Tác giả |
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 281 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 12:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
MỘT NGƯỜI ẤN KỲ LẠ
Chương Một
Trong cuộc sống vội vă, quay cuồng hiện tại, nhiều người đă mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thỏa măn các nhu cầu vật chất v́ chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm ǵ hết. Các đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đă tuyên bố, “Thượng đế đă chết!” Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế c̣n sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn căi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đă dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, th́ một sự kiện xảy ra : Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đă sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đă làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn ǵ, ông ta c̣n nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta c̣n chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ c̣n biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đă phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường tŕnh và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đă đặt ra những tiêu chuẩn rơ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều ǵ nếu không có sự giải thích rơ ràng, hợp lư. Để soạn thảo bản tường tŕnh, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự ḿnh ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ư th́ điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều ǵ xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lư đều bị loại bỏ. Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đă cho biết, “Phương Đông có những chân lư quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đă đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đă gặp nhiều chống đối mănh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp ḥi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đă cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the East” và nó đă gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội t́m đến những người trong phái đoàn, th́ được biết họ đă rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dăy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đă tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên kư sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của kư giả Paul Bruton, Max Muller đă vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này.
Ấn độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. V́ thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đă bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.
Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng , phái đoàn vẫn không thoa? măn hay học hỏi điều ǵ mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đă ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ. Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đă đạt. V́ không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương tŕnh đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố t́nh giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ c̣n tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lư của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lơng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lư nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại v́ văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lư hay không ? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ư muốn, giáo sư Spalding một ḿnh lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun ph́ ph́. Tiếng kèn lên bỗng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngă. Đám đông xúm lại x́ xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đă bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các tṛ bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “c̣ mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang măi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nh́n ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những tṛ bịp bợm này. Người Ấn trả lời :
- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn t́m gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đă gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ v́ họ biết thu tập đệ tử qua các h́nh thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều ǵ ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng v́ các đạo sĩ ông đă gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”
Giáo sư Spalding ngạc nhiên :
- Tại sao ông biết rơ như thế?
Người Ấn mỉm cười :
- Các ông đă bàn căi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều ǵ mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều ǵ đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.
Giáo sư Spalding mất b́nh tĩnh :
- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn c̣n có nhiều người chưa rơ kia mà ?
Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh :
- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lư do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hăy gơ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hăy t́m rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”
Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.
Ông lắp bắp:
- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà t́m ? Chúng tôi đă bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…
Người Ấn nghiêm nghị trả lời :
- Hăy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mă Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đă gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi t́m chân lư. Một số người đă thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô h́nh ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông th́ các ông sẽ không thất vọng.
Người Ấn im lặng một lúc và nh́n thẳng vào mặt giáo sư Spalding :
- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để t́m gặp các đấng chấn sư (Rishi) th́ các ông c̣n mất nhiều thời gian nữa…
Giáo sư Spalding thắc mắc :
- Ông vừa dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?
- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, th́ tôi xin tóm tắt : “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đă tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”
- Như thế th́ các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ ?
Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu :
- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ư chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.
Giáo sư Spalding căi :
- Nhưng chúa Jesus đă từng làm các phép lạ.
Người Ấn bật cười trả lời :
- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao ? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng ?
Người Ấn nghiêm nghị :
- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết ḿnh là ai chăng ?
Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không ? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh ḿ cho dân chúng th́ các ông mới tin sao ? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn ?
- Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi ǵ cho thế gian đâu ?
Người Ấn mỉm cười :
- V́ không biết rơ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích ǵ cho nhân loại ? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng th́ ông có tin không ? Có lẽ ông sẽ đ̣i hỏi một bằng chứng, một h́nh ảnh hoặc một cái ǵ có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ ǵ chúng ta hiểu thấu. Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại c̣n ấu trĩ nên các ngài đă xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đă ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của ḿnh, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.
Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Lúc năy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không ?
- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.
Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố Benares.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 282 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 12:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI ĐẠO SĨ THÀNH BENARES
Chương Hai
Thành phố Benares là một nơi có nhiều di tích lịch sử và có rất nhiều tu sĩ. Bất cứ một người Âu Mỹ nào đến đây cũng ngạc nhiên về thành phố dân cư đông đúc, nhà cửa san sát và khắp nơi nhan nhản những đền thờ, lăng tẩm đồ sộ. Có những ngôi đền trông th́ thật cổ kính, trang nghiêm nhưng khi bước vào trong bạn sẽ thấy ǵ ? Một số tín đồ hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện, vừa rung một cái chuông nhỏ để lời cầu xin của họ thấu đến tai các vị thần. Một số khá đông đạo sĩ ngồi trong các tư thế du già (yoga) cực kỳ lạ lùng, khó tập luyện để tín đồ đến bỏ tiền vào trong bát nhỏ bầy trước mặt họ. Chúng tôi có cảm tưởng như họ làm xiếc biễu diễn kiếm ăn hơn là thực hành một pháp môn tu hành chân chánh.
Trong khi mọi người trong phái đoàn đang quay phim những đạo sĩ ngồi trên bàn đinh, các đền thờ to lớn, th́ giáo sư Spalding thong thả đi dạo ngoài bờ sông. Ông nh́n thấy một đạo sĩ vóc người lực lưỡng đang đi gần đó. Như có một mănh lực vô h́nh nào đó thúc đẩy, Spalding muốn vượt lên để nh́n cho rơ, ông bèn rẽ qua một lùm cây rậm rạp, để bắt cho kịp vị đạo sĩ nọ. Vừa đi được vài bước, ông đă giựt ḿnh v́ gặp một con rắn hổ mang to lớn chận lối. Rắn hổ là một loại rắn cực độc, hàng năm có hàng ngàn người bị rắn cắn chết, v́ ở xứ Ấn giống rắn này có nhiều vô kể, xuất hiện khắp nơi. Tiến thoái lưỡng nan, chưa biết phải làm ǵ th́ con rắn đă trườn tới ngẩng cao cổ phun ph́ ph́. Bất ngờ, vị đạo sĩ ở đâu đi đến, ông chẳng nói ǵ chỉ bước thẳng vào giữa con rắn và giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ giơ tay vuốt nhẹ, con rắn từ từ ḅ vào trong bụi rậm, mất hút trước sự ngạc nhiên của giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ mỉm cười thong thả tuyên bố :
- Cái phàm ngă hữu h́nh, hữu hoại không thể làm việc này mà đó là cái Chân Ngă thâm diệu, cái mà ta gọi là thượng đế ngự trong tôi và muôn loài đă khiến con rắn bỏ đi, khi hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngă bên ngoài để cho cái Chân Ngă tự biểu lộ, và hành động th́ không chuyện ǵ có thể xảy ra nữa. Bằng cách phát triển toàn vẹn t́nh thương và bác ái của thượng đế cho nó xuyên qua ḿnh và ban rải cho muôn loài ta sẽ cảm hoá được các thú dữ. Khi ông vừa gặp con rắn, một tư tưởng sợ hăi phát ra, và tôi đă nhận được tư tưởng này; ngoài ra h́nh như ông có ư muốn gặp tôi ?
Giáo sư Spalding ấp úng :
- Chúng tôi đang suy tầm các hiện tượng huyền bí Á châu, thú thật là tôi đang cảm thấy hoang mang và thất vọng về những điều nh́n thấy ngoài chợ nhưng khi vừa nh́n thấy ông, tôi linh cảm có một sự ǵ khác thường. H́nh như có một mănh lực vô h́nh nào xui khiến.
Đạo sĩ chăm chú nh́n giáo sư rồi ra dấu cho ông này ngồi xuống bên gốc cây cổ thụ gần đó. Đạo sĩ lên tiếng :
- Sáng nay trong cơn thiền định, tôi nhận được một thông điệp về các ông, do đó tôi mới rời am thất đi dạo bên ngoài. Phải chăng các ông muốn t́m hiểu về phép tu Du Già (Yoga)? Đáng lư không bao giờ tôi tiết lộ điều này , nhưng tôi đă nhận thông điệp phải giúp đỡ các ông vậy th́ ông cứ hỏi, tôi sẽ cố gắng trả lời tùy theo sự hiểu của ḿnh.
- Xin ông cho chúng tôi được biết về khoa Du Già (Yoga).
Đạo sĩ yên lặng trong chốc lát và lên tiếng :
- Không ai biết rơ pháp môn Du Già (Yoga) bắt đầu từ lúc nào trong lịch sử. Kinh sách Ấn độ giáo (Hinduism) nói rằng thần Shiva truyền dạy môn này cho hiền triết Gheranda. Nhà hiền triết dạy lại cho các đệ tử của ông nhưng chỉ có Marteyanda là lănh hội được các tinh túy và phổ biến trong giới trí thức thời đó.
Du Già (Yoga) là một khoa học bao gồm nhiều thứ từ : thiên văn, địa lư, triết học, toán học, v..v.. Pháp môn tôi được truyền dạy gọi là Hatha Yoga, chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ Yoga. Theo lời sư phụ tôi th́ trong thời cực thịnh, Yoga phát triển khắp nơi và lôi cuốn giới hiền triết, trí thức rất đông. Theo thời gian, thời hoàng kim đă qua, nhân loại đă sa vào hố thẳm của sa đoa. vật chất, bị lôi cuốn vào các cám dỗ xác thịt. Để chống lại sự phá sản tâm linh này, các hiền triết đă hội thảo để t́m một giải pháp. Sau cùng họ đi đến kết luận là cho phép truyền dạy một phần của môn Yoga cho quần chúng, nhằm đem lại một giải pháp cho giai đoạn lúc đó. Phần được truyền dạy này trích ở chương Yuj (cái ách) gồm các phương pháp trói buộc tinh thần lẫn thể xác trong một kỷ luật khắc khe để đạt mục đích tập trung Tâm và Thân làm một với bản thể trời đất. Từ đó phần này được truyền bá khắp nơi và tồn tại đến ngày naỵ V́ trích ở chương Yuj, nên nó được gọi là Yoga. Nên nhớ đây chỉ là một phần rất nhỏ của môn Yoga nguyên thuỷ, vậy mà phần nhỏ này cũng chỉ rất ít người hiểu rơ một cách đứng đắn. Đa số đă hiểu sai nên mới có các lối tập luyện kỳ dị, các lối tu khổ hạnh điên rồ, các tư thế lố bịch. Như các ông thấy, có các đạo sĩ nằm bàn đinh, dơ cánh tay lên trời cho đến khi nó khô liệt. Sự luyện tập như thế không có ích ǵ mà cũng chả mang lại một kết quả ǵ. Đó là những kẻ làm hoen ố danh dự một môn khoa học như Yoga. Đối với đa số, Yoga đă bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục để thân thể khoẻ mạnh cường tráng.
Tuy thế, nếu luyện thế đúng cách nó vẫn mang lại nhiều kết quả tốt cho thể xác. Nhưng các đạo sĩ (Yogi) lại khác, họ biết rằng luyện tập môn này sẽ giúp họ khám phá các năng lực tiềm tàng, mầu nhiệm, giúp họ đạt các phép thần thông biến hoá.
Để luyện ư chí, họ tập trung năng lực vào các việc như hành xác, bắt nó chịu các thử thách cực độ như phơi nắng, dầm sương, ngồi trên than hồng, đứng bằng tay, tréo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát, lấy gươm xiên vào da thịt, v..v…
Để chứng minh quyền năng ư chí, họ đem tṛ này ra biễu diễn cho quần chúng để t́m cách vừa kiếm tiền, vừa hưởng sự kính trọng của đám dân chúng khờ khạo.
Mục đích của Yoga đâu phải làm tṛ lạ mắt cho người đời kính phục.
Giáo sư Spalding ngắt lời :
- Nhưng ta có nên trách họ không ? Nếu các đạo sĩ chân tu dấu kín các phép tu chân truyền th́ sự hiểu lầm làm sao tránh khỏi.
Đạo sĩ mỉm cười thong thả giải thích :
- Một ông vua có khi nào phơi bày ngọc ngà, châu báu cho mọi người coi chơi. Ông ta cất dấu cẩn thận có phải thế chăng? Pháp môn Yoga c̣n ǵ quư bằng nên người tu chân chính không khi nào đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào thành tâm muốn học hỏi phải ra công t́m kiếm và đó là phương pháp duy nhất. Một danh sư không cần quảng cáo rầm rộ v́ không cần các đệ tử xúm vào xưng tụng. Trái lại, ông tuyển chọn đệ tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo lư bí truyền khi người đệ tử tỏ ra xứng đáng. Khoa Yoga bí mật v́ cách luyện tập rất nguy hiểm đối với người non kém, chưa đủ khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải tṛ chơi tầm thường.
Có rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng tôi tu luyện theo môn Hatha Yoga, nhắm việc chủ trị xác thân trước khi chủ trị tinh thần. Lúc đầu ta phải luyện tập bắp thịt và bộ máy hô hấp cho thật thuần thục, sau đó mới đi vào thần kinh, năo tủy. Nếu tập đúng cách, sức khoẻ sẽ tăng cường, sống lâu và có ư chí mạnh mẽ. Đó chỉ là giai đoạn nhập môn, nó đ̣i hỏi ít nhất từ một đến bốn năm mới đáng kể. Thân thể có cường tráng, tinh thần có dũng mănh mới có thể tiếp tục bước vào giai đoạn kế tiếp.
Giáo sư Spalding gật gù :
- Như thế môn này khác phương pháp thể dục của người Âu Mỹ thế nào ? Chúng tôi cũng có các cách khiến thân thể khoẻ mạnh.
Đạo sĩ bật cười lớn :
- Người Âu Mỹ biết cách làm thân thể nẩy nở trên bộ da, bắp thịt, làm sao so với lối luyện tập của người Á châu, vốn chú trọng từ bên trong ra đến bên ngoài. Trước hết có bốn cách thức căn bản : Nghỉ ngơi làm xoa dịu thần kinh, cân năo. Tĩnh toa. để tập trung ư chí. Điều tức để tẩy uế thân thể, khu trục các chất cặn bă, và Khí công để kiểm soát hơi thở. Hăy lấy một thí dụ giản dị như việc nghỉ ngơi, hăy quan sát con mèo khi nó nằm yên hay ŕnh bên lỗ chuột. Con mèo biết cách dưỡng sức, bảo tồn sinh lực không hao phí chút nào. Mọi cử động tư thế là cả một sự suy nghĩ, kiểm soát để thoải mái tối đa. Người Âu các ông tưởng ḿnh biết nghỉ ngơi, nhưng thật ra các ông không biết ǵ cả. Các ông ngồi trên ghế một lúc rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi th́ tréo chân, lúc lại dang tay, coi th́ thoải mái nhưng trí óc các ông hoạt động liên miên từ việc này đến việc nọ. Như thế chỉ là hoạt động ầm thầm chứ đâu phải nghỉ ngơi. Loài vật biết cách dươong sức bởi v́ chúng có bản năng d́u dắt mà bản năng là tiếng nói tự nhiên. Loài người được hướng dẫn bằng lư trí, nhưng thay v́ làm chủ lư trí, họ đă không kiểm soát được bộ Óc của họ, nên hậu quả là cả hệ thống thần kinh thể xác thể đều bị ảnh hưởng. Sự nghỉ ngơi hoàn toàn gần như không có.
Giáo sư Spalding thở dài thú nhận :
- Đó là điều chúng tôi không bao giờ nghĩ đến, nhưng liệu ông có thể nói rơ hơn về khái niệm sơ đẳng môn Hatha Yoga không ?
- Tôi chỉ có thể nói một vài tư thế giúp con người tăng cường sức khoẻ thôi. Có hai mươi tư thế (Asana), mà ai cũng có thể tập luyện để tăng cường sinh lực. Các tư thế này có ảnh hưởng đến một số bí huyệt khiến nó tác động lên các cơ quan suy yếu, giúp nó hoạt động trở lại mạnh mẽ hơn. Khoa học Tây phương đă chứng minh rằng ngoài các mạch máu chính, thân thể con người c̣n có hàng triệu các vi ti mạch chạy khắp nơi để đưa dưỡng khí nuôi cơ thể. Nếu một cơ quan hay bắp thịt ít hoạt động hay suy yếu, th́ số lượng các vi ti mạch (capillaries) cũng giảm bớt đi. Tập thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch máu nhỏ này gia tăng hoạt động, khiến cơ quan phục hồi. Cũng như thế, tập các tư thế Yoga sẽ làm luồng hoa? hầu (Prana) lưu chuyển, kích động các cơ quan từ trong khiến nó hoạt động nhưng tập Yoga làm nó hoạt động đúng với hiệu năng sẵn có. Do đó, nó mang lại nhiều hiệu quả thần diệu hơn. Con người không có lo ǵ bệnh tật nữa, nếu có bệnh cũng sẽ khỏi hoàn toàn.
Giáo sư Spalding lắc đầu :
- Tôi không tin người Âu Mỹ sẽ chấp nhận việc tập Yoga chữa được hết bệnh tật.
Đạo sĩ mỉm cười :
- Một thân thể khoẻ mạnh, cường tráng làm sao có thể bị bệnh được ? Bệnh tật là do sự mất quân b́nh trong cơ thể. Người Âu Mỹ các ông chỉ biết hoạt động chứ đâu biết nghỉ ngơi, thế đă là lư do gây nên các bệnh thần kinh rồi.
- Thôi được, xin ông nói thêm về cách tập luyện ra sao ?
Đạo sĩ thong thả giải thích :
- Việc đầu tiên là phải ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế, nhất là các ghế bành êm ái rất có hại cho xương sống, con đường vận hà chính của luồng hoa? hầu (Prana), và là nguyên nhân gây nên các chứng đau lưng, bại xuội, phong thấp. Phép ngồi thật ra rất dễ, chỉ cần ngồi xếp bằng dưới đất, không dựa vào đâu, không nghiêng ngả bên nào, giữ cở thể thật thăng bằng, xương sống phải thật thẳng và thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài phút nhưng sau đó sẽ lại thở loạn xạ ngaỵ Đó là v́ bộ Óc quen hoạt động, quen náo nhiệt. Hăy giữ cho ḷng yên tĩnh, vắng lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ vẩn. Lúc đầu chưa quen chủ trị tư tưởng th́ hăy nghĩ đến một cái ǵ đẹp đẽ, mỹ lệ như bông hoa, gịng suối. Đó là bước đầu cho việc nghĩ ngơi.
Giáo sư Spalding buột miệng :
- Như thế đâu có ǵ khó khăn lắm.
Đạo sĩ bật cười :
- Nghỉ ngơi cần ǵ phải khó khăn, phiền phức. Khi giữ được xương sống thẳng và thở hít đều đặn, th́ luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ thể và từ đó sẽ điều chỉnh các chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân. Cách thứ hai là nẳm ngửa trên mặt đất, chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai tay buông xuôi bên thân ḿnh, mắt nhắm lại để sức nặng toàn thân phân phối đều trên sàn gạch. Nên nhớ phải nằm trên sàn chứ không phải trên giường, nhất là giường nệm, v́ giường mềm mại khiến thân thể lệch lạc không đều. Hăy nằm cho thoải mái, không nên cố gắng thái quá, đầu óc phải thảnh thơi, chớ suy nghĩ hay mong mỏi điều ǵ. Tư thế này sẽ xoa dịu bộ thàn kinh khiến nó lấy lại trạng thái quân b́nh. Nên nhớ nền tảng chính của Hatha Yoga dựa trên sự nghỉ ngơi, dưỡng sức chứ không phải hành xác với các tư thế vặn vẹo kỳ cục.
- Nhưng Yoga có các tư thế đó cơ mà ?
- Vấn đề đứng ngồi với một tư thế đặc biệt trong một khoảng thời gian không quan trọng, nhưng sự tập trung ư chí để thi hành tư thế đó một cách đứng đắn sẽ thúc đẩy các mănh lực tiềm tàng trong cơ thể con người. Những mănh lực này là bí mật của thiên nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện tập phải kèm theo một phương pháp thở (Khí công). Tư thế giúp con người chủ trị giác quan, hơi thở giúp con người mở cửa vào thế giới tinh thần. Nên nhớ tinh thần và thể xác luôn đi song đôi. Không thể có một tinh thần bạc nhược trong một thể xác tráng kiện, hay tinh thần minh mẫn trong một thể xác bệnh hoạn. Trong giai đoạn cao của Hatha Yoga, th́ hành giả sẽ phải tham thiền nhập định rất lâu, thế ngồi của thể xác là điều quan trọng v́ nó giúp sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp hành giả tinh tấn, tăng cường ư chí….
- Nhưng tôi vẫn thắc mắc về các tư thế kỳ lạ, vặn vẹo thân h́nh của Yoga như chổng ngược đầu, vắt chân lên cổ.
- Bạn nên nhớ, trung tâm bí mật của hệ thần kinh rải rác nhiều chỗ trong cơ thể. Mọi tư thế có công dụng riêng, ảnh hưởng đến một bí huyệt nhất định. Nhờ kích động các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh hưởng các bộ phận trong cơ thể, cũng như hoạt động trí năo. Các tư thế lạ lùng chỉ dùng để kích động các bí huyệt mà thôi. Ngoài ra không c̣n ǵ khác nữa. Bạn phải nhớ kỹ rằng ngoài các tư thế c̣n có phương pháp khí công nữa, chứ không phải chỉ vận động các bắp thịt thôi. Người Tây phương tập thể thao, vận động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức lực để làm nẩy nở bắp thịt. Người Á châu tin rằng chính cái sức mạnh ở trong mới điều khiển và chỉ huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương pháp chổng ngược chân lên trời (trồng cây chuối) là lố bịch ư ? Tư thế này dồn máu xuống bộ Óc do trọng lượng của nó. B́nh thường máu được đưa lên óc do sức vận động của tim. Sự khác biệt ở chỗ để máu tự nhiên dồn xuống óc xoa dịu cân năo rất có lợi cho ai làm việc nhiều bắng trí óc và giúp quả tim ngơi nghỉ không phải cố gắng để đưa máu lên óc. Nhờ tim được nghỉ mà tránh được các chứng đau tim. Khi thực hành các tư thế này phải cẩn thận, làm chậm răi, từ từ, có ư thức, giữ vững tư thế trong một thời gian, không nên cố gắng thái quá. Nên nhớ ch́a khoá là ở sự nghỉ ngơi thong thả, chứ không phải hùng hục. Môn Yoga giúp thân thể tự động điều hoà trong sự yên tĩnh, thăng bằng, khác hẳn các lối tập thể thao co tay, múa chân ào ạt của người Âu. Làm thế tuy bắp thịt cơ thể nẩy nở, nhưng thân thể náo động, có hại cho thần kinh.
Giáo sư Spalding im lặng không thốt nên lời nào, tất cả những ǵ người đạo sĩ này nói ra đều hợp lư, rất khoa học, không hề có tính chất mê tín dị đoan như ông đă nghe các tu sĩ khác thần thánh hoá. Một người Âu trung b́nh vốn coi rẻ dân tộc Á châu như loại người chậm tiến, di sản một miền nóng bức, thiếu ăn, chắc phải ngạc nhiên khi thấy từ thời xưa người Ấn đă được giáo dục một cách tập thể dục tối tân, tinh vi, và khoa học như thế.
Đạo sĩ Ấn nh́n ông mỉm cười như đoán được ư nghĩ :
- Yoga là khoa học của vũ trụ, nó không những chỉ áp dụng riêng đối với dân Á châu, mà là khắp nơi. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết nhưng dù sao duyên hội ngộ lần này cũng tốt đẹp. Tôi giúp ông bạn một ch́a khóa bí truyền này. Luật thiên nhiên định rằng trung b́nh con người thở với số nhịp là 21.600 lần mỗi ngày. Sự hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp điệu nói trên và thu ngắn sự sống. Sự hô hấp chậm răi, kéo dài, đều đặn là tiết kiệm sinh lực và kéo dài sự sống, đó là bí quyết khoa Khí công. Mỗi hơi thở tiết kiệm sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ giúp ta kéo dài sự sống. Các đồ ăn có chất kích thích hay hút thuốc làm cho hơi thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng khí vào phổi , tất nhiên làm ta giảm thọ nhanh. Có lẽ ông bạn c̣n nghi ngờ ? Khoa Yoga ư thức rất rơ sự liên quan chặt chẽ giữa cơ quan hô hấp và tuần hoàn. Cả hai cơ quan này liên hệ mật thiết với hệ thần kinh. Bộ thần kinh là ch́a khoá vào cánh cửa tâm linh, do đó, hơi thở chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là cột trụ sinh hoạt xác thể, và chính cái sức mạnh vô h́nh, vô ảnh ẩn tàng trong cơ thể chúng ta mới thực sự điều khiển đời sống. Khi nó rời xác thân th́ hơi thở ngừng lại và sự chết đến. Sự kiểm soát hơi thở giúp ta làm chủ một phần nào luồng sinh lực vô h́nh này. Khi sự chủ trị thân xác được thực hiện đến mức cao siêu, con người sẽ kiểm soát được sự vận động các cơ quan trong thân thể như tim, gan ,bao tử, phổi…..
- Làm sao có thể được, tim ngừng đập là chết rồi c̣n ǵ ? Giáo sư Spalding kêu lớn.
- Bạn không tin ư, được bạn hăy để tay lên ngực tôi.
Giáo sư Spalding để tay lên ngực đạo sĩ và tay kia bắt mạch. Một sự rung động lạ lùng xảy ra, nhịp tim đập của đạo sĩ từ từ chậm dần và ngưng hẳn. Đây là một ảo tưởng ? Giáo sư vội đưa tay xem đồng hồ, đúng một phút im lặng, rồi quả tim bỗng bắt đầu đập trở lại. Đạo sĩ mỉm cười giải thích :
- Bây giờ th́ ông tin rồi chứ ? Có lẽ ông nghĩ rằng điều này phản khoa học, tôi xin lấy thí dụ sau mà ông có thể kiểm chứng được. Con voi thở chậm hơn con khỉ do đó nó sống lâu hơn. Quan sát lối hô hấp loài vật như con rắn chẳng hạn, nó thở rất chậm nên sống lâu hơn con chó. Nếu nghiên cứu kỹ, bạn sẽ thấy sự liên hệ mầu nhiệm giữa hơi thở và sự sống lâu. Một kẻ sống đời êm đềm, sống lâu hơn người có đời sống vội vă, náo nhiệt. Có các giống dơi ngủ suốt mùa đông. Chúng treo cẳng trên vách đá ngưng thở nhiều tháng, và chỉ tỉnh giấc khi xuân đến. Con gấu cũng ngủ suốt mùa đông như thế. Tại sao loài vật làm được mà loài người lại không làm được ? Đó đâu phải phản khoa học hay phản thiên nhiên. V́ các khoa học gia kết luận rằng điều này không thể xảy ra nên không bao giờ họ nh́n thêm điều ǵ nữa. Đối với người Á châu, bất cứ việc ǵ cũng có thể xảy ra và thiên nhiên là ông thầy rất tốt.
- Nhưng như thế đâu có lợi ǵ, sống lâu thêm vài tháng, vài giờ…
Đạo sĩ mỉm cười một cách bí mật trả lời :
- Một ngày nào đó, bạn sẽ hiểu lời tôi nói. Tôi không thể giải thích ǵ thêm lúc này. Bạn có tin rằng nếu luyện tập pháp môn này đến mức cao siêu, ta có thể thắng đoạt tử thần không ? Bạn đồng ư rằng ngưng thở là chết, và nếu ta giữ được hơi thở th́ ta bảo tồn sự sống có đúng không?
- Dĩ nhiên là như thế.
- Bạn thân mến, một đạo sư có thể cầm giữ hơi thở không những trong nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm và nhiều thế kỷ, tức là họ có thể kéo dài sự sống theo ư muốn có đúng không ? Ông bạn đă đồng ư ràng hơi thỏo ở đâu tức là sự sống ở đó kia mà.
- Nhưng làm sao có ai giữ được lâu như thế ?
- Khi bạn lên dăy Hy Mă Lạp Sơn, bạn sẽ gặp những người này và điều này không lạ lùng như bạn nghĩ. Khoa Yoga chân truyền có thể đem lại nhiều quyền năng bất ngờ, lạ lùng, nhưng đă mấy ai khổ công tập luyện. Trong thời buổi điên đảo hiện nay, con người mê mải trong danh lợi, phù phiếm, các ảo ảnh cuộc đời, làm ǵ có th́ giờ suy nghĩ đến sinh hoạt tâm linh. Đó cũng là lư do những người thực sự mong muốn một trạng thái tâm linh thường ẩn ḿnh nơi hoang vắng, các bậc đó không bao giờ phải đi t́m đồ đệ mà người t́m đạo phải đi kiếm các ngài…
Giáo sư Spalding thắc mắc :
- Nhưng sống lâu trong hoang vắng để làm ǵ chứ ?
- Hiện giờ đầu óc bạn vẫn c̣n suy nghĩ như người Âu, nghĩa là lư luận theo một chiều. Muốn học hỏi bạn phải cởi bỏ các thành kiến sẵn có, th́ mới mong học hỏi những điều mới lạ. Một thời gian nữa bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói . Dĩ nhiên ,các bậc chân sư kéo dài đời sống v́ những lư do chính đáng, cao cả chứ đâu tham sống sợ chết như người thường. Trên dẫy tuyết sơn có những vị đă sống cả trăm năm, có vị sống đến cả ngàn năm. Tất cả đều có những sứ mạng riêng nên họ giữ nguyên thể xác. Một đạo sĩ thấp kém như tôi không đủ kiến thức để có ư kiến. Tôi cho bạn biết trước một điều, bạn sẽ cầm về Anh móng tay của một vị Lạt Ma đă sống hơn bốn trăm năm.
- Liệu ông có thể cho chúng tôi biết làm cách nào để kéo dài đời sống như thế được ?
- Có ba phương pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là luyện tập tất cả các tư thế (asana) cùng với môn khí công bí truyền cho thật thuần thục tuyệt hảo. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện dưới sự chỉ dẫn của một vị danh sư đă có kinh nghiệm v́ sai một ly đi một dặm, đó là chưa kể người tập phải có một nếp sống tinh khiết, trong sạch hoàn toàn. Một ư niệm xấu khi thiền định có thể làm loạn động hơi thở đưa đến t́nh trạng “tẩu hoa? nhập ma”, điên loạn hoặc chết ngaỵ Phương pháp thứ hai là sử dụng dược chất, pha chế các loại thuốc đặc biệt các loại cây cỏ hiếm hoi, phương pháp này cũng chỉ một thiểu số biết cách bào chế và chỉ truyền lại cho các đệ tử riêng. Phương pháp luyện đơn này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt v́ nó có các hiệu quả không thể lường được. Phương pháp thứ ba là lối mở các kinh kỳ bát mạch, sinh tử huyền quan rất khó giải thích theo khoa học thực nghiệm. Tôi chỉ có thế nói như thế c̣n tin hay không là quyền của ông. Trong óc con người có một lỗ trống rất nhỏ nằm sâu bên trong, và có một nắp đậy bên ngoài . Nơi cuối cùng của đốt xương sống là sào huyệt của luồng hoa? hầu Kundalini. Sự truỵ lạc, trác táng làm tiêu hao sinh lực, khiến con người trở nên già nua, cằn cỗi. Trái lại, nếu biết kiểm soát ta có thể tiết kiệm sinh lực. Khi một người làm chủ toàn xác thân, y sẽ kiểm soát được luồng hoa? hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi thượng thặng mới dám luyện tập đến luồng hoa? hầu, khiến nó thức tỉnh đi ngược lên trên theo xương sống khai mở các bí huyệt, các trung tâm quan trọng nằm dọc theo lộ tŕnh. Khi mở được nắp đậy lỗ hổng ngay trong óc để luồng hoa? hầu Kundalini chui vào cư ngụ nơi đây, ta sẽ khai mở nhiều quyền năng, cải lăo hoàn đồng kéo dài sự sống. Sự khó khăn nhất là việc mở được cái nắp đậy trên óc, việc này có khi cần sự trợ giúp của một danh sư sử dụng nội lực giúp y đả thông kinh kỳ bách mạch. Việc này rất khó v́ kẻ táo bạo luyện công dễ mất mạng như chơi. Người thành công có thể kéo dài sự sống như ư muốn và khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt như khi c̣n sống, và không hề hư hại…
Giáo sư Spalding im lặng, tất cả những điều vị đạo sĩ tiết lộ, thật lạ lùng, ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Chắc chắn khoa sinh lư học không thể chấp nhận luồng sinh lực vô h́nh này. Có lẽ nó xuất phát từ trí tưởng tượng của các đạo sĩ chất phác, mê tín chăng ? Có nên tin hay không ?
Như đọc được tư tưởng của giáo sư, đạo sĩ mỉm cười : - Tôi biết ông bạn nghi ngờ v́ các điều đó hoàn toàn trái với lư thuyết khoa học nhưng bạn hỡi, minh triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa học vũ trụ, so với môn khoa học thực nghiệm th́ môn này chỉ là một mănh vụn.
- Một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến vấn đề tôi vừa tŕnh bày, lúc đó t́nh trạng hiểu biết của nhân loại đă tiến hoá cao hơn bây giờ, nên có thể hiểu biết một cách chính xác hơn. Bạn nên hiểu luật vũ trụ định rằng khoa học thực nghiệm phải luôn luôn đi song song với sự tiến hoá của nhân loại. Vài trăm năm trước có phải khoa học lúc đó thật là ấu trĩ so với bây giờ hay không ? Nếu đi ngược ḍng lịch sử, bạn có thấy rơ mực tiến hoá của khoa học và nhân loại luôn luôn bổ túc cho nhau không ? Thời tiền sử, nói về nguyên tử lực là điều vô lư và có nói cũng chả ai hiểu. Thời Trung Cổ, nếu có gỉang giải về không gian sẽ bị kết án là phù thuỷ. Lịch sử Âu châu đă chứng minh rằng những người thông minh quá đều bị chế nhạo, là điên khùng rồi bị thiêu sống. Đó cũng là lư do các bậc danh sư không hề xuất hiện và các phương pháp tu hành được ǵn giữ cẩn thận, bí mật, chỉ những người thành tâm mới được dạy bảo.
- Nhưng có cách nào một người Âu như tôi được truyền dạy các điều này không ?
- Được lắm chứ, nhưng liệu bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa đô hội để ẩn ḿnh nơi hoang vu, tịch mịch tu học không ?
- Điều này…cũng được, nhưng tôi phải thu xếp công việc đă….
- Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động vui thú phàm thục để hoàn toàn dành cho việc thực hành pháp môn Yoga, không phải vài ngày, vài giờ , mà trọn đời.
- Nhưng chảng lẽ trọn đời chỉ có làm thế thôi…có lẽ khi tôi già đă…
Đạo sĩ bật cười :
- Bạn mến, Yoga không phải một tṛ tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi hoặc khi tuổi già bóng xế. Người Âu các ông sao ham hoạt động và tham lam quá vậy ?
Giáo sư Spalding đỏ mặt căi :
- Nhưng tập Yoga để làm ǵ ? Kéo dài đời sống khổ hạnh thêm vài năm có ích lợi ǵ đâu ?
Đạo sĩ nghiêm mặt :
- Ai bảo mục đích Yoga là cầu sống lâu ? Sống khổ hạnh mà không có ư nghĩa để làm ǵ ? Phần lớn các đạo sĩ luyện thân thể cường tráng sống lâu hơn người khác chưa thấu hiểu được mục đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc chân sư chỉ lo sống thêm ít lâu thôi hay sao ? Người đời thường chỉ hiểu một chiều, và đi ngay đến kết luận. Chinh phục thể xác chỉ là bước đầu đưa con người đến việc chinh phục tinh thần. Giữ cho ḿnh không hành động xấu th́ dễ nhưng giữ cho tâm không nghĩ xấu mới khó khăn gấp bội, và đ̣i hỏi nổ lực phi thường. Đời người quá ngắn, việc tập luyện kiểm soát thể xác đă đ̣i hỏi nhiều năm, không đủ để tu tập tinh thần. Do đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời sống. Môn Hatha Yoga như tôi nói chỉ nhắm mục đích chủ trị xác thân, khi thành công phải tu tập thêm Raja Yoga nhắm chủ trị tinh thần nữa chứ. Hatha Yoga dọn đường cho Raja Yoga …
- Thế tại sao ta không tập Raja Yoga ngay có hơn không ?
Đạo sĩ lại bật cười :
- Người Âu thật hấp tấp, muốn đi xa phải đi từ từ, phải tập đi trước khi tập chạy chứ. Đốt giai đoạn là bảo đảm thất bại. Khi thể xác chưa làm chủ nổi th́ làm sao đă đ̣i làm chủ tinh thần…
Giáo sư Spalding nôn nóng :
- Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, bạn có thể chỉ cho tôi thêm về môn này không?
- Này ông bạn, việc ǵ cũng có duyên phận, nếu đủ duyên bạn sẽ gặp thầy hay bạn giỏi. Hăy có một ḷng khao khát chân lư rồi định mệnh sẽ dẫn dắt bạn.
- Nhưng tôi đâu quen biết ai, các bậc chân sư đâu có tên trong điện thoại niên giám – tôi làm sao gặp các ngài ?
Đạo sĩ mỉm cười một cách bí mật.
- Hăy vững niềm tin, ḷng khao khát cầu đạo có một tư tưởng mạnh mẽ và chắc chắn sẽ được đáp ứng. “Hăy gơ cửa rồi cửa sẽ mở, hăy t́m rồi sẽ gặp”, bạn quên rồi sao ?
Giáo sư Spalding giật ḿnh, một lần nũua câu nói quen thuộc trong Kinh thánh lại được nhắc nhở bởi một đạo sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không biết nói ǵ. Đạo sĩ mỉm cười nói tiếp :
- Người Âu có tính ṭ ṃ, cái ǵ cũng muốn biết. Thực hành mới là quan trọng, chứ biết suông để làm ǵ ? Phương pháp rèn luyện tinh thần cũng giống như thể xác thôi. Nếu tập lueỵ6n thể thao đều đặn th́ bắp thịt sẽ nảy nở, rắn chắc; th́ rèn luyện tinh thần cũng vậy. Nhiều người có các tính xấu như ích kỷ, tham lam, hà tiện, đa nghi… Do đó, họ hành động không tốt với người khác. Đa số cho rằng đó là bản tính tự nhiên, không đổi được. Thật ra, nếu muốn ta có thể sửa đổi mọi tính t́nh. Nếu một tập luyện đúng cách làm bắp thịt nở nang th́ sự kiểm soát thích nghi sẽ tạo các đức hạnh cần thiết . Kinh Rig Veda đă ghi rơ : “Kẻ nào quan niệm sự tiến hoá một cách rơ ràng chính xác sẽ ư thức được quyền lợi và hạnh phúc của ḿnh. Muốn trở nên một bậc toàn thiện ta phải có các đức hạnh và can đảm. Người nào muốn cải thiện xă hội phải biết cải thiện ḿnh trước đă. Phải biết quên quyền lợi riêng để chú tâm vào phận sự chung. Phải hiểu rằng các cơ hội tiếp xúc với mọi người đều tạo cho ta cơ hội phụng sự. Phụng sự mọi người chính là phụng sự thượng đế. Những người nhiệt tâm sửa ḿnh phải ư thức quyền năng vô hạn của tư tưởng v́ hành động phát sinh từ tư tưởng. Người t́m đạo phải biết kiểm soát tư tưởng của ḿnh và sử dụng chúng một cách hợp lư và bác ái. Kiểm soát tư tưởng là mục đích của môn Raja Yoga. Trở ngại lớn nhất của những người luyện tâm, rèn chí là sự kiêu ngạo và óc chỉ trích. Với óc chỉ trích, con người công kích tất cả họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, t́m sự sai quấy ở khắp mọi người. Người tu pháp Raja Yoga phải có thái độ ngược lại, phải t́m thấy điều thiện ở tất cả mọi người và nh́n thấy mọi sự đều có cái lư riêng của nó. Có thế họ mới giúp ḿnh và người khác được . Trở ngại thứ hai là sự nông nổi, làm điều này chưa xong, đă nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc đă mong thấy kết quả và nếu kết quả chưa như ư muốn liền bỏ điều theo đuổi, để nhảy sang một điều khác. Rốt cuộc không có điều ǵ xong cả. Thái độ này không thể chấp nhận được. Sự bền tâm kiên chí là điều cần thiết để chủ trị tư tưởng. Dĩ nhiên, kiếp người ngắn ngủi không ai có thể trừ hết thói hư, tật xấu trong một kiếp, do đó, việc tu hành cũng kéo dài trong nhiều kiếp sống. Khi đó họ sẽ ư thức các sự kiện vĩ đại của sự sống vô cùng và rời bỏ cái bản ngă để hoà ḿnh vào gịng tiến hoá của vũ trụ, hoà nhập với Chân Ngă bất diệt.
- Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một vị thánh ?
- Này ông bạn, đừng nên kết luận vội vàng. Con đường dẫn đến quả vị tiên thánh đâu phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa đến chân lư và không đường nào hơn đường nào. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà bạn phải ghi nhớ măi măi. Không một con đường nào hơn đường nào dù là Hatha Yoga hay Raja Yoga hay là môn ǵ chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này mới hay, tôn giáo kia mới tốt? Không một đường nào có thể là duy nhất được. Tốt hơn cả hăy tự biết ḿnh. Thay v́ t́m một chân lư tuyệt đối, hăy t́m sự tuyệt đối nơi ḿnh v́ chân lư để sống chứ không phải để dạy.
Giáo sư Spalding im lặng không thốt lên câu nào. Lời nói của đạo sĩ như có một sức mạnh vang dội trong ḷng ông. Các thành kiến từ trước bỗng tan biến hết và ông cảm thấy xúc động vô cùng.
Đạo sĩ mỉm cười :
- Này ông bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng danh mà chỉ có các kẻ c̣n u mê trong bản ngă mới tha thiết đến danh vọng, địa vị. Khi họ đeo đầy ḿnh những chức tước, th́ làm sao họ giải thoát được ? Thượng đế ban cho ta trí thông minh để nhận xét th́ ta phải biết phân biệt chứ. Hăy nh́n thành Benares với cả trăm đền thờ khác nhau, hàng ngàn giáo sĩ, tông phái. Ai cũng tự nhận rằng phe ḿnh gần thượng đế nhất. Tại sao suốt hai năm nay phái đoàn các ông đă đi khắp nơi, thăm viếng mọi chỗ mà vẫn không thoa? măn ? Phải chăng v́ sự hiểu biết phân biệt của các ông đă cao, không chấp nhận sự mê tín, mù quáng nữa. Kinh Gita nói rơ, “Thầy nào, tṛ nấy. Một tu sĩ chân chính không có đệ tử bất hảo, và một đệ tử thông minh không t́m thầy bất lương”. Luật thiên nhiên đă dạy “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một người sáng suốt đâu thể đi theo kẻ u mê… Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính ḿnh để cầu giải thoát chứ đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp, đễ tự hào về các thành quả này. Như thế là phô trương bản ngă, kiêu căng, ngă mạn làm sao c̣n giải thoát được. Bạn hăy sử dụng lư trí và trực giác để phân biệt những người này, nếu bạn tha thiết mong cầu chân lư th́ chắc chắn điều mong ước sẽ thành sự thật. Chúng ta gặp nhau thế này cũng đă quá đủ, đă đến lúc tôi phải trở về am thất.
- Nhưng làm sao tôi sẽ gặp lại ông…tôi chưa biết tên ông.
- Hăy gọi tôi là Bramananda.
Giáo sư Spalding yên lặng nh́n vị đạo sĩ khuất dần qua hàng cây rậm rạp. Bóng chiều từ từ rơi xuống trên sông Hằng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 283 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 1:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
KHOA HỌC THIÊN NHIÊN VÀ KHOA HỌC CHIÊM TINH BÍ TRUYỀN
Chương Ba
Lawrence Keymakers là một người Anh giàu có, sống tại Benares nhiều năm. Ông làm chủ nhiều xí nghiệp lớn và có một kiến thức rất rộng về xứ này. Thương gia Lawrence khoản đăi phái đoàn trong toà biệt thự rộng, xây cất bên bờ sông Hằng.
Sau câu chuyện xă giao, giáo sư Allen lên tiếng :
- Bạn nghĩ sao về những điều người Ấn gọi là Minh Triết thiêng liêng và những sự kiện mê tín dị đoan xảy ra ngoài chợ ?
Lawrence lắc đầu :
- Xứ này vẫn có những tṛ biểu diễn như thế, nhưng ngoài những cái mà ta cho là ảo thuật hoặc mê tín dị đoan c̣n ẩn náu những ư nghĩa tâm linh rất ít ai biết được. Muốn t́m hiểu phải nghiên cứu cặn kẽ chứ không thể kết luận vội vă…
Giáo sư Oliver bật cười :
- Bạn cho rằng những tṛ ngồi bàn đinh, thổi kèn gọi rắn c̣n ẩn dấu những ư nghĩ tâm linh hay sao?
- Tùy tâm trạng của ḿnh mà xét đoán sự kiện, nếu ta nh́n nó dưới cặp mắt của người Âu th́ ta sẽ chỉ thấy nó là một tṛ múa rối, không hơn không kém, nhưng nếu ta gạt bỏ các thành kiến, biết đâu ta chẳng học hỏi thêm được nhiều điều.
Giáo sư Allen châm biếm :
- Bạn ở Ấn đă lâu, chắc đă học hỏi được nhiều điều mới lạ…
Lawrence mỉm cười :
- Đúng thế, tôi đă học hỏi rất nhiều và điều đầu tiên tôi học được là sự khiêm tốn. Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp ta học hỏi thêm những điều mới lạ. Các bạn hăy nh́n ly nước đầy trên tay tôi đây, nếu tôi tiếp tục rót thêm th́ nước sẽ tràn ra ngoài. Trừ khi tôi đổ bớt nước trong ly đi th́ tôi mới rót thêm nước vào được. Kiến thức cũng thế, chỉ khi ta khiêm tốn gạt bỏ những thành kiến có sẵn ta mới tiếp nhận thêm được những điều mới lạ. Các bạn muốn nghiên cứu học hỏi những minh triết của xứ Ấn, nhưng vẫn giữ thành kiến của người Âu, khinh bỉ mọi sự th́ có khác chi ly nước đầy, làm sao rót thêm nước vào được nữa ?
Mọi người im lặng, câu nói thẳng của vị thương gia ít nhiều đă va chạm tự ái phái đoàn. Dù sao họ cũng là những khoa học gia nổi tiếng nhất của Hoàng Gia Anh, lúc nào cũng được nể v́, kính trọng. Để phá tan bầu không khí nặng nề, giáo sư Morimer chỉ một h́nh vẽ lạ lùng treo trên tường :
- Đây là h́nh vẽ ǵ vậy ? Trông như các tinh tú th́ phải…?
- Bạn nói đúng, đó là lá số tử vi của tôi.
Mọi người bật cười, giáo sư Allen khôi hài :
- Lá số tử vi ? Lawrence thân mến, bạn đă trở thành người Ấn hồi nào vậy ?
Lawrence nghiêm mặt :
- Đây là một món quả vô giá của Sudeih Babu, nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn độ.
Toàn thể phái đoàn phá lên cười, v́ nghĩ đến những gă thầy bói ngồi xổm bên lề đường. Khắp xứ Ấn, chỗ nào cũng có thầy bói, thầy tướng kiếm ăn qua sự mê tín của dân chúng. Đồ nghề của họ là một vài cuốn sách bẩn thỉu, vài niên lịch lạ lùng. Họ tự hào có thể biết rơ số phận sang hèn mọi người, nhưng h́nh như không biết ǵ về số phận của chính họ.
Lawrence lắc đầu :
- Sudeih là một vị thầy, một người thuộc giai cấp thượng lưu quư phái chứ không phải loại thầy bói hạ cấp. Y nghiên cứu tử vi từ nhỏ và có thể biết trước nhiều điều quan trọng. Các bạn muốn khảo cứu hiện tượng huyền bí sao không đến gặp ỵ Biết đâu y chả giúp các bạn, Sudeih có thói quen là không bao giờ tiếp khách lạ nhưng y là bạn thâm giao của tôi, tôi sẽ hết ḷng giới thiệu.
Giáo sư Allen lắc đầu :
- Chúng tôi muốn nghiên cứu nền văn minh xứ Ấn, chứ không phải xem vận mạng hên xui tốt xấu.
Lawrence mỉm cười bí mật :
- Như thế các bạn lại càng phải đến gặp nhà chiêm tinh này. Các bạn nên nhớ dù muốn, chưa chắc Sudeih đă chịu tiếp các bạn. Chính tiểu vương xứ Punjab đến xin yết kiến ba ngày, ba đêm mà Sudeih cũng không thèm tiếp…
Nhà chiêm tinh ở một biệt thự rộng lớn, quanh nhà trồng rất nhiều cây cảnh. Đă có hẹn trước nên gia nhân mời tất cả mọi người vào trong pḥng khách. Đó là một căn pḥng rất lớn, trang trí sang trọng như pḥng một ông hoàng.
Sudeih Babu là một người Ấn gầy g̣, nhỏ bé, nhưng có một đôi mắt sáng ngời, chứng tỏ một đời sống nội tâm dồi dào. Y di chuyển hết sức chậm răi như một con mèo và nói bằng một tiếng Anh rất đúng giọng và lịch sự :
- Keymakers cho biết các ông muốn t́m hiểu về khoa chiêm tinh ?
Giáo sư Oliver nói ngay :
- Xin ông hiểu cho, chúng tôi muốn sưu tầm các hiện tượng huyền bí chứ không hoàn toàn tin tưởng ǵ về môn này.
Babu im lặng nh́n mọi người, y lạnh lùng :
- Nếu các ông muốn, tôi có thể lấy lá số tử vi cho các ông.
Giáo sư Oliver nghi ngờ :
- Xin ông đừng dài ḍng về tương lai và may rủi. Hăy nói thử về quá khứ của tôi xem sao.
Babu gật đầu hỏi giáo sư Oliver vài câu về ngày sinh rồi y phóng bút vẽ các kư hiệu lạ lùng lên một tờ giấy. Y chậm răi tuyên bố :
- Ông sinh trưởng trong một gia đ́nh thương gia. Từ nhỏ ông nuôi mộng hải hồ thích du lịch, nhưng gia đ́nh ông nghiêm khắc ngăn cấm. Thân phụ Ông muốn con ḿnh phải theo học về thương mại tại Oxford để nối nghiệp. Tuy nhiên, ông lại có năng khiếu về khoa học, nên chỉ một thời gian ngắn ông đă chuyển qua ngành Vật lư học. Cha ông giận quá, nhất định không giúp đỡ ǵ ông nữa. Gia tài sự nghiệp truyền cho các em ông. Đến khi ông trở nên một khoa học gia lỗi lạc của Hoàng Gia th́ cha ông lại bắt ông trở về đi vào con đường chính trị. Dưới áp lực gia đ́nh, ông thành hôn với một thiếu nữ gịng dơi quư tộc. Cuộc hôn nhân không mang lại hạnh phúc và ông vùi đầu trong pḥng thí nghiệm để t́m quên. Người vợ quen thói giao thiệp rộng đă phá nát tài sản, sự nghiệp và c̣n ngoại t́nh. Cha ông buồn phiền, thất vọng qua đời. Ông chịu đựng người vợ suốt 18 năm cho đến khi bà ta từ trần. Sau khi thu xếp mọi việc, ông gia nhập phái đoàn với mục đích rời xa Luân đôn và thỏa măn giấc mộng hải hồ.
Giáo sư Oliver ngồi im không thốt lên một tiếng, chứng tỏ những điều Babu nói không sai. Một không khí nặng nề bao trùm căn pḥng. Babu lạnh lùng tiếp :
- Ông có muốn tôi nói thêm chi tiết hay nói về tương lai nữa không ?
Giáo sư Oliver lắc đầu xua tay, mặt mày tái nhợt như người vừa trải qua một điều ǵ kinh khủng. Giáo sư lên tiếng :
- Nhưng tại sao các tinh tú ở xa lại ảnh hưởng đến từng cá nhân được ?
Babu thong thả trả lời :
- Nếu tinh tú ở xa quá th́ khoa học thực nghiệm giải thích thế nào về ảnh hưởng của mặt trăng đối với nước thuỷ triều lên xuống hoặc chu kỳ trong thân thể đàn bà ?
- Nhưng nếu tôi bị tai nạn th́ điều đó ăn nhập ǵ đến các hành tinh.
Babu lắc đầu mỉm cười :
- Các ông nên nghĩ thế này, tinh tú chỉ là biểu tượng mà thôi. Tự nó không ăn nhập ǵ đến chúng ta hết, mà chính cái dĩ văng của ta đă ảnh hưởng đến đời sống hiện tại. Tinh tú chỉ phản chiếu lại cái ảnh hưởng này mà thôi. Không ai có thể hiểu khoa chiêm tinh nếu họ không tin luật Luân Hồi (Reincarnation). Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định mệnh của y theo dơi và ảnh hưởng lên đời sống của y theo luật Nhân Qủa (Karma cause and effect). Nếu ta không tin con người chết đi và đầu thai lại để học hỏi, để tiến hoá, để trở nên một người toàn thiện, th́ mọi sự đều là ngẫu nhiên hay sao ? Một thượng đế công b́nh, bác ái có lẽ nào dung túng điều này ? Khi qua đời thể xác hư thối tan ră nhưng tính t́nh, dục vọng, ư chí vẫn c̣n nguyên cho đến khi ta đầu thai vào một kiếp sống mới th́ những tính này sẽ trở nên cá tính (personality) của kiếp sau. Các hành tinh chỉ là tấm gương ghi nhận các nguyên nhân này và phản chiếu trở lại. Bất cứ một hành động nào cũng tạo nên một nguyên nhân dù xấu hay tốt, ví như ta ném một trái bóng lên không trung. Trước sau ǵ nó cũng rơi xuống v́ trọng lượng và ảnh hưởng của sức hút trái đất, nhưng đến khi nào nó rơi xuống c̣n tùy sức ném của ta nặng nhẹ ra sao. Khoa chiêm tinh nghiên cứu các vũ trụ tuyến này để đoán được khi nào cái nguyên nhân trước sẽ trở lại. Babu im lặng một lúc và thong thả giải thích thêm. Trước khi đi xa hơn, tôi muốn các ông hiểu lịch sử chiêm tinh để có một cái nh́n thật đứng đắn. Từ ngàn xưa, chiêm tinh học vẫn được coi là một khoa học quan trọng. Chiêm tinh gia chỉ đứng ở địa vị thứ hai, sau Giáo sĩ mà thôi. Đối tượng của khoa chiêm tinh là vũ trụ. Tiếc thay phần này đă bị thất truyền, chỉ c̣n phần nhỏ nói về sự liên hệ giữa con người và các bầu tinh tú, c̣n được lưu truyền đến nay và được xem là khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc nào không ai biết, nhưng hiền triết Bhrigu đă truyền dạy các môn đồ của ông vào khoảng 6000 năm trước. Ṇng cốt của nó nằm trong bộ sách Brahma Chinta, do ông soạn ra. Bhrigu có bốn đệ tử. Người thứ nhất rất giỏi về khoa học đă đi sang Ba Tư (Iran) lập nghiệp, từ đó ngành chiêm tinh đi về hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và La Mă sau này. Người thứ hai rất giỏi về triết học đi về phương Đông, sang Trung Hoa truyền bá ngành này ở đây. Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện tượng siêu h́nh đă lên Tuyết Sơn nhập thất và sau truyền môn này cho dân chúng Tây Tạng. Người thứ tư ở lại xứ Ấn, và làm đến chức quốc sự Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất trong cung điện. Sau này, các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đă giành nhau bộ sách quư. Sau mấy chục năm chinh chiến, bộ sách được phân chia làm nhiều phần, mỗi ông Hoàng giữ một mảnh, và tứ đó khoa chiêm tinh trở nên thất truyền. Các mảnh vụn này đă được các thầy bói sưu tầm, ghi chép lại để kiếm ăn , nhưng họ chỉ nắm một vài then chốt chứ không sao hiểu hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất lớn, gồm có 49 pḥng, mỗi pḥng đều chứa đầy các sách vở do tôi sưu tầm. Tất cả gia tài sự nghiệp của tôi đều được sử dụng để sưu tầm các sách cổ… Tôi xuất thân từ một gia đ́nh hoàng tộc nhưng tôi chỉ ham mê khoa chiêm tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, theo học các vị chiêm tinh gia nổi tiếng cho đến khi sưu tầm được bộ Brahma Chinta. Dĩ nhiên, bộ sách này nguyên bản mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ sưu tầm được có vài trăm trang và tốn gần 20 năm nghiên cứu nó.
Babu mỉm cười nh́n giáo sư Oliver :
- Bạn Oliver thân mến, lá số tôi lấy cho ông rất khác thường so với người Âu. Tin hay không tùy ư bạn, đúng hay sai, chỉ bạn biết, nhưng tôi muốn nói thêm rằng các nghiệp quả đă trả xong. Đời bạn đă bước vào một khúc quanh quan trọng. Lá số cho thấy bạn đă đến bên thềm Đạo và sẽ được một sự d́u dắt của một hiền giả.
Giáo sư Oliver cảm động xiết chặt đôi tay gầy guộc của nhà chiêm tinh. Toàn thể phái đoàn cũng xúc động không kém. Khi trưóoc họ đă nghi ngờ khoa bói toán, nhưng sự kiện vừa xảy ra đă thay đổi tất cả. Không ai ngờ giáo sư Oliver lại có một đời sống cá nhân bất hạnh như thế.
Babu đưa toàn thể phái đoàn đi xem những căn pḥng chứa sách với những tủ lớn chứa đựng hàng ngàn cuốn sách cổ. Giáo sư Mortimer, một nhà khảo cổ học của trường Harvard đă phải kinh ngạc trước kho tàng sách vở vô giá này. Có những bộ sách viết trên lá buôn (payrus) cả ngàn năm trước, xen lẫn các tài liệu khắc trên gỗ vào thế kỷ thứ 6. Toàn thể phái đoàn có cảm tưởng như phần lớn kho Minh Triết xứ Ấn đều tập trung nơi đây. Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Những sách vở này nói về những ǵ vậy ?
- Đó là những sách về vấn đề Tôn Giáo, Minh Triết Cổ Truyền, Triết Học Ấn độ.
- Như thế ông cũng là một triết gia ?
Babu mỉm cười :
- Một người không hiểu về triết lư sẽ chỉ là một hạng chiêm tinh tồi hay thầy bói hạ cấp.
- Ông có thu nhận đệ tử không ?
- Có rất nhiều người đến xin tôi dạy dỗ nhưng tôi từ chối v́ thấy họ không đủ thiên tư để lĩnh hội hay không đủ ư chí để đi đến cùng. Tôi nghĩ ḿnh chưa đủ sức làm thầy ai hết mà chỉ là một người ham mê nghiên cứu, cũng như các ông là những khoa học gia say mê kiến thức khoa học.
- Nhưng ông cũng dùng chiêm tinh để hướng dẫn đời ḿnh chứ ? Ông có thể xem được quá khứ vị lại kia mà.
Babu lắc đầu :
- Không đâu, tôi đă t́m thấy ánh sáng Chân Lư, và không cần đến khoa chiêm tinh nữa. Khoa học này chỉ hữu ích cho những kẻ c̣n lần ṃ trong bóng tối. Tôi đă hoàn toàn trao trọn đời ḿnh vào tay thượng đế (brahman). Không c̣n lo nghĩ, ưu phiền ǵ về tương lai nữa. Bất cứ điều ǵ xảy ra tôi cũng chấp nhận như ư muốn của Ngài.
- Nếu ông bị kẻ hung dữ hăm hại làm lâm nguy tính mạng th́ ông có cho đó là thiên ư không ? Ông sẽ làm ǵ để tự vệ chứ ?
- Tôi biết rằng trong khi nguy cấp chỉ cần cầu nguyện là đủ. Cầu nguyện là cần thiết v́ lo âu chẳng ích ǵ. Nhiều khi tôi gặp khó khăn, lúc đó tôi ư thực sự giúp đỡ của thượng đế hơn bao giờ hết. Các bạn có biết rằng tôi đă xé bỏ lá số tử vi của ḿnh từ khi t́m thấy ánh sáng Chân Lư. Tôi tin chắc rằng con người có thể cải tạo tinh thần để hoà hợp với thượng đế, c̣n các việc xảy ra do hậu quả của quá khứ ta không thể thoát được th́ lo lắng có ích ǵ ?
