trẻ có thể chất yếu đuối, nhưng c̣n những đứa nào vượt qua được mà không chết th́ sẽ có thể đương đầu với bất cứ một nghịch cảnh nào?
Vơ sư Tzu chiếm một gian nhà ở từng dưới gần chỗ cửa vào. Sau khi đă có dịp quan sát đủ mọi hạng người trong nhiều năm với tư cách là một sư săi cảnh binh, ông ta không thể sống ẩn dật lánh đời, v́ cuộc sống đó không thích hợp với nếp sống quen thuộc của ông ta. Gần bên pḥng của ông ta ở, là những chuồng ngựa, trong đó cha tôi nuôi hai chục con ngựa, cùng những loài vật kéo xe khác.
Những người giữ ngựa không ưa ông Tzu v́ tánh quá sốt sắng của ông ta và thói quen hay xen vào công việc của họ.
Khi cha tôi cưỡi ngựa đi đâu, th́ luôn luôn có sáu người kỵ mă vơ trang đi theo hộ vệ. Những người cận vệ này đều mặc đồng phục và ông Tzu luôn luôn kiểm soát chặt chẽ để giữ cho y phục của họ lúc nào cũng được chỉnh tề.
V́ một lư do mà tôi không biết rơ, sáu người kỵ mă này có thói quen ngồi trên lưng ngựa sắp thành hàng giờ day lưng vào tường của một lẫm lúa, và phóng ngựa chạy theo khi thấy cha tôi vừa xuất hiện. Tôi nhận thấy rằng nếu tôi nghiêng ḿnh ra ngoài cửa sổ của lẫm lúa, th́ một trong những người kỵ mă lọt vào tầm tay của tôi. Một ngày nọ, nhân lúc không có việc ǵ làm, tôi bèn rón rén đến gần và xỏ một sợi dây gai vào cái đai da nịt lưng của y trong khi y đang kiểm điểm đồ tư trang trước khi lên đường. Kế đó tôi cột chặt cả hai đầu dây và máng một đầu vào một cái móc sắt ở bên trong lẫm lúa. Việc ấy hoàn toàn diễn ra trong âm thầm không ai để ư, giữa lúc mọi người đang mắc bận rộn rối rít. Khi cha tôi vừa xuất hiện đoàn kỵ mă phóng ngựa chạy theo, trừ ra người thứ sáu mắc phải sợi dây nên bị té ngựa và kêu la ỏm tỏi.
Cái đai nịt lưng của y sút ra và trong cơn náo loạn, tôi lén rút lại sợi dây gai và biến mất mà không ai hay biết. Ngày hôm sau, tôi lấy làm khoái trá mà nói với nạn nhân sự đùa nghịch của tôi: "Thế nào, Nê Túc, tôi tưởng chỉ có một ḿnh tôi là cưỡi ngựa dở, c̣n anh cũng vậy sao?"
Chương tŕnh học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây Tạng, toán học và khắc bản gỗ. Về việc ấn loát ở Tây Tạng, người ta thường dùng những bản gỗ có khắc chữ, nên việc khắc bản gỗ được coi như một bộ môn rất hữu ích.
Lớp học của chúng tôi là một gian pḥng rất rộng có thể chứa độ sáu chục đứa trẻ. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn gạch, trước một cái bàn hay một cái ghế dài, chiều cao độ năm tấc tây và ngồi xoay lưng về phía thầy học để cho chúng tôi không thể biết rằng thầy có nh́n ḿnh hay không. Thầy bắt chúng tôi học một cách rất kham khổ và không để chúng tôi nghỉ ngơi một giây phút nào.
Có một phần trong chương tŕnh học mà tôi không bao giờ quên: đó là lập lại những Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi phải đọc những Điều Răn này khi vào lớp và lập lại một lần nữa trước khi rời khỏi lớp vào giờ tan học. Đó là:

Hăy lấy ân báo ân, lấy đức báo đức
Đừng ăn hiếp những kẻ hiền lành
Hăy siêng đọc các kinh điển và giáo lư
Hăy giúp đỡ kẻ đồng loại
Luật pháp khắc khổ đối với kẻ giàu sang
Để dạy họ sự thông cảm và sự công bằng
Luật pháp khoan hồng đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ
Hăy trả dứt nghiệp quả nợ nần càng sớm càng hay
Để cho chúng tôi không thể nào quên, những Điều Răn đó được viết trên những tấm bản đóng trên bốn vách tường của lớp học.
Tuy nhiên, cuộc đời hằng ngày của chúng tôi không phải hoàn toàn dành cho sự học và sự sống khắc khổ. Chúng tôi cũng lao ḿnh vào những cuộc chơi điền kinh, thể dục một cách hăng say ngoài giờ học. Những môn thể dục này được đặt ra để tạo cho chúng tôi một thể xác cường tráng có thể chịu đựng khí hậu vô cùng gắt gao của xứ Tây Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa trưa mùa hè nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể xuống thấp dưới không độ. Vào mùa đông, thời tiết c̣n lạnh hơn thế rất nhiều.
Bắn cung, một môn thể dục rất tốt để làm nở nang bắp thịt và để tập nhắm một cách chính xác, là bộ môn mà chúng tôi rất thích. Cung nỏ của chúng tôi dùng đều làm bằng gỗ mun nhập cảng từ Ấn Độ; người ta chế tạo những cái ná bằng gỗ bổn xứ. Là Phật tử chân chính, chúng tôi không bao giờ bắn loài thú vật. Để tập bắn cung chúng tôi dùng những cái bia di động, mà những kẻ gia nô núp ở chỗ ẩn khuất cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất thần mà không cho chúng tôi hay. Phần nhiều những bạn hữu của tôi có thể bắn trúng đích trong khi họ săi ngựa như bay. Về phần tôi, trái lại, tôi không thể ngồi vững trên lưng ngựa được lâu như thế!
Một tṛ chơi tiêu khiển khác là đi cà khêu. Chúng tôi dùng hai cây cà khêu, giống như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn đạp để xỏ hai chân vào đó, và sau khi đă ngụy trang làm những người khổng lồ, chúng tôi thường xáp chiến với nhau trong những cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ nào thua là kẻ bị té ngă trước nhất.
C̣n những môn thể dục khác nữa là nhảy sào, và đá cầu. Nhưng ở Tây Tạng nhất là ở vùng ngoại ô thủ đô Lhasa, cuộc chơi thịnh hành nhất là môn thả diều, mà người ta có thể gọi là môn thể dục của dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể chơi diều vào những mùa nhất định. Nhiều năm về trước, người ta nhận thấy rằng thả diều trên những vùng núi cao đă gây nên những trận mưa lũ, khi đó người ta nghĩ rằng có lẽ các vị thần làm mưa đă nổi giận, nên dân chúng chỉ được phép chơi diều vào mùa thu, tức là mùa tạnh ráo ở Tây Tạng. Có những ngày nhất định, người ta giữ im lặng không kêu to ở các miền núi, v́ tiếng vang của họ gây nên một sự chuyển động quá mau của những đám mây mù ẩm thấp từ bên Ấn Độ bay qua, do đó mà có những trận mưa lũ bất ngờ.
Ngày đầu mùa thu, một con diều đầu tiên được phóng lên từ nóc điện Potala. Trong vài phút, những con diều khác đủ mọi h́nh thức, lớn nhỏ đủ cỡ và đủ các màu sắc, liền xuất hiện trên nền trời Lhasa, trên đó chúng nó bay lượn nhảy nhót theo chiều gió thổi mạnh.
Tôi rất say mê cuộc chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào để con diều của tôi bay lên trong số những con đầu tiên. Mọi đứa trẻ con đều tự tay chúng nó chế tạo những con diều của ḿnh, thường là với một cái sườn bằng tre được bao bọc ở phía ngoài bằng một thứ hàng tơ rất đẹp. Chúng tôi làm diều bằng những vật liệu thứ tốt hảo hạng v́ danh dự của gia đ́nh cũng có liên hệ trong cuộc chơi này. Cái sườn bằng gỗ giống như cái hộp được chế tạo xong, chúng tôi mới gắn vào đó cái đầu, hai cánh và cái đuôi một con rồng có một h́nh dáng dữ tợn.
Cuộc tranh đấu bằng diều diễn ra một cách vô cùng sôi nổi trong khi đó, chúng tôi cố gắng hạ những con diều của các địch thủ. Để thực hiện điều đó, chúng tôi gắn những miểng chai trên diều của chúng tôi và ngâm sợi dây diều trong một thứ keo trộn với bột thủy tinh nghiền nát; sau đó, chúng tôi chỉ cần phóng diều lên để cắt đứt sợi dây của các địch thủ và bắt lấy con diều của họ.
Đôi khi, lúc trời tối chúng tôi lén thả diều lên trời sau khi đă cột chặt những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên trong cái sườn gỗ và ở chỗ đầu rồng. Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ và ḿnh rồng lóng lánh muôn màu ngh́n sắc liền nổi bật trên không trung giữa nền trời u ám của đêm khuya. Chúng tôi đặc biệt thích cuộc chơi này khi có những đoàn thương buôn lớn chở hàng trên lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến thủ đô Lhasa. Với tuổi ngây thơ chúng tôi nghĩ rằng người thương buôn "Dốt nát" ở các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao giờ nghe nói đến những phát minh diễm ảo tân kỳ như những con diều của chúng tôi. Vậy nên chúng tôi quyết định gây cho họ một cơn sợ sệt kinh hoàng một phen nên thân.
Một trong những phát minh khác nữa của chúng tôi là gắn trong ḿnh con diều ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt cách nào cho gió thổi vào làm các vỏ ốc phát ra một tiếng hú kinh hồn. Khi thả diều lên trời, con rồng lửa uốn khúc muôn màu phát ra những tiếng rú rùng rợn trong đên khuya, và chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ gây cho các tay thương buôn đến từ các tỉnh lẻ xa xôi một cơn sợ sệt mà họ sẽ nhớ đến suốt đời không quên.
Tây Tạng không phải là xứ có thể dung nạp những người có thể chất yếu đuối. Thủ đô Lhasa ở vào một vùng cao nguyên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, có một thời tiết rất chênh lệch giữa cực nóng và cực lạnh. Những vùng cao hơn lại có một khí hậu gắt gao hơn nữa. Những người có thể chất yếu đuối có thể làm liên lụy đến sự sống của kẻ khác. Chính v́ bởi lẽ đó, chứ không phải do sự tàn ác, mà sự giáo dục thiếu nhi thật là vô cùng khắc khổ như đă kể trên.
Ở những vùng sơn cước, người ta đem ngâm những đứa trẻ sơ sinh dưới suối nước lạnh và xem chúng có đủ sức chịu đựng dẻo dai hay không, để có quyền sống như mọi người. Tôi thường thấy những người đi diễn hành đến một ngọn suối, ở một vùng núi non chiều cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ suối, đoàn người dừng lại, một bà lăo bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, rồi cả gia đ́nh gồm cha, mẹ và thân quyến đứa trẻ ngồi vây chung quanh bà. Khi người ta lột hết áo quần đứa trẻ, bà lăo bèn ngâm thân ḿnh đứa bé sơ sinh dưới nước suối, chỉ c̣n thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới nước suối lạnh buốt, thân ḿnh đứa trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh giờn, những tiếng kêu của nó đă im bặt, nó không c̣n kêu la phản đối nữa. Nó có vẻ chết lịm, nhưng bà lăo đă từng kinh nghiệm nhiều về việc này bèn rút nó lên khỏi mặt nước, lau chùi khô ráo và mặc quần áo lại cho đứa bé. Nó sống lại chăng? Đó là các thần linh đă quyết định như thế. Nếu nó chết, th́ đó lại càng hay v́ nó khỏi phải chịu những sự khổ đau về sau này của cuộc đời trần thế! Người ta không thể làm ǵ khác hơn dưới một khí hậu gắt gao như ở Tây Tạng. Không nên có những kẻ bịnh hoạn, yếu đuối ở một xứ mà mọi phương tiện cứu trợ y tế đều thiếu thốn: Thà để vài đứa bé sơ sinh chết c̣n hay hơn.
Khi anh tôi qua đời, th́ tôi cần phải xúc tiến việc một cách ráo riết hơn. Thật vậy, vào năm lên bảy tuổi, tôi đă phải bắt đầu chuẩn bị tương lai. Tôi sẽ đi theo con đường nào và chọn lựa nghành hoạt động nào? Điều đó sẽ do các nhà chiêm tinh quyết định. Ở Tây Tạng, bất cứ việc ǵ lớn nhỏ, từ việc mua một con Yak đến việc chọn một nghề nghiệp, đều do sự quyết đoán của các nhà chiêm tinh. Trước ngày sinh nhật năm tôi lên bảy, mẹ tôi mở một cuộc tiếp tân khổng lồ, trong dịp đó những quan khách gồm các nhà quư tộc và các chức viên cao cấp trong chánh phủ được mời tham dự để nghe những lời tiên tri của các nhà chiêm tinh.
Mẹ tôi là một mệnh phụ đảm đang, với một vóc vạc phương phi, một gương mặt tṛn và tóc đen huyền. Những phụ nữ Tây Tạng bới đầu theo một kiểu rất mỹ thuật và cài trên mái tóc một thứ lược bằng gỗ. Những lược gỗ này thường sơn mài màu đỏ thắm, có cẩn những hột đá quí, cẩm thạch hoặc san hô, là những mỹ phẩm làm rất khéo léo. Cài trên một đầu tóc đen huyền có sức dầu bóng loáng, những lược sơn mài đó tạo nên một vẻ đẹp rất thanh lịch.
Những áo dài Tây Tạng có những màu sắc rất vui mắt mà nổi bật nhất là màu đỏ, màu lục và màu vàng. Thường ngày các bà nội trợ đeo phía trước ngực một mảnh vải trơn với một cái vệt ngang khác màu, nhưng màu sắc được chọn cho tiệp với nhau một cách mỹ thuật. Họ đeo những chiếc bông tai mà kích thước lớn nhỏ tùy nơi giai cấp của họ trong xă hội. Mẹ tôi, xuất thân từ một gia đ́nh quyền quí, đeo những chiếc bông tai dài trên muời lăm phân tây.
Người Tây Tạng chủ trương một sự b́nh đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ. Nhưng về vấn đề coi sóc nội trợ gia đ́nh, mẹ tôi không phải chỉ bằng ḷng với sự b́nh đẳng. Với một ư chí độc tài và một quyền hành tuyệt đối, mẹ tôi ngự trị trong gia đ́nh như một nhà vua, mẹ tôi biết mẹ tôi muốn ǵ và khi muốn ǵ mẹ tôi phải được cái đó.
Trong sự nhộn nhịp xôn xao nhân dịp chuẩn bị cuộc tiếp tân, mẹ tôi mới thật sự là có đất dụng vơ. Nào là tổ chức, phải ra lệnh, soạn thảo kế hoạch để " ăn đứt" những kẻ láng giềng. Mẹ tôi tỏ ra rất thông thạo v́ trong nhiều chuyến du hành theo cha tôi sang Ấn Độ, Bắc Kinh và Thượng Hải, mẹ tôi đă thu thập được hằng khối những sáng kiến nước ngoài.
Khi ngày tiếp tân đă định, những sư săi như thư kư mới viết thiệp mời trên một loại giấy dày, làm bằng tay, chỉ được dùng trong những dịp giao tế tối quan trọng. Mỗi thiệp mời đo độ ba mươi phân bề ngang trên sáu mươi phân bề dài và có đóng triện son của người gia trưởng. Mẹ tôi cũng đóng triện son riêng của ḿnh vào đó v́ người thuộc về ḍng dơi quư phái. Ngoài ra lại c̣n một cái triện chung cho cả gia đ́nh, tức là có tất cả ba cái triện son đóng trên thiệp mời, làm cho nó trở nên một bản văn kiện thật là nghiêm trọng. Nghĩ rằng tôi là nguyên nhân cho tất cả những lễ nghi trịnh trọng đó làm cho tôi rùng ḿnh. Tôi không biết rằng tầm quan trọng của tôi thật ra chỉ là phụ thuộc so với một tập quán xă hội. Nếu người ta nói cho tôi biết rằng cuộc tiếp tân long trọng này sẽ đem nhiều vinh dự cho cha mẹ tôi, th́ tôi sẽ không hiểu ǵ cả. Bởi vậy, tôi vẫn nơm nớp lo sợ.
Những sứ giả đem thơ được đặc biệt thu dụng trong dịp này để đem các thiệp mời đến các quan khách. Mỗi người đều cưỡi một con tuấn mă và cầm nơi tay một cái gậy ngắn có khe hở ở một đầu để xếp cái thiệp mời vào đó, ở ngoài bao có in những phù hiệu chánh thức của gia đ́nh chúng tôi.
Khi các sứ giả đă sẵn sàng lên đường th́ trong sân nhà chúng tôi diễn ra một cảnh tượng náo động khôn tả. Các gia nô kêu gọi nhau đến khan cả cổ họng, ngựa hí vang tai, những con chó ngao đen lớn sủa ầm lên như điên. Sau một chầu rượu bia cuối cùng, những chàng kỵ mă đặt mạnh những ly cốc xuống bàn, trong khi đó những cánh cửa cổng nặng nề đă mở ra với những tiếng động ầm ĩ và đoàn kỵ mă vừa phóng ngựa phi nước đại vừa hét vang tai nghe thật rùng rợn.
Nếu họ mang những bức thơ tín viết tay th́ đồng thời các sứ giả cũng chuyển đạt luôn một thông điệp truyền khẩu, mà nội dung có thể hoàn toàn khác hẳn. Hồi thời xưa, những tay côn đồ, cường đạo thường phục kích các sứ giả đem thơ ở giữa đường rồi ngụy trang và dùng những bức thông điệp đó để tấn công một ngôi nhà không pḥng thủ hay một đoàn thương buôn chẳng hạn. Từ đó, người ta thường cố ư viết những thơ tín giả để gài bẫy và dụ bọn cướp đến những chỗ có phục binh và tiêu diệt chúng. Thủ tục cổ truyền về việc gởi đi một lượt hai thông điệp, một viết tay và một truyền khẩu, là một cái di sản của thời quá khứ. Dầu cho ở thời đại này, người ta cũng có khi gởi đi hai thông điệp song đôi như thế; trong trường hợp đó th́ chỉ có thông điệp truyền khẩu mới có giá trị.
Trong nhà tôi thật là náo nhiệt tưng bừng! Những vách và trần nhà được phết lên một lớp sơn mới, những sàn gỗ được đánh bóng trơn tru đến nỗi đi phải coi chừng kẻo trượt ngă. Những bàn thờ được lau chùi và sơn phết lại sạch bóng. Một số lớn những ngọn đèn mới thắp bằng bơ được đem ra sử dụng; có những ngọn đèn bằng vàng và những ngọn đèn khác bằng bạc, nhưng cả thảy đều lau chùi bóng láng đến nỗi không thể phân biệt được nữa. Mẹ tôi và người quản gia không ngớt chạy tới chạy lui trong nhà, chỉ trích, sửa đổi chỗ này, dọn dẹp sắp đặt chỗ kia và ra lệnh cho những kẻ gia nô làm việc không hở tay. Cha mẹ tôi có trên năm chục người nô bộc giúp việc nhà và có một số khác được thâu dụng thêm trong việc tiếp tân. Không một người nào là nhàn rỗi và tất cả đều làm việc một cách hăng hái. Sân nhà cũng được quét dọn, lau chùi cho đến khi những tảng đá chiếu sáng ngời như mới vừa đem ở động đá về. Để làm cho sân nhà có vẻ lộng lẫy, những chỗ trống ở giữa các phiến đá cũng được tô thêm một lớp màu. Khi mọi việc đều xong xuôi, mẹ tôi tụ tập tất cả gia nhân và ra lệnh cho họ hăy mặc đồng phục tươm tất, chỉnh tề.
Trong nhà bếp, có sự hoạt động ráo riết ngày đêm để chuẩn bị đầy đủ các đồ cao lương mỹ vị đăi khách. Xứ Tây Tạng là một cái tủ lạnh thiên nhiên, đồ vật thực một khi đă nấu nướng xong, có thể để dành rất lâu mà không hư hoại, v́ thời tiết lạnh và khô ráo. Dẫu cho khi tiết trời nóng bức, bầu không khí khô ráo cũng giữ cho các thức ăn không hư. Nhờ đó, thịt có thể để dành suốt năm mà vẫn c̣n tươi và lúa ḿ có thể để dành suốt nhiều thế kỷ.
V́ người Phật tử giữ giới bất sát sinh, nên người ta chỉ ăn thịt những con thú v́ rủi ro bị té chết trong khe núi, hoặc chết bởi các tai nạn khác.
Nhà bếp của gia đ́nh tôi có trữ sẵn nhiều loại thịt này. Ở Tây Tạng cũng có những người làm nghề đồ tể, bán thịt nhưng những gia đ́nh Phật tử chính thống không giao tiếp với hạng người này, v́ họ thuộc về một giai cấp hạ tiện, "Bất khả tiếp xúc".
Mẹ tôi quyết định tiếp tân theo một lối vừa khác thường vừa linh đ́nh trọng thể, và đăi khách một món đặc biệt là món mứt hoa rhododendron (cây đỗ quyên). Vài tuần lễ trước, những kẻ gia nô nhà tôi đă cưỡi ngựa đến tận triền núi Tuyết Sơn là nơi có những loại hoa đẹp nhất. Ở Tây Tạng, hoa đỗ quyên mọc rất lớn và có rất nhiều loại thuộc đủ các màu sắc và hương thơm. Người ta chọn những hoa chưa nở hẳn và đem về rửa sạch một cách rất cẩn thận. Thật vậy, nếu một cái hoa hơi nát một chút là làm cho mứt bị hỏng. Kế đó, mỗi hoa được để ngâm trong một cái bồn thủy tinh lớn chứa đầy nước và mật ong, rồi đậy thật chặt để cho kín gió. Mỗi ngày và liên tiếp trong nhiều tuần, bồn hoa được đem phơi nắng và xoay trở từng kỳ hạn để cho tất cả các phần của hoa đều được hứng ánh nắng cần thiết. Hoa trong bồn nở lớn từ từ và thấm nhuần chất nước pha mật ong. Có người thích đem phơi gió vài ngày trước khi ăn để cho hoa được khô và hơi gịn, mà vẫn không mất hương vị hay sắc tươi của nó. Họ cũng rắc đường lên các cánh hoa để cho nó có vẻ đượm tuyết giống như thiên nhiên. Tất cả những phí tổn để làm món mứt hoa này làm cho cha tôi nhăn nhó, cằn nhằn. Người nói: "Với cái giá tiền để mua những hoa đẹp này, chúng ta có thể mua sáu con Yak mẹ cùng với một bầy Yak con." Mẹ tôi đáp với một giọng đầy nữ tính:
- "Ông đừng ngớ ngẩn. Cuộc tiếp tân của chúng ta nhất định phải thành công, và dầu sao chăng nữa, những phí tổn này là phần việc nội trợ của tôi".
Món vi cá nhập cảng từ Trung Hoa là một món mỹ vị khác, mà người ta dùng để nấu canh. Có người nói rằng món canh vi cá là món tuyệt đỉnh của nghệ thuật làm bếp.
Riêng tôi, tôi nhận thấy món ấy rất dở, và thật là một cực h́nh khi tôi bắt buộc phải ăn món vi cá. Cá mập được chở đến xứ Tây Tạng trong một trạng thái mà người ta không c̣n nhận ra nó được nữa! Ta có thể nói một cách ôn ḥa là nó hơi « kém tươi », điều này có người lại cho rằng làm cho vi cá càng trở nên ngon hơn.
Món măng tre non, cũng nhập cảng từ Trung Hoa, là món ăn rất ngon: đó là món tôi thích nhất. Có nhiều cách để nấu măng, nhưng tôi thích nhất là ăn sống với một chút muối. Tôi luôn luôn chọn những búp măng vàng và xanh để ăn riêng, và bởi đó nhiều khúc măng để trong bếp bị ngắt đứt đầu trước khi đem lên soong chảo. Người đầu bếp có vẻ nghi ngờ tôi, nhưng y không có bằng cớ. Thật đáng tiếc, v́ chính y cũng thích ăn búp măng sống!
Ở Tây Tạng, nấu bếp là công việc của đàn ông; phụ nữ cũng làm bếp nhưng họ rất vụng về và không chịu cải tiến. Đàn ông có sáng kiến hơn và chịu khó hơn, bởi đó họ nấu ăn rất thiện nghệ. Riêng về môn quét dọn và ngồi lê đôi mách, th́ phụ nữ chiếm giải quán quân, và lẽ tất nhiên họ cũng rất giỏi về vài môn khác nữa. Nhưng nhất định là không, nếu nói về việc làm món tsampa.
Món tsampa là món ăn căn bản của người Tây Tạng. Nhiều người Tây Tạng quanh năm chầy tháng chỉ sống bằng món tsampa và trà đến suốt đời. Món tsampa làm bằng lúa mạch nha sấy khô cho đến khi nó trở thành gịn và có một màu vàng sậm. Những hột lúa mạch nha khi đó mới được giă, và tán thành bột, bột này lại được nướng lên lần nữa và đặt trong một cái chén, rồi người ta đổ vô đó trà nóng trộn với bơ con Yak, một loại ḅ lông dài. Kế đó người ta trộn cho đều để cho nó đông đặc lại thành một thứ bánh và cho thêm muối, chất hàn theo và bơ con Yak tùy sở thích từng người. Thứ bánh đó gọi là tsampa, có thể cuốn tṛn lại và cắt thành từng khoanh, rồi dọn ra để ăn. Món tsampa là món ăn thông thường của hạng người b́nh dân, nó có đủ chất bổ béo để cho người dân Tây Tạng có thể sống dưới mọi khí hậu và trong mọi hoàn cảnh.
Một nhóm gia nô làm món tsampa, một nhóm khác làm bơ theo một phương pháp đặc biệt của dân bổn xứ. Những cái bao lớn bằng da trừu, bề mặt có lông trộn vào trong, bề trái lộn ngược ra ngoài, được dùng làm đồ dụng cụ đánh sữa. Người ta đổ trong các bao da đó đầy sữa con Yak hay sữa dê. Để tránh khỏi bị hao hớt, phần trên các bao da đó được túm và xếp lại rồi may lại thật chắc. Kế đó, những bao da đựng sữa mới được nhồi thật mạnh cho đến khi sữa trở thành chất bơ. Để đánh sữa bằng phương pháp này, người ta dùng một chỗ có nhô lên những tảng đá bề cao chừng ba mươi phân. Sau khi đă đổ đầy sữa vô bao, người ta mới buông những bao đó cho rơi xuống các mô đá, việc này gọi là "đánh sữa". Chừng mười kẻ gia nô làm công việc này trong nhiều giờ liên tiếp. Họ vừa hít một hơi thở vào vừa giơ các bao da lên cao, và buông các bao da cho rơi xuống những mô đá với một tiếng động êm dịu "zunk". Đôi khi một bao da đă quá cũ hoặc do bởi người đánh sữa quá vụng về, th́nh ĺnh nổ bung ra. Tôi c̣n nhớ một gia nhân nhà tôi rất khỏe mạnh lực lưỡng, y thường hay khoe khoang sức vóc của ḿnh. Y làm việc nhanh gấp đôi kẻ khác, và sự cố gắng làm gân cổ y nổi vồng lên. Một ngày nọ, có người nói với y: "Anh Timon, chắc anh già rồi, v́ bây giờ anh làm việc không nhanh bằng khi trước."
Hét lên một tiếng giận dữ, Timon bèn nắm lấy phía trên một bao da, giơ lên cao với hai cánh tay khỏe mạnh để buông cho nó rơi xuống. Nhưng sức mạnh của y đă phản ngược lại y: Y c̣n nắm cái miệng bao da th́ phần dưới đă lở xuống và rớt xuống những mô đá. Một cây cột bơ hăy c̣n hơi lỏng vọt ra và văng trúng ngay vào giữa mặt Timon, y "Lănh đủ" tất cả vào miệng, vào mắt, vào mũi, vào tai, vào tóc. Năm chục đến sáu chục lít bơ chảy tuôn xuống dọc theo thân ḿnh y và bao phủ y bằng một chất nhờn màu vàng.
Nghe tiếng động, mẹ tôi hối hả chạy vào. Đó là lần đầu tiên trong đời mà tôi thấy mẹ tôi đứng sững nh́n trong im lặng. Có lẽ mẹ tôi tức giận v́ thấy những bấy nhiêu bơ bị hủy hoại chăng? Hay mẹ tôi đang lo ngại cho thằng ngốc đang bị ngẹt thở? Dù rằng thế nào, mẹ tôi bèn nắm lấy cái bao da rách bụng và đập một cái lên đầu y. Chàng Timon vô phước bèn trượt ngă xuống đất nằm sóng sượt trên một cái ao... bơ!
Những gia nô vụng về như Timon có thể làm hủy hoại mất nhiều bơ. Chỉ hơi cẩu thả một chút trong khi buông tay cho cái bao rơi xuống là những sợi lông liền tách rời ra khỏi da và lẫn lộn với chất sữa. Lượm lấy hai hay hai chục sợi lông trong chất bơ đă làm xong, là một điều rất thông thường, nhưng nếu lại thấy có cả chùm lông trong đó th́ ấy là một điều rất dở. Chất bơ bị hư hoại được cất riêng một nơi để dùng đốt đèn, hoặc để bố thí cho những kẻ ăn mày, họ sẽ nấu lại và lọc sạch bằng một miếng giẻ cũ để dùng ăn lần.
Những thơ trả lời cho thiệp mời của chúng tôi không bao lâu đă đến. Những người kỵ mă phóng nước đại đến nơi, tay vung lên những cây gậy nhỏ có chẻ một đầu có đựng những thơ tín. Khi đó người quản gia mới bước ra để nghinh đón sứ giả của các nhà quư tộc. Sau khi rút bức thông điệp từ trong gậy ra, người sứ giả cũng thốt lên một thông điệp truyền khẩu, thậm chí không kịp lấy lại hơi thở. Kế đó, y sụm xuống trên hai đầu gối và để rơi ḿnh xuống đất trong một giàn cảnh rất khéo léo, dường nhưng để tỏ cho mọi người thấy y đă xả thân không quản công lao khó nhọc để làm tṛn bổn phận và để đến nhà gia đ́nh tôi kịp giờ!
Trong những dịp đó, những gia nô nhà tôi thường vây chung quanh y và nói: "Tội nghiệp thằng nhỏ!" Y đến thật là mau! Thật là một kỳ công hăn hữu! Chắc hẳn là y chạy mau đến muốn đứng tim. Thật là cao quư thay, một tinh thần phục vụ hăng say như thế!"
Một ngày nọ tôi, đă ngứa miệng xen vào câu chuyện và nói: "Ấy không! Y không có chạy mau đến muốn đứng tim! Tôi vừa thấy y ngồi nghỉ mệt ở đầu làng gần đây. Chắc y nghỉ lấy sức để chạy một đoạn đường cuối cùng!" Sự kín đáo bắt buộc tôi phải bỏ qua không nói đến cái cảnh tượng vụng về lúng túng tiếp theo đó.
Sau cùng, ngày đại nhật đă đến, cái ngày mà tôi vẫn e ngại biết bao, v́ người ta quyết định cuộc đời tương lai của tôi mà không cần hỏi ư kiến của tôi. Những tia nắng đầu tiên của mặt trời b́nh minh vừa ló dạng từ đằng sau các ngọn núi xa ở tận chân trời, th́ một người gia nô bước vào pḥng tôi: "Cậu chưa ngủ dậy ư, cậu Lâm Bá? Hay là cậu giả vờ ngủ? Đă bảy giờ rồi, và chúng tôi có nhiều việc phải làm. Thôi, cậu hăy thức dậy đi!" tôi bỏ mền ra và ngồi dậy. Ngày đó là ngày mà con đường tương lai sẽ rộng mở trước mắt tôi.
Ở Tây Tạng, trẻ con được gọi bằng tên của nó do cha mẹ đặt cho khi c̣n sống trong gia đ́nh. Nhưng khi một đứa trẻ bước vào tu viện, nó nhận được một tên khác, đó là pháp danh của nó. Đó là trường hợp của tôi chăng? Phải đợi những giờ sắp tới đây mới biết được. Tôi đă lên bảy tuổi và muốn trở nên một người chèo đ̣ để thả thuyền lênh đênh trên sông TsangPo,cách đó độ sáu chục cây số. Nhưng hăy khoan, để c̣n xem lại. Tôi có thật sự muốn điều đó chăng? Dầu sao, những người chèo đ̣ đều thuộc giai cấp dưới, v́ những đ̣ của họ đều làm bằng da con Yak đóng trên những cái khuôn bằng gỗ. Tôi, một anh lái đ̣? Tôi, một người thuộc gia cấp hạ tiện? Không. Không phải vậy. Tôi muốn trở nên một nhà chuyên nghiệp về môn thả diều. Ừ, phải đấy, thả diều trên không trung, nhảy tự do như không khí, c̣n hơn là ngồi trong một chiếc đ̣ căng bằng da thú, làm hạ nhân cách và trôi theo ḍng nước xoáy mạnh nguy hiểm. Một chuyên viên thả diều, đó là điều mà tôi muốn làm, và tôi sẽ chế tạo những con diều khổng lồ với những cái đầu tôi lớn và đôi mắt sáng rực như lửa. Nhưng hôm nay, những giáo sĩ chiêm tinh sẽ có quyền quyết định. Có lẽ tôi đă chờ đợi quá lâu: Nay th́ đă quá trễ để nhảy qua cửa sổ và chạy trốn. Cha tôi chắc sẽ cho người chạy theo bắt tôi trở lại. Dầu sao, tôi là con nhà thế gia vọng tộc và tôi phải tuân theo truyền thống. Biết đâu các nhà chiêm tinh chẳng tiên tri rằng tôi sinh ra đời để làm một chuyên viên thả diều? Tôi chỉ có thể đợi chờ và hy vọng.


 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 222 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 8:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

LỜI TIÊN TRI

Chương Hai

 


- Ồ ! Vân Kỳ, anh bứng hết tóc của tôi! Dừng tay lại, không th́ đầu tôi sẽ sói như một ông săi.
- Hăy để yên, Lâm Bá. Cái bím tóc của cậu phải được thắt cho ngay và thoa bơ cho láng bóng, nếu không th́ bà lớn sẽ trừng phạt tôi.
- Hăy nhẹ tay một chút, Vân Kỳ, anh vặn cổ tôi đau quá!
- Không sao đâu, tôi phải làm gấp mới được.
Tôi ngồi dưới đất và một kẻ nô lệ phũ phàng với hai bàn tay chuối mắn, vặn cái bím tóc tôi như người ta vặn cái "Maniven" quay máy xe hơi! Sau cùng cái bím tóc tôi trở nên cứng đơ như một con yak bị rét cóng và sáng ngời như ánh trăng rằm trên mặt hồ.
Mẹ tôi bận rộn quay cuồng như cơn gió lốc; mẹ di chuyển trong nhà mau lẹ dường như người có phép phân thân ở nhiều chỗ cùng một lúc. Có những chỉ thị vào giờ chót, những sự chuẩn bị cuối cùng, và rất nhiều lời lăng xăng dường như một mệnh phụ bốn mươi cái xuân. Cha tôi trốn cảnh náo nhiệt ồn ào đó bằng cách bế môn và rút lui vào pḥng riêng của ḿnh.
Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi đến JoKang, ngôi đền lớn ở thủ đô Lhasa; đó hẳn là v́ mẹ tôi muốn cho cuộc lễ tiếp tân được diễn ra trong một bầu không khí tôn giáo. Vào lúc mười giờ sáng, một tiếng cồng với ba âm điệu khác nhau điểm giờ tựu họp. Chúng tôi tất cả đều cưỡi ngựa, cha tôi, mẹ tôi, Yaso và tôi cùng vài người trong thân quyến sửa soạn lên đường. Chúng tôi noi theo con đường LingKhor, và đi ṿng quanh dưới chân điện Potala, một ṭa cung điện lâu đài nguy nga tráng lệ của vị Đạt Lai Lạt Ma, độ một trăm ba mươi thước bề cao và bốn trăm thước chiều dài. Sau khi đi qua làng Shô, và đi ngựa mất nửa giờ trên đồng bằng Kyi Chu, chúng tôi đă đến trước cửa đền. Chung quanh đền là những ngôi nhà trọ, cửa tiệm và chuồng ngựa đợi khách hàng trong những đám người hành hương. Từ ngày được dựng lên trước đây mười ba thế kỷ, ngôi đền Jo Kang vẫn luôn luôn tiếp đón khách hành hương. Ngôi đền cổ đă biểu lộ những nét tàn phá của thời gian. Các viên tảng đá dưới nền đă bày ra những đường nứt nẻ sâu đến nhiều phân tây do những bước chân dẫm lên của hàng ngh́n tín đồ. Những tượng thần bằng vàng của nền tôn giáo Tây Tạng được xếp thành hàng dài dọc theo các vách tường. Những màn lưới sắt dầy và kiên cố giữ ǵn những pho tượng nầy đối với những tín đồ mà ḷng tham có thể mạnh hơn là ḷng tôn sùng. Những tượng thần lớn nhất phần nhiều đều tràn ngập đến quá nửa thân ḿnh với hàng đống ngọc quư và châu báo mà những người sùng tín cầu xin ân huệ thiêng liêng đă đặt lên đó. Trên những chân đèn bằng vàng khối, những ngọn bạch lạp được thấp thường xuyên, tỏa ra ánh sáng không bao giờ tắt đă từ mười ba thế kỷ.
Từ những góc âm u của ngôi đền vọng đến tay chúng tôi những tiếng chuông gân, tiếng cồng và tiếng tù và thổi vang tai. Chúng tôi noi theo con đường ṿng trước chánh điện theo như truyền thống bắt buộc, và sau khi đă lễ bái xong, chúng tôi bước lên trên nóc bằng của ngôi đền. Nơi đây chỉ có một số ít người có đặc quyền được lên. Cha tôi, với tư cách Bảo Thế của Giáo Hội, luôn luôn có mặt ở tại đây mỗi khi đến viếng ngôi đền nầy.
Tiện đây, tôi xin nói sơ lược về nền chính trị của xứ Tây Tạng. Đứng đầu quốc gia và Giáo Hội là đức Đạt Lai Lạt Ma, tục gọi là Phật Sống Tây Tạng. Ngài vừa là vị nguyên thủ quốc gia cầm quyền chính trị, vừa là nhà lănh đạo tôn giáo, vừa là vị Thẩm phán tối cao cầm cán cân công lư của dân Tây Tạng. Mọi người dân bất cứ sang hèn đều có thể thỉnh cầu đến ngài. Nếu một sự khiếu nại hay đơn thỉnh nguyện có lư do chính đáng, hoặc trong trường hợp có sự bất công oan ức, vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ xét xử để thỏa măn các nguyện vọng và san bằng mọi nỗi bất công. Thật không phải là quá đáng mà nói rằng tất cả mọi người, không trừ một ai, đều yêu mến và kính trọng ngài. Ngài là vị quốc vương có quyền hành tuyệt đối. Ngài sử dụng uy quyền thế lực của ngài v́ hạnh phúc của dân chúng, chứ không bao giờ v́ những mục đích ích kỷ. Ngài đă tiên đoán sự xâm lăng của quân Trung Cộng từ nhiều năm về trước. Ngài cũng biết rằng nền tự do của xứ Tây Tạng tạm thời sẽ trải qua một thời kỳ xuống dốc. V́ bởi những lư do đó mà một số ít người trong giới tu sĩ được một sự thụ huấn đặc biệt, để cho những kiến thức Huyền Môn mà các nhà đạo sĩ thời xưa đă góp nhặt từ nhiều thế kỷ sẽ khỏi phải bị mai một và đắm ch́m trong quên lăng.
Dưới quyền lănh đạo của đức Đạt Lai Lạt Ma có hai Hội Đồng: Một là Hội Đồng Tôn Giáo, gồm có bốn vị cao tăng ở cấp đẳng Lạt Ma. Những vị này đều chịu trách nhiệm trước đấng Thậm Thâm (một danh hiệu khác của đức Đạt Lai Lạt Ma. Người ta thường gọi ngài là đức Thái Tuế, đấng Thậm Thâm ( Le Très Profond ), đấng Khôn Lường, ( I’Inappréciable.) về những vấn đề liên quan đến các tổ chức tu viện Lạt Ma Giáo (lamaseries) và đạo viện trong xứ. Tất cả những vấn đề tâm linh và tôn giáo đều phải qua tay các vị ấy phát lạc.
Kế đó là Hội Đồng Nội Các, gồm có bốn vị Tổng Trưởng trong số đó có ba vị thuộc thành phần dân chính và một vị là tu sĩ. Các vị này nắm quyền cai trị toàn xứ và đảm trách việc ḥa hợp Quốc Gia vào Giáo Hội thành một khối duy nhất.
Hai viên chức chánh phủ mà người ta có thể gọi là các vị Thủ Tướng, làm "Ủy viên liên lạc" với hai Hội Đồng trên, và đệ tŕnh những ư kiến của hai Hội Đồng này lên cho đức Đạt Lai Lạt Ma. Hai vị ấy đóng một vai tṛ quan trọng trong những phiên họp rất hiếm của Quốc Hội, gồm năm mươi nghị viện đại diện cho các gia đ́nh quư tộc và những tu viện lớn nhất của thủ đô Lhasa. Quốc Hội chỉ nhóm trong những trường hợp rất khẩn cấp, như hồi năm 1904 khi đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong tị nạn sang Mông Cổ trước sự xâm lăng của quân đội Anh. Về điểm này, tưởng cần giải thích rơ rằng sự lưu vong tị nạn của đức Đạt Lai Lạt Ma không có nghĩa là Ngài chạy trốn. Chiến tranh ở xứ Tây Tạng có thể ví như một cuộc chơi cờ tướng: Bên nào ông tướng bị bắt th́ bên đó thua. Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị Quốc vương của xứ Tây Tạng. Không có ngài, th́ mọi sự chiến đấu đều trở nên vô ích: Ngài phải được ẩn trú an toàn để bảo vệ sự hợp nhất của xứ sở.
Số nghị sĩ Quốc Hội có thể lên đến bốn trăm người khi nào những thân hào nhân sĩ ở các tỉnh tham dự đông đủ các phiên nhóm.
Với thời gian qua, đức Đạt Lai Lạt Ma càng gia tăng quyền hành của ngài và không cần đến sự giúp đỡ ư kiến của những Hội Đồng hay của Quốc Hội nữa. Xứ Tây Tạng chưa bao giờ có được một sự cai trị anh minh và sáng suốt như thế.
Từ trên nóc đền nh́n ra xa, là một phong cảnh vô cùng ngoạn mục. Nằm về phía đông là vùng đồng bằng Lhasa xanh tươi, rải rác có những cụm rừng nhỏ với những lùm nhỏ uốn khúc, phản chiếu ánh nắng mặt trời như những con rắn bạc, trước khi chảy vào sông Tsang Pô ở cách đó sáu mươi cây số. Ở phía bắc và nam, những dăy núi cao dựng lên chơm chởm như thành quách bao bọc chung quanh các vùng thung lũng và cao nguyên Tây Tạng, làm cho dân tộc xứ này sống biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Nhiều tu viện Lạt Ma Giáo được dựng lên trên các triền núi. Ở trên những ngọn núi cao hơn, có những đạo viện nhỏ nhô lên một cách nguy hiểm trên những sườn núi cheo leo bên bờ vực thẳm. Về phía tây, hai ngọn núi song đôi của điện Potala và tu viện Chakpori nhô lên ở đằng xa. Giữa hai ngọn núi này, cánh cửa Tây Môn chiếu sáng ngời trong ánh sáng b́nh minh c̣n sương mờ lạnh lẽo. Màu đỏ sậm của nền trời càng nổi bật lên một cách dị thường, tương phản với màu tuyết trắng tinh bao phủ các dăy núi nhô lên ở phía chân trời.
Trên đầu chúng tôi, những đám mây lợt lướt nhẹ trong không gian. Trong thành phố, ở gần bên, toà Thị Sảnh day lưng vào mặt bắc của ngôi đền. Sở Ngân Khố ở sát bên cạnh, cùng với những gian hàng, cửa tiệm và chợ búa mà người ta có thể mua đủ mọi thứ, thượng vàng hạ cám. Cách đó không xa, ở về phía đông, là một tu viện của nữ giới và vùng cư trú của Âm Công.
Những khách hành hương đă tấp nập trước cửa đền, một trong những nơi thánh địa lớn nhất của Phật Giáo. Chúng tôi nghe tiếng nói chuyện không ngớt và những tiếng động ồn ào của các tín đồ hành hương đến từ những vùng xa xôi với những đồ lễ vật mà họ đem cúng dâng với hy vọng được Ơn Trên ban ân huệ. Có người đem theo những con thú mà họ đă mua lại ở ḷ sát sinh với những số tiền nhỏ nhoi khiêm tốn của họ. Cứu sống một sinh vật dầu đó là một con thú hay một người, là một nghiệp tốt rất lớn về phương diện tâm linh.
Trong khi chúng tôi nh́n xem những cảnh tượng cổ điển đó, chúng tôi nghe những tiếng kinh kệ ngân nga của các sư săi, có những giọng thâm trầm của các vị sư già chen lẫn với những giọng thanh, nhẹ của những chú tiểu sơ cơ. Tiếng trống và những tiếng kèn cũng trỗi dậy vang tai.
Những sư săi không bận rộn công việc, chạy tới lui lăng xăng không ngớt. Vài vị mặc áo màu vàng, những vị khác mặc màu tím, nhưng phần đông mặc áo tràng màu đỏ lợt của những "Sư săi thường", màu hoàn kim và màu đỏ sậm dành cho các sư săi trong điện Potala. Những chú tiểu sơ cơ và các sư săi cảnh binh mặc áo già sậm cũng qua lại lăng xăng. Hầu hết đều có một điểm chung: Áo của họ dầu cũ hay mới, đều là áo cà sa vá từng miếng như của Đức Phật ngày xưa.
Những sư săi có phận sự trong điện Potala mặc một chiếc áo vàng ngắn, không tay, ở bên ngoài áo dài của họ. Màu hoàng kim được coi như một màu linh thiêng ở Tây Tạng (nó không bao giờ phai, bởi nó là một màu tinh khiết), và đó là màu chánh thức của đức Đạt Lai Lạt Ma. Những sư săi hay các vị Lạt Ma cao cấp hầu cận bên ngoài, có quyền mặc áo ngắn màu vàng phủ ngoài áo của họ.
Từ trên nóc đền Jokang chúng tôi đi về phía điện Potala th́ thấy có nhiều vị áo vàng đi qua lại. Chúng tôi ngước mắt nh́n lên th́ thấy những ngọn cờ tôn giáo phất phơ trước gió và những mái bầu của ngôi đền chiếu lóng lánh dưới ánh mặt trời.
Nền trời đỏ thắm trông tuyệt đẹp với những làn mây nhẹ và dài, coi dường như một bức tranh vẽ. Chúng tôi vừa đang ngắm cảnh mà cảm thấy say sưa ngây ngất, th́ mẹ tôi đă gián đoạn cái giây phút huyền diệu đó mà nói:
- Thôi ta đi kẻo mất thời giờ. Ḿnh phải về xem chừng kẻo bọn gia nô nó làm hư việc.
Chúng tôi bèn lên ngựa trở về nhà theo con đường Lingkhor, mỗi bước chân ngựa vang trên mặt đường lộ càng đưa tôi đến gần, điều mà tôi gọi là một cuộc "thử thách", nhưng mẹ tôi th́ coi như là ngày Đại Nhật của ḿnh.
Về đến nhà, mẹ tôi xem qua tất cả mọi việc một lần cuối cùng, và chúng tôi liền ăn uống một bữa no bụng để chuẩn bị chờ những ǵ sắp đến. Thật vậy, chúng tôi biết rằng trong những dịp như thế, những quan khách được thiết đăi ăn uống no say, c̣n những người nhà th́ phải lo tiếp đăi mà thôi, chớ không được ăn uống ǵ cả.
Tiếng nhạc trống vang rền báo hiệu các sư săi nhạc công đă đến, họ liền được đưa vào khu vườn phía sau nhà. Họ có mang theo những kèn loa, kèn ống, trống, tù và, và đeo chụp chơa trên cổ. Họ vừa bước vào khu vườn, vừa nói chuyện huyên thuyên và gọi đem rượu bia uống cho thấm giọng để lấy hứng. Những tiếng rít chát chúa và tiếng thổi điếc tai của những kèn loa, chiếm trọn mất nửa giờ: Các sư săi đang "lên dây" và thử lại những nhạc khí của họ.
Vị quan khách đầu tiên đă đến, với một đoàn tùy tùng cưỡi ngựa theo hầu và cầm những ngọn cờ hiệu bay phất phơ trước gió, gây nên những tiếng động ồn ào ngoài sân. Những cổng sắt mở toang và các gia nô nhà tôi đứng sắp hàng hai bên cửa vào để nghinh tiếp những người mới đến. Vị quản gia cùng với hai người phụ tá đứng kèm hai bên, mỗi người cầm nơi tay hàng tá những khăn choàng cổ bằng lụa mà người Tây Tạng dùng để dâng cho khách như một cách chào hỏi theo phong tục bổn sứ. Có tất cả tám loại khăn choàng để dâng cho các vị khách tùy chức vị hay cấp bậc cao thấp, và người ta phải biết dâng cái nào cho thích hợp kẻo mang lỗi bất kính. Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ ban cho và thu nhận những khăn choàng thượng hảo hạng. Những khăn choàng này tên gọi là Khata, và đây là nghi thức để dâng biếu: Nếu người gia trưởng có cấp bậc ngang hàng với khách, th́ y đứng thụt lại ở phía sau, và đưa hai tay thẳng tới trước. Người khách cũng làm y như vậy. Kế đó, người gia trưởng vái chào và đặt cái khăn choàng lên hai cườm tay của vị quư khách, người này cũng đáp lễ, rồi gỡ hai cườm tay ra, cầm lấy khăn choàng trở qua lộn lại nơi tay để tỏ ra ḿnh chấp nhận món quà biếu, và giao cái khăn cho một người hầu cận.
Nếu người biếu khăn là người ở đẳng cấp rất thấp, th́ y qú xuống, le lưỡi ra chào (nghi thức này tương đương với cử chỉ ngả nón chào của người phương Tây) và đặt cái khăn choàng dưới chân khách, kế đó khách đáp lễ bằng cách đặt cái khăn choàng riêng của ḿnh ṿng quanh cổ người gia trưởng.
Ở Tây Tạng, mọi quà biếu đều có kèm theo một cái khăn choàng thích nghi, hoặc những thơ khen tặng hay văn bằng tưởng lệ cũng vậy. Những khăn choàng của chánh phủ màu vàng, c̣n những khăn choàng khác màu trắng. Nếu đức Đạt Lai Lạt Ma muốn ban một danh dự lớn lao cho một người nào, ngài đặt nơi cổ người ấy một khăn choàng cột bằng một sợi chỉ tơ đỏ có ba ṿng. Và nếu trong khi đó ngài đưa hai bàn tay ra, ḷng bàn tay lật ngửa lên trời, th́ đó là một cái danh dự rất đặc biệt! Thật vậy, người Tây Tạng tin chắc rằng quá khứ và tương lai đều có ghi trên những đường chỉ trong ḷng bàn tay. Đức Đạt Lai Lạt Ma, bằng cách lật ngửa hai bàn tay của Ngài, tỏ ḷng ưu ái và thiện cảm đậm đà nhất. Về sau, tôi được Ngài ban cho cái danh dự đó hai lần.
Đây nói về người quản gia đứng tiếp đón khách trước cửa với hai người phụ tá ở hai bên. Y chào khách và nhận khăn choàng của khách rồi đưa qua cho người phụ tá đứng bên tả. Trong khi đó người phụ tá đứng bên hữu đưa cho y một khăn choàng thích nghi mà y đặt lên cườm tay hay lên cổ của người khách, tùy theo cấp bậc tương xứng. Tất cả những khăn choàng này đều được sử dụng lại rất nhiều lần.
Vị quản gia và hai người phụ tá mỗi lúc càng thêm bận rộn, v́ quan khách đến mỗi lúc càng đông. Dầu cho họ đến từ những trang trại láng giềng, từ thành phố Lhasa, hay từ những vùng ngoại ô, những đoàn kỵ mă tùy tùng của họ luôn luôn đến bằng Lingkhor, rồi đi vào con đường nhỏ thuộc địa phận của gia tộc chúng tôi, ở dưới bóng mát của điện Potala. Những bà mệnh phụ phu nhân phải đi bằng ngựa trong nhiều giờ, dùng một cái mặt nạ bằng da để che mặt cho khỏi bị những ngọn gió lốc có quến đầy cát bụi. Trên các mặt nạ ấy thường có phác họa những nét chân dung của vị chủ nhân. Khi đến nơi, các bà mới lột mặt nạ ra và đồng thời cởi luôn cái áo tơi bằng da con Yak. Những bức chân dung ấy luôn luôn làm tôi thích thú: Các bà càng già và xấu, th́ những bức chân dung vẽ trên mặt nạ lại càng trẻ và đẹp!
Một sự hoạt động tấp nập diễn ra trong nhà tôi. Những gia nô không ngớt đem ra những tấm nệm cho khách ngồi. Ở Tây Tạng người ta không ngồi trên ghế, mà ngồi trên tấm nệm độ một thước vuông và dày độ hai mươi phân. Ban đêm, người ta ghép nhiều tấm nệm lại để làm chỗ ngủ, và chúng tôi thấy nằm ngồi trên nệm thoải mái dễ chịu hơn là ngồi trên ghế bành hay nằm trên giường.
Khi khách vừa đến, họ được mời dùng trà pha bơ; và kế đó họ được đưa vào pḥng ăn. Tại đây, đủ các thức ăn đă dọn sẵn và khách có thể ăn uống tùy thích trong khi chờ đợi cuộc tiếp tân thật sự bắt đầu. Bốn mươi vị phu nhân thuộc gia đ́nh quyền quư đă đến cùng với những vị quư bà tâm phúc của họ. Trong khi mẹ tôi đang tiếp đón một nhóm các bà mệnh phụ này, th́ một nhóm các bà khác đi dạo khắp nơi trong nhà, ngắm nh́n bàn ghế và thưởng thức trị giá các đồ vật trang hoàng. Thật chẳng khác nào một cuộc "Xâm lăng" vĩ đại: Các bà khách có mặt ở khắp nơi, đủ các h́nh dạng, đủ các màu sắc, đủ mọi hạng tuổi. Có vài bà xuất hiện ở những chỗ bất ngờ nhất và không chút do dự, cất tiếng hỏi bọn gia nô giá tiền của món đồ này, hay giá trị của món vật khác. Nói tóm lại, các bà xử sự như tất cả mọi người đàn bà khác trên thế giới. Đó cũng là sự thường t́nh. Chị Yaso của tôi đủng đỉnh trong một bộ lễ phục mới toanh và bới đầu theo kiểu mới nhất, hay ít ra đó là chị nghĩ như vậy. Tôi th́ cho rằng kiểu tóc của chị thật lố lăng, nhưng tôi luôn luôn vẫn có óc chỉ trích những việc làm của nữ giới. Dầu sao, có điều chắc chắn là ngày hôm đó tôi thấy các bà có vẻ tự do xâm lăng một cách độc đáo.
Để làm cho cuộc tiếp tân càng sôi nổi đ́nh đám hơn nữa, những cô gái kiểu mẫu cũng có mặt trong hàng quan khách. Ở Tây Tạng, một vị phu nhân thuộc ḍng sang phải có rất nhiều y phục sang trọng và đồ nữ trang quư giá. Những bộ y phục này cần phải được triển lăm vào những dịp giao tế công cộng, nhưng v́ người ta không thể làm như vậy nếu không thay đổi y phục thường xuyên, nên những cô gái được huấn luyện đặc biệt, gọi là "Chủng nữ, " được dùng làm kiểu mẫu. Bởi đó, những cô chủng nữ này khoác vào những bộ y phục và đeo đồ nữ trang của mẹ tôi, và vừa ngồi len lỏi trong đám quan khách vừa uống hàng tá đếm không hết những chén trà pha bơ, trước khi đi thay bộ y phục khác và đeo những đồ nữ trang khác. Lẫn lộn trong hàng quan khách, các cô ấy cũng giúp đỡ mẹ tôi trong vai tṛ nữ chủ nhân. Trong một ngày, các cô "Chủng nữ" đó có thể thay đổi y phục và nữ trang đến năm sáu lần.
Các quư khách bên nam giới th́ chú ư nhiều hơn đến những tṛ chơi tiêu khiển ở trong vườn. Người ta đă cho một đoàn tṛ xiếc đến để giúp vui. Ba người trong đoàn này cầm dựng đứng một cây sào cao năm thước, trên chót hết có một người nữa chổng ngược đầu và giữ thăng bằng trên đỉnh cây sào. Khi đó, cây sào bị giật ra th́nh ĺnh và người làm tṛ xiếc nhẹ ḿnh rơi xuống đất trên hai chân như một con mèo. Những đứa trẻ con nh́n xem tṛ xiếc này bèn rủ nhau ra một chỗ vắng để bắt chước. Chúng t́m được một cây sào cao độ hai, ba thước và cầm dựng đứng lên. Một đứa trẻ gan ĺ nhất trèo lên. Nhưng ơ ḱa, khi y thử chổng ngược đầu lên cây sào, y mất thăng bằng và rơi xuống như một tảng đá lên đầu những đứa khác. Nhưng may thay, những đứa này có một cái sọ khá cứng, và ngoài ra những cục u to bằng những quả trứng vịt, không ai bị thương nặng.
Mẹ tôi xuất hiện trong khu vườn, người hướng dẫn một nhóm các bà phu nhân muốn xem các tṛ biểu diễn và nghe nhạc. Điều này không khó, v́ các sư săi nhạc công đă có đủ thời giờ để sưởi ấm ḷng bằng những chầu rượu bia dồi dào thỏa thích.
Mẹ tôi ăn mặc một cách long trọng đặc biệt: Áo kỵ mă "bô-lê-rô" ngắn màu vàng tím, trên một cái « váy đầm » bằng nỉ màu đỏ sậm dài đến gót chân. Những đôi ủng rất cao bằng nỉ trắng tinh với những gót đỏ thắm và những sợi dây ủng rất đẹp làm nổi bật màu y phục một cách rất mỹ thuật. Bên trong chiếc áo kỵ mă, mẹ tôi mặc một áo lót bằng lụa đỏ. Phủ bên ngoài là một cái khăn choàng bằng lụa thêu vắt ngang trước ngực từ vai bên mặt qua hông bên trái và cột lại ở bên hông với một cái khoen bằng vàng khối. Cái khăn choàng này tḥng xuống đến tận lưng, có màu đỏ thắm ở phía trên dây lưng, và chuyển qua màu vàng lợt đến màu vàng nghệ rất đậm.
Mẹ tôi đeo trên cổ ba gói bùa cột bằng một sợi dây vàng, mà mẹ tội không lúc nào rời. Ba gói bùa này là những món quà cưới của mẹ tội, hai gói là quà tặng của gia đ́nh, và gói thứ ba, một danh dự đặc biệt, là quà tặng của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mẹ tôi cũng đeo đồ nữ trang rất quư giá, v́ ở Tây Tạng những đồ nữ trang của một vị phu nhân nhiều hay ít tùy ở cấp đẳng của họ trong xă hội. Bởi đó, một người chồng phải tặng đồ vàng ngọc cho vợ mỗi khi được thăng quan tiến chức.
Phải mất nhiều ngày để làm đầu tóc của mẹ tôi, với tất cả một trăm lẻ tám lọn tóc. Số một trăm lẻ tám là một số linh thiêng, và những phụ nữ có nhiều tóc để có thể kết thành bấy nhiêu lọn rất được hâm mộ. Đầu tóc của mẹ tôi chia làm hai phần có một đường chẻ ở giữa, được kết lại bởi một cái măo bằng cây đặt trên đỉnh đầu như một cái nón. Măo này sơn màu đỏ thắm, có nhận kim cương chiếu lóng lánh, cẩn vàng và ngọc thạch. Mẹ tôi đeo một đôi hoa tai bằng san hô rất lớn và nặng đến nỗi để cho trái tai khỏi bị quá căng và có thể đứt ra, người phải giữ nó lại bằng một sợi chỉ đỏ quấn chung quanh vành tai, và đầu sợi chỉ tḥng xuống gần đụng tới dây lưng. Tôi ngắm nh́n mẹ tôi mà phải nh́n nhận rằng mẹ tôi rất đẹp. Tuy nhiên, với đôi bông tai nặng như thế, mẹ tôi làm sao quay đầu lại phía sau?
Những quan khách đi bắt bộ dạo chơi, vừa ngắm cảnh trong các khu vườn vừa trằm trồ khen ngợi. Những vị khách ngồi riêng từng nhóm để trao đổi những câu chuyện vặt. Nhất là các bà th́ không để lở mất một phút nào mà không nói chuyện của người láng giềng...
Nhưng thật sự, tất cả đều đợi chờ đến phần chính của buổi tiếp tân, kỳ dư các mục khác trong chương tŕnh chỉ là một sự chuẩn bị tinh thần để đưa họ đến cái giờ phút quan trọng khi các nhà đạo sĩ chiêm tinh nói tiên tri về bước đường tương lai của tôi. Cuộc đời tôi sau này sẽ tùy thuộc nơi quyết định của họ.
Ngày đă sắp tàn, khi ánh tà dương kéo dài những bóng đen của mọi vật và cây cỏ trên mặt đất, các quan khách đều tỏ ra uể oải đối với các tṛ giúp vui và tiêu khiển. Bửa tiệc no say đặt họ trong một trạng thái thụ cảm. Những kẻ gia nô mệt mỏi vẫn c̣n đem thêm thức ăn lên bàn khi những dĩa chén đă cạn, nhưng sau cùng mọi người đă ăn uống no đủ với giờ khắc trôi qua. Những người làm tṛ xiếc giúp vui cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, hết người nọ đến người kia, họ lần lần rút lui, đi vào nhà bếp nghỉ ngơi và gọi thêm một chầu rượu bia cuối cùng.
Các nhạc công vẫn c̣n sắc diện tươi tắn, thổi kèn loa, đánh chụp chơa và đánh trống một cách đầy hứng khởi. Trên những tàn cây to, loài chim sợ hăi v́ tiếng động ồn ào đă rời khỏi những tổ quen thuộc của chúng.
Không phải chỉ có chim là biết sợ sệt. Những con mèo cũng đă biến mất dạng và ẩn núp trong những chỗ kín đáo từ khi những quan khách đầu tiên cùng các đoàn tùy tùng rầm rộ đến nhà. Những con chó ngao đen lớn của nhà tôi cũng êm hơi lắng tiếng, giấc ngủ đă khớp mỏ chúng. Chúng đă ăn uống no bụng đến mức không c̣n sức để ăn nữa.
Trời càng tối dần trong những khu vườn. Mùi hương thơm ngát xông lên từ những b́nh lư hương khói trầm nghi ngút. Những khu vườn của cha tôi nổi tiếng khắp sứ Tây Tạng v́ những kỳ hoa dị thảo và những ḥn non bộ vĩ đại nhập cảng từ Trung Hoa. Có những cây lê, cây táo, cây mơ lùn thấp, bên cạnh những cây cổ thụ cao lớn, trên tàn cây có cắm cờ xí bay phất phơ dưới ngọn gió nhẹ ban chiều.
Sau cùng, vầng hồng đă khuất dạng sau những dăy núi Tuyết Sơn xa tít tận chân trời: Một ngày đă chấm dứt. Từ những tu viện Lạc Ma giáo vọng đến tiếng kèn điểm giờ khắc trôi qua; hằng trăm ngọn đèn bơ đă được thắp sáng khắp nơi, trên các cành cây, dưới những mái nhà, và có những ngọn đèn khác thả lướt nhẹ trên mặt nước êm đềm của ao sen trong vườn nhà. Chỗ này, có ngọn đèn bị kẹt trong các lá sen chẳng khác nào những chiếc tàu bị kẹt trên băi cát, và chỗ kia, vài ngọn đèn trôi lênh đênh phiêu bạt về cái cù lao nơi đó những con hạc sẽ trú ngụ lúc ban đêm.
Một tiếng cồng vừa điểm, mọi người quay đầu nh́n lại: Một cuộc diễn hành từ đằng xa sắp sửa đến gần. Trong khu vườn nhà, đă dựng sẵn một cái lều rất lớn, màn treo trướng rũ. Cửa lều mở rộng, bên trong có đặt một cái sàn gỗ và bốn cái đôn Tây Tạng làm chỗ ngồi.
Đoàn người diễn hành bước đến trước liều, do bốn người gia nhân của nhà tôi cầm đuốc dẫn đường. Theo sau họ là bốn người nhạc công thổi kèn loa bằng bạc. Kế đó, cha tôi, mẹ tôi, bước lên sàn gỗ cùng với hai vị trưởng lăo, là những bậc giáo sĩ kiêm chức Thiên Giám Quan, đảm nhiệm việc tiên tri các điều họa phước của quốc gia.
Những vị trưởng lăo này, xuất xứ từ vùng Nechung, là những nhà chiêm tinh giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Những lời tiên tri của các vị nhiều lần tỏ ra đă chính xác và đúng như các sự việc đă xảy ra về sau. Một tuần lễ trước đó, đức Đạt Lai Lạt Ma đă mời các vị đến để nh́n xem tương lai của một đứa trẻ lên bảy tuổi. Hai vị ấy đă lấy lá số của tôi và nghiên cứu cặn kẽ từng ly từng tí trong nhiều ngày những ảnh hưởng của các v́ tinh tú.
Hai vị Lạt Ma đem theo lá số chiêm tinh và những bảng đoán số. Hai vị khác tiến đến và đỡ hai vị Thiên Giám Quan già bước lên sàn gỗ, trên đó hai vị này ngồi sát cạnh nhau như hai pho tượng bằng ngà. Những chiếc áo rộng bằng lụa Trung Hoa màu vàng lại càng làm nổi bật tuổi tác cao niên của họ. Họ đội trên đầu chiếc măo lớn của các đạo sĩ mà trọng lượng có vẻ quá nặng đối với những cái cổ nhăn nheo của họ. Các quan khách đều vây chung quanh cái sàn gỗ và ngồi trên những tấm nệm trải dưới đất. Những câu chuyện đều ngưng bặt, mọi người đều lắng tai nghe lời phán quyết của vị niên trưởng trong hai vị Thiên Giám Quan lăo thành. Vị niên trưởng bắt đầu nói bằng một giọng nhẹ nhàng:
- "Lha dre mig cho nang chig". (Quỷ thần và nhân gian cùng bị chi phối như nhau bởi những định luật huyền bí trong vũ trụ. Ư nói: Người ta có thể tiên đoán việc tương lai.) Bằng một giọng trầm, vị Thiên Giám Quan cao niên nói tiên tri suốt một tiếng đồng hồ. Kế đó, người nghỉ ngơi trong mười phút, và lại nói thêm một giờ nữa, khi đó, người tiếp tục vạch trần tương lai của tôi dưới những nét đại cương.
- "Lạ quá, thật là kỳ diệu!" toàn thể cử tọa bất giác thốt lên trong khi họ đang đắm ch́m trong một cơn thích thú mê ly.
Như thế, người ta đă nói cho tôi biết trước tương lai của tôi: "Sau một giai đoạn thử thách cam go gian khổ, đương số sẽ là một đứa trẻ lên bảy tuổi, sẽ bước chân vào tu viện để được thụ huấn như một tu sĩ kiêm y sĩ giải phẫu. Y sẽ gặp nhiều nghịch cảnh gian lao, sẽ rời khỏi xứ sở và sống ở ngoại quốc. Y sẽ mất hết tất cả, sẽ phải làm lại cuộc đời từ con số không và sau cùng y sẽ thành công".
Cuộc tiên tri đă bế mạc, các quan khách cũng đă giải tán lần lần. Những vị khách ở xa c̣n nán lại nhà tôi một đêm để sáng ngày hôm sau lên đường. Những người khác trở về ngay đêm đó cùng với gia nhân tùy tùng của họ dưới ánh sáng của những ngọn đuốc. Họ tựu hợp ở ngoài sân, giữa những tiếng ngựa khua móng sắt trên nền đá và những tiếng người kêu gọi lẫn nhau.
Một lần nữa, cái cổng sắt nặng nề lại mở toang ầm ĩ để cho đoàn người ngựa đi qua. Tiếng chân ngựa khua vang và những giọng nói chuyện tṛ của họ nghe đă thưa dần, và sau cùng chỉ c̣n lại cái im lặng của ban đêm.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 223 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 8:58pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA

Chương Ba

 

Trong nhà tôi, vẫn c̣n sự hoạt động nhộn nhịp ồn ào. Trà bơ được rót ra như suối chảy và thức ăn được dọn ra vào giờ chót để đăi những quan khách c̣n ở lại đêm nay. Tất cả các gian pḥng trong nhà đều bị chiếm đóng; không c̣n pḥng nào cho tôi. Tôi đi thẩn thơ, ḷng buồn man mác; để giết thời giờ, tôi vừa đi bách bộ vừa đá những viên sỏi và tất cả những ǵ nằm dưới chân tôi, nhưng sự bận rộn đó cũng không đủ làm cho tôi giải khuây. Không ai chú ư đến tôi: Những quan khách đều đă mỏi mệt và được hài ḷng, c̣n những gia nô th́ mệt nhoài và bực bội. Tôi thầm nghĩ và cằn nhằn:
- Loài ngựa có lẽ dễ thông cảm hơn. Ta sẽ ngủ chung với ngựa đêm nay.
Những chuồng ngựa đều ấm áp, và nằm trên đống rơm rạ cũng êm lưng, nhưng giấc ngủ khó đến. Mỗi khi tôi chợp mắt thiếp đi, th́ một con ngựa lại thúc đẩy tôi, hoặc tôi bị đánh thức một cách đột ngột bởi một tiếng động từ trong nhà. Lần lần, mọi vật đều đắm ch́m trong im lặng. Tôi ngồi nhổm dậy nh́n ra ngoài, th́ thấy đèn lửa lần lần đă tắt. Trong giây lát, chỉ c̣n lại ánh trăng lạnh lùng phản chiếu sáng ngời trên những ngọn núi đầy tuyết phủ. Những con ngựa đă ngủ, có con ngủ đứng, có con nằm nghiên qua một bên. Sau cùng tôi cũng đă ngủ thiếp đi. Sáng ngày hôm sau, tôi bị đánh thức dậy một cách phủ phàng, có người nói với tôi:
- Dậy đi Lâm Bá. Tôi c̣n phải thắng yên ngựa, mà cậu nằm choán hết chỗ.
Thành thử tôi đứng dậy đi về nhà để kiếm thức ăn đỡ dạ. Trong nhà, đang có sự náo động ồn ào. Các quan khách sửa soạn ra về và mẹ tôi chạy từ nhóm này sang nhóm khác để tiễn đưa khách. Cha tôi th́ bàn về việc sửa nhà và vườn cho đẹp thêm. Người nói cho một ông bạn già biết ư định sẽ nhập cảng kiếng thủy tinh từ Ấn Độ để làm cửa sổ. Ở Tây Tạng không có kiếng, người ta không chế tạo kiếng trong xứ, và thật là tốn kém mà nhập cảng kiếng từ Ấn Độ. Cửa sổ các nhà ở Tây Tạng có những khuôn gỗ trên đó có căn một thứ giấy sáp sáng đục nhưng không trong suốt. Những cánh cửa sổ bằng gỗ nặng được gắn ở ngoài, không phải để pḥng kẻ gian phi, mà để tránh những cơn băo cát. Cơn băo cát này, đôi khi có quện theo những viên sỏi nhỏ, có thể làm găy nát những cửa sổ trơn, không có pḥng vệ.
Nó cũng có thể cắt đứt da thịt trên mặt và trên bàn tay với những vết cắt rất sâu; bởi vậy thật rất nguy hiểm mà đi du lịch trong những mùa gió lớn. Dân chúng thủ đô Lhasa luôn luôn để ư coi chừng ngọn núi của điện Potala. Nếu th́nh ĺnh nó biến mất dưới một đám sương mù đen kịt, mọi người sẽ lo kiếm chổ ẩn núp an toàn để tránh băo. Nhưng không phải chỉ có loài người là mới báo động: Loài vật cũng biết trước khi sắp có băo và các loài chó, ngựa thường đi trước người ta để kiếm chổ ẩn núp. Loài mèo không bao giờ bị băo làm hại, và loài Yak không có ǵ phải sợ. Sau khi người khách cuối cùng đă rời khỏi nhà, cha tôi cho gọi tôi và nói:
- Con hăy đi chợ mua sắm những thứ cần dùng, Ông Tzu biết con phải mua sắm những vật ǵ.
Tôi nghĩ đến những đồ dùng cần thiết: Một cái chén đựng tsampa bằng gỗ, một cái dĩa bạc và một xâu chuỗi gồm một trăm lẻ tám hột bằng gỗ đánh bóng. Số một trăm lẻ tám này là một con số linh thiêng, nó cũng chỉ bấy nhiêu những điều giới răn mà một vị sư săi cần phải nhớ.
Chúng tôi lên đường ra chợ, ông Tzu cưỡi ngựa c̣n tôi cưỡi lừa. Sau khi qua nhiều khúc đường quanh co, chúng tôi đă đến khu chợ buôn bán tấp nập. Tôi nh́n quanh dường như đó là chuyến đi đầu tiên. Nhưng trong thâm tâm, tôi e ngại rằng đó là chuyến đi cuối cùng! Những tay thương buôn vừa đến Lhasa, tràn vào các cửa tiệm và tranh luận sôi nổi để định giá hàng. Có người đem trà sang đây từ Trung Hoa, những người khác đem tơ lụa từ bên Ấn Độ. Chúng tôi vạch đường đi xuyên qua đám rừng người đến những cửa tiệm có những đồ vật mà tôi cần dùng. Thỉnh thoảng ông Tzu trao đổi lời chào hỏi với một bạn già quen từ hồi niên thiếu.
Tôi cần mua một áo tràng màu đỏ sậm, cỡ lớn, không phải chỉ v́ lư do tôi sẽ lớn thêm, mà cũng v́ một lư do khác rất thực tế. Ở xứ này, những người lớn mặc áo rất rộng, nịt sát lưng. Phần trên chiếc áo có thể dùng như một cái túi đựng mọi thứ cần dùng. Một sư săi "Trung b́nh" chẳng hạn, đem theo trong cái túi đó một chén ăn tsampa, một cái dĩa, một con dao, vài thứ bùa phép, một bao gạo mạch nha đă sấy và thường là một ít tsampa. Nhưng ta đừng quên rằng một sư săi luôn luôn đem theo trong ḿnh tất cả những ǵ y sở hữu trên thế gian này.
Ông Tzu kiểm soát việc sắm sửa của tôi. Tôi chỉ được mua những ǵ tối cần thiết, tất cả đều là những hạng rất xoàng, tương xứng với một "Chú tiểu sơ cơ nghèo": Một đôi dép bằng da con Yak, một cái bọc nhỏ để đựng gạo mạch nha sấy, một cái chén bằng gỗ, một cái dĩa cũng bằng gỗ (chứ không phải bằng bạc!) và một con dao. Thêm vào đó là một xâu chuỗi hạng thường mà tôi phải tự ḿnh đánh bóng tất cả một trăm lẻ tám hột; đó là tất cả những ǵ mà tôi được mua sắm. Cha tôi là một nhà quư tộc tỷ phú, có những tài sản rộng lớn khắp nơi trong xứ, trong một thời gian tập sự làm một tu sĩ, và ngày nào cha tôi c̣n sống tôi phải là một chú tiểu nghèo mà thôi.
Tôi c̣n nh́n một lần cuối, đường xá và dăy nhà hai tầng ở hai bên. Tôi cũng nh́n cả những tiệm bán hàng hóa treo lủng lẳng những khúc vi cá mập và những yên ngựa ở trước cửa. Một lần nữa, tôi lắng tai nghe những lời nói đùa của những người lái buôn và những câu trả giá vui vẻ của những khách hàng. Tôi chưa từng thấy con đường này có vẻ ấm cúng dễ chịu như thế bao giờ, tôi ước ao cái số phận của những người nh́n thấy nó hằng ngày và sẽ tiếp tục sống hằng ngày ở tại đây. Những con chó hoang đi rong khắp chốn, đưa mũi đánh hơi vật nọ vật kia, và cất tiếng sủa vang; những con ngựa đợi chủ ra lệnh cất vó, thỉnh thoảng lại hí lên một tràng dài. Những con Yak vừa thốt ra những tiếng kêu khàn giọng, vừa len lỏi giữa những đám người bộ hành. Có bao nhiêu sự bí ẩn ở đằng sau những cửa sổ bọc giấy sáp kia! Có hằng bao nhiêu những hàng hóa lạ lùng đến từ bốn phương trời, đă được chở xuyên qua những cánh cửa gỗ chắc nịch kia, và có bao nhiêu giai thoại kỳ thú mà những cánh cửa sổ mở kia có thể thuật cho ta nghe nếu chúng biết nói. Tôi nh́n tất cả những vật ấy dường như là những vật đă quen thuộc từ lâu. Tôi không hề nghĩ rằng có ngày tôi sẽ tái ngộ những cảnh vật trên các đường phố nầy, dầu rằng thỉnh thoảng chỉ một đôi lần. Tôi nghĩ đến những ǵ tôi muốn làm, những ǵ tôi muốn mua. Sự mơ mộng của tôi bỗng nhiên bị gián đoạn một cách phũ phàng. Một bàn tay vừa to lớn vừa hăm dọa, hạ xuống trước mặt tôi, kéo vành tai tôi và vặn xoay nó một ṿng đau kinh khủng. Ông Tzu quát to, dường như muốn cho cả thế giới đều nghe:
- Lâm Bá, mi đă biến thành pho tượng đá rồi chăng? Ta tự hỏi không biết những thiếu niên đời nay nuôi những ǵ trong óc của chúng. Vào thời buổi của ta, không hề có như vậy.
Ông Tzu có vẻ bất cần về việc tôi sẽ bị đứt một vành tai nếu tôi cứ đứng yên một chỗ, hay tôi muốn giữ nó lại bằng cách đi theo ông. Tôi có thể làm ǵ được ngoài ra việc "Tranh thủ thời gian?" Trên đường về, ông Tzu vừa cưỡi ngựa đi trước vừa cằn nhằn và chỉ trích rơ rệt "Cái thế hệ hiện kim, gồm toàn những bọn vô ích, lười biếng, bất trị, và luôn luôn mơ tưởng chuyên trên mây". Nhưng khi vừa đến đường lộ Lingkhor, chúng tôi gặp một cơn gió lớn thổi mạnh. Tôi bèn nép ḿnh vào phía sau cái thớt lưng khổng lồ của ông Tzu để tránh cơn giông.
Khi tôi về đến nhà, mẹ tôi liếc mắt nh́n qua những đồ vật dụng mà tôi đă mua. Tôi lấy làm thất vọng khi mẹ tôi cho rằng những vật ấy cũng khá tốt đối với tôi. Tôi vẫn hy vọng rằng mẹ tôi sẽ quở trách ông Tzu, và sẽ cho phép tôi mua những đồ dùng có phẩm chất tốt hơn. Một lần nữa, những hy vọng của tôi về cái dĩa bằng bạc lại tiêu tan như mây khói, và tôi phải chấp nhận cái dĩa bằng gỗ mua ở một tiệm tạp hóa ở Lhasa.
Trong tuần lễ cuối cùng, người ta không để tôi sống yên lặng một ḿnh. Mẹ tôi bắt buộc tôi phải đi theo người để viếng thăm các gia đ́nh quư tộc ở Lhasa và để chào từ giă, trước khi tôi lên đường xuất gia để bước vào tu viện.
Mẹ tôi rất thích những dịp xuất hành như thế, những cuộc viếng thăm xă giao và nói chuyện hàn huyên, nó gồm một phần chương tŕnh hằng ngày của mẹ tôi. Tôi cảm thấy chán ngấy; đối với tôi, những cuộc viếng thăm đó là những cực h́nh v́ tôi không có năng khiếu để ḥa ḿnh một cách vui vẻ với những kẻ phàm tục. Tôi chỉ muốn chơi đùa thỏa thích ở ngoài trời trong những ngày c̣n lại, thả diều, nhảy sào hay bắn cung; nhưng thay v́ được tự do tiêu khiển, tôi bị lôi kéo đi khắp nơi như một con Yak trúng giải hạng nhất, và tŕnh diện với những bà nhạt nhẽo vô duyên, họ không có việc ǵ làm khác hơn là ngồi suốt ngày trên nệm nhung êm ấm và sai bảo kẻ tôi tớ.
Không phải chỉ có mẹ tôi mới làm tôi bực ḿnh. Tôi c̣n phải đi theo cha tôi đến tu viện Lạt Ma Giáo Drebung. Tu viện này là tu viện lớn nhất thế giới, với tất cả mười ngàn sư săi, với những ngôi đền cao vút, và nhà cửa dinh thự xây bằng đá. Đó là một cộng đồng tu viện, một thành phố có tường rào chung quanh, và cũng như mọi thành phố, nó có thể sống tự túc. Drebung có nghĩa là "Núi Gạo", và thật vậy, nó giống như một đống gạo chất lên thành núi nếu nh́n từ đằng xa, với những đài cao và mái bầu chiếu rạng ngời duới ánh nắng. Nhưng tôi không c̣n ḷng dạ nào để thưởng thức cái đẹp của những công tŕnh kiến trúc thẩm mỹ: Tôi cảm thấy se ḷng mà phải lăng phí một thời giờ rất quư báu đối với tôi. Cha tôi có việc cần bàn luận với vị Sư Trưởng và các vị phụ tá, nên tôi chỉ có thể đi thất thiểu một ḿnh trong tu viện, như một vật vô chủ trôi giạt lênh đênh sau cơn băo tố. Khi tôi thấy cách cư xử của người lớn đối với vài kẻ thiếu nhi sơ cơ, tôi có những cơn sợ hăi đến rùng ḿnh.
Drebung thật là bảy tu viện sáp nhập làm một, gồm có bảy ḍng tu, và bảy giáo đường khác nhau. Thật quá lớn lao đồ sộ để có thể đặt dưới sự điều khiển của một người; bởi vậy có đến mười bốn vị Sư Trưởng, tất cả đều chủ trương một kỷ luật sắt, đảm nhiệm lấy công việc cai quản tu viện này.
Khi cuộc viếng thăm kết thúc, tôi cảm thấy rất sung sướng, nhưng tôi c̣n hài ḷng hơn khi được biết tôi sẽ không vào tu viện Drebung hay tu viện Sera, ở độ năm cây số phía bắc thủ đô Lhasa.
Tuần lễ cuối cùng đă chấm dứt. Người ta tịch thu những con diều của tôi để làm quà cho kẻ khác; những cung tên của tôi bẻ gẫy để làm cho tôi hiểu rằng tôi không c̣n là một đứa trẻ con, và bởi vậy tôi không c̣n cần những món đồ chơi đó nữa. Tôi có cảm tưởng rằng quả tim tôi muốn vỡ nát, nhưng dường như không ai chú ư đến điều ấy.
Đêm hôm ấy, cha tôi gọi tôi vào pḥng giấy của người; đó là một gian pḥng trang trí rất mỹ thuật, có bày những pho sách cổ rất quư giá. Cha tôi ngồi gần bên bàn thờ tổ tiên và ra lịnh cho tôi qú trước mặt người để bắt đầu nghi lễ đọc quyển Gia Phả của gịng họ nhà tôi. Lịch sử của gia đ́nh tôi từ bao nhiêu thế kỷ trước, được ghi chép trong quyển sách khổng lồ đó, bề dày đến một thước rưỡi và bề ngang ba tấc. Trong ấy có ghi tên họ các vị tổ tiên sáng lập của gịng họ nhà tôi cùng những công lao hạn mă nhờ đó mà các vị ấy được ban quyền tước quư hiển. Trong đó cũng có ghi chép những công trạng mà gia đ́nh tôi đă lập nên trong việc phục vụ xứ sở và phụng sự vị chúa tể của đất nước tôi, là đức Đạt Lai Lạt Ma. Đó là lần thứ nh́ mà quyển Gia Phả được lật ra cho tôi, v́ tôi thấy ngày sinh tháng đẻ của tôi đă có ghi chép sẵn trong đó. Các nhà chiêm tinh đă căn cứ vào những chi tiết đó để lập nên lá số và phán quyết những lời tiên tri về tương lai của tôi. Tôi phải tự ḿnh kư tên vào bản Gia Phả, v́ ngày hôm sau sẽ là ngày bắt đầu một cuộc đời mới, khi tôi bước chân vào tu viện.
Kế đó, quyển sách được xếp lại và để vào chỗ cũ. Quyển sách ấy rất nặng; cha tôi hơi lảo đảo dưới trọng lượng của nó khi người đứng dậy để đặt nó vào một cái hộp thiếp vàng. Người kính cẩn đặt cái hộp dưới bàn thờ, trong một cái ô vuông xây bằng đá rất sâu. Kế đó, người nấu sáp trong một cái "Soong" nhỏ bằng bạc, trăi sáp mỏng trên nắp ô và đóng triện của người lên đó để niêm phong lại. Kế đó cha tôi mới ngồi nghiêm chỉnh lên tấm nệm ở giữa pḥng. Người gơ một tiếng vào cái chuông nhỏ đặt gần bên, và một người nô bọc đem vào một cái khay trà pha với bơ. Sau một cơn im lặng kéo dài, cha tôi mới kể cho tôi nghe bí sử của sứ Tây Tạng, một chuyện lịch sử cổ xưa đến bao nhiêu ngh́n năm và thậm chí được coi như cổ sử dẫu ở vào thời kỳ cuộc đại hồng thủy. Người thuật cho tôi nghe rằng đă có một thời kỳ sứ Tây Tạng chỉ là một vùng biển cả muôn trùng, điều này đă được chứng thực bởi những cuộc khảo cổ dưới ḷng đất. Người nói rằng cho đến ngày nay, khi người ta đào đất ở chung quanh thủ đô Lhasa, họ có thể t́m thấy những bộ xương cá và những loại vỏ ṣ vỏ óc rất dị kỳ, cùng những đồ khí cụ lạ lùng làm bằng kim khí, mà người ta không biết rơ sự công dụng của nó. Những sư săi thường t́m thấy những đồ khí cụ đó khi họ thám hiểm những hang động trong vùng, và họ đem đến cho cha tôi. Cha tôi mới đưa cho tôi xem vài món đồ khí cụ đó. Kế đó, người nói qua chuyện khác:
- Theo như luật định, con nhà quư tộc phải được nuôi trong sự khắc khổ, c̣n con nhà nghèo sẽ được hưởng mọi sự dễ dăi, khoan dung. Trước khi được nhận vào tu viện, con c̣n phải trăi qua một cuộc thử thách rất gian lao.
- Cha tôi cho tôi biết rằng tôi cần phải tỏ ra tuyệt đối dễ dạy và nhắm mắt tuân theo mọi lịnh trên sai khiến. Những lời cuối cùng của cha tôi không làm cho tôi được yên ḷng. Người nói:
- Con hỡi, chắc con sẽ nghĩ rằng cha là người nghiêm khắc và khô khan, lạnh lùng. Cha chỉ nghĩ đến danh dự của gịng họ nhà ta. Cha nói thật cho con biết: Nếu con không được thâu nhận vào tu viện, con hăy đừng trở về nhà. Chừng đó con sẽ bị đối xử như một người xa lạ ở cái nhà này.
Nói đến đó, cha tôi ra hiệu cho tôi lui ra, mà không nói thêm một lời nào. Lúc ban chiều, tôi đă từ giă Yaso, chị tôi. Chị tôi rất xúc động: Chúng tôi đă chơi chung với nhau từ thuở nhỏ, nay chị đă lên chín, lớn hơn tôi hai tuổi. Tôi không sao gặp được mẹ tôi. Mẹ tôi đă đi ngủ sớm và tôi không thể nào từ giă mẹ trước khi lên đường. Tôi bèn lui về pḥng riêng một ḿnh để nghỉ một đêm cuối cùng. Tôi nằm dài trên những chiếc nệm trải dưới đất, nhưng không sao ngủ được. Trí óc tôi nghĩ liên miên đến những điều cha vừa nói lúc ban chiều. Tôi nghĩ đến tính nghiêm khắc độc đáo của cha tôi, và tôi hồi hộp nghĩ đến đêm hôm sau, khi mà lần đầu tiên tôi sẽ ngủ xa nhà. Bên hè, vầng trăng vẫn tiếp tục soi bóng. Một con chim ăn đêm vừa nhảy vừa đập cánh trên khung cửa sổ. Sau cùng tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Khi trời chưa sáng, một người gia bộc đă đánh thức tôi dậy với một chén tsampa và một chén trà bơ. Ông Tzu th́nh ĺnh bước vào pḥng khi tôi đang ăn bữa điểm tâm thanh đạm đó, và nói:
- Con hỡi đây là giờ phút mà chúng ta phải ly biệt nhau. Ta sẽ có thể trở lại coi sóc bầy ngựa như trước. Con hăy ráng làm tṛn bổn phận, và hăy nhớ tất cả những ǵ mà ta đă dạy con. Nói đến đây, ông ta quay gót lui ra.
Thái độ đó rất là cận nhân t́nh, tuy rằng hồi ấy tôi không được vừa ư. Những lời từ giă đầy cảm xúc có lẽ đă làm cho sự lên đường của tôi trở nên khó khăn hơn nhiều, đó lại là một chuyến ra đi đầu tiên, mà tôi nghĩ rằng không hẹn ngày trở lại. Nếu lúc ấy mẹ tôi thức dậy để nói với tôi mấy lời từ giă th́ chắc chắn là tôi đă cố gắng thuyết phục mẹ tôi hăy giữ tôi ở lại một bên người. Nhiều đứa trẻ Tây Tạng sống một cuộc đời rất dịu dàng êm ái, c̣n tôi phải sống một cuộc đời khắc khổ về đủ mọi phương diện. Về sau tôi phát hiện ra rằng sở dĩ mẹ tôi không từ giă tôi vào giờ phút chót, ấy là do lịnh của cha tôi, để cho tôi tập lấy tánh cương nghị và có kỷ luật trong những năm đầu tiên. Tôi ăn điểm tâm xong, bèn dồn cái chén và cái dĩa vào trong áo, và lấy thêm một cái áo tràng để thay đổi. Với cái áo này, tôi làm một cái bọc trong đó tôi gói một đôi ủng lót bằng nỉ. Tôi vừa bước ra khỏi pḥng th́ một người gia nô dặn tôi nên đi nhẹ bước để khỏi làm mất giấc ngủ của người trong nhà. Tôi bước ra hành lang. Trong khi tôi bước xuống nấc thang tam cấp để đi ra đường lộ, th́ bóng tối hăy c̣n dầy đặc trước khi ánh b́nh minh xuất hiện để mở đầu một ngày mới.
Tôi bước ra khỏi nhà trong t́nh trạng đó. Tôi đi lủi thủi một ḿnh, băn khoăn lo ngại và ḷng dạ se sắt.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 224 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 9:02pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIỆN

Chương Bốn

 

Tôi noi theo con đường đưa đến tu viện Chakpori, tu viện này vừa là một đạo viện vừa là một trường y khoa có tiếng là kỷ luật rất cao. Tôi đi bộ vượt qua mấy cây số đường trường dưới ánh sáng b́nh minh mỗi lúc càng tỏ rạng. Đến ngoài cổng lớn đưa vào sân mặt tiền của tu viện, tôi gặp hai thiếu nhi khác cũng như tôi đến xin được thu nhận. Chúng tôi nh́n nhau một cách dè dặt, nhưng không ai nói với ai một lời nào. Chúng tôi định bụng là hăy tỏ ra lịch sự với nhau nếu chúng tôi sẽ cùng thụ huấn trong một tu viện.
Chúng tôi gơ cửa một cách e dè trong một lúc nhưng không ai trả lời. Một bạn đồng cảnh ngộ của tôi luc ấy cúi xuống lượm một viên đá lớn đập vào cửa cổng để làm cho người ta chú ư. Một vị sư săi xuất hiện, tay hươi một cây gậy: Chúng tôi sợ sệt đến nổi tưởng chừng như cây gậy to lớn bội phần. Một sư săi cất tiếng hỏi:
- Chúng bây muốn ǵ, lũ tiểu quỷ? Chúng bây tưởng rằng tao không có việc ǵ làm khác hơn là phải mở cửa cho những lũ tiểu yêu như tụi bây sao?
Tôi đáp:
- Chúng tôi muốn trở nên tu sĩ.
- A! Tu sĩ? Tụi bây giống như lũ khỉ th́ đúng hơn. Hăy đứng đợi tại đây, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp chúng bây khi nào Người có thời giờ.
Cánh cửa lớn đóng sầm lại rất mạnh, và một bạn đồng đội với tôi vô ư đứng gần bên suưt nữa bị té ngă. Chúng tôi ngồi xuống đất v́ đứng lâu đă mỏi chân. Lác đác có vài người đă vào tu viện. Một mùi đồ ăn xào nấu ngon lành từ nhà bếp bay lọt ra ngoài cửa sổ và phảng phất trong không khí, làm cho tôi cảm thấy như chịu một cực h́nh v́ cơn đói bụng mỗi lúc càng tăng. Ôi! Thức ăn ngon lành ấy tuy ở gần kề một bên, nhưng đồng thời cũng lại xa cách với chúng tôi biết bao!
Sau cùng cánh cửa lớn lại mở rộng, và một vị sư săi tác cao và gầy ốm xuất hiện. Ông ta quát to:
- Lũ tiểu yêu, chúng bây muốn ǵ đây, hử?
- Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ.
Ông ta nói lớn:
- Lạy trời, đời nay sao có chuyện lạ vậy?
Người tu sĩ ra hiệu cho chúng tôi bước vào bên trong bức tường rào của tu viện. Người ấy hỏi chúng tôi là những thứ ǵ, chúng tôi là ai, và thậm chí tại sao chúng tôi sinh ra đời để làm ǵ!
Thật không khó ǵ mà hiểu rằng chúng tôi không gây ra nơi người ấy một ấn tượng tốt lành nào cả!
Ông ta nói với thiếu nhi đầu tiên, người này tự xưng là con của một người mục đồng:
- Vô đây mau lên. Nếu ngươi vượt qua được những cuộc thử thách, th́ ngươi sẽ được thu nhận.
Kế đó ông ta nói với người thiếu nhi kia:
- C̣n thằng kia? ... sao, mi nói ǵ? ... cha mi làm nghề đồ tể? A! đó là người hàng thịt, một người phạm giới sát sinh và không tuân theo giới luật của phật. Vậy mà mi c̣n dám tới đây? Cút đi mau kẻo ta lại cho mi ăn gậy bây giờ!
Nói xong ông ta nhảy tới chụp lấy thằng nhỏ, thằng này thấy thế nguy bèn quên cả sự mệt nhọc và cố gắng thu thập tinh thần. Nhanh như chớp, nó quay đầu trở lại, phóng ra ngoài đường lộ và chạy một mạch vắt gị lên cổ, làm cho đường cát dậy bụi lên từng đợt nhỏ.
Chỉ c̣n lại một ḿnh tôi. Người tu sĩ quay lại nh́n tôi với cặp mắt hung tợn và tôi cảm thấy sợ sệt đến nỗi chút nữa tôi đă ngất xủi ngay tại chổ! Ông ta bèn hươi gậy một cách hâm dọa và quát lớn:
- C̣n thằng nhỏ này! Mi là ai? ... A ha! Con một vị hoàng thân quốc thích mà muốn trở thành tu sĩ. Nhưng trước hết mi phải chứng minh giá trị của mi tới đâu, cùng những ǵ mi có trong bụng. Đây không phải là chổ của những con nhà quư tộc ương hèn, nhu nhược. Mi hăy lui lại bốn chục bước và ngồi yên tại chổ theo tư thế ngồi thiền cho đến khi có lệnh mới. Cấm không được cựa quậy chí đến một sợi lông nheo!
Nói xong, ông ta lui gót đi ngay. Tôi lặng lẽ thu nhặt khăn gói và lùi lại bốn chục bước. Tôi ngồi xuống trong tư thế kiết dà theo như lời dặn. Tôi ngồi yên như thế suốt ngày không cựa quậy. Những cơn gió lốc hất vào ḿnh tôi những bụi bậm của đường xá, lần lần cát bụi đóng vào ḿnh tôi. Chất từng đống nhỏ trên hai bàn tay lật ngửa của tôi, trên vai tôi và len lỏi vào tóc tai của tôi.
Khi ánh sáng mặt trời mỗi lúc càng yếu dần, tôi càng cảm thấy đói khát hơn, một cơn khát nước như cực h́nh nó làm khô cuống họng tôi: Từ lúc sáng sớm đến giờ tôi chưa ăn uống ǵ cả. Những sư săi trong tu viện rất đông, họ đi qua lại không ngớt, nhưng không ai để ư đến tôi.Vài con chó hoang thỉnh thoảng ngừng lại, đưa mỏ vào ḿnh tôi để đánh hơi một cách ṭ ṃ, rồi lại bỏ đi. Một đám trẻ nhỏ đi ngang qua. Một đứa trong bọn chúng không có việc ǵ làm, chắc hẳn là ngứa tay, bèn ném vào ḿnh tôi một viên sỏi trúng nơi màn tang, máu chảy ṛng ṛng. Nhưng tôi vẫn không cựa quậy. Tôi đă quá sợ hăi. Nếu tôi thất bại trong cơn thử thách này, cha tôi sẽ không để cho tôi trở về nhà và tôi sẽ không biết phải đi đâu. Tôi không c̣n có thể làm ǵ hơn là ngồi yên, âm thầm chịu khổ sở với các bắp thịt đau đớn như rần và những khớp xương tê cứng.
Mặt trời đă khuất dạng sau những dăy núi, và đêm tối đă đến. Các tinh tú chói lập ḷe trên nền trời u ám. Hàng ngh́n những ngọn đèn nhỏ thắp bằng bơ chiếu sáng ở các cửa sổ của những tu viện. Một ngọn gió lạnh như băng đă dậy lên: Tôi nghe tiếng gió rít lạnh lùng và tiếng lá xào xạc trên những cành liễu cùng với những tiếng động làm thành bản nhạc lạ lùng bí hiểm của ban đêm.
Dù việc ǵ đă xảy ra, tôi vẫn ngồi yên bất động, v́ hai lư do chính: Một là v́ tôi quá sợ hăi, và hai là tứ chi của tôi đă quá tê cứng để có thể cử động được. Khi đó, tôi nghe có tiếng dép đi trên đất cát: Tôi nhận ra đó là những bước chân của một ông lăo đang lần ṃ t́m đường đi trong bóng tối. Một bóng đen xuất hiện trước mặt tôi, đó là một vị sư săi già đă c̣ng lưng và mệt mỏi sau bao nhiêu đêm khổ hạnh. Những bàn tay của người đă run, điều này không làm cho thản nhiên khi tôi thấy ông ta làm đổ nghiên chén trà cầm nơi tay. Trong bàn tay kia, ông ta cầm một bát Tsampa, và đưa cho tôi luôn cả hai thứ. Tôi vẫn ngồi yên không cử động. Ông ta nói:
- Con hỡi, hăy cầm lấy, v́ con có quyền cử động trong những giờ ban đêm.
Tôi bèn uống chén trà, và sớt món Tsampa vào cái chén riêng của tôi. Ông lăo lại nói:
- Bây giờ con hăy ngủ đi nhưng khi trời hừng sáng, con hăy ngồi lại trong tư thế cũ, v́ đây là một cuộc thử thách chứ không phải là một h́nh phạt vô ích như con thể nghỉ trong lúc này chỉ có những kẻ nào vượt qua cuộc thử thách này mới có thể được thu nhận vào ḍng tu của chúng ta.
Nói xong, ông lăo cầm lấy những chén bát và đi thẳng. Tôi bèn đứng dậy, vươn vai, duỗi thẳng tay chân, rồi nằm xuống nghỉ lưng; tôi vừa nằm nghiêng một bên vừa ăn chén Tsampa. Quả thật là tôi đă quá kiệt sức. Sau khi ăn no, tôi kê cái gói áo để gối đầu và nằm luôn dưới đất. Bảy năm của cuộc đời tôi trên thế gian này thật là không được sung sướng chút nào. Cha tôi luôn tỏ ra nghiêm khắc trong mọi việc, nghiêm khắc một cách kinh khủng, tuy vậy đây là lần đầu tiên mà tôi ngủ xa nhà và suốt ngày hôm đó tôi không hề sửa đổi tư thế, hoàn toàn ngồi yên bất động và xác thể bị dày ṿ v́ cơn đói khát. Tôi không biết ngày mai sẽ đưa đến cho tôi cái số phận như thế nào, và người ta sẽ bắt tôi phải chịu những điều ǵ nữa. Nhưng bây giờ, tôi phải ngủ, ngủ dưới màn trời lạnh lẽo, cô đơn, một ḿnh với sự sợ hăi bóng tối, một ḿnh với sự sợ hăi những ngày sắp tới.
Dường như tôi chỉ nhắm mắt được không bao lâu, th́ tôi đă thức giấc v́ tiếng kèn thổi vang tai. Tôi vừa mở mắt th́ đă thấy ánh b́nh minh phản chiếu trên nền trời đằng sau những dăy núi. Tôi hối hả thức dậy và liền giữ lấy tư thế ngồi thiền. Trước mặt tôi, cả tu viện điều đă lần lần thức giấc. Lúc đầu nó giống như một thành phố bị đắm ch́m trong giấc ngủ. Kế đó, mỗi tiếng động nhẹ đầu tiên mỗi lúc càng tăng trưởng dần dần và tu viện trở thành ồn ào náo nhiệt như một cái tổ ong ṿ vẻ trong một ngày mùa hạ. Khi mặt trời ló dạng, những toán sư săi đầu cạo sạch bóng đi qua lại trong những cửa của tu viện.
Mặt trời càng lên cao, tôi càng cảm thấy tê buốt các khớp xương, nhưng tôi không dám cử động; tôi không dám ngủ thêm, v́ chỉ một cử động nhẹ là tôi đă thất bại và sau đó tôi biết đi đâu? Cha tôi đă nói rơ ràng: Nếu tu viện không bằng ḷng thu nhận tôi, th́ cha tôi cũng sẽ không nhận tôi trở về. Từng nhóm nhỏ các sư săi bước ra khỏi các gian nhà của tu viện để làm công việc hàng ngày. Vài thiếu niên đi rảo ngoài sân; đôi khi chúng nó lấy chân đá một cái, hất văng cát bụi bay mù mịt và những viên sỏi nhỏ về phía tôi ngồi, hoặc chúng đua nhau thốt ra những lời thô bỉ, tục tằn, cố ư nhắm vào tôi làm mục tiêu. Thấy tôi không đáp lại, chúng chán nản bỏ đi t́m những nạn nhân khác dễ chọc ghẹo hơn. Một ngày nữa lại qua mau; lần lần mặt trời lại ngả về tây và những ngọn đèn bơ của tu viện lại được thắp sáng. Trong giây lát, tôi đă ngồi dưới ánh sao, v́ đó là ngày thượng tuần, trăng lên hơi muộn.
Th́nh ĺnh, tôi cảm thấy lo sợ; hay là người ta đă quên tôi rồi? Hay đây là một cuộc thử thách, trong khi đó tôi phải chịu nhịn đói? Tôi không hề cử động suốt ngày hôm đó, một ngày kéo dài vô tận, và sự đó khát đă làm cho tôi mệt nhừ. Th́nh ĺnh, một tia hy vọng nhen nhúm trong ḷng tôi và làm tôi muốn nhảy dựng lên. Tôi nghe có tiếng chân đi và một bóng đen tiến về phía tôi. Nhưng than ôi, đó là một con chó ngao lớn và đen đang kéo lê một vật ǵ. Không một mảy may chú ư đến tôi, nó vẫn tiếp tục đi thẳng, cũng không chút xót thương cho cái t́nh trạng khó khăn của tôi. Niềm hy vọng của tôi bèn sụp đổ. Tôi cảm thấy muốn khóc để chóng lại sự yếu hèn đó, tôi bèn tự nhắc nhở lấy ḿnh rằng chỉ có đàn bà con gái mới dại dột mà xử sự như thế.
Sau cùng, tôi nghe tiếng bước chân của vị sư già. Lần này, ông lăo nh́n tôi với đôi mắt dịu hiền và nói:
- Con hỡi, đây là những đồ ăn thức uống cho con, nhưng sự thử thách chưa phải là hết. C̣n ngày mai nữa. Con hăy nhớ đừng làm một cử động nào, v́ có nhiều người đă thất bại vào giờ phút chót.
Nói xong, ông lăo từ biệt đi ngay. Trong khi vị sư già nói chuyện, tôi uống chén trà bơ và một lần nữa, sớt stampa vào cái bát riêng của tôi. Một lần nữa, tôi lại nằm dài dưới đất, thật ra cũng không sung sướng ǵ hơn đêm trước. Vừa nằm tôi vừa suy nghỉ về cách đối xử bất công này, tôi không c̣n muốn làm tu sĩ nữa. Người ta không để cho tôi có quyền định đoạt số phận của tôi, chẳng khác nào như tôi là một con lừa bị bắt buộc phải trèo qua một triền núi, thế thôi. Tôi ngủ thiếp đi trong cái ư nghĩ đó.
Ngày hôm sau, cuộc thử thách bước qua ngày thứ ba. Khi tôi ngồi dậy theo tư thế tọa thiền, tôi cảm thấy yếu sức hơn mọi ngày và đầu óc tôi choáng váng. Tôi thấy tu viện dường như xoay tít trong một khối xa mù gồm những ṭa dinh óc, những màu mè sặc sỡ, những đớm đỏ với những núi non và những sư săi quay cuồng lẫn lộn với nhau một cách vô cùng hỗn độn. Tôi phải làm một cố gắng phi thường để vượt qua được cơn chóng mặt đó. Tôi cảm thấy kinh hoàng với ư nghỉ rằng tôi có thể thất bại sau khi đă chịu tất cả những sự đau khổ trong những ngày qua. Tôi có cảm giác rằng những tảng đá mà tôi ngồi ở trên, lần lần đă trở nên bén nhọn cũng như dao cắt, nó làm cho tôi đau nhứt ở những bộ phận nhạy cảm nhất trong ḿnh tôi.
Ngôi mặt trời dường như đứng yên một chổ; ngày ấy kéo dài như vô tận. Nhưng sau cùng, ánh nắng bắt đầu dịu bớt, vầng hồng đă xuống thấp và ngọn gió chiều đă thổi phất phơ một sợi lông chim do một con chim én bay qua đă bỏ rớt lại. Lại một lần nữa, những ánh đèn bơ đă lần lượt nối tiếp nhau thấp thoáng qua khung cửa sổ. Tôi thầm nghĩ.
- "Tôi mong sau được chết trong đêm nay, tôi không c̣n chịu đựng được nữa."
Ngay lúc ấy, cái bóng đen cao lớn của vị chưởng môn Đoàn Sơ Cơ xuất hiện nơi khung cửa. Ông ta nói:
- Con hỡi, hăy lại đây!
Tôi thử đứng dậy, nhưng hai chân tôi đă chay cứng đến nỗi tôi phải nằm dài trên mặt đất. Người lại nói:
- Nếu con muốn nằm nghỉ, con có thể ở lại đây một đêm nữa. Ta không thể chờ đợi lâu hơn.
Tôi bèn hối hả thu lượm khăn gói và tiến lại gần vị Chưởng Môn với một bước đi khập khểnh. Ông ta nói:
- Vào đây. Con hăy dự cuộc lễ tối và sáng mai con hăy đến gặp ta.
Bên trong tu viện, không khí rất ấm áp và mùi hương trầm làm cho tôi cảm thấy khỏe mạnh. V́ quá đói, giác quan nhạy cảm của tôi cho tôi biết rằng cách đó không xa chắc có thức ăn no ḷng, tôi bèn đi theo một nhóm sư săi hướng về phía tay mặt. À, có đồ ăn đây rồi: Tsampa và trà bơ! Tôi ráng chen lên hàng đầu dường như tôi đă quen làm như vậy suốt đời tôi!
Các sư săi toan nắm chớp tôi khi tôi ḅ bốn cẳn luồng qua chân họ để đi tới trước nhưng vô ích; tôi đang muốn ăn, và không có ǵ có thể ngăn cản tôi được nữa. Sau khi đă ăn uống no ḷng, tôi theo chân các sư săi vào trong nội điện để dự cuộc lễ. Tôi đă quá mệt mỏi để có thể hiểu biết những ǵ xảy ra, nhưng không ai để ư đến tôi. Sau cuộc lễ, khi các sư săi sắp hàng một đi ra ngoài, tôi mới lẻn ra phía sau một cây cột lớn, nằm dài xuống mặt sàn bằng đá, gối đầu trên cái bọc vải đựng quần áo của tôi và ngủ một giấc ngon lành.
Tôi đang mơ màng giấc điệp th́ những tiếng động chung quanh đánh thức tôi dậy một cách phủ phàng. Có những giọng nói thốt lên:
- À, một con ma mới. Một đứa con nhà giàu. Ta hăy đánh cho nó một trận!
Một chú tiểu Sơ Cơ phất lên trên không cái áo dài thay đổi mà y đă rút ra trong bọc quần áo gói đầu của tôi, một tên khác đoạt lấy đôi giầy ủng của tôi. Một nắm Tsampa mềm và ướt từ đâu ném tới trúng vào giữa mặt tôi. Những cú đấm đá tới tấp như mưa nhắm vào tôi từ tứ phía, nhưng tôi không tự vệ. Đó có thể là một cuộc thử thách để xem tôi có tuân theo hay chăng, lời răn thứ mười sáu nói rằng: "Ngươi hăy chịu đựng sự đau khổ và tai họa một cách kiên nhẫn và an phận."
Bổng nghe có tiếng quát lớn: "Có chuyện ǵ xảy ra ở đây?" kế đó là những tiếng th́ thầm sợ hăi:
- À! Vị chưởng Môn đă đến! Chúng ta đă bị bắt quả tang!
Tôi đang lo gỡ miếng Tsampa ra khỏi mắt tôi, th́ vị chưởng Môn nhóm Sơ Cơ liền quay về phía tôi, nắm lấy cái bím tóc tôi và kéo tôi đứng dậy.
- Đồ gà mái ướt ! Đồ nhu nhược ! Mi mà muốn trở thành một nhà lănh đạo tương lai? Hăy lănh lấy mấy quả đấm này!
Kế đó, tôi bị đ̣n dưới một trận mưa quả đấm tàn bạo.
- "Đồ vô dụng, đồ hèn, thậm chí mi cũng không biết tự vệ..." những cú đấm đá vẫn tiếp tục dường như không bao giờ ngừng.
Tôi bèn nhớ lại lời nói của vơ sư Tzu lúc ông từ giă tôi:
- "Con hăy làm bổn phận, và hăy nhớ tất cả những ǵ ta đă dạy con."
Tôi bèn giữ thế thủ và lừa dịp đưa tay đẩy nhẹ một cái theo một thế vơ Tây Tạng mà vơ sư Tzu đă dạy tôi. Vị Chưởng Môn, trong lúc bất thần không kịp đỡ, vừa thốt lên một tiếng rên siết v́ đau đớn, vừa bay bổng lên khỏi đầu tôi, rơi xuống sàn gạch trong tư thế nằm sắp rồi chùi tới trước trên cái sóng mũi, làm sóng mũi bị lột da, và ngừng lại khi đầu ông ta va vào một cái cột lớn với một tiếng động kinh hồn!
Tôi thầm nghỉ: "Thôi rồi! Phen này ḿnh chắt chết. Âu cũng đành vậy để chấm dứt tất cả mọi nỗi lo âu." Thế giới dường nhu ngừng lại. Những thiếu niên Sơ Cơ đều nín thở. Một tiếng hét lớn, trong chớp mắt vị Chưởng Môn cao lớn và xương xẩu đă đứng phắt dậy. Máu từ trong hai lỗ mũi ông ta tuông ra đỏ lờm. Thật là một cảnh tượng quái gở, v́ khi đó ông ta cất lên tiếng cười vang trong một chuỗi cười dài cởi mở và thật t́nh! Ông ta nói với tôi:
- À, vậy mi là một con gà chọi, phải chăng? Gà chọi hay chuột ướt? Mi là giống nào? Để c̣n xem lại mới biết.
Vị Chưởng Môn bèn quay lại phía một thiếu niên mười bốn tuổi, có một thân xác to lớn rồi đưa tay ra hiệu và nói:
- Nga Quắn, mi là con trâu mộng nặng cân nhất của tu viện này. Mi hăy tỏ cho mọi người thấy rằng con nhà lái buôn có giá trị hơn con nhà vương giả hay chăng, trong một cuộc đấu vơ.
Lần đầu tiên trong đời, tôi thầm tạ ơn ông Tzu, vị vơ sư già của tôi. Thuở thiếu thời, ông ta từng là một chuyên viên về môn vơ thuật Tây Tạng, một tay vô địch xuất xứ từ vùng Kham. Theo lời ông ta nói, ông ta đă truyền lại cho tôi tất cả các thế vơ bí truyền, nhờ đó tôi có thể đối địch với cả những người lớn. Tôi đă tiến bộ rất nhiều về môn vơ thuật này, trong đó sức mạnh và tuổi tác không có ích lợi ǵ cả. V́ cuộc đấu vơ này quyết định tương lai của tôi, nên sau cùng tôi cảm yên tâm.
Nga Quắn là một thanh niên lực lưỡng và khỏe mạnh, nhưng thiếu lanh lẹ mềm dẻo trong những cử động của y. Hiển nhiên là y đă quen nhưng cuộc đánh đấm hung hăng trong đó bạo lực của y giúp cho y nắm ưu thế. Y lao ḿnh tới trước để nắm lấy tôi và quyết hạ được tôi. Tôi nao núng, nhờ đă có học vơ với ông Tzu và trong huấn luyện, đôi khi ông ta cũng tỏ ra bạo tàn. Khi Nga Quắn khởi thế công, tôi bước qua một bên để tránh và thuận tay tôi vặn một cánh tay của y. Hai chân y bị mất thăng bằng, y lảo đảo xoay nửa ṿng trước khi té ngă chúi đầu xuống đất. Y nằm rên một hồi trên sàn gạch, rồi th́nh ĺnh y đứng dậy và phóng tới tôi. Tôi thụp xuống, ngă ḿnh trên sàn gạch và đưa tay vặn một chân của y vào lúc y sắp sửa đè lên ḿnh tôi. Lần này y xoay trọn một ṿng, lảo đảo trên hai chân và té ngă, vai trán nện xuống đất. Nhưng y chưa thật sự đo ván. Y cố gắng đứng lên và đi thật trọng từng bước chung quanh tôi, rồi th́nh ĺnh nhảy qua một bên, y chụp một cái đỉnh bằng đồng và có dây xúc xích và quay tít nó lên trên không. Một khí giới như vậy thật là chậm chạp, nặng nề và dễ tránh. Tôi bước một bước tới trước, luồn ḿnh dưới nách y và đưa một ngón tay nhẹ nhàng điểm vào chổ nhược ở phía dưới của y, như vơ sư Tzu thường chỉ dạy cho tôi về môn điểm huyệt. Y liền ngă lăn xuống đất như một tảng đá hai tay buông sợi dây xúc xích, cái đỉnh đồng bị hất văng vào đám trẻ sơ cơ và nhóm sư săi đang đứng chung quanh nh́n xem chuộc đấu vơ gây lên một cuộc náo động ồn ào.
Nga Quắn nằm bất tỉnh trong nữa giờ. Sự điểm huyệt đặc biệt đó thường làm cho linh hồn rời khỏi thể xác để đi châu du trên cơi trung giới hoặc để có những hoạt động tương tự.
Vị Chưởng Môn Đoàn Sơ Cơ tiến đến gần tôi, vỗ vai tôi một cái thật mạnh làm tôi suưt nữa cũng lại nằm đo ván, và nói:
- Con hỡi, quả thật con là người hùng.
Tôi đánh bạo đáp lại:
- Như vậy bạch sư tôn, con có xứng đáng được ăn uống chút ít ǵ chăng? Từ mấy ngày nay, con chưa được ăn uống đầy đủ bữa nào.
Vị Chưởng Môn nói:
- Con hỡi, con hăy ăn uống cho thỏa ḷng. Sau đó, con hăy bảo một đứa trong nhóm sơ cơ dẫn đường cho con đến gặp ta. Từ nay con sẽ làm trưởng đoàn dể dạy vơ nghệ cho chúng nó.
Vị sư già đă đem thêm thức ăn cho tôi hai đêm trước cũng vừa đến ngay khi đó. Ông ta nói:
- Con hỡi, con đă hành động xứng đáng. Nga Quắn đă tỏ ra hống hách đối với nhóm sơ cơ. Con hăy thay chân nó ở chức vụ đoàn trưởng, nhưng con hăy có ḷng từ bi nhân hậu trong mọi quyết định. Con đă có một sự giáo dục rất tốt. Con hăy sử dụng tài nghệ của con cho đúng chỗ và chớ nên truyền thụ vơ nghệ cho những kẻ không xứng đáng. Bây giờ con hăy theo ta và ta sẽ cho con ăn uống no ḷng.
Khi tôi đến tư thất của người, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp đón tôi một cách rất ưu ái. Người nói:
- Con hăy an tọa. Ta muốn biết xem về mặt tri thức con có xuất sắc như về môn vơ nghệ không. Con hăy coi chừng, ta sẽ hỏi khó con đấy.
Kế đó, người mới đưa ra cho tôi nhiều câu hỏi, vừa sát hạch, vừa viết tay. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc nệm, và cuộc trắc nghiệm diễn ra suốt sáu tiếng đồng hồ, trước khi người tuyên bố hài ḷng về sự giải đáp của tôi. Tôi cảm thấy đă mệt mỏi, người bèn đứng dậy và nói:
- Con hăy theo ta. Ta sẽ đưa con vào tŕnh diện với vị Sư Trưởng. Đó là một cái vinh dự đặc biệt, con sẽ hiểu lư do tại sao.
Tôi đi theo vị Chưởng Môn qua những hành lang rộng lớn, những văn pḥng, những nội điện, những lớp học... Chúng tôi buớc lên một thang lầu, vượt qua những hành lang chằng chịt như mê cung, đi ngang những thánh điện thờ vị Thần và kho chứa các loại thảo dược. Lại lên một cầu thang nữa, sau cùng chúng tôi bước lên sân thượng, trên nóc bằng của tu viện và đi về phía tịnh thất của vị Sư Trưởng. Đến trước cửa, có một tượng Phật bằng vàng, biểu tượng của ngành Y học; qua khỏi cửa chúng tôi đă bước vào tu thất của Sư Trưởng.
Vị Chưởng Môn dặn tôi:
- Con hăy vái chào đảnh lễ và làm theo ta.
Người liền cuối lạy vị Sư Trưởng sau khi đă chắp tay vái ba lần. Tôi làm theo, trong ḷng hồi hộp. Vị Sư Trưởng điềm nhiên nh́n chúng tôi, và nói:
- Các con hăy an tọa.
Chúng tôi ngồi trên những chiếc nệm, hai chân xếp bằng. Vị Sư Trưởng im lặng nh́n tôi một lúc rất lâu. Kế đó người nói:
- Hỡi Lâm Bá, ta biết tất cả những ǵ về con, tất cả những ǵ đă được tiên tri từ trước. Cuộc thử thách mà con đă phải chịu, thật là gian lao. Con sẽ hiểu lư do tại sao trong một vài năm nữa. Nhưng c̣n bây giờ, con hăy biết rằng trong một ngàn sư săi, chỉ có một hai người là có khả năng học hỏi những việc cao xa, và có thể đạt tới một tŕnh độ tiến hóa cao. Kỳ dư chỉ làm những bổn phận thông thường hằng ngày. Họ là những người làm việc bằng tay chân, và lần chuỗi tụng niệm mà thôi, chứ không cần học hỏi ǵ cả. Ở đây không thiếu những người đó. Chúng ta chỉ thiếu những người giữ ǵn cái kho tàng kiến thức Huyền Môn khi xứ này bị nạn ngoại xâm. Con sẽ được thụ huấn đặc biệt, một sự huấn luyện ráo riết để trong vài năm ngắn ngủi con sẽ có nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời. Con đường Đạo sẽ gay go, hiểm trở và thường là dẫy đầy gian khổ. Thật vậy, tu luyện để có được nhăn quang thần thông đ̣i hỏi nhiều công phu rất khó nhọc, và xuất hồn đi châu du trên cơi trung giới đ̣i hỏi hành giả phải có một bộ thần kinh hệ vững chắc không ǵ lay chuyển và một ư chí cứng rắn như sắt đá.
Tôi chăm chú nghe với tất cả tâm hồn, không mất một chữ nào. Những điều đó đối với tôi dường như quá khó khăn. Tôi không có một nghị lực cứng cỏi đến bực đó! Vị Sư Trưởng nói tiếp:
- Ở đây con sẽ học y khoa và khoa chiêm tinh. Chúng ta sẽ giúp đỡ con về mọi mặt. Con cũng sẽ học các pháp môn bí truyền. Con đường của con đă được vạch sẵn, hỡi Lâm Bá. Tuy con mới có bảy tuổi, ta nói với con như nói với một người lớn, v́ vậy con đă được giáo dục như một người trưởng thành.
Nói xong, Sư Trưởng khẽ nghiêng đầu, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ bèn đứng dậy và cúi rập ḿnh chào rất lâu. Tôi làm y theo vị Chưởng Môn và chúng tôi cùng lui ra. Khi về đến tư thất, vị Chưởng Môn mới phá tan sự im lặng:
- Con hỡi, con sẽ phải làm việc nhiều. Nhưng chúng ta sẽ giúp đỡ con hết ḷng. Bây giờ, con hăy theo ta, để ta chỉ chổ cho con đi cắt tóc.
Ở Tây Tạng, khi một đứa thiếu sinh bước vào tu viện, người ta bắt y cạo hết tóc, chỉ trừ một cái chơm nhỏ ở đỉnh đầu, cái chơm này cũng sẽ được cạo luôn vào ngày mà y nhận được một pháp danh mới và bỏ cái tên cũ.
Vị Chưởng Môn đưa tôi đi qua một dăy hành lang đến một gian pḥng nhỏ, dùng làm nơi hớt tóc, tại đây người ta bảo tôi ngồi xuống đất. Vị Chưởng Môn nói:
- Tâm Chu, ngươi hăy cạo sạch tóc cho người thiếu nhi này. Ngươi cũng cạo luôn cái chơm v́ y sẽ nhận pháp danh luôn ngày hôm nay.
Tâm Chu bước tới, với bàn tay mặt y nắm lấy cái bím tóc của tôi, dở hỏng lên, và nói:
- À, à, cậu nhỏ này. Bím tóc đẹp thật, thoa bơ láng bóng và giữ ǵn cẩn thận. Cắt nó đi thật là sướng tay xiết bao.
Y bèn lấy một cây kéo rất lớn, giống như loại kéo mà những người nô bộc nhà tôi dùng để xén cây làm vườn, và gọi to:
- Tư Tỷ, lại đây cầm dùm một đầu.
Tư Tỷ, người phụ tá của y, chạy đến và kéo cái bímtóc của tôi mạnh đến nỗi tôi gần bị dở hỏng lên khỏi mặt đất. Miệng há hốc, Tâm Chu bắt tay vào việc với cây kéo cùn. Sau nhiều cơn bực ḿnh và cằn nhằn, cái bím đă cắt xong. Nhưng đó chỉ là mới đầu. Người phụ tá đem tới một thau nước nóng bỏng đến nổi, khi y dội nước lên đầu tôi, tôi đau điếng nhảy nhổm một cái. Người thợ cạo hỏi:
- Có ǵ không ổn, hử, cậu nhỏ? Phỏng nước sôi chăng?
- Phải đấy, nước nóng quá.
- Đừng sợ, không việc ǵ, nước nóng như vậy, cạo tóc dễ hơn!
Y vừa đáp vừa lấy con dao ba cạnh, h́nh tam giác, mà ở nhà tôi người ta thường dùng để cạo sàn gỗ mỗi khi rửa nhà. Sau cùng, sau một thời gian dài dường như vô tận, đầu tôi đă được cạo sạch.
Vị Chưởng Môn bèn gọi tôi vào pḥng riêng và đặt cho tôi một pháp danh mới. Đó là một tên Tây Tạng rất dài, nhưng trong quyển sách này, tôi vẫn dùng cái tên cũ cho tiện.
Kế đó, tôi được đưa vào một lớp học. Tôi cảm thấy đầu tôi trơ trẽn như một quả trứng mới đẻ. V́ tôi đă được hấp thụ một nền giáo dục tốt trong gia đ́nh, người ta cho rằng tôi có những kiến thức cao hơn mức trung b́nh, nên họ xếp tôi vào lớp học của những thiếu niên sơ cơ mười bẩy tuổi. Tôi cảm thấy như một người tí hon sống giữa những người khổng lồ. Những thiếu niên này đă thấy tôi đánh ngă Nga Quắn, nên không ai muốn quấy rầy tôi, trừ ra một đứa lớn xác và ngu xuẩn. Y tiến đến gần từ phía sau lưng tôi và đặt hai bàn tay to lớn và dơ bẩn lên đầu tôi, hăy c̣n rát và ê ẩm v́ mới cạo trọc. Tôi đứng phắt dậy và với một đầu ngón tay, tôi điểm nhẹ vào phía dưới cùi chỏ của y, làm cho y lùi lại thét lên v́ đau đớn. Sau vụ ấy, các đứa trẻ khác bèn để tôi yên. Vị Chưởng Môn vừa quay lưng khi đứa trẻ đặt hai tay lên đầu tôi, sau đó mới được biết những ǵ đă xảy ra. Nhưng kết qủa của vụ xung đột làm cho Vị Chưởng Môn bất giác cười lớn đến nỗi Người vui ḷng để cho chúng tôi về sớm.
Lúc ấy đă gần tám giờ rưỡi, chúng tôi c̣n được tự do trong ba khắc đồng hồ trước khi cuộc dự lễ tối đúng chín giờ một khắc. Nhưng tôi đă quá vội mừng. Một vị Lạt Ma ra hiệu cho tôi bước lại gần vào lúc tôi vừa ra khỏi lớp học. Tôi bước đến gần, người nói: "Hăy theo ta."
Tôi vâng lời đi theo và tự hỏi không biết chuyện ǵ đang chờ đợi tôi đây. Vị Lạt Ma bước vào một pḥng âm nhạc, tại đây có độ hai chục thiếu nhi mới, cũng như tôi. Ba nhạc công sắp sửa chơi nhạc, một người đánh trống, một người thổi tù và, và người thứ ba thổi kèn bằng bạc. Vị Lạt Ma nói:
- Tất cả mọi người cùng hát, để ta có thể sắp đặt giọng hát từng nhóm trong cuộc hợp ca.
Các nhạc công đánh một bản nhạc rất quen thuộc mà ai cũng hát được. Chúng tôi vừa cất tiếng hát... th́ cặp chân mày của vị Nhạc Sư đă nhướng lên rất cao! Sự ngạc nhiên hiện trên gương mặt người, kế đó sắc diện người lộ vẻ đau đớn khôn tả. Người đưa hai tay lên tỏ dấu phản đối và kêu to:
- "Ngưng lại! Ngưng lại tất cả! Các em xé cả lỗ tai của đấng Thánh Thần! Hát lại từ đầu và coi chừng!" Chúng tôi hát lại lần nữa, nhưng lần này, người cũng chận chúng tôi lại. Lần này, người bước đến trước mặt tôi và nói:
- Thằng ngốc, mi định chế nhạo ta chăng? Lần này khi trổi nhạc mi sẽ hát một ḿnh v́ mi không muốn ḥa giọng với những đứa khác. Một lần nữa, các nhạc công lại trổi nhạc, và một lần nữa tôi lại hát. Nhưng không được lâu. Vị Nhạc Sư hoàn toàn thất vọng và giận dữ khoa chân múa tay trước mặt tôi và nói:
- Lâm Bá, âm nhạc không phải là một trong những tài năng của mi. Trong năm chục năm trời từ ngày ta đến đây, ta chưa bao giờ nghe một giọng hát vụng về như thế. Vụng về ư? Được vậy c̣n đỡ. Giọng mi hoàn toàn sai, vô phương cứu văn. Này thằng nhỏ, mi sẽ không được hát nữa. Trong giờ âm nhạc, mi sẽ học một môn khác. Khi dự lễ trong nội điện, mi phải câm miệng lại, không th́ mi làm hỏng tất cả. Bây giờ, mi hăy cút đi, thứ lỗ tai trâu!
Thế là, tôi lánh đi chỗ khác chơi.
Tôi đi dạo chơi cho đến khi những tiếng kèn điểm giờ hành lễ cuối cùng trong ngày. Chỉ mới ngày hôm qua tôi bước chân vào tu viện, nhưng tôi có cảm tưởng rằng dường như tôi đă có mặt nơi đây từ thuở xa xăm nào! Tôi cảm thấy rằng tôi đi như người mê ngủ và tôi bắt đầu cảm thấy đói. Có lẽ như vậy c̣n hay hơn, v́ nếu lúc ấy tôi no bụng th́ chắc là tôi đă ngủ gật. Có người nắm lấy tay áo tôi và dở hỏng tôi lên trên không. Một vị Lạt Ma cao lớn, vẻ mặt hiền ḥa, đặt tôi ngồi trên hai vai rộng của người, và nói:
- Con hỡi, coi chừng con đến trễ giờ dự cuộc lễ tối và con sẽ bị quở. Nếu con đến trễ, con sẽ không được ăn, và chừng đó bụng con sẽ rỗng không như một cái trống!
Khi vị Lạt Ma bước vào nội điện, người vẫn c̣n khiêng tôi trên vai. Người ngồi ngay phía sau những tấm nệm dành riêng cho đám sơ cơ và cẩn thận đặt tôi ngồi xuống trước mặt người. Người nói:
- Con hăy coi đây, và lập lại những ǵ ta nói. Nhưng khi ta cất tiếng hát thánh ca, th́ con hăy im lặng chớ mở miệng đó nhé, a ha!
Tôi thầm biết ơn vị Lạt Ma đă có ḷng ưu ái đối với tôi. Từ trước đến giờ, ít có người đă tỏ ra tốt bụng đối với tôi. Sự giáo dục mà tôi đă hấp thụ được trong quá khứ chỉ là đặt trên một nền tảng quát tháo, thịnh nộ hay đánh đập.
Tôi đă ngủ thiếp đi trong một lúc. Khi đó tôi giật ḿnh thức dậy, tôi nhận thấy rằng cuộc lễ tối đă chấm dứt tự bao giờ. Vị Lạt Ma đă cơng tôi đến pḥng ăn khi tôi c̣n đang mê ngủ, và đặt tôi ngồi xuống trước bàn, trên đó người đă đặt sẵn trà bơ, Tsampa và rau đậu nấu chín. Người nói:
- Con hăy ăn no, rồi đi ngủ! Ta sẽ chỉ cho con biết buồng ngủ của con. Đêm nay, con có quyền ngủ thẳng giấc đến năm giờ sáng. Con hăy đến gặp ta khi con thức dậy.
Đó là những lời cuối cùng mà tôi nghe trước khi tôi thức giấc vào lúc năm giờ sáng. Một thiếu niên sơ cơ đă tỏ ra có thiện cảm với tôi từ đêm trước. Đến đánh thức tôi dậy một cách rất khó khăn giữa lúc tôi c̣n mê man giấc điệp. Khi thức tỉnh tôi mới thấy rằng tôi đă nằm trên tấm nệm giữa một pḥng lớn. Người thiếu niên nói:
- Vị Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đă dặn tôi đến đánh thức sư huynh đúng năm giờ sáng.
Tôi ngồi dậy và xếp ba tấm nệm chồng chất lên nhau sát vách tường theo gương những đứa trẻ khác. Tất cả những trể sơ cơ đă ra ngoài; người bạn trẻ của tôi bèn nói:
- Chúng ta hăy ăn điểm tâm; rồi sau đó tôi sẽ đưa sư huynh đến gặp Minh Gia Đại Đức.
Khi đó, tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn, không phải tôi thích tu viện hay tôi muốn ở lại đó, mà tôi nghĩ rằng v́ không thể làm sao hơn, nên tốt nhất là tôi nên êm thuận và ḥa ḿnh với hoàn cảnh. Đến giờ ăn điểm tâm, vị sư xướng ngôn đọc bằng một giọng trầm một đoạn kinh rút trong một trăm mười hai quyển của bộ kinh Kangyur của Phật Giáo Tây Tạng. Vị sư hẳn đă nh́n thấy tôi đăng trí và lo ra, v́ th́nh ĺnh người gọi giật tôi lại:
- Này, thằng nhỏ, ta vừa mới nói những ǵ? Hăy trả lời mau!
Nhanh như chớp và không suy nghĩ một giây đồng hồ tôi đáp ngay:
- Bạch sư ông, ngài vừa nói rằng: Thằng nhỏ này đăng trí không nghe ta đọc kinh, ta phải bắt nó tại trận!
Câu trả lời ấy làm cả cử tọa đều bất giác cười ầm lên, và nhờ đó tôi khỏi bị đ̣n v́ tội vô kỷ luật. Vị sư cũng mỉm cười đó là một việc hiếm có và giải thích rằng người muốn tôi lập lại đoạn kinh người vừa đọc, nhưng thôi, "Lần này th́ như vậy cũng được"
Mỗi bữa ăn, vị sư xướng ngôn đều ngồi trước một bàn nhỏ và đọc những đoạn kinh phật. Các sư săi không được phép nói chuyện trong giờ ăn, hoặc nghĩ đến những chuyện riêng tư, mà phải lắng tai nghe đọc kinh. Họ phải tiêu thụ thánh giáo cùng một lượt với thức ăn. Chúng tôi tất cả đều ngồi trên những chiếc nệm đặt dưới đất và ăn trên những chiếc bàn nhỏ cao độ năm tất Tây. Không ai được gây tiếng động hoặc để cùi chỏ lên bàn, v́ đó là những điều bị tuyệt đối cấm nhặt.
Tại tu viện Chakporl, người ta áp dụng kỹ luật sắt. Danh từ Chakporl có nghĩa là "Thiết Sơn" hay núi sắt. Trong phần lớc các tu viện, kỷ luật thường lỏng lẽo và thời khắc biểu không được áp dụng chặt chẽ. Các sư săi có thể làm việc hoặc nghỉ ngơi tùy ư. Có thể chỉ có một người trong hàng ngàn sư săi thật t́nh muốn tiến bộ tâm linh, và chính người đó mới trở nên một vị Lạt Ma, v́ danh từ Lạt Ma có nghĩa là "Thượng nhân", và không áp dụng cho bất cứ người nào. Trong tu viện của chúng tôi kỷ luật rất chặt chẽ và thậm chí c̣n gắt gao là khác. Chúng tôi phải trở thành những người lănh đạo của giai cấp tu sĩ. Đối với chúng tôi, th́ trật tự và giáo dục là tuyệt đối cần thiết. Chúng tôi không được phép mặt áo trắng là màu áo thông thường của cấp sơ cơ: Áo của chúng tôi mặt phải là màu đỏ sậm như áo của các vị sư săi. Chúng tôi cũng có những kẻ nô bộc để sai khiến nhưng đó là những săi lao công, nô bộc, có phận sự quét dọn, lao chùi và coi sóc phần sinh hoạt thực tế của tu viện. Chúng tôi thay phiên nhau làm công việc hèn mọn này, để cho những ư nghĩ tự phụ, kiêu căng không có chổ mà chen vào đầu óc của ḿnh. Chúng tôi phải luôn luôn nhớ câu sáo ngữ Phật Giáo: "Hăy tự ḿnh nêu gương tốt cho kẻ khác. Hăy làm điều thiện và tránh mọi điều ác. Đó chính là giáo lư của Phật vậy".
Vị Sư Trưởng của tu viện, tức vị Lạt Ma Champa La, cũng nghiêm  khắc như cha tôi và đ̣i hỏi một sự vâng lời tuyệt đối. Một trong những lời dạy mà người thường hay nhắc đến là: "đọc và viết là những then chốt của mọi đức tính".
Bởi đó, trên lănh vực này, chúng tôi có rất nhiều việc phải làm.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 225 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 9:06pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ

Chương Năm

 


Tại tu viện Chakpori, một "Ngày" của chúng tôi bắt đầu từ lúc nửa đêm. Khi tiếng kèn điểm giờ tư canh ba vang dội âm thanh đến những hành lang u tối, chúng tôi c̣n đang ngái ngủ, đă phải thức dậy xếp lại nệm chiếu và ḍ dẫm t́m cái áo tràng trong bóng tối. Mặc áo xong, chúng tôi vừa bước ra đi vừa dồn mọi đồ vật dụng vô áo tràng. Chúng tôi bước xuống thang lầu và nện gót giầy trên cầu thang với những tiếng động ồn ào, v́ vào giờ này, chúng tôi thường bực bội không vui. Trong phần giáo lư của chúng tôi có câu: "Thà nghỉ ngơi với một tâm hồn an tỉnh hơn là ngồi tham thiền tụng niệm mà ôm cơn tức giận trong ḷng". Tôi thường có một ư nghĩ bất kín: Nếu vậy tại sao người ta không để cho chúng tôi nghỉ ngơi trong sự yên tỉnh? Sự thức giấc vào lúc nửa đêm này làm cho tôi tức giận!
Nhưng không ai đă đưa cho tôi một lời giải đáp thỏa đáng, thành thử tôi phải đi cùng với mọi người vào nhà Nguyện Đường để dự cuộc lễ cầu nguyện ban đêm. Tại đây, vô số những ngọn đèn thắp bằng bơ chiếu ánh sáng lung linh xuyên qua những luồng khói hương nghi ngút bay lượn trong không khí. Dưới ánh sáng lập loè này, và giữa những bóng người qua lại, những pho tượng khổng lồ của các vị Thần dường như cũng cử động và h́nh như cũng nghiêng ḿnh đáp lại những tiếng thánh ca của các sư săi.
Hàng năm các sư săi và thiếu niên Sơ Cơ ngồi xếp bằng trên những tấm nệm xếp thành những hàng dài trong nhà Nguyện Đường. Họ ngồi day mặt đối diện với một hàng và xoay lưng vào một hàng. Họ cất tiếng hát những bản thánh ca du dương dùng những tiết điệu đặc biệt, v́ người Đông Phương đă từng hiểu biết về những quyền năng của âm thanh. Cũng như một âm thanh được phát ra đúng cách, có thể làm bể một cái ly th́ một bản nhạc dùng nhiều thanh điệu ghép lại theo một tiết điệu nhất định cũng có quyền năng siêu h́nh, thần bí. Trong buổi lễ, cũng có đọc kinh Kangyur. Thật là một cảnh tượng uy hoàng mà thấy hàng trăm sư săi mặc áo tràng màu đỏ sẩm, với mảnh lụa yểm tâm màu vàng che trước ngực, vừa nghiêng ḿnh vừa hát ḥa tấu những bài thánh ca, kèm theo tiếng ngân của những cái chuông nhỏ và tiếng trống. Những đám khói hương trầm và đèn nhan nghi ngút luồng qua chân các pho tượng thần khổng lồ và người ta có cảm giác rằng giữa cái ánh sáng âm u đó, những pho tượng ấy cũng nh́n chúng tôi dường như để chứng kiến cuộc lễ uy nghiêm.
Buổi lễ kéo dài gần một giờ, sau đó chúng tôi trở về pḥng để ngủ lại cho đến bốn giờ sáng. Một cuộc lễ sớm bắt đầu vào lúc bốn giờ một khắc. Đến năm giờ, chúng tôi ăn điểm tâm với Tsampa và trà pha bơ. Dẫu cho trong khi ăn, chúng tôi cũng c̣n phải lắng nghe giọng nói đọc âm chán phèo của vị sư xướng ngôn, trong khi đó, vị sư giám thị ngồi kế bên ḍ xét chúng tôi với cặp mắt cú vọ. Trong dịp này người ta đưa ra cho chúng tôi tất cả mọi thông tri và huấn lịnh. Thí dụ như trong trường hợp có việc cần phải đi ra thành phố Lhasa, th́ trong giờ ăn điểm tâm người ta nêu tên những sư săi có phận sự lănh công việc đó. Những vị này mới được phép rời khỏi tu viện trong một khoảng thời gian nhất định và được phép vắng mặt trong một vài buổi lễ trong ngày.
Đến sáu giờ, chúng tôi vào lớp học, sẵn sàng học buổi học đầu tiên. Lời răn thứ nh́ của Phật Giáo Tây Tạng dạy rằng: "Người sẽ làm tṛn bổn phận tôn giáo và người sẽ học hỏi kinh thánh". Trong sự ngây thơ của tuổi lên bảy, tôi không hiểu tại sao người ta phải tuân theo Lời Răn này trong khi lời răn thứ năm: "Ngươi phải kính trọng những bậc trưởng thượng và những người thuộc ḍng quư tộc". Lại không được tuyệt đối tuân theo? Thật vậy, kinh nghiệm của tôi cho tôi thấy rằng có một cái ǵ hổ thẹn mà sinh trưởng làm con nhà "Quư phái". Tôi thật sự đă là nạn nhân của sự "Quư phái" đó. Hồi đó tôi không hiểu rằng giai cấp của một người không phải là điều quan trọng mà chỉ có đức hạnh mới là đáng kể.
Đến chín giờ, chúng tôi ngưng học trong bốn mươi phút để dự một cuộc lễ khác. Sự gián đoạn này đôi khi cũng dễ chịu nhưng chúng tôi phải trở về lớp học vào mười giờ kém mười lăm phút. Khi đó, một môn học khác lại bắt đầu và kéo dài cho đến một giờ trưa. Chúng tôi vẫn chưa được phép ăn uống ǵ và phải dự một cuộc lễ trưa độ nữa giờ trước khi dùng bữa ăn trưa gồm có Tsampa và trà pha bơ. Kế đó là một giờ làm công việc nhà để giúp cho chúng tôi vận động cơ thể và để dạy chúng tôi đức tính khiêm tốn. Những công việc dơ bẩn nhất và khó chịu nhất được giao phó cho tôi, dường như nhiều lần hơn là tới phiên tôi phải làm.
Đến ba giờ chiều chúng tôi tụ hợp lại để nghỉ ngơi một tiếng đồng hồ. Trong giờ đó, sự nghỉ ngơi bị bắt buộc; cấm không được nói chuyện hay cử động; chúng tôi phải giữ im lặng hoàn toàn. Chúng tôi không thích sự sắp đặt đó chút nào, v́ một giờ th́ ít quá để ngủ trưa và dài quá để ngồi yên không làm ǵ! Sau giờ nghỉ trưa đó, đúng bốn giờ, chúng tôi trở lại lớp học. Đến đây mới bắt đầu giai đoạn gian lao nhất trong ngày nó kéo dài suốt năm tiếng đồng hồ, không một chút nào nghỉ ngơi, trong năm tiếng đồng ḥ đó chúng tôi không được phép rời khỏi lớp học v́ bất cứ một lư do nào, nếu trái lịnh, chúng tôi sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Các vị thầy học sử dụng những gậy gọc to lớn một cách tự do và có vài vị tỏ ra rất sốt sắng trong việc trừng phạt những kẻ vi phạm. Chỉ có những học tṛ nào không thể chịu đựng được nữa hoặc những kẻ thật ngu xuẩn mới xin phép vắng mặt "đi ra ngoài" v́ khi họ trở về lớp, sự trừng phạt là điều không thể tránh khỏi.
Đến chín giờ tối, chúng tôi mới được "giải thoát" để dùng bữa ăn cuối cùng trong ngày, cũng chỉ gồm có bấy nhiêu món là trà bơ và Tsampa. Đôi khi, nhưng cũng rất hiếm, chúng tôi được ăn rau, thường là những khoanh củ cải trắng hay đậu Ḥa Lan. Những thứ rau đậu này chỉ ăn sống, nhưng cũng ăn được đối với những thiếu niên sinh bụng đói. Có một lần, năm tôi lên tám tuổi, người ta cho chúng tôi ăn búp măng Tây trộn dấm. Tôi rất thích ăn măng tây, v́ tôi thường được ăn món ấy hồi c̣n ở nhà. V́ ăn c̣n thèm, tôi đă dại dột đề nghị với một bạn trẻ ngồi gần bên để đổi cái áo tràng thứ hai của tôi lấy phần ăn của nó. Vị sư giám thị bắt gặp quả tang chuyện này, bèn gọi tôi ra đứng giữa pḥng ăn để công khai thú tội trước mặt mọi người. Để trừng phạt tội tham ăn của tôi, tôi phải chịu nhịn đói, nhịn khát trong hai mươi bốn giờ. C̣n cái áo tràng của tôi th́ bị tịch thu họ viện lẽ rằng nó không có ích lợi ǵ cho tôi, v́ tôi đă muốn đổi nó lấy một vật không cần thiết lắm!
Đến chín giờ rưởi, chúng tôi trở về pḥng. Ai cũng muốn về mau để đi ngủ! Lúc đầu, tôi nghỉ rằng những giờ học dài quá mức đó có thể làm hại sức khỏe tôi, và có lẽ tôi sẽ lăn ra chết bất cứ lúc nào hoặc tôi sẽ ngủ luôn để không bao giờ thức dậy nữa. Cùng với những ma mới khác, chúng tôi thường rút lui vào một góc hẻo lánh để ngủ gà một giấc. Nhưng lần lần, tôi đă quen rất mau với cái thời khắc biểu khắc nghiệt đó, và sau cùng, những chuỗi ngày dài vô tận đó không c̣n làm cho tôi khó chịu nữa.
Lúc ấy đă gần sáu giờ khi người thiếu niên dẫn đường đưa tôi đến trước cửa tư thất của Minh Gia Đại Đức. Tuy tôi không gơ cửa, người cũng lên tiếng trước gọi tôi vào. Pḥng khách của Đại Đức rất trang nhă với những bức tranh tuyệt đẹp, vài bức tranh được vẽ ngay trên tường và những bức họa khác được vẽ trên những tấm màn trướng bằng lụa. Trên những bàn nhỏ có sắp những pho tượng các vị thần hay thần nữ bằng vàng hoặc bằng cẩm thạch. Trên tường cũng có gắng một bánh xe luân hồi rất lớn, biểu tượng của định luật Tuần Hoàn trong vũ trụ, ngồi theo tư thế liên hoa trên một tấm nệm, trước một cái bàn đầy những sách vỡ, vị Lạt Ma đang nghiên cứu kinh điển khi tôi bước vào. Người nói:
- Lâm Bá, con hăy ngồi đây gần bên ta, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều. Nhưng trước hết, đối với một thiếu niên đang ở tuổi sắp lớn, ta cần hỏi con một câu: Con có được ăn uống đầy đủ hay không?
- Bạch Ngài, có.
- Sư Trưởng có nói rằng chúng ta có thể làm việc chung với nhau. Chúng ta đă t́m thấy được tiền kiếp của con: Con đă tiến bộ khá lắm. Bây giờ chúng ta muốn phát triển lại vài khả năng và sở đắc mà con đă thu thập được trong kiếp sống vừa qua. Chúng ta muốn rằng trong khoảng vài năm, con sẽ thu hoạch được nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời.
Nói đến đây, Đại Đức bèn ngừng lại và chăm chú nh́n tôi một lúc rất lâu, với đôi mắt sáng dường như soi thấu mọi vật. Người lại nói:
- Mọi người phải được tự do chọn lựa con đường của ḿnh. Tương lai của con sẽ rất gian lao khổ cực trong bốn mươi năm nếu con chọn con đường tốt, nó sẽ đưa đến những phần thưởng lớn lao trong kiếp sau. Trái lại, trên con đường dở, con sẽ được giàu sang với đầy đủ mọi sự tiện nghi sung sướng của cỏi trần nhưng con sẽ không có được sự tiến bộ tâm linh. Vậy con hăy tự ḿnh quyết định lấy.
Nói xong, người nh́n tôi chờ đợi. Tôi đáp:
- Bạch Ngài, cha con có nói rằng nếu con thất bại và rời khỏi tu viện, con không nên trở về nhà. Làm sao con có thể sống cuộc đời sung sướng tiện nghi nếu con không có nhà để trở về? Và ai sẽ chỉ dẫn cho con theo con đường tốt nếu con chọn đường đó?
Đại Đức mỉm cười và nói:
- Con đă quên rồi chăng? Chúng ta đă t́m thấy lại được kiếp trước của con. Nếu con chọn con đường dở, tức con đường dể dăi tiện nghi, con sẽ được quy định ngôi thứ trong một tu viện như một vị Hóa Thân. Và trong vài năm, con sẽ được đưa lên chức vị Sư Trưởng. Cha con chắc sẽ không cho đó là một sự thất bại chứ?
Tôi bèn hỏi tiếp:
- Bạch Đại Đức, theo ư ngài đó có phải là một sự thất bại không? Người đáp:
- Phải. Với tất cả những ǵ mà ta biết, th́ đối với ta, đó là một sự thất bại.
- Bạch Đại Đức, ai sẽ hướng dẫn cho con?
- Ta sẽ là người hướng dẫn con, nếu con chọn con đường tốt, nhưng con hăy tự ḿnh quyết định lấy, không ai có quyền ép buộc con hết cả.
Tôi ngước mắt lên nh́n Đại Đức và tôi cảm thấy tôi yêu mến người đối diện với tôi lúc ấy: Một người cao lớn, với đôi mắt đen huyền, cái nh́n trong sáng, một gương mặt cởi mở và một vầng tráng cao rộng. Phải, tôi cảm thấy tràn đầy thiện cảm đối với người! Tuy tôi mới lên bảy, cuộc đời tôi trước kia thật là vất vả khổ cực và tôi đă từng gặp gỡ nhiều nhân vật: Thật sự tôi có thể xét đoán tính chất của một người. Tôi nói:
- Bạch sư phụ, con sẽ chọn con đường tốt và ước mong được làm đệ tử của Ngài.
Tôi nói thêm với một giọng băn khoăn:
- Nhưng chắc là con sẽ không thích làm việc nhiều!
Đại Đức cất tiếng cười lớn, một giọng cười cởi mở, nó sưởi ấm ḷng tôi và nói:
- Lâm Bá, ở đời không ai là người thích làm việc nhiều, nhưng ít có người thành thật nh́n nhận điều ấy.
Đại Đức nh́n vào các giấy tờ trên bàn và nói:
- Một phép luyện bí mật sẽ cần thiết để giúp cho con mở được năng khiếu Thần Nhăn. Sau đó, chúng ta sẽ sử dụng khoa thôi miên để hối thúc sự học hỏi của con cho mau có kết quả. Chúng ta sẽ giúp cho con tiến rất xa trên các lănh vực y khoa và Huyền Môn.
Tôi cảm thấy e ngại trước một chương tŕnh bề bộn như thế: Nó hứa hẹn một sự làm việc ráo riết không ngừng và khó nhọc dường nào! Nhất là sau khi tôi đă trải qua bao nhiêu sự học vấn khắc khổ trong bảy năm qua, không hề có dư thời giờ cho các môn giải trí... và chơi diều!
Vị Lạt Ma dường như đọc được tư tưởng của tôi. Người nói:
- Thực vậy, con hỡi. Sau này con sẽ có thời gian để chơi diều nhưng đó sẽ là những con diều thật lớn và có thể chở người ngồi bên trong. C̣n hiện giờ, ta cần thiết lập một thời khắc biểu hợp lư đến mức tối đa.
Sư phụ tôi lại cúi xuống mớ giấy tờ trên bàn:
- Xem nào, từ chín giờ sáng đến một giờ trưa, có được chăng? Phải đấy, ta hăy bắt đầu như vậy. Con hăy đến đây mỗi buổi sáng đúng chín giờ thay v́ dự buổi lễ sáng và ta sẽ thảo luận về những vấn đề quan trọng. Buổi học đầu tiên sẽ là sáng mai. Con có muốn nhắn ǵ với cha mẹ con không? Ta sẽ đến viếng song thân của con ngày hôm nay. Con hăy đưa cho ta mớ tóc củ của con hôm trước!
Điều đó làm tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Khi một thiếu niên được nhận vào tu viện, người ta xuống tóc cho y và gởi cái bím tóc dài vừa cắt xong cho cha mẹ y qua sự trung gian của một thiếu niên Sơ Cơ để chứng minh rằng con của họ đă được thâu nhận. Trong trường hợp này th́ chính Minh Gia Đại Đức đích thân đem cái bím tóc của tôi về nhà! Điều này có nghĩa là từ nay Đại Đức sẽ hoàn toàn đảm trách cuộc đời tôi và tôi đă trở nên đứa "Con tâm linh" của người.
Minh Gia Đại Đức là một nhân vật rất quan trọng, một người có một trí thông minh hiếm có và được nổi tiếng khắp nơi ở xứ Tây Tạng. Tôi tin chắc rằng dưới sự d́u dắt của một vị sư như Ngài, tôi không thể nào thất bại.
Sáng ngày hôm ấy, khi trở về lớp học, tôi làm một người học tṛ rất lăng trí. Tôi để tư tưởng vẫn vơ đâu đâu, và bởi đó vị gia sư lại có dịp thỏa mản cái khuynh hướng sử dụng gậy gọc một cách thẳng tay!
Tôi nhận thấy các giáo sư đă tỏ ra nghiêm khắc một cách quá đáng. Nhưng để tự an ủi, tôi nghỉ rằng dầu sao tôi đến đây là để học. Đó là lư do v́ sao tôi đầu thai trở lại, tuy rằng hồi đó tôi không được biết rơ tôi cần phải học lại những ǵ.
Ở Tây Tạng, người ta tin tưởng rất mạnh nơi sự luân hồi. Họ tin rằng một người đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh nào đó, có thể chọn lựa sống trên một cơi giới khác, hoặc trở lại thế gian để học hỏi thêm hay để giúp đỡ kẻ khác. Có khi một nhà hiền giả đă hỏi phải thực hiện một sứ mạng nhất định trong đời ḿnh nhưng lại qua đời trước khi hoàn thành sứ mạng. Trong trường hợp đó, người ta tin rằng nhà hiền giả có thể tái sinh trở lại thế gian để hoàn tất công việc đă bỏ dở trong kiếp trước, dưới điều kiện là công việc ấy sẽ hữu ích cho nhân loại.
Không mấy ai có thể nhờ người khác truy ra những tiền kiếp của ḿnh, việc ấy đ̣i hỏi một vài ấn chứng, tổn phí nhiều tiền bạc và mất nhiều th́ giờ. Những người nào cũng như trường hợp của tôi có những ấn chứng đó được gọi là những vị "Hóa Thân" (Tulku - người đă tiến hóa cao, t́nh nguyện đầu thai trở lại cơi trần ngay sau khi chết, để thực hiện một sứ mạng tâm linh cao cả). Những vị này hồi c̣n trẻ được dạy dỗ theo một kỹ luật vô cùng khắc khổ, giống như trường hợp của tôi, nhưng về sau đến lúc trưởng thành họ được sự kính trọng của tất cả mọi người. Về phần tôi, người ta sẽ dành cho tôi một sự huấn luyện đặc biệt nhằm tăng cường những kiến thức của tôi về khoa Huyền Môn. Để làm ǵ? Hồi đó, tôi chưa được biết rơ lư do.
Những cú roi giáng xuống như mưa làm tôi giật ḿnh, và đưa tôi trở về thực tế.
- Thằng ngốc! Đồ gàn! Những ư nghỉ đen tối nào đă lọt vào trong cái sọ dày đặt của mi? May cho mi v́ đă đến giờ dự lễ nếu không, chắc là mi c̣n bị ăn đ̣n!
Kèm theo lời mắng mỏ ấy, vị giáo sư thịnh nộ đá vào đít tôi một đá nên thân và bước nhanh ra khỏi lớp học. Một bạn đồng môn của tôi nói:
- Bạn đừng quên rằng trưa nay là tới phiên chúng ta phải làm công tác dưới bếp, tôi hy vọng chúng ta có thể vô bao đầy món Tsampa.
Công tác làm bếp rất cực nhọc, v́ những vị sư giám thị đối xử với chúng tôi như những kẻ nô lệ. Không có vấn đề nghỉ ngơi sau hai giờ công tác nặng nhọc đó. Làm bếp xong, chúng tôi phải trở lại lớp học ngay. Đôi khi người ta giữ chúng tôi ở lại bếp quá lâu nên chúng tôi đến lớp học trể giờ. Khi chúng tôi đến nơi th́ vị giáo sư nổi trận lôi đ́nh phân phát cho chúng tôi một loạt những cú roi, gậy như mưa tấc, không để cho chúng tôi có chút mảy may cơ hội để biện hộ cho sự trể giờ đó!
Công tác đầu tiên của tôi trong nhà bếp suưt nữa cũng là công tác cuối cùng. Theo những hành lang lót đá, chúng tôi đi đến nhà bếp... không chút hứng khởi trong ḷng. Một sư săi nét mặt rất cáu kỉnh đứng đợi chúng tôi ở ngoài cửa. Khi vừa thấy chúng tôi đến, y kêu to:
- Mau lên, thật là một lũ lười biếng và vô dụng. Mười đứa đầu tiên hăy vô nấu các nồi "Xúp de"!
Tôi lọt nhằm số mười, tôi bèn đi cùng với những thiếu sinh khác xuống bếp do một cầu thang nhỏ. Dưới nhà bếp nóng kinh khủng. Trước mặt chúng tôi, những bếp ḷ phát ra những tia lửa đỏ. Nhiên liệu đốt ḷ là phân con Yak phơi khô và ép thành từng bánh tṛn, được chất lên từng đống lớn gần bên các chảo đụn. Vị sư săi chỉ huy việc nấu bếp quát lớn:
- Hăy vác xuổng lên và xúc phân khô đổ vô ḷ!
Tôi chỉ là một đứa trẻ mới lên bảy tuổi lẫn lộn trong đám thiếu sinh mà đứa trẻ nhất cũng không dưới tuổi mười bảy. Tôi chỉ vừa đủ sức giơ cái xuổng lên toan xúc phân cho vào ḷ th́ tôi vô ư thế nào làm lật cái chảo nước đang sôi lên hai bàn chân của vị sư săi. Y thét lên trong cơn thịnh nộ, nắm lấy cổ họng tôi xoay một ṿng... và loạng choạng té ngă. Tôi nhảy ra phía sau, nhưng tôi cảm thấy đau nhói kinh khủng và ngửi thấy mùi da thịt cháy khét. Tôi đă té ngă trên một cây sắt đầu nướng đỏ từ trong bếp ḷ văng ra. Thét lên v́ đau đớn, tôi ngă lăn giữa những tro than cháy âm ỉ. Phần trên đùi bên trái của tôi, gần chổ xương háng bị cháy đến tận xương, chổ da thịt bị phỏng ấy đă để lại cho tôi một vết thẹo trắng, mà hiện nay c̣n làm cho tôi khó chịu. Chính vết sẹo ấy về sau đă làm cho người Nhật nh́n ra được tôi.
Một cơn náo loạn đă diễn ra sau đó. Những sư săi khác từ khắp nơi vội vàng chạy đến. Người ta mau mau đỡ tôi đứng dậy giữa đám tro tàn. Tôi bị những vết phỏng khắp thân ḿnh nhưng nặng nhất là vết thương ở bắp đùi. Người ta mau cơng tôi lên những tầng lầu trên, ở đó, một vị Lạt Ma y sĩ cố gắng chữa trị vết phỏng để cứu lấy cái chân tôi. Thỏi sắt nướng đó là một vật dơ bẩn và để dính lại trong vết thương những mạt cưa sắt rĩ sét. Vị y sĩ phải moi trong vết thương để lấy ra những  miếng sắt vụn này, cho đến khi vết phỏng được rữa sạch trơn. Kế đó, y sĩ rịt thuốc lên vết thương và băng bó cẩn thận. C̣n những vết phỏng nhẹ ở khắp thân ḿnh th́ y sĩ thoa lên một chất thuốc nước làm bằng chất dược thảo nó làm cho tôi bớt đau rất nhiều.
Sự đau đớn, nhức nhói vẫn âm ĩ và tôi tưởng chắc là sẽ không c̣n sử dụng chân trái của tôi được nữa. Khi đă băng bó xong, vị Lạt Ma y sĩ gọi một sư săi khiêng tôi vào một gian pḥng bên cạnh và đặt tôi nằm trên nệm. Một vị sư già bước vào ngồi dưới đất ở bên cạnh giường tôi và bắt đầu đọc kinh cầu nguyện. Tôi thầm nghỉ: "Thật là tốt đẹp thay mà cầu nguyện ơn trên che chở cho tôi sau khi tôi vừa bị một tai nạn!" Sau cái kinh nghiệm bản thân về sự đau đớn cực h́nh này, tôi quyết định sẽ sống một cuộc đời đức hạnh. Tôi nhớ đến một bức tranh vẽ cảnh địa ngục, trong đó một quỷ sứ hành h́nh một nạn nhân bằng cách lấy dùi sắt nhọn nướng đỏ đốt thân h́nh y ở gần chổ mà tôi bị phỏng.
Có lẽ người ta sẽ nghỉ rằng trái với đều mà họ vẫn tưởng các sư săi là những kẻ ác ôn. Nhưng sư săi là ǵ? Ở xứ Tây Tạng, danh từ đó áp dụng cho mọi người phái nam sống trong một tu viện Lạt Ma Giáo, dẫu cho họ không phải là người tu. Hầu như bất cứ người nào cũng có thể trở nên sư săi. Một trẻ thiếu nhi thường được gởi vào một tu viện để trở nên "Sư săi" mà nó không cần được hỏi ư kiến. Đôi khi, đó là một người trưởng thành đă chán công việc đi chăn cừu và muốn có một mái nhà ấm cúng để đụt sương tuyết khi tiết trời lạnh lẽo sụt xuống đến bốn mươi độ dưới số không. Khi đó, y xin làm sư săi trong tu viện. Không phải v́ lư tưởng tôn giáo mà v́ y muốn tự đảm bảo lấy ít nhiều tiện nghi vật chất. Các tu viện dùng những "Sư săi" đó như những người lao công để làm những công tác xây cất, cày bừa hay quét dọn. Ở những nơi khác th́ những người đó được gọi là nô bọc hay bằng một danh từ tương tự. Phần nhiều những người đó đă sống một cuộc đời rất khổ nhọc: Sống ở những vùng cao nguyên từ ba ngàn đến bảy ngàn thước bề cao, không phải là một cuộc đời dễ chịu. Đối với người Tây Tạng, th́ một "Sư săi" chỉ có nghĩa là một người như mọi người thường. Họ dùng danh từ Trappa để chỉ những người tu sĩ.
Những vị Lạt Ma (Lama) là những bậc cao tăng, thuộc một cấp đẳng cao. Đó là những bậc đạo sư, hay tôn sư. Thí dụ như Lạt Ma Minh Gia Đại Đức sẽ là vị tôn sư của tôi, và tôi sẽ là đệ tử của người. Kế đó, ở cấp đẳng cao hơn nữa là những vị sư trưởng. Không phải tất cả những vị này đều đảm trách việc trông coi một tu viện; nhiều vị nắm giữ những chức vụ cao trong chính phủ hoặc đi ta bà từ tu viện này đến tu viện khác. Có đôi khi một vị Lạt Ma lại ở cấp đẳng cao hơn vị sư trưởng; mọi sự đều tùy nơi những hoạt động của người.
Những người được coi như là những vị "Hóa Thân" (người ta đă chứng minh rằng đó là trường hợp của tôi) có thể được chỉ định làm chức sư trưởng vào năm mười bốn tuổi, sau khi đă vượt qua một cuộc thi rất khó khăn. Những vị này thường là nghiêm khắc nhưng không hung dữ và không bao giờ bất công.
Một thí dụ khác về sư săi là trường hợp các sư săi cảnh binh. Nhiệm vụ duy nhất của họ là duy tŕ trật tự, họ không có phận sự ǵ trong việc tế tự, lễ bái ở các đề chùa, họ chỉ cần có mặt để xem mọi việc có xảy ra đúng theo quy tắc luật lệ không. Họ thường rất hung tợn cũng như phần nhiều các sư săi nô bọc như đă nói ở trên (nhưng không v́ thế mà họ làm giảm uy tín của các tu viện). Người ta không thể lên án một vị giám mục v́ ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm vườn ấy sẽ trở nên một ông thánh chỉ v́ y làm tôi tớ cho một vị giám mục!
Đây trở lại vấn đề tôi bị phỏng lửa khi đi làm công tác dưới bép. Hiệu lực của chất thuốc vừa tan dần, tôi hồi tỉnh lại và cảm thấy như ḿnh bị lột da. Trong cơn mê sảng tôi tưởng tượng dường như một ngọn đuốt đang cháy được đặt vào một cái lỗ trống trong bắp đùi bên trái của tôi.
Thời giờ trôi qua. Tôi lắng nghe những tiếng động trong tu viện: Vài loại âm thanh đă quen thuộc đối với tôi, nhưng có nhiều loại khác mà tôi không nhận ra là những tiếng động ǵ. Toàn thân tôi bị rung chuyển v́ những cơn đau điếng dữ dội. Tôi nằm sấp trên bụng nhưng những vết phỏng cũng lan rộng đến phía trước của thân ḿnh tôi. Tôi nghe một tiếng động nhẹ: Có người đến ngồi gần bên tôi. Một giọng đầy thiện cảm và nhân từ của Minh Gia Đại Đức nói th́ thầm bên tai tôi:
- Con hỡi, chắc là con bị đau lắm. Thôi hăy ngủ đi.
Vài ngón tay nhẹ nhàng lướt trên lưng tôi dọc theo xương sống, nhẹ lướt thêm nữa và thêm nữa. Thế rồi... tôi mê man ngủ thiếp đi.
Một vầng mặt trời êm ấm chiếu rạng ngời trước mặt tôi. Tôi thức dậy và chớp mắt liên hồi. Tư tưởng đầu tiên đến với tôi khi tôi vừa chợt tỉnh là h́nh như có người đá tôi vài đá v́ tôi đă ngủ quá lâu. Tôi định nhảy xuống giường để hối hả đi dự buổi lễ sáng nhưng tôi bèn té ngữa ra sau, khắp ḿnh mẩy đau nhức như rần. Th́ ra đó là cơn mê sảng... Chân trái tôi đau quá.
Một giọng dịu hiền ưu ái nói với tôi:
- Lâm Bá, con hăy nằm yên. Hôm nay con có thể nghỉ.
Tôi quay đầu nh́n lại lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng tôi đang nằm trong pḥng của Minh Gia Đại Đức, c̣n Sư Phụ th́ ngồi gần bên tôi. Người nhận thấy sự ngạc nhiên của tôi và mỉm cười:
- Tại sao con ngạc nhiên? Phải chăng là một việc thường t́nh mà hai người bạn ở gần bên nhau khi một người bị đau ốm?
Tôi đáp bằng một giọng ră rời mệt mơi:
- Nhưng sư phụ là một vị Lạt Ma cao cả, c̣n con chỉ là một đứa trẻ nhỏ.
- Lâm Bá chúng ta đă cùng nhau đi một đoạn đường rất dài trong những kiếp trước. Hiện giờ con chưa nhớ lại được điều đó nhưng ta nhớ rơ, v́ chúng ta đă sống rất gần bên nhau trong những kiếp vừa qua. C̣n bây giờ con cần phải nghỉ ngơi để lấy lại sức. Chúng ta sẽ điều trị bắp chân con cho mau lành, con đừng lo ǵ cả!
Tôi liên tưởng đến cái bánh xe luân hồi sinh tử và nghỉ đến những điều răn trong kinh thánh của xứ tôi: "Người tâm hồn quảng đại sẽ được sống một cuộc đời giàu sang không bao giờ dứt, c̣n kẻ hèn tiển ít róng sẽ không bao giờ được sự ưu ái, từ tâm. Người có quyền thế hăy sống một cách quảng đại với những kẻ khác đến nhờ vả ḿnh. Y hăy nh́n xa để thấy con đường dài của sự luân hồi sinh tử. Sự giàu sang luân chuyển như những bánh xe, nay nó thuộc về người này, mai nó thuộc về người khác. Kẻ hành khất ở kiếp này có thể trở nên một vị vương hầu ở kiếp sau, c̣n vị vương giả ngày nay có thể trở nên kẻ ăn mày trong một tương lai xa gần".Khi đó tôi hiểu một cách chắc chắn không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, mặc dầu trong cơn đau đớn thể xác và mặt dầu tuổi tôi c̣n nhỏ, rằng Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi là một tâm đức và tôi có thể tin tưởng lời giáo huấn của người. Rơ ràng là sư phụ tôi biết rơ rất nhiều điều về tôi, nhiều hơn rất xa những ǵ mà tôi có thể biết được. Tôi rất nóng ḷng muốn làm việc chung với người và tôi quyết định rằng tôi sẽ là một người đệ tử gương mẫu. Tôi cảm thấy một cách rơ rệch rằng giữa chúng tôi có một sự đồng thanh đồng khí rất chặt chẽ và tôi lấy làm cảm kích sự xoay vần của định mệnh nó đă đặt tôi dưới sự hường dẫn d́u dắt của người.
Tôi quay đầu nh́n ra ngoài cửa sổ. Những tấm nệm của tôi đang nằm được đặt trên một cái bàn để cho tôi có thể nh́n thấy bên ngoài. Cảnh vật rất là hùng tráng. Đằng xa, ở bên ngoài những nóc nhà chen chút nhau phía dưới cửa sổ của tôi, thành phố Lhasa vươn ḿnh dưới ánh nắng mặt trời, với những ngôi nhà nhỏ sơn màu lợt xinh xắn. Trong thung lũng, con sông Kỳ Giang uốn khúc giữa những cánh đồng xanh tươi nhất thế giới. Những dăy núi xa tít chân trời ửng màu đỏ sậm với những đỉnh núi đội tuyết trắng phau. Trên những ngọn núi gần hơn, những vết màu vàng lóng lánh chen chút nhau trên sườn núi, đó là nóc của những tu viện. Bên tay trái, điện Potala nhô lên cao như một ngọn núi biệt lập.
Về phía tay mặt, một cụm rừng nhỏ trong đó rải rác những đền chùa và trường học. Đó là địa phận của vị Thiên Giám Quan, một nhân vật quan trọng mà vai tṛ duy nhất trong đời là tạo nên một nhịp cầu giao cảm giữa cơi trần gian vật chất và cơi giới vô h́nh, và tiên tri điều họa phúc của quốc gia. Dưới mắt tôi, trên sân mặt tiền, những sư săi thuộc các cấp đi qua lại không ngớt. Vài vị trong số đó, những người sư săi lao công, mặc áo màu nâu sậm. Một nhóm thiếu sinh của tu viện ở xa mặc áo trắng. Những sư săi cao cấp cũng có mặt ở đó, đều mặt áo màu đỏ sậm, với manh yểm tâm bằng lụa vàng, chỉ rằng họ thuộc thành phần viên chức tối cao của chính phủ. Một vài vị cưỡi ngựa hay cưỡi lừa. Những người thường dân th́ cưỡi ngựa đủ màu c̣n các sư săi bắt buộc phải cưỡi trắng. Tất cả những cảnh tượng đó làm cho tôi quên cả hiện tại. Điều làm cho tôi quan tâm hơn hết là làm sao cho chống b́nh phục để có thể sử dụng hai chân của ḿnh.
Ba ngày sau, người ta cho rằng tốt hơn tôi nên ngồi dậy và thử đi đứng xem sao. Chân trái tôi c̣n cứng đơ và làm cho tôi rất đau đớn. Chỗ vết phỏng đă sưng lên và có mủ v́ những mảnh sắt vụn rĩ sét mà người ta khong thể gắp ra được. V́ tôi không thể đi đứng một ḿnh, người ta làm cho tôi một cây nạng gỗ để tôi dùng mà đi một chân, tôi đi nhún nhẩy cũng như con chim bị thương. Toàn thân tôi vẫn c̣n những vết phỏng và những chỗ phồng da nhung chân trái tôi làm cho tôi đau đớn nhiều hơn các chỗ khác.Tôi không thể ngồi được mà phải nằm nghiêng bên mặt hoặc nằm sấp tôi không thể dự các buổi lễ cầu nguyện hay đi đến lớp học nên Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi dạy tôi học tại tư thất từ sáng đến chiều. Người tuyên bố hài ḷng về những kiến thức mà tôi thu thập được trong thời "Niên thiếu" của tôi, người nói:
- Nhưng, nhiều điều trong những kiến thức đó chỉ là những kỷ niệm mà con đă mang theo từ những kiếp trước.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 226 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 9:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ĐỜI SỐNG TRONG TU VIỆN

Chương Sáu

 


Hai tuần lễ trôi qua những vết phỏng của tôi đă gần khỏi. Cái chân tôi c̣n làm cho tôi hơi đau nhưng càng ngày càng bớt dần. Tôi yêu cầu được áp dụng thời khắc biểu như thường lệ v́ tôi thấy cần phải cử động đôi chút. Tôi được phép ngồi tùy ư hoặc nằm sấp trên bụng. Người Tây Tạng ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa, nhưng tôi không thể ngồi như vậy v́ chân tôi c̣n đau.
Ngày đầu tiên tôi trở lại lớp học để gặp lại các bạn cũ, th́ có công tác làm bếp vào buổi trưa. Tay cầm một tấm bản đá tôi có phận sự kiểm điểm những bao lúa mạch nha sấy. Lúa mạch nha được trải lên những tảng đá hâm nóng đến bóc khói: Cái nồi "Xúp de" mà tôi đă làm lật đỗ đến bị phỏng, được đặt ở phía dưới. Khi đă trải đều lúa mạch nha trên những tảng đá, người ta mới đóng cửa và nhóm thiếu sinh chúng tôi đi qua hành lang đến một văn pḥng tại đây người ta xay giă lúa mạch nha đă sấy xong. Cối xay là một cối đá h́nh ống loa lật ngược, vành tṛn đường kính độ một thước sáu tấc. Ḷng cối xay có chạm khắc những đường lồi lơm để giữ lúa. Một tảng đá vĩ đại cũng h́nh ống loa, nhưng đặc ruột đặt vào ḷng cối để nghiền nát lúa. Tảng đá này được nâng bằng một cái đ̣n tay bằng gỗ mà thời gian đă làm cho trơn bóng, ở hai đầu cái đ̣n tay này có gắn chặt các đ̣n tay nhỏ hơn giống như những cây căm của một bánh xe không có vành. Lúa mạch nha sấy được đổ vào cối đá, rồi các sư săi và những trẻ thiếu nhi mới nắm lấy những cây căm bánh xe để vận chuyển khối tảng đá nặng đến hàng mấy tấn. Khi tảng đá đă xoay ṿng th́ công việc không c̣n nặng nhọc lắm và chúng tôi cùng cất tiếng hát hợp xướng. Ít nhất tại đây tôi có thể hát mà không bị bắt tại trận! Nhưng làm vận chuyển tảng đá này là cả một công tŕnh khó nhọc. Tất cả mọi người đều phụ giúp một tay trợ lực. Kế đó phải để ư coi chừng nó luân chuyển luôn luôn không lúc nào ngừng. Những số lượng mạch nha sấy được đổ thêm vào cối và lúa sấy xong thoát ra ngoài ở phần dưới cối. Chính thứ lúa xay này được trải một phần nữa lên nhưng tảng đá nóng để sấy lại là chất liệu căn bản để là món Tsampa. Mỗi người chúng tôi đều đem theo trong ḿnh một ít Tsampa đủ ăn trong một tuần hay nói đúng hơn là một số lúa mạch nha đă xay nát và sấy lại. Đến bữa ăn, chúng tôi lấy ra một phần nhỏ đựng sẵn trong cái bộc da và đổ vào những cái chén riêng của ḿnh. Sau khi đổ thêm trà pha bơ chúng tôi dùng ngón tay trộn đều và nhồi cho đến khi nó trở thành một thứ bánh, rồi mới ăn.
Qua ngày hôm sau, công tác làm bếp gồm có việc nấu trà bơ. Ở gian pḥng khách của nhà bếp có đặt một cái chảo đụn khổng lồ với dung lượng sáu trăm bảy mươi lăm lít. Chảo đụn này đă được lau chùi bằng cát và trở nên sạch bóng như c̣n mới.
Từ sáng sớm, chảo đụn này đă được chứa nước đến phân nữa và nấu sôi lên sùn sụt. Chúng tôi có phận sự đi lấy những bánh trà đă phơi khô và đập tan ra thành từng mảnh vụn. Trà này được ép cứng lại thành từng bánh lớn h́nh vuông như viên gạch, mỗi bánh cân nặng từ bảy đến tám kư, được chở từ Trung Hoa hay Ấn Độ đến Lhassa bằng đường bộ xuyên qua các triền núi. Những mănh vụn vừa đập ra được ném vào chảo nước đang sôi. Một sư săi thêm vào đó một tảng muối cục thật lớn, một sư săi khác bỏ thêm vô một muối hóa chất (bicarbonnate de soude). Khi tất cả đều sôi sụt người ta mới đổ thêm vào từng mảng bơ làm bằng sửa của con Yak, và để lửa cháy trong ḷ suốt nhiều giờ. Trà trộn với bơ này có một giá trị dinh dưỡng rất tốt và dùng thêm với món Tsampa nó có đầy đủ chất bổ dưỡng để cho người Tây Tạng sống được quanh năm. Công việc khó nhọc nhất là giữ cho lửa cháy trong. Thay v́ dùng phân củi người ta dùng phân con Yak phơi khô làm chất nhiên liệu để đốt lửa. Chất nhiên liệu này luôn luôn được dự trữ quanh năm thành một lượng dùng không bao giờ cạn. Phân ḅ đốt cháy tỏa ra một mùi vị rất chát và nồng nặc.
Chúng tôi bị bắt buộc phải làm những công tác này không phải là v́ thiếu nhân công mà là v́ muốn xóa bỏ tối đa mọi sự phân biệt giai cấp. Chúng tôi nghỉ rằng con người chỉ có một kẻ thù ấy là sự chia rẽ, cách biệt. Làm việc bên cạnh một người, nói chuyện cởi mở với y hăy, có dịp thông cảm với y rồi th́ y sẽ không là một kẻ thù của ta nữa. Ở Tây Tạng mỗi năm một lần, những vị quan to hay chức sắc có quyền thế từ bỏ quyền hành của ḿnh trong một ngày, và bất cứ một thuộc hạ nào của họ cũng có quyền nói lên những ǵ y cảm nghĩ trong ḷng nếu một vị Sư Trưởng tỏ ra lạm quyền hóng hách người ta sẽ nói lên một cách công khai và nếu sự phiền trách đó là đúng th́ người khiếu nại sẽ không bị một sự trừng phạt nào. Phương pháp đó tỏ ra rất hiệu quả nên sự lạm dụng quyền hành cũng rất ít khi xảy ra. Nó đảm bảo một sự công b́nh xă hội, để cho những người thuộc viên ở cấp dưới có cơ hội phát biểu những cảm nghĩ của họ đối với những kẻ có quyền thế.
Chúng tôi phải làm việc nhiều trong lớp học và ngồi xếp hàng dưới đất. Khi giảng bài và viết trên bảng đen th́ vị giáo sư đứng trước mặt học tṛ. Nhưng khi chúng tôi làm bài th́ ông giáo sư đi rảo đằng sau lưng chúng tôi, thành thử chúng tôi phải làm việc cẩn thận v́ chúng tôi không biết ông ta đang ŕnh đứa nào! Ông ta không lúc nào rời cây gậy, một cây gậy mập như cây dùi cui mà ông ta không ngần ngại "sử dụng" trên bất cứ bộ phận nào trên thân thể chúng tôi: Vai, đầu, lưng, không kể đến những bộ phận "cổ điển" . Ông ta không cần phân biệt đó là chỗ nào, miễn là những cú gậy gộc đó đánh thật đau.
Chúng tôi học rất nhiều về môn toán pháp, môn này là một kỷ luật cần thiết để đoán khoa chiêm tinh. Khoa chiêm tinh Tây Tạng thật vậy không có ǵ là ngẫu nhiên t́nh cờ, nó được thiết lập trên những nguyên tắc khoa học.Tôi phải học nhiều về khoa chiêm tinh v́ môn này là tối cần thiết trong việc hành nghề y khoa. Một y sĩ nên điều trị bệnh nhân theo từng hạn nguời, sự phân hạn này là do khoa chiêm tinh quy định. Điều trị theo nguyên tắc đó là tốt hơn cho đơn kê thuốc, một lư do mơ hồ là thuốc ấy đă chữa khổi bệnh cho một người khác. Bên cạnh những bản đồ chiêm tinh rất lớn treo trên tường, c̣n có những bản đồ khác vẽ h́nh những thảo dược. Những bản đồ này được thay đổi luôn luôn mỗi tuần và chúng tôi phải biết rơ tất cả mọi loại cỏ thuốc. Sau này, những cuộc xuất hành sẽ được tổ chức để đi hái thuốc, nhưng chúng tôi chỉ được tham dự những cuộc ngao du đó khi nào chúng tôi đă có những kiến thức sâu rộng, để người ta có thể tin tưởng rằng chúng tôi sẽ không hái lầm những loại cỏ xấu. Những chuyến đi hái thuốc đem đến cho chúng tôi những ngao du rất thoải mái dễ chịu tạm quên được cuộc đời phẳng lặng buồn chán của tu viện. Có những chuyến đi kéo dài đến ba tháng; đó là những cuộc xuất hành lên vùng thượng du, một vùng bao bọc xung quanh bởi những dăy núi có tuyết phủ quanh năm, bề cao từ sáu ngàn đến tám ngàn thước trên mực nước biển, nơi đó những vùng băng tuyết xen lẫn với những thung lũng xanh tươi với khí hậu ôn ḥa nhờ bởi những suối nước nóng. Trong vùng này người ta có một kinh nguyện độc nhất trên đời. Người ta chỉ cần đi một quảng đường dài năm mươi thước để trăi qua một khí hậu lạnh đến bốn mươi độ đưới không, đến một khí hậu nóng bốn mươi lăm độ trong bóng mát. Vùng này của xứ sở Tây Tạng không ai được biết, chỉ trừ một thiểu số các sư săi.
Tu viện của chúng tôi được nổi tiếng bởi kỷ luật khắc khổ và một nề giáo dục chặt chẽ. Một số lớn các sư săi từ các tu viện khác đến đây từ giă chúng tôi để đi nơi khác có đời sống dễ chịu hơn. Chúng tôi coi họ như những kẻ thất bại với chúng tôi là những người thuộc thành phần ưu tú. Nhiều tu viện không có buổi lễ khuya; các sư săi đi ngủ sớm vào lúc tối và thức dậy lúc trời đă sáng. Chúng tôi khinh thường họ như những kẻ yếu hèn, thấp kém v́ tuy rằng chúng tôi bất măn với quy tắc quá khắc khổ của tu viện, chúng tôi lại không bằng ḷng cho quy tắc đó bị sửa đổi, nếu nó đưa chúng tôi tới hậu quả là hạ thấp chúng tôi xuống tŕnh độ kém hèn của kẻ khác.
Kế đó là phải loại trừ những kẻ yếu. Chỉ có những người rất khỏe mạnh mới trở về sau những cuộc xuất hành lên vùng thượng du lạnh như băng tuyết; ngoại trừ những sư săi ở tu viện Chakpori, không có ai dám đi lên đó. Các vị đạo sư, vốn đầy minh triết quyết định loại bỏ nhưng người không thể chịu đựng được cuộc sống kham khổ, trước khi họ có dịp làm liên lụy đến kẻ khác. Trong năm học đầu tiên chúng tôi hầu như không có lúc nào nghỉ ngơi, giải trí hay có dịp vui chơi thỏa thích. Mỗi giây phút của chúng tôi đều dành cho sự học và làm việc.
Một điều mà tôi c̣n biết ơn các vị sư, là các Ngài đă dạy chúng tôi phương pháp sử dụng trí nhớ. Phần nhiều người Tây Tạng có trí nhớ tốt, nhưng riêng phần chúng tôi là sinh viên y khoa, học để trở thành các tu sĩ kim y sĩ, th́ chúng tôi cần biết tên và đặc tính của nhiều loại dược thảo cùng cách biến chế và sử dụng các loại cỏ thuốc. Chúng tôi cũng cần hiểu biết tường tận khoa chiêm tinh và thuộc lào tất cả các kinh điển Phật Pháp.
Một phương pháp tập luyện trí nhớ đă được thực nghiệm trăi qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi ngồi trong một gian pḥng có những tủ lớn chứa đựng hằng muôn ngh́n học tủ. Mỗi học tủ có dán nhăn hiệu bên ngoài, có in chữ khá lớn dễ đọc từ chỗ chúng tôi ngồi. Mỗi đề tài học tập mà chúng tôi đă thụ huấn được sắp hạng trong mỗi hộc tủ thích nghi. Chúng tôi phải h́nh dung rơ ràng trong trí mỗi đề tài vào vị trí nhất định của mỗi học tủ. Với ít nhiều công phu tập luyện, người ta có thể đi vào gian pḥng bằng tư tưởng một cách rất dễ dàng mở đúng phóc các hộc tủ ḿnh muốn và lấy ra các tài liệu ḿnh t́m kiếm cùng với những đề tài liên quan.
Các vị giáo sư đặc biệt nhấn mạnh với chúng tôi hiểu sự cần thiết có một trí nhớ được tập luyện thuần thục. Họ vấn nạn chúng tôi một cách ráo riết với mục đích duy nhất là thử thách trí nhớ của chúng tôi. Những câu hỏi đó không có một sự mạch lạc hay liên lạc v́ với nhau, để cho không có một ḍng tư tưởng liên tục nào giúp chúng tôi trả lời được dễ dàng. Những câu hỏi đó thường liên quan đến những đoạn bí hiểm trong các kinh điển tôn giáo, chen lẫn với những câu hỏi đứt đoạn về các loại dược thảo. Kẻ nào quên sẽ bị trừng phạt nặng nề: Không có trí nhớ là một tội ác không thể dung thứ, phải bị trừng trị nghiêm khắc. Chúng tôi lại không có nhiều thời giờ để suy nghĩ mà phải trả lời ngay tức khắc. Chẳng hạn như giáo sư hỏi học tṛ:
- Con hăy nói lại hàng thứ năm, trang mười tám trong quyển thứ bảy của bộ kinh Kangyur. Hăy mở hộc tủ... xem hàng chữ đó là ǵ?
Trừ phi người ta có thể trả lời ngay trong mười giây đồng hồ, tốt hơn là nên giữ im lặng, v́ sự trừng phạt c̣n khốc liệt hơn nếu trả lời sai, dẫu cho sự sai lầm nhỏ nhặt đến đâu. Dầu sao, đó cũng là một phương pháp rất tốt và rất hữu hiệu để tập luyện trí nhớ. Chúng tôi không thể có thường xuyên những sách vỡ tham khảo ở bên cạnh ḿnh, v́ sách của chúng tôi gồm những tờ giấy đóng lại trong những cái b́a bằng gỗ, thường đo đến một thước chiều dài và bốn tấc tây chiều ngang, là những vật quá kềnh kàng. Về sau, tôi nhận thấy rằng thật là một điều tối ưu quan trọng là có một trí nhớ tốt.
Trong năm đầu, chúng tôi bị ngăn cấm không đuợc rời khỏi tu viện. Những người nào vi phạm sẽ bị đóng cửa không cho vào khi họ trở về. Luật lệ này chỉ được áp dụng ở tu viện Chakpori là nơi mà kỷ luật gắt gao đến nỗi người ta sợ rằng nếu để cho chúng tôi ra ngoài, th́ chúng tôi sẽ không trở lại lần nữa. Riêng về phần tôi, tôi nh́n nhận rằng có lẽ tôi cũng trốn biệt luôn không trở lại, nếu tôi có chỗ nào khác để dung thân! Tuy nhiên, sau một năm, chúng tôi đă quen với đời sống ở tu viện.
Trong năm đầu tiên đó, chúng tôi không được phép chơi các môn giải trí; người ta bắt buộc chúng tôi làm việc không ngừng, điều này giúp cho họ loại trừ những đứa trẻ thể chất yếu đuối, không chịu nỗi sự căng thẳng thần kinh tột độ. Sau những tháng học khó khăn đó, chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi hầu như đă quên mất cả sự chơi bời tiêu khiển. Những môn thể dục điền kinh có mục đích tăng cường sức chịu đựng dẻo dai của chúng tôi, và có một sự công dụng thực tế cho chúng tôi sau này.
Khi tôi gần lên tám tuổi. Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi, cho tôi biết rằng theo sự giải đoán của các nhà chiêm tinh, th́ sau ngày sinh nhật của tôi, sẽ là ngày thuận lợi để cho tôi bắt đầu luyện thần nhăn. Tôi không cảm thấy lo ngại ǵ cả, v́ tôi biết rằng sư phụ tôi sẽ có mặt tại chỗ và tôi hoàn toàn đặt tin tưởng nơi người. Như sư phụ tôi đă nhắc nhở nhiều lần cho tôi biết, khi tôi mở được thần nhăn, tôi sẽ có thể nh́n thấy rơ chân tướng của mọi người mọi vật. Theo khoa Huyền Môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ bên ngoài do cái linh hồn, hay "Chân Ngă", điều khiển mọi tác động trong giấc ngủ và sau khi chết. Con người sinh ra trong một thể xác yếu đưối bất toàn để học hỏi kinh nghiệm và tiến bộ ở cơi trần. Khi y ngủ, con người trở về một cơi giới khác, linh hồn thoát ra ngoài thể xác vật chất và phưởng phất trên cơi ấy tuy rằng nó c̣n dính liền với thể xác bởi một "Sợi dây bạc" (Cordon magnétique: Sợi dây từ khí, làm bằng chất dỉ thái, mắt phàm không nh́n thấy được. Nó long lanh như màu bạc, nối liền thể xác với linh hồn, có thể kéo dài đến vô tận khi linh hồn phiêu diêu trên cơi trung giới trong giấc ngủ). Sợi dây bạc này chỉ đứt đoạn vào lúc chết. Những giấc mộng là những kinh nghiệm sống trên cơi trên trong khi ngủ. Khi linh hồn trở về nhập vào thể xác, sự giật ḿnh thức giấc làm méo mó xiêu vẹo kư ức của giấc mộng, trừ phi người ta đă trăi qua một sự huấn luyện đặc biệt, bởi đó "Giấc mộng" có thể trở nên dị kỳ đối với người thức giấc. Nhưng vấn đề này sẽ được giải thích đầy đủ hơn ở một chương sau khi tôi tường thuật lại những kinh nghiệm cá nhân của tôi trên địa hạt này.
Cái hào quang bao bọc xung quanh thể xác, mà bất cứ ai cũng có thể tập luyện để nh́n thấy với một vài điều kiện, chỉ là phản ảnh của nguồn sinh lực ở bên trong con người. Chính cái hào quang đó, cùng với nhiều điều khác nữa, là những sự vật vô h́nh huyền bí mà việc mở thần nhăn sẽ giúp cho tôi nh́n thấy rơ.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 227 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 9:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI MỞ THẦN NHĂN

