Tác giả |
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 321 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 2:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
Chương Một
1. Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên Với Các Vị Chân Sư
Trên thế giới ngày nay, những sách vở nói về các vấn đề huyền linh có rất nhiều, sau khi sưu tầm sự thật về những bậc làm cho tôi cảm thấy khích lệ tinh thần để tŕnh bày kinh nghiệm riêng của tôi về những đấng Chân Sư của Phương Đông. Trong những chương sách này, tôi không có ư diễn tả một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh nghiệm cá nhân của ḿnh về các đấng Chân Sư, để tŕnh bày những chân lư căn bản trọng đại trong giáo lư của ngài.
Để kiểm điểm tập du kư này, tôi đă dùng mất nhiều thời giờ cũng dài bằng cái thời gian dành cho cuộc khảo cứu. Thật vậy, các Chân Sư nằm rải rác trên vùng lục địa rộng lớn, và những cuộc sưu tầm về đạo lư của chúng tôi diễn ra trên một phần lớn các xứ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.
Phái bộ sưu tập của chúng tôi gồm mười một nhà khoa học nỗi lạc, đă từng dành một phần lớn cuộc đời ḿnh cho những công tŕnh sưu khảo. Chúng tôi đă tập thói quen không chấp nhận bất cứ chuyện ǵ mà không có sự phối kiểm chặt chẽ trước khi nh́n nhận việc ấy là đúng với sự thật. Khi đến tận nơi, chúng tôi hoàn toàn là những kẻ hoài nghi. Nhưng bận về, chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục và tin tưởng đến nỗi ba người trong nhóm chúng tôi đă trở lại chỗ cũ, quyết định ở lại cho đến khi họ có thể sống cuộc đời của các Chân Sư và thực hiện những công tŕnh giống như của các ngài.
Những vị cao cả đă đem đến một sự giúp đỡ lớn lao trong công việc sưu tầm của chúng tôi, luôn luôn yêu cầu chúng tôi chỉ nhắc đến các ngài bằng những tên giả tạm, trong trường hợp chúng tôi viết hồi kư. Tôi sẵn ḷng tuân theo ư muốn của ngài. Tôi chỉ tường thuật lại những việc đă phối kiểm, và dùng những danh từ hay những thành ngữ của chính những nhân vật mà chúng tôi đă gặp gỡ và sống chung hằng ngày trong cuộc hành tŕnh này.
Trong số những điều kiện tiên quyết được đặt ra cho sự hợp tác giữa chúng tôi với các ngài, có điều này bắt buộc chúng tôi phải tuân theo: Chúng tôi phải chấp nhận như một sự thật mọi việc ǵ xảy ra mà chúng tôi đă chứng kiến tận mắt. Chúng tôi không được đ̣i hỏi một sự giải thích nào trước khi đă đi sâu vào bên trong của một vấn đề, đă nhận được những lời chỉ giáo của các ngài, đă sống quan sát cuộc đời hàng ngày của các ngài. Chúng tôi phải đi theo các Chân sư, sống với các ngài, và tự ḿnh quan sát mọi sự. Chúng tôi có quyền ở lại với các ngài bao lâu tùy ư, hỏi bất cứ điều ǵ, và đi sâu vào mọi vấn đề tùy ư muốn, rồi tự ḿnh rút lấy những kết quả đă thu lượm được. Sau đó, chúng tôi được tự do quyết định rằng những điều chúng tôi đă nh́n thấy là sự thật hay ảo ảnh.
Các ngài không bao giờ t́m cách ảnh hưởng đến sự xét đoán của chúng tôi bất cứ về vấn đề ǵ. Các ngài luôn luôn nghĩ rằng nếu chúng tôi quan sát chưa đúng mức để có được sự tin tưởng hoàn toàn, th́ các ngài không mong ước chúng tôi phải tin. Tôi cũng hành động y như vật đối với quư vị độc giả, và để cho độc giả có quyền tự do hay không tin những chuyện kể lại sau đây, tùy sở thích của mỗi người.
Chúng tôi đă sang Ấn Độ được chừng hai năm, và hằng ngày theo dơi những công việc sưu tầm, th́ một ngày nọ tôi gặp vị Chân sư mà tôi xin mệnh danh là "Tuệ Minh". Ngày ấy tôi đang đi dạo chơi đi qua các đường trong thành phố, th́ thấy có một đám đông làm cho tôi chú ư. Một đám quần chúng đang vây chung quanh một người thuật sĩ, thuộc loại các nhà đạo sĩ đi ra bày tṛ ảo thuật mà bên xứ này có rất nhiều. Tôi bước đến gần nhà và ngay lúc đó tôi nhận thấy ở bên tôi một người đă trọng tuổi, với một phong độ khác thường, hẳn là không giống những người khác trong đám đông.
Người ấy nh́n tôi và hỏi và tôi sang Ấn Độ đă được bao lâu. Tôi đáp:
- Độ chừng hai năm.
Người ấy hỏi tiếp:
- Ông ấy là người Anh?
Tôi đáp:
- Không, tôi là người Mỹ.
Ngạc nhiên và thích thú mà gặp một người nói được tiếng mẹ đẻ của ḿnh, tôi mới hỏi người nghĩ sao về cuộc biễu diễn của người thuật sĩ. Người ấy đáp:
- À! Ở xứ này thường vẫn có những cuộc biểu diễn như thế. Người ta gọi họ là thuật sĩ, đạo sĩ hay pháp sư, cái đó tùy. Nhưng ở đằng sau những tṛ ảo thuật đó, có ẩn dấu một thiểu số người biết được mà thôi. Có ngày người ta sẽ nhận thấy cái hay của các tṛ ảo thuật đó. Nhưng điều mà ông nh́n thấy chỉ là cái ảo ảnh của sự thật nguyên thủy. Việc đó đă từng gây lên nhiều tranh luận, nhưng các nhà tranh luận dường như chưa bao giờ nắm vững sự thật. Tuy nhiên, hẳn là phải có một sự thật ở đằng sau những cuộc biểu diễn đó.
Đến đây, chúng tôi chia tay từ biệt nhau và thỉnh thoảng mới gặp nhau trở lại trong bốn tháng sau đó. Kế đó, nhóm khoa học gia chúng tôi gặp phải một vấn đề khó khăn nó gây cho chúng ta nhiều nỗi lo âu quan trọng. Vài ngày sau đó, tôi gặp lại Tuệ Minh. Người hỏi lư do những sự lo âu của tôi và nói với tôi về cái vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải. Tôi lấy làm ngạc nhiên, v́ tôi chắc rằng không ai có thể biết ǵ ngoài vấn đề này ngoài ra nhóm thiểu số chúng tôi. Người có vẻ thông thạo về t́nh h́nh của chúng tôi đến nỗi tôi có cảm rằng người biết rơ tất cả vấn đề. V́ lẽ vấn đề ấy đă không c̣n là một điều bí mật nữa, nên tôi thấy không có hại ǵ mà nói ra một cách tự nhiên, và đó là điều mà tôi đă làm. Khi đó, Tuệ Minh mới nói với tôi rằng người cũng biết ít nhiều về việc ấy và cố gắng giúp đỡ chúng tôi.
Một hai ngày sau đó, mọi việc đều được giải quyềt thỏa đáng, và mọi sự lo âu cũng đă tiêu tan. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không bao lâu việc ấy đă lui dần vào trong quên lăng và chúng tôi không c̣n nghĩ đến nữa. Những vấn đề khó khăn khác lại xuất hiện, và tôi thường có thói quen đem ra bàn luật một cách thân mật với Tuệ Minh. Dường như mọi nỗi khó khăn của chúng tôi liền biến mất khi tôi vừa đem ra giải quyết với người khách lạ.
Tôi bèn giới thiệu các bạn tôi cho Tuệ Minh, nhưng tôi không hề nói ǵ với họ về nhân vật lạ lùng này. Vào thời kỳ đó, tôi đă đọc nhiều sách do ngài chọn, lựa, nói về những truyền thống của nền văn minh Ấn Độ, và tôi đă hoàn toàn tin tưởng rằng một vị Chân sư. Sự ṭ ṃ của tôi đă bị kích thích, và sự thích thú của tôi ngày càng tăng thêm.
Một buổi trưa chúa nhật, tôi cùng đi dạo với đức Tuệ Minh trên một cánh đồng, th́nh ĺnh ngài chỉ cho thấy một con bồ câu đang bay lượn trên đầu chúng tôi. Tuệ Minh nói rằng con bồ câu đang t́m kiếm ngài. Ngài bèn đứng yên một chỗ không cử động, và con bồ câu liền đáp xuống đậu trên một cánh tay của ngài đưa ra. Đức Tuệ Minh nói rằng con chim này đem đến cho ngài một thông điệp của người em trai hiện đang sống ở miền bắc Ấn. Người này cũng là một vị cao sĩ cùng phái, nhưng chưa đạt tới tŕnh độc tâm thức siêu đẳng để có thể tiếp xúc với ngài bằng thần giao cách cảm. Bởi vậy, người mới phải dùng đến phương tiện giao thông này. Về sau, chúng tôi mới biết rằng các các đấng Chân Sư có quyền năng thần giao cách cảm trực tiếp với nhau cấp thời bằng phương pháp di chuyển tư tưởng; các ngài c̣n cho biết rằng phương pháp này sử dụng một năng lực c̣n tế nhị tinh anh hơn là điện khí hay vô tuyến điện.
Tôi bắt đầu đưa ra những câu hỏi. Đức Tuệ Minh chứng minh cho tôi thấy rằng ngái có thể kêu giọi loài chim đến với ngài và điều khiển hướng bay của chúng, rằng các loại bông hoa, thảo mộc nghiên về phía ngài khi ngài đi qua, và các loài thú dữ đến gần ngài mà không sợ sệt. Có lần ngày phân rẽ hai con sơn cẩu đang tranh mồi và cấu xé lẫn nhau. Khi ngài bước đến gần, chúng nó bèn thôi không cắn nhau nữa, nằm đặt xuống cái đầu chúng một cách đầy tin tưởng trên hai bàn tay ngài đưa ra, rồi mỗi con lại tiếp tục ăn phần thịt của ḿnh một cách ôn ḥa. Ngài lại c̣n bắt lấy một con đưa cho tôi cầm trên hai tay.
Sau đó ngài nói:
- Cái Phàm Ngă hữu h́nh hữu loại không thể làm được những việc này, mà đó là cái Chân Ngă thâm diệu hơn, cái mà anh gọi là Thượng Đế. Đó chính là Thượng Đế toàn năng ngự trong tôi, và trong tất cả muôn loài, chính ngài biểu hiện xuyên qua tôi để làm những việc ấy. Do tôi, do cái Phàm Ngă hữu loại của tôi, tôi không thể làm ǵ được. Tôi phải hoàn toàn gạt vỏ cái phàm ngă bên ngoài, để cho cái Chân Ngă bên rong tự biểu lộ vàhành động. Bằng cách phát biểu toàn vẹn t́nh Bác Ái của thượng Đế, tơi có thể làm những điều mà anh ta đă thấy. Bằng cách để cho t́nh Bác Ái biểu lộ xuyên qua ḿnh và ban răi cho tất cả chúng sinh muôn loài, ta sẽ cảm hoá được thú dữ và không một tai họa nào có thể đến với ta nữa.
Vào thời kỳ đó, tôi thụ huấn hằng ngày về đạo lư với đức Tuệ Minh. Có khi ngài th́nh ĺnh xuất hiện trong pḥng tôi, dẫu rằng tôi đă khoá cửa lại cẩn thận. Lúc đầu, việc này làm cho tôi hoang mang bỡ ngỡ, nhưng không bao lâu tôi thấy rằng ngài coi sự thông cảm của tôi về đó như là một chuyện đương nhiên. Tôi đă quen với những cách xử sự của ngài với tôi mở cửa cho ngài ra vào tự do. Sự tin cậy của tôi có thể làm cho ngài hài ḷng. Tôi không thể hiểu tất cả những lời dạy của ngài và cũng không thể hoàn toàn chấp nhận những lời dạy đó, dẫu rằng tôi đă chứng kiến nhiều sự việc lạ lùng ở phương Đông, tôi cũng không bao giờ có thể chấp nhận mọi việc ngay lập tức. Tôi phải trải qua nhiều năm suy tư thiền định để nhận thức được ư nghĩa tâm linh sâu xa về cuộc đời của các đấng Chân Sư.
Các Chân Sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng năng lực của t́nh thương che chở các ngài. Các ngài nuôi dưỡng t́nh Bác Ái đến mức độ làm cho muôn loài trong cơi thiên nhiên đều cảm mến và trở nên thân thiện với các ngài. Loài rắn và thú dữ cắn chết hàng ngàn người mỗi năm ở Ấn Độ. Nhưng các Chân Sư biểu lộ t́nh Bác Ái bao la từ trong nội tâm các ngài đến mức nào làm cho loài rắn và thú dữ đều trở lên vô hại.
Đôi khi các ngài sống trong những vùng rừng thiêng nước độc, hoang vu hẻo lánh nhất. Đôi khi các ngài cũng nằm phơi ḿnh trước cổng một làng để che chở làng ấy khỏi những tàn phá của thú dữ. Sau đó các ngài đứng dậy đi an toàn và làng ấy được b́nh yên vô sự. Trong trường hợp cần thiết, các ngài đi trên mặt nước, đi trên lửa đỏ, đi ngao du trong cơi vô h́nh, và làm nhiều việc lạ lùng khác mà chúng ta cho là nhiệm mầu, và chỉ có những người có quyền phép thần thông mới có thể làm được.
Có một sự giống nhau lạ lùng giữa cuộc đời và giáo lư của đức Jesus với cuộc đời và giáo lư mà đấng Chân Sư từng nêu gương cho chúng ta hằng ngày. Người ta cho rằng con người không thể nào lấy bánh ḿ trực tiếp từ kho Tiên Thiên Khí tự nhiên của Trời Đất, thắng đoạt Tử Thần, và làm những phép lạ như Đức Jesus đă làm trong kiếp hóa thân của ngài. Các đấng Chân Sư vẫn thường làm những việc ấy. Tất cả các ngài cần dùng hàng ngày, như đồ thực vật, áo quần và tiền bạc, các ngài đều rút lấy từ trong khoTiên Thiên Khí tự nhiên. Các ngài đă thắng đoạt sự chết và có nhiều vị trong các ngài sống đă trên năm trăm năm. Chúng tôi có đủ bằng chứng quyết định do những tài liệu riêng của các ngài cung cấp. Vài môn phái ở Ấn Độ dường như xuất xứ từ giáo lư Huyền Môn của các ngài. Các Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số rất ít ở Ấn Độ. Bởi đó, số đệ tử của các ngài lẽ ra là tất nhiên rất có giới hạn. Nhưng các ngài có thể tiếp xúc với một số rất nhiều đệ tử trong cơi vô h́nh. Dường như phần lớn công việc của các ngài là hoạt động trong cơi vô h́nh để giúp đỡ các linh hồn thụ cảm đối với giáo lư Huyền Môn.
Giáo lư của Chân Sư Tuệ Minh là nền tảng của công việc mà chúng tôi sẽ thực hiện nhiều năm về sau, trong cuộc hành tŕnh lần thứ ba của chúng tôi sang các xứ ấy. Cuộc hành tŕnh này kéo dài đến ba năm rưỡi, trong thời gian đó chúng tôi luôn luôn sống chung với các đấng Chân Sư, cùng di chuyển khắ nơi với các ngài, cùng quan sát cuộc đời và công việc hằng ngày của các ngài ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.
2. Ư Nghĩa Ngày Lễ Giáng Sinh
Cuộc hành tŕnh lần thứ ba của chúng tôi có mục đích sưu tầm về đạo lư. Trước ngày lên đường, các đoàn viên chúng tôi họp tại Potal, một làng nhỏ Ấn Độ ở một nơi hẻo lánh. Tôi đă viết thư báo tin trước cho đức Tuệ Minh rằng chúng tôi sắp đến, nhưng không nói ǵ về mục đích cuộc hành tŕnh có bao nhiêu người đi. Khi đến nơi chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Tuệ Minh và các cộng sự viên đă chuẩn bị sẵn cho toàn bộ phái đoàn và biết rơ các kế hoạch của chúng tôi từng chi tiết. Đức Tuệ Minh đă từng giúp đỡ chúng tôi rất nhiều ở miền Nam Ấn, nhưng từ giờ phút này trở đi th́ sự trợ giúp của ngài không sao kể hết. Tất cả sự thành công của cuộc hành tŕnh đều mà do nơi ngài mà có, và cũng nhờ các linh hồn cao quư mà chúng tôi gặp gỡ giữa đường.
Chúng tôi đến Potal, khởi điểm của cuộc hành tŕnh, chiều ngày Hai mươi hai tháng Mười hai năm 1894. Ngày lên đường, cũng là ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi, là sáng ngày lễ Giáng Sinh. Tôi không bao giờ mà quên lời mà đức Tuệ Minh nói với chúng tôi sáng ngày hôm ấy. Tuy rằng ngài không tự hào có một nền học vấn của người Anh và không hề rời khỏi phương Đông, ngài vẫn c̣n nói trôi chảy tiếng Anh. Ngài nói:
- Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh. Ngày này nhắc nhở với các bạn sự Giáng Sinh của đức Jesus ở Nazareth, tức đấng Christ. Chắc hẳn các bạn nghĩ rằng ngài giáng thế để chuộc tội cho nhân loại và ngài là vị Trung Gian cao cả giữa các bạn và Chúa Trời. Các bạn cầu nguyện đức Jesus như một vị cứu rỗi để xin tội giùm với một đấng Chúa Trời nghiêm khắc, đôi khi thịnh nộ, ngồi chễm chệ ở một nơi nào đó trên cơi trời. Tôi không biết cơi trời đó ở nơi nào, nếu không phải là ở trong lương tri của các bạn. Dường như các bạn chỉ có thể đạt tới Chúa Trời do sự trung gian của đức Con ngài, một vị ít nghiêm khắc và dễ cảm mến hơn, đấng Cao Cả mà tất cả chúng ta gọi là đấng Trọn Lành, mà ngày hôm nay là ngày kỷ niệm Giáng Sinh của ngài xuống thế gian.
Đối với chúng ta, ngày này c̣n có ư nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó không chỉ nhắc nhở ngày giáng trần của đức Jesus, mà c̣n tượng trưng sự xuất hiện của đấng Christ trong lương tri của mỗi người. Ngày lễ Giáng Sinh có nghĩa là ngày nhập thế của đức Chưởng Giáo đă giải thoát nhân loại khỏi mọi sự hệ luỵ và giới hạn của vật chất. Đấng Cao Cả ấy giáng trần để chỉ cho chúng ta con đường đưa đến Thượng đế toàn năng, toàn thông và toàn trí... Khi một người đă tiếp xúc được với nguồn cảm hứng thiêng liêng ấy bằng lời nói, phải chăng những người khác cũng có thể tiếp xúc với cái nguồn cảm hứng đó, nó vẫn hằng có trong Vũ trụ càn khôn? Khi một người đă nhận được sự cảm hứng thiêng liêng, nó không phải là vật sở hữu riêng của y. Nếu y bắt được cái nguồn ân huệ đó rồi giữ lấy cho riêng ḿnh, y đâu c̣n chỗ trống để tiếp nhận thêm những ân huệ khác nữa? Muốn thọ lănh thêm nhiều hơn nữa, ta phải cho đi những ǵ ḿnh đă nhận được. Nếu ta giữ lấy để làm của riêng, th́ sẽ có sự bế tắc, ứ đọng ngay. Điều này giống như cái bánh xe vận chuyển bằng sức nước trong một nhà máy thủy điện. Nếu th́nh ĺnh cái bánh xe giữ lại cái ḍng nước đă làm cho nó vận chuyển và xoay ṿng, th́ nó sẽ bị ngưng trệ ngay lập tức. Nó phải để cho nước chảy lưu thông tự do th́ mới có trở lên hữu dụng và tạo nên điện lực. Con người cũng vậy. Thượng đế ban cho, y phải phổ biến những tư tưởng tốt lành ấy mới có thể hưởng thụ được điều lợi ích của nó. Y phải để cho mỗi người có dịp hưởng thụ và phổ biến những tư tưởng thiêng liêng để tiến triển tâm linh cũng như vậy.
Theo ư tôi, tất cả những ǵ đến với đức Jesus đều là một sự ban ân trực tiếp của Thượng đế, cũng như đó là trường hợp của tất cả các bậc đại giáo chủ. Thật ra, phải chăng tất cả mọi sự đều xuất xứ từ Thượng Đế, và điều ǵ mà một người đă làm th́ những người khác cũng có thể làm được? Các bạn hăy tin rằng Thượng Đế luôn luôn muốn tự biểu lộ và sẵn sàng làm như vậy, như ngài đă làm đối với đức Jesus và những vị khác. Chúng ta chỉ cần có sự mong muốn để cho ngài hành động. Thật ra, chúng ta tin rằng tất cả đều b́nh đẳng. Tất cả mọi người đều là một. Mỗi người đều có thể thực hiện những công tŕnh giống như của đức Jesus và sẽ thực hiện những công tŕnh ấy khi thời giờ đă điểm. Không có ǵ là bí mật hay huyền diệu trong những công tŕnh đó. Sự bí mật chỉ có trong cái ư niệm vật chất mà loài người đă gán cho các sự việc ấy.
Các bạn đến với chúng tôi với ít nhiều sự hoài nghi. Chúng tôi tin rằng các bạn sẽ ở lại đây để nh́n xem tận mắt chúng tôi làm như thế nào. C̣n những công việc làm của chúng tôi và kết quả của những việc ấy ra sao, th́ các bạn có trọn quyền tự do chấp nhận hay bác bỏ tùy ư...
3. Người Có Quyền Năng Xuất Quỷ Nhập Thần
Chúng tôi giă từ Potal đi Asmah, một làng nhỏ hơn ở cách độ Một trăm năm mươi cây số. Đức Tuệ Minh chỉ định hai người thanh niên để dẫn đường cho chúng tôi. Cả hai nguời này đều là người Ấn Độ tốt tướng và khỏe mạnh. Họ đảm trách việc hướng dẫn cuộc hành tŕnh mộc cách thông thạo và hoàn toàn chu đáo mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Để tiện việc, tôi xin gọi họ bằng những tên tạm là Dật Sĩ và Nê Bưu. Chân Sư Tuệ Minh cao tuổi hơn họ rất nhiều. Dật Sĩ là người đứng ra chỉ huy cuộc hành tŕnh, c̣n Nê Bưu, phụ tá của y, coi sóc việc thừa hành mọi mệnh lệnh. Đức Tuệ Minh kiếu từ chúng tôi và nói:
- Các bạn hăy đi trước, đă có Dật Sĩ và Nê Bưu dẫn đường. Tôi sẽ ở lại đây thêm vài ngày, v́ với phương tiện di chuyển hiện tại, các bạn phải mất ít nhất là năm ngày mới đến trạm sắp tới cách ở đây một trăm năm mươi cây số. Tôi không cần mất nhiều thời giờ như vậy để vượt qua chặng đường ấy, nhưng tôi sẽ có mặt ở đó để đón các bạn. Các bạn hăy để lại đây một người đoàn viên để quan sát và kiểm điểm mọi việc có thể xảy ra. Các bạn sẽ có rộng thời giờ, và người đoàn viên ở lại sẽ theo kịp các bạn trong mười ngày là cùng. Chúng tôi chỉ yêu cầu y quan sát mà thôi, và tường thuất lại cho các bạn những ǵ y đă thấy.
Chúng tôi bèn lên đường. Dật Sĩ và Nê Bưu lănh trách nhiệm điều khiển mọi việc một cách hoàn toàn chu đáo. Mọi việc đều được giải quyết êm đẹp vào đúng lúc với một tiết điệu và một sự đúng đắn toàn hảo. T́nh trạng đó vẫn tiếp tục trong ba năm rưỡi suốt thời gian của cuộc hành tŕnh.
Dật Sĩ có một bản tính thanh cao thiên phú, dễ thương, làm việc hữu hiệu, không khoe khoang, khoác lác. Y ra tất cả mọi chỉ thị với một giọng ḥa nhă, và được tuân theo một cách đúng đắn và kịp thời nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên. Từ lúc đầu, chúng tôi đă nhận thấy tính hạnh tốt đẹp của y và chúng tôi vẫn thường khen ngợi.
Nê Bưu cũng có một đức hạnh tốt đẹp không kém, và dường như c̣n có khả năng hiện diện ở khắp nơi. Luôn luôn b́nh tĩnh, y có một năng suất lạ lùng, với một khả năng suy gẫm và hành động rất vững vàng, chắc chắn. Mỗi người đều đă nhận thấy khả năng đó của y, và chúng tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở đến.
Qua ngày thứ năm của chuyến đi này, vào độ bốn giờ chiều, chúng tôi đến làng Asmah. Như đă hẹn trước, đức Tuệ Minh đă có mặt tại đó để đón chúng tôi. Quư vị độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi đến đây do một con đường duy nhất có thể đi được và bằng những phương tiện di chuyển mau chóng nhất. Chỉ có những bưu tín viên thiện nghệ người bản xứ, đi luân phiên nhau từng chặng đường và đi suốt ngày đêm mới có thể đi mau hơn. C̣n đây là một người mà chúng tôi cho là đă có tuổi và tuyệt đối không thể nào đi mau hơn chúng tôi trên một quăng đường dài một trăm năm chục cây số, nhưng lạ thay, người ấy lại đến trước chúng tôi và có mặt tại chỗ. Trong cơn thắc mắc, lẽ tự nhiên chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rất nhiều điều, và ngài trả lời như sau:
- Khi các bạn sắp sửa lên đường, tôi có nói rằng tôi sẽ có mặt tại đây để đón các bạn, và tôi đă đến đây. Tôi xin đặc biệt lưu ư các bạn về điểm này là con người vốn toàn năng khi y tiến hóa trong cái chân lănh vực của ḿnh. Y không c̣n bị giới bạn trong thời gian và không gian. Khi y tự biết ḿnh, không cần phải lê gót chân chậm chạp dọc theo đường trong năm ngày để vượt qua một trăm năm chục cấy số. Trong cái địa hạt chân thật của y, trong khoảng khắc con người có thể vượt qua mọi quăng đường dầu xa bao nhiêu. Chỉ mới lúc năy đây, tôi c̣n ở làng Potal mà các bạn đă từ giă ra đi cách đây năm ngày. Thể xác tôi vẫn c̣n nằm yên tại đó. Người đoàn viên mà các bạn đă để lại Potal sẽ nói cho các bạn biết rằng tôi đă nói chuyện với y cho đến gần bốn giờ chiều, khi ấy tôi nói rằng tôi đi đón các bạn, v́ chắc các bạn đă gần đến nơi. Người đoàn viên ấy hăy c̣n thấy thể xác bất động của tôi ở đó. Tôi chỉ làm như vậy để cho các bạn thấy rằng chúng tôi có thể dời thể xác để gặp lại các bạn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Dật sĩ và Nê Bưu cũng có thể di chuyển bằng cách đó như tôi. Nhưng nhờ vậy các bạn sẽ hiểu rơ hơn rằng chúng tôi cũng vẫn là những người thường, cũng xuất thân từ một nguồn gốc như các bạn. Không có ǵ bí mật cả. Chúng tôi chỉ phát triển những năng lực mà Thượng Đế toàn năng đă ban cho tất cả chúng ta. Thể xác tôi nằm tại chỗ cũ cho đến chiều tối. Kế đó, tôi sẽ đem nó về đây, và người đoàn viên nọ cũng sẽ ra đi cùng một con đường của các bạn. Y sẽ đến đây vào đúng lúc. Chúng ta sẽ chỉ có một ngày, rồi đi đến một làng nhỏ cách đây chừng một ngày đường. Chúng ta sẽ trở lại đây để đón người đoàn viên nọ và để nghe y tường thuật lại mọi việc. Chúng ta sẽ tụ họp lúc chiều nay tại nhà trọ tạm thời chúng ta hăy chia tay.
Chiều đến, chúng tôi tề tựu đông đủ tại nhà trọ. V́ thời tiết lạnh trên miền núi nên chúng tôi để cửa pḥng khép kín. Th́nh ĺnh đức Tuệ Minh xuất hiện trong pḥng mà không cần mở cửa, và nói:
- Các bạn vừa thất tôi xuất hiện trong gian pḥng này bằng một cách mà người ta gọi là nhiệm mầu. Nhưng sự thật, không có ǵ là mầu nhiệm cả. Để tôi làm một cuộc thí nghiệm nhỏ mà các bạn sẽ tin bởi v́ các bạn có thể nh́n thấy tận mắt. Mời các bạn hăy bước lại gần. Đây là một cái ly nhỏ đựng nước mà các bạn vừa múc ở suối lên. Một cục nước đá nhỏ li ti đang tượng h́nh ở giữa ly nước. Các bạn hăy nh́n xem nó càng lớn dần do sự kết nạp thêm nhiều cục nước đá khác. Và bây giờ th́ tất cả ly nước đều đông đặc. Tại sao vậy? Đó là v́ tôi duy tŕ trong chất Tiên Thiên Khí những phân tử trung ương của chất nước cho đến khi chúng đông đặc lại. Nói một cách khác, tôi đă hạ thấp những rung động của chúng đến mức làm cho chúng trở thành nước đá, và những phân tử chung quanh cũng đều đông đặc lại cho đến khi tất cả đều trở thành một khối nước đá. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho một ly nước uống, một bồn nước tắm, một cái ao, hồ, biển và toàn thể các đại dương trên quả địa cầu. Nhưng việc ǵ sẽ xảy ra? Phải chăng tất cả sẽ đông đặc lại, nhưng v́ mục đích ǵ? Không v́ mục đích ǵ cả. Bởi nguyên động lực nào? Đó là sự vận chuyển một định luật thiên nhiên, nhưng nhằm sự lợi ích ǵ? Không có lợi ích ǵ cả.
Nếu tôi vẫn cứ tiếp tục cho đến cùng, việc ǵ sẽ xảy đến? Sự phản ứng. Phản ứng vào ai? Vào tôi. Tôi biết rơ luật trời. Điều mà tôi gây ra sẽ dội ngược trở lại vào tôi cũng chắc chắn như là khi tôi gây nó ra vậy. Bởi đó, tôi chỉ gây những điều lành, và điều lành sẽ trở lại với tôi. Các bạn thấy rằng nếu tôi cứ tiếp tục gây sự giá lạnh xung quanh tôi, sự đông giá sẽ phản ánh vào ḿnh tôi trước khi tôi kết thúc, và tôi sẽ bị chết cóng, đó là kết quả mà tôi gặt hái được do việc làm của ḿnh. Trái lại nếu tôi chỉ làm việc lành, tôi sẽ gặt hái kết quả của việc lành ấy một cách trường cửu.
Sự xuất hiện của tôi chiều nay trong gian pḥng này có thể giải thích một cách tương tự. Trong gian pḥng nhỏ của tôi ở, tôi đă nâng cao những rung động của thể xác tôi cho đến khi nó trở về chất Tiên Thiên Khí và tôi giữ nó ở đó. Đó tức là tôi trả cái thể xác tôi lại cho thiên nhiên, là cái kho chứa đựng mọi tinh lực vật chất. Kế đó, do bởi ư chí thiêng liêng (Atma) tôi giữ cái thể xác tôi trong tư tưởng cho đến khi tôi hạ thấp những rung động của nó và để cho nó tượng h́nh trở lại ngay trong gian pḥng này mà bây giờ các bạn có thể nh́n thấy. Có ǵ là bí mật đâu? Phải chăng tôi đă sử dụng cái quyền năng, hay cái định luật mà Thượng Đế đă ban cho tôi xuyên qua cái Chân Ngă linh diệu? Cái Chân Ngă đó phải chăng là anh, là tôi, là tất cả nhân loại? Có sự mầu nhiệm nào đâu? Quả thật là không có.
Các bạn vừa thấy những ǵ đă được thực hiện ở đây, và các bạn c̣n đang ngờ vực chính đôi mắt của ḿnh, tôi không trách các bạn điều đó. Tôi nh́n thấy trong tư tưởng các bạn có vài người đang nghĩ rằng đây chắc là một cuộc thôi miên. Như vậy là trong số các bạn có người không tin rằng họ có thể sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Thượng Đế ban cho mà họ vừa thấy biểu lộ lúc chiều nay. Phải chăng họ tin rằng tôi đă chế ngự tư tưởng hay thị giác của họ? Phải chăng các bạn tin rằng tôi đă làm một cuộc thôi miên tập thể v́ tất cả các bạn đều thấy những ǵ xảy ra? Các bạn có nhớ chăng trong Kinh Thánh có thuật lại rằng Đức Jesus đă từng xuất hiện trong một gian pḥng mà các cửa đều đóng kín? Tôi đă làm y như ngài. Các bạn có thể nghĩ rằng Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, lại cần phải dùng đến phép thôi miên hay sao? Ngài đă dùng những quyền năng mà Thượng Đế ban cho ngài, như tôi đă làm chiều nay. Tôi không có làm ǵ mà mỗi người trong các bạn đều không thể làm được. Và không phải chỉ có các bạn mà thôi đâu. Mỗi người sinh ra trên thế gian này đều có những quyền năng tương tự. Tôi ước mong sao tất cả đều rơ ràng minh bạch trong tư tưởng của các bạn. Các bạn là những nhân vật có cá tính, chứ không phải là những người thụ động, vô tri giác. Các bạn có quyền tự do ư chí của ḿnh. Đức Jesus không cần phải thôi miên ai cả và chúng tôi cũng thế. Các bạn hăy cứ nghi ngờ chúng tôi bao nhiêu tùy ư, cho đến khi nào các bạn đă dứt khoát tư tưởng. Nhưng bây giờ, th́ các bạn hăy gạt bỏ cái ư nghĩ về sự thôi miên, hoặc ít nhất hăy để yên nó một chỗ cho đến khi các bạn đă đi sâu vào vấn đề. Chúng tôi chỉ yêu cầu các bạn hăy giữ một tinh thần cởi mở...
4. Thuật Phân Thân
Cuộc di chuyển sắp tới của chúng tôi là một chuyến khứ hồi theo chiều ngang (chúng tôi c̣n trở về chỗ cũ trước khi tiến xa hơn nữa). Bởi đó chúng tôi để lại tại chỗ các đồ hành lư và sáng ngày hôm sau chúng tôi lên đường đi đến một làng nhỏ ở cách đó chừng ba mươi lăm cây số. Chỉ có Dật Sĩ đi theo chúng tôi. Con đường ṃn rất quanh co, khúc khuỷu, và đôi khi rất khó theo dơi xuyên qua rừng rậm. Vùng này là một vùng núi non cheo leo hiểm trở, và con đường ṃn này dường như không có người đi.
Đôi khi chúng tôi phải mở đường đi xuyên qua những đám nho rừng. Mỗi lần chậm trễ, Dật Sĩ tỏ vẻ bực bội. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên v́ điều đó v́ y thường là người rất b́nh tĩnh trong mọi việc. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót trong khoảng thời gian ba năm rưỡi sống chung giữa chúng tôi, mà y đă mất sự b́nh tĩnh. Về sau chúng tôi mới hiểu lư do.
Chúng tôi đi đến mục tiêu ngay chiều hôm ấy, vừa mệt vừa đói, v́ chúng tôi đă đi suốt ngày, chỉ nghỉ có một lúc ngắn để ăn buổi trưa.