Ư niệm về thượng đế là điều phái đoàn luôn luôn nghe nói đến, người dân Á châu có một tinh thần tôn giáo rất mạnh, tôn sùng thượng đế quá nhiệt thành. Họ đâu hiểu rằng người Âu vốn có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức tin đơn giản bằng cái lư trí phức tạp. Làm sao họ có thể hiểu rằng thượng đế chỉ là một quan niệm, một giả thuyết cũng như trăm ngàn giả thuyết khác nghĩa là cần phải chứng minh cụ thể.
Babu mỉm cười như đọc được ư nghĩ mọi người :
- Này các bạn, cái lư trí tự cao tự đại của con người không có ích ǵ cả. Chỉ khi nào họ đạt đến trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn, họ mới ư thức các luật huyền bí vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Khi tách khỏi trạng thái u mê của lư trí, họ mới ư thức sự an lạc tuyệt vời khi hoà hợp với thượng đế.
Giáo sư Allen lắc đầu :
- Tại sao ông không nghĩ rằng đó là một ảo ảnh ? Một sự tưởng tượng ?
Babu bật cười :
- Này các bạn, một bà mẹ sinh con có khi nào lại nghi ngờ rằng đứa con đó không có thật. Khi hồi tưởng lúc lâm bồn, có khi nào bà ấy cho rằng đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị ? Khi nh́n đứa con mỗi ngày một lớn khôn làm sao bà mẹ lại nghĩ rằng đứa bé không hiện hữu? Sự giác ngộ tâm linh là một biến cố vô cùng quan trọng trong đời người, mà không ai có thể quên được v́ từ đó, con người hoàn toàn thay đổi, trở nên một người mới.
Babu liếc mắt nh́n toàn thể phái đoàn, tất cả đều là những giáo sư, khoa học gia danh tiếng nhất… Y mỉm cười tuyên bố :
- Chúng ta chỉ mới ở vào buổi b́nh minh của khoa học, nhưng mỗi khám phá mới, mỗi kiến thức mới, đều đem lại cho chúng ta một bằng chứng rằng, vũ trụ này là công tŕnh của một đấng hoá công. Hăy lấy một thí dụ toán học cho dễ hiểu. Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ số 1 đến số 10, và tuần tự rút ra từng cái một. Sau khi rút xong ta lại bỏ thẻ vào túi, trộn đều và rút ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút tuần tự từ số 1 đến số 10? Theo toán học, ta phải rút mười lần, mới có một lần rút được thẻ mang số 1. Phải rút 100 lần mới có một lần rút được số 1 và 2. Phải rút 1000 lần mới được số 1, 2, 3 liên tiếp. Nếu muốn rút theo thứ tự từ 1 đến 10, th́ trường hợp đặc biệt này chỉ có thể xảy ra một lần trong mười tỷ lần, có đúng không ? Nếu áp dụng toán học vào các điều kiện tạo đời sống ở quả đất này, th́ ta thấy nguyên lư ngẫu nhiên không sao hội đủ các điều kiện cần thiết. Vậy th́ ai đă tạo ra nó ? Trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó quay chậm 10 lần th́ ngày sẽ dài gấp 10 và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp 10 lần. Thế th́ cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết c̣n ǵ. Nếu cái ǵ chống được sức nóng cũng chết lạnh v́ đêm cũng dài ra gấp 10 và sức lạnh cũng tăng lên gấp 10 lần kia mà. Ai đă làm trái đất quay trong một điều kiện tốt đẹp như thế ? Mặt trời là nguồn sống của quả đất phải không ? Mặt trời nóng khoảng 5500 độ bách phân. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá mà cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu sức nóng mặt trời gia tăng một chút, ta sẽ chết thiêu, và ngược lại nếu sức nóng mặt trời giảm đi một chút, ta sẽ chết rét. Tại sao trái đất nằm ở điều kiện thuận lợi như vậy ? Trục trái đất nghiêng theo một toa độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng theo bên nào th́ sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đồng thành băng giá cả. Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất, điều khiển thuỷ triều biển cả. Nếu nó không cách xa trái đất 380 000 cây số mà xích lại gần hơn 80 000 cây số th́ một cuộc hồng thuỷ sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức hút dâng lên ngập tất cả các lục địa mỗi ngày hai lần. Tóm lại tất cả mọi đời sống trên mặt địa cầu sẽ biến mất, nếu các điều kiện sai lệch đi một lỵ Nếu nói rằng đời sống chỉ là một sự ngẫu nhiên th́ trong tỷ tỷ lần may ra mới có một điều kiện tốt đẹp hoàn toàn để có được sự sống như thế.
Babu quay sang nh́n giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Harvard :
- Nếu toán học xem có vẻ trừu tượng quá, hăy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nh́n của khoa sinh vật học (Biology) xem sao. Với khả năng sinh tồn của mọi vật, ta thấy sự hiện diện của tạo hoá rất chu đáo. Sự sống không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao. Bạn hăy nh́n một rễ cây non nớt, mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan ră rồi lại kết hợp thành các h́nh thể mới. Sự sống là nhà điêu khắc nặn thành những h́nh thể mới lạ, là hoa. sĩ vẽ những cảnh vật thiên nhiên tô điểm cho tạo hoá. Sự sống cũng là nhạc sĩ dạy chim hót thánh thót, dạy côn trùng ngân nga, là nhà hoá học chế các hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ các loài thảo mộc thu hút thán khí biến thành dưỡng khí nuôi muôn loài. Hăy nh́n những giọt nguyên sinh chất (protoplasm) trong suốt gần như vô h́nh, mắt ta không thể nh́n thấy, mà nó di động nhờ hấp thụ sinh khí thái dương. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm sống của muôn loài, và là cội nguồn của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó không tạo ra sự sống vậy th́ sự sống ở đâu đă đến . Này các ông bạn, cá hồi (salmon) sinh ra ở nước ngọt, theo ḍng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hăy nh́n nó lội ngược ḍng về sinh quán, nó bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đă dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như vậy ? Loài lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermudạ Muốn đến đây, một con lươn Âu châu phải đi gần 4000 cây số, lươn Á châu phải đi xa hơn, có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con lươn con sinh ra tại đây không biết ǵ về sinh quán mà vẫn trở về quê hương xa xôi của cha mẹ chúng nó. Biết t́m về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam dương. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn độ và một con lươn giống Thái lan không bao giờ đi lạc sang Phi châu. Ai đă ban cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đă hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn ?
Toàn thể phái đoàn kinh ngạc trước kiến thức quảng bác của nhà chiêm tinh gầy g̣, bé nhỏ. Không ai ngờ một xứ chậm tiến như Ấn độ lại có một nhà bác học uyên thâm như vậy. Babu mỉm cười nói tiếp :
- Có lẽ các ông c̣n nhiều phân vân, thôi được hăy nói về yếu tố di truyền cho thực tế hơn. Yếu tố này là một mầm sống nguyên thuỷ rất nhỏ chứa đựng trong tất cả các tế bào. Mọi sinh vật đều có đặc điểm di truyền khác nhau. Yếu tố này cho ta thấy rơ sự sống đă được trù định từ trước v́ một cái cây sẽ tạo ra một cái cây, chứ không phải con vật. Từ các loại sinh vật bé nhỏ như con kiến đến các loài sinh vật to lớn như cá voi đều chịu sự chi phối của yếu tố này. Điều này chắc chắn không phải ai nghĩ ra hay ngẫu nhiên phải không ? Chỉ có đấng sáng tạo mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Này các bạn, khắp nơi trong vũ trụ đâu đâu cũng có một sự quân b́nh tuyệt đối, không loài nào lấn át loài nào. Hăy nh́n loài côn trùng, chúng sinh sản rất nhanh mà sao không chiếm quả đất ? Ấy là v́ chúng không có bộ phổi như loài có vú (mammal). Chúng thở bằng khí quản (trachea) và khi chúng lột xác lớn lên, khí quản không lớn theo nên thân thể chúng bị giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm lư trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ Óc con người tuyệt vời ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn quan niệm sự hiện hữu của thượng đế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi nó là trí tưởng tượng cũng được, nhưng nhờ nó mà con người mới thu nhận các sự kiện vô h́nh, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời bao la và nhờ thế ta mới ư thức một thực tại tuyệt diệu rằng thượng đế là tất cả, ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu ngài hiện rơ như trong tâm hồn chúng ta.
Toàn thể phái đoàn yên lặng, thán phục những dẫn chứng hoàn toàn khoa học và giản dị của nhà chiêm tinh. Vài giờ trước đây, ai cũng nghi ngờ khả năng của “gă thầy bói”; nhưng hiện giờ mọi người đều công nhận y là một nhà bác học với kiến thức uyên bác không thua ai.
Babu mỉm cười nh́n tất cả mọi người và nói :
- Là khoa học gia, các ông hăy suy nghĩ về những điều tôi vừa tŕnh bày. Hăy quan sát vũ trụ, hăy dẹp bỏ các thành kiến sẵn có, và sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm, rồi các ông sẽ thấy tất cả đều diễn ra trong một trật tự, mỹ lệ và điều hoà. Các ông sẽ ư thức sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ bao la v́ khoa học xây dựng trên căn bản của giác quan vốn rất giới hạn, sao có thể cảm xúc vũ trụ được ? Nếu ta cứ khăng khăng cho rằng những cái ǵ không nghe được, không nh́n được, đều không hiện hữu th́ thật là một sai lầm tai hại. Có biết bao nhiêu sự kiện xảy ra mà giác quan giới hạn không thể cảm nhận, cho đến một ngày nào họ khai mở các giác quan khác….
- Làm sao ông biết như thế ?
- Tôi đă nghiên cứu trực tiếp các vấn đề này trong khi Thiền định. Các sách vở bí truyền cũng đều nói rất rơ như vậy…
Giáo sư Mortimer hấp tấp :
- Chúng tôi có thể nghiên cứu hay phiên dịch những sách này không ?
Babu mỉm cười :
- Liệu ông có muốn bỏ ra vài chục năm để phiên dịch không ? Sách vở huyền môn đâu phải loại sách phổ thông để mọi người coi chơi. Theo tôi hiểu th́ chỉ một thiểu số người thích nghiên cứu nó v́ trong tiền kiếp họ đă có những hứng khởi tâm linh, đă từng nghiên cứu vấn đề này, đă có đủ trí tuệ để xét suy một cách tường tận. Họ là những người đă đến bên thềm Đạo và sắp bước vào. Chỉ những người này mới thích thú để tâm nghiên cứu những quyển sách khô khan như những sách trong nhà tôi.
Toàn thể phái đoàn im lặng, mỗi người theo đuổi một ư nghĩ riêng nhưng tất cả đều đồng ư rằng nhà chiêm tinh nói không sai. Giáo sư Allen lên tiếng :
- Tại sao thấy ánh sáng Chân Lư rồi mà ông vẫn tiếp tục hành nghề chiêm tinh. Tại sao ông c̣n chỉ vẽ cho người đời quá khứ, vị lai ?
Babu hănh diện tuyên bố :
- Tôi sống và phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp này. Đâu phải ai tôi cũng tiếp. Dù bạn là tiểu vương hay thủ tướng. Nếu thấy bạn không có tâm hướng thiện, sửa đổi th́ không đời nào tôi hé môi nói một điều ǵ. Biết bao người đă đến cổng, nhưng mấy người vào được đến đây. Cách đây ít lâu, một tiểu vương cho khuân đến một rương ngọc chỉ để hỏi tôi một điều nhưng tôi không trả lời. Nếu không nhận được một thông điệp bằng tư tưởng th́ dễ ǵ tôi tiếp các ông và nếu không xem qua lá số của giáo sư Oliver , dễ ǵ tôi tiết lộ các bí mật cho những người lạ, nhất là người Âu Mỹ. Từ xưa đến nay, khoa chiêm tinh vẫn bị người đời hiểu lầm và diễn tả sai lạc rất nhiều. Nhờ nghiên cứu bộ sách nguyên thuỷ Brahma Chinta nên tôi có thể nói cho các ông biết chút ít về khoa học này, với hy vọng sẽ đánh đổ phần nào thành kiến sai lầm của người Âu. Khi sinh ra đời, mỗi cá nhân đều mang sẵn một tài sản khác nhau, đó là Nghiệp Báo. Tài sản này có thể tốt đẹp do các nguyên nhân hợp với thiên ư hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm trong tiền kiếp. Tất cả nguyên nhân này đều chứa chấp trong Tàng thức hoặc A lại da thức (alaya vijnana), và trở nên một động lực chi phối đời ta. Động lực này được phân phối bởi các mănh lực trong vũ trụ một cách vô cùng phức tạp, và biến thành một thứ gọi là Vũ trụ tuyến (cosmic rays). Những vũ trụ tuyến này không ồ ạt ảnh hưởng đến ta ngay, mà tùy theo sự thay đổi của tinh tú để phản chiếu xuống trần gian. Điều này rất hợp lư v́ trải qua vô lượng kiếp sống, con người đă làm biết bao điều xấu xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp mà trả hết được. Đó cũng là lư do con người cứ trầm luân trong luân hồi sinh tử. Chiêm tinh học nghiên cứu sự xê dịch, vận hành của tinh tú mà đoán biết được các ảnh hưởng con người trong kiếp sống này. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh mà người ta hiểu rơ rằng không hề có một Đấng Thần Linh thưởng phạt hay kiểm soát các hành động của tạ Tất cả chỉ là hậu quả của những ǵ do ta tạo nên và phải gánh chịu.
- Nhưng chính ông đă đề cập đến thượng đế và sự hiện hữu của ngài kia mà?
Babu bật cười :
- Các ông vẫn c̣n quan niệm rằng thượng đế là một ông già ngồi trên cao nắm quyền sinh sát, định đoạt số phận con người, đó là một quan niệm rất ấu trĩ. Thượng đế cao cả hơn nhiều, ngài sáng tạo và đặt tất cả vào một trật tử trong vũ trụ. Làm ǵ có việc ngài định đoạt số phận từng người như các ông nghĩ. Tất cả diễn tiến theo luật vũ trụ, nhân nào quả nấy, một lực nào cũng có một phản lực đi kèm đó là khoa vật lư chứ đâu phải ǵ xa lạ ? Làm ǵ có việc số mệnh đă định sẵn, nếu thế ta cứ tiêu cực, bất động mặc cho số phận run rủi hay sao ? Này các ông bạn, chiêm tinh học là một khoa học thực tiễn và tiến bộ, không thể có vấn đề mê tín. Lá số tử vi không có nghĩa là con người chỉ là nô lệ của quá khứ mà chỉ cho ta thấy rơ sự tuần hoàn của vũ trụ mà trong đó con người có thể thay đổi tính mạng. Chiêm tinh học nghiên cứu phản ứng của con người dưới ảnh hưởng tinh tú. Các tinh tú chỉ là những khí cụ trung gian biểu lộ một cách trung thực các tác động quân b́nh của nghiệp quả gây nên trong quá khứ. Mỗi người sinh ra đời vào một ngày giờ mà ảnh hưởng của tinh tú hoà hợp với nghiệp quả cá nhân của y. Các vũ trụ tuyến được tinh tú phản chiếu xuống làm mạch máu di chuyển, tế bào thay đổi, dĩ nhiên ảnh hưởng đến cuộc đời con người. Mặc dù con người không thể thay đổi việc đă xảy ra trong quá khứ, nhưng nhờ ư chí tự do, y có thể vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng ảnh hưởng tinh tú. Tôi lấy một thí dụ như thương gia Keymakers, bạn của các ông. Đáng lư theo số mạng th́ ông ta phải chết trong cuộc chiến vừa quạ Nhưng v́ một mầm thiện nẩy sinh, thấy chiến tranh quá ư tàn khốc, ông động ḷng trắc ẩn mang tài sản ra giúp đỡ rât nhiều nạn nhân chiến cuộc. Dĩ nhiên, khi đó ông ta không hề biết ǵ về số mạng của ḿnh, nhưng hành vi bác ái này đă tạo một phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các vũ trụ tuyến xê dịch sang một bên và nhờ thế ông ta thoát chết. Số mạng của ông ta hoàn toàn thay đổi từ đó. Các ông hiểu rằng hoán cải số mạng không có nghĩa việc quá khứ sẽ bị xoá bỏ, nhưng đáng lư một biến cố lớn sẽ xảy ra trong kiếp này, lại không xảy ra. Khi ta phát tâm làm một việc hợp với thiên ư th́ một ảnh hưỏong tinh tú bỗng chói sáng và các từ điện mạnh mẽ đẩy ngược luồng vũ trụ tuyến sang hướng khác. Do đó, con người có thể cải số mệnh dễ dàng, nếu biết làm các việc tốt lành, đẹp đẽ. Dĩ nhiên , ảnh hưởng xấu không mất đi, nhưng sẽ tiềm ẩn, chờ một cơ hội khác sẽ phát hiện lại. Nói một cách khoa học th́ đời người có thể ví như một phương tŕnh toán học, A. B bằng C. A và B là nguyên nhân và C là hậu quả, nhưng nếu ta thêm vào đó một nguyên nhân X th́ A * B * X sẽ không thể bằng C nữa, v́ đă có thêm nguyên tố X. Đó là nguyên lư hoán cải số mạng mà tôi vừa tŕnh bày. Đời người thực ra đă ghi khắc trên tinh tú nhưng các tinh tú khi sáng khi mờ, và sự mờ tỏ do chính ta quyết định. Khi ta có các hành vi xấu xa nó tạo ra những động lực xấu và số thu hút các điều xấu ghi khắc trên tinh tú, phản chiếu xuống mau lẹ hơn. Dĩ nhiên hậu quả không thể lường. Trái lại, nếu ta ư thức điều này, phát tâm làm việc hữu ích tự nhiên phát sinh các động lực tốt đánh bật các ảnh hưởng xấu sang một bên. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh học một cách đứng đắn, khoa học, con người sẽ hiểu biết mệnh trời, biết tin tưởng ở ḿnh, và sống cuộc đời thoải mái, không bi quan, không lạc quan, an vui tự tại.
- Như thế người đi trên đường Đạo, sẽ gặp ǵ khi đă có nghiệp quả xấu ?
- Nghiệp quả xấu ví như một án treo, bất động, nhưng không ai có thể tránh được nó. Đối với những người đă vào cửa Đạo, đă hiểu biết th́ họ lại cầu xin được trả quả cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa, nhưng họ đủ can đảm để chịu đựng nghiệp quả. Có thế họ mới rút ngắn thời gian trong sinh tử luân hồi. Hiểu biết mệnh trời để sống thoải mái chính là mục đích của khoa chiêm tinh chân chính.
Babu im lặng suy nghĩ. Sau cùng, y bước đến một tủ lớn mang ra một cái hộp nạm vàng rất đẹp. Trong hộp chứa một quyển sách cổ viết trên lá buôn (papyrus), y long trọng tuyên bố :
- Đây chính là một phần của bộ Brahma Chinta mà tôi sưu tầm được. Các ông nên biết huyền môn có hai phần. Công truyền (exoteric) và bí truyền (esoteric). Loại bí truyền chỉ được dạy cho các đệ tử đă bước vào cửa Đạo, đă được tuyển chọn rất kỹ. Hiền triết Bhrigu chỉ truyền cho 4 đệ tử bộ sách này. Tôi tiếc rằng mẫu nhỏ này c̣n nhiều thiếu sót và rất khó hiểu, mất hơn 20 năm nghiên cứu, mà tôi chỉ hiểu chút ít thôi. Gặp gỡ các bạn bữa nay là một nhân duyên hiếm có, tôi xin dịch vài trang để làm quà cho các bạn : “ Vạn vật trong vũ trụ dù ở cơi vô h́nh hay hữu h́nh đều được sắp hạng và phân loại theo quy mô của số 7. Tất cả mọi h́nh thức sinh hoạt trong dăy hành tinh hiện tại đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm . Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ của thượng đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của ngài. Ngoài ra có 7 vị tinh quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực thượng đế ban răi ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí tương ứng với ba cơi giới Hạ giới ,Trung giới, và Thượng giới. Thượng đế cũng thế, tất cả vật chất trong Hạ giới hợp thân thể xác của ngài. Tất cả vật chất cơi Trung giới hợp thành vía của ngài, và tất cả vật chất cơi Thượng giới hợp thành thể trí của ngài. Tóm lại, tât cả đều là thành phần của thượng đế từ hạt bụi đến các dăy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một phần của thượng đế xuyên qua 7 cung, khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều, tùy ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung nào tùy số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát từ cung liên hệ.”
Babu nh́n mọi người thấy họ có vẻ ngơ ngác. Y mỉm cười giải thích :
- Đề tài này rất khó hiểu, thôi để tôi giải thích rộng ra vậy. Nói theo danh từ Thiên chúa giáo th́ 7 vị tinh quân này đă xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách khải huyền 4.5 nói rơ, “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của chúa trời”. Lúc khởi thuỷ, mọi người chúng ta đều là thành phần của thượng đế, nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi. Sau đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con đựong vận hà này. Theo sự hiểu biết của tôi, th́ 7 con đựong biểu lộ 7 đức tính của thượng đế, qua 7 vị tinh quân. Vị thứ nhất là thiên thần Michael (sức mạnh), liên hệ đến hoa? tinh. Vị thứ hai là Gabriel (toàn tri) liên quan đến thuỷ tinh. Vị thứ ba là Raphael (quyền năng) liên quan đến thái dương. Vị thứ tư là Uriel (ánh sáng) liên quan đến mặt trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ư) liên quan đến mộc tinh, c̣n hai vị kia là Jophiel và Samuel th́ tôi không biết rơ hành tinh liên hệ. Khoa học thực nghiệm tinh rằng các hành tinh đều là sự kết hợp ngẫu nhiên của vật chất. Nếu là ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị trí nhất định trong vũ trụ, và di chuyển theo một quỹ đạo cố định ? Mọi vật dường như tuân theo một định luật thiên nhiên, nhưng đằng sau định luật đó luôn luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai quản. Tôi cố gắng dùng tên các vị thiên thần và danh từ Thiên chúa giáo để giải thích cho các ông . Điều này có thể được diễn tả khác đi tùy theo quan niệm tôn giáo, văn hoá; nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược về nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thủy ví như nước cùng một nguồn chảy theo bảy ḍng suối khác nhau để ra biển. Mỗi ḍng suối sẽ mang một tính chất khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều. Loài người có thể phân biệt ra 7 đức tính rơ rệt tùy theo con đường vận hà mà họ trải quạ Chiêm tinh nghiên cuú con người và ảnh hưởng hành tinh đến các tính nết nhất định. Cũng như khoa Sinh lư học phân biệt con người qua tính chất nồng nhiệt, lănh đạm, bạch huyết chất hay đa huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác nhau để tŕnh bày tính chất con người. Dĩ nhiên không dễ ǵ t́m ra cung của mỗi người v́ y đă đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và những nguyên nhân này chế ngự, ảnh hưởng đến tính t́nh y rất nhiều. Chỉ với sự khai mở các giác quan như Thần nhăn hay có một kinh nghiệm sâu xa về huyền môn, ta mới có thể biết rơ họ thuộc cung nào. Nếu một người biết rơ cung của ḿnh và tiếp tục trau dồi bản tính sẵn có, th́ y sẽ tiến bộ rất nhanh, v́ khí cụ hữu hiệu nhất là phương pháp thuộc về cung liên hệ. Thí dụ như người có khiếu về âm nhạc lại cứ học toán. Không phải y sẽ không tiến bộ ǵ, nhưng nếu đi về âm nhạc y sẽ tiến nhanh hơn v́ hợp với khả năng hơn. Sự hiểu biết ḿnh là ai, có những khả năng tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó mới là mục đích của khoa chiêm tinh. Đa số con người hành động không ư thức, chịu ảnh hưỏong ngoại cảnh, nên luôn bất măn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính ḿnh, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp. Trong Kinh thánh có câu, “nếu các ngươi không hồ nhiên như trẻ con, các ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều này khuyên ta nên sống thật với chính ḿnh. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết ta là ai, thích hợp với những công việc ǵ ? Sự nghiên cứu chiêm tinh như thế mới gọi là đứng đắn chứ không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi.
- Làm sao con người có thể biết họ thích hợp với cung nào ?
- Một nhà chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân liên hệ với cung nào, điều này đ̣i hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một phương pháp khác là hăy nh́n hành động mỗi người . Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến mục đích bằng sức mạnh ư chí. Người thuộc cung 2, phân tích kỹ lưỡng vấn đề để lựa chọn phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về thời gian, giờ khắc thuận lợi nhất v..v… Một thí dụ khác như trong việc chữa bệnh, người cung 2 sẽ t́m hiểu nguyên nhân và phương pháp nào thích hợp nhất để chữa bệnh, khi người ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian nào thuận lợi để chữa. Người ở cung 6 sẽ t́m cách chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các nghi lễ, cúng tế, v..v.. Tuy nhiên,cách tốt hơn hết là tự ḿnh, xét lấy ḿnh. Hăy dẹp bỏ những điều ḿnh vẫn khoác lên bản ngă như danh vọng, địa vị, ham muốn. Hăy thành thật với chính ḿnh th́ ta có thể xem được ḿnh thuộc về cung nào. Nếu ta là người có ư chí mạnh mẽ, cương quyết làm việc trong tinh thần khoa học th́ có lẽ ta ở cung 1. Nếu là người khôn khéo, thích lư luận và làm việc một cách hiệu quả th́ có lẽ ở cung 2. Nếu là người nhạy cảm, thích hoạt động xă hội, từ thiện th́ có lẽ ta thuộc cung 5. Nếu là người có đức tin mạnh mẽ, cẩn thận, có thể ta thuộc cung 7, v..v… Đề tài các cung rất khó giải thích trong một thời gian ngắn. Tôi chỉ có thể nói vắn tắt thôi. Cái vật chất sơ khai nguyên thuỷ bắt đầu tiến hoá qua 7 con đường vận hà hay 7 đức tính quan trọng. Chỉ khi nào con người phát triển toàn vẹn cả 7 đức tính này, y sẽ trở nên toàn thiện. Dĩ nhiên , chúng ta đều bất toàn dù mỗi cá nhân đă nảy nở các đức tính cần thiết căn bản. Người Âu tây đă khai mở rất nhiều khả năng suy luận, khoa học, nhưng thiếu khả năng sùng tín, bác ái. V́ lư trí nảy nở nhiều hơn t́nh cảm nên họ có vẻ thiếu thiện cảm, lạnh lùng, thích chống báng thay v́ dung hoà. Trong khi đó, người Á châu phát triển mạnh mẽ về sự sùng tín, bác ái, nhưng thiếu khả năng suy luận, để t́nh cảm chi phối nên họ có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dăi. Cả hai đều không quân b́nh tuyệt đối, nên trong tương lai sẽ có các biến chuyển mạnh, xáo trộn để cả hai dân tộc có dịp học hỏi, hoà hợp với nhau.
Babu im lặng suy nghĩ một lúc rồi trầm giọng :
- Trong cuộc đời nghiên cứu sách vở bí truyền của các tôn giáo, tôi không hề thấy có sự khác biệt giữa các giáo lư, nếu không nói là giống hệt nhau. Tiếc thay, con người chỉ thích đi t́m sự khác biệt để chỉ trích, phê b́nh và càng ngày càng đi xa đến chỗ vô minh cùng cực.
- Nhưng các tôn giáo có khác biệt nhau chứ ?
Babu nhẹ nhàng :
- Này các bạn, mỗi quốc gia có phong tục, tập quán riêng biệt. Mỗi thời buổi đều có các thay đổi, giá trị khác nhau. Do đó, một chân lư cũng có thể được giảng dạy bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp, ngôn ngữ có thể khác, nhưng chân lư vẫn là một cũng như thượng đế có 7 con đường vận hà khác nhau qua bảy cung. Nguyên tử mỗi cung có các rung động khác nhau, có màu sắc khác nhau, tính chất khác nhau, nhưng nó đều là nguyên tử xuất phát từ thượng đế. Nếu bạn thay đổi áo mặc khác nhau th́ bạn đâu có thay đổi, chiếc áo có thể khác nhưng người mặc áo vẫn chỉ là một. Nếu các ông đi ngược về cội nguồn các ông sẽ hiểu sự thay đổi từng thời kỳ qua ảnh hưởng tinh tú.
Giáo sư Allen thắc mắc :
- Xin ông giải thích thêm về việc này.
Babu trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi trả lời :
- Trong 7 vị tinh quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ giống như sự tuần hoàn của hơi thở trong bộ máy hô hấp, hay sự vận động của quả tim. Các sự biến đổi này diễn ra vô cùng phức tạp, dưới thiên h́nh vạn trạng. V́ lẽ thể vía con người được cấu tạo cùng một nguyên tử với thể vía các vị tinh quân, nên khi vị tinh quân thay đổi , tự nhiên mọi người trên thế gian cũng ít nhiều ảnh hưởng theo. Nói một cách khác, khi vị tinh quân cai quản một cung thay đổi th́ những người đă đi qua cung đó, nguyên tử cấu tạo có chứa đựng nhiều tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi theo. Trong lịch tŕnh tiến hoá, đă có những sự thay đổi trong đầu óc loài người, từng thời kỳ và do đó, văn minh nhân loại cũng đổi thaỵ Theo sự nghiên cứu của tôi th́ mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 100 năm, nhưng cứ 25 năm cuối lại có các biến chuyển gây ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp.
- Như vậy th́ sự biến chuyển kỳ này sẽ bắt đầu vào khoảng 1975 cho đến năm 2000 và ảnh hưởng đến thế kỷ 21 ?
Babu gật đầu :
- Thật ra chu kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng tháng, v́ niên lịch thông thường không chính xác. Khoa chiêm tinh sử dụng một thứ lịch khác theo sự vận chuyển của các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hoá vấn đề này ta có thể nói rằng cứ 25 năm cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao thời có nhiều sự thay đổi mănh liệt.
Giáo sư Mortimer buột miệng :
- Nhưng đă có bằng chứng nào rằng cuối thế kỷ này sẽ có các thay đổi lớn ?
Babu mỉm cười nh́n tất cả mọi người :
- Các ông đều là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sử Âu châu cho dễ hiểu. Các ông có thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được. Năm 1275, Roger Bacon phát động phong trào phục hưng văn hoá, rồi suốt 100 năm sau, toàn thể Âu châu đều thay đổi. Năm 1375, Chirstian Rosenkreuz phổ biến nền văn hoá này khắp từng lớp dân chúng, đưa Âu châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của thời kỳ Trung cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay sao?
Giáo sư Mortimer, một nhà bác học về cổ ngữ và lịch sử Âu châu suy nghĩ :
- Quả thế, phong trào phổ thông văn hoá bằng đường lối phục hưng đă cứu nguy cho sự suy đồi của Âu châu, nhưng đó chỉ là hai trường hợp. Tôi thiết nghĩ muốn kết luận ta cần nhiều dữ kiện rơ ràng hơn.
Babu mỉm một nụ cười bí mật và xác định :
- Thế th́ ông nghĩ sao về việc phát minh ra máy in, kỹ thuật ấn loát vào năm 1473 ? Nhờ thế tư tưởng các triết gia, giáo sĩ mới phổ thông khắp quần chúng, nâng cao dân trí Âu châu? Ông nghĩ sao về Francis Bacon và cao trào nghiên cứu khoa học năm 1578, sử dụng Anh ngữ thay v́ Latin để phổ biến kiến thức khoa học. Có phải những việc này đă đem khoa học vào xă hội để cải thiện cuộc sống hay không ? Việc này xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Phải phục hưng văn hoá, đưa Âu châu khỏi các thành kiến bảo thủ đă, rồi cải cách, phát triển khoa học để mọi người biết suy luận sau đó, mới thay đổi xă hội được chứ. Văn hoá đi trước phổ biến tư tưởng để dọn đường cho các thay đổi chính trị, xă hội về sau. Năm 1675, các Hội Kín bắt đầu mọc lên, kêu gọi san bằng giai cấp, dẹp tan bất công xă hội, gây nên bởi chế độ Bảo Hoàng. Năm l789, cuộc cách mạng Pháp đă bùng nổ, và thay đổi hẳn lịch sử Âu châu. Hai biến cố này đều xảy ra trong ṿng 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18. Từ đó đến nay chắc các ông đă thấy ?
Giáo sư Mortimer toát mồ hôi trán. Lịch sử Âu châu đối với ông nào có xa lạ ǵ, nhưng sự giải thích của Babu đă làm ông bừng tỉnh.
Toàn thể phái đoàn đều bàng hoàng, khâm phục Babu. Trong một buổi chiều, nhà chiêm tinh xứ Ấn đă hùng biện, dẫn chứng về toán học, sinh vật học, triết học, tôn giáo và cả lịch sử Âu châu như một học giả uyên bác nhất. Kiến thức của y đă chinh phục tất cả mọi người. Giáo sư Mortimer run giọng :
- Vậy th́ theo ông việc ǵ sẽ xảy ra cho thế kỷ 20 này ?
Babu im lặng suy nghĩ một lúc rồi trả lời :
- Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh cơ giới cùng thuyết “Tiến hoá” của Darwin, và phong trào Thiên chúa giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có hai mănh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực, gây nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của thuyết Duy vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một cách mănh liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi th́ phong trào Duy tâm sẽ phát triển mạnh thêm và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hoá tâm linh. Cuối thế kỷ 20, phong trào Duy vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lư bí truyền sẽ bắt đầu. Này các ông bạn, các bạn đều là những người tiên phong. Trước khi một sự phổ thông Bí giáo được thực hiện phải có những hạt giống gieo sẵn và nẩy mầm. Đó là lư do các bạn được thúc đẩy để nghiên cứu các hiện tượng huyền bí phương Đông. Tôi không thể tiết lộ thêm điều ǵ, nhưng qua lá số tử vi của Oliver, tôi quả quyết những điều tiên đoán đều sẽ thành sự thật. Chắc chắn trong 25 năm cuối của thế kỷ này, sẽ có nhiều thay đổi và có những cố gắng giúp cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng. Có hai loại người trên thế gian : một loại đă thấy ánh sáng rực rỡ nơi cuối chân trời và định hướng để tiến tới đó. Dĩ nhiên, họ sẽ phải chiến đấu cam go với các cám dỗ, các hoàn cảnh bất lợi xảy ra chung quanh. Nhưng ở họ, hy vọng luôn luôn sáng rỡ. Hạng thứ hai, không cảm xúc được các tư tưởng thanh cao, không tin tưởng những điều cao thượng. Họ là những người lạc lơng, đáng thương v́ họ sẽ phải học các bài học hết sức đau khổ cho đến khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Điều này đă và đang xảy ra.
- Chuyện ǵ sẽ xảy ra cho những người không hiểu biết này ?
Babu bật cười :
- Các ông nghĩ rằng thượng đế sẽ trừng phạt họ ư ? Không đâu, họ sẽ phải tự học lấy những bài học trong lầm lỗi, trong đau khổ. Thí dụ như một người muốn đi từ quê lên tỉnh. Y có thể đi theo các đường lộ xây cất sẵn sàng, theo bản đồ chỉ dẫn. Nhưng có người cứ khăng khăng đi theo ư ḿnh bất tuân theo luật lệ, đường dọn sẵn không đi, bản đồ có sẵn không thèm nh́n. Y sẽ đi vào rừng, dẫm lên gai góc, đau đớn, lạc lối lung tung. Sau đó, mới ư thức được sự ngu xuẩn của ḿnh. Đời là một bài học vô cùng quư giá mà ai cũng phải học. Cơi đời đầy những vô thường, khi thế này, lúc thế khác chứ đâu êm xuôi bằng phẳng.
Babu ngưng nói đưa mắt nh́n về sông Hằng. Bên kia bờ sông là một câu lạc bộ với những ánh đền màu cùng tiếng nhạc dập d́u. Y thở dài :
- Đó là nơi hội họp của một hội đồng thương mại. Hội này quy tụ toàn các thương gia, các bậc thượng lưu, trí thức, giàu có bậc nhất thành phố này. Tuần nào họ cũng hội họp ăn uống. Đa số đều đă ngoài 60 mà vẫn c̣n ham vui. Cơ thể họ đă suy nhược, nhưng ḷng hưởng thụ vật chất c̣n mănh liệt. Họ tụ tập nhau để nói chuyện mưa gió, thời tiết, thú vui đời người. Không ai ư thức được rằng chỉ ít lâu nữa, ai cũng phải từ giă cơi trần. Nghe họ vui đùa, tưởng như họ có thể lột da như giống rắn để sống măi măi như thế.
Babu nh́n lên bầu trời đầy sao trầm ngâm :
Mọi vật trong vũ trụ đều quân b́nh tuyệt đối, không dư, không thiếu, từ hạt bụi bé nhỏ đến những dăy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và luôn bị lôi cuốn vào sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ư thức được sự phung phí hôm nay, dọn đường cho sự đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những ảo ảnh chập chờn, thế mà người ta cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát, ta có thể học hỏi biết bao điều haỵ Tiếc rằng khi đắc thời người ta quên đi quá khứ rất nhanh. Chỉ trong đau khổ, nhục nhă ê chề mới chịu học. Có thể đó cũng là lư do luôn luôn có các biến động vô thường, thúc dục con người học hỏi.
- Ông nghĩ rằng con người sẽ học hỏi trong đau khổ.
Babu thở dài :
- Đúng thế, chúng ta có tính hay quên, nên cứ phải học đi, học lại cái bài học khổ. Chỉ khi bị khổ sở, bị đàn áp, tự do bị chà đạp, con người mới quay về với niềm hy vọng cuối cùng là đức tin. Khi sung sướng ít ai nghĩ đến việc tu thân cầu giải thoát. Khi cơ thể bệnh hoạn, ta mới thấy khoẻ mạnh là hạnh phúc. Khi bị tù đày, ta mới thấy giá trị của tự do. Tiếc rằng khi khỏi bệnh, ta không ư thức nguyên nhân đă gây nên bệnh đó, mà lại tiếp tục một đời sống như trước; do đó, ta cứ bị bệnh hoài.
- Nhưng con người cũng học hỏi rất nhiều, và đă có tiến bộ lớn lao.
Babu ngắt lời :
- Các ông gọi như thế nào là tiến bộ ? Trên phương diện vật chất, con người ta đă tiến bộ chút ít so với những thế kỷ trước. Nhưng phương diện tinh thần vẫn nghèo nàn như xưa, chả tiến được chút nào, bằng cớ là họ vẫn tiếp tục các lỗi lầm quá khứ.
- Ông muốn nói đến chiến tranh ư ?
Babu im lặng nh́n lên bầu trời đầy tinh tú, ngẫm nghĩ một điều ǵ.
Toàn thể mọi người im lặng chờ đợi. Sau cùng, giáo sư Allen lên tiếng :
- Theo ông, th́ hoà b́nh có thể thực hiện một ngày gần đây không ?
Babu mỉm cười trả lời :
- Các ông nghĩ rằng, với khả năng bé nhỏ của tôi mà có thể biết hết được ư ? Từ khi con người có mặt trên trái đất này, đă có hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác. Chiến tranh có bao giờ chấm dứt được ? Thực ra chiến tranh chỉ là sự biểu lộ trạng thái bên trong chúng ta, là sự phóng đại các động tác hàng ngày của chúng ta. Sở dĩ mỗi ngày, nó một trầm trọng hơn, là do kết quả các hoạt động kỹ nghệ, và óc sáng tạo của con người. Chiến tranh không thể chấm dứt nếu các nguyên nhân gây nên cuộc chiến vẫn c̣n. Nếu có một cây cổ thụ thật lớn và ta muốn tiêu diệt nó. Ta không thể leo lên vặt hết lá cây được, vặt lá này nó lại mọc lá khác phải không các bạn ? Cách duy nhất là đốn tận gốc rễ. Nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn từ các tham vọng, giận dữ, oán hận, đầu óc quốc gia, bộ lạc, tinh thần phe phái, đố kỵ, ganh ghét, v…v… Tận diệt được các thói xấu này là chấm dứt chiến tranh. Phương pháp duy nhất là làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn. Chỉ khi nào loài người ư thức điều này và thay đổi quan niệm sống, xoá bỏ ḷng thù hận, th́ họ sẽ thấy b́nh an. Tiếc rằng ai cũng chỉ nh́n thấy sự sai quấy nơi người khác, nên mới có t́nh trạng ngày nay. Hoà b́nh và thiện chí cần đi đôi với nhau, nên không ai có thể thực hiện hoà b́nh khi ḷng c̣n đầy oán thù, ghen ghét, muốn bốc lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân ḿnh hay phe phái ḿnh. Tất cả các hội nghị, các mưu tính để mang lại hoà b́nh cho nhân loại đều thất bại, v́ con người không chịu thực hiện hoà b́nh ở chính ḿnh.
Babu mỉm cười nh́n tất cả mọi người một lúc, rồi trầm giọng :
- Các ông đều biết Đại đế Alexander, người đă chinh phục thế giới. Trong việc xây dựng hoà b́nh cho Hy Lạp, ông đă càn quét, tiêu diệt tất cả những nước láng giềng, có thể đe doa. xứ sở của ông. Rồi cứ thắng xong trận này, lại phải lo đến trận khác, và cuộc chiến tranh để mang lại hoà b́nh cứ kéo dài. Alexander là một người thông minh theo học với hiền triết Aristotlẹ Khi lên ngôi hoàng đế, ông đă tâm sự với thầy, “con sẽ chiến thắng Ai cập và Thổ nhĩ kỳ”. Aristotle hỏi, “Rồi sao nữa?”. Alexander suy nghĩ, “Sau đó, con có thể ngủ một cách b́nh an”. ( Thời đó người Hy Lạp chỉ biết đến Ấn độ, chưa biết đến các nước khác ở Á châu). Aristotle mỉm cười, “ Con hỡi, tại sao con không ngủ b́nh an ngay đêm nay có hơn không?”.
Babu kết luận :
- Tôi nghĩ con người cần đặt cho ḿnh một câu hỏi tương tự. Hăy quan sát ḷng ḿnh một cách thành thật xem ḿnh muốn ǵ ? Chúng ta muốn b́nh an hay kích động ? Phải chăng chúng ta đều náo nức muốn cái ǵ ? Mỗi buổi sáng, chúng ta vội vă cầm lấy tờ báo để t́m các tin tức sôi nổi nhất. Nếu không có tin ǵ về chiến tranh, thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh tế th́ chúng ta vất tờ báo xuống đất, và than rằng chả có ǵ đáng xem. Có phải thế không ? Chúng ta muốn sống yên ổn, không thích xáo trộn, nhưng rất thích thú nghe nói về các sự xáo trộn của kẻ khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn căi sôi nổi về người này, người nọ, chê bai ông này, diễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế ? Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi, tại sao chúng ta lại làm thế không ? Ḷng ta c̣n ham tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khoẻ, và chỉ cầu b́nh an cho chính ḿnh thôi, nên chẳng bao giờ thoa? măn. Nếu ai có hỏi th́ ta cũng sẽ chối quanh như đại đế Alexander chỉ xin một giấc ngủ b́nh an mà thôi. Giấc ngủ b́nh an nào có khó, nào xa xôi diệu vợi, tốn công nhọc sức mới có. Làm sao ta có thể lao đầu vào vật chất phù du, xây dựng danh vọng địa vị, thỏa măn cái phàm ngă hữu h́nh hoại đồng thời t́m sự b́nh an, yên tĩnh ? Chính các điều trên đă phá vỡ sự yên tĩnh sung măn của nội tâm tạ Phiền năo là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải hoàn cảnh phải không các bạn ? Ngày hôm nay chúng ta đă nói chuyện rất lâu rồi. Các bạn sẽ c̣n trải qua một hành tŕnh dài, gặp gỡ nhiều bậc danh sư, hiền triết. Tôi chúc các bạn t́m được niềm an tĩnh của tâm hồn.
Babu mỉm cười, giơ tay tiễn khách, vầng trăng đă lên cao, lấp loáng phản chiếu trên sông Hằng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 284 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 1:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRÊN ĐƯỜNG THIÊN LƯ
Chương Bốn
Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đă thay đổi tất cả. Cho đến lúc đó, phái đoàn mới công nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan, c̣n có những chân lư cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu. Sự hiện diện của một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và Sudeih Babu, làm phái đoàn phấn khởi, tin tưởng rằng cuộc khảo cứu sẽ c̣n vượt xa hơn điều họ dự tính.
Cuộc tiếp xúc với Sudeih Babu đă khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và ḷng tự hào của người Âu, để bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.
Phái đoàn bắt đầu cuộc hành tŕnh nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc đầu, đường xá c̣n tốt nên sự di chuyển c̣n nhanh chóng, nhưng về sau có những đoạn đường bị ngắt quăng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc đôi khi phải đi bộ qua các eo núi. Sự kiện một nhóm người Âu, di chuyển trên những con đường độc đáo, hẻo lánh là một điều chưa hề xảy ra. Các sĩ quan quân lực Hoàng Gia đă hết sức ngăn cản v́ lư do an ninh. Mặc dù Ấn độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa phương vẫn không hợp tác với chính quyền. Việc di chuyển đ̣i hỏi sự hộ tống của lực lượng quân đội vơ trang đầy đủ. Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng ít dám qua lại, v́ có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề pḥng, phái đoàn đă vơ trang cẩn thận, nhưng trong suốt thời gian di chuyển, không hề có một sự kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được che chở bởi một quyền năng mạnh mẽ vô h́nh.
Trên đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản của tôn giáo này xây dựng trên chủ trương mở rộng ḷng từ bi (Ahimsa). Tín đồ đạo Jain thực hành lư tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích. Đạo Jain được thành lập hơn 2000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử đă từ bỏ cung vàng, điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước chân vào đền, người ta đă thấy ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên kim cương lớn. Trước khi vào đây, du khách phải cởi thắt lưng, giày dép, những vật ǵ làm bằng da thú, sừng, ngà voi, v…v… Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, v́ giáo lư Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ ǵ của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. V́ ḷng từ bi (Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm ĺ trong đó th́ phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè, v́ thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.
Đối với người Âu, việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích, và vô lư, nhưng phần đông phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin rằng nếu các giới luật mà không giữ được th́ không hy vọng ǵ đi xa hơn trên đường tu học.
Một số giáo sĩ Jain c̣n “quá khích” hơn nữa. Sau một thời gian tu ở trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống loă thể. Họ chỉ uống nước suối, ăn trái cây, và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi c̣n ăn cơm gạo, mặc y phục là c̣n mang nợ xă hội. C̣n hưởng những vật dâng cúng của tín đồ là c̣n mang nợ loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, từ bỏ tất cả, không bận tâm đến bất cứ chuyện ǵ của thế gian, như của cải, vật chất, và ngay cả mảnh vải che thân. Đạo Jain cho rằng xuất gia phải tuyệt tất cả ư niệm sở hữu, v́ sở hữu bất cứ ǵ đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây chướng ngại cho việc tu hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ để vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà, và thú rừng làm bạn. Họ dành tất cả thời giờ để thiền định về ư niệm mở rộng ḷng thương đến muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hăi. Các học giả người Âu đă gọi tôn giáo này là phái loă thể, v́ quan niệm từ bỏ triệt để này. Điều đáng tiếc là danh từ loă thể thường bị đồng hoá với các sự kiện xấu xa, mọi rợ, thiếu văn minh. Khi người Anh đến cai trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đă bị bắt giam v́ tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống trong rừng không tiếp xúc với xă hội. Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong tục và tập quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế. Giáo phái này tin tưởng rằng sức mạnh của t́nh thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên, t́nh thương phải hết sức tuyệt đối. Mục đích của nó không giới hạn vào một hạng người nào riêng biệt, mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Đây là một cải cách hết sức lớn lao v́ phong tục Ấn độ vốn rất thiên vị, và chủ trương dị biệt giai cấp. Tín đồ đạo Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu hay hay hạ lưu, b́nh dân hay vua chúa, đều thụ hưởng ḷng thương như nhau. Ḷng thương chẳng những phải bao la, mà c̣n nồng nàn như t́nh mẹ con, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm. Ḷng thương phải chân thành, thâm thúy phát ra từ đáy ḷng, không thể giả dối , hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi ban răi t́nh thương khắp đồng loại, c̣n phải ban răi đến loài vật, từ con voi to lớn đến các côn trùng nhỏ nhen. Do đó, họ tránh sát sinh đă đành mà c̣n không sử dụng bất cứ vật dụng ǵ do sự giết chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh là một thú tánh cần loại trừ, nhưng chinh phục bằng t́nh thương là đường lối duy nhất để giải quyết mọi việc.
Đạo Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn độ, nhưng không đi đến các nơi khác, v́ gặp phải sức chống đối của Ấn độ giáo và Hồi giáo. Lịch sử Ấn độ ghi nhận Hồi giáo đă tiêu diệt Phật giáo và đạo Jain một cách hết sức dă man. Hơn nữa, quy luật khắc khe của tôn giáo này không mấy ai theo nổi, và các tu sĩ bịt mặt, loă thể dễ bị người đời ngộ nhận. Có lẽ thế, nên tôn giáo này chỉ bành trướng trong các vùng hẻo lánh miền sơn cước.
Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân ở đây một thời gian cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lư do nữa là gần đó có một di tích lịch sử quan trọng : Ngôi đền yên lặng.
Đó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000 năm naỵ Trong đền không có h́nh tượng ǵ, mà chỉ là một căn pḥng to lớn, trang nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong ḷng bỗng lắng xuống một cảm giác b́nh an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng, đă gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ư định chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh băi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái b́nh, thịnh trị.
Thời gian trôi qua, đến nay chẳng c̣n mấy ai biết đến thời đại của hoàng đế này, nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua vẫn c̣n tồn tại. Khi bước chân vào đ6y, không ai được nói một lời nào, mà phải tuyệt đối giữ yên lặng. Lư do ngôi đền không có h́nh tượng ǵ là để nói lên cái chân lư tuyệt đối vốn vô h́nh, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đă giải thích cho phái đoàn.
- Đền yên lặng là nơi chỗ của quyền năng , v́ yên lặng đồng nghĩa với quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng th́ họ đă đến chỗ mà tất cả đều là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con người có sức mạnh tư tưởng nhưng v́ vô ư thức, họ đă để cho nó hao tán. Qưyền năng hao tán là Động, c̣n tập trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc với thượng đế. Khi hợp nhất với đấng thiêng liêng, ta hợp nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu. Phương pháp duy nhất để hoà hợp với đấng thiêng liêng, là tiếp xúc với ngài một cách ư thức, từ bỏ ngoại cảnh, để quay về với nội tâm, v́ đấng thiêng liêng ẩn tàng trong tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản ngă, nhận thức sự vô minh, hèn kém của ḿnh và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là tu thân. Người ta không thể dạy bảo điều ǵ cho những cá nhân kiêu căng, tự phụ, v́ chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lư. Đấng thiêng liêng không nghe các lời cầu xin ồn ào, lập đi lập lại mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân thành của những kẻ đến với ngài bằng trái tim, sùng kính ngài bằng tâm hồn và sự im lặng. Kẻ nào tiếp xúc với ngài trong ầm thầm sẽ nhận biết quyền năng của ngài do sự thực hiện các điều mong muốn của họ.
- Nhưng nếu không cầu nguyện theo mọi sách vở, thánh kinh làm sao tín đồ có thể hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi ?
- Minh triết phát sanh từ sự yên lặng. Thượng đế không cần ta phải tuyên dương ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ ǵ. Khi một tín đồ thànht âm trong tĩnh lặng, y sẽ hoà hợp tư tưởng với ảnh hưởng thiêng liêng; và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận biết được khi ḷng ta vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích ḿnh, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ cơi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới ư thức năng lực trong ḿnh, và chung quanh ḿnh. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nẩy nở. Tâm có an th́ việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu yên tĩnh. Con người có giải thoát các ồn ào, náo nhiệt bên ngoài, th́ mới đón nhận được các hoà âm tuyệt diệu đến từ cơi vô biên. Con người cần khám phá rằng hạnh phúc ở trong tâm ḿnh. Hiện nay phần lớn đều t́m kiếm hạnh phúc bên ngoài, nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc lát, thay v́ hạnh phúc vô biên. Tất cả phương pháp t́m kiếm bên ngoài đều vô vọng. Con người phải biết quay về nội tâm v́ mọi h́nh tướng, nghi thức đều là sự áp chế.
- Nhưng làm sao t́m thấy điều ǵ khi ngồi yên lặng ?
- Con người sẽ dần dần ư thức được chính ḿnh. Dĩ nhiên, điều này đ̣i hỏi một thời gian. Họ sẽ t́m thấy ở ḿnh một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật, cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ư thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự ḿnh t́m thấy câu giải đáp khi họ ư thức thực chất của chính ḿnh, và ảnh hưởng cao cả của thượng đế. Chỉ khi đó, mọi sự t́m kiếm ở ngoại cảnh sẽ chấm dứt.
- Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở chỉ dẫn, làm sao con người biết đâu mà t́m để đạt đến trạng thái đó ?
- Đa số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo lư hướng dẫn cuộc đời. Do đó, họ dễ bị hướng dẫn sai lạc, lầm lẫn. Phải tự ḿnh suy gẫm và t́m lấy con đựong cho chính ḿnh mới là phương pháp đứng đắn. Con đường giải thoát đ̣i hỏi can đảm và nổ lực cá nhân, v́ không đường nào giống đường nào. Lịch sử cho thấy có biết bao tôn giáo rao truyền chân lư cực kỳ tốt đẹp, nhưng có mấy tín đồ nghiên cứu tường tận ? Đa số đều ỷ lại vào các giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các giáo sĩ c̣n chưa giải thoát chính ḿnh, th́ c̣n cứu độ cho ai nữa ? Đó là lư do hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên lặng và trong đó không có một pho tượng, một h́nh ảnh hay ngôn ngữ nào, để tránh đi vào con đường của các tông phái Ấn giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối, ngôn ngữ, h́nh ảnh không thể diễn tả được. Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất cả h́nh tướng, nghi thức, con người mới tự do sống b́nh an với nhau, hiểu sự liên quan giữa y và những người đồng loại. Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa người với người, nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị. Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngă. Tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát khỏi các thành kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào th́ nghĩ, mà c̣n là giải thoát ta ra khỏi các áp lực bắt ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng. Đây là một chân lư chỉ t́m thấy trong sự yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, h́nh tướng, ngôn từ, các thành kiến dị biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hăi bắt nguồn từ vô minh. Chỉ khi nào hoàn toàn tự do, con người mới thực sự b́nh an và giải thoát.
Phái đoàn từ giă vị giáo sĩ coi đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng đă gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. H́nh như có một luồng từ điện vô h́nh phảng phất quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong ḷng dào dạt một sự b́nh an khó tả. Lối tu trong yên lặng không c̣n là một vấn đề trừu tượng, vô ích như họ nghĩ. Quả thật xứ Ấn c̣n rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và suy nghĩ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 285 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 1:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
THÀNH PHỐ THIÊNG LIÊNG
Chương Năm
Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của các vị thánh. Từ lâu nay người ta đă coi thành phố này như một thánh địa mà tất cả những kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm ḿnh trong bầu không khí thiêng liêng. Rishikesh nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mă Lạp Sơn. Từ đó đi lên hướng bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những điều huyền bí. Phía nam là con sông Hằng, ḍng sông thiêng của Ấn giáo. Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức, đều ít nhất một lần trầm ḿnh trong ḍng nước này để đón nhận những ân phước mà ḍng sông mang lại.
Đúng như lời người Ấn bí mật thành Benares đă nói, khắp nơi đâu đâu cũng có các đạo sĩ và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ ḿnh hạc, xương mai vừa đi vừa tụng niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh, chống gậy trầm tư bên ḍng nước sông Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các thuật sĩ , quần áo sặc sỡ biểu diễn những tṛ lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn khố bằng da cọp, uốn ḿnh trong tư thế Yoga. Bên cạnh một thuật sĩ gầy g̣, nằm lăn trên đất, lâm râm cầu nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc kinh bên cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị thần. Có những tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không màng thế sự, bên cạnh những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn ḿnh trong những mảnh vải rách như một xác ướp. Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi thóp như sắp chết, bên cạnh những thuật sĩ say sưa gọi tên thượng đế một cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút, các tín đồ hành hương chen vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm thành kính rơ rệt. Phái đoàn cảm tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền ảo, với những nhân vật kỳ dị , khác thường.
Bác sĩ Kavir, giám đốc viện nghiên cứu Phạn ngữ (Sanskrit) của chính phủ là một học giả nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đă sống ở Rishikesh nhiều năm. Theo ông ta th́ Rishikesh không c̣n là một thành phố của các bậc chân tu đạo hạnh như xưa, mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn tạp. Đa số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ h́nh thức đến tinh thần. Họ góp nhặt vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú, rồi kiếm ăn qua sự mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại ngoài đời, lười biếng, không chịu làm việc. Đối với một quốc gia chậm tiến như Ấn độ, th́ h́nh thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc, và một mái nhà, là trở nên một tu sĩ, sống trên ḷng sùng tín của dân chúng. V́ không có một tiêu chuẩn kiểm soát nào, nên bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ; chỉ cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài h́nh thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng đạo sĩ, thánh nhân được rồi. Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả mạo này là những kẻ làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện xằng bậy, ích kỷ cá nhân. Đă thế, họ c̣n tụ tập phe nhóm, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không cùng phe nhóm.
Được tin có phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết cổ truyền, rất đông đạo sĩ, giáo sĩ t́m đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí, dĩ nhiên, là với một giá biểu. Khi bị từ chối, lập tức họ sụt giá như người mua bán. Một đạo sĩ đ̣i bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau nhiều lần sụt giá, y bằng ḷng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một nhóm tu sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đ̣i đến thảo luận triết lư với phái đoàn. Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả đạt được, phái đoàn cực kỳ ngẩn ngơ, v́ toàn các bậc thần thánh ǵ đâu, chứ không phải người. Ai cũng tu cả trăm năm, đủ các phép thuật thần thông biến hoá. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát ở đâu bước vào th́ các bậc “thần tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy hết.
Quanh các chợ , có rất nhiều tu sĩ khổ hạnh phô trương thân thể tàn phế bị huỷ hoại như một công tŕnh vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có thể đạt đến điều ǵ, ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném chọ Một số các đạo sĩ sử dụng tà thuật công khai. Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, nguyền rủa một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn thành công trên thương trường. Đâu đâu cũng có đạo sĩ rao bán bùa ngăi hoặc xưng là đấng này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của đấng Krishna và đă từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir nổi giận ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến c̣ng tay, tu sĩ thú nhận, y chỉ là một học sinh thi rớt tiểu học, không sao kiếm được việc làm. Y đă lười biếng c̣n thích làm thầy kẻ khác, nên làm ǵ một thời gian cũng gặp khó khăn. Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là Krishna giáng thế, một số dân quê tin những lời tuyên bố của y. Họ quyên góp, xây cho y một ngôi đền. Y sống trên phẩm vật dâng cúng của tín đồ, một cách ung dung chẳng tu hành ǵ hết. Đă thế, y c̣n đ̣i hỏi này nọ, chê ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của ỵ Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng, y dở tṛ bịp bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ.
Lịch sử Ấn độ cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa thiêng liêng, một nơi các tu sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành hương quá đông, một số hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành khất đă “chuyển nghề” trở thành các đạo sư, gíao sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ, nhẹ dạ.
Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn c̣n các tu sĩ học thức, dành trọn đời cho việc đi t́m chân lư. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ư đến sự kiện các tu sĩ giả lợi dụng sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Đó cũng là một nét đặc thù của nền văn hoá xứ này. Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện như thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương. Nhưng Ấn giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên chúa giáo. Các giáo sĩ quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo danh, lợi dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau.