Chương Bảy

 


Ngày sinh nhật của tôi đă đến. Ngày đó tôi được tự do không phải đi đến lớp học hay đi dự lễ. Vào lúc sáng sớm, Minh Gia Đại Đức có nói với tôi:
- Lâm Bá, hôm nay con hăy vui chơi thỏa thích. Chúng ta sẽ đến t́m con chiều nay.
Kể từ chiều hôm đó tôi bế môn nhập thất trong một gian pḥng nhỏ, và không được bước ra khỏi pḥng trong suốt ba tuần lễ. Trong thời gian đó không ai được bước ra khỏi pḥng để kiếm tôi trừ ba vị Lạt Ma cao cấp trong đó có Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Ba vị Lạt Ma mỗi ngày đều đến vào đúng giờ để chỉ dẫn cho tôi một phép luyện bí truyền để mở thần nhăn. Trong khi đó, người ta cho tôi ăn uống chỉ vừa đủ duy tŕ sự sống. Sau ba tuần lễ khổ luyện dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, tôi đă đạt tới sự thành công. Sư phụ tôi bèn nói:
- Lâm Bá, từ nay con đă thật sự trở thành một cao đồ trong môn phái của chúng ta. Kể từ nay cho đến suốt đời con, con sẽ nh́n thấy rơ chân tướng của mọi người chứ không phải là chỉ nh́n thấy cái bề ngoài của họ mà thôi.
Lần đầu tiên trong đời tôi, thật là một kinh nghiệm lạ lùng mà nhận thấy rằng ba vị Lạt Ma đều được bao phủ chung quanh ḿnh bằng một ánh hào quang vàng chói như ánh lửa. Về sau, tôi mới hiểu rằng đó là nhờ ba vị đă có một đời sống tinh khiết và không phải ai cũng có được một hào quang tốt đẹp như thế, mà trái lại phần đông người đời có một cái hào quang với một h́nh dạng và màu sắc khác hẳn.
Khi tôi đă phát triển được cái nhăn quang thần thông đó, tôi phát hiện được những rung động khác nữa xuất phát từ trung tâm hào quang của con người. Kế đó, tôi có thể đoán biết t́nh trạng sức khỏe của một người bằng cách nh́n xem màu sắc và h́nh dáng cái hào quang của y. Cũng y như thế, bằng cách nh́n xem sự thay đổi màu sắc trong hào quang của một người, tôi có thể biết rằng người ấy nói thật hay nói dối. Thần nhăn của tôi, tuy vậy không phải chỉ dùng để quan sát thân thể của một người mà thôi. Người ta c̣n cho tôi một bầu thủy tinh mà tôi thường dùng để quan sát bằng thần nhăn và bây giờ tôi vẫn c̣n giữ. Những bầu thủy tinh này không phải là những vật nhiệm màu ǵ cả mà chỉ là những khí cụ mà thôi. Cũng như một ống kính hiển vi hay viễn vọng kính, do những định luật tự nhiên cho phép ta nh́n thấy những sự vật mà lúc b́nh thường ta không nh́n thấy được, th́ một bầu thủy tinh cũng vậy. Nó có tác dụng như một trung tâm để sử dụng con mắt thần, nó giúp cho người ta có thể đột nhật vào cơi giới tiềm thức của mọi vật và nh́n thấy những sự vật diễn biến trong quá khứ hay tương lai xuất hiện trong đó. Mọi loại thủy tinh không phải đều thích hợp với tất cả mọi người. Có người thu hoạch được kết quả tốt hơn với loại thủy tinh khoán thạch, có người lại thích hợp với một bầu pha lê. Những người khác nữa dùng một bồn nước lạnh bằng ve chai hoặc một đĩa tṛn màu đen huyền. Nhưng dầu người ta sử dụng một kỹ thuật nào, th́ các nguyên tắc vẫn là một.
Sau khi tôi đă hoàn tất việc luyện thần nhăn một cách an toàn, các vị Lạt Ma quyết định rằng tôi có thể rời khỏi gian pḥng mà tôi đă nhập thất và trở về với cuộc sống b́nh thường, nhưng tôi sẽ dành phân nữa thời giờ của tôi bên cạnh Minh Gia Đại Đức để cho sư phụ tôi sẽ tăng cường sự học đạo của tôi bằng một vài phương pháp. C̣n phân nữa thời gian kia sẽ dành cho những buổi học và buổi lễ cầu nguyện, không phải v́ cái giá trị giáo dục của những buổi ấy mà là để cho tôi có một sự hiểu biết quân b́nh về mọi sự. Ít lâu sau đó, khoa thôi miên cũng sẽ được sử dụng để dạy đạo cho tôi. Nhưng c̣n bây giờ th́ tôi chỉ nghĩ đến vấn đề... ăn! Tôi đă phải ăn uống rất khắc khổ trong gần ba tuần và nay tôi phải ăn trả đũa để bù lại. Tôi bèn hối hả từ biệt các vị Lạt Ma với ư nghĩ duy nhất trong đầu tôi. Nhưng ra ngoài hành lang, tôi nh́n thấy một bóng người bao phủ trong một đám khói xanh, với những vết lớn màu đỏ chói như lửa cùng khắp thân ḿnh. Tôi bèn kêu lên một tiếng thất thanh và hối hả thối lui về pḥng. Các vị Lạt Ma nh́n tôi một cách ngạc nhiên; tôi có vẻ gần như ngất xỉu v́ sợ hăi và nói:
- Một người đang cháy như bó đuốc ở ngoài hành lang.
Minh Gia Đại Đức chạy phóng ra ngoài. Khi sư phụ trở lại pḥng. Người vừa mỉm cười vừa nói:
- Lâm Bá, đó chỉ là một người lao công đang nóng giận hào quang của y giống như một đám khói xanh, v́ tŕnh độ tiến hóa của y c̣n thấp. Những vết lửa màu đỏ là những tư tưởng nóng giận. Con có thể đi ra một cách an toàn để tới pḥng ăn v́ chắc con đă đói lắm!
Thật là một kinh nghiệm vô cùng lư thú khi tôi gặp lại những bạn học cũ mà trước kia tôi vẫn tưởng rằng tôi biết quá rơ, nhưng sự thật th́ tôi chưa biết ǵ về họ cả. Nay tôi chỉ cần nh́n họ để đọc những tư tưởng thầm kín, t́nh thương chân thành, sự ganh tị hay sự thờ ơ lănh đạm của họ đối với tôi.
Không phải chỉ nh́n những màu sắc trên hào quang của mỗi người mà biết tất cả, người ta c̣n phải tập giải đoán ư nghĩa của những màu sắc đó nữa. Để thực tập vấn đề này, sư phụ tôi và tôi cùng ngồi ở một chổ vắng vẻ, từ nơi đó chúng tôi có thể quan sát những người đi đường bước vào cổng đền.
Minh Gia Đại Đức nói với tôi:
- Lâm Bá, con hăy nh́n người kia đang đi tới... con có nh́n thấy chăng một đường chỉ màu đang rung động ở phía trên quả tim của y? Màu ấy và sự rung động ấy là triệu chứng của bệnh đau phổi!
Sư phụ lại b́nh phẩm về một người lái buôn:
- Con hăy nh́n những lằn ngang đang cử động và những đốm, vết đang chớp lập ḷe trên hào quang của y... người lái buôn này đang nghĩ rằng y có thể lừa bịp những sư săi ngu ngốc kia, và y nhớ rằng y đă có lần thành công như vậy. Chỉ v́ tiền bạc, người ta không lùi bước trước một hành vi ti tiện nào!
Hoặc về một người khác nữa:
- Lâm Bá, con hăy nh́n vị sư già kia. Đây là một vị sư săi chân tu, nhưng y lại hiểu kinh điển một cách quá chật hẹp, g̣ bó sát nghĩa từng chữ từng câu. Con có nhận thấy chăng màu vàng trên hào quang của y đă phai lợt? Đó là v́ y chưa đủ tiến hóa đúng mức để có thể suy luận lấy một ḿnh.
Và như thế, chúng tôi tiếp tục quan sát để thực tập hằng ngày. Nhưng chính trong khi tiếp xúc với những người đau ốm, bịnh tật về thể xác cũng như tinh thần, mà tôi mới nhận thấy năng khiếu Thần Nhăn là vô cùng hữu ích.
Một buổi chiều, Sư phụ nói với tôi:
- Sau này, ta sẽ dạy con nhắm Con Mắt Thần tùy ư muốn, v́ thật là một điều khổ sở mà phải luôn luôn nh́n thấy trước mắt những cảnh tượng buồn thảm, bất toàn của người đời. Nhưng  bây giờ, con hăy sử dụng năng khiếu đó thường xuyên, cũng như con sử dụng đôi mắt phàm. Thầy sẽ chỉ cho con cách mở hay nhắm Con Mắt Thần một cách dễ dàng cũng như hai con mắt kia.
Những truyện thần thoại của xứ Tây Tạng quả quyết rằng trong quá khứ đă có một thời kỳ mà nhân loại, nam hay nữ, đều có thể sử dụng Con Mắt Thần. Đó là thời kỳ mà đấng Thần linh đến quả địa cầu và sống lẫn lộn với người trần gian, khi con người hăy c̣n chất phác, hồn nhiên và tâm hồn trong sạch.
Nhưng về sau, loài người đă mở mang trí khôn, bèn sinh ra kiêu căng ngạo mạn và xúc phạm đến Thánh Thần. Để trừng phạt tội xúc phạm này, nhăn quang thần thông của họ bị thâu hồi. Kể từ đó, trải qua nhiều thế kỷ, một thiểu số người vừa lúc mới sinh ra đă có năng khiếu Thần Nhăn. Những người nào có năng khiếu ấy một cách tự nhiên, có thể tăng cường quyền năng của họ lên gấp ngàn lần nhờ bởi một phép luyện bí mật, cũng như trường hợp của tôi. Lẽ tất nhiên, một quyền năng đặc biệt như thế phải được sử dụng một cách cẩn mật và vô cùng thận trọng.
Một ngày nọ, vị Sư Trưởng cho gọi tôi vào gặp ngài và nói:
- Con hỡi, nay con đă sở hữu một quyền năng mà phần đông nhân loại không có. Con chỉ nên sử dụng nó để làm việc thiện, chớ hề dùng nó cho mục đích ích kỷ. Quyền năng ấy được ban cho con để giúp đỡ kẻ khác, chứ không phải để mưu lợi cho riêng ḿnh. Nhờ Thần Nhăn, có nhiều điều sẽ được tiết lộ cho con, nhưng dầu cho con học hỏi được điều ǵ, con cũng không được tiết lộ cho người khác biết, nếu những lời nói của con có thể làm cho họ đau khổ hay làm thay đổi chiều hướng cuộc đời của họ. V́, con hỡi, mỗi người phải tự ư chọn lựa con Đường của ḿnh. Dầu cho con nói với họ điều ǵ, họ cũng vẫn đi theo con đường của họ. Con hăy giúp đỡ những kẻ bệnh tật và những người đau khổ, nhưng con đừng nói ǵ có thể làm đổi hướng cuộc đời của một người.
Vị Sư Trưởng, một người có văn hóa rất cao, cũng là vị y sĩ thân tín của đức Đạt Lai Lạt Ma. Trước khi chia tay từ biệt, vị Sư Trưởng cho tôi biết rằng không bao lâu nữa tôi sẽ được gọi vào để yết kiến đức Đạt Lai Lạt Ma, v́ ngày có ư muốn gặp tôi. Trong dịp đó, Minh Gia Đại Đức và tôi sẽ là khách của điện Potala trong vài tuần.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 228 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 9:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG

 TÂY TẠNG

Chương Tám

 


Một buổi sáng thứ hai, Minh Gia Đại Đức cho tôi biết rằng cuộc viếng thăm điện Potala của chúng tôi đă được định vào cuối tuần. Người nói:
- Chúng ta phải tập dượt cho quen với các nghi lễ. Buổi tŕnh diện của con phải diễn ra một cách thật hoàn toàn.
Gần lớp học của chúng tôi, có một ngôi đền nhỏ bỏ hoang, trong đó có một pho tượng của đức Đạt Lai Lạt Ma, kích thước lớn bằng một người thật. Sư phụ tôi nói:
- Lâm Bá, con hăy nh́n ta đây. Ta sẽ chỉ dẫn cho con những ǵ cần phải làm. Con bước vào, hai mắt nh́n xuống đất, như thế này. Con đi tới chỗ này và quỳ xuống trước mặt đức Đạt Lai Lạt Ma khi c̣n cách xa Ngài độ chừng một thước rưỡi. Con hăy le lưỡi (phong tục chào hỏi của người Tây Tạng) ra để chào Ngài và cúi đầu xuống, một lần, hai lần và ba lần. Vẫn quỳ gối và cúi đầu, con đặt chiếc khăn lên, nhưng vẫn cúi đầu để cho Ngài có thể đặt một khăn choàng của Ngài lên cổ của con. Con đếm từ một cho đến mười, để khỏi phạm lỗi v́ vội vàng hấp tấp, rồi con ngẩng mặt lên và đi thụt lùi cho đến chiếc nệm đầu tiên c̣n bỏ trống chưa ai ngồi.
Tôi theo dơi sự chỉ dẫn của Sư phụ, người tỏ ra rất thông thạo v́ đă quen thuộc nghi lễ ấy từ lâu. Người lại nói:
- Bây giờ, một lời khuyên. Trước khi đi thụt lùi lại phía sau, với một cái liếc nh́n mau lẹ và kín đáo, con hăy t́m ra vị trí của chiếc nệm gần nhất. Không nên để vướng chân vào đó rồi bắt buộc phải nhảy nhổm một cái để khỏi phải té găy cổ! Người ta dễ bị vấp ngă trong một lúc hồi hộp kích động như thế. Bây giờ dến phiên con dượt lại... Con hăy làm lại cho đúng.
Tôi buớc ra ngoài và Sư phụ tôi vỗ tay ba cái để ra hiệu cho tôi bắt đầu. Tôi hăm hở xông tới, nhưng Sư phụ liền chặn tôi lại.
- Lâm Bá! Đây không phải là một cuộc chạy đua! Hăy đi tới một cách chậm răi thung dung hơn. Con hăy điều chỉnh bước đi bằng cách niệm câu thần chú: Om Mani Padme Hum. Như vậy, con sẽ bước vào một cách khoan thai như một vị tăng lữ trẻ tuổi, thay v́ săi như ngựa đua trong vùng đồng bằng Tsang Po!
Tôi lại bước ra lần nữa, để bắt đầu đi vào một cách "Khoan thai" hơn! Đến trước pho tượng, tôi quỳ xuống, tiếp tục tiến tới trên hai đầu gối, và le lưỡi ra chào theo kiểu Tây Tạng. Ba lần vái chào của tôi chắc hẳn là hoàn toàn gương mẫu, mà tôi có thể lấy làm tự hào! Nhưng, rủi thay, tôi lại quên cái khăn choàng cổ! Thành thử, tôi phải bước ra ngoài lần thứ ba để tái diễn nghi thức này lại từ đầu. Lần này, tôi làm đúng phép và đặt cái khăn choàng lên hai bàn chân của pho tượng. Sau đó, tôi đi thụt lùi đến một chiếc nệm một cách không khó khăn lắm, và ngồi xuống nệm theo tư thế liên hoa.
Mỗi buổi sáng, tôi phải biểu diễn lần chót trước mặt vị Sư Trưởng. Ngài xem xong bèn nói:
- Cuộc tŕnh diễn của con thật hoàn hảo, đó là một cái vinh dự lớn cho Sư phụ con, tức Minh Gia đạo huynh của ta!
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lên đường đến điện Potala. Tu viện của chúng tôi trực thuộc điện Potala về mặt quản trị hành chánh, tuy rằng vị trí của nó biệt lập với các dinh thự chính của điện. Nó vừa là một nơi tu viện vừa là trường Y Khoa. Vị Sử Trưởng của viện cũng là vị y sĩ tuy thân của đức Đạt Lai Lạt Ma. Với chức vụ này, người rất bận rộn v́ vấn đề quan trọng không phải là chữa bệnh cho vị Quốc Vương, mà giữ ǵn cho Ngài được có sức khỏe. Bởi vậy, vị Sử Trưởng phải chịu trách nhiệm về mọi sự đau yếu dầu chỉ là thoáng qua, của đức Quốc Vương. Tuy vậy, người không phải muốn khám sức khỏe của Quốc Vương lúc nào tùy ư; người phải đợi đến khi đức Đạt Lai Lạt Ma thật sự nhuốm bệnh mới được gọi vào!
Nhưng sáng ngày hôm ấy, tôi không nghĩ đến những nỗi lo âu của vị Sử Trưởng, những mối lo âu của tôi cũng đă quá đủ. Dưới chân đồi, chúng tôi hướng về điện Potala, giữa một đám đông gồm có những du khách và người mộ đạo đi hành hương. Những người này đến từ khắp mọi nơi trong xứ Tây Tạng để chiêm ngưỡng cung điện của đức Phật Sống, một danh hiệu thường dùng để gọi đức Đạt Lai Lạt Ma. Dẫu cho họ chỉ thấy Ngài trong một cái nh́n thoáng qua, họ cũng được hài ḷng mà trở về với niềm tin tưởng rằng công lao khó nhọc của chuyến đi hành hương xa sôi này đă được đền bù tưởng thưởng gấp trăm lần!
Nhiều người hành hương đă đi bộ trên đương trường suốt nhiều tháng để đến yết kiến đức Phật Sống. Trong đám đông có lẫn lộn những nông dân, những nhà vương gia quư tộc, những mục đồng, lái buôn và những người bệnh nan y, hy vọng t́m thấy phép màu ở thủ đô Lhasa để chữa họ khỏi bệnh. Họ đi chật ních các đường sá, v́ tất cả đều đi ṿng quanh điện Potala, một quăng đường ṿng dài đến chín cây số. Có người ḅ bốn cẳng, những người khác nằm dài sơng sượt dưới đất, lại đứng lên, để rồi lại nằm mọp sát đất lần nữa, và lại tiếp tục như vậy cho đến khi giáp ṿng ṭa cung điện của đức Phật Sống. Những người bệnh tật bước đi khập khiễng trên những cây nạng gỗ hoặc do bạn bè thân thuộc nâng đỡ. Khắp nơi người ta thấy những người bán dạo rao hàng giải khát gồm có trà pha bơ và những thức ăn đủ loại. Người ta cũng có thể mua những bùa niệt, những linh vật hộ phù đă được truyền phép bởi một đấng "Hóa Thân." Những nhà tướng số đạo mạo ngồi bên đường xem số cho những người hành hương mê tín. Những người viết thuê bán những tờ cấp bằng chứng minh rằng thân chủ họ đă đến viếng thủ đô Lhasa và tất cả những nơi thánh địa. Chúng tôi đi xuyên qua đám rừng người mà không dừng bước v́ đầu óc chúng tôi chỉ nghĩ đến cuộc yết kiến đức Phật Sống.
Tư thất của đức Đạt Lai Lạt Ma tọa lạc trên nóc điện Potala, v́ theo phong tục bổn xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn Ngài. Một cầu thang vĩ đại xây bằng đá, bề rộng gần bằng một đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. Nhiều vị chức sắc hay quan to trong triều đ́nh cưỡi ngựa lên cầu thang này để khỏi phải đi bộ nhọc mệt. Chúng tôi gặp nhiều vị cưỡi ngựa như thế trên con đường đi lên nóc điện.
Điện Potala là một ṭa cung điện độc lập xây trên một ngọn đồi. Đó là cơ quan đầu năo để giải quyết tất cả mọi công việc chánh trị và tôn giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia, mục tiêu của tất cả tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng. Bên trong ṿng thành của cung điện, trong những ṭa nhà của Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những khối vàng ṛng, vô số những bao đựng ngọc ngà châu báu và những bảo vật quư giá của thời đại cổ xưa nhất. Những ṭa lâu đài dinh thự đă được xây cất đến nay không quá ba thế kỷ rưỡi, những được dựng lên trên nền móng của một ṭa cung điện cũ. Ngày xưa, một pháo đài kiên cố ngự trị trên đỉnh núi. Ngọn núi này xưa kia vốn là một hỏa diệm sơn, có chứa đựng trong ḷng nó một hang động khổng lồ, với những đường hầm tỏa ra tứ phía. Một trong những đường hầm này đưa đến một cái hồ ngầm ở dưới mặt đất. Chỉ có một số rất ít những người được ưu đăi mới được đi đến đó, hoặc được biết về cái hồ này.
Đây nói về lúc chúng tôi trèo lên cầu thang của điện Potala vào một buổi sáng đẹp trời. Sau cùng chúng tôi đă lên tới tột đỉnh cầu thang. Khi vừa thấy Sư Phụ tôi, những sư săi cảnh binh thân h́nh cao lớn lực lưỡng, có phận sự canh gác bên ngoài bèn mở cánh cửa lớn thếp vàng. Chúng tôi tiếp tục bước lên đến một điểm cao tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt Lai Lạt Ma của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại, và thư thất của Ngài. Một bức màn to lớn màu nâu dệt bằng lông con yak che khuất lối vào. Bức màn vén lên, chúng tôi bước vào một gian pḥng lớn, có những con rồng lớn bằng sứ màu xanh chầu ở phía ngoài cửa. Những màn che trướng rũ đẹp lộng lẫy, trên đó có thêu tranh vẽ các cảnh tượng tôn giáo và những cảnh trong chuyện thần thoại cổ xưa bao phủ các vách tường. Trên những bàn thấp, có bày những bảo vật và đồ cổ rất quư giá, những pho tượng các vị thần và nữ thần trong Thần Thoại Tây Tạng, và những đồ vật trang trí khác. Trên một cái kệ, gần một hành lang nhỏ hẹp có màn che khuất, được đặt quyển sách ghi danh hiệu các nhà thế gia vọng tộc trong xứ. Tôi có ư nghĩ muốn được phép mở ra và nh́n thấy danh sách của gia đ́nh nhà tôi để tăng thêm ḷng tự tín! Ngày hôm ấy, ở một chốn cung điện thâm nghiêm như vậy, tôi cảm thấy ḿnh vô cùng nhỏ bé và vô nghĩa. Mới lên tám tuổi, tôi đă không c̣n những ảo tưởng, và tôi tự hỏi không biết những lư do nào đă khiến cho vị Nguyên Thủ quốc gia gọi tôi và gặp Ngài. Tôi biết rằng một cuộc hội kiến như vậy có ư kiến đặc biệt, và theo ư tôi, nó sẽ mở màn cho một loạt những công phu học hỏi, làm việc và thử thách.
Một vị Lạt Ma mặc áo đỏ, có mănh lụa yểm tâm vàng phủ lên vai và trước ngực, bước đến đàm đạo với Minh Gia đại đức. Sư Phụ tôi có vẻ rất quen thuộc đối với mọi người trong điện Potala, cũng như ở bất cứ nơi nào mà tôi cùng đi viếng chung với người. Tôi nghe vị Lạt Ma ấy nói:
- Đức Thái Tuế rất thích thú và muốn nói chuyện riêng với y.
Sư Phụ tôi day lại phía tôi và nói:
- Đây là lúc con vào tŕnh diện, ta sẽ chỉ cửa cho con bước vô.Con hăy lập lại những ǵ con đă tập dượt suốt tuần lễ vừa rồi.
Sư Phụ dắt tôi đến một cánh cửa và nói nhỏ bên tai tôi:
- Con đừng e ngại ǵ cả... Bây giờ, con hăy vào đi.
Sau khi vỗ vai tôi một cái để khích lệ tinh thần, Sư Phụ đứng nh́n tôi. Tôi bước vào: ở cuối gian pḥng rộng vô biên, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba, tức vị Phật Sống Tây Tạng đang ngự tại đó.
Ngồi trên một chiếc nệm bằng lụa màu vàng nghệ, Ngài mặc đồ trang phục thông thường của các vị Lạt Ma, ngoài ra cái mũ lớn màu vàng, có hai cánh tḥng xuống tận vai. Ngài vừa cầm một quyển sách đặt xuống bàn bên cạnh chỗ ngồi. Đầu cúi xuống, tôi từ từ tiến tới. Khi chỉ có cách Ngài độ hai thước, tôi quỳ xuống, le lưỡi ra vái chào Ngài ba lần, và tiến tới trên hai đầu gối, tôi đặt trên hai bàn chân ngài cái khăn choàng bằng lụa mà Minh Gia Đại Đức đă cho tôi. Để đáp lễ, đức Phật Sống nghiêng về phía tôi và đặt một khăn choàng mới của ngài trên hai cườm tay tôi, chớ không đặt trên cổ tôi theo nghi lễ cổ truyền. Khi đó, tôi cảm thấy trong ḷng rối loạn, với ư nghĩ là tôi phải đi thụt lùi đến chiếc nệm gần nhất, v́ tôi nhận thấy những chiếc nệm đều đặt ở rất xa chỗ tôi đứng. Đức Đạt Lai Lạt Ma mới bắt đầu nói:
- Những nệm đó đều quá xa để cho con phải đi thụt lùi. Con hăy quay lại nửa ṿng và lấy một chiếc đem lại gần đây để chúng ta có thể nói chuyện với nhau.
Tôi tuân lệnh làm y theo và trở lại trước mặt ngài với một chiếc nệm. Ngài nói:
- Con hăy đặt chiếc nệm trước mặt ta và ngồi xuống.
Khi tôi đă an tọa, Ngài mới nói:
- Ta đă nghe nói nhiều điều lạ lùng về phần con. Con bẩm sinh ra với năng khiếu Thần Nhăn tự nhiên, và năng khiếu ấy đă được phát triển do một phép luyện bí mật. Ta có một hồ sơ về tiền kiếp của con, cùng với những lời tiên tri của các chiêm tinh gia. Cuộc đời của con sẽ khổ nhọc lúc đầu, nhưng nó sẽ được thành công mỹ măn. Con sẽ đi châu du khắp nơi trên thế giới, biết được nhiều xứ lạ mà con chưa hề nghe nói đến bao giờ. Con sẽ chứng kiến bao nhiêu cảnh chết chóc, tàn phá và một sự bạo tàn khủng khiếp vượt ngoài sức tưởng tượng. Con đường của con sẽ rất dài và gian khổ, nhưng nó sẽ thành tựu tốt đẹp như đă tiên liệu từ trước.
Tại sao người nói với tôi những điều này, mà tôi đă thuộc ḷng từ lâu, không sót một chữ, kể từ năm tôi lên bảy? Tôi cũng biết rằng sau khi tốt nghiệp nghành y khoa và giải phẫu ở Tây Tạng, tôi sẽ đi tu nghiệp thêm ở Trung Hoa. Nhưng đức Phật Sống vẫn tiếp tục nói chuyện. Ngài căn dặn tôi nên giữ ǵn, không nên biểu lộ quyền năng hay nói về các vấn đề bản thể hoặc linh hồn, khi tôi sống ở các nước Tây Phương. Ngài nói:
- Ta đă từng đi qua Ấn Độ và Trung Hoa. Ở những nước ấy, người ta có thể bàn luận về những Chân Lư trừu tượng siêu h́nh, nhưng ta đă gặp nhiều người đến từ các nước Tây Phương. Họ không có sự nhận định về các giá trị tâm linh như chúng ta, họ chỉ biết có thương mại với bạc vàng. Các nhà bác học của họ nói: "Các người hăy chỉ cho chúng tôi thấy sự có thật của linh hồn. Hăy đưa nó ra cho chúng tôi xem, để chúng tôi có thể sờ mó, cân lường và nh́n thấy phản ứng của nó đối với chất át xít. Hăy chỉ cho chúng tôi thấy cơ cấu tế bào của nó, cùng những phản ứng hóa chất của nó. Chúng tôi cần một bằng chứng, một bằng chứng cụ thể..." Họ sẽ nói với con như vậy, mà không biết rằng với cái thái độ tiêu cực và nghi ngờ đó, họ đă tiêu huỷ tất cả mọi dịp may để có được cái bằng chứng mà họ đ̣i hỏi... Thôi, chúng ta hăy uống trà chứ...
Ngài gơ nhẹ một cái vào cái cồng nhỏ bằng đồng, và ra lịnh cho một vị Lạt Ma, người này liền trở lại ngay khi đó với trà bơ và bánh kẹo nhập cảng từ bên Ấn Độ. Trong khi chúng tôi dùng trà bánh, đức Phật Sống nói chuyện với tôi về xứ Ấn Độ và Trung Hoa. Ngài cũng nói rằng Ngài muốn tôi phải học ráo riết và ngài sẽ chọn những vị đạo sư đặc biệt để huấn luyện cho tôi. Không thể tự chủ được sự bồng bột của tuổi trẻ, tôi nói luôn:
- Bạch Thái Tuế, chắc không ai giỏi hơn Minh Gia Đại Đức, Sư phụ của con!
Đức Đạt Lai Lạt Ma nh́n tôi một lúc, rồi phát tiếng cười lớn. Có lẽ chưa có ai đă từng nói với Ngài bằng một giọng như thế, đừng nói chi đến một đứa trẻ mới lên tám tuổi. Sự thẳng thắn của tôi dường như làm cho Ngài thích thú, Ngài nói:
- Như vậy, theo ư con, Minh Gia Đại Đức là người giỏi nhất trên đời này? Con hăy nói cho ta biết con nghĩ thế nào về Đại Đức. Hử, con gà tre con cứng cựa!
- Vạn bạch Thái Tuế, Ngài đă nói rằng năng khiếu Thần Nhăn của con là một quyền năng ít có. Như vậy, con xin bẩm Ngài rằng Minh Gia Đại Đức là người tài ba lỗi lạc nhất mà con đă gặp!
Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa cười lớn vừa gơ vào cái cồng đặt bên cạnh Ngài. Vị Lạt Ma hầu cận lúc này lại bước vào, Ngài nói:
- Hăy mời Minh Gia Đại Đức vào.
Minh Gia Đại Đức bước vào và vái chào đức Phật Sống. Ngài phán:
Hỡi Minh Gia đạo hữu, ông hăy lấy một chiếc nệm và lại ngồi đây. Người đệ tử trẻ của ông vừa nói chuyện với tôi về ông đấy. Tôi hoàn toàn tán đồng sự xét đoán của y.
Sư Phụ ngồi xuống gần bên tôi. Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nói:
- Ông đă đảm trách việc huấn luyện cho Lâm Bá. Vậy ông hăy sắp đặt việc học của y thế nào tùy ư. Ông sẽ hỏi tôi những văn thư ủy quyền mà ông cần dùng. Thỉnh thoảng, tôi sẽ gặp lại Lâm Bá sau này.
Ngài day về phía tôi và nói:
- Con đă chọn lựa đúng đấy. Sư Phụ con là một bạn cũ của ta lúc thiếu thời và là một bậc danh sư về khoa Huyền Môn.
Sau khi đă trao đổi vài lời, chúng tôi đứng dậy vái chào từ biệt đức Đạt Lai Lạt Ma. Nh́n sắc diện của người, tôi đoán rằng trong thâm tâm, Minh Gia đại đức rất bằng ḷng về tôi và về cái ấn tượng mà tôi đă gây ra trong buổi yết kiến vị Nguyên Thủ. Người nói:
- Chúng ta sẽ ở lại đây vài ngày, và sẽ viếng thăm vài nơi trong cung điện. Ở tầng dưới, có những dăy hành lang và những gian pḥng kín chưa từng có chân người bước đến kể từ hai thế kỷ nay. Ở đó, con sẽ học hỏi được nhiều điều về huyền sử của xứ Tây Tạng.
Một trong những vị Lạt Ma hầu cận đức Phật Sống đến gặp chúng tôi và cho biết rằng có hai pḥng đă được dành sẵn cho thầy tṛ chúng tôi trên nóc điện Potala. Nói xong, người đưa chúng tôi đến nơi. Tôi lấy làm vô cùng hứng khởi mà thấy gian pḥng của tôi nh́n thẳng xuống thủ đô Lhasa và vùng đồng bằng chung quanh.
Vị Lạt Ma lại nói:
- Đức Thái Tuế có ra chỉ thị hăy để cho hai vị quư khách được đi lại tự do và mở rộng hết các cửa cho quư vị.
Sư Phụ khuyên tôi hăy nằm nghỉ giây lát. Cái thẹo do vết phỏng ở đùi bên trái hăy c̣n làm cho tôi đau đớn khó chịu, và tôi phải đi khập khễnh. Có lúc người ta đă lo sợ rằng không khéo tôi sẽ bị phế tật suốt đời. Tôi bèn nằm nghỉ trong một giờ, cho đến khi Sư Phụ trở lại với trà và vài thức ăn.Người nói:
- Lâm Bá, đây là vài món quà sáng để con dùng tạm đỡ ḷng. Thức ăn ở đây rất ngon, chúng ta hăy thưởng thức tự nhiên.
Tôi không cần sự thúc giục nào nữa để tuân lịnh Sư Phụ. Khi chúng tôi đă ăn xong, Sư Phụ đưa tôi đến một gian pḥng ở phía bên kia nóc diện. Tôi thấy làm lạ mà thấy ở các cửa sổ đều có lót kiếng. Tôi chưa từng nh́n thấy cửa kiếng bao giờ.
Nhưng chưa phải là hết. Sau khi mở các cửa sổ, Sư Phụ tôi c̣n đưa cho tôi xem một cái ống bằng đồng có bao da, giống một cái kèn không có loa. Đó là lần đầu, tôi được thấy một cái ống ḍm để nh́n xa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đă đem từ Ấn Độ về đây nhiều ống ḍm dài ngắn đủ cỡ mà Ngài rất thích dùng để ngắm nh́n phong cảnh. Cũng chính ở điện Potala, mà lần đầu tiên trong đời, tôi nh́n thấy h́nh bóng tôi phản chiếu trong một tấm gương, nhưng không nhận ra người trong gương, một đứa trẻ nhỏ xanh xao, với một cái thẹo lớn ở giữa trán và một cái mũi hơi lồi!
Có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng một xứ không có cửa kiếng, ống ḍm và gương soi như Tây Tạng chắc sẽ là một xứ lạ lùng, nhưng thật ra dân tộc xứ này không hề mong ước có những thứ ấy. Họ cũng không cần dùng tới các loại xe cộ. Các loại xe dùng để phục vụ tốc lực và cái gọi là "Văn minh." Từ lâu họ đă hiểu rằng đời sống doanh thương là một cuộc đời quá ư náo động để có thể dành thời giờ cho việc tu dưỡng tâm linh. Từ bao nhiêu ngh́n năm về trước, người Tây Tạng đă từng khám phá những bí quyết của các hiện tượng Thần Nhăn, thần giao cách cảm và những hiện tượng siêu h́nh khác. Nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng có thể ngồi ḿnh trần trên tuyết lạnh và làm tan ră băng tuyết chỉ bằng quyền năng của ư chí. Các vị ấy cũng có thể khinh thân nhẹ bổng lên không trung, nhưng họ không bao giờ dùng những quyền năng đó để biểu diễn trước công chúng. Một vị danh sư Tây Tạng luôn luôn đặt các đệ tử trước những cuộc thử thách để biết chắc rằng họ xứng đáng được truyền thụ những bí thuật thần thông. Bởi đó, những quyền năng siêu nhiên không bao giờ được biểu diễn một cách hời hợt, vô trách nhiệm, mà chỉ được truyền dạy trong ṿng bí mật cho những đệ tử thật xứng đáng. Những quyền năng đó không có ǵ là nhiệm mầu, mà chỉ là kết quả của việc áp dụng một vài định luật thiên nhiên.
Ở Tây Tạng, có người cần phải sống lẫn lộn với người đời để tự trau dồi và tự tu luyện bản thân, có người lại cần từ bỏ cuộc đời thế gian để sống ẩn dật trong âm thầm. Những người này t́m đến những tu viện hẻo lánh trên non cao núi thẳm, tại đây họ ở trong một xà lim hay gian pḥng nhỏ hẹp, với những vách tường bằng đá đôi khi dầy đến hai thước, để ngăn chận cho mọi tiếng động khỏi lọt vào từ bên ngoài. Khi người tu sĩ đă quyết định nhập thất ở nơi đó, người ta mới khóa chặt cửa vào, và y sẽ sống trơ trọi một ḿnh trong gian pḥng bằng đá ấy, không ánh sáng, không bàn ghế, không có ǵ cả. Mỗi ngày một lần, y được cung cấp đồ vật thực do một cái lỗ trống kín đáo, xuyên qua đó không hề có ánh sáng hay tiếng động nào lọt vào. Tới kỳ nhập thất kéo dài trong ba năm ba tháng và ba ngày, trong khi đó y sẽ thiền định về ư nghĩa của cuộc đời và bản thân của con người. Thể xác của y không được rời khỏi pḥng bất cứ v́ lư do nào. Một tháng trước khi chấm dứt cuộc nhập thất, nóc pḥng của y được soi một lỗ nhỏ để lọt vào một tia ánh sáng lờ mờ. Kế đó lỗ nhỏ ấy sẽ được nới rộng lần lần để cho đôi mắt người tu sĩ tập quen trở lại với ánh sáng mặt trời, chứ nếu không, y sẽ bị mù ḷa khi y bước ra khỏi pḥng.
Có nhiều trường hợp rất thường xảy ra, là sau vài tuần sống trở lại cuộc đời thế tục, các tu sĩ ấy lại quay trở về nơi nhập thất của họ và ở luôn ở đó cho đến măn đời.
Một cuộc đời như thế không phải là khô khan hay vô ích như người ta có thể tưởng. Con người là một linh hồn, có tiềm năng sinh hoạt ở một cơi giới khác hơn cơi trần. Một khi đă giải thoát khỏi sự trói buộc của thể xác, y có thể đi chu du khắp nơi trong vũ trụ càn khôn và giúp đời bằng sức mạnh tư tưởng của ḿnh. Ở Tây Tạng, người ta biết rằng tư tưởng là những âm ba rung động của tinh lực. Vật chất chỉ là tinh lực đông đặc lại. Một tư tưởng, nếu biết điều khiển đúng cách và kết tinh lại, có thể làm di chuyển một đồ vật. Nếu biết điều khiển nó theo phương pháp thần giao cách cảm, người ta có thể làm cho một người khác ở cách xa cảm nhận được ư nghĩ của ḿnh và hành động một cách thích nghi theo ư ḿnh muốn. Việc học Đạo của tôi không cần có sự nhập thất dài hạn trong một gian pḥng u tối. Nó được thực hiện theo một phương pháp đặc biệt, nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, theo lịnh dạy khẩn thiết của đức Đạt Lai Lạt Ma. Chương tŕnh học Đạo của tôi gồm những vấn đề thuộc về khoa Huyền Môn mà tôi không tiện nêu ra trong một quyển sách dành cho đại chúng. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi được thụ huấn về nhiều vấn đề mà phần đông các tu sĩ không thể học cho hết được trong thời gian suốt cả một đời người. Cuộc viếng thăm điện Potala của tôi có liên hệ đến phần đầu của sự huấn luyện nói trên.
Những kho vật dụng của điện Potala chứa đầy những pho tượng rất quư giá, những kinh sách cổ và những tranh vẽ trên tường tŕnh bày những đề tài tôn giáo.
Trăi qua nhiều thế kỷ, những tặng phẩm quư giá từ các nơi trên thế giới được gửi đến điện Potala để cống hiến cho các vị Đạt Lai Lạt Ma trong quá khứ. Hầu hết những phẩm vật này đều chất trong những pḥng đặc biệt, tại đây tôi đă trải qua nhiều giờ nh́n các đồ phẩm vật ấy một cách thích thú bằng nhăn quang thần thông để biết thâm ư của những người tặng quà. Đó là một tài liệu xác đáng để biết những tư tưởng thầm kín của người đời. Khi tôi xác định những ấn tượng mà một phẩm vật đă gây ra cho tôi, Sư Phụ tôi lật một quyển sách và thuật cho tôi nghe lịch sử từ thuở sơ khai của nó cho đến bây giờ. Tôi lấy làm hứng khởi mà nghe Sư Phụ khen tặng tôi:
- Khá khen cho con, Lâm Bá, con đă có những tiến bộ hiển nhiên, không thể chối căi.
Trước khi rời khỏi điện Potala, chúng tôi xuống thám hiểm một trong những đường hầm. Người ta cho tôi biết rằng c̣n những con đường hầm khác sẽ được chỉ cho tôi sau này. Mỗi người cầm một ngọn đuốc, chúng tôi rón rén cẩn thận bước xuống một cầu thang dài vô tận, đưa xuống những ngơ ngách giao thông mà hai bên vách đều bằng đá. Tôi được biết rằng những đường hầm này sở dĩ có là do bởi một cơn địa chấn và núi hỏa diệm sơn gây nên từ nhiều ngàn năm nay. Trên vách, tôi nh́n thấy những h́nh kỷ nà rất lạ lùng và những h́nh vẽ các hoạt cảnh mà tôi không nhận ra là h́nh ǵ. Tôi nôn nao muốn đến xem cái hồ ở dưới ḷng đất, mà tôi nghe nói rằng vị trí của nó nằm ở chỗ cuối cùng của một hang nghách và cái hồ ấy rộng đến nhiều cây số vuông. Sau cùng, chúng tôi đi đến một đường hầm, lúc đầu c̣n nhỏ hẹp, nhưng nó trở nên rộng lớn lần lần, cho đến khi những ṿm cao của nó ch́m hẳn trong bóng tối, ngoài tầm ánh sáng của các ngọn đuốc.
Đi độ chừng một trăm thước, chúng tôi đă đến bờ hồ, nước đọng và đen như mực, đến nỗi người ta có cảm giác rằng đó không phải là hồ nuớc mà là một cái lỗ không đáy đen ng̣m. Không một gợn sóng nhỏ hay một vết nhăn trên mặt hồ, cũng không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng chết người. Ánh sáng các ngọn đuốc chiếu lóng lánh trên tảng đá đen ng̣m ở dưới chân chúng tôi. Một cái ǵ chiếu sáng trên vách đá. Tôi bước lại gần nh́n xem th́ thấy vách đá có chứa đựng một mạch vàng lớn từ năm đến bảy thước bề dài. Ngày xưa, nhiệt độ cao đă làm chảy mạch vàng này, vàng đă tan ră ra như chất sáp lỏng của một ngọn đèn bạch lạp, rồi sau đó đă trở nên nguội dần và đông đặc lại.
Minh Gia Đại Đức phá tan sự im lặng:
- Cái hồ này thông ra đến con sông Tsang Po, cách đây sáu mươi cây số. Cách đây đă lâu, một nhóm sư săi mạo hiểm kết bè, đốt đuốc và trèo ra khơi. Họ trèo ra xa đến hàng bao nhiêu cây số trên mặt hồ hoàn toàn xa lạ, không định hướng, và sau cùng họ đến một chỗ mà mặt hồ nới rộng ra, đến nỗi không c̣n nh́n thấy ṿm đá ở trên đầu và vách đá ở hai bên nữa. Họ vẫn tiếp tục trèo mà không biết phải theo hướng nào...
Tôi vừa nghe vừa h́nh dung cảnh tượng lúc ấy, dường như tôi cũng đang ngồi trên bè với các sư săi. Sư Phụ nói tiếp:
- Họ đă đi lạc mà không thể nào t́m ra phương hướng được nữa. Th́nh ĺnh, chiếc bè lật nghiêng, đuốc của họ bị một ngọn gió thổi tắt, và họ chới với giữa cảnh tối đen như mực. Họ bám víu lấy chiếc bè, xoay ṿng trên mặt hồ giữa đêm tối, bàng hoàng kinh sợ và đă bắt đầu có người nhuốm bịnh. Chiếc bè bị gió cuốn đi mau đến nỗi những ngọn sóng nhỏ tràn lên bè và làm cho họ bị ngâm nước lạnh thấu xương. Mỗi lúc bè càng trôi mau hơn, dường như có một bàn tay vô h́nh lôi cuốn họ đi vào chỗ chết. Cuộc phiêu lưu đó đă kéo dài bao lâu, họ cũng không biết v́ họ đă mất cả ư niệm về thời gian. Không có một ánh sáng nào chung quanh, bóng tối dày đặc và đen kịt dường như chưa hề có bao giờ trên mặt đất. Chiếc bè tre bị sóng dập gió vùi, những ngọn gió mạnh như vũ băo thổi rít lên từng chập, bè lật nghiêng, họ bị lật nhào và ch́m dưới đáy nước. Vài người chỉ có đủ thời giờ để hít một hơi thở. Những người khác thở không kịp. Những người sống sót trôi dạt bềnh bồng cho đến khi họ nh́n thấy một ánh sáng xanh lợt, mờ mờ và mỗi lúc càng tỏ rạng. Sau cùng, họ trôi dạt vào bờ dưới ánh nắng mặt trời.
Hai vị sư săi đă tấp vào bờ, thân h́nh đầy những vết máu và vết bầm dập, ngất ngư như người hấp hối. Ba người khác đă biệt mất tăm hơi, không để lại dấu tích. Suốt nhiều giờ, họ nằm sơng sượt trên mặt đất, trước nanh vuốt của Tử Thần, giữa sự sống và cái chết. Sau cùng, một người hồi tỉnh lại và mở mắt nh́n quanh. Điều mà y nh́n thấy làm cho y xúc động muốn xỉu. Đằng xa, nhô lên ngọn đồi của điện Potala, chung quanh có những con yak đang ăn cỏ trên những cánh đồng xanh tươi. Ư nghĩ đầu tiên đến với họ là: Chắc có lẽ họ đă chết và họ đang ở trên một cơi trời Tây Tạng. Ngay khi đó họ nghe có tiếng chân người bước đến gần: đó là một kẻ mục đồng đang cúi xuống nh́n họ. Người mục đồng này vừa vớt lên mảng tre tàn của chiếc bè tàn mà y nh́n thấy trôi lênh đênh trên sông Tsang Po. Khi y được nghe câu chuyện kể lại và biết rằng họ là các sư săi, người mục đồng bèn đi đến điện Potala để báo động và t́m những chiếc cáng để khiêng họ về. Kể từ khi đó, ít có người mạo hiểm đi trên hồ, nhưng người ta biết rằng có những ḥn đảo nhỏ ở trong đó, mà một đă được thám hiểm. Điều mà người ta t́m thấy trên ḥn đảo đó, con sẽ được biết vào lúc nhập môn.
Tôi nghe nói vậy, liền mong ước được thả bè đi trên hồ ngay lập tức!
Sư Phụ nh́n tôi và cười:
- Thật vậy, đó là một kinh nghiệm lư thú, nhung cần ǵ phải nhọc sức đi đến nơi khi người ta có thể đi thám hiểm nơi đó dễ dàng bằng cách "Xuất vía?" Con có thể thực hiện điều đó, Lâm Bá, và trong vài năm con có thể cùng ta đi thám hiểm cái hồ ấy rồi góp phần hiểu biết của con vào phần kiến thức mà chúng ta đă có về vấn đề này. Nhưng bây giờ th́, con hỡi, con c̣n phải học hỏi rất nhiều.
Ánh lửa trên ngọn đuốc của chúng tôi sắp tắt, và tôi tưởng rằng chúng tôi chắc sẽ phải đi ṃ trong đêm tối như những người mù. Lúc sắp trở về, tôi nghĩ rằng chúng tôi đă quá vô tâm đến nỗi không đem theo thêm vài ngọn đuốc để thắp nối. Ngay lúc đó, Minh Gia Đại Đức tḥ tay vào một lỗ trống ẩn dấu trên vách đá, lấy ra những ngọn đuốc mới rồi thắp nối theo những cây đuốc đă tàn. Người nói:
- Chúng ta có dự trữ sẵn đuốc ở đây, v́ thật khó mà t́m thấy đường về trong bóng tối. Bây giờ, chúng ta lên đường!
Chúng tôi đi lần ṃ một cách vất vả khó nhọc theo những đường hầm lên dốc, thỉnh thoảng ngừng lại để thở và nh́n những tranh vẽ trên vách. Tôi không hiểu ư nghĩa những h́nh vẽ này là như thế nào. Trái lại, Sư Phụ tôi rơ ràng là đă rất thành thạo về những h́nh ảnh đó và người đi lại trong các đường hầm tối đen này một cách quen thuộc như ở nhà. Tôi linh cảm ở chỗ này hẳn là có điều ǵ bí mật và định thối lui lại để t́m cách khám phá ra cái cửa bí mật của con đường hầm này, nhưng giọng nói của Sư Phụ gián đoạn ḍng tư tưởng của tôi:
- Lâm Bá, con lẩm bẩm như một ông già! Chỉ c̣n vài nấc thang nữa, là chúng ta sẽ thấy lại ánh sáng mặt trời. Khi lên tới nóc điện, ta sẽ chỉ cho con thấy chỗ mà các sư săi ngày xưa đă ngoi lên mặt đất sau cuộc thám hiểm của họ.
Khi chúng tôi lên tới nóc điện Potala, Sư Phụ làm theo lời hứa, và tôi đă muốn phóng lên lưng ngựa phi nước đại trên sáu chục cây số để nh́n xem chỗ ấy tận mắt. Nhưng Sư Phụ tôi nói rằng không có ǵ khác hơn là cảnh vật mà tôi đă nh́n thấy trong ống ḍm. Lối thoát lên mặt đất của cái hố này vốn nằm dưới mực nước rất sâu và không có ǵ để ghi dấu cho biết nó nằm chỗ nào, trừ ra một cḥm cây được trồng ở phía trên do lịnh truyền của đức Đạt Lai Lạt Ma trong kiếp trước của Ngài.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 229 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 9:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TRẠI HOA HƯỜNG

Chương Chín

 