Nửa giờ trước khi mặt trời lặn, chúng tôi bước vào làng nhỏ, làng này có độ hai trăm dân cư. Khi họ nghe nói có Dật Sĩ đi theo trong đoàn du khách, tất cả dân làng già trẻ bé lớn, đem theo cả thú vật nhà, đều ra tiếp đón chúng tôi.
Tuy rằng chúng tôi là mục tiêu sự ṭ ṃ của dân làng, nhưng sau đó chúng tôi nhận thấy rằng sự chú ư của họ tập trung vài Dật Sĩ. Mỗi dân làng đều chào Dật Sĩ một cách tôn kính. Sau khi y đă nói vài lời, phần nhiều dân làng đều trở về với công việc hằng ngày của họ. Dật Sĩ hỏi xem chúng tôi có muốn đi theo y chăng, trong khi người ta dựng lều cắm trại để nghỉ ban đêm. Năm người trong chúng tôi trả lời rằng họ muốn ở lại để nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Những người khác và vài dân làng đi theo Dật Sĩ đến tận ven rừng ở chung quanh làng.
Chúng tôi đi sâu vào rừng, và không bao lâu, chúng tôi thấy có một người nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên chúng tôi tưởng rằng đó là một xác chết, nhưng nh́n kỹ chúng tôi mới nhận thấy đó là tư thế nằm của một người đang ngủ chứ không phải là một tử thi. Gương mặt người ấy lại là Dật Sĩ, điều này làm cho chúng tôi lặng người v́ kinh hoàng! Th́nh ĺnh trong khi Dật Sĩ bước đến gần, th́ thể xác ấy cử động và đứng dậy. Thể xác ấy và Dật Sĩ đứng đối diện với nhau trong một lúc. Không thể nào có sự lầm lẫn được nữa: Cả hai người đều là Dật Sĩ! Rồi bỗng nhiên, chàng Dật Sĩ đi theo chúng tôi biến mất, và chỉ c̣n có một người đứng trước mặt chúng tôi. Sự việc ấy diễn ra rất mau chóng, và điều lạ lùng là không ai hỏi điều ǵ cả.
Lúc ấy, năm người c̣n lại ở lại sau cũng vừa chạy đến nơi, mà không ai kêu họ đến. Về sau, chúng tôi hỏi tại sao họ đến nơi, th́ họ trả lời:
- Chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ nhớ lại rằng chúng tôi đang chạy đến đây với các anh. Chúng tôi không nhớ rằng có ai kêu chúng tôi đến. Chúng tôi chỉ thấy rằng ḿnh đang chạy, và chúng tôi chạy đă xa trước khi biết rằng ḿnh đang làm ǵ.
Một người trong chúng tôi kêu lên:
- Đôi mắt mở lớn đến nỗi tôi nh́n thấy cơi giới bên kia cửa Tử. Biết bao nhiêu điều mầu nhiệm lạ lùng được tiết lộ cho tôi, làm cho tôi không kịp suy nghĩ ǵ cả.
Một người khác nói:
- Tôi thấy toàn thể thế giới đă thắng đoạt được Tử Thần. Khi đó một câu trong sách hiện ra trong trí tôi một cách rơ ràng và sáng chói: Kẻ thù cuối cùng của loài người, Sự Chết, sẽ bị loại trừ. Phải chăng những lời này đă được thực hiện? Chúng ta có một trí khôn rất tầm thường nhỏ nhen so với cái quan niệm lớn lao vĩ đại đó, tuy vậy nó thật là giản dị biết bao. Và chúng ta đă dám tự cho ḿnh là những khối óc thông minh tuyệt vời. Chúng ta chỉ là những phường trẻ con. Tôi bắt đầu hiểu những lời này: "Các ngươi phải tái sinh trở lại." Những lời này thiệt là chí lư xiết bao!
Độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên và ngơ ngác của chúng tôi. Đây là một người đă cùng đi với chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi hằng ngày, người ấy lại có thể nằm phơi ḿnh trên mặt đất để bảo vệ cho một thôn ấp và đồng thời tiếp tục công việc phụng sự một cách chu đáo và toàn hảo ở một nơi khác. Chúng tôi bị bắt buộc nhớ lại câu nói trong Thánh Kinh: "Người cao cả nhất trong các ngươi, là người nào dốc ḷng phụng sự kẻ khác." Kể từ khi đó, tất cả chúng tôi không ai c̣n sợ chết nữa.
Dân bổn xứ có thói quen đặt một xác người nằm trong rừng rậm trước một thôn ấp, khi mà trong vùng có nạn xâm lăng quấy nhiễu bởi những phần tử bất hảo đi hai chân hoặc bốn chân. Nhờ đó làng mạc khỏi bị trộm cướp hay thú dữ quấy phá, và được an toàn như ở giữa đô thị. Thể xác của Dật Sĩ hiển nhiên là đă nằm tại đó trong một thời gian rất lâu. Đầu tóc của y đă mọc loạn xạ và có chứa những ổ chim, đó là một loại chim nhỏ đặc biệt của vùng này. Giống chim này đă làm tổ trên đầu y, nuôi những chim non cho đến khi chúng lớn lên và bay mất đi; đó là cái bằng chứng tuyệt đối về thời gian mà xác thân của Dật Sĩ đă nằm yên bất động tại đó. Giống chim này rất nhát gan, mỗi cử động nhẹ cũng làm cho chúng dợ sệt và dọn ổ đi nơi khác. Điều này chứng tỏ rằng chúng đă đặt sự mến yêu và tin cậy vào nơi chúng đă làm tổ.
Giống cọp núi ăn thịt người gieo tại họa khủng khiếp trong đám dân làng đến nỗi đôi khi họ bỏ hết mọi sự chống cự và tin rằng định mệnh của họ là bị cọp ăn. Giống cọp này đột nhập vào làng xóm và chọn mồi để ăn thịt. Chính ở trước một thôn ấp này, ở giữa chốn rừng sâu hoang vắng, mà chúng tôi nh́n thấy thể xác của một người khác cũng nằm dưới đất v́ mục đích bảo vệ xóm làng. Dân làng này đă bị cọp ăn thịt mất gần hai trăm người. Chúng tôi thấy một trong những con cọp này bước đi một cách vô cùng thận trọng ngang qua chân của thể xác nằm dưới đất. Hai người trong chúng tôi quan sát cái thể xác này trong gần ba tháng. Khi họ rời khỏi làng, thể xác ấy vẫn c̣n nằm yên tại chỗ và không có một tai nạn ǵ xảy đến cho dân làng. Chính người này về sau đă tháp tùng với phái đoàn chúng tôi trong chuyến hành tŕnh sang Tây Tạng.
Đêm đó, trong trại chúng tôi có một sự xúc động mănh liệt đến nỗi không ai nhắm mắt ngủ được, trừ ra Dật Sĩ. Y ngủ thẳng giấc như một đứa trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng, một người trong chúng tôi ngồi dậy nh́n xem y ngủ, rồi lại nằm xuống và nói với người nằm bên cạnh:
- Anh hăy véo tôi một cái để xem có phải thật là tôi đang tỉnh giấc hay không!
5. Ngôi Đền Im Lặng
V́ chúng tôi có rất nhiều công việc phải hoàn thành trước khi vượt qua dăy Tuyết Sơn, nên làng Asmah là nơi căn cứ tốt nhất của chúng tôi. Người bạn mà chúng tôi đă để lại ở Potal để quan sát đức Tuệ Minh cũng đă về đến nơi. Y thuật lại rằng y đă nói chuyện với đức Tuệ Minh cho đến gần bốn giờ chiều ngày mà ngài hẹn có mặt tại chỗ đến tiếp đón chúng tôi ở Asmah. Vào lúc đó đức Tuệ Minh nói rằng ngài phải đi ngay đến chỗ hẹn. Thể xác ngài bèn trở nên cứng đơ, nằm yên như người ngủ trên nệm. Ngài nằm trong tư thế đó độ chừng ba tiếng đồng hồ, cái thể xác trở lên lu mờ dần và biến mất. Đó là giờ phút mà đức Tuệ Minh tiếp đón chúng tôi vào buổi chiều tại quán trọ làng Asmah.
Mùa này chưa thuận tiện để cho chúng tôi vượt qua các truông núi. Ba người bạn cao cả của chúng tôi có thể vượt qua các đoạn đường núi một cách dễ dàng và mau chóng hơn chúng tôi nhiều, nhưng không có vị nào phàn nàn về sự chậm trễ này. Tôi gọi các vị ấy là cao cả, bởi v́ họ thất sự xứng đáng với danh từ ấy do đức hạnh của họ.
Tại Asmah, chúng tôi đă xuất hành nhiều lần đi ra các vùng chung quanh, có khi th́ đi với Dật Sĩ, có khi th́ đi với Nê Bưu. Mỗi lần như vậy, họ đều chứng tỏ được những đức tính quư báu. Một trong những chuyến ngao du này nhằm mục đích viếng thăm một làng trong đó có một ngôi đền gọi là đền Im Lặng. Làng này gồm có ngôi đền và nhà cửa của những người giúp việc công quả trong đền. Trước kia, vùng này là nơi tọa lạc của một làng khác đă hầu như hoàn toàn bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm và loài thú dữ. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu cùng đi với chúng tôi và nói cho chúng tôi biết rằng thuở xưa kia khi các Chân Sư đến viếng thăm nơi này, các ngài chỉ thấy có một thiễu số lưa thưa những người c̣n sống sót trong số ba ngàn dân cư trong làng. Các ngài săn sóc họ, và sau đó những thú dữ và bệnh tật đều biến mất. Những kẻ sống sót mới cầu nguyện rằng trong trường hợp họ được b́nh yên, họ sẽ xin lập công quả suốt đời và phụng sự trong bất cứ công việc nào do Thượng Đến sắp đặt. Các Chân Sư bèn ra đi, và về sau khi các ngài trở lại, các ngài thấy ngôi đền này dựng lên và những dân làng sống sót trước kia chăm lo việc công quả thờ phụng trong đền.
Đó là một ngôi đền rất đẹp, xây trên một ngọn đồi cao, ngự trị khắp vùng xung quanh. Đền xây bằng đá trắng và đă có từ sáu ngàn năm nay. Nó không bao giờ cần có một sự tu bổ nào.
Đức Tuệ Minh nói:
- Đây là ngôi đền Im Lặng, tức là nơi chỗ của Quyền Năng. V́ im lặng là đồng nghĩa với quyền năng, khi chúng ta đạt tới chỗ im lặng trong tư tưởng, chúng ta đến tại chỗ của quyền năng, nơi đó tất cả đều là sự hợp nhất, một quyền năng duy nhất, tức là Thượng Đế vậy. Quyền năng hao tán là động, quyền năng tập trung là tĩnh. Khi ta tập trung mọi sức mạnh vào một trung tâm tinh lực duy nhất, chúng ta tiếp xúc với Thượng Đế trong im lặng. Chúng ta hợp nhất với Ngài và do đó hơp nhất với mọi quyền năng. Đó là cái gia tài thừa kế của mỗi con người: "Thượng Đế và tôi chỉ là một."
Phương pháp duy nhất để hợp nhất với quyền năng của Thượng Đế là tiếp xúc một cách ư thức với Thượng Đế. Điều này không thể thực hiện được từ bên ngoài, v́ Thượng Đế xuất phát từ bên trong nội tâm.
Chúng ta hăy từ bỏ ngoại cảnh để quay về sự yên tĩnh của nội tâm. Nếu không như vậy, chúng ta không thể hy vọng hợp nhất một cách ư thức với Thượng Đế. Chúng ta sẽ hiểu rằng quyền năng của Ngài cũng trong tầm tay chúng ta, và chúng ta sẽ luôn luôn sử dụng quyền năng ấy. Chừng đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta hợp nhất với quyền năng của ngài và chúng ta sẽ cảm thông với nhân loại. Con người sẽ từ bỏ những ảo giác của ḷng tự ái, sẽ nhận thức được sự vô minh và hèn kém của ḿnh, và sau cùng sẽ sẵn sàng chịu học hỏi. Y sẽ thấy rằng người ta không thể truyền dạy điều ǵ cho những kẻ kiêu căng tự phụ, và chỉ có những người có ḷng khiêm tốn nhỏ nhoi mới có thể hiểu được Chân Lư. Hai chân y sẽ đứng vững trên một nền tảng cứng rắn, y sẽ không c̣n hoang mang bấp bênh nữa, y sẽ có ư thức về sự quân b́nh và ḷng cương nghị...
Thượng Đế không nghe những lời cầu xin tuôn tràn như suối của chúng ta, cũng không nghe những lời kêu gọi thiết tha ầm ĩ lập đi lập lại nhiều lần một cách vô ích. Chúng ta phải t́m kiếm Ngài bằng cái Chân Ngă trong nội tâm, đó là sự liên lạc vô h́nh giữa ta với Ngài mà ta vốn có sẵn ở tự nơi ḿnh. Ngài nghe lời kêu gọi của linh hồn chân thành cởi mở để tiếp đón ngài, nếu người cầu xin biết sùng kính ngài bằng tâm hồn và trong im lặng. Người nào tiếp xúc với Thượng Đế trong âm thầm sẽ nhận biết được quyền năng của Ngài do sự thực hiện được tất cả những điều mong ước của họ. V́ Thượng Đế công khai ban thưởng cho kẻ nào t́m kiếm Ngài trong chỗ thâm sâu kín của tâm hồn.
Trong một cơn linh ảnh hiện ra trước mắt đức Jesus trong băi sa mạc, ngài thấy "Các cơi Trời rộng mở" và thấu hiểu cái định luật "Biểu lộ" theo đó những ư niệm có sẵn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng sẽ xuất hiện ra để biểu lộ trong những h́nh thể sắc tướng. Luật này được tiết lộ cho ngài một cách hoàn toàn, đến nỗi ngài thấy rằng ngài có thể biến đổi tất cả mọi h́nh thể bằng cách điều chỉnh những trạng thài tâm thức của ḿnh đối với chúng.
Trước hết ngài có ư muốn biến đổi những ḥn đá tảng thành bánh ḿ để ăn để dịu bớt cơn đói ḷng. Nhưng trong khi đó, ngài cũng tiếp nhận được sự diễn đạt đúng đắn về "Luật biểu lộ." Các viên đá tảng, cũng như tất cả mọi vật hữu h́nh, đều xuất xứ từ cái Chất Liệu của Tư Tưởng Thiêng Liêng, tức là Thượng Đế. Chúng nó là những biểu lộ thật sự của Tư Tưởng của Ngài. Mọi vật mà ta mong muốn, nhưng chưa h́nh thành, vẫn có sẵn trong chất Tiên Thiên Khí, nó sẵn sàng cung cấp vật liệu cho cơ Sáng Tạo, sẵn sàng tự biểu hiện ra ngoài để thỏa măn mấy điều ước vọng của con người. Sự cần dùng bánh ḿ dùng để chứng minh rằng cái chất liệu dùn để làm bánh ḿ vốn ở trong tầm tay của ta và có sẵn với những số lượng vô biên bất tận. Cái chất liệu đó, nó vốn là tinh hoa của mọi vật, có thể tự biến đổi thành đá tảng hay thành bánh ḿ.
Khi con người mong ước điều lành, sự mong ước của y cùng với một sự mong ước của Thượng Đế. Cho Chất Liệu Thiên Nhiên, hay Tiên Thiên Khí bao bọc chung quanh chúng ta, có chứa đựng một nguồn tài nguyên vô tận để làm thỏa măn tất cả mọi sự mong ước tốt lành. Chúng ta chỉ cần tập sử dụng lấy những ǵ mà Thượng Đế đă sáng tạo ra trước cho chúng ta. Ngài muốn rằng chúng ta hăy sử dụng cái kho thiên nhiên đó để vượt qua mọi giới hạn vật chất của ḿnh và trở nên "Tự do trong sự sung măn..."
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 322 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 2:31am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG HAI
1. Quyền Năng Sáng Tạo Và Tâm Thức Bồ Đề
Bận về, chúng tôi thấy có một số đông nhưng người lạ tề tựu ở làng Asmah. Họ đến từ những vùng chung quanh. Một số các vị Chân Sư đă tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương đến một vùng hẻo lánh cách đó gần bốn trăm cây số. Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, v́ chúng tôi đă đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng cách đấy một trăm hai mươi cây số, con đường ṃn đi ngay vào một băi sa mạc hoang vu. Băi sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những đồn cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt. Bên kia đồng cát, con đường ṃn vượt lên những dăy núi nhỏ trong dăy Tuyết Sơn. Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không cần đem theo những đồ hành lư nặng v́ chúng tôi sẽ c̣n trở về Asmah trước khi vượt qua dăy Tuyết Sơn.
Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đă chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ hai lúc trời c̣n chưa sáng, chúng tôi đă nhập bọn với ba trăm đoàn viên của nhóm người hành hương. Phần nhiều những người này bị đau v́ những bệnh tật mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời th́nh ĺnh nổi lên một cơn giông băo dữ dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Trong ba ngày và ba đêm, những cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, v́ chúng tôi biết rằng một sự tŕ hoăn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người.
Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu, vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có pḥng bị những trường hợp tŕ hoăn có thể xảy đến. Sự tŕ hoăn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, v́ chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế lương thực. Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua băi sa mạc như đă nói ở trên.
Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên bầu trời quang đăng, và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay cho hay là tốt hơn chúng tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi được dễ dàng hơn. Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp liệu, bèn nói với chúng tôi:
- Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của ngài hay sao? Các bạn hăy nh́n xem những hột giống lúa ḿ này. Tôi trồng nó xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa ḿ, tôi đă tạo lúa ḿ trong trí tôi. Tôi đă làm đúng theo luật tự nhiên và lúa ḿ sẽ mọc đúng theo thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa ḿ theo luật tự nhiên rất lâu dài và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng?
Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để làm cho lúa ḿ mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự yên tĩnh, quan niệm rơ lúa ḿ trong tư tưởng, và đây là những hột lúa ḿ sẵn sàng để đem xay giă. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hăy lượng lấy nó, trước măt chúng ta có lúa ḿ đă đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh ḿ.
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
- Các bạn đă thấy và tin. Nhưng tai sao chúng ta không kêu gọi đến một định luật c̣n toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật c̣n toàn vẹn hơn, nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh ḿ! Các bạn sẽ thấy rằng các định luật c̣n toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh ḿ.
Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, th́ một ổ bánh ḿ mới xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà ngài đặt lên bàn cho đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói:
- Các bạn thất rằng có đủ bánh ḿ cho tất cả mọi người. Nếu ăn không đủ, th́ sẽ có các ổi khác nữa cho đến khi chúng ta ăn c̣n dư thừa.
Tất cả chúng tôi đều ăn bánh ḿ đó và cảm thấy rất ngon. Đức Tuệ Minh lại nói tiếp:
- Khi đức Jesus hỏi thánh Philips ở thành Galilée: "Chúng ta sẽ mua bánh ḿ ở đâu?" Th́ đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus biết rơ rằng bánh ḿ mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ở ngoài chợ hay ở các thị trường thương mại. Ngày mượn dịp đó để chỉ các môn đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh ḿ bằng sức mạnh của Tinh Thần. Người đời thường thường có quan niệm vật chất như Phips! Vị môn đồ này cũng tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu bánh ḿ, bấy nhiêu lương thực hay bấy nhiêu tiền bạc..."Đức Jesus biết rằng khi người ta sống ở tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm thức Chân Ngă, th́ người ta không c̣n bị thiếu thốn hay g̣ bó ǵ trong sự giới hạn nào cả. Ngài nh́n về Thượng Đế là Nguồn Gốc của đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn ngài đă luôn luôn đặt trong tầm tay của loài người và chất liệu cần thiết để thỏa măn tất cả các nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh ḿ và bảo các môn đồ hăy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều ăn đă no, th́ hăy c̣n thừa tới mười hai rổ bánh. Đức Jesus dạy rằng trong Tiên Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể t́m ra lương thực của ḿnh từ trong đó. Chúng ta rút cái chất liệu ấy ra để tạo lên mọi thứ cần dùng.
Cũng bằng cách đó Elisée làm cho người quả phụ thành Jéruasalem có giàu để ăn thừa thăi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn trong nhà, v́ như thế số dầu chỉ có giới hạn. Ngài tiếp xúc với cơi Thiên Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lương của những b́nh chứa. Nếu người ta có đủ số lu, b́nh, vại để chứa, th́ có lẽ đến bây giờ, dầu ấy vẫn chảy chưa hết!
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
- Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các bạn đă có cảm giác rằng ḿnh bị thôi miên. Nhưng các bạn đă tự ḿnh thôi miên lấy ḿnh từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà ḿnh mong ước. Sự nhu cầu phải chăng cũng là ư muốn sáng tạo? Thay v́ vươn ḿnh lên để sáng tạo theo như ư muốn của Thượng Đế, người ta tự thu ḿnh trong một cái ṿng chật hẹp và nói "Tôi không thể". Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng ḿnh là một thực thể cách biệt với Thượng Đế. Họ đă đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đă bỏ lỡ mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua họ như Ngài muốn.
Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng:
"Những việc ǵ mà ta đă làm, các ngươi sẽ cũng làm được, và các ngươi c̣n sẽ làm được những việc lớn lao hơn nữa."
Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ mạng của đức Jesus trên thế gian phải chi là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế? Khi đức Jesus ra lệnh cho người mù mà hăy đứng dẩy rửa mắt y trong nước ao Siloè, phải chăng là để cho đám quân chúng thấy rằng ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng tạo cũng như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta cũng làm y như vậy bằng cánh thực hiện Chân Ngă nơi ḿnh và nơi kẻ khác.
Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh ḿ mà tôi nhận được và cầm trên tày đă tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đă lạm dụng cái định luật huyền bí mà nó đă giúp Philips tôi thể hiện ư muốn. Tôi đă đốt cháy món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên. Làm như vậy, tôi đă lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, th́ không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đă tạo nên, mà c̣n đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa.
Mới đây, các bạn đă thấy một cục nước đá tượng h́nh trong ly nước mà không có nguyên nhân rơ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân, và đó cũng là cái nguyên nhân đă tạo nên ổ bánh ḿ. Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh ḿ hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là tôi hành động với t́nh thương, phù hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ư muốn của Thượng Đế. Làm ra ổ bánh ḿ, nước đá hay một vật mà ḿnh mong ước, là điều tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy. Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những ǵ mà các bạn cần dùng và thực hiện được những ǵ mà các bạn đă quan niệm sẵn trong trí như là cái lư tưởng cao đẹp nhất của ḿnh. Các bạn sẽ được đẹp ḷng Thượng Đế bằng cách tự biểu lộ và toàn vẹn hơn, với điều kiện là phải biết, cũng như đức Jesus, rằng ḿnh là những người con hoàn hảo của Thượng Đế.
2. Thuật Đi Trên Mặt Nước
Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và tiếp tục lộ tŕnh. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc lực rất mau chóng. Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía thượng lưu gịng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi ṿng quanh mất bốn ngày trên những con đường ṃn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu phải chờ nước giựt xuống, th́ tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ. Như đă được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên ba trăm người hành hương đều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực xuất xứ từ "Cơi vô h́nh."
Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đă hiểu ư nghĩa thật sự của những sự việc đă xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đă được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử dụng.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại chúng tôi. Họ được giới thiệu với chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng. Chúng tôi không để ư ǵ đến chi tiết này, v́ lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đă t́m thấy một chiếc đ̣ để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi muốn nói:
- Nếu những người này có đ̣ qua sông, th́ tại sao chúng ta không mượn dùng tạm để qua sông như họ vậy?
Chúng tôi tưởng là có lối thoát cho vấn đề khó khăn này, nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đ̣ v́ chỗ này ít có hành khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đ̣.
Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ. Dật Sĩ bước đến gần chúng tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ c̣n nhiều thời giờ v́ họ đă quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống thấp. Lẽ tự nhiên, sự ṭ ṃ của chúng tôi bị kích thích. Chúng tôi cho rằng thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa gịng nước cuốn mau như vậy chỉ v́ mục đích thăm viếng xă giao một trại láng giềng! Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện một cách khác hẳn.
Khi Dật Sĩ đă trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước (tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên! Tôi nín hơi thở, v́ tôi lo ngại rằng họ sẽ ch́m đắm và bị gịng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi đó, mỗi người trong chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả mười hai người kia đă đi qua khỏi giữa sông, v́ chúng tôi ngạc nhiên xiết bao mà thấy họ đi b́nh yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, v́ nước không ngập quá gót giầy của họ. Khi họ đă qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có cảm giác như trút được một gánh nặng ngh́n cân. Tôi tin rằng các bạn gái của tôi cũng có những cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai người kia đều đă qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với chúng tôi.
Bảy người trong nhóm của chúng tôi đă vượt qua sông trở lại để dùng bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhơm khi tất cả đều đă bước lên chân bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đă rời khỏi bờ sông ngày hôm đó. Chúng tôi không b́nh phẩm ǵ về sự việc nói trên v́ chúng tôi đă quá đắm ch́m trong những cơn suy tư trầm lặng.
Đến xế trưa, v́ thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi đành phải đi thêm đường rừng. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường. Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước. Người ta nói cho chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không một ngày nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ va Nê Bưu đ̣i đi ṿng lớn theo đường rừng cùng chúng tôi. Chúng tôi cố gắng thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể t́m đường đi, để tránh cho hai vị khỏi tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định cùng đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có ǵ là khó nhọc đối với họ cả.
Trong bốn ngày đi bộ ṿng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những người đă qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói chuyên hay suy ngẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đă chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đă trải qua cùng với những nhân vật lạ lùng này. Qua ngày thứ nh́, chúng tôi đang vất vả khó nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, th́ vị trưởng nhón của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một câu nào, th́nh ĺnh nói lớn:
- Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải ḅ lết trên mặt đất?
Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đă nói lên đúng cái ư nghĩ của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp:
- Nếu có những người mà có thể làm được những ǵ mà chúng ta vừa thấy, th́ tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại bằng ḷng chịu ḅ lết trên đất, và không những bằng ḷng thôi, mà bị bắt buộc phải ḅ và lết? Nếu con người có cái quyền năng chế ngự như mọi loài, th́ chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y không chứng tỏ quyền năng của ḿnh từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của con người. Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của ḿnh. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang ḅ lết trên mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể ḅ và lết!
Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội nói:
- Ông bạn hoàn toàn có lư, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đă thấy đi trên mặt nước để vượt qua sông để tránh khỏi con đường đi ṿng quanh vất vả này, là những người đặc biệt và có ân huệ thiêng liêng chăng? Không, họ không khác ǵ các bạn cả. Họ không có được mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ có phát chuyển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái sức mạnh của tư tưởng. Những ǵ các bạn đă thấy chúng tôi làm, các bạn cũng có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi v́ tất cả những hành động của chúng tôi đều ḥa hợp với một với một định luật thiên nhiên mà mỗi người đều có thể sử dụng tùy theo ư muốn.
Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đă vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành hương.
3. Ngôi Đền Chữa Bịnh
Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ ḷng hiếu sinh, t́nh bác ái, và sự b́nh an. Những làn âm ba rung động tại đây có một mănh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi bịnh ngay trong khoảnh khắc. Người ta cũng đồn rằng nững lời nó biểu lộ đức hiếu sinh, bác ái và b́nh an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mănh lực để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt ra tại đây. Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu người ta tập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh, bác ái, điều ḥa và chí thiện, th́ không bao lâu người ta sẽ không c̣n có thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đă thử dùng những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không thể nào thốt ra nên lời.
Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa khỏi các chứng bệnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp với họ và những người muốn thừa cơ hội để học Đạo. Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh và luôn luôn mở cửa cho công chúng. V́ công chúng không phải lúc nào cũng được gặp các Chân Sư nên các ngài khuyên họ hăy lại ngôi đền này mỗi khi có dịp thuận tiện v́ mục đích chữa bịnh. Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các ngài đă cùng đi một lượt với họ để chỉ cho họ thấy rằng cái ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi người có tự nơi ḿnh những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đă ban cho. Khi các ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ rằng các ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các ngài và khuyến khích chúng tôi hăy bắt chước làm theo các ngài.
Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ ṭ ṃ và những kẻ vô ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rơ rệt. Chúng tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai ngh́n người, trong đó tất cả những người có bịnh tật nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm bày tỏ ư muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền th́ tỷ lệ đó lên đếm một trăm phầm trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn t́m đến. Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao nhiêu tùy ư. Một lư tưởng được h́nh thành bằng cách tư tưởng của những khách đến viếng và in sâu trong trí họ.
Đức Tuệ Minh nói:
- Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người t́m cách tạc trong gỗ, đá, vàng, bạc hay đồng, h́nh ảnh cái lư tưởng của họ. Khi cái h́nh tượng vừa thành h́nh xong, th́ cái lư tưởng đă vượt lên cao hơn cái h́nh tượng ấy rồi. Bởi vậy, người ta phải nh́n thấy cái diện ảnh, yêu và lư tưởng hóa những ǵ đến với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm thần tượng để tiêu biểu cho cái lư tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát biểu cái lư tưởng của ḿnh. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lư tưởng được nêu lên, chứ không phải là cái cá nhân đă biểu lộ cái lư tưởng đó. Đức Jesus quyết định bỏ ra đi v́ ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy tôn cái cá nhân ngài, thay v́ yêu cái lư tưởng mà ngài là tiêu biểu. Người ta muốn tôn ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nh́n thấy một điều, họ chỉ thất đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa măn nhu cầu vật chất của họ.
Không ai là người nh́n nhận rằng họ vốn có tự nơi ḿnh cái khả năng thỏa măn lấy mọi thứ nhu cầu của chính ḿnh. Không ai nhận thấy rằng họ phải sử dụng cái quyền năng đó như đức Jesus vậy. V́ lẽ đó, ngài nói:
- Tốt hơn là ta phải ra đi, v́ nếu ta không bỏ đi, th́ đấng hằng An Ủi sẽ không bao giờ đến với các ngươi.
Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân đức Jesus, người ta sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có từ nơi ḿnh. Người ta phải tuyệt đối tin tưởng ở nơi ḿnh. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay v́ tự ḿnh biểu lộ cái lư tưởng của ḿnh.
Chúng tôi đă chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào. Dường như không cần phải hành lễ bởi v́ những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ người nào bước vào trong ṿng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng khớp xương. Những khớp xương đă cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong ṿng một tiếng đồng hồ và y đă có thể đi đứng lại được. Sau đó y đă làm công tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Một người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón tay đều mọc lại. Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc, và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức. Sự thật, tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hay hai ba năm về sau bịnh tật đă khỏi hẳn không c̣n tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp bịnh tái phát trở lại là bởi v́ người bịnh thiếu đức tin và không có nhăn quang tâm linh thật sự.
4. Phép Chuyển Di Tư Tưởng
Khi chúng tôi về cứ điểm ở làng Asmah, th́ mọi việc đă chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nh́ của cuộc hành tŕnh, tức là vượt qua dăy núi Tuyết Sơn.
Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách b́nh thường, không có ǵ đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài nói:
- Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Bằng quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không c̣n chịu sự biến đổi gọi là sự chết. Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng tôi có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt của ḿnh. Tất cả những điều đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho con người để quan niệm một lư tưởng và thực hiện một mục đích. Trước hết, phải biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ư nghĩa thật sự của giáo lư Jesus, hợp nhất cái linh thể của ḿnh với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn được tạo nên h́nh ảnh của Ngài và giống như Ngài. Phải chan ḥa, hỗn hợp nó với linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, v́ chính trong trạng thái chan ḥa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nh́n thấy chúng ta... Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng Ngài sẽ giă từ chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một làng cách đó độ bốn trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài đă đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn.
Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tă không ngớt và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian pḥng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm pḥng khách và pḥng ăn. Một người trong chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian pḥng này do đâu mà có? Quan sát kỹ, chúng tôi không thấy có ḷ sưởi hay củi lửa ǵ cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, nhưng không b́nh phẩm ǵ v́ chúng tôi đă bắt đầu quen những sự việc lạ lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi người sẽ được giải thích rơ.
Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối th́ đức Tuệ Minh và bốn người bạn của Ngài bước vào pḥng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc pḥng, mà gần đó không có cửa nẻo chi cả. Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không một tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các ngài ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa kịp để ư nh́n thấy ǵ, th́ bàn ăn có đầy đủ những thức ăn ngon lành, nhưng không có thịt, v́ các vị toàn dùng chay.
Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian pḥng được sưởi ấm bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói:
- Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian pḥng này là do một sức mạnh cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mănh lực ấy, và sử dụng nó dưới h́nh thức ánh sáng, nhiệt điện hay tinh lực để vận chuyển máy móc, cơ khí. Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một mănh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mănh lực ấy có ở khắp nơi để cho con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua.
Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới h́nh thức các món vật thực mà chúng tôi đă ăn, cũng như bánh ḿ và các món vật phẩm khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước.
Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu ngài tại đó. Ngài nói:
- Thân mẫu tôi là một trong những người đă tinh luyện thể xác đến mức độ có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học đạo trên những cơi cao. Bởi đó, bà sống thường xuyên trong cơi vô h́nh. Điều này là một việc t́nh nguyện, v́ nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nói rơ hơn cho các bạn dễ hiểu, bà đă tiến hóa đến mức đạt tới cơi Trời là nơi hiện diện của đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy của cơi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó sẽ là điều bí mật lớn nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có ǵ bí mật cả. Đó là một trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành giả đạt tới đó rồi, th́ sẽ trở lên vô h́nh vô ảnh đối với kẻ thế nhân phàm tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, v́ thể xác ấy đă được tinh luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp mọi nơi tùy ư. Những vị đạo đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển kiếp. Những người nào đă bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại để khoác lấy một thể xác mới. C̣n thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm linh toàn hảo và có thể được giữ ǵn rất lâu. Người nào đă từ bỏ thể xác để thăng lên các cơi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa...
Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc hành tŕnh ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong những người khách lạ đă th́nh ĺnh xuất hiện trong pḥng để dùng bữa với chúng tôi. Cách sắp đặt này sẽ giúp chúng tôi có thể thám hiểm nhiều vùng rỗng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du trong cơi vô h́nh và giao thông với nhau bằng phép di chuyển, tư tưởng. Mỗi toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lănh đạo. Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đă tỏ ra rất nhiều cảm t́nh ưu ái đối với chúng tôi, và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng lại công việc của các ngài.
5. Những Sơn Nhân
Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ỳ rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những ǵ xảy ra đến ghi chép làm tài liệu. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia.
Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên, chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của ḿnh cho các Chân Sư. Sự trả lời đến với chúng tôi trong một thời gian rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi chúng tôi đưa những bản thảo thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi ngáy giờ cẩn thận. Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu đă ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau. Chúng tôi ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến mất, cùng những đề tài đă đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu ghi nhận, th́ mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau.
Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng. Dường như những "Người tuyết" này là những kẻ ngoài ṿng luật pháp đă từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đă thành lập nên những bộ lạc du mục có thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn cách biệt cách biệt với thế giới văn minh của loài người. Tuy dân số của chúng không bao nhiêu, chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. V́ có bốn người dân làng đă bị bắt đi trong hoàn cảnh đó những người khác không biết phải làm sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ Minh và đem cả chúng tôi theo.
Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể gia nhập. Nhưng hy vọng đó đă tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng tôi biết rằng hai vị sẽ đi một ḿnh và cùng đi ngay tức khắc. Trong chốc lát, hai vị đă biến mất dạng và trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều câu chuyện quái đản về cuộc phưu lưu của ḿnh và về những người sơn nhân đă bắt cóc họ. Dường như những "Người tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp ḿnh như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta c̣n nói rằng chúng có thể rượt bắt những loài thú rừng ở vùng của chúng ở. Chúng gọi các Chân Sư là những "Người của Mặt Trời," và khi các ngài đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, th́ chúng không chúng cự.
Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đă nhiều lần thử mở một cuộc tiếp xúc với những "Người tuyết", th́ chúng bỏ ăn, bỏ ngủ và chạy trốn trong những chỗ núi rừng hoang vu v́ quá sợ sệt. Chúng đă mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đă có mối tương quan với những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đă xuất phát từ đó mà ra. Quả thật là chúng đă hoàn toàn biệt lập với xă hội loài người.
Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người tuyết." Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận nơi để nh́n xem chúng Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói như sau:
- Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta nhưng từ lâu chúng đă nuôi ḷng sợ hăi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này ngày càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đă tự ly khai với xă hội loài người đến mức quên mất đi sự liên hệ của ḿnh trong đại gia đ́nh nhân loại và tưởng rằng chúng là những loại thú rừng. Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng mất cả bản năng của loài thú rừng, v́ loài thú rừng do bản năng d́u dắt c̣n nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái t́nh thương đó. Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể rớt xuống thấp hơn loài vật. Không có ích ǵ mà đưa các bạn đến gặp những "Người tuyết", vả lại điều ấy c̣n làm hại cho chúng.Chúng tôi hy vọng rằng một đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng nó...
Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do t́m cách nào tùy sáng kiến riêng của ḿnh để nh́n thấy những "Người tuyết" lạ lùng đó; các Chân sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt. Theo chương tŕnh được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về những "Người tuyết". Họ khẩn khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp phải "Người tuyết" ở vùng chung quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một ḿnh. Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chỉ thị về lộ tŕnh và những ǵ phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đă bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng. Họ có thể bắn súng trơn, không lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ư muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào làm khác hơn.
Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lư của chúng tôi, v́ chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đă bỏ những khẩu súng của tôi từ lâu, thậm trí cũng không nhớ rơ là bỏ ở đâu. Nhưng sau mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạnhành lư, đă xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 323 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 2:45am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG BA
1. Một Ngôi Đền Cổ Một Trăm Hai Mươi Thế Kỷ
Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền, và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đă có từ mười hai ngàn năm. Đền này vẫn c̣n trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đạo Sư của môn phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất nào khéo chọn hơn là chỗ này. Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên đây hầu như dốc đứng trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu treo bằng dây thừng. Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá lớn tận trên cao, và đầu kia buông tḥng xuống trong khoảng không, cột những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao tḥng xuống. Đoạn đường dài một trăm thước cuối cùng là một đoạn hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi, tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày hôm trước. Từ trên đỉnh núi nh́n xuống dưới, người ta không nh́n thấy ǵ trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên không trung. Thật là khó mà xoá bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấy ở cách xa đến nỗi tôi nh́n qua ống ḍm cũng không nh́n thấy ǵ.
Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng nhóm của chúng tôi, có lẽ đă đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô Mặc, tôi có thể nói chuyện được, v́ y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng trên nóc đền như chúng tôi vậy. Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi cho Tô Mặc: "Tôi đang ở trên nóc đền, ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng Bốn giờ năm mươi lăm phút sáng ngày thứ Bảy mồng Hai tháng Tám."
Đức Tuệ Minh đọc bức thông điệp và đắm ch́m một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời của Tô Mặc: "Đồng hồ tôi chỉ Năm giờ một phút sáng ngày thứ bảy mồng hai tháng tám. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo."
Đức Tuệ Minh nói: Nếu các bạn muốn nói ǵ thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về câu trả lời. Nếu các bạn không thấy ǵ trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với những người ở ngôi đền đằng ấy.
Tôi bèn đưa thông điệp cho ngài và ngài liền biến mất. Một giờ ba khắc sau đó, ngài trở vê với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh đă đến năm giờ mười sáu phút và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những ǵ sắp thực hiện trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của kinh tuyến trên trái đất.
Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành tŕnh, có đem đi thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của toán khác. Sáng ngày thứtư, chúng tôi sửa soạn trỡ về làng, nơi mà chúng tôi đă để lại những người bạn đă đi t́m những "người tuyết." Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ c̣n muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chổ lộ tẻ trên con đường ṃn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề nghị để cho tôi đi theo hai vị. đêm đó chúng tôi nghiû trong một túp lều tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng ngày hôm sau, v́ chúng tôi đi bộ. V́ không thể đi đến ngôi đền bằng ngựa, nên chúng tôi đă để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên.
Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông bảo dữ dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tả đêm ngày. Nhưng trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ cằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặt biệt khác thường. Sét đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng tôi nhận biết được việc ǵ xảy ra, chúng tôi đă bị vây phủ chung quanh bởi một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đă bọc phát dữ dội và đồng loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh khủng. Khói bóc lên từng đám dày đặt làm cho tôi hoang mang lo sợ. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ có vẽ b́nh tĩnh ung dung, điều cũng làm cho tôi trấn tĩnh được ít nhiều. Hai vị nói:
- Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một ḍng suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám cháy tự nó tàn rụi dần v́ không có chỗ bốc cháy thêm được nữa. Cách thứ nh́ là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa.
Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị quàng vai tôi đi kèm hai bên. Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang hoành hành với một cường độ mănh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái ṿm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không một mảy may bị khó chịu v́ khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực trên đường đi của chúng tôi. Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đă ta khỏi vùng hỏa hoạn. Bận về, tôi đă có thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói với tôi:
- Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đă nâng nâng những rung động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi đó, lửa không c̣n làm hại chúng tôi được nữa. Nếu một người thường có thể nh́n thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng thật sự chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không c̣n ư thức về những giác quan của thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đă dùng thuật thăng thiên, và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy. Chúng tôi đă vượt lên một tŕnh độ tâm thức siêu đẳng mà người thường không thể với lên tới được. Mỗi người có thể bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đă sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể xác của ḿnh đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian. Chính đó là cái định luật mà chúng tôi đă sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mặt người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của ḿnh cho nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho ḿnh trong cái tâm thức phàm trần của họ...
Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc mộng. Nhưng sự hiểu biết những ǵ đă xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi, và ư nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rơ từ từ và soi sáng tâm hồn tôi. Chúng tôi t́m một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một giờ đồng hồ và trở về làng.
2. Vượt Qua Khu Rừng Cháy
Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, v́ tại đây có những tài liệu lịch sử được giữ ǵn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu khi này được phiên dịch ra, đă đem đến một bằng chứng không thể chối căi rằng Thánh Jean Baptiste đă từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đă có dịp xem và dịch những tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng ngài đă ở lại trong vùng này độ mười hai năm. Măi về sau, người ta đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như chứng tỏ rằng ngài đă cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi năm xuyên qua các sứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm tưởng rằng có thể theo dơi bước chân của ngài trên lộ tŕnh mà các tài liệu đă ghi rơ. Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đă trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dự kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rơ lộ tŕnh và những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste. Vài sự việc được diễn tả cho chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi chúng tôi tưởng tượng rằng ḿnh đang đi cùng một con đường với Thánh Jean Baptiste và theo những đường ṃn mà ngài đă đi qua trong quá khứ xa xăm đó.
Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở về làng mà nơi đó chúng tôi đă bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng v́ tôi không thể đi nhau như hai vị, nên hai vị đă dùng cách di chuyển của tôi.
Các bạn tôi chúng tôi tại làng. Họ đă hoàn toàn thất bại đi t́m những "Người tuyết." Sau năm ngày đi t́m, họ đă mệt mỏi và bỏ cuộc. Trên đường về, họ chú ư cái bóng đen của một người in rơ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cáchh đó gần hai chục thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống ḍm, th́ người ấy đă biến mất. Họ chỉ nh́nh thấy cái bóng ấy trong thời gian rất ngắn, và chỉ có ấn tượng rằng người ấy có h́nh thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối hả đi đến nơi mà cái bóng đen đă xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết ǵ cả. Họ dùng thời gian c̣n lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh những không kết quả. Và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy.
Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp viếng ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ ư định trên. Một số lớn các dân vùng lân cận đă tựu họp tại làng để xin chữa bịnh, v́ những người biết chuyện đă đồn đại tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn "Người tuyết" bắt đi đă được cứu thoát. Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các cuộc hội họp và đă chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiểu phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa đông năm trước, nay đă b́nh phục. Chúng tôi được nh́n thấy chỗ thịt hư nát nay đă liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại b́nh thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên. Hai người mù đă thấy lại được ánh sáng trong số đó h́nh như có một người bị mù từ thủa mới sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư.
Sau buổi họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp:
- Nhiều người thật sự đă được giúp đỡ nên điều ấy đă khêu gợi sự chú ư của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần nhiều th́ không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm, và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều sống một cuộc đời dễ dăi và không lo lắng. Trong số những người tự cho ḿnh có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ, Họ quả quyết có thể giúp đỡ bất cứ ai họ muốn giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được ai. Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó, người ta phải chấp nhận và chứng minh sự hiện hữu của nó bằng cách thật sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện.
3. Những Di Tích Của Thánh Jean Baptiste
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân làng dường như đă có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đă thấy. Chúng tôi bèn quyết định ở làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp tôi vẽ bản đồ với những lộ tŕnh di chuyển của Thánh Jean Baptiste.
Chiều hôm đó, vị Chân Sư cùng đi với toán thứ tư đến và nghỉ lại ban đêm với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng và đă sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Chính những vị tổ tiên của ngài đă soạn thảo những văn kiện này và những tài liệu đă được gia tộc luôn luôn giữ ǵn cẩn thận. Ngài thuộc gịng dơi nhiều đời của của vị tác giả trên, và không có người nào trong gia tộc đă từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển thể xác đi ngao du trong cơi vô h́nh và trở về tùy ư muốn. Chúng tôi hỏi rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện vui ḷng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có ǵ trở ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ta vào ngay tối hôm đó.
Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, th́ một người trạc độ ba mươi lăm tuổi th́nh ĺnh xuất hiện trong gian pḥng. Người ấy được giới thiệu cho chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi ngạc nhiên đến mức câm lặng, v́ chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một vị rất cao tuổi. Người ấy có vóc dạc trung b́nh với những nét vạm vỡ, nhưng gương mặt đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rơ rệt mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mỗi cử chỉ người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mănh. Một vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người.
Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian pḥng bèn cất tiếng nói:
- Các bạn yêu cầu Trời cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rơ hơn những bản văn kiện đă được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đă soạn thảo và giữ ǵn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đă làm cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật những sự việc có thật về thời gian lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi. Như người ta được biết, ngài là một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái chân lư của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể đồng hóa một cách trọn vẹn, v́ nếu như vậy th́ ngài đă không bao giờ chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian pḥng này, và nghe Thánh Jean cùng chúng tôi đàm luận. Chính tại đây mà Thánh Jean đă được thụ huấn của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đă chứng kiến tận mắt. Tất cả những người trong gia đ́nh bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đă đem thể xác đi luôn khi họ qua đời. Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp, có nghĩa là thể xác của họlà một vật hoàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở lên ư thức được cái ư nghĩa tâm linh của cuộc đời, ư nghĩa của Thượng Đế, đến mức độ nh́n cuộc đời bằng cái tầm nhăn quang của Thượng Đế. Khi đó, người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận đuợc những giáo lư cao siêu nhất và người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người.
Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ trạng thái tâm thức đó, v́ những người nào đă đạt tới đó không có ư muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại. Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ những người đi t́m ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những thụ cảm đă diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc phóng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cơi giới, hay cái trạng thái tâm thức kể trên. Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người trung gian. Chúng tôi làm tất cả những công việc đó. Nhưng một người trung gian không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ măi măi. Người ta phải quyết định tự ḿnh làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức ḿnh.
Đức Jesus ư thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt. Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lư mà chúng ta đă nhận được. Chúng tôi thụ hưởng cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có thể thực hiện những công tŕnh giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời. Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác ǵ các bạn hay những người các bạn hay gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa các bạn với tôi. Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi một người một cái ǵ tốt đẹp hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp:
- Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hăy nh́n thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần phải so sánh người ấy với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hăy t́m kiếm Phật tánh trên gương mặt mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay Phật tánh sẽ hiện trên mặt họ. Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ nh́n thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng tôi trở lên vô h́nh vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhăn quang toàn vẹn, bao quát nên chúng tôi nh́n thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một nhăn quang thiếu sót, các bạn chỉ nh́n thấy có sự bất toàn. Các bạn có thể cho rằng giáo lư của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho đến khi mà các bạn thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm thức của ḿnh đến mức nh́n thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ. Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một người. Giáo lư của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi...
4. Những Cuộc Chữa Bịnh Nhiệm Mầu
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường. Các ngài vừa đi vừa nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các ngài lên tiếng chào chúng tôi và bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các ngài sống b́nh dị như vậy. Các ngài đáp:
- Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. Tại sao các bạn lại cứ một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta.
Chúng tôi bèn hỏi:
- Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công tŕnh giống như của các ngài?
- Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo chúng tôi và không bắt ta vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi. Mỗi người có quyền tự do sinh hoạt và đi theo con đuờng mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản đơn mà chúng tôi đă đi thử và nhận thấy là rất mỹ măn.
Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi. Một vị đă hoàn thành từ hai ngh́n năm nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi nào tùy ư muốn. Ngài đă sống một ngh́n năm trên địa cầu và vẫn duy tŕ sự hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi.
Ngồi kế bên ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm thế hệ. Vị này tuy đă sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của ngài có thể nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường.
Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đă sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem như một người mười sáu tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nó chuyện với nhau như anh em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn. Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi lời nói của các ngài đều biểu lộ một sự hợp lư hoàn toàn và chỉ rằng các ngài biết rơ tận tường đề tài thảo luận. Các ngài không lộ vẻ ǵ là huyền thoại hay bí mật. Các ngài sự sự như những người thường trong công việc hằng ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi vẫn cảm thấy khó tin rằng đó không phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ.
Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền. Đức Tuệ Minh nói:
- Ở đây các bạn là khách của tôi.
Nói xong, ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi c̣n tưởng rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay ngài cầm đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn. Các vị Chân Sư không đem tiền bạc theo trong ḿnh và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng, tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các ngài lấy trực tiếp từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ.
Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt tay chúng tôi và nói rằng ngài phải trở về toán của ngài, rồi biến mất dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà ngài biến mất và về sau chúng tôi có kiểm điểm lại th́ thấy ngài đă trở về toán của ngài không đầy mười phút sau khi giă từ chúng tôi.
Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, và sự việc xảy ra trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đă lưu trú trong làng này. Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ văng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên hạ bày đặt ra để ḷe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi ngài đă trở nên một nhân vật lịch sử có thật. Tôi tưởng tượng lúc đương thời ngài cũng đă từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và các vùng chung quanh, và được các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà ngài không hoàn toàn hấp thụ được những chân lư căn bản.
Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những sự kiện lịch sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đă xảy ra hằng bao nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời tối, ai nấy đều mệt mỏi.
Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi chút nào. Trong khi chúng tôi ḿnh mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, th́ các ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái và y phục của các ngài mặc đều trắng tinh như lúc mới bắt đầu ra đi. Chúng tôi đă nhận thấy, trong những chuyến xuất hành đi qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng tôi vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời.
Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy th́ vị Sư Tổ đáp:
- Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên hơn nhiều mà thấy rằng một mảy bụi bặm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào. Với một quan niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, v́ không một mảy bụi bặm vật chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn.
Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng tôi cũng sạch sẽ và trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong nháy mắt trên thân ḿnh tôi và các bạn của tôi. Mọi dấu vết của sự mệt nhọc đều đă biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như ḿnh vừa mới ngủ thức dậy và đă tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư. Sự kính sợ của chúng tôi đă nhanh chóng thành một t́nh thương sâu xa đối với những tấm ḷng cao quư hồn nhiên của các ngài, là những đấng Cao Cả đă làm biết bao việc tốt lành cho nhân loại. Các ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em, và chúng tôi cũng bắt đầu coi các ngài như những bậc Anh Cả. Các ngài không tự gán cho ḿnh một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đă biểu lộ xuyên qua các ngài. Các ngài nói:
- Riêng tôi, tôi không thể làm ǵ được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi, ngài đă làm tất cả mọi việc.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó chúng tôi sẽ đi viếng ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đă nh́n thấy ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi diễn tả trước đây. V́ đường núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quăng đường dài hơn hai mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên hai quăng đường này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn nhỏ ở gần bên và giữ ngựa ở tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đă dự định. Chúng tôi giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục trong vách đá.
Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh núi nh́n thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên tới đỉnh, người ta phải tḥng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi xuống phía dưới.
Khi chúng tôi đă sẵn sàng, người ta tḥng cái thúng xuống và chúng tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mơm đá nhô ra ngoài, chỗ này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi đá. Chúng tôi được cho biết rằng c̣n phải lên một chuyến thứ nh́ cũng giống y chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mơm đá lúc năy. Từ cái trục ở phía trên người ta tḥng xuống một sợi dây cói để cột vào một cái thúng bằng mây lúc năy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của ngôi đền. Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, c̣n ở trên cao hơn nữa, trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dăy Hi Mă Lạp Sơn. Đền này c̣n ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đă viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhăn quang có thể nh́n bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nh́n vào chỗ không gian vô tận.
Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi. Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn lóng chuyển thông điệp của chúng tôi cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ và địa điểm. Chúng tôi giữ lại một bản sao của các thông điệp, về sau chúng tôi kiểm điểm lại th́ được biết rằng tất cả các thông điệp đều được giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gửi đi. Khi chúng tôi đưa những thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giă chúng tôi và hẹn gặp nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất.
Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi lui về pḥng yên nghỉ nhưng không ngủ được, v́ những kinh nghiệm vừa qua bắt đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa. Chúng tôi đang ở trên một chiều cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ờ kế cận trừ ra những người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng.
Chúng tôi có dặn một người coi đền hăy đánh thức chúng tôi khi trời vừa dạng sáng. Y gơ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để ngắm nh́n mặt trời mọc ở vùng núi. Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải chúng tôi đă loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền này đă trải qua cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là từ trên mười ngh́n năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng hóa làm một với cái đỉnh núi.
Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, v́ mọi sự dặn ḍ đều là thừa. Vừa nh́n ra ngoài, hai bạn tôi đă đứng lặng người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chừng chắc là tôi cũng đă làm như vậy. Tôi c̣n đợi xem họ nói ǵ, th́ họ đă đồng thanh la lớn:
- Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trong không gian!
Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đă quên trong một lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong không gian. Một bạn tôi nói:
- Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không gian sau khi đă có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi.
Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại nh́n thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy các vị cùng một lúc, và nói:
- Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay bổng trên không, sau khi đă lưu trú tại đây.
Các vị mỉm cười, và một vị nói:
- Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ nội tâm rằntg các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hăy sử dụng nó.
Chúng tôi ngắm nh́n phong cảnh. Sương mù đă hạ thấp xuống và bay từng đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hăy c̣n khá cao nên người ta không thể nh́n thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng lồ. Nh́n về phía xa, người ta mất cả ư thức về trọng lượng của ḿnh, và thật là khó mà tưởng tượng rằng ḿnh đang bay lướt trong không gian. Riêng phần tôi, tôi đă thấy mất ư thức về trọng lượng của ḿnh đến nỗi tôi đă nhẹ ḿnh bay lơ lửng trên nóc đền. Th́nh ĺnh một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hăy c̣n tồn tại nhiều ngày mới hết.
Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày, v́ chỉ có một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặo lại các toán khác. Đức Tuệ Minh đă đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đă đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây ba ngày. Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài chúng tôi bước ra ngoài để nh́n xem sương mù tan dần. Chúng tôi ngắm nh́n cho đến khi sương mù tan đi mất và mặt trời ló dạng. Người ta nh́n thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra tận đằng xa. V́ các vị siêu nhân đă quyết định đến viếng thôn ấp này, nên chúng tôi xin phép đi theo các vị. Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyến khích chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để tḥng xuống đất. Các vị nói rằng đi bằng cách đó th́ khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái h́nh dáng bề ngoài dễ coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị. Người ta bèn dùng cái thúng tḥng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mơm đá nhô ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nh́n xuống dưới làng. Khi tất cả chúng tôi vừa bước ra khỏi cái thúng, th́ lạ thay, các vị siêu nhân đă có mặt tại đó. Chúng tôi cùng nhau đi xuống làng, và ở lại đây suốt ngày hôm đó.
Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này. Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhàkiểu này để tránh cho nhà khỏi bị đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông. Chúng tôi được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste đă từng sống tại làng này và được thụ huấn và Đạo lư trong đền. Đền này vẫn c̣n nguyên vẹn như hồi xưa. Làng và ngôi đền đă được lập nên ít nhất sáu ngh́n năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này. Vào lúc năm giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, bắt tay từ giă chúng tôi và nói ngài phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó ngài biến mất dạng.
Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nh́n cảnh mặt trời lặn lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đă có dịp may nh́n thấy cảnh trời chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới.
Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa h́nh, địa vật và lịch sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà các Chân Sư từng biết rơ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đă từng có người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới.
Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dảy núi đằng xa ở tận chân trời. Th́nh ĺnh, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau lưng. Chúng tôi quay lại nh́n thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang đứng đó và mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện th́nh ĺnh của bà có làm cho chúng tôi sợ hăi không? Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đă nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật th́ bà ấy chỉ có dậm chân để làm cho chúng tôi chú ư, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc ban đêm đă làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi bà có làm rộn chúng tôi không?
Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không? Bà đáp rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ, có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi. Người con gái vóc dáng hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đă một trăm hai mươi tám tuổi. Chúng tôi c̣n ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau.
Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ư muốn từ giă chúng tôi để ra đi. Chỉ c̣n có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hăy c̣n chưa sáng, hầu hết tất cả dân làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 324 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 3:07am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG BỐN
1. Vị Mẫu Thân Của Chân Sư Tuệ Minh
Trong năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà ngày xưa Thánh Jean đă từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn ấp mà những người giữ ngựa đă ở lại để chờ đợi chúng tôi. Đức Tuệ Minh đă có mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành tŕnh được tương đối dễ dàng cho đến khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh trưởng. Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư, những đường lộ và đường ṃn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đă đi qua từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao nguyên lồi lơm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở. Làng có tường đá bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống pḥng thủ.
Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đă lần lần biệt tích và không c̣n để lại dấu vết. Một thiểu số c̣n lại đă xáp nhập với những bộ lạc khác ở quanh vùng. Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các đoàn viên của phái bộ chúng tôi hẹn gặp nhau trở lại. Những đoàn viên này đă chia ra từng toán nhỏ để thi hành công tác trên một vùng lănh thổ rộng lớn.
Khi hỏi lại th́ được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên, và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau. Chúng tôi được chỉ định nơi trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng. Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở từng dưới. Khi chúng tôi bước xuống từng dưới th́ thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai người con mà chúng tôi đă gặp gỡ tại ngôi đền, cùng với đức Tuệ Minh cũng hiện diện tại đó.
Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong, th́ nghe có tiếng động trước sân nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán đoàn viên vừa mới đến. Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và xếp đặt cho họ nghỉ lại ban đêm cùng với chúng tôi, kế đó tất cả chúng tôi đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đă lặn, nhưng bóng hoàng hôn hăy c̣n phảng phất, và trời chưa tối hẳn.
Trong khi chúng tôi đang b́nh luận về giá trị pḥng thủ của bức tường rào chung quanh làng, th́ bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng đến. Chúng tôi nhận thấy các vị tỏ dấu băn khoăn mong đợi một sự ǵ, và bà chị của đức Tuệ Minh bèn nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói:
- Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm ḷng không đậu, v́ ḷng yêu mến của chúng tôi đối với mẫu thân đậm đà dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả những người sống tâm linh cao cả, v́ tất cả các vị ấy đều có tâm hồn cao quư và thiêng liêng. Nhưng mẫu thân chúng tôi c̣n có ḷng từ bi, nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào không yêu mến bà gấp ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà c̣n có t́nh mẫu tử, cốt nhục. Chúng tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy.
Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, th́ được đáp:
Có chứ! Mẫu thân thường đến luôn luôn khi nào chúng tôi cần đến bà. Nhưng bà mắc bận rộn công việc trong lănh vực hoạt động của bà nên bà chỉ đến đây một năm có hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến nỗi không c̣n biết làm ǵ trong khi chờ đợi.
Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi hào hứng th́ th́nh ĺnh một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói ǵ và cũng không ai nghĩ ngợi điều ǵ. Bóng tối của ban đêm đă bao trùm khắp nơi, và dăy núi tuyết ở xa xa coi giồng như một con quái vật khổng lồ. Kế đó chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ, giống như tiếng con chim sẽ đậu dưới đất. Một đám sương mù dường như đông dặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi th́nh ĺnh tượng h́nh một cách rơ rệt. Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan sắc diễm kiều bao phủ bởi một vầng hào quang sáng chói đến nổi chúng tôi không thể nh́n thấy rơ tận mắt.
Cả gia quyến đều đổ xô về phía người đàn bà đó, hai tay đưa thẳng ra phía trước và đồng thanh kêu to:
Mẫu thân!
Bà Mă Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi người thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái. Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói:
- À! Các ông là những huynh đệ từ Mỹ quốc xa xôi đến đây để thăm viếng chúng tôi? Tơi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải t́nh thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵng ḷng để cho chúng tôi tự nhiên, th́ chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong ṿng tay như tôi vừa đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc của tôi. V́ thật ra chúng ta chỉ là thành phần của một đại gia đ́nh, tức là gia đ́nh những người con của Thượng Đế. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp tất cả với nhau như anh em một nhà?
Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm cũng khá lạnh. Nhưng khi đức bà Mỹ Ly xuất hiện, th́ sự hiện diện của bà tỏa ra một mănh lực nó biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí của một đêm mùa hè. Khí trời dường như đượm mùi hương của bông hoa. Một ánh sáng dịu giống như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả. Tuy nhiên, các Chân Sư không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các ngài có một lối xử thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị.
Có một người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mỹ Ly và các bà phu nhân dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân đi sau cùng. Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi nhận thấy rằng bước chân chúng tôi không gây một tiếng động nào. Tuy nhiên, chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi c̣n thú thật là y đă thử đi nặng bước nhưng cũng không gây tiếng vang. Dường như bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu thang.
Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian pḥng trang hoàng rất đẹp và ngồi an tọa. Chúng tôi liền nhận thấy mỗt sự ấm áp dễ chịu, và một ánh sáng dịu tỏa khắp pḥng, mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến. Gian pḥng đắm ch́m một lúc trong cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế không, và cuộc hành tŕnh có làm chúng tôi được thỏa măn không?
Chúng tôi nói chuyện thường về cuộc đời hằng ngày, mà bà có vẻ rất thành thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia đ́nh. Đức bà kể tên họ của cha mẹ, và anh chị em trong gia đ́nh chúng tôi, và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi từng chi tiết mà không hỏi chúng tôi một câu nào. Đức bà kể những xứ mà chúng tôi đă viếng thăm, những công tŕnh mà chúng tôi đă thực hiện, và những lỗi lầm mà chúng tôi đă mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ nó bắt buộc chúng tôi phải rán nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rơ ràng dường như chúng tôi sống lại những giai đoạn đă qua.
Khi các vị quư khách kiếu từ để lui về pḥng riêng, chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà nghĩ rằng không có ai trong các vị đă sống ít hơn một trăm tuổi, và đức bà đă có bảy trăm tuổi, trong số đó bà đă trải qua sáu trăm năm trên địa cầu và sống trong thể xác vật chất. Tuy vậy, tất cả các vị đếu đầy nhiệt tính và vui tươi như tuổi hai mươi, điều đó thật là tự nhiên và không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Mọi việc đă xảy ra dường như chúng tôi sống chung với những giới người trẻ.
Trước khi lui gót để về pḥng riêng, các vị đă cho chúng tôi biết trước rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều ngày hôm sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự.
2. Một Buổi Dạ Tiệc Với Các Chân Sư
Trưa hôm sau, tất cả các toán trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi về đến nơi. Chúng tọi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản ghi nhận của chúng tôi và thấy mọi sự đều ăn khớp nhau một cách đúng đắn. Khi mọi việc đă xong xuôi, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng cơn chiều, khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người chung quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một đầu của gian pḥng. Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bằng vải trắng mịn rất đẹp, trên có bày chén dĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc long trọng, tuy nhiên chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp gian pḥng. Sau khi chúng tôi đă ngồi an tọa được chừng hai mươi phút và tất cả các chỗ ngồi đều đầy đủ những quan khách trừ ra một vài chỗ c̣n trống ở rải rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự khắp pḥng và trong khoảnh khắc một ánh sáng mờ nhạt đă tỏa khắp chốn. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng tỏ rạng thêm dường như hằng ngh́n bóng đèn diện ẩn dấu một cách khéo léo ở đâu đây đă từ từ được thắp lên. Gian pḥng trong giây lát đă trở lên sáng rực, và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Về sau chúng tôi được biết rằng làng này không hề có hệ thống cung cấp điện lực.
Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; h́nh như có một đám sương mù từ từ đông đặc lại, chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như ngày hôm trước, rồi th́nh ĺnh xuất hiện bà Mă Ly, thân mẫu của đức Tuệ Minh. Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian pḥng, bà Mă Ly và một người khác, gồm có chín người nam và hai người nữ. Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy. Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đă xuất hiện như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh. Các vị đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi. Kế đó, vang lên những âm thanh của một ban hợp ca vô h́nh kèm theo một điệu nhạc thanh tao huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đă từng nghe nói về những nhạc điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; cho đến ngày hôm ấy, tôi mới biết thế nào là những âm thanh của cơi Trời. Có thể nói rằng chúng tôi nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ ḿnh lên khỏi mặt ghế.
Sau bản hợp ca, mươi hai vị bèn bước đến chỗ ngồi của ḿnh, Chúng tôi lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm như ra không gây tiếng động, tuy rằng các vị không làm một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng. Khi các vị đă an tọa, một đám sương mù giống như lúc năy lại xuất hiện, và lại tan dần, rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một ngườ nam, trong số đó có vị tổ sư, tác giả văn kiện. Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô h́nh lại trổi lên lần thứ nh́. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi vàcũng không gây lên một tiếng động. Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện lần thứ ba, và khi nó vừa tan th́ mười vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy người nữ, xuất hiện ở đầu kia gian pḥng.
Ở chính giữa là một thiếu phụ trẻ dưới hai mươi tuổi với ba người nam và ba người nữ đứng ở hai bên. Tất cả những người nữ đă xuất hiện cho đến khi đó đều rất đẹp, những người thiếu phụ này lại c̣n đẹp hơn tất cả các vị khác. Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng và nhạc điệu lại trổi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại ḥa điệu với âm nhạc. Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như chúng tôi thấy hằng ngàn h́nh bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa hát theo một lượt. Không có giọng hát nào buồn cũng không có âm điệu bi thương. Nhạc điệu trổi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng cao lần lần cho đến khi chúng tôi có cảm giác lâng lâng thoát tục.
Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa, nhưng nhăn quan chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật chính giữa, người thiếu phụ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai người nữ khác đi kèm ở hai bên. Thiếu phụ ngồi an tọa cùng với hai người vị đi kèm ở đầu bàn chúng tôi. Người ta mau đặt một chồng dĩa ở bên tay trái của thiếu phụ. Ánh sáng trong pḥng lu mờ trong một lúc, chúng tôi nhận thấy chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đă xuất hiện, đều có một vầng sáng nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy chói sáng trên đầu của vị nữ quư khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, c̣n những vị khác th́ không thấy ǵ khác thường.
Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong gian pḥng, kế đó phần động những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một khúc nhạc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đă xuất hiện. Khi bài hợp ca chấm dứt, vị nữ quư khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, th́ thấy xuất hiện trên tay một ổ bánh ḿ nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính năm phân tây. Mỗi người trong ba mươi sáu vị đứng dậy bước đến gần bà, và nhận được một ổ bánh ḿ tương tự. Kế đó, các vị đi ṿng quanh tất cả các bàn để phân phát cho tất cả mỗi người một mẫu bánh ḿ. Người thiếu phụ cũng làm như y vậy ở tại bàn chúng tôi.
Vừa phân phát bánh ḿ cho chúng tôi, bà nói:
- Các bạn có biết chăng đấng Christ ngự trong các bạn cũng như trong mỗi người? Các bạn có biế chăng thân thể các bạn vốn trong sạch, hoàn hảo, trẻ trung, luôn luôn tốt đẹp và thiêng liêng? Các bạn biết chăng Chúa Trời đă tạo ra các bạn đúng theo h́nh ảnh của Ngài và giống y như Ngài, và đă ban cho các bạn quyền năng đối với mọi vật? Trong bản chất, các bạn luôn luôn là một đấng Christ, Con của Chúa Trời. Các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh thiện, thiêng liêng, hợp nhất với Chúa Trời là đấng Trọn Lành. Và mỗi người Con của Ngài đều có quyền tuyên bố sự hợp nhất và thiêng liêng đó.
Sau khi đă ban cho chúng tôi mỗi người môt mẫu bánh ḿ, thiếu phụ bèn an tọa. Ổ bánh ḿ nhỏ của bà vẫn c̣n nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng tôi. Khi cuộc lễ khai mạc chấm dứt, th́ thức ăn bắt đầu được đem tới. Thức ăn đến với mọi người trong những cái tộ lớn có đậy nắp, những tộ này xuất hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô h́nh. Người thiếu phụ mở các nắp tộ để qua một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra dĩa. Mỗi khi múc đầy một dĩa, bà đưa luân phiên qua hai vị nữ khách ngồi hai bên, hai vị này chuyền dĩa khắp các bàn, và tất cả các quan khách đều được cung cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó các quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn rất là ngon.
Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc hỏi người thiếu phụ rằng theo bà th́ đức tính nào của Thượng Đế là cao quư nhất. Không chút do dự, bà đáp:
- T́nh thương. Kế đó bà nói tiếp Cái "Cây Sinh Hoạt" vốn ở giữa cơi Thiên đàng của Chúa Trời, ở tận nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn con người. Trái cây phong phú và tốt lành nó mọc và trở nên chín mùi một cách toàn vẹn nhất, trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất, chính là T́nh Thương. Những người nhận thức được chân tính của nó, đă định nghĩa nó như vật cao cả nhất trên thế gian. Tôi xin nói thêm rằng đó là cái mănh lực hàn gắn cứu chữa lớn nhất trên đời. T́nh thương không bao giờ làm ngơ trước sự đ̣i hỏi của ḷng người. Người ta có thể sử dụng nguyên tắc thiêng liêng của T́nh Thương để ứng đáp tất cả những nhu cầu của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tật ách, và những sự lầm than thống khổ của người đời.