Giáo sư Kavir cho biết, theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi, cuộc sống trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày một hiếm, th́ các đạo sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt nát, vô học đi lang thang với các chức tước rất lớn như đạo sư, giáo sĩ, thánh nhân. Họ chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gánh nặng của xă hội, v́ chỉ thụ hưởng mà không làm lợi ích ǵ. Đó cũng là lư do nhiều người Âu Mỹ đă coi thường gia tài văn hoá xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn sùng tôn giáo quá mạnh của dân chúng. Họ không phân biệt một đạo sư tu hành chân chính, ǵn giữ giới luật nghiêm minh, với những kẻ bịp đời. Ḷng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ, sẵn sàng làm theo sự mách bảo của các bậc tu hành. Một lư do nữa là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền. Đa số các tín đồ mải mê với sinh kế, không có th́ giờ lo việc tinh thần, nên họ uỷ thác cho các giáo sĩ cầu nguyện dùm, và đồng hoá việc giải thoát với việc trung thành vào một bậc giáo sĩ. Đa số các giáo sĩ lợi dụng vấn đề này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng cách cầu nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự hào đă tu hành đắc đạo, đă có thể nói chuyện trực tiếp với thượng đế. Và là người trung gian giữa trời và người. Họ sống trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dụng được cúng, và nhân danh thượng đế để đ̣i hỏi này nọ. Người Á châu bản tính không thích hoài nghi, chấp nhận việc các tu sĩ nói ra ư muốn của thượng đế, và tuân hành triệt để. Cũng v́ thế, các tài liệu tôn giáo Ấn độ đă bị sửa đổi rất nhiều, không phân biệt được điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn những câu nói bí ẩn, và giảng ra theo ư nghĩa có lợi nhất cho họ. Xứ Ấn độ phân biệt giai cấp rơ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua chúa, quư phái. Giai cấp tu sĩ không làm ǵ, chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp các nhu cầu đ̣i hỏi của tu sĩ. Cũng v́ không làm ǵ, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống báng , đả kích lẫn nhau. Mỗi người tự lập một giáo phái, xưng hùng, xưng bá, giảng kinh điển theo quan niệm của ḿnh từ cụ thể đến trừu tượng, như Thời gian luận, Phương hướng luận, Đa nguyên luận…Không ai chịu theo ai, và c̣n tranh luận lung tung khiến các tín đồ không c̣n biết đâu mà lần. Cũng v́ xă hội nghèo đói, rối ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết, nên từ bao năm nay, Ấn độ không sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các xứ khác. Tuy thế, với gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo hạnh, sống kín đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn có những người tha thiết mong cầu chân lư, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi t́m chân lư.
Sự kiện từ bỏ tất cả để đi t́m đạo cũng là một nét rất đặc biệt của Á châu, v́ người Âu Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất, để chạy theo một viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả quyết rằng sự t́m kiếm chân lư là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những ǵ cuộc đời có thể mang lại v́ chết là hết! Nếu như thế, th́ mục đích cuộc đời là ǵ ? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết ? Văn hoá Âu tây đă không giải thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đă nhức óc về đề tài này, nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi đến một kết luận nào chắc chắn. Họ chỉ nói rằng có thể như thế này, hay cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thật sự giao tiếp với người Á châu, th́ họ bỗng bật ngửa, v́ tất cả những ǵ họ thắc mắc th́ người Á châu đă có những câu trả lời từ nhiều ngàn năm về trước.
Lịch sử đă ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á châu và say mê nền minh triết xứ này, đến nổi quên cả mục đích chính của chuyến đi. Điển h́nh là đại đế Alexander xứ Hy Lạp, vị hoàng đế, bách chiến bách thắng đă chinh phục thế giới, dẹp tan Ai cập, quét sạch Ba tư , mở rộng bờ cỏi đến tận Ấn độ dương. Khi đến Ấn độ, ông là một kẻ chinh phục, oai danh lừng lẫy nhưng khi trở về nước, ông đă trở nên một triết gia khiêm tốn, nhă nhặn. Hoàng đế Alexander, học tṛ của hiền triết Aristotle đă bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh phục. Khi dẹp tan các đạo binh của hoàng đế Ấn độ, Alexander cho mang tất cả những tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi. Ông vua kiêu căng lớn tiếng, “Thua trận như vậy, các người đă chịu phục ta chưa ?”. Nếu là trường hợp các quốc gia khác, th́ vua chúa đều quỳ mọp xin tha tội, và xin thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đă dơng dạc trả lời, “Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho được. Người có thể thắng bằng quân sự, nhưng cai trị thế nào nổi dân của tả” Alexander nổi giận, “Ta đă cai trị toàn thế giới, có nước nào không phục tài ta, nơi nào làm phản, ta giêt trọn cả nước. Ngươi không thấy các đại cường quốc như Ai cập, Ba tư c̣n xin thần phục huống chi Ấn độ yếu đuối ?” Vị chỉ huy xứ Ấn bật cười, “Chinh phục bàng sức mạnh quân sự th́ dễ, chứ chinh phục nhân tâm c̣n khó gấp trăm ngàn lần. Một kẻ vũ phu như ngươi, làm sao có thể cai trị được Ấn độ ?” Câu nói bất ngờ làm đại đế Alexander giật ḿnh. Nên nhớ, ông là một hoàng đế văn vơ toàn tài, chứ không phải là một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ nhỏ, ông đă được giáo dục bởi các bậc hiền triết Hy Lạp và năm 14 tuổi, ông đă đem quân chinh phạt khắp Địa trung hải, tạo các chiến công hiển hách. Ông theo học với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để thảo luận. Câu nói của vị tướng lănh chỉ huy xứ Ấn, làm ông suy nghĩ. Thay v́ ra lệnh giết ngay viên tướng này để làm gương, ông đă không giận dữ, lại c̣n mang ngay đề tài chinh phục nhân tâm ra thảo luận với ỵ Trong suốt lịch sử Âu châu, chỉ có Alexander là hoàng đế duy nhất đă tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ thù kính phục mới thôi.
Chi tiết cuộc thảo luận này ra sao, không thấy lịch sử ghi chép nhưng chỉ ít lâu sau, hoàng đế Alexander đă cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn đến thảo luận với các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn viễn chinh. Chỉ một thời gian ngắn, Alexander nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với các hiền giả Ấn độ. Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị này. Thay v́ cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông ghi nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân chúng xứ này.
Đoàn quân viễn chinh ngừng lại, không đi sâu vào nội địa xứ Ấn, để ông có thời gian học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc thảo luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đă ra lệnh rút binh trở về Hy Lạp, v́ giấc mộng bá vương không c̣n nữa. Ông dự định sẽ cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn độ. Tiếc thay, nhà vua lại chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đă than, “Nếu Alexander sống lâu thêm ít năm nữa, th́ biết đâu lịch sử Tây phương đă khác hẳn.
Trong các hiền triết nổi danh, Ramakrishna được coi là một vị thánh của Ấn giáo. Danh tiếng ông này vang sang tận Âu châu. Phái đoàn t́m đến đức Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó.
Ngang qua một khoảng sân nhỏ đến một căn pḥng kiến trúc kiểu xưa, cổ kính. Mọi người được mời ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, có tiếng chân người chậm răi bước lại, đó là một ông lăo khoẻ mạnh, râu dài trắng phếu, dung mạo nghiêm trang, và đôi mắt chói sáng toa? ra một cái ǵ thánh thiện, khiến mọi người có cảm giác rung động lạ thường.
Giáo sư Evans-Wentz lên tiếng bày tỏ mục địch của phái đoàn, Mahayasa mỉm cười :
- Ơn trên đă dẫn dắt các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp xúc nhiều với những bậc hiền triết xứ này. Ơn trên có một mục đích rơ ràng rồi các ông sẽ thấy.
- Chúng tôi nghe nói nhiều về đạo sư Ramakrishna, ông có thể cho chúng tôi biết thêm về ngài không ?
- Tôi rất thích nói về ngài. Ngài mất đă nửa thế kỷ rồi, nhưng vẫn c̣n lưu lại nhiều kỷ niệm linh động trong ḷng tôi. Tôi gặp ngài hồi 27 tuổi, và luôn luôn ở bên ngài, cho đến những ngày cuối cùng. Nhờ ngài, tôi đă trở thành một con người mới, và quan niệm của tôi đối với cuộc đời cũng thay đổi hẳn. Ảnh hưởng của ngài thật sâu đậm, ai đến với ngài cũng được cảm hoá như vậy, kể cả những kẻ hoài nghi, chế nhạo…
- Nhưng nếu người ta không tin, làm sao người ta có thể được cảm hoá ?
Đức Mahayasa mỉm cười:
- Trước ảnh hưởng an lành toa? ra từ con người thánh thiện của đức Ramakrishna dù có hoài nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh thoát.
Giáo sư Allen rụt rè :
- Chúng tôi được biết ngài rất ít học.
- Đúng thế, ngài là con người đơn giản, biết ít, học ít, nhưng ngay cả những bậc học rộng , tài cao của Ấn độ đều ngưỡng mộ ngài. Họ cúi đầu trước hào quang tâm linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền bạc, chức tước, địa vị chẳng qua chỉ là phù vân, hư ảo trước các giá trị tâm linh…
- Nhưng người Âu không thể hiểu tại sao những vua chúa, học giả nổi tiếng lại có thể cúi đầu trưóoc một người không học hết bậc trung học.
Đức Mahayasa mỉm cười :
- Sở dĩ họ không hiểu được, v́ họ quan niệm đạo sư phải là người có bằng cấp, tốt nghiệp những đại học nổi tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn. Quan niệm người Ấn không như vậy. Một đạo sư không nhất thiết phải tốt nghiệp trường học chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở những điều ngài khêu gợi, thức tỉnh tâm thức được cho ḿnh. Có gần ngài, mới hiểu thế nào là b́nh an. Những ngày bên ngài tốt đẹp biết bao. Ngài thường đắm ḿnh trong những cơn thiền định sâu xa, khiến chúng tôi có cảm tưởng như tiếp xúc với một vị thánh hơn một người phàm. Tôi xin kể cho các ông về cảm tưởng của tôi. Tôi được giáo dục theo phương pháp Âu tây, tôi rất tự đắc được đọc nhiều biết rộng hơn những người chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh ngữ cho trường trung học ở Calcuttạ Đức Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar cách đó không xạ Một hôm, tôi theo các bạn đến nghe ngài thuyết giảng, thực ra tôi có ư muốn biện luận với một vị, được dân chúng coi là thánh nhân, hơn là muốn nghe giảng. Nhưng một sự lạ lùng đă xảy ra, khi vừa nghe những lời nói của ngài, tôithấy trong ḷng rộn ră một cảm giác lạ lùng, yên tĩnh. Ngài không nói bằng ngôn ngữ thông thường, sử dụng các danh từ bóng bẩy như tôi nghĩ, mà bằng tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống những lời giảng giản dị, chân thành như người khát nước lâu ngày, sau đó, tuần nào tôi cũng đến nghe giảng. Một thời gian sau, tôi được ngài thu nhận làm đệ tử, chính ngài khuyên tôi, “Xem tướng, thầy biết con sẽ trở nên một tu sĩ (Yogi). Con hăy làm tṛn công việc hàng ngày của ḿnh với đời. Nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ đến thượng đế.”
- Chúng tôi nghe nói về Ramakrishna ngay từ khi c̣n ở Âu châu, nhưng dư luận người Anh có lẽ không hiểu rơ về ngài, ngoại trừ việc ngài là một người không có học thức…
Mahayasa gật đầu mỉm cười :
- Theo sự hiểu biết của tôi, sở dĩ ngài không thích học v́ bản tính ngài thiên hẳn về vấn đề tâm linh. Một người như thế tất nhiên không để ư đến những từ chương , bằng cấp hay quyền quí, danh lợi. Năm ngài bắt đầu vào tuổi thanh niên, một sự lạ xảy ra. Tuổi 16,17 là lúc đứa trẻ thường bị khủng hoảng hoặc thay đổi tâm tính nhất là trên phương diện t́nh ái. Đối với người cao thượng, đó là lúc mở màn cho một đời sống thật sự với sự phát triển các năng khiếu tâm linh siêu việt. Sự mở màn ấy bắt đầu vói sự hoảng hốt trước cái chết. Đa số con người ít nhiều cũng đă nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ nghĩ một lát rồi quên ngay, ít ai chịu t́m hiểu sâu xạ Các bậc hiền triết th́ khác, họ tận lực t́m hiểu thế nào là sự chết, đức Ramakrishna cũng phản ứng như vậy, ngài suy ngẫm, “cái ǵ là chết? Thể xác này chết nhưng c̣n tôi, tôi có chết không ? Nếu tôi là thể xác này, tôi chết nhưng tôi có phải là thể xác này không ? Nếu tôi không là thể xác này, tôi sẽ không chết, nhưng làm sao t́m ra điều này? Chỉ có một cách là kinh nghiệm sự chết”. Sau đó, ngài quyết tâm tham thiền, suy gẫm về đề tài này. Ngài tưởng tượng thân thể ngài đă chết, không c̣n thở, không c̣n cảm xúc. Với một ư chí mănh liệt, ngài rút hết sinh lực ra khỏi thể xác và một ngày kia ngài thành công. Thân thể ngài cứng đơ, bất động như người chết, nhưng ngay lúc đó một quyền lực khôn tả phát ra từ đáy ḷng và tràn ngập tâm tư ngài. Chuyện ǵ xảy ra sau đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng ta có thể đoán ra, xuyên qua lời dạy của ngài. Chúng ta có thể nghĩ rằng quyền lực ấy là cái mà ta gọi là Ân huệ, và khi được mặc khải đó th́ ta tiến sâu vào nguồn sống để hoà hợp với đấng vô cùng. Ngài đă hợp nhất với Chân Ngă. Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng Chân Ngă ngự sâu trong ḷng nhưng ngài chưa kinh nghiệm được một chân lư khác. Chân Ngă là sự thật duy nhất, ngoài sự thật đó không có ǵ nữa cả. Khi tiến sâu vào nội tâm, ngài thấy sự b́nh an nhưng khi ngài tỉnh dậy, ngài vẫn không thoa? măn v́ điều ngài mới đạt đến chỉ là sự b́nh an của các vị thánh. Ngài ra tâm suy gẫm về cảm giác thiếu thốn này, thân thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài trong nhiều tháng. Dĩ nhiên ,những người chung quanh không hiểu, và cho rằng ngài mắc bệnh. Ngài đắm ḿnh trong trạng thái Vô Ngă rất lâu, không màng đến những việc chung quanh. Chú của ngài không hiểu, nên thường trách mắng ngài lười biếng, không chịu học hành. Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền Dakshiniwar, danh từ này có một sức hấp dẫn lạ lùng, thế là ngài quyết định đến đó. Đến nơi, ngài bước ngay đến trước tượng Shiva và nói, “Hỡi cha, cha đă gọi, nay con đến với chạ” Ngay lúc đó các cảm giác nóng hực, thiếu thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng nghiệm được một chân lư mới, cha ta và ta là một. Từ đó ngài không cần tĩnh tâm mới có cảm giác an lạc, mà lúc nào cũng ở trạng thái này. Ramakrishna bị rất nhiều thử thách. Bị trẻ con chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây hấn, nhưng ḷng ngài lúc nào cũng b́nh thản, lặng yên, không một chút vọng động. Kinh Gita dạy rằng một khi đă đạt đến trạng thái Vô Ngă, ḷng người không c̣n bị xao động bởi các sự kiện bên ngoài, dù khắc khe, đau khổ đến đâu. Một sự an lạc tràn ngập thân ngài lôi cuốn những người chung quanh khiến họ khâm phục, kính mến và số người này mỗi ngày một đông. Một điều cần lưu ư là ngài không học hay đọc những sách vở ǵ về trạng thái Vô Ngă mà ngài đạt được lúc thanh xuân. Cũng không ai chỉ dẫn ngài về trạng thái siêu việt này. Nhưng mỗi khi tín đồ nhờ ngài giảng giải một đoạn kinh sách ǵ, ngài mới đọc và thông hiểu nó một cách dễ dàng. Các sách vở đó rất ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc lướt qua đă quán triệt được ngay, v́ ngài đă chứng nghiệm được những điều nói trong sách đó. Ngài dạy đạo bằng sự lặng thinh hơn là lời nói, nhiều người đến với ngài để chất vấn, nhưng khi vừa gặp ngài th́ mọi thắc mắc tự nhiên tiêu tan như đă được phúc đáp. Nếu một câu hỏi đặt ra, ngài thường trả lời một cách dịu dàng, vắn tắt, dễ hiểu. Ngài không viết sách như những đạo sư khác, mà chỉ dạy đạo qua cử chỉ yên lặng hay vài câu nói giản dị. Môn đệ của ngài đến từ khắp xứ và tùy theo căn cơ lănh hội ít hay nhiều. Ư kiến của họ vê ngài tuy khác nhau, nhưng ai cũng nh́n nhận ngài là một đạo sư vào bậc nhất, và hết sức kính mến ngài. V́ đă đạt trạng thái Vô Ngă, Ramakrishna không phân biệt giữa ngài và những người khác, giữa người giàu, kẻ nghèo, hay nam nữ, đối với ngài, tất cả đều b́nh đẳng tuyệt đối kể cả những loài cầm thú.
- V́ Ramakrishna không hề để lại sách vở, giáo lư, nên người Âu không hiểu tại sao ngài lại nổi tiếng như vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết một chút về giáo lư của ngài không ?
Mahayasa mỉm cười :
- Sau khi ngài qua đời, nhiều đệ tử đă xuất gia để truyền bá giáo lư, riêng tôi vẫn c̣n là cư sĩ, hàng ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa cơi đời, mà tôi không c̣n tùy thuộc vào đời. Tôi c̣n nhớ rơ một lần ngài đă dạy như sau, “chúng ta xông pha trong cuộc đời với ư niệm cho rằng ta có thể t́m hạnh phúc trong cơi đời. Cho đến lúc gần đất, xa trời, nhiều người cũng không buồn hỏi rằng ư niệm đó có đúng không ? Thật sự là chúng ta chả bao giờ chịu ngừng lại để suy nghĩ, lúc nào chúng ta cũng nghĩ rằng ḿnh gần đạt được những điều ḿnh mong mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào bị cuộc đời hắt hủi, giày ṿ. Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên, và giải thích bằng giấc mộng . Trong giấc mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích thú, chúng ta vẫn mơ mộng măi và chỉ giật ḿnh tỉnh giấc khi gặp những chuyện đau buồn. Một cuộc đời êm đẹp không tiện cho sự suy tư về các vấn đề quan trọng, nhưng nếu là mộng th́ chắc chắn cũng phải có lúc tỉnh. Trong nhiều năm ṛng ră, chúngta cố t́m hạnh phúc, và nhiều lần tưởng đă đạt được nó để hưởng một cách lâu bền. Nhưng lần nào ta cũng thất vọng. Sau đó, ta lại tiếp tục chạy theo ảo ảnh đó như trước. Nếu biết dừng chân suy nghĩ, ta sẽ thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng không hề biết đến bản chất thật sự của nó , và không biết phải dùng phương tiện nào để đạt nó. Hăy thử t́m hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng biết đặc tính của hạnh phúc là “thường hằng”, nghĩa là nó ở măi với ta; suốt đời ta lúc nào cũng vui sướng, tươi tắn. Nhưng tất cả những ǵ cuộc đời mang lại cho ta đều là vô thường, chỉ có những khoái cảm nhất thời, chứ có ǵ lâu bền đâu. V́ khoái cảm nhiều và đến với ta như ḍng nước chảy, chúng ta tưởng nó là hạnh phúc và kết luận rằng bao giờ ḍng khoái cảm đó c̣n tiếp tục đến với ta, chúng ta được hưởng hạnh phúc. Suy gẫm kỹ th́ khoái cảm chẳng qua chỉ là phản ứng của ḷng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng tạ Các sự vật này khi th́ tạo vui, lúc th́ gây khổ. Hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng “Hạnh phúc” không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ. Thật sự, người giàu có, lắm sự vật, chưa chắc đă hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của cải, chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm lại, chúng ta thấy rơ ràng ḿnh theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh phúc ?!! Những người t́m hiểu một cách chân thành sớm muộn ǵ cũng thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội tâm tạ Các khoái cảm không có tính cách tư hữu, mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con người ,bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương. Chúng ta cũng thế cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Có lẽ các ông khó chấp nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin rằng những nỗi vui hay buồn tùy ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận này cũng chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc, v́ có hai nỗi đe doa. : sự ham muốn và sợ hăi. Chúng ta càng ham muốn th́ càng sợ hăi, và càng sợ hăi lại càng đau khổ. Thay v́ diệt trừ những đe doa. này, chúng ta lại quỳ luỵ chúng . Khi ham muốn lên tiếng, “hăy đạt được vật đó đi, rồi sẽ sung sướng”, th́ chúng ta tin tưởng và t́m mọi cách đạt kỳ được vật đó. Nếu chúng ta không đạt được, th́ chúng ta đau khổ, mà nếu đạt được th́ ham muốn lại thúc dục ta t́m đến một vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không thấy ḿnh bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng, chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không ? Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự, phải vượt lên khỏi sợ hăi và ham muốn.
Đức Mahayasa im lặng như đắm ch́m vào một quá khứ rồi tiếp tục :
- Đến đây chúng ta cần được một vị thầy hướng dẫn thêm. Người này phải hiểu rơ hạnh phúc ở đâu, phải theo đường lối nào. Người này phải thắng được các đe doa. như sợ hăi, ham muốn, và thật sự đă đạt được niềm hạnh phúc vô biên; như vậy mới có đủ kinh nghiệm d́u dắt chúng tạ Như con bệnh phải đi t́m danh y th́ kẻ cầu đạo cần một vị thầy. Ramakrishna chính là vị thầy mà tôi gặp. Kinh sách xưa xác nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát khỏi khổ đau, nhưng ta không thể t́m nó bằng lư luận hay trong sách vở. Trong quá khứ, đă có những bậc đạo sư như đức Phật, đấng Christ đă t́m được hạnh phúc và hướng dẫn những kẻ khác. Sau khi các ngài tịch diệt, môn đệ có tŕnh bày giáo lư của các ngài trong kinh sách, nhưng dù sao đi nữa, kinh sách cũng có những khiếm khuyết, ngôn ngữ làm sao diễn tả hết được, làm sao bằng lời những vị đạo sư hăy c̣n sống bên cạnh chúng tạ Ramakrishna đă dạy rằng, nguyên nhân các đau khổ đều ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài. Có người hỏi thế giới chúng ta đang sống có điều ǵ xấu xa không? Th́ ngài đă trả lời rằng nó rất tốt đẹp, có xấu xa chăng là ḷng người, v́ con người đă hiểu sainó. Công việc của chúng ta hiện nay là phải đi ngược ḍng t́m cho ra sự sai lầm nguyên thuỷ để diệt trừ nó, th́ mọi việc sẽ tốt đẹp… Phát giác và trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ. Nhiều lắm là chúng giúp ta t́m ra phương thuốc nói trên. Đó là giá trị của các tôn giáo, các nghi lễ, tiếc thay tôn giáo hay gây sự chia rẽ, đôi khi c̣n làm cho tâm trí suy kém, cản trở bước tiến của tín đồ. Có người đă hỏi tại sao con người luôn luôn đau khổ, sợ hăi, th́ ngài trả lời rằng, sự kiện đó là do lầm lạc phát sinh, từ sự thiếu hiểu biết chính ḿnh. Có nhiều người, họ biết ḿnh rất rơ ràng, hoặc lại cho rằng điều này không cần thiết, v́ trong đời sống hàng ngày đầy rẫy những phức tạp, điểu ta cần khai thác là làm ǵ cho có lợi, kiếm được thật nhiều tiền. Để khai thác, con người gán cho kiến thức một giá trị quá mức, như bắt mọi người phải đến trựong. Từ xưa đến nay nhân loại thu thập biết bao kiến thức nào là sử kư, địa dư, thiên văn, vật lư, triết học và siêu h́nh học nữa… Nếu những kiến thức này là sự hiểu biết đứng đắn th́ nó phải đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự thật lại khác hẳn, chúng ta học cách chế ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược luật tạo hoá, khiến cho xă hội càng ngày càng đau khổ, bất măn thêm. Sự chế ngự này, con đẻ của khoa học chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số thôi. Do đó, lắm kẻ giàu sang sung sướng nhưng vẫn không sao hạnh phúc được trước khổ đau của đa số. Tóm lại, khoa học đă tạo cho con người nhiều khó khăn hơn là giải quyết các điều kiện căn bản của cuộc sống.
Đức Mahayasa nh́n mọi người trong phái đoàn, rồi tiếp tục :
- Đă có một giáo sư đại học hỏi Ramakrishna về bức tường vô minh mà khoa học không sao vượt qua được. Họ biết các vật vi tế như nguyên tử, điện tử nhưng đó cũng chỉ qua sự ức đoán mà thôi, không phải biết một cách trực tiếp. Họ cũng biết các vật vĩ đại như các dăy thiên hà nhưng cũng chỉ ngưng ở đây thôi. Ngài đă trả lời rằng, ngoại cảnh chỉ đưa con người tới chỗ vô minh mà thôi. Theo ngài, nếu nhân loại cố t́m ṭi những ǵ káhc hơn là bản chất con người th́ những kiến thức ấy không phải sự hiểu biết thật sự. Lời nói này có vẻ làm giảm giá trị của khoa học, nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta thấy ngài rất có lư. Sự hiểu biết về khoa học hiện nay c̣n nhiều điểm đáng nghị Các khoa học gia vẫn c̣n bất đồng ư kiến về một chuyện ǵ, th́ quần chúng đă lên tiếng ủng hộ, do đó những người bất đồng ư kiến cũng phải im, dù có thể họ rất có lư và số đông đă sai. Trong phạm vi khoa học, cũng như triết học và tôn giáo, ư kiến thựong sai biệt ít nhiều, tùy tâm trí nhà bác học. Sự t́m hiểu chân lư bắt buộc một học giả phải có những đức tính cao quư v́ tâm trí học giả có một ảnh hưởng to lớn trong sự t́m hiểu và sự hiểu biết chỉ có thể xem như một chánh kiến, khi người t́m kiếm có đủ tư cách. V́ thế khoa học đă vấp nhiều lỗi lầm khó sửa. Sự thất bại của khoa học phát sinh từ một lầm lỗi nguyên thuỷ là các bác học tưởng ḿnh đă biết, không cần sự tự biết ḿnh. Trong cả hai trường hợp, họ bắt đầu cuộc đi t́m với những thành kiến sai lầm về bản chất của họ. Do đó, những điều họ t́m ra dù có giá trị vẫn bắt đầu từ những sai lầm căn bản, hậu quả là khoa học ngày nay đă đưa nhân loại đến những hố thẳm, thay v́ chân trời sáng lạng. Một hôm có tín đồ đến hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà họ không thích. Họ muốn ngài chấp nhận ư kiến của họ là không nên thờ thượng đế dưới h́nh thức thần tượng.
Một người hỏi ngài :
- Thượng đế có sắc tướng không?.
Ngài đáp:
- “Ai nói rằng thượng đế có sắc tướng.
- “Nếu thượng đế không có sắc tướng th́ tại sao lại thờ ngài trong các h́nh tượng làm ǵ ?
- Chúng ta hăy để thượng đế sang một bên, và xin anh cho tôi biết anh có sắc tướng không ?
- Dĩ nhiên là có chứ, hăy nh́n thân thể này…
- Nhưng anh có phải cái xác thân đen xám, râu tóc xồm xoàm này không?
- Dĩ nhiên tôi là xác thân này chứ c̣n ǵ nữa.
- Trong lúc ngủ say, không mơ mộng, anh có phải là nó không?
- Có chứ, v́ khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi ǵ.
- Và rồi khi anh chết.
- Th́ tôi cũng c̣n là nó.
- Vậy th́ tại sao khi người ta hoa? thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi, và muốn ở lại nhà ?
Khi người này ư thức rằng ḿnh đă sai và đáp rằng :
- Tôi không phải là thể xác này, mà là sự sống trong nó.
- Anh hăy suy gẫm kỹ về điều này. Hồi năy anh nói rằng anh là thể xác này. Bây giờ anh lại nói rằng không phải. Cho ḿnh là xác thân này là một lỗi lầm nguyên thuỷ. Bao giờ sự sai lầm này c̣n, dù anh nói thượng đế có sắc tướng hay không cũng không ăn thua ǵ . Khi sự sai lầm này được đánh tan th́ mọi việc sẽ sáng tỏ.
Tóm lại, theo Ramakrishna th́ nguyên nhân của sợ hăi, dục vọng, ham muốn là do sai lầm đầu tiên, tự cho ḿnh là xác thân này, v́ sợ hăi hay ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ư như thế , và tin rằng con người không phải là thể xác mà là một sự sống trường cửu. Sách vở cũng nói như thế rất nhiều. Nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm ǵ khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu thập, hiểu biết các chân lư cao siêu họ sẽ khác người thường. Nhưng tại sao họ vẫn hành động y như họ là thể xác này vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng ḿnh bé nhỏ. Nếu xác thân họ to lớn, đẹp đẽ, họ cho rằng ḿnh lớn đẹp. Nếu xác thân họ Ốm đau, họ cho rang ḿnh bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng ḿnh thông minh….Tóm lại, sự sợ hăi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại c̣n gia tăng hơn v́ họ hănh diện về sự hiểu biết của ḿnh hơn xưa. Nói một cách khác, sở dĩ họ làm thế, v́ chưa chứng nghiệm được con người thật của ḿnh, sự sai lầm nguyên thuỷ vẫn c̣n tác động mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức của họ chưa tạo được một sự biến chuyển thật sự….
Ramakrishna đă dạy rằng, kiến thức về tâm linh thu thập qua sách vở thường tai hại hơn là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn quảng bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ, lại c̣n ngạo mạn, họ cho rằng ḿnh biết nhiều, hiểu nhiều, và không chịu t́m hiểu, thực hành đào sâu vào thêm nữa. Đó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở, chứ đâu phải là một chứng nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la-bàn hướng dẫn, chứ đâu phải minh triết thật sự. Sự thu thập kiến thức kiểu này, tạo nên t́nh trạng hỗn độn trong triết lư và thần học. Các triết gia và nhà thần học đă thảo luận không ngừng về những vấn đề khó khăn, như nguyên nhân đầu tiên, sự thật cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh con người, tự do, giải thoát, v..v… và chả đạt đến một kết quả nào. Các bậc hiền triết đứng bên ngoài cuộc thảo luận đó, v́ họ có lối giải quyết riêng , trái với các giải pháp trí thức. Thay v́ thảo luận, họ cố khám phá lấy sự thật, và khi t́m ra sự thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết.
Nói đến đây, đức Mahayasa lặng yên ch́m đắm trong một không khí êm đềm nào đó.
Giáo sư Evans-Wentz cố gắng :
- Nhưng con người không thể sống bằng đức tin, mà c̣n phải thỏa măn lư trí nữa, đối với những người thiên về lư trí, không biết ngài nghĩ sao ?
Mahayasa mỉm cười :
- Nếu thầy tôi Ramakrishna c̣n sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện.
- Tại sao như vậy ?
- Cầu nguyện là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào lư luận tỏ ra bất lực th́ sự cầu nguyện sẽ bổ sung , phù tŕ, cứu độ…
- Nhưng nếu tôi không thể cầu nguyện th́ phải làm sao ?
Đức Mahayasa nh́n giáo sư Wentz, ánh mắt ngài long lanh một niềm ưu ái :
- Ông nên tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn tâm hồn ông lên cơi thiêng liêng, và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của ông. Có lẻ ông cần một vị thầy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 286 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 1:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG SỰ KIỆN HUYỀN BÍ
Chương Sáu
Bác sĩ Kavir cho biết nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự kiện huyền bí, những phép thuật lạ lùng th́ phải đến gặp pháp sư Vishudha.
Vị pháp sư này có lệ không bao giờ tiếp khách, ngay cả những tín đồ thuần hành sùng kính nhất. Ông sống trong một căn nhà nhỏ với một vài đệ tử thân tín và rất ít khi nào ra ngoài. Các đệ tử cho biết thầy họ không bao giờ biểu diễn phép thuật dù ở nơi kín đáo, và không chịu cho phái đoàn vào. Bác sĩ Kavir mang hết tài dẫn dụ ngoại giao cũng như quyền lực hăm doa. nhưng họ vẫn khăng khăng. Sự hiện diện của một nhóm người Âu, gây nhiều chú ư của dân chúng và tín đồ hành hương, nên chỉ một lúc, một đám đông đă vây kín phái đoàn. Có lẽ tiếng động ồn ào này tạo sự chú ư của vị pháp sư nên ông ra lệnh cho đệ tử mời bác sĩ Kavir vào nói chuyện.
Một lát sau, Kavir bước ra nét mặt hân hoan :
- Đạo sư Vishudha không tiếp khách lạ, nhưng ngài đặc biệt tiếp phái đoàn như một ngoại lệ đấy.
Đó là một ông lăo to lớn, tóc bạc trắng như cước ngồi trên tấm bồ đoàn kết bằng cỏ, nét mặt ông lạnh như băng , và đôi mắt như nh́n vào khoảng không, như không thèm chú ư ǵ đến phái đoàn. Một đệ tử lên tiếng :
- Các ông đến đây với mục đích ǵ ?
Giáo sư Allen lên tiếng :
- Chúng tôi được biết đạo sư có các quyền năng phi thường. Mục đích chuyến đi này của chúng tôi, là nghiên cứu những sự kiện huyền bí, ghi nhận một cách khoa học những điều tai nghe, mắt thấy…
- Nếu đạo sư vui ḷng…
Vishudha nghe thông ngôn xong, mỉm cười yêu cầu giáo sư Oliver cho mượn một cái khăn tay và một cái kính lúp. Ông ta dơ chiếc kính lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu lên chiếc khăn tay và tuyên bố:
- Tôi sẽ thu hút các mùi hương trong không khí, các ông thích mùi ǵ?
- Tôi thích mùa hoa lài.
Visudha mỉm cười trao trả chiếc khăn cho giáo sư Oliver. Một mùi hương phảng phất khắp pḥng và ai cũng biết đó là mùi hoa lài. Mọi người quan sát kỹ chiếc khăn, nó không hề ướt hay có dấu hiệu ǵ rằng người ta đă nhỏ vào đó một chút dầu thơm. Như đoán được ư nghĩ mọi người, Vishudha yêu cầu giáo sư Mortimer đưa ra một chiếc khăn tay khác. Giáo sư Kavir thông dịch :
- Bây giờ các ông hăy chọn một mùi hoa ǵ đặc biệt của xứ các ông mà không hề có tại xứ Ấn độ.
- Được lắm, tôi muốn mùi hoa uất kim hương (tulip).
Visudha mỉm cười giơ chiếc kính lúp lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu vào chiếc khăn và lần này mùi hoa uất kim hương lại thơm nồng khắp pḥng. Phái đoàn vội vă yêu cầu những mùi hương lạ lùng và lần nào ông cũng làm họ hài ḷng. Thậm chí đến cả những mùi thuốc hoá học, những mùi a xít trong pḥng thí nghiệm, ông cũng có thể làm được. Mọi người quan sát kỹ xem ông ta có dấu ǵ dưới lớp áo choàng không. Vishudha mỉm cười vén cao tay áo để chứng tó ông không hề làm tṛ ảo thuật hay cất dấu hương liệu ǵ đặc biệt trong người.
Giáo sư Mortimer buột miệng :
- Xin ông giải thích việc này ?
Mọi người giật ḿnh v́ phong tục xứ Ấn, chất vấn một đạo sư là điều bất kính. Vishudha quay sang giáo sư Kavir nói vài lời, ông này thông dịch :
- Đó chỉ là môn khoa học gọi là Thái dương học. Ánh sáng mặt trời chứa đựng một năng lực rất mạnh, nếu biết chọn lựa và cô lập nó ta có thể tạo mọi vật theo ư muốn.
Giáo sư Mortimer giật ḿnh :
- Thái dương học, phải chăng nó là môn khoa học của dân Atlantic ?
- Đó là môn khoa học đă một thời thịnh hành tại châu Atlantic, nhưng không phả riêng của giống dân này.
- Như thế châu Atlantic là có thật…châu này đă ch́m xuống biển từ lâu và chỉ có Plato ghi nhận lại trong tập sách của ông…Chuyện này ra sao ?
Vishudha trầm ngâm :
- Tin hay không là tùy các ông. Người Âu lúc nào cũng đ̣i hỏi bằng chứng này nọ, nếu các ông muốn gọi nó là truyền thuyết cũng chẳng sao…. Khoa học nơi đâu cũng có nguồn gốc, khi tiến đến một tŕnh độ cao xa th́ thời gian hay không gian, đâu có nghĩa lư ǵ nữa. Khoa Thái dương học thật ra xuất xứ từ Tây Tạng ở một thời đại xa xôi, khi Ấn độ c̣n là một ḥn đảo và rặng Hy Mă Lạp Sơn c̣n là một bờ biển…nhưng điều này đâu có ích ǵ cho việc nghiên cứu của các ông ?
- Ông có thể làm ǵ với môn này ?
- Các ông c̣n muốn ǵ ? Như vậy chưa thoa? măn sao ?
Vishudha đứng dậy bước đến bên một chậu hoa gần đó. Mặc dầu chậu nở đầy hoa, nhưng trong đó cũng có một số hoa đă tàn. Vishudha dơ chiếc kính lúp chiếu lên các hoa này. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, những hoa khô héo bỗng trở nên tươi tốt, thơm thọ Mọi người nín thở, không ai nói nên lời. Vishudha dơ chiếc kính lên chiếu vào ḷng bàn tay ông. Một chùm nho tươi tốt bỗng xuất hiện. Nên biết Ấn độ là xứ nhiệt đới, không trồng được nho, hơn nữa lúc đó đang vào mùa đông, các cây nho bên Âu châu đều khô héo. Có được chùm nho tươi tốt là một việc vô lư, lạ lùng. Vishudha đưa chùm nho cho giáo sư Allen xem và thản nhiên tuyên bố :
- Đây là giống nho Pajouti chỉ mọc ở miền nam nước Ư, không hề được xuất cảng. Mùi của nó thơm nhưng vị hơi chát.
Mọi người xúm lại xem chùm nhọ Có người ngắt vài quả bỏ vào miệng ăn như sợ rằng đó chỉ là một ảo tưởng. Chờ mọi người ăn xong, Vishudha trịnh trọng : - Đây đâu phải lần đầu các ông thấy một sự lạ xuất hiện. Các ông đă nghe nói về chuyện này rồi đấy chứ. Các ông không nhớ chuyện đấng Christ hỏi thánh Phillip ở thành Galileo, “chúng ta sẽ mua bánh ḿ ở đâu?” Ngài biết rơ rằng bánh ḿ mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ngoài chợ. Ngài mượn dịp đó để chỉ cho các tín đồ rằng người ta có thể tạo ra bánh ḿ bằng sức mạnh của tinh thần. Thông thường mọi người chỉ nghĩ rằng ta có bao nhiêu bánh ḿ hay bao nhiêu tiền bạc và chỉ giới hạn trong một khuôn khổ nào đó thôi. Điều đức Jesus muốn nói là khi ta đă sống với tâm thức của Chân Ngă, th́ người ta không c̣n thiếu sót hay g̣ bó vào một giới hạn nào nữa. Ngài nh́n về thượng đế là nguồn gốc sáng tạo ra muôn loài, và tạ Ơn thượng đế đă luôn đặt vào tay loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thoa? măn tất cả nhu cầu của họ. Đức Jesus đă bẻ bánh ḿ và bảo tông đồ hăy phân phát cho mọi người .Khi tất cả ăn no rồi mà vẫn c̣n dư đến 10 rổ bánh. Cũng bằng cách đó mà Elisê đă làm cho người quả phụ thành Jerusalem có dầu ăn thừa thăi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có dư thừa dầu trong nhà, v́ như thế số dầu chỉ giới hạn mà thôi. Những câu chuyện trong Kinh thánh đă dạy ta điều ǵ ? Phải chăng các môn khoa học đời nay không thể giải thích vấn đề này? Phải chăng có kẻ cho đó chỉ là một chuyện thần thoại? Có lẽ các ông cho rằng những chuyện này được ghi chép từ lâu rồi nên có phần nào sai lạc đi ?
Mọi người trong phái đoàn giật ḿnh v́ câu hỏi bất ngờ. Kinh thánh đối với họ không phải quyển sách nào xa lạ. Phần lớn đều thuộc ḷng nhưng ít ai suy nghĩ căn kẽ về những sự kiện xảy ra trong đó. Vishudha mỉm cười nh́n từng người rồi tiếp tục :
- Đức Jesus đă dạy rằng trong thiên nhiên có chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể t́m lương thực của ḿnh trong đó. Chúng ta chỉ cần rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần dùng. Nhưng con người hèn nhát và thiếu đức tin đă không nghĩ rằng họ có thể thực hiện được những việc này. Nhu cầu phải chăng cũng là ư muốn sáng tạo ? Thay v́ vươn lên để thực hiện ư muốn, để sáng tạo th́ con người lại thu hẹp ḿnh lại. Nghĩ rằng ḿnh không thể làm được những việc đó. V́ thế con người càng ngày càng rời xa thượng đế. Đến nay con người tin rằng họ là một thực thể cách biệt với thượng đế. Họ đă đi lệch hẳn con đường toàn vẹn, bỏ lỡ cái mục đích cao đẹp. Họ đă không để thượng đế biểu lộ xuyên qua họ như ngài muốn. Chính đức Jesus đă nói rằng, “những ǵ mà ta làm được th́ các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi sẽ c̣n làm được những việc lớn lao hơn nữa.” Ngài muốn nói điều ǵ đây ? Phải chăng con người trong cương vị chân thật, chính là con của thượng đế? Sứ mạng đức Jesus trên thế gian chính là chứng tỏ rằng trong cương vị nào đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn toàn tốt đẹp như thượng đế. Khi ngài ra lệnh cho người mù hăy ra ao Siloe rửa mắt, phải chăng ngài đă chứng tỏ cho quần chúng biết rằng ngài được thượng đế gửi xuống để sáng tạo cũng như thượng đế vậy ?
Vishudha ngừng nói, đưa tay ra, một ổ bánh ḿ to lớn bỗng xuất hiện trên tay y từ hồi nào. Tất cả mọi người im lặng, nín thở không ai thốt nên lời. Sự kiện một đạo sư Ấn không nói ǵ về truyền thống, tôn giáo xứ này, mà lại nói về Kinh thánh như một vị mục sư làm mọi người kinh ngạc. Bỗng nhiên ổ bánh ḿ biến mất như bị thiêu huỷ. Vishudha mỉm cười thong thả : - Các ông đă thấy, tôi đă lạm dụng các định luật huyền bí giúp tôi thực hiện ư muốn. Tôi vừa đốt cháy đồ vật mà tôi tạo nên. Làm như thế tôi đă lạm dụng một điều luật bất di bất dịch của thiên nhiên. Nếu tôi tiếp tục làm thế th́ không những món đồ bị đốt cháy, mà chính kẻ sáng tạo là tôi cũng chịu chung số phận. Các ông đă ngửi mùi hương và việc tôi làm chậu hoa hồi sinh, cũng như chùm nho xuất hiện…. Tôi có thể sử dụng quyền năng này khi làm một việc có ích cho nhân loại , hoặc với một ḷng bác ái thanh cao v́ đó là hợp với luật vũ trụ, hợp với thiên ư. Trái lại, chỉ với một ư định xấu xa như khoe trương bản ngă, tôi sẽ đi lệch đường và chịu trách nhiệm về việc làm của ḿnh nghĩa là sẽ gặp ngay sự phản tác dụng về hành động của ḿnh. Tôi đốt cháy một vật th́ tôi cũng có thể cháy thành than tức khắc. Nếu con người phụng sự thượng đế, hành động đúng theo thiên ư, hợp luật trời th́ y đă bước chân vào cơi trời rộng mở c̣n ngược lại th́ y đang bước vào cánh cửa của địa ngục rồi đó… Vishudha nh́n thẳng vào mặt mọi người :
- Này các ông, những nhà thông thái, thế đă thỏa măn các mong ước, hiếu kỳ của các ông chưa? Nếu các ông c̣n mê man trong các cuộc khảo cứu, ghi nhận các hiện tượng lạ lùng mà khoa học chưa giải thích được th́ khắp thành phố này, có hàng trăm đạo sĩ, pháp sư có thể làm những chuyện đó. Điều đáng tiếc rằng rất ít người hiểu biết về cái hậu quả họ sẽ phải gánh chịu. Các ông muốn ghi nhận những phép thuật thần thông để làm ǵ ? Phải chăng các ông sẽ công bố cho mọi người Âu Mỹ biết hay sao? Như thế có ích lợi ǵ ? Liệu đă có mấy ai tin tưởng rằng những điều các ông nói không phải là một sự tưởng tượng ? Có thể họ sẽ lên án các ông là đằng khác. Có bao giờ các ông nghĩ rằng ḿnh đang làm một chuyện vô ích hay không ? Có lẽ các ông sẽ làm những phúc tŕnh về các hiện tượng lạ lùng nhưng rồi sẽ đi đến đâu? Cuộc đời đâu phải chỉ quan sát ghi nhận rồi làm những thống kê, có phải không ? Này các nhà thông thái, các ông đă khám phá thế nào là mục đích cuộc đời chưa ? Nếu các ông chưa tự hỏi mục đích cuộc đời ḿnh để làm ǵ th́ ghi nhận, nghiên cứu có ích lợi ǵ đâu ? Khi chưa t́m được giải đáp cho chính ḿnh th́ các phúc tŕnh, thống kể cũng vô ích thôi, có phải như thế không ?
Một sự im lặng bao trùm căn pḥng. Vishudha thong thả ngồi trên tấm bồ đoàn, không nói thêm điều ǵ nữa. Bác sĩ Kavir ra hiệu cho phái đoàn rút lui. Rời khỏi căn nhà đá, toàn thể mọi người đều xúc động, không ai nói lên một lời nào. Những sự kiện xảy ra đă làm đảo lộn mọi quan niệm thông thường về vật lư, hoá học… Đúng như nhà đạo sĩ đă nói, làm sao chứng minh một phép lạ đây ?
Làm sao có thể cho những người Âu đang bận rộn với mưu sinh tại New York hay London biết rằng ở phương Đông có những bí mật vô tận, những triết lư cao cả mà người Tây phương không thể hiểu. Tư tưởng Đông phương đă vượt xa, rất xa những tư tưởng tiến bộ nhất của Tây phương . Có lẽ các nhà hiền triết xứ này đă mỉm cười trước những ngông cuồng, hỗn tạp của cái gọi là khoa học tiến bộ. Câu hỏi của Vishudha khiến mọi người suy nghĩ rất nhiều. Lúc đầu, ai cũng mong ghi nhận những điều lạ lùng để nghiên cứu nhưng trước những sự kiện mà khoa học không thể giải thích, toàn thể mọi người đâm ra bối rối không biết phải làm ǵ.
Giáo sư Spalding nhớ lại câu nói của người Ấn thành Benares, “nếu các ông chỉ muốn nghiên cứu các hiện tượng thần thông, các quyền năng lạ lùng th́ hăy đến Rishikesh, các ông sẽ không thất vọng. Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn để có thể gặp các bậc chân sư th́ các ông cần một thời gian nữa”. Sự gặp gỡ các vị chân sư thánh triết có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với phái đoàn, nhưng tại sao phải chờ đợi thêm một thời gian nữa ? H́nh như có một nguyên nhân sâu xa nào đó mà phái đoàn không thể giải thích, mọi người linh cảm như đă có những sự xếp đặt huyền bí cho việc du khảo tại phương Đông này.
Harishchandra là một đạo sĩ ḍng tu Swami, thường đi khắp nơi, ít khi nào ở một chỗ. Lần này ông ghé thăm bác sĩ Kavir ít hôm, nên phái đoàn có cơ hội gặp gỡ. Ông trạc 60, thân h́nh cao lớn, có đôi mắt sáng ngời. Sau vài câu xă giao ông cho phái đoàn biết tuổi thật của ông đă quá 100, và tin rằng ông sẽ c̣n sống ít ra vài chục năm nữa.
- Tại sao ông nghĩ ḿnh sẽ sống lâu như thế ?
- Tại v́ lúc này khả năng sáng tạo của tôi rất mạnh. Tôi tin rằng với bộ Óc c̣n linh hoạt như một thanh niên, tôi có thể sống khá lâu nữa.
Bác sĩ Kavir mỉm cười tiếp lời :
- Harishchandra không những là một đạo sư Yoga mà c̣n là một nghệ sĩ. Ông ta có thể sử dụng tất cả nhạc khí cổ điển cũng như tân tiến, ông c̣n vẽ tranh, nặn tượng, làm thơ… Tóm lại, chả có bộ môn nghệ thuật nào mà ông ta không biết.
Bác sĩ Mortimer ṭ ṃ :
- Ông theo học ở đâu và làm sao có thể biết nhiều thứ như vậy ?
Hashichandra cười lớn :
- Bác sĩ Kavir nói không đúng đâu. Tôi chỉ biết chút đỉnh về vài bộ môn nghệ thuật. Tôi không hề được đi học nhưng Yoga đă giúp tôi…
Bác sĩ Mortimer hấp tấp :
- Ông muốn nói đến phương pháp khí công hay các tư thế ?
Đạo sĩ bật cười lớn :
- Không phải thế, tôi ư thức được sự sáng tạo trong một buổi thiền định, và từ đó tôi có thể làm được nhiều thứ. Đa số con người đều coi nghệ thuật như một phương tiện giải trí, họ sử dụng nghệ thuật như một cái ǵ giúp họ trốn thoát hoàn cảnh con người của họ. Nghe một bài ca, một câu hát họ quên đi các ưu phiền hiện tại… Đó không phải là sự thưỏong thức cái Chân, Thiện, Mỹ của nghệ thuật. Nghệ thuật mà tách khỏi cuộc sống th́ chỉ là một kỹ thuật phô diễn những cái ǵ hời hợt, các ước vọng nông cạn. Nguồn cảm hứng không phải mời gọi mà được, mà là một rung động tự nhiên. Tất cả cố gắng chiếm đoạt cảm hứng qua bất cứ một h́nh thức nào, chỉ là những ảo tưởng. Tài năng, thiên tư chỉ giúp ta nhận thấy bản ngă, giúp ta thỏa măn các ước vọng thấp hèn, và làm thui chột sự sáng tạo. Một nghệ sĩ chân chính là người thực sự vượt qua các hư ảo của bản ngă, của danh vọng và ư thức cái đẹp của nghệ thuật như một thực tại.
Nh́n thấy mọi người có vẻ ngơ ngác. Harishchandra mỉm cười giải thích:
- Nội tâm con người là một băi chiến trường luôn luôn có xung đột giữa các quan niệm , h́nh thức, lư thuyết, thực hành. Sự tranh chấp này thường gây lầm lỗi. Khi ta nghe một bản nhạc, thưởng thức một bức tranh ta rung động theo cảm nhận của tạ Rung cảm này mỗi cá nhân một khác, v́ nó dựa theo các quan niệm, thành kiến sẵn có. Nếu tôi thích nhạc Mozart, th́ tất cả các nhạc sĩ khác đều khó có thể so sánh với ông này. Dĩ nhiên người mê Beethoven không đồng ư như thế. Tóm lại, sự rung động của tôi đă có thành kiến, v́ như thế tôi mất đi nhạy cảm đối với sự sáng tạo. Một người nghệ sĩ sẽ trở nên một cái máy nếu y chỉ biết phục vụ cho bản ngă, làm việc để phô trương cá nhân, để thoa? măn dục vọng thay v́ để sáng tạo. Y chỉ biết “tôi viết”, “tôi soạn nhạc”, “tôi vẽ”, “tôi sáng tác”, v…v… Từ phút đó, y mất đi khả năng sáng tạo tuyệt vời mà chỉ c̣n là cái xác không hồn. Sự thành công, lời khen tặng, làm căng phồng bản ngă của y và làm lu mờ sự rung động với cái đẹp thật sự. Cái tinh thần ham lợi, háo danh đó không phải là tinh thần yêu cái đẹp, mà bắt nguồn từ sự khao khát dục vọng. Dục vọng đ̣i hỏi một sự bảo đảm an toàn, do đó người nghệ sĩ đâm ra sợ hăi. Từ đó, y xây một bức rào ngăn cách với mọi sự vật khác. Y không c̣n chiêm ngưỡng những cái đẹp nữa. Dĩ nhiên, cái đẹp vẫn c̣n đó nhưng ḷng y đă khô héo v́ thành kiến, và xu hướng biệt lập. Thay v́ nh́n sự vật như một thực tại, y lại nh́n nó qua một h́nh thức sưu tập, chiếm hữu biến nó thành một đồ vật. Người nghệ sĩ chân chính chỉ biết sáng tạo, chúng ta chỉ biết thưởng thức. Chúng ta đọc sách, nghe nhạc, ngắm các tác phẩm nghệ thuật nhưng chúng ta không hề có cái rung động sâu xa của người sáng tạo. Muốn ca hát ta cần có một bản nhạc, nhưng v́ không có bản nhạc tuyệt diệu, chúng ta đâm ra theo đuổi ca sĩ. Thiếu sự trung gian này, ta thấy mất mát. Trước một vẻ đẹp, ta lại có ư so sánh nó với một bức tranh; trước một âm thanh thiên nhiên ta lại chỉ tưởng tượng đến một bản nhạc nào đó. Ta chỉ c̣n biêt rung động qua sự rung động của kẻ khác. Đó không phải là sáng tạo.
Giáo sư Mortimer lắc đầu :
- Muốn sáng tạo, ta cần một tài năng, thiên tư chứ đâu phải ai cũng có thể sáng tạo, đâu phải ai cũng có tài…
Harishchandra lắc đầu :
- Không phải thế, ai cũng có thể sáng tạo mà không cần tài năng đặc biệt, v́ sự sáng tạo là trạng thái tuyệt vời của nghệ thuật. Không bị ảnh hưởng của bản ngă. Sáng tạo không có nghĩa là soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, nhưng là một trạng thái mà trong đó Sự Thật có thể biểu hiện. Sự Thật chỉ có thể biểu hiện khi tư tưởng ngưng đọng lại. Và tư tưởng chỉ ngưng đọng lại khi bản ngă vắng mặt. Khi tâm hồn hoàn toàn tĩnh lặng, không bị thôi thúc bởi dục vọng, khả năng sáng tạo sẽ tự biểu lộ. Khi “cái ta” không c̣n nữa, th́ tất cả là một sự hợp nhất thiêng liêng. Cái đẹp có thể được diễn tả trong một bài thơ, bản nhạc, nụ cười hay trong sự im lặng. Phần lớn con người không có khuynh hướng yên lặng. Chúng ta không có thời giờ quan sát đám mây trời, buổi hoàng hôn, một ngọn núi hùng vĩ, một bông hoa hé nở ,v́ đầu óc chúng ta quá bận rộn, quay cuồng. Mắt ta nh́n cảnh nhưng ḷng ta không rung động chút nào, v́ c̣n mải mê theo đuổi những ảo ảnh. Đôi khi ta cũng có cảm giác rung động khi nghe một bản nhạc hay, nhưng nếu ta cứ nghe đi, nghe lại bản nhạc đó để t́m lại cảm giác ban đầu th́ ta đă vô t́nh giết chết sự sáng tạo. Người nghệ sĩ chân chính là người mở rộng tấm ḷng để cảm hứng đến một cách tự nhiên, là người nh́n thấy Chân, Thiện, Mỹ ở khắp tất cả mọi nơi, chứ không phải qua khả năng hồi tưởng hoặc qua một chất kích thích. Người nghệ sĩ chân chính sáng tạo v́ ḷng yêu cái đẹp, chứ không phải v́ tác phẩm sẽ đem lại cho y tên tuổi, tiền bạc, địa vị. Làm thế là đồng hoá cá nhân ḿnh vào đối tượng. Bất cứ ai biết rung động trước cái đẹp đều là nghệ sĩ, đều là người sáng tạo v́ cái cảm giác chân thật, tuyệt vời đó chính là một sự “giác ngộ”, một sự hợp nhất. Cái cảm giác đó không thể tự tạo hay t́m được, mả nó đến và đi một cách tự nhiên…
- Phải chăng ông đă có kinh nghiệm đó ?
- Trong một buổi tham thiền, tôi ư thức được điều này, và từ đó tôi nh́n thấy cái đẹp ở bất cứ mọi nơi. Tôi sống trong tâm thức này và có thể sáng tạo mănh liệt qua bất cứ một phương diện hay h́nh thức nào… âm nhạc, hội hoạ, thơ phú, v…v….
- Ông có thể cho chúng tôi nghe một bài nhạc không ?
Harishchandra mỉm cười, rút trong áo ra một cây sáo trúc rất dài, y đưa sáo lên miệng nhưng rất lâu không một âm thanh nào phát ra. Giáo sư Mortimer sốt ruột :
- Chúng tôi không nghe thấy ǵ cả, ông có thổi sáo hay không đó ?
Đạo sĩ ung dung :
- Các ông chưa biết thưởng thức âm nhạc v́ ḷng các ông c̣n đầy thành kiến, hăy im lặng v́ âm thanh của tôi là sự b́nh an…
Giáo sư Mortimer toan căi, nhưng đạo sĩ đă đưa một ngón tay lên miệng làm hiệu để ông im lặng. Bất chợt giáo sư Mortimer rùng ḿnh, một âm thanh kỳ lạ Ở đâu bỗng phát ra. Một cảm giác b́nh an từ từ thấm nhẹ trong cơ thể và ông thấy ḿnh đắm ch́m trong một niềm hoan lạc khó tả, trong một thế giới lạ lùng của âm thanh. Âm thanh thật chậm, thật êm, nhỏ như tiếng gió th́ thào qua các ngọn cây, như tiếng nước róc rách qua khe suối. Thời gian như ngưng đọng lại.
Khi giáo sư Mortimer giật ḿnh tỉnh lại, th́ âm thanh đă chấm dứt từ lâu. Đạo sĩ vẫn ngồi yên khẻ mỉm cười, cây sáo trúc đặt trước mặt. Toàn thể phái đoàn ngây ngô nh́n nhau không nói nên lời. Giáo sư Mortimer lắc đầu thắc mắc :
- Âm thanh ǵ kỳ vậy ? Liệu ông có thể giải thích được không ?
Đạo sĩ mỉm cười :
- Các ông nên biết, con người có nhiều thể bao quanh xác thân như thể phách, thể vía, thể trí…Các thể này được cấu tạo bằng những nguyên tử rất nhẹ, rất thanh gần như vô h́nh. Âm nhạc tự nó đă có các rung động cùng nhịp với sự rung động của các thể, nên ảnh hưởng rất nhiều đến con người. Âm thanh vừa qua căn bản trên “phần tư âm” , có tác động lên thể trí các ông. Các loại âm thanh dựa trên “phần ba âm” tác động lên thể vía, và “phân nửa âm” tác động lên thể xác. Điều này cũng dễ hiểu thôi, v́ “phần tư âm” thanh hơn nên ảnh hưởng đến các thể nhẹ hơn. Con người chỉ biết tác động của âm nhạc ở cơi vật chất nhưng không hiểu ảnh hưởng của chúng ở các cơi trên. Âm nhạc lưu một dấu vết trên thân thể con người, và trực tiếp ảnh hưởng đến tính t́nh, hành động. Điều này có thể ví như khi ta ném một ḥn đá xuống ao. Khi ḥn đá ch́m nhưng làn sóng vẫn gợn, và lan rộng ra. Một cái lá nổi trên mặt nước chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Hậu quả của âm nhạc c̣n mạnh hơn như vậy. Do đó, việc chọn nhạc để nghe rất quan trọng. Kinh Veda đă nói, “vũ trụ tạo lập do sự phối hợp các âm thanh”. Thánh kinh cũng ghi nhận, “huyền âm xuất hiện trước nhất, và huyền âm ở với thượng đế, huyền âm là thượng đế.”
Phái đoàn nh́n nhau, một lần nữa tu sĩ Ấn giáo đă giải thích một đề tài mới lạ và trích dẫn Thánh kinh, quyển sách không xa lạ với người Âu.