Qua ngày hôm sau, Thầy tṛ chúng tôi sửa soạn để trở về tu viện Chakpori. Chúng tôi không vội vàng lắm v́ chúng tôi cảm thấy được nghỉ ngơi thoải mái tại điện Potala. Trước khi lên đường, tôi bước nhanh lên nóc điện để ngắm nh́n phong cảnh một lần cuối cùng. Xuyên qua cái ống ḍm nh́n về nóc tu viện Chakpori, tôi thấy một thiếu nhi sơ cơ đang nằm dài trên sân thượng để đọc sách, thỉnh thoảng lại ngừng đọc để ném những viên sỏi nhỏ lên cái đầu trọc của các sư săi đang đi qua lại ở sân dưới. Trong ống ḍm tôi nh́n thấy nụ cười ranh mănh của y, khi y vội vàng ẩn núp để tránh những cái nh́n ngạc nhiên mà các nạn nhân của y phóng lên trời. Nhân dịp này, tôi cảm thấy băn khoăn lo sợ v́ chắc hẳn là đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nh́n thấy chính tôi có nhiều lần đùa nghịch giống y như vậy! Kể từ khi đó, tôi quyết định giới hạn những sự nghịch ngợm tinh quái của tôi ở những góc nhà của tu viện mà người ta không nh́n thấy được từ trên nóc điện Potala.
Giờ lên đường đă điểm. Chúng tôi từ giă và cám ơn các vị Lạt Ma đă giúp cho thời gian lưu trú ngắn ngủi của chúng tôi tại đây được thoải mái và dễ chịu. Chúng tôi cũng tỏ ḷng ưu ái cảm tạ viên Huỳnh Môn Quan của đức Đạt Lai Lạt Ma, là người thủ kho lương thực, đă phân phát trà bánh và kẹo mứt ngon có tiếng nhập cảng từ bên Ấn Độ cho chúng tôi dùng tự do tùy thích. Viên Huỳnh Môn Quan chắc hẳn là có thiện cảm với tôi, v́ lúc từ giă, người c̣n đưa tặng cho tôi một món quà ngon mà tôi không ngần ngại đút vào miệng nhai liền khi đó. Sau khi ăn uống no đầy đủ lấy sức, chúng tôi bắt đầu đi xuống cầu thang lớn để trở về tu viện. Chúng tôi vừa xuống được nửa cầu thang, th́ nghe những tiếng gọi giật lại, những sư săi đi ngang qua đó ra dấu cho chúng tôi hăy quay đầu nh́n lại phía sau. Một sư săi hộc tốc chạy xuống cầu thang vừa thở dốc và chuyển giao một thông điệp cho Minh Gia Đại Đức. Sư Phụ tôi nói:
- Lâm Bá, con hăy đợi ta ở đây, ta đi sẽ không lâu.
Kế đó, người quay lưng đi trở lên cầu thang. Tôi bèn đi dạo chơi thơ thẩn một ḿnh, nh́n xem phong cảnh, và ngắm nh́n ngôi nhà cũ của tôi ở đằng xa. Tôi đang miên man nghĩ đến những kỷ niệm xưa, th́ vừa quay đầu trở lại, tôi xuưt nữa th́ té ngửa khi tôi thấy cha tôi cưỡi ngựa chạy về phía chỗ tôi đứng. Đúng vào lúc mà tôi nh́n cha tôi, th́ người cũng thấy tôi. Cha tôi hơi nghiêng đầu tới trước để xem cho rơ khi người nhận ra tôi. Nhưng cha tôi đi ngang qua trước mặt tôi mà không nh́n tôi nữa. Tôi cảm thấy ḷng buồn vô hạn. Tôi nh́n theo cha tôi đi ra xa. Tôi gọi theo: "Cha!" Nhưng người vẫn tiếp tục thong thả cưỡi ngựa đi luôn dường như người không nghe tiếng tôi gọi. Tôi rơm rớm nước mắt và run lên v́ xúc động. Nếu lúc ấy tôi đứng giữa đám đông người, th́ tôi đă tự chuốc lấy một điều bẽn lẽn, hổ thẹn trước công chúng, và nhất là lại ở trên cầu thang của điện Potala! Với một ư chí làm chủ bộ thần kinh đa cảm của ḿnh, nó làm chính tôi cũng phải ngạc nhiên, tôi ngẩng mặt lên và nh́n về phía thành phố Lhasa.
Nửa giờ sau, Minh Gia Đại Đức đă trở xuống với hai con ngựa và nói với tôi:
- Lâm Bá, hăy mau lên ngựa, chúng ta phải đi mau đến viện Séra, v́ một trong các vị sư già mới bị tai nạn.
Nhận thấy ở mỗi bên yên ngựa đều có treo một bao da, tôi đoán rằng đó là những bao đựng đồ của y Sư Phụ trên đường Lingkhor, chúng tôi săi ngựa qua trước nhà của tôi; những người hành hương và hành khất đều tránh qua một bên đường. Không bao lâu, chúng tôi đến tu viện Séra, tại đây đă có một nhóm sư săi đă đứng đợi chúng tôi. Chúng tôi xuống ngựa, mỗi người cầm một bao y cụ trong tay; khi ấy một vị sư đưa chúng tôi vào một pḥng tại đây có một vị lăo tăng đang nằm thoi thóp.
Vị lăo tăng có sắc mặt nhợt nhạt như ch́, nguồn sinh lực của ông dường như đă sắp tàn. Minh Gia Đại Đức gọi đem nước sôi; nồi nước sôi đă sẵn sàng, người bèn bỏ vào đó vài nhúm dược thảo. Trong khi tôi quậy nồi nước sôi cho ngấm thuốc, Sư Phụ tôi khám bịnh cho vị lăo tăng và được biết vị này vừa bị té vỡ sọ từ trên cao xuống đất. Một cái xương dẹp trên đầu bị trật khớp đè lên óc, làm ông ta bất tỉnh nhân sự.
Khi nồi nước thuốc đă nguội bớt, chúng tôi dùng một ít để rửa trán của người bịnh. Sư Phụ cũng lấy nước thuốc ấy để rửa tay và ngâm những đồ y cụ giải phẫu vào nồi thuốc để khử trùng. Nhờ công dụng của chất thuốc ấy, vết thương của ông lăo không c̣n rỉ máu nhiều. Kế đó, Sư Phụ lấy trong nồi thuốc ra hai cái gắp bằng bạc, đầu dẹp và có răng cưa. Người cẩn thận dùng hai cái gắp ấy lật miếng da đầu bị rách lên, đỡ lấy cái xương sọ bị trật khớp và đặt nó nằm ngay trở lại vị trí cũ. Xong, người nói:
- Cái xương sẽ tự nó hàn gắn vào khớp trở lại như thường, và không c̣n đè lên óc nữa.
Người lại rửa vết thương với chất nước thuốc, và đặt lại chỗ cũ cái mảng da đầu đă đặt lên lúc năy. Xong rồi người mới may kín vết thương bằng lông bờm ngựa trụng nước sôi, đắp thuốc lên và băng lại cẩn thận.
Sau khi bộ óc ông ta được giải tỏa khỏi miếng xương sọ đè lên trên, vị lăo tăng đă bắt đầu lấy sức lại và cảm thấy khỏe dần. Chúng tôi đặt thêm vài chiếc gối dưới lưng để cho ông ta có thể ngồi nhổm dậy một cách thoải mái. Tôi rửa sạch các đồ y cụ, rồi lau bằng một miếng giẻ đă khử trùng và sắp lại cẩn thận trong hai cái bao da. Khi tôi rửa tay, vị lăo tăng mở mắt ra và nở một nụ cười yếu ớt khi ông ta nhận ra Minh Gia Đại Đức đang ngồi bên cạnh giường. Ông lăo nói:
- Tôi biết chỉ có ông là người duy nhất có thể cứu được tôi, v́ thế tôi đă gửi một thông điệp bằng tư tưởng đến điện Potala. Sứ mạng của tôi ở thế gian chưa hoàn tất, v́ vậy nên tôi chưa sẵn sàng rời bỏ thể xác.
Sư Phụ tôi chăm chú nh́n ông lăo và đáp:
- Sư ông sẽ chóng khỏi. Chỉ cần chịu đựng vài ngày khó nhọc nữa, một hay hai cơn nhức đầu, rồi sau đó sư ông sẽ b́nh phục lại sức khỏe và làm việc như b́nh thường. Tuy nhiên, trong khi ngủ, phải có một người trực một bên để giữ cho sư ông đừng nằm dài. Nội trong ba hay bốn ngày nữa, là sư ông sẽ thoát nạn.
Tôi bước lại gần cửa sổ. Thật là một điều lư thú mà nh́n xem cách sinh hoạt của các sư săi của một tu viện khác. Sư Phụ bước đến gần tôi và nói:
- Bây giờ, ta sẽ đưa con đi viếng thăm một cộng đồng sư săi sinh hoạt rất khác hẳn với tư tưởng viện của chúng ta.
Sau khi đă giao người bịnh cho một vị Lạt Ma săn sóc, chúng tôi bước ra ngoài hành lang. Tu viện này không được ǵn giữ sạch sẽ như tu viện Chakpori. Kỷ luật cũng không được nghiêm ngặt lắm: Các sư săi đi lại tự do tùy ư. So với tư tưởng viện của chúng tôi, th́ các thánh điện của họ không được săn sóc lau chùi tươm tất; mùi nhang khói ở đây cũng nồng nặc hơn. Từng nhóm trẻ con chơi ở ngoài sân: ở Chakpori, th́ giờ này chúng phải làm việc ráo riết. Tu viện này hoàn toàn thiếu trật tự, sạch sẽ và kỷ luật mà tôi vẫn thường coi như là những điều luật căn bản. Sư Phụ tôi hỏi:
- Lâm Bá, con có muốn ở lại tu viện này và sống một cuộc đời dễ dăi tự do như họ chăng?
Tôi đáp:
- Bạch Sư Phụ, chắc chắn là không. Con nghĩ rằng họ chỉ là một tập đoàn người man rợ.
Sư Phụ bật cười:
- Thế là ở đây có tất cả bảy người man rợ, và như vậy là hơi nhiều! Chỉ cần có một thiểu số người bê bối là đủ làm cho cả một tập đoàn phải mang tiếng, con biết không?
Một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều biết rơ, là tu viện của chúng tôi có một kỷ luật gắt gao nhất, c̣n ở hầu hết những tu viện khác th́ kỷ luật rất là lỏng lẻo. Ở những nơi đó, nếu một sư săi muốn giải đăi, lười biếng, th́ y được tự do lười biếng mà không ai nói ǵ. Tu viện Séra, c̣n biết dưới cái tên riêng là "Trại Hoa Hường," ở cách điện Potala năm cây số và là một thành phần của nhóm cộng đồng tu viện gọi là "Tam Đỉnh Viện." Trong cộng đồng này th́ tu viện Drebung với dân số không dưới mười ngh́n sư săi, là tư tưởng viện lớn nhất. Kế đó là tu viện Séra với độ chừng bảy ngàn năm trăm sư săi, và sau hết là tu viện Ganden với gần sáu ngh́n sư săi. Tất cả ba tu viện này đồ sộ nguy nga như những thành phố thật sự, với những đường sá, trường học, đền thờ và tất cả những cơ quan, dinh thự quản trị hành chánh cần thiết. Những sư săi cảnh binh xuất xứ từ những vùng Kham đi tuần pḥng thường xuyên ở các đường phố. Nhưng bây giờ th́ chắc là quân Trung Cộng đă thay chân của họ! Tu viện Chakpori tuy nhỏ nhưng có thế lực rất lớn. Với tư cách là một Y Viện, nó cũng là Trung Tâm Y Khoa của quốc gia, và có một số đại diện quan trọng trong Hội Đồng Chánh Phủ.
Ở tu viện Chakpori, người ta dạy cho chúng tôi môn vơ thuật Tây Tạng. Không phải tất cả các tu viện đều có dạy môn vơ thuật này. Trong tu viện của chúng tôi, môn vơ thuật ấy được sử dụng để tập luyện cho các thiếu sinh biết tự vệ, làm chủ những phản ứng tự nhiên của ḿnh, làm tê liệt giác quan của một người v́ mục đích giải phẫu y khoa, và để có thể di chuyển một cách an toàn trong những vùng nguy hiểm nhất. Thật vậy, với tư cách là những vị Lạt Ma y sĩ, chúng tôi luôn luôn phải di chuyển đến tận những vùng hiểm trở, xa xôi, đầy những sự bất trắc, hiểm nghèo.
Vơ sư Tzu, như đă nói trước đây, là một chuyên viên về môn vơ thuật tự vệ, có lẽ là vị vơ sư giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Ông đă dạy tôi tất cả những ǵ ông biết, với một tinh thần trách nhiệm và chỉ để lấy làm hài ḷng v́ đă làm tṛn bổn phận của một vơ sư. Phần nhiều những người đă trưởng thành và thành niên đều biết một vài thế vơ sơ đẳng để hộ thân, nhưng về phần tôi, tôi đă tập luyện những thế vơ đó từ khi mới lên bốn tuổi. Chúng tôi nghĩ rằng môn vơ thuật này chỉ dùng để tự vệ và tự làm chủ lấy ḿnh, chứ không nên dùng để biểu diễn trên vơ đài như những tay thí vơ chuyên nghiệp. Ở Tây Tạng, người ta thường nói rằng một người giỏi vơ và có sức mạnh có thể rất ôn ḥa hiền lành, c̣n những sự phô trương khoác lác là đặc tính của kẻ yếu. Với môn điểm huyệt, người ta có thể làm tê liệt giác quan của một người, nó có tác dụng như việc chụp thuốc mê để làm cho y không c̣n biết đau đớn khi cần phải giải phẫu, nắn lại khớp xương bị trặt, hay nhổ răng chẳng hạn. Người ta có thể làm cho một người trở nên bất tỉnh nhân sự, mà y không hay biết ḿnh đă bị điểm huyệt, và vài giờ hay vài phút sau đó, y sẽ thức tỉnh và vẫn sáng suốt như cũ mà không bị một ảnh hưởng nào. Có điều lạ, là một người bị điểm huyệt lúc y đang nói chuyện, bị bất tỉnh và ngủ mê đi, đến khi thức tỉnh dậy y lại tiếp tục câu nói bị đứt đoạn từ lúc đầu. V́ môn điểm huyệt này vô cùng lợi hại như vậy, nên môn vơ thuật tự vệ và điểm huyệt bí truyền của Tây Tạng chỉ được truyền thụ cho những môn đồ đă trải qua những cơn thử thách vô cùng gắt gao. Hơn nữa, để cho được cẩn mật và an toàn đến mức tuyệt đối, họ c̣n chịu một vài phép dẫn dụ bằng khoa thôi miên, để cho họ không thể nào lạm dụng quyền năng về sau này.
Một tu viện Lạt Ma ở Tây Tạng không phải chỉ là một nơi trú ngụ của những người có chí hướng về đường tu hành, đó cũng là một thành phố tự trị với những cơ quan quản trị nội bộ và những nơi giải trí, tiêu khiển. Ở đó có cả những hí viện để tŕnh diễn những màn kịch nghệ tôn giáo và văn hóa truyền thống. Những sư săi nhạc công luôn luôn sẵn sàng biểu diễn tài nghệ để giúp vui và để chứng tỏ rằng không một công đồng tu viện nào khác có những nhạc công tài giỏi như họ. Những sư săi có tiền của riêng có thể mua sắm các thức ăn, quần áo, đồ xa xí phẩm và sách vở trong các cửa tiệm. Những vị nào muốn tiết kiệm có thể gửi tiền vào những tào ngân khố, hoạt động giống như các ngân hàng. Tất cả những cộng đồng sinh hoạt trên thế giới đều không khỏi có những kẻ bất lương phạm pháp. Trong tu viện Lạt Ma Giáo, những kẻ bất lương này bị các sư săi cảnh binh bắt giữ và đưa ra một ṭa án riêng để xử tội họ một cách công b́nh. Nếu xét ra họ phạm pháp, họ sẽ phải đền tội trong khám đường của tu viện.
Trong tu viện, có những trường học để cho mỗi đứa trẻ có thể thọ lănh một nền giáo dục thích nghi với tính chất cùng trí khôn của chúng. Người ta giúp đỡ những đứa học tṛ ưu tú để xây dựng cho chúng một tương lai, nhưng ở phần nhiều các tu viện, trừ ra tu viện Chakpori, những học tṛ lười biếng được tự do chơi bời, ngủ nghê hay dùng thời giờ để ngồi không và mơ mộng. Thật vậy, người ta nghĩ rằng v́ người ta không thể nào ảnh hưởng đến cuộc đời của kẻ khác, nên tốt hơn là hăy để cho họ vớt vát lại thời giờ đă mất trong một... Kiếp sau!
Ở tu viện Chakpori th́ không thế, và người nào không tiến bộ sẽ bị mời đi nơi khác, đến những chỗ mà kỷ luật được dễ dàng lỏng lẻo hơn.
Trong tu viện của chúng tôi, thường có những khách viếng thăm, những người lái buôn hoặc sư săi, họ được lưu trú trong khách sạn của tu viện, và lẽ tất nhiên là cũng phải trả tiền. Không phải tất cả các sư săi đều sống độc thân. Những người nào nghĩ rằng t́nh trạng độc thân không thuận tiện cho đời sống tinh thần của họ, được tự do gia nhập vào môn phái "Mũ Đỏ" Dugpas, những người trong môn phái này được phép lập gia đ́nh. Nhưng đó chỉ là một thiểu số. Trong giới tu hành, cấp lănh đạo được tuyển chọn trong số những tu sĩ đă lập nguyện sống độc thân, thuộc về môn phái "Mũ Vàng" Gelugpas. Trong những tu viện "Cộng đồng nam nữ, " các sư săi và ni cô làm việc sát cánh với nhau và gồm thành một tập đoàn hoàn toàn có tổ chức, với một bầu không khí thường là ḥa dịu hơn những tu viện chỉ đặc biệt dành riêng cho phái nam.
Sau khi đă đi quan sát mọi nơi ở Trại Hoa Hường, chúng tôi trở lại thăm vị sư săi già. Trong hai tiếng đồng hồ, bịnh t́nh của ông ta đă thuyên giảm rơ rệt, và ông ta đă có đủ sức để chú ư đến cảnh vật chung quanh. Ông ta đă có thể lắng tai chăm chú nghe Minh Gia Đại Đức mà ông ta có vẻ rất quư mến. Sư Phụ nói với ông lăo:
- Bây giờ chúng tôi phải đi, nhưng tôi sẽ để lại cho sư ông một ít dược thảo. Tôi sẽ đưa chỉ thị rơ ràng cho vị sư săi có bổn phận săn sóc sư ông.
Sư Phụ đưa cho ông lăo ba cái bọc nhỏ mà người lấy ra trong cái bao da. Ba bọc thuốc nhỏ này sẽ giúp cho ông lăo được hoàn toàn b́nh phục và thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần.
Ra đến sân ngoài, chúng tôi thấymột sư săi nắm dây cương hai con ngựa đă chực sẵn. Chúng tôi lên ngựa và cho ngựa đi từ từ chậm bước. Trại Hoa Hường chỉ cách con đường Lingkhor có sáu cây số. Tôi không có ư định đi ngang qua nhà cũ của tôi. Sư Phụ tôi có lẽ đọc được tư tưởng của tôi, v́ người nói:
- Chúng ta sẽ đi qua đường để ra khu chợ. Chúng ta không có ǵ phải gấp rút. Ngày mai sẽ là một ngày khác mà chúng ta c̣n phải sống.
Khi ra đến khu chợ búa với những phố phường đông đảo, với các cửa hàng của người Tàu buôn bán tấp nập, tôi thầm nghĩ:
- A! Lần cuối cùng khi tôi đi đến đây, tôi là một người tự do, khi ấy tôi chưa phải học để trở thành tu sĩ. Tôi chỉ ước mong thời gian qua chỉ là một giấc mộng mà tôi có thể quên hết khi tôi thức tỉnh!
Sau khi đă đi qua đường cái, chúng tôi rẽ về phía tay mặt để đến cầu Ngọc Bích. Sư Phụ day qua phía tôi và nói:
- Như vậy, con vẫn không muốn trở thành tu sĩ phải chăng? Đó thật là một cuộc đời đáng sống, con biết không? Đến cuối tuần này, những sư săi sẽ xuất hành như mọi năm để đi hái thuốc trên núi. Thầy không để con đi với họ năm nay. Con sẽ ở lại đây, và chúng ta sẽ làm việc chung với nhau, để cho con có thể thi đậu kỳ thi tuyển các sư săi ưu tú Trappa vào năm mười hai tuổi. Thầy đă dự định đem con theo trong một chuyến xuất hành về sau này lên những vùng Thuợng Du, tại đó có mọc những loại dược thảo rất hiếm.
Chúng tôi vừa ra khỏi làng Sho và sắp đến gần Pargo Kaling, ở cửa tây thành Lhasa, th́ một kẻ hành khất đứng nép vào tường và rên rỉ:
- Thưa bác sĩ Lạt Ma, xin ngài làm phước đừng chữa khỏi bịnh cho tôi v́ nếu tôi lành mạnh, tôi sẽ không c̣n phương tiện để kiếm ăn!
Sư Phụ có vẻ buồn man mác khi chúng tôi bước qua cửa thành và nói:
- Ở đâu cũng thấy những kẻ ăn mày. Họ làm cho xứ sở của chúng ta mang tiếng xấu ở ngoại quốc. Ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, khi thầy đến đó với đấng "Khôn Lường," người ta nói chuyện về những người ăn mày ở xứ Tây Tạng, nhưng họ không ngờ rằng vài người trong số đó lại rất giàu. Dầu sao, có lẽ sau việc thực hiện lời tiên tri về Năm Con Cọp Sắt (tức 1950, quân Trung Cộng xâm chiếm xứ Tây Tạng), những kẻ ăn mày sẽ bị bắt buộc phải làm việc. Chừng đó, Lâm Bá, trong hai thầy tṛ chúng ta không ai c̣n ở lại xứ nhà để chứng kiến việc ấy. Con sẽ sống ở ngoại quốc, c̣n thầy th́... đă trở về cơi Thượng Giới.
Tôi cảm thấy ḷng buồn vô hạn với ư nghĩ rằng có ngày Sư Phụ mến yêu sẽ từ biệt tôi và không c̣n sống trên mặt đất này nữa. Hồi đó, tôi chưa biết rằng cơi đời này chỉ là hư ảo, một loạt những thử thách, một trường học lớn để cho ta rèn luyện tâm tánh. Trên đường về, tôi liên tưởng đến những người đi hái thuốc. Mỗi năm, một nhóm sư săi của tu viện Chakpori lên núi hái thốc về phơi khô và dự trữ trong những bao da không thấm nước. Miền núi non xứ Tây Tạng là nơi mà thiên nhiên dành cho con người một kho dược thảo phong phú dồi dào bất tận. Tôi thầm nghĩ rằng ḿnh có thể vắng mặt trong chuyến xuất hành năm nay, và hăy chuẩn bị tinh thần để đi lên miền Thượng Du huyền bí khi nào Sư Phụ xét ra cần thiết.
Các nhà chiêm tinh đă tiên đoán tôi sẽ thi đậu một cách dễ dàng, nhưng tôi biết rằng tôi phải học rất nhiều. Thật vậy, sự thành công chỉ được hứa hẹn với tôi với điều kiện tất yếu là tôi phải tự ḿnh gặt hái lấy nó bằng sự làm việc. Về phương tiện tinh thần, trí năo, ít nhất tôi cũng đă phát triển bằng một thiếu niên muời tám tuổi, v́ tôi vẫn luôn luôn chung đụng tiếp xúc với những người lớn tuổi hơn tôi và tôi đă phải tự lực tháo vát mọi chuyện trong mọi trường hợp.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 230 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 10:05pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT

Chương Mười

 


Dưới đây là một vài chi tiết về nền văn minh của xứ Tây Tạng nó có thể khêu gợi sự thích thú của quư độc giả. Nền tôn giáo Tây Tạng là một h́nh thức biến thiên của Phật Giáo, nhưng nó không có một danh hiệu rơ ràng để có thể định nghĩa hoặc dịch ra. Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác nhất là Lạt Ma Giáo (Lamaisme), mà người Tây phương đă từng biết. Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật Giáo ở chỗ nó căn cứ trên niềm hy vọng, c̣n Phật Giáo đối với họ như một tôn giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Dầu sao đi nữa, có một điều chắc chắn là người Tây Tạng không tin nơi sự hiện diện của một vị Thượng Đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho toàn thể nhân loại.
Từ bao nhiêu thế kỷ về trước, các dân tộc phương Đông đă biết rơ về các mănh lực huyền bí và những định luật thiên nhiên. Thay v́ phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền linh ấy, bởi lư do rằng người ta không thể cân lường hay quan sát phản ứng của chúng dưới ảnh hưởng các hóa chất trong pḥng thí nghiệm, những bậc danh sư bên phương Đông đă cố gắng tăng gia kiểm soát của họ đối với những mănh lực thần bí vô h́nh. Thí dụ như họ đă chú ư đến những kết quả thu lượm được do bởi năng khiếu Thần Nhăn. Nhiều người cho rằng điều ấy không thể nào có được: Họ chẳng khác nào như những người mù từ thuở lọt ḷng mẹ, nói rằng vốn không có thị giác, bởi v́ họ không hề có kinh nghiệm về cái giác quan đó! Làm sao họ có thể hiểu được rằng một vật có thể được nh́n thấy ở cách xa trong không gian, trong khi không hề có một sự tiếp xúc nào giữa vật ấy và đôi mắt của con người?
Thể xác con người được bao phủ bằng một lớp vỏ như sương mù muôn màu ngh́n sắc: đó là cái hào quang. Những vị có Thần Nhăn nh́n vào hào quang của một người, có thể quan sát các màu sắc đó mà suy ra t́nh trạng sức khỏe, đức hạnh và tŕnh độ tiến hóa của người ấy. Cái hào quang ấy là sự phát huy, sự biểu hiện của một luồng khí lực từ bên trong, tức Chân Ngă, hay linh hồn con người. Đầu người ấy cũng được bao trùm bởi một ṿng hào quang xuất phát từ cái khí lực đó. Đến lúc chết, th́ cái hào quang ấy tắt hẳn: Linh hồn đă rời khỏi thể xác và phiêu diêu trên một cơi giới khác để bước qua một giai đoạn sinh hoạt mới. Khi đó, nó trở thành một cái "Bóng" phất phơ, có lẽ là bởi v́ nó c̣n hoang mang bởi sự xúc động mạnh khi nó được giải tỏa ra khỏi cái xác thân vật chất. Có thể rằng nó không hoàn toàn ư thức được những ǵ đă xảy ra. Bởi đó, các vị Lạt Ma có bổn phận giúp đỡ những người hấp hối và giảng giải cho họ nghe những giai đoạn ở bên cửa tử mà họ sẽ trải qua. Chứ nếu không, th́ linh hồn của họ sẽ bám víu lấy cơi trần do bởi những dục vọng của xác thịt c̣n chưa được thỏa măn. Vai tṛ của các vị tăng lữ là cắt đứt những sợi dây trói buộc đó.
Người Tây Tạng thường có những cuộc hành lễ cầu siêu để d́u dắt những vong linh người chết. Sự chết không làm cho người Tây Tạng sợ sệt, họ nghĩ rằng một vài nghi thức cẩn mật có thể giúp đỡ rất nhiều để cho linh hồn bước qua cơi giới bên kia một cách dễ dàng. Cần phải vạch một lộ tŕnh nhất định và rơ ràng, và điều khiển những tư tưởng của người hấp hối một cách thích nghi. Những cuộc lễ cầu siêu này được cử hành trong một ngôi đền dưới sự hiện diện của chừng độ ba trăm sư săi. Một nhóm bốn hay năm vị Lạt Ma có thần thông, có thể giao cảm với cơi vô h́nh, ngồi thành ṿng tṛn ở chính giữa, và đối diện với nhau. Trong khi các sư săi tụng niệm dưới sự điều khiển của một vị Sư Trưởng, các vị Lạt Ma cố gắng tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vong linh phiêu dạt, vất vưởng trong cơi vô h́nh. Những lời cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng thật khó mà dịch ra cho đúng nghĩa, nhưng tôi cũng xin được dịch đại khái như sau:
- Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ vô định ở cơi bên kia cửa tử. Âm dương cách trở, người sống và người chết đều sống ở những cơi giới cách biệt nhau. Những gương mặt người chết có thể được nh́n thấy ở đâu? Ở đâu người ta có thể nghe được giọng nói của họ.
Cây nhang đầu tiên được đốt lên để kêu gọi những linh hồn lạc lơng và chỉ đường cho họ.
- Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ lạc lơng không người d́u dắt. Bầu thế giới này là một ảo ảnh. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng. Hữu sinh hữu diệt, vật ǵ có lúc sinh ra ắt phải có lúc chết. Chỉ có Phật pháp là con đường duy nhất đưa đến đời sống trường tồn vĩnh cửu. Cầu cho vong hồn các người siêu sinh tịnh độ.
Cây nhang thứ nh́ được đốt lên để kêu gọi những vong hồn lạc lơng và để chỉ đường cho họ.
- Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những bậc vua chúa oai quyền hống hách của thế gian, các người đă ngự trị trên những dăy giang san của thiên hạ. Triều đại của các người chỉ tồn tại có một thời nhưng những tiếng kêu rên siết của dân tộc các ngươi không bao giờ dứt. Do ḷng tham vọng chinh phục đất đai, các ngươi đă làm cho máu chảy thành sông, và những tiếng thở than của những kẻ bị trị c̣n làm rung chuyền cây cối, thấu đến trời xanh. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.
Một cây nhang thứ ba được đốt lên để kêu gọi vong hồn các bậc đế vương, cùng những nhà độc tài của thiên hạ và để chỉ đường cho họ.
Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những kẻ bạc ác bất nhân và những kẻ trộm cướp của thế gian, các ngươi đă gây nên tội ác đối với kẻ đồng loại và ngay trong ḷng các người không có sự bằng an. Linh hồn các ngươi vất vưởng không nơi nương tựa và công lư không có ngự trong tâm của các ngươi. Cầu cho linh hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ...
Một cây nhang thứ tư được đốt lên để kêu gọi vong hồn những kẻ tội lỗi đang phất phơ dật dờ trong cô quạnh.
- Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những nàng kỹ nữ các chốn lầu xanh của thế gian, những người buôn hương bán phấn mà tội lỗi của các bọn đàn ông đă làm cho ô uế, nay đang đi lang thang vô định trong cơi u minh tăm tối. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.
Cây nhang thứ năm được đốt lên để kêu gọi vong hồn các người đàn bà tội lỗi, sa đọa, để d́u dắt và giải thoát cho họ khỏi những sự trói buộc của thế gian...
Trong bóng tối ban đêm tỏa khói hương nghi ngút, những ngọn đèn bơ loe lét làm rung rinh những bóng đen ở phía sau các pho tương thếp vàng. Sự căng thẳng càng tăng: Các vị Lạt Ma đang tập trung tư tưởng để giao cảm với những vong hồn đă chết nhưng chưa được giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc với cơi giới phàm trần.
Những sư săi mặc áo tràng màu đỏ ngồi sắp từng hàng đối diện với nhau, cất giọng ngân nga tụng niệm những bài sinh cầu siêu cho các vong hồn. Cuộc lễ tiếp diễn với những lời chỉ thị đưa ra cho các vong hồn và nhịp độ của những lời cầu siêu tụng niệm cũng trở nên thưa dần, cho đến khi mọi tiếng động, mọi âm thanh đều dứt hẳn, và tất cả đều đắm ch́m trong im lặng.
Trong lúc thức tỉnh, linh hồn con người dính liền với thể xác và không thể tách rời ra ngoài, trừ phi y đă có trải qua một sự tập luyện về vấn đề này. Khi chúng ta ngủ, chỉ có thể xác là cần sự nghỉ ngơi, c̣n linh hồn th́ thoát ra ngoài và bước vào cơi giới tinh thần, cũng như một đứa trẻ trở về nhà vào lúc chiều, sau giờ tan học. Linh hồn được nối liền với thể xác bằng"sợi dây bạc" nó có thể kéo dài đến vô tận. Sợi dây bạc này vẫn tồn tại luôn luôn khi nào thể xác c̣n sống; đến lúc chết, nó bị gián đoạn để cho linh hồn bước vào một cuộc đời mới trên cơi giới tinh thần, cũng như đứa hài nhi bị cắt rún để tách rời khỏi mẹ nó. Đối với đứa hài nhi, sự sinh ra đời có nghĩa là chấm dứt sự sống được bảo bọc che trở trong bụng mẹ. Đối với một linh hồn, sự chết có nghĩa là tái sinh trong một cơi tâm linh tự do hơn.
Khi sợi dây bạc chưa bị cắt đứt, linh hồn được tự do chu du khắp nơi trong giấc ngủ của thể xác, hoặc ngay cả trong lúc thức tỉnh nếu người ta đă có trải qua một sự luyện tập đặc biệt. Sự chu du của linh hồn trong giấc ngủ tạo nên những giấc mộng, nó là những ấn tượng được chuyển di do sự trung gian của sợi dây bạc. Trong cơi giới tâm linh, vốn không có "Thời gian", v́ ư niệm về thời gian chỉ có ở cơi phàm trần hạ giới, bởi đó đôi khi những giấc mộng dài và phức tạp dường như chỉ diễn ra trong không đầy một giây đồng hồ. Một kinh nghiệm mà có lẽ ai cũng đă trải qua, là gặp trong giấc mộng một người quen ở cách ta rất xa, có thể ở cách đến muôn dặm trùng dương, ở chỗ tận cùng của thế giới, và nói chuyện với người ấy. Một thông điệp có thể đă được chuyển giao và khi thức giấc, người ta có cái cảm giác rất rơ rệt là: Có một cái ǵ mà ḿnh phải nhớ. Đôi khi, người ta nhớ rằng đă gặp trong mộng một người bạn hay một người thân thích trong khi họ ở rất xa, mà người ta không ngạc nhiên mà nhận được tin của họ ít lâu sau đó. Đối với những người không luyện tập, th́ trí nhớ của họ thường bị đảo lộn và kết quả là họ chỉ thấy những giấc mộng vô lư hay những cơn ác mộng.
Ở Tây Tạng, người ta thường đi chu du khắp nơi không phải bằng thuật khinh thân, mà bằng cách xuất hồn, một kỹ thuật mà họ đă hoàn toàn nắm vững. Bằng phương pháp xuất hồn, linh hồn rời khỏi thể xác và vẫn dính liền với nó bằng sợi dây bạc, trong khi đó người ta tự do di chuyển khắp nơi tùy ư muốn trong cơi vô h́nh với tốc lực của tư tưởng. Khả năng xuất hồn cũng gọi là xuất thần hay xuất vía, để đi chu du nơi cơi Trung giới, là một việc rất thông thường ở xứ Tây Tạng. Những người mới bắt đầu áp dụng thử phương pháp này thường hay bị xúc động mạnh, đó là do sự thiếu tập luyện. Có thể rằng mỗi người đă có lần cảm thấy ḿnh lướt nhẹ trong giấc ngủ để rồi sau đó, không có lư do ǵ đáng kể, tự nhiên họ giật ḿnh bừng tỉnh dậy một cách đột ngột. Hiện tượng đó là do bởi sự xuất thần một cách quá mau chóng, sự chia ly quá đột ngột giữa thể xác với thể vía, làm cho sợi dây bạc bị chùn lại và thể vía tái nhập vào thể xác một cách quá mănh liệt. Sau khi bừng tỉnh dậy, người ta c̣n có cái cảm giác khó chịu hơn nữa. Linh hồn phất phơ ở phía trên cái thể xác rất xa, cũng ví như một quả bong bóng được thả lên trên không ở đầu cuối một sợi dây. Th́nh ĺnh, một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn như một tiếng động mạnh, làm cho nó nhập vào thể xác một cách quá mau. Đương sự giật ḿnh tỉnh giấc và có cái cảm giác kinh khủng như từ trên cao té xuống vực thẳm và vừa tỉnh dậy kịp thời.
Sự chu du trên cơi Trung giới một cách hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh và hoàn toàn ư thức mọi việc xảy ra, là một khả năng của hầu hết tất cả mọi người. Người ta chỉ cần có một sự luyện tập thích nghi, nhưng trong những giai đoạn đầu tiên, họ cần phải luyện tập ở một nơi vắng vẻ để không sợ bị ai quấy rầy. Cần nói rơ là trừ phi có sự chỉ dẫn của một vị đạo sư lăo luyện, người ta có thể bị hoang mang, kinh ngạc. Trên thực tế, sự tập luyện này không nguy hiểm, nhưng không phải là không có sự va chạm hay xúc động mạnh, nếu thể vía rời khỏi hay nhập vào thể xác không đúng lúc. Những người yếu tim không nên tập luyện phương pháp này, bởi v́ nếu có người nào đột nhiên bước vào pḥng khi họ đang tập, th́ thể vía hay sợi dây bạc của họ có thể bị náo động và điều đó thật vô cùng nguy hiểm. Sự va chạm đó có thể làm cho đương sự chết bất đắc kỳ tử và có những hậu quả rất phiền phức: Linh hồn y sẽ bị bắt buộc đầu thai trở lại ngay để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn ở cơi trần trước khi bước qua giai đoạn tiến hóa kế tiếp...
Người Tây Tạng tin rằng thuở xưa kia, trước thời kỳ sa đọa của con người, nhân loại có thể đi chu du bằng cách xuất hồn, sử dụng Thần Nhăn, thực hành khoa thần giao cách cảm và phép khinh thân. Sự sa đọa này, theo chúng tôi hiểu, là do con người đă lạm dụng những quyền năng thần bí, những phép thuật thần thông để thực hiện những mục đích ích kỷ thay v́ để giúp ích cho sự tiến hóa chung của nhân loại. V́ sự lạm dụng đó, nên ngày nay nhân loại đă bị mất hết tất cả những quyền năng quư báu kể trên.
Người Tây Tạng quả quyết rằng người ta có thể tiên đoán những việc có thể xảy ra trong tương lai. Khoa tiên tri là một khoa học, và một khoa học chính xác. Họ cũng tin ở khoa Chiêm Tinh. Những "Ảnh hưởng của tinh tú" chỉ là những vũ trụ tuyến do những bầu tinh tú phản chiếu xuống địa cầu, và chịu sự "Tô mầu" hoặc sự thay đổi bởi những bầu tinh tú nầy. Ai cũng biết rằng với một cái máy ảnh và ánh sáng mặt trời, người ta có thể chụp ảnh. Vài loại kiếng lọc ánh sáng, nếu đặt trước ống kính thu ảnh, có thể giúp cho người ta có được những tấm ảnh với hàng trăm loại màu sắc đặc biệt, cũng y như thế, những vũ trụ tuyến ảnh hưởng đến con người bằng nhiều cách khác nhau đến vô cùng tận tùy theo tác động của những bầu tinh tú khi phản chiếu vũ trụ tuyến xuống quả Địa Cầu.
Kể từ thế kỷ thứ mười một trở về sau, tất cả những vấn đề chính sự quan trọng ở xứ Tây Tạng đều được quyết định bằng khoa Chiêm Tinh. Cuộc xâm lăng của quân đội Anh năm 1904 đă được tiên tri một cách chính xác. Người ta có ghi chép lời tiên tri này bằng chữ Tây Tạng, mà bản dịch như sau:
"Năm Con Rồng bằng Gỗ (Mộc Long). Trong nửa năm đầu Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ được b́nh yên, sau đó những kẻ xâm lăng hiếu chiến sẽ tiến vào lănh thổ. Quân địch rất đông, nạn binh đao gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải lâm chiến. Đến cuối năm, sẽ có sứ giả ḥa b́nh và chiến tranh sẽ chấm dứt."
Lời tiên tri này bắt đầu có trước năm 1850, nói về t́nh h́nh năm 1904, tức năm Con Rồng Gỗ. Đại tá Younghusband, tư lịnh quân đội Anh, có xem thấy bản văn lời tiên tri này ở thủ đô Lhasa.
Nói về vấn đề tiên tri, có người đă hỏi tôi: "Tại sao tôi không tránh khỏi cạm bẫy và thử thách gian lao nó chờ đợi tôi, khi mà những điều đó đă được tiết lộ cho tôi biết trước?"
Tôi chỉ có thể trả lời rằng: "Nếu người ta có thể tránh khỏi những tai nạn, đau khổ đă được tiết lộ cho ta biết trước, th́ việc ấy chứng tỏ những lời tiên tri đó là sai!"
Những lời tiên tri, đều căn cứ trên sự "có thể xảy ra" của một vài sự việc, chứ không có nghĩa là con người phải chịu một cái định mệnh khắt khe, bất di dịch mà y không có tự do ư chí để sửa đổi. Trái lại, con người có thể sử dụng ư chí của ḿnh một phần nào. Thí dụ một người kia muốn đi từ Tân Đề Li đến Hoa Thịnh Đốn, lẽ tất nhiên y biết rơ khởi điểm và mục tiêu cuộc hành tŕnh. Nếu y chịu khó thăm ḍ trên bản đồ, y sẽ biết được những điểm then chốt mà y sẽ đi ngang qua trên một lộ tŕnh ngắn và tiện lợi nhất. Tuy rằng y cũng có thể dùng một lộ tŕnh khác, nhưng điều này không phải là sáng suốt khôn ngoan, v́ nó sẽ làm mất nhiều thời giờ và tổn phí tiền bạc.
Cũng y như thế, trong trường hợp một chuyến từ Paris đến Marseille chẳng hạn, một người tài xế khôn ngoan sẽ thăm ḍ trên bản đồ và noi theo một lộ tŕnh đă vạch sẵn bởi một tổ chức du lịch. Như vậy, y sẽ có thể tránh khỏi những con đường gồ ghề lồi lơm; hoặc nếu y bắt buộc phải theo những con đường này và không thể làm sao hơn, th́ y sẽ biết trước để giảm bớt tốc lực và để tránh khỏi tai nạn. Khoa tiên tri cũng có tác dụng giống như vậy.
Tuy nhiên, noi theo những con đường êm ái, dễ dàng, không phải luôn luôn là một điều tốt. Là một Phật tử, tôi tin ở định luật Luân Hồi và tôi tin rằng người ta sinh ra ở cơi trần là để "Học hỏi, " kinh nghiệm. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ, nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ có một mục đích duy nhất là trui rèn và thử thách chúng ta để cho ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan, và minh triết hơn.
Nhờ những lời tiên tri mà tôi được biết trước cuộc đời tôi, đó đă là nhiều lắm. Nhưng vẫn c̣n nhiều điều bí hiểm, thí dụ như những lời tiên tri về xứ Tây Tạng: Tại sao xứ ấy lại bị nạn ngoại xâm? Một xứ êm đềm, yên tĩnh, chỉ có sự ước mong duy nhất là phát triển trên địa hạt tâm linh, tại sao lại phải chịu nạn ấy? Tại sao những nước khác lại thèm muốn chiếm đoạt lănh thổ đất đai của chúng tôi, và đặt dân tộc xứ này dưới cái ách nô lệ? Ước vọng duy nhất của người Tây Tạng là được sống trong ḥa b́nh và tự do. Tuy vậy, người ta lại trông cậy nơi tôi để đi sang nước Trung Hoa, là một nước sẽ xâm lăng xứ Tây Tạng trong tương lai, để chữa trị và săn sóc thương bệnh binh trong một cuộc chiến tranh c̣n chưa bắt đầu!
Dưới đây là một vài biến cố quan trong trong lịch sử xứ Tây Tạng trong số những biến cố quan trọng khác đă được tiên tri một cách chính xác: Năm 1910, cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa; năm 1911, cuộc Cách Mạnh Trung Hoa và Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập; cuối năm 1911, quân đội Trung Hoa bị đánh bật ra khỏi Tây Tạng; năm 1914, cuộc Thế Chiến Thứ Nhất; 1933, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trần; năm 1935; đức Đạt Lai Lạt Ma tái sinh trở lại; năm 1950; quân Trung Công xâm xứ Tây Tạng. Một nhà ngoại giao Anh là Sir Charless Bell đă thấy tất cả những lời tiên tri này ở Lhasa.
Tất cả nghị lực trẻ trung của tôi đều hướng về một mục tiêu duy nhất: Làm sao thi đậu một cách vẻ vang vào kỳ thi sắp tới. V́ ngày lễ sinh nhật muời hai tuổi của tôi đă sắp đến, nên tôi học bớt lại từ từ. Tôi đă trải qua những năm học ráo riết về các môn Chiêm Tinh, Y Khoa, Giáo Lư, Sinh Ngữ Tây Tạng và TrungHoa, và Toán Pháp.
Ngày thi đă đến. Đúng sáu giờ sáng, tôi đến pḥng thi với độ mười lăm thí sinh khác. Mỗi thí sinh được đưa vào một pḥng nhỏ hẹp, đặt dưới sự canh gác thường xuyên của các sư săi "Cảnh binh" đi tuần ở ngoài hành lang. Mỗi ngày chúng tôi phải làm bài luận hoặc giải đáp các câu hỏi về một trong sáu môn học kể trên. Trong sáu ngày liên tiếp, chúng tôi bắt đầu làm bài từ sáng sớm cho đến chiều, một vị sư săi đem cho chúng tôi trà pha bơ và tsampa mỗi ngày ba lần. Phần thi các bài viết chấm dứt vào chiều ngày thứ sáu, kế đó chúng tôi được nghỉ vài ngày. Ba ngày sau, những bài viết đă được chấm xong, mỗi thí sinh phải ra trước hội đồng giám khảo để trả lời những câu về những điểm yếu kém của họ. Phần thi sát hạch chiếm trọn hết một ngày. Ngày hôm sau, tất cả mười sáu thí sinh tề tựu lại vũ đường để biểu diễn môn quyền thuật. Mỗi thí sinh phải đấu vơ với ba thí sinh khác. Những thí sinh yếu kém nhất sẽ bị loại rất mau, rồi đến lượt những thiếu niên khác, và sau cùng chỉ c̣n lại một ḿnh tôi thủ đài. Sự thành công này là nhờ sự huấn luyện vơ nghệ dưới sự chỉ dẫn của vơ sư Tzu, mà hồi nhỏ tôi vẫn cho là bất công và bạo tàn. Ít nhất tôi đă được chấm hạng nhất về môn quyền thuật. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được nghỉ để lấy lại sức, và ngày kế đó mới là ngày tuyên bố kết quả. Tôi và bốn thí sinh khác được chấm đậu: Chúng tôi đă trở nên những giáo sĩ kiêm y sĩ. Minh Gia Đại Đức, mà tôi không gặp trong suốt mùa thi cử, cho gọi tôi lại. Người lộ vẻ vui mừng trên nét mặt, và nói với tôi khi tôi đến tŕnh diện trước mặt người:
- Lâm Bá, khá khen cho con v́ con đă đậu đầu. Vị Sử Trưởng đă gởi một phúc tŕnh đặc biệt cho đấng Thậm Thâm. Người muốn đề nghị với Ngài phong cho con chức Lạt Ma ngay lập tức, nhưng ta đă chống lại việc ấy.
Thấy tôi hơi có vẻ bất măn, Sư Phụ tôi nói thêm:
- Tốt hơn con hăy cố gắng học hỏi thêm và đạt tới quả vị ấy bằng khả năng của chính ḿnh. Nếu con lănh tước vị Lạt Ma ngay bây giờ, con sẽ bỏ lăng sự học và sau này con sẽ thấy rằng sự học của con có một tầm quan trọng rất lớn. Tuy nhiên, ta cho phép con ở căn pḥng kế bên, v́ con chắc chắn sẽ thi đậu kỳ thi tuyển các vị Lạt Ma khi thời giờ sẽ đến.
Quyết định của Sư Phụ thật rất hữu lư. Dầu sao, tôi chỉ mong mỏi được vâng lời người một cách tuyệt đối. Tôi rất cảm động mà thấy rằng sự thành công của tôi cũng là sự thành công của người và Sư Phụ lấy làm vô cùng hân hạnh mà làm thầy của một đứa trẻ đậu đầu trên các môn khảo thí.
Vài ngày sau đó, một thư tín viên cưỡi ngựa phi nước đại đem cho tôi một thông điệp của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài gởi lời khen tặng tôi về việc tôi vừa thi đậu và ra chỉ thị rằng kể từ nay tôi được  đối xử như một Lạt Ma. Tôi sẽ được mặc áo như các vị Lạt Ma mà thụ hưởng mọi quyền hạn và đặc ân dành cho chức vị ấy. Ngài cũng đồng ư với Sư Phụ tôi, để cho tôi khảo thí vào năm mười sáu tuổi, v́ theo lời Ngài viết trong thơ: "Như vậy con sẽ học hỏi thêm những đề tài mà có lẽ con sẽ bỏ dở nếu con được tấn phong ngay bây giờ, và nhờ đó con sẽ mở mang những kiến thức của con cho thêm sâu rộng."
Thế là tôi đă trở nên một vị Lạt Ma. Tôi thuộc về thành phần ưu tú, thành phần của những bậc "Thượng Nhân." Những điều này cũng có những sự bất lợi: Trước kia, tôi phải giữ ba mươi hai giới luật của Ḍng Tu Sĩ, điều mà tôi vẫn coi như là một con số đáng e ngại. Khi đă trở nên một vị Lạt Ma, tôi phát hiện một cách kinh khủng rằng số giới của cấp đẳng nầy lên tới hai trăm năm mươi ba. Và ở tu viện Chakpori, một vị Lạt Ma chân chính phải giữ hết tất cả bấy nhiêu giới luật đó, không bỏ sót một giới luật nào?
C̣n sự làm việc? Chúng tôi phải làm việc nhiều nhưng chúng tôi cũng không thiếu những sự vui về tinh thần và những cuộc chơi tiêu khiển. Thật là một niềm hạnh phúc rất lớn mà được sống gần những người như Minh Gia Đại Đức, mà tư tưởng duy nhất trong đời là gieo sự Bằng An và phụng sự nhân loại. Thật cũng là một phần thưởng tinh thần mà được nh́n thấy trước mắt cái phong cảnh êm đềm, với một thung lũng xanh tươi, cây cối sầm uất; với những con sông rạch màu nước xanh dương uốn khúc quanh co theo những dăy núi đồi ngoạn mục; với những ngọn tháp vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, những tu viện cổ kính bám chặt trên các sườn núi cheo leo hiểm trở, và chiêm ngưỡng với một ḷng tôn kính những mái bầu bằng vàng của điện Potala ở gần bên và những nóc nhà sặc sỡ dọc theo bờ sông Jo Kang ở xa hơn về phía đông. T́nh đồng môn của các vị Lạt Ma trong tu viện, ḷng ưu ái của các sư săi, mùi hương trầm quen thuộc phưởng phất trong các đền thờ, tất cả những thứ đó là cái bối cảnh hằng ngày của cuộc đời tu sĩ, và đó cũng là một cuộc đời đáng sống. C̣n những khó khăn, chướng ngại th́ cũng có rất nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Ở trong mọi tập thể cộng đồng, luôn luôn vẫn có những phần tử không thông cảm, những kẻ đố kỵ ganh ghét. Ở tu viện Chakpori, những kẻ ấy thật t́nh chỉ là một thiểu số.
Kể từ đó, các vị Lạt Ma và sư săi trong tu viện đều đối sử với tôi một cách lễ độ, cung kính. "Cung Kính" là bởi v́ tôi là học tṛ của Minh Gia Đại Đức, một nhân vật trọng yếu được toàn thể mọi người đều yêu mến, bởi v́ tôi được nh́n nhận như một vị "Hóa Thân."
Đối với quư vị độc giả muốn biết bằng cách nào người Tây Tạng có thể nhận ra một vị Hóa Thân. Tôi xin tŕnh bày vài điểm sơ lược dưới đây:
Cách cư xử khác thường của một đứa trẻ nhỏ có thể làm cho cha mẹ nó nghĩ rằng nó có khả năng cao hơn mức trung b́nh hay những kỷ niệm đặc biệt nào đó mà người ta không thể giải thích được một cách hợp lư. Trong trường hợp đó, cha mẹ nó đến tŕnh với vị Sư Trưởng của tu viện ở gần nhất, vị này mới chỉ định một ủy ban có nhiệm vụ đến xem xét đứa trẻ. Trước hết, ủy ban này lấy một lá số Chiêm Tinh hay Tử Vi cho đứa trẻ, sau đó mới xem tướng mạo và t́m ấn chứng trên khắp thân h́nh nó. Thí dụ như đứa trẻ có những chỉ tay đặt biệt trên hai bàn tay, hoặc những ấn chứng trên chả vai hay chân. Nếu đứa trẻ có những ấn chứng đó, người ta t́m cách truy ra tiền kiếp nó. Có thể rằng các vị Lạt Ma sẽ nh́n ra được nó, như trong trường hợp của tôi, và khi đó người ta mới đặt nó trong một cuộc thử thách xem nó có nh́n ra được chăng những đồ vật dụng riêng của nó hồi kiếp trước. Cuộc thử thách này được thực hiện khi đứa trẻ mới lên ba tuổi. Người ta nghĩ rằng với tuổi đó, cón quá non dại để có thể bị ảnh hưởng bởi những ǵ cha mẹ nó có thể nói cho nó biết. Nếu thử vào lúc nó c̣n trẻ hơn nữa th́ lại càng hay. Cha mẹ đứa trẻ không được dự vào cuộc thử thách, mà nó phải chọn lựa chín món đồ vật trong số ba chục món khác. Chỉ chọn sai hai món cũng bị loại, nếu đứa trẻ chọn đúng không sai món nào, th́ nó được nh́n nhận như một vị Hóa Thân, được nuôi dưỡng và giáo dục một cách đặc biệt. Khi nó lên bảy tuổi, người ta nói cho nó biết những lời tiên tri về cuộc đời tương lai của nó. Người ta cho rằng với tuổi đó, nó hoàn toàn có thể hiểu được ư nghĩa rơ ràng hay ẩn giấu của những lời tiên tri đó. Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi có thể quả quyết đúng y như vậy.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 231 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 10:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI TRỞ VỀ NHÀ

Chương Mười Một

 

Nhân dịp ngày lễ Logsar, tức ngày lễ đầu năm của Tây Tạng, nhà nhà đều quét dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng lịch sự. Ngày rằm tháng riêng, đức Đạt Lai Lạt Ma xuất hành đi lễ bái ở ngôi đền Jo Kang. Khi cuộc lễ chấm dứt, ngài bắt đầu đi diễn hành một ṿng lớn trên con đường Barkhor (tức con đường đi ṿng quanh ngôi đền Jo Kang và dinh Quốc Hội), đi ngang qua trước chợ và đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễn hành kết thúc, sự trang nghiêm, trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa, hưởng lạc. Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đă thi hành xong bổn phận đối với các đấng Thần linh, th́ giờ phút ăn chơi, tiêu khiển đă điểm. Trên những đài từ mười đến mười lăm thước bề cao, người ta đặt những mô h́nh nổi khổng lồ đúc bằng bơ có tô màu, để triển lăm những cảnh tượng huyền thoại rút trong các kinh thánh. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng chân lại để chiêm ngưỡng trước mỗi mỹ phẩm tŕnh bày và ban giải thưởng hàng năm cho những tác phẩm khéo nhất. Những giải thưởng này sẽ được chuyển giao cho các tu viện đă triển lăm những mỹ phẩm ưu tú. Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích chơi môn giải trí này, mà chúng tôi cho là ngây ngô và phiền phức, giống như những cuộc đua ngựa không người cưỡi trên vùng đồng bằng Lhasa. Cuộc diễn hành những pho tượng khổng lồ của các nhân vật Thần Thoại làm cho chúng tôi thích thú hơn. Những pho tượng này gồm một cái sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm cái thân ḿnh, bên trong ruột trống rỗng, có gắn một cái đầu rất lớn làm theo một kiểu rất tự nhiên. Bên trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt, có gắn những ngọc đèn bơ; ánh đèn rung rinh lập ḷe làm cho cặp mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động. Những sư săi cao lớn lực lượng, chân đi trên hai cây cà khêu bề cao ba thước, chui vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễn hành như những người khổng lồ. Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai nạn dị kỳ. Có khi một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường lộ, trong khi đó, những kẻ bất hạnh này đành phải đánh đu giữ thăng bằng trên một chân; có khi cả hai cây cà khêu đều trượt tới v́ đường trơn trợt. Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị rung chuyển quá mạnh và lật đổ, ngọn lửa bắt cháy thiêu pho tượng, th́ đó mới là một thảm kịch thực sự !
Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề cử mang pho tượng đức Phật, bề cao đo tới tám thước tây. Trong khi tôi đi cà khêu bên trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện vào chân tôi, và những con mọt bay vần vũ chung quanh ḿnh tôi v́ bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được lấy từ trong kho ra. Khi tôi vừa bước đi vài bước khập khễnh trên hai cây cà khêu, bụi trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà mỗi lần hắt hơi đều hăm dạo sự thăng bằng của tôi một cách rất nguy hiểm. Mỗi lần hắt hơi làm thân h́nh tôi rung chuyển, lại làm cho t́nh trạng bất ổn của tôi càng trầm trọng thêm v́ những ngọn đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn những giọt bơ nóng chảy xuống cái sọ dừa cạo trọc của tôi, và... V́ cạo trọc nên nó càng "Nhậy cảm" hơn. Khi trời nóng bức một cách kinh khủng. Tôi bị ngộp thở muốn đứng tim v́ hít phải hàng loạt mùi lụa cũ, mốc mao của chiếc áo cà sa bị cất giữ trong kho đă lâu ngày, tôi bị vây khổn bởi những đám mối mọt bay vần vũ như điên chung quanh tôi, và tôi bị phỏng rát da đầu v́ bơ nóng của các ngọn đèn; t́nh thế của tôi lúc ấy vô cùng bi đát! Cái lỗ nhỏ khoét ở giữa thân ḿnh pho tượng để nh́n ra ngoài lại không ngang với cặp mắt tôi. Tôi không thể nào điều chỉnh lại cái chi tiết quan trọng đó, mà không buông rớt hai cây cà khêu! Thành thử, tôi chỉ nh́n thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước tôi, và xét về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, th́ đủ biết rằng kẻ bất hạnh này cũng không thoải mái sung sướng ǵ hơn tôi lúc ấy! Nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma đang nh́n chúng tôi, và chúng tôi phải tiếp tục diễn hành trong t́ng trạng đó, vừa bị ngộp thở vừa bị ngốn hết phân nửa cái sọ dừa! Chắc hẳn là tôi đă sút mất vài kư lô trong ngày hôm đó!
Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi:
- Lâm Bá, con đă tŕnh diễn rất khéo. Con có thể trở nên một tài tử thiện nghệ!
Tôi phải giữ kín không thố lộ cho ông ta biết rằng những cử chỉ mà tôi đă làm cho ông ta thích thú, thật ra là hoàn toàn ngoài ư muốn của tôi, và kể từ đó, tôi không bao giờ đi diễn hành trong pho tượng nữa!
Năm sáu tháng sau cuộc "Tŕnh diễn" đó, một cơn giông băo th́nh ĺnh nổi dậy, cuốn hết những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc ấy tôi cùng với một thiếu niên sơ cơ đang ngồi trên nóc tu viện và sắp đặt lại những viên ngói để sửa chữa chỗ bị dột. Cơn giông làm tôi bị hất rơi xuống một nóc nhà khác độ sáu bảy thước thấp hơn, và từ đó cơn gió thổi mạnh, cuốn tôi đi măi, làm cho tôi lại rơi một lần nữa xuống đất gần đường Lingkhor từ một bề cao độ chừng một trăm thước. Ở phía dưới là một vùng ao đầm, ẩm thấp, tôi rơi xuống một vũng nước sâu, nước cao ngập khỏi đầu. Tai nạn này làm cho tôi xúc động và mất b́nh tĩnh. Khi tôi cố gắng ngoi lên khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói ở khuỷu tay và ở chả vai bên trái. Tôi ḅ trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và lết đi một cách khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt. Bị té đau, không đủ sáng suốt để suy nghĩ ǵ nữa, tôi chỉ có một ư nghĩ: Trở về tu viện càng sớm càng hay. Như một người mù, tôi bước tới một cách chập choạng, mỗi bước đi lại vấp ngă; dọc đường tôi gặp những sư săi vừa chạy tới để xem kết quả tai nạn đă xảy ra cho tôi và đứa trẻ kia. Nhưng đứa trẻ này đă chết v́ té xuống những chỗ có tảng đá gồ ghề.
Các sư săi khiêng tôi vào pḥng. Sư phụ tôi khám nghiệm bịnh t́nh của tôi và nói:
- Ồ, tội nghiệp cho những trẻ nhỏ này! Đáng lẽ người ta không nên để chúng ra ngoài khi thời tiết như vầy!
Kế đó, người nh́n tôi vào tận mắt:
- Lâm Bá, con hỡi! Một cánh tay và một xương đ̣n gánh bị gẫy... Phải nắn xương lại tức khắc. Con sẽ đau đớn, những thầy sẽ làm cách nào cho con chỉ đau tối thiểu mà thôi.
Sư phụ vừa nói, và trước khi tôi ư thức được việc ǵ xảy ra, người đă nắn lại cái xương đ̣n gánh bị trặt và đặt lại cho đúng khớp. Khi Sư Phụ nắn chỗ khuỷu tay bị gẫy, tôi cảm thấy đau hơn, nhưng không lâu, v́ người đă mau ráp cái xương bị trặt vào đúng khớp của nó. Ngày đó, tôi nằm yên một chỗ không cử đông, qua ngày hôm sau, Sư Phụ đến gặp tôi và nói:
- Con đă bớt đau và có thể tiếp tục sự học, không nên bê trễ. Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau ngay trong pḥng này. Cũng như tất cả mọi người, con cảm thấy e ngại khi phải học những đề tài mới... Thầy sẽ giúp con bớt e ngại đó bằng phương pháp thôi miên.
Sư Phụ đóng các cửa sổ, và gian pḥng đắm ch́m trong bóng tối. Chỉ có những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư Phụ bèn đặt tôi vào trạng thái giấc ngủ thôi miên.
Tôi đă ngủ thiếp đi trong nhiều giờ. Khi tôi thức tỉnh, tôi nh́n thấy xuyên qua cánh cửa sổ mở, cảnh vật ban đêm hiện ra chập chờn trong thung lũng. Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ chiếu lập ḷe ở các cửa sổ trong điện Potala và ở chung quanh các vách tường rào: Người sư săi có phận sự túc trực ban đêm đang đi canh tuần. Tôi cũng nh́n thấy ở dưới chân đồi, thành phố Lhasa đang vươn ḿnh trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, Sư Phụ tôi bước vào và nói:
- À, con đă thức tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đă nhận thấy cơi Trung giới vui đẹp đến nỗi con muốn kéo dài cuộc ngao du trên đó. Thấy chắc rằng bây giờ con đă đói, phải chăng?
Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật t́nh tôi đang đói bụng. Người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống lấy sức, Sư Phụ nói với tôi:
- Trong trường hợp thông thường, th́ có lẽ con đă chết v́ tai nạn vừa qua, nhưng khoa chiêm tinh đă nói rằng cuộc đời con chỉ kết thúc trong nhiều năm sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của những người mọi da đỏ (Mỹ Quốc). Trong giờ phút này, các sư săi đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ thiếu nhi vừa từ giă chúng ta. Nó đă chết ngay trong lúc tai nạn.
Những người bước qua cơi giới bên kia cửa tử làm cho tôi mong ước số phận của họ. Kinh nghiệm của tôi đă giúp cho tôi nhận định rằng những cuộc ngao du trên cơi Trung giới thật rất là thú vị. Nhưng tôi nhớ lại rằng tuy không ai thích cái trường học ở thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi... Cuộc đời trên thế gian là ǵ, nếu không phải là một trường học? Và đó là một trường học rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: "Trong trường học này, tôi đă bị gẫy mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục học nữa!"
Trong hai tuần lễ, sự học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết hơn lúc b́nh thường. Người ta nói rằng đó là để cho tôi quên đi, đừng nghĩ đến cái xương gẫy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những chỗ trặt xương đă được hàn gắn lại như cũ, nhưng tôi cảm thấy khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn c̣n thấy đau. Một buổi sáng, vừa bước vào pḥng, tôi thấy Minh Gia Đại Đức đang đọc một bức thơ. Sư Phụ ngước mắt nh́n tôi và nói:
- Lâm Bá, chúng ta có một gói dược thảo để gởi tặng cho thân mẫu của con. Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng ngày mai, và con có thể ở lại nhà trọn ngày.
Tôi đáp:
- Con chắc rằng cha con không muốn gặp con. Cha con không nh́n con ngày nọ, khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu thang của điện Potala.
- Đó là một việc rất thông thường. Cha con biết con vừa có cái hân hạnh được đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến. Bởi đó, người không thể nói chuyện với con trong khi vắng mặt Thầy, v́ chính đấng Khôn Lường đă đích thân phú thác gửi gấm con cho Thầy vậy.
Sư Phụ nh́n tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói:
- Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đă đi Gyangtsé trong vài ngày.
Qua ngày hôm sau, Sư Phụ chăm chú nh́n tôi từ đầu đến chân và nói:
- Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề, và điều đó rất quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một khăn choàng cổ, con đừng quên rằng con là một vị Lạt Ma, là người phải tôn trọng mọi quy tắc. Trước kia, con đi bộ đến đây. Bây giờ, con hăy cưỡi một trong những con ngựa bạch quư nhất của tu viện để trở về nhà. Con hăy cưỡi con ngựa của thầy, nó đang cần phải vận động.
Sư Phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một cái khăn choàng bằng lụa theo truyền thống để tỏ ḷng cung kính. Tôi nh́n kỹ cái khăn choàng một cách hoài nghi, v́ không nên để cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà biếu. Sau cùng, tôi quyết định cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra trước khi tới nhà cha mẹ tôi.
Tôi giục ngựa xuống chân đồi và noi theo con đường Lingkhor như thường lệ. Sau khi đi độ nửa giờ, trải qua nhiều con đường ở ngoại ô thành phố, tôi nh́n thấy ở đằng xa cái cổng lớn của nhà tôi. Khi các gia nô nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi cho ngựa đi qua cổng để vào tận sân nhà với một hy vọng thầm kín rằng tôi sẽ không bị té rớt xuống yên ngựa. Rất may mắn thay, một người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây cương trong khi tôi nhảy xuống đất.
Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi: Chúng tôi bèn trao đổi khăn choàng một cách lễ nghi trịnh trọng. Y nói: "Thưa ngài Lạt Ma y sĩ và đại gia công tử, xin công tử hăy ban ân huệ cho gia đ́nh và toàn thể nhân viên cư ngụ trong nhà này."
Tôi đáp:
- Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức khỏe trường cửu.
- Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lịnh cho tôi đưa công tử vào.
Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn đường (làm như tôi không biết đường đi một ḿnh), tôi rút cái khăn choàng ra và phủ ngoài cái bao da một cách cẩn thận. Chúng tôi bước lên lầu trên để vào pḥng khách của mẹ tôi. Tôi thầm nghĩ: "Người ta không bao giờ để cho tôi đến đây khi tôi c̣n nhỏ." Nhưng ư ngĩ đó liền nhường chỗ cho ư muốn mănh liệt là chạy vắt gị lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng pḥng khách của mẹ tôi đầy những khách... đàn bà!
Trong khi tôi c̣n đang lúng túng, tiến thóai lưỡng nan, th́ mẹ tôi đă bước đến gần và tiếp đón tôi trước:
- Đại đức Lạt Ma, hỡi con, đấng Khôn Lường đă ban danh dự cho con rất nhiều. Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được nghe chính miệng con kể lại cái vinh dự ấy.
Tôi đáp:
- Thưa mẫu thân, những quy luật trong ḍng tu ngăn cấm con không được tiết lộ những ǵ ngài đă nói với con. Minh Gia Đại Đức có truyền cho đem kính dâng mẹ bao dược thảo này cùng với một khăn choàng bằng lụa.
- Hỡi con yêu quí, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng xa xôi để được nghe chuyện trong cung điện của đấng Thậm Thâm và nghe nói chuyện về ngài. Phải chăng ngài vẫn thương xem những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử dụng một thứ kiếng có thể xuyên qua vách tường nhà?
Tôi đáp:
- Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt Ma sĩ nghèo, vừa mới xuống núi, và thật là không xứng đáng để nói chuyện về đức Chưởng Giáo của ḍng tu chúng con. Con chỉ là một kẻ chuyển giao thư tín mà thôi.
Lúc ấy, một thiếu phụ bước đến gần tôi và nói:
- Đại Đức Lạt Ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây!
Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, v́ chị tôi đă trở nên một thiếu nữ dậy th́, nở nang trọn vẹn và... rất đẹp. Tôi cảm thấy e dè sợ hăi. Tất cả là tám hay chín vị phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá nhiều đối với tôi. Những người nam phái th́ tôi đă biết cách xử thế đối với họ c̣n nữ giới! Họ nh́n tôi với những cặp mắt ṭ ṃ, dường như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Tôi chỉ c̣n có một giải pháp: Thoát thân. Tôi nói:
- Thưa mẫu thân, con đă chuyển giao thông điệp và quà tặng của Sư Phụ con xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận hằng ngày. Con hăy c̣n đau và con có nhiều việc phải làm.
Nói xong, tôi chào từ giă tất cả các quan khách, và quay lưng đi mau với một tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. V́ quản gia đă trở lại văn pḥng của người, và một người giữ ngựa dắt ngựa đến cho tôi. Tôi nói:
- Anh hăy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, v́ tôi mới bị găy xương ở tay và vai, và tôi không thể lên yên ngựa một ḿnh.
Người giữ cửa mở cổng cho tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất hiện trên bao lơn và nh́n theo sau lưng tôi.
Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ nh́n tôi vào tận mắt và hỏi:
- Lâm Bá, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao?
Tôi đáp:
- Bạch Sư Phụ, ở nhà, con gặp một toán phụ nữ muốn nghe chuyện đấng Thậm Thâm và muốn biết những ǵ ngài đă nói với con. Con đáp rằng trong ḍng tu của chúng ta nghiêm cấm con tiết lộ cho họ nghe bất cứ chuyện ǵ. Và con đă chạy thoát thân... Sư Phụ hăy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều trố mắt nh́n con như cọp ŕnh mồi!
Sư Phụ tôi phát tiếng cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự vui vẻ của Sư Phụ th́ người lại càng cười gịn giă hơn nữa. Người nói:
- Đấng Khôn Lường muốn biết con có muốn ở lại tu viện suốt đời hay con c̣n nghĩ đến việc trở về với gia đ́nh.
Đời sống tu viện đă làm đảo lộn mọi quan niệm của chúng tôi về đời sống xă hội; hồi đó tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ lùng mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp:
- Gia đ́nh con là ở đây. Con không muốn trở về nhà. Tất cả những bà mệnh phụ ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ trơn bóng làm cho con phát ngấy... Và họ nh́n con với một vẻ mặt lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể ở làng Sho trước một con trừu trúng giải nhất trong một cuộc triển lăm nông nghiệp! Họ thốt ra những tiến kêu chát chúa và những màu sắc trên thể vía của họ thật là... dễ sợ! Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng bảo con trở về nhà nữa!
Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng đức Đạt Lai Lạt Ma rất chú ư đến tôi, và đă quyết định cho tôi trở về nhà một hai ngày mỗi khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân trong gia đ́nh.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 232 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 10:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

SỬ DỤNG THẦN NHĂN

Chương Mười Hai

 