Nhờ hiểu biết và sử dụng t́nh thương đúng chỗ, nhờ ảnh hưởng tế nhị và vô biên của T́nh Thương, tất cả những vết thương của thế gian có thể được chữa khỏi. T́nh bác ái thiêng liêng có thể sửa chữa, hàn gắn tất cả mọi sự bất ḥa, vô minh và tội lỗi của nhân loại. Khi T́nh Thương chan ḥa khắp chốn, nó thức rộng đến những nơi khô khan tẻ lạnh của ḷng người và những nơi khốn khổ của cuộc đời. T́nh Thương có thể cứu chuộc được nhân loại và biến cái thế gian như một phép mầu. T́nh Thương là Thượng Đế, nó vốn trường cửu, vô biên, bất biến rộng răi và bao la ngoài sự tưởng tượng.
Bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc đời hằng ngày chăng? Bạn cần có ḷng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những khó khăn trắc trở của ḿnh chăng? Bạn bị đau ốm, sợ hăi chăng? Nếu vậy bạn hăy nâng cao tâm hồn và cầu nguyện đấng Tối Cao chỉ đường cho bạn. T́nh Thương bất diệt của Thượng Đế che chở cho bạn, bạn không cần phải sợ sệt ǵ cả. Đức Chưởng Giáo há chẳng nói rằng: "Trước khi người khấn nguyện, Ta đă đáp ứng, trước khi người nói dứt lời, Ta đă nghe."
Bạn hăy can đảm tiến đến gần ngài, bạn hăy từ bỏ thái độ cầu khẩn van xin của ḿnh, hăy cầu nguyện với một đức tin minh mẫn, và biết rằng sự giúp đỡ mà bạn cần, đă được ban bố cho bạn. Bạn đừng bao giờ nghĩ nản. Bạn hăy cố làm hơn thế nữa, hăy đ̣i hỏi. Bạn hăy tuyên bố như đức Jesus cái quyền được sinh trưởng làm Con của Chúa Trời. Hăy biết rằng có một khí Hạo Nhiên vô h́nh bao trùm khắp vũ trụ, trong đó chúng ta đang sống và tiến hóa. Trong chất Tiên Thiên Khí đó, có tất cả những vật tốt lành và toàn hảo mà con người có thể mong muốn. Những vật tốt lành đó chỉ đợi đến khi nào con người biểu lộ đức tin của y, để xuất hiện dưới h́nh thức rơ ràng và cụ thể.
Bạn hăy nhớ chuyện vua Salomon trong đêm kinh nghiệm huyền linh của ngài, khi ngài nâng cao tâm hồn lên tận cơi tâm thức vũ trụ, khi đó ngài cầu xin cho cuộc đời ngài tránh khỏi thói ích kỷ và dành cho công việc phụng sự nhân loại. Việc ấy đă đem đến cho ngài những kho tàng của cải vô tận, không kể những danh vọng mà ngài không bao giờ dám nghĩ tới. Ngài đă nh́n nhận sự minh triết của T́nh Thương, và T́nh Thương đă ban rải cho ngài những của cải kho tàng phong phú vô tận. "Tiền bạc không có giá trị ǵ dưới thời đại của vua Salomon." Thậm trí, đồ chén dĩa của vị vua đầy ḷng bác ái đó cũng được đức bằng vàng khối. Bạn rải T́nh Thương, tức là mở rộng cửa kho vô tận chứa đầy những kho tàng vàng bạc của Thượng Đế. Người nào đă biết thương yêu đồng loại, không thể không cho ra. Nhưng cho tức là được. Đó là cái tác động của luật Bác Ái. Khi ta đem cho họ, chúng ta vận chuyển cái định luật bất di bất dịch này là "Cho bao nhiêu, được bấy nhiêu." Khi người ta cho ra là không có hậu ư muốn thu nhận, người ta không khỏi được nhận lănh, v́ những ǵ ta đem cho sẽ được hoàn trả lại cho ta một cách dồi dào do sự tác động của luật Nhân Quả. "Bạn hăy cho, rồi bạn sẽ nhận được với một dung lượng đầy tràn, dồi dào, phong phú gấp bội..."
Nếu chúng ta hành động với tinh thần Bác Ái, ta phải làm sao cho Thượng Đế hiện diện trong lương tri của chúng ta. Đồng hóa với Sự Sống, T́nh Thương và Minh Minh Triết, tức là tiếp xúc một cách có ư thức với Thượng Đế, tức là nhận được một cách sung măn, dồi dào giống như những thức ăn dồi dào mà chúng ta đă thọ lănh hồi chiều nay. Các bạn thấy rằng sự sung túc được dành cho tất cả mọi người và không ai là người bị thiếu thốn.
Luật trời luôn luôn tác động một cách trường cửu, nó luôn luôn vẫn y như thế, bây giờ cũng như bao giờ. Luôn luôn bất biến không hề dời đổi, Luật Trời bao giờ cũng tốt lành. Nếu chúng ta sống thuận theo Thiên Ư, th́ Luật Trời sẽ trở nên những nền tảng vững chắc để chúng ta xây dựng sức khỏe, hạnh phúc, sự bằng an, sự quân b́nh và sự thành công. Nếu chúng ta hoàn toàn sống thuận theo Luật Trời th́ không một tai họa đau khổ nào có thể xảy đến trong đời chúng ta. Chúng ta không cần được cứu chữa khỏi bệnh tật nào cả, v́ chúng ta vốn lành mạnh từ sợi tóc chí đến đầu móng chân.Chúng ta hiểu rơ niềm khát vọng sâu xa, nó ray rứt trong tâm hồn của nhân loại! Không ǵ có thể chữa khỏi sự nhớ nhung ray rứt đó, trừ ra một sự thông hiểu rơ ràng, một ư thức rơ rệt về đấng Cha Lành của chúng ta, là Chúa Trời vậy. Không có một sự mong mỏi khát khao nào sống động trong linh hồn con người cho bằng sự khát khao mong mỏi được biết Thượng Đế. "Và biết được Thượng Đế, tức là đạt tới sự sống trường cửu."
Chúng ta thấy rằng những người luôn luôn lao chao, bôn tẩu, để hy vọng t́m thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công tŕnh nào đó, hay t́m sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu h́nh hữu hoại. Chúng ta thấy họ theo đuổi và cũng đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc họ vẫn không được thỏa măn. Có người tưởng tượng rằng họ cần có nhà cửa, đất ruộng; có người nghĩ rằng họ cần có một gia tài lớn; những người khác cho rằng họ cần có sự hiểu biết và kiến thức dồi dào. Chúng ta có cái vinh dự được biết rằng con người vốn sợ hữu tất cả những thứ ấy ở tự nơi ḿnh...
Thiếu phụ im lặng một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng dậy đưa câu hỏi về luật tương đối và được thiếu phụ giải đáp thỏa đáng.
Câu chuyện chấm dứt tại đó. Bữa ăn chiều đă xong, người ta dọn bàn ghế ra khỏi pḥng. Khi bắt đầu một giai đoạn giải trí, có vũ và nhạc. Âm nhạc do khúc hợp ca vô h́nh trổi lên, và tất că chúng tôi đều cùng nhau trải qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay.
Chúng tôi ở lại làng này hết ba ngày, trong khi đó chúng tôi đă thấy lại một số lớn những vị quư khách đă xuất hiện đến với chúng tôi trong đêm trước. Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng.
3. Người Thiếu Phụ Đẹp Tuyệt Trần
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày trên con đường ṃn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt đến nỗi chúng toi phải cắm lều để ngủ lại ban đêm. Chúng tôi không có đem lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống, th́ luôn luôn có sẵn đồ vật thực trong tầm tay. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn, th́ những thức ăn liền xuất hiện một cách đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi thiếu ăn, và luôn luôn ăn uống thừa thăi.
Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn mà chúng tôi phải đi xuống lần lần để đến nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn đến viếng. Kể từ khi đó, con đường của chúng tôi vượt qua một vùng ph́ nhiêu và đông dân cư. Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông v́ nó ở ngay trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ đem cho chúng tôi cái cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc hằng ngày với các vị Chân Sư. Một số lớn những vị siêu nhân mà chúng tôi đă gặp ở rải rác nhiều nơi, hiện đang sống tại làng này và tất cả các vị đều khẩn khoản mời chúng tôi đến viếng các Ngài. Chúng tôi có cảm giác rằng trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội tốt để quan sát cuộc đời hằng ngày của các Ngài một cách gần gũi hơn.
Chúng tôi đến làng này ngày hai mươi tháng mười một, và từ căn cứ đó chúng tôi mở một loạt các cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho mọi sự di chuyển trở nên khó khăn. Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi, dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi chuẩn bị ḥa ḿnh với cuộc sống của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi, chúng tôi được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng cửa, v́ dân làng coi tất cả mọi người như anh em.
Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng tăm trong làng này, mà chúng tôi đă gặo ở vùng ven biên giới. V́ chúng tôi đă yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà, nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy ǵ bà hết cả. Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lư sang ở nhà bà và ở luôn tại đó cho đến măn cuộc hành tŕnh.
Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một tỉnh thành nhỏ ở ven biên giới. Khi bà được giới thiệu với chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bà trạc độ bốn mươi tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp. Độc giả sẽ tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi biết được rằng thiếu phụ đă có trên bốn trăm tuổi và là một trong những nhà giáo mô phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đă dành trọn cuộc đời vào việc phụng sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi đă hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể nào làm khác hơn là yêu mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết rơ các vị Chân Sư, th́ chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài.
Chúng tôi đă có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các ngài với những tài liệu xác thật cũng như tập du kư này. Chúng tôi ở tại nà thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng Mười Hai năm 1895 đến tháng tư năm 1896. Chúng tôi đă có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của bà và cuộc đời của nhiều vị Chân Sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những cuộc đời lư tưởng.
4. T́nh Bác Ái Thiêng Liêng
Thời gian trôi qua mau đến cuối tháng chạp. Năm đă hầu tàn. Chúng tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng v́ một cuộc lễ mà trên thực tế chỉ có các Chân Sư mới tham dự.
Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi những người lạ mặt. Tất cả đều nói tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như ḿnh đồng hóa với sự sinh hoạt của làng.
Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ của làng diễn ra trong đêm Giáng Sinh và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng cuộc lễ không dành cho người ngoại quốc. Tuy nhiên, cuộc hội họp không phải riêng tư. Vả lại, không có một cuộc họp nào của các Chân Sư là riêng tư. Cuộc họp nhằm mục đích quy tựu những người bắt tay vào công việc tâm linh, những người đă đặt cho công việc ấy một tầm quan trọng, nghiêm chỉnh, và đă tiến bộ khả quan để xác nhận sự mong ước của họ là sống cuộc đời thánh thiện. Họ đến một nơi mà họ đă chấp nhận một tâm thức cao cả hơn, và hiểu rơ cái vị trí mà nó phải có trong cuộc đời của họ. Một cuộc hội họp quần chúng như thường diễn ra vào mùa này trong năm ở một nơi đă định sẵn từ trước, để cho họ tham dự cuộc lễ. Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa lại là nơi thôn ấy mà chúng tôi đang trú ngụ. Sáng ngày được ấn định cho cuộc hội họp, ánh b́nh minh thật là trong sáng, và hàn thử biểu chỉ trên hai mươi độ dưới số không. Tất cả chúng toi đều bồn chồn, với cảm giác rằng đêm ấy sẽ đem lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào những sự lư thú đă xảy ra trong chuyến du hành của chúng tôi. Chúng tôi đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy có độ hai trăm người tề tựu tại đó. Gian pḥng được trang trí tốt đẹp và được thắo sáng bằng phương pháp huyền diệu như đă diễn tả trước đây.
Chúng tôi biết rằng bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ tọa cuộc hội họp. Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian pḥng, tất cả chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà. Bà mặc một chiếc áo dài trắng rất đẹp, nhưng không lúc nào sé sua để làm cho người khác chú ư đến ḿnh. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu thuyết pháp. Bà nói:
- Chúng ta hội họp chiều nay với một mong ước được hiểu rơ ư nghĩa của sự chuyển tiếp từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái siêu việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những người nào trong quư vị đă được chuẩn bị cho sự chuyển tiếp đó. Trước tiên, quư vị đă theo chúng tôi do bởi sự ưa thích công việc mà chúng tôi làm. Trước hết quư vị đă theo dơi những công việc đó một cách ngạc nhiên và sợ hăi v́ quư vị cho rằng đó là những việc nhiệm mầu. Bây giờ quư vị coi đó là những điều tự nhiên của một cuộc đời gương mẫu, như Thượng Đế vẫn mong ước chúng ta phải sống.
Vào giờ phút này, quư vị đă biết chắc rằng chúng tôi không có thực hiện một phép lạ nào cả. Quư vị đă hiểu cái ư nghĩa tâm linh thực sự của những ǵ mà quư vị đang làm.
Chuyển tiếp từ trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái cao hơn có nghĩa là gạt bỏ cái thế giới vật chất dẫy đầy những sung đột và va chạm để chấp nhận cái Tâm Thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Khi đó, th́ tất cả đều là mỹ lệ, điều ḥa, và toàn thiện. Đó tức là phép sinh hoạt tự nhiên, đó là phép sống mà Thượng Đế đă chọn lựa cho chúng ta, và đức Jesus đă nêu một gương sáng huyền diệu thay trên thế gian. Cách sống ích kỷ là phản tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở. Con đường của đấng Christ thật là dễ dàng và tự nhiên nếu chúng ta hiểu rơ được nó! Người nào theo con đường đó tức là sống trong Tâm Thức của đấng Christ hay Tâm Thức Bồ Đề. Chúng ta đang ngồi chung quanh những bàn đă bày sẵn thức ăn. Đây là cơ hội duy nhất mà chúng ta tựu họp trong một bữa tiệc như những kẻ thế nhân phàm tục vẫn thường quan niệm. Nó là một bữa tiệc thông đạt và thực hiện, biểu tượng cuộc Lễ Chuyển Tiếp như hồi thời đại của đức Jesus, cuộc Lễ Phục Sinh (Pâque), tức sự chuyển tiếp (thường không được hiểu rơ vào thời đại này) của tâm thức phàm tục lên tâm thức Bồ Đề. Chúng tôi tin rằng một ngày kia tất cả những người con của Thượng Đế sẽ hội họp quanh một bữa tiệc tương tự và hiểu rơ cái ư nghĩa thật sự của nó.
Chiều hôm nay, trong số những vị thực khách ngồi quây quần nơi đây, có vài vị đă hoàn toàn tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển bằng thể xác lên tận những cảnh giới cao siêu nhất của cơi Thượng Thiên để học Đạo thượng đẳng. Tất cả những vị ấy đă từng sống một thời gian trong thể xác hữu h́nh trên địa cầu, và khi viên tịch, các ngài đă đem thể xác theo đến một nơi địa hạt tâm thức làm cho các ngài trở nên vô h́nh đối với người trần gian. Chúng ta phải nâng cao tâm thức lên đến mức độ Tâm Thức Bồ Đề để có thể tiếp xúc với các vị ấy. Nhưng các ngài có thể trở lại với chúng ta và ra đi tùy ư muốn. Các ngài có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người nào thụ cảm đối với giáo lư của ngài, và xuất hiện hay biến mất tùy ư muốn. Chính các ngài đến dạy Đạo cho chúng ta khi chúng ta sẵn sàng thụ huấn các ngài, hoặc bằng trực giác, hoặc bằng cách gián tiếp xúc tự bản thân. Nam vị trong các ngài sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta chiều nay. Trong số đó có một vị nữ thánh mà chúng tôi đặc biệt yêu mến, v́ bà là mẹ của một vị trong chúng tôi, và trước kia đă từng sống chung với chúng tôi, và trước kia đă từng sống chung với chúng tôi. (Đó là thân mẫu của đức Tuệ Minh.) Bây giờ chúng ta hăy ngồi vào bàn ăn...
Ánh sáng trong gian pḥng hạ thấp xuống trong một lúc, và tất cả các quan khách đều ngồi trong cơn im lặng hoàn toàn, đầu hơi ngiêng về phía trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị chân sư đă xuất hiện trong gian pḥng, ba vị nam và hai vị nữ, tất cả đều mặc y phục trắng tinh, tất cả đều có một vẻ đẹp lộng lẫy và bao phủ bởi một vầng hào quang sáng dịu. Các ngài âm thầm tiến bước, và mỗi vị đều an tọa nơi chỗ ngồi c̣n để trống của ḿnh ở đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mă Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi chỗ danh dự ở tại bàn của chúng tôi cùng với vị Trưởng nhóm chúng tôi ngồi bên tay mặt và đức Tuệ Minh ngồi bên tay trái bà. Khi các ngài đă an tọa, th́ những thức ăn bắt đầu xuất hiện, Bữa ăn rất giản dị, nhưng rất ngon lành, gồm có bánh ḿ, rau đậu và trái cây.
Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị dành cho những người tới dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiến bổn xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho chúng tôi nghe. Đức bà Mă Ly nói sau cùng. Bà nói tiếng Anh hoàn hảo, bằng một giọng trong suốt và rơ ràng. Dưới đây là những lời của bà:
- Hằng ngày chúng tôi thường sử dụng những mănh lực mà người đời chế diễu và nhạo báng. Có đặc ân được tiếp nhận và sử dụng những mănh lực ấy, chúng tôi cố gắng tận t́nh để chỉ dẫn cho người đời được biết. Bằng những tư tưởng của họ, người thế gian gạt bỏ ngoài đời những sự việc toàn hảo vốn nằm trong tần tay họ và chỉ đợi họ ra tay để nắm lấy. Khi nào người ta thu đạt được những mănh lực ấy, th́ chúng nó sẽ trở nên vô cùng chân xác và sống động hơn là những của cải vật chất mà họ bám víu lấy một cách tuyệt vọng thay, bởi v́ họ có thể nh́n thấy, và cảm xúc được những thứ này bằng những giác quan vật chất hữu hạn của họ.
Các bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả những tiện nghi trong gian pḥng này và những pḥng của các bạn cư ngụ, như ánh sáng, nhiệt lực, và thậm chí những thức ăn mà các bạn dùng, đều do sự tác động của mănh lực ấy mà có. Các bạn gọi nó là tia sáng hay là ǵ, tùy ư. Chúng tôi tiếp nhận nó như một quyền năng lớn của vũ trụ. Khi người ta tiếp xúc với mănh lực ấy, th́ nó tác động một cách vô cùng hữu hiệu cho họ hơn là nhiệt lực, điện khí, dầu hỏa hay than đá. Tuy nhiên, chúng tôi coi nó như là một trong những nguồn lực thấp kém nhất trong những nguồn tinh lực thiên nhiên.
Mănh lực ấy không những chỉ cung cấp tất cả mọi vận động lực hữu ích cho con người. Nó c̣n cung cấp nhiệt lực cần thiết cho mọi nhu cầu của họ, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, mà không tiêu thụ một mảy may nhiên liệu. Nó vốn hoàn toàn im lặng, và khi người ta sử dụng nó, nó loại trừ một phần lớn những tiếng ồn ào và sự loạn động mà hiện nay dường như không thể tránh khỏi. Nó ở trong tầm tay bạn, ở chung quanh bạn; và chỉ đợi chờ bạn sử dụng. Khi bạn dùng nó, bạn sẽ thấy nó vô cùng giản dị hơn hơi nước hay điện lực rất nhiều.
Khi người đời đạt tới mức đó, họ sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và phương thức vận chuyển mà họ đă phát minh chỉ là những sản phẩm của những quan niệm vật chất của họ. Họ tưởng rằng chính họ sản xuất ra những máy móc ấy và bởi vậy họ chỉ có thể tạo nên những đồ vật hữu h́nh hữu loại và bất toàn. Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ Thượng Đế, và ngài tự biểu lộ qua con người, th́ họ chỉ có sản xuất nên những đồ vật toàn hảo. Tuy nhiên trong việc sử dụng tự do ư chí, họ đă chọn lựa con đường chông gai trắc trở thay v́ hiểu rơ sự liên hệ của ḿnh với Thượng Đế và sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Ngài ban cho. Họ sẽ tiếp tục con đường ấy cho đến khi họ nhận thức rằng phải có một con đường khác tốt đẹp hơn, và con đường này quả thật là có. Sau cùng họ sẽ biết rằng con đường của Thượng Đế là con đường tốt lành duy nhất. Chừng đó con người sẽ biểu lộ đức toàn mỹ toàn thiện mà Thượng Đế muốn thấy y biểu lộ ngay từ bây giờ.
"Các bạn có thấy chăng là các bạn phải tập trung vào đấng Thượng Đế vốn có ở tự nơi ḿnh, thu nhập từ nơi Ngài những ǵ là tốt lành, và do Chân Ngă thiêng liêng, vận chuyển tất cả những mănh lực tự nhiên của ḿnh."
Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi rằng những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của chúng ta. Đức bà Mă Ly đưa tay ra, và lúc sau đó một vật nhỏ xuất hiện trên tay bà. Bà nói:
- Tôi bỏ một viên đá sỏi trong cái chén nước lạnh này. Viên sỏi rơi xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là cái giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo con mắt phàm nh́n thấy, th́ những gợn sóng này gần như mất trớn và ngừng lại. Thật ra khi những gợn sóng đụng vào vành chén th́ nó dội ngược lại trở về điểm mà viên sỏi nhỏ rơi xuống nước ở giữa chén và chúng không hề ngừng nghỉ trước khi đạt tới điểm đó. Đó là cái h́nh ảnh đúng đắn của tất cả những tư tưởng và lời nói mà chúng thốt ra. Tư tưởng và lời nói làm vận chuyển vài loại âm ba phóng ra xa theo từng ṿng tṛn mỗi lúc càng lớn dần cho đến khi chúng bao trùm khắp vũ trụ. Kế đó chúng dội trở lại người nào đă phát ra chúng. Tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta, dù tốt hay xấu, sẽ dội ngược trở lại chúng ta một cách chắc chắn những tư tưởng hay lời nói ấy...
Chúng tôi là những người đă tinh luyện thể xác đến mức có thể di chuyển đến nơi nào tùy ư, có cái đặc ân nh́n thấy cơi Thiên Giới và ở lại đó. Nhiều người được biết cơi ấy dưới danh từ "Cơi Trời thứ bảy," và coi nó như điều bí mật nhất trong các điều bí mật. Ở đây cũng vậy, người đời đă lầm, Không là điều bí mật cả. Chúng tôi chỉ có đạt tới một cơi giới tâm thức nhờ đó chúng tôi trở nên thụ cảm đối với những giáo lư cao siêu nhất. Chính tại đó mà ngày nay đức Jesus đang ở.
"Đó là một cơi tâm thức tại đó chúng tôi biết rằng khi ta gạt bỏ sự chết, chúng ta có thể trở nên bất tử. Tại cơi ấy, con người vốn bất tử, trong sạch không tội lỗi, trường cửu, bất biến, giống như Thượng Đế. Đó là những nơi mà chúng ta biết ư nghĩa thật sự của sự Biến H́nh (Transfiguration), mà chúng ta có thể cảm thông với Thượng Đế và nh́n thấy Thượng Đế diện đối diện. Mỗi người có thể đến đó và trở nên giống như chúng tôi. Không bao lâu, trạng thái tâm thức sẽ vượt lên tới một cơi giới tại đây chúng tôi có thể nói chuyện một cách b́nh đẳng với nhân loại và nh́n họ ngay vào tận mắt. Sự vô h́nh của chúng tôi chỉ là sự nâng cao tâm thức chúng tôi vượt lên trên b́nh diện của thế tục. Chúng tôi chỉ vô h́nh vô ảnh đối với những người trần gian mà thôi..."
Đức bà Mă Ly nói vừa dứt lời, th́ khúc hợp ca vô h́nh lại bắt đầu trổi lên. Lúc ấy là đúng nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đă bắt đầu. Như thế chấm dứt năm đầu tiên trong thời gian mà chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc Chân Sư huyền diệu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 325 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 3:19am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG NĂM
1. Một Ngôi Đền Đục Trong Hang Núi
Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự ǵ sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đă qua của ḿnh chỉ là những bước đầu trên con đường ḿnh sẽ đi qua.
Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đă gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xă giao thường lệ, người ấy nói:
- Các bạn đă đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đă cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Chúa Trời các bạn ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mời các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này.
Chúng tôi được cho biết rằng người ta phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng ấy để "Ăn hàng". Làng này cũng bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đă tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền.
Các vị Chân Sư đă sở hữu ngôi đền này cho do dân làng chuyển nhượng lại để ǵn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quư vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đă chấm dứt, dân làng không c̣n bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống b́nh yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals, cũng gọi là các "Huynh đệ Thánh Thiện", đă xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ d́u dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đă có từ ba muơi lăm ngàn năm về trước. Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đă có từ bốn mươi lăm ngàn năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền là những bản chánh, v́ nhiều tài liệu đă được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được giữ ǵn an toàn. C̣n những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đă có từ thời đại của Osiris và của châu Atlantide. Những khách viếng thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị Chân Sư đă có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự.
Người khách lạ nói tiếp:
- Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đă thuộc về dĩ văng, không c̣n trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là trong tư tưởng, do những công tŕnh đă thực hiện. Một trang trong quyển lịnh đời của chúng ta đă được xé bỏ. Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đă thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công tŕnh thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở lên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn. Các bạn nghĩ rằng: "Làm sao được như vậy?" Chúng tôi đáp: "Các bạn hăy tự t́m ra những kết luận của ḿnh, các bạn hăy chọn lựa cách sống riêng của ḿnh."
Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:
- Chúng tôi ước mong được thấy và biết.
Người lạ mặt nói tiếp:
- Kể từ bây giờ, có những bài học đúng đắn cho những kẻ không nh́n thấy, không biết, không hiểu ư nghĩa về mục đích cuộc sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.
Kế đóm người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:
- Các bạn đă bày tỏ ư muốn được thấy và được biết. Nh́n các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: "Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, th́ Ta luôn luôn có mặt bên họ."
Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn ḿnh trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính. Những pháp môn tu luyện đó đă từng có bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lư của đức Jesus, trong khoảng vài năm mà ngài xuất hiện ở thế gian, đă đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.
Người ta biết rằng đức Jesus đă từng thấu triệt mọi giáo lư, đă vượt qua nhiều cấp bậc Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đă đạt tới giáo lư của Osris. Những giáo lư này được chỉ dẫn cho ngài bởi một vị tư tế đă thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.
Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các v́ vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đă từng được nâng lên một tŕnh độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy tŕ giáo lư của Osris. Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đă xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đă đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đă đi xa những giáo lư của Osris. Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đă tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đă suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong.
Sau khi đức Jesus đă chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ư nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lư Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của đức Jesus về giáo lư nhà Phật mà ngài đă thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đă giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lư. Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó.
Sau khi đă nghiên cứu của giáo lư Phật giáo ở Ấn độ, đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về h́nh thức lễ và giáo điều do người đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế...
Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các vị siêu nhân đă đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc năy lại nói tiếp:
- Không một nhân vật lịch sử nào có thể b́ kịp với đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đă lầm. Đáng lư ra họ nên coi ngài như hiện thân của một lư tưởng, thay v́ tôn thờ ngài như thần tượng. Thay v́ khắc những h́nh tượng để thờ ngài, người ta nên coi ngài như một nhân vật đang sống, v́ hiện nay ngài thật sự đang sống trong chính cái thể xác đă từng bị đóng đinh trên Thập tự giá. Ngài vẫn c̣n sống và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi ngài bị đóng đinh. Sự lầm lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng đức Jesus bị kết liễu cuộc đời trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời của ngài đă diễn ra trong thời gian khi ngài phục sinh. Ngày nay đức Jesus vẫn có thể dạy đạo và chữa bệnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết. Các bạn có thể đến trước mặt ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn. Nếu các bạn t́m ngài, th́ các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của ngài, mà là một người Anh cả luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi ngài c̣n sống trên cơi thế gian phàm tục, ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người có hạn định. C̣n dưới h́nh thể mà ngài khoác lấy hiện nay, ngài có thể tiếp xúc với tất cả với những người nào hướng về ngài. Phải chăng ngài đă nói rằng: "Bất cứ nơi nào có Ta, th́ các người cũng có thể có mặt ở đó?" Câu này phải chăng có ư nghĩa là ngài ở một nơi rất xa, tận trên trời, và các bạn chỉ lên tới đó sau khi đă chết? Không, ngài vẫn ở tại cơi này, là nơi các bạn đang ở, ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn. Ta chỉ có thể cho ngài tự do hành động. Hăy nâng tầm mắt bạn nên cao hơn một chút, hăy bao gồm một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy ngài, miễn là tâm hồn và trí năo bạn hướng đến ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và
nói chuyện với ngài.
Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể ngài, các bạn sẽ thấy những vết thẹo đóng đinh trên Thánh giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc măo gai, nay đă hoàn toàn lành hẳn. T́nh Thương và niềm phúc lạc từ toàn thân ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng ngài quên tất cả, và tha thứ tất cả...
Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm ch́m một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nh́n thấy bao giờ, chiếu khắp gian pḥng. Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không rơ ràng. Sau khi giọng nói trở lên hoàn toàn rơ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như tiếng chuông ngân. Một người trong chúng tôi hỏi:
- Ai nói đó?
Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:
- Hăy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, đức Jesus đó.
Một người trong bọn lại nói:
- Đúng rồi đức Jesus nói đấy.
Khi đó giọng nói tiếp tục:
- Khi tôi nói "Ta là Con Đường, là Chân Lư, là Sự Sống," tôi không có ư đem đến cho nhân loại cái ư nghĩ rằng chỉ có một ḿnh tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất. Khi tôi nói: "Ta là người Con hoàn toàn, người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra," tôi muốn xác nhận với toàn thể nhân loại rằng một trong những người Con của Chúa Trời đă nh́n thấy, hiểu rơ và tuyên bố tính chất thiêng liêng của ḿnnh. Người con ấy thấy rằng cuộc đời ḿnh và những hành động của ḿnh vốn phát sinh từ nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lư Vô Cực của vạn vật. Người tuyên bố ḿnh là đấng Chirst, người con duy nhất do Chúa Trời sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đă tuyên bố. Luôn luôn giữ ǵn cái lư tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của ḿnh, và sau cùng đă đạt được cái mục đích mà người t́m kiếm.
Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi v́ họ đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm màu và những điều huyền bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương yêu với một t́nh bác ái vô biên khôn tả. Tôi không rút lui khỏi họ, mà chính họ đă rút lui khỏi tôi. Họ đă dựng lên những bức màn, những vách tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những h́nh tượng của tôi cùng những người thân của tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều được bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn cách quá xa đến nỗi người đời không c̣n biết làm thế nào để đạt tới chúng tôi nữa. Người ta cầu nguyện và khẩn cầu đức Mẹ mến yêu của tôi và những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đă làm hôm nay đây, th́ họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đă làm. Các bạn nh́n thấy chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết như vậy xiết bao!
Các người đă bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi cuối cùng phải thắng thế. Các người càng làm nhiều h́nh tượng bao nhiêu, th́ các người lại làm cho chúng tôi trở nên xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm tối sâu đậm bao nhiêu, th́ cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn và khó vượt qua bất nhiêu. Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng tôi và nói: "Tôi biết ông", th́ chừng đó mỗi người đều có thể nh́n thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân chúng tôi, v́ chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.
Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đă sống trong h́nh thức hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau cái chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn c̣n tiếp diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không c̣n thay đổi.
Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: "Các người hăy đem y đi và hăy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh giá" tôi không cho rằng Phi Lát đă lầm lỗi. Y không hề biết ǵ về cái diễn biến lịch sử mà y đang dự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực hiện. Y và những người chung quanh y đă đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả những việc đă qua, đă được quên lăng và tha thứ, như các người sẽ thấy trong cuộc hội họp hôm nay.
Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:
- Người anh em này đă cùng tôi đi suốt con đường Đạo. C̣n người kia, y đă trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng như bằng một t́nh thương không kém.
Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức Jesus dạy lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: "Hỡi Phi Lát thân mến." Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ư của cả hai vị.
Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:
- Tôi đă đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày mà tôi đă nhẹ dạ gạ bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ v́ họ muốn trốn tránh trách nhiệm của ḿnh. Nhưng khi chúng ta đă thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi ḿnh càng cố gắng tránh né bổn phận và t́m cách đặt gánh nặng của ḿnh lên vai kẻ khác, th́ cái gánh nặng ấy càng đè nặng trên vai ḿnh. Tôi đă phải mất nhiều năm ray rứt đau khổmới nh́n thấy rơ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đă tỉnh ngộ!
Khi đó, khúc hợp ca vô t́nh trổi lên với một âm điệu du dương khôn tả. Sau vài điệu nhạc, đức Jesus tiến lên và nói:
- Các người có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đă tha thứ từ lâu cho những kẻ đă đóng đinh tôi trên Thánh giá? Kể từ lúc đó, tại sao người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy? Tại sao các người không nh́n thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên Thánh giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những ǵ là trần gian tục lụy?
Khúc ca vô h́nh lại tiếp tục với câu hát:
"Xin ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi ngài là Con của Chúa Trời. Các người hăy nghiêng ḿnh suy tôn ngài, nước Chúa đă được đặt ra cho nhân loại trường cửu đến muôn đời. Thật vậy, ngài sẽ ở bên cạnh các ngài, măi măi..."
Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian pḥng lúc ấy và chúng tôi đă nói chuyện với những người đối thoại. Chúng tôi đă bắt tay chào hỏi và đă chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đă hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đă vây quanh các vị. Sự khác biệt duy nhất giữa các vị và chúng tôi là các vị được bao phủ quanh ḿnh bằng một thứ hào quang đặc biệt. Hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp pḥng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào th́ nó giống như chất bạch ngọc (albâtre). Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành và tỏa ra chung quanh sự nhiệt thành và ấm áp của t́nh thương. Sau khi các vị đă ra đi, gian pḥng dường như vẫn c̣n giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào pḥng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy. Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:
- Gian pḥng này thật là kỳ diệu.
Anh ta đă biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không ai nói thêm điều ǵ nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian pḥng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước ra khỏi pḥng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm chúng tôi cùng đi theo người. Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống pḥng dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi c̣n ngồi nói chuyện đến nửa đêm.
Sau khi các vị quan khách đă ra về, chúng tôi tụ họp chung quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cảm ơn về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:
- Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đă hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ c̣n thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!
Dường như bạn tôi đă thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói ǵ về những cảm nghĩ của ḿnh và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy nơi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa. Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đă xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi lui về pḥng riêng trong đêm đó với ư nghĩ rằng ḿnh đă trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.
2. Tài Liệu Cổ Xưa Đến Bốn Trăm Năm Mươi Thế Kỷ
Sáng ngày hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng không phải là một điều bất thường mà thấy đức Jesus xuất hiện như Ngài đă làm đêm trước. Bà nói rằng Ngài vẫn thường tham dự với bà và các bạn hữu trong công việc chữa bịnh.
Ngày đó, bà chủ nhà và hai bà khác quyết định đến ngôi đền với chúng tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị đau ốm và nhờ bà đến chữa bịnh. Chúng tôi bỏ dở lộ tŕnh và đi theo hai người lạ mặt đến nhà đứa trẻ, th́ thấy em bé ấy thật sự đang đau nặng. Bà chủ nhà chúng tôi liền tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé đặt đứa nhỏ trong ṿng tay của bà. Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn lại một lúc. Sau vài phút, nó ngủ một giấc li b́. Bà chủ nhà mới trả em bé lại cho người mẹ nó và chúng tôi ra đi để đến ngôi đền.
Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều pḥng trong ngôi đền. Trong lúc nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đă đi theo chúng tôi hồi sớm mai là con cháu của một trong các bậc siêu nhân có gương mặt c̣n trẻ mà chúng tôi đă gặp tại làng cũ của Thánh Jean Baptiste ở ngày xưa. Chúng tôi đă gọi vị siêu nhân ấy là vị sư tổ, tác giả các văn kiện cổ xưa. Trái lại, người cháu chắt này già như một ông lăo, điều này làm chúng tôi ngạc nhiên.
Trong khi chúng tôi trở lại gian pḥng thứ nhất, vị trưởng nhóm của chúng tôi hỏi rằng một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng? Bà chủ nhà đáp rằng mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một h́nh thức cầu nguyện, rằng đức Jesus vẫn dùng một h́nh thức cầu nguyện toàn vẹn v́ lời cầu nguyện của ngài luôn luôn được đáp ứng. Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. Bà chủ nhà nói tiếp:
- Định luật ấy là như vầy: Lời cầu nguyện được đáp ứng là tùy theo đức tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều ǵ khi bạn cầu nguyện, bạn hăy tin rằng bạn đă nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có.
Nếu chúng ta biết chắc rằng những ǵ ta cầu xin đă được ban cho ta, chúng ta cũng biết rằng chúng ta đă hành động đúng luật. Và nếu điều mong ước được thực hiện, chúng ta biết rằng luật đă ứng nghiệm. C̣n nếu điều ta ước mong không được đáp ứng, th́ ta biết rằng chúng ta đă cầu nguyện trái phép. Lỗi ấy không phải ở nơi Trời, mà ở nơi chúng ta. Trong trường hợp đó, th́ đây là điều răn:
"Các bạn hăy kính yêu Thượng Đế với tất cả tấm ḷng thành, với tất cả linh hồn, tất cả sức mạnh, tâm tư và trí năo của bạn. Bây giờ, bạn hăy đi sâu vào tâm hồn bạn, không thành kiến, không sợ hăi, và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự do và biết ơn, và biết rằng những ǵ bạn cần dùng, những ǵ bạn cầu mong, bạn đă được rồi đấy."
Cái bí quyết là hăy nâng tâm hồn lên cho ḥa nhịp với Thượng Đế. Kế đó, phải giữ nguyên trạng thái đó không cho suy chuyển một ly, dầu cho ta có gặp phải sự chống đối của toàn thể thể thế giới. Đức Jesus nói:
- Riêng ta, ta không thể làm ǵ được. Đức Chúa Cha ngự nơi ta đă làm tất cả mọi việc.
Các bạn hăy có đức tin nơi Thượng Đế, đừng nghi ngại, đừng sợ sệt. Các bạn hăy nhớ rằng quyền năng của Thượng Đế không giới hạn. Tất cả mọi việc, ta đều có thể làm được.
3. Đức Jesus Xuất Hiện
Trong nhiều ngày liên tiếp, suốt hai tháng trường chúng tôi nghiên cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa sắp thành hàng trong một pḥng kín của ngôi đền. Những bia đá này có khắc những cổ tự và những h́nh biểu tượng hàm xúc nhiều ư nghĩa thâm sâu. Ông lăo đi theo chúng tôi giảng giải cho chúng tôi nghe những ư nghĩa của các bia đá cổ. Một ngày nọ vào ngày tháng Ba, như thường lệ chúng tôi đến gian pḥng nói trên và thấy ông lăo nằm yên bất động trên tấm nệm, dường như người ngủ, Một bạn tôi bước đến gần, đặt nhẹ một bàn tay trên ḿnh ông lăo để đánh thức ông dậy, nhưng đều thụt lùi lại và hoảng hốr kêu:
- Ông ta không c̣n thở, hay là ông ấy đă chết rồi!
Chúng tôi tựu lại quanh tấm nệm với ư nghĩ là ông lăo đă chết nên không để ư đến việc ǵ xảy ra và có ai bước vào pḥng. Bỗng một tiếng "Chào các bạn" kéo chúng tôi ra khỏi cơn mơ. Chúng tôi quay lại phía cửa vào và thấy đức Tuệ Minh. Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, v́ chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số. Trước khi chúng tôi định tĩnh tinh thần, ngài đă bước tới gần và bắt tay chúng tôi.
Sau một lúc hai người chúng tôi lui ra sau và đức Tuệ Minh bước tới gần tấm nệm. Đặt một bàn tay trên trán ông lăo, ngài nói:
- Đây là một huynh đệ thân mến của chúng ta vừa mới từ giă cơi đời và bỏ dở công việc của y đang làm. Các bạn nghĩ rằng y đă chết. Ư tưởng đầu tiên của các bạn là t́m một người đào huyệt, mua một cỗ quan tài, và xây cho y một ngôi mộ để cho y yên giấc ngh́n thu. Hỡi các bạn, hăy suy nghĩ trong một lúc. Ngày xưa đức Jesus đă kêu gọi đến ai khi ngài nói: "Hỡi Chúa Cha, con xin tạ ơn chúa đă nghe lời cầu nguyện của con?" Ngài không kêu gọi đến cái phàm ngă, cái lớp vỏ bên ngoài. Ngài nh́n nhận và kêu gọi đến Chân Ngă, tức Đại Ngă vô biên, vốn tàn năng, vốn nghe, biết, và nh́n thấy tất cả, tức là đức Thượng Đế toàn thông và hiện diện ở khắp mọi nơi. Đức Jesus chủ ư đến diều ǵ khi ngài đứng bên cạnh nắm mồ của Thánh Lazare? Phải chăng ngài làm như các bạn là nh́n vào lỗ huyệt đào, và thấy xác thể thánh Lazare đang chương śnh và sắp tan ră? Không. Khi mà các bạn chỉ nghĩ đến người chết, ngài nghĩ đến người sống, là Con duy nhất của Chúa Trời. Nhăn quang của ngài trụ vào sự sống trường cửu, bất biến hiện diện khắp nơi và thấm nhuần tất cả mọi vật. Bây giờ, với tầm nhăn quang của chúng ta cương quyết nhắm vào sự hiện diện hằng có của Thượng Đế, chúng ta có thể nh́n thấy hoàn tất công việc của người huynh đệ thân yêu này, y đă không bao giờ tuyệt đối trông cậy nơi Thượng Đế. Y đă trông cậy một phần vào sức ḿnh và đă đi đến trạng thái hiện tại mà các bạn đă thấy. Y đă bỏ cuộc Chúa Trời. Y đă phạm vào điều lầm lạc mà nhiều người trong các bạn đang làm hiện thời, điều lầm lạc mà các bạn gọi là sự chết. Người huynh đệ thân yêu này đă không có khả năng từ bỏ sự nghi ngờ và sợ sệt. Y đă cậy nơi sức ḿnh và không thể hoàn tất công việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải làm. Nếu chúng ta cứ để y nằm yên như thế, thể xác y sẽ tan ră. Y sẽ phải trở lại cơi trần để hoàn thành công việc thế gian mà y làm chưa xong. Thật ra, công việc ấy đă gần xong đến nỗi chúng ta có thể giúp y hoàn tất chu đáo. Chúng ta cho rằng thật là mợt vinh dự lớn lao mà có thể giúp đỡ y trong trường hợp này. Các bạn đă hỏi rằng y có thể nào thức tỉnh dậy và sống lại như mọi người hay chăng? Có, y có thể, và tất cả những người đă chết như y đều có thể sống lại. Mặc dầu các bạn cho rằng y đă chết, nhưng chúng tôi là những người đă từng chia sẽ ít nhiều cuộc đời của y, chúng tôi có thể giúp đỡ y. Không bao lâu y sẽ hiểu và sẽ có thể đem thể xác đi theo với y. Không cần phải bỏ xác cho cái gọi là "Sự chết" và sự tan ră, dẫu rằng sau khi đă làm cái điều lầm lạc lớn lao nói trên...
Đức Tuệ Minh ngừng nói trong một lúc và có vẻ đắm ch́m trong một cơn thiền định thâm sâu. Một lúc ngắn ngủi sau đó, bốn người trong các vị khách gặp nhau trong làng đều bước vào gian pḥng. Các vị bước đến gần nhau, cũng nhắm mắt định thần và đi vào cơn đại định thâm trầm. Kế đó, hai người trong các vị đưa tay ra và mời chúng tôi cùng nhập cuộc. Chúng tôi bước đến gần và khoác tay trên vai nhau, làm thành một ṿng tṛn chung quanh chỗ nằm của xác chết.
Chúng tôi đứng im lặng trong một lúc, kế đó ánh sáng trở lên tỏ rạng hơn trong gian pḥng. Chúng tôi quay lại nh́n thấy đức Jesus và Phi Lát đang đứng cách chúng tôi có vài bước. Hai vị tiến tới và nhập đoàn cùng với chúng tôi. Lại một cơn im lặng thâm trầm tiếp theo sau, kế đó đức Jesus đến gần xác chết, đưa hai tay lên và nói:
- Hỡi các bạn, tôi xin đề nghị với các bạn hăy cùng tôi vượt trong một lúc qua cơi giới bên kia cửa Tử. Cơi ấy không phải là vùng cấm địa như các bạn có thể tưởng. Nếu các bạn cùng với tôi vượt qua cửa Tử và quan sát cơi ấy từ phía bên kia, các bạn sẽ thấy rằng nó sẽ thuần túy tạo nên bởi những tư tưởng của con người. Ở cơi giới bên kia cũng có sự sống, giống như bên này vậy.
Đức Jesus đứng yên một lúc hai tay đưa thẳng về phía trước, và nói:
- Hỡi người anh em và bạn hữu, bạn hiện diện với chúng tôi, chúng tôi cùng hiện diện với bạn, và tất cả chúng ta đều hiện diện chung nhau với Chúa Trời. Sự tinh khiết tuyệt đối, sự bằng an và điều ḥa của Chúa Trời bao phủ và thấm nhuần tất cả. Sự thực hiện điều đó nay đă biểu lộ nơi bạn một cách độc đáo và rơ rệt đến nỗi bạn có thể đứng dậy và được nhận ở một bên đấng Cha Lành. Bạn thân mến, bây giờ bạn đă thấy và biết rằng thể xác của bạn không phải là cát bụi trở về cát bụi, hay nhúm tro tàn hoàn lại đống tro tàn. Sự sống vẫn ở đó, tinh anh và trường cửu. Không cần phải bỏ thể xác cho nó tan ră trong sự chết. Bây giờ bạn đă nhận thức được sự huy hoàng của cơi giới nguyên thủy của ḿnh. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời...
Hỡi quư độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của ánh sáng tràn ngập gian pḥng này bằng ngôn ngữ của trần gian, th́ đó là những danh từ trống rỗng. Khi xác chết bất động ngồi dậy, dường như ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật, thành thử không có vật ǵ phát ra bóng đen, cả thể xác của người chết cũng như của chúng tôi.
Kế đó, những vách tường dường như nới rộng ra và trở nên trong suốt, và sau cùng dường như tầm nhăn quang của chúng tôi phóng vào khoảng không gian vô tận. Không thể dùng danh từ nào để có thể diễn tả sự huy hoàng của cảnh tượng lúc ấy. Khi đó chúng tôi hiểu rằng Thần Chết đă biến mất và chúng tôi đang hiện diện trước Sự Sống trường cửu, huy hoàng.
Người trần gian cũng như chúng tôi chỉ có thể nh́n với đôi mắt kinh ngạc. Trong những giây phút đó, chúng tôi vượt lên cao hơn nhiều những ǵ mà một khối óc giàu tưởng tượng có thể nghĩ về sự mỹ lệ huy hoàng của cơi Trời. Đó không phải là một cơn mơ, mà đó là sự thật. Sự thật ấy có thể vượt khỏi rất xa tất cả những giấc mơ. Ngày hôm đó, ảnh hưởng kỳ diệu của sự mỹ lệ và sự bằng an của cảnh tượng ấy gây ra, cộng thêm với đức tin mà các vị Chân Sư đă gây cho chúng tôi, đă hoàn toàn đưa chúng tôi vượt qua bên kia bức rào ngăn cách giữa sự Sinh và sự Tử. Ngày nay, bức rào ngăn cách đó đối với chúng tôi chỉ c̣n là đồng bằng không chướng ngại. Tuy nhiên, dường như chúng tôi thấy một cách rơ rệt rằng bằng cách này hay cách khác, mỗi người phải tự ḿnh làm sự cố gắng cần thiết để vượt qua những chướng ngại nếu y muốn nh́n thấy sự huy hoàng lộng lẫy của cơi giới vô h́nh.
Mọi di tích của sự già nua đă biến mất nơi Chandersen, mà chúng tôi coi như là đă phục sinh từ cơi chết. Y day lại xác bạn hữu và liền cất tiếng nói. Giọng nói của y hàm xúc một điểm chân thành và hùng dũng:
- Hỡi các bạn, các bạn không thể biết được nỗi vui mừng, sự bằng an và niềm ân huệ lớn lao mà các bạn đă đem đến cho tôi bằng cách đánh thức tôi dậy như các bạn đă làm. Một lúc trước đây, tất cả đều tăm tối. Tôi đang ở đó, ngại ngùng sợ sệt không dám tiến tới và cũng không thể thụt lùi. Tôi chỉ có một cách để bày tỏ những cảm tưởng của tôi. Tôi đang đắm ch́m trong sự tối tăm u ám, th́ bỗng nhiên tôi thức tỉnh, và bây giờ tôi lại ở một bên các bạn.
Kế đó, gương mặt y trở nên sáng lạn với một niềm hân hoan vui vẻ đến nỗi người ta không nghi ngờ ḷng thành thật của y. Y day lại chúng tôi, và nói:
Hỡi các bạn, thật là hân hạnh thay khi tôi nghĩ đến sự kết hợp giữa chúng ta. Các bạn không thể biết được niềm vui của tôi khi tôi bắt tay các bạn. Thật là một niềm phúc lạc mà nh́n thấy và cảm xúc được sự chân thành của các bạn khi các bạn chấp nhận sự can thiệp của những vị cứu trợ cao cả thiêng liêng của tôi! Nếu các bạn có thể nh́n thấy bằng đôi mắt của tôi trong lúc này, các bạn sẽ biết được cái ân huệ mà tôi vừa kinh nghiệm. Niềm vui lớn nhất của tôi là biết rằng được một cách chắc chắn rằng mỗi người trong các bạn sẽ có ngày đạt tới một giai đoạn giống như của tôi và chừng đó sẽ biết được một niềm vui tương tự. Tôi có thể nói rằng thật cũng đáng sống trọn một cuộc đời để thụ hưởng được một lúc an lạc như thế...
Một lúc sau, Chandersen đă biến mất. Phải chăng đó chỉ là một ảo ảnh? Các bạn tôi đều đồng thanh cho là không, v́ có hai người đă đích thân đến bắt tay đương sự. Tôi để cho quư độc giả quyền tự do phê phán việc ấy.
Khi đó một trong các vị quư khách ở làng ấy day lại chúng tôi và nói:
- Tôi biết các bạn đang có sự nghi nan. Nhưng các bạn nên hiểu rằng tất cả những việc ấy không phải được dàn cảnh để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của chúng tôi. Khi đến một lúc quyết định, chúng tôi có thể thắng đoạt được thời cơ và làm chủ t́nh h́nh. Nếu để riêng một ḿnh y, người anh em này không đủ sức để tự ḿnh vượt qua bức rào chướng ngại. Quả thật, như các bạn đă thấy, y đă chết và bỏ xác nằm trơ. Nhưng mà y đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh khá cao, nên chúng tôi có thể giúp y vào lúc quyết định. Trong trường hợp đó, linh hồn đă trở lại, thể xác hoàn thành sự tinh luyện cho nó đến mức toàn hảo, và hành giả có thể đem thể xác y theo đến bất cứ nơi đâu. Sự bất hạnh của người anh nay là do bởi y muốn chết quá! Y đă bỏ xác y lại đúng vào lúc mà chỉ thêm vài bước nữa cũng đủ để cho y vượt qua bức rào ngăn cách và hoàn tất công phu tu luyện đến mức toàn hảo. Thật là một hân hạnh rất lớn cho chúng tôi mà có thể giúp đỡ y trong dịp đó...
Chúng tôi từ từ rút tay lại và đứng yên một phút trong một cơn im lặng hoàn toàn. Một người trong chúng tôi gián đoạn phút im lặng đó bằng một câu:
- Ôi! Thượng Đế toàn năng!
Riêng phần tôi, dường như không bao giờ tôi c̣n muốn nói ǵ nữa. Tôi muốn suy gẫm. Trong một giờ đồng hồ, tôi đă sống trọn một đời người. Chúng tôi tất cả đều ngồi xuống. Vài người trong chúng tôi đă định tĩnh tinh thần trở lại, bèn nói chuyện th́ thầm với nhau.
Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, một bạn tôi bước đến gần cửa sổ nh́n ra ngoài và nói h́nh như có nhiều người lạ mặt đă vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đi ra để nh́n xem. Thật vậy, thật là một điều rất hiếm mà có những người khách lạ đi bộ đến làng vào mùa này, v́ lúc ấy là giữa mùa đông.
Khi đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có đem theo một người, đi lạc trước đó một ngày trong cơn băo tuyết và hầu như đă hoàn toàn bị chết cóng. Các bạn y chở y nằm trên một chiếc cáng và đă đi bộ vượt qua một quăng đường dài đầy tuyết phủ. Đức Jesus bước đến gần, đặt bàn tay trên đầu người ấy và đứng yên trong một lúc. Th́nh ĺnh, người ấy bỏ mền ra và liền đứng dậy. Các bạn y trố mắt nh́n một cách vô cùng kinh ngạc và bỏ chạy trong cơn hoảng sợ. Chúng tôi không thể nào thuyết phục họ quay trở lại. Người chết cóng vừa được chữa khỏi có vẻ hoang mang ngơ ngác. Hai bạn trong nhóm chúng tôi mời y về nhà để nghỉ ngơi một ít lâu. Kỳ dư đều quay trở lại nhà trọ, và chúng tôi thức đến nửa đêm để b́nh luận xảy ra trong hai ngày hôm đó.
4. Tài Liệu Khắc Trên Những Bia Đá Cổ
Câu chuyện xoay chiều đến một điểm, khi đó một bạn tôi hỏi địa ngục ở tại nơi đâu, và ác quỷ có nghĩa là ǵ? Đức Jesus phản ứng mau lẹ đáp:
- Địa ngục và ác quỷ không có nơi chỗ nào nhất định ngoài ra trong tư tưởng phàm tục của người đời. Cả hai đều ở đúng vào nơi mà con người đặt ra cho chúng. Các bạn là những người có học thức, các bạn có thể nào t́m thấy chăng một vị trí địa dư nào cho địa ngục và ác quỷ trên quả địa cầu? Nếu cơi trời là tất cả và bao trùm tất cả, làm sao người ta có thể t́m thấy trong chất dĩ thái bao la một nơi chốn nào nhất định cho địa ngục hay ác quỷ? Nếu Chúa Trời là tất cả mọi nơi và cai quản tất cả moi sự, th́ c̣n có chỗ nào đâu nữa cho địa ngục hay ác quỷ trong cái thiên cơ toàn diện của ngài? Bây giờ chúng ta đă lục soát khắp cả vũ trụ và không t́m thấy chỗ nào là nơi trú ẩn của ác quỷ. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải nh́n nhận rằng ác quỷ ở chỗ nào có người ta và nó chỉ có những quyền năng mà người đời đă gán cho nó. Các bạn tưởng tượng rằng tôi có thể đuổi tà ra khỏi bất cứ một người nào, rồi sau đó để cho nó nhập vào một bầy heo, rồi bầy heo này sẽ đâm đầu xuống biển? Tôi không hề thấy tà ma hay quỷ quái nhập vào một người nào, trừ phi người ấy đă tự ư đem nó vào ḿnh. Cái quyền năng duy nhất của tà ma mà tôi nh́n nhận thấy là cái quyền năng mà chính người đời đă gán cho nó.
Một lúc sau, câu chuyện xoay chiều đến vấn đề Thượng Đế, và một bạn tôi hỏi:
- Con muốn biết Chúa Trời là ai và bản chất thật sự của Ngài là như thế nào?
Đức Jesus đáp:
- Tôi hiểu tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Anh muốn xác định vấn đề ấy cho rơ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái ngược. Người ta không t́m đến nguồn gốc của danh từ. Thượng Đế hay Chúa Trời là cái nguyên lư cai quản mọi vật. Cái Nguyên Lư nó ngự trị trong một sinh vật là Tinh Thần, và Tinh Thần vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Chúa Trời là Tư Tưởng duy nhất của cái nguyên nhân trực tiếp và chỉ đạo của tất cả mọi sự tốt lành ở quanh chúng ta. Chúa Trời là nguyên nhân của mọi sự sống mà ta thấy ở chung quanh ta. Chúa Trời là nguồn gốc của t́nh Bác Ái bao la nó duy tŕ và hợp nhất tất cả mọi h́nh thể sinh hoạt. Chúa Trời hay Thượng Đế là một cái nguyên lư vi diệu, chớ không phải là một đấng có cá thể riêng biệt. Chúa Trời không bao giờ là một nhân vật riêng rẽ, trừ phi khi nào người trở nên là một đấng Cha Lành, đầy t́nh thương và có cá tính đối với quan niệm riêng của mỗi người. Thật vậy, đối với mỗi người, Chúa Trời có thể trở nên một bậc Phụ Mẫu, đầy Bác Ái và ban rải tất cả. Chúa Trời không bao giờ là một đấng Cao Cả ngự trị ở một nơi nào đó trên trời, ở một cơi giới gọi là Thiên Đàng, nơi đó ngài ngồi trên một chiếc ngai vàng và xử xét người đời sau khi họ chết. V́ Chúa Trời là sự sống vậy, và sự sống không bao giờ mất. Cái h́nh ảnh nói trên chỉ là một quan niệm sai lầm nảy sinh trong trí của kẻ ngu dốt.
Điều ấy cũng áp dụng cho nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể nhận thấy trên thế gian ở chung quanh ta. Chúa Trời không phải là một vị Quan Ṭa, hay một ông vua, có thể áp đặt sự hiện diện của Ngài đối với con người, và đem người đời xét xử trước một ṭa án cộng lư. Chúa Trời là một đấng Cha Lành đầy bác ái và giàu ḷng quảng đại, mở rộng hai tay mừng đón khi bạn tiến đến gần Ngài. Ngài không cần biết bạn là ai trong hiện tại hay trong quá khứ. Bạn luôn luôn là con của Ngài, nếu bạn t́m đến Ngài với tấm ḷng thành và với mục đích chân thật, dẫu rằng bạn đă có lúc bỏ nhà đi hoang và đă mỏi mệt trên con đường lầm lạc sa ngă. Bạn luôn luôn có thể lại quay trở về nhà của đấng Cha Lành với niềm tin tưởng chắc chắn về một sự tiếp đón đầy hảo ư. Bữa tiệc liên hoan luôn luôn chờ đón bạn ở đó, bàn tiệc luôn luôn được sắp đặt sẵn sàng. Khi bạn trở về, bạn sẽ không nghe một lời trách móc nào của một huynh đệ đă trở về nhà trước bạn.
Các bạn có thể nh́n thấy Chúa Trời và nói chuyện với ngài bất cứ lúc nào, cũng y như bạn nói chuyện với cha mẹ, bạn bè hay thân nhân của bạn. Thật vậy, ngài c̣n gần gũi bạn hơn bất cứ người nào trên thế gian, ngài chăm sóc và ưu ái bạn c̣n hơn bất cứ bằng hữu thân tính nào. Ngài không bao giờ giận dữ hay chán nản. Chúa Trời không hề hủy diệt, sát phạt, gây tổn thương hay làm buồn ḷng một người con nào hay một sinh vật nào của ngài sáng tạo ra. Nếu ngài làm như vậy, ngài đă không phải là Chúa Trời. Một đấng Thượng Đế mà xét xử, sát phạt hay từ chối một sự tốt lành nào đối với những sinh vật hay những đứa con của ngài, chỉ là do tưởng tượng của những triết gia ngu dốt. Các bạn không cần phải sợ sệt đấng Thượng Đế như thế, trừ phi các bạn cố ư muốn làm vậy. Vị Chúa Trời chân chính luôn luôn đưa tay ra và nói: "Tất cả những ǵ Ta sở hữu, cũng là của con." Một thi nhân há chẳng đă nói rằng Thượng Đế với ta c̣n hơn là hơi thở, hay tay chân của ta. Thi sĩ nói câu ấy hẳn là do một nguồn cảm hứng thiêng liêng. Tất cả đều được cảm hứng thiêng liêng khi họ hướng về điều thánh thiện hay công lư. Mỗi người đều có thể được cảm hứng thiêng liêng bất cứ lúc nào nếu họ muốn.
Nhiều vị bạn hữu của tôi cùng đoàn kết với nhau để giúp đỡ thế gian. Đó là công việc làm trong đời của chúng tôi. Có những thời kỳ phải cần huy động tất cả mọi nghị lực của chúng tôi lại với nhau để đánh tan những luồng sóng tư tưởng xấu xa hắc ám, những tư tưởng nghi ngờ, những tư tưởng dị đoan nó suưt nữa đă nhận ch́m toàn thể nhân loại trong vực thẳm. Các bạn có thể gọi đó là những lực lượng tà vậy, bất hảo hay ǵ tùy ư. Theo chúng tôi, những sức mạnh đó chỉ xấu xa hắc ám trong phạm vi mà người đời đă tạo ra nó.
Nhưng ngày nay, chúng tôi thấy một ánh sáng ngày càng tỏ rạng hơn lên, khi mà người ta từ bỏ những điều mê tín dị đoan trói buộc của họ. Sự giải thoát đó có thể làm cho họ đắm ch́m một ít lâu trong chủ nghĩa duy vật. Nhưng điều này giúp cho họ tiến gần mục đích, v́ chủ nghĩa duy vật không gây chướng ngại cho tinh thần bằng sự mê tín dị đoan hay những huyền thoại hoang đường. Cái ngày mà tôi đi trên mặt nước, chắc chắn các bạn tưởng rằng tầm nhăn quang của tôi hướng về chỗ nước sâu, vực thẳm chăng? Không. Tôi chỉ nghĩ đến quyền năng của Chúa Trời, nó thắng đoạt tất cả mọi sự hiểm nguy của vực thẳm. Khi tôi làm như vậy, mặt nước trở nên rắn chắc như đá, và tôi có thể đi trên mặt biển một cách tuyệt đối an toàn.
Đức Jesus ngừng một lúc, và bạn tôi hỏi:
- Thưa Ngài, buổi nói chuyện của Ngài với chúng tôi hôm nay có làm phiền rộ Ngài và làm gián đoạn công việc cao cả của Ngài chăng?
- Các anh không thể là phiền rộn một vị nào trong các bạn hữu của tôi, dẫu rằng trong một lúc, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một người trong nhóm đó.
Một bạn khác nói:
- Ngài là vị Anh Cả của chúng tôi.
- Cám ơn bạn, tôi vẫn luôn gọi các bạn là anh em.
Khi đó, một người trong chúng tôi day lại đức Jesus và hỏi ngài:
- Thưa ngài, phải chăng mọi người đều có thể biểu lộ đấng Chirst tự trong ḿnh?
Ngài đáp:
- Phải, chỉ có một con đường đưa đến sự Toàn Thiện. Con người sinh ra tự Chúa Trời phải trở về với Chúa Trời. Những ǵ xuất xứ từ cơi Trời đều phải quay trở lại cơi Trời. Lịch sử đấng Chirst không phải bắt đầu từ lúc tôi giáng sinh, cũng như không phải chấm dứt khi tôi bị đóng đinh trên Thập Tự Giá. Đấng Chirst vẫn hằng có, khi chúng tôi sáng tạo nên người đầu tiên theo h́nh ảnh của ngài và giống như ngài. Đấng Chirst và người ấy chỉ là một. Tất cả mọi người cùng với người ấy chỉ là một. Cũng như Chúa Trời là Cha của người ấy, th́ ngài là Cha của tất cả mọi người. Trong thời gian trên năm mươi năm sau ngày tôi bị pháp nạn trên cây Thánh Giá, tôi đă sống với những đệ tử và những người thân yêu của tôi. Tôi đă truyền pháp cho họ. Trong thời gian đó, chúng tôi tựu họp nhau trong một vùng hẻo lánh yên tịnh xứ Judée, ở đó chúng tôi được ẩn trú an toàn khỏi bị quấy rầy bởi những kẻ ṭ ṃ mê tín. Chính ở đó nhiều người đă đắc được những quyền năng lớn lao và thực hiện một công tŕnh vĩ đại. Khi đó tôi hiểu rằng bằng cách rút lui một thời gian, tôi có thể tiếp xúc với toàn thể thế giới để giúp đỡ nhân loại. Bởi đó, tôi rút lui và sống ẩn dật. Vả lại, những đệ tử tôi thường ỷ lại nơi tôi nhiều hơn là tự trông cậy nơi sức ḿnh. Để giải thoát họ khỏi thói ỷ lại đó, tôi phải rút lui khỏi tập đoàn họ. V́ có sự liên hệ chặt chẽ giữa họ với tôi, nên phải chăng là họ có thể t́m lại tôi tùy ư muốn...
Các bạn hăy tự coi ḿnh như một phần tử của sự sống vô biên. Các bạn hăy chấp nhận tự hy sinh v́ lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hăy tập làm điều lành mà không cần nghĩ đến hậu quả. Các bạn hăy tập từ bỏ mọi đời sống phàm tục và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất của trần gian. Hăy làm như vậy một cách thoải mái tự do, đó không phải là một sự quên ḿnh hăy cam tâm sống cuộc đời bần cùng khắc khổ. Bạn càng cho ra bao nhiêu những ǵ mà Chúa Trời ban cho bạn, th́ bạn sẽ nhận thấy rằng bạn càng có nhiều hơn để cho ra, dẫu rằng đôi khi dường như bổn phận đ̣i hỏi bạn phải cho tất cả, thậm trí đến cả sự sống. Khi đó, bạn sẽ thấy rằng người nào muốn duy tŕ sự sống của ḿnh sẽ mất nó. Bạn sẽ vui mừng và nhận thấy rằng sự sống mà bạn đem cho kẻ khác, lại chính là sự sống mà chính bạn thu hoạch được. Khi đó bạn sẽ biết rằng nhận lănh, có nghĩa là cho ra một cách rộng răi, phóng khoáng. Nếu các bạn hy sinh cái sự sống hữu h́nh hữu hoại này, một đời sống cao cả hơn sẽ xuất hiện. Tôi bảo đảm với các bạn rằng một đời sống như thế là một sự thực hiện lớn lao không phải cho riêng ḿnh, mà cho tất cả.
Có lúc bạn sẽ có ḷng ưu ái để cảm thông với những nhu cầu cấp bách của thế gian. Khi bạn cảm thấy điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ kẻ đồng loại một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể ban răi nguồn ân huệ thiêng liêng cho những linh hồn khát khao chân lư mà nguồn ân huệ ấy sẽ không bao giờ cạn. Bạn hăy sử dụng khả năng dùng lời thuyết giảng đạo lư để đem nguồn an ủi cho những kẻ t́m đến bạn, để đem sự bằng an và nguồn hy vọng cho những kẻ bịnh tật, những kẻ mệt mỏi, chán nản cuộc sống, tất cả những người bị sự đau khổ của cuộc đời đè nặng lên vai. Bạn có thể thức tỉnh những kẻ mù quáng vô t́nh hay cố ư. Dẫu cho một linh hồn bị sa đọa đến bực nào, y cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn đấng Christ đứng ở bên cạnh y...
Kế đó, đức Jesus nói rằng ngài sẽ đến một nhà huynh đệ khác trong làng ngay chiều hôm đó. Tất cả cử tọa đều đứng dậy. Đức Jesus ban ân huệ cho tất cả chúng tôi, và rời khỏi gian pḥng với hai người khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 326 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 3:30am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG SÁU
1. Một Nền Văn Minh Cổ Xưa Đến Hai Trăm Ngàn Năm
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bắt tay vào công việc phiên dịch chữ cổ tự dùng trong những bản văn kiện và tài liệu cổ. Chúng tôi muốn có sự rơ ràng chính xác tối đa về ư nghĩa của những chữ ấy. Nhờ sự giúp đỡ của bà chủ nhà, chúng tôi học được nhiều về những thánh kinh cổ xưa ấy.
Chúng tôi lao ḿnh vào công việc ấy với tất cả tâm hồn. Một buổi sáng, sau độ hai tuần làm việc, chúng tôi đi đến ngôi đền như thường lệ và thấy ông bạn Chandersen của chúng tôi, là người dường như đă trải qua sự chết và được phục sinh trước đây. Y vẫn mang thể xác bằng xương thịt như mọi người, nhưng những nét mặt của y tuy rằng vẫn y nguyên như cũ, lại không mang dấu vết nào của sự già nua.
Không thể lầm được y với một người nào khác. Khi chúng tôi bước vào pḥng, y đang ngồi ghế bèn đứng dậy và đến gần để bắt tay chúng tôi với những lời chào hỏi mừng rỡ.
Người ta không thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi khi chúng tôi vây quanh chung quanh y và chất vấn y tới tấp. Chúng tôi giống như một đám học tṛ vô kỷ luật. Tất cả đều hỏi y cùng một lượt, không ai nghe được ai, và không có trật tự trước sau ǵ cả! Chắc chắn rằng trong cặp mắt của y, chúng tôi có vẻ như một đám trẻ con vừa chận được một đứa mang tin sốt dẻo, và tất cả đều muốn biết xem đó là việc ǵ! Nhưng sự thật vẫn sờ sờ ra đó. Chandersen đang đứng trước mặt chúng tôi, với giọng nói và những nét mặt đặc biệt của y, nhưng không già chút nào! Thậm chí giọng nói của y cũng đă có được một âm thanh rắn rỏi của người nào vào độ trung niên. Y có dáng điệu của một người linh hoạt, và khỏe mạnh, sáng suốt. Gương mặt và đôi mắt y phản chiếu những nét linh động khôn tả.
Lúc đầu, chúng tôi chỉ có thể so sánh cái thực trạng của y bây giờ với t́nh trạng cũ của y. Trước kia khi chúng tôi mới quen biết y, y là một người già nua lọm khọm, lúc đi đứng phải chống một cây gậy lớn. Y có những lọn tóc dài trắng phau, những bước đi chập choạng, và mộ gương mặt xanh xao hốc hác. Một người trong bọn chúng tôi đă nhận thấy những điểm đó và đă nói:
- Trong số những nhân vật siêu việt kia, đây là một người già đến nổi có lẽ y gần bước qua bên kia cửa Tử.
Lẽ tất nhiên chúng tôi nhớ đến sự biến đổi ly kỳ mà chúng tôi đă chứng kiến cách đây vài ngày. Nhưng sau khi Chandersen th́nh ĺnh biến mất, tất cả những điều ấy đă lùi dần vào quên lăng, v́ chúng tôi tưởng rằng sẽ không c̣n gặp y trở lại. Những diễn biến kế tiếp theo sau đó một cách nhanh chóng, đă đẩy thụt lùi việc này vào dĩ văng đến nổi chúng tôi hầu như đă quên mất đi. Nhưng nay, nó đă xuất hiện trở lại trong kư ức chúng tôi một cách sống động đến nổi làm choi chúng tôi ngạc nhiên vô hạn.