Nhờ âm thanh mà các sinh vật thông cảm với nhau. Quyền năng này rất đơn giản ở loại thú cầm và dân dần trở nên phức tạp ở loài người. Từ ngôn ngữ đến tiếng hát thô sơ chỉ có vài bước và bước này tạo nên âm nhạc. Âm nhạc là một công thức tế nhị, kín đáo để truyền thông nhưng có một tác dụng cực mạnh, có thể làm thay đổi quốc gia, xă hội, truyền thống. Nó c̣n mạnh mẽ hơn các giáo điều, triết lư v́ nó ảnh hưởng đến các thể vô h́nh. Con người chỉ hiểu rằng khi nghe nhạc buồn lâu ngày, ta sẽ trở nên u sầu. Khi nghe nhạc vui ḷng ta thấy phấn khởi. Thật sự ḷng ta chỉ phản ảnh một cách vô thức những đổi thay trong các thể. Từ ngàn xưa , âm nhạc đă giữ một địa vị quan trọng và ảnh hưởng rất lớn từ vua chúa đến thứ dân. Các ông không thấy thời đại nào, âm nhạc càng thay đổi, biến chuyển nhiều th́ thuần phong, mỹ tục càng suy giảm, và xă hội càng đảo lộn hay sao ? Trái lại khi âm nhạc bị hạn chế th́ xă hội đâm ra bảo thủ. Các ông cho rằng âm nhạc là sản phẩm văn hoá, tiêu biểu cho từng thời kỳ. Điều này không đúng lắm v́ lịch sử cho thấy mỗi khi âm nhạc thay đổi là chính trị, văn hoá thay đổi theo sau. Âm nhạc có tính cách xây dựng cũng như huỷ hoại, chỉ có các âm thanh tinh vi do sự sáng tạo chân thành của ḷng vô ngă mới đưa ta trở về quê hương của linh hồn. Muốn sáng tạo các loại nhạc này con người cần phải để cho Chân Ngă sáng chói, cần trau dồi cho tâm hồn tĩnh lặng để hoà đồng với vũ trụ. V́ âm thanh của vũ trụ lúc nào cũng vang lừng cho những người thức tỉnh, người biết thưởng thúuc, biết yêu cái đẹp, biết nghe những huyền âm cao cả trong yên tĩnh vô biên. Hăy yên lặng, các ông sẽ học hỏi nhiều điều mới lạ. Hăy cố gắng nh́n mọi vật như một thực tại, các ông sẽ sáng tạo và khi sống trong tâm thức sáng tạo, các ông đều là những nghệ sĩ, những người biết yêu cái đẹp, biết rung động với Chân, Thiện, Mỹ.
Bác sĩ Bandyo, cựu giám đốc bệnh viện Calcutta, một giáo sư đại học nổi tiếng về khoa giải phẩu. Ông là một bác học Ấn độ đă được đề nghị trao giải thưởng Nobel về y học. Sau một biến cố, ông từ chức, lui về ẩn cư tại một làng nhỏ gần Rishikesh để săn sóc sức khoẻ cho dân chúng tại đây. Ông là người mà thương gia Keysmakers ca tụng và hết sức giới thiệu, nên phái đoàn t́m đến gặp.
Sau vài câu chuyện xă giao, giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Chúng tôi nghe nói ông đă từ chức trong trường hợp hết sức đặc biệt. Thương gia Keysmakers dặn chúng tôi nên hỏi ông về việc này. Xin ông vui ḷng cho biết lư do.
Bác sĩ Bandyo im lặng một lúc và trả lời :
- Đây là một câu chuyện đáng lư không bao giờ tôi nói cho ai biết, nhưng v́ có lời giới thiệu của Keysmakers, nên tôi sẵn sàng. Như các ông biết, tôi là một khoa học gia nổi tiếng, trọn đời hiến dâng cho khoa học. Tôi không biết ǵ về Yoga cũng như không hề tin tưởng các sự kiện vô h́nh, huyền bí, mà chỉ tin những ǵ khoa học có thể chứng minh một cách rơ ràng thôi. Là một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh tật miền nhiệt đới, tôi có thói quen là rất thích nghiên cứu các chứng bệnh lạ lùng, khó chữa. Tôi đă điều trị hơn 100 trường hợp lạ lùng mà bác sĩ khác đă bó taỵ Tôi ghi nhận rất kỹ triệu chứng bệnh lư cũng như phương pháp chữa trị và viết vài tài liệu y học để giảng dạy trong các trường y khoa thế giới . Tôi đă nhiều lần đi diễn thuyết về bệnh miền nhiệt đới, và được đề nghị trao giải thưởng Nobel. Dĩ nhiên đó là một vinh dự lớn cho cá nhân tôi và xứ Ấn độ. Một hôm, người ta đưa vào bệnh viện một cô bé chừng mười ba, mười bốn tuổi ǵ đó. Cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ lùng, chưa từng nghe nói đến. Tôi rất thích thú, dành trọn thời gian nghiên cứu căn bệnh này. Một hội đồng Y khoa gồm các bác sĩ danh tiếng nhất được thành lập để nghiên cứu, suốt mấy tháng liền, chúng tôi ra công chữa trị, nhưng bệnh nhân vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng th́ mọi người đành bótaỵ Tôi tuyệt vọng ngồi cạnh bệnh nhân, chờ em bé trút hơi thở cuối cùng. Chưa bao giờ tôi thấy ḿnh bất lực trước sự sống chết vô thường như vậy. Bất chợt trong giây phút đó, tôi bỗng ư thức một điều lạ lùng là sự hiện diện của một bầu không khí tươi mát và êm ái không thể tả. Khắp pḥng bỗng rực rỡ một màu sắc chói sáng và tôi thấy một người đàn bà hiện ra ngay bên cạnh giường cô bé. Thân thể ngài sáng chói hào quang như ḍng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời. Trong giây phút đó, tôi bỗng nhận thức ra ngài là đức Mẹ thế gian. Ngài mang nhiều danh hiệu khác nhau như đức mẹ Maria của Thiên chúa giáo, đức Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo, đức Avalokiteshvara của Ấn giáo. Ngài thuộc ngôi hai của thượng đế và biểu hiệu cho ḷng Từ bi, bác ái, luôn luôn đáp lại những lời cầu sinh của chúng sanh. Trong giây phút, ḷng tôi bỗng hoàn toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất mặc dù suốt đời tôi chưa bao giờ biết cầu nguyện là ǵ. Tôi cầu xin với tất cả ḷng thành kính, xin Mẹ cứu chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn vinh hoạt động của Mẹ và theo ngài vĩnh viễn.
Bác sĩ Bandyo im lặng như ôn lại quá khứ. Giáo sư Mortimer sốt ruột :
- Rồi sao nữa, cô bé đó ra sao ?
- Các bạn mến, c̣n sao nữa, khi đức Mẹ hành động th́ có bệnh ǵ mà không khỏi. Ngày hôm sau, cả bệnh viện xôn xao v́ tôi đă chữa khỏi bệnh cho cô bé. Tất cả bạn hữu xúm vào trách tôi đă t́m ra cách chữa, nhưng dấu kỹ, chờ mọi người bó tay rồi mới trổ tài. Trường Y khoa yêu cầu tôi công bố phương pháp chữa trị, và đ̣i đặt tên tôi vào căn bệnh đó. Họ tin rằng với phát minh này, chắc chắn giải Nobel sẽ về tay tôi. Các công ty thuốc cũng ồn ào đ̣i tôi công bố loại thần dược. Chẳng những công ty xứ Ấn, mà ngay các công ty ngoại quốc cũng nhất định đ̣i mua trọn bản quyền. Dĩ nhiên tôi không thể trả lời và dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng Y khoa cực kỳ giận dữ, tin rằng tôi dấu nghề, các bạn thân cũng nhất định chất vấn kỳ được phương pháp chữa trị, và kịch liệt công kích thái độ bất hợp tác của tôi. Bộ trưởng Y tế tiếp xúc với tôi, và cho biết có mười bác sĩ khắp thế giới được đề nghị lănh giải Nobel. Nhưng chỉ một người trúng giải, nếu phát minh của tôi được công bố th́ chắc chắn tôi sẽ lănh giải này. Tôi trả lời rằng chính đức Mẹ hiện ra, và chữa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng, giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác sĩ quốc gia khác. Hội đồng Y khoa Ấn độ vô cùng tức giận đ̣i trục xuất tôi. Các bạn đồng nghiệp cũng xa lánh và báo chí xúm vào chỉ trích tôi như một “thầy phù thuỷ”. Các ông thử tưởng tượng, đang là một bác sĩ danh giá nhất xứ, bỗng trở nên một “lang băm hạ cấp” ? Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường .Tôi không biết phải làm ǵ hơn là cầu nguyện đức Mẹ, giúp cho tôi đủ can đảm để chịu đựng sự bất hạnh này. Tất cả mọi người đều nguyền rủa, chế diễu, chỉ có một người duy nhất tin ở tôi , đó là thương gia Keysmakers. Ông này dùng thế lực bênh vực cho tôi, áp lực Hội đồng Y khoa phải phục hồi danh dự cho một bác sĩ bị vu cáo oan ức. Nhờ ông tung tiền mua chuộc báo chí nên dư luận lắng dịu dần và rồi người ta không c̣n chú ư đến tôi nữa. Trong suốt thời gian khủng hoảng, tôi tin rằng sự kiện này ắt phải có lư do, nên hết ḷng cầu nguyện đức Mẹ. Trong một buổi cầu nguyện, câu trả lời đă đến với tôi qua một linh ảnh. Trong một tiền kiếp xa xôi, tôi là một y sĩ rất có tài nhưng tôi đă phủ nhận các quyền năng huyền bí và chê bai những kẻ có đức tin hay cầu nguyện đức Mẹ, đó là hậu quả mà tôi phải trả ngày nay… Kể từ hôm nh́n thấy đức Mẹ, một sự thay đổi lớn đă diễn ra trong tâm hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết đến tôn giáo. Tôi hấp thụ nền giáo dục Tây phương nên tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Sự chứng kiến phép lạ thay đổi tất cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn toàn khác trước, tôi thấy thanh thản vô cùng và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn thời giờ để cầu nguyện và phát nguyện đời đời, kiếp kiếp theo chân đức Mẹ, cứu giúp tất cả chúng sanh . Một hôm trong lúc cầu nguyện, ngài bỗng hiện ra mỉm cười, và từ đó tôi thấy ḿnh ngụp lặn trong một thế giới mới lạ. Tôi ư thức được các điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng kiến rơ ràng các cơi giới khác cũng như sự hoạt động, tiến hoá không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản dị hơn, khả năng Thần nhăn của tôi bỗng khai mở. Từ đó, tôi quan sát, học hỏi các cơi giới của Thiên thần. Diễn tả cơi giới vô h́nh bằng lời lẽ thông thường, không thêm bớt là điều rất khó v́ lời nói chỉ có thể diễn tả những ǵ hữu h́nh. Diễn tả những điều không thể diễn tả, dĩ nhiên rất vụng về, nhưng bác sĩ Bandyo đă lưu loát, hoạt bát diễn tả thế giới này như một sự kiện khoa học và hiển nhiên.
Bác sĩ Bandyo nh́n toàn thể mọi người, rồi thản nhiên :
- Có lẽ các bạn không tin tưởng lắm, điều này không quan trọng. Tin hay không là quyền của các bạn. Tôi chỉ muốn chia sẽ với các bạn kinh nghiệm tâm linh này thôi. Nhờ khai mở Thần nhăn, tôi biết chung quanh chúng ta có một thế giới vô h́nh, rộng lớn và có những sinh vật khác sinh sống. Sở dĩ tôi gọi là vô h́nh v́ mắt thường không thể nh́n thấy được, nhưng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh được thế giới này. Các sinh vật vô h́nh thường được chúng ta gọi bằng danh từ như Ma, Quỷ, Tinh linh (entities), v…v… V́ không có một kiến thức rơ rệt về các sinh vật này, chúng ta đă gán ghép cho chúng nhiều điều không đúng. Thật ra, các sinh vật này cũng có thứ xấu, thứ tốt, cũng như loài người vậy. Một trong các sinh vật này hợp tác chặt chẽ với đức Mẹ trong các công việc của ngài. Danh từ đứng đắn nhất có lẽ là Thiên thần (Deva). Có nhiều loại Thiên thần, mỗi loại phụ trách một công việc riêng. V́ lư do nghề nghiệp, tôi thường tiếp xúc với các Thiên thần chăm lo sức khoẻ. Tôi xin thuật lại thế giới này cho các bạn… Các thiên thần lo về sức khoẻ thường liên lạc chặt chẽ với những người có trách nhiệm trong việc chăm sóc, chữa bệnh. Điển h́nh là các bác sĩ, ư tá. Một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, làm việc để giúp đỡ người khác, luôn luôn được một vị thiên thần hộ mạng. Vị này thường theo dơi, bao trùm chung quanh y sĩ bằng một hào quang sáng rơ và tác động vào trực giác ông này khi điều trị bệnh nhân. Vị thiên thần trấn tĩnh y sĩ và không ngớt phóng ra các hào quang mịn màng như tơ để chuyển sinh khí đến người bệnh. Công việc của vị thiên thần h́nh như dung hoà, pha trộn các sinh lực vô h́nh trong cơi siêu nhiên và sử dụng tư tưởng biến nó thành các sợi tơ ánh sáng tuôn trào vào bệnh nhân. Một bác sĩ tận tâm sẽ có các rung động cộng hưởng với ảnh hưởng này một cách vô h́nh, tự nhiên thu hút các từ điện tinh vi này vào ḿnh, để nó toát ra ở mười đầu ngón tay, và có thể hàn gắn vết thương một cách dễ dàng, mầu nhiệm. Người ta không thể giải thích tại sao một bác sĩ này lại giỏi hơn một bác sĩ kia, mặc dù họ cùng hấp thụ một nền giáo dục như nhau ? Và một bác sĩ giỏi, ta gọi là bác sĩ “mát tay”, nhưng thật ra đó là do tư tưởng vị y sĩ thanh cao, rung động với các luồng thần lực vũ trụ và trở thành một trung tâm vận hà các sinh lực này đến bệnh nhân. Mặc dù y học tự hào đă chữa được nhiều thứ bệnh, nhưng thực ra trên địa hạt siêu h́nh c̣n nhiều vấn đề mà y học phải bó taỵ Một bác sĩ có thể ví như một công cụ của thượng đế cứu giúp chúng sinh; nhưng nếu viên y sĩ không ư thức điều này mà làm các hành động bất nhân th́ y sẽ chịu các hậu quả rất nặng. Lẽ dĩ nhiên, ân phước dồi dào không thể đến với ông, và v́ thế các ảnh hưởng bất hảo sẽ kéo đến ảnh hưởng đến đời sống, chức nghiệp, khả năng của vị này. Nhờ có Thần nhăn, tôi thấy các bác sĩ chuyên phá thai chẳng hạn, lúc nào quanh ông ta cũng có các oan hồn bu kín. Một bác sĩ bất cẩn cũng thế, ông đă lạm dụng quyền năng thượng đế ban cho, làm thương tổn đến bệnh nhân th́ chắc chắn sẽ gặp những điều vô cùng bất hạnh. Từ ngàn xưa, người ta đă biết điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates, đến nay không mấy ai để ư đến chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả những nghề nghiệp thông thường khác, không ư thức chức vụ thiêng liêng của ḿnh. Là một bác sĩ chuyên về giải phẩu, tôi có thể lấy kinh nghiệm của ḿnh ra nói : trong cuộc giải phẩu, mạng sống của bệnh nhân hoàn toàn nằm trong tay viên y sĩ, và các thiên thần hộ mạng. Một sơ ư, bất cẩn cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc hành nghề y sĩ là một bổn phận, chức vụ thiêng liêng, đ̣i hỏi một lương tâm, một ḷng bác ái và hy sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông thường.
- Xin ông nói thêm về thế giới thiên thần, ông đă thấy những ǵ ?
- V́ nghề nghiệp, tôi thường quan sát các hoạt động của thiên thần trong bệnh viện, thí dụ như pḥng hộ sinh, nơi các sản phụ chờ giây phút lâm bồn. Nơi đây có một không khí b́nh an, mát mẻ do các thiên thần tạo ra để chào đón linh hồn nhập thế. Đối với cơi vô h́nh, giờ phút này có tính cách vô cùng trang nghiêm, như một cuộc lễ. Vị thiên thần bao trùm y sĩ, y tá trong hào quang và không ngớt di chuyển sinh khí đến người mẹ để giúp bà trong lúc đau đớn. Mọi nghi thức diễn ra thật chính xác, rơ ràng cho đến khi đứa bé lọt ḷng. Khi linh hồn tái sinh, nó có cảm giác bỡ ngỡ như người mê mới tỉnh, linh hồn thấy ngộp thở, tối tăm, nặng nề. Nó cần được trấn an nên khi tiếng khóc chào đời vừa phát ra th́ trong cơi vô h́nh, một ảnh hưởng thanh thoát cũng rung động vào tâm thức đứa bé khiến nó b́nh tĩnh hơn. Vị thiên thần trông coi buổi lễ có một khuôn mặt uy nghi, tâm thức vị này luôn luôn liên kết chặt chẽ với trái tim đức Mẹ. Một niềm ưu ái đối với sản phụ tỏa ra từ khuôn mặt của vị thiên thần, và chuyển cho sản phụ dưới h́nh thức một ân huệ để tán dương chức vụ sinh sản cao cả của bà. Lúc đó, tâm thức sản phụ được nâng lên cao hào với ân phước đức Mẹ …
Bác sĩ Bandyo ngưng nói một lúc, rồi thong thả tiếp :
- Các ông đều thuộc phái nam, nên không thể hiểu tâm trạng người mẹ lúc sinh con. Dù hoàn cảnh có khó khăn, đau đớn thế nào, khi vừa nghe con khóc, tất cả người mẹ nào cũng thấy sung sướng vô biên v́ khi đó tâm thức họ đang hoà hợp với ân phước đức Mẹ. Trong tim họ đang phản chiếu sự hiện diện linh động của ngài, chói ngời ḷng bác ái, thương yêu vô tả. Vào giờ phút đó, chính vị thiên thần trông coi buổi lễ cũng nhận được một luồng hào quang. Trong ánh sáng đó, người ta thấy một cái ǵ vinh quang, tươi đẹp, một nguồn an lạc tuyệt vời, tuôn trào đến sản phụ và hài nhi. Khi đó vị thiên thần hộ mạng bắt đầu làm công việc giúp đỡ đứa bé, giúp nó điều hoà sự sống đang bị xáo trộn. Ngài phát ra các từ điện bao quanh đứa nhỏ, giống như các bọt xà pḥng để bảo vệ nó chống lại sự ồn ào bên ngoài. Nhờ đó, đứa bé sẽ thiếp đi trong giây lát, lúc đó vị thiên thần chú tâm điều hoà tâm thức đứa nhỏ để nó thích hợp với hoàn cảnh mới.
Bác sĩ Bandyo im lặng như đắm ch́m vào một tư tưởng nào đó, sau cùng ông nói :
- Đối với một đứa bé vừa ra đời, khoa học chỉ lo cho chúng ăn uống, dinh dưỡng đầy đủ mà thôi, chứ không hiểu chúng cần một yếu tố vô cùng quan trọng đó là t́nh thương. Khi thể xác được chăm sóc thế nào th́ các thể khác cũng phải được chăm lo y như vậy; và món ăn cần thiết của các thể này là t́nh thương. Thiếu t́nh thương, đứa trẻ khó ḷng sống sót v́ nhu cầu t́nh cảm đôi lúc c̣n quan trọng hơn các nhu cầu khác. T́nh thương là một yếu tố dinh dưỡng cần thiết để trẻ em nẩy nở tâm lư, tinh thần và chính v́ cha mẹ không lo đủ nhu cầu này, mà các đứa trẻ chậm lớn, thiếu phát triển. Các bệnh tâm lư, thần kinh đều trực tiếp phát nguồn từ đây. Lư do này cũng giản dị thôi, đứa bé h́nh dung vũ trụ theo lối cư xử của cha mẹ đối với nó. Tùy theo nó được yêu hay ghét mà cuộc đời hiện ra đáng ghét hay đáng yêu. Từ lúc sơ sinh, nó nhận được tiềm lực yêu thương từ đức Mẹ, và nếu được yêu thương, năng lực này sẽ phát động mạnh mẽ và nó sẽ trở thành một trung tâm ban răi t́nh thương. Trái lại, nếu nó bị hất hủi, nó sẽ trở nên hung hăn v́ mầm yêu thương đă bị dập tắt rồi. Bổn phận làm cha mẹ là một điều vô cùng thiêng liêng, một trách nhiệm vô cùng quan trọng hơn là việc chỉ lo cho nó đủ ăn, đủ mặc. T́nh thương là một năng lực sáng tạo khiến người thương và kẻ được thương trở nên phong phú. Trên thế gian này, t́nh thương là một thứ mà ai cũng có thể cho mà không sợ phung phí. Một t́nh thương chân thật có giá trị giao hoà, không ǵ có thể thay thế được. Nó không bao giờ gây hư hại, mà chỉ tạo ảnh hưởng tốt lành. T́nh thương là một sinh lực có thể chữa trị tất cả mọi bệnh tật và đây là điều khoa học cần chú trọng đến.
Bác sĩ Bandyo dẫn chứng :
- Sách “Journal of Medecine” có đề cập đến cuộc nghiên cứu của bác sĩ René Spitz, thuộc đại học New York. Hai nhóm trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng khác nhau. Nhóm thứ nhất được nuôi dưỡng bởi chính cha mẹ chúng; nhóm thứ hai được giao cho các cô y tá. Tất cả đều được nuôi nấng, ăn uống như nhau chỉ khác ở sự yêu thương. Chỉ vài tháng, nhóm trẻ thứ nhất phát triển mạnh mẽ, lên cân, khoẻ mạnh, trong khi nhóm thứ hai chậm ăn, chậm lớn và đau ốm lung tung. Bác sĩ Spitz kết luận rằng trẻ con cần t́nh thương để có thể phát triển b́nh thường . Khoa học thực nghiệm đă chứng minh như thế, nhưng bậc làm cha mẹ đâu mấy ai dành nhiều thời giờ cho các con ? Họ chỉ lo cho chúng ăn mặc đầy đủ là cảm thấy làm tṛn bổn phận rồi. Cũng v́ thế, xă hội Âu Mỹ tuy vật chất đầy đủ, nền giáo dục rất cao mà lại phát sinh đủ các hiện tượng tội ác, thần kinh, vi phạm luật pháp một cách kỳ dị khác các xứ chậm tiến. Tại sao những nhà thông thái không đặt câu hỏi, phải chăng bậc cha mẹ đă không dành đủ thời giờ cho con trẻ để chúng phát triển b́nh thường?
Phái đoàn im lặng. Họ thấy bác sĩ Bandyo quả rất có lư trong vấn đề này. Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Hăy trở lại vấn đề các thiên thần, họ c̣n ảnh hưởng ǵ đến đời sống con người nữa không ?
- Các thiên thần ít khi nào can thiệp vào đời sống con người. Thật ra, họ vô cùng bận rộn với các sinh hoạt riêng biệt. Thế giới của họ cấu tạo bằng các nguyên tử thanh, nhẹ, có sức rung động rất nhanh, nên họ không thích dính dáng vào thế giới hữu h́nh, vốn có những rung động thô kệch. Điều này có thể ví như các ông đang sống ở một nơi mát mẻ, sạch sẽ, không lư nào lại chui vào chỗ hôi hám, nóng bức làm ǵ.
Giáo sư Allen ṭ ṃ :
- Ông có thể sử dụng khả năng thần nhăn vào các việc khác như thế giới bên kia cửa tử được không ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng chết không phải là hết, mà chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có ǵ đáng sợ như người ta vẫn nghĩ.
- Như thế người chết có thấy chúng ta không ?
- Họ nh́n thấy chúng ta qua thể vía mà thôi. Do đó, họ biết được t́nh cảm hoặc ư nghĩ, cảm xúc của ta mặc dù họ không c̣n nghe được lời nói, âm thanh cơi trần nữa.
- Như vậy họ vẫn ở gần người sống ?
- Lúc mới từ trần, c̣n quyến luyến, họ vẫn ở nguyên chốn cũ, gần nhà cửa, gia đ́nh, những người thân. Theo thời gian, họ ư thức được cơi giới mới rồi siêu thoát, nghĩa là hoà nhập với cơi giới mới, không quanh quẩn ở cơi trần nữa. Sự quyến luyến rất có hại cho người chết, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử. Họ c̣n nhiều dục vọng, ham muốn, nên cứ quanh quẩn ở cơi trần, không chịu đi đâu hết.
- Số phận trẻ em khi chết ra sao ?
- Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi, tự tại hơn. Lúc đầu chúng vẫn quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ, và không ư thức sự chết của ḿnh. Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đ́nh cũ v́ các nhân duyên từ trước. Thí dụ như một bà mẹ xẩy thai do sự bất cẩn của bác sĩ chẳng hạn. Đứa bé vẫn tiếp tục quanh quẩn bên mẹ chúng và sẽ đầu thai trở lại khi có dịp. Trong trường hợp phá thai lại khác, đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét chúng và làm hại nó như thế ? Nó quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và t́m cách hỏi mẹ chúng nhưng dĩ nhiên không t́m được câu trả lời.
- Người Á châu thường tin rằng các vong linh thân nhân có thể giúp đỡ người sống và có các quyền năng đặc biệt, v́ vậy, có tục lệ thờ cúng tổ tiên. Theo ông th́ điều này ra sao ?
Bác sĩ Bandyo cười lớn :
- Theo sự hiểu biết của tôi, con người khi sống ra sao th́ chết cũng thế thôi. Không có ǵ thay đổi hết! Họ không thông minh hơn, hiểu biết hơn. Hơn nữa, âm dương cách trở, họ khó có thể giúp ǵ cho người cơi trần. Dĩ nhiên, họ rất muốn tiếp xúc với thân nhân c̣n sống, nhưng người sống đâu ư thức ǵ đến sự hiện diện của họ. Đó cũng là lư do người chết rất đau khổ. Hơn nữa, người chết đọc được tư tưởng người sống qua thể vía và đôi lúc biết rơ sự thật c̣n làm họ đau khổ hơn nữa. Thử tưởng tượng cha mẹ đọc được tư tưởng đứa con mừng rỡ khi cha mẹ chết v́ được hưởng gia tài. Người chồng mừng rỡ v́ vợ chết rồi, từ nay tha hồ tự do, muốn làm ǵ th́ làm. Người chồng thấy vợ mừng chồng chết v́ đă trút được gánh nặng. Các ông nên biết, người đau khổ nhiều, phần lớn là người chết, chứ không phải người sống. Do đó, họ cần được an ủi, chỉ dẫn.
- Nhưng làm sao an ủi họ được ? Ông vừa nói âm dương cách trở kia mà ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Có nhiều cách giúp đỡ người chết, một cách tiêu cực và một cách tích cực. Đối với thân nhân người chết, họ có thể làm một cách tích cực như giúp cho người chết thấy thoải mái, nhẹ nhàng để họ mau siêu thoát. Việc thứ nhất nên tránh than khóc, kêu gào, để người chết khỏi xúc động, thương tiếc, và quyến luyến, khó rời cơi trần được. Việc thứ hai là tránh cỗ bàn, mổ gà, làm thịt v́ như thế chỉ kêu gọi các vong linh bất hảo, các cô hồn đói khát kéo đến đầy nhà gây ảnh hưởng xấu đến người chết. Nên cầu nguyện trong suốt 49 ngày liền, v́ đây là lúc người chết đang ở trong trạng thái quan trọng, sự cầu nguyện khiến đầu óc họ trở nên sáng suốt, hiểu biết dễ siêu thoát. Nên thiêu xác thay v́ chôn cất, để người chết không thấy đau khổ khi nh́n thể xác ḿnh hư thúi, bị ḍi bọ đục khoét. Khi không c̣n lưu luyến thể xác, họ sẽ dễ siêu thoát hơn. Tại Ấn độ, tất cả người chết đều được hỏa táng, đó là phong tục rất tốt, v́ không c̣n các vong hồn quanh quẩn các nghĩa địa nữa. Việc tích cực giúp đỡ thường do các tu sĩ đảm trách. Họ xuất vía sang cơi chết để an ủi, hướng dẫn vong linh. Tu sĩ đảm nhiệm việc này phải phát nguyện phụng sự hoàn toàn, phải trải qua một thời gian huấn luyện để giữ tâm trí luôn sáng suốt, v́ cơi chết có nhiều cảnh ghê rợn với các sinh vật lạ lùng, một người thiếu kiến thức, hiểu biết, có thể kinh hoàng ghê sợ. Chỉ khi nào có thể tự chủ hoàn toàn, không bị ảnh hưởng bên ngoài làm giao động, tâm hồn luôn yên tĩnh không lo âu, sợ sệt và có một t́nh thương hoàn toàn rộng răi đến tất cả, không c̣n phân biệt, th́ sự giúp đỡ mới kín đáo, vô tư và có hiệu quả. Các ông nên nhớ, qua cơi này, sinh vật có thể đọc được tư tưởng lẫn nhau nên một lời nói không chân thật, tinh khiết có thể mang đến hậu quả không thể lường được.
- Tại sao ông biết rơ như thế ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Tại v́ tôi đang được huấn luyện để làm việc này. Sự khai mở thần nhăn giúp tôi thu thập kiến thức về cơi giới vô h́nh. Từ đó, tôi nhận thức sứ mạng đức Mẹ đă giao cho tôi. Tôi đă phát nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên ư. Đó là lư do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng của đô thị để đến đây. Ban ngày, tôi là một bác sĩ chăm lo săn sóc những người bệnh. Thời giờ c̣n lại tôi phục vụ đức Mẹ qua các công việc ngài giao phó. Các bạn thân mến, trọn cuộc đời, chưa lúc nào tôi sống thật trọn vẹn như bây giờ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 287 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 5:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
VỊ ĐẠO SĨ CÓ THỂ CHỮA
MỌI THỨ BỆNH
Chương Bảy
Ram Gopal Mukundar là một đạo sĩ nổi tiếng có thể chữa trị mọi bệnh tật. Ông thành lập một đạo viện (Ashram) ở ngoại ô Rishikesh và có khá đông môn đệ.
Qua sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng ḷng tiếp xúc với phái đoàn. Ram Gopal có một thân thể cực kỳ tráng kiện trông như một lực sĩ, bước đi của ông vững chăi và uyển chuyển như một mănh hổ. Giọng nói của ông hùng tráng như một tiếng cồng. Hàng ngày, ông dành riêng một thời gian để tiếp xúc với bệnh nhân. Ông yêu cầu phái đoàn ngồi đó xem ông trị bệnh. Bệnh nhân gồm đủ hạng người, từ các bậc thượng lưu, quư phái ngồi trên kiệu đến các loại b́nh dân nghèo đói, lê lết. Họ mang đủ thứ bệnh từ các loại bất trị như ung thư, cùi hủi đến các chứng đau tim, phong thấp, tiểu đường, v..v.. Một bệnh nhân ăn mặc sang trọng, khuôn mặt tái nhợt cho biết y là một phú ông giàu có tại Madras, bị đau tim đă đến thời kỳ trầm trọng. Bác sĩ cho biết nếu lên cơn một lần nữa chắc chắn y không thể sống.
Ram Gopal yên lặng nghe bệnh nhân kể lể rồi cho biết :
- Hơi thở của ông bị đứt quăng nhiều, tôi nghĩ cơn đau tim sẽ tái phát trong một thời gian không lâu nữa.
Bệnh nhân xanh mặt quỳ mọp xin cứu mạng. Ram Gopal thong thả cho biết :
- Ông có thể sống thêm nhiều năm nữa nếu chịu khó điều trị. Chắc hẳn ông đă biết cách trị bệnh của tôi ?
Bệnh nhân im lặng suy nghĩ . Ram Gopal giải thích cho phái đoàn :
- Bệnh tật là kết quả của những ǵ trái với thiên nhiên. Sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người bẩm sinh đều khoẻ mạnh, họ mắc bệnh v́ các thói quen, lối sống không hợp tự nhiên, rồi theo thời gian tiêm nhiễm vào cơ thể làm suy nhược. Khi bệnh mới phát ra, con người ỷ lại vào thuốc men, các phát minh khoa học. Tiếc thay, lối này chỉ có thể tạm thời cầm giữ bệnh tật cho nó không phát lên chứ không trừ tuyệt căn. Y khoa Tây phương chỉ ngăn chận bệnh tật không làm nguy hại đến tính mạng trong một thời gian, rồi sau đó cũng bó tay. Muốn trừ bệnh hoàn toàn, chỉ có một cách duy nhất là cương quyết trừ tuyệt gốc và người duy nhất có thể chữa được là “chính ḿnh” mà thôi, ngoài ra không có ai khác. Một khi bệnh nhân ư thức được điều này, nhất định theo đuổi cách trị đến cùng th́ hầu như bệnh ǵ cũng có thể chữa khỏi.
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Xin ông giải thích rơ ràng hơn nữa.
- Cách chữa cũng rất giản dị, việc đầu tiên bệnh nhân phải làm là quyết định xem có theo phương pháp này được không ? Nếu nhất quyết th́ y lập tức từ bỏ tức khắc tất cả gia tài, sự nghiệp, hoàn cảnh gia đ́nh bên ngoài để gia nhập đạo viện cho đến khi hết bệnh.
- Ông muốn nói y phải trở nên một tu sĩ hay sao ?
Ram Gopal bật cười :
- Không phải thế, đây không phải là một đạo viện có tính cách tôn giáo. Tôi không bao giờ bắt buộc ai phải học giáo lư, tin tưởng một số giáo điều, nghi thức hay sùng kính một đấng vô h́nh nào hết. Đạo viện (Ashram) này chỉ có mục đích chữa bệnh. Điều tôi muốn thực hiện là để bệnh nhân phải rời bỏ cái nếp sống cũ, cái hoàn cảnh, nguyên nhân đă khiến y mắc bệnh. Lo nghĩ, phiền năo, dinh dưỡng không đúng cách là nguyên nhân chính của hầu hết các thứ bệnh. Phải dẹp bỏ, dứt sạch tất cả cho tâm hồn thật thảnh thơi, thoải mái, rồi mới có thể chữa trị được. Đó là điều kiện quan trọng nhất của phương pháp này.
- Nhưng việc ǵ phải từ bỏ tất cả, đi dưỡng bệnh một nơi xa cũng có hiệu quả tương tự vậy.
Ram Gopal bật cười :
- Điều này không thể chữa tận gốc được, hoàn cảnh tuy có khác nhưng đầu óc bệnh nhân vẫn c̣n cố chấp, suy nghĩ, lo lắng th́ làm sao dứt được phiền năo? Chỉ có hoàn toàn dứt bỏ, để đầu óc không c̣n bận tâm chút ǵ nữa, để trở nên con người hoàn toàn mới th́ may ra mới có thể chữa hết bệnh được.
- Từ bỏ gia tài, nhà cửa, gia đ́nh đâu phải dễ dàng, mấy ai đă làm được như thế ? Nói th́ thật giản dị nhưng nó là cả vấn đề…
- Này ông bạn, nếu chết, ông có mang mấy thứ đó đi theo được không ? Ông cứ việc ôm chặt lấy những thứ giả tạo vật chất rồi để đau đớn dầy ṿ và cái chết quanh quẩn ám ảnh chăng ? Trước sau ǵ cũng mất nó, th́ thà bỏ quách đi có hơn không ? Cách chữa này có thể coi như ta đă chết rồi, đă mất tất cả rồi, và đi t́m cái sống trong cái chết. Nguyên lư của bệnh như sau : con người ch́m đắm trong danh lợi, lo quanh, nghĩ quẩn, tích trữ tài sản mà quên sự vô thường ở đời. Họ chỉ thấy lợi nhỏ mà quên hại lớn. Lo làm giàu vật chất mà quên tu tâm dưỡng tinh thần, v́ thế thân thể suy nhược, tâm trí điên đảo, thần trí bất nhất, lại thêm tửu sắc quá độ, hỉ nộ bất thường, dinh dưỡng coi thường và bệnh tật do đấy mà sinh ra. Khi bệnh c̣n nhẹ, ta không để ư chữa trị, đến khi nó phát ra đe doa. trực tiếp vào đời sống, ta mới hoảng hốt tin tưởng vào các phát minh khoa học chữa trị. Thuốc men chỉ tạm thời ngăn chận khiến cho bệnh chậm tái phát, kéo dài cuộc sống để ta tiếp tục đắm ch́m trong dục vọng, phiền toái một thời gian nữa. Đến khi thuốc men trở nên vô hiệu, bệnh tái phát thật mạnh, th́ khoa học bó tay, và con người chấp nhận sự phải đến sẽ đến, và coi như đó là số mạng. Đây là một lầm lẫn rất lớn mà ít ai để ư. Nguyên nhân chính của bệnh là do sự bận rộn với đời sống hàng ngày, nếp sống càng tiện nghi th́ họ lại càng hết sức lao tâm, lao lực để đạt đến cái tiện nghi hơn nữa. Thêm vào ḷng tham muốn chiếm đoạt, tranh đua để thỏa măn dục vọng nhất thời, khiến cơ thể trở nên mất quân b́nh, phá hoại cơ quan thần kinh. Cơ quan này là đầu mối của mọi thứ bệnh nên theo thời gian, bệnh từ từ ngấm vào tạng phủ khiến con người càng ngày càng lệch lạc, sống nghịch với thiên nhiên, mất đi sự an lạc sẵn có, nói một cách khác, họ mất đi chính ḿnh. Sự xả ly, dứt bỏ tất cả là bước đầu để trở lại cái tinh thần nguyên thuỷ, nó là điều kiện cần thiết để dứt căn bệnh trầm kha của loài người. Có thể đầu óc mới lấy lại sự thăng bằng để họ có thể điều trị…
- Nhưng bệnh tật có nhiều nguyên nhân chứ, ông nghĩ sao về các bệnh do vi trùng gây ra ?
Ram Gopal lắc đầu :
- Trong người khoẻ mạnh, vi trùng xâm nhập thế nào được ? Người sống theo thiên nhiên không thể có bệnh. Vi trùng th́ chỗ nào chả có, nhưng đâu phải ai cũng mắc bệnh như nhau. Nếu vi trùng là nguyên nhân chính th́ tại sao có kẻ mắc bệnh và có người lại không mắc bệnh ? Ngay cả những lúc có bệnh thời khí khiến hàng trăm, hàng ngàn người lăn ra chết; nhưng vẫn có những kẻ sống sót đấy chứ. Tóm lại, thân thể khoẻ mạnh có thể chống mọi thứ bệnh.
Ngay lúc đó bệnh nhân ngửng mặt nói vài câu. Ram Gopal lắc đầu và quay sang phái đoàn cho biết :
- Bệnh nhân này muốn trở về nhà thu xếp công việc khoảng vài tháng đến một năm, rồi sau đó mới đến đây chữa bệnh. Lúc này đang là mùa dệt sợi mà y lại là chủ nhân nhiều hăng dệt. Tôi cho y biết không chịu chữa trị khó ḷng sống qua một tháng nữa.
Giáo sư Allen kêu lên :
- Nhưng nếu bắt từ bỏ tất cả ngay th́ làm sao y có thể thu xếp kịp ?
- Chữa bệnh không phải việc đi chơi. Tôi quan sát thần sắc bệnh nhân rất kỹ và thấy y khó sống lắm rồi. Nếu y mê muội trở về lo thu xếp công việc, th́ đầu óc đă lệch lạc lại càng lo âu thêm, thế nào cũng lên cơn đau tim mà chết. Như các ông thấy điều kiện tiên quyết để chữa bệnh là trị tận gốc và đây là giây phút quyết định sự sống chết. Chỉ có y mới tự chữa lấy cho ḿnh mà thôi. Con người phải hiểu biết để đoạn tuyệt với quá khứ, không thể có lối chữa trị lưng chừng kéo dài thời gian được. Thật ra khoa học đă làm việc này, kéo dài thêm thời gian rồi bó tay. Đây không phải là lối chữa của tôi.
Bệnh nhân đắn đo suy nghĩ một lúc, y ngập ngừng nói vài câu rồi đứng lên bước vội ra khỏi cửa, không dám nh́n ai. Giây phút quyết định đă trôi qua, Ram Gopal thở dài rồi gọi một bệnh nhân khác vào. Sau buổi khám bệnh, chỉ có một số chấp nhận theo lối chữa lạ lùng này, và được các đệ tử của đạo sĩ đưa vào đạo viện.
Ram Gopal cho phái đoàn biết bệnh nhân chỉ được mang theo một bộ quần áo và tuyệt đối không được tiếp xúc với ai trong thời gian điều trị. Dĩ nhiên, khi hoàn tất việc chữa trị, y có thể rời nơi này theo ư muốn. Một số người sau khi vào đây khong từ bỏ việc đời lại bỏ ra về và số này không phải ít.
Giáo sư Allen thắc mắc :
- Nhưng sau khi vào đây, họ sẽ phải làm ǵ ? Ông chữa trị ra sao ?
- Như các ông đă biết, yếu tố đầu tiên là cương quyết chữa bệnh cho đến khi tuyệt căn mới thôi. Yếu tố này đ̣i hỏi việc xả ly, dứt bỏ tất cả mọi sự. Yếu tố thứ hai là tự ḿnh chữa trị lấy cho ḿnh v́ không ai có thể chữa bệnh cho ai cả. Yếu tố này đ̣i hỏi việc làm chủ các cảm giác của ḿnh để chữa bệnh. Tại đây, bệnh nhân ăn rất ít, thời gian đầu y chỉ uống nước suối và ăn cơm nhạt thôi. Phương pháp này nhắm việc tẩy uế các chất độc trong cơ thể. Một lư do quan trọng gây nên nhiều chứng bệnh là sự ăn uống bừa băi, không tiết độ. Để giúp cơ thể loại bỏ các độc tố đă nhiễm từ lâu. Bệnh nhân chỉ ăn thật nhạt nghĩa là không một chút gia vị, đường hay muối (ghi chú : người Ấn ăn rất nhiều gia vị và rất mặn). Mỗi ngày, bệnh nhân chỉ ăn một lần trước buổi trưa và uống nước vài lần thôi. Uống ít nước giúp cho tim đập chậm lại v́ dung lượng nước qua tim sẽ ít đi. Tim và thận được nghỉ ngơi sẽ giúp cơ thể lấy lại quân b́nh mau chóng, đây là hai cơ quan thiết yếu giữ các vai tṛ quan trọng cho việc phục hồi sức khoẻ. Ăn nhạt khiến gan và dạ dày thải bỏ các độc tố tích tụ trong đó, cứ thế trong khoảng hai tuần lễ là đa số độc tố đă bị khu trục cả. Nếu muốn các ông cứ thử ăn nhạt ít tuần lễ là thấy cơ thể đổi khác ngay. Ngoài việc dưỡng sinh đúng cách, bệnh nhân dành trọn thời giờ tập Yoga, để lấy lại quân b́nh cho cơ quan thần kinh, khối óc. Tư thế đầu phải tập là cách ngồi cho ngay ngắn, lưng thật thẳng để luồng hỏa hầu di chuyển không gặp khó khăn. Hai tay buông thỏng trên đầu gối và thở thật tự nhiên, không cố gắng thái quá. Trong khi tập tư thế này, không để tâm xao động, lo nghĩ việc ǵ, phải “vô cầu, vô niệm” mới là đúng cách. Không sử dụng thần chú hay xin xỏ một đấng thần linh nào, mà chỉ cần hết sức tự nhiên, theo thời gian bệnh sẽ từ từ thuyên giảm.
Giáo sư Mortimer thốt lên :
- Chỉ có thế thôi ư ? Như vậy giản dị quá có khó ǵ đâu ?
Ram Gopal thản nhiên :
- Dĩ nhiên, nhưng phải làm thật chuyên cần không gián đoạn trong suốt thời gian tại đây cho đến khi khỏi bệnh.
Mọi người nh́n nhau, họ nghĩ đạo sĩ này phải có một phương pháp ǵ ghê gớm lắm hoặc sử dụng thuốc men ǵ đó để chữa trị, chứ phương pháp ông nói thật tầm thường và có vẻ hoang đường khó tin.
Ram Gopal hiểu ư :
- Khi trở về với chính ḿnh, với con người nguyên thuỷ, hoà hợp với thiên nhiên th́ bệnh tật và sức khoẻ chỉ là những ǵ tương đối, không c̣n tranh chấp nữa. Con người thật của ta vốn sẵn có kia mà, việc ǵ phải g̣ bó, khó khăn mới t́m được. Khi dứt bỏ tất cả, ta trút được một gánh nặng ở tâm hồn. Khi ăn uống đúng cách, ta loại bỏ yếu tố gây nên bệnh tật, và cách tập Yoga giúp ta lấy lại quân b́nh nguyên thuỷ, trở về với con người thật của ḿnh, như vậy là “tự ḿnh chữa cho ḿnh”, không ỷ lại vào một tha lực hay một yếu tố bên ngoài nào hết.
- Nhưng ngoài ra c̣n phải uống thuốc men ǵ nữa chứ ?
Ram Gopal lắc đầu :
- Phương pháp này không sử dụng thuốc men ǵ cả, đó là một phương pháp hết sức tự nhiên và khoa học. Dĩ nhiên, nếu ông chở đến một người bệnh sắp chết hay một kẻ gẫy chân, gẫy tay th́ tôi không thể chữa như thế được. Nói khác đi, nếu một kẻ mắc bệnh thời khí hay các bệnh thông thường th́ họ đă đi kiếm các bác sĩ chữa trị, chứ việc ǵ phải đến đây ? Hầu hết các bệnh nhân đến tận rừng hoang núi thẳm này chỉ là những kẻ đă tuyệt vọng hoặc gặp các chứng nan y mà y sĩ đă bó taỵ Các ông nên biết, cơ thể con người có khả năng làm hồi phục rất nhiệm mầu. Sở dỉ cơ thể suy yếu, bệnh hoạn, v́ họ sống không tự nhiên, có thế thôi. Sống tự nhiên không những giúp thể xác khang kiện, mà c̣n mục đích tối hậu là dẹp bỏ cái “phàm ngă” trở về cái “chân ngă” của ḿnh. Khi từ bỏ được bản ngă thấp hèn th́ ta ung dung, tự tại, thảnh thơi, tiêu diêu cùng trời đất, thiên nhiên, th́ c̣n lo lắng chi nữa ? Trên lư thuyết th́ thật dễ dàng nhưng thực hành lại là cả một vấn đề. Con người quen sống bừa băi, nô lệ dục vọng xác thân quá lâu, đến nổi sinh bệnh, rồi muốn cởi bỏ tất cả đâu có dễ. Quen ăn ngon, mặc đẹp bây giờ ăn vài nắm cơm nhạt, uống vài gáo nước suối đâu phải ai cũng làm được ngay lập tức. Khốn nổi muốn trừ tận gốc phải uống thuốc đắng và thuốc đắng chính là lối sống tự nhiên này.
- Nhưng đă có bằng chứng ǵ về phương pháp này ? Làm sao biết được nhờ thực hành như trên mà bệnh nhân khỏi bệnh, kéo dài đời sống ?
Ram Gopal không tỏ vẻ giận dữ về câu nói bất kính :
- Tôi có hơn ba ngàn môn đệ, tất cả đều là người mắc bệnh nan y sống tại đây. Đa số đă bị các bệnh viện từ chối, v́ không chữa được nữa. Họ vẫn sống nhiều năm nay, hàng ngày cả trăm người đến xin gia nhập đạo viện, và chỉ có một thiểu số cương quyết mới được chấp nhận. Đă thế, nhiều người không qua kỳ thử thách cũng bỏ đi rất nhiều, nhưng trong số những người ở lại, tất cả đều hết bệnh, tuyệt căn. Các ông nên nhớ tôi không nhận một thù lao hay đ̣i hỏi ân huệ ǵ, tôi cũng không tự xưng một danh vọng, chức tước nào hết. Đời sống ở đây hoàn toàn tự túc, và kẻ khoẻ mạnh phải lo trồng tỉa, gặt hái thực phẩm. Quy luật đạo viện không nhận tặng vật dù bất cứ thứ ǵ, nhiều kẻ tỏ ư muốn dâng tài sản, sự nghiệp khi đến đây với hy vọng sẽ được đối xử đặc biệt. Tôi yêu cầu một khi đă dứt bỏ tất cả, th́ hăy bố thí cho người nghèo, hoặc để lại cho con cháu, thân nhân, rồi đến đây với bộ quần áo trên người. Dù bệnh nhân là tiểu vương gia hay kẻ hành khất tôi cũng coi như nhau, mục đích của họ là chữa bệnh và chỉ có họ mới có thể chữa cho ḿnh. Đạo viện được thành lập chỉ để thực hành việc chữa bệnh mà thôi, chứ không phải một nơi giam cầm hay có tính cách tôn giáo. Muốn gia nhập phải tuân theo các điều kiện, nhưng muốn rời đây th́ tùy ư, không hề có sự ngăn cản.
- Nhưng ông có dạy các phương pháp Yoga ?
- Đúng thế, nhưng Yoga là một khoa học, không phải tôn giáo như nhiều người đă hiểu lầm. Ngoài ra tôi chủ trương một lối tu thân cho những người muốn vào cửa đạo nhưng đây cũng không phải là một tôn giáo.
- Xin ông vui ḷng giải thích phương pháp tu này.
Ram Gopal mỉm cười :
- Như các ông thấy, phương pháp dưỡng sinh và tập Yoga có thể giúp con người vượt qua các bệnh tật. Cũng như thế, phương pháp tu thân sẽ giúp con người vượt qua các trở ngại để tiến vào cửa đạo. Có rất nhiều phương pháp tu hành tùy theo quan niệm cá nhân, hoàn cảnh xă hội chung quanh, tôn giáo… Nhưng tất cả đều nhắm mục đích chung là giải thoát. Tôi không quan niệm một phương pháp nào mà để mỗi cá nhân tùy theo sở thích lựa chọn. Tôi chỉ khuyên họ nên sáng suốt kiểm soát cách thức tu hành để tránh các sai lầm thông thường. Như các ông thấy, trên các con tàu lướt sóng ngoài biển khơi bao la, cứ khoảng nửa giờ, vị thuyền trưởng phải nh́n vào bản đồ, xem địa bàn, đo phương hướng để xác định vị trí con tàu. Biết ḿnh ở đâu và đi đến đâu là câu hỏi quan trọng của mọi người trên đường đạo . Công việc tu hành cũng thế, người tu lúc nào cũng phải luôn luôn tự hỏi vê ḿnh, để kịp thời sửa sai các lỗi lầm thông thường v́ sai một ly đi một dặm. Khi con tàu rời bến, một lỗi lầm nhỏ từ khởi điểm có thể làm con tàu đi xa mục tiêu vài chục hải lư. Đường tu cũng thế, một ư niệm sai lầm có thể khiến ta đi vào tà đạo lúc nào không haỵ Phương pháp tại đạo viện không chú trọng đến h́nh thức, mà chỉ nhắm vào kiểm soát thường xuyên quan niệm của người tu đối với bản thân ḿnh, với mọi người chung quanh. Phải tự xét ḿnh, kiểm soát tư tưởng của ḿnh từng ngày, từng giờ, rồi suy ngẫm về bản ngă, chân ngă. Kinh Veda đă dạy, “ta không phải là xác thân vật chất này mà là một linh hồn cao quư, trường tồn, một điểm linh quang của thượng đế.” Nói khác đi, con người là một linh hồn bất diệt c̣n thể xác chỉ là một dụng cụ thô sơ, tạm thời. Người hiểu đạo là người ân cần lo lắng cho linh hồn hơn là cái xác thân tạm bợ. Chân lư này giúp cho người tu tránh các tội ác, các phiền năo, v́ đa số người đều lầm tưởng ḿnh là xác thân nên lo lắng, ch́u chuộng nó đủ điều. Để cho xác thân được sung sướng họ đă không ngần ngại giết nhau, làm hại nhau, lừa bịp lẫn nhau, tóm lại tất cả những ǵ xấu xa, tồi bại. Nếu ư thức được chân lư này th́ ai lại c̣n vơ vét của cải, vật chất làm ǵ, v́ các thứ đó đâu có ích lợi ǵ cho linh hồn. Người hiểu biết đường đạo ư thức linh hồn là ta, là người làm chủ, c̣n xác thân chỉ là con ngựa để ta cưỡi đi trên đường . Người chưa hiểu biết nhận ḿnh là con ngựa và cố gắng thoa? măn các nhu cầu của họ. Họ không ư thức ḿnh là tay kỵ mă kiêu hùng bất diệt mà cam chịu thân phận con vật yếu hèn chịu sự chi phối của thời gian và không gian. Căn bản đầu tiên của người đi trên đường đạo là ư thức ḿnh, duyệt xét đường đi của ḿnh để t́m một lối tu thân hợp lư. Kinh Veda lại dạy rằng, “Ta và người tuy bề ngoài khác biệt nhưng thực sự bên trong lại như nhau, bởi tất cả đều cùng chung một nguồn gốc mà ra”. Chân lư này cho thấy chúng ta đều là hoa trái của một cái cây, cùng chung một gốc, bề ngoài tuy káhc, nhưng bề trong tất cả đều là con của thượng đế. Nếu ư thức được chân lư này th́ ai lại c̣n giận hờn, oán thù, ghen ghét nhau. Có khi nào tay mặt lại cầm dao chém tay trái, có khi nào anh em lại thù nghịch hăm hại lẫn nhau. Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hoá khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu ? Suy luận rằng, “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, v́ họ không hiểu biết, không ư thức hành động của ḿnh, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi hiểu rằng “nhất bổn tám vạn thù”, ta nh́n vạn vật như chính ḿnh, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ư thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có thượng đê ngự ở trong. Ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng ḷng thương đến muôn loài. Người tu là người sống thuận hoà với ḿnh và mọi người, sống an lạc với vạn vật trong vũ trụ, sống hoà hợp với thiên nhiên một cách ung dung tự tại. Đó là con đường tu đứng đắn nhất theo sự hiểu biết của tôi.
Ram Gopal nh́n mọi người, rồi mỉm cười :
- Nếu chúng ta tu một thời gian mà thấy ḷng không vui vẻ, phấn khởi, gương mặt không thoải mái, cử chỉ không dịu dàng, lời nói không ôn tồn, tâm hồn không thương mến th́ chắc là ta đă không sống thuận lẽ đạo. Có lẽ ta đă đi vào tà đạo lúc nào mà không haỵ Khi tu hành mà tâm thần rối loạn, thần trí đảo điên, tham lam, sân hận, oán thù, th́ đó là triệu chứng đă đi lạc đường rồi. Nếu biết thế phải lập tức kiểm điểm lại phương pháp tu hành để sửa đổi, và quyết tâm trở lại khởi điểm để bắt đầu lại con đường đạo. Nếu không làm như thế th́ vô phương cứu chữa, cũng như bệnh đă nhập tâm mà c̣n mê say luyến tiếc vật chất, không cương quyết dứt bỏ th́ làm sao c̣n chữa trị được. Này các bạn, giáo lư nào cũng dạy phải thương yêu, tha thứ và giúp đỡ đồng loại nhưng tại sao xă hội lại không như vậy? Tại sao giữa cái biết và hành xử lại có sự trái ngược ? Phải chăng ḷng con người c̣n ham mê vật chất, tuy nghe điều hay lẽ thiệt nhưng ta vẫn để đó, tiếp tục làm các điều càn rỡ. Người bệnh cũng thế, khi mới mắc bệnh không lo chạy chữa mà chờ khi mạng sống bị đe doa. mới cuống lên, thuốc ǵ cũng uống, ai nói ǵ cũng làm, cố sao kéo dài đời sống. Tại sao lại có các điểm tương đồng như thế ? Khoa học công nhận rằng ăn uống điều độ, có thể tránh bệnh tât, nhưng biết rồi để đó, chứ có mấy ai theo ? H́nh như chúng ta vẫn thèm miếng ngon, vật lạ dù biết nó là chất độc. Nếu chúng t chấp nhận tất cả đều là con của thượng đế, tại sao ta vẫn đâm chém, làm hại lẫn nhau ? Nếu chúng ta chấp nhận các loài cầm thú là đàn em bé bỏng, th́ ta phải tránh sát sinh chứ. Tại sao ta vẫn giết hại “đàn em” qua các bữa ăn thịnh soạn ? Phải chăng miếng ăn, v́ béo đă làm ta quên hết rồi ? Vấn đề của cải cũng thế, ta biết chúng chỉ là vật tạm bợ, vô thường khi chết nào có mang theo được; nhưng thực tế, hễ đâu có của cải là nơi đó có tranh chấp lẫn nhau. Hăy nh́n đàn gà trong sân, chúng đang vui vẻ nô đùa nhưng hễ có ném cho nắm thóc, là có xô xát ngaỵ Hăy nh́n bầy chó cùng cha, cùng mẹ âu yếm liếm nhau kia, nhưng chủ ném cho cục xương là cắn nhau tức th́. Loài người thông minh hơn loài vật nhưng của cải, danh vọng, vật chất đa làm họ bất hoà có khác chi loài thú ? Từ mấy ngàn năm nay, con người luôn được hướng dẫn bởi các chân lư cao đẹp. Tôn giáo nào cũng dạy những điều thật tốt lành nhưng tại sao vẫn không thấy có sự tiến bộ? Phải chăng v́ chúng ta chỉ nói chân lư ở đầu môi, chót lưỡi ? Ta đến các thánh đường tôn nghiêm với y phục sang trọng nhất, các lễ vật đẹp đẽ nhất, đọc thuộc ḷng các lời răn chân chính nhất nhưng chúng ta vẫn làm các điều xấu xa, bỉ ổi nhất. Có bao giờ các ông nghĩ về những điều này không ?
Mọi người im lặng nh́n nhau không ai thốt lên lời nào. Ram Gopal mỉm cười :
- Hăy dở Thánh kinh mà xem, đức Jesus đă dạy, “các người đừng quá lo về y phục hay thức ăn. Đời sống không quư báu hơn thức ăn và thân thể, không quư báu hơn y phục hay sao ? Hăy nh́n loài chim bay trên trời, chúng không hề gieo cũng không hề gặt, không chứa chấp thực phẩm trong bồ, nhưng cha của các ngươi trên trời vẫn lo cho chúng chu đáo. Các người không quư hơn chim muông hay sao ?” Ḷi dạy thật rơ ràng, giản dị và chắc chắn, các ông đă nghe nói qua nhiều lần rồi, nhưng có lẽ không mấy người hoàn toàn tin tưởng nên thế giới mới có những cảnh chém giết v́ miếng ăn, manh áo.
Một lần nữa, phái đoàn lại ngạc nhiên v́ một tu sĩ Ấn độ sống nơi hoang vu, hẻo lánh dưới chân núi Tuyết Sơn lại trích dẫn Thánh kinh một cách rành mạch cho thính giả người Âu.
Ram Gopal im lặng như suy nghĩ một điều ǵ, sau cùng ông lên tiếng :
- V́ biết rằng của cải, vật chất là nguồn gốc của tội lỗi, cám dỗ nên tại đạo viện này mọi người chỉ được giữ một bộ quần áo trên ḿnh và phải đoạn tuyệt với vật chất hoàn toàn. C̣n lo giữ của tức là c̣n lo mất, quyến luyến vật chất như vậy th́ làm sao giải thoát được. Giữ tiền bạc, của cải hay danh vọng có thể ví như đeo gông vào người, rồi nhẩy xuống sông, chắc chắn sẽ ch́m chứ làm sao bơi lội cho được, phải thế không các bạn ?
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Ông nói cũng có lư nhưng không hẳn tôn giáo nào cũng lánh xa của cải, vật chất. Đôi lúc họ cần những thứ này để làm các công việc như mua thực phẩm, xây cất thánh đường, v..v.. Tiền bạc có công dụng riêng của nó.