Một buổi sáng, tôi đang lúc rảnh rang, Minh Gia Đại Đức đến t́m tôi và nói:
- Chúng ta hăy đi chơi một ṿng. Thầy có một việc để cho con làm.
Tôi rất vui mừng với ư nghĩ được đi dạo chơi với Sư Phụ. Chúng tôi xuống dưới chân đồi, và sau khi đi ṿng quanh nhiều đường phố ở thủ đô Lhasa, chúng tôi đi ngang qua trụ sở của Phái Bộ Ngoại Giao Trung Hoa. Sư Phụ tôi vừa đi vừa nói:
- Một phái đoàn Trung Hoa vừa mới đến, như thầy vừa nói chuyện với con. Chúng ta hăy nh́n qua mỗi nhân viên phái đoàn để xem họ là người như thế nào.
Ấn tượng của tôi đầu tiên rơ ràng là không thuận lợi. Ở bên trong trụ sở của phái bộ, các nhân viên Trung Hoa đi bách bộ qua lại trong các pḥng, vẻ mặt tự đắc, hoặc đang lui cui mở các rương trắp, và các thùng đồ đạc. Tôi nhận thấy họ có một số khí giới khá nhiều, đủ để vơ trang một đạo binh nhỏ. Vóc người nhỏ thó của tôi cho phép tôi mở một cuộc "Dọ thám" dễ dàng hơn một người lớn. Thật vậy, tôi đă lén ḅ lại gần một cửa sổ mở, xuyên qua đó tôi có thể ŕnh xem họ cho đến khi một người trong bọn họ ngẩng đầu lên. Khi người ấy nh́n thấy tôi, y nổi giận thốt lên một câu nguyền rủa bằng tiếng...Trung Hoa, có tính cách xúc phạm đến tổ tiên của tôi. Y nh́n quanh t́m một vật ǵ để ném tôi, nhưng tôi rút lui trước khi y có thể hạ thủ.
Trên đường về, tôi nói với Minh Gia Đại Đức:
- Sư Phụ biết không, họ có những vầng hào quang màu đỏ! Và họ có một lối vung dao găm rất dễ sợ!
Sư Phụ tôi có vẻ trầm tư trên suốt con đường về. Sau buổi ăn chiều, người nói với tôi:
- Thầy đă suy nghĩ nhiều về phái đoàn Trung Hoa, và thầy sẽ đề nghị với đấng Khôn Lường (một trong những danh từ sùng kính để chỉ đức Đạt Lai Lạt Ma) hăy sử dụng năng khiếu Thần Nhăn của con. Trong trường hợp đó, con có thể quan sát họ xuyên qua một bức b́nh phong được chăng?
Tôi đáp:
- Nếu Sư Phụ nghĩ rằng con có thể, th́ chắc chắn con sẽ làm được.
Tôi không gặp Sư Phụ tôi suốt cả ngày hôm sau; qua ngày kế đó, người để tôi làm việc suốt buổi sáng và sau buổi ăn trưa, người nói với tôi:
- Lâm Bá, trưa nay chúng ta sẽ đi chơi một ṿng. Đây là một cái khăn choàng tốt hảo hạng. Không phải cần có thần thông mới biết rằng chúng ta sẽ đi đâu. Con có mười phút để chuẩn bị, rồi sau đó hăy đến gặp thầy. Thầy cần phải nói trước với vị Sử Trưởng.
Một lần nữa, chúng tôi lại noi theo con đường cheo leo đi xuống chân núi. Một con đường tắt xuyên qua sườn núi phía tây nam đưa chúng tôi đến vườn Ngọc Uyển gần bên điện Potala rất mau chóng. Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích khu vườn này, tại đây Ngài thường đến thượng ngoạn trong những giờ nhàn rỗi. Trong vườn Ngọc Uyển có một cái hồ sen nhân tạo rất đẹp, với hai cù lao, trên mỗi cù lao có dựng lên một nơi nhà mát để nghĩ hè. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường đến những cù lao trên hồ sen này, tại đây Ngài tham thiền nhiều giờ mỗi ngày. Bên trong vườn Ngọc Uyển, có dinh trại của toán Ngự Lâm Quân gồm độ năm trăm người có phận sự bảo vệ an ninh cho Ngài. Đó là nơi tôi cùng với Sư Phụ tôi đến viếng lần đầu tiên trong ngày hôm đó.
Sau khi đă đi qua những khu vườn sầm uất, chúng tôi bước qua một cánh cửa rất đẹp đưa vào một khoảnh vườn bên trong. Những thứ chim đủ loại lông cánh đủ màu sặc sỡ đang ăn dưới đất. Chúng không màng nh́n thầy tṛ tôi, nên chúng tôi cũng không muốn làm quấy rầy chúng. Mặt hồ phẳng lặng chiếu sáng như một tấm gương trong. Con đường lót đá đă được quét vôi trắng và chúng tôi noi theo để đi tới cái cù lao xa nhất, tại đây đấng Khôn Lường đang đắm ch́m trong một cơn thiền định thâm sâu. Khi chúng tôi bước đến gần, Ngài ngước mắt lên và mỉm cười với chúng tôi. Chúng tôi liền qú xuống, đặt cái khăn choàng dưới chân Ngài và Ngài mời chúng tôi ngồi xuống trước mặt. Kế đó Ngài gơ chuông để ra hiệu cho một vị Lạt Ma hầu cận dâng trà, một thủ tục thông thường trước khi bắt đầu mọi câu chuyện. Trong khi chờ đợi, Ngài nói chuyện với tôi về những loài thú cầm của Ngài nuôi trong vườn Ngọc Uyển và hứa sẽ cho tôi xem sau này.
Vị quan hầu cận dâng trà xong, vừa lui ra th́ đức Đạt Lai Lạt Ma nh́n tôi và nói:
- Đạo hữu Minh Gia có nói cho biết rằng con không ưa những hào quang của phái đoàn Trung Hoa. Người nói rằng tất cả bọn họ đều có mang đầy đủ khí giới. Trong các cuộc thử thách bí mật hay công khai trước đây, năng khiếu Thần Nhăn của con đă tỏ ra chính xác và không hề lầm lẫn. Vậy con nghĩ sao về những người ấy?
Câu hỏi của Ngài làm cho tôi bối rối. Tôi không thích nói cho ai nghe trừ phi với Sư Phụ tôi, những ǵ tôi nh́n thấy trong hào quang của thiên hạ, và những màu sắc ấy có ư nghĩa ǵ đối với tôi. Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu một người không thể nh́n thấy và tự diễn đạt lấy ư nghĩa các hào quang ấy cho riêng ḿnh th́ điều đó có nghĩa là người ấy không có cái định mệnh được biết những ǵ tôi biết. Nhưng làm sao tôi dám nói điều ấy với vị Nguyên Thủ quốc gia? Nhất là một vị Nguyên Thủ không có năng khiếu Thần Nhăn? Tôi bèn đáp:
- Vạn bạch Thái Tuế, con rất vụng về trong việc nh́n xem hào quang của người khác, và bởi đó con không đủ tư các cách xứng đáng để bày tỏ một ư kiến nào hết.
Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, v́ đấng Thậm Thâm lại nói tiếp:
- Con thuộc về thành phần những người bẩm sinh ra đă có những khả năng thiên phú. Những khả năng đó đă được phát triển nhờ sự luyện tập theo các pháp môn bí truyền. Con có bổn phận phải nói. Con đă được nuôi nấng dạy dỗ chỉ v́ mục đích đó mà thôi. Ta nghe đây.
- Vạn bạch Thái Tuế, những nhân viên trong phái đoàn Trung Hoa đều có những ư đồ rất sảo trá quỷ quyệt. Những màu sắc trong hào quang của họ biểu lộ một ư định lường gạt và phản bội.
Tôi không nói nhiều nữa, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ hai ḷng. Ngài nói:
- Tốt lắm, con đă lập lại đúng y như những lời con đă nói với đạo hữu Minh Gia. Ngày mai, con sẽ đứng núp phía sau tấm b́nh phong này và con sẽ quan sát phái đoàn Trung Hoa khi họ đến đây. Chúng ta cần biết rơ ư đồ của họ. Con hăy núp ngay bây giờ thử xem có ai nh́n thấy không?
Tôi bèn tuân lịnh đứng núp sau b́nh phong, các sư săi nô bộc cũng dời những con sư tử đá chận thêm ở phía ngoài để cho tôi được hoàn kín đáo. Người ta thử tập dượt qua một lần cuộc viếng thăm này, những vị Lạt Ma đóng vai tṛ của phái đoàn Trung Hoa. Họ cố gắng t́m ra chỗ tôi ẩn núp. Tôi nh́n thấy tư tưởng của một người trong bọn:
- Nếu ḿnh t́m thấy nó, ḿnh sẽ được thăng thưởng.
Nhưng rốt cuộc y cũng chẳng được ǵ, v́ y nh́n về phía khác. Sau cùng, đấng Thậm Thâm tỏ ư hài ḷng và gọi tôi. Sau vài phút nói chuyện, Ngài dặn chúng tôi hăy trở lại vào ngày hôm sau v́ phái đoàn Trung Hoa sẽ t́m cách bắt buộc Ngài kư một hiệp ước. Với ư nghĩ đó, chúng tôi từ biệt Ngài và trở về tu viện Chakpori.
Ngày hôm sau vào khoảng mười một giờ, chúng tôi đă có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp đón tôi với một nụ cười và nói rằng tôi phải ăn uống trước đă (điều này lúc nào tôi cũng sẵn sàng!) trước khi vào núp phía sau tấm b́nh phong. Theo lịnh Ngài, người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn thịnh soạn, với những đồ thực phẩm nhập cảng từ bên Ấn Độ, mà tôi chưa được biết tên gọi là ǵ. Điều mà tôi biết, là lần đầu tiên tôi được ăn một bữa ăn lạ miệng và hoàn toàn khác hẳn với các món ăn cũ rích là trà bơ, tsampa và củ cải; sau khi đă ăn uống no ḷng, tôi cảm thấy hăng hái hơn để có thể đương đầu với cái viễn cảnh phải ngồi yên bất dộng trong một thời gian. Sự ngồi yên bất đông hoàn toàn, điều kiện tất yếu của môn thiền định, không có ǵ là khó khăn đối với các vị Lạt Ma. Từ thưở ấu thơ, nói đúng ra là từ năm tôi lên bẩy, người ta đă tập cho tôi ngồi yên không cử động trong nhiều giờ. Để thực tập, người ta đặt một cái đèn thắp bằng bơ lên đầu tôi và tôi phải ngồi trong tư thế liên hoa cho đến khi chất bơ trong đèn đă cạn, tức là suốt mười hai giờ. Như vậy, ngồi yên không cử động suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ không phải là một điều khó.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng ngồi trong tư thế liên hoa đối diện với tôi, trên một chiếc ngai độ hai thước cao hơn mặt đất. Ngài ngồi yên không cử động; tôi cũng vậy. Th́nh ĺnh, những tiếng kêu và nhiều tiếng chào bằng tiếng Trung Hoa từ đằng xa vọng đến tai chúng tôi, sau đó tôi nghe nói rằng y phục của phái đoàn Trung Hoa có nhiều chỗ độn lên rất khả nghi, và người ta đă phải lục soát trong ḿnh họ để tước khí giới. Sau đó, dưới sự hướng dẫn của quân ngự lâm, họ được đưa vào nội cung và chừng tôi nh́n thấy họ noi theo con đường lót đá đi đến trước tư dinh. Một vị Lạt Ma cao cấp cất tiếng ngân nga: Om! Mani padme Hum, nhưng phái đoàn Trung Hoa, thay v́ phải lập lại câu châm ngôn ấy như nghi lễ bắt buộc, đă đáp lễ bằng tiếng Trung Hoa:
- A Di Đà Phật!
Từ chỗ tôi ẩn núp, tôi nh́n thấy hào quang của họ chiếu sáng. Tôi quan sát những màu sắc xám lợt thỉnh thoảng lại phóng ra những tia màu đỏ bầm, biểu lộ những gịng tư tưởng oán ghét, hận thù. Hào quang của họ có những lằn và những vệt ngang màu rất xấu xa, chớ không có những màu sắc trong sáng và tinh khiết của những tư tưởng thanh cao. Những hào quang màu sắc đục ngầu và xấu xí của họ biểu lộ những tâm hồn đầy dục vọng vật chất và tội lỗi. Đó chính là những người được diễn tả rất đúng bởi câu sáo ngữ "Khẩu Phật, tâm xà." Tôi nh́n đức Đạt Lai Lạt Ma, hào quang của Ngài biểu lộ sự buồn rầu, v́ Ngài đang nhớ lại cái thời kỳ xa xưa khi Ngài lưu vong sang sứ Trung Hoa. Tác phong của Ngài làm cho tôi rất cảm mến; xứ Tây Tạng chưa hề có một vị Quốc vương xứng đáng hơn Ngài. Ngài có một tính chất cương nghị, thậm chí có khi rất nóng nảy, v́ có những tia đỏ xẹt ngang qua hào quang của Ngài, nhưng lịch sự sẽ nhắc nhở rằng Ngài là vị Đạt Lai Lạt Ma cao cả nhất mà Ngài đă từng quên ḿnh trọn vẹn trong công việc phụng sự xứ sở. Tôi có một ḷng kính yêu thật sự đối Ngài và trong ḷng tôi Ngài chiếm được một ưu thế ngay sau Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi.
Cuộc hội kiến kéo dài mà không mang lại một kết quả hữu ích, v́ những người ấy đến đây không phải với tư cách là bạn mà là thù. Họ có những ư nghĩ đă định sẵn, cùng những phương pháp để thực hiện những ư đồ của họ. Họ muốn chiếm thêm đất đai lănh thổ, điều khiển nền chánh trị của Tây Tạng, và trên hết là... Vàng! Vàng đă từng là mục tiêu tham vọng của họ tự muôn đời, vàng có đến hằng bao nhiêu trăm tấn ở Tây Tạng, ở xứ này nó được coi như một loại kim khí linh thiêng. Theo sự tín ngưỡng của dân bản xứ, đào mỏ t́m vàng tức là làm mất đi cái khí thiêng của xứ sở, xúc phạm đến Thần Linh, nên không ai có ư định làm việc ấy. Ở Tây Tạng có những sông rạch ở đó người ta có thể đăi cát lấy vàng do gịng nước cuốn trôi xuống từ trên núi. Trong vùng Chang Tang, tôi đă thấy vàng đọng lại như cát ở các bờ suối. Thứ vàng này đem nấu tan ra, sẽ dùng làm đồ trang trí các đền thờ, v́ loại kim khí linh thiêng này tự nhiên là để dùng vào những mục đích linh thiêng. Những ngọn đèn thắp bằng bơ cũng làm toàn bằng vàng. Nhưng có điều là chất vàng quá mềm nên sau một thời gian các đồ dùng đều méo và mất h́nh thể một cách dễ dàng.
Diện tích xứ Tây Tạng lớn gấp bảy lần nước Pháp. Nhiều vùng rộng lớn vẫn chưa được thám hiểm và tôi được biết rằng ở đó người ta t́m ra rất nhiều vàng, bạc và uranium. Người Tây Tạng không bao giờ để cho người Tây Phương t́m đến các mỏ khoáng chất trong xứ họ, mặc dầu có những vận động ráo riết của những người này, v́ họ có một câu châm ngôn cổ nói rằng: "Ở đâu có người Tây Phương, là ở đó có chiến tranh." Trong quyển sách này, khi tôi nói đến những cái kèn vàng, đĩa vàng, và "Thi hài bọc vàng, " xin độc giả đừng nên quên rằng ở Tây Tạng, vàng không phải là một loại kim khí hiếm có mà là loại kim khí linh thiêng. Xứ Tây Tạng có thể là một kho tài nguyên phong phú vô tận mở rộng cửa cho toàn thể thế giới nếu nhân loại chịu hợp nhất và làm việc trong nền ḥa b́nh, thay v́ tự tiêu diệt lấy nhau trong cái ảo vọng tranh giành thế lực.
Một buổi sáng, tôi đang ngồi chép một bản kinh bút tự để đưa cho thợ khắc chữ, th́ Minh Gia Đại Đức đến t́m tôi và nói:
- Lâm Bá, con hăy gác lại việc ấy. Đấng Khôn Lường có cho gọi chúng ta đến vườn Ngọc Uyển để quan sát cái hào quang của một người ngoại quốc đến từ thế giới Phương Tây. Con hăy đi mau, v́ Ngài muốn nói chuyện riêng với chúng ta trước khi tiếp khách. Không cần đem theo khăn choàng và không cần nghi lễ chi cả. Con chỉ cần sửa soạn đi gấp, thế thôi!
Tôi nh́n Sư Phụ một giây và đáp:
- Bạch Sư Phụ, để con vào thay áo, rồi con sẽ sẵn sàng.
Tôi không mất nhiều thời giờ để sửa soạn y phục chỉnh tề. Chúng tôi bước ra khỏi tu viện và trong giây lát chúng tôi đă có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Nhưng quân canh gác vừa xua tay định bảo chúng tôi đi chỗ khác chơi, nhưng khi họ nh́n ra Minh Gia Đại Đức, họ liền thay đổi thái độ ngay tức khắc và mau mắn dẫn đường đưa chúng tôi vào nội cung, tại đây đức Đạt Lai Lạt Ma đă ngồi sẵn chờ đợi chúng tôi. Không có khăn choàng để làm lễ ra mắt, tôi cảm thấy tôi có vẻ vụng về lúng túng v́ tôi không biết dùng hai bàn tay tôi làm ǵ? Đấng Thậm Thâm vừa mỉm cười nh́n chúng tôi và nói:
- Minh Gia hăy an tọa, và con nữa, Lâm Bá. Quư vị đă không mất nhiều thời giờ.
Chúng tôi ngồi xuống và đợi Ngài mở lời trước. Ngài ngồi tĩnh tọa và định tâm trong một lúc, dường như để sắp đặt những tư tưởng của Ngài cho có trật tự. Kế đó, Ngài nói:
- Trước đây đă lâu, quân mọi lông đỏ (người Anh) đă xâm chiếm xứ sở chúng ta. Khi đó ta đi qua Mông Cổ, giai đoạn đầu của một chuyến viễn du dài hạn. Năm Canh Tuất (1910), quân Trung Hoa lại xâm lăng xứ chúng ta, cuộc xâm lăng này là hậu quả trực tiếp của cuộc tấn công của quân Anh. Lần này ta lại lên đường qua Ấn Độ và chính trong dịp đó ta đă gặp vị sứ thần Anh Quốc mà ta sẽ tiếp kiến ngày hôm nay. Ta nói những điều đó là để cho con, Lâm Bá, v́ Minh Gia đă tháp tùng theo ta trong những dịp xuất ngoại đó. Người Anh đă hứa hẹn với ta nhiều điều mà rốt cuộc họ không giữ lời hứa. Hôm nay, ta muốn biết xem người sứ giả này có thành thật hay không. Lâm Bá, con sẽ không hiểu những lời nói của ông ta; như vậy, những lời ấy sẽ không ảnh hưởng ǵ đến con. Con hăy đứng núp sau tấm b́nh phong này, con có thể quan sát mọi sự mà không ai biết. Con hăy nh́n xem hào quang của ông ta và đưa ra nhận xét của con như Sư Phụ con đă dạy. Bây giờ, Minh Gia đạo hữu hăy chỉ chỗ trú ẩn cho Lâm Bá, v́ y đă quen thuộc với sự chỉ dẫn của đạo hữu hơn là của ta, và ta tin chắc rằng y coi đạo hữu c̣n cao hơn vị Đạt Lai Lạt Ma nữa ḱa!
Núp phía sau b́nh phong, tôi không ngớt nh́n chung quanh, quan sát các loài chim và các nhánh cây đẩy đưa theo chiều gió. Thỉnh thoảng tôi lén nhai vài miếng tsampa mà tôi đă đem theo. Th́nh ĺnh có tiếng động mạnh của cánh cửa vườn trong: Những vị Lạt Ma mặc áo vàng trong nhóm các quan hầu cận của đức Đạt Lai Lạt Ma bước vào cùng với một người da trắng ăn mặc một cách thật lố bịch dị kỳ. Tôi phải khó khăn lắm mới giữ được sự yên tĩnh, nếu không tôi sẽ bật cười đến chết mất thôi. Người ấy tác cao lớn và hơi gầy. Ông ta có mái tóc trắng, cặp lông mày thưa, đôi mắt rất sâu, và một đôi môi khép chặt, có vẻ đanh thép.
Nhưng c̣n bộ y phục của người này! Nó được cắt trong một loại hàng màu xanh đậm, phía trước có một hàng nút bằng đồng bóng loáng. Bộ y phục này chắc hẳn là công tŕnh của một thợ may rất dở, v́ cái cổ áo quá lớn đến nỗi người ta phải lật nó ra ngoài, ngoài ra lại c̣n vài miếng vải vuông vá lên hai bên hông. Tôi tự hỏi có phải chăng người Tây Phương cũng ăn mặc vá từng miếng như áo cà sa của các sư săi bên phương Đông theo gương đức Phật ngày xưa? Xin nói thêm rằng hồi đó, tôi chưa biết ǵ về cái cổ áo lật (rờ ve) và cái túi áo tây!
Ở Tây Tạng, những người nho nhă không phải là dân lao động đều mặc áo rộng, tay rất dài che lấp cả hai bàn tay. Trái lại, tay áo của người sứ giả này rất ngắn và chỉ dài đến cườm tay thôi. Tôi thầm nghĩ:
- Tuy vậy, chắc người này không phải là một bác thợ cầy v́ hai bàn tay của ông ta có vẻ rất mềm mại. Có lẽ là ông ta không biết cách ăn mặc, thế thôi...
Cái áo của ông ta chỉ dài đến nửa thân ḿnh. Tôi thần nghĩ chắc là ông ta nghèo lắm. Quần của ông ta mặc quá chật và rơ ràng là quá dài, v́ gấu quần lại vén ngược lên. Tôi tự nghĩ:
- "Trong bộ y phục này, chắc hẳn là ông ta cảm thấy lúng túng trước mặt đấng Thậm Thâm." Tôi lại tự hỏi rằng không biết có người nào cũng vừa tầm thước với ông, có thể cho ông ta mượn đỡ một bộ y phục thích đáng.
Khi đó, tôi nh́n hai bàn chân ông ấy. Thật là một điều rất lạ lùng: Hai bàn chân ông ta bị nhốt trong một vật rất dị kỳ màu đen và bóng loáng dường như là được bao phủ bằng một lớp nước đá! Những vật này thật là khác hẳn với những đôi ủng bằng nỉ của người Tây Tạng chúng tôi thường dùng. Tôi chưa hề thấy bao giờ những vật dị kỳ như thế!
Tôi ghi nhận những màu sắc trên hào quang của ông ta, cùng với sự kết luận của tôi. Vị sứ thần đôi khi nói chuyện bằng tiếng Tây Tạng, với một giọng khá đúng đối với một ngoại quốc, rồi lại thốt ra một tràng âm thanh lạ lùng mà tôi chưa hề nghe bao giờ. Về sau, người ta mới nói cho tôi biết rằng đó là tiếng Anh.
Khi ông ta tḥ tay vào cái túi vá ở bên hông và lấy ra một mảnh vải trắng nhỏ, tôi lấy làm ngạc nhiên. Dưới đôi mắt kinh ngạc của tôi, ông ta đưa mảnh vải trắng ấy lên trước mũi và miệng phát ra một tiếng động giống như tiếng kèn. Tôi thầm nghĩ:
- "Chắc hẳn đó là một cách chào đấng Khôn Lường!" (Người Tây Tạng không có thói quen dùng khăn tay.) Ông ta "Chào" xong, liền cẩn thận đút mảnh vải trắng vào chỗ cũ. Kế đó, ông ta đưa tay vào bên trong áo rồi lấy ra nhiều tờ giấy thuộc một loại mà tôi chưa hề thấy bao giờ. Thứ giấy bên Tây Tạng hơi dầy, nhám và màu vàng, c̣n loại giấy này trắng mỏng và láng. Tôi tự hỏi:
- "Làm sao người ta có thể viết trên một tờ giấy như vậy? Không có ǵ trên đó để giữ lại cây viết ch́, v́ giấy trơn quá!"
Khi đó, người khách lấy ra một cây viết và viết lên trên giấy những hàng chữ nguệch ngoạc không thể tưởng tượng. Tôi cho rằng ông ta không biết viết, có lẽ ông ta chỉ làm bộ cho có dáng vậy thôi!
Ông ta chắc chắn là có tật nên bắt buộc phải ngồi trên một tấm gỗ đặt trên bốn chân, và để hai chân tḥng xuống đất. Xương sống ông ta chắc bị tật nên ông ta phải dựa lưng vào hai mảnh gỗ đóng chặt vào phía sau chỗ ngồi. Tôi cảm thấy động ḷng thương hại ông ta: Không những quần áo ông ta chật hẹp và ngắn cũn cỡn trông thật buồn cười, ông ta không biết viết và thỉnh thoảng lại làm ra vẻ lịch sự bằng cách thổi một tiếng vào một thứ kèn bằng vải, mà ông ta lại c̣n không thể ngồi vững vàng như mọi người, mà phải dựa lưng cho đỡ mỏi và để hai chân tḥng xuống lủng lẳng trong khoảng không! Ông cử động luôn luôn, ngồi chéo chân rồi lại bỏ chân xuống. Th́nh ĺnh, tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà thấy ông ta đưa chân trái lên, bàn chân chỉa thẳng về phía đức Đạt Lai Lạt Ma, một cử chỉ vô cùng hỗn láo và vô lễ đối với người Tây Tạng. Nhưng có lẽ ông ta chợt nghĩ ra điều đó, v́ ông ta lại đổi qua tư thế khác. Đấng Thậm Thâm dành cho ông ta một sự tiếp đăi trọng hậu bằng cách cũng ngồi trên một cái ghế gỗ, và cũng để hai chân tḥng xuống như ông ta. Vị sứ giả này có một cái tên rất lạ Charles A. Bell, có nghĩa là "Cái chuông." Những màu sắc trên hào quang của ông ta biểu lộ một t́ng trạng sức khỏe suy kém: Có lẽ khí hậu của sứ này không hạp với thể chất của ông ta. Ông ta dường như thật t́nh muốn giúp đỡ, phụng sự, nhưng theo những màu sắc trên hào quang cho thấy th́ ông ta hiển nhiên là không muốn làm một việc mạo hiểm có thể liên lụy đến thân danh ḿnh, nếu ông ta làm mất ḷng chính phủ Anh. Ông ta muốn áp dụng một chánh sách nào đó, nhưng v́ chính phủ Anh không chịu nghe theo, nên ông ta chỉ c̣n cách là hy vọng rằng tương lai sẽ chứng minh cho sự thiện chí của ḿnh.
Chúng tôi đă có những tài liệu chính xác về vị sứ thần Charles Bell. Chúng tôi đă thu nhập được những dữ kiện cần thiết, ngày sinh tháng đẻ, cùng những điểm quan trọng trong đời ông ta, nói tóm lại là tất cả những ǵ có thể giúp cho chúng tôi tiên đoán được tương lai của ông ta. Các nhà Chiêm Tinh đă phát hiện rằng trong một tiền kiếp, ông ta đă sống ở Tây Tạng và trong kiếp đó ông ta đă mong ước được đầu thai qua bên Tây Phương, với hy vọng là sẽ góp phần vào công việc tạo nên nhịp cầu thông cảm giữa Đông phương và Tây phương. Gần đây, có người cho tôi hay rằng chính ông ta nói đến vấn đề ấy trong một của những tác phẩm của ḿnh. Chúng tôi tin chắc rằng nếu ông ta có thể ảnh hưởng đến chánh phủ Anh như ư ông ta muốn, th́ sau này đă không xảy ra cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng này đă được tiên tri từ trước, và những lời tiên tri bao giờ cũng được thực hiện.
Chánh phủ Anh có vẻ rất ngờ vực: Họ sợ rằng xứ Tây Tạng sẽ liên minh với Nga Xô, điều này thật không có lợi cho họ chút nào. Anh Quốc từ chối không chịu kư một hiệp ước với Tây Tạng và đồng thời cũng không muốn cho xứ này thiết lập những bang giao thân hữu với những nước khác. Xứ Sikkim, xứ Bhutan, và các nước khác đều có thể kư hiệp ước với Anh Quốc, nhưng Tây Tạng th́ không. Bởi đó, người Anh bắt đầu tháo mồ hôi hột lo thảo kế hoạch để xâm chiếm lănh thổ xứ Tây Tạng. Sứ giả Charles Bell có mặt tại chỗ vẫn biết rằng chánh phủ Tây Tạng không hề muốn liên kết với bất cứ một quốc gia nào. Họ chỉ muốn sống tự do, độc lập, và tránh mọi tiếp xúc với người ngoại quốc, v́ những người này trong quá khứ chỉ có đem lại cho họ những tai họa tàn phá và đau khổ.
Đấng Khôn Lường tỏ vẻ rất hài ḷng khi tôi tŕnh bày những điều nhận xét của tôi, sau khi sứ giả Bell đă lui gót. Nhưng Ngài chỉ nghĩ đến việc bắt tôi phải làm việc nhiều hơn. Ngài nói:
- À, phải đấy, chúng ta cần phát triển khả năng của con nhiều hơn nữa. Khả năng đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều khi con sống ở các xứ phương xa. Chúng ta sẽ để cho con thụ huấn bằng một phương pháp thôi miên ráo riết hơn, để cho con được thâu nhập một số kiến thức tối đa.
Ngài gơ chuông gọi quan hầu cận và nói:
- Ta muốn gặp Minh Gia Đại Đức. Hăy mời người vào ngay lập tức.
Vài phút sau, Sư Phụ tôi đă khoan thai bước đến. Tôi tự hỏi ai là người có thể hối thúc Sư Phụ tôi đi mau! Nhưng v́ đức Đạt Lai Lạt Ma coi Sư Phụ tôi như một bạn hữu, nên Ngài không muốn hối thúc người.
Sư Phụ ngồi gần bên tôi, trước mặt đấng Thậm Thâm. Một người hầu cận mau mắn dâng trà và vài món thực phẩm của Ấn Độ. Khi chúng tôi đă an tọa đức Đạt Lai Lạt Ma cất tiếng nói:
- Hỡi Minh Gia đạo huynh, đạo huynh đă không lầm, v́ Lâm Bá rất giỏi. Y có thể tiến bộ hơn nữa, và nhất định phải tiến. Vậy Đạo huynh hăy lấy mọi quyết định cần thiết để cho y được một sự thụ huấn nhanh chóng và toàn hảo đến mức tối đa. Đạo huynh hăy sử dụng mọi tất cả mọi phương tiện có sẵn, v́, như chúng ta thường được cho biết trước, những ngày đen tối và tai họa dồn dập sẽ đến với xứ sở chúng ta, nên chúng ta cần có một người tài giỏi có thể biên soạn những bộ kinh sách Huyền Môn cổ truyền.
Như thế, hằng ngày tôi càng bận rộn hơn với nhiều công việc. Từ đó, tôi thường được gọi gấp vào điện để "Nhận xét" những hào quang các vị thượng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tôi đă trở nên một nhân vật quen thuộc của điện Potala và vườn Ngọc Uyển. Ở điện Potala, tôi có thể sử dụng những ống viễn vọng kính mà tôi rất thích. Một trong những ống kính này, một loại kính lớn để xem thiên văn dựng trên một cái giá có ba chân, làm tôi thích thú nhất và tôi đă từng trải qua nhiều giờ để quan sát mặt trăng và các bầu tinh tú cho đến khuya.
Cùng với Minh Gia Đại Đức, tôi thường đến Lhasa để nh́n xem nhân vật của thủ đô. Với những năng khiếu thần thông siêu đẳng và những kinh nghiệm rộng răi của Sư Phụ về người và vật, người có thể kiểm sát được những nhận xét của tôi.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 233 of 2534: Đă gửi: 05 June 2008 lúc 10:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI ĐƯỢC TẤN PHONG LẠT MA

Chương Mười Ba

 

Chính trong thời kỳ này tôi được thụ huấn ráo riết về phương pháp xuất hồn hay xuất vía để đi chu du trên cơi trung giới, trong khi đó linh hồn rời khỏi thể xác và chỉ dính liền với nó và sự sống phàm trần bằng một sợi dây bạc. Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra th́ tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cơi vô h́nh bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hay biết, c̣n các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể xuất hồn đi chu du khắp mọi nơi tùy ư muốn, nhờ đó họ có thể nhớ tất cả những ǵ họ đă thấy và làm, cùng những nơi nào họ đă đến viếng. Bí thuật này đă mất đi ở phương Tây, bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người tin rằng họ đă trải qua một "Giấc mộng."
Tất cả các xứ đều biết về việc đi chu du bằng thể vía. Ở Anh Quốc, những nhà nữ phù thủy đă từng nổi tiếng là biết "Bay". Ở khắp nơi trên thế giới, người ta đă từng biết về những vấn đề này, dẫu rằng sự hiểu biết này đă mai một với thời gian và mất đi trong kư ức loài người. Người ta đă tập luyện cho tôi có thể xuất hồn đi ngao du bằng thể Vía cũng ở trong tầm tay của tất cả mọi người.
Một bí thuật khác có thể học được một cách dễ dàng là khoa thần giao cách cảm, nhưng với điều kiện là không nên biểu diễn nó ở những nơi hí trường hoặc những nơi công cộng. Thật là một điều đáng mừng mà thấy rằng người ta đă bắt đầu nh́n nhận khoa này. Chúng tôi cũng thực hành cả khoa thôi miên. Tôi đă thực hành nhiều cuộc giải phẫu quan trọng cho những bịnh nhân được đặt trong trường hợp cắt bỏ một chân chẳng hạn. Bịnh nhân không cảm thấy ǵ, không đau đớn chi hết và khi thức tỉnh, t́nh trạng chung của họ c̣n khả quan hơn là nếu họ bị chụp thuốc mê theo phương pháp cổ điển. H́nh như bên Anh Quốc hiện nay người ta đă bắt đầu áp dụng khoa thôi miên trong một vài trường hợp giải phẫu.
Thuật tàng h́nh cũng là một môn bí thuật khác nữa trong chương tŕnh học Đạo của tôi. Cũng may mà bí thuật này chỉ được truyền dạy cho một thiểu số người rất hiếm thuộc về thành phần ưu tú. Nguyên tắc của nó rất giản dị, nhưng sự thực hành th́ rất khó. Ta hăy thử nghĩ đến những ǵ làm cho ta chú ư: Một âm thanh, một vật ǵ th́nh ĺnh cử động, hay một màu sắc ḷe loẹt. Những âm thanh và cử động mau lẹ làm khiêu gợi sự chú ư của mọi người, nó làm cho ta phải lưu tâm để nh́n xem đó là vật ǵ? Trái lại một người ngồi yên bất động không bị nh́n thấy dễ dàng như vậy, cũng như những người mà ta đă quá quen thuộc. Thí dụ như người đem thơ; thường khi người ta đă nhận được thư tín từ buổi sáng, nhưng lại nói:
- Không có người nào, tuyệt đối không có ai đă đến đây.
Nếu quả đúng như vậy, th́ thư tín đă được đem lại bằng cách nào? Phải chăng bởi một người vô h́nh? Hay bởi một người mà sự có mặt đă quá quen thuộc đối với ta đến nỗi thật sự ta không "nh́n" thấy y, hay không "cảm nhận" được y? (Một cảnh binh luôn luôn dễ bị nh́n thấy v́ con người thường có một lương tâm không được yên ổn). Muốn tàng h́nh, người ta không nên hành động ǵ và phải chận đứng mọi luồng sóng tư tưởng xuất phát ra từ bộ óc. Nếu người ta để cho bộ óc hoạt động, nghĩa là nếu người ta suy nghĩ, tư tưởng, th́ những người chung quanh ta trở nên ư thức được sự có mặt của ta bằng thần giao cách cảm (tức là nh́n thấy ta) và ta không tàng h́nh được.
Ở Tây Tạng, có những người có thể tàng h́nh tùy ư muốn, bởi v́ họ có thể che giấu những luồng sóng tư tưởng của họ. Cũng may mà những người ấy chỉ gồm một thiểu số rất ít.
Thuật khinh thân cũng là một bí thuật khác nữa, và đôi khi nó được thực hành như một phép tập luyện kỹ thuật. Đó là phương pháp di chuyển bất tiện v́ nó đ̣i hỏi quá nhiều cố gắng. Người hành giả chọn cách di chuyển bằng thể Vía, cách này nhẹ nhàng ít khó khăn hơn, với điều kiện là phải có thầy giỏi chỉ dẫn. Đó là trường hợp của tôi: Nhờ vậy nên tôi có thể xuất hồn đi ngao du các cơi tùy ư muốn. Một mặt khác, mặc dầu những cố gắng khổ luyện là công phu ráo riết, tôi cũng không thể tàng h́nh được. Làm thế nào để biến mất dạng đúng vào lúc người ta muốn bắt buộc tôi làm một việc mà tôi không thích, hẳn là cái đặc ân của thánh thần ban cho: Nhưng than ôi! Các ngài vẫn từ chối không ban cho tôi cái ân huệ ấy! Tôi cũng không có thiên tư về âm nhạc, như tôi đă nói trước đây. Tôi chỉ vừa mở miệng hát là đủ làm cho vị Nhạc Sư nổi trận lôi đ́nh, quát tháo ầm ĩ, nhưng cơn giận này c̣n chưa là bao nhiêu so với cơn náo loạn mà tôi gây ra một ngày nọ. Trong khi tập đánh chụp chơa, một loại nhạc khí mà tôi cho là bất cứ ai cũng có thể chơi được, không biết tôi vụng về ra sao mà vô t́nh tôi chụp ngay cái đầu trọc của một sư săi ngồi gần bên! Một cơn xúc động và phản đối ầm ĩ đă diễn ra ngay sau khi đó. Từ đó, người ta yêu cầu tôi một cách thẳng thắn là tôi hăy nên giới hạn những sinh hoạt của tôi trong lănh vực Thần Nhăn và y khoa mà thôi!
Chúng tôi cũng thực hành rất nhiều về pháp môn Yoga, một khoa học rất quan trọng có thể cải tiến con người đến một mức độ phi thường. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng pháp môn Yoga không phải để dành cho người Tây phương, trừ phi người ta đem vào đó rất nhiều sự thay đổi thích hợp với lối sinh hoạt và tính chất của người phương Tây. Pháp môn này đă quen thuộc với người Tây Tạng từ nhiều thế kỷ; họ đă quen tập luyện những tư thế Yoga kể từ thời thơ ấu. Những thân thể, tứ chi, gân xương, bắp thịt của họ đă được tập luyện thần thục. Trái lại, người Tây phương thử bắt chước tập những tư thế đó, sẽ gặp nhiều sự hiểm nguy nhất là nếu họ đă lớn tuổi. C̣n nói phép luyện hơi thở, th́ đó cũng là một điều rất nguy hiểm.
Tập thở theo phương pháp nhất định: đó là cái bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng, cần lặp lại một lần nữa rằng phép luyện khí công có thể có hại, nếu không nói là tối nguy hiểm đến tính mạng, trừ phi người hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm. Nhiều du khách đến viếng xứ này có viết truyện du kư, nói về những vị Lạt Ma trổ thuật phi hành, họ có thể kiểm soát trọng lượng thân thể họ (đây không phải là thuật khinh thân) và chạy hết tốc lực trong nhiều giờ, hai chân họ ít khi chấm đất. Thuật phi hành đó đ̣i hỏi một công phu tập luyện lâu dài, và nhà phi hành phải tự đặt ḿnh trong một trạng thái bán thôi miên. Buổi chiều là giờ tốt nhất để tập luyện v́ hành giả có thể nhắm hướng sao mà chạy; mặt đất phải bằng phẳng, không chướng ngại để khỏi làm gián đoạn trạng thái thôi miên. Hành giả chạy như người mộng du . Y "h́nh dung" cái mục tiêu hành tŕnh, mà y giữ luôn luôn tỏ rạng trước con Mắt Thần thứ ba của y bằng cách niệm không ngừng một câu thần chú đặc biệt. Y có thể chạy suốt nhiều giờ mà không cảm thấy mệt mỏi. Phương pháp này chỉ tiện lợi hơn cách xuất vía trên một điểm duy nhất. Trong phép xuất vía, th́ linh hồn đi ngao du các cơi; nó không thể mang theo những đồ vật dụng tùy thân như quần áo, giấy tờ, chẳng hạn. Trái lại, nhà phi hành có thể đem theo một số hành lư b́nh thường, nhưng y lại có những sự bất tiện khác.
Nhờ họ biết cách hô hấp nên các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể ngồi trần truồng trên những vùng núi non đầy băng tuyết ở chiều cao độ năm hay sáu ngàn thước, trong khi đó họ cảm thấy nóng đến nỗi nước đá tan ră và họ tháo mồ hôi ra như tắm.
Bạn có bao giờ thử nhắc lên một vật nặng, sau khi đă thở hết khí trời trong phổi? Bạn hăy thử xem rồi bạn sẽ thấy rằng bạn không thể nào làm được. Nhưng nếu bạn hít vào một hơi rất sâu và giữ lại hơi thở trong phổi bạn có thể nhắc vật nặng ấy lên dễ dàng. Trong trường hợp bạn cảm thấy sợ sệt hay nóng giận, sau khi hít một hơi thật là dài vào phổi, bạn hăy giữ lại hơi thở trong mười giây đồng hồ. Kế đó, bạn để không khí thoát ra từ từ. Nếu bạn lập lại phép thở này ít nhất là ba lần, quả tim bạn sẽ đập chậm hơn và bạn sẽ cảm thấy b́nh tĩnh trở lại. Ai cũng có thể tập phép thở này một cách an toàn, vô hại. Chính nhờ tôi biết kiểm soát hơi thở mà tôi đă có thể chịu đựng những sự tra tấn của người Nhật Bổn và những sự gian khổ trong các trại giam tù binh hồi đệ nhị thế chiến. Tôi có thể nói điều ấy do kinh nghiệm bản thân.
Thời giờ đă đến để cho tôi dự cuộc thi, nó sẽ chánh thức đưa tôi lên chức vị Lạt Ma. Trước khi dự thi tôi phải đến nhận lănh ân huệ của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi năm, đấng Khôn Lường ban ân huệ cho tất cả các sư săi Tây Tạng, Ngài ban riêng cho từng người chứ không ban chung cho tất cả như đức Giáo Hoàng ở La Mă.
Trong đa số trường hợp, ngài ngồi trên ngôi, tay cầm một cái cần dài như cái đầu cần câu, có buộc một tua vải ở một đầu, và để cái tua ấy chấm lên đầu của các sư săi và tín đồ hành hương. Ngài đặt một bàn tay lên trán của những người mà Ngài muốn ban danh dự hoặc những vị chức sắc cấp cao. Ban ân huệ với cả hai bàn tay để lên trán người nào là một đặc ân hiếm có: Ngài ban cái ân huệ đó lần đầu tiên trong đời tôi và nói:
- Con hỡi, con đă làm việc rất giỏi, con hăy ráng làm giỏi hơn nữa trong kỳ thi này để chứng minh sự tin tưởng mà chúng ta đặt nơi con.
Ba ngày trước ngày sinh nhật năm tôi mười sáu tuổi, tôi dự thi cùng với mười bốn thí sinh khác. Những gian pḥng thi cá nhân có vẻ càng nhỏ hơn trước, chắc hẳn là bởi v́ tôi đă lớn.
Mỗi buổi sáng, ban khảo thí đưa cho chúng tôi những đầu đề các bài thi để làm trong ngày. Các bài thi sẽ được góp nhặt vào buổi chiều. Chúng tôi chỉ được ăn món Tsampa mỗi ngày một lần, c̣n trà pha bơ th́ uống tự do tùy thích. Tôi phải ở lại tất cả mười ngày trong pḥng thi.
Cuộc thi bắt đầu với những bài vở về môn y khoa thường thức, môn tôi phải học mà tôi đă nắm vững các đầu đề và môn thần học. Trong suốt năm ngày kéo dài vô tận, tôi không được một chút nghỉ ngơi. Qua ngày thứ sáu, một trong những thí sinh bị cơn khủng hoảng thần kinh nó làm cho chúng tôi xúc động. Từ một pḥng thi cá nhân ở bên cạnh pḥng tôi, phát ra những tiếng thét lớn và rú lên rợn người. Tôi nghe có tiếng chân người dồn dập, những giọng nói và tiếng mở cửa. Có tiếng nói êm dịu, vỗ về, an ủi của một người; kế đó là những tiếng khóc thổn thức nối tiếp theo những tiếng kêu rú. Thế là, cuộc thi đă chấm dứt đối với người thí sinh ấy. Đối với tôi, phần thứ nh́ của cuộc thi mới bắt đầu. Người ta đem đầu đề thi cho tôi trong ngày đó trể mất một giờ. Siêu h́nh học, Yoga. Tất cả là chín môn phái Yoga. Và tôi được chấm ưu điểm trong tất cả các môn!
Người Tây Phương chỉ biết một cách nông cạn về năm môn phái Yoga: Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalini Yoga để luyện các năng khiếu thần thông, như Thần Nhăn, thần nhỉ, ... Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén, Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết và Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, do đó hành giả thấu truyền ư nghĩa và sự thật của những ǵ chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời. Chính sự thực hành môn Samadhi Yoga giúp cho hành giả đạt tới chân lư tối thượng vào lúc y từ giă kiếp sống cơi trần; nhờ pháp môn này con người có thể thoát ra ṿng luân hồi sinh tử, trừ phi y quyết định trở lại thế gian với một mục đích nhất định, chẳng hạn để giúp đỡ, phụng sự nhân loại.
Trong năm ngày c̣n lại, tôi rất bận rộn làm những bài thi của tôi. Dầu cho những cuộc thi kéo dài đến mười ngày cũng có lúc chấm dứt, và buổi chiều ngày thứ mười khi vị Lạt Ma phụ trách đến góp bài, y được tiếp đón với những nụ cười sung sướng thoải mái. Lần đầu tiên, người ta dọn cho chúng tôi ăn rau cùng với món Stampa là món ăn căn bản của chúng tôi trong suốt mười ngày qua. Đêm ấy, tôi ngủ một lúc say sưa ngon lành. Tôi không nghi ngờ về kết quả cuộc thi nhưng chỉ e ngại về cách sắp hạng; v́ tôi được lệnh phải có tên trong những người đỗ đầu. Thi viết xong, chúng tôi được nghỉ ngơi trọn một tuần lễ để lấy lại sức. Kế đó là trọn hai ngày thi về môn quyền thuật vơ nghệ. Ngoài ra các cuộc đấu vơ, c̣n có môn "điểm huyệt" là môn bí truyền làm cho người ta trở nên không c̣n cảm giác và vô tri bất động.
Hai ngày kế đó dành cho phần sát hạch về những điểm yếu kém trong các bài thi viết. Mỗi thí sinh đều bị hạch hỏi, chất vấn trong suốt hai ngày liền. Sau cùng, sau một tuần lễ nghỉ ngơi nữa, kết quả cuộc thi được công bố. Tôi lấy làm vui mừng vô hạn, một sự vui mừng mà chúng tôi không ngừng ngại biểu lộ ra ngoài một cách ầm ĩ, khi tôi được biết tôi đỗ thủ khoa. Kết quả này làm tôi sung sướng v́ hai lư do: Trước hết nó chứng minh rằng Minh Gia Đại Đức là vị đạo sư giỏi độc đáo hơn tất cả các vị khác, và kế đó là đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ hài ḷng về cả hai thầy tṛ chúng tôi.
Vài ngày sau tôi đang làm việc trong pḥng của sư phụ tôi th́ cánh cửa th́nh ĺnh mở to và một sứ giả mồ hôi nhễ nhại, bụi bậm đầy ḿnh, hộc tốc bước vào vừa le lưỡi thở dốc vừa nói:
- Bạch ngài lạt ma y sĩ Lâm Bá, có thông điệp của đức thậm thâm.
Y lấy trong áo ra và cầm đưa cho tôi một bức thư đọc trong một khăn choàng bằng lụa theo nghi lễ thường thức. Kế đó, y quay gót lui ra.
Tôi đặt cái thơ xuống bàn, nhưng chưa mở ra vội. Thơ ấy gởi cho tôi, nhưng nó có thể nói ǵ trong đó? Chỉ thị bảo tôi phải học thêm các môn học thuật khác nữa? Hoặc làm việc nhiều hơn nữa chăng?
Sư phụ tôi mỉm cười về sự băn khoăn do dự của tôi; tôi bèn cầm đưa gọn gói cho người, luôn cả thơ và cái khăn choàng. Sư phụ mở b́ thư ra có hai mảnh giấy xếp. Người xem và nói:
- Hay lắm, con hăy an tâm. Chúng ta phải đi đến điện Potala ngay bây giờ, không trễ một chút. Ta cũng được mời cùng một thể.
Sư phụ gơ một tiếng c̣ng; một người nô bộc xuất hiện. Sư phụ bèn ra lệnh cho y lập tữ thắng yên hai con ngựa bạch sau khi đă thay áo và chọn hai cái khăn choàng đẹp nhất, chúng tôi đến thông báo cho vị sư trưởng biết rằng đấng Thậm Thâm cho gọi chúng tôi đến điện Potala. Người hỏi:
Quư vị đi đến điện ngay bây giờ? Lạ thật, mới ngày hôm qua đây, đấng Khôn Lường hăy c̣n ở vườn Ngọc Uyển. Nhưng nếu quư vị có thơ mời, th́... chắc hẳn đây là một việc rất long trọng.
Những sư săi giữ ngựa đợi chúng tôi ngoài sân với hai con ngựa trắng. Chúng tôi lên yên và cho ngựa đi xuống với chân đồi. Trong chốc lát chúng tôi đă đến điện Potala. Thật ra từ chổ tu viện của chúng tôi đến điện không xa, lẽ ra tôi không cần phải chịu nhọc để ngồi vững trên yên ngựa với một quăng đường ngắn như thế! Nhưng có điều tiện lợi duy nhất là chúng tôi có thể cưỡi ngựa đi lên cái cầu thang lớn nó đưa chúng tôi đến tận nơi, gần tới nóc điện Potala. Khi chúng tôi vừa đặt chân xuống đất, những người gia nô đă đợi chúng tôi từ trước, bèn bước đến đỡ lấy cương ngựa dắt đi và chúng tôi được đưa thẳng vào tư thất của đấng thậm thâm. Tôi bước vào một ḿnh, quỳ xuống đặt cái khăn choàng dưới chân Ngài rồi cuối đầu đảnh lễ Ngài như thường lệ. Ngài nói:
- Con hăy an tọa, hỡi Lâm Bá. Ta rất hài ḷng về con và Minh Gia Đại Đức, nhờ sư phụ con một phần nào mà con mới được thành công trong kỳ thi vừa qua. Chính ta đă đích thân xem các bài vở của con.
Nghe Ngài nói, tôi cảm thấy một cơn rùng ḿnh chạy dọc theo tủy xương sống. Tinh thần hài hước của tôi có đôi khi đặt sai chổ; đó là một trong những điểm yếu kém của tôi, theo như lời người ta thường nói. Sự hài hước ấy đă biểu lộ trong kỳ thi vừa qua v́ trong khi giải đáp các đầu đề, tôi đă có viết nhiều câu hơi có vẻ xúc phạm! Đức Đạt Lai Lạt Ma chắc hẳn đă đọc được tư tưởng của tôi v́ Ngài bật cười và nói:
- Phải đó, tinh thần hài hước của con đă biểu lộ không đúng lúc, nhưng...
Ngài ngừng lại trong một cơn yên lặng kéo dài, trong khi đó tôi chờ đợi một sự chẳng lành.
- Nhưng tất cả những câu giải đáp của con đều làm cho ta thích thú.
tôi tiếp chuyện suốt hai giờ đồng hồ với Đức Đạt Lai LaÏt Ma; kế đó ngài cho gọi sư phụ tôi để dặn ḍ chỉ thi về cách sắp đặt việc học của tôi. Tôi phải chịu một cuộc thử thách về sự Chết Giả, viếng nhiều tu viện khác và thực tập về môn cơ thể học với bọn Âm Công chẻ xác người. Những người này thuộc về một giai cấp hạ tiện, và công việc của họ có phần đặc biệt đến nổi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặc cách cho phép tôi làm việc chung với họ mà vẫn giữ y nguyên chức vị Lạt ma của tôi. Ngài ra lệnh cho những Âm Công "Hăy dành cho vị lạt ma Lâm Bá mọi sự giúp đỡ và trợ lực cần thiết; tiết lộ cho vị lạt ma những bí mật trong các cơ thể cho người có thể biết được những nguyên nhân vật chất của những trường hợp chết chóc; và dành cho người bất cứ một tử thi nào mà người cần dùng đến để học hỏi, khám nghiệm."
Trước khi nói đến cách giải quyết việc chôn cất tử thi ở xứ Tây Tạng, thiết tưởng cũng cần nói qua vài chi tiết phụ thuộc về quan niệm của người Tây Tạng đối với sự chết. Thái độ của họ về sự chết hoàn toàn khác hẳn với thái độ của người Tây phương. Họ quan niệm rằng thể xác con người chỉ là một "lớp vỏ" cái vỏ vật chất bên ngoài bao bọc cái linh hồn bất diệt. Một tử thi c̣n kém giá trị hơn một miếng giẻ rách. Trong trường hợp chết tự nhiên nghĩa là không phải lo tai nạn bất đắc kỳ tử, th́ đây là diễn biến của sự chết, theo quan niệm của người Tây Tạng: Cái thể xác mệt mỏi, già cơi, đă trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không c̣n được để giúp cho linh hồn tiến hóa nữa. Đó là lúc cần phải loại bỏ cái lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật chất. Cái h́nh dáng của linh hồn lúc đó giống y như h́nh thù của thể xác, và những người có Thần Nhăn có thể nh́n thấy được. Đến lúc chết, th́ sợi dây bạc nối liền linh hồn với thể xác trở nên mỏng teo dần và đứt đoạn: Linh hồn đă giải thoát và thăng lên cơi khác. Đó tức là sự chết, nhưng cũng là sự sinh ra trong một cuộc đời mới v́ sợi dây bạc ấy cũng giống như cái cuống nhau bị cắt đi để cho đứa hài nhi sơ sinh có thể bắt đầu một cuộc sống cá nhân riêng biệt. Cũng chính vào lúc đó, cái Ánh Sáng Sinh Lực thoát ra từ trên đỉnh đầu. Ánh sáng ấy cũng có thể nh́n thấy được bởi những người có nhăn quang siêu đẳng.
Người Tây Tạng tin rằng phải sau một thời gian ba ngày, cái thể xác mới thật sự chết hẳn, nghĩa là mọi hoạt động của cơ thể mới hoàn toàn chấm dứt, và linh hồn mới hoàn toàn rút lui ra khỏi cái lớp vỏ xác thịt vật chất. Lạt Ma Giáo (lamaisme) của xứ Tây Tạng cho rằng con người có ba thể căn bản: Xác thể cấu tạo bằng xương thịt, nhờ đó linh hồn có thể nương theo để học hỏi những bài học đắng cay, đau khổ của cuộc đời; dục thể được cấu tạo bằng những thèm khát, ham muốn, t́nh cảm, nói chung là những dục vọng của con người; và linh thể, tức là thể tâm linh, hay (linh hồn bất diệt). Người chết phải trải qua ba giai đoạn: Cái xác thể sẽ phải tiêu diệt; dục thể cũng sẽ tan ră và linh thể hay linh hồn đi theo con đường đưa đến cơi tinh thần.
Một hôm vị Lạt Ma phụ trách về nghi lễ cầu siêu cho người chết, cho mời tôi và nói:
- Nay đă đến lúc sư huynh cần học hỏi những phương pháp thực tế về sự giải thoát của linh hồn. Xin mời sư huynh đi theo tôi.
Sau khi đă đi qua những hành lang dài và đi xuống những cầu thang trơn trợt, chúng tôi đến chỗ cư xá của các vị y sĩ. Tại đây, trong một pḥng bệnh, một vị sư già đang nằm hấp hối. Một cơn bệnh đă làm cho ông ta yếu đi nhiều, sinh lực của ông ta đă gần cạn và tôi nhận thấy màu sắc trên hào quang của ông ta đă phai mờ. Dẫu sao, ông ta cũng phải gượng sống cho đến khi không c̣n chút sinh lực nào. Vị lạt ma đi cúng với tôi nhẹ nhàng nắm lấy hai bàn tay ông ta và nói:
- Sư ông đă gần được giải thoát khỏi những dày ṿ của thể xác. Sư hăy chú ư nghe những lời tôi nói đây, để cho nhẹ bước siêu thăng. Chân sư ông đă lạnh. Cuộc đời sư ông đă tiến gần đến chỗ kết thúc cầu cho linh hồn sư ông được b́nh an, v́ sư ông không có ǵ phải sợ sệt. Sinh lực đă rút ra khỏi hai chân sư ông, và đôi mắt sư ông đă mờ. Thân h́nh sư ông đă lạnh, sự sống đă rút lui dần và sắp tắt hẳn. Sư ông hỡi, cầu cho linh hồn sư ông được b́nh an, v́ sự giải thoát ra khỏi cuộc đời thế tục để bước qua cơi tinh thần vốn không có ǵ đáng sợ. Những bóng tối của cơi u minh vô tận đă lởn vởn trước mắt sư ông và hơi thở của sư đă tắt nghẽn trong cuống họng. Nay đă đến lúc mà linh hồn sư sẽ được tự do thụ hưởng những phúc lạc của cơi giới bên kia. Cầu cho sư được b́nh an. Thời giờ giải thoát của sư đă đến...
Vị Lạt Ma vừa nói luôn miệng không ngớt, vừa lấy bàn tay vuốt nhẹ sau gáy của người hấp hối, từ hai vai lên đến đỉnh đầu, theo một phương pháp đă trắc nghiệm để đưa linh hồn ra khỏi xác một cách êm ái nhẹ nhàng, không đau đớn. Tất cả những cạm bẫy trên đường đi qua cơi âm được nói cho ông lăo biết trước, cùng là làm cách nào để tránh những cạm bẫy đó. Lộ tŕnh đă được vạch sẵn một cách chính xác, do các vị lạt ma có thần thông đă từng bước qua bên kia cửa tử, và nay các vị ấy dùng thần giao cách cảm để tiếp tục nói chuyện từ cơi bên kia với người trần gian chúng ta. Vị Lạt Ma nói tiếp:
- Sư ông không c̣n nh́n thấy ǵ nữa, và hơi thở của sư đă ngưng. Toàn thân sư ông đă lạnh và những tiếng động ồn ào của thế gian không c̣n vọng tới tai sư ông nữa. Sư ông hăy được b́nh an, v́ thần chết nay đă đến rước sư ông. Sư ông hăy noi theo con đường mà chúng tôi đă vạch sẵn, và sư ông sẽ t́m thấy yên tĩnh phúc lạc ở đầu đường bên kia.
Vị lạt ma vẫn tiếp tục vuốt nhẹ cái gáy và hai vai người chết. Vầng hào quang của ông lăo trở nên mờ dần và sau cùng th́ biến mất dạng. Khi đó, theo một nghi lễ cổ truyền tự muôn đời, vị lạt ma thốt ra một tiếng kêu ngắn và to để cho linh hồn c̣n đang bám víu lấy thể xác có thể được giải thoát hoàn toàn. Ở phía trên cái xác thân bất động, nguồn sinh lực tập trung lại thành một khối giống như một đám mây khói vần vũ với muôn ngh́n ṿng xoáy, trước khi tượng h́nh giống như cái thể xác mà nó c̣n dính liền bằng sợi dây bạc trở nên mỏng teo lần lần; sau cùng, cũng như một trẻ sơ sinh bước vào đời khi cái cuống nhau rún bị cắt đứt, ông lăo bước vào cuộc sống ở cơi giới bên kia. Sợi dây bạc vào lúc cuối cùng trở nên mỏng như một sợ tơ đă đứt hẳn và cái thể vô h́nh từ từ biến mất dạng ví như một đám mây lướt trên không gian hay một đám khói hương tản mát trong đền thờ. Vị lạt ma tiếp tục chỉ thị cho vong hồn ông lăo bằng thần giao cách cảm và d́u dắt linh hồn ông trong giai đoạn đầu của cuộc phiêu lưu qua bên kia cửa Tử.
- Sư ông đă chết rồi. Ở đây không c̣n ǵ cho ông nữa cả. Những sợi dây trói buộc của xác thịt đă bị cắt đứt. Sư ông hiện đang ở bên cơi Trung Giới. Sư hăy tiếp tục đi theo con đường của sư, c̣n chúng tôi sẽ ở lại dương trần. Sư hăy noi theo con đườngđă vạch. Hăy từ giă cơi đời thế gian mộng ảo này và bước vào cơi giới Tinh Thần. Sư ông đă chết. Hăy tiếp tục tiến bước trên con đường đă vạch.
Những luồng khói hương trầm bốc lên thành những ṿng tṛn; mùi hương thơm bát ngát đem lại sự yên tĩnh cho bầu không khí rối loạn. Từ đằng xa vọng lại tiếng trống khi mờ khi tỏ. Từ trên nóc tu viện rất cao, một tiếng kèn trầm hùng phát ra một âm thanh vang lừng dội khắp bốn phương. Do các hành lang vang dội đến tay chúng tôi tất cả những tiếng động ồn ào của cuộc sống hằng ngày, chen lẫn với tiếng giầy ủng của các sư săi và tiếng kêu của những con yak. Nhưng gian pḥng nhỏ của chúng tôi lúc ấy đắm ch́m trong im lặng. Một cách yên lặng của nhà mồ. Trong cái bối cảnh im lặng đó, những chỉ thị bằng thần giao cách cảm của vị lạt ma là những tiếng thổn thức phớt qua cái yên tịnh của gian pḥng, cũng như ngọn gió nhẹ thoáng qua mằt hồ yên lặng. Sự chết lại có thêm một ông lăo vừa bước vào cái chu kỳ bất tận của ṿng luân hồi sinh tử, có lẽ sau khi đă thu thập những bài học kinh nghiệm của một kiếp người, nhưng c̣n phải tiếp tục con đường tiến hóa của ḿnh với những công phu cố gắng trường kỳ bất tận cho đến khi đạt tới quả vị Phật.
Sáng ngày thứ tư, một Âm Công đến để lấy xác. Người này thuộc về thành phần của giai cấp Âm Công, họ sống trong một khu biệt lập ở ngă tư đường Lingkhor và Dechhen Dzong khi y đến nơi, các vị lạt ma ngưng việc d́u dắt linh hồn người chết và y có thể lănh lấy tử thi. Y bọc tử thi trong một cái bao vải trắng, nhẹ nhàng khiêng cái bọc trên hai vai rồi bước ra. Một con yak đă đợi sẵn ở ngoài. Không chút do dự, y cột cái bọc trên lưng con yak rồi cả hai đều đi đến khu nghĩa địa, tại đây những Âm Công khác đă chực sẵn và chờ y đến. "Nghĩa địa" này chỉ là một khoảnh đất trống ở giữa những núi đồi bao bọc chung quanh, trên đó có sẵn một phiến đá rộng và bằng phẳng, khá lớn để có thể đặt nằm trên đó cái xác của một người khổng lồ. Những cây cọc được cắm trong bốn cái lỗ đào ở bốn gốc. Một phiến đá khác có đục những hang lỗ sâu đến nữa phần bề dầy của nó.
Khi cái tử thi được đặt trên phiến đá đầu tiên, người ta tháo bỏ cái cọc vải, cột hai bàn chân với hai bàn tay vào bốn cái cọc, và viên Âm Công trưởng mới mổ cái tử thi bằng một con dao lớn. Y cắt những đường dài trên tử thi để có thể lột da từng miếng cho dễ. Kế đó, y chặt đứt tay chân và cắt thành từng mảnh. Sau cùng, cái đầu được chặt ĺa khỏi xác và chẻ ra làm đôi.
Khi vừa nh́n thấy người Âm Công khiên cái tử thi đến nơi, những con kên kên bèn hạ cánh bay thấp xuống và đậu trên những tảng đá lớn, tại đó chúng chờ đợi một cách kiên nhẫn như những khán giả của một sân khấu lộ thiên. Chúng cũng có tôn ti trật tự đàng hoàng và áp dụng một kỹ luật rất nghiêm ngặt giữa bọn chúng với nhau. Nếu một con nào "phạm thượng" muốn bước đến gần tử thi trước những con "chúa đảng" th́ lập tức liền xảy ra một cuộc xô xát dữ dội.
Trong khi các con kên kên kiếm chỗ đậu, th́ người Âm Công trưởng đă phanh cái xác chết. Y thọc hai bàn tay vào trong lồng ngực tử thi, móc lấy quả tim và đưa ra cho con kên kên chúa, con này liền nhảy xuống đất một cách nặng nề và đủng đỉnh tiến đến gần để nhận lănh lấy phần ưu tiên của nó. Kế đó con thứ nh́ xuất hiện để nhận lấy lá gan rồi lui vào một góc tản đá để ăn riêng một ḿnh. Hai trái thận và ruột cũng được chia ra cho những con kên kên vào bậc "đàn anh". Những miếng thịt được cắt ra thành từng mảnh và phân phát cho cả đàn. Thỉnh thoảng, có một con đă ăn xong phần thức ăn của ḿnh, lại đủng đỉnh bước tới để kiếm thêm một miếng óc hoặc một con mắt, trong khi một con khác vừa đáp xuống vừa vỗ cánh để kiếm thêm một miếng thịt nữa. Trong khoảnh khắc, tất cả các bộ phận và da thịt đều trôi vào bụng kên kên, chỉ c̣n lại có những xương xẩu răi rác trên phiến đá. Người Âm Công, sau khi đă chặt những khúc xương thành tững mảnh nhỏ liền đem nhét các mảnh vụn ấy vào những lỗ trống trên tấm phiến đá thứ nh́, và dùng búa lớn để nghiền nát thành một thứ bột nhuyễn mà loài kên kên rất thích ăn!
Những Âm Công này đều là những tay chuyên môn thiện nghệ về khoa chặt xác người. Họ rất hảnh diện về nghề nghiệp của họ và chính là để thỏa măn cá tính mà họ xem xét tất cả các bộ phận trong tử thi để xác định nguyên nhân của sự chết. Nhờ có nhiều năm kinh nghiệm nên họ có thể khám nghiệm rất mau chóng. Lẽ dĩ nhiên không có ǵ bắt buộc họ phải chú trọng đến những vấn đề này, nhưng truyền thống của nghề nghiệp muốn họ t́m ra cái nguyên nhân đă làm cho "linh hồn một người phải rời khỏi thể xác". Nếu một người chết v́ thuốc độc hoặc v́ lư do bị ám sát hay do tai nạn, th́ sự kiện ấy được phát hiện mau chóng. Sự khôn ngoan khéo léo của họ đă giúp ích cho tôi rất nhiều trong khi tôi học hỏi với họ. Không bao lâu, tôi đă trở nên rất thành thạo về nghệ thuật mổ xẻ tử thi. Người Âm Công trưởng đứng gần bên tôi và chỉ dẫn cho tôi những điểm lư thú:
- Thưa Đại Đức Lạt Ma, người này chết v́ bệnh đứng tim. Đại Đức hăy nh́n xem, chúng ta sẽ cắt cái mạch máu này... đây rồi... Đại Đức có thấy chăng cục huyết đặt đă chặn sự lưu thông trong huyết quản?
 Hoặc trong một trường hợp khác:
- Có một cái ǵ bất thường ở ngoài người đàn bà này, thưa Đại Đức Lạt Ma. Chắc hẳn là một hạch tuyến đă hoạt động sai lạt. Chúng ta hăy thử lấy ra xem th́ biết.
Kế đó, sau lột lúc cắt ra một khối thịt khá lớn, y nói:
- Đây là cái hạch tuyến, ta hăy cắt ra xem. À, phần trung tâm của nó rất cứng.
Và sự việc cứ tiếp diễn như thế. Những Âm Công này lấy làm hănh diện mà chỉ cho tôi xem tất cả mọi sự ǵ mà họ có thể biết, v́ họ hiểu rằng tôi học hỏi với họ theo lệnh dạy của đấng Thậm thâm. Nếu trong khi tôi vắng mặt, có một tử thi đặc biệt lư thú vừa được đem đến, th́ họ để dành riêng cho tôi. Như vậy tôi có thể khám nghiệm hàng trăm xác chết, điều này đă giúp cho tôi trở nên một nhà giải phẫu ưu tú về sau này! Sự huấn luyện này c̣n vô cùng hữu hiệu hơn là sự học của những sinh viên y khoa, họ phải chia các tử thi với nhau trong những pḥng mổ xẻ của các bệnh viện. Tôi tin chắc rằng về môn cơ thể học, tôi đă học hỏi với các Âm Công nhiều hơn là trong trường y khoa có trang bị đầy đủ y cụ tối tân mà tôi đă theo học trong những năm về sau.
Ở Tây Tạng, người ta không thể chôn xác người chết. Đất núi cằn cơi và lớp đất phủ ở trên quá mỏng làm cho việc đào huyệt rất khó khăn. Việc hỏa táng không thể thực hiện được v́ những lư do kinh tế: Cây gỗ rất hiếm và muốn thiêu một xác chết, người ta phải nhập cảng củi từ bên Ấn Độ rồi chuyên chở sang Tây Tạng trên lưng những con yak xuyên qua các đường núi gập ghềnh xa xôi. V́ đó, giá thành sẽ trở nên đắt kinh khủng. Người ta cũng không thể vứt xác chết xuống sông, v́ xác chết sẽ làm nhiễm độc nước sông cần thiết cho người sống. Chỉ c̣n lại phương pháp đă diễn tả ở trên, tức là cống hiến xác chết cho loài diều hâu và kên kên ăn thịt. Việc "điểu táng" này chỉ khác biệt sự chôn cất bên tây phương trên hai điểm: Trước hết người tây phương chôn xác người chết của họ bằng cách để cho loài sâu bọ đóng cái vai tṛ của loài kên kên bên xứ chúng tôi. Điểm khác biệt thứ hai là khi người Tây phương chôn xác, họ cũng chôn luôn cả mọi khả năng truy ra nguy nhân của sự chết, thành thử không ai có thể biết chắc rằng cái nguyên nhân ghi trên tờ giấy khai tử có đúng sự thật hay không? Trái lại, những Âm Công bên Tây Tạng luôn luôn xác định cái nguyên nhân thật sự của sự chết, và điều này không bao giờ lọt ra khỏi tầm mắt của họ!
Những cách chôn cất này đều là thủ tục thông thường của tất cả mọi người dân Tây tạng trừ ra trường hợp của những vị Lạt Ma trưởng, là những đấng Hóa Thân. Thi hài các vị này được ướp chất hương liệu và đặt trong những cái ḥm bằng thủy tinh để trưng bày trong các đền thờ hoặc ướp hương liệu xong rồi đem phếch vàng. Công tác sau này rất lư thú và tôi đă tham dự nhiều lần như vậy. Vài người Mỹ đă đọc những bản thảo của tôi về vấn đề này không tin rằng đều ấy có thể thực hiện được. Họ nói rằng:
- Chính người Mỹ chúng tôi cũng không làm đuợc việc ấy, mặc dù chúng tôi có những kỹ thuật tân tiến hơn.
Sự thật là người Tây Tạng chúng tôi không hề biết kỹ thuật sản xuất đại quy mô, và chúng tôi chỉ là những người thợ khéo. Chúng tôi không có khẳ năng chế tạo những đồng hồ tay với giá một đô la một chiếc. Nhưng chúng tôi có thể sử dụng chất vàng để ướp xác chết.
Một buổi chiều vị Sư Trưởng gọi tôi lên và nói:
- Một vị hóa thân sắp sửa bỏ xác. Người ở tại tu viện Sera. Ta muốn con đến xem cách họ ướt xác như thế nào.
Như vậy, một lần nữa tôi lại phải chịu đựng một cuộc hành tŕnh khó nhọc trên lưng ngựa để đến tận Sera. Khi tôi đến tu viện, người ta đưa tôi đến tận pḥng của vị sư trưởng đă già. Những màu sắc trên hào quang của ông ta đă sắp tắt; một giờ sau ông ta từ giả cơi thế giới vật chất để bước qua cơi tinh thần. Là một vị sư trưởng và là một nhà khoa học, ông ta không cần có sự giúp đỡ để vượt qua cơi trung giới, cũng không cần chờ đợi ba ngày như thường lệ. Thi hài ông ta để ngồi theo tư thế kiết dà trong một đêm, trong khi các vị Đạt Ma đảm nhiệm việc canh chừng.
Qua ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, một cuộc diễn hành quan trọng đi qua thánh thất của tu viện, đến tận thánh điện và qua những con đường bí mật xuyên qua một cánh cửa ít khi dùng đến. Trước mặt tôi, hai vị Lạt Ma khiêng cái tử thi đặt trên một cái cáng. Tử thi vẫn để ngồi ở tư thế liên hoa. Sau lưng tôi, các sư săi hát thánh ca với một giọng trầm hùng; xen lẫn với âm thanh trong vắt của một cái chuông bạt. Chúng tôi đeo những mảnh vải yểm tâm vàng bên ngoài những áo tràng màu đỏ. Thân ḿnh chúng tôi phát ra những cái bóng đen lung lay và nhảy múa trên tường, những bóng đen này được phóng đại quá cỡ và lệch méo do bởi những ánh đèn bơ và ánh đuốc lập lè. Chuyến đi xuống đường hầm kéo dài rất lâu. Sau cùng, cách chừng hai chục thước bề sâu dưới mặt đất, chúng tôi đến trước một cánh cửa bằng đá đă khóa chặt. Sau khi đă mở khoá, chúng tôi bước vào một văn pḥng lạnh như băng. Các sư săi đặt cái tử thi xuống đất một cách vô cùng cẩn thận và rút lui, chỉ c̣n lại một ḿnh tôi với ba vị Lạt Ma. Hàng trăm ngọn đèn bơ được thấp lên tỏ ra một ánh sáng vàng đục và xấu. Tử thi được cởi quần áo ra và tắm rửa sạch sẽ. Do thất khiếu tự nhiên trong thân thể người chết, người ta móc ra những bộ phận, cùng ngũ tạng lục phủ rồi đem đựng trong những cái vạt và đóng chặt. Kế đó, phía bên trong thân ḿnh được rửa ráy cẩn thận để cho khô ráo và chứa đầy một thứ nhựa đặc biệt. Thứ nhựa này sẽ đông đặc lại, nhờ đó tử thi mới giữ được cái vẽ tự nhiên như hồi c̣n sống. Khi chất nhựa vày trở nên khô và cứng lại, th́ người ta mới nhồi phía trong với đồ tơ lụa và luôn luôn canh chừng để giữ cho khỏi mất cái h́nh dáng tự nhiên. Để cho chất tơ nhồi cứng, và phía trong cho đặc lại, người ta lại đổ thêm chất nhựa. Kế đó, mặt ngoài xác chết được phết một lớp nhựa cũng giống y như thế và để cho khô. Xong rồi, trước khi dán tử thi thành những băng lụa rất tế nhuyễn, người ta phết lên mặt ngoài một lớp nước đặc biệt để sau này có thể gở các băng lụa ra một cách dễ dàng. Khi xét thấy tử thi đă nhồi đủ cứng người ta đổ thêm chất nhựa nhưng lần này là một loại khác, và tử thi đă sẵn sàng bước qua giai đoạn thứ hai của công tác ướp xác. Trong một ngày và một đêm, tử thi được để yên tại chổ để cho nó được hoàn toàn khô ráo. Khi người ta trở lại gian pḥng, th́ nó đă trở nên cứng rắn. Khi đó tử thi mới được chở đi một cách trịnh trọng xuống pḥng ướp xác. Pḥng ướp xác này rất nhỏ ở phía dưới pḥng thứ nhất, thật ra là một cái hỏa ḷ được xây cất theo một cách riêng để cho những ngọn lửa và nhiệt độ có thể luân chuyển chung quanh các vách tường và như vậy để giữ cho gian pḥng được luôn luôn ở dưới một nhiệt độ cao.
Mặt đất của pḥng ướp xác được đắp lên một thứ bột đặt biệt làm thành một lớp bột rất dày. Tử thi được đặt ngồi ở giữa. Ở phía dưới, các sư săi chuẩn bị việc đốt lửa. Người ta nhồi vào ḷ một tạp chất gồm có muối (một thứ muối đặc biệt được chế tạo tại một tỉnh ở Tây Tạng), các loại dược thảo và khoáng chất. Khi gian pḥng đă được nhồi đầy thứ tạp chất nói trên từ mặt đất lên đến trần, chúng tôi bước ra ngoài hành lang, cánh cửa được đóng chặt và nêm phong bằng con dấu triện của tu viện. Các sư săi được lệnh đốt lửa. Trong giây lát, người ta nghe tiếng củi lửa cháy tí tách và khi ngọn lửa đă lên cao có tiếng bơ sôi sục. Quả thật, các nồi "Súp de" được đun bằng phân con yak và bơ phế thải. Suốt một tuần lễ, lửa cháy dữ dội trong ḷ và những luồng hơi nóng tràn vào trong những khe vách tường trống ruột của pḥng ướp xác. Cuối ngày thứ bảy, người ta ngưng đốt thêm lửa và ngọn lửa tàn lụi lần lần. Nhiệt độ xuống thấp làm cho bức tường đá rên rỉ. Khi hành lang đă nguội lại để có thể đi qua, người ta c̣n phải đợi thêm ba ngày nữa trước khi nhiệt độ trong pḥng trở lại b́nh thường. Mười một ngày sau khi niêm phong, gian pḥng lại được mở khóa và gian pḥng lại được mở. Các sư săi thay phiên nhau để cạo sạch chất bột đă đặt cứng. Họ cạo bằng tay chứ không dùng đồ khí cụ để không làm sứt mẻ các xác ướp.
Trong hai ngày liền, họ đă gở xong những tảng muối và tạp chất đă gịn tan. Sau cùng gian pḥng đă trống trơn, chỉ c̣n lại cái tử thi ngồi lại chính giữa theo thế liên hoa. Người ta cẩn thận nhắc cái xác lên và chở lên gian pḥng thứ nhất, tại đây nó được quan sát dễ dàng hơn dưới ánh sáng của các ngọn đèn bơ.
Những băng lụa được tháo gở ra từng băng một, cho đến khi cái xác hoàn toàn trơ trọi. Việc ướp xác đă thành công hoàn toàn. Trừ ra cái màu sắc trở nên sậm hơn nhiều, tử thi có cái h́nh dáng tự nhiên như người sống, dường như nó có thể sống dậy bất cứ lúc nào. Một lần nữa nó được phết thêm một lớp nhựa và các sư săi kim hoàng chuyên môn mới bắt đầu hàng động. Thật là một kỹ thuật xảo điệu vô cùng! Và có ai khéo léo như các sư săi kim hoàng này, họ có thể đắp một lớp vàng trên xác chết! Họ làm việc từ từ, phết lên tử thi một lớp vàng tinh lọc nhất và mịn màng tinh tế nhất. Bất cứ ở đâu, vàng này cũng đáng giá một gia tài. Đối với chúng tôi, nó chỉ có một tầm mức quan trọng của một loại kim khí thiêng liêng, một tinh khí mà tính chất bất hư hoại tượng trưng cho cái định mệnh tâm linh của con người.
Những sư săi kim hoàn làm việc với một kỹ thuật rất tinh vi, và săn sóc từng chi tiết nhỏ nhặt. Khi hoàn thành công tác, họ để lại cho chúng tôi một h́nh tượng mạ vàng coi tự nhiên như người sống, không thiếu một nét hay một vết nhăn; điều này lại chứng minh cái xảo thuật tân kỳ của họ.
Thân h́nh nặng trỉu và với cái số lượng vàng đắp lên được chở đến pḥng các đấng hóa thân và đặt lên ngồi trên một ngai vàng cũng như những xác ướp được đặt tại đây từ trước. Trong số đó, có vài xác ướp đă có từ lúc bắt đầu lịch sử thần thoại. Những xác ướp này được ngồi sắp hàng ví như những vị thẩm phán nghiêm minh, quan sát xuyên qua những kẻ mắt hé mở, những tội lỗi sa đọa của thời hiện kim. Chúng tôi chỉ nói chuyện th́ thầm, và đi nhón gót chân, dường như không muốn quấy rầy những người chết đang ngồi đó. Tôi cảm thấy một sức hấp dẫn mănh liệt của một trong các pho tượng vàng, nó gây cho tôi một sự ám ảnh lạnh lùng. Tôi có cảm giác như pho tượng ấy vừa nh́n tôi vừa mỉm cười dường như nó biết rơ tất cả. Bổng nhiên có người sờ nhẹ vào vai tôi làm tôi giật ḿnh gần muốn té xỉu v́ sợ hăi. Tôi quay đầu lại th́ ra đó là... Sư phụ tôi. Người nói:
- Đây là xác ướp của con hồi kiếp trước. Chúng ta vẫn biết rằng con sẽ tự biết cái xác của ḿnh!
Sư phụ dắt tôi đến một vị Hóa Thân ngồi bên cạnh cái xác ướp của tôi và nói:
- C̣n đây chính là... ta.
Chúng tôi đều xúc động y như nhau, và từ từ lùi bước ra khỏi pḥng, cánh cửa lại được khóa chặt và niêm phong cẩn thận.
Sau đó, tôi thường có dịp trở lại pḥng Hóa thân để nghiên cứu những xác ướp mạ vàng. Đôi khi tôi đến ngồi thuyền định suy tư một ḿnh bên cạnh các vị Hóa Thân. Mỗi vị đều được có một tiểu sư được ghi chép cẩn thận, và tôi đă xem qua tiểu sử một cách vô cùng thích thú. Chính tại văn pḥng này mà tôi được xem tiểu sử tiền kiếp của sư phụ tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, do đó tôi biết những công tŕnh, những đức hạnh và tài năng của người trong kiếp trước, những danh vọng và chức vị mà người đă có, và người đă qua dời trong trường hợp nào. Cũng ở tại đây, tôi đă đọc được tiểu sử tiền kiếp của tôi, mà tôi nghiên cứu một cách say mê thích thú. Có tất cả chính mươi tám xác ướp mạ vàng nằm trong gian pḥng này, một gian pḥng bí mật đào sâu trong núi đá tận dưới ḷng đất. Tôi đứng trước một pho lịch sử của xứ Tây Tạng. Ít nhất tôi tin như vậy v́ hồi đó tôi chưa biết rằng những thời kỳ sơ khai nhất của lịch sử Tây Tạng và sau này mới được tiết lộ cho tôi biết.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 234 of 2534: Đă gửi: 07 June 2008 lúc 9:11am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MỘT CUỘC ĐIỂM ĐẠO HUYỀN MÔN