Chandersen đă trẻ hẳn lại một cách không tưởng tượng. Nói đúng hơn, y đă trải qua một sự Biến Thể giống như đấng Christ mà chúng tôi hằng kính yêu rất mực. Xét về dự tương phản rơ rệt giữa h́nh dáng của y trước kia với t́nh trạng của y bây giờ, chắc chắn rằng linh hồn của y cũng đă tái sinh trở lại. Tuy rằng trước đây chúng tôi không có sống chung với y được bao lâu, nhưng sự tiếp xúc hằng ngày giữa chúng tôi với y đă kéo dài khá lâu để cho chúng tôi được biết y như một người đă già. Kể từ hôm ấy, y đă sống chung với chúng tôi trên hai năm, vừa làm người hướng dẫn vừa làm thông ngôn trong chuyến du hành của chúng tôi vượt qua vùng sa mạc Gobi. Nhiều năm về sau, khi vài người trong phái đoàn chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại việc cũ, th́ việc xảy ra sáng ngày hôm ấy là đề tài đầu tiên mà họ nhắc đến trong cuộc nói chuyện.
Khi tôi thuật lại chuyện này, tôi không có ư kể lại tường tận cuộc đàm thoại của chúng tôi từng chi tiết, v́ chúng tôi đă trải qua gần trọn hết hai ngày chỉ để nói chyện mà thôi. Tường thuật từng chi tiết sẽ làm cho độc giả nhàm chán. Bởi vậy, tôi chỉ kể lại những điểm chính trong câu chuyện này. Khi cơn xúc động đầu tiên đă qua, chúng tôi ngồi xuống và Chandersen bắt đầu nói:
- Người ta chỉ cho tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Trong khi những điều đó được giải thích cho tôi, tôi phát hiện rằng tôi có thể bước và cơi trời và cơi ấy vốn ở tại bên trong nội tâm. Bây giờ tôi biết rằng Thượng Đế là sức mạnh duy nhất, vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Những tội lỗi bất ḥa, bịnh tật, sự già nua, chết chóc, đều thuộc về những kinh nghiệm về quá khứ. Bây giờ tôi đă nh́n thấy chân lư và tôi biết rằng tôi đă đi lạc trong đám mây mù của ảo giác. Thời gian và không gian đă hoàn toàn biến mất. Tôi biết rằng tôi sống trong thế giới chủ quan, c̣n cái thế giới hiện tại chỉ thuộc về một thế giới khách quan. Nếu tôi có thể nắm giữ lấy những sự nhắn nhủ thầm kín và những tia sáng mà thỉnh thoảng mà tôi nhận thức được nhờ bởi những giác quan tế nhị của tôi, th́ tôi đă có thể tránh được bao nhiêu những giờ phút đau khổ, hoang mang và mệt mỏi!
Trong thời niên thiếu của tôi, tôi bắt chước phần lớn của nhân loại. Tôi chỉ tin nơi một lối sống, đó là lối sống thụ hưởng khoái lạc trong mọi lĩnh vực. Bởi đó, tôi quyết định sống cuộc đời sung măn, thụ hưởng đến mức tối đa. Tôi lấy sự ích kỷ làm mục đích chính của đời tôi. Tôi sống buông thả theo đủ mọi thứ nhục dục, thú tánh và hoang phí nguồn sinh lực đến mức làm cho thể xác tôi trở thành cái vỏ khô khan trống rỗng như các bạn đă thấy trước đây. Bây giờ, tôi xin tŕnh bày một h́nh ảnh xác nhận việc đó.
Chandersen ngồi im lặng định thần trong một lúc. Không bao lâu, trên một vách tường của gian pḥng hiện ra một h́nh ảnh giống như đă diễn tả trước đây. Đó là h́nh ảnh cái thể xác của y vào thời kỳ mà chúng tôi mới quen biết y, h́nh ảnh một ông già lọm khọm, đi đứng phải chống gậy. Tiếp theo sau đó là h́nh ảnh con người của y bây giờ.
Chandersen nói tiếp:
- H́nh ảnh đầu tiên là của một người đă hoang phí sinh lực của thể xác đến mức chỉ c̣n để lại có cái lớp vỏ khô kiệt. C̣n h́nh ảnh thứ nh́ là của một người đă bảo tồn sinh lực c̣n nguyên vẹn trong thể xác ḿnh. Trong trường hợp của tôi, các bạn nghĩ rằng đó là một sự phản lăo hoàn đồng toàn vẹn và hầu như diễn ra trong khoảnh khắc, điều đó thật đúng. Nhưng tôi nh́n vấn đề dưới một khía cạnh khác. Biết bao nhiêu người cũng có thể có cái dịp may như tôi để nhận được sự giúp đỡ, ḷng ưu ái và sự cứu trợ của những đấng Cao Cả mà chúng ta được biết?
Nếu người đời có thể hiểu rằng sinh lực của họ có hàm xúc một nguồn sinh khí dồi dào mănh liệt như thế nào, họ sẽ cố gắng bảo tồn sinh lực thay v́ hoang phí nó. Nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với việc ấy. Họ tiếp tục sống trong sự mù quáng, hay sự vô minh, cho đến khi Thần Chết đến đem họ đi mất. Các bạn kính trọng tuổi già và coi mái tóc bạc như một cái măo danh dự, điều đó tôi không hề chối căi. Nhưng các bạn hăy thử đi sâu hơn vào vấn đề, để xem đằng nào là đáng được đặt trên đài danh dự hơn: Một đàng là người có những lọn tóc bạc phơ như tuyết, đă gây lên sự già nua lọm khọm cho chính ḿnh do bởi sự vô minh, nếu không là do bởi sự trác táng trụy lạc của thời niên thiếu; và một đàng là người bảo tồn sinh lực, càng ngày càng trở nên mạnh khỏe hơn và dũng mănh hơn, đủ sức trang bị thể chất để có thể đối phó với tuổi già, và nhờ đó làm tăng trưởng thêm sự hảo tâm và ḷng quảng đại của ḿnh? Tôi thú thật là nên có ḷng trắc ẩn và tội nghiệp cho con người đă đi đến cơi chết do sự vô minh. Nhưng ta có thể nghĩ đối với người cũng đi đến một kết quả tương tự, nhưng có đầy đủ tinh thần sáng suốt minh mẫn để thấu đạt chân lư?
2. Cơn Băo Tuyết Trên Vùng Sa Mạc Gobi
Kể từ khi đó, chúng tôi chuyên cần chăm chỉ học chữ cổ tự dưới sự chỉ dẫn của Chandersen. Ngày tháng trôi qua rất mau như thoi đưa. Đến cuối tháng Tư, tức là sắp đến ngày chúng tôi lên đường đi đến đồng sa mạc Gobi, phần lớn các tài liệu cổ vẫn c̣n chưa dịch xong. Chúng tôi tự an ủi với ư nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể trở lại một ngày nào đó để hoàn tất công việc phiên dịch. Các vị Chân Sư đă dịch giúp chúng tôi một phần lớn các tài liệu, nhưng các ngài đ̣i hỏi chúng tôi phải học các chữ cổ tự để có thể tự ḿnh dịch các tài liệu ấy.
Tháng chín năm trước, chúng tôi có hẹn tái ngộ với những nhân viên khác trong phái đoàn tại vùng sa mạc Gobi. Kế đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến địa điểm tọa lạc của ba thành phố cổ xưa nay đă chôn vùi dưới ḷng đất. Vị trí đúng đắn của những thành phố này có ghi trong tài liệu cổ mà chúng tôi chưa được xem, nhưng đă được nghe nói đến. Chúng tôi chỉ có trong tay những bổn sao chép lại các tài liệu đó, nó càng kích động sự ṭ ṃ của chúng tôi. Những tài liệu cổ cho biết rằng thời đại phát triển của những thành phố này được truy nguyên từ trên hai trăm ngàn năm trở về trước. Dân cư ở đó đă từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đă từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đă từng biết các môn nghệ thuật cùng các nghề nghiệp thủ công như rèn đồ sắt và làm đồ vàng bạc. Thơiø đó, vàng ở xứ này rất thông dụng đến nổi người ta dùng vàng ṛng để làm đồ chén dĩa và móng ngựa. Tục truyền rằng người thời ấy có quyền năng chế ngự các sức mạnh thiên nhiên, biết sử dụng những năng lực huyền bí của chính họ. Thật vậy, những huyền thoại đó thật giống một cách lạ lùng với những chuyện trong Thần Thoại Hy Lạp.
Theo các bản đồ chỉ dẫn th́ ngày xưa, đế quốc Uigour gồm các phần lớn Châu Á và Châu Âu đến tận bờ biển Địa Trung Hải của Pháp, với một vùng đồng bằng rộng lớn vô cùng ph́ nhiêu sung túc và rất đông dân cư. Sự khám phá di tích những thành phố cổ của đế quốc ấy chắc chắn sẽ đóng góp một phần rất lớn cho lịch sử nhân loại. Những tài liệu cổ diễn tả đế quốc Uiguor dưới triều đại của bảy vị hoàng đế có những nét huy hoàng lộng lẫy vượt hẳn rất xa xứ Ai Cẩp thời cổ. Dẫu cho trước thời kỳ bảy vị hoàng đế, các bia đá cổ diễn tả xứ ấy như một nước phồn thịnh hơn Ai Cập rất nhiều. Dân tộc xứ ấy đă sống một thời thái b́nh thịnh trị, không hề có chiến tranh, không có các nước chư hầu xưng hùng xưng bá, cũng không có chế độ nô lệ.
Thời gian vẫn tiếp tục qua mau và chúng tôi rất bận rộn lo chuẩn bị cuộc hành tŕnh. Chúng tôi phải đến chỗ hẹn vào tháng năm, tại đó chúng tôi sẽ cụ bị đầy đủ lương thực và đồ vật dụng trang bị để hoàn tất chuyến đi cuối cùng.
Tôi không thể nào diễn tả những sự cảm nghĩ của tôi vào lúc gần đến ngày lên đường. Những giờ phút trong thời gian chúng tôi ở lại đây là những giờ phút thần tiên. Tuy rằng chúng tôi đă ở đây đến trên năm tháng và sống gần các Chân Sư trong suốt thời gian đó, thời giờ đă trôi qua rất mau và năm tháng đó đối với chúng tôi dường như chỉ có năm ngày. Một thế giới lạ lùng đang chờ đón chúng tôi, dường như trước mắt chúng tôi là một cái cửa mở rộng để đưa chúng tôi vào một cơi giới huyền linh với những sự diễn biến không có giới hạn. Mỗi người trong chúng tôi có cảm giác rằng ḿnh chỉ cần vượt qua các cửa đó, nhưng lại do dự, cũng như chúng tôi cảm thấy phân vân lưỡng lự khi phải từ giă các bậc siêu nhân cao khiết mà chúng tôi tôn kính như bậc Anh Cả.
Tôi nghĩ rằng trong đời của mỗi người trần gian sẽ có lúc mà y có thể nh́n thấy cái cửa mở rộng cũng như vào cái ngày đẹp trời tháng tư năm ấy chúng tôi đă thấy rơ trước mắt những viễn ảnh vô biên mà người ta có thể đạt tới. Tôi yêu cầu quư vị độc giả hăy tạm thời bỏ qua tất cả mọi thành kiến của ḿnh, và nếu có thể, quư vị hăy nh́n xuyên qua cặp mắt của chúng tôi. Tôi không ước mong quư vị tin tưởng điều ǵ cả. Tôi chỉ yêu cầu quư vị hăy hiểu rơ sự khác biệt giữa sự diễn tả cuộc đời của các Chân Sư với việc ngồi dưới chân các ngài để nghe các ngài dạy bảo. Dường như nếu chúng ta dám táo bạo tiến tới để vượt qua cái cửa mở rộng nói trên, chúng ta sẽ có thể thực hiện mọi điều mong ước. Tuy thế, chúng ta lại do dự. Tại sao? Đó là bởi v́ chúng ta không có đức tin tuyệt đối. Chúng ta để cho những ư nghĩ truyền thống thủ cựu kéo ta thụt lùi lại phía sau và đóng sầm cái cửa kia lại. Rồi sau đó chúng ta nói rằng cái cửa kia bị đóng lại là do định mệnh, mặc dầu chúng ta biết quá rơ rằng định mệnh của mỗi người chỉ tùy ở tự nơi ḿnh.
Đây là những người tốt lành, sống giản dị nhưng lại là những người phi thường, trong số đó có nhiều người đă vượt qua cái cửa ngơ đó từ nhiều thế hệ đă qua và có lẽ không biết tự bao giờ. Họ sống cuộc sống tâm linh. Họ không tuân theo truyền thống hay quy luật nhất định nào, mà chỉ sống một cuộc đời lương thiện và trong sạch, một cuộc đời toàn vẹn đáng sống, với hai chân chồng vững trên mặt đất. Tôi để cho quư vị độc giả hăy tự so sánh. Chúng tôi do dự không muốn từ giă các siêu nhân quư mến mà chúng tôi từ sát cánh một cách chặt chẽ trong những tháng vừa qua, tuy vậy chúng tôi lại háo hức nh́n về tương lại, v́ biết rằng c̣n những kinh nghiệm khác đang chờ đợi chúng tôi.
Bởi vậy, chúng tôi từ giă các vị siêu nhân vào một buổi sáng đẹp trời tháng Tư. Các vị thân mật bắt tay chúng tôi và thành thật mời chúng tôi trở lại khi có dịp. Chúng tôi vái chào các vị một lần cuối và đi về hướng bắc để vượt qua sa mạc Gobi. Những câu chuyện phiêu lưu nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi nghe nói đă từng sảy ra ở vùng này luôn ám ảnh chúng tôi như những viễn ảnh đen tối. Tuy nhiên chúng tôi không sợ v́ có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi theo chúng tôi và Chandersen th́ thay chỗ Nê Bưu.
Đối với chúng tôi là những người đă từng đi du lịch nhiều nơi, việc tháp tùng theo đoàn người đi trên sa mạc là một việc thông thường hằng ngày. Tôi chắc rằng tất cả các đoàn viên trong nhóm chúng tôi đều sung sướng ra đi trong cuộc phưu lưu đầy hứa hẹn này. Tất cả đều biết rằng một thế giới mới đă bắt đầu xuất hiện trước mắt chúng tôi. Mỗi người đều biết rơ sự xa xôi hẻo lánh và cô lập của vùng sa mạc và biết rơ những nguy cơ có thể xảy đến trong những cuộc du hành thuộc loại này. Tuy nhiên, một mănh lực huyền bí không cưỡng lại được đă thúc đẩy chúng tôi tiến bước. Đức tin tuyệt đối nơi các vị siêu nhân đă giúp chúng tôi dứt bỏ mọi ư nghĩ sợ sệt hay lo ngại những sự khó khăn xảy đến, và chúng tôi lao ḿnh vào cuộc phưu lưu với một sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ.
Chúng tôi đă từng quen thuộc với những vùng hẻo lánh nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ chúng tôi có kinh nghiệm về một xứ xa xôi và cô lập như vùng này. Tuy nhiên, chúng tôi có thể du lịch nơi đây một cánh tự do và dễ dàng khác thường. Quư độc giả sẽ không ngạc nhiên về sự yêu thích của chúng tôi đối với xứ này và đối với các vị ân nhân của chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác ḿnh có thể đi lên hướng Bắc đến khi vượt qua khỏi vùng Bắc Cực và chinh phục luôn cả.
- Ồ;! Nếu chúng Ai Cập có thể như các vị siêu nhân, th́ chuyến đi này sẽ dễ dàng xiết bao! Nhưng chúng ta lại bắt buộc các vị cùng đi bộ một cách nặng nề chậm chạp như chúng ta chỉ v́ chúng ta không thể bắt chước các ngài!
Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến cuối ngày thứ bảy của cuộc hành tŕnh. Chiều hôm ấy, vào khoảng năm giờ. Chúng tôi vừa ra khỏi một khe núi sâu thẳm th́ một đoàn viên báo tin có nhiều kỵ mă ở đằng xa. Chúng tôi lấy ống ḍm mà xem và đếm tất cả hai mươi bẩy người kỵ mă dường như có mang đầy đủ khí giới. Chúng tôi liền báo cáo với Dật Sĩ. Anh ta đáp rằng có lẽ đó là đoàn người du mục thường có ở vùng này. Chúng tôi hỏi y phải chăng là bọn cướp. Y đáp rằng có thể như vậy, v́ bọn chúng không có dắt theo một đoàn cừu hay dê nào.
Chúng tôi rời khỏi đường ṃn và tiến tới một cḥm cây rậm rạp, tại đây chúng tôi cắm trại để nghỉ ban đêm. Trong khi đó, hai người trong nhóm chúng tôi vượt qua một gịng suối gần nơi cắm trại và bước lên một ngọn đồi, từ đó họ có thể nh́n thấy vùng đồng bằng ở chỗ chúng tôi đă khám phá ra đoàn kỵ mă. Khi lên tới đỉnh đồi, họ ngừng lại và soi ống ḍm rồi hối hả trở về trại. Khi họ về gần tới, họ loan báo rằng đoàn kỵ mă ở cách đây không xa hơn năm cây số và đang tiến về phía chúng tôi.
Ngay khi đó, một người trong nhóm chúng tôi nói rằng một cơn giông băo sắp thổi đến. Chúng tôi nh́n lên trời, th́ quả thật thấy hai đám mây u ám nặng nề đang kéo về phía tây bắc, đồng thời một đám sương mù từ bốn phía áp lại gần chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy rất băn khoăn lo ngại, v́ bây giờ chúng tôi có thể nh́n thấy đoàn kỵ mă đang tiến, thẳng về phía trại chúng tôi. Tuy nhóm chúng tôi có tất cả ba mươi hai người, chúng tôi không có một khẩu súng nào, và điều này làm chúng tôi rất lo lắng.
Không bao lâu, cơn băo tuyết thổi đến chúng tôi với một tốc độ mănh liệt kinh khủng. Sự lo ngại của chúng tôi mỗi lúc càng tăng v́ chúng tôi đă từng kinh nghiệm sức tàn phá của giông băo trong những vùng sa mạc hẻo lánh như vậy. Trong một lúc, cơn giông với tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ, chứa đầy những mảnh tuyết vụn, quất vào chúng tôi và gầm thét ầm ĩ chung quanh tất cả mọi người. Chúng tôi đang e ngại sẽ bị bắt buộc dời trại di chỗ khác để tránh những cành cây gẫy đồ rơi trên đầu ḿnh, th́ bầu không khí chung quanh trại th́nh ĺnh lắng dịu và trở nên yên tĩnh. Trong một lúc chúng tôi nghĩ cơn băo tuyết có lẽ chỉ có giới hạn trong lúc ngắn ngủi, như thường xảy ra trong vùng này.
V́ bầu trời chưa đến nỗi quá ám, chúng tôi bèn lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng để lập lại trật tự trong các lều trại, và mất độ nửa giờ để làm công việc này. Kư ức về cơn băo tuyết và bọn cướp, nó đă làm cho chúng tôi sợ sệt, nay đă hoàn toàn biến mất ra khỏi đầu óc chúng tôi. Chúng tôi ngừng tay trong một lúc, và vị trưởng nhóm bước ra chỗ trại. Sau khi đă nh́n ra ngoài, y day lại và nói:
- Cơn băo tuyết dường như đang hoành hành dữ dội ở gần đây, c̣n ở chỗ chúng ta đang ở, th́ chỉ có một cơn gió thoảng nhẹ. Các bạn hăy nh́n xem; lều vải và cây cối chung quanh đây không bị lay động ǵ. Khí trời ấm áp và thoang thoảng mùi hương thơm của hoa cỏ.
Nhiều người trong bọn chúng tôi đi theo y ra ngoài và trong một lúc, đứng lặng người v́ ngạc nhiên. Trong khi chúng tôi lo dọn dẹp đồ đạc bên trong trại, chúng tôi không ư thức được cơn giông băo. Chúng tôi nghĩ rằng nó đă qua và thổi về phía khe núi. Thật vậy, vài cơn băo thổi tạt ngang qua vùng này như một cơn gió lốc. Chúng hoành hành dữ dội trên nhiều cây số đường trường trước khi lắng dịu, và tiếp theo sau đó là một cơn yên tĩnh lạ thường. Nhưng trường hợp này không giống như thế. Cơn băo đang thổi mạnh ở cách chúng tôi độ ba chục thước, nhưng khí trời lại êm ả và ấm áp ở chung quanh chúng tôi. Trái lại, chúng tôi đă từng kinh nghiệm rằng trong cơn băo tuyết tương tự, người ta thường bị lạnh buốt thấu xương, và có thể bị nghẹt thở v́ trong một cơn thịnh nộ gầm thét của vũ băo, những mănh tuyết vụn và bén nhọn bị lôi cuốn theo sức gió và quất mạnh vào mặt mũi ngươi du khách chẳng khác nào như kim đâm.
Th́nh ĺnh, vùng yên tĩnh chung quanh chúng tôi sáng lên dường như bởi một phép lạ. Trong cơn kinh ngạc, dường như chúng tôi nghe có những tiếng người xem lẫn với tiếng gầm thét của cơn giông. Người ta báo hiệu đến giờ ăn chiều. Chúng tôi bước vào lều ăn và ngồi xuống. Trong bữa ăn, môt bạn tôi băn khoăn về số phận của những kỵ mă. Một bạn khác nói:
- Chúng tôi nghe dường như có tiếng người kêu gọi khi chúng tôi bước ra ngoài trại. Chúng tôi có thể nào cứu giúp những người kỵ mă hay chăng trong trường hợp họ đi lạc trong cơn băo tố?
Dật Sĩ bèn lên tiếng và nói rằng những người ấy thuộc về một trong những bọn cướp khét tiếng trong vùng. Họ chuyên môn cướp bóc xóm làng, và chiếm đoạt những đoàn dê trừu của dân chúng.
Sau bữa ăn chiều, trong một lúc gió lặng, chúng tôi nghe có tiếng người kêu ngựa hí, cùng với tiếng vó ngựa đạp lộn xộn dường như những người kỵ mă không c̣n làm chủ chúng nó được nữa. Những tiếng động ấy co vẻ như rất gần, nhưng chúng tôi không thể nh́n thấy ǵ cả v́ ban đêm tuyết xuống dày đặc. Chúng tôi không c̣n nh́n thấy một ánh sáng nào của những đèn đuốc và lửa trại.
Sau đó một lát, đức Tuệ Minh đứng dậy và nói rằng ngài phải đi mời những kẻ cướp vào trại, v́ trừ những trường hợp phi thường, không một người hay một con vật nào có thể sống sót đến sáng ngày hôm sau trong cơn băo tuyết.
Thật vậy, không khí ở bên ngoài đă trở lên lạnh buốt vô cùng. Hai người trong bọn chúng tôi t́nh nguyện xin đi theo đức Tuệ Minh, điều này có vẻ làm cho ngài vui ḷng. Ngài nhận lời, và cả ba người đều biến mất dạng trong cơn giông băo. Độ hai mươi phút sau, ba người đă trở lại, cùng với hai mươi tên cướp đi bộ, tay cầm cương dắt ngựa đi theo sau. Những tên cướp này cho chúng tôi biết rằng bảy người đồng bọn của họ đă mất liên lạc với cả đoàn và có lẽ đă đi lạc trong cơn băo tuyết.
Những tên cướp gồm một thành phần hỗn tạp với những gương mặt hung dữ của bọn lục lâm cường đạo. Khi họ bước vào trại có đèn lửa ấm áp, họ có vẻ nghi ngờ rằng chúng tôi gài bẫy để bắt họ. Sự lo âu của họ hiện rơ trên nét mặt, nhưng đức Tuệ Minh bảo đảm rằng họ được tự do ra đi bất cứ lúc nào. Ngài chỉ cho họ thấy rằng nếu họ muốn tấn công chúng tôi, chúng tôi không c̣n một khí giới nào để tự vệ. Tên đầu đảng bọn cướp thú thật rằng đó chính là ư định đầu tiên của họ khi họ vừa nh́n thấy chúng tôi từ trong khe núi đi ra trước cơn giông băo. Sau đó, họ trở nên do dự và đi lạc đến nỗi họ mất phương hướng để trở về trại. Khi đức Tuệ Minh và hai người trong bọn chúng tôi thấy họ, th́ họ đang trú ẩn một bên vách núi ở cách trại chúng tôi có năm chục thước.
Tên đầu đảng bọn cướp nói rằng nếu chúng tôi hất hủi họ, th́ chắc chắn là họ sẽ chết v́ lạnh. Đức Tuệ Minh trấn an họ và nói rằng điều đó sẽ không xảy ra. Bọn cướp bèn cột ngựa vào những gốc cây để nghỉ lại ban đêm, rồi ngồi riêng với nhau ở một góc. Họ bắt đầu ăn thịt dê phơi khô và bơ con yak (một loại ḅ lùn và có sừng lớn ở xứ Tây Tạng) mà họ lấy ra từ trong những bọc da giấu dưới yên ngựa. Trong khi ăn, họ để khí giới trong tầm tay và thỉnh thoảng lại để nghe ngóng mỗi khi có một tiếng động nhỏ. Họ nói chuyện và bộ tịch rất tự nhiên. Dật Sĩ nói với chúng tôi rằng họ lấy làm ngạc nhiên về những đồ trang bị của chúng tôi và về ánh lửa trong trại. Họ tự hỏi tại sao ở đây không có gió lớn, tại sao không khí trong trại rất ấm cúng, và tại sao mấy con ngựa có vẻ ung dung thoải mái như thế?
Một đứa lúc nào cũng nói chuyện huyên thuyên và nói nhiều nhất trong bọn cướp, đă từng nghe nói về các vị Chân Sư. Y nói với những kẻ đồng bọn rằng các vị siêu nhân cũng như thánh thần và có thể tiêu diệt bọn họ tùy ư muốn và mau lẹ trong khoảnh khắc. Nhiều tên khác tưởng chúng tôi âm mưu để bắt sống họ, bèn t́m cách thuyết phục cả bọn đánh cướp tài sản chúng tôi rồi tẩu thoát. Nhưng tên đầu đảng ra lịnh cho họ không được phá phách chúng tôi, và nói rằng nếu họ làm hại chúng tôi, tất cả bọn sẽ bị tiêu diệt.
Sau một cơn thảo luận dông dài, tám tên cướp bèn đứng dậy, bước đến gần chúng tôi, và nói với Dật Sĩ rằng bọn chúng không muốn ở lại thêm nữa. Họ sợ có xảy ra những việc bất trắc và muốn trở về trại của họ ở cuối ḍng sông cách đó vài cây số. Họ đă t́m ra phương hướng nhờ căn cứ vào cái lùm cây to chỗ chúng tôi cắm trại. Họ bèn lên ngựa và bắt đầu đi xuống thung lũng. Sau đó hai mươi phút, tất cả bọn đều quay lại và nói rằng tuyết xuống dày đặc đến nỗi ngựa của họ không thể tiến tới được nữa. Chính họ cũng không thể đương đầu với một cơn băo tuyết này, là cơn băo mănh liệt nhất từ nhiều năm nay. Kế đó, họ t́m chỗ ở ngoài trại để nghỉ lại ban đêm.
Một bạn tôi nói:
- Tuy bọn này làm tôi sợ, nhưng tôi vẫn cảm thấy an toàn hơn ở trong lều so với ở bên ngoài, giữa cơn băo lớn.
Dật Sĩ quay lại chúng tôi và nói:
- Các bạn ở đâu, là nhà của Thượng Đế ở đó. Nếu các bạn ở tại đây, trong trại này, các bạn sống trong niềm vui của Thượng Đế. Sự ấm áp và tiện nghi trong trại có nghĩa ǵ nếu các bạn không ở tại đây, hoặc nếu các bạn không nhận thấy có sự ấm áp và tiện nghi đó? Các bạn có thể tự do mời những người ngoài vào đây. Tuy nhiên, họ không chịu vào, v́ họ không biết tới chỗ ở của các bạn. Mặc dầu họ cảm thấy sự ấm cúng nhưng những người anh em thân mến này không muốn ở lại gần, bởi v́ họ luôn luôn sống bằng nghề cướp bóc. Họ không thể hiểu rằng chính những người mà họ coi như những miếng mồi đương nhiên của họ, lại có thể dành cho họ một sự tiếp đón thân hữu mà không có lư do đặc biệt, và nhất là ḿnh không thuộc về giới lục lâm cường đạo. Họ không biết rằng giữa cơn băo tuyết, lạnh lẽo, hay giữa cơn dày ṿ đau khổ nhất, vẫn luôn luôn có sự hiện diện của Thượng Đế. Không một cơn giông to, gió lớn, hay băo lụt nào có thể làm hại được những người đă đặt sự an toàn của ḿnh trong tay của Thượng Đế. Người ta chỉ bị đắm đuối trong cơn giông gió, băo lụt, khi nào người ta đă mất liên lạc với Thượng Đế. Thượng Đế chỉ có thể thực hiện được những ǵ các bạn hiện đang nh́n thấy, khi nào người ta hướng tầm nhăn quang của ḿnh đến Ngài một cách vững chắc, không hề lay chuyển, đến mức không c̣n biết ǵ và không nh́n thấy ǵ khác nữa ở bên ngoài...
Người ta có thể t́m thấy yên tĩnh thật sự giữa cơn băo tố, v́ sự yên tĩnh chân thật vốn ngự trong tâm hồn của người nào đă t́m thấy Chân Ngă. Trái lại, người ta có thể ngồi ở một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, giữa chốn sa mạc hẻo lánh hoang vu, một ḿnh đối diện với bóng hoàng hôn êm ả và giữa cảnh im lặng của thiên nhiên, nhưng lại bị dày ṿ cắn xé bởi cơn băo ḷng của những đam mê, dục vọng, hoặc bị giao động rung chuyển tâm hồn bởi những sấm sét của sự sợ hăi, kinh hoàng...
Những người này là tàn tích của một dân tộc xưa kia đă từng có một nền văn minh cao cả và thịnh vượng. Tổ tiên của họ cư ngự nơi xứ này vào thời kỳ mà xứ ấy c̣n là một đế quốc kỹ nghệ phồn thịnh, hùng cường. Họ đă từng biết thực hành các môn khoa học và mỹ thuật. Họ cũng đă biết rơ nguồn gốc tinh thần và sức mạnh tâm linh của họ và đă biết tôn thờ sùng kính Thiêng liêng. Về sau đến một thời kỳ họ bắt đầu say mê những khoái lạc vật chất và rơi vào t́nh trạng trụy lạc, sa đọa tâm linh. Khi đó một tiếng động lớn, một cơn thiên tai địa chấn tàn phá và làm sụp đổ tất cả, chỉ c̣n để lại có những bộ lạc sơn nhân miền thượng ở rải rác trên những vùng hẻo lánh. Những bộ lạc sống sót này mới quy tựu thành những cộng đồng sinh hoạt, từ đó mới xuất phát ra những chủng tộc lớn ở Âu Châu ngày nay.
Vùng này là vùng sa mạc Gobi bị cơn địa chấn tàn phá và đưa lên một chiều cao mà không c̣n một loài thảo mộc nào có thể sống được. Dân cư vùng ấy đă hầu như bị hoàn toàn tiêu diệt, đến nỗi chỉ c̣n lại có những cộng đồng hiếm hoi cô lập, và có nơi chỉ c̣n lại có một hoặc hai gia đ́nh. Những cộng đồng này mới tổ hợp lại thành từng đoàn. Đó là tổ tiên của những người dân sống tại nơi đây, họ không thể phát triển để tiến bộ hơn nữa, v́ họ luôn luôn bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tương tàn giữa họ với nhau.
Lịch sử và nguồn gốc của họ đă bị lăng quên, nhưng người ta có thể truy nguyên đến tận nguồn gốc duy nhất của nền tôn giáo và những huyền thoại của họ. Những nền tảng của tôn giáo và huyền thoại này ở đâu cũng giống như nhau, tuy rằng những h́nh thức sắc tướng rất là khác biệt, và có những điểm dị đồng rất lớn...
Đến đây, Dật Sĩ nói y không muốn làm nhàm tai chúng tôi, v́ phần đông các bạn tôi đă ngủ mê. Chúng tôi bèn nh́n về phía bọn cướp. Họ cũng đă ngủ mê, và cũng như chúng tôi, họ đă quên mất cơn giông băo tuy rằng cơn giông băo vẫn tiếp tục hoành hành dữ dội. Chúng tôi bước vào lều để nghỉ ngơi sau khi đă một lần nữa, tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với các vị chân sư cao cả.
Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy, mặt trời chiếu tỏ rạng, cả trại đều rộn rịp. Chúng tôi hối hả thay quần áo và thấy rằng tất cả mọi người, luôn cả bọn cướp, đều sắp sửa chuẩn bị ăn sáng. Trong khi ăn, chúng tôi được thông báo chương tŕnh ngày hôm ấy là lên đường hộ tống bọn cướp trở về trại của họ. Thật vậy, người ta dễ t́m đường khi đi chung với nhau từng đoàn hơn là đi lẻ tẻ. Điều này làm cho bọn cướp hài ḷng, nhưng không làm cho chúng tôi vui, v́ chúng tôi được biết rằng ở trại của họ, bọn cướp có đến một trăm năm mươi người. Khi chúng tôi điểm tâm xong, th́ mọi vết tích của cơn băo đă biến mất. Chúng tôi bèn dỡ trại và cùng đi với bọn cướp, cả người lẫn ngựa, để t́m đường về trại họ.
Trại của bọn cướp ở cách đó dưới hai mươi cây số. Tuy vậy, chúng tôi chỉ đến nơi vào lúc xế chiều, và lấy làm sung sướng mà có thể nghỉ chân tại đó. Chúng tôi nhận thấy trại ấy rất tiện nghi, có đủ chỗ rộng răi để chứa tất cả phái đoàn. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi nhận thấy rằng nên ở lại đó một hai ngày để chờ cho tuyết ém chặt lại. Thật vậy, qua ngày hôm sau chúng tôi phải vượt một truông núi cao gần năm ngh́n thước. V́ thời tiết không tạnh ráo trở lại như chúng tôi mong, chúng tôi phải kéo dài thời gian lưu trú tại đây trong bốn ngày. Dân làng đối xử với chúng tôi một cách tôn kính và cố gắng làm cho chúng tôi được vui ḷng.
Khi chúng tôi lên đường, có hai người đến xin nhập bọn với phái đoàn. Chúng tôi vui vẻ nhận lời, v́ dầu sao chúng tôi cũng phải tuyển mộ một số lao công phụ giúp khi đến làng sắp tới, cách đó độ một trăm cây số. Hai người này tháp tùng đi theo chúng tôi cho đến bận về, vào mùa thu.
Khi chúng tôi rời khỏi làng, gần hết phân nửa dân làng tiễn đưa chúng tôi đến tận đỉnh của truông núi để giúp chúng tôi t́m ra con đường ṃn bị tuyết dày đặc lấp mất cả dấu vết. Chúng tôi rất cám ơn sự cố gắng, khả ái của họ, v́ công việc leo núi thật rất khó khăn. Lên đến đỉnh truông núi, chúng tôi từ biệt các người anh em lục lâm cường đạo và trực chỉ đi đến chỗ hẹn. Chúng tôi đến đây ngày hai mươi tám tháng năm, tức là ba ngày sau những toán đoàn viên bạn, như họ đă gặp chúng tôi tại đây hồi mùa thu năm trước.