Ram Gopal gật đầu :
- Sử dụng tiền bạc đúng cách là một vấn đề c̣n để nó cám dỗ lại là một vấn đề khác. Chính đức Jesus đă dạy, “kẻ giàu có tu hành chẳng khác con lạc đà chui qua lỗ kim. Một người không thể thờ hai vua, ngươi thờ Chúa hay thờ tiền bạc”. Một người tu hành chân chính không thể nô lệ bạc tiền dưới bất cứ h́nh thức nào. Các ông chắc thắc mắc tại sao tôi cương quyết chủ trương tuyệt sở hữu, gặp nhau hôm nay cũng là một nhân duyên, tôi xin kể một câu chuyện để các ông hiểu tại sao con đường tu hành cho rằng tiền bạc, vật chất là trở lực lớn cho người tụ Câu chuyện như sau : “Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sự Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học tṛ ở lại chăm lo tu hành. Học tṛ nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ, V́ nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc mỗi một miếng khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác. Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. Một tín đồ thấy vậy bèn t́nh nguyện dâng cúng tu sĩ một con ḅ cái để có sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con ḅ nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho ḅ ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ lại phải đi xin rơm về nuôi ḅ. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi ḅ. Tu sĩ ra công cầy cấy nên rau trổ thật nhiều, ḅ ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ. Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp. Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng ǵ cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú. Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành không c̣n là bao v́ tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa. Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán. Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ Ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế. Tu sĩ trả lời, "thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Để bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi ḅ, và để có rau nuôi ḅ, con phải canh tác. Rồi th́ trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi th́ buôn bán thành công, tiền bạc nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con c̣n mướn người lo việc cúng tế, nhang đèn cẩn thận". Sư phụ thở dài, "xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tụ Chỉ v́ một cái khố rách mà con đă đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đă chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đă đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được. ”
Ram Gopal yên lặng như đắm ch́m vào quá khứ, một lúc sau ông nói thật khẻ :
- Các ông thấy câu chuyện thật khôi hài phải không ? Nhưng đó là chuyện thật, v́ tôi chính là vị tu sĩ trẻ đó. Sau khi nghe thầy nói xong, tôi tỉnh ngộ, và hiểu con đường tu hành giải thoát chân chính là thế nào. Tôi lập tức rời bỏ tất cả để theo thầy lên núi Tuyết Sơn học đạo. Suốt mấy chục năm tu hành tinh tấn, sư phụ mới sai tôi đến đây thành lập đạo viện này để chữa bệnh và chỉ dạy đệ tử phương pháp tu thân. V́ kinh nghiệm quá khứ, tôi cương quyết chủ trương kẻ đă tu hành phải tuyệt sở hữu và lúc nào cũng phải tự ḿnh kiểm thảo hàng giờ, hàng phút v́ sai một ly là đi một dặm.
Mọi người ngồi yên tưởng tượng ra cảnh một đạo sĩ trẻ tuổi trước sự cám dỗ của thành công vật chất. Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Theo ông th́ ngoài vấn đề vật chất, người tu c̣n gặp những khó khăn ǵ nữa ? Từ bỏ vật chất có đem lại giải thoát không ?
- Bất cứ một sự cởi bỏ nào cũng làm nhẹ gánh, vật chất là một nô bộc tốt nhưng là một chủ nhân rất xấu. Nhiều người tu vô t́nh quá chú trọng đến tiền bạc mà quên rằng đồng tiền có hai mặt. Nhiều người cho rằng sử dụng vật chất là để phát huy tôn giáo, giúp đỡ các tín đồ có nơi tu học. Dĩ nhiên, mục đích rất tốt đẹp, nhưng nếu quá chú trọng vào h́nh thức sẽ đưa đến sự xao lăng vấn đề tinh thần. Một tu sĩ cần phải ư thức rằng ḿnh vẫn là kẻ đang đi trên đường, đang cố gắng t́m kiếm chân lư hầu được giải thoát, chứ chưa đi trọn con đường, th́ đừng đ̣i làm những việc to lớn. Họ chỉ nên làm việc một cách nhiệt thành nhưng không nên làm nô lệ cho những công việc này. Một trở ngại lớn trên đường đạo là sự thiếu nhiệt thành, đa số chúng ta đều quen buông lung, do dự, không đủ cương quyết nên sẽ phải trải qua những kinh nghiệm chua cay, khổ sở để học hỏi các bài học quư giá này. Tất cả chúng ta vẫn đồng ư rằng cuộc đời là ảo mộng, phù du, vô thường, gỉa tạo chỉ có con đường tu hành mới là giải thoát thế nhưng tại sao chúng ta vẫn chạy theo vật chất, chả chịu tu tâm dưỡng tánh ?
Giáo sư Mortimer phản đối :
- Người tu hành và kẻ thường khác nhau nhiều, chúng tôi c̣n phải lo sinh kế, kiếm ăn…
Ram Gopal mỉm cười :
- Một ngày có 24 giờ, có lư nào v́ sinh kế mà các ông phải dành trọn để lo việc kiếm ăn. Tại đạo viện này, mọi người chỉ bỏ ra một giờ để trồng trọt các thực phẩm th́ vẫn đủ kia mà. Ta dư ăn th́ lại muốn ăn ngon, đủ sống th́ lại muốn sống cho sang giàu, được giàu sang lại muốn giàu hơn nữa. Rồi ta lại nguỵ biện rằng phải lo kiếm ăn, sinh kế có phải thế không ? Người Âu Mỹ hoạt động không ngừng, coi sự làm việc là nguồn vui, do đó mới sinh lắm bệnh tật, phiền năo, thần kinh suy nhược, v́ nhu cầu tâm linh không thoa? măn. Tại sao ta không hoạt động như thế cho nhu cầu tâm linh?
- Người Âu không thể chấp nhận vấn đề làm việc cho một cái ǵ mơ hồ, cho một viễn ảnh tâm linh không thực tế.
Ram Gopal lắc đầu :
- Khi nào đời sống vật chất trở nên cực kỳ phức tạp, phiền năo th́ con người sẽ ư thức đến vấn đề tâm linh. Đă có nhiều vị tiểu vương, triệu phú từ bỏ tất cả tài sản để vào đây tu hành khi mạng sống của họ bị đe doa. bởi bệnh tật, v́ họ biết không thể ôm lấy tài sản rồi chết. Sau khi từ bỏ tất cả, đầu óc thoải mái thanh thản, họ lại thấy việc trau dồi tâm linh là quư, thế là họ phát nguyện tu hành, sống một cuộc đời trong sạch, ung dung, tự tại. Nếu chỉ là miếng ăn th́ chỉ cần làm việc khoảng một giờ là đủ rồi, nhưng v́ không biết an phận nên mới có các trói buộc vào vật chất, không lối thoát. Các ông cho rằng tu hành chỉ cần ăn mặc đẹp đẽ, đi đến các đền thờ dâng cúng phẩm vật, tiền bạc, đọc vài câu kinh là đă đủ hay sao ? Những cái đó chỉ là h́nh tướng bên ngoài, không có nghĩa chi hết. Ngay cả việc trở nên môt tu sĩ mà không chịu tu thân, trau dồi tâm linh cũng vô ích thôi v́ các phiền muộn đau khổ vẫn c̣n kia mà.
- Như thế th́ thế nào mới là tu hành thật sự ?
- Bước vào con đường đạo là tự sửa ḿnh, thấy ǵ ác không làm, thấy ǵ thiện th́ nhất định làm cho đến cùng. Luôn luôn tự giác, kiểm thảo lấy ḿnh và quan sát, học hỏi không ngừng. Nếu các ông buôn bán, thấy có lợi các ông có dồn sức ra buôn bán nữa không ? Dĩ nhiên là có, th́ việc tu hành cũng thế, tại sao ta không lo cho nhu cầu tinh thần như ta đă lo cho vật chất? Tại sao ta lại cứ hứa hẹn nay mai sẽ sửa tánh, tu thần như người khất nợ vậy ? Tu hành không phải việc chơi mà làm một cách cẩu thả. Đó là một quyết định quan trọng vô cùng. Đừng nghĩ bộ áo có thể làm nên nhà tu, đừng nghĩ ḿnh sẽ được một đấng nào giúp đỡ, đó là một sự hiểu lầm tai hại. Đa số các tín đồ đều mong chờ sự giúp đỡ của đấng ḿnh tôn thờ. Họ cho rằng thuộc ḷng các câu kinh, thi hành vài nghi lễ, dâng cúng các phẩm vật là đă làm tṛn bổn phận và sẽ được cứu rỗi. Nếu điều này đúng th́ các bậc vua chúa đă lên thiên đàng hết cả v́ họ dâng cúng nhiều hơn mọi người kia mà. Tu hành đ̣i hỏi sự tận tâm, tận lực cải thiện con người của ḿnh để xứng đáng là con của thượng đế, chứ không phải dựa vào vài h́nh thức bên ngoài. Đa số tín đồ coi việc tu như đi xe buưt, muốn đến đâu chỉ việc mua vé rồi leo lên xe ngồi, ngắm cảnh vật hai bên đường, ung dung cho tài xế lái, khi đến nơi, là họ xuống xe không chút mệt nhọc ǵ hết. Tu hành chân chính là tự ḿnh cất bước. Thiên đàng không phải nơi mà ta có thể mua vé đến, cũng không thể mong dâng cúng vài thứ mà được các vị thần linh che chở. Giải thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người . Khi hiểu như thế ta cần lập tức lên đường không chậm trễ. Hăy lấy niềm tin làm bạn đồng hành, tận dụng các cơ hội sẵn có để sửa ḿnh hầu giải thoát cho chính ḿnh. Con đường tu có trăm nẻo đi, không nẻo nào giống nẻo nào nhưng tất cả đều đưa đến mục đích. Sự chọn lựa con đường hoàn toàn do cá nhân nhưng họ cần suy gẫm cẩn thận để khỏi lầm đường, lạc nẻo. Tu hành chân chính dựa trên căn bản “tự biết ḿnh”, v́ trên đường đạo không có vấn đề vinh hay nhục, mà chỉ có sự tiến bộ. Do đó, người tu phải dẹp bỏ tự ái, ngă mạn, mặc cảm, không hổ thẹn, ngă ḷng để tinh tấn tiến bước. Nếu sa ngă lại đứng dậy và tiếp tục, lúc nào cũng định hướng không để cho lầm đường lạc lối. Những kẻ tự cao, tự đại không chịu tu thân sửa ḿnh, thật đáng thương v́ họ giống như người bệnh sắp chết, mà không chịu uống thuốc xả ly, dứt bỏ cho khỏi bệnh.
Ram Gopal ngừng nói, chiều xuống đă lâu chỉ c̣n vài tia nắng vương vấn trên thân thể cực kỳ lực lưỡng của vị đạo sĩ xứ Ấn. Phái đoàn yên lặng bái phục sự giải thích chân lư thật giản dị, khiêm tốn của người mà dân chúng coi là “vị đạo sĩ có thể chữa mọi thứ bệnh”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 288 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 6:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỜI SỐNG SIÊU NHÂN LOẠI
Chương Tám
Cuộc gặp gỡ những đạo sư đại diện cho nền minh triết cổ truyền xứ Ấn, đă làm cho phái đoàn phấn khởi, nhưng c̣n các bậc Chân Sư (Rishi), những vị này như thế nào ? Tại sao một vị chân sư bí mật gửi thông điệp cho các đạo sư yêu cầu giúp đỡ phái đoàn ? Đây là một dấu hỏi lớn mà mọi người hết sức thắc mắc. Liệu chúng tôi có thể gặp các bậc chân sư không ? Những vị này ở đâu ? Giáo sư Mortimer đă hỏi giáo Kavir, và ông này cho biết có quen một đạo sĩ tu hành tên Akila Bakhtir vốn thường qua lại nhiều trong dăy Tuyết Sơn và có kiến thức rộng về những hiền triết ẩn tu nơi đây. Phái đoàn bèn t́m đến đạo sĩ này, đó là một ông lăo gầy như hạc, vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười.
Giáo sư Mortimer nôn nóng :
- Theo lời truyền tụng th́ ông đă có dịp tiếp xúc với các đạo sĩ Tuyết Sơn ?
Đạo sĩ xác nhận :
- Đúng thế, tôi đă có dịp gặp gỡ các bậc thánh nhân đó.
- Ông tin rằng họ là những thánh nhân ?
- Dĩ nhiên, không những tôi tin mà c̣n biết rơ họ là những bậc hiền giả.
- Dựa vào tiêu chuẩn nào mà ông quả quyết như vậy ? Họ có biểu diễn quyền năng hay làm ǵ khác người không ? Liệu có thể có những bậc siêu nhân như vậy không ?
Đạo sĩ gật đầu :
- Sự có mặt trên thế gian của những bậc thánh nhân là điều hợp lư, nếu ta tin các luật : Luân hồi, Quả báo, Tiến hoá và Nhân quả. Nếu quan sát , ta sẽ thấy con người đều có các tŕnh độ khác nhau. Có người kém ta rất xa, có người lại hơn ta rơ rệt. Nếu nhân loại tuần tự tiến hoá th́ trải qua nhiều kiếp sống, và thời gian, tất phải có những người đă tiến bộ rất xa chứ. Theo tôi biết, đă có những người tiến xa hơn hàng ngũ nhân loại hiện nay, đă khai mở một vài giác quan thượng đẳng, quyền năng siêu việt mà ta gọi là bậc Thánh Nhân. Sự thực, các quyền năng này đều tiềm tàng trong mọi người chúng ta, chờ đợi cơ hội khai mở. Khi khai mở các quyền năng này, ta sẽ thấy rơ các nấc thang tiến hoá của nhân loại và nhận định rằng ở mỗi nấc thang đều đă có kẻ đạt đến. Lịch sử các quốc gia đều chứa đựng công tŕnh vĩ đại của các bậc vĩ nhân trên mọi lănh vực hoạt động. Những người này, trong phạm vi riêng biệt của họ đă vượt xa quần chúng và tầm hiểu biết của những người đương thời. Thí dụ như các bác học, các nhà tư tưởng lớn. Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng liêng, con người càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị v́ sự sống vô cùng cần được biểu lộ qua h́nh thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lư do sự kết tinh đến mức tuyệt đỉnh của một con đường tiến hoá dài và liên tục. Tất cả kinh điển mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của các bậc siêu nhân. Mọi tôn giáo khi thành lập đều có các bậc thánh nhân xuất hiện. Người Ấn có các thần linh như : Brahman, Vishnu, Shiva hoặc các đấng cao cả như Krishna, Sancharacharya. Tín đồ Phật giáo th́ có đức Thích Ca, đức Quan Thế Âm. Tín đồ Thiên chúa giáo th́ có đấng Jesus, các nhà tiên tri, các bậc thánh; các bộ lạc man dă cũng có các thần linh riêng của họ.
- Xin ông giải thích rơ hơn về sự tiến hoá này ?
- Luật tiến hoá vũ trụ định rằng mọi vật đêu thay đổi theo thời gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm c̣n tùy cá nhân và hoàn cảnh chung quanh. Loài thảo mộc là kết tinh của loài kim thạch, loài cầm thú sau thảo mộc, và loài người tiếp theo loài cầm thú. Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một giới hạn mà khi họ vượt qua th́ họ sẽ bước vào một giai đoạn mới. Nói một cách khác, trên loài người là đời sống Siêu Nhân Loại. Trong mỗi con người có ba phần chính : xác thân, linh hồn, và tinh thần. Tinh thần là điểm linh quang tiềm tàng trong mọi con người mà ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân Ngă, Thần tính, v…v..
- Bằng chứng vào đâu mà ông đưa ra thuyết này ?
- Đây không phải là một giả thuyết, trong sự tu luyện, tôi ư thức được điều này. Các tôn giáo lớn cũng nói như thế. Đức Phật đă nói , “Mọi chúng sinh đều có Phật tính.”. Thánh Paul định nghĩa con người gồm ba phần : xác, hồn, thần… Sự tiến hoá là sự trở về với thượng đế, trở về với con người thật của ḿnh, phát triển Phật tính của ḿnh trọn vẹn, để giác ngộ. Danh từ tuy khác nhưng nội dung đều giống nhau, tôi cố gắng giải thích theo quan niệm mà người Âu có thể hiểu được, sự hợp nhất với thượng đế nghĩa là trở về với ngài v́ chúng ta đều là một phần của ngài. Theo sự hiểu biết của tôi về luật tiến hoá, th́ với con người, thể xác họ đă phát triển khá hoàn hảo, nhưng đa số vẫn chưa chủ trị được xác thân. Một người tiến cao là người đă chủ trị được xác thân, đặt nó dưới sự kiểm soát của lư trí và linh hồn. Một người kém tiến hoá là người c̣n nhiều thú tánh, chỉ lo nghĩ đến các đ̣i hỏi của thể xác như ăn uống, ngủ nghê, dục tính. Chính v́ thế, họ sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ trị xác thân. Thế gian là một trường học mà trong đó, có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị được xác thân , là việc kiềm chế thể vía. Thể vía hay tư tưởng là điều rất khó kiểm soát, chinh phục. Ta thấy nhiều người tuy đă kiểm soát hành động của xác thân, nhưng vẫn c̣n để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một đường hướng nào nhất định. Sự định trí, bắt tư tưỏong phải theo một đường lối suy nghĩ sẽ đưa ta đến sự kiểm soát thể vía. Sau đó là sự kiểm soát thể trí, nghĩa là sử dụng trí tuệ để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng che phủ của vô minh. Định trí suy nghĩ là một việc, nhưng suy nghĩ chân chính, đứng đắn lại là một việc khác. Chỉ khi nào cả ba thể : xác, hồn, trí hoàn toàn được kiểm soát th́ ta sẽ hoà hợp với Chân Ngă. Từ đó, phàm nhân và Chân nhân hoà hợp làm một, con người sẽ tiến hoá đến một giai đoạn mới, trở nên một bậc chân tiên. Khi đó, con người bước vào một đời sống trường cửu của tinh thần, đời sống của đấng “Christ”. Đó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ.
- Ông tin rằng tất cả đều tiến tới đời sống đó ?
- Dĩ nhiên, tiến hoá là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ phải đi trọn con đường đó. Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược ḍng tiến hoá, nhưng làm thế ta chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của ḿnh, nhưng không thể chận đứng được ḍng tiến hoá của nhân loại. Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể đi đến mục đích trong thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể bơi xuôi ḍng, ngược ḍng hay chơi vơi ở một chỗ, nhưng ḍng nước vẫn chảy và dù muốn hay không trước sau ǵ ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. Sống thuận theo thiên ư là bơi xuôi ḍng, nghịch thiên ư là ngược ḍng. Đa số con người thường chơi vơi, không nhất quyết, lúc ch́m đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược ḍng, có khi lại xuôi ḍng v́ chưa ư thức sáng suốt để nhận định con đường phải theo.
- Nhưng làm sao biết đường nào là đường phải theo ? - Chính v́ con người bơ vơ, lạc lối nên mới có các bậc Thánh nhân chỉ bảo hướng dẫn. Sự hiện diện của các bậc như đức Phật, Chúa, Krishna…và các vị giáo chủ khác là để hướng dẫn cho nhân loại. Tiếc thay, con người chỉ thích ai nói thuận ư ḿnh, đúng với điều ḿnh mong ước , chứ không thích những điều “đúng sự thật”, không thích bị đánh thức…..
- Làm sao ḿnh có thể biết được đâu là “đúng sự thật”?
- Con người có trí khôn, có óc phân biệt để làm ǵ ? Tại sao không chịu sử dụng chúng để lựa chọn một con đường tốt đẹp ?
- Ông muốn nói đến con đường đạo ? Làm sao ta có thể bước vào cửa đạo ?
Đạo sĩ vuốt bộ râu mỉm cười :
- Có bốn nhân duyên đưa ta đến cửa đạo. Nhân duyên thứ nhất là gần gủi, tiếp xúc, thân cận với những bậc thiện tri thức, những người đang đi trên đường đạo. Thí dụ như trong một tiền kiếp ta có dịp tiếp xúc với một vị đạo sư, giám mục, một người bề trên có kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Chúng ta hết sức khâm phục và thiết tha mong rằng ta sẽ có các kinh nghiệm như vậy. Một hoài băo như thế chắc chắn sẽ giúp ta gặp đạo trong kiếp sau. Nhân duyên thứ hai là nghiên cứu sách vở, nghe giảng giải về đạo lư. Càng ham nghiên cứu ta càng muốn t́m hiểu và đi sâu vào đạo nhiều hơn, và dĩ nhiên khi hiểu biết, ta sẽ thay đổi đời sống để cho nó có ư nghĩa hơn và đó là bước chân vào đường đạo. Nhân duyên thứ ba là sự mở mang trí tuệ, v́ một lư do nào đó, ta nhận thức những việc xảy ra rồi phân vân, đặt câu hỏi tại sao nó lại xảy ra như vậy? Từ sự hoài nghi ta suy gẫm, quan sát, học hỏi bằng sức mạnh của tư tưởng và có thể khám phá ra ch́a khoá mầu nhiệm, các nguyên tắc đạo lư. Đây là con đường tu Thiền Định mà các ông đă nghe nói đến. Nhân duyên thứ tư là sự trau dồi hạnh kiểm, tu thân, làm các việc thiện, mở rộng ḷng bác ái, quên ḿnh để giúp đỡ mọi người và dần dần ánh sáng tâm linh sẽ soi sáng hồn ta.
- Xin ông cho biết thêm về các bậc siêu nhân mà ông đă từng tiếp xúc.
Bakhir mỉm cười, vuốt nhẹ chùm râu bạc :
- Tôi đă gặp nhiều đạo sư có quyền năng siêu việt, có vị đă sống nhiều thế kỷ và đạt quả vị rất cao. Điều đặc biệt là các ngài xét mọi sự vật với một quan niệm khác hẳn chúng ta v́ trong tư tưởng các ngài không c̣n một chút ích kỷ như đa số chúng ta. Các ngài đă loại trừ bản ngă thấp hèn, không c̣n sống cho ḿnh mà cho tất cả. Ngoài đặc tính đó, các ngài c̣n phát triển hoàn toàn về mọi phương diện. Đa số chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến tŕnh độ cao tột. Ngay cả các nhà thông thái, bác học cũng chỉ đạt đến tŕnh độ cao tột trên một phương diện nào đó thôi, và c̣n nhiều khía cạnh khác chưa được hoàn hảo. Chúng ta đều có mầm mống của mọi đặc tính, nhưng chỉ một vài phần thức động và phát triển không đồng đều. Các bậc siêu nhân là người đă phát triển toàn vẹn mọi đặc tính trên phương diện ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Phần lớn các vị siêu nhân đều có h́nh dáng bề ngoài tốt đẹp. Xác thân các ngài đều hoàn toàn về mọi phương diện và ít chịu ảnh hưởng của thời gian, có vị đă sống nhiều thế kỷ mà trông vẫn khoẻ mạnh như một người ngũ tuần. Tôi đă gặp một vị đạo sư sống hơn 2000 năm nay, ngài cai quản một viện cổ tàng trong ḷng núi. Viện cổ tàng này chứa đựng rất nhiều tài liệu dồi dào, phong phú dường như để ghi lại dấu tích toàn thể lịch sử tiến hoá của nhân loại. Trong đó có chứa đựng các h́nh thể của nhiều giống người đă sống trên mặt địa cầu, từ giống dân Lemurian đến các loài người khổng lồ từ thời xa xưa. Có các mô h́nh diễn tả sự biến đổi của lớp vỏ địa cầu sau các thiên tai, cũng như sự di chuyển của các giống dân trên các lục địa. Có các bản thảo bút tự rất cổ của các bậc đạo sư, giáo chủ, như có một bản viết của chính đức Phật khi ngài c̣n là thái tử Siđhartạ Có các ngăn tủ bằng gỗ lim kiên cố chứa các tài liệu giáo lư nhiệm mầu, có thứ viết bằng các văn tự lạ lùng của những nền văn minh đă biến mất từ lâu. Ngoài ra c̣n có các bản đồ, mô h́nh các thành phố cổ xưa của quá khứ cũng như các di tích động vật rất cổ xưa….
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Ông có nhớ chỗ đó không ? Làm sao có thể đến nơi đó được ?
Đạo sĩ nghiêm nghị :
- Dăy Hy Mă Lạp Sơn không phải nơi ai muốn đi, muốn đến dễ dàng được v́ nó chứa đựng nhiều bí mật huyền bí và có các tinh linh canh giữ, phải có một nhân duyên lớn mới có thể đến các thánh địa đó được.
- Nhưng tại sao các bậc siêu nhân lại cứ ẩn lánh, không ra mặt giúp đỡ nhân loại, không công bố các tài liệu mầu nhiệm đó cho mọi người ? Cất dấu như thế có lợi ǵ đâu ?
- Các ngài lúc nào cũng giúp đỡ nhân loại bằng cách ban rải các luồng thần lực xuống trần gian để muôn loài có thể hưởng thụ chả khác nào ánh sáng mặt trời đối với cây cỏ. Sự giúp đỡ của các ngài hết sức rộng lớn, ngoài sự tưởng tượng và tầm hiểu biết của con người. Việc công bố hay cất dấu các tài liệu đều có lư do mà ta không thể nghĩ bàn được…
- Theo thuyết tiến hoá ông vừa tŕnh bày, th́ trên con người c̣n có một đời sống siêu nhân, và như thế hẳn c̣n các bậc cao cấp nữa ?
Bakhir bật cười một hồi rồi mới trả lời :
- Các ông vẫn c̣n quan niệm cấp bậc, hơn kém, chức tước….Một khi đă giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử trở nên một bậc chân tiên (Asekha) th́ thánh đạo chia ra làm bảy con đựong cho các ngài chọn lựa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết của tôi c̣n nông cạn và thiếu sót nên tôi chỉ có thể cắt nghĩa một cách sơ lược. Các ngài có thể bước vào những cảnh giới vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta, các cảnh giới này có tên gọi như : Niết bàn, thượng thiên, phi tưởng phi phi tưởng xứ …Sau khi bước vào các cơi này, một ngày nào đó các ngài sẽ chuyển kiếp xuống trần trong bầu thế giới tương lai như một bậc giáo chủ. Đây là con đường Dharmakaya. Các ngài có thể bước vào trạng thái tâm linh với một ư nghĩa huyền bí mà tôi không biết rơ, đây là con đường Sambhogakya. Các ngài có thể hoà hợp với kho thần lực vũ trụ để làm các công việc hợp với định luật vũ trụ, đây là con đường Nirmanakya. Các ngài có thể ở lại thế gian, giúp đỡ nhân loại, dưới h́nh thức một vị Bồ tát đây là con đường Bồ Tát Đạo (Boshivartakya). Ngoài những con đường khác ra sao tôi không được biết rơ. Theo sự hiểu biết của tôi th́ số người giải thoát đă ít mà số người ở lại để giúp đỡ thế gian c̣n ít hơn. Hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một đức chưởng giáo tương lai mà danh từ chính xác nhất gọi là Di Lặc Bồ Tát.
Bakhir im lặng một hồi rồi tuyên bố :
- Một ngày nào đó các ông sẽ hiểu biết rơ hơn điều tôi muốn nói. Thật ra các điều này đă được tiên đoán từ lâu và lưu trữ trong một viện cổ tàng ngầm dưới ḷng núi xứ Tây Tạng. Các tài liệu này được các đức Lạt Ma giữ ǵn rất cẩn thận.
- Làm sao chúng tôi có thể xem các tài liệu vô giá đó. Xứ Tây Tạng vẫn c̣n chính sách bế môn toa? cảng, không giao tiếp với bên ngoài, nhất là với người da trắng.
Bakhir mỉm cười bí mật :
- Này các ông bạn, tôi chỉ có thể nói như thế này thôi. Sự hiện diện của các ông tại xứ Ấn độ không phải một việc ngẫu nhiên. Các ông tốn suốt mấy năm đi sưu tầm chân lư mà có thấy ǵ đâu, có đúng không ? Đó chẳng qua chỉ là một thử thách mà thôi. Các ông không thấy chỉ một thời gian ngắn mà các ông đă tiếp xúc với các đạo sư minh triết nổi tiếng nhất Ấn độ và được tiết lộ những điều chưa từng công bố cho một người Âu nào? Nếu không có thông điệp của một vị Chân Sư th́ làm sao các ông gặp được những người mà ngay cả tín đồ thùân hành nhất xứ Ấn cũng không dễ ǵ gặp được. Trong một xă hội đầy dị đoan, mê tín, h́nh bóng chân lư gần như phai mờ, người dân xứ này muốn c̣n phải mất công, thế mà các ông được chỉ dẫn những điều vô giá một cách dễ dàng. Có bao giờ các ông tự hỏi tại sao không ? Một người Âu chả bao giờ chịu ngồi chung chiếu với người Ấn, v́ hệ thống dị biệt, nhưng các ông đă gác bỏ thành kiến đó, dẹp bỏ tự hào dân tộc để ngồi cạnh những đạo sư rách rưới, đó là một cố gắng không nhỏ. Các ông đă vạch qua rừng người mê tín, các đạo sĩ giả mạo, bịp bợm, các tu sĩ không chân chính để t́m gặp những người đáng gặp gỡ và chăm chú nghe dạy bảo. Đó không phải là việc dễ dàng, có thể các ông không biết, nhưng các ông đă vượt qua những thử thách phi thường. Tây tạng không bao giờ đón nhận một du khách bên ngoài, nhưng với các ông sẽ là một ngoại lệ, v́ các ông được che chở bởi một vị chân sư. Các ông sẽ lănh một sứ mạng lớn là kêu gọi thế giới bên ngoài hăy quay về phương đông, với quê hương tinh thần của họ. Quay về không phải để t́m kiếm một chân lư mới, một tôn giáo mới hay một kiến thức ǵ mới lạ. Nhưng để hiểu biết rằng chân lư luôn luôn ẩn tàng khắp nơi, tôn giáo chỉ là những con đựong khác nhau đưa đến chân lư.
Toàn thể phái đoàn yên lặng nh́n nhau, quả thế chỉ một thời gian ngắn họ đă gặp biết bao đạo sư, được chỉ dạy những chân lư quư báu. Đó không phải một may mắn t́nh cờ mà như có sự sắp đặt trước.
- Ông biết ràng có một vị chân sư muốn giúp đỡ chúng tôi ?
- Đúng thế! Tôi biết rơ chuyện này nên các ông mới có thể gặp tôi hôm naỵ Tôi biết các ông đang khao khát sự hiểu biết, thật ra một số trong các ông đă từng học đạo từ tiền kiếp, nay trở lại Ấn độ dưới bộ da người ngoại quốc. Tuy nhiên, các ông không nhớ những điều đă học. Nhưng khi nhân duyên đến, các ông sẽ phục hồi kư ức. Định mạng đă dẫn dắt các ông trở lại Á châu để hoàn tất một sứ mạng cao cả….
Toàn thể mọi người ngạc nhiên và xúc động vô cùng. Ḷng ao ước gặp vị chân sư bí mật gia tăng. Giáo sư Mortimer cố gắng thốt lên vài câu :
- Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới có thể gặp ngài ?
- Thời gian không c̣n lâu nữa, đến khi đó các ông sẽ biết. Tôi chỉ có thể nói đến đây thôi.
Phái đoàn im lặng hồi lâu, sau cùng giáo sư Wentz lên tiếng :
- Chúng tôi nghe nói ông biết thuật khinh công ?
Đạo sĩ bật cười :
- Điều này đâu có ǵ lạ. Chỉ là một phương tiện di chuyển tầm thường, nhỏ mọn mà thôi.
- Nhưng điều này phản khoa học, làm sao có thể chứng minh được ?
Bakhir mỉm cười gơ nhẹ lên chiếc gậy trúc, bất ngờ thân h́nh ông ta nhấc bổng lên không trung như có một sợi dây vô h́nh kéo lên. Ông ta vẫn ngồi yên trong tư thế liên hoa không cử động. Toàn thể mọi người sửng sốt, tuy họ đă chứng kiến nhiều phép lạ nhưng sự kiện bay bổng lên không trung là một điều lạ lùng, ngoài sự tưởng tượng. Đạo sĩ bỗng xoay ḿnh, thân thể ông bỗng như một cơn lốc bay vọt ra xa với một tốc độ rất nhanh, chỉ trong chớp mắt ông đă xa cách phái đoàn đến mấy chục thước.
Đạo sĩ nói vọng lại :
- Này các ông, tại sao con người lại phải ḅ lết trên mặt đất? Nếu loài người có quyền năng hơn loài thú th́ y phải bay cao hơn chim, lội nhanh hơn cá chứ ? Tại sao y không làm được như vậy? Phải chăng đó là quan niệm duy vật về bản chất của ḿnh ? Tư tưởng y chỉ nghĩ rằng ḿnh chỉ có thể đi được mà thôi. Tùy cảm nghĩ mà con người bị giới hạn hay không giới hạn, tự do hay nô lệ. Nếu biết rơ ḿnh và phát triển khả năng của ḿnh một cách đứng đắn, họ có thể làm hầu như mọi chuyện.
Đạo sĩ lao ḿnh vùn vụt trên con đường đất ngoằn ngoèo, chỉ mấy phút ông đă mất hút chỉ để lại phía sau một đám bụi mờ. Tất cả mọi người xúc động, không ai nói nên lời, giáo sư Mortimer cầm máy ảnh nhưng không sao chụp được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 289 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 6:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
CƠI GIỚI VÔ H̀NH
Chương Chín
Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cơi vô h́nh. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đă gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một ḿnh trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi. Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng ḷng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy g̣, khắc khổ và một thân h́nh mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
Giáo sư Evans-Wentz vào đề :
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
Pháp sư thản nhiên :
- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cơi vô h́nh.
- Như thế ông tin rằng có ma…
Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :
- Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng c̣n là đối tượng nghiên cứu của tôi.
- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?
- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, v́ con người thường sợ hăi cái ǵ mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đă phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hăi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa th́ có lẽ ta sẽ không c̣n sợ hăi. Các ông đ̣i hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?
- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
- Được lắm, các ông hăy nh́n đây.
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc pḥng để xuống đất. Ông ta thong thả :
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói ǵ, giáo sư Mortimer nóng nảy :
- Nếu ông nghiên cứu về cơi vô h́nh, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
Vị pháp sư nghiêm giọng :
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cơi giới, chứ không phải chỉ có một cơi này.
- Khi chết ta bước qua cơi trung giới và cơi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. V́ lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cơi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan ră giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan ră hết th́ con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao th́ quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không c̣n bao cát nào, th́ nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cơi âm, th́ cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xă hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, c̣n đầy thú tánh. V́ ở cơi âm, không có thể xác, h́nh dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các h́nh dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rơ rệt về cơi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu v́ đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường t́m cách trở về cơi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cơi trần không nh́n thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đ́nh tửu quán, các nơi mổ xẻ thú vật để t́m những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà t́m cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng t́m cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục t́nh th́ quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và t́m cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích th́ ngay trong giây phút mà họ không c̣n tự chủ được nữa, các loài ma t́m cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. V́ không được thoa? măn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cơi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cơi này, mà thức tỉnh ở một cơi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta c̣n ở cơi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nh́n nhau, vị pháp sư Ai cập đă diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lư thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?
Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lư học tốt nghiệp đại học Oxford…
Giáo sư Harding giật ḿnh kêu lên :
- Oxford ư ? Ông đă từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.
(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đă phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lư).
- Nhưng làm sao ông biết rơ được cơi giới này ? Ông đă đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?
- Tôi đă khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi c̣n là sinh viên tôi đă say mê môn Vật lư siêu h́nh (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc th́ khoa học phải bó taỵ Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên b ác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cơi âm, tôi đă học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cơi âm v́ tôi có thể sang tận đây học hỏi và cơi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu h́nh, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :
- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?
- Dĩ nhiên, v́ tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cơi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích ǵ không ?
- Các ông nên biết cơi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cơi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rơ ràng…..
- Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….
- Ông có thể làm như vậy không ?
Vị pháp sư nghiêm mặt :
- Tất cả những việc ǵ có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, v́ chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
- Xin ông nói rơ hơn về những cảnh giới cơi âm.
- Các ông nên biết dù ở cơi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, th́ bên cơi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấy vật nặng sẽ ch́m xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên th́ cơi vô h́nh cũng thế. Nguyên tử cơi âm rung động với một nhịp độ khác với cơi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cơi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải ch́m xuống dưới v́ nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước v́ đă quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh h́nh dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đă là khổ sở lắm rồi, các ông hăy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thoa? măn th́ c̣n khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không sao thỏa măn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra th́ y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cơi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cơi trần, tại đây các vong linh ít c̣n thèm muốn vật chất như ăn uống, dục t́nh, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa măn bản ngă, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có h́nh dáng giống như người cơi trần, nhưng lờ mờ không rơ. V́ sự rung động của nguyên tử gần giống như cơi trần nên họ hay trở về cơi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyện vu vơ nhằm thỏa măn tự ái, bản ngă cá nhân. V́ đa số vong linh khi c̣n sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngă, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm. Cơi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cơi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đă bớt ham muốn về cá nhân, nhưng c̣n ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cơi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô h́nh có h́nh dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cơi này c̣n có sự hiện diện của những “h́nh tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh th́ chúng sử dụng tinh chất cơi này tạo nên một h́nh tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. V́ đa số tư tưởng con người c̣n mơ hồ nên h́nh tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan ră ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một h́nh tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các h́nh tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế h́nh tư tưởng này c̣n chịu sự sai khiến của ông ta. Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô h́nh để sai khiến. H́nh tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà c̣n từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ư nghĩ, họ sẽ tạo ra một h́nh tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. H́nh tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với t́nh cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của h́nh tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là t́nh cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lư trí. Một người sống nhiều bằng lư trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người b́nh thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lư, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cơi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cơi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng c̣n quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ư thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đ́nh hay quốc gia. Cơi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lănh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn tŕnh độ của nhân loại. Cơi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cơi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không c̣n dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.
- Như thế người chết thường lưu lại ở cơi Trung giới bao nhiêu lâu ?
- Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan ră hết th́ mới lên đến cơi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cơi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.
Mọi người yên lặng nh́n nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lư và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nh́n thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lư tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lư thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học.
Hamud mỉm cười tiếp tục :
- Sự hiểu biết về cơi vô h́nh rất quan trọng, v́ khi hiểu rơ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là h́nh hài, xác thân chứ không phải sự sống, và h́nh hài có chết đi, th́ sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lư và khoa học cho ta thấy rơ sự công b́nh của vũ trụ. Khi c̣n sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thỏa măn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ v́ không c̣n lư trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là ǵ ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi c̣n trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cơi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lư và dễ chứng minh. Khi c̣n trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, th́ khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi c̣n trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc th́ khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đ̣i hỏi thể xác, th́ các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người c̣n trẻ, ḷng ham muốn c̣n mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cơi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của ḿnh ở cơi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cơi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền năo để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cơi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cơi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cơi giới cao hơn.
- Nhưng c̣n các ma quỷ th́ sao ?
- Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng c̣n lưu luyến cơi trần, c̣n say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cơi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cơi trần trong một thoáng giây có thể nh́n thấy chúng…Khoan đă, các ông hăy xem ḱa, người bạn của tôi đă làm xong việc.
Hamud chỉ vào góc pḥng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đă thành h́nh từ lúc nào không ai rơ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :
- Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm tṛ ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khá,c tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông th́ c̣n ai nữa ?
Quả thế, vị pháp sư gầy g̣ không thể mặc chiếc áo đan to tướng , rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đă rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể ṿng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán v́ đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai mua. Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc :
- Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?
- Tôi không phải là một phù thủy, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô h́nh bên cơi âm. Tôi hiểu rơ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái ǵ. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cơi vô h́nh một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu h́nh là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ư chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói v́ sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hăy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, c̣n như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hăi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, v́ một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm v́ như tôi đă tŕnh bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự ḿnh qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cơi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cơi, th́ ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cơi trần nên chỉ giới hạn trong cơi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cơi giới vô h́nh dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không c̣n sử dụng được nữa th́ linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngay. Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi c̣n sống, ta có thể nh́n thấy cơi âm một cách dễ dàng.
Giáo sư Allen ngập ngừng :
- Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?
Hamud lắc đầu :
- Đó là một quan niệm không hợp lư, v́ điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cơi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lư v́ sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết ḿnh, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham th́ khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không c̣n được thỏa măn v́ thể xác đă hư thối, tan ră mất rồi. Sau khi chết, t́m về nhà thấy con cháu ăn uống linh đ́nh mà họ th́ không sao ăn được, ḷng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.
- Như ông đă nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thỏa măn không ? - Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc th́ loài ma đói xúm quanh cũng t́m cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thỏa măn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa măn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ xẻ súc vật, ḷ sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô t́nh mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.
- Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?
- Sự hiện h́nh ở nghĩa địa chỉ là h́nh ảnh của thể phách đang tan ră, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối th́ thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan ră theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cơi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực c̣n rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. V́ đang tan ră nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những h́nh ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu th́ gọi đó là ma. Theo sự hiểu biết của tôi, th́ việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, v́ để thể xác tan ră từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy ḿnh không c̣n ǵ quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.
- Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xă hội ? - Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi c̣n sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cơi âm lâu hơn người chết già v́ c̣n nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ư định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cơi âm xác nhận rằng, “Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.” - Số phận của những người quân nhân tử trận th́ ra sao ?
- Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lư tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, v́ cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đă quên ḿnh để chết và sống cho lư tưởng th́ cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lư tưởng và những kẻ giết chóc v́ oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.
- Như ông nói th́ người chết vẫn thấy người sống ?
- Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dơi mọi sự dễ dàng v́ các giác quan thể vía. Không những thế họ c̣n biết rất rơ tư tưởng, t́nh cảm liên hệ; mặc dù họ không c̣n nghe thấy như chúng ta. Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.
- Như vậy th́ họ ở gần hay ở xa chúng ta ?
- Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đ́nh, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ư thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đ́nh để sống hẳn ở cơi giới của họ.
- Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?
- Điều này không có ǵ khó. Hăy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết th́ ta không nên quấy rầy, v́ làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, th́ nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không c̣n bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các kư ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng v́ nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cơi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ư thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cơi giới nào vong linh sẽ đến.
- Ông du hành sang cơi âm thế nào ?
- Nói như thế không đúng lắm, v́ ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cơi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cơi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cơi trần không thấy cơi âm v́ nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cơi âm. Quan niệm về không gian cũng khác v́ đây là cơi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ h́nh ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngay. Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng v́ không c̣n đi bằng hai chân như thể xác.
- Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?
- Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cơi trần là bao. Lúc đầu họ c̣n bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo t́nh cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đă gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn v́ vợ con ông vẫn c̣n đó nhưng chả ai để ư đến ông. Họ tin rằng ông đă lên thiên đàng, v́ họ đă bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đă xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đă qua đời cũng đến t́m gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ c̣n ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đă gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận v́ không c̣n ảnh hưởng được ǵ, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi đă gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ t́m ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi t́m cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông c̣n khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ t́nh yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm ǵ được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lănh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy th́ cảm thấy bất lực khi không c̣n ảnh hưởng ǵ được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hăy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, v́ y không tin ḿnh đă chết, nên cứ ở trong t́nh trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. V́ đầu óc hôn mê, nên y không nh́n thấy cơi âm, mà vẫn giữ nguyên h́nh ảnh cơi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đă cố gắng thuyết phục nhưng nói ǵ y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cơi vô h́nh, tôi t́m được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mănh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc ḿnh đă chết và siêu thoát…
- Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?
- Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , v́ nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mănh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cơi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một h́nh thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.
- Như ông nói th́ tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?
- Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi th́ tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.
- Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi ǵ không ?
- Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng ḿnh được cứu rỗi th́ như được một vé phi cơ lên thiên đàng, c̣n không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hăi, lo âu vô ích. Nếu một người chết th́nh ĺnh th́ sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc th́ sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đă có một đời sống cao đẹp, th́ tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đ́nh nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi ĺa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi th́ sự hiểu biết về cơi vô h́nh, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng răi, nhưng tiếc là ít ai chú ư đến việc này.
- Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ ǵ ?
- Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt ḷng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cơi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một ṿng tṛn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cơi âm, dương, giữa thế giới hữu h́nh và vô h́nh. Trên con đường tiến hoá, c̣n hằng ha sa số các chu kư, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cơi thượng giới cũng phải qua cơi trung giới. Phần ở cơi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ ṿng tṛn tiến sâu vào cơi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ư hướng về tâm linh. Các cổ thư đă vạch ra một đời sống ở cơi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đ́nh, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu th́ 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngă, cho sự sống c̣n, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân b́nh và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ư tôi, chính v́ sự thiếu hiểu biết về cơi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cơi trần. Chính v́ không nh́n rơ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cơi trần đối với toàn kiếp người, th́ không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lăng các cơi trên. Nếu con người hiểu rằng quăng đời ở cơi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cơi khác c̣n gần với chân lư, sự thật hơn th́ có thể họ đă hành động khác đi chăng ? Có lẽ v́ quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cơi khác là không có…
- Nhưng nếu ông cho rằng các cơi kia c̣n gần với sự thật hơn, th́ tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cơi trần làm ǵ ? Tại sao không rũ nhau đi sang cơi khác có tốt hơn không ?
Hamud mỉm cười :
- Tuy cơi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, v́ con người chỉ có thể t́m hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cơi trần có các bài học mà ta không t́m thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cơi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cơi trên.
- Ông muốn nói sự nhạy cảm như thế nào ?
- Sự mở mang trí tuệ giống như một máy thu thanh, và các rung động ví như các tầng sóng. Một người không hiểu biết, ví như máy thu thanh không bắt trúng đài, không thay đổi băng tầng. Họ sinh ra sao th́ chết cũng vậy, chả học được điều ǵ, v́ như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè. Một người hiểu biết là người biết thay đổi con người của ḿnh để bắt trúng những tầng sóng. Dĩ nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và con người sẽ bị tràn ngập bởi các làn sóng này cho đến khi họ điều hoà, phân biệt điều hay, lẻ dở, để chọn những bằng tầng thích hợp hơn. Khi đó, họ bắt trúng những đài phát thanh, nghe được điệu nhạc họ muốn. Huyền âm của thượng đế lúc nào cũng vang lừng trong vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để nghe, biết thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao, tế nhị đó.
Mọi người gật đầu thán phục vị pháp sư Ai cập đă dùng những thí dụ cụ thể để giải thích một điều phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc :
- Ngoài việc khai mở giác quan để nghiên cứu cơi âm, ông c̣n làm ǵ nữa ?
- Việc nghiên cứu sẽ không có ư nghĩa ǵ, nếu ta chỉ quan sát như một khách bàng quang, đứng ngoài nh́n ngắm. Con người cần học hỏi những điều ǵ xảy ra khi họ từ trần, để thay đổi thích hợp với cuộc sống mới, không những cho họ mà c̣n cho những người thân. Càng hiểu biết bên kia cửa tử, họ càng dễ dàng hướng dẫn các vong linh khác.
- Nói một cách khác, ông hay giúp đỡ những vong linh vừa từ trần ?
- Chính thế, đó là công việc của tôi. Phần lớn người chết thường xúc động và không chấp nhận rằng họ đă chết, họ muốn bám víu lấy cơi trần, và trở nên các loài ma vất vưởng. Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho họ rằng ở cơi âm nếu muốn siêu thoát cần thay đổi trọn vẹn lối sống. Việc này dĩ nhiên rất khó v́ các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều người luyến tiếc cơi trần , v́ họ có những việc chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được an để siêu thoát. V́ thế sự hiện diện của một người c̣n sống như tôi rất hữu ích, tôi có thể giúp họ hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát…
- Công việc này có kết quả ǵ không ?
- Đây là một việc hết sức khó khăn, nên tôi phải kết thân với một số bạn bè bên cơi âm. Nếu vong linh u mê nhất định không nghe, th́ tôi phải nhờ những bạn bè, người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ. Thí dụ như một vong linh bị chết trong một trận hỏa hoạn tại Luân đôn. Y bị kẹt trong toà nhà ba tầng, không sao thoát được, nên chết ngộp bởi khói. Y không tin ḿnh đă chết, nên thần thức vẫn vùng vẫy, t́m chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y quá lo sợ chết cháy, nên không chịu tin lời tôi. Sau tôi phải nhờ mẹ y đă từ trần từ nhiều năm trước đến khuyên bảo th́ y mới chấp nhận và siêu thoát.
- Ông muốn nói rằng thân quyến có thể làm việc đó, dù họ chết đă lâu ?
- Dĩ nhiên, sự liên hệ giữa con người với nhau đâu phải t́nh cờ mà do nhiều duyên nghiệp từ trước. Nếu sợi dây thân ái vẫn c̣n, th́ dù qua đời họ vẫn để ư lưu tâm đến những người họ yêu mến. Dù đă siêu thoát lên cảnh giới riêng, nhưng họ vẫn sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu của họ.
- Như vậy sau khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích hay sao ?
- Dĩ nhiên, như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao th́ chết vẫn vậy, đâu có đổi thay ǵ. Nếu t́nh cảm vẫn c̣n th́ họ vẫn t́m đến gặp nhau. Thật ra nếu ta xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới mới, quang đăng, sáng sủa hơn th́ chúng ta sẽ không có cảm tưởng xa người quá cố. Sự thật là không có điều ǵ chia cách linh hồn cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động chân thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu phải chỉ xác thân. Xác tuy hư hoại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm nhận được t́nh thương của tạ Họ c̣n biết các đau buồn, cảm giác của ta, v́ họ đọc được tư tưởng. Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dơi th́ khi ta chết đi, họ sẽ đón tiếp để trấn an ta. Đây là một vấn đề cần được lănh hội cẩn thận, v́ khi hiểu biết ta sẽ không c̣n sợ hăi, ta chấp nhận sự chết như một việc hiển nhiên. Bên kia cửa tử cũng như cơi trần, luật thiên nhiên luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng.
- Làm sao chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta sẽ gặp người thân ?
- Như tôi đă tŕnh bày, có bảy cảnh ở cơi trung giới và sự thức tỉnh ở cảnh nào hoàn toàn tùy theo tâm thức con người rung động cùng với nhịp rung của cảnh đó. Con người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh đó hoặc cảnh thấp hơn mà thôi. Đa số những người qua đời đă lâu, thể vía đă được thanh lọc nên thường sống ở cảnh giới cao hơn, do đó họ có thể tiếp xúc với những người ở cảnh giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ thức tỉnh ở cảnh thứ bảy hay thứ sáu chỉ muốn t́m về cơi trần mà thôi, ít khi ư thức cảnh giới khác. Có nhiều vong linh sau khi đă lên đến cảnh giới cao lại t́m về những cảnh thấp hơn, không phải họ ham mê ǵ cơi này, nhưng v́ ḷng thương người, họ muốn giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ, những kẻ lạc lơng, bơ vơ không ư thức.
Hamud im lặng một lúc rồi thong thả :
- Cứu trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết sức cần thiết v́ người chết th́ nhiều, mà người hiểu biết lại chẳng có bao nhiêu….
- Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang năng đặc biệt như ông, hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ…
Hamud lắc đầu :
- Không phải khi từ trần mới làm được việc này. Khi c̣n sống ta vẫn có thể làm được mà cũng không cần khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai biết suy nghĩ đều có thể làm được. Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể vía của ta được tự do có thể hoạt động bên cơi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một sự giúp đỡ, an ủi nhắm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người không phân biệt th́ điều này sẽ được thực hiện.
- Chỉ thế thôi ư ? Như vậy th́ ai làm chẳng được ?
- Dĩ nhiên, điều này không nguy hiểm ǵ hết v́ tư tưởng có một sức mạnh thần giao đặc biệt và có một mănh lực phi thường ở cơi âm. Nếu ta tập làm những việc này khi c̣n sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cơi bên kia v́ ta đă quen thuộc với nó rồi. Ta c̣n gặp những người nhờ tư tưởng của ta mà được giúp đỡ, dĩ nhiên là họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục làm những công việc này…
- Làm sao có thể dễ dàng như thế được ?
Hamud mỉm cười :
- Nghe th́ dễ thật nhưng nó đ̣i hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất việc làm của ta phải bất vụ lợi, vị tha, vô tư v́ cơi âm là cơi tư tưởng . Nếu ta có ư định mưu đồ việc ǵ, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết thế nào mà lường được. Thứ hai, đa số vong linh đều u mê, ngoan cố, rất khó thuyết phục, v́ các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cơi trần v́ con cháu khóc than, thương tiếc quá làm họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công việc này đ̣i hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối rối, xúc động. Nhưng khi ta đă phát tâm th́ tư tưởng này sẽ là một khí cụ rất tốt giúp đỡ ta rất nhiều. Theo ư kiến của tôi, th́ việc có một kiến thức rộng răi về cơi âm là căn bản đầu tiên.
Giáo sư Allen lắc đầu :
- Nếu nói rằng khi ngủ, ta qua cơi âm. Tại sao tôi không ư thức một tí ǵ cả ? Phải có một bằng chứng nào rơ rệt mới tin như vậy được.
- Các ông hiểu thế nào về sự cấu tạo của con người. Trong lúc tỉnh, thể vía là cây cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên ngoài do hệ thần kinh giao cảm, được thể vía chuyển vào tâm thức, sau đó mới ghi nhận ở khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải không ? Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác. Nó cần phục hồi sức khoẻ nên nằm yên, nhưng thể vía lại khác. Nó vẫn hoạt động v́ bằng chứng là đôi khi ngủ say nhưng ta vẫn ư thức mọi việc xảy ra chung quanh, có đúng thế không ? Thể vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, v́ tính chất này nó rất mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục vọng. Các tính xấu như giận hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo thành một lớp vỏ bao trùm lên thể vía, và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính t́nh con người chỉ là một thói quen của tư tưởng. Như tôi đă tŕnh bày, tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều bị thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến t́nh cảm con người. Bằng chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm. Có người tự hỏi, tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ, không thể tu tập các pháp môn thiền quán ? Ấy v́ thể vía họ lao chao, giao động. Họ cần biết cách chủ trị t́nh cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc như thịt cá, rượu, các chất kích thích cũng đem vào thể vía những phần nặng trọc. Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này, v́ nó rất có hại cho việc tham thiền, quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bảy trung tâm giao điểm sinh lực gọi là Luân xa. Tại đây, có một tấm màn cấu tạo bằng nguyên tử cơi trần để ngăn chận ảnh hưởng cơi âm. V́ thế, kư ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển sang khối óc vật chất. Tuy nhiên, đôi khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái ǵ mà không sao nhớ được. Đối với một người b́nh thường th́ luân xa không thức động nên tấm màn này khép chặt nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá hoại tấm màn này khiến nó bị rách và ảnh hưỏong cơi âm có thể chuyển qua cơi trần khiến y bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị các loài ma quỷ nhập vào sai khiến.
Giáo sư Allen lên tiếng :
- Những điều ông tŕnh bày rất lạ lùng, nhưng cũng có lư. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của chúng tôi th́ khoa học không thể chứng minh điều này. Liệu có cách nào khiến chúng tôi cũng khai mở các quan năng để nghiên cứu cơi giới vô h́nh như ông không ?
Hamud gật đầu :
- Sự khai mở quyền năng thuộc phạm vi tâm thức, trước khi mở tâm phải tinh luyện các thể đă. Nếu chưa thanh lọc được các thể th́ đừng nói đến khai mở bất cứ một giác quan nào.
- Vậy ta phải luyện các thể bằng cách nào ?
- Tinh luyện thể trí bằng sự suy tư chân chính. Trí tưởng tượng con người là một công cụ sáng tạo hữu hiệu. Khi ta suy tư, tưởng tượng, ta vô t́nh xây dựng thể trí. Nếu ta chỉ suy tư những điều tốt lành, cao thượng th́ ta đă luyện trí rồi. Sau thể trí là thể vía, thể này chỉ luyện bằng cách ham muốn chân chính. Hăy ham mê các điều cao thượng th́ tự khắc thể vía sẽ phát triển.
- Ông nói nghe thật dễ dàng. Tư tưởng cao thượng và ham muốn chân chính là những điều trừu tượng, làm sao có thể làm được…
- Đa số mọi người quan niệm như thế nên chả khi nào tiến bộ được. Con người muốn quyền năng, giải thoát nhưng chỉ chờ đợi một phép lạ, một tha lực ngoại giới, chứ không tự tin rằng ḿnh có khả năng làm những việc đó.
- Dù tôi muốn thanh lọc các thể th́ cũng phải có một phương pháp, một sự hướng dẫn, một kỹ thuật nào đó, chứ nói một cách trừu tượng th́ ai nói chẳng được.
- Theo sự hiểu biết của tôi th́ tôn giáo nào cũng dạy những điều cao đẹp và áp dụng những lời dạy này. Đây cũng là một phương pháp, kỹ thuật thanh lọc các thể.
- Như vậy, ông theo phương pháp nào ? Hăy nói về kinh nghiệm của ông đă…
Hamud trầm ngâm rồi gật đầu :
- Được lắm, tôi được truyền thụ phương pháp này tại một tu viện ở Tây Tạng, nên chịu ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều. Thứ nhất là luyện thể xác, phải biết cách kiểm soát, kiềm chế thể xác hoàn toàn, quy định mọi hoạt động như ăn, uống, ngủ cho thật đúng. Thức ăn được phân làm ba loại : tỉnh, động và điều hoà. Người tập phải tránh đồ ăn “tỉnh” v́ nó làm thể xác hôn mê, lười biếng, bất động. Các thức ăn có đặc tính “tỉnh” là các món đang lên men, các thứ đồ khô, các loại rượu. Các món ăn có đặc tính “động”, như thịt, cá, thường đem lại các kích thích hăng hái nhất thời, xác chết thú vật gồm nhiều nguyên tử nặng nề bởi các thú tính thấp hèn không thích hợp cho việc tu hàn, thanh lọc. Chỉ có các món ăn “điều hoà” là thứ có khả năng tăng trưởng, chứa nhiều sụ sống như ngũ cốc, v́ nó đâm mầm, nẩy lộc, các loại trái cây vốn tràn đầy nhựa sống, các loại rau cỏ vốn hấp thụ khí thái dương cần thiết cho một thể xác cường tráng, nhạy cảm. Sau việc ăn uống, c̣n phải thở hít, hô hấp cho đúng cách. Khoa học chứng minh con người sống được là nhờ hơi thở nhưng thật ra đó nhờ sinh khí (prana). Chính các sinh khí này thấm nhuần khắp cơ thể, mang sự sống đến khắp tế bào. Prana xuất phát từ ánh sáng mặt trời, nó rung động và pha trộn trong không khí. Bằng cách hô hấp thật sâu, thong thả. Prana sẽ thấm vào thần kinh hệ và lưu thông khắp châu thân, mang sự sống khắp xác thể. Chính các Prana tích tụ trong hệ thần kinh tạo ra luồng “nhân điện”, một yếu tố quan trọng của sự sống.
Tóm lại, dinh dưỡng đúng cách bằng các món ăn có đặc tính “điều hoà”, tập thở hít đúng cách là phương pháp tinh luyện thể xác vô cùng quan trọng. Như các ông thấy, phương pháp này không có ǵ trái với khoa học hiện tại. Cách thực hành có thể khác nhau tùy cá nhân, người gọi là thể dục, kẻ gọi là thiền định, điều này không quan trọng v́ căn bản chính chỉ nhằm đem lại một thể xác lành mạnh, cường tráng. Người luyện thể xác cần sống nơi thoáng khí, nhiều ánh sáng mặt trời để đón nhận các sinh lực prana, nhằm bổ túc luồng nhân điện. Các món ăn như thịt cá mang lại các rung động thô bạo, khiến luồng nhân điện này chạy loạn lên khó kiểm soát, gây nên các bệnh tật hoặc phá hoại hệ thần kinh. Các món ăn “tỉnh” như rượu làm tê liệt bộ thần kinh khiến luồng nhân điện bị ngắt quăng không đều, ngăn trở các sinh khí prana lưu thông mang sinh lực nuôi thể xác, gây nên nhiều hậu quả không tốt.
Sau khi thanh lọc thể xác, ta bắt đầu luyện đến thể vía. Thể vía là trung tâm của t́nh cảm, một khi t́nh cảm trong sạch, vị tha, bác ái, đương nhiên các chất thanh nhẹ sẽ được hấp thụ vào và các chất nặng trọc, xấu xa sẽ bị đào thải ra ngoài, theo một nguyên lư giống như sự thấm lọc (osmose). Khi thể vía thanh cao, nó sẽ rung động với các tư tưởng cao thượng mang tâm thức lên một b́nh diện cao hơn. Khi sự rung động đến một chu kỳ nào đó, các giác quan thể vía bắt đầu khai mở tự nhiên, con người sẽ bắt đầu có quyền năng đặc biệt. Nói một cách khoa học hơn, các giác quan thể vía chỉ hoạt động ở một chu kỳ và chỉ khi nào thể vía rung động đúng chu kỳ này nó mới được đánh thức để hoạt động. Thể vía chỉ có thể rung động ở chu kỳ này v́ nó được cấu tạo bằng những nguyên tử thật thanh, nhẹ, khi những nguyên tử nặng trọc bị khu trục hết. Điều này chỉ xảy ra khi con người chỉ có các t́nh cảm cao thượng, ḷng bác ái tốt lành bao trùm mọi vật. Đó là bí quyết cách luyện thể vía.
Khi bảy giác quan của thể vía hoạt động, nó sẽ khai mở một số bí huyệt để luồng hoa? hầu Kundalini thức giấc. Khi luồng hoa? hầu này chạy dọc theo xương sống lên đỉnh đầu, nó sẽ thúc đẩy, khai mở thể trí khiến nó khai triển để hợp nhất với chân thần. Khi thể trí khai triển, mở lớn ra nó sẽ khởi sự tiêu diệt cái phàm ngă ích kỷ của con người để hướng đến các điều thánh thiện. Đây là một giai đoạn vô cùng khó khăn, rất ít ai vượt qua nổi. Danh từ Phật giáo gọi là Phật tánh biểu lộ, danh từ Thiên chúa giáo gọi là quên ḿnh để hoà nhập với đấng cứu thế, danh từ Ấn giáo gọi là sự hợp nhất với Chân Ngă. Nói một cách giản dị th́ đây là lúc trí tuệ quy kết các tư tưởng và hoạt động về t́nh huynh đệ, bác ái nhu thuận, từ bi, trí tuệ, vị tha, hỷ xả để kết tinh thành chân ngă. Khi phàm ngă hoàn toàn bị huỷ diệt, các thể cũng hoàn toàn được thanh lọc th́ không c̣n sự phân biệt giữa ta và tha nhân, giữa chủ thể và đối tượng mà tất cả đều là một. Thể trí không c̣n tính cách cá nhân mà đă thành “đại trí”, hay trí tuệ “bát nhă”. Tâm thức cũng không c̣n là tâm cá nhân mà thành tâm thức “bồ đề”, hoà hợp hoàn toàn với tâm thức vũ trụ. Cả tâm lẫn trí mở rộng đón nhận ánh sáng chân lư mà không c̣n phải học hỏi, lư luận ǵ nữa. Đây chính là giai đoạn giác ngộ của người tụ Họ trở nên một đấng siêu nhân, một vị Tổ, một vị Thánh…
Giáo sư Evan-Wentz thắc mắc :
- Căn cứ vào đâu ta biết được như vậy ? Phải có bằng chứng ǵ chứ ?
Hamud lắc đầu :
- Các kinh nghiệm quư báu, thiêng liêng đó chỉ có các bậc giác ngộ rồi mới hiểu được. Không một vị thánh nào vỗ ngực tự xưng đă đạt quả vị này hay quyền năng nọ. Khi đă giác ngộ th́ chức tước, danh vọng, địa vị đâu có nghĩa lư ǵ nữa, v́ họ đâu c̣n bản ngă thấp hèn như chúng ta để phân biệt. Chỉ có các “bậc lừa bịp”, các tu sĩ giả mạo mới thích danh vọng, chức tước , v́ bản ngă họ c̣n to lớn và cần các danh xưng, địa vị để lừa bịp tín đồ nhẹ dạ.
- Trên nguyên tắc th́ như vậy, nhưng c̣n phương pháp, kỹ thuật th́ sao ?
- Phương pháp, kỹ thuật th́ rất nhiều, con đường đến chân lư cũng thế, tùy theo nhân duyên, căn cơ cá nhân không thể áp dụng một kỹ thuật nào cứng nhắc được. Phương pháp, kỹ thuật có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc chỉ có một. Sự thật là chân lư luôn luôn được truyền dạy dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác., tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện. Phương pháp tuy khác nhưng chân lư vẫn là một giống như nước suối hay nước sông vẫn là nước mà thôi. (Tùy duyên bất biến). Chân lư có thể được truyền dạy bởi những thầy phù thuỷ trong các bộ lạc man dă hoặc các bậc giáo chủ trong kinh điển tôn giáo. Kinh điển hay tôn giáo có thể khác nhau về h́nh thức nhưng vẫn có điểm tương đồng mà ta phải chấp nhận.
- Chấp nhận phải chăng là một h́nh thức của tin tưởng ?
- Con đường đạo đ̣i hỏi một đức tin, nhưng không phải nhắm mắt tin tưởng bừa băi. Đức tin chỉ đến sau khi người t́m đạo tự ḿnh nhận thức rơ ràng, sau khi hiểu biết chứng nghiệm nó một cách rốt ráo. Các ông là những khoa học gia, không đời nào các ông tin tưởng một sự kiện ǵ nếu không kiểm chứng rơ ràng. Sự nghi ngờ là một điều cần thiết, nhưng nếu có những sự kiện mà khoa học không thể chứng minh hay chưa thể chứng minh được, các ông sẽ phải làm ǵ ? Phủ nhận chăng ? Nếu phủ nhận, các ông đă bỏ qua một cơ hội t́m hiểu nghiên cứu. Nếu chấp nhận mà không kiểm chứng th́ các ông đă mù quáng tin tưởng bừa băi. Tôi không mong các ông phải tin tưởng những điều tôi tŕnh bày, nhưng mong các ông hăy suy gẫm, nghiên cứu nó. Nếu chưa thể sử dụng các dụng cụ khoa học thực nghiệm để chứng minh th́ hăy sử dụng lư trí, trực giác, v́ sự nghiên cứu cơi âm là một khoa học, chứ không phải một sự tin tưởng bừa băi. Kiến thức về cơi giới này sẽ giúp đỡ nhiều người, tôi tin rằng trong một ngày không xa sẽ có nhiều cuộc nghiên cứu về đối tượng này.
- Tại sao ông không công bố những khám phá của ḿnh cho mọi người ? Tại sao ông lại ẩn thân một nơi hoang vu như thế này ? Nếu ông muốn, kiến thức của cơi giới này được nghiên cứu rộng răi th́ ông phải là người khởi xướng nó lên để mọi người được biết , và biết đâu sau đó lại chẳng có những cuộc nghiên cứu ?
Hamud mỉm cười :
- Khi tŕnh độ con người chưa đến lúc, th́ có những điều chưa thể công bố được. Các bậc giáo chủ ngày trước đă giảng dạy chân lư làm thành hai phần, Công truyền và Bí truyền. Tại sao các ngài lại dạy riêng cho một thiểu số môn đồ giáo lư Bí truyền ? Phải chăng các ngài biết chỉ một thiểu số người mới có thể lănh hội được những điều ngài giảng dạy. Khoa học nghiên cứu về cơi âm cũng có những sự nguy hiểm riêng của nó, không thể truyền dạy bừa băi cho tất cả mọi người.
- Xin ông giải thích rơ hơn về việc này, tại sao lại nguy hiểm ?
- Tôi vừa tŕnh bày cho các ông một phương pháp tinh luyện các thể như tôi đă được truyền dạy. Dĩ nhiên, c̣n có nhiều phương pháp khác cũng mang lại các kết quả tương tự nhưng cứu cánh lại khác hẳn. Có hàng trăm phương pháp phát triển năng khiếu thần thông, nhưng người tu phải hiểu rằng quyền năng chỉ là những phương tiện thấp thỏi, giúp ta mở rộng kiến thức. Quyền năng không bao giờ là một cứu cánh, một mục đích. Sự tham luyến, vọng tưởng sẽ đưa người có quyền năng vào ma đạo. Người tu hành cần ư thức rơ rệt rằng chỉ khi nào phàm ngă hoàn toàn bị tiêu diệt th́ con người mới thoát khỏi ảo ảnh của màn vô minh và thực sự chứng nghiệm chân lư. Quyền năng càng cao ta càng phải lập hạnh, nghiêm khắc giữ ǵn đề cao cảnh giác các ảo ảnh của vô minh….
- Ông nói đến vô minh như một cái ǵ trừu tượng, liệu ông có thể lấy một thí dụ dễ hiểu hơn không v́ danh từ này c̣n xa lạ với chúng tôi ?
- Hăy lấy thí dụ một người tu hành công phu khổ luyện đă bắt đầu khai mở vài quyền năng thô thiển như Thần Nhăn chẳng hạn. V́ số người có quyền năng này ở cơi trần rất ít, người đó tưỏong ḿnh tiến bộ vượt bực, đă trở nên một đấng này, đấng nọ. Ḷng kiêu căng phát triển xúi dục họ nghĩ rằng ḿnh đă đắc quả vị lớn lao, đă được giao phó các sứ mạng cao cả. Họ tự phong cho ḿnh những chức tước, danh vọng hoặc đôi khi tín đồ xưng tụng cho họ là đấng này, đấng nọ, th́ họ cũng chấp nhận tuốt. Họ nghĩ ḿnh đă sáng suốt, cao cả th́ c̣n lầm lạc thế nào được nữa… Họ đâu hiểu rằng trong cơi âm có rất nhiều vong linh bất hảo hay t́m cách hướng dẫn sai lạc những người non nớt vừa bắt đầu khai mở quyền năng. Dĩ nhiên với trí tuệ nông cạn, họ không có một tiêu chuẩn nào để xét đoán, hiểu biết những hiện tượng, những điều họ nh́n thấy và trắc nghiệm xem điều đó có hợp với chân lư hay không ? Bởi thế họ dễ bị lung lạc để trở nên một tay sai đắc lực của các vong linh, ma quỷ, các sinh vật vô h́nh. Như các ông đă thấy những pháp sư, thầy phù thuỷ, các tu sĩ thiếu sáng suốt, thiếu công phu tu hành, thiếu tŕ giới, đều rơi vào cạm bẫy của vô minh cả. Họ có một vài quyền năng thật nhưng không sử dụng nó vào mục đích giúp dời mà sử dụng vào các việc ích kỷ hại nhân…
- Nhưng làm sao tránh được các điều này ? Làm sao một người mới bắt đầu có quyền năng biết được những điều ḿnh nh́n thấy không phải là ảo ảnh của vô minh, những điều ḿnh chứng nghiệm không phải sự truyền dạy vu vơ của loài sinh vật vô h́nh ?
Hamud nghiêm trang tuyên bố :
- Người nào sống một đời tinh khiết về tư tưởng và hành động, không bị ô nhiễm bởi ích kỷ th́ sẽ được che chở. Với các rung động thanh cao, các ảnh hưởng xấu không thể xâm nhập, các vong linh bất hảo thấy người đó không có ǵ để chúng lợi dụng được. Trái lại, một người c̣n nhiều tham vọng, thiếu công phu tŕ giới th́ chính sự rung động bất thiện phát xuất từ nội tâm người đó, sẽ hấp dẫn các vong linh, ma quái đến quanh. Trong họ c̣n đầy đủ các khí cụ như Tham, Sân, Si, ích kỷ, mê muội th́ quá dễ dàng để các vong linh lợi dụng. Một tu sĩ bất cứ tôn giáo nào cũng đều phải giữ giới, tuân các điều răn v́ các bậc giáo chủ sáng lập tôn giáo đă đi qua con đựong đó, đă biết các hiểm nguy và đặt ra cấm điều để cho người theo sau biết đường mà tránh.
- Nhưng các lối tu luyện thần thông vào mục đích nhất định như chữa bệnh th́ sao ?
- Điều này tùy tâm thức người luyện, nhưng theo sự hiểu biết của tôi th́ bất cứ lối tập luyện nào thiếu sự đứng đắn đều đưa vào con đường nguy hiểm. Các ông nên biết một khi có quyền năng, dù là một quyền năng hạ cấp rất thô thiển, kẻ sự dụng nó đều có thể làm nhiều việc mà người b́nh thường cho là “phi thường”, v́ đa số nhân loại chưa có khả năng đó. Điều này khiến kẻ luyện dễ trở nên kiêu căng và nếu không có tâm trong sạch, y có thể sử dụng quyền năng này vào các điều tà vạy.
Giáo sư Allen lắc đầu :
- Ông nói điều xấu, điều tốt như có một tiêu chuẩn rơ ràng vậy. Tại sao ông không nghĩ xấu hay tốt chỉ là những điều tương đối. Một điều người Âu cho là vô lư có thể người Á châu lại chấp nhận như một sự kiện hữu lư.
Hamud gật đầu :
- Đúng thế, quan niệm xấu tốt, thiện ác ít nhiều chịu ảnh hưởng xă hội, nhưng vượt lên cao hơn nữa, chúng ta vẫn có luật vũ trụ kia mà. Theo sự hiểu biết của tôi, th́ có hai con đường: Chánh đạo và Tà đạo. Con người làm chuyện tà đạo là khi y dùng quyền năng tiềm tàng của ḿnh để mưu lợi riêng cho sự phát triển cá nhân, và sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của kẻ khác. Phát triển cá nhân ở đây có nghĩa là sự bành trướng về giác quan, cảm xúc hay tri thức của cá nhân, mà không kể ǵ đến sự thiệt hại cho kẻ khác. Một người lợi dụng sự ngu dốt, yếu đuối của kẻ khác để thu lấy ít lợi lộc về tiền bạc hay thoa? măn tham vọng cá nhân tức là đang đi trên con đường tà đạo. Nếu y có chút quyền năng, y sẽ trở nên ghê gớm như thế nào ? Chánh đạo cũng là việc sử dụng những quyền năng của ḿnh, nhưng để phụng sự nhân loại. Trong khi phụng sự, con người sẵn sàng hy sinh mọi tiện nghi, tham vọng cá nhân ḿnh để làm việc hữu ích cho kẻ khác. Kẻ phụng sự dứt tuyệt các thú vui về giác quan, từ bỏ mọi tôn kính chính đáng mà y có quyền hưởng thụ, dẹp bỏ cái phàm ngă cá nhân, chỉ nên chú trọng đến mục đích đạt đến sự toàn thiện. Tà đạo sử dụng quyền năng qua các h́nh thức lễ nghi, cúng bái trợ lực để tạo nên các đoàn thể h́nh thức. Các h́nh thức này có thể là vật chất hay một tổ chức mà công cụ của nó không phải lo cho đời sống hay một lư tưởng cao thượng mà chỉ là một h́nh thức phát biểu cho quan niệm riêng của ḿnh. Chánh đạolà sử dụng các quyền năng cố hữu của bản chất con người để vượt qua mọi hạn định của h́nh thức. Để giải thoát tâm hồn khỏi các trói buộc của cảm giác, của sự tưởng tượng hay xu hướng nhất thời. Để tránh các cám dỗ, lừa gạt của vô minh, để phục vụ cái phần tử thiêng liêng của bản thể vũ trụ. Một người nghiên cứu huyền môn có thể đi trên đường chánh cũng như tà. Họ có thể t́m cách phát triển cá nhân qua sự tự chủ gắt gao để khai mở các quyền năng, thu thập kiến thức. Họ cũng có thể ao ước cơi thiên đàng mở rộng trong ḷng mọi người, và chính trong họ, qua các hành động bác ái, vị thạ Trong hai trường hợp, hạng đầu cầu mong kiến thức, quyền năng; hạng sau muốn trở nên người hữu dụng. Càng đi xa th́ sự tiến bộ càng khác biệt. Người sử dụng kiến thức, quyền năng để phụng sự, sẽ trở nên một bậc “Bồ Tát” (Bodhisattva), và chỉ có trái tim Bồ Tát mới là ánh sáng soi đựng, chỉ lối giúp họ đi trọn vẹn con đường đạo. Người cầu trí thức cho ḿnh chỉ quanh quẩn trong phạm trù cá nhân một lúc, thiếu từ bi, trí tuệ, y rất dễ bị sa ngă vào ma đạo lúc nào không haỵ Không có trí tuệ bát nhă soi đường, y dễ trở thành nạn nhân của vô minh. Điều này cũng như một người đi biển mà không có bản đồ, la bàn định hướng, mà đi bừa băi th́ làm sao đến nơi được. Đường đạo cũng thế, một tu sĩ phải tŕ giới nghiêm minh để tu thân, nhưng vẫn chưa đủ, mà c̣n phải lập những hạnh nguyện, xác định mục đích rơ ràng để hành động. Có tu th́ phải có hành, phải biết đem kiến thức của ḿnh ra để giúp ích cho những người khác. Trí tuệ phải đi đôi với Từ Bị Có “Trí” mà thiếu “Tâm” chỉ là mớ kiến thức vô dụng, một cái xác không hồn. Có “Tâm” mà thiếu “Trí” cũng không được v́ sẽ dễ sa ngă, đi lầm vào tà đạo. Đó là điều đă xảy ra trong quá khứ, các tu sĩ thiếu kiến thức, trí tuệ, đă bị vô minh che phủ. Họ coi thượng đế như một đấng thần linh để thờ phụng, tách ngài ra khỏi tín đồ và dạy bảo rằng thượng đế cao siêu quá, không thể nói chuyện với những người tầm thường được, mà phải qua trung gian của giới tăng lữ. Họ đặt đủ các ngôn từ hoa mỹ, thêu gấm dệt hoa vào giáo điều để tín đồ quay cuồng trong ngôn ngữ, mà xa lánh chân lư thực tế. Dần dần các chân lư cao đẹp bị bao phủ bằng các h́nh thức mê tín dị đoan, các điều xằng bậy, và đưa đến chỗ suy tàn…. Đó là điều đă xảy ra cho tôn giáo Ai Cập.
Giáo sư Evan-Wentz ngắt lời :
- Xin ông nói rơ hơn về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Lịch sử vẫn chưa hiểu tại sao nền văn minh này lại suy tàn nhanh chóng như vậy ?
Hamud ngồi im lặng như hồi tưởng một kư ức xa xôi nào đó, một lúc sao y gật đầu :
- Có nhiều giả thuyết về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Đa số đỗ lỗi cho chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai, nhưng ít ai biết rơ nguyên nhân sâu xạ Tôi không có ư muốn tiết lộ những điều này, v́ mục đích buổi tiếp xúc hôm nay là nói chuyện, tham khảo về cơi giới vô h́nh. Tuy nhiên, tôi sẵn sàng tiết lộ những điều thầm kín như một nhân duyên đặc biệt với các ông. Điều này không phải tự ư tôi, nhưng do một thông điệp tư tưởng của một vị chân sư chuyển giao. Tôi muốn tiết lộ những điều này như một cảnh cáo đối với thế giới ngày nay, để họ không đi vào vết xe của quá khứ…
Một lần nữa, sự hiện diện của một vị chân sư bí mật lại được nhắc đến khiến mọi người vô cùng cảm kích. Vị pháp sư Ai cập ngửa mặt nh́n lên trời như ôn lại dĩ văng :
- Trong thời buổi vàng son, nền văn minh Ai cập đă đến lúc cực thịnh. Các đạo viện với những minh sư truyền dạy khoa học huyền môn, đưa dân trí đến một mức tiến bộ vượt xa thời buổi hiện nay. Tuy nhiên, theo thời gian, nhiều tu sĩ đă không giữ ǵn giới luật khắt khe, hoặc không thấu hiểu các giáo điều cao siêu. Họ bèn t́m một lối đi ngắn hơn và dễ hơn, chú trọng về phương pháp kỹ thuật để đạt đến quyền năng. Thần thông trở nên mục đích chứ không phải phương tiện nữa. Để đạt mục đích, họ không ngần ngại hy sinh quyền lợi tôn giáo, quốc gia… Thiếu sáng suốt nên họ đi vào ma đạo, và chịu sự sai khiến của các động lực bất hảo. Các tăng lữ này lập thành phe nhóm, liên kết lẫn nhau, để tạo một ảnh hưởng cực mạnh, đến nỗi các vua Pharaoh hách dịch cũng phải kiêng dè. Họ lạm dụng danh từ tôn giáo, thần linh, truyền bá các tà thuật, phù phép, thần chú hắc ám để lôi cuốn tín đồ. Dĩ nhiên với các tà thuật, họ có thể làm mọi thứ mà một người b́nh thường vô phương chống lại. Chỉ một thời gian ngắn, dân chúng đều trở thành nạn nhân của một thứ tà giáo. Các vị pháp sư trở nên sứ giả của cơi âm, một thứ quỷ sống đội lốt người. Họ c̣n kêu gọi những âm binh hung ác nhất đến giúp họ đạt các mục đích ám muội. Trong đền thờ, khoa phù thuỷ thay thế sinh hoạt tâm linh và các tu sĩ chân chính bị loại trừ, đào thải nhanh chóng. Cũng v́ thế, khoa huyền môn chân chính trở nên thất truyền v́ không người tu học, nghiên cứu. Các tu sĩ chân chính phải trốn tránh, từ bỏ các giáo đường uy nghiêm. Nền văn minh đặt căn bản trên kiến thức huyền môn cũng tàn lụi, khi cánh cửa huyền môn chân chính khép chặt. Các ông nên biết, trong thời cổ, hầu hết các khoa học gia, y sĩ, các nhà toán học kiến trúc đều xuất thân từ giới tu sĩ hoặc học hỏi trong các tu viện; v́ thời đó, không có trường học hay nền giáo dục như bây giờ. Khi bùa chú, phép thuật mê hoặc nhân tâm, thúc đẩy con người từ bỏ thượng đế để tôn thờ các loài ma quái th́ các thứ như chiêm tinh, toán học, kiến trúc, không c̣n lư do để tồn tại. Thời gian trôi qua, nền văn minh Ai cập huy hoàng đă xuống dốc cực kỳ thảm hại. Chính các tu sĩ lầm lạc, ích kỷ đầy tham vọng là nguyên nhân gây nên hoàn cảnh trên. Họ lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, một thứ tôn giáo ma quái để đưa Ai cập vào con đường thoái hoá. Thay v́ lo giải thoát cho chính ḿnh khỏi mê lầm, th́ họ lại hướng dẫn quần chúng vào ma đạo. Thay v́ tuân theo các giới luật th́ họ lại phá giới, nguỵ biện bằng các danh từ hoa mỹ, tốt đẹp. Thay v́ kiểm thảo nội tâm, họ lập phe nhóm bênh vực lẫn nhau để che dấu các hành vi tà muội. Khoa nghi thức hành lễ mất hết các tính cách thiêng liêng, mà chỉ c̣n h́nh thức bề ngoài, kêu gọi một năng lực ngoại giới đến trợ giúp quyền uy giáo sĩ. Sự hiến dâng biến thành hối lộ, tu sĩ lựa chọn các thứ ḿnh thích nhất như món ăn, thiếu nữ xinh đẹp để tế thần. Sau đó đem chia chác cho nhau cùng hưởng thụ; thượng đế nhân từ bác ái bỗng biến thành một thần linh toàn lực, toàn uy, trọn quyển thưởng phạt mà giới giáo sĩ là trung gian. Để lung lạc nhân tâm, khoa bùa chú, thôi miên được sử dụng tối đa như một phương tiện cần thiết để thỏa măn tham vọng cá nhân. Để tránh các tinh túy huyền môn không lọt vào tay giới bàng môn tà đạo, các tu sĩ chân chánh đă sử dụng khoa Ám Tự (chữ tượng h́nh cổ Ai cập). Đây là một văn tự huyền bí ẩn dấu nhiều ư nghĩa tâm linh mà chỉ các tu sĩ chân chính sau khi vượt qua thử thách mới được tiết lộ. Sự sử dụng ư nghĩa biểu tượng hoặc tỷ dụ được dùng tối đa, chính Moses về sau đă sử dụng ngôn ngữ này trong các cuốn sách của Do thái . Sự bành trướng của nhóm tà đạo quá mạnh, các tu sĩ chân chính phải rút vào rừng sâu núi thẳm và cuối cùng th́ khoa huyền môn chân chính cũng thất truyền. Một số giáo sĩ, khoa học gia, các nhà toán học, kiến trúc, trốn sang Hy Lạp và truyền dạy các khoa này tại đây, mở đầu cho một nền văn minh mới. Trong khi đó, để lôi cuốn phe đảng, vấn đề truyền giáo được đặt ra và giới tăng lữ buộc các vua Pharaoh phải gây chiến tranh để truyền bá tôn giáo. Các cuộc “thánh chiến” này đă đem lại một giai cấp mới Nô lệ.
Giáo sư Mortimer ngạc nhiên :
- Như thế lúc trước không có nô lệ hay sao ?
Hamud lắc đầu :
- Nền văn minh cổ đặt căn bản trên sự bác ái hoàn hảo của từng cá nhân, làm ǵ có vấn đề nô lệ. Hiện tượng nô lệ chỉ bắt đầu khi văn hoá suy đồi, giới tu sĩ lộng hành và sau các cuộc chiến tranh. Lúc đầu họ là tù binh chiến tranh, về sau họ trở thành nô lệ. Sau đó các giáo sĩ đặt ra luật những ai không cùng tôn giáo đều bị coi là nô lệ. Dân Do thái v́ khác tôn giáo
nên trở thành nạn nhân đầu tiên. T́nh trạng nô lệ thay đổi xă hội rất nhiều, các giáo sĩ không cần sử dụng bùa chú, thôi miên để thỏa măn dục vọng, các nô lệ đương nhiên phải làm tất cả những ǵ chủ nhân muốn. Theo thời gian, pháp môn phù thuỷ, bùa chú cũng thất truyền v́ giới tu sĩ không cần đến nó nữa. Khi các phép thuật biến mất th́ uy tín các giáo sĩ cũng giảm theo, và các vua Pharaoh bắt đầu hạn chế quyền lực các giáo sĩ. Khi nền văn minh xuống dốc, các chân lư tốt đẹp biến mất, đời sống hưởng thụ của tiện nghi vật chất khiến các vua chúa trở nên ích kỷ, chỉ muốn kéo dài đời sống, nên phong tục xây cất nhà mồ, ướp xác trở nên thịnh hành,v́ nó hứa hẹn một đời sống vĩnh cữu. Công cuộc xây cất những ngôi mộ vĩ đại đă làm khánh kiệt tài sản quốc gia, đưa xă hội Ai cập vào một t́nh trạng suy thoái… Do đó, Ai cập trở nên một miếng mồi ngon cho Ba Tư và Hy Lạp.. Lịch sử đă ghi chép khá rơ ràng từ lúc này, tôi chắc các ông đă biết rơ….
Phái đoàn im lặng nh́n nhau, sự suy yếu của Ai cập sau khi bị Ba Tư, Hy Lạp cai trị không phải là một điều ǵ xa lạ, nhưng tại sao một nền văn minh như Ai cập đă xây cất những Kim tự tháp hùng vĩ, đă sản xuất bao nhân tài, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cơi Trung đông, lại suy sụp mau chóng vẫn c̣n là một câu hỏi lịch sử. Lời giải thích của Hamud là một ch́a khoá vô giá về lịch sử này.
Nhà pháp sư Ai cập mỉm cười nh́n tất cả mọi người :
- Lịch sử nhân loại luôn luôn biến đổi theo chu kỳ, nhiều việc xảy ra trong quá khứ sẽ tiếp diễn lại. Có sống trong thời buổi đen tối, hỗn loạn, đầy đau khổ hoang mang, nhân loại mới ao ước cơi tâm linh cao thượng . Nhu cầu này sẽ được đáp ứng, và một đấng thánh nhân sẽ chuyển kiếp xuống trần, mở rộng cánh cửa tâm linh, hướng dẫn nhân loại dưới một h́nh thức, phương tiện thích hợp với hoàn cảnh thời gian và không gian khi đó. Điều này đă xảy ra nhiều lần tại các nơi khác nhau trên thế giới, từ Trung hoa qua Ấn độ, đến Trung đông. Các bậc thánh nhân đều rao truyền những chân lư cao siêu, đẹp đẽ, nhưng v́ nhân loại cứ u mê, thiếu hiểu biết, nên chỉ ít lâu sau tất cả lại quay cuồng vào vết xe cũ. Các chân lư cao đẹp bị xuyên tạc, sửa đổi, giảng giải sai lạc bởi các giáo sĩ mê tín, thành kiến, đầy cuồng tín. Dù sao đi nữa bánh xe tiến hoá vẫn quay đều và trong mọi hoàn cảnh, thời đại nào cũng có các cá nhân cố gắng vượt mức để tự giải thoát ra khỏi ảo ảnh của màn vô minh để nhận định chân lư…
Hamud im lặng một lúc rồi thong thả :
- Tôi muốn các ông ghi nhận một điều này, các ông có thể coi đó như một lời tiên đoán hay cảnh cáo trước cũng được. Thời gian sắp đến sẽ là một giai đoạn cực kỳ tiến bộ về tri thức, nhưng thoái bộ về tâm linh. Mọi sự hiểu biết chỉ nhắm vào hiện tượng thay v́ nguyên nhân bản chất. Do đó, nền khoa học tương lai không thể chuyển biến được ḷng người hoặc giúp cho con người có cái nh́n sáng suốt, có được một tâm hồn b́nh an. Nền “khoa học hiện tượng” chỉ kích thích giác quan, cảm xúc hướng ngoại sẽ khiến cho con người cực kỳ bất măn, lo âu và trở nên hoang mang phiêu bạt. Thêm vào đó, sự khai quật các ngôi cổ mộ Ai cập sẽ tháo củi xổ lồng cho vô số âm binh, các động lực cực kỳ hung dữ. Như tôi vừa kể với các ông, thời kỳ chót của nền văn minh Ai cập, các giáo sĩ đă thực hành tà thuật tối đa, mà khoa ướp xác là một bí thuật mang sự liên lạc của cơi vô h́nh vào cơi trần. Tất cả các ngôi mộ cổ đều là nơi giam giữ các động lực vô h́nh để canh giữ, duy tŕ ảnh hưởng tà môn. Khi được tháo củi xổ lồng, chúng sẽ mang nền tà giáo cổ Ai cập trở lại thế kỷ này. Dĩ nhiên, dưới một h́nh thức nào nó hợp thời hơn. Một số pháp sư vốn là sứ giả cơi âm sẽ đầu thai trở lại, hoặc nhập xác để tác oai, tác quái, tái tạo một xă hội tối tăm, sa đoạ, đi ngược trào lưu tiến hoá của thượng đế. Thế giới sẽ trở thành nạn nhân của thứ tôn giáo ma quái này.. Chiến tranh, đau khổ, bất an cùng các kích thích của cảm giác mới lạ do nền “khoa học hiện tượng” mang lại, sẽ thúc đẩy con người vào các cùng cực của cuộc sống. Trong thời buổi này, khối óc ly trí không giúp được ǵ mà chỉ có sự hiểu biết và ư thức bản chất thầm lặng của nội tâm mới đáp ứng được. Đó là lối thoát duy nhất mà thôi.
Giáo sư Allen ngắt lời :
- Nhưng đă có bằng chứng ǵ về sự hiện diện của các động lực vô h́nh này. Làm sao có thể cảnh cáo mọi người về sự trở lại của pháp sư thời cổ ? Người Âu Mỹ sẽ chẳng bao giờ chấp nhận một điều hoang đường, vô lư nếu không có bằng chứng rơ rệt.
Hamud mỉm cười bí mật :
- Cơi âm là đối tượng nghiên cứu của tôi, nên tôi có thể tŕnh bày một vài dữ kiện để các ông suy nghiệm, như một bằng chứng. Chuyện xảy ra đă bắt đầu xảy ra, theo thời gian các ông sẽ thấy. Dù các pháp sư tà đạo thời cổ này có khéo léo dẫn dụ con người bằng những danh từ hoa mỹ, những chủ thuyết đẹp đẽ thế mấy đi nữa, th́ họ vẫn chỉ có thể sống như một con người. Dù thế nào họ cũng không thể bỏ qua các thói quen cũ của quá khứ, họ sẽ đội lốt tôn giáo, họ sẽ kêu gọi sự hợp tác của thần quyền, họ sẽ đặt ra các giáo điều mới, thay thế các chân lư cao đẹp để lôi kéo con người từ bỏ thượng đế. Họ sẽ sử dụng danh từ, ngôn ngữ để đánh lạc hướng mọi người, tuy nhiên trước sau ǵ họ cũng phải chết và trước khi chết, họ sẽ di chúc yêu cầu ướp xác họ và xây dựng những nhà mồ vĩ đại bằng đá như họ đă từng làm trong quá khứ…
Giáo sư Allen bật cười :
- Như vậy th́ nhận diện họ quá dễ, nhưng tôi không tin thời buổi này c̣n ai ướp xác, xây cất nhà mồ như vậy, ông nên nhớ chúng ta đă bắt đầu vào thế kỷ 20, không phải tám ngàn năm trước?
Hamud mỉm cười :
- Rồi các ông sẽ thấy, tôi mong các ông ghi chép những điều này cẩn thận rồi đúng hay sai thời gian sẽ trả lời.
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 290 of 2534: Đă gửi: 18 June 2008 lúc 6:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Chương Mười
“Yêu cầu chấm dứt cuộc du khảo. Mọi tài trợ cắt đứt. Trở về Luân đôn ngay”
Bức điện tính đến bất ngờ, làm phái đoàn hết sức sửng sốt. Bác sĩ Kavir cho biết một tờ báo ở Luân đôn đă ghi nhận rằng phái đoàn khoa học ưu tú nhất Anh quốc, đă quỳ mọp bên cạnh những đạo sĩ “trần truồng” xứ Ấn để nghe dạy bảo.
Dư luận quần chúng hết sức phẩn nộ, đ̣i đại học Oxford phải ngưng ngay các cuộc du khảo và triệu hồi phái đoàn trở về để giải thích. Phái đoàn lập tức lấy xe lửa trở về Bomby.
(Ghi chú : Khi đó Ấn độ đang là thuộc địa của Anh, và vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp c̣n rất mạnh) Nhật kư của giáo sư Spalding :
“Thật là bất ngờ khi chúng tôi nhận được bức điện tín, kèm theo đó là một bức thư của Lănh sự quán Bombay cùng những mẫu báo nói về những giáo sư đại học của Hoàng gia đă “quỳ mọp” bên cạnh những phù thuỷ Ấn man rợ để nghe dạy bảo. Lời tường thuật đầy ác ư của một kư giả thiếu sáng suốt, đă phá hoại công tŕnh sưu tầm nghiên cứu đang diễn ra tốt đẹp. Làm sao có thể giải thích cho quần chúng hiểu rằng ngoài các phong tục, tôn giáo hỗn độn, phức tạp, hoang đường, mê tín dị đoan c̣n ẩn dấu các chân lư cao đẹp mà người Âu cần nghiên cứu. Đành rằng Ấn độ đă ngủ say trong bao thế kỷ nay, nhưng trong sự suy đồi vật chất vẫn tiềm tàng một sinh lực tâm linh mănh liệt đang chờ đợi được đánh thức.
Chúng tôi đă học hỏi nhiều trong cuộc du khảo này, bài học đầu tiên do một người Anh, thương gia Keymakers đă dạy :
- Để nghiên cứu một cách vô tư và khoa học, người Âu cần gạt bỏ ḷng tự kiêu, thành kiến văn hoá, chỉ giữ ǵn một đầu óc khoa học, phê b́nh chặt chẽ để có thể xuyên qua rừng người mê tín t́m đến sự thật.
Như một viên ngọc quư cần phải được mài dũa, cuộc đi t́m chân lư cũng thế, chúng tôi đă mất mấy năm trời t́m ṭi, gạn lọc mới gặp được các vị đạo sư tiêu biểu cho đời sống tâm linh thực sự của xứ Ấn. Nhờ những may mắn t́nh cờ, chúng tôi đă gặp các sinh hoạt tâm linh cao thượng mà ít người Âu nào có diễm phúc khám phá. Tất cả những chân lư từ trước đến nay chỉ được truyền bá một cách hết sức bí mật, thận trọng, đă được tiết lộ cho chúng tôi. Là một phái đoàn khoa học, chúng tôi đă phân tách kỹ lưỡng, kiểm soát cẩn thận, phê b́nh chặt chẽ và đặt câu hỏi cho đến khi thật rơ ràng. Mỗi người chúng tôi đều ghi chép vào sổ tay cá nhân riêng những sự kiện quan sát, sau đó chúng tôi cùng nhau kiểm điểm, bàn luận và kiểm chứng lại tài liệu này cho đến khi tất cả đồng ư là chính xác, mới ghi vào hồ sơ chính. Nhờ phương thức này, chúng tôi quả quyết rằng tài liệu ghi nhận hoàn toàn đặt căn bản trên nền tảng khoa học chứ không phải sự tin tưởng hay hiểu biết của một cá nhân.
Chúng tôi hy vọng khi công bố, các kết quả này sẽ là một nhịp cầu thông cảm giữa hai văn hoá và thúc đẩy những cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn. Sự kiện vừa qua đă thay đổi tất cả và làm sụp đổ mọi kỳ vọng khiêm tốn nhất. Giáo sư Allen tin rằng nếu chúng tôi trở lại Luân đôn tuyên bố những điều khám phá và giải thích lư do một cách rơ ràng có thể quần chúng sẽ có thiện cảm hơn chăng ? Tôi không nghĩ như thế, hiện tại c̣n quá sớm để thay đổi một dư luận bắt nguồn từ những quan niệm hẹp ḥi, những thành kiến và sự tự hào mù quáng.
Người Âu chỉ nh́n Ấn độ như một xứ chậm tiến, một thuộc địa dốt nát, mê tín đầy những kẻ thất học, chứ nào thấy được những giá trị tinh vi, những khoa học tiến bộ được che dấu cẩn thận dưới ánh nắng thiêu đốt miền nhiệt đới.
Giáo sư Mortimer và nhóm khoa học gia Hoa kỳ có ư muốn tách riêng và tiếp tục cuộc nghiên cứu v́ xứ Hoa kỳ dù sao cũng ít thành kiến hơn. Đại học Yale và Harvard sẵn sàng bảo trợ cuộc du khảo, nhất là khi nó đă có kết quả. Với tư cách trưởng phái đoàn, tôi không muốn thấy công tŕnh tốt đẹp bị gián đoạn nhưng cũng không muốn đại học Hoa kỳ hưởng hết kết quả, dù sao tôi cũng là một người Anh, với mọi tự hào về truyền thống Oxford đă đào tạo ra chúng tôi, và chúng tôi muốn tên tuổi nó trong cuộc khảo cứu tiền phong này.
Viên lănh sự lạnh nhạt tiếp đăi phái đoàn trong căn pḥng nhỏ. Y chỉ mẫu báo nói về cuộc nghiên cứu đang trở nên một đề tài hấp dẫn, được báo chí khai thác triệt để :
- Các ông nên biết điều một chút, dù sao các ông cũng là những khoa học gia, giáo sư đại học lừng lẫy, có chân trong hội Khoa học Hoàng gia. Các ông là đại diện cho thành phần danh dự, ưu tú nhất nước Anh… Các ông đă làm mất uy tín Hoàng gia, tại sao các ông không chịu ngồi yên ở Oxford ? Cái xứ nóng bực này có ǵ đâu để khảo cứu….
Giáo sư Oliver nổi nóng :
- Đó là việc riêng của chúng tôi, anh biết ǵ mà nói …
Viên lănh sự nhếch miệng cười nhạt :
- Đó không phải việc riêng của các ông nữa, nó liên quan đến danh dự Hoàng gia, danh dự Oxford. Các ông nên biết tôi cũng xuất thân từ Oxford….
Giáo sư Oliver buột miệng :
- Nếu anh xuất thân từ Oxford th́ anh phải biết cuộc khảo cứu này sẽ làm rạng danh đại học của chúng tạ Một ngày nào đó, người ta sẽ nói rằng chính Oxford đă tiên phong trong việc khảo cứu các hiện tượng huyền bí, các môn Yoga….
- Yoga ? Yoga là cái ǵ ? Ông muốn nói đến một loài thú nào chăng ?
Giáo sư Oliver há hốc miệng, không nói thêm lời nào. Một sự ngờ nghệch như vậy có thể tha thứ được đối với một công dân tầm thường, vô học, chỉ quanh quẩn nơi xó nhà, chưa hề ra khỏi tầm chuông nhà thờ Westminster… Đằng này y là một lănh sự, đại diện cho Hoàng gia, xuất thân từ Oxford và đă sống ở Ấn độ hơn 6 năm nay. Viên lănh sự xem xét thông hành và cho biết phái đoàn phải rời Ấn độ ngay trong tuần lễ sau.
Nhật kư của giáo sư Spalding :
Trong khi mọi người trở về khách sạn, chờ đợi ngày lên tàu trở về Luân đôn. Tôi vẫn linh cảm sẽ có một chuyện ǵ xảy ra. Tôi lang thang trong khu phố Bombay đông đúc, đầu óc mơ hồ, không biết phải làm ǵ. Tôi cố ôn lại những việc xảy ra trong ṿng nửa năm qua. Quả thế, từ hôm thất vọng đi lang thang như thế này trong thành Benares. Tôi đă gặp một người Ấn cao lớn, khác thường đă chuyển giao thông điệp của một Chân Sự Từ đó khắp mọi nơi, phái đoàn luôn luôn được che chở và may mắn gặp gỡ những người dành trọn đời cho việc đi t́m chân lư, những người đă thắng đoạt thiên nhiên, đă chinh phục được các sức mạnh vô h́nh trong trời đất, đă có quyền năng phi thường… Đúng như lời người đó nói, sự nghiên cứu đă vén mở được những điều phái đoàn muốn t́m kiếm, nhưng mọi người vẫn chưa hài ḷng. Chúng tôi ao ước được gặp vị Chân Sư bí mật, một người mà tôi có cảm giác đă quen, đă biết từ một tiềm thức xa xôi nào. Trong giây phút đó, tôi bỗng có một ư tưởng lạ lùng, bằng tất cả sức mạnh tư tưởng tôi ao ước vị Chân Sư bí mật này hăy giúp đỡ chúng tôi, hăy cho chúng tôi gặp mặt.
Đang đắm ch́m trong ḍng tư tưởng triền miên bỗng tôi giật ḿnh, một cảm giác lạ lùng như một luồng điện chạy dọc theo xương sống, khiến tôi mở choàng mắt ra. Dưới chân một cây cổ thụ cao lớn, cành lá xum xuê, một người Ấn với khuôn mặt phương phi, quai hàm rộng, trán cao, cặp mắt tinh anh có khả năng thu hút người khác. C̣n ai vào đây nữa, chính người Ấn lúc đầu mà tôi đă gặp tại thành Benares. Chính người này đă mang thông điệp đầu tiên cho phái đoàn. Tôi vội vă chạy đến mừng như gặp bạn cố trị Người Ấn mỉm cười :
- Thế nào ? Việc nghiên cứu của các ông tốt đẹp chứ ? Tôi hy vọng Brahmananda, Sudeih Babu, Mahasaya, Harishinanda, Hamud El Sari… không làm các ông thất vọng.
Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào. Tại sao người này dường như biết tất cả ?
Người Ấn mỉm cười :
- Bạn mến, cách đây nửa năm, bạn có hỏi tôi rằng, các bậc Chân Sư có thật hay không ? Nếu có thật tại sao các ngài không xuất hiện dạy dỗ quần chúng ? Sự ẩn dật đâu có lợi ích ǵ ? Lúc đó, trong ḷng bạn thật sự không lấy ǵ tin tưởng về sự hiện hữu của những cá nhân đă tiến xa trên con đường đạo. Tôi đă trả lời rằng, v́ không biết rơ các ngài nên quan niệm thông thường không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Thực ra các bậc toàn thiện luôn luôn xuất hiện để giúp đỡ thế gian một cách lặng lẽ, âm thầm. Đa số mọi người tin rằng các ngài phải hiện ra trong hào quang rực rỡ, với các phép thần thông biến cơi trần đau khổ này thành một cơi thiên đàng. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra…. Khi đó bạn không hoàn toàn đồng ư, là một người Thiên chúa giáo, bạn vẫn nghĩ rằng, đấng Christ đă hứa sẽ trở lại cứu rỗi tất cả… Thực ra đấng Christ có bao giờ rời bỏ chúng ta đâu. Lúc nào ngài chả luôn bên cạnh ta, giúp đỡ chúng tạ Sự tin tưởng rằng ngài sẽ trở lại trong một vầng hào quang sáng chói là một điều không đúng. Chúng ta chỉ quen t́m kiếm thượng đế bên ngoài như một đấng toàn năng có thể giúp ta thỏa măn những điều mong ước, chứ không chịu t́m kiếm ở nội tâm, nơi ngài luôn ngự trị. Tôi hy vọng sự tiếp xúc với các đạo sĩ trong thời gian qua sẽ giúp bạn một căn bản vững chắc, một niềm tin mănh liệt để có thể tiếp tục việc nghiên cứu.
Tôi kinh ngạc đến sững người, không những người Ấn này biết rơ tất cả mà dường như c̣n đọc được tư tưởng người khác. Người Ấn mỉm cười hiểu ư :
- Các bạn đă được chỉ dẫn về khoa Yoga, các phương pháp dưỡng sinh, cơi giới vô h́nh, môn chiêm tinh bí truyền, các luật vũ trụ, quan niệm về Phàm Ngă và Chân Ngă…. Các bạn đă tỏ ra say mê, thích thú v́ đó là điều khao khát bấy lâu nay, đúng không ?
- Tại sao….tại sao ông lại biết rơ như vậy ?
Người Ấn dịu dàng :
- V́ tôi là người được chỉ thị phải giúp đỡ các bạn. Chính tôi đă theo dơi tư tưởng các bạn từ khi phái đoàn vừa đặt chân đến xứ này. Tôi hết sức thông cảm sự bất măn, buồn phiền, chán nản suốt hai năm đầu , khi các bạn đến thăm các đền đài nguy nga, tiếp xúc với các đạo sĩ nổi tiếng nhưng không học hỏi được điều ǵ mới lạ. Thay v́ gặp các bậc hiền triết, các bạn gặp toàn những kẻ bịp đời, những người giữ chức tước, địa vị thật cao mà công phu tu hành, tŕ giới lại rất thấp. Thay v́ gặp những đạo sư có kinh nghiệm tâm linh, các bạn gặp những tu sĩ miệng nói thao thao như nước chảy mà chả biết ḿnh đang nói ǵ, h́nh như chân lư cao siêu mà y trích dẫn từ kinh điển không dính dáng ǵ đến đời sống an nhà, sung sướng trong các đền thờ đồ sộ của y cả. Tất cả đều là những thử thách cho sự nghiên cứu của các bạn. Một chân lư có giá trị thực sự phải chịu nổi các thử thách của thời gian. Cuộc đi t́m chân lư cũng thế, nó đ̣i hỏi một sự cố gắng và một tinh thần khoa học, suy xét để gạt bỏ các điều mê tín, các thành kiến. Các bạn đă xứng đáng được truyền dạy những chân lư cao đẹp đó, tôi mới đến gặp bạn tại Benares và chuyển giao thông điệp của một vị Chân Sự Nhờ thế các bạn mới thực sự gặp được những người tiêu biểu cho nền minh triết của Á châu. Tuy nhiên, như tôi đă nói nếu bạn muốn đi xa hơn để gặp các bậc chân sư th́ lại khác….
- Ông tin rằng chúng tôi có thể gặp các ngài ?
- Dĩ nhiên, nếu các bạn chọn con đường này, nó sẽ là một cuộc hành tŕnh khác hẳn cuộc hành tŕnh vừa quạ Các bạn sẽ không thể đứng bên ngoài mà nh́n vào, để nghiên cứu, ghi nhận như một khách bàng quang. Cuộc hành tŕnh này phải là một kinh nghiệm cá nhân. Một sự hiểu biết mà không do ḿnh t́m ra. Kinh nghiệm thật ra chỉ là một hiểu biết hời hợt, nông cạn. Sự hiểu biết do người khác mang lại, dù bằng bất cứ phương tiện nào, cũng chỉ là kinh nghiệm của người đó. Ta không thể trông đợi một chân lư đến từ bên ngoài, mà phải biết thế nào là đủ để dừng lại, để trở về. Đi xa tức là trở về, đó mới là con đường đứng đắn. Cuộc hành tŕnh này không như lần trước “đi ra ngoài”, tiếp xúc với các đạo sư, ghi nhận những tinh hoa, soạn thảo tài liệu, mà phải là một cuộc hành tŕnh “trở về”, một cuộc hành tŕnh về phương đông. Các bạn không thể nhân danh phái đoàn đi quan sát, ghi nhận nữa, mà phải là một nhóm người đi t́m chân lư và sống với chân lư đă học được. Trong cuộc hành tŕnh này, các bạn sẽ không được công nhận bởi các đại học, dư luận quần chúng. Danh vọng của bạn có thể bị xuyên tạc, điều bạn học hỏi có thể bị chế nhạo, nghi ngờ. Các bạn sẽ hết sức cô đơn, nản ḷng, thối chí, có lúc bạn sẽ sợ hăi và đâm ra nghi ngờ những điều đă xảy ra. Tóm lại, các bạn cần suy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định. Nếu trở về Luân đôn một thời gian, đợi dư luận lắng dịu, các bạn có thể công bố những điều ghi nhận, nhưng mọi người có tin hay không lại là chuyện khác. Nếu muốn tiếp tục, các bạn phải rời bỏ tất cả để làm một cuộc hành tŕnh lên Tuyết Sơn . Đây là giây phút quyết định.
- Nếu chúng tôi muốn tiếp túc cuộc hành tŕnh th́ phải làm thế nào ?
Người Ấn mỉm cười :
- Tại sao bạn lại cứ hỏi tôi, phải làm ǵ ? Tôi phải làm thế nào ? Nếu muốn các bạn chỉ việc lên đường, có thế thôi.
Định mệnh con người luôn luôn có những thay đổi lớn, mặc dù không thấy rơ nhưng chúng ta vẫn vô t́nh tiến đến mục tiêu đă vạch sẵn. Không đầy hai tuần lễ sau, chúng tôi đă đứng trong làng Potar, ngay sát chân dăy Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ. Chúng tôi đă bỏ lại tất cả, danh vọng, địa vị, đoạn tuyệt với thành kiến, tự ái cố hữu của người Tây phương.
Cuộc hành tŕnh về phương Đông của chúng tôi bắt đầu.
Tác Giả: Blair T.Spalding
Dịch Giả: Nguyên Phong
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 291 of 2534: Đă gửi: 19 June 2008 lúc 12:02am | Đă lưu IP
|
|
|
CĂN NHÀ QUỶ ÁM
LỪNG DANH NHẤT HOA KỲ
Căn nhà của gia đ́nh Whaley đó không thể có đối thủ trong khoảng gọi là “bị ma ám đến kinh dị, từ nóc nhà đến tầng hầm, từ sáng tớí khuya, không phải “ám” trong ngày lễ Halloween nhưng là 365 ngày đêm trong một năm!”
Chuyện kể như thế này: Vào mùa thu năm 1852, Thomas Whaley trong một góc tối tăm của San Diego, đứng nh́n cuộc xử trảm một tên cướp tên là Yankee Jim, bị treo cổ do tội ăn cắp vặt trên một chiếc tàu.
Không hiểu lúc đó ông Whaley có ư nghĩ ǵ dưới giá treo cổ, nhưng h́nh như ông không bận tâm, bằng cớ là chỉ năm năm sau, ông ta cho xây một căn nhà ngay trên miếng đất mà tử tội Yankee Jim treo ṭn ten.
Whaley, vợ ông và hai đứa con dọn vào ở trong ngôi nhà mới và …Yankee Jim cũng dọn theo ở luôn với họ! Chỉ một thời gian ngắn sau, những bước chân nặng nề b́nh.. b́nh.. b́nh vang dội của tên cướp chết treo làm cả nhà chết khiếp v́ sợ! Mọi chuyện càng lúc càng trở nên tồi tệ.
Người con gái hai mươi hai tuổi của họ tên Violet, sau một cuộc ly dị đau đớn với chồng, đă tự bắn vào ngực bằng khẩu súng lục tự sát.
Sau này khi cả hai ông bà Whaley qua đời, cả nhà họ biến thành…ma trở về ám căn nhà cùng với tên tướng cướp Jim. Ngay cả con chó tên Dolly Varden của họ khi chết cũng trở thành…ma chó và cũng trở về ám căn nhà thường xuyên!
Trong nhiều năm sau đó, căn nhà xinh đẹp bằng gạch đỏ nằm trong khu phố gọi là Old Town của San Diego trở thành một nhà kho, một ṭa án và một nhà hát kịch, trước khi nó biến thành một nhà Bảo Tàng của quận hạt vào năm 1960.
Hans Holzer, tác giả của hơn một trăm hai chục quyển sách về các hiện tượng kỳ lạ trên thế giới, một trong các tác giả được kính trọng về lănh vực các “h́nh ảnh ma quái” nhận xét:
“Căn nhà Whaley là một trong những căn nhà “ma ám nặng nề” nhất thế giới.”
Ông đă đi thăm căn nhà rùng rợn này ba lần. Trong một lần thăm viếng như thế, ông thấy được h́nh ảnh của bà Whaley xuất hiện trong cái áo đen vải kẻ sọc xuất hiện trong pḥng!
Dean Glass, hiện nay đang là nhân viên chăm sóc Bảo Tàng Viện, cho hay là quan khách đến thăm nhà Bảo Tàng này chứng kiến…ma xuất hiện trung b́nh một tuần một lần.
Đó có thể là các gương mặt mơ hồ sương khói, tiếng đàn organ, gió lạnh thổi qua bất ngờ, khói thuốc x́ gà bay cao..vào lúc trong nhà không có ai hút thuốc chi cả! Violet được thấy ngồi khóc âm thầm trong một nơi không xa chỗ cô đă tự sát trước đây.
Có một lần ông Glass thấy tận mắt đột nhiên cây đèn chandelier …đánh vơng trước mặt ông trong ṿng khoảng ba phút rồi dừng lại từ từ.
Một buổi sáng mùa đông năm ngoái, khi ông mở của vào nhà th́ giật bắn người v́ thấy một bóng người ở đầu cầu thang. Ông kể:
“Tôi thấy một bóng rất đen, đầu đội một cái nón rộng, chồm người qua các thanh gỗ cầu thang và..nh́n thẳng vào tôi chằm chằm.”
Một thoáng sau khá nhanh, gương mặt này biến mất. Khi ông Glass trở ra nh́n bất chợt lên một tấm ảnh gia đ́nh của ông Thomas Whaley khi ông ta được hai mươi tuổi treo ở một góc, ông giật bắn người. Ông nói:
“Gương mặt người trong ảnh giống hệt với gương mặt hồn ma xuất hiện khi năy..”
Nếu bạn ở Hoa Kỳ và thich thăm viếng các ngôi nhà ma danh tiếng, th́ ngoài căn nhà ờ San Diego hết sức nổi tiếng này, c̣n ba địa điểm danh tiếng khác mà bạn nên thăm qua, đó là nhà đèn pha Ledge Lighthouse ở New London, tiểu bang Connecticut, căn trại thôn quê Mathias Ham ở Dubuque, tiểu bang Iowa và nhà hàng Ashley ở Rockledge, tiểu bang Florida.
Cái nhà hàng này rất đáng cho bạn vào ăn, v́ có khi người waiter ra chờ bạn order là một…con ma chính hiệu. Bạn chọn món ăn xong, anh ta vui vẻ chào bạn và từ đó bạn chờ các món ăn đến…thiên thu!
Tạp chí Life
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 292 of 2534: Đă gửi: 19 June 2008 lúc 2:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHIẾC XE NGỰA MA QUÁI
Đây là chuyện có thật 100%.
Vào một ngày nọ tôi đi săn cả ngày trên những ngọn đồi cô quạnh nằm ở miền bắc nước Anh, nhưng không thành công mấy. Một ngọn gió đông tháng mười hai thổi đến, thế là tuyết bắt đầu rụng từ bầu trời xám xịt. Trời tối dần đi thế là tôi lạc đường. Tôi nh́n chung quanh không có dấu hiệu của sự sống.
“ Oh, Ḿnh phải tiếp tục đi có lẽ sẽ t́m thấy ai đó ngay thôi “
Tôi vắt súng lên vai rồi cứ đi măi.
Tuyết rụng như mít rụng lạnh cóng lên, màn đêm sập xuống nhanh như thổi. Tôi bắt đầu “ phê ” và đói cồn cào v́ tôi không có ǵ bỏ bụng từ sáng đến giờ. Tôi nghĩ đến bà vợ trẻ đẹp của tôi, đang ở trong một khách sạn làng quê chờ tôi.
“ Nàng sẽ lo lắng cho ḿnh, ḿnh đă hứa với nàng là sẽ về nhà trước tối ước ǵ có thể giữ được lời hứa đó “ Tôi và nàng mới cưới được bốn tháng chúng tôi yêu nhau và thật hạnh phúc bên nhau.
Tuyết vẫn rơi trời càng đen kịt. Cứ bước vài bước là tôi lại dừng để gào lên “ cứu tôi với ” nhưng âm thanh duy nhất ở cái nơi cô quạnh này chỉ là tiếng gió rít lên từng hồi thật ảm đạm. Tôi bắt đầu sợ hăi.
Tôi đă từng nhiều truyện kể về những người thợ săn lạc lối trong tuyết, họ chỉ đi măi như vậy, cho đến khi kiệt sức và gục xuống tuyết, họ ngủ rồi không bao giờ thức dậy nữa. Tôi tự nhủ :
“ Điều đó sẽ không phải xảy đến cho ḿnh, ḿnh không thể chết, trong lúc đang tràn trề sức sống như vầy, đẹp trai con nhà giàu.. “
Tôi cố gắng quên đi nỗi sợ hăi. Tôi rống to hơn “ cứu tôi với ” rồi lắng nghe tiếng trả lời. A, ngoài tiếng gió gào thét ra, tôi nghĩ rằng tôi có nghe một tiếng ǵ đó ở xa xa. Tôi gào lên lần nữa rồi lại tưởng tượng ḿnh có nghe một tiếng trả lời.
Và… xa xa trong màn đêm, xuất hiện một đốm sáng trắng nó từ từ đến gần hơn và sáng hơn. Tôi vắt gị lên cổ chạy thẳng ngay đến đó, rồi trông thấy một ông già cầm cái đèn băo.
- Cám ơn Chúa !
Tôi hét, thật sự tôi vô cùng sung sướng khi thấy ông ta. Ông ấy có vẻ không vui khi gặp tôi, ông nhấc đèn băo trong tay lên nh́n trừng trừng vào tôi :
- Anh cám ơn Chúa v́ cái ǵ ?
- Ồ, tôi cám ơn Chúa v́ ông đấy, tôi e là tôi đă bị lạc. - Thế anh cố gắng lết đi đâu vậy ?
- Dwolding, thị trấn đó cách đây mấy dặm ?
- Hai mươi dặm, vậy là anh đă bị lạc đường.
- Thế làng gần đây nhất cách đây mấy dặm ?
- Làng gần đây nhất là làng Wyke, cách đây mười hai dặm.
Tôi hỏi :
- Ông sống ở đâu ?
Ông ta nói :
- Đằng kia.
Rồi chĩa cây đèn băo ra. Tôi mới hỏi:
- Ông về nhà hả ?
Ổng trả lời:
- Chắc vậy.
Tôi nói:
- Làm ơn dắt tôi về với ông nhé !
Ông già lắc đầu.
- Không được, ông ấy sẽ không để cậu vào nhà đâu.
- Ồ, cháu cá là ông ấy sẽ cho mà. À mà " ông ấy " là ai vậy ? Tôi hỏi.
- Ông chủ tôi.
- Ông chủ ông là ai ?
- Không phải việc của anh. Ông già thô lỗ đáp lại
- Hừm, ông hăy dẫn tôi đến gặp lăo chủ của ông. Tui cá là ổng sẽ cho tui chỗ ngủ và bữa ăn tối.
- Hừ, ta không nghĩ vậy đâu, nhưng anh cứ việc xin ông ấy đi.
Ông già lắc đầu lần nữa rồi bước đi. Tôi bám theo ánh đèn băo băng qua tuyết dầy đặc. Đi được một lúc nữa, khá lâu sau đó..
Bất th́nh ĺnh tôi trông thấy một h́nh thù to lớn trong đêm tối, một con chó khổng lồ phóng lại đến bên tôi nó sủa um sùm.
- Thôi nào King. Ông già quát lên.
Trước mặt tôi hiện ra một toà nhà mờ mờ ảo ảo.
- Ngôi nhà ông đây hả ? Tôi hỏi.
- Ừ.. thôi nào King !
Rồi ông già móc ch́a khoá ra. Ngôi nhà có một cánh cửa thật là to lớn, giống như cửa nhà tù vậy. Lăo già tra ch́a vào ổ khoá, mở cửa vào bước vào nhà. Tôi nhanh chóng bám sát ông ta. Tôi nh́n quanh bốn bức tường to lớn, một tiếng chuông vang lên.
- Pḥng ông chủ tôi ở đằng kia ḱa.
Ông già chỉ tay vào một cánh cửa thấp màu đen. Tôi liền bước đến và gơ cửa thật to. Sau đó tôi bước ngay vào căn pḥng mà không đợi mời.