Chương Mười Bốn

 

Sau khi tôi đă dự kiến độ nửa chục cuộc xác ướp trong các tu viện khác nhau, ngày nọ vị sử trưởng tu viện Chakpori cho mời tôi đến và nói:
- Này đạo hữu Lâm Bá, theo lịch dạy của đấng Thậm Thâm, đạo hữu sẽ được điểm đạo vào hàng Sư Trưởng. Thể theo ư muốn của đạo hữu, đạo hữu sẽ có thể tiếp tục mang danh hiệu Lạt Ma thôi như Minh Gia Đại Đức vậy. Tôi chỉ biết truyền đạt cho đạo hữu bức thông điệp của đấng Khôn Lường.
Như vậy, với tư cách một vị Hóa Thân được mọi người nh́n nhận, tôi đă đảm nhiệm trở lại cái danh vị cũ của tôi hồi tiền kiếp, cách đây độ chừng sáu thế kỷ về trước. Bánh xe luân hồi đă quay giáp trọn một ṿng.
Ít lâu sau đó, một vị Lạt Ma cao niên đến thăm tôi tại pḥng riêng và cho tôi biết rằng tôi phải trải qua một cuộc lễ "Chết giả" vị Lạt Ma ấy nói:
- Con hỡi, khi mà con chưa bước qua bên kia cửa tử và trở về dương thế, th́ con sẽ không bao giờ biết rằng vốn không có sự chết. Sự học về các cơi giới vô h́nh đă đưa con đi xa. Cuộc lễ này sẽ c̣n đưa con đi xa hơn nữa; con sẽ vượt qua cơi sống và cơi chết và con sẽ đi ngược ḍng thời gian để truy nguyên đến tận cái dĩ văng vô cùng màu nhiệm của xứ sở chúng ta.
Sự chuẩn bị cho cuộc lễ này thật lâu dài và gian lao. Trong ba tháng trường, tôi phải tuân theo một phép ăn uống rất khắc khổ. Bất hạnh thay, tôi lại c̣n phải dùng thêm những món cỏ thuốc mùi rất nồng nặc ngoài ra những bữa ăn thường ngày. Người ta khuyên tôi nên chỉ nghĩ đến những ǵ "Trong sạch và thánh thiện" mà thôi (làm như là người ta có thể nghĩ khác hơn trong một tu viện!) thậm chí các món tsampa và trà cũng bị hạn chế. Nói tóm lại, tôi phải trải qua một nếp sống khắc khổ tối đa, chịu một kỷ luật nghiêm khắc và trải qua những giờ công phu thiền định lâu dài.
Sau cùng, ba tháng đă trôi qua, các nhà chiêm tinh tuyên bố rằng thời gian đă điểm, và những ảnh hưởng tinh tú đều thuận lợi. Trong hai mươi bốn giờ đồng hồ, tôi nhịn đói cho đến khi tôi nhận thấy bụng tôi thật trống rỗng. Sau đó, người ta đưa tôi xuống những nấc thang bí mật ở dưới hầm điện Potala. Chúng tôi đi xuống rất lâu; những người đồng hành với tôi đều cầm đuốc soi đường, c̣n tôi th́ không. Chúng tôi đi qua những dăy hành lang mà tôi đă biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng tôi đến chỗ đầu cuối một đường hầm có tảng đá khép chặt. Một cánh cửa bí mật bằng đá lớn xoay ṿng trước mặt tôi và đưa chúng tôi đến một đường hầm khác rất hẹp và tối tăm, nơi đó xông lên một mùi mốc meo lẫn lộn với mùi gia vị và mùi hương trầm. Đi xa hơn độ vài thước, chúng tôi bị ngăn chặn bởi một cánh cửa thếp vàng rất dày và chắc; cánh cửa này mở ra từ từ với những tiếng khua rít vang vội ra tận đằng xa. Những ngọn đuốc được dập tắt và thay thế bằng những ngọn đèn bơ. Chúng tôi bước vào một ngôi đền ở dưới hầm, được đục khoét trong núi đá từ nhiều thế kỷ trước bởi những cuộc địa chấn do hỏa diệm sơn gây ra. Ngày xưa những ḍng phún thạch từ trong ḷng đất đă trải qua những dăy hành lang này trước khi đến miệng núi lửa. Tôi thầm nghĩ: "Bây giờ th́ là những người yếu hèn tội lỗi đi ngang qua con đường này, và họ tự nghĩ rằng ḿnh là thần thánh. Nhưng trong giờ phút này, tôi cần phải tập trung tư tưởng đến cuộc lễ, nhiều chúng tôi đă đến ngôi đền Minh Triết Huyền Bí".
Ba vị Sư Trưởng dẫn đường cho tôi; kỳ dư những người đi theo hộ tống đă mất dạng trong bóng tối, giống như ảo ảnh của một giấc mơ. Chỉ c̣n một ḿnh tôi ở lại với ba vị hiền giả lăo thành, thân h́nh già nua với năm tàn tháng lụn và b́nh tĩnh đợi ngày khuất núi để được gọi lên cơi trên, ba ông lăo này có lẽ là ba vị sư cao cả nhất trong thế giới, sẽ đặt tôi dưới một cơn thử thách cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo. Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một ngọn đèn bơ, và tay trái cầm một cây nhang to lớn cháy nghi ngút. Tiết trời rất lạnh lẽo, một cơn lạnh lẽo rất lạ lùng, không hề có trên mặt đất. Cơn im lặng rất thâm trầm, và những tiếng động rất hiếm đến từ bên ngoài càng làm cho sự im lặng ấy trở nên lạ lùng hơn nữa. Những đôi giày ủng lót bằng nỉ của chúng tôi không thấy một tiếng động nào; chúng tôi lướt đi qua những cái bóng. Tôi nghe tiếng suỵt soạt êm dịu từ những vạt áo tràng bằng nhung màu vàng nghệ của các Sư Trưởng. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà cảm thấy trên da thịt một luồng điện chạy lăn tăn như kiến ḅ, và có hiện tượng phóng điện toát ra từ cái thân h́nh tôi. Hai bàn tay tôi chiếu sáng dường như phóng hào quang. Tôi nhận thấy các vị Sư Trưởng cũng có hai bàn tay chiếu sáng giống y như tôi. Khí trời khô ráo và sự cọ sát bởi những áo tràng của chúng tôi đă gây nên một sự tích tụ của tĩnh điện. Một trong các vị Sư Trưởng bèn đưa cho tôi một chiếc đũa vàng và nói nhỏ th́ thầm:
- Con hăy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa chống lên vách tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ biến mất.
Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mănh liệt nó làm cho tôi giật ḿnh nhảy nhỏm, mọi việc đều êm đẹp.
Những ngọn đèn bơ lần lượt được thắp sáng bởi những bàn tay vô h́nh. Khi tôi nh́n rơ hơn dưới ngọn đèn bơ loe lét, tôi thấy những pho tượng khổng lồ mạ vàng, trong đó có vài pho tượng chôn ngập đến nửa thân ḿnh dưới một đống ngọc quư và châu báu. Một tượng phật xuất hiện từ trong bóng tối; tượng ấy to lớn đến nỗi ánh sáng không vượt lên khỏi dây lưng. Những h́nh tượng khác cũng ẩn hiện chập chờn trong bóng tối; đó là các vị thần, biểu tượng của những dục vọng và thử thách mà con người phải vượt qua trước khi thực hiện Chân Ngă.
Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ h́nh một Bánh Xe Luân Hồi Sinh Tử đường kính dài năm thước; dưới ánh sáng lập ḷe nó dường như xoay tít đến nỗi làm tôi cảm thấy chóng mặt. Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm giác là sắp bị ngăn chặn bởi một vách đá. Nhưng vị Sư Trưởng đi trước tôi đă biến mất dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật ẩn dấu rất khéo léo không thể nào ai biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm đi xuống dốc, đường này rất hẹp và quanh co, tại đây ánh sáng mập mờ của những ngọn đèn bơ làm cho bóng tối càng thêm âm u huyền bí. Chúng tôi đi với những bước đi ngập ngừng do dự, thỉnh thoảng lại xẩy chân và trợt ngă. Bầu không khí thật nặng nề khó thở dường như toàn khối Địa Cầu đè nặng lên vai chúng tôi. Tôi có cảm giác như đi lọt vào tận trong ruột của trái đất. Sau cùng, sau một khúc quanh, một động đá mở rộng trước mặt chúng tôi, một động đá chiếu sáng ngời những ánh vàng; có những mạch vàng xen kẽ với những lớp đá tảng trên vách. Trên ṿm đá cao vút trên đỉnh đầu chúng tôi, những mạch vàng này phản ảnh ánh sáng lập ḷe của những ngọn đèn bơ, chiếu lóng lánh như ánh sao chiếu trên nền trời trong một đêm không trăng.
Ở chính giữa động đá, có một ngôi nhà màu đen và sáng ngời, dường như làm bằng gỗ mun. Trên tường có những h́nh biểu tượng và sơ đồ lạ lùng giống như những h́nh vẽ mà tôi đă thấy trên những vách đá dưới hầm khi tôi thám hiểm cái hồ nước dưới ḷng đất trước đây. Chúng tôi bước vào nhà do một cửa lớn và cao. Bên trong tôi thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá đen có chạm h́nh và khắc những ḍng chữ lạ kỳ. Ba cỗ quan tài đều không có đậy nắp. Nh́n vào bên trong tôi bèn muốn đứt hơi thở và th́nh ĺnh tôi cảm thấy rất yếu. Vị Tiên Chỉ, cao niên nhất trong ba vị Sư Trưởng mới nói với tôi:
- Con hỡi, con hăy nh́n xem. Các vị này đă từng sống như những đấng Thần minh ở xứ ta và một thời kỳ mà xứ này c̣n là một đồng bằng, chưa có núi non ǵ cả. Các vị ấy đă từng dong dũi trên đất liền, trong khi những vùng biển cả c̣n đập sóng ở ngoài khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác c̣n chiếu sáng trên nền trời của chúng ta. Con hăy nh́n xem cho kỹ, v́ chỉ có những bậc đạo đồ (inities: Những vị chân tu đă được điểm đạo trong giới huyền môn) mới được thấy mà thôi.
Tôi làm y theo lời: Tôi vừa thích thú vừa khinh ngạc. Ba thể xác to lớn, toàn thân đều mạ vàng nằm dài trong ba cỗ quan tài trước mắt tôi. Hai người nam và một người nữ. Mỗi nét trên thân h́nh của họ đều được giữ nguyên vẹn dưới lớp vàng bên ngoài. Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ đo trên ba thước tây và người lớn nhất trong hai người nam đo không dưới năm thước. Đầu của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp môi mỏng. Sống mũi dài và thâm, đôi mắt ngay thẳng và thụt vô sâu. Gương mặt họ tươi như hồi c̣n sống, họ có vẻ như nằm ngủ. Chúng tôi đi nhón gót v́ sợ làm cho họ thức giấc. Tôi nh́n xem cái nắp của một cỗ quan tài: Trên đó có khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có học về khoa chiêm tinh, tôi đă từng quen thuộc với vị trí các bầu tinh tú, nhưng bản đồ thiên tượng này là hoàn toàn khác hẳn.
Vị tiên chỉ quay lại phía chúng tôi và nói:
- Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nh́n thấy dĩ văng và con cũng sẽ biết cả tương lai. Cuộc thử thách sẽ rất cam go gian khổ. Nhiều người không c̣n sống sót sau cơn thử thách và nhiều người đă thất bại nhưng không ai rời khỏi chốn này một cách an toàn, trừ phi đă vượt qua cơn thử thách. Con đă chuẩn bị sẵn sàng chưa và con có bằng ḷng chịu đặt dưới cuộc thử thách ấy không?
Tôi đáp rằng tôi sẵn sàng và ba vị Sư Trưởng liền đưa tôi đến một phiến đá đặt ở giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ thị của hai vị Sư Trưởng, tôi ngồi lên phiến đá trong tư thế liên hoa hai chân xếp bằng, ḷng bàn tay lật ngửa. Một cây nhang to lớn cháy nghi ngút được cắm lên mỗi quan tài ở hai bên và trên phiến đá chỗ tôi ngồi. Các vị Sư Trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng, mỗi vị cầm một ngọn đèn bơ soi đường. Họ đóng cánh cửa lớn: Chỉ c̣n lại một ḿnh tôi với những cái xác ướp của những vị tiền bối của một thế hệ đă qua. Thời gian trôi đi, tôi định tâm ngồi thiền. Ngọn đèn của tôi đem theo đă cạn bơ và vụt tắt. Trong một lúc, tôi nh́n thấy cái bấc đèn c̣n ngúm đóm lửa tàn, và ngửi thấy một mùi bốc cháy, rồi kế đó mọi sự đều biến mất và không c̣n ǵ nữa.
Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép khí công đặc biệt mà tôi đă thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không khí im lặng và bóng tối dầy đặc chung quanh đè nặng lên tôi. Quả thật đó là cái im lặng của nhà mồ.
Th́nh ĺnh thân h́nh tôi cứng đơ và trở nên bất động như một xác chết. Tay chân tôi đă tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác như đang bước vào cơi chết, chết trong cái ngôi mộ cổ này, ở một bề sâu trên một trăm thước dưới ḷng đất và ánh sáng mặt trời. Một cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi làm cho toàn thân tôi rũ liệt.
Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ như một ánh chớp mới mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay lên rồi rơi xuống; trong một lúc tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con diều gỗ lượn trên không gian. Sự thật hiện ra trong trí tôi: Tôi đang bay phất phơ trên cái thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng tôi bị lôi cuốn bởi một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vừng ánh sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân ḿnh tôi, tỏa ra một sợi dây màu vàng bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy nhựa sống.
Tôi nh́n xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một cái xác chết như mọi tử thi khác, lần lần, tôi phân biệt những điểm dị đồng nhỏ giữa cái xác của tôi với cái xác của những người khổng lồ nằm gần bên đó là một điều rất lư thú. Tôi nghĩ đến những sự tự hào lố bịch của nhân loại đương thời: Làm sao những người chủ nghĩa duy vật có thể giải thích sự hiện diện của những cái xác ướp khổng lồ này? Tôi đang c̣n suy nghĩ... th́ th́nh ĺnh tôi trở nên ư thức được một cái ǵ nó làm đảo lộn ḍng tư tuởng của tôi. Dường như lúc ấy tôi không c̣n cô độc một ḿnh. Những mẫu chuyện vụn vặt vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra lời. Những h́nh ảnh tân loạn xuất hiện chập chờn xuyên qua tầm nhăn quan siêu linh của tôi. Tôi có cảm giác rằng từ xa xa ngân lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm. Tiếng chuông ấy đến gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu tôi: Những giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những màu sắc lạ lùng chưa từng thấy hiện ra trước mắt tôi. Thể vía của tôi phất phơ và đưa đẩy như một chiếc lá rụng bị cuốn đi trong giông băo. Tâm thức tôi bị dày ṿ, cấu xé một cách đau đớn phủ phàng bởi một con trốt xoay tít với muôn ngh́n đám lửa. Tôi cảm thấy bị bỏ rơi,cô đơn, độc chiếc, như một mảnh bèo trôi dạt giữa một vũ trụ bấp bênh vô định. Một đám sương mù đen kịt bao phủ lấy tôi và đem đến cho tôi một niềm yên tĩnh lạ lùng, nó không phải là của trần gian.
Những bóng tối dày đặt bao phủ lấy tôi đă dần dần tiêu tan. Tôi nghe tiếng gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những viên đá sạn bị sóng nhồi trên băi cát. Tôi thở một bầu không khí đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi rong biển. Cảnh vật rất quen thuộc đối với tôi: Tôi nằm dài một cách uể oải trên băi cát được sưởi nóng bởi ánh sáng mặt trời, và ngắm nh́n những tàn cây thốt nốt. Nhưng có một phần trong người tôi đă phản đối: Tôi chưa hề nh́n thấy biển cả bao giờ, và không biết có loại cây thốt nốt! Một tràng dài những giọng nói và tiếng cười vang vọng ra từ một lùm cây. Những giọng nói càng đến gần và xuất hiện một đám người da sậm như đồng cỏ và nô đùa vui vẻ. Những người khổng lồ! Tất cả đều cùng lứa như nhau! Tôi nh́n lại thân ḿnh: Tôi cũng vậy, tôi cũng là một người khổng lồ. Những ấn tượng tiếp diễn theo nhau trong trí tôi: Ngày xưa, hàng bao nhiêu ngh́n muôn năm trở về trước, quả địa cầu ở gần mặt trời hơn bây giờ, những sự luân chuyển của nó lại đi theo một hướng ngược chiều. Những ngày lại ngắn hơn và nóng hơn bây giờ. Những nền văn minh vĩ đại đă được xây dựng nên và nhân loại thời ấy thông thái hơn người đời nay. Từ chốn không gian bên ngoài bổng nhiên một bầu hành tinh di động xẹt ra và chạm vào trái đất, làm cho trái đất bị dội ngược lại, bật ra khỏi vĩ đạo của nó, và xoay ngược chiều những cơn giông bảo làm chấn động biển cả và nước biển trào lên các lục địa, nước biển tràn ngập khắp nơi, quả địa địa cầu lại rung chuyển bởi những cơn động đất dữ dội. Nhiều vùng lục địa bị sụp lở và ch́m xuống nước, những vùng khác lại trồi lên mặt biển. Xứ Tây Tạng, được đội lên trên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, không c̣n là một xứ nhiệt đới có bờ biển, một nơi nghĩ mát có thời tiết ôn ḥa, dễ chịu nữa. Những dăy núi cao vút, những quả diệm sơn phun lửa và phun thạch bao vây chung quanh, chặt chịa như vách thành. Trên vùng thượng du, đất đai bị nứt nẻ ra thành những vực thẩm, tại đó loài cầm thú và thảo mộc của những thời đại đă qua vẫn tiếp tục sinh trưởng. Nhưng có rất nhiều điều mà tôi không tiện nói ra, và một phần cuộc lễ điểm đạo của tôi thật quá thiêng liêng và có tính cách quá riêng tư để có thể công bố trong một quyển sách dành cho đại chúng.
Sau một thời gian, những linh ảnh đă lu mờ dần và biến mất. Lần lần tôi đă mất cả ư thức về cơi siêu linh và cả ư thức về cơi phàm trần. Sau đó, tôi có cái cảm giác khó chịu là bị lạnh lẽo kinh khủng v́ nằm dài quá lâu trên một phiến đá trong bầu không khí lạnh buốt của ngôi mộ cỗ. Những tư tưởng lạ từ bên ngoài đến "Thăm ḍ" khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó.
- A, y đă trở lại với chúng ta. Chúng ta đă đến kịp giờ.
Nhiều phút trôi qua một ánh sáng lu mờ từ từ tiến đến gần tôi. Những ngọn đèn bơ và ba vị Sư Trưởng.
- Con hỡi, con đă vượt qua cuộc thử thách con đă nằm trên phiến đá này suốt ba ngày ba đêm. Bây giờ, con đă nh́n thấy, con đă trải qua sự chết và con đă sống lại.
Khi ngồi dậy, tay chân cứng đơ, tôi lảo đảo v́ yếu sức và v́ không cử động lâu. Khi tôi bước ra khỏi ngôi mộ cỗ mà tôi không bao giờ quên suốt đời tôi, tôi đă thở bầu không khí lạnh như băng trong các đuờng hầm bí mật. Cơn đói khát làm cho tôi muốn xỉu và tôi bị hoang mang xúc động bởi tất cả những ǵ tôi nh́n thấy, bởi tất cả những ǵ mà cái kinh nghiệm vừa qua đă cho tôi biết. Về đến đạo viện, tôi ăn uống đến thỏa ḷng; đêm đó khi tôi đi ngủ, tôi hiểu rằng những lời tiên tri sẽ được thực hiện và không bao lâu tôi phải rời khỏi xứ Tây Tạng để đi đến những xứ xa lạ. Bây giờ, khi tôi đă biết những xứ ấy rồi, tôi có thể nói rằng đối với tôi những xứ ấy có vẻ kỳ dị hơn là tôi tưởng tượng!
Vài ngày sau đó, tôi cùng với sư phụ đang ngồi trên bờ sông hạnh phúc th́ một người kỵ mă phi nước đại chạy ngang. Khi y nh́n ra Minh Gia Đại Đức, y đột ngột dừng ngựa đến nỗi vó ngựa hất văng những đám mây bụi xoay tít trong cơn gió lốc. Y xuống ngựa và nói:
- Tôi có mang thông điệp của đấng thậm thâm gửi cho vị Lạt Ma Lâm Bá.
Y rút trong túi áo một bức thơ bao bọc ở trong một khăn choàng theo nghi lễ truyền thống, và sau khi chuyển giao bức thư cho tôi với ba lần vái chào y bèn lui gót thót lên lưng ngựa và phóng nước lớn đi ngay.
Lúc ấy tôi không c̣n e dè sợ sệt ǵ nữa; kinh nghiệm vừa rồi của tôi ở dưới hầm điện Potala đă đem cho tôi sự tự tin. Tôi bèn mở bao thơ và đọc bức thông điệp trước khi chuyển giao cho Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Tôi nói:
- Sáng ngày mai, con phải đến vườn Ngọc Uyển để bái yết đấng thậm thâm. Ngài cũng có mời sư phụ cùng đến.
Sư phụ tôi đáp:
- Lâm Bá, tuy thầy không có thói quen thăm ḍ những ư định thầm kín của đức Thái Tế, nhưng thầy cảm thấy rằng không bao lâu con sẽ lên đường sang Trung Hoa. C̣n thầy, th́... như thầy đă nói với con, không lâu nữa thầy sẽ từ giă cơi trần để quay về thượng giới. Chúng ta hăy vui với ngày hôm nay va tận dụng thời giờ ít oi c̣n lại.
Qua ngày hôm sau, một lần nữa tôi theo con đường quen thuộc đến vườn Ngọc Uyển; sau khi xuống chân đồi tôi đi trên đường Lingkhor và đến trước cổng vườn. Minh Gia Đại Đức cùng đi với tôi. Hai thầy tṛ chúng tôi cùng có một tư tưởng giống nhau: Có lẽ chúng tôi đang cùng đi chung một lần cuối cùng để viếng thăm đấng thậm thâm. Những cảm nghĩ đó chắc hẵn đă hiện rỏ trên nét mặt của tôi v́ khi tôi ngồi một ḿnh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài nói:
- Giờ phút chia ly, để mỗi người đi một đường bao giờ cũng đầy sự sầu thảm bi ai. Ở đây, trong ngôi nhà mát này, ta đă suy gẫm nhiều giời về vấn đề tối hậu nầy, là nên ở lại hay nên đi khi xứ sở ta bị nạn ngoại xâm? Dầu cho ta quyết định như thế nào cũng có người phải chịu khổ sở. Lâm Bá con hỡi, con đường của con đă được vạch sẵn và tất cả con đường đều khó nhọc gian nan. Gia đ́nh, tổ quốc, bạn bè... con phải bỏ hết tất cả. Con sẽ gặp trên bước đường đời của con như con đă biết trước, sự hiểu lầm, sự nghi nan, đố kỵ cùng sự ngược đăi tra tấn và tất cả những ǵ đau khổ đắng cay. Cách xử thế của những người ngoại quốc rất kỳ dị và không thể giải thích. Như ta đă nói với con, họ chỉ tin nơi những ǵ họ có thể làm, những ǵ họ có thể phân chất trong các pḥng thí nghiệm khoa học. C̣n cái khoa học quan trọng nhất là khoa học về chân ngă, th́ họ không quan tâm. Đó là con đường của con, con đường mà con đă chọn trước khi sinh ra ở kiếp này. Ta đă quyết định biệt phái con sang Trung Hoa năm ngày nữa.
Năm ngày! Chỉ c̣n năm ngày thôi trong khi tôi hy vọng sẽ dài đến năm tuần lễ.
Trên đường về tu viện Chakpori, sư phụ và tôi không trao đổi với nhau một lời nào. Khi về đến tu viện người mới nói.
- Lâm Bá, con phải về thăm cha mẹ, thầy sẽ cho người đi báo tin cho cha mẹ con hay trước.
Cha mẹ tôi? Thầy tôi đă đối xử với tôi c̣n hơn cả bậc phụ mẫu. Và không bao lâu người sẽ từ giả cuộc đời: Người sẽ từ trần trước khi tôi quay trở về Tây Tạng trong vài năm sau. Di tích của người để lại cho tôi là cái xác ướp mạ vàng đặt tại pḥng các vị hóa thân, cái thể xác vô tri mà người vứt bỏ như một cái áo cũ đă trở nên vô dụng.

Qua ngày thứ ba, tôi trở về nhà cũ của tôi. Tôi đi một ḿnh và đi bộ như cái ngày mà tôi rời khỏi nhà để đi vào tu viện. Nhưng trong thời gian qua tôi đă trở nên một vị Lạt Ma và một vị Sư Trưởng. Cha mẹ tôi đợi tôi ở nhà và đón tiếp như một vị thượng khách. Tối hôm ấy tôi lại đến văn pḥng của cha tôi để kư tên vào quyển gia phả và ghi vào đó những tước vị của tôi. Sau đó, tôi lại đi bộ trở về tu viện, nó đă trở nên nhà của tôi từ bấy lâu nay.
Hai ngày cuối cùng cũng trôi qua rất mau. Trước ngày lên đường tôi đến bái yết Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần cuối cùng. Tôi nói vài lời từ giả và ngài ban ân huệ cho tôi. Ḷng tôi se thắt khi tôi từ biệt ngài. Cả ngài và tôi đều biết rằng tôi sẽ gặp ngài lần nữa khi ngài từ trần ở cơi giới bên kia.
Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào lúc b́nh minh, bước đi chậm chạp và ḷng không hứng khởi. Lại một lần nữa tôi bước chân trên con đường thiên lư không một mái nhà riêng, hướng về những chân trời xa lạ. Tôi phải bắt đầu lại tất cả. Đi đến điểm cao tột của truông núi, tôi quay đầu nh́n lại rất lâu, và đó cũng là cái nh́n cuối cùng của tôi xuống thành phố thánh địa Lhasa.
Một con diều đơn chiếc đang bay lượn trên điện Potala.


                                       

 

                                         Nguyên tác : The Third Eye

                                         Dr. T. Lobsang Rampa

                                          Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 235 of 2534: Đă gửi: 07 June 2008 lúc 9:16am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ MẬT NHỮNG NGÔI NHÀ MA

 

Những bóng ma là kết quả của trí tưởng tượng của chúng ta, hay xuất phát từ những nguyên nhân có thực từ cảm giác kỳ lạ về sự hiện hữu của một linh hồn?

Tất cả bắt đầu cách đây ba năm. Richard Wiseman nhận được giấy phép tiến hành các thí nghiệm tại hai trong số các địa điểm "bị ma ám" nổi tiếng thế giới:

Cung điện Hampton Court gần London và cây cầu Nam Edinbourg xứ Ecot. Địa điểm đầu tiên nơi ở cũ của Hoàng đế Henri VIII, theo nhiều lời đồn đại thường xuất hiện bóng ma của hoàng hậu thứ năm, người đă bị kết án tử h́nh vào thế kỷ thứ mười bảy v́ tội ngoại t́nh.

C̣n về địa điểm thứ hai dưới ṿm cầu, nơi có hàng trăm xác chết, nạn nhân của bệnh dịch hạch vào thế kỷ thứ mười bảy bị lăng quên, sau đó những địa điểm này được mở cửa lại vào năm 1996. Kể từ đó bóng ma bắt đầu lảng vảng..

Richard Wiseman đă chọn ra bảy trăm người t́nh nguyện tham gia quá tŕnh nghiên cứu. Với một bộ câu hỏi trong tay, họ được đưa vào những địa điểm "ma" với nhiệm vụ ghi lại "tất cả những ǵ khác thường" trong mỗi một gian pḥng.

Kết quả là một nửa số người t́nh nguyện có ít nhất một lần gặp cảm xúc "kỳ quặc", thậm chí một cảm giác về những "sự hiện h́nh không thể giải thích" mà họ cho rằng thực sự là những bóng ma.

Sự trùng hợp gây bối rối. Tất nhiên tất cả t́nh nguyện viên đều biết rơ những ǵ họ sắp trải qua nên có thể "thần hồn nát thần tính". Nhưng tại sao lại chỉ ở các gian pḥng nổi tiếng "ma ám''?

Để khám phá bí ẩn này, Richard Wiseman và nhóm của ông đă xem xét tỉ mỉ một vài địa điểm "nhiều ma nhất'' và một vài khu vực "b́nh thường". Họ đă sử dụng những từ kế siêu chính xác để đo từ trường, thiết bị kiểm tra sự di chuyển của không khí và máy đo cường độ ánh sáng. "Những kẻ săn ma" cũng nghiên cứu ở các lối đi khác nhau của các đường quanh và ở các độ cao khác nhau.

Kết quả đầu tiên: Trong những gian pḥng "b́nh thường" ở Hampton Court, từ trường gần như tương đương với từ trường của Trái Đất, năm mươi microtesla (ut). Nhưng trong các gian pḥng "có ma", máy đo ghi nhận có những thay đổi đột ngột về từ trường, dao động một vài phần mười microtesla trong vài phút.

Những biến đổi này có thể liên quan đến hệ thống điện chiếu sáng trong lâu đài. Tuy nhiên một số nhà khoa học cho rằng từ trường có thể gây ra đau đầu, hoa mắt và những rối loạn nhỏ, nhưng để đạt đến điều đó, cần phải đạt đến con số 60.000 ut!

Giả thuyết từ trường của Richard Wiseman dường như không đi đúng hướng. V́ lẽ rằng tại địa điểm thứ hai cây cầu Edinbourg, người ta không đo được bất kỳ một thay đổi nào của từ trường. Thường ở những khúc quanh tối nhất lớn nhất và có trần cao nhất, th́ những cảm giác kỳ lạ xuất hiện nhiều nhất.

"Có thể đó là những khu vực mà người ta cảm thấy nhỏ bé và vô nghĩa, nơi mà tṛ chơi của bóng tối phát huy nhiều nhất" Richard Wiseman b́nh luận. Tóm lại một gian pḥng sầu thảm rất thuận lợi cho sự xuất hiện của ''bóng ma''. Tuy nhiên đây chưa phải là một kết luận khoa học. V́ vậy, những bí ẩn về ngôi nhà ma chắc c̣n lâu mới sáng tỏ.

                                                

                                                                 Sưu Tầm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 236 of 2534: Đă gửi: 07 June 2008 lúc 9:40am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CĂN PH̉NG ÁP MÁI

 

 Họ ḍ dẫm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn pḥng áp mái bụi bặm. Alastair cẩn thận đặt từng bước lên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh ta đẩy hai cánh cửa khép hở ra.

 - Hăy tự nhiên như ở nhà.

 Anh ta nói, vẫy họ vào qua cánh cửa bên phải.

 - Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ tạp nham. Nếu cần mời anh sang đấy xem qua.

 Bên trong căn buồng ngủ đêm của anh tối mịt, ngoại trừ chút ít ánh sáng yếu ớt mùa đông hắt vào qua ô cửa sổ bé xíu duy nhất. Anh bước về phía đó sát góc buồng, mặt biển trải rộng ngút tầm mắt.

 Alastair cúi xuống bật đèn bàn.

 - Nguồn ánh sáng duy nhất.

 Anh ta nói:

 - Tôi hy vọng nó đủ sáng.

 Anh đặt va ly xuống giường.

 - C̣n một chiếc đài nữa. Có thể làm anh vui được.

 - Cám ơn.

 Anh nh́n chiếc đài cổ lỗ thô kệch.

 - Dù sao cũng xuống nhà làm ngụm nhỏ đă, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm, gặp người đến bắt con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước ?

 - Tôi xem qua mấy phút thôi.

 Anh cẩn thận rà soát cánh cửa, ổ khóa to ch́a khóa cắm bên ngoài. Then cửa bên trong khá to đă gỉ sét. Anh ngó qua cái tủ tường ở góc buồng to bằng một gă đàn ông. Ngó ra sau lưng nó những tấm gỗ vẫn c̣n chắc chắn. Anh ngồi xuống giường nhún lên nhún xuống, nh́n vào gầm giường.

 - Được rồi, anh nói.

 - Sẽ xong thôi.

 - Tốt quá. Thôi xuống nhà đi.

 - Ta quên một thứ, Duncan nói:

 - Chiếc chuông..

 - Đúng rồi.

 Alastair vươn về phía trước túm lấy sợi dây treo từ trên trần dài độ vài phân, lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau.

 - Để báo hiệu, Kevin cáo già ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó có ở đây lâu lắm rồi nhưng vẫn kêu tốt.

 - Này, Kevin nói:

 -Tôi cóc cần cái chuông đỏ như máu kia của anh.

 - Được rồi, anh sẽ không cần đến nó.

 - Khoan một chút, anh nói:

 - Tốt hơn nên nói với anh điều này.

 Anh mở va ly lấy ra khẩu súng ngắn.

 - Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy.

 Rồi anh đặt nó xuống bàn.

 - Con ma nào dám trêu ngươi sẽ lĩnh ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rơ hơn trước khi chúng ta bắt đầu.

 - Mày nghe rơ chưa ma ?

 Alastair ngửa cổ lên trần nhà nói vui:

 - Nếu mày ló mặt mày sẽ ăn đạn vào bụng đấy.

 Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong pḥng vẽ không đủ ánh sáng.

 - Mẹ, đây là Kevin Donaldson. Anh ấy đến từ Australia.

 Bà mẹ già cười tươi hỏi han. Trước kia bà đă đến nước Australia từ khi chồng bà c̣n sống, và bà rất yêu đất nước đó. C̣n giờ đây làm sao để bắt được con ma của ngôi nhà Drumkattle ?

 Alastair phân bua. Đó chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm bà người hầu ngủ trên giường bất ngờ bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rơ hung thủ là ai. Kevin sẽ ngủ hoặc là cố để ngủ trong căn buồng đó.

 - Năm mươi pao th́ nhiều đấy, bà Moncrieff nói.

 - Nhiều nhưng với con thôi. C̣n Kevin anh ấy giàu có, chính anh ấy mới là người sẽ phải trả..

 Kevin cười.

 - Tôi không tin thế.

 Đă hơn mười một giờ đêm, một ḿnh anh ở trong căn buồng áp mái cửa khóa trái bên ngoài. Khẩu súng để ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ, nếu bóng ma xuất hiện trong trang phục quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng mười hai không trăng. Căn buồng tối đen lại nếu anh tắt chiếc đèn bàn bên đầu giường. Chiếc cửa sổ h́nh chữ nhật, con mắt duy nhất nh́n ra biển Bắc, hắt một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.

 Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nh́n trang b́a sách nhưng tâm trí vang măi lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ trôi qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông, họ sẽ bẽ bàng ra sao trước mắt anh, c̣n chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ, họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.

 Ư nghĩ thứ hai chợt đến, làm ǵ có ai để người trong nhà này đi thông báo; Drumkattle là ngôi nhà duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe được tiếng chuông. Vậy th́ khỏi rung chuông nữa.

 Anh đă thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc đài bên cạnh, lắng nghe chương tŕnh "Nhạc đêm khuya" trên sóng đài Home. Anh chuyển sang sóng đài Light đang phát bản nhạc jazz, cuối cùng chọn đài Hamburg với nhạc valse. Anh ngồi dậy thay quần áo mặc ngoài.

 Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần cuối và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả ḿnh xuống chiếc giường gỗ hẹp, có thể t́nh trạng không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc b́nh minh, với tay tắt đèn. Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh tắt nốt chiếc đài.

 Không dám chắc có phải ḿnh thức giấc thật không nhưng rơ ràng anh nghe thấy tiếng động vào lúc một giờ sáng. Thoạt đầu anh không tài nào định hướng được âm thanh đó, dần dần như mái nhà thủng ra và nước nhỏ xuống sàn. Anh đợi một lúc cho chắc chắn và bất ngờ bật đèn.

 Thật lạ không c̣n âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn. Lần này chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe thấy âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa pḥng.

 Anh thấy lạ khi có một tiếng động ngay cạnh đầu, bực ḿnh quá anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập rộn, hai bên thái dương rần rật. Tiếng động của thứ chất lỏng nọ giờ thành đối âm với nhịp lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước rỉ đổi vị trí cứ như có một lỗ thủng khác ở trên mái. Anh bật đèn lên âm thanh nọ lại ngừng bặt.

 Anh bật dậy nh́n qua ô cửa sổ, lại gần tḥ tay ra ngoài: trời có mưa đâu nhỉ. Quái lạ! T́m thế nào đi nữa anh vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ mở toang hai cánh ra, ngỡ tưởng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng. Để nguyên đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nh́n đồng hồ ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.

 Chắc anh đang ngáy bỗng nhiên giật ḿnh v́ có tiếng người nói, anh bật thẳng dậy tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ giọng một cô gái du dương. Anh căng tai và từ rất xa rất nhẹ dường như nó gọi :

 - Kevin !

 Thật vô lư. Anh sẽ không tự biến ḿnh thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh lại bật đèn mọi thứ ch́m vào im lặng. Anh nguyền rủa. Hơi mệt và bực dọc. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng ran rát, tai nghe rơ nhịp đập của tim anh thoắt với lấy khẩu súng.

 - Anh đang nằm, giọng nói lại vang lên.

 - Giữa vũng máu của tôi Kevin ạ.

 Anh mở miệng hỏi lại giọng nói kia nhưng sao không lời nào thốt ra được. Măi sau, bằng một giọng nói hoàn toàn không phải của ḿnh anh hỏi:

 - Sao...sao lại thế....

 - Không làm ồn Kevin. Tôi tới đây để giết anh.

 Anh cười tỏ vẻ can đảm.

 - Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao ?

 - Kevin, bởi v́ căn buồng này chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đă chết trên chiếc giường đó.

 Mọi thứ ngưng lặng chốc lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không c̣n chịu được nữa.

 - Tôi đă chết trên chiếc giường này, Kevin, trong ṿng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đă giết tôi khi tôi đang khóc tức tưởi..

 Một tia ư nghĩ vụt qua óc khiến anh chú ư đến chiếc công tắc đài. Nó vẫn ở vị trí tắt. Giọng cô gái lại cất lên.

 - Hỡi Kevin Donaldson v́ anh chỉ c̣n được sống vài phút nữa thôi. Anh đă nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh.

 Lạ thay tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nh́n được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao đúng, tại sao không nghĩ đến việc mang theo chiếc đèn pin. Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm anh nguyền rủa bản thân v́ sự thực đó, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson tỏa ánh sáng dầu tù mù anh không thấy ǵ cả.

 Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Lần nữa anh chú ư tới chiếc đài và chắc chắn nó phát ra từ đó, thậm chí công tắc vẫn tắt. Tức quá anh vung cú đấm vào mặt chiếc đài. Giọng nói vẫn tiếp tục nhưng có lẽ lúc này anh đă quá phấn khích và mệt nên không hiểu nó nói ǵ. Nhưng đúng là chiếc đài rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.

 Như cố t́nh trêu ngươi giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng mới thật hăi hùng ập đến, nhận ra nó vẫn ở trong pḥng, anh ném chiếc đài xuống sàn làm nó nứt ra, chưa thỏa anh c̣n lấy đập loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục miếng nhỏ.

 Giọng nói lại càng rơ hơn:

 - Có ích ǵ hơn đâu Kevin. Anh không thể thay đổi được số phận mà số anh là số chết. Chết ngay trong đêm nay.

 Anh bật lửa trong pḥng trống rỗng. Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc pḥng khiến anh rùng ḿnh. Tiếng nhỏ giọt đă trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt nh́n đăm đăm vào một điểm trong bóng tối.

 Anh nh́n không biết bao lâu như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh ṿng qua giường lại gần nó, ở đấy chắc chắn có một cái ǵ đấy. Phát điên lên anh mắm môi mắm lợi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.

 Anh kêu lên kinh hăi hơi thở dồn dập. Ánh sánh quá yếu nhưng cũng đủ soi rơ một h́nh người, một h́nh người đứng gần tủ. Khuôn mặt nếu được gọi đó là khuôn mặt, màu xanh tái và quần áo nếu cũng có thể gọi là quần áo màu tối có lẽ là màu đỏ. H́nh như người ấy đang nói vẫn giọng nói nọ, giọng nữ nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.

 Anh quỵ xuống giường người cứng đơ.

 - Ai... cút...

 Anh thét lên hoảng hốt.

 - Cô là ai ? Sao vào được đây ?.. Tôi sẽ giết cô đấy cô bạn. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi..Lời cảnh cáo cuối cùng...

 - Đạn không giết được tôi đâu Kevin. Một người đàn ông đă làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không c̣n thằng đàn ông nào nữa và không c̣n viên đạn nào đâu..

 - Tôi cảnh cáo lần cuối ! Anh rít lên.

 Anh nổ súng bắn thẳng vào h́nh người và kết quả làm anh chết lặng. Một ư nghĩ đen tối vẫn lên trong đầu anh. Khói súng vừa hết anh nh́n thấy một khuôn mặt trắng bợt vẫn nguyên chỗ cũ.

 Anh thét lên bắn, bắn tiếp bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy h́nh người đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này th́ không thể không báo nguy cho mọi người.

 Nghĩ vậy tay trái rung chuông, tay phải vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ c̣n phát ra những tiếng cạch... cạch... khô khốc. H́nh người đă chận lên ḿnh anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm không phải vị ngọt, máu anh biết đó là máu.

 Tay chạm được dây chuông anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. H́nh người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Tối mịt mùng.

 Mấy tháng sau kevin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không c̣n được tin tức ǵ về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng, cho tới khi cả ṭa nhà đổ sụp xuống, hai, ba mươi năm sau này.

 

                                                     Tô Đức Huy dịch

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 237 of 2534: Đă gửi: 07 June 2008 lúc 9:47am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THE EMAILER

 

 Năm đó tôi đang học năm thứ hai ở Duke University. V́ không có xe và nhà ở thành phố khác nên tôi xin nội trú trong trường. Tôi ở một ḿnh trong một pḥng tại tầng trên cùng của một building rất cũ, nó đă được xây trên trăm năm rồi. Bên kia hành lang đối diện với pḥng tôi là một căn pḥng rất lớn nhưng không có ai ở cả. Nó được dùng để chứa các vật dụng của trường thôi !

 Sau khi trở lại trường sau những ngày nghỉ lễ Christmas, một cô bạn cảnh cáo tôi là cái pḥng đối diện pḥng tôi có ma ! Một nam sinh viên đă tự tử trong đó vào năm 1945, và nhà trường đă quyết định dùng nó để chứa đồ chứ không cho ai ở từ năm đó.

 Cô ta khuyên tôi đừng bao giờ chơi tṛ cầu cơ trong building này v́ sẽ gặp con ma này ngay. Bạn của cô ta đă đối đầu với linh hồn này rồi trong một cuộc cầu cơ vào năm ngoái. Tôi không chơi cầu cơ nên chẳng lo ǵ cho lắm. Nhưng cái chuyện ma này làm cho tôi hơi áy náy nên tôi thường đưa mắt nh́n qua cái pḥng đối diện mỗi khi ra vào pḥng ḿnh.

 Một hôm nọ trong lúc vội vă ra khỏi pḥng để đi đến lớp, tôi nghe văng vẳng có tiếng hát điệu thánh ca bằng tiếng La Tinh vọng ra từ pḥng đối diện. Nhưng v́ vội đi học, và nghĩ là chắc có ai vào đó lấy vật dụng và hát nên tôi chẳng chú ư ǵ thêm.

 Trưa đó về lại pḥng tôi mở computer đọc emails, xong tắt máy và vào pḥng ngủ. Tôi thường cho phép ḿnh làm một giấc ngủ trưa ngắn trước khi đến các lớp vào buổi chiều. Trong khi tôi c̣n đang mơ màng th́ nghe có tiếng "beep" như vẫn thường nghe khi có một email mới.

 Vài phút sau tôi lại nghe thêm một tiếng "beep" nữa. Tôi nhớ là ḿnh đă tắt máy trước khi vào pḥng rồi mà. Chắc là tôi nghe lầm trong lúc mơ màng thôi.

 Khoảng một giờ sau tôi thức dậy và ra pḥng ngoài. Cái computer của tôi đă mở từ bao giờ. Tôi đến xem th́ thấy ḿnh có hai cái emails mới, và chúng đến sau khi tôi đă lên giường.

 Tôi đă nghe đúng hai tiếng báo "beep" trong lúc mơ màng. Tôi đâm ra ngờ ngợ không biết có đúng ḿnh đă tắt máy chưa nữa. Tôi coi tên người gửi là một tên mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Tôi mở emails xem th́ chỉ thấy câu

 " Hi there " Trong cả hai cái emails đó. Nhưng đă tới giờ đi học nên tôi vội vơ vài cuốn vở tắt computer, rồi bước ra ngoài khóa cửa pḥng lại.

 Khi tan lớp học tôi trở về pḥng. Trước mắt tôi là cánh cửa pḥng hé mở. Pḥng này chỉ ḿnh tôi ở nên khi thấy cửa bị mở tôi sợ run cả người lên. Ai đó đă lẻn vào pḥng trong lúc tôi đến lớp.

 Thu hết can đảm tôi ghé mắt nh́n qua khe cửa. Hú hồn chỉ có cô bạn tôi đang ngồi dùng cái computer trên bàn thôi. Tôi đẩy cửa bước vào. Cô bạn thấy tôi và nhảy dựng lên mắt tṛn xoe v́ kinh ngạc.

 - Mày ở đâu về đó ? Vậy ai ở trong pḥng tắm vậy ?