3. Những Di Tích Các Thành Phố Cổ
Sau một tuần lễ nghỉ ngơi, chúng tôi tom góp đồ hành trang và toàn thể phái đoàn đều lên đường đi đến chổ địa điểm tọa lạc của thủ đô đế quốc Uiguor thời tiền sử. Chúng tôi đến đây vào ngày Ba mươi tháng Sáu, và bắt đầu ngay công việc đào xới. Giếng đào đầu tiên của chúng tôi chưa sâu tới hai chục thước, th́ chúng tôi gặp phải vách tường của một dinh thự cũ. Chúng tôi đào sâu độ ba chục thước để có thể lọt vào một gian pḥng lớn, tại đây chúng tôi t́m thấy những xác ướp c̣n nguyên vẹn ở tư thế ngồi xếp bằng, gương mặt bao phủ bởi một cái mặt nạ bằng vàng. Tại đó có nhiều pho tượng bằng vàng, bạc, đồng và đất sét, tất cả đều trạm trổ rất đẹp. Chúng tôi đă chụp ảnh tất cả. Khi công việc đào xới đă tiến hành đến mức độ đủ chứng minh một cách thỏa đáng rằng đó thật là những di tích cổ xưa của một thành phố rất lớn, chúng tôi bèn đi đến địa điểm thứ nh́, mà chúng tôi t́m thấy ngay bởi những bút tích diễn tả trên những tấm bia đá cổ đă nói ở trên. Tại đây chúng tôi đào sâu chừng mười hai thước trước khi t́m thấy những di tích chắc chắn của một nền văn minh cổ. Chúng tôi đă làm một công việc khá đầy đủ để chứng minh lại một lần nữa và một cách chắc chắn rằng đó là những di tích điêu tàn của một thành phố cổ. Kế đó chúng tôi đi đến địa điểm thứ ba, tại đây chúng tôi định khám phá những tàn tích chứng minh sự hiện diện của một thành phố c̣n cổ xưa hơn và rộng lớn hơn nữa.
4. Bọn Cướp Núi Và Đoàn Kỵ Mă Cứu Trợ Vô H́nh
Để tiết kiệm thời giờ và tài nguyên, chúng tôi tổ chức thành bốn toán, trong số đó có ba toán gồm một trưởng toán và sáu người phụ tá, tức là mỗi toán có bảy người. Công việc đào xới và bảo tồn các giống đào được giao phó cho ba toán đó, mỗi toán thay phiên nhau làm việc tám giờ mỗi ngày. C̣n toán thứ tư gồm tất cả số người c̣n lại. Toán này có phận sự canh pḥng chung quanh trại và lo việc chu cấp lương thực cho cả phái đoàn. Tôi thuộc về toán đặt dưới sự chỉ huy của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Toán của tôi làm việc từ nửa đêm tới tám giờ sáng.
Sau khi đă đào xong giếng đầu tiên, chúng tôi lọt vào bốn gian pḥng dưới ḷng đất, mà chúng tôi lo quét dọn lại. Sau đó, chúng tôi đă có thể chứng minh rằng đó là di tích của thành phố lớn nhất và cổ xưa nhất trong ba thành phố, và nó chứa đựng rất nhiều kho tàng.
Một buổi sáng, toán công nhân đến thay phiên toán của tôi báo động rằng có nhiều người kỵ mă đang tiến gần đến trại từ hướng bắc. Chúng tôi ngoi lên mặt đất và thấy họ đang tiến về phía chúng tôi. Đó chắc là một đoàn lục lâm cường đạo, v́ rơ ràng là họ noi theo con đường ṃn đă đưa theo chúng tôi đến đây. Trong khi chúng tôi c̣n đang nh́n, th́ Dật Sĩ bước tới và nói:
- Đó là một bọn cướp định đến đánh phá trại chúng ta, nhưng chúng ta không cần phải sợ hăi.
Chúng tôi để cho bọn cướp đến gần. Khi họ đến gần trại c̣n cách chừng năm trăm thước th́ họ ngừng lại. Sau đó một lát, có hai tên cướp tế ngựa lại trại chúng tôi, cất tiếng chào xong rồi liền hỏi chúng tôi đang làm ǵ ở đây. Chúng tôi nói rằng chúng tôi đang thử t́m kiếm những tàn tích của một thành phố cổ. Họ đáp rằng họ không tin như vậy, và nghi rằng chúng tôi là những kẻ đi t́m vàng. Họ toan tính với nhau để đánh cướp những đồ khí cụ trang bị và lương thực của chúng tôi.
Chúng tôi hỏi họ phải là binh lính của chánh phủ không? Họ đáp rằng họ không thừa nhận một chánh phủ nào cả v́ xứ này chỉ có sức mạnh là đáng kể. Nh́n thấy chúng tôi không có vẻ ǵ lo sợ và cũng không có khí giới, có lẽ họ cho rằng chắc là chúng tôi c̣n đông người hơn chứ không phải có bấy nhiêu. Họ bèn quay về bọn cướp để thảo luận kế hoạch. Được mỗt lát, hai tên ấy đă trở lại và nói rằng nếu chúng tôi chịu khuất phục một cách êm thấm, th́ họ sẽ không làm hại ǵ cả. Nếu không, họ sẽ tiến đến và giết chết tất cả những người nào dám chống cự họ. Họ cho chúng tôi mười phút để quyết định, sau mười phút đó họ sẽ tấn công mà không cần phải báo trước. Dật Sĩ đáp rằng chúng tôi không chống cự mà cũng không đầu hàng ai cả; điều này có vẻ làm cho họ nổi nóng. Họ quay ngựa trở về với bọn cướp, và rút súng ra sẵn sàng. Tất cả bọn cướp bèn cho ngựa phóng nước đại tấn công vào trại chúng tôi.
Tôi thú thật là đăsợ hoảng vía. Nhưng ngay sau đó, bỗng xuất hiện nhiều h́nh bóng giống như nhữnh người kỵ mă tế ngựa xung quanh chúng tôi. Những h́nh bóng này càng hiện rơ, trở lên linh động và đông đảo hơn. Bọn cướp cũng đă nh́n thấy điều ấy. Vài tên cướp mau tay giật dây cương quay đầu trở lại. Những con ngựa của vài tên khác sợ hoảng nhẩy chồm lên, ngă quỵ xuống đất và thoát ra khỏi sự điều khiển của chủ chúng nó. Chỉ trong khoảnh khắc, một cơn náo loạn kinh khủng đă diễn ra trong hàng ngũ của bọn cướp gồm bảy mươi lăm người. Bầy ngựa bắt đầu hí vang và ngă quỵ quăng bọn cướp té ngă lổng chổng. Cơn náo loạn kết thúc bằng một cuộc chạy trốn xiểng liểng, trong khi đó những người kỵ mă vừa xuất hiện phi ngựa đuổi theo bén gót.
Khi cơn loạn động đă êm, vị trưởng nhóm, một đoàn và tôi, cùng đi tới chỗ mà bọn cướp bị chặn lại để nh́n xem nhưng không thấy có dấu vết nào ngoài ra những dấu chân ngựa lộn xộn của bọn cướp. Điều này có vẻ là một điều bí hiểm, v́ những người cứu trợ chúng tôi đă xuất hiện rơ ràng thật sự cũng như bọn cướp, và chúng tôi đă nh́n thấy họ đến từ bốn phía. Bởi vậy chúng tôi chắc sẽ t́m thấy trên băi cát những dấu chân ngựa của họ xen lẫn với những dấu vết của bọn cướp.
Khi chúng tôi quay trở lại, Dật Sĩ nói:
- Những người kỵ mă ấy chỉ là những h́nh bóng mà chúng tôi đă làm cho xuất hiện y như thật đến nỗi các bạn và cả bọn cướp đă có thể nh́n thấy. Đó là những h́nh ảnh của quá khứ mà chúng tôi có thể phóng ra một cách linh động đến nỗi nh́n thấy không khác ǵ sự thật. Chúng tôi có thể phóng những h́nh ảnh đó để tự vệ và để bảo vệ kẻ khác, mà kết quả là không làm hại ai cả. Khi một mục đích nhất định đă được đặt ra, th́ kết quả là không gây thương tổn. Một sự nghi ngờ đă nẩy sinh ra trong óc của bọn cướp. Họ nghĩ rằng không có lư nào một phái bộ như chúng ta lại mạo hiểm đi đến chỗ xa xôi như vậy mà không có pḥng vệ. Chúng tôi lợi dụng sự nghi ngờ những cạm bẫy. Bọn cướp là một hạng người rất nhát gan. Họ sợ thứ ǵ th́ họ sẽ gặp thứ đó. Nếu chúng tôi không dùng phương pháp đó, th́ có lẽ chúng tôi bắt buộc phải tiêu diệt một số đông bọn cướp trước khi kẻ sống sót chịu để cho chúng ta yên. Nhưng bây giờ th́ chúng ta không c̣n nghe nói đến bọn cướp ấy nữa. Thật vậy, chúng ta không c̣n sợ bị họ quấy phá.
Khi những cuộc đào xới đă có những bằng chứng để làm cho chúng tôi tin tưởng sự hiện hữu của ba thành phố cổ, chúng tôi có ư nghĩ lấp những giếng đào để che mắt những đoàn người du mục v́ họ có thể t́m ra dấu vết của những cuộc khảo cổ này. Thật vậy, sự khám phá ra các giếng này chắc sẽ gây nên một sự cướp bóc toàn diện do bởi sự hấp dẫn của các kho tàng, v́ những huyền thoại được lưu truyền khắp nơi về sự hiện hữu của những thành phố cổ và những kho vàng bạc châu báu chôn dấu trong đó. Bởi vậy, sau khi hoàn tất công việc khảo cổ, chúng tôi lấp giếng và cố gắng che đậy các dấu vết chỉ c̣n để lại đến tối thiểu, và trông cậy nơi cơn băo đầu tiên để xóa bỏ mọi di tích c̣n xót lại về sự có mặt của chúng tôi. Những cồn cát ở xứ này luôn luôn di chuyển, cũng đủ làm một chướng ngại cho việc truy t́m các tàn tích cổ. Nếu không có sự giúp đỡ của các bật siêu nhân, chúng tôi không giờ có thể t́m ra những nơi cổ tích này. Chúng tôi được cho biết rằng những di tích cổ xưa tương tự c̣n ở rải rác trong vùng sa mạc đến tận phía nam xứ Tây Bá Lợi Á. Hiển nhiên là có một số dân cư đông đảo xưa kia đă từng sống thịnh vượng ở vùng này và đă đạt tới một tŕnh độ văn minh rất cao. Có những bằng chứng xác thực không thể phủ nhận rằng giống dân này đă từng thực hành khoa nông nghiệp, canh tác, cùng những khoa kỹ nghệ hầm mỏ, dệt cửi và những ngành sinh hoạt liên hệ. Họ đă từng biết đọc, viết chữ và biết cả những ngành khoa học khác. Thật rơ ràng là lịch sử của những dân tộc này đă đồng hóa với lịch sử của giống dân Aryen (tức giống dân thứ năm, thủy tổ của các dân tộc văm minh Âu Mỹ hiện nay).
5. Một Cuộc Gặp Gỡ Huyền Diệu
Trước ngày chúng tôi lên đường, trong bữa ăn có một bạn tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng lịch sử của giống dân vĩ đại này có thể nào viết lại được chăng? Đức Tuệ Minh đáp rằng có thể được, v́ thành phố cổ chôn vùi ở phía dưới chỗ chúng tôi đang cắm trại, có chứa đựng những tài liệu bút tự hoàn toàn xác đáng. Người ta chỉ cần t́m lại và phiên dịch những tài liệu đó để có một sự xác nhận trực tiếp về lịch sử của giống dân này.
Câu chuyện bị gián đoạn khi có một người vừa xuất hiện ở ngoài cửa trại. Người ấy xin phép bước vào lều. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Chandersen liền vội vàng bước ra để gặp người ấy. Xét về việc các vị mừng rỡ tiếp đón chào hỏi nhau, chúng tôi hiểu rằng các vị đă từng quen biết nhau nhiều. Tô Mặc bèn đứng dậy đi theo các vị. Khi y ra đến cửa, y đứng sựng lại một lúc trong cơn ngạc nhiên, rồi bước ra ngoài lều đưa thẳng hai tay ra trước mà nói:
- Đây mới thật là một sự bất ngờ!
Những tiếng kêu ngạc nhiên thốt lên cùng một lượt như một cuộc ḥa tấu, trong khi những vị quư khách mới đến, cả nam lẫn nữ, trao đổi những lời chào hỏi với y và với ba vị siêu nhân. Khi đó, những người ngồi bên trong lều bèn đứng dậy, hối hả bước ra ngoài và thấy một nhóm gồm tất cả mười bốn người khách vừa mới đến. Trong nhóm ấy, có bà Mă Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, cùn với người con trai và con gái của đức Tuệ Minh và một số người khác. Tất cả mọi người đều vui vẻ, và chúng tôi hồi tưởng lại những cuộc hội họp trong những ngày đă qua.
Chúng tôi thật là hoàn toàn ngạc nhiên, và chúng tôi không dấu diếm điều đó. Nhưng sự ngạc nhiên ấy lại c̣n lớn hơn nữa trong những bạn đoàn viên thuộc các toán khác của phái đoàn. Nh́n vào gương mặt họ, chúng tôi hiểu rằng họ ngạc nhiên đến mức vô hạn không thể nào diễn tả nổi, v́ họ chưa từng chứng kiến như chúng tôi về những cơn xuất hiện và biến mất một cách bất ngờ kiểu đó. Công việc khảo cổ đă làm chúng tôi quá bận rộn đến nỗi chúng tôi đă bỏ qua không kể lại cho họ nghe đầy đủ những kinh nghiệm đă qua của chúng tôi, ngoài ra những câu chuyện vắn tắt đứt đoạn. Sự xuất hiện của các vị quư khách dường như từ ṿm trời trong sáng mà đến, đă làm cho họ hoàn toàn khựng lại và đứng trơ như tượng đá, điều này là một đầu đề để chúng tôi bỡn cợt họ một cách nhẹ nhàng.
Sau việc giới thiệu đă xong xuôi, người phụ trách việc nấu ăn bước tới nói riêng với đức Tuệ Minh và Tô Mặc với một vẽ thất vọng:
- Làm sao đăi ăn tất cả bấy nhiêu người? Lương thực của chúng ta đă cạn, và đồ tiếp tế c̣n chưa đến kịp. Chúng ta chỉ c̣n vừa tạm đủ để ăn bữa chiều nay và bữa điểm tâm sáng ngày mai. Vả lại, mọi sự đă chuẩn bị sẵn sàng cho chúng ta lên đường.
Lê Mông, vị trưởng phái đoàn, đă lắng tai nghe rơ mọi chuyện. Y bèn bước tới, và tôi nghe y hỏi:
- Trời đất! Tất cả những người này từ đâu đến đây?
Tô Mặc vừa nh́n y vừa cười và đáp:
- Lê Mông, anh có vẻ ngớ ngẩn. Các vị đến trực tiếp từ trên trời. Hăy nh́n xem, các vị không có một phương tiện di chuyển nào cả.
Lê Mông nói:
- Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là h́nh như họ không có cánh. Khi họ đáp xuống băi cát, đáng lẽ chúnh ta phải nghe tiếng động, v́ họ rất đông. Nhưng chúng ta chẳng nghe thấy ǵ cả. Như vậy tôi tạm kết luận tằng giả thuyết hoàn toàn hợp lư của anh là đúng.
Lúc ấy, đức Tuệ Minh day lại và nói rằng để trấn an tinh thần của người đầu bếp, có lẽ người bắt buộc sẽ phải trách các vị khách đă không chịu đem theo lương thực để tự túc v́ lương thực của chúng ta xét ra không đủ. Người đầu bếp có vẽ rất lúng túng và giải thích rằng y không có ư muốn nói một cách thô lỗ như vậy, nhưng dầu sao sự thật vẫn c̣n đó, là không đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Các vị quư khách bèn đồng thanh cười vang lên một cách vui vẽ, điều này có vẽ làm cho y càng lúng túng hơn.
Bà Mă Ly nói rằng không cần phải sợ có sự bất tiện hay thiếu xót. Bà chủ nhà của chúng tôi và vị giai nhân trong buổi dạ hội hôm trước nói rằng hai bà vui ḷng đảm đương lấy trách nhiệm của bữa ăn, v́ các vị quư khách đến viếng chúng tôi với ư định rơ rệt là sẽ cùng chia sẽ bữa ăn đó với chúng tôi. Người đầu bếp có vẻ yên ḷng và chấp nhận ngay điều đó.
Lúc ấy trời đă xế chiều. Đó là một trong những ngày mà ngọn gió mát thổi nhẹ dường như vuốt ve đồng cát Gôbi, dẫu rằng có khi chỉ một lát sau nó có thể biến thành một cơn bảo tố gầm thét thịng nộ với một tốc lực kinh khủng. Chúng tôi lấy tất cả mọi thứ ǵ có thể dùng làm khăn trải bàn và trải lên băi cát, ngay ở phía ngoài trại. Đối với người ngoài, đó có vẽ giống như một cuộc đi chơi cắm trại.
Những người đoàn viên thuộc các toán đến sau chúng tôi vẫn c̣n tỏ vẻ ngạc nhiên và do dự. Lê Mông nh́n vào nồi đựng thức ăn và nói:
- Nếu tôi nh́n thấy rơ, và nếu người ta có thể chia sớt có bấy nhiêu thức ăn cho tất cả số người đông đảo như vậy th́ tôi xin mở lớn đôi mắt để nh́n xem một phép lạ được thược hiện!
Một người trong nhóm chúng tôi:
- Thật vậy, anh hăy chống mắt cho thật lớn; v́ anh sắp sửa nh́n thấy điều mà anh đă đoán đúng!
Tô Mặc nói:
- Anh Lê Mông, đây là lần thứ nh́ trong ngày hôm nay mà anh đă đoán đúng!
Kế đó, hai bà nữ khách bắt đầu múc thức ăn trong nồi để chia cho tất cả mọi người. Khi một dĩa đă múc đầy, nó được chuyển qua tay người khách và lại được thay thế bằng một cái dĩa mới, và cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất cả mọi người đều được cung cấp thức ăn một cách dồi dào thừa thăi.
Khi những dĩa được múc đầy thức ăn mỗi lúc càng tiếp tục thêm, chúng tôi thấy gương mặt Lê Mông càng tỏ vẻ lo ngại. Khi người ta đưa một dĩa cho y, y truyền qua người ngồi bên cạnh rồi nói rằng y có thể bằng ḷng với một dĩa ít hơn như thế nhiều. Bà chủ nhà chúng tôi nói rằng không phải lo ngại ǵ cả, v́ có đủ thức ăn cho tất cả mọi người.
Sau khi mỗi người đă được cung cấp thức ăn một cách rộng răi, Lê Mông nh́n vào các nồi niêu một lần nữa và thấy rằng thức ăn vẫn c̣n đầy, không giảm bớt chút nào. Y bèn đứng dậy và nói:
- Nếu quư bà không cho tôi là một kẻ vô phép, mất dạy và thô bỉ, th́ tôi xin phép được đến ngồi gần các bà. Tôi xin nh́n nhận rằng sự ṭ ṃ ngự trị mọi tư tưởng của tôi đến mức làm cho tôi không thể nuốt trôi một miếng nào.
Các bà nữ khách đáp rằng nếy y muốn đến ngồi gần các bà, th́ các bà sẽ coi như một cử chỉ lịch sự. Khi đó, y bèn đi ṿng quanh sau lưng nhóm thực khách và đến ngồi cạnh chiếc khăn trải dưới đất, giữa bà Mă Ly và vị giai nhân tuyệt sắc.
Khi y ngồi xuống, có người xin bánh ḿ. Trong giỏ bánh ḿ chỉ c̣n có một miếng. Vị giai nhân đưa hai bàn tay ra, th́ ngay khi đó một ổ bánh ḿ lớn liền xuất hiện trên tay bà. Bà đưa ổ bánh cho bà chủ nhà chúng tôi, bà này sửa soạn đem cắt ra từng khoanh trước khi chia cho mỗi người thực khách. Lê Mông đứng dậy xin phép quan sát ổ bánh ḿ c̣n nguyên venï. Người ta đưa ổ bánh ḿ cho y, y quan sát trong một lúc với cặp mắt ḍ xét rồi đưa trả lại với sự băn khoăn hiện rơ trên nét mặt. Y bước đi vài bước, rồi quay lại và nói thẳng với người thiếu phụ:
- Thưa bà, tôi không muốn có vẻ xấc láo, nhưng đầu óc tôi bị đảo lộn làm cho tôi không khỏi đưa ra vài câu hỏi.
Vị gian nhân khẽ nghiêng ḿnh, và nói rằng y được tự do hỏi bất cứ điều ǵ y muốn. Y nói:
- Phải chăng bà có ư muốn nói rằng bà có thể bất chấp tất cả mọi định luật thiên nhiên, ít nhất là những định luật mà chúng ta biết, và không cần làm một cố gắng nào? Rằng bà có thể làm cho bánh ḿ xuất hiện từ một kho dự trữ vô h́nh?
Người thiếu phụ đáp:
- Đối với chúng tôi, kho dự trữ không phải vô h́nh, mà nó lúc nào cũng hữu h́nh.
Khi bà chủ nhà chúng tôi cắt ổ bánh ḿ, chúng tôi nhận thấy rằng ổ bánh không hể giảm bớt. Lê Mông đă b́nh tĩnh lại, trở về chỗ ngồi, và vị giai nhân nói tiếp:
- Ước ǵ các bạn có thể hiểu rằng tấm thảm kịch về cuộc đời của đức Jesus đă chấm dứt trên cây Thánh Giá, c̣n niềm phúc lạc của cuộc sống nơi đấng Chirst đă bắt đầu với sự phục sinh thay v́ mục đích tử Đạo trên Thánh Giá. Bằng cách đó, mỗi người có thể theo gương đức Jesus trong cuộc đời tràn đầy tâm Bồ Đề, tức tràn đầy sức sống của Chân Ngă. Người ta có thể tưởng tượng một cuộc đời phúc lạc hơn và phong phú hơn sự ḥa đồng với quyền năng của Chân Ngă trong nội tâm? Với cuộc sống tâm linh đó, các bạn có thể biết rằng ḿnh được sáng tạo để chế ngự mọi h́nh thể, mọi h́nh thể, mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi hoàn cảnh.
Bằng cách sống cuộc đời thỏa măn mọi nhu cầu, các bạn sẽ nhận thấy rằng đó là một cuộc đời đúng đắn khoa học. Đức Jesus đă làm cho vài ổ bánh ḿ và vài con cá của đứa trẻ nhỏ tăng lên gấp bội để cho đám quần chúng hăy ngồi trong ṿng trật tự, trong một thái độ trông chờ, sẵn sàng lănh nhận thức ăn được tăng thêm do bởi một định luật sáng tạo. Muốn t́m thấy sự yên vui và thỏa măn trong đời sống của đức Jesus, người ta phải thực hiện định luật của đời ngài bằng cách hành động tuân theo những lư tưởng của Ngài. Người ta không nên ngồi yên bất động và tự hỏi rằng làm sao có đủ thức ăn để sống. Nếu đức Jesus làm như vậy, th́ đám quần chúng sẽ không bao giờ được ăn uống no đủ. Thay v́ làm như thế, ngài ban ân huệ trong tâm thần, ngài cám ơn chúa v́ những ǵ mà ngài đang có, và những phần ăn được tăng thêm đủ cung cấp cho tất cả mọi người.
Cuộc đời chỉ trở nên một bài toán khó khăn khi con người bắt đầu từ chối không chịu nghe theo tiếng nói ấy, y sẽ không c̣n làm việc để mưu sinh. Y chỉ làm việc v́ niềm vui sáng tạo mà thôi. Y sẽ bước vào niềm phúc lạc sáng tạo, một lănh vực được cai quản bởi luật Trời hay tiếng nói của Thượng Đế...
Kế đó, vị giai nhân day qua Lê Mông nói:
- Đức Jesus đă dạy những luật Đạo nhằm mục đích thiết lập cơi Trời ở dưới thế gian. Bạn đă nh́n thấy những luật đó được áp dụng trong một phạm vi khiêm tốn. Những luật đó vốn đúng đắn và rất khoa học. Con người, vốn là con của Chúa Trời, thật sự cùng một bản chất như ngài, nên y vốn chứa đựng ở tự nơi ḿnh cái tinh thần bất diệt của Chúa Trời. Y có thể phân biệt những định luật của đấng đă sinh ra y, sử dụng những định luật ấy, để đem lại năng xuất dồi dào toàn vẹn trong lănh vực sinh hoạt hằng ngày của y. Y chỉ cần muốn là được.
Kế đó, giai nhân nói rằng bà rất vui ḷng trả lời tất cả mọi câu hỏi của Lê Mông. Vị trưởng phái đoàn đáp rằng y đă quá xúc động để có thể hỏi bất cứ một câu nào nữa. Y cần phải có một lúc im lặng để suy nghĩ. Y có nhiều điều muốn nói và hy vọng rằng y sẽ không làm phật ư một người nào, v́ y không hề có ư chỉ trích ai cả. Y c̣n nói:
- Khi đến xứ này, chúng tôi tưởng rằng ḿnh sẽ t́m thấy những tàn tích của những thổ dân đă suy vong và tàn tích từ lâu. Trái lại, chúng tôi lại thấy những người mà chúng tôi không thể tưởng tượng rằng họ có cuộc đời hoạt động một cách cao quư vô cùng. Nếu những điều mà chúng tôi vừa thấy có thể được công bố bên các nước Âu Mỹ, th́ toàn thể thế giới sẽ nằm mọp dưới chân quư vị!
Ba vị phu nhân đáp rằng các bà không hề có ư muốn thấy toàn thể thế giới nằm mọp dưới chân các bà. Các bà giải thích rằng nhân loại đă có quá nhiều thần tượng, nhưng thiếu lư tưởng.
Khi đó, tất cả các quư khách, trừ ra người đầu tiên đă đến trước cửa lều, đứng dậy và nói rằng đă đến lúc các vị phải ra đi. Các vị bắt tay từ giă chúng tôi đến viếng các vị khi này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 327 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 3:38am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG BẢY
1. Một Cuộc Cứu Chữa Nhiệm Màu
Chúng tôi dậy thật sớm vào sáng ngày hôm sau, và lên đường trước khi mặt trời mọc, để đi đến chỗ làng quê của Bạch Lăng. Chúng tôi đến làng ấy mười hai ngày sau đó. Khi đến nơi chúng tôi được đón tiếp bởi những vị siêu nhân đă viếng thăm chúng tôi vào ngày cuối cùng trên sa mạc, và lấy làm sung sướng nhận lời khi các vị mời chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà các vị trong vài ngày.
Chúng tôi được đưa vào những gian pḥng rất sang trọng so với những lều trại của chúng tôi trên sa mạc, buổi cơm tối đă sẵn sàng nửa giờ sau đó. Chúng tôi thay đổi y phục chỉnh tề và bước vào gian pḥng khách bên cạnh, tại đây chúng tôi gặp lại nhiều vị chân sư mà chúng tôi đă từng được quen biết trong những chuyến du hành đă qua xuống miền Nam, các vị vui mừng tiếp đón, nói rằng vùng này là chỗ đất lành của chúng tôi, và sẵn sàng mở rộng cửa để tiếp đón tất cả mọi người.
Vị thống đốc của vùng này tiếp đón chúng tôi bằng một bài diễn từ khả ái xuyên qua một thông dịch viên. Người c̣n cho biết rằng buổi cơm tối được sắp đặt tại tư dinh và chúng tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Chúng tôi rời khỏi pḥng khách, do vị thống đốc đi trước dẫn đường, có hai vị vệ sĩ đi kèm hai bên theo lễ nghi bổn xứ. Kế đó là Lê Mông và bà chủ nhà trọ của chúng tôi khi trước, rồi đến Tô Mặc và người thiếu phụ tuyệt sắc, và sau cùng là đức Tuệ Minh, đức bà Mă Ly, mẫu thân của ngài, và tôi, kỳ dư đều tháp tùng đi theo sau.
Chúng tôi vừa mới đi được một đoạn chừa bao xa th́ một đứa gái ăn mặc rách rưới tách ra từ trong đám đông người đang nh́n chúng tôi từ bên nề đường, và hỏi bằng tiếng bổn xứ để xin nói chuyện với đức bà Mă Ly. Bà Mă Ly nắm tay tôi và đức Tuệ Minh rồi cả ba chúng tôi đều bước ra khỏi hàng ngũ để nghe xem bé ấy muốn hỏi điều ǵ. Thấy vậy bà chủ nhà chúng tôi do dự một lúc, rồi nói rằng bà muốn ngừng lại. Trong khi bà bước ra khỏi hàng ngũ khách, tất cả đoàn đếu dừng chân lại. Bà Mă Ly giải thích cho viên thống đốc biết rằng bà muốn tất cả mọi người hăy tiếp tục lộ tŕnh và ngồi vào bàn ăn trước, sau đó bà sẽ đến để nhập tiệc chung với tất cả.
Trong khi đó, bà nắm hai bàn tay của đứa bé gái trong ḷng bàn tay bà. Sau khi viên thống đốc và đoàn tùy tùng đă đi qua, bà quỳ xuống thấp để áp khuôn mặt bà vào g̣ má của đứa bé, và nói:
- Con hỡi, con muốn ta giúp điều ǵ?
Sau đó, bà Mă Ly đă được biết rằng em trai của đứa bé gái này đă bị té ngă vào lúc xế trưa và có lẽ bị găy xương sống. Đứa bé khẩn cầu bà Mă Ly đi theo nó để xem có thể cứu chữa cho em trai nó, v́ đứa em trai này đang đau đớn rên xiết rất khổ sở.
2. Căn Nhà Huyền Diệu
Bà Mă Ly đứng dậy, giải thích t́nh h́nh cho chúng tôi nghe và yêu cầu chúng tôi hăy đi về tư dinh viên thống đốc, c̣n bà đi theo đứa bé gái và sẽ gặp lại chúng tôi sau. Lê Mông xin phép đi với bà. Bà nói rằng tất cả chúng tôi có thể đi theo bà nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi bèn đi theo bà. Bà vừa đi vừa nắm tay đứa bé gái, em bé này nhảy nhót v́ vui mừng. Bà chủ nhà chúng tôi thông dịch lại những lời em nói. Nó nói biết rằng đứa em trai của nó sẽ được đức bà chữa khỏi.
Khi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin cho chúng tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái cḥi vách đất nghèo nàn. Bà Mă Ly có lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi v́ bà nói:
- Căn nhà nghèo nàn này chứa đựng những quả tim ấm áp.
Khi đó, cánh cửa đột nhiên mở. Chúng tôi nghe một giọng đàn ông và chúng tôi bước vào. Cḥi lá này bên trong rất nheo nhóc. Nó chỉ vừa đủ khoảng trống để chứa tất cả chúng tôi, và trần nhà thấp đến nỗi chúng tôi không thể đứng thẳng người. Một ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập ḷe lên gương mặt của cha mẹ đứa bé ngồi một góc, áo quần dơ bẩn. Trong góc ở xa nhất, nằm trên một đống rơm rạ và giẻ rách cũ hôi hám ẩm thấp, là một đứa bé trai độ chừng năm tuổi đang rên xiết, gương mặt tái ngắt như sáp và nhăn nhó như có vẻ rất đau đớn.
Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh và đặt hai bàn tay lên hai g̣ má đứa em trai. Em nói với đứa bé trai rằng nó sẽ được hoàn toàn chữa khỏi v́ đức bà đă có mặt tại đó. Em rút hai bàn tay và xích qua một bên để cho em trai ấy nh́n thấy đức bà. Đến khi đó em mới nh́n thấy lần đầu tiên những vị khách lạ, và nét mặt em liền biến đổi ngay, dường như em đang trải qua một cơn sợ hăi. Em lấy hai tay che mặt, và thân ḿnh run rẩy ḥa nhịp với tiếng khóc thổn thức. - Ồ;! Con tưởng rằng đức bà chỉ đến một ḿnh.
Bà Mă Ly ngồi xuống bên cạnh em và ôm em vào ḷng trong một lúc. Khi em đă b́nh tĩnh, bà nói rằng bà sẽ cho chúng tôi về nếu em muốn. Em đáp rằng em chỉ ngạc nhiên và sợ hăi, thế thôi, v́ em chỉ nghĩ đến đứa em trai đang đau ốm. Bà Mă Ly nói:
- Con thương yêu em con nhiều lắm phải không?
- Đứa bé gái, tuy chưa chín tuổi đáp:
- Dạ, nhưng con thương yêu tất cả mọi người.
Đức Tuệ Minh thông dịch lại cho chúng tôi, v́ chúng tôi không hiểu môt tiếng nào. Bà Mă Ly nói:
- Nếu con thương em con nhiều như vậy, con có thể giúp sức một phần vào sự cứu chữa cho nó.
Kế đó, bà bảo em bé ấy ngồi trở lại tư thế lúc năy, với hai bàn tay ôm lấy hai g̣ má của em nó, rồi bà xoay ḿnh lại để đặt một bàn tay lên trán đưa bé. Ngay lập tức những tiếng rên xiết liền ngưng bặt, gương mặt đứa trẻ sáng lên, thân ḿnh nó duỗi thẳng một cơn yên tĩnh hoàn toàn của bầu không khí chung quanh, và đứa trẻ ngủ yên trong một giấc ngủ tự nhiên.
Bà Mă Ly và đứa bé gái đó ngồi yên trong tư thế đó trong một lúc, rồi bà gạt nhẹ hai bàn tay đứa bé gái và nói:
- Em bé trai này thật khôi ngô, mạnh giỏi và tráng kiện thay.
Kế đó bà rút bàn tay ra một cách thật nhẹ nhàng.
Lúc đó t́nh cờ tôi lại đứng gần bà trong khi bà đưa tay trái ra trước. Tôi đưa bàn tay tôi để đỡ bà đứng dậy, nhưng khi bàn tay tôi chạm vào bàn tay trái của bà th́ tôi cảm thấy bị va chạm như điện giật, nó làm cho tay tôi bị tê liệt bà nhẹ nhàng đứng dậy và nói:
- Tôi đă quên đi mất, đáng lẽ tôi không nên nắm lấy tay bạn như tôi đă làm, v́ tôi cảm thấy trong một sức mạnh kinh khủng của luồng từ điện chạy xuyên qua thân ḿnh tôi.
Khi bà vừa nói dứt lời, th́ tay tôi đă lành mạnh trở lại như thường. Tôi tin rằng không ai đă nhận thấy việc ấy xảy ra, v́ họ c̣n đang chú trọng vào những ǵ diễn ra ở chung quanh.
Đứa bé gái đă thụp xuống chân bà Mă Ly, và hôn lấy hôn để gấu áo của bà. Bà Mă Ly cúi xuống, lấy tay đỡ gương mặt ứa lệ của đứa bé, rồi quỳ xuống ôm nó vào ḷng và hôn lên mắt lên miệng nó. Đứa bé quàng tay ôm cổ bà Mă Ly, và cả hai đều yên lặng như thế trong một lúc.
Kế đó, ánh sáng lạ lùng mà chúng tôi đă diễn tả trước đây bắt đầu tràn vào gian pḥng. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng trở nên sáng rỡ, và sau cùng tất cả mọi vật đều có vẻ trong suốt, dạ quang. Không có vật ǵ phát ra một cái bóng, và gian pḥng mỗi lúc càng tỏ ra to lớn hơn.
Từ lúc đầu, cha mẹ những đứa bé vẫn ngồi yên trên nền đất, có vẻ im lặng v́ sợ hăi. Nhưng đến lúc đó, th́ cả hai đều biến sắc, gương mặt họ trở nên trắng bệch v́ kinh hoàng; người cha sợ hăi đến nỗi y chạy phóng ra cửa và đụng vào ḿnh Lê Mông trong cơn hấp tấp vội vàng. Người mẹ th́ thụp xuống chân bà Mă Ly, vừa lạy vừa khóc mướt. Bà Mă Ly đặt một bàn tay lên trán người đàn bà ấy và kề vai nói th́ thầm. Tức th́ người đàn bà kia hết khóc, y bèn ngồi nhổm dậy và nh́n thấy sự biến đổi đang hiện ra trong gian nhà. Gương mặt y lại lộ vẽ kinh hoàng, y bèn hối hả đứng dậy và toan chạy trốn. Đức Tuệ Minh nắm lấy một tay y trong khi vị giai nhân tuyệt sắc nắm cánh tay kia. Hai vị giữ y lại tư thế trong một lúc, rồi thay v́ là cái cḥi lá bẩn thỉu khi chúng tôi mới bước vào, th́ lúc ấy chúng tôi đang ở trong một gian pḥng đầy đủ tiện nghi với những bàn ghế giường tủ tươm tất.
Đức Tuệ Minh bước qua gian pḥng, ẳm lấy đứa nhỏ đang nằm ngủ trên đống rạ mốc meo, và nhẹ nhàng đặt nó lên một cái giường có trải nệm trắng và chăn mền sạch sẽ. Ngài cúi xuống đặt một chiếc hôn lên trán đứa bé một cách âu yếm như một người hiền mẫu. Bà Mă Ly và đứa bé gái đă đứng dậy và bước tới gần người mẹ các đứa nhỏ. Chúng tôi cũng tựu lại chung quanh y. Người mẹ quỳ thụp xuống hôn lấy hai bàn châân của bà Mă Ly và khẩn cầu bà đừng tách rời khỏi y.
Đức Tuệ Minh bước tới nắm lấy hai bàn tay người đàn bà kia, đỡ y đứng dậy, rồi nói chuyện với y bằng tiếng thổ ngữ bổn xứ. Khi người mẹ đă đứng dậy, những áo quần lấm lem nhơ nhuốc của y đă biến thành những áo quần mới. Y thị im lặng trong một lúc dường như không c̣n hiểu biết chuyện ǵ nữa, và lao ḿnh vào trong ṿng tay mở rộng của bà Mă Ly. Hai người đàn bà giữ tư thế đó một lúc trong im lặng, rồi đức Tuệ Minh bước lại gỡ người ấy ra.
Kế đó, đứa bé gái chạy tới đưa hai tay ra trước và nói:
- Bà hăy nh́n xem quần áo mới của con.
Nó day lại bà Mă Ly, bà cuối xuống đỡ nó lên; trong khi đó nó choàng tay ôm cổ và áp mặt vào vai bà. Lê Mông đang đứng phía sau, đứa bé gái bèn đưa hai tay ngang qua vai bà Mă Ly, ngẩng đầu lên và mỉm cười với y. Lê Mông bước tới và đưa hai tay y ra, đứa bé nắm lấy và nói rằng nó yêu thương tất cả chúng tôi, nhưng nó yêu mến bà Mă Ly nhiều nhất.
Đức Tuệ Minh nói để ngài đi t́m người cha các đứa bé. Một lúc sau ngài đưa y về nhà, với dáng điệu sợ sệt và c̣n lầm bầm. Bà Mă Ly bước tới và đặt đứa bé gái xuống gần bên y. Dưới cái vẻ mặt khó chịu của người đàn ông này, chúng tôi có thể nhận thấy ẩn tàng một ḷng biết ơn sâu xa. Chúng tôi bèn bước ra khỏi căn nhà. Trước khi chúng tôi ra về, người mẹ các đứa bé yêu cầu chúng tôi hăy trở lại khi có dịp. Chúng tôi cho biết là sẽ trở lại vào ngày hôm sau.
Chúng tôi bèn hối hả đi đến tư dinh viên thống đốc v́ sợ rằng đi trễ làm cho mọi người phải đợi chờ. Chúng tôi có cảm giác như đă trải qua nhiều giờ trong cái cḥi lá, nhưng thật ra chỉ có nửa giờ đă trôi qua từ lúc chúng tôi tách rời khỏi đoàn người đến khi chúng tôi gặp họ trở lại. Tất cả mọi sự đă diễn ra trong một lúc c̣n ngắn ngủi hơn là cái thời giờ cần thiết để ghi chép lại câu chuyện. Chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc đúng vào lúc mọi người đang ngồi vào bàn ăn. Lê Mông xin phép ngồi gần bên Tô Mặc. Y lộ vẻ vô cùng khích động. Về sau Tô Mặc cho chúng tôi biết rằng Lê Mông bị xúc động mạnh về những ǵ y nh́n thấy, đến nỗi y không thể nào giữ được sự b́nh tĩnh.
Qua ngày hôm sau, Lê Mông thức dậy trước hết mọi người. Trong bữa ăn sáng, y ngồi giữa đức Tuệ Minh và Dật Sĩ và luôn luôn đặt câu hỏi trong suốt bữa ăn. Khi chúng tôi vừa ăn xong, y đă đứng dậy và muốn chạy ra ngoài để nh́n xem cái nhà "đă mọc lên trong một khắc đồng hồ." Quàng một tay lên vai Dật Sĩ, y nói rằng nếu y có được hai vị cứu trợ như đức Tuệ Minh và bà Mă Ly, y sẽ đi chu du khắp chốn và làm cho nhà cửa mọc lên để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ không nhà. Y nói thêm:
- Nhưng tôi chắc là những tay chủ phố và nhà đất ở Nữu Ước sẽ nổi giận, và họ sẽ không để tôi yên.
Về sau, Lê Mông cho chúng tôi biết rằng y bị xúc động và ngạc nhiên đến nỗi y không thể nào ngồi yên mà không đặt câu hỏi. Y nói chuyến đi này thật là chuyến xuất hành sôi nổi hào hứng nhất trong đời y, tuy rằng y đă từng đi du lịch ở nhiều nơi xa lạ. Khi đó y có ư định giúp chúng tôi tổ chức một chuyến hành tŕnh thứ nh́ để tiếp tục những cuộc đào xới khảo cổ theo chỉ thị của các vị siêu nhân. Nhưng bất hạnh thay, dự án này không được thực hiện v́ Lê Mông đă đột ngột từ trần vào năm sau.
Chúng tôi phải vất vả khó nhọc lắm mới cản ngăn được y đến ngay ngôi nhà nhỏ mới dựng lên. Điều này được giải quyết ổn thỏa, theo đó y sẽ đi cùng với Dật Sĩ và một người nữa đến một nơi mà từ đó y có thể nh́n thấy ngôi nhà ấy từ đàng xa. Sau độ nửa giờ, họ đă trở về. Lê Mông mừng rỡ lộ ra mặt v́ y đă nh́n rơ ngôi nhà nhỏ thật sự. Ngôi nhà ấy làm cho y hồi tưởng lại một trong những giấc mơ hồi thơ ấu, trong khi đó y mơ thấy vừa đi dạo chơi với các vị tiên nữ vừa xây nhà cho những kẻ nghèo và làm cho họ được sung sướng.
Đức Tuệ Minh cho chúng tôi biết rằng chiều hôm đó sẽ có một cuộc hội họp giống như phiên họp hồi năm ngoái tại làng quê của ngài. Ngài mời tất cả chúng tôi cùng đến dự, chúng tôi sung sướng nhận lời.
Chúng tôi quá đông người để có thể cùng đi một lượt đến xem ngôi nhà nhỏ. Bởi đó, chúng tôi chia ra để đi từng nhóm nhỏ độ năm hay sáu người. Nhóm đầu tiên gồm có đức Tuệ Minh, Lê Mông, một hay hai vị phu nhân, và tôi. Chúng tôi đi ngang qua nhà trọ của bà Mă Ly, bà cùng nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi gần đến ngôi nhà nhỏ, đứa bé gái chạy ra đón, rồi nhảy vào nằm gọn trong ṿng tay mở rộng của bà Mă Ly, và nói rằng em trai nó nay đă khỏe mạnh.
Khi chúng tôi đến nhà, người mẹ các đứa bé chạy ra quỳ thụp xuống chân bà Mă Ly và thốt vài lời tạ ân bà. Bà Mă Ly đưa tay ra đỡ người đàn bà ấy và nói:
- Bà đừng quá khiêm cung. Tôi có thể làm cho bất cứ ai những ǵ tôi đă làm cho bà Cái ân huệ thiêng liêng mà bà đă nhận được, không phải do tôi ban ra, mà do Trời.
Đứa bé trai ra mở cửa, và mẹ nó mời chúng tôi vào nhà. Chúng tôi đi theo sau các bà, và bà chủ nhà trọ t́nh nguyện làm thông ngôn. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, cái nhà vẫn c̣n đó, với bốn pḥng đầy đủ tiện nghi. Ba phía chung quanh là những nhà cḥi tranh rất lụp xụp nghèo nàn. Chúng tôi được biết rằng các chủ nhân của các cḥi tranh này đang lo chuẩn bị dọn đi nơi khác v́ họ tin rằng ma quỷ đă dựng lên ngôi nhà mới này và sẽ làm cho họ chết nếu họ tiếp tục sống ở chung quanh.
Chúng tôi vừa được tin của vị thống đốc. Sáng hôm ấy, ông ta gởi một toán quân hầu và một viên đại úy đến mời chúng tôi tới dự bữa cơm trưa tại tư dinh. Chúng tôi nhận lời, và đến giờ hẹn, một vệ sĩ đến để hộ tống chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc.
Đến tư dinh viên thống đốc, chúng tôi thấy một số đông những vị Lạt Ma của tu viện Lạt Ma giáo gần bên đă có mặt tại đó cùng với vị Sư Trưởng của họ. Chúng tôi được biết rằng tu viện này rất quan trọng và có độ (1, 500) đến (1, 800) sư săi. Viên thống đốc cũ có chân trong đại Hội Đồng sư săi của tu viện này. Khi đó chúng tôi được biết được bữa tiệc này có mục đích tạo nên một dịo tiếp xúc giữa các vị Lạt Ma và các đoàn viên trong phái đoàn chúng tôi. Các vị Chân Sư đă từng biết Sư Trưởng này từ lâu, v́ các ngài thường hay gặp gỡ và đă từng làm việc chung với vị Sư Trưởng ấy. Cho đến sáng ngày hôm ấy, viên thống đốc dường như vẫn chưa biết sự liên hệ trên. Thật vậy, vị Sư Trưởng đă vắng mặt ở tu viện trong ba năm nay và mới trở về chỉ có một ngày trước khi chúng tôi đến.
Trong bữa ăn, chúng tôi nhận thấy các vị Lạt Ma là những người có học thức, có quan điểm rộng răi về cuộc đời, đă từng du lịch nhiều và có hai vị trong số đó đă từng sống một năm bên Anh Quốc và Hoa Kỳ.
Trước khi chia tay, vị Sư Trưởng mời chúng tôi ngày hôm sau đến tu viện Lạt Ma giáo và làm thượng khách của vị Lạt Ma trong một ngày. Đức Tuệ Minh khuyên chúng tôi nên nhận lời, và chúng tôi đă trải qua một ngày rất tốt đẹp và hữu ích tại tu viện. Vị Sư Trưởng là một người đạo hạnh uyên thâm. Ngày đó, ông ta đă cùng với Tô Mặc kết t́nh thân hữu, t́nh thân hữu này về sau đă trở nên một sự cảm thông đậm đà nồng hậu và kéo dài đến suốt đời của hai người. Vị Sư Trưởng đă đem đến cho chúng tôi một sự trợ giúp vô cùng quư báu trong những chuyến du hành về sau của chúng tôi tại vùng này.
3. Phái Đoàn Trở Về Căn Cứ Mùa Đông
Theo chương tŕnh được sắp đặt, phái đoàn chúng tôi sẽ lên đường vào trưa ngày hôm sau. Dật Sĩ và Chandersen sẽ cùng đi với chúng tôi đến một địa điểm trao đổi hàng hóa để chúng tôi mua sắm thêm lương thực dự trữ, và đức Tuệ Minh cũng sẽ đến đó sau với chúng tôi. Kế đó, ba vị siêu nhân sẽ cùng với chúng tôi trở lại địa điểm căn cứ mùa đông.
Khi chúng tôi đến căn cứ, phái đoàn thám hiểm giải tán, và mọi công việc sắp đặt cho những người nào muốn về nhà, có thể đi đến chỗ khởi điểm của họ do con đường ṃn của khách thương buôn. Ngày hôm sau, đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Chúng tôi từ giă các bạn đoàn viên và cùng với ngài đi về phía căn cứ mùa đông.
Chúng tôi nghỉ hai ngày tại trại bọn cướp. Hai người bổn xứ đi theo chúng tôi tại đây, và toán chúng tôi chỉ c̣n lại có bảy người. Hai tên cướp thuật lại cho bọn chúng nghe về chuyến du hành kỳ lạ vừa rồi và những điều nhiệm mầu mà chúng đă nh́n thấy. Chúng tôi được đối xử một cách vô cùng chu đáo. Ba vị siêu nhân được chúng dành cho những ưu đăi danh dự đặc biệt. Viên đầu đảng bọn cướp cho ba vị biết rằng để đáp lại thịnh t́nh của các vị Chân Sư đă tỏ ra đối với họ, họ sẽ coi địa điểm chôn dấu của thành phố cổ như một vùng cấm địa tuyệt đối thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Vả lại, cũng không có sự e sợ rằng bọn cướp rời khỏi căn cứ họ để toan đánh cướp một nơi xa xôi như thế.
Thật vậy, những bọn cướp sa mạc không bao giờ xâm phạm vào miền núi, và trái lại bọn cướp núi không hề xâm chiếm vùng đồng bằng, v́ họ luôn chiên tranh với nhau. Theo chỗ chúng tôi biết, th́ cho đến nay họ vẫn giữ lời hứu phân chia khu vực hoạt động, và không lấn ranh lănh thổ của nhau.
Sáng ngày chúng tôi lên đường, viên đầu đảng tặng cho Tô Mặg một huy chương bạc nhỏ bằng đồng tiền Shilling, trên đó có khắc chữ rất lạ. Y cho Tô Mặc biết rằng nếu chúng tôi bị một bọn cướp đánh trong vùng này, chúng tôi chỉ cần đưa cái hay chương này là chúng tôi được trả tự do lập tức. Gia đ́nh y đă giữ huy chương ấy từ nhiều thế hệ và coi nó như một vật quư vô giá, nhưng y muốn tặng cho Tô Mặc để tỏ ḷng ngưỡng mộ của y đối với chàng.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng chiếc huy chương, đức Tuệ Minh nói cho chúng tôi biết rằng đó là một bổn sao rất đúng đắn của một đồng tiền đă từng được lưu hành ở phía bắc vùng Gobi từ nhiều ngàn năm nay. Riêng chiếc huy chương này đă có đến trên bảy trăm năm. Những đồng tiền loại này thường được các thổ dân bản xứ dùng như những linh vật hộ phù, và họ cho rằng đồng tiền càng cổ xừa th́ nó lại càng quư và càng có hiệu lực nhiều hơn. Viên đầu đảng và cả bọn cướp hẳn là đánh giá món quà của họ một giá trị rất lớn.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh một cách êm thấm và đến căn cứ mùa đông vào giờ đă định trước. Tại đây chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của các vị siêu nhân đă đến viếng chúng tôi trên vùng sa mạc và đă từ biệt chúng tôi tại nơi làng nọ khi chúng tôi gặp vị Sư Trưởng của tu viên Lạt Ma giáo. Một lần nữa chúng tôi lại được mời đến nhà ở của bà chủ trọ hồi năm trước, và chúng tôi liền vui vẻ nhận lời.
Lần này chúng tôi chỉ c̣n lại có bốn người, v́ bảy người đoàn viên đă trở về Ấ Độ và Mông Cổ để thực hiện những cuộc sưu tầm khác nữa. Việc sắp đặt ấy giúp cho chúng tôi có nhiều thời giờ hơn để phiên dịch các tài liệu cổ. Làng nhỏ này rất yên tịnh. Chandersen và chủ nhà luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi dịch các đoạn văn khó và bí hiểm.
Công việc này tiếp tục cho đến cuối tháng muời hai. Khi đó chúng tôi lại nhận thấy một đám khá đông dân chúng lại tựu họp trở lại trong phiên hội hàng năm. Phần đông đều là những người đă tham dự năm ngoái, nhưng địa điểm hội họp lại khác. Lần này cuộc lễ sẽ diễn tại ngôi đền đục trong vách núi, trong gian pḥng trung ương dùng làm ṭa đại sảnh. Chiều nay đầu năm dương lịch, chúng tôi bước lên ṭa sảnh đường khi c̣n sớm để nói chuyện với những người đă hội họp tại đó. Họ đến từ nhiều vùng khác nhau và cho chúng tôi biết tin tức của thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chúng tôi thật sự cảm thấy rằng đă mất hẳn liên lạc từ lâu. Tuy nhiên công việc của chúng tôi làm cho chúng tôi bận rộn quên cả ngoại cảnh, và thời gian đă trôi qua rất mau.
Ngày hôm sau, Tô Mặc đề nghị với cả bọn cùng xuống pḥng tài liệu để tiếp tục công việc phiên dịch. Chúng tôi mải lo chăm chú vào công việc đến nỗi không ư thức được sự hiện diện của những người khác trong pḥng. Th́nh ĺnh Tô Mặc đứng dậy và bước tới đón chào những người mới đến. Chúng tôi ngước mắt nh́n lên th́ thấy đức Jesus, bà Mă Ly, bà chủ nhà trọ và Chandersen. Vị sau cùng này vốn là người mà chúng tôi vẫn thường gọi là "Ông già giữ pho tài liệu," nhưng bây giờ th́ chúng tôi gọi y là "Người thanh niên." Ngoài ra c̣n có Bạch Lăng, và một người lạ mặt được giới thiệu với chúng tôi cái tên Bút Già.
Lúc ấy đă quá trưa, chúng tôi dọn bàn và chuẩn bị bữa ăn. Xong rồi chúng tôi ngồi vào bàn và sau một lúc im lặng, đức Jesus cất tiếng nói:
- Chúng ta hăy chiêm ngưỡng đức Chúa Cha toàn năng. Nguyên lư đồng đại thấm nhuần tất cả vạn vật, Ngài là ánh sáng, t́nh thương và mỹ lệ mà chúng ta được ban những ảnh hưởng tốt lành. Chúng ta có thể vĩnh viễn được thấm nhuần những ân huệ tốt lành ấy nếu chúng ta muốn. Chúng ta nghiên ḿnh kính trước bàn thờ trên đó chiếu diệu ngọn lửa thiêng trường cửa của t́nh bác ái đại đồng, sự điều ḥa, minh triết chân chính, sự sùng kính vô tận, và sự khiêm tốn chân thật. Ngọn lửa thiêng ấy đă chiếu sáng không bao giờ lu mờ. Nó xuất từ đáy ḷng của những người đang tựu vào giờ phút này và nhân danh đấng Cha Lành và T́nh Bác Ái. Xuất phát từ những người thân cận và mến yêu của chúng ta, ngọn lửa thiêng ấy lan tràn trong không gian, soi sáng những vùng xa xôi nhất trên Trái Đất để cho mỗi người có thể nh́n thấy ánh sáng của nó và nhận được những ân huệ tốt lành do t́nh thương khiết bạch và vô tận của nó ban giải ra.
Những tia sáng rung động của ánh sáng đó, của cái mỹ lệ đó và sự tinh khiết đó đi xuyên qua những tâm hồn thụ cảm của những người chung quanh bàn thờ của Ngài. Bây giờ chúng ta đă có ư thức về t́nh bác ái mà sức ấm áp đang lan khắp vũ trụ. Chúng ta gởi những tia bác ái đó đi khắp nơi để biến đổi thế gian, cải tạo và ḥa hợp tất cả nhân loại. Chúng ta nghiêng ḿnh trước Tinh Thần của Chúa Trời vốn sống động trong mỗi người. Chúng ta đứng đối diện với Chúa Trời, ngang hàng với ngài, hợp nhất với ngài. Một lần nữa, chúng ta kính cẩn chào đức Chúa Trời vốn sống động nơi chỗ thâm sâu bí ẩn nhất trong ḷng chúng ta.
Khi đức Jesus nói xong, có người đề nghị rằng cả bọn trở lại gian pḥng mà chúng tôi đă chứng kiến sự phục sinh của Chandersen.
Khi chúng tôi đến nơi, gian pḥng được thắp sáng một cách lộng lẫy cũng như khi chúng tôi ra đi. Gian pḥng này đối với chúng tôi là một linh điện, một nơi mà chúng tôi có cái đặc ân thực hiện trên đường tâm linh một giai đoạn trước đó mà không thể nào quan niệm rằng nó có thể có được đối với người phàm tục như chúng tôi. Kể từ ngày đó đến ngày m ười lăm tháng tư là ngày chúng tôi lên đường, không có ngày nào hoặc đêm nào mà chúng tôi không tựu họp tại đó với tất cả các Chân Sư trong khoảng ít nhất một tiếng đồng hồ. Trong những cuộc hội họp đó, gian pḥng không bao giờ có cái h́nh dáng đục trong vách đá nữa. Dường như chúng tôi luôn luôn có thể nh́n thấy xuyên qua các vách tường vào khoảng không gian vô tận. Chính trong gian pḥng này mà những bức rào tâm thức của chúng tôi bị xóa bỏ. Chính ở đây là nơi đă mở rộng trước mắt chúng tôi môt viễn cảnh rộng lớn về tương lai.
Khi chúng tôi đứng dậy khiếu từ, các vị siêu nhân chúc chúng tôi yên giấc và rút lui. Chúng tôi c̣n ở nán lại trong giây lát để b́nh luận những kinh nghiệm vừa qua trước khi trở về nhà trọ. Khi đứng dậy ra về, chúng tôi liền tự đặt câu hỏi:
- Làm sao t́m thấy đường về mà không có đèn lửa chi cả?
Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ như vậy, chỉ có một ḿnh Tô Mặc không đồng ư, v́ y nói:
- Các bạn thấy chăng chúng ta chỉ luôn luôn bám víu lấy những thói quen cũ của ḿnh và luôn luôn bị trói buộc bởi những ư tưởng thủ cựu. Ở đây chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần trong một vầng sáng không hề sút giảm sau khi các vị siêu nhân quư mến của chúng ta đă ra đi. Phải chăng đây là một dịp để chúng ta tiến tới và tỏ rằng chúng ta tự tin nơi sức ḿnh, tự tin nơi quyền năng của ḿnh và có thể thực hiện những công tŕnh giống như các ngài? Ít nhất chúng ta hăy thử làm xem sao và hăy có căn bản tiến lên một bước đầu tiên đến chỗ thực hiện. Chúng ta quá nương tựa vào t́nh thương của các vị Chân Sư đến nỗi chúng ta cảm thấy một vết thương khi cần phải xa cách các ngài trong một lúc. Nếu chúng ta không thể tự lực tự cường trong sự thực hiện những việc nhỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong những việc lớn. Tôi chắc rằng các vị đă từ chúng ta để cho chúng ta có một cơ hội chứng tỏ khả năng của ḿnh.
Trước khi ra đi, một bạn tôi đề nghị là tốt hơn hăy nên suy nghĩ trước về cách hành động. Nhưng Tô Mặc đáp bằng một giọng cứng rắn:
- Không. nếu chúng ta định đi, ta phải đi ngay tức khắc. Sau những dấu hiệu mà chúng ta đă thấy và những diễn biến mà ta đă tham dự, chúng ta phải hành động một cách quả quyết, nếu không chúng ta không c̣n xứng đáng được một sự trọng vọng nào cả!
Chúng tôi liền đi xuống các cầu thang, đi ngang qua nhiều gian pḥng, vượt qua con đường hầm, đi xuống thung lũng trở về làng. Trong khi chúng ta đi, th́ đường đi hoàn toàn được chiếu ánh sáng. Thân thể chúng tôi dường như mất cả sức nặng, chúng tôi di chuyển một cách rất dễ dàng không hề mệt nhọc, và trở về nhà trọ mà trong ḷng như điên lên v́ sung sướng do bởi sự thành công này. Kể từ lúc đó cho đến khi chúng tôi rời khỏi làng, chúng tôi có thể đi khắp nơi tùy ư mà không cần có đèn đuốc chi cả. Những pḥng ngủ của chúng tôi tự nhiên thắp sáng lên khi chúng tôi và tỏa ra một sự ấm cúng đẽ khó tả.
Chúng tôi ngủ yên giấc ngay sau khi đó và thức dậy rất trễ vào sáng ngày hôm sau.
4. Bọn Cướp Hăm Dọa Tấn Công
Ngày một tháng tư đến rất mau chóng. Chúng tôi đă hoàn tất công việc phiên dịch các tài liệu và sắp sửa vẽ họa đồ những bức tượng cổ xưa tạc trong núi đá. Công việc này được thực hiện một cách mau chóng v́ sự hứng thú và hăng say của chúng tôi khi bắt tay vào công việc.
Một buổi xế trưa, một người sứ giả đem tin đến làng. Nh́n thấy cách mà các dân làng tụ họp chung quanh người ấy, chúng tôi hiểu rằng đó là một biến cố khác thường. Chúng tôi bỏ dở công việc và đi xuống làng. Tại đó chúng tôi gặp bà chủ nhà trọ cho chúng tôi biết rằng một toán quân cướp khá đông đang có mặt ở dưới thung lũng cách đó không xa. Điều này gây cho dân làng một sự lo ngại rất lớn, v́ từ nhiều năm nay, quân cướp thường đánh phá làng này. Người ta đồn rằng ngôi đền đục trong hang núi có chứa đựng một kho tàng khổng lồ. Những mưu toan đánh cướp làng này từ trước đến nay vẫn thất bại, và những toán quân cướp cho rằng phần lớn sự thất bại này là do bởi sức chống cự mănh liệt của những nông dân sống ở miền thung lũng.
Hôm nay, nhiều toán quân cướp đă tập hợp nhau lại để tăng cường lực lượng. Chẳng khác nào một đạo binh nhỏ, độ bốn ngàn quân khinh kỵ có vơ trang khí giới đầy đủ đang tấn công miền thung lũng để đánh tan sự chống cự của những người nông dân sống chung quanh làng. Bọn cướp hy vọng rằng chiến lược tấn công lần này sẽ có hiệu quả hơn những lần trước.
Người sứ giả kêu gọi cứu trợ giúp cho dân làng v́ nhiều người đă bị giết, và những người khác sắp sửa từ bỏ mọi sự chống cự. Bà chủ nhà chúng tôi đáp rằng trong làng không c̣n sẵn người nào để đi xuống thung lũng. Bà nói y có thể trở về và và sẽ không có ǵ xảy ra cho những người chung quanh y. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc mặc dầu cũng ư thức được sự lo ngại của dân làng, và chia sẽ phần nào sự lo ngại của họ.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục vẽ họa đồ và ổ túc công việc thu góp tài liệu để có thể t́m thấy lịch sử của nền văn minh cổ xưa và của một dân tộc đă từng sống trên phần đất bao la này của thế giới, nay đă trở thành băi sa mạc hoang vu. Viễn ảnh ấy bị mất đi những kết quả sưu tầm của chúng tôi trong một trận đánh thư hùng với bọn cướp làm cho chúng tôi rất đỗi lo âu. Chúng tôi bèn góp nhặt tất cả các giấy tờ đem vào trong pḥng dự trữ tài liệu của ngôi đền, đền này đă từng thoát khỏi một loạt tấn công tương tự của bọn cướp.
Tối hôm đó, chúng tôi cùng với bà chủ nhà mưu toan kế hoạch trợ giúp dân làng. Chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà không thấy các vị chân sư. Bà chủ nhà nói rằng sau khi có sự cầu cứu của người đem tin, bọn cướp có lẽ bị bắt buộc phải gián đoạn cuộc tấn công, nếu không họ sẽ tự diệt lấy họ. Đêm đó, chúng tôi đi ngủ với ư niệm rơ rệt là nỗi lo ngại về sự an toàn của chúng tôi thật là quá đáng.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sắp sửa bắt tay vào việc, th́ người đem tin ngày hôm qua lại xuất hiện. Y báo tin rằng những cuộc tấn công đám nông dân đă dứt và bọn cướp đă tập trung lực lượng ở đó độ ba mươi lăm cây số, có lẽ để đánh vào làng chúng ta.
Trong khi bà chủ nhà nói chuyện với người sứ giả đem tin, với một nhóm dân làng tựu họp ở chung quanh, một người kỵ mă phóng ngựa vào làng và chạy ngay đến chúng tôi. Trên đường y chạy vào làng, những nhóm dân làng có vẻ nhận ra y và liền giải tán và dường như là sợ hăi. Trong khi người kỵ mă sắp đến gần, người sứ giả bất giác thốt ra tên y và liền chạy trốn cùng với những dân làng khác, hiển nhiên là v́ sợ rằng bọn cướp sẽ đến nơi sau người kỵ mă.
Chúng tôi c̣n ở lại với bà chủ nhà để đợi y đến. Y g̣ cương ngựa và hất hàm nói với Tô Mặc một cách hiên ngang, rằng bọn cướp biết rơ chúng tôi là người ngoại quốc và chúng tôi đến đây với mục đích ǵ. Y nói chuyện bằng tiếng bổn xứ mà chúng tôi không hiểu ǵ cả. Nh́n thấy chúng tôi đang ngơ ngác, y hỏi có ai thông ngôn được không. Bà chủ nhà trọ day lại đối diện với người kỵ mă lúc ấy hăy c̣n ngồi yên trên lưng ngựa, và hỏi y rằng bà có thể làm việc ấy giúp y được không? Khi y vừa thấy bà, y có vẻ như là bị điện giật. Tuy nhiên, y trấn tĩnh lại ngay để nhẩy xuống ngựa một cách gọn gàng và vừa chạy lại vừa đưa hai tay ra trước, y kêu lên:
- Vậy ra bà ở đây?
Kế đó, y đưa hai bàn tay lên trán, quỳ xuống trước mặt bà và xin lỗi bà.
Bà chủ nhà chúng tôi ra lệnh cho y hăy đứng dậy và bày tỏ ư muốn của y. Chúng tôi nh́n thấy bà đứng thẳng người, và trong một lúc gương mặt bà đỗi sắc v́ nổi cơn thịnh nộ. Bà tỏ ra một cơn xúc động mănh liệt đến nỗi người kỵ mă phải kinh hoảng. Chúng tôi cũng sợ hăi đến nỗi mất cả sự b́nh tĩnh. Những danh từ "Hèn nhát, đồ sát nhân, hăy bước tới và nói rơ mi muốn ǵ" xuất hiện trên môi của bà với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi người kia phải quỳ mọp sát đất. Một lần nữa, bà lại mắng mỏ y thậm tệ:
- Đứng lên, mi quá hèn mạt đến nỗi không dám đứng dậy chăng?
Chúng tôi không ngạc nhiên v́ sự sợ hăi bi lụy của người kỵ mă, v́ cũng như y, chúng tôi hoàn toàn đứng sững như trời trồng, không dám cựa quậy. Tôi chắc rằng nếu y có thể làm được với sức ḿnh, th́ y đă chạy vắt gị lên cổ. Nhưng lúc ấy, cũng như chúng tôi, y không thể làm một cử động hay thốt lên một lời. Y rơi ḿnh xuống đất như một cái xác không hồn, hai mắt giương lên và miệng mồm há hốc.
Trong sự tiếp xúc với các vị Chân Sư có những quyền năng siêu phàm, đây là lần đầu tiên chúng tôi có dịp nh́n thấy một vị bày tỏ một cơn xúc động mạnh. Chúng tôi cũng hoảng sợ giống như tên cướp. Những rung động trong giọng nói của bà chủ làm cho chúng tôi bị chạm mạnh như sức va chạm của một tiếng nổ dữ dội kèm theo với một cú điện giật, làm tê liệt những giọng nói mà luôn cả các bắp thịt của chúng tôi. Tôi không t́m thấy danh từ nào khác để diễn tả những cảm giác của chúng tôi lúc ấy.
Có lẽ quư vị độc giả sẽ ngạc nhiên mà thấy những rung động xuất phát từ một thân ḿnh nhỏ thó, mảnh mai, nhẹ nhàng của bà chủ nhà lại có thể làm cho chúng tôi bị đè bẹp và trở nên yếu đuối bất lực, nhưng sự thật là như vậy. Tuy t́nh trạng đó chỉ kéo dài một lúc, nhưng nó hằng như lâu đến hằng giờ trước khi trở lại b́nh thường. Chúng tôi đứng trân ḿnh như những pho tượng và lấy làm động ḷng trắc ẩn đối với tên cướp. Chúng tôi cảm thấy sự mong ước mănh liệt là muốn trợ giúp y bằng mọi cách. Đó là sự phản ứng chung của tất cả chúng tôi, nhưng ngược lại chúng tôi chỉ có thể đứng sững nh́n bà chủ nhà trân trối.
Th́nh ĺnh, mọi sự đều thay đổi. Gương mặt bà biểu lộ trước hết một sự cứng rắn, kế đó nét mặt bà biến đổi và trở lại dịu dàng như lúc b́nh thường. Chúng tôi cảm thấy có ḷng trắc ẩn sâu xa đến nỗi chúng tôi tất cả đều chạy lại đỡ cái thân h́nh nằm mọp dưới đất. Bà chủ nhà cũng cúi xuống và đưa một tay cho tên cướp. Người này giây lát đă tĩnh lại. Chúng tôi đỡ y đứng dậy và đặt y ngồi thoải mái trên một chiếc ghế dài gần đó. Y nhất định từ chối không bước vào bất cứ nhà nào. Bà chủ nhà khi đó mới nhận thấy cái ảnh hưởng mà bà đă gây cho chúng tôi, bèn tỏ lời hối tiếc về cơn thịnh nộ quyết liệt của bà. Chúng tôi vẫn c̣n run rẩy khắp thân ḿnh, và một chập sau đó mới chấn tĩnh tinh thần lại được.
Bà giải thích rằng người kỵ mă là tên đầu đảng của một bọn cướp khét tiếng trong vùng này của đồng sa mạc Gobi. Một vài người rất hiếm biết được tên y, gọi là tên "Cướp Đen," chỉ dám thốt ra tên ấy một cách sợ hăi v́ mọi người đều biết y là một kẻ cướp rất bạo tàn, không biết thương xót ai cả.
Bà chủ nhà chúng tôi đă có dịp tiếp xúc với người này trong hai lần tấn công bị thất