Có một người đàn ông tóc bạc đang ngồi trên bàn đầy giấy tờ sách vở. Ông ta đứng lên và nh́n tôi chằm chặp và hỏi :
- Anh là ai ? Làm sao anh vào đây được ? Và anh muốn ǵ ?
- Tên tôi là James Murray tôi là bác sĩ. Tôi đă đi băng qua đồi tuyết và đến đây. Tôi cần thức ăn thức uống và chỗ ngủ. tôi nói.
- Đây đâu phải là khách sạn ?
Rồi ông quay qua lăo già
- Jacop, tại sao ông dẫn người lạ mặt này vào nhà tôi ?
- Tôi đâu có dẫn hắn vô đây. Lăo già la lớn:
- Hắn bám theo tôi về nhà, tôi không thể ngăn hắn được, hắn bự con hơn tôi mà.
Sau đó ông chủ quay sang tôi rồi hỏi:
- Và tại sao ông lại vào đây thưa ông ?
- Để khỏi phải chết. Tôi trả lời.
- Để khỏi chết à ?
- Tuyết dày lắm, nó sâu đến nổi có thể chôn vùi tôi trước khi trời sáng mất.
Đoạn ông ta đi thẳng ra cửa sổ và nh́n ra ngoài trời đang đổ tuyết. Cuối cùng ông nói:
- Quả thật là tuyết quá dày..ok ông có thể ở lại đây tới sáng mai nếu ông muốn. Jacob mang bửa tối lên đây. Xin mời ông ngồi.
Ông ấy lại ngồi xuống và bắt đầu đọc sách. Tôi đặt súng vào một góc pḥng. Sau đó tôi ngồi xuống cạnh đống lửa và nh́n xung quanh. Căn pḥng này nhỏ bé hơn đại sảnh ở bên ngoài, nhưng có nhiều thứ trông bất b́nh thường và thú vị lắm: sách vở th́ đầy trên bàn ghế, bản đồ giấy tờ vất đầy ra sàn nhà.
“ Căn pḥng tuyệt thật “ Tôi tự nhủ
“ Một nơi ở thật kỳ lạ, căn nhà nằm giữa ngọn đồi tối tăm “
Tôi nh́n ngắm khắp pḥng và sau đó quay sang người đàn ông ấy. Tôi tự hỏi.
“ Ông ta là ai nhĩ ? Ông ta làm nghề ǵ ? Ông ta có một cái đầu to, được bao phủ bởi một lớp tóc bạc thưa thớt. Bộ mặt ông ta thật nghiêm nghị, thông minh và mạnh mẽ. Trên trán ông có vài nếp nhăn và những nếp nhăn ấy cũng tập trung ṿng quanh đôi môi buồn tẻ của ông "
Jacob mang thức ăn ra, ông chủ bèn gấp sách lại và mời tôi lên bàn ăn. Trên bàn có một đĩa thịt, trứng bánh ḿ và cà phê. Ông nói:
- Tôi hy vọng rằng anh đang đói, tôi chẳng có ǵ ngon để phục vụ anh.
Nhưng lúc đó miệng tôi đang ngốn đầy bánh ḿ và thịt, tôi cũng ráng nói một cách đầy biết ơn:
- Ngon lắm xin cám ơn ông thật nhiều.
- Có ǵ đâu.
Ông lễ độ nói nhưng lời nói đó thật là lạnh lùng. Phần ăn của ông ấy tôi thấy chỉ có bánh ḿ và sữa. Chúng tôi ăn mà không nói một lời, ông ấy có vẻ buồn. Tôi thử tưởng tượng xem tại sao ông ấy lại sống một cuộc đời âm thầm đơn độc tại một nơi như thế này.
Khi dùng xong bữa tối, Jacop dọn dẹp chén đĩa đi. Ông chủ th́ đứng dậy tiến ra ngoài cửa sổ. Ông nói :
- Tuyết đă ngừng rơi.
- Hết tuyết rồi à ? Tôi gào lên:
- Có lẽ tôi sẽ phải… ờ mà thôi, làm sao có thể cuốc bộ hai mươi dặm về nhà đêm nay được.
- Cuốc bộ hai mươi dặm hả ? ông ấy ngạc nhiên hỏi :
- Ư anh nói ǵ ?
- Vợ tôi đang đợi ở nhà. Tôi nói:
- Cô ấy không biết tôi đang ở đâu, chắc là cô ấy sẽ lo lắng lắm.
- Cô ấy ở đâu ?
- Dwolding, cách đây hai mươi dặm.
- Dwolding. Ông ta chậm răi nói:
- Ừ đúng nó cách đây hai mươi dặm. Nhưng anh phải về đó ngay sao ?
- Ừ. Tôi trả lời:
- Cô ấy sẽ tuyệt vọng lo lắng, tôi phải làm bất cứ cái ǵ để trở về bên cô ấy.
- Umm.. Ông ta nói sau một lúc do dự:
- Có một chuyến xe ngựa đi dọc theo một con đường cũ vào mỗi đêm, và nó luôn dừng lại ở Dwolding.
Ông ấy nh́n lên đồng hồ và nói:
- Một giờ mười lăm phút nữa, xe ngựa sẽ dừng ở trạm cách đây chừng năm dặm. Jacop sẽ đi với anh và chỉ cho anh con đường dẫn đến trạm. Đến lúc đó anh có thể tự ḿnh đi đến trạm được không ?
- Dễ mà cám ơn ông.
Ông ta mĩm cười rồi rung chuông, ông ra lệnh cho Jacop và quay sang tôi:
- Anh phải nhanh lên nếu anh muốn kịp thời đón được xe.
Tôi rối rít cám ơn ông ấy, tôi c̣n muốn bắt tay ông ta nhưng ông đă vội vàng quay đi khỏi. Sau đó Jacob và tôi đi ra ngoài những ngọn đồi phủ tuyết cô quạnh. Mặc dù gió thổi nhẹ hơn nhưng trời vẫn rất lạnh. Bầu trời không có sao, tiếng động duy nhất trên chốn hoang vu này là tiếng từng bước chân lê trên tuyết.
Jacob không nói một lời lăo ta lẵng lặng đi trước tôi, tay cầm ngọn đèn băo. Tôi lẽo đẽo theo sau với cây súng trên tay. Tôi cũng im lặng bởi v́ tôi đang nghĩ về ông chủ già ấy, giọng nói của ông vẫn văng vẳng quanh tai… Tôi vẫn nhớ rơ từng lời nói của ông ấy cho đến tận bây giờ.
Bất th́nh ĺnh Jacob dừng chân và chỉ tay ra xa.
- Con đường ấy đấy, cứ đi dọc theo bức tường đá ở bên tay phải là khỏi bị lạc.
- Con đường xe ngựa đi đó sao ?
- Ừ !
- Cháu đang cách trạm xe bao xa ?
- Khoảng ba dặm, cứ đi men theo con đường là không bị lạc đâu.
Lăo ấy bỗng dưng trở nên thân thiện tốt bụng hơn.
- Đây là một con đường dễ đi đối với những người đi bộ, nhưng nó rất hẹp và dốc đối với xe ngựa. Cậu hăy cẩn thận, bức tường đá bị vỡ gần trạm, nó vẫn chưa được sửa lại sau tai nạn.
- Tai nạn ǵ ạ ?
- Chiếc xe ngựa bị trượt ra khỏi con đường và rơi xuống dưới bờ vực thẳm của thung lũng sâu trên năm mươi bộ đấy. Phần xấu nhất của con đường là ở chỗ đó.
- Thật kinh khủng. Tôi gào lên:
- Thế có bao nhiêu người đă chết ?
- Tất cả. Bốn hành khách đều chết tại chỗ, người xà ích chết vào sáng hôm sau.
- Tai nạn đó xảy ra bao lâu rồi ?
- Hai Mươi năm rồi. Ông chủ của tôi tan vỡ kể từ ngày ấy, đứa con trai độc nhất của ông chủ là một trong bốn người hành khách đó. Đó là lư do tại sao ông chủ lại ẩn ḿnh vào chốn hoang vu này.
- Bức tường bị vỡ gần trạm ? Cám ơn ông cháu sẽ nhớ điều đó. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi đưa một bảng Anh cho lăo ta. Lăo nói:
- Chúc một buổi tối tốt lành và cám ơn cậu.
Sau đó ông ta quay lưng đi thẳng. Tôi nh́n theo ánh đèn băo mập mờ cho đến khi nó mờ dần rồi khuất hẳn. Sau đó tôi bắt đầu đi dọc men theo con đường ṃn. Điều này không khó, mặc dù trời tối, tôi vẫn có thể thấy được bức tường đá dài bên bờ con đường.
- Ḿnh an toàn rồi.
Tôi tự nhủ nhưng tôi cảm thấy cô độc và hơi sợ. Tôi cố gắng quên đi nỗi cô đơn và sự sợ hăi, tôi vừa đi vừa hát và huưt gió. Tôi nghĩ về vợ tôi thế là tôi cảm thấy tốt hơn một chút.
Nhưng ban đêm trên đồi trời thật lạnh, mặc dù tôi bước nhanh nhưng vẫn không thể nào ấm hơn. Tay chân tôi đông cứng lại. Ngực tôi lạnh cóng lên và cảm thấy khó thở, cây súng sao mà nặng gớm, tôi mệt mỏi đờ đẫn người ra. Phải nghĩ chân một lát thôi.
Một lúc sau tôi trông thấy một quầng sáng đằng xa xa, giống như ánh đèn băo. Thoạt đầu tôi nghĩ rằng Jacob quay lại để xem tôi sống chết ra sao. Nhưng sau đó tôi trông thấy một ánh đèn thứ hai bên cạnh cái đầu. Tôi nhận ra đó chính là hai tia đèn của một chiếc xe ngựa.
“ Nhưng kỳ lạ chưa “. Tôi nghĩ
“ Con đường ṃn nguy hiểm này, Jacob đă nói không ai dám sử dụng nó từ khi tai nạn khủng khiếp ấy xảy ra “. Nhưng tôi lại nghĩ
" Hay là ḿnh đă đi qua trạm xe trong đêm tối. Chiếc xe này đi thẳng đến Dwolding chăng ? “
Trong lúc ấy chiếc xe ngựa đi dọc theo con đường, nó đi thật nhanh, thật êm trên con đường phủ tuyết. Tôi trông thấy h́nh dạng to lớn của chiếc xe, có một xà ích ngồi ở trên đỉnh, và bốn con ngựa xám khỏe mạnh.
Tôi nhảy ra đằng trước la lớn và vẫy tay. Chiếc xe ngựa đi xẹt ngang qua tôi, tôi cứ nghĩ thôi rồi nó không dừng lại. Thế nhưng nó đă dừng.
Người xà ích không buồn nh́n tôi, c̣n người bảo vệ th́ có vẻ đờ đẫn ǵ đó… Tất cả đều im lặng. Tôi chạy đến bên xe, không ai giúp tôi tự tôi phải mở cửa xe bằng bàn tay lạnh cứng.
“ Trống trơn “. Tôi nghĩ.
Nhưng trong xe có ba hành khách. Không ai trong số họ buồn nh́n tôi họ không hề nhúc nhích. Họ trông có vẻ lờ đờ. Tôi vào trong xe và ngồi xuống. Bên trong xe ngựa c̣n lạnh lẽo hơn bên ngoài trời nhiều. Xe bắt đầu chuyển bánh. Không khí trong xe có mùi ǵ đó rất nặng, ẩm ướt chết chóc thế nào ấy.
Tôi quay đầu nh́n những hành khách xung quanh tôi và cố gợi chuyện để nói.
- Đêm nay trời lạnh quá.
Tôi lịch sự nói với người ngồi đối diện tôi. Anh ta từ từ quay đầu lại nhưng không trả lời.
- Tôi nghĩ mùa đông thực sự đến rồi.
Tôi tiếp tục huyên thuyên. Người hành khách ngồi ở một góc tối trong xe mà tôi không thấy mặt, nhưng tôi trông thấy đôi mắt anh ta đang nh́n thẳng vào tôi, nhưng vẫn tuyệt nhiên không nói một lời.
“ Tại sao anh ta không trả lời ḿnh nhỉ ? “ Tôi nghĩ.
Nhưng tôi thực sự chưa cảm thấy bực bội. Tôi đă quá mệt mỏi và lạnh cóng, cái mùi ẩm ướt chết chóc trong xe làm tôi muốn buồn nôn. Tôi lạnh rung lên tôi nói với người hành khách ngồi bên trái tôi :
“ Tôi được phép đóng cửa sổ chứ ? “
Anh ta không nói ǵ cả cũng chẳng nhúc nhích. Tôi hỏi lại lớn tiếng hơn, nhưng anh ta vẫn không trả lời. Sau đó tôi đă hết kiên nhẫn. Tôi cố gắng đóng cánh cửa sổ th́ thấy khung kính bám đầy bụi bẩn.
“ Trời ơi, họ không lau chùi cửa kính chắc mấy chục năm rồi “. Tôi tự nhủ.
Tôi nh́n quanh và bất thần tôi hiểu ra lư do tại sao trong xe có cái mùi kinh khiếp ấy. Mọi thứ đều dơ bẩn cũ kỹ và ẩm ướt. Sàn gỗ dưới chân tôi đều vỡ ra từng mảng. Tôi quay sang người hành khách thứ ba và nói :
- Cái xe này sắp vỡ vụn ra rồi, chắc là công ty xe muốn sử dụng xe này thay thế cho xe chính đang sửa chữa.
Anh ta từ từ quay đầu lại… và vẫn cứ im lặng nh́n tôi. Cái nh́n đó… tôi sẽ không bao giờ quên. Đôi mắt hắn ta sáng lên một thứ ánh sáng hoang dă bất thường, sắc mặt anh ta trắng xanh.
“ Giống như người chết vậy “ . Tôi tự nhủ.
Sau đó tôi thấy đôi môi tái nhợt của hắn ta từ từ mở ra, để lộ hàm răng to lớn… Tôi sợ hăi run lên cầm cập. Sau đó tôi nh́n qua người hành khách ngồi đối diện tôi, hắn ta cũng đang trừng mắt nh́n tôi. Gương mặt hắn trắng bệt tái nhợt, c̣n đôi mắt hắn lóe lên thứ ánh sáng kỳ quái.
Tôi lại nh́n sang người ngồi bên trái tôi. Tôi thấy… ồ làm sao tôi có thể mô tả được đây… Tôi thấy bộ mặt của một xác chết. Tất cả ba người hành khách này đều là những người đă chết.
Gương mặt họ xanh rợn người, mái tóc lưa thưa của họ bốc mùi ẩm ướt, những bộ quần áo họ mặt đều tỏa mùi đất ! Chỉ có những đôi mắt của họ là như đang sống. Và tất cả bọn họ đều đang nh́n chằm chặp vào tôi.
Quá kinh sợ tôi thét lớn… tôi phải rời khỏi đây ngay lập tức. Tôi dùng thân ḿnh tống mạnh vào cánh cửa, và cố sức mở nó ra trong tuyệt vọng.
Ngay lúc đó mặt trăng ló dạng khỏi đám mây mù. Ánh sáng lấp loáng của nó làm tôi chợt nh́n thấy rơ mọi thứ. Tôi thấy bảng chỉ dẫn dọc theo con đường giống như một dấu hiệu cảnh báo.
Tôi thấy bức tường bị vỡ ngay bờ thềm con đường. Tôi nghe bầy ngựa sợ hăi hư vang lao trượt xuống bờ dốc đá. Tôi thấy thung lũng sâu năm mươi bộ bên dưới…
Toàn bộ xe rung chuyển dữ dội giống như một con tàu trên biển gặp băo. Một tiếng thét kinh khủng, một tiếng ngựa hư vang trời. Kế đó là tiếng vỡ vụng của chiếc xe, một cảm giác đau đớn khủng khiếp và sau đó là bóng tối bao trùm …
… Một thời gian sau tôi tỉnh dậy, vợ tôi ở ngay bên tôi. Tôi hỏi :
- Chuyện ǵ… chuyện ǵ đă xảy ra ?
- Anh đă bị té.. Cô ấy nói:
- Bức tường bị vỡ ở bờ thềm của con đường, và anh rơi xuống vực thẳm thung lũng sâu năm mươi bộ, nhưng anh đă gặp may, có nhiều tuyết dày đặc ở đáy thung lũng thế là anh thoát chết.
- Anh không c̣n nhớ ǵ cả, làm sao anh đến đây được ?
- Có hai người nông dân đi t́m cừu lạc vào buổi sáng. Họ đă t́m thấy anh trên tuyết và mang anh về nơi trú ẩn gần nhất. Họ đă gọi bác sĩ lúc đó anh yếu lắm, tay găy và đầu chấn thương rất nặng. Anh đă không hề hay biết ǵ cả. Vị bác sĩ lục t́m trong túi anh tên và địa chỉ. Thế là em đă săn sóc cho anh từ lúc ấy. Anh không phải lo lắng ǵ cả, anh cần tập trung nghĩ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe.
Tôi c̣n trẻ khỏe và đă sớm thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng tôi luôn nghĩ về tai nạn đó. Tôi không bao giờ kể cho vợ tôi nghe về chuyện này. Tôi đă kể với ông bác sĩ, nhưng ông ta nói rằng tất cả những chuyện phiêu lưu ấy chỉ là ảo tưởng, là kết quả của sự mệt mơi, của cú chạm mạch ở đầu. Tôi cố nói cho ông ta hiểu, nhưng ông ta không nghe.
Điều này không làm tôi giận dữ, chuyện ông ta tin hay không thật sự không thành vấn đề. Nhưng điều mà tôi biết đó là: tôi chính là một hành khách trong chuyến xe ngựa ma hai mươi năm về trước.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 293 of 2534: Đă gửi: 19 June 2008 lúc 8:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
CƠI ÂM LÀ CÓ THẬT
Các nhà khoa học Nga cho biết họ đă liên lạc được với thế giới của người chết, và đang dần đi đến một khẳng định rằng cơi âm là có thật
Một vụ tai nạn kinh hoàng xảy ra tại Nga vào tháng 8/2004, hai chiếc máy bay đă rơi cùng một lúc tại hai địa điểm cách nhau khoảng 720km, cướp đi mạng sống của 90 người gồm cả phi hành đoàn và hành khách.
Trong khi cơ quan điều tra liên bang Nga đang có mặt tại hiện trường ở khu vực Rostov và Tula để điều tra, phân tích nguyên nhân gây ra tai nạn, th́ các nhà khoa học tại thành phố Saint Peterburg đă biết được rằng, đó là một vụ khủng bố.
Họ đă thu được những âm thanh lạ phát đi ở dạng sóng cực ngắn, sau khi giải mă họ đă vô cùng bàng hoàng khi nghe được giọng nói:
- Đó là một tên khủng bố.
Đây thực sự là một tin gây chấn động đối với người dân, và những lời nói kể trên đă được chính thức phát lại trên đài phát thanh Saint Petersburg. Những người vốn trước đây không tin, cuối cùng đă phải công nhận rằng thế giới âm thực sự tồn tại.
Từ thời xa xưa, người ta đă có ư thức và cố gắng liên lạc với thế giới âm bằng cách này hay cách khác. Các thầy tế và pháp sư đă dùng biện pháp thôi miên để có thể nghe được những giọng nói phát đi từ những hành tinh khác.
Rồi đến những nhà thần linh học (spiritists) cũng đă nỗ lực không ngừng để đọc được những thông điệp từ âm ty bằng cách quay tṛn một chiếc đĩa nhỏ. Tất cả họ đều nhận thấy rằng thỉnh thoảng những linh hồn có thể tiết lộ những thông tin bí mật về một số người, nơi chốn nào đó hoặc thậm chí có thể dự đoán trước được những sự kiện sắp xảy ra.
Vyachelsav Mesherakov, một chuyên gia nghiên cứu về lịch sử của thuyết duy linh, tuyên bố rằng một số thầy phù thủy c̣n có khả năng làm cho những người đă chết sống lại trong một thời gian ngắn.
Những thây ma được làm cho sống lại này có những hành động ma quái, mặc dù h́nh dạng vẫn giống như khi c̣n sống. Những người phản đối thuyết duy linh th́ cho rằng những bức tranh về những thây ma bị phù phép là giả mạo.
Từ khi phát minh về sóng vô tuyến ra đời, người ta đă thấy những tiếng nói lạ xuất hiện trên nền sóng phát thanh. Vào năm 1949 một người Ư có tên Marcelo Becky đă thu lại những tiếng nói đó, và phát hiện ra rằng người ta có thể hồi đáp lại chúng.
Giáo sư Artem Mikheev thuộc Đại học kỹ thuật vô tuyến đă quan tâm đến vấn đề này. Ông đă thành lập ra tổ chức Russian Instrumental Transcommunication (Tổ chức linh thông học phương tiện Nga) với mục tiêu hợp tác với thế giới âm.
Những thí nghiệm của các đồng nghiệp nước ngoài đă thôi thúc Artem Mikheev tự tiến hành những thí nghiệm của riêng ḿnh vào năm 2002. Ông phát hiện ra rằng ḿnh vẫn có thể nhận được những câu trả lời của các hồn ma ngay cả khi micro đă được tắt đi.
|
Mikheev kể lại rằng ngay trong cái ngày xảy ra vụ tai nạn máy bay kể trên, ông đă tiến hành liên lạc với thế giới bên kia, mong được cho biết về nguyên nhân của thảm kịch.
Lời đáp ông nhận được ở trạng thái rất nhanh và lộn xộn. Sau khi giảm tốc độ của lời nói đó xuống 2,5 lần, Artem đă cuối cùng đă có thể nghe được câu trả lời là: "Đó là một tên khủng bố".
Một vài ngày sau đó, thông tin này đă chính thức được xác nhận là đúng. Artem Mikheev thực sự tin rằng cuộc sống sau khi chết là có thật.
Trong một cuộc nói chuyện với các linh hồn, Artem đă hỏi rằng liệu con người và các loài động vật sau khi chết đi có duy tŕ được nguyên kích thước của ḿnh hay không, giọng nói trả lời:
- Bạn tồn tại giống như sóng điện.
Vitinfor
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 294 of 2534: Đă gửi: 19 June 2008 lúc 10:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐOÀN QUAY PHIM
"108 ANH HÙNG LƯƠNG SƠN BẠC"
Theo Chân Đoàn Làm Phim "108 Anh hùng Lương Sơn Bạc" theo lời kể của anh Tống Giang, giám đốc sản xuất của Trung tâm nói về những hiện tượng tâm linh xảy ra cho đoàn làm phim trong lúc thực hiện cuốn DVD này. Câu chuyện có thật 100% sẽ là một kinh nghiệm quư cho những ai tin tưởng vào sự pḥ trợ của thế giới thứ ba.
VW: Thưa anh Tống Giang, trong dịp quay h́nh cho DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” tại Việt Nam, ở thác Hang Cọp, xin anh kể lại câu chuyện đă xảy ra tại thác “Hang Cọp”?
TG: Khu du lịch thác Hang Cọp ở Đà Lạt, là một cái thác có thể nói là tương đối khá nguy hiểm. Thác này rất là sâu so với mặt đất, cho nên rất ít người biết thác này và sự di chuyển khó khăn. Cho nên khi mà đến thác Hang Cọp, chúng ta thấy sự huyền bí của thác, thiên nhiên huyền bí quá, có cả một cái tượng cọp xây để tưởng niệm ông Ba Mươi, có thể nói là ông Ba Mươi cuối cùng của khu rừng đă bị sát hại.
Từ tượng cọp lớn, chiều dài mười mấy hai mươi mét, đi theo con đường xuống thác Hang Cọp. Theo truyền thuyết khi ông Ba Mươi bị sát hại đă lết về đây, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đó là cái hang đó thông ra thác.
Thác nước chảy xiết và rất là trơn trợt nguy hiểm, những du khách đến đây thường bị trợt té và rất là nhiều người đă mang thương tích. Thác Hang Cọp rất là nhỏ, khi quay h́nh chúng tôi phải cố làm sao để cho đem hết tất cả nghệ sĩ vào hang, để người đạo diễn lấy h́nh, cho nên rất khó khăn.
Chúng tôi phải xin phép với ban quản lư của khu du lịch để dọp dẹp hang sạch sẽ, đường đi xuống cho rộng răi, để đạo diễn lấy được những h́nh ảnh đẹp từ thác Hang Cọp.
Khi chúng tôi di chuyển từ trên xuống, thời tiết rất là ấm, Đà Lạt sương mù nhiều mà ít nắng, xuống sâu quá, thác rồi nước, đoàn phim gặp rất nhiều trở ngại, rất là khó hiểu, giống như là máy đang chạy tự dưng bị đứng không chạy nữa mà không phải do hết pin, kiểm tra lại pin vẫn c̣n, battery vẫn c̣n đầy đủ, mà không biết tại sao tự nhiên máy lại đứng, cứ quay khoảng chừng độ mươi, mười lăm phút, máy lại đứng, đó là lư do không thể nào hiểu nổi.
Có lời giải thích từ đạo diễn rằng, có thể là do áp suất nhiệt đới quá thấp, điều kiện thời tiết lúc đó làm ảnh hưởng ống kính, đột ngột thời tiết lạnh quá nên ống kính bị đứng h́nh, đó là những lời giải thích từ đạo diễn.
Tuy nhiên anh em trong đoàn phim thấy nhiều sự hoang mang lắm. Những điều nghe được từ những du khách, cũng như những người dân địa phương, cho hay là thác rất thiêng.
Rất nhiều người cảnh báo chúng tôi là không nên ở lại khi mà mặt trời đă lặn, khi trời về đêm, ở đây có những chuyện huyền bí xảy ra và rất là nhiều những người đă từng gặp những thế giới vô h́nh ở trong Hang Cọp.
Sau khi t́m hiểu chúng tôi được cô quản lư cho hay rằng, trước đây có những đoàn cải lương đến quay h́nh những tuồng giả sử, họ gặp rất nhiều những sự cố mà họ không chịu nói ra, cho nên khuyên chúng tôi nên thu xếp quay càng sớm càng tốt để về.
Chúng tôi cũng cố gắng lắm nhưng không về được, tại v́ công việc quay rất là nhiều những phân đoạn. Lúc đó khoảng 7 giờ trời đă tối rồi, đoàn phim đang chuẩn bị quay, bỗng có một tiếng la của một anh trong đoàn phim, chúng tôi hỏi chuyện ǵ xảy ra, anh nói là cứu người.
Có người tự nhiên đi thẳng xuống thác. Thác thẳng đứng mà rất là trơn, chúng tôi mới pha đèn xuống, tập trung đèn quay phim để xuống t́m người đó, xuống tới thác không thấy ai hết.
Anh vừa là cứu người mặt mày tái mét, nói là rơ ràng thấy một người đi cà khiêng, lướt qua trước mặt ảnh và đi thẳng xuống thác, anh ta nghĩ là một người trong đoàn phim bị say rượu, nhưng mà t́m không thấy người đó.
Lúc đó khoảng 7 giờ hơn trời sập tối, trời tối rất là sớm, nhá nhem chỉ nh́n thấy mờ mờ thôi, đèn đă lên để chuẩn bị quay, ai cũng sợ, anh em lo sợ thế giới vô h́nh, tại v́ đă nghe nói thác Hang Cọp thiêng lắm, một số cứ xầm x́, bóng đêm đă bao phủ hết thác Hang Cọp, không khí huyền bí lắm, chỉ có tiếng nước chảy đổ xuống ào áo và tiếng gió vi vu.
Đà Lạt lạnh như cắt, mà gặp những hiện tượng như thế nên đoàn phim rất là hoang mang, nhưng v́ DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc”, chúng tôi động viên, năn nỉ tất cả các anh chị em nghệ sĩ, trấn an mọi người.
Một người nh́n ra sự việc là nghệ sĩ Hoài Linh, một người đă lên đồng, rất là tin tưởng chuyện huyền bí, đến nói nhỏ với chúng tôi, nói là sẽ đại diện cho tất cả anh em, xin phép khấn vái.
Lúc đó Hoài Linh đến người quản lư xin nhang, Hoài Linh mới đưa chúng tôi đến ngay thác Hang Cọp, khoảng 8 giờ tối, chúng tôi quỳ xuống để khấn vái đốt nắm nhang cắm vào lư hương và vái tất cả những thần linh, thần cọp ở đó và tất cả những vong linh, những kẻ khuất mặt, khuất mày ở đó, nếu có linh thiêng hăy phù hộ cho DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” được quay xong đêm nay.
Chúng tôi biết ơn biết nơi đây là chỗ thiêng linh, mà chúng tôi quấy phá đêm hôm, chúng tôi có lỗi, nhưng mà v́ quay phim dở dang mà phải đi về, ngày mai trở lại quay nữa, cực khổ quá cho nên thông cảm giùm.
Xong rồi tự nhiên anh em tin tưởng, Hoài Linh trấn an tất cả đoàn phim là đă xin phép và đă được thần linh cho phép quay rồi. Sau đó anh em hồ hởi bắt đầu tiến hành quay trời lại mưa lâm râm.
Lúc đầu khi chúng tôi xuống thác, rất nhiều người thấy hiện tượng là có rất là nhiều rắn, nhưng mà chúng tôi không dám nói ra, rất là nhiều anh em thấy rắn ai cũng sợ, nhưng mà cũng nghĩ là không sao hết.
Chúng tôi cố t́nh xua đuổi hết đi và dọn dẹp sạch sẽ để cho có chỗ để anh em nghệ sĩ đứng cách Hang Cọp, khoảng chừng chu vi độ 4 thước vuông thôi mà chứa mấy chục người, đứng xúm xít vô đó trật chân là ra ngoài.
Trời mưa trơn trợt, thác nước chảy cuốn trên đá trợt té liền. Điều khó khăn là đặt máy để quay được Hang Cọp, đặt máy dưới thác các anh em rất là cực khổ phải vịn máy, giữ máy cho thăng bằng để quay được những h́nh ảnh trong một cái hang rất là hẹp, bé thời tiết lạnh lẽo, trong không khí huyền bí như vậy. Chúng tôi tạo tuyết rơi nữa. Một số anh em kỹ thuật ở trên đă leo lên những cành cây cao làm tuyết rơi, tuyết giả.
Khi trên xe về lại khách sạn, một anh mới kể chuyện là, trong lúc đang leo trên cây tự nhiên gió thổi đến, anh thấy có cái ǵ bay bay ở trên đầu, anh tưởng là giông gió tới, anh nh́n lên thấy là cây khô hoàn toàn, trụi lủi là tại v́ họ làm sạch sẽ cây đó, không để cho lá rơi xuống thác Hang Cọp làm ô nhiễm tượng cọp, cho nên cây đó là một cây khô, họ đă cố t́nh làm cho cây đó chết đi, để làm cho cây ở trong núi mọc ra gốc cây thôi, như cây Bonsai vậy đó, cho nên cây đó hoàn toàn không có một cái lá nào hết.
Nhưng mà tại sao, anh này nghe gió thổi phần phật, nh́n lên thấy cây khô cho nên anh rất là sợ, anh biết là có những điềm bất thường xảy ra, đạo diễn chưa quay tuyết chưa rơi, anh ta không dám bỏ xuống, khi quay xong rồi anh ta cứ ngồi ở trên đó vái hoài.
C̣n một sự việc khá ly kỳ nữa, đó là khi đoàn phim đi qua cây cầu treo, trên bảng có đề rơ ràng là tối đa chỉ được 6 người mà thôi, để cho tránh t́nh trạng qua nhiều. Những người địa phương và ban quản lư cho chúng tôi biết là, cây cầu treo này được làm bằng sắt, làm dă chiến bằng những cây sắt kết dài lại, rồi họ kết mây rồi kết gỗ, rồi họ làm cây treo qua tháp, cho nên nếu đi đông người, nó sẽ gẫy đứt dây kẽm và sẽ rớt xuống thác, rất là nguy hiểm tại v́ thác nước đang chảy mà thác rất là cao.
Khi mà chúng tôi đi qua cây cầu treo, chúng tôi chia đều đội h́nh để quay cho đẹp. Khoảng cách cố gắng đi cho đều để trên cầu lúc nào cũng 6 người, nhưng mà như vậy rất là khó, tại v́ rất là chậm, tiết tấu chậm quá, “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” đi qua cây cầu, mà mỗi lần qua có 6 người, biết bao lâu mới hết, cho nên đạo diễn ra lịnh qua loa phóng thanh là phải đi thật nhanh, lúc đó trên 20 chục người trên cây cầu treo.
Người cuối cùng đi qua cây cầu, mới kể cho chúng tôi rằng, họ thấy c̣n hai ba người đang ngồi lố nhố đằng xa để coi, hai ba bóng đen ngồi đằng xa để mà coi.
Lúc đó, đoàn phim nghĩ rằng là những anh em thiết kế qua bên đó để mà lo về đuốc, mỗi một người nghệ sĩ đều cầm cây đuốc qua cầu. Khi nghe người cuối cùng qua nói là c̣n mấy người ở bên đó, đừng có tắt máy đèn, phải để máy đèn họ mới thấy đường để đi qua, lúc đó dưới thác tối thui, chúng tôi mới gọi loa, nhưng không có nghe ai trả lời hết.
Chúng tôi mới kiểm tra đoàn phim, nghệ sĩ đầy đủ và tất cả những chuyên viên kỹ thuật đầy đủ người. Chúng tôi kêu gọi khoảng 15 phút, mà không có một tiếng động nào xảy ra hết hầu như im bặt.
Người mà phát hiện thấy mấy cái bóng đen đó, lúc đó mặt mày không c̣n một chút máu nào hết, từ lúc đó cho tới khi về đến khách sạn, rồi qua tới ngày hôm sau người đó chưa hoàn hồn.
Họ nói là chính mắt họ thấy lố nhố ba bốn bóng đen ngồi đó, tại v́ họ là người đi sau cùng, mà qua ánh đuốc họ giơ lên là họ thấy có bóng đen ở đó.
Những điều đó trùng hợp với tất cả những người địa phương đă kể là, khi màn đêm màn sương buông xuống, có rất là nhiều bóng đen ở trong thác xuất hiện, những bóng đen lởn vởn là những thế giới vô h́nh. Nhiều người đă chứng kiến chuyện đó.
VW: Thưa anh, những chuyện đường rừng của nhà văn Thế Lữ cho thấy những oan hồn, thần rừng, ma, mà đoàn làm phim Thủy Hử lần này gặp phải. Xin anh cho biết rằng sự khó khăn để mà đoàn làm phim vượt qua, anh có tin về vấn đề tâm linh không?
TG: Tôi chắc chắn phải tin rồi. Tôi có niềm tin mănh liệt. Chúng tôi tin tưởng và tôn trọng những người khuất mặt khuất mày, chắc chắn là họ sẽ tôn trọng chúng tôi, mà điều đó là họ đang phù hộ chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy tin tưởng mănh liệt vào thế giới vô h́nh. Chúng tôi không quản ngại thời tiết khó khăn, tới 10 giờ rưỡi mà vẫn c̣n quay ở dưới thác Hang Cọp, trong khi rắn và những hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mà chúng tôi vẫn làm.
Nguyễn Văn
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 295 of 2534: Đă gửi: 20 June 2008 lúc 8:44am | Đă lưu IP
|
|
|
THẦY TÀO VÀ CÂU CHUYỆN THẦN LINH NGƯỜI TÀY
Trong cuộc sống tinh thần của người Tày, thầy Tào ở đẳng cấp cao nhất. Họ là những người có khả năng liên thông với thế giới linh hồn và thần thánh.
Thầy Tào có rất nhiều công việc, nhưng công việc quan trọng bậc nhất, đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ. Từ những nghi lễ của h́nh thức, chúng ta sẽ t́m thấy những ư nghĩa sâu xa hơn của thầy Tào.
Họ cho rằng, linh hồn của con người tồn tại như ư nghĩ. Nếu ư nghĩ của bạn chân thành, trong sáng… khi chết đi, linh hồn bạn sẽ rực rỡ ánh hào quan, bay lượn ở tầng cao nhất của thế giới thần linh.
C̣n khi sống bạn có ư nghĩ xấu xa, cũng có nghĩa linh hồn bạn nặng nề, đen tối và bị ch́m xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn. Và cái thế giới tối tăm đó rất gần với thế giới vật chất của con người v́ thế nó luôn đau đớn...
Ông nội tôi là thầy Tào nên từ bé tôi đă quen với cảnh cúng bái, bùa chú, làm phép… Và trong bản mệnh tôi cũng có duyên với cái nghề đặc biệt ấy, thế nên tôi thường được đi theo ông ḿnh trong những buổi hành lễ. Nhiệm vụ của tôi rất đơn giản: gơ năo bạt.
Đó là hai lá đồng có h́nh như cái đĩa, chúng phát ra tiếng kêu khá dày và ngân dài theo từng nhát gơ. Ngày đó tôi mới chỉ là đứa trẻ nên chưa hiểu lắm về nghề thầy Tào. Tôi chỉ thấy ông tôi được người trong vùng kính trọng, họ luôn cúi chào mỗi khi nh́n thấy ông tôi.
Hằng đêm, tôi thường được ngủ với ông và nghe những bài giảng về pháp thuật của thầy Tào. Đó là những câu chuyện liên quan đến linh hồn người chết. Ông tôi bảo, muốn trở thành thầy Tào cần học khoảng 12 năm, đọc thuộc mười vạn bài cúng, viết được mười vạn lá bùa…
Nói chung rất trường kỳ chỉ có những người kiên nhẫn và có duyên mới theo được. Trong họ Hoàng nhà ḿnh, nếu tính tướng số, chỉ cháu có duyên với nghề này, ông tôi bảo thế.
Có lần tôi hỏi con ma là cái ǵ? Ông tôi cười rồi nói, con ma là linh hồn của vạn vật khi chết đi. Vạn vật trên thế giới này đều có linh hồn, khi chết đi linh hồn ấy được gọi là con ma. Và trong vạn vật ấy, linh hồn con người là quan trọng nhất, cũng phức tạp nhất, v́ thế mới sinh ra thầy Tào. Hồi đó, tôi chưa hiểu những câu nói đầy ư tứ sâu xa của ông tôi.
Nhưng bây giờ tôi thấy những lời của ông ḿnh thật có lư. Quả đúng thế, linh hồn của một cái cây sẽ rất hiền từ như chính cái cây kia vậy, nó vẫn sẽ ŕ rào tỏa bóng mát, nở những bông hoa thơm ngát, hát những khúc ca riêng của nó, vẻ đẹp của nó làm sao loài người có được?
Nó đẹp và đơn giản như chính bản thân nó mà thôi! Con ma người, linh hồn người có cái ǵ liên quan đến nhau? Và tại sao phải xuất hiện thầy Tào chỉ v́ sự phức tạp của con người? Tất cả những câu hỏi đó phải cho đến bây giờ tôi mới lờ mờ nhận ra.
Nói cách khác, nếu trên thế giới này không có con người, cũng có nghĩa không c̣n sự phức tạp và đương nhiên chẳng cần thầy Tào làm ǵ. C̣n trước kia, khi theo ông nội đi hành lễ cho người chết, tôi chỉ nhận được những bài giảng đơn giản của thầy ḿnh.
Ông tôi giảng, khi người mới chết, linh hồn chưa dám thoát ra, nó vẫn chưa tin thân xác đă chết, nó nằm im trong lồng ngực và thỉnh thoảng thử bay ra ngoài. Nhưng bên ngoài cái thế giới của riêng nó thật hăi hùng. Ở đó đă có vô vàn những linh hồn khác đang ŕnh rập. Những linh hồn đó luôn sẵn sàng lao vào cái thân xác mới chết kia để trở lại trần gian.
Tất cả những linh hồn xấu xa đều muốn quay lại trần gian v́ sự tiếc nuối cuộc sống trần tục, hoặc c̣n nhiều việc mà chúng chưa làm xong. Hơn nữa chúng bị đày xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn, v́ thế nặng nề và đau đớn.
Và nhiệm vụ của thầy Tào là đưa những linh hồn yếu ớt ấy rời khỏi thân xác, đến một nơi an toàn. Để làm được việc đó cần có hai nhăn thần nh́n rơ thế giới linh hồn, hát chính xác những bài ca bùa chú… chỉ khi ấy mới đủ sức đưa linh hồn đi đúng hướng, nếu không linh hồn kia sẽ không có cơ hội đầu thai.
Khi tôi ṭ ṃ muốn nh́n thấy linh hồn có h́nh thù như thế nào? Ông tôi cười rồi nói: “… Cứ học đi, đến bao giờ khai mở được nhăn thần sẽ thấy. Linh hồn không có h́nh thù cụ thể, nó chỉ lờ mờ như một làn khói, nó như ư nghĩ của con người vậy, nghĩ thế nào sẽ có h́nh thế nấy…”. Rồi ông tôi kết luận, đại loại cũng như đứa trẻ mới sinh ra, cần một bà đỡ, nếu không sẽ rất nguy hiểm.
Những bài học kiểu thế diễn ra hàng đêm, nhưng rất tiếc sau này tôi đă không theo học v́ nhiều lư do. Trong đó có sự sai lầm của tôi, khi tiếp xúc với nền văn hóa khác, đó là sai lầm thật đáng tiếc. Nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in tất cả những nghi thức và lư giải một cách chi tiết về cách thức đưa linh hồn của người chết về nơi cần đến.
1. Khâm liệm và nhập quan
Người Tày quê tôi, mỗi khi có người chết, nhất thiết họ phải mời thầy Tào đến nhà. Việc đầu tiên là khâm liệm cho người chết. Công việc này cực kỳ quan trọng, nếu để xảy ra sơ xuất sẽ vô cùng khó khăn cho thầy Tào và linh hồn yếu ớt kia.
Người con trưởng trong nhà phải đi cơng nước từ một cái mỏ thật sạch sẽ, sau đó đun sôi cùng lá bưởi. Khi nước đă chuẩn bị xong, thầy Tào bắt đầu làm phép với những bài hát thần bí.
Nội dung của những bài hát đó khuyên nhủ linh hồn đừng nên luyến ái cuộc sống trần tục, hăy đi về với thế giới riêng của ḿnh, cái thân xác này cần được gột rửa và cất kỹ trong áo quan để những linh hồn xấu xa bên ngoài không thể xâm nhập… Thầy Tào cần hát để linh hồn tin rằng, cái thân xác kia đă chết, không c̣n ǵ để luyến ái nữa.
Người nhà sẽ phải thay quần áo mới cho người chết, lau rửa sạch sẽ bằng nước là bưởi. Sau đó sửa lại tư thế cho thật ngay ngắn. Đặc biệt miệng phải được ngậm bạc trắng do thầy Tào yểm bùa, nếu không sẽ là nơi rất dễ bị linh hồn xấu xa xâm nhập. Tiếp sau, thầy Tào cần vẽ một bài vị, nó như một cái nôi đón linh hồn của người chết và bảo vệ nó khỏi sự phiền nhiễu của những linh hồn bên ngoài.
Thầy Tào một tay cầm bài vị, tay kia cầm kiếm, miệng niệm thần chú, nhăn thần rực rỡ, tỏa hết hào quang… xua đuổi những con ma xấu đang vật vờ ŕnh rập. Theo sau ba đệ tử: một cầm chiêng, một cầm năo bạt, một cầm cờ phướn (cờ hiệu riêng của thầy Tào), theo sau nữa là đám người nhà. Họ không được phép khóc, nếu chưa có lệnh của thầy Tào.
Có lần tôi đă hỏi, tại sao người nhà không được phép khóc, nếu như thầy Tào chưa cho phép? Ông tôi giải thích: tiếng khóc của người nhà có một sức mạnh ghê gớm, nó như một lực hút cực mạnh, càng làm linh hồn tiếc nuối, khi đó linh hồn sẽ không c̣n nghe theo lời hát của thầy Tào, có những lúc nó bay ra khỏi bài vị muốn trở lại thân xác v́ sự luyến ái trần gian.
Và khi ấy tất cả những linh hồn xấu xa bên ngoài sẽ lao vào nó, lợi dụng sự yếu ớt của nó để quay lại thân xác. Nếu thầy Tào không kịp xoay sở, linh hồn yếu ớt ấy có thể tan ra và không bao giờ có cơ hội đầu thai.
Thầy Tào bắt đầu ṿng quanh áo quan. Mỗi bước đi là một câu hát, kiếm vung lên đầy uy lực, đám đệ tử cần gơ các nhạc cụ theo đúng nhịp đưa của lưỡi kiếm. Âm thanh lúc này thường chầm chậm, êm ái như một bài ru của người mẹ.
Tiếng năo bạt phải thật dài như gió chạy qua hang núi, tiếng chiêng cũng ngân lên thật ấm áp. Âm điệu của bài hát thật chậm răi, tỉ tê, dỗ dành. Cũng có lúc thật dứt khoát với tiếng thét đầy uy lực, cùng nhát kiếm vung lên sáng ngời .
Tiếng năo bạt phải căng ra để thị uy trước đám ma quỷ bay lượn bên ngoài.Sau khi đă ṿng áo quan đủ 36 lượt, làm nên một ṿng hào quang đủ sức xua đuổi đám ma quỷ quấy nhiễu, thầy Tào dừng lại và ra lệnh cho người nhà được khóc.
Lúc này tiếng khóc lại có sức mạnh thật huyền diệu. Tiếng khóc ấy (tất nhiên phải khóc thực ḷng) sẽ như một đám mây êm ái, bao bọc lấy linh hồn yếu ớt kia, nó như một cái áo mềm mại che phủ lên linh hồn.
Và bốn người đàn ông được phép nhấc cái thân xác không c̣n linh hồn ấy vào trong áo quan. Sau khi đă sửa sang tư thế nằm cho thân xác, người ta phải lấy bốn viên ngói trên mái nhà, kê hai bên đầu thân xác, cấm kỵ việc đầu người chết bị nghiêng.
Hơn nữa người ta rất sợ khi chôn thân xác ấy xuống đất, cùng năm tháng rễ cây có thể ăn sâu vào áo quan, chui vào lỗ tai của người chết, sẽ làm đau đớn linh hồn và ảnh hưởng đến con cháu.
Khi đă hoàn thành việc đưa thân xác vào áo quan, tất cả người nhà phải lùi ra xa, thầy Tào ngậm một bát nước bùa, thổi ba lần lên thân xác kia rồi lệnh đóng nắp áo quan lại.
Và tại sao thầy Tào lại thổi ba lần nước bùa lên thân xác? Đây cũng là điểm quan trọng khi hành nghề thầy Tào. Việc thổi nước bùa ấy không chỉ mang tính h́nh thức, cũng không hẳn là gột rửa thân xác.
Cái bát nước bùa ấy là cả một bí quyết mà chỉ những thầy Tào có đủ nhăn thần mới tinh luyện được nó. V́ khi thổi bát nước đó lên thân xác người chết, cũng có nghĩa thầy Tào đă đưa một phần linh hồn được gọi là “hen mo” (trông mộ).
Nếu không đưa được một phần linh hồn này vào áo quan cũng có nghĩa cái thân xác kia và cả ngôi mộ sau này không c̣n ư nghĩa. Linh hồn này được giao nhiệm vụ ở lại thân xác, chăm bẵm ngôi mộ và liên lạc với con cháu thông qua những giấc mơ...
2. Bước qua sông lửa để sinh ra lần nữa
Khi đă nhập quan xong, coi như linh hồn được an toàn. Tuy nhiên, có những người khi mới chết, người nhà không chú ư, hoặc sơ xuất như khóc quá nhiều, nước mắt rơi vào thân xác, để nhiều người đụng chạm, linh hồn phát tán ra ngoài, hoặc mời thầy Tào quá chậm…
V́ thế khi lập bài vị không gom đủ linh hồn. Trường hợp này, thầy Tào cần bước vào giới âm, gom đủ linh hồn người chết. Đây là giai đoạn rất khó khăn, cũng chứng tỏ được đẳng cấp và khả năng pháp thuật của thầy Tào. Việc này thường được gọi là phá ngục.
Đă rất nhiều lần tôi chứng kiến cảnh ông tôi đi phá ngục. Thông thường ông tôi ngồi thiền, mắt nhắm nghiền, khai mở hết nhăn thần để linh hồn thoát ra khỏi thân xác và bước vào giới âm.
Mỗi lần như thế, những đệ tử đi theo cần hết sức thận trọng, tiếng chiêng, tiếng trống thật dũng mănh, đặc biệt năo bạt phải được đánh liên hồi, đến khi thầy Tào mở mắt, nói rằng đă gom được linh hồn mới được phép dừng lại.
Cũng rất nhiều lần tôi hỏi, khi bước ra khỏi thân xác th́ cái thế giới linh hồn trông như thế nào? Ông tôi vẫn chỉ cười và nói đại loại rằng: khi bước ra khỏi thân xác, thầy Tào cần đem theo ḿnh hai thứ: vũ khí và tiền bạc. Nếu linh hồn cần t́m đang bị ch́m ở tầng thấp nhất cũng có nghĩa thầy Tào phải đối mặt với đám linh hồn xấu xa.
Chúng luôn vây quanh những linh hồn mới đến, v́ thế việc mang theo vũ khí là để xua đuổi chúng. Nếu thầy Tào không đủ pháp thuật sẽ rất khó khăn gom được linh hồn cần t́m. C̣n nếu linh hồn cần t́m đang ở tầng rất cao của giới âm, th́ việc rải tiền dọc đường được coi như một cách chuộc lại linh hồn cần t́m ấy.
Nhưng ông tôi vẫn khuyên rằng, tốt nhất không nên phá ngục v́ điều này cần có bản lĩnh và kinh nghiệm. Trong trường hợp, không thể gom đủ linh hồn ngay lúc người mới chết, có thể chờ cho đến khi làm lễ 49 ngày cũng không sao. V́ khi đó, linh hồn ấy đă bắt đầu quen với giới âm, có thể nghe theo tiếng hát của thầy Tào mà về.
Tuy nhiên, có những người chết không phải do tuổi tác, hoặc bệnh tật, cái chết của họ do ngoại cảnh tác động như: bị giết, tai nạn… Đặc biệt cái chết ấy lại diễn ra bên ngoài, mà thông thường người ta vẫn gọi: “chết đường, chết chợ”.
Những cái chết kiểu này rất khó làm ma cho họ. Hơn nữa thể xác của người chết đă không c̣n nguyên vẹn nên việc khâm liệm, nhập quan rất khó khăn. Và chỉ những thầy Tào thật cao tay như ông tôi mới làm được.
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in cách làm sông lửa của ông nội tôi. Người nhà cần đào một cái rănh dài chừng hai sải tay người lớn, dưới đó chất đầy than củi, tôi đảm nhiệm việc quạt cho than cháy thật to.
Những ḥn than đỏ rừng rực, rồi ông tôi bắt đầu làm phép: miệng đọc thần chú, tay trái cầm kiếm, tay phải bắt quyết, bước đi nhịp nhàng, cứ thế ông tôi đi lại bên cái “sông lửa” và càng lúc bước đi càng nhanh, câu thần chú cũng đọc to hơn, cho đến khi những lửa trong sông chuyển màu xanh biếc.
Khi đă làm phép xong, ông tôi bỏ dép, cứ thế bước qua “sông lửa” ba lần. Rồi lệnh cho con trưởng của người chết tay cầm bài vị đi đầu, theo sau là đám người nhà, họ lần lượt cởi bỏ hết giày dép, cứ thế chân trần bước qua những ḥn than đỏ rực kia. Điều kỳ lạ, họ không hề bị bỏng.
Nếu ai đó quá sợ, dẫm trượt lên mép cái rănh lập tức bị bỏng, c̣n cứ theo bước chân thầy Tào th́ những cục than đỏ rực ấy chỉ mang lại cảm giác âm ấm ở gan bàn chân mà thôi.
Về mặt h́nh thức, đây như một tṛ ảo thuật, tất cả những người chứng kiến cảnh này đều thót tim v́ sợ. Nhưng đây là công đoạn không thể thiếu với những người chết bên ngoài v́ khi bài vị được con cháu đưa qua sông lửa, cũng có nghĩa người chết kia được sinh ra một lần nữa.
Linh hồn người ấy sẽ tinh khôi như một đứa trẻ, mọi tội lỗi, mọi linh hồn vẩn đục đang bám xung quanh sẽ được gột rửa. Như thế mới đủ điều kiện để trở về với tổ tiên và không c̣n đau đớn!
Những đám ma thầy Tào làm sông lửa có rất nhiều người đến xem. Họ đến đa phần v́ sự ṭ ṃ, nhưng cũng có người đến để t́nh nguyện được bước theo. Những người t́nh nguyện bước theo ấy thường là những phụ nữ hiếm muộn con cái, hoặc khó sinh nở.
V́ khi họ đi qua khúc sông lửa ấy, mọi tội lỗi của tiền kiếp, hay những âm khí bám quanh họ được gột rửa như thế họ có thể dễ dàng sinh con hơn.
Có người sẽ cho rằng tôi bịa đặt khi kể chuyện này, nhưng đó là sự thật, sự thật ấy nhiều người ở quê tôi được chứng kiến. Việc bước qua than hồng mà không bị bỏng nghe có vẻ vô lư, nhưng đó là một bí quyết trung ḥa nhiệt độ.
Ông tôi bảo, than càng hồng, nhiệt độ càng cao th́ càng dễ để trung ḥa sức nóng để người bước qua không bị bỏng. Chỉ cần một chút “bua”, thực chất là một loại thuốc được chiết xuất từ mỡ lợn trộn đều với diêm sinh rắc lên đám than hồng và khi bàn chân đặt thật chặt xuống ḥn than lập tức nhiệt độ được trung ḥa, chỉ mang cảm giác âm ấm.
Và cứ thế thoải mái bước qua, nhưng nó chỉ giữ được vài phút sẽ bay hết thuốc và nóng trở lại. Phải thật khéo léo nhắc đám người nhà đi đúng với vết bàn chân của thầy Tào mới không bị bỏng.
Việc làm sông lửa và những thủ pháp nghe có vẻ đơn giản như vậy, nhưng không phải thầy Tào nào cũng dám làm. Bài thuốc trung ḥa nhiệt độ kia cũng không phải ai cũng làm được, chỉ những người lâu năm trong nghề, biết cách chế tác những gói “bua” như ông tôi mới đủ tự tin để dẫn một đoàn người bước qua những viên than nóng bỏng ấy.
Về h́nh thức như đă nói, nó như một tṛ ảo thuật, nhưng ở đó mang một triết lư rất sâu xa của dân tộc Tày. Sau này tôi có tham khảo một số tài liệu của Ấn Độ giáo cũng có những tiết mục đi qua lửa để gột lửa linh hồn và làm sạch những tội lỗi.
Họ cho rằng, linh hồn của người chết v́ ngoại cảnh bị một cú sốc rất mạnh, chẳng bao giờ linh hồn ấy tin ḿnh đă chết, v́ vậy cách tốt nhất hăy “làm mới” họ bằng cách qua sông lửa. Chỉ khi ấy linh hồn kia mới yên tâm rời bỏ thế giới trần tục về nơi vĩnh hằng.
Nhưng ông tôi lại đưa ra một triết lư rất riêng của ḿnh rằng, việc một người chết v́ ngoại cảnh cũng sẽ gây một cú sốc rất lớn với những người thân. Sự đau khổ ấy không chỉ nằm ở việc xót thương người chết, trong sâu thẳm của họ vẫn nghĩ rằng, người chết có thể đă mắc những sai lầm rất lớn nào đó, hoặc đă làm một điều ác mà bị trừng phạt…
Chính những suy nghĩ ấy sẽ dày ṿ, càng làm họ đau khổ. Và nhiệm vụ của thầy Tào không chỉ là đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ mà c̣n phải làm vơi đi nỗi đau của người thân, nhẹ nhơm về tinh thần, tin tưởng vào cuộc sống…
Ông tôi bảo, đối với thầy Tào việc làm cho người c̣n sống thấy yên b́nh cũng quan trọng không kém việc đưa linh hồn người chết về với tổ tiên. V́ rằng, người chết họ sẽ có cuộc sống riêng của họ.
Nếu ta làm đúng cách, dẫn họ đi đến nơi cần đến, hát cho họ hiểu được rằng từ nay họ sẽ có một cuộc sống mới th́ tất cả sẽ êm đẹp. Nhưng với những người c̣n sống, đặc biệt là người thân sẽ c̣n rất đau khổ. V́ thế, h́nh thức bước qua sông lửa là cách làm tốt nhất để làm dịu nỗi đau kia.
3. Mỗi lứa tuổi sẽ có cách làm ma riêng cho họ
Những người chết đă qua bảy mươi tuổi, việc đưa họ về tổ tiên rất nhẹ nhơm, giản đơn. Đám ma kiểu thế cũng rất ít âm khí vây quanh, những linh hồn nặng nề và c̣n nhiều luyến ái với trần tục cũng không thể làm ǵ người chết.
Bởi họ đă qua bảy mươi tuổi, thân xác kiệt khô, linh hồn cũng không non nớt nên chẳng ai dám làm phiền nhiễu. Kỳ thực những người lớn tuổi, linh hồn của họ thường đă ra khỏi thân xác rất nhiều lần ngay cả khi người ấy c̣n sống.
Đó chính là những giấc mơ, người lớn tuổi thường mộng mị rất nhiều, họ mơ thấy anh em, bè bạn, cha mẹ… chủ yếu là những người đă chết. Chính trong thời khắc đó, hay c̣n được hiểu suy nghĩ của họ, cũng có nghĩa linh hồn họ đă thoát ra ngoài, bay lượn ở giới âm, gặp gỡ những người thân, cha mẹ, bạn bè… v́ thế khi chết đi, linh hồn họ chẳng xa lạ ǵ với thế giới linh hồn.
Mỗi lần đến những đám ma kiểu thế, ông tôi thường hát những bài bùa chú mang nội dung chúc tụng, ngợi ca người chết, kể cho họ nghe những công đức mà khi c̣n sống họ đă làm được… nói chung rất nhẹ nhơm.
Chỉ có những người chết dưới bốn mươi tuổi, mà họ đă lập gia đ́nh, có con cái mới thật sự căng thẳng. Cũng dễ hiểu bởi, những người chết trẻ kia họ đă đủ “tiêu chuẩn” để làm ma v́ đă có con cái, nhưng về thể xác lẫn tinh thần của họ c̣n rất trẻ, chưa bao giờ tinh thần của họ nghĩ đến cái chết, v́ vậy sự luyến ái rất nặng nề. Lại thêm đám cô hồn xấu xa bên ngoài luôn ŕnh rập, quấy nhiễu nên âm khí nặng nề.
Để làm ma cho họ, ông tôi thường viết rất nhiều lá bùa, bảo đám đệ tử dán khắp nơi. Đám người nhà không được phép khóc nhiều, đặc biệt người vợ (hoặc chồng) phải lánh xa thân xác người chết.
Những kẻ nhẹ vía, ốm đau không được đến đám ma v́ những người như thế, cái “vách ngăn” của họ với giới âm rất mỏng, họ chỉ cần khóc nhiều sẽ bị mở “vách ngăn”, chẳng hạn như: ngất xỉu, ngủ quên, mệt lả… Chỉ đợi có thế những linh hồn đầy luyến ái sẽ xâm nhập vào họ, quấy nhiễu đời sống trần tục, làm loạn quy luật của âm dương.
Những đám ma như thế thường được ông tôi tiến hành các thủ tục rất nhanh, mọi công đoạn sẽ được rút ngắn. Và sau khi đă chôn cất xong người chết, người nhà cần gom tất cả đồ vật của người chết, mọi khăn tang, áo xô, cờ phướn, bùa chú… đều phải hóa.
Trong thời gian 49 ngày cũng không có bài vị để thờ v́ khi làm ma ông tôi đă lập cho họ một bài vị riêng được gọi là trung giới. Nó được gọi là trung giới v́ không được đặt ở trần gian, cũng chẳng ở giới âm mà ở một tầng khác. Sau 49 ngày cái bài vị ấy sẽ được ông tôi cải hóa và linh hồn sẽ bay về với tổ tiên.
Mục đích của việc “xóa sạch dấu vết” ấy là để người c̣n sống quên hẳn người chết. Ông tôi giải thích rằng, những người chết ở lứa tuổi ấy, sẽ để lại cho người sống nỗi nhớ nhung khôn nguôi. Nhưng người sống không thể đau khổ măi được, v́ thế việc để tang sẽ chẳng tốt lành ǵ.
Đặc biệt người vợ (hoặc chồng) có thể sẽ đi bước nữa, tiếp tục phần đời c̣n lại. Nếu cứ để tang, khóc thương, ám ảnh… những suy nghĩ ấy sẽ đi xuyên qua “vách ngăn” và linh hồn người chết dễ dàng “bắt được”. Như thế làm cho người chết cũng không yên nghỉ mà người sống càng buồn bă hơn.
Có những người vợ (hoặc chồng) v́ quá đau khổ, lại mời phải thầy Tào không cao tay, làm ẩu mọi công đoạn nên sau đám tang thường mông mị gặp người chết, sự ám ảnh của những giấc mơ làm người c̣n sống luôn hoảng loạn và có thể phát điên.
Cũng rất nhiều lần nhiều người t́m đến ông tôi để xin được cắt mộng. Họ đều nói rằng nếu cứ mộng mị như thế sẽ không thể sống nổi.
4. Linh hồn không thể làm ǵ ở thế giới trần tục
Sau những đám ma, nếu người nhà c̣n mơ thấy người chết, chứng tỏ khả năng pháp thuật của thầy Tào chưa cao. Hoặc, khi thực hiện các nghi lễ đă mắc những sai sót nào đó. Và việc người nhà thường nằm mơ thấy người đă chết hiện về là một điều không tốt.
Ông tôi vẫn nói, nếu người nhà c̣n mơ gặp người đă chết, cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa thực sự siêu thoát. Nhưng cũng không hẳn những giấc mơ kia đều do linh hồn của người thân ám ảnh.
Điều này phần nhiều phụ thuộc vào người c̣n sống. Tất nhiên, trong giấc mơ, mọi “thông tin” mà người c̣n sống nhận được đều không rơ ràng, thậm chí rất vô lư… Nhưng thế nào đi nữa, việc thường xuyên mơ thấy người mới chết chẳng tốt lành ǵ, đặc biệt với người đang sống.
Và việc cắt mộng cho họ vừa đơn giản, vừa phức tạp. Thông thường những người đến xin cắt mộng đều được chấp nhận sau khi đă kể tất cả những giấc mơ thường thấy cho ông tôi nghe. Cũng có trường hợp, sau khi kể lại sự mộng mị của ḿnh, ông tôi bảo cứ về sống b́nh thường rồi mọi chuyện sẽ kết thúc.
Với những trường hợp cần cắt mộng, ông tôi lập một bàn cúng, bảo người cần cắt mộng đọc theo những lời ông nói. Tiếp sau, họ cần ngồi xếp tṛn (thiền) khá lâu, để ông tôi nói ǵ đó bên cạnh. Hết bài cúng người đó được mời lại ăn cơm và đêm đó ngủ lại nhà của tôi. Trước khi đi ngủ, họ được uống một bát nước bùa do ông tôi pha chế.
Tất cả những người đến xin cắt mộng, hôm sau đều vui vẻ ra về, họ đều nói đêm qua ngủ rất ngon và chẳng mộng mị ǵ. Cũng từ đó tinh thần họ rất tốt, mọi ám ảnh, u sầu đều biến mất.
Theo ông tôi, giấc mộng của một người c̣n sống giống như một cái hồ nước. Ở đó những linh hồn có thể bơi vào và nhắn những “thông tin” cần thiết với hy vọng chuyển tải nó đến thế giới trần tục.
Bởi khi ta ngủ say, cái “vách ngăn” âm dương thường không được kiểm soát, tùy thuộc vào độ mỏng dày của từng người. Nếu vách ngăn ấy quá mỏng, hoặc mở toang, sẽ rất nhiều linh hồn đi vào để “nhắn” thông tin thông qua ngôn ngữ, hay h́nh ảnh mà ta thường mơ thấy.
Đó cũng là mấu chốt của việc những giấc mộng thường không rơ ràng, lộn xộn, đôi khi vô lư. V́ ông tôi cho rằng, chưa hẳn những “thông tin” trong giấc mơ đó là của người thân ḿnh ở thế giới linh hồn.
Rất có thể những thông tin ấy là của các âm hồn khác. Đó là những âm hồn c̣n quá nặng nề với trần tục, họ luôn luôn muốn quay trở lại trần gian, hoặc chưa bao giờ tin ḿnh đă chết.
Cũng có thể họ muốn mượn người đang c̣n sống làm giúp những việc ở trần gian (chẳng hạn như những oan hồn). Điều này chẳng lợi cho ai, cả người c̣n sống lẫn linh hồn. Người sống sẽ hoang mang lo sợ, c̣n linh hồn cũng chẳng bao giờ thực hiện được điều mong muốn.
V́ thế, cắt mộng cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát được “vách ngăn” âm dương của người c̣n sống. Để kiểm soát được nó, cách tốt nhất ông tôi vẫn thường làm: tạo cho họ một độ vững cần thiết của thần kinh.
Ở đây không có ǵ thần bí, cũng chẳng dùng đến phép thuật cao cường nào. Bài thần chú, ông tôi vẫn đọc cho người cần cắt mộng nghe thường là một bài hát bằng tiếng Tày cổ, có âm điệu du dương như ru người ta ngủ.
Sau đó, cho họ uống bát nước bùa, thực chất là một loại thảo dược có tác dụng làm dịu thần kinh, kéo độ sâu của giấc ngủ xuống mức độ cần thiết. Nếu ai đó v́ quá căng thẳng vẫn bị mộng mị th́ uống nhiều lần trước khi đi ngủ, chỉ một thời gian sẽ chẳng c̣n mộng mị nữa.
Có lần tôi hỏi rằng, nếu linh hồn có thể đi vào giấc mơ của ḿnh, th́ tại sao không để cho linh hồn đi vào, biết đâu họ sẽ nói được với người c̣n sống những điều oan uổng mà khi c̣n sống họ phải gánh chịu? Ông tôi bảo, điều này là tối kỵ.
Âm dương không thể lẫn lộn. Điều quan trọng với các linh hồn là đi đúng đường, tới nơi cần tới, hay vẫn gọi là về với tổ tiên. Ngoài ra họ không cần thiết phải làm ǵ, cũng như một đứa trẻ, cần ăn uống cho tốt, học hành cho tốt v́ đích đến là làm một con người tử tế và có ích.
Thông thường oan hồn vẫn được hiểu là linh hồn bị phát tán, bay vật vờ trong giới âm, họ đau đớn, tuyệt vọng, xót thương… chẳng khác nào đứa bé c̣i cọc, yếu về thể chất, kém về tinh thần sẽ khó trở thành người có ích. V́ thế cách tốt nhất vẫn là khuyên nhủ họ, cầu khấn cho họ, thực sự xót thương họ, cầu cho họ yên nghỉ…
Chỉ có những ư nghĩ chân thành, yêu thương ấy mới đủ sức mạnh xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn, gom linh hồn lại, làm nhẹ mọi luyến ái, đưa họ bay lên tầng cao hơn, về với nơi cần về. Việc mở “vách ngăn” ấy để cho họ đi vào giấc ngủ của ḿnh chẳng khác nào làm cho họ ngày càng nặng nề hơn, đau đớn, chẳng bao giờ đi đúng hướng (siêu thoát).
Ông tôi c̣n khẳng định: chỉ có người sống mới làm yên ḷng linh hồn (người đă chết), c̣n linh hồn hay giới âm hoàn toàn không thể làm ǵ cho người sống. C̣n những câu chuyện đại loại như linh hồn báo mộng để người c̣n sống t́m được một kho vàng nào đó th́ không bao giờ có thật.
Những câu chuyện đại loại như thế, đều xuất phát từ tham vọng thô thiển của người c̣n sống. Nếu những linh hồn ấy có biết nơi cất giấu của cải, họ cũng không bao giờ chỉ cho người c̣n sống.
V́ họ tồn tại như ư nghĩ, cái ư nghĩ ấy không bao giờ muốn của cải bị chiếm đoạt bởi người khác, đơn giản v́ bản thân linh hồn ấy đă bao giờ tin ḿnh chết đâu! C̣n với những linh hồn đă đi đúng hướng, mọi vật chất ở thế giới trần tục không c̣n quan trọng với họ nữa, điều họ cần ở người c̣n sống là những ư nghĩ chân thành dành cho họ, chỉ với sức mạnh của ḷng từ tâm mới có ích cho họ ở thế giới xa xôi kia.
Nếu chiểu theo những quan điểm của ông tôi, mới thấy những linh hồn khác xa với suy nghĩ b́nh thường của chúng ta. Việc hy vọng vào sự phù trợ của những linh hồn, hay thần thánh ở cuộc sống trần tục sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Sự hy vọng này chỉ xuất phát từ dục vọng của người đời.
Mục đích tối thượng của thầy Tào: cho linh hồn yên nghỉ bằng suy nghĩ chân thành. Nếu linh hồn ấy vẫn vật vờ “bay” vào giấc mơ của chúng ta cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa tin ḿnh đă chết, họ vẫn tưởng tượng rằng họ là con người, sống ngay cạnh chúng ta, họ vẫn ăn vẫn uống, vẫn làm việc (dù chỉ là lầm tưởng)…
Và như vậy họ sẽ không thể làm ǵ cho người sống, nếu có muốn cũng không thể v́ khi đó họ chỉ tồn tại như ư nghĩ và ở một thế giới hoàn toàn khác biệt với thế giới trần tục này.
5. Qua thời gian, thân xác hoàn toàn không quan
trọng với linh hồn
Gần đây nhiều nhà ngoại cảm xuất hiện. Họ không trải qua bất cứ h́nh thức luyện tập nào để khai mở nhăn thần. Có chăng chỉ là những chuyện mang tính huyền bí. Chẳng hạn như bị tai nạn, rồi thoát chết tự nhiên nh́n thấy thế giới linh hồn.
Việc gọi hồn người chết, được hiểu họ có thể “đối thoại” với một linh hồn nào đó, để chỉ ra những bộ hài cốt của ḿnh bị thất lạc đâu đó trong trần gian. Khả năng đó ngoài tính huyền bí và vô lư c̣n mang tính vụ lợi, cái tính vụ lợi ở đây thể hiện rất rơ trong hành động có xu hướng chiếm đoạt vật chất.
C̣n với linh hồn, cái đích cuối cùng và ở nền văn hóa nào cũng chỉ mong họ được yên nghỉ, được đi đến nơi họ cần đến. Ngoài điều đó linh hồn chẳng cần thiết đem theo cái ǵ để đến thế giới của họ.
Việc t́m lại những bộ hài cốt, được hiểu đó là những ǵ c̣n lại của thân xác cũng rất quan trọng, nhưng không quyết định sự siêu thoát của linh hồn. Hiểu một cách khác, đó là những vật chất c̣n lại ở trần gian của linh hồn.
Theo quan điểm của thầy Tào, nếu một linh hồn có mồ mả hẳn hoi, sẽ có một phần linh hồn như đă nói được gọi là “Hén Mo”(trông mộ), phần linh hồn này có nhiệm vụ trông coi ngôi mộ và liên lạc với người thân thông qua những giấc mơ. Nhưng đó chỉ có ích khi linh hồn mới ĺa khỏi thân xác.
Theo thời gian cái “vách ngăn” của người c̣n sống đă ổn định, cũng đồng nghĩa với việc liên lạc ấy không c̣n, hoặc rất ít. Thực tế chỉ ra rằng, chúng ta sẽ hiếm hoi mơ thấy cha mẹ, hoặc ông bà khi những người ấy mất khá lâu.
Cái bộ hài cốt (thân xác c̣n lại) nằm ở ngôi mộ là nơi để chúng ta dễ nhớ đến họ, vào những dịp tết lễ chúng ta đến đó thắp hương, cầu khấn, chính khi đó nếu thật thành tâm, hội tụ đủ sức mạnh, ư nghĩ sẽ xuyên qua “vách ngăn” để linh hồn ở giới âm nhận được.
Và càng nhiều ư nghĩ chân thành th́ linh hồn càng nhẹ nhơm, bay lượn ở tầng cao của thế giới vĩnh hằng ấy. Ở chừng mực nào đó, có thể hiểu ngôi mộ (chứa hài cốt) là nơi để ư nghĩ (sự thành tâm) xuất phát đi xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn. Ngoài ra không c̣n ư nghĩa quan trọng nào khác.
Nhưng, ư nghĩ của chúng ta, có thể xuất phát bất cứ lúc nào, ở mọi hoàn cảnh đều có thể nghĩ đến người thân đă mất. V́ thế việc có bộ hài cốt, hay ngôi mộ không quyết định đến sự siêu thoát của linh hồn. Nó chỉ mang nhiều ư nghĩa với người c̣n sống.
Chỉ v́ người c̣n sống vẫn quan niệm: thân xác ở đâu, linh hồn ở đó. Nên họ mong muốn t́m được thân xác người thân, chôn cất cẩn thận và thờ cúng để linh hồn được yên nghỉ. Điều này không sai, nhưng hoàn toàn không quan trọng và cần thiết.
Với những trường hợp chết không biết thân xác ở đâu, ông tôi vẫn làm ma cho họ một cách b́nh thường. Và bao giờ cũng làm cho họ một ngôi mộ giả. Ở đó chỉ cần chôn theo một di ảnh, hay một đồ vật nào đó của người chết.
Bởi khi làm ma, những phương pháp của thầy Tào đă gom đủ linh hồn, đưa vào bài vị, dẫn đi đúng đường, đến nơi cần đến. Thế nên ngôi mộ giả ấy chỉ mang tính chất tượng trưng, và sau này nếu t́m thấy thấy hài cốt (thân xác) có thể chôn xuống chính ngôi mộ ấy, chẳng ảnh hưởng đến linh hồn ở giới âm.
Không nên hiểu linh hồn cũng như con người. Có thể thân xác của người chết ở tận đâu đó rất xa, nhưng linh hồn họ khi ấy tồn tại như ư nghĩ, v́ vậy không gian, thời gian chẳng c̣n ư nghĩa ǵ. Thân xác có thể ở tận nước ngoài, nhưng chỉ cần ta nghĩ đến họ, lập tức họ ở ngay cạnh ta v́ họ là ư nghĩ.
Chỉ tiếc, thời nay có quá nhiều “thầy” không biết khả năng khai mở nhăn thần đến đâu, nhưng họ rất biết lợi dụng vào tâm lư của người c̣n sống để khoa trương thanh thế và trục lợi. Cũng có trường hợp, luyện tập chưa xong, hiểu biết c̣n ít đă nhảy ra làm thầy nên làm sai lệch những quy luật của âm dương.
Có vị “ngoại cảm” đă khăng khăng miêu tả rằng, nh́n thấy linh hồn và tṛ chuyện được với họ. Và theo như vị đó miêu tả, linh hồn đó mờ ảo có h́nh như con người, thậm chí c̣n miêu tả dung mạo của linh hồn ấy.
Điều này chứng tỏ, sức tưởng tượng của vị “ngoại cảm” rất nghèo nàn. Thế giới linh hồn không có h́nh thù nào cụ thể, đó là ư nghĩ: không h́nh, không màu, không mùi vị, không âm thanh, không vật chất… chỉ có ư nghĩ, rất trừu tượng, rất mơ hồ ngoài sức tưởng tượng của con người.
Sự quả quyết của vị “ngoại cảm” ấy, chẳng qua chỉ liên tưởng từ thế giới trần tục rồi áp đặt vào giới âm. Như thế thật thô thiển và lộ rơ sự ḷe bịp.
Hơn nữa, khi bước vào giới âm, có vô vàn linh hồn, ở nhiều tầng khác nhau, làm sao có thể nhận ra một linh hồn cụ thể nếu như chỉ dựa vào tên tuổi, quê quán, hay một số di vật mà người c̣n sống đưa cho.
Ở đây cũng thấy rơ họ “bắt chước” thế giới trần tục, theo kiểu tra hồ sơ. Đừng ngây thơ nghĩ rằng, nhắm mắt rồi đọc tên tuổi của họ th́ họ sẽ hiện ra, hoặc đưa những di vật (quần áo, đồ đạc...) của linh hồn khi c̣n sống th́ họ cũng hiện về.
Nếu hiểu như thế chứng tỏ vị “ngoại cảm” đó chẳng biết ǵ về giới âm, cũng có nghĩa khả năng “giao tiếp” với linh hồn là sự bịa đặt. Nên nhớ linh hồn chỉ liên thông với thế giới trần tục bằng một “kênh” duy nhất, đó là ư nghĩ!
Những “thầy” kiểu ấy không chỉ riêng thời nay mới có, từ rất xa xưa vẫn cứ tồn tại những vị như vậy. Ông tôi bảo, thầy Tào cũng có nhiều trường phái, mỗi trường phái đều có cách thức riêng của ḿnh để hiểu biết về linh hồn.
Nhưng cái quan trọng bậc nhất vẫn phải đưa được linh hồn về nơi cần đến. C̣n tất cả những ai không đi theo quan niệm này đều là tà giáo. Để phân biệt tà giáo hay chính giáo trong thế giới tinh thần con người rất khó khăn. Chỉ có điều, cho đến một ngày tất cả chúng ta đều trở thành linh hồn (chết đi), chỉ khi đó mới thực sự biết cái ǵ đang đợi linh hồn của ḿnh.
6. Lời kết: Hăy chân thành, trong sáng để bay lượn ở
tầng cao nhất của thế giới linh hồn.
…Và khi c̣n sống nếu ư nghĩ của chúng ta chân thành, trong sáng, hành động của chúng ta cao đẹp cũng có nghĩa linh hồn chúng ta sẽ nhẹ nhơm, dễ dàng siêu thoát.
C̣n ai đó xấu xa trong ư nghĩ, nặng nề với dục vọng, nhiều hành động sai trái, tất nhiên linh hồn nặng nề nằm ở tầng thấp nhất của giới âm.
Và khi đó sự đau đớn sẽ đến, cái tầng thấp nhất ấy nằm rất gần với thế giới vật chất phàm tục của con người. Ông tôi, một thầy Tào, bảo thế!
A Sáng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 296 of 2534: Đă gửi: 20 June 2008 lúc 10:57am | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN THOẠI THẦY
RẮN U MINH
Truyền thuyết kể rằng, trong cơi U Minh lam sơn chướng khí có một "vương quốc rắn" do đôi măng xà thân to mấy trượng trị v́. Cũng ở đây, có những ông thầy bùa đạo hạnh cao thâm dùng tà thuật "khiển" các loài rắn độc theo ư ḿnh.
"Rắn lạ" ở U Minh hạ
Đêm, sâu trong rừng đặc dụng Vồ Dơi, nơi được coi là khu rừng tràm nguyên sinh cuối cùng của rừng U Minh hạ, không gian yên tĩnh bỗng chốc náo động bởi tiếng bọn khỉ và tiếng thét của con chồn mướp.
Khi vệt đèn pin hướng về bầy khỉ, mọi người mới chết điếng: con chồn chỉ c̣n là cái xác đu đưa trên ngọn tràm cao gần mười mét, trong hàm con rắn khổng lồ. Anh Nguyễn Văn Của kiểm lâm tỉnh Cà Mau kể:
"Trước cảnh tượng này, cả đội chạy về hạt báo cáo trong tâm trạng thất thần. Anh phải động viên anh em hết lời, họ mới chịu quay trở lại chốt canh".
Cách đây không lâu, chính anh Của cũng đă "đụng" một con rắn khổng lồ khi cùng một kiểm lâm viên chạy xe gắn máy kiểm tra các chốt canh trong rừng Vồ Dơi.
Trước đó, ở vạt rừng cạnh Vồ Dơi có nông dân trong lúc phát quang bụi rậm cũng vô t́nh chặt đứt đuôi con rắn. Khi đem về cân thử một phần nhỏ của cái đuôi cũng đă nặng 7,5 kg...
Cứ thế, những câu chuyện nửa thực nửa hư về loài rắn khổng lồ trong rừng Vồ Dơi đă khiến nhiều tay phong ngạn lấy mật ong, không dám bén mảng vào rừng, trừ các "ông thầy thuốc rắn".
Những thầy thuốc rắn cuối cùng
Hồi tháng tư năm nay, ông Trịnh Văn Ớt, một tay bắt rắn lăo luyện ở xă Khánh Lâm, huyện U Minh Cà Mau, khi ngà ngà hơi men đă nói với ông trưởng công an huyện:
"Nếu anh kư giấy cho tôi vào rừng, một ngày tôi nộp năm trăm ngàn đồng, c̣n ở Vồ Dơi ai cho tôi vô, tôi đưa liền một triệu".
Cách đó hai cây số, ông thầy thuốc rắn tên Phan Văn Thuận xuưt xoa:
"Làm nghề thuốc rắn cứu người mấy chục năm nay, nhiều loại rắn như hổ long, hổ trâu, hổ chúi... đều thấy. Nhưng từ đầu năm tới nay, người ta chở tới tôi nhiều trường hợp bị rắn lạ cắn. Ngay cả rắn hổ phướng sống trên núi bây giờ cũng xuất hiện".
Trên toàn U Minh hạ chỉ c̣n trên dưới hai mươi người có khả năng cứu người bị rắn độc cắn. Phân nửa số này vẫn c̣n đi lục lạo từng xó xỉnh, từ bờ ruộng tới mé rừng bắt rắn làm kế sinh nhai.
Ông Trịnh Văn Ớt kể:
"Năm hai mươi tuổi ông đi chiến trường Campuchia. Khi trở về duyên may sao đó, khiến ông gặp được một vị tiền bối truyền lại nghề thu phục rắn, với lời nguyền: Khi dùng những ǵ học được để cứu người th́ không được lấy tiền.
Nhưng cuộc sống khó khăn, ông đă dùng những ǵ ḿnh học được để... đi bắt rắn. Những năm 1984 -1985, có ngày ông bắt được mấy bao rắn, kiếm vài triệu đồng.
Có tiền ông mua được mười bốn công ruộng pḥng thân. Những năm trở lại đây rừng tràm qua mấy mùa cháy lớn, diện tích bị thu hẹp dần. Do rừng ngày càng được canh giữ nghiêm, những người như ông rất khó đặt chân vô".
Bản thân ông Ớt hơn mười lần bị rắn cắn nhưng đều tự chữa cho ḿnh được. Ông không nhớ hết đă từng cứu sống bao nhiêu người bị rắn độc cắn, mà chỉ nhớ lần duy nhất ông bó tay. Đau đớn thay đó lại chính là anh ruột của ông tên là Trịnh Văn Thắng, cũng làm nghề bắt rắn.
Ông Trịnh Văn Thắng đă hai mươi sáu lần bị rắn cắn đều được ông Ớt chữa lành. Đến lần thứ hai mươi bảy ông bị rắn hổ chúa cắn, ông Ớt đă mời năm ông thầy thuốc rắn, giỏi nhất nh́ U Minh đến cùng chữa nhưng tất cả đều chịu thua.
"Hổ chúa" chính là loài rắn mà các thầy rắn ở U Minh đều e dè. Tương truyền rằng loài rắn này có thể gáy để gọi con mồi, và đă có quá nhiều cao thủ bắt rắn đă "tử nghiệp" v́ nó.
Bốn mươi năm làm thầy thuốc rắn, từ người cha truyền lại, ông Phan Văn Thuận 67 tuổi, cũng không nhớ hết ḿnh đă cứu bao nhiêu người.
Trong bán kính trên dưới mười km từ nhà, hằng năm luôn có vài chục trường hợp bị rắn độc cắn được ông trị khỏi. Ông luôn tự hào là trong bốn mươi năm làm công việc này, ông chưa một lần cầm tiền thù lao của người gặp nạn.
Báo ứng ?
Trị bệnh không ăn tiền, không dùng khả năng có được để hại người, không lạm sát loài rắn là ba điều mà các ông thầy rắn U Minh coi như là cái đức phải giữ.
Thực tế đă có không ít thầy thuốc rắn phải trả giá bởi vi phạm điều cấm. Hai ông thầy thuốc rắn được coi là giỏi nhất xứ U Minh từ trước tới nay cũng đă có một kết cuộc như thế. Họ đều có khả năng "khiển" được rắn hổ chúa nhưng cả hai đều nghèo, sống đời rày đây mai đó.
Ông Tám Rớt sống bằng nghề bắt rắn bán. Có bận ông Tám đă gặp con rắn rất lạ "dám" phùng mang với ông. Lần đó ông đă bỏ hết bao rắn mấy chục con.
Lần khác ông đi bắt mấy bao rắn bỏ trên xuồng, khi bơi về nhà th́ cũng chính con rắn ấy như chực sẵn dưới khoang xuồng "đớp" ông một phát.
Nghe tin những ông thầy thuốc rắn giỏi nhất xứ U Minh đă tụ lại, người vuốt bùa, người đổ thuốc, nhưng ông Tám lắc đầu bảo đă đến lúc phải "trả nợ". Cái chết của thầy Tám Rớt đă để lại một khoảng trống không nhỏ trong giới hành nghề thuốc rắn ở U Minh.
Thầy Năm Ngọc được coi là cao thủ số một c̣n lại. Tuy là thầy thuốc rắn bậc nhất, nhưng ông lại làm nghề "đâm hà bá" (bắt cá trên sông). Người ta c̣n nhớ chuyện ông Năm Ngọc bị mất hai con cá ngát to.
Ông tức tối tuyên bố nếu ai đă lấy cắp con cá th́ phải trả ông lại... con heo. Mười ngày sau có một người tên M. ở Hương Mai bị rắn độc cắn lúc đi phát ruộng. Ông Năm Ngọc nói muốn khỏi th́ phải cúng heo. Hóa ra chính anh M. là người trộm hai con cá của ông Năm Ngọc.
Ông Năm Ngọc là thầy thuốc rắn nổi tiếng ở cả hai phương diện: cứu người và "khiển" rắn cắn người. Về cuối đời ông sống trong tâm trạng bấn loạn, thường chui xuống gầm sàn nằm như... rắn. Người ta bảo ông bị "tổ hành"!
Những câu chuyện huyền hoặc như trên có lẽ sẽ chẳng thể chứng minh bằng lăng kính khoa học. Có điều người dân U Minh trước nay có thói quen khi bị rắn cắn là gửi trọn niềm tin, sinh mạng cho những ông thầy thuốc rắn như quán tính tự nhiên.
Thế nhưng rồi những thầy thuốc rắn cũng sẽ không c̣n, như những huyền thoại đang nhạt dần ở rừng U Minh...
T.T
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 297 of 2534: Đă gửi: 20 June 2008 lúc 11:22am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÀ QUAY PHIM PHẠM KHẮC ĐÀM
KỂ CHYỆN RÙNG RỢN
Chuyện ma quỷ có người tin có người không. Nói như thiền sư Vũ Công Lư “vấn đề anh tin hay không mặc xác anh. Có những chuyện không cần anh tin nó vẫn có”.
Trong tinh thần đó câu chuyện của của nhà quay phim Phạm Khắc Đàm, nói về “cây súng bị ma đ̣i”.. cũng làm những người yếu bóng vía phải xanh mặt.
Tuy nhiên như đă thưa ở trên, vấn đề tâm linh không ai bắt ai tin được. Và chuyện ma cỏ không phải ai cũng thấy. Tất cả những câu chuyện do các nhân vật có thật kể ra trên, không nhằm mục đích tạo sự hoang mang cho mọi người.
Đơn giản là những câu chuyện đă được không riêng ǵ một người, mà nhiều người đă nói tới trong thời gian qua… Đây là những kinh nghiệm tâm linh cá nhân kể cho nhau nghe nhân mùa lễ tết.
VW: Anh Phạm Khắc Đàm kể một câu chuyện anh chứng kiến hoặc là anh nghe kể lại chuyện ma quỷ như thế nào?
PKĐ: Đây là một câu chuyện thực mà sau đó tôi đă kiểm chứng. Năm đó là năm bảy mươi hai. Mùa Hè Đỏ Lửa tôi ra trường với cấp bực Chuẩn Úy.
Ngày tôi tŕnh diện đơn vị, hôm đó đơn vị tôi đóng trong cổng Mỹ trên đồi Con Eùn, trong xă Cầm Mỹ, cách Long Khánh khoảng hai mươi bảy cây số. Đoạn đường đó một ngày có một chuyến xe thôi.
Năm bảy mươi hai không được an ninh. Tôi nhớ rằng buổi chiều hôm đó, hậu cứ của tiểu đoàn có một chiếc xe Dodge, tôi quá gian chiếc xe Dodge đó đi vô trong đơn vị, vào khoảng độ hơn năm giờ chiều.
Khi tôi bước chân khỏi xe Dodge, đang c̣n ngồi trên ba lô, ông Đại úy Nhơn ra gặp. Tôi ngắn gọn, cho biết tôi là sĩ quan mới ra trường đến tŕnh diện đơn vị.
Ông vô kêu Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng ra, Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng nói là, tối rồi vào Bộ chỉ Huy Tiểu đoàn ngày mai tính, tức là sẽ đưa tôi ra Đại đội nào đó. Một đơn vị nằm trên một ngọn đồi đêm không có đèn, Tiểu đoàn Trưởng nói tôi đi lên trên đồi.
Đêm hôm đó tôi ngủ tại pḥng Trung Úy Lâm A Si, Đại đội Trưởng đại đội yểm trợ chỉ huy. Trung úy ngủ ở trên tấm ván đóng bằng thùng đạn 105 ly, c̣n dư cái vơng, Trung úy nói là cho tôi nằm.
Đó là đêm đầu tiên, tôi không biết ǵ về đơn vị mới và tôi không biết ǵ về căn hầm đó cả. Tối tôi ngủ mơ mơ màng màng, ba lần trong đêm, tôi cứ nghe có ai đó nói, ông làm ơn trả lại cho tôi khẩu súng, ông làm ơn trả lại cho tôi khẩu súng…
Sự thực tôi mới tŕnh diện đơn vị, chưa lănh một khẩu súng nào hết, từ M-16 đến Colt. Đến lần thứ ba như vậy, tôi nhớ mắt tôi c̣n mở nh́n qua cửa của căn hầm thấy ánh trăng, tôi vẫn nghe câu trả lại cho tôi khẩu súng…
Lúc đó giống như có cái ǵ đè ở trên ngực, tôi nằm gần như là bất động, cố gắng lắm chân của tôi vẫn c̣n mang đôi giày bốt đờ sô, rời khỏi thành vơng rớt xuống cái rầm.
Trung úy Lâm A Si, Đại đội Trưởng yểm trợ, chỉ huy Đại đội của Tiểu đoàn hỏi tôi chuyện ǵ đó. Tôi nói không có ǵ cả, trời cũng gần sáng.
Đến sáng, năm sĩ quan Tiểu đoàn trong đó có Trưởng ban ba, Trưởng pḥng Truyền tin, Trưởng ban năm, Trưởng ban hai ra ngoài sân. Tiểu đoàn mới nói: quan nhỏ đâu tŕnh diện coi, đi uống cà phê.
Tất cả đều kéo xuống quán cà phê ở dưới chân đồi trong xă Cầm Mỹ, tại đó tôi mới thắc mắc, hỏi mấy xếp là tại sao kỳ vậy, tôi mới ra đơn vị, chưa nhận một khẩu súng nào cả, mà trong đêm, cả ba lần có người cứ đ̣i súng.
Mấy ổng mới cười lên nói rằng: Trung úy Tới nó đ̣i súng cậu. Tôi mới nói: lạ nhỉ tôi chưa nhận khẩu súng nào cả tại sao đ̣i.
Thế là sau cữ cà phê đó, lúc trở về tôi mới t́m hiểu. Câu chuyện là như vầy. Ở đầu vơng của tôi có đóng một cây đinh, mục đích treo cái dây ba chạc, mà trong dây ba chạc đó, có một cái khẩu súng trước kia của Trung úy Tới.
Khi ông chết ông nằm úp, khẩu súng nằm ở dưới bụng, sau tai nạn đó khẩu súng cứ đưa đến tay ai, người đó đều bị ông về đ̣i súng.
Đó là câu chuyện mà tôi chứng kiến trong cuộc đời cách đây vào khoảng độ ba mươi lăm năm. Khẩu súng h́nh như có linh hồn của một người bạn cùng đơn vị của tôi.
Lê La
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 298 of 2534: Đă gửi: 20 June 2008 lúc 11:42am | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN MA GÀ VÀ NHỮNG
GIẤC MƠ ĐẦY TRỨNG
Cho tới tận bây giờ tôi cũng chưa biết ma gà là ǵ, nó như thế nào và tại sao nó hành người ta lâu dài đến thế? Không những người làng tôi, mà cả vùng Tày Nùng đều đồn đại xung quanh chuyện con ma gà.
Nó thổi từ tai nọ sang tai kia, từ miệng người này sang miệng người khác. Tin đồn như lửa cháy chôn chảo. Thực hư chả biết. Nhiều người ghê khiếp nó. Nhưng tôi chưa hoàn toàn tin. Mặc dù cũng đôi lần hơi sởn gai ốc.
Họ thường đồn “Nhà kia có cô con gái xinh đẹp nết na, thế nào cũng có ma gà. Nhà ấy làm ăn phát đạt nhanh đến thế, chắc có con ma gà giúp v.v...” Nói tóm lại, những ai "sủi tăm" hơn người một chút là bị gán cho là người có ma gà.
Khi không ưa loại người nào đấy, thiên hạ cũng quàng lên cổ người ta hai chữ ma gà. Ma gà như ṿng kim cô ở nơi nhạt muối của những người thiếu ḷng thiện chí. Cái sự ác tâm đă làm thành lời đồn đại. Tôi nghĩ thế. Không biết có đúng không.
Lời đồn đại ấy vô t́nh làm cho nhiều gia đ́nh lâm vào cảnh khốn đốn. Ra đường không dám mở miệng chào ai. Vào làng không dám nh́n trâu ḅ lợn gà. Không dám khen trẻ nhỏ. Không dám hỏi thăm người già. Khi đi làm đồng hay lên rừng kiếm củi, thường chỉ lẽo đẽo một ḿnh. Không có ai đi cùng.
Giữa đường gặp mưa to gió lớn, người có ma gà không dám đứng trú chân. Chỉ sợ người nào nh́n thấy. Người ấy liền réo tên vạch mặt lên cho ông trời nghe. Ông trời lập tức sai thần sét đánh chết. Người có ma gà nh́n vào đâu cũng làm cho muôn vật bị lây nhiễm. Lời nói của họ như phun thuốc độc. Nó sẽ làm héo úa hoa màu cây cối. Làm tiêu tan máu chảy trong người. Trẻ th́ biếng ăn. Già th́ đau xương mất ngủ. Trâu ḅ lợn gà bỗng dưng lăn đùng ra chết.
Muôn lời đồn thổi cay độc như thế sống sao được nữa. Người có ma gà đành bỏ quê mà đi. Đi tới nơi nào không c̣n có ai biết tên nhớ mặt. Nhưng đi đâu được? Lời nói gió bay. Gió mang lời đồn thổi chết người ấy đi theo cả ngàn vạn dặm. Người có ma gà buộc ḷng ở lại quê nhà. Họ đành chịu đựng âm thầm suốt đời như cái bóng.
Cách đây không lâu. Tôi có người bạn thân, kể một câu chuyện. Theo bạn, đấy là chuyện có thật một trăm phần trăm. V́ chính mắt bạn tôi nh́n thấy. Chuyện thế này:
Ngay gần hàng phố Co Xàu, nơi gia đ́nh bạn nhiều năm buôn bán và sinh sống. Có một cháu bé mới lên năm tuổi. Bố mẹ cháu đều là người Kinh, mới từ dưới xuôi lên làm ăn. Cháu không hề biết tiếng Nùng Giang. Tự dưng có một hôm, cháu buột miệng nói tiếng Nùng Giang, nói một cách rơ ràng mạch lạc. Không sai một âm tiết.
Ai đứng gần đấy đều trố mắt ngạc nhiên. Nói xong nó chạy. Vừa chạy cháu vừa bảo: “Tôi phải về nhà ngay với bố mẹ. Bố mẹ chờ tôi đă năm năm rồi”. Người bố vội vàng chạy theo để giữ con ḿnh lại. Chạy ṿng vèo từ nhà đến Kéo Lồm. Từ Kéo Lồm lại về Phạ Phủ. Hai bố con chạy đuổi nhau gần hết cả buổi sáng mà không tài nào bắt kịp.
Bạn có tin không? Một người đàn ông hoàn toàn khỏe mạnh, thế mà chạy không nhanh bằng một đứa bé năm tuổi. Con bé chạy như chân không bén đất. Nó thoắt ẩn thoắt hiện. Lúc thấy lúc không. Người bố thở không ra hơi. Nói không thành lời. Nhưng nỗi sợ mất con làm ông gắng sức hết sức ḿnh chạy đuổi theo, thế rồi đành bất lực đứng nh́n con gái.
Con bé chạy hầu như không thở. Chỉ thấy bóng lướt qua cái bóng. Một lúc sau, bỗng thấy nó đổ gục ngay trước cửa nhà ḿnh. Cháu hộc lên một tiếng. Máu tràn ra đằng miệng. Một vũng máu đỏ ḷm to bằng miệng nón. Mọi người hàng phố cùng ào xông đến, bế người cháu lên. Th́ trời ơi! Cháu đă…
Mỗi khi được nghỉ, tôi hay về thăm quê. Cũng câu chuyện này, tôi đă được nghe mọi người kể lại. Nhưng tôi để ngoài tai. Bởi đă có nhiều chuyện mà người dân quê tôi hay thêu dệt, khi đi làm đồng hay những lúc nhàn rỗi.
Mục đích chính chỉ làm tiêu tan mọi cơn mỏi mệt. Hoặc góp vui cho nhiều người cùng cười. Cười lên cho sướng tai mát bụng. Đơn giản vậy thôi. Có nhiều chuyện mà hồi xưa bố tôi kể c̣n ly kỳ rùng rợn hơn nhiều. Tôi đă quá quen với môi trường sống pac lep (nói phét) này rồi.
Nhưng đến lượt bạn tôi, một người mà ngay từ nhỏ đă có thói quen sống cực kỳ nghiêm túc và mực thước, th́ tôi mới thực sự giật ḿnh. Chuyện này khiến ruột gan tôi bỗng như có kiến cắn.
Hồi c̣n là học sinh trung học, tôi có một người bạn trai, nhà ở tận Lũng Đính thuộc xă Đ́nh Phong. Bạn ấy học giỏi nức tiếng. Trong một cơn mơ, bạn đă giải tŕnh xong bài toán v́ sao pi bằng ba phảy mười bốn. Nhưng sau đó th́ nghe đồn là nhà bạn ấy có chuyện như vậy.
Măi về sau này, và ngay cả bây giờ, tôi thấy đời sống của bạn tôi b́nh thường như mọi người khác. Mọi chuyện đồn đại h́nh như đă lắng xuống. Khi mà gia đ́nh bạn ấm êm hạnh phúc, vợ chồng ḥa thuận, con cái trưởng thành, có nhà riêng năm tầng mặt phố chính. Nghe đâu bạn tôi sắp được điều ra tỉnh để phụ trách một ngành lớn và quan trọng. Tôi thực sự mừng cho bạn.
Cổ nhân nói: “Nhân cường (th́) mà nhược”. Tôi tin điều này hơn câu chuyện mà bạn tôi vừa kể. Một cơ thể sống khỏe mạnh. Khỏe mạnh về mọi phương diện th́ không thể nào người ấy có ma gà.
Một gia đ́nh hạnh phúc, con cái đề huề giỏi giang, làm ăn năm sau phát đạt hơn năm trước, dứt khoát gia đ́nh ấy không thể có ma gà. Người đời v́ ghen ăn tức ở, có muốn đồn thổi mặc sức mà đồn thổi. Có như thế mới gọi là thói đời.
Chu Văn Păn
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 299 of 2534: Đă gửi: 20 June 2008 lúc 6:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ MẬT VỀ CHAI NƯỚC TRONG
VÀ BỆNH ĐIÊN KỲ DỊ
Cho đến tận bây giờ, tôi cũng chưa biết đích xác cha tôi chữa "bệnh điên" cho người ta ra làm sao, bằng cách ǵ, dùng phương thuốc đặc trị nào? Đó là một căn bệnh khó chữa vào hàng bậc nhất nh́ từ xưa nay, cho dù đó chỉ là một thứ bệnh lư về tâm thần, mất năng lực tự chủ, và không kiềm chế được hành vi.
Ở quê tôi, nhiều người mắc căn bệnh này đă vào viện, hoặc chuyên khoa tâm thần khám và điều trị. Nhưng măi không khỏi. Họ đành quay lại t́m đến cha tôi.
Không chỉ chữa bệnh cho người, cha tôi c̣n có thể cầm máu, bắt gịi cho trâu ḅ. Khi chúng bị vắt rừng cắn, bị ngă xuống vực, đá đâm thủng ruột… Nếu không cứu chữa kịp thời, chỗ bị thương sẽ nhiễm trùng. Máu chảy măi đến khi kiệt sức. Con gịi đục măi vào thịt. Trâu ḅ sẽ lăn ra mà chết.
Phải có đến sáu bảy chục năm, dù cha tôi không chuyên hành nghề nhưng vẫn thường xuyên đi chữa bệnh. Những người dân truyền tin cho nhau về khả năng kỳ lạ này, ngày một lan rộng.
Cha tôi sẵn ḷng giúp mà không kèm theo bất cứ một đ̣i hỏi vật chất nào. Những người bị điên được cha tôi chữa đều khỏi hẳn. Hiện nay họ đă thành ông thành bà, đang có cuộc sống b́nh thường và yên ổn như mọi người dân khác. Và họ vẫn quan hệ thân t́nh với người nhà tôi, suốt từ mấy chục năm nay. Hầu hết mọi người đều nhận làm con nuôi của cha tôi.
Ngày cha tôi mất, khắp cánh đồng Bo Păn trước nhà tôi rợp một màu khăn tang trắng xóa. Người gánh gạo. Người gánh rượu. Người vác củi… nườm nượp mang đến giúp cho nhà tôi làm lễ tang cha. Một bầu không khí đau thương nặng nề trùm xuống. Nhưng bù lại, t́nh cảm mọi người dành cho chúng tôi thật thân t́nh, ấm áp. Nên nỗi buồn mất cha cũng dịu đi được phần nào.
Có thể nói đây là một đám tang kỳ lạ nhất mà tôi được chứng kiến (Tôi từng được cha cho đi theo đánh trống đám ma từ lúc lên tám tuổi). Có ba ông thày tào. Sáu bà bụt luông. Họ đều là những học tṛ xuất sắc và tin cẩn của cha tôi.
Năm ngày bảy đêm tưng bừng nhảy múa và ca hát. Trống chiêng năo bạt ầm vang. Tiếng soóc nhạc. Tiếng pí lè. Tiếng con ốc cạn. Tiếng sừng trâu út út vọng vào vách núi, không lúc nào ngưng nghỉ. Làm át đi những tiếng khóc thương cha thống thiết năo nùng. Cây cỏ trên rừng cũng dỏng lá lên nghe. Chim chóc đậu đầy trên nóc nhà. Chúng ngừng im tiếng hót. Đá trên núi ngồi buồn xám ngoét. Mây trên trời vần vũ đớn đau. Chiều kéo ngày đi lằng lặng tối. Người người đi lại trong màn đêm đen như keo đặc.
Chốc chốc lại có người đ̣i mang thóc ra cho ngựa. Gọi là ngựa nhưng kỳ thực đó là một con hổ lông xám. Gọi chệch đi cho đỡ sợ. Phải là người nhẹ vía th́ mới trông thấy. Nó nhai thóc rau ráu. Ăn xong hổ lên quả đồi sau lưng nhà tôi choăi chân nằm phủ phục. Nó hít hà hương khói. Lắc lắc cái đầu. Ve vẩy cái đuôi. Lim dim đôi mắt. Khi vầng dương ánh lên le lói, ông ba mươi lẹ làng tan biến vào làn sương mỏng. Làn sương bay lên trời, cuốn theo một con hổ đang biến h́nh.
Trong khi đó, các thày tào bà bụt vẫn miệt mài diễn tả lại toàn bộ cảnh sinh hoạt thường ngày khi cha tôi c̣n sống. Họ bắt chước ông giống y như thật. Từ giọng nói, tiếng cười, kiểu ngồi, dáng đi… đều là h́nh bóng cha tôi. Chứ không phải họ nhập vai theo một kịch bản nào.
Đây rồi. Lũ người điên bắt đầu xuất hiện. Có người nuốt cả một ḥn than đang hồng rực vào trong cuống họng. Có người đi chân không trên lưỡi dao mài sắc. Thế mà không cứa đứt một giọt máu tươi. Có người ngồi trên một mâm gai nhọn. Trên gai nhọn có phủ một tờ giấy mỏng. Họ khoanh chân ngồi theo kiểu kiết dzà. Không những ngồi im mà họ c̣n nảy cong cả người lên, lấy đà rơi xuống. Phập!
Lại có người nhảy vào một đống than lửa đang cháy rực. Dùng cả hai tay bới lửa lên tung tóe. Nhưng tuyệt nhiên trên người họ không hề có vết bỏng. Chỉ thấy trên tóc, trên vai áo có bụi tro và tàn lửa rơi lốm đốm. Khi người đóng vai cha tôi xuất hiện.
Ông lừng lững bước vào khuôn cửa. Những người điên nhất loạt đứng đâu ở yên đó. Không ai dám ho he nhúc nhích. Cha tôi cất tiếng gọi từng người. Họ khoanh tay vâng dạ. Ba mươi phút sau, họ hoàn hồn. Thu hết thần cuốn hết vía. Các ông thày tào bà bụt lại ngồi đàng hoàng uống rượu, bỏm bẻm nhai trầu và nói chuyện mùa màng.
Lúc c̣n sống. Cả đời cha tôi chỉ biết thở và cười. Gặp ai cũng cười. Mở miệng là cười. Nuôi con từ bé đến lớn, ông không hề đánh mắng con cái. Không hề nặng lời với bất cứ ai. Ông bảo, ta được sống thảnh thơi ở trên đời này là một chữ phúc nhỏ. Được sống cùng với bao con người khác, giữa vạn vật và muôn loài, mới là chữ phúc to.
Hăy biết quư rừng xanh mây trắng, sông suối hiền ḥa. Bởi đó là nơi chốn đi về cả phần hồn lẫn thể xác. Hễ trông thấy đàn kiến đang đi, hăy nhường đường cho chúng. Mỗi con kiến là một sinh mạng. Thấy chữ rơi không được bước qua, mà phải thành kính cúi xuống nhặt lên và đem đốt đi.
Chữ thánh hiền không được bỗ bă xúc phạm. Nhờ có chữ mà ta biết v́ sao hạt thóc nhọn hai đầu. Trên đời này chỉ có hai thứ đen. Mắt người đen và chữ viết đen. Biết trọng chữ nghĩa mới là người có nhân cách.
Thấy ai rách rưới, không được xem thường. Bởi v́ chẳng may họ gặp vận hạn. Người ăn xin ăn mày đến nhà, phải mời người ta ở lại. Ta có ǵ th́ cho họ ăn, cho họ uống và cho họ cái mặc. Ăn xin ăn mày cũng là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.
Ông nói rằng trên đời này không có ai là xấu. Chỉ có ḷng tham, thói ích kỷ, sự hận thù là xấu. Hăy chuyển hóa những thứ đó thành phân, để bón tốt cho lúa đồng.
Đă có nhiều người hỏi ông chữa bệnh điên bằng ǵ? Cha tôi chỉ cười mà chưa bao giờ nói. Phù phép chăng? Ai cũng cho rằng ông chữa bằng phù phép. Tôi cũng nghĩ thế. Ông vẫn chỉ cười. Khi tôi đă lập gia đ́nh và sinh hai cháu nhỏ. Có lần tôi hỏi dùng thuốc ǵ mà chữa được bệnh điên.
Ông trầm ngâm, lặng đi một lúc lâu. “Con là người nóng tính. Ham hố nhiều như tóc. Riêng điều này con không thể học và làm được.” Ông giảng giải “Cha không chữa bằng thuốc. Mà bằng trái tim. Con hiểu không.
Trái tim yêu thương con người. Trái tim phải rộng lớn mới mong làm được điều đó.” Thấy có vẻ sách vở lư thuyết và mông lung xa vời quá, tôi bèn thưa lại. “Mọi người vẫn cho rằng cha có phù phép. Hồi nhỏ cha được đi học với ông thầy Vườn Luông?”
Cha nhỏ nhẹ. “Đúng là có học. Học từ năm mười hai đến hai lăm tuổi cha mới về quê cưới mẹ con. Nhưng chỉ học chữ nho để về làm thày tào. Ông Vườn Luông là một ông thầy cao tay. Không chỉ giỏi chữ mà c̣n giỏi cả phù phép.”
Tôi vội vàng. “Cha có học phù phép không?”. “Có! Nhưng phù phép chỉ để trừng trị yêu quái. Sao có thể chữa cho người được.”.
Tôi c̣n được nghe mẹ kể nhiều lần về ông thầy Vườn Luông. Đó là một người tài cao đức dày. Không mấy học tṛ theo được. Chỉ có cha tôi là người hiền lành nhất, trung thực nhất và rất sáng dạ. Nên ông Vườn Luông tin yêu cha tôi hơn cả trong đám học tṛ. Kể từ đấy ông Vườn Luông truyền hết bí mật ngón nghề cho riêng cha tôi.
Biết rằng tôi chưa tin chuyện đó là có thật. Một lần ông cho tôi xem cách bốc thuốc chữa bệnh. Thuốc là một chai nước lă trong vắt. Cha tôi múc từ dưới mỏ nước mang về. Rồi gọi người nhà đốt ba nén nhang mang lên cho ông.
Ba nén nhang kẹp vào mang tai. Ông ngồi thẳng lưng thẳng cổ như kiểu ngồi ṭa sen. Chỉ thấy ông nhắm hờ hai mắt, bất động toàn thân. Bây giờ tôi mới biết đó là tư thế ngồi Thiền.
Tôi căng mắt theo dơi từ đầu. Không thấy ông bỏ bất cứ vật ǵ vào chai nước. Khoảng nửa tiếng sau, ba nén nhang cháy vừa hết, ông lấy hơi từ lồng ngực sẽ sàng thổi vào chai. Vẫn thế. Chỉ có chai nước trong suốt. Không màu. Không mùi. Không vị. Nhưng mang cho người điên uống, dăm ngày sau họ không c̣n quậy phá nữa. Nói năng từ tốn hơn. Cử chỉ hành tung trở lại b́nh thường.
Thật khó tin! Nhưng đó là điều có thật. Người điên uống vài ba chai nước là khỏi, nhưng sau đó chủ nhà c̣n phải sắm sửa một đêm cúng Trời Phật. Cha tôi ngồi hát từ mờ đêm đến sáng. Bài mo chỉ nói về hồ nước. Hồ nước đục. V́ sao hồ nước đục. Bây giờ ta phải làm cho hồ nước trong. Hăy giữ cho hồ nước trong. Hồ nước trong sẽ nh́n thấy đáy…
Chẳng cần chạy chữa ǵ cả, v́ tâm có sẵn ta rồi. Hăy buông bỏ mọi ham muốn buồn phiền. Hăy thảnh thơi vui tươi như hoa trái… Lời văn giản dị dễ hiểu. Đi liền với giai điệu, tiết tấu của tiếng chập cheng choong nào*.
Trong ánh nến lung linh mờ ảo. Một không gian huyền bí mà cha tôi đưa người đời đi từ bờ ảo sang bến thực. Rơ ràng ông đă cảm hóa cái xấu bằng cái đẹp. Cảm hóa cái ác bằng cái thiện. Chuyển hóa cái rối tinh mù mịt bằng cái trật tự và lắng đọng. Chuyện rơ ràng như ban ngày, chẳng hề liên quan đến thần linh mê tín .
Hứa Hiếu Lễ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 300 of 2534: Đă gửi: 20 June 2008 lúc 11:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÊM BƯỚM MA
Cơi ma vẫn từ xưa tới nay là một thách đố lớn với trí tuệ và cả tâm linh con người. Thật và ảo tin và ngờ, tất cả in hằn trong mỗi câu chuyện về ma.
Thuở bé vẫn thường nghe những người Tàu chôn của thần giữ của, rồi th́ thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Đêm mưa mấy đứa trẻ con ngồi trong nhà chơi với nhau, có ǵ mừng quá thường vỗ tay, tức khắc bị người lớn mắng "Chúng mày vỗ tay gọi ma vào nhà hả?".
Cả lũ mặt xám lại ngồi im thin thít. Được một lúc măi chơi nguôi nguôi cơn sợ lúc năy, mấy đứa xoay ra thi huưt sáo to. Người lớn quát: "Huưt sáo rủ ma đi chơi có phải không?".
Thế là tàn chuyện chẳng đứa nào c̣n muốn chơi ǵ nữa, thế là kéo nhau đi ngủ. Nào đă yên một cô nào đỏm dáng ra soi gương chải đầu chẳng qua sợ tóc ngày mai bị rối, đột nhiên chạy vội vào giường trùm chăn kín mít v́ nghe người lớn nói "chải đầu cho ma xem".
Cứ như thế ngày này qua ngày khác, chẳng biết ma nó như thế nào mà người lớn lại phải kiêng đủ thứ để tránh ma...
Lớn dần lên đêm đă biết chạy nhong nhong ra ngoài vườn nghịch. Thấy đom đóm lập loè lại sợ lửa ma trơi. Bắt đầu ngồi nghe người lớn kể chuyện ma, càng sợ lại càng thích, nghe rồi ban đêm chẳng dám ra ngoài sân.
Vậy mà vẫn háo hức làm sao, hấp dẫn làm sao cái cảnh ngồi quanh đống lửa đun bánh chưng mà nói chuyện rùng ḿnh. Thế rồi lại càng lớn lên nữa, bắt đầu vớ phải quyển sách ǵ th́ đọc quyển ấy. Và.. ở trong đó cũng thấy có ma...
Tôi không thể nhớ tôi đọc truyện ma lần đầu tiên vào năm bao nhiêu tuổi, nhưng tôi nhớ rất rơ đó là truyện Mẹ ranh càn sát trong cuốn Tang thương ngày lụt. Câu chuyện ám ảnh tới mức măi sau này cả chục năm tôi vẫn nhớ cái kết cục thập phần chua xót của nó.
Cái sự chia tay của mẹ con nhà "mẹ ranh" dẫu có thế nào cũng vẫn là một cuộc khốc liệt giữa hai cơi âm dương. Một "đứa con ma" phải gửi ở trần gian, một "mẹ ranh" ngồi ở gốc cây đêm đêm chỉ nhắc con chớ ăn cá chép, ba ba.
Họ nói với nhau về cái hạn nợ của cơi ấy... Có một cái ǵ đó giữa Mẹ ranh càn sát và những câu chuyện kể truyền miệng vẫn cứ âm thầm trôi nổi trong dân gian. Nó cũng mông lung, cũng huyễn ảo nhưng lại rất gần với đời sống hàng ngày của mỗi người.
Xóm nào chẳng có một vài cái g̣, một vài cái mả hoang, cây gạo già xù x́ ung bướu tới mùa chỉ rụng xuống dăm ba cái hoa mà màu th́ cũng phai đi không c̣n được đỏ tươi như những hoa của cây khác. Nỗi sợ bắt đầu từ đó và dường như những câu chuyện ma cũng từ đó mà trôi nổi...
Kể từ cái ngày định mệnh đầu tiên ấy, chẳng biết có ăn phải bùa bả ǵ không mà tôi cứ lăn vào t́m đọc những truyện ma. Càng đọc lại càng mê. Trung Hoa th́ vời vợi một cụ Bồ Tùng Linh với Liêu Trai mà ma trong đó th́ quá "người", c̣n người th́ có khi lại "ma" hơn cả ma...
C̣n ở ta th́ ông "trùm làng" ắt phải là Nguyễn Dữ, sau rồi th́ tới TCHYA, rồi nữa th́ vô thiên lủng. Văn nhân trong thiên hạ, hỏi ra ai cũng có lưng vốn dăm ba cái truyện ma. Từ một ông vua như Lê Thánh Tông cho đến ông đốc bồng Vũ Phương Đề, từ người văn chương truân chuyên như Nguyễn Tuân cho đến lăng mạn và "Tây học" như Nhất Linh... tất thảy đều mắc vào cái "nghiệp" viết truyện ma.
Nhưng mà muôn h́nh vạn trạng nhất th́ chẳng có ai bằng nổi dân gian, những câu chuyện cứ truyền từ tai người này sang tai người kia, mỗi lần lại thấy đổi đi một chút và v́ thế dường như mỗi lần càng "thật" hơn một chút, dễ tin hơn một chút.
Chỉ có điều nó cứ bồng bềnh, phù du như những ǵ mà nó nhắc tới. Ma trong dân gian luôn ở ngay cạnh người đẹp, dễ gặp và dễ làm người ta sợ. Khi th́ một anh chàng về khuya gặp phải cô gái đi nhờ xe, càng đạp càng thấy nặng, ngoảnh lại hoá ra chở một cái bia đá đă lên rêu.
Khi th́ một người đi đêm gặp phải "ma mặt thớt" thứ ma có mặt phẳng ĺ như cái thớt! chạy một thôi dài mới gặp được chiếc xích lô, dọc đường bất giác nhắc lại chuyện vừa trải qua th́ người đạp xích lô hỏi "Có phải mặt giống thế này không?".
Thử trông xem hoá ra mặt của "người ấy" nào có mắt mũi ǵ đâu... Ngủ đêm trong bệnh viện thường nghe tới chuyện ma dựng giường, đi ngang nhà xác th́ lại nhớ chuyện xác bị chó mèo nhảy qua tự nhiên chạy đuổi người.
Có anh mua một căn nhà rẻ, sau về mới biết nhà có ma, đêm đêm vẫn thường ŕ rầm than khóc, lại c̣n hiện lên thành những bóng trắng đứng ở đầu giường, gọi tên, đ̣i nhà... Những câu chuyện như thế có thể nghe được ở bất cứ đâu, nhưng lạ thay người ta cứ kể ở chỗ này chỗ nọ mà cấm có khi nào được nh́n tận mắt cả, thành thử lại càng nửa tin nửa ngờ, càng sợ.
Đọc truyện về ma, nghe chuyện về ma, viết về ma, ấy vẫn là những sự mà nhân thế thường làm. Vậy th́ có ma không, người bảo có người bảo không, cứ u u minh minh đến lạ. Nhưng mà những thứ như thế lại cứ mê hoặc người ta ghê lắm.
Vẫn biết đức Khổng có dạy "Quỷ thần nên kính, không nên gần" thế mà rồi th́ người ta vẫn đọc truyện ma, vẫn kể chuyện ma cho nhau nghe, và cứ lâu lâu lại t́m thấy một truyện ma mới viết.
Đành làm một cái việc chẳng đặng đừng là tập hợp cả những chuyện đó lại, biết cái nào th́ nhặt cái đó, cứ hay là được. Đâu phải có ư đua chen, mà chẳng qua chỉ v́ trót đă quá yêu Liêu Trai, quá say sưa Truyền kỳ mạn lục mà nên.
Gọi là chơi th́ chẳng ra chơi, gọi là việc cũng không ra việc. Tỉ mà tỉ mẩn nhặt nhạnh chỗ này chỗ kia, gặp ǵ cũng phải ngắm nghía, cứ tựa như ngồi trong ḷng suối mà đếm cát. Thế mà cũng thấy nhiều sự linh ứng lạ.
Vừa mới nghe một nhà văn già nói rằng ông Nhất Linh có cái truyện hay lắm, tự nghĩ chẳng biết t́m đâu ra; tối về tiện tay giở cuốn sách vừa được nhận lúc chiều là thấy truyện đó ngay lập tức.
Lại tới lúc lặn lội t́m vào trong nhà một tác giả để lấy bằng được truyện của anh, đương dở chén nước th́ bướm đen bay vào nhà chập chờn vài ṿng rồi như đă trở thành vô ảnh.
Rồi th́ khi viết những ḍng đầu của lời mở đầu này, nhện trắng sa xuống trước mặt, cứ luẩn quẩn măi không đi. Viết tới đoạn không được vừa ḷng th́ gió thổi rèm cửa tung lên, trùm kím trang giấy... Chao ôi, dẫu chẳng phải có những kỳ ngộ như chuyện ở Trại Tây th́ cũng là một sự lạ không thể không nhắc tới.
Viết tới đây th́ gió lại chợt yên, mà khí chiều đă lạnh, tấm màn lộng lên lúc năy giờ khe khẽ buông trùm xuống cửa sổ, tự biết đă tới lúc dừng bút. Cơi huyền hồ không phải là nơi để nấn ná lâu. Vài lời nói chơi cũng là một lời tựa cho chủ đề các truyện Đêm Bướm Ma này.
Lưu Sơn Minh
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|