 - Tao mới xong hai giờ toán về đây !

 Mặt cô ta bắt đầu tái xanh đi mắt nh́n dáo dác, giọng như muốn líu lại:

 - Tao lên đây gỏ cửa và nghe có tiếng nói :

 - Cứ vào.

 Tao xoay nắm cửa thấy không khóa nên đẩy cửa vào đây và nghe có tiếng nước ṿi sen chảy trong pḥng tắm, nên nghĩ mày ở trong đó. Thấy computer mở sẳn nên tao check emails của tao, đang đọc chúng th́ mày về tới. Tao nghe rỏ ràng có tiếng nước chảy trong pḥng tắm mà. Vậy ai là người đang tắm trong đó ?

 Tôi cũng thấy rợn cả người. Nhưng cũng làm gan đẩy cửa pḥng tắm xem có ai không. Không có một ai cả. Cô bạn tôi vội vă cáo từ chứ không nán lại tán chuyện như mọi khi.

 Lần này th́ tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa rồi. Có ai đó hiện diện trong pḥng tôi. Tôi cảm thấy điều đó v́ tôi đang có cái cảm tưởng là ai đó đang nh́n lén ḿnh. Một điều tôi biết chắc là tôi đă tắt computer và khóa cửa pḥng trước khi đến lớp rồi, nhưng khi về th́ pḥng không khóa và computer đă được mở lên.

 Chắc đó là con ma ở pḥng đối diện sang viếng pḥng tôi rồi. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Con ma đó thật sự hiện hữu chứ không phải là do lời đồn đại đâu. Dù sao đi nữa th́ con ma này cũng không đến độ phá phách lắm, ngoài việc mở computer để gửi emails, nó không chuyển dịch bất cứ vật ǵ trong pḥng cả. Tôi cho nó chỉ là con ma hiền và thân thiện.

 Nhưng cái cảm giác có người hiện diện trong pḥng theo tôi cho cả khi lên giường đi ngủ. Tôi cứ thấy rờn rợn thế nào ấy. Đến gần nữa đêm tôi mới bắt đầu chợp mắt được.

 Đột nhiên tôi cảm thấy có bàn tay ai đó rờ vào vai ḿnh. Tôi ngồi bật dậy nh́n quanh. Không một bóng người, chỉ có tiếng tích tắc của cái đồng hồ báo thức trên đầu tủ. Tôi nằm xuống lại và lấy chăn trùm kín đầu như tôi vẫn làm hồi c̣n bé mỗi lần nghe bố mẹ kể chuyện ma.

 Nhưng tôi vẫn không sao ngủ lại được. Cái cảm giác đó vẫn đeo đuổi tôi và lưng tôi vẫn rờn rợn từng cơn sóng lạnh v́ sợ. Cuối cùng tôi bật miệng nói một ḿnh như nhắn với con ma vô h́nh đó:

 - Tôi không phá ǵ bạn xin bạn đừng phá tôi. Lạ thay vừa nói xong th́ cái cảm giác rờn rợn bổng biến đi mất. Tôi thấy tâm thần yên ổn trở lại rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

 Kể từ đêm hôm đó tôi không c̣n thấy computer bị mở lên một cách tự nhiên nữa, và cái cảm giác như có ai đó hiện diện trong pḥng cũng không c̣n. Tuy thế thỉnh thoảng khi ở hành lang tôi vẫn nghe tiếng hát thánh ca bằng tiếng La Tinh vọng ra từ cái pḥng đối diện. Tôi không sợ hăi nó nữa, v́ con ma không c̣n vào phá tôi trong pḥng, và nó chỉ là một con ma hiền lành thôi.

Chú thích: Dựa theo lời kể của một nữ sinh viên trường đại học Duke North Carolina USA.

                                                               

                                                             Tam Tang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 238 of 2534: Đă gửi: 07 June 2008 lúc 10:08am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ĐẦM LẦY TRĂNG

 

 Tôi không biết giờ đây Dennis Barry đang ở đâu, ở cái nơi xa thẳm khôn cùng và ảm đạm nào? Vào cái đêm khi chàng c̣n sống với mọi người lần cuối cùng, tôi cách chỗ chàng không xa và nghe thấy tiếng người ta đến bắt chàng đi, cùng những tiếng kêu xé ḷng xé ruột của chàng. Nông dân và cảnh sát hạt Meath không t́m thấy cả Barry lẫn những người khác, mặc dầu họ đă kiên nhẫn sục sạo mọi nơi, mọi chốn. C̣n tôi, sau tất cả những chuyện đă xảy ra, cứ mỗi khi nghe tiếng động ộp oạp của lũ ếch nhái đầm lầy vang tới hoặc bỗng nhiên tôi lạc tới một vùng đầy ánh trăng ở một chốn đồng không mông quạnh nào là bất giác tôi lại thấy khắp người nổi gai ốc v́ sợ hăi.

 Quen thân với Dennis Barry từ khi c̣n ở đất Mỹ, nơi chàng đă phất lên giàu có, nên tôi rất vui khi biết chàng đă chuộc lại ṭa lâu đài của ḍng tộc ḿnh tại vùng đầm lầy hoang vắng Kilderry. Chính đó là nơi chôn nhau cắt rốn của chàng, và chàng những muốn được tận hưởng những thành quả giàu có của ḿnh giữa những bức tường thân thuộc của cha ông. Thuở xưa, tổ tiên chàng sở hữu xứ Kilderry, tại đây họ đă xây cất một ṭa lâu đài và sống hạnh phúc trong ṭa lâu đài ấy, nhưng nay tất thảy những điều đó đă trở thành quá khứ xa xăm. Đă bao tháng trôi qua kể từ khi ṭa lâu đài trở nên hoang phế hoàn toàn. Sau khi trở về Ireland, Barry thường gửi thư cho tôi và kể chuyện việc quần thể kiến trúc cổ kính đó được tái sinh dần dần, hết ngọn tháp này đến ngọn tháp khác. Và sau bao thế kỷ những bức tường lâu đài lại được trang trí lại đẹp đẽ như xưa, c̣n nông dân th́ không ngớt lời ca ngợi và tỏ ḷng biết ơn chàng đă bỏ vốn đầu tư cho sự thịnh vượng của chốn quê hương. Nhưng sau đó mọi việc đă thay đổi, đám nông phu thôi không ca ngợi ông bạn tôi nữa, mà trái lại, họ bắt đầu t́m cách tránh xa chàng như tránh xa kẻ mang bệnh dịch hạch. Chính lúc đó Dennis đă viết thư cho tôi, yêu cầu tôi tới thăm v́ chàng rất cô đơn trong ṭa lâu đài, thậm chí chẳng có ai để mà nói chuyện nữa, ngoại trừ những người giúp việc và đám gia nhân chàng thuê từ miền bắc xuống.

 Khi tôi đến nơi, Barry kể cho tôi hay rằng nguyên do mọi chuyện là ở những đầm lầy bên cạnh. Tôi đến Kilderry lúc hoàng hôn, ánh mặt trời lúc chiều tà vẫn thếp vàng lên các ngọn đồi xanh và những cánh rừng, cũng như lên màu lục của khu đầm lầy. Nó chiếu sáng cả những phế tích cổ kính kỳ lạ trên ḥn đảo nhỏ xa xa. Cảnh hoàng hôn thật đẹp, song nông dân ở Ballylow đă kịp phần nào khiến tôi lưu ư đến niềm tin của họ, khi họ quả quyết rằng Kilderry thật đáng nguyền rủa, và tôi dè dặt liếc nh́n những ngọn tháp nhỏ của ṭa lâu đài đang ánh lên vàng rực dưới nắng chiều. Tôi rời Ballylow bằng chiếc ô tô do người ta sai đến đón, v́ Kilderry nằm cách đường xe lửa khá xa. Những người nông dân cố tránh xa chiếc ô tô và người tài xế quê miền bắc, nhưng khi thấy tôi chuẩn bị đi tới Kilderry, họ vẫn không ḱm được vào báo trước cho tôi phải đề pḥng nguy hiểm. Buổi tối, tôi đă có mặt trong ṭa lâu đài, Barry đă kể tôi nghe mọi chuyện.

 Nông dân lũ lượt rời bỏ Kilderry chỉ v́ Dennis Barry quyết định cho hút cạn cái đầm lầy lớn. Mặc dù t́nh yêu quyến luyến với xứ sở Ireland quê hương thật sâu đậm nhưng những lề thói quen thực dụng Mỹ đă ăn sâu bám rễ trong con người Barry, bởi thế chàng không chịu được với ư nghĩ để cho mảnh đất màu mỡ kia bỏ phí dưới làn nước đầm lầy, bời đó chính là đầm than bùn và đất dưới nó c̣n có thể được sử dụng một cách không ngoan để sinh lợi nữa chứ. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những câu chuyện truyền thuyết và những lời đồn đại mê tín gắn với khu đầm lầy. Chàng chỉ thấy tức cười khi lúc đầu, nông dân chối từ tham gia công việc, rồi sau đó khi thấy sự bướng bỉnh của chàng, họ bắt đầu nguyền rủa ông chủ của ḿnh và bỏ đi tới Ballylow, chỉ mang theo những thứ thiết yếu nhất. Thấy vậy Barry bèn tuyển những người thợ từ miền bắc về, và khi cả đầy tớ gia nhân cũng bỏ ṭa lâu đài ra đi, th́ chàng lại phải thuê những người mới. Giờ đây xung quanh chàng toàn những kẻ xa lạ, bởi thế chàng thấy cô đơn và đă mời tôi về sống với chàng.

 Sau khi nghe kể chi tiết chuyệc dân cư ở Kilderry sợ hăi điều ǵ, tôi cũng cả cười cùng ông bạn ḿnh: hóa ra những mối e sợ của họ liên quan tới điều mê tín về vùng đầm lầy và kẻ canh giữ cau có nơi đây mà linh hồn của nó dường như sống ở chính trong đám phế tích cổ kính nhất mà tôi đă trông thấy lúc hoàng hôn là những mối lo sợ vớ vẫn. Người ta cũng truyền tụng những lời đồn đại về những tia lửa ma trơi nhảy múa trong bóng tối, về những cơn gió lạnh như băng giá lúc vào đêm hè nóng nực, về những bóng ma bận xiêm y trắng lơ lửng trên mặt nước và về những thành phố đá được che dấu dưới lớp bèo xanh của đầm lầy. Đám nông dân tin chắc rằng sự trả thù đang ŕnh rập chờ đợi kẻ nào dám phávỡ sự yên tĩnh của vùng này, hay toan tính hút khô cạn khu đầm lầy mênh mông. Những nông dân nơi đây c̣n nói chớ nên động đến một số điều huyền bí ở đây. Những điều huyền bí ấy tồn tại từ thời xa xưa khi một đại họa đă ập lên đầu con cháu của vua Partholan. Trong cuốn "Chinh phục tùng thư" có kể rằng những con dân xứ Hy Lạp đă chết ở Thollat, song các cụ già ở Kilderry lại khẳng định rằng dù sao một đô thị cuối cùng cũng đă được cứu thoát bởi vị thần phù tŕ cho nó, là nữ thần Mặt Trăng. Thần đă che giấu đô thị ấy trong cánh rừng rậm trên các ngọn đồi và bởi thế đă giúp tránh thoát được quân xâm lược Nemed từ xứ sở Skif đến đây trên ba chục chiến thuyền.

 Chính những truyền thuyết ấy đă buộc những người nông dân rời bỏ Kilderry! Đến giờ th́ tôi chẳng c̣n ngạc nhiên ǵ nữa cái ư định của Dennis Barry không đếm xỉa đến những lời đồn nhảm nhí ấy. Vả lại, chính chàng cũng có mối quan tâm sâu sắc tới thời xa xưa và chàng dự định nghiên cứu kỹ lưỡng cẩn thận vùng này sau khi tát khô đầm lầy. Chàng thường lui tới thăm khu phế tích trên đảo: tuổi của nó rơ ràng rất xưa rồi. Di tích hoang phế ấy có lối kiến trúc khác hẳn các công tŕnh cổ xưa khác, nhưng v́ cái vẻ ngoài tàn tạ kinh khủng của nó hiện giờ, nên khó có thể hiểu được khu hoang tàn ấy đă từng là như thế nào vào thời hoàng kim của nó. Mọi công việc bơm hút khô phải bắt đầu chuẩn bị rồi, những công nhân quê miền bắc sắp sửa dọn sạch khu đầm lầy bí ẩn khỏi rêu và bèo mầu đỏ nhạt, phá bỏ những con suối nhỏ đầy vỏ ốc, vỏ hến và làm mất đi vĩnh viễn cái mặt nước mầu xanh da trời mọc đầy lau sậy.

 Sau tất thảy những biến động trong ngày tôi đă thấy mệt và muốn đi ngủ. Đêm khuya và tôi thấy khó khăn phải nghe Barry kể nốt câu chuyện của ḿnh. Một gia nhân dẫn tôi đến căn pḥng dành riêng cho tôi ở một trong những ngọn tháp nhỏ. Qua khung cửa sổ nh́n thấy khu làng, cánh rừng thưa bên đầm lầy và xa hơn chút nữa là đầm lầy. Dưới ánh trăng tôi trông thấy những căn nhà ch́m sâu trong giấc ngủ, nơi đang cư ngụ những người công nhân làm thuê từ miền bắc đến thế chỗ cho đám dân địa phương, tôi cũng thấy ngôi nhà thờ nhỏ xíu với cái nóc nhọn cổ kính, và phía xa sau cánh đầm than bùn ngái ngủ thấp thoáng khu phế tích trên ḥn đảo nhỏ. Khi đang ch́m vào giấc ngủ tôi bỗng nghe thấy, hay là tôi mường tượng thấy chăng? , tiếng tiêu nhè nhẹ yếu ớt vọng từ nơi xa, thanh âm ấy là một giai điệu hoang sơ, nguyên thủy nào đó. Điệu nhạc ấy khiến tôi lo lắng một cách lạ lùng khi nó đi vào những giấc mơ của tôi. Song buổi sáng khi tỉnh giấc, tôi hiểu tiếng nhạc đó là do mộng mị sinh ra, những giấc mộng thật lạ kỳ mà nếu so sánh với chúng th́ ngay những âm thanh bí ẩn của tiếng tiêu cũng trở nên mờ nhạt hẳn đi. Có lẽ do ảnh hưởng từ những truyền thuyết do Barry kể mà tôi mơ thấy linh hồn ḿnh lơ lửng trên cái đô thị hùng vĩ ch́m trong đủ mọi loại cây xanh, nơi đây là những con đường lát đá cẩm thạch, những ṭa biệt thự cùng những ngôi đền, những pho tượng, những họa tiết điêu khắc cùng những bài văn bia, tất cả đều nói lên sự vĩ đại xa xưa của xứ Hy Lạp. Tôi đă cùng Barry cười ngất trước giấc mơ đó, nhưng tiếng cười của tôi nghe to hơn v́ lúc đó ông bạn tôi đang lo lắng trước thái độ của đám công nhân miền bắc. Đă sáu ngày liên tiếp họ ngủ dậy rất muộn, họ đi lại uể oải như đang ngái ngủ, và cả hôm nay nữa họ nom như hoàn toàn chưa được nghỉ ngơi, mặc dù đêm trước họ đều đi nằm sớm.

 Suốt cả buổi sáng tôi đi dạo trong ngôi làng tràn ngập ánh nắng mặt trời và nói chuyện với những người công nhân. Họ chẳng có công việc ǵ đặc biệt lắm để làm v́ Barry đă hoàn tất mọi công tác chuẩn bị cuối cùng trước khi bắt đầu khởi sự, nhưng thâm tâm tất cả mọi người đều thấy hồi hộp, xao xuyến v́ những giấc mơ bất an, khó hiểu mà họ đă thấy khi sáng sớm. Tôi cũng kể cho họ nghe về giấc mơ lúc đêm của ḿnh, song họ tỏ ra hờ hững khi nghe tôi kể. Chỉ măi tới khi tôi nhắc tới tiếng nhạc ma quái kỳ lạ th́ họ mới trở nên chăm chú: chính họ cũng nhớ là đă nghe thấy điệu nhạc ǵ tương tự.

 Buổi sáng, sau bữa ăn chiều, Barry tuyên bố rằng mọi công việc sẽ bắt đầu sau hai ngày nữa. Tôi vui mừng khi nghe lời thông báo đó, mặc dù trong thâm tâm thấy tiếc nuối tất cả mọi thứ rêu và thạch thảo, mọi con suối và những cái hồ đầm nơi đây. Nhưng cũng rất muốn được thâm nhập vào những bí mật ấp ủ hàng bao thế kỷ nay có thể được chất chứa trong ḷng cái đầm lầy than bùn kia. Đêm đó, tôi lại mơ thấy tiếng tiêu réo rắt và thành phố đá cẩm thạch, nhưng lần này giấc mơ bị ngắt đoạn đột ngột và kinh sợ. Tôi đă nh́n thấy một tai họa ập tới thành phố nơi thung lũng xanh tươi ấy, một trận sụt lỡ đất đá ghê gớm đă ào tới và chôn vùi mọi sinh vật và con người. Chỉ duy nhất ngôi đền nữ thần Arteuris ở trên đồi cao là không bị trận thiên tai khủng khiếp tàn phá. Tại ngôi đền này thần Mặt Trăng, bà Kleis, đức bà tư thế già nua đă nằm sóng sượt lạnh giá và im lặng với chiếc mũ miện bằng ngà voi trên mái đầu bạc.

 Như tôi đă kể, giấc mơ của tôi bị đứt quăng. Một cảm giác lo âu khó tả cứ bám riết không rời tôi dù chỉ một khoảnh khắc. Một lúc rất lâu tôi không hiểu tôi đang ngủ hay tôi đang thức nữa. tiếng tiêu cứ tiếp tục văng vẳng trong tai. Song khi nh́n thấy những vệt ánh trăng lạnh giá trên sàn lỗ chỗ h́nh bóng chấn song của khuôn cửa sổ gôtích, tôi hiểu rằng dẫu sao ḿnh vẫn đang trong ṭa lâu đài Kilderry. Khi đâu đó đàng xa có tiếng chuông đồng hồ điểm hết lần này đến lần khác th́ rốt cuộc tôi thấy rơ ḿnh không ngủ. Nhưng mọi âm thanh của tiếng tiêu vẫn tiếp tục, ấy là một điệu nhạc lạ lùng, xa xưa, nó gợi trí tưởng tượng tới những vũ điệu của các vị thần Satyr ở xứ Menadus xa xôi. Nhạc điệu ấy không cho tôi ngủ, và thế là sau khi nhỏm dậy khỏi giường, tôi bắt đầu lo lắng đi đi lại lại trong pḥng. Hoàn toàn ngẫu nhiên tôi bước tới khuôn cửa sổ phía bắc, nh́n về phía ngôi làng đang ngủ mơ màng và cánh rừng thưa bên mép đầm lầy. Tôi hoàn toàn không định nh́n qua cửa sổ v́ đang buồn ngủ chết đi được, nhưng những âm thanh của các cây tiêu đanh thổi đă hành hạ tôi đến nỗi buộc tôi phải t́m cách lăng quên nó đi. Song những ǵ tôi trông thấy đă khiến óc tưởng tượng của tôi phải sửng sốt.

 Trên khoảng rừng thưa tràn ngập ánh trăng đang diễn ra một cảnh tượng mà một khi đă mục kích th́ ai cũng phải ghi nhớ đến trọn đời v́ quá đỗi kinh ngạc. Dưới tiếng tiêu vang vọng khắp trên vùng đầm lầy là những h́nh dạng kỳ ảo đang chuyển động nhịp nhàng và câm lặng trên khoảng rừng trống. Lúc đầu họ đu đưa ḿnh theo nhịp, nhưng dần dần chúng đạt tới mức khoái cảm tột độ mà thời xa xưa đă từng choán ngợp các vũ công Sicilia tŕnh diễn vũ điệu dâng hiến thần Demeter vào đêm trăng rằm trước tiết thu phân ở gần thần Kyan. Khoảng rừng thưa phơi rơ dưới ánh trăng suông bàng bạc, những bóng ma khiêu vũ, tiếng tiêu lanh lảnh đơn điệu, tất thảy những cái đó cùng một lúc khiến tôi gần như bị tê liệt, song dẫu sao tôi vẫn nhận ra rằng, một nửa những vũ công không hề mệt mỏi ấy là những người công nhân làm thuê mà theo sự h́nh dung của tôi th́ nhẽ ra họ phải đi ngủ từ lâu rồi, một nửa c̣n lại là những con ma kỳ lạ bận đồ trắng, với chút ít đầu óc tưởng tượng th́ có thể coi chúng là các nữ thần sông suối đang sống ở những chiếc hồ nhỏ vốn nuôi dưỡng cả khu đầm lầy. Tôi không biết đă đứng bên cửa sổ bao lâu để ngắm nh́n cảnh tượng ấy, chỉ nhớ vào một thời khắc nào đó, tôi bỗng ch́m vào một giấc ngủ sâu nửa ngất lịm mà chỉ có ánh sánh chói ḷa của mặt trời mới đưa tôi ra khỏi trạng thái ngủ mê mệt ấy thôi.

 Niềm mong muốn đầu tiên của tôi khi thức dậy là đi t́m Dennis Barry để kể lại cho chàng giấc mơ quá đỗi sửng sốt kia, nhưng dưới ánh mặt trời mọi sự nom khác hẳn, và tôi bèn tự nhủ đó chỉ là một giấc mơ. Có thể tôi đă bị ảo giác, nhưng ảo giác ấy đâu mạnh đến nỗi khiến tôi không c̣n kiểm soát nổi ḿnh nữa và cho rằng tất cả những ǵ trông thấy chỉ là giấc mơ. Tôi chỉ giới hạn ở việc gặng hỏi những người công nhân, nhưng quả như tôi đă tiên liệu, họ chẳng hề nhớ điều ǵ đặc biệt, ngoài tiếng nhạc. Tôi đă suy nghĩ hồi lâu về những âm thanh lạ lùng đó, tôi đoán chừng phải chăng lủ dế đă cất lên bài ca mùa thu của chúng sớm hơn thời điểm tự nhiên đă khiến cho người ta phải bồi hồi xao xuyến. Đến trưa tôi gặp Barry đang xem xét một lần nữa các bản vẽ của ḿnh trước khi khởi sự công việc. Như vậy, sáng mai các công nhân sẽ bắt tay vào việc... Lần đầu tiên tôi thấy tim ḿnh thắt lại v́ khiếp sợ, và đă hiểu v́ sao nông nhân chạy trốn khỏi nơi đây. V́ một lư do mơ hồ nào đó tôi cũng thấy không chịu nổi với ư nghĩ rằng có ai đó sẽ quấy rầy, phá bĩnh khu đầm lầy cổ xưa này với biết bao điều huyền bí của nó được ẩn giấu khỏi ánh sáng mặt trời. Tôi bỗng h́nh dung ra những bức tranh kỳ ảo dưới lớp than bùn dày hàng thế kỷ này. Không nên bất cẩn mà phô bày cho bàn dân thiên hạ thấy tất cả những ǵ đă được giấu kỹ ở nơi đấy suốt bao thế kỷ như thế.Tôi những muốn t́m ra một nguyên cớ tiện lợi để từ giă khu lâu đài và cả chính ngôi làng này. Thậm chí tôi định nói về việc đó với Barry, nhưng tôi nhanh chóng ḱm được v́ bối rối trước tiếng cười nhạo báng của chàng. Tôi im lặng quan sát vầng mặt trời đang tỏa những sắc màu rực rỡ lên những ngọn đồi xa và tỏa xuống Kilderry thứ ánh sáng chói lọi màu vàng đỏ, một hiện tượng có vẻ như điềm gở.

 Tôi không biết những sự kiện diễn ra đêm qua là trong mơ hay thực. bất luận thế nào đi nữa th́ một trí tưởng tượng tinh tế nhất cũng không tài nào có thể sản sinh được điều ǵ hơn thế. Chẳng hạn, tôi không đủ sức nghĩ ra những lời giải thích tỉnh táo và hợp lư cho cái lẽ là sau đêm ấy mọi người trong lâu đài và khu làng đă biến đi đâu mất. Tôi về pḥng ḿnh sớm, nhưng trong ḷng nặng trĩu những dự cảm nặng nề nên không tài nào ngủ được. Sự im lặng báo điều dữ ngự trị trong ngọn tháp xa này cứ hành hạ tôi. Mặc dầu trời tối nhưng quang đăng: những ngày này là lúc trăng hạ huyền và trăng mọc rất muộn. Tôi nằm và suy nghĩ về Dennis Barry, về những ǵ sẽ xảy ra với đầm lầy khi trời sáng, và cuối cùng những trăn trở ấy đă đẩy tôi tới trạng thái khiến tôi saÜn sàng vùng dậy, ngồi vào chiếc ô tô của bạn tôi, chủ nhân ṭa lâu đài, lao thẳng tới Ballylow và thoát khỏi cái chốn đáng nguyền rủa này. Nhưng, chưa kịp đi đến quyết định cuối cùng th́ tôi đă ngủ thiếp đi. Thế là trong cơn mơ tôi lại thấy thành phố nơi thung lũng, ảm đạm và thẩn thờ v́ mối đe dọa diệt vong đang lơ lửng trên đầu.

 Có thể tôi lại bị đánh thức bởi những âm thanh của tiếng tiêu, song sau khi tỉnh dậy th́ không phải tiếng nhạc làm bận trí tôi. Tôi nằm quay lưng về phía cửa sổ hướng đông nơi mặt trăng sắp mọc và bởi vậy tôi chờ đợi được nom thấy ánh hồi quang của trăng trên bức tường đối diện. Nhưng tôi đă nh́n thấy một sự khác hẳn. Trên tường có những vệt sáng, nhưng đó không phải những hồi quang do ánh trăng phản chiếu. Tôi kinh sợ khi hiểu rằng đó là ánh sáng đỏ tươi lọt qua khuôn cửa sổ gô tích. Nó tràn ngập cả căn pḥng bằng một ánh hào quang chói chưa từng thấy. Hành vi lúc đó của tôi thực đáng sợ, và điều này chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên v́ chỉ có nhân vật trong sách mới xử sự một cách có tính toán tỉnh táo trong t́nh huống như thế. Thay v́ nh́n xuống vùng đầm lầy để hiểu xem nguồn ánh sáng mới ấy từ đâu đến th́ tôi thậm chí không quay lại phía cửa sổ mà liền vội vă mặc quần áo với niềm hy vọng mơ hồ nhanh chóng trốn chạy khỏi nơi đây. Tôi nhớ là đă mang theo khẩu súng lục và cái mũ, nhưng chúng chẳng hề hữu dụng cho tôi. Tôi đă đánh mất cả hai sau khi chẳng bắn được phát nào và cũng chẳng đội đến mũ. Dẫu sao trí ṭ ṃ vẫn mạnh hơn sự kinh sợ, cho nên tôi lén bước tới cửa sổ để nh́n vào vầng hào quang đỏ sậm khó hiểu kia, tôi vươn người ra ngoài và đúng phút ấy tiếng tiêu cất lên đến váng tai, khắp ṭa lâu đài và ngôi làng tràn  ngập những thanh âm ấy.

 Ḍng ánh sáng rực rỡ màu đỏ sậm báo điều gở ấy xoáy thành tia trên mặt đầm lầy, nó phát ra từ đống phế tích hoàn toàn bí ẩn trên ḥn đảo. Song khu hoang phế ấy đă thay đổi một cách lạ lùng. Tôi thật khó ḷng mô tả được điều ǵ xảy ra, có thề tôi hóa điên, song tôi cảm thấy ngôi đền lại đang tọa lạc nơi đó với toàn bộ vẻ đường bệ oai nghiêm của nó mà chưa hề bị một thời gian làm phôi pha với những cây cột bao quanh. Những ánh hồi quang của ngọn lửa đang cháy trên mặt đá cẩm thạch của mũ cột vươn lên cao. Tiếng sáo ngân lên, tiếng trống vang vọng và trong khi tôi như một kẻ bị mê hoặc nh́n ngắm cảnh tượng ấy th́ trên những bức tường cẩm thạch được chiếu sáng rơ bắt đầu xuất hiện h́nh dáng các vũ công. Tất cả những cảnh ấy nom thật phi thường khó tin là thật, ấn tượng tác động thật vô cùng sửng sốt. Tôi đứng lặng người tại chỗ, không thể rời mắt khỏi bức tranh kỳ dị, đồng thời ở bên trái tôi vang lên rất to tiếng tiêu dồn dập. Trong cơn phấn khích khó hiểu và choáng ngợp những dự cảm nặng nề, tôi liền băng ngang pḥng đến chỗ cửa sổ phía bắc mà từ đó ngó thấy ngôi làng và cánh rừng thưa. Chính đó là điều mà tôi đă thấy trước đây và lư trí của tôi đă chối từ chấp nhận và hiểu thấu, nhưng bây giờ th́ tôi sửng sốt vô chừng: dọc theo cánh rừng thưa đẫm ánh sáng màu đỏ máu đang chầm chậm chuyển động một đoàn diễu hành mà có lẽ chỉ có thể hiện trong cơn ác mộng mà thôi.

L úc th́ trượt trên mặt đất, lúc th́ trôi trong không khí, những bóng ma đầm lầy chậm răi đi theo hướng dẫn tới vùng hồ đầm lầy êm đềm nước lặng và đi tiếp tới khu phế tích, những bóng ma ấy choàng những bộ đồ mầu trắng, chúng cứ đi và tạo ra những h́nh thù phức tạp, dường như đang biểu diễn một điệu vũ nghi lễ cổ xưa. Những cánh tay không chút thịt da của chúng lắc lư nhẹ theo nhịp giai đệu the thé xé màng tai của những cây sáo vô h́nh, những cánh tay ấy mời chào, thu hút theo chúng cả những người công nhân làm thuê mà giờ đây đă xếp thành hàng lần lượt đi sau một cánh mù quáng và tuân phục như những chú chó ngoan, dường như họ phải phục tùng một sức mạnh ma quỷ nào đó. Khi các nữ thần sông suối đi đến đầm lầy th́ những nạn nhân mới đi ra khỏi lâu đài, họ lảo đảo với bộ điệu yếu đuối, xiêu vẹo, Họ xuất hiện từ chiếc cửa ra vào nằm ngay dưới cửa sổ pḥng tôi, họ đi qua khu sân như đang trong cơn mơ ngủ, sau đó theo con đường làng hẹp họ tiếp nối hàng công nhân đang đi lảo đảo ở quăng cánh rừng thưa. Mặc dù có một khoảng cách giữa tôi với họ nhưng tôi hiểu ngay rằng đó là những gia nhân đến đây từ miền bắc, thậm chí ở một trong số những h́nh người quái đản và thê thảm nhất tôi đă nhận ra chị đầu bếp mà những cử động vụng về b́nh thường của chị ta lúc này với tôi thật bi thảm. Những cây sáo vẫn phát ra những thanh âm khó mường tượng như trước, và từ phía ḥn đảo lại vang lên tiếng thôi thúc giục giă của những chiếc trống, và chính lúc này các nữ thần sông suối chầm chậm và duyên dáng bước xuống làn nước của khu đầm lầy cổ xưa. C̣n những người đi theo sau các nữ thần ấy không hề chậm bước cũng bắt đầu xuống nước và chẳng bao lâu mất hút dưới làn nước vô t́nh. Trong ánh sáng hồng trên mặt đầm lầy thật khó nhận ra những vệt bong bóng khí lan trên nước. Người cuối cùng mà vực thẳm kia nuốt chửng là chị bếp béo, con người đă gợi nên nơi tôi sự thương cảm. Khi chị ta khuất hẳn dưới làn nước th́ những cây sáo cùng trống im hẳn, cái ánh sáng do đống phế tích phát ra làm chói mắt cũng tắt; ngôi làng lại lặng đi trong ánh sáng thanh b́nh của vầng trăng vừa mọc.

 Tôi hoàn toàn bối rối. Liệu tôi có mất trí hay không đây? Tôi đang ngủ chăng? Liệu có phải những điều đó đă xảy ra trên thực tế hay không? Tôi nghĩ chính sự sững sờ mà tôi bất ngờ ch́m đắm vào đă cứu tôi khỏi cái số phận bi thảm chung cho đám người ấy. Có lẽ tôi đă cầu nguyện thần Arteuris, thần Latona, thần Persephone và thần Pluto. Tóm lại tôi đă cầu xin tất cả các vị thần mà tôi nhớ được trong văn học cổ điển, nỗi kinh hoàng vừa nếm trải đă biến tôi thành một kẻ mê tín. Tôi hiểu rằng tôi đă trở thành người chứng kiến cái chết của cả làng, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa: trong ṭa lâu đài chỉ c̣n lại có tôi và Dennis Barry, chính sự khinh suất rồ dại của chàng đă dẫn đến thảm họa. Khi nghĩ về chàng th́ trong tôi lại choáng ngợp nỗi khiếp đảm đến nỗi đôi chân khuỵu ngă xuống và tôi ngă lăn trên sàn nhà, mặc dầu tôi không hề bị ngất. Bất th́nh ĺnh tôi cảm thấy một cơn gió lạnh buốt từ phía đông nơi mặt trăng vừa mọc và tôi cũng nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng ở tầng dưới của ṭa lâu đài. Chẳng bao lâu sau tiếng kêu chuyển thành tiếng la hét thất thanh ghê gớm đến mức bây giờ tôi cũng c̣n thấy kinh hoàng khi nghĩ đến tiếng la hét ấy. Tôi có thể nói ngay rằng đó chính là tiếng gào thét của ông bạn tôi.

 Có lẽ, làn gió lạnh giá và những tiếng kêu khủng khiếp đă buộc tôi phải đứng dậy bởi v́, như tôi c̣n nhớ, tôi chạy hồi lâu dọc các căn pḥng tăm tối và các dăy hành lang tối om cho đến khi lọt ra bên ngoài. Người ta t́m thấy tôi lúc rạng sáng cách Ballylow không xa. Tôi đă đi lảo đảo như một kẻ không nhà không cửa, miệng lẩm bẩm điều ǵ trong trạng thái hoàn toàn mê man. Sự cố cuối cùng tôi thấy ở Kilderry đă đẩy tôi tới trạng thái khốn đốn cùng cực đó. Cái cảnh ấy thật quái đản, ghê sợ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ quên được cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Cảnh đó luôn luôn hiện lên trước mắt tôi nếu tôi bất thần đứng gần một đầm lầy vào đêm trăng nào đó.

 Vậy là sau khi rời bỏ ṭa lâu đài khủng khiếp, đang phóng đi dọc bờ đầm lầy bỗng nhiên tôi nghe thấy những âm thanh ǵ mới lạ, chẳng có ǵ đặc biệt, nhưng ở đây, tại Kilderry, th́ cho đến nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Làn nước tù hăm mà trong đó chẳng có chút sinh khí nào giờ thật khoái hoạt, sinh động. Mặt đầm lầy nhung nhúc biết bao những con ếch kềnh kêu ồm ộp liên tục. Ánh trăng lấp lóa hai bên lườn phồng mọng màu xanh của chúng, nhưng ánh sáng c̣n tia ra từ một nguồn sáng, và có lẽ những con ếch kềnh ấy đang chú ư dơi nh́n về phía tia sáng ấy. Tôi theo dơi một con ếch đặc biệt béo mỡ và xấu xí và nh́n thấy chính cái điều đă khiến tôi hoàn toàn mê muội.

 Một tia sáng nhấp nháy yếu ớt không phản chiếu trong mặt nước đầm lầy trải dài từ công tŕnh bí ẩn trên ḥn đảo nhỏ tới vầng trăng khuyết. C̣n tôi thót tim khi nh́n thấy trên con đường ṃn nhợt nhạt chết chóc một h́nh người quằn quại, một cái bóng mờ ảo đang cố sức cưỡng lại những con quỷ vô h́nh đang kéo cái bóng đó theo sau. Có thể là tôi điên, nhưng cái bóng dáng đó, một bức biếm họa quái đản man dại, đă khiến tôi nhớ một cách lạ lùng đến con người đă từng là Dennis Barry.

 

                                                           Sưu Tầm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                         

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 239 of 2534: Đă gửi: 07 June 2008 lúc 2:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ ẨN CỦA NHỮNG BỨC

 CHÂN DUNG "SÁT NHÂN"



 Vợ của Rubens, người đẹp Isabella vốn là người mẫu trong hầu hết các tác phẩm của ông, đă qua đời năm ba mươi lăm tuổi.

 Nữ công tước Alba, người mẫu cho bức tranh Maha của Goya đă chết sau khi bức chân dung đầu tiên được hoàn thành ba năm.

 Danh họa vĩ đại Picasso, có hai người vợ người mẫu cho ông th́ đều tự tử.

 Các nhà khoa học cho rằng giữa h́nh ảnh một con người, và số phận tiếp theo của người đó có sự liên quan thần bí, thậm chí là cái chết. Lịch sử của các họa sĩ vĩ đại đă chứng tỏ điều đó.

 Vợ của Rembrandt làm mẫu cho ông vẽ bức tranh Danae đă chết v́ bệnh ho lao.

 Trong giới hội họa có vô số truyền thuyết về các bức chân dung của những họa sĩ nổi tiếng, đă đem đến cái chết.

 Vào năm ba mươi tuổi, vợ của Rembrandt là Saskia chết v́ ho lao.

 Danh họa Hà Lan vĩ đại này đă thể hiện cô trong các bức tranh Danae và Flora. ba đứa con của ông được người cha vẽ nhiều đă chết khi c̣n nhỏ. Người con duy nhất c̣n lại Titus cũng qua đời khi mới hai mươi bảy tuổi.

 Đối với những người quen, llia Repin nổi tiếng là "nhà tiên tri đen". Ông kết thúc bức chân dung nhà phẫu thuật Pirogov và nhạc sĩ Mousorgsky đúng vào ngày họ qua đời 

 Thủ tướng Stolưpin bị bắn chết ngay sau khi Repin đặt nét vẽ cuối cùng. Người vợ trẻ của Repin không lâu sau khi bước vào tác phẩm của chồng cũng chết v́ ho lao.

 Bà Tachiana ludkevich, nhân viên khoa học chính của Viện bảo tàng nghệ thuật Trechiakov giải thích rằng tất cả những sự kiện lạ lùng đó chỉ là sự trùng hợp:

 - " Mousorgsky được Repin vẽ khi ở t́nh trạng sắp chết.

 - C̣n Pirogov khi đó đă bảy mươi mốt tuổi.

 - Garshin là người không ổn định về tâm thần.

 - Trước Repin, Stolưpin đă được Surikov và các họa sĩ Pháp vẽ, nhưng tại sao khi đó ông không chết ? Ngoài ra, vào thời gian đó rất nhiều người chết v́ ho lao. Những đứa con của Rembrandt bị chết v́ mẹ của chúng là một phụ nữ rất ốm yếu. "

 Song những điều bí ẩn không dừng lại ở đó. Tại Matxcơva, người ta đồn đại nhiều về cái chết của con gái Aleksandr Shilov và vợ của llia Glazunov.

 Shilov vẽ cô con gái đẹp Misha của ḿnh nhiều lần và cô bé qua đời ở tuổi mười sáu. Vợ của họa sĩ Glazunov là Nhina Vinogradova th́ tự tử trong hoàn cảnh rất lạ lùng.

 Phó chủ tịch Viện Hàn lâm nghệ thuật Nga, ông Eduard Drobitski, bảo vệ đồng nghiệp bằng lập luận rằng khi vẽ con gái, Shilov đă không biết con gái ḿnh bị ung thư, c̣n Glazunov chỉ vẽ duy nhất một bức chân dung của vợ.

 Eduard Drobitski cũng cho rằng cái chết của bà Nhina rất rắc rối. Bà bị ung thư ṿm họng, và v́ đau đớn nên có lẽ bà đă mất minh mẫn, dẫn đến việc tự tử.

 Mặc dù bác bỏ truyền thuyết cổ xưa, các chuyên gia đáng kính cũng phải thừa nhận rằng quả thực tồn tại bí ẩn xung quanh vấn đề này.

 Bà Tachiana ludkevich đưa ra những ví dụ:

 Người mẫu nổi tiếng của hoạ sĩ Vladimir Lukich Borovikovski là Lopukhina đă chết ba năm sau khi bức chân dung hoàn thành mà không có nguyên nhân.

 Số phận tương tự cũng đến với cậu bé Vasia, người mẫu cho bức tranh Bộ ba của Petrov. Mẹ của cậu như đă linh cảm thấy ǵ đó, bà cấm cậu bé làm mẫu cho họa sĩ v́ sợ con ḿnh sẽ chết.

 C̣n Eduard Drobitski sau khi kể về bi kịch trong gia đ́nh Shilov và Glazunov, đă công nhận là có một chuyện khó giải thích xảy ra với chính ḿnh:

 - "Nhiều năm trước tôi vẽ một bức tranh kép với h́nh Vưsotski là nam ca sĩ, và nhà thơ vĩ đại Puskin. Vưsotski trong trang phục nhà thơ, c̣n Puskin mặc đồ jean. hai tuần sau Vưsotski qua đời.

 Các đồng nghiệp nói với tôi rằng bút vẽ tôi đă truyền năng lượng của nhà thơ quá cố sang Vưsotski và điều ấy đă đưa anh ta với chỗ kết thúc cuộc đời "

 Giải thích cho hiện tượng này, Eduard Drobitski cho rằng một số họa sĩ có linh cảm của bác sĩ chẩn đoán. Khi vẽ một khuôn mặt, thậm chí không suy tính ǵ, anh ta cảm thấy có một căn bệnh nghiêm trọng đang tới gần.

 Và đây là một trường hợp như thế. Huân tước Anh Malgrov một lần đến gặp họa sĩ Gilbert Stewart, tác giả bức chân dung nổi tiếng vẽ George Washington, đặt vẽ chân dung anh trai ḿnh là tướng Philps.

 Khi đến lấy bức tranh, Malgrov nhận thấy chân dung không giống thật và điều đó đă gây ra một ấn tượng khủng khiếp. Chẳng bao lâu sau người ta biết rằng tướng Philps đột ngột mất trí.

 Chuyên gia khoa học của Viện bảo tàng Ermitage ở Saint Petersburg, giáo sư Boris Sapunov, lại có cách giải thích khác:

 Khi vẽ chân dung, người họa sĩ như xâm nhập vào thế giới nội tâm của người mẫu. Họa sĩ càng tài hoa, càng đưa vào tác phẩm nhiều năng lượng của ḿnh ở dạng tốt hay xấu.

 Có thể nhận thấy " sự định hướng " của năng lượng theo cách người họa sĩ tạo các sắc màu trên tranh. Khi họa sĩ ở tâm trạng yên tĩnh, các vệt màu của người đó đều đặn và ngay ngắn, nhưng khi bức chân dung được vẽ trong trạng thái thần kinh bị kích thích, buồn bă hay căng thẳng, th́ các nét vẽ bắt đầu " đung đưa ".

 Điều đó không thấy rơ bằng mắt thường mà chỉ hiện ra khi được nghiên cứu kỹ lưỡng. Nhưng năo người tiếp nhận những chỗ "không bằng phẳng" này ở mức độ tiềm thức, nó tạo ra tác động giống như kiểu thôi miên, hướng tới việc loại bỏ người được vẽ.

 Tất nhiên bạn vẫn có thể phản bác:

 Biết bao họa sĩ không nổi tiếng hàng ngày vẫn vẽ ra các bức chân dung mà chẳng có hậu quả bi thảm nào! Nhưng có thể các thiên tài có khả năng thần giao cách cảm nào đó? 


                                                  Nguồn: sưu tầm

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 240 of 2534: Đă gửi: 08 June 2008 lúc 8:20pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI LÀM "SECURITY GUARD"

 

  Vài năm trước đây tôi mua căn nhà mới chưa đầy mười hai tháng, th́ bị mất việc bởi công ty họ   " downsize " mà không may cái khúc cắt đó có tôi. Tính lănh tiền thất nghiệp nghỉ xả hơi một thời gian nhưng coi bộ không ổn v́ nhu cầu chi nhiều hơn thu, v́ vậy tôi phải kiếm và chấp nhận bất cứ việc ǵ làm tạm thời để ổn định ngân quỹ, c̣n việc ḿnh vừa ư th́ kiếm sau.

 Đọc báo thấy quảng cáo học khóa "security" chỉ tốn có mấy chục đồng là có giấy phép hành nghề, tôi liền thử coi ra làm sao. Tuy công việc không phải khuân vác ǵ nhưng thời biểu bất thường, có bữa làm ngày có khi làm đêm thức ḷi con mắt nhưng tôi cố bấm bụng tự an ủi:

 - Làm tạm mà.

 Tôi khoe với Yến vợ tôi cái bằng hành nghề. Yến cắc cớ hỏi:

 - Anh làm cái ǵ ?

 Nếu nói là gác dan th́ xệ quá mà nói là làm " an ninh " th́ nghe hơi quá, nên tôi nói tiếng Anh là " Security Guard " cho nó oai một chút. Nhưng tôi phải thêm vào là " Unarmed Security Guard ".

 Khi xin được việc làm rồi tôi mới biết rằng khi một nhân viên mới vào nghề , công ty này họ thường chỉ định người đó luân phiên gác ở những địa điểm khác nhau, để thử cựa nhân viên đó thích hợp ở địa điểm nào nhất.

 Trong thời gian hướng nghệ này, may mắn th́ được kèm bởi một con ma cũ tử tế th́ lên tinh thần. C̣n gặp thứ hay ḷe hay hiếp đáp ma mới th́ phải ráng mà chịu cho qua ngày tháng, hay là "quit".

 Đêm đầu tiên tôi được phái đến gác cổng của một chung cư kèm bởi con ma cũ tên là Dan, mập như con ḅ mộng và có bước đi rất là dềnh dàng. Nh́n Dan th́ có lẽ ai cũng đồng ư làm " security guard " rất hợp với vóc dáng của nó nhưng được cái nó tỏ ra rất tử tế hướng dẫn cho tôi công việc, và trách nhiệm địa điểm này ra sao.

 Tôi đưa cho Dan coi thời khoả biểu bảy ngày, tại bảy địa điểm của tôi. Nó đọc rồi mách cho tôi biết địa điểm nào tốt, địa điểm nào ít người thích, nhưng riêng địa điểm của ngày thứ năm, đó là một nghĩa địa th́ Dan lắc đầu nói:

 - Tao không thích chỗ này nhất.

 Dan ḅ mộng giải thích lư do người ta mướn gác ở nghĩa địa, v́ có những người lén đến đó ban đêm ăn cắp hoa, và có kẻ c̣n tiện tay vặn luôn cái b́nh hoa bằng đồng ở mộ bia nữa mới là tệ.

 Nó cho biết thêm căn nhà trên cái đồi cao của nghĩa địa đó là ḷ hoả thiêu, mà thằng con của lăo chủ ḷ đó thuộc loại vừa khùng vừa mát. Có nhân viên gác đă thấy thằng đó lái xe ra cổng với một xác chết để ngồi ở băng trước với hắn. Đó là lư do những anh yếu bóng vía được phái đến địa điểm này thường xuyên đều bỏ việc.

 Nghe thằng ḅ mộng kể tới đó tôi nghĩ nhanh trong đầu:

 - Bữa đó ông cáo ốm không đi làm được th́ họ phải kiếm thằng khác trám vào là xong chứ ǵ .

 Nhưng thằng Dan lại nói thêm rằng, v́ vậy công ty luôn phái hai thằng đến cùng một ca để cho họ có bạn. Nhờ vậy tôi cũng cảm thấy bớt nôn nao rồi làm ra vẻ hiền lành hỏi thằng Dan:

 - Sao lại có hạng người tệ quá vậy ? Ăn cắp hoa ở nghĩa địa làm ǵ ghê thấy mồ.

 Dan cười:

 - Mày biết không ở xă hội này chuyện ǵ cũng có thể xẩy ra hết. Họ ăn cắp về mang tới tiệm hoa bán lại kiếm chút bạc lẻ chứ ăn cắp làm ǵ. Cũng có kẻ hà tiện ra đó chôm hoa để khỏi phải đi mua.

 Tao kể mày nghe... Ở chung cư tao có thằng Joe vừa đi học đại học vừa đi làm bán thời gian nên tiền bạc th́ nó rất eo hẹp. May mắn nó chốp được em Lisa " move in " với nó sống như vợ chồng, chia tiền thuê nhà ăn uống, nhưng tiền tiêu riêng th́ của đứa nào đứa nấy lo. Khổ cái thằng Joe này nó yêu em Lisa lắm nên chỉ mong có dịp tạo mỹ cảm trong ḷng người yêu nhưng túi nó th́ lại hơi rỗng mới khổ.

 Bữa đó Lisa đi làm về thấy trên bàn có một b́nh hoa đồ sộ sặc sỡ và một bịch kẹo sô-cô-la hiệu là " Hershey's Kisses " cùng với tấm thiệp nhỏ đề: " To my lover, Lisa ". Sau này Lisa cho biết rằng Lisa rất cảm động nhưng nghĩ Joe rất eo hẹp tiền bạc mà b́nh hoa này cả hơn trăm đô chứ ít đâu nên Lisa có ư định " return " b́nh hoa để lấy tiền lại chỉ giữ lại bịch kẹo, " only the thought count " mà. V́ vậy khi ngồi ăn cơm tối Lisa hỏi Joe:

 - Anh mua b́nh hoa ở tiệm nào mà đẹp vậy ?

 Joe nhà ta ấm ớ vài giây rồi nói tên một tiệm hoa nào đó mà Lisa không hiểu. Im lăng vài phút Lisa lại hỏi:

 - Anh mua b́nh hoa này ở tiệm nào nói cho em biết đi, không th́ em không lấy đâu và em giận à... nghe.

 Ấm ớ măi rồi loanh quanh câu nọ bá ngọ câu kia, sau cùng Joe đành thú nhận:

 - Anh ăn cắp ở nghĩa địa rồi về cắm lại. Coi cũng đẹp đấy chứ.

 Lisa nổi giận đùng đùng la Joe là điên.. là tồi tệ đi ăn cắp cả hoa của người chết... Rồi bữa sau Lisa dọn đi " good bye " Joe ngay tức khắc. Kể xong Dan lắc đầu bảo tôi:

 - Đấy mày thấy không. Đó là một lư do trong nhiều lư do mất hoa ở nghĩa địa.

 Tới phiên tôi ở nghĩa địa th́ tôi dùng dằng giữa ở và đi. Yến có hỏi tôi chỉ nói nghĩa địa nghe ghê quá chứ không nói lư do khác. Nhưng Yến lại tác động tinh thần tôi rằng, mới nhận việc mà tôi tạo ấn tượng không tốt với người ta, th́ làm việc lâu dài làm sao được.

 Nàng tấn thêm ngày xưa anh ở quân đội đi đêm đi hôm, ngủ bờ ngủ bụi cũng từng nằm ở băi tha ma th́ anh có sợ đâu. Nghe vậy tôi đành nhắm mắt đi đại.

 Sáu giờ chiều khi đến cḥi canh tại nghĩa địa thấy đèn đuốc sáng trưng tôi cũng hơi yên tâm, mà lại có hai thằng th́ cũng không đáng lo ngại. Nhưng khi vào trong cḥi canh, th́ cái thằng ca trước bàn giao lại cho biết cái thằng cùng ca với tôi cáo bệnh, không đến được nên tối nay tôi phải gác một ḿnh.

 Tôi giận ứa gan nhưng làm mặt tỉnh v́ không muốn lộ ra, để cho thằng này biết là tôi đang... run trong bụng th́ xệ quá đi. Trong khi nó tóm lược nhiệm vụ tại đây cho tôi nghe, th́ mắt nó cứ nh́n tôi đăm đăm như muốn nh́n cho thấu tim óc tôi đang nghĩ ǵ...

 Nó cho biết thêm rằng: Tối nay chỉ c̣n một người duy nhất đi ra khỏi đây vào khoảng chín giờ tới mười giờ là thằng con lăo chủ ḷ thiêu, v́ vậy tôi sực nhớ đến lời thằng Dan nói về thằng khùng này, và hơi nôn nao trong ḷng v́ không biết tối nay nó có chơi tṛ ǵ không, và tôi phải đợi nó đi rồi th́ mới an tâm...

 Tôi ngồi xuống bàn nh́n ra cửa vặn radio nhè nhẹ cho bớt lạnh... lẽo rồi nghĩ ngợi và tự an ủi ḿnh: Chuyện đâu có đó lo cái ǵ. Công việc này cũng giản dị, ḿnh chỉ chờ cho con chủ lăo ḷ thiêu về rồi th́ đóng cổng, v́ đâu c̣n ai ra vô cho tới sáng mai.

 Khoảng hơn chín giờ nghe tiếng xe rồ từ ḷ thiêu nên tôi vội bước ra cửa cḥi canh. Ngay lúc đó chiếc xe lao tới cổng, tôi đứng sát lề cổng để cho nó nh́n thấy, và tôi ráng giữ vẻ b́nh thường để cho nó thấy là tôi không có nôn nao ǵ cả.

 Khi xe đó tới gần cổng nó lái chậm lại rồi thật chậm khi qua chỗ tôi đứng. Tôi tưởng nó muốn nói " good night " hay ǵ ǵ đó, nhưng khi chiếc xe tới ngay trước mặt tôi, tôi căng mắt nh́n vào trong xe th́ thấy một bàn tay đàn bà nhếch nhác máu, chĩa ra khỏi cửa sổ xe rung lên rung xuống.

 Tôi khiếp đảm thét lên một tiếng rồi ù té chạy ra cổng, và cứ thế tôi cắm đầu vắt chân lên cổ chạy và chạy... nhưng tiếng xe và ánh đèn vẫn rề rề theo tôi.

 Con đường vắng lặng hun hút nếu muốn cho chiếc xe này không bắt kịp tôi, th́ chỉ c̣n một cách là nhẩy qua hàng rào trở vào nghĩa địa... nhưng điều này th́ tôi không dám rồi, nên tôi giở hết vận tốc và tim tôi muốn nhẩy thót ra ngoài.

 Chạy được hơn một dặm coi bộ tôi khó thoát khỏi chiếc xe này, nên tôi lao đến một thân cây bên lề đường để hăm " phanh " lại và tôi cố cúi xuống lượm một cục đá đứng chờ. Khi nó thấy tôi đứng lại chiếc xe đó cũng chậm lại rề tời gần, nhưng không gần lắm.

 Tới khoảng cách tôi có thể ném cục đá th́ nó dừng lại. Tôi thấy thằng đó mở cửa xe bước ra tôi liền giơ cục đá lên thủ thế, th́ có tiếng gọi tên tôi. Nghe giọng quen thuộc tôi nheo mắt cố nh́n, th́ thấy con lăo chủ ḷ thiêu có vóc dáng quen thuộc, trong khi nó lại tiếp tục gọi tên tôi. Tôi bước chậm chậm lại gần nó nh́n kỹ th́ té ngửa.

 - Có phải mày không Dan ?

 Th́ ra thằng đó không phải là thằng con lăo chủ ḷ thiêu mà là thằng Dan. Nó ôm bụng cười rồi cười lăn lộn xuống mặt đường, cười tới khi nước mắt nó ràn rụa cũng chưa thôi.

 C̣n tôi th́ giận cành hông muốn cho nó bị chấn tim chết cho rồi, hoặc nếu đủ can đảm tôi đă táng cục đá một phát vào cái mặt mẹt của hắn. Chuyện này đồn ra th́ c̣n ǵ phong độ " security guard " của tôi và làm thế nào để khoá cái mồm thằng này.

 Té ra không có ai là con của lăo chủ ḷ thiêu cả. C̣n cái cánh tay đầy máu me là cánh tay giả của cái h́nh trưng bày quần áo mẫu, của mấy tiệm như Sears hay Burdine mà thôi. Dan giải thích rằng chú nó điều hành nghĩa địa này c̣n nó th́ làm " janitor " dọn dẹp ba tối một tuần cho chú nó.

 Đi trở lại cḥi canh th́ thấy thằng ca trước đă bàn giao cho tôi ,không biết ở đâu lù lù hiện ra và khi thấy tôi nó cũng ôm bụng cười lăn lộn.

 Dan ḅ mộng cho tôi biết rằng đây là chính sách của công ty, mỗi khi có nhân viên mới đều được đem thử cựa coi " bóng vía " của người đó " cứng " như thế nào, và Dan ḅ mộng là người thi hành cái " test " đó. Sau khi hiểu chuyện tôi cảm thấy dễ chịu hơn và không c̣n sợ ma sợ quỷ ǵ cả nên quyết định giữ cái việc này chứ không bỏ.

 Năm mười ngày sau lại tới phiên tôi gác nghĩa địa nữa, nhưng ca khá hơn từ hai giờ chiều đến nửa đêm. Không may bữa đó xe tôi bị hư phải bỏ tiệm sửa nên Yến phải chở tôi đi làm, nhưng tôi không muốn Yến phải đến nghĩa địa nửa đêm đón, nên tôi bảo để tôi đi xe buưt về cũng được.

 Măn ca tôi nhờ thằng cùng ca chở tôi ra phố chính để đón xe buưt. Khi tới trạm nó ngó đường phố vắng lặng xung quanh rồi hỏi tôi:

 - Mày thấy thế nào ? Có điều ǵ lo ngại không ?

 Tôi b́nh thản trả lời:

 - Không sao. Chờ một chút xe buưt đến th́ về chứ có ǵ đâu. Cám ơn mày.

 Nó rồ máy đi rồi, tôi thọc hai tay vào túi áo khoác ngồi xuống băng ghế, rồi ngó con đường vắng teo dưới ánh đèn vàng khè thưa thớt chợt rùng ḿnh. Trời lại không có trăng sao và những căn phố hầu hết tắt đèn đóng cửa tối thui. Tôi nh́n lên bảng thời khóa biểu xe đến và đi, th́ chuyến chót c̣n nửa tiếng nữa tức là một giờ khuya, nên tôi ráng tự trấn an bấm bụng chờ.

 Chờ cho đến một giờ rồi gần một rưỡi cũng không thấy bóng dáng xe buưt đâu, tôi bước ra sát lề đường ngó trái ngó phải, th́ con đường vẫn hun hút im lặng không có một cái ǵ di động.

 Tôi lẩm bẩm:

 - Thế này là thế nào ? Không lẽ xe buưt mà cũng bị  " ban " nữa hay sao ?" Bỗng tôi thấy có hai đốm sáng xuất hiện từ xa rồi từ từ gần lại chỗ tôi đứng, khiến tôi thở phào nhẹ nhơm. Nhưng khi chiếc xe đó đến gần th́ không phải xe buưt mà là một xe nhà, và khi đến ngang chỗ tôi đứng th́ ngừng lại và một bà tóc đă hoa râm tḥ đầu ra cửa sổ hỏi:

 - Có phải ông đang đợi xe buưt không ?

 - Dạ phải.

 - Nếu vậy th́ có lẽ ông phải đợi tới sáng quá v́ cách đây ba bốn dặm có một tai nạn xẩy ra, xe bị chặn lại cả hàng dặm không biết đến khi nào mới giải tỏa.

 Tôi ngán ngẩm nhưng cũng vẫn lịch sự:

 - Cảm ơn bà đă cho biết.

 Bà ta nói "good luck" rồi rồ xe đi c̣n lại ḿnh tôi trơ trọi không biết tôi sẽ phải làm ǵ bây giờ. Nh́n quanh không thấy có cái bục điện thoại trả tiền nào cả, nên tôi quyết định đi bộ về nhà, nhưng để ư nếu thấy bục điện thoại th́ gọi cho Yến.

 Tôi đi được khoảng gần một dặm th́ tự nhiên tôi nghe thấy cứ mỗi bước tôi bước, h́nh như có tiếng chân ai bước theo tôi. Tôi ngừng th́ thấy tứ bề im lặng, tôi ngoái cổ nh́n lại th́ không thấy ai nên tôi lại cất bước th́ cái tiếng bước đó lại vang lên, khiến tôi nôn nao rảo bước cho nhanh, kệ nó cái ǵ ở đằng sau th́ cái, c̣n tôi cứ cắm đầu bước.

 Bỗng dưng tôi thấy lạnh ở gáy như có ai vừa thở phà ở sau ót tôi khiến tóc gáy tôi dựng lên, nhưng tôi cứ rảo bước tới như chạy. Được vài phút th́ tôi lại bỗng nghe thấy tiếng hầm hừ rồi nghiến răng trèo trẹo ở đâu đó gần tôi nên tôi ngoảnh lại ngó th́ eo ơi, một bóng dáng khổng lồ dềnh dàng đồ sộ như mấy thằng Mỹ đen ở đô vật tôi thường thấy trên tivi.

 Nó mặc quần áo màu đen sậm, chân nó đi đôi ủng trông như chân voi, cái áo khoác ngoài của nó có cái chùm đầu che kín tới trán chỉ c̣n để lộ ra hai đốm sáng như hai mắt con chó ḿnh thấy ban đêm, và nó nhe hàm răng trắng ởn không biết đang giận dữ hay đang cười nhưng nó cứ gừ gừ như con chó sói sắp vồ mồi.

 Tôi phóng chạy thật nhanh không dám ngoảnh lại đằng sau ngó, chạy vắt gị lên cổ chạy không cần biết sẽ đụng phải cái ǵ đằng trước. Tôi chạy miết tới một ngă tư có đèn sáng tôi mới dừng lại ôm một gốc cây thở dốc ngó lại th́ không thấy bóng dáng quỷ quái đó đâu.

 Tôi mệt muốn đứt hơi nên gục đầu vào thân cây để thở và nhắm mắt dưỡng thần một hai phút xong rồi tôi ngó lại hướng cũ coi có thấy " nó " theo nữa không.

 Tôi nghĩ bây giờ th́ chỉ có một cách t́m điện thoại để gọi Yến, chứ có đi bộ th́ cũng đến sáng mới về tới nhà. Mà sáng mới về tới nhà th́ sẽ nói làm sao cho Yến tin là xe buưt bị kẹt đường là tôi bị quỷ đuổi. Tôi than thầm trong bụng: Em Yến ơi, em mà chứng kiến cảnh này, th́ sẽ không bao giờ la lối đay nghiến anh nữa, nhưng làm sao gọi Yến bây giờ ?

 Tôi mệt mỏi lết cặp gị trên đường phố để t́m cái bục điện thoại, mà mắt c̣n nh́n ngang nh́n dọc xem có con ma con quỷ nào xuất hiện không và tôi tự rủa ḿnh:

 - Tại sao bây giờ ḿnh lại sợ ma sợ quỷ?  Chẳng lẽ cái " khí phách can trường " ngày xưa tiêu mất rồi à ? Nghĩ vậy nhưng nh́n đường phố bụng tôi lại đánh lô tô và tôi cầu nguyện:

 - Xin Trời Phật giúp cho con đi đúng hướng... kiếm thấy điện thoại...Rồi tôi la toáng lên:

 - Mai ông không làm " security guard " nữa. Khổ quá đi.

 

 

                                                     Trần Ngân Tiêu

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.1289 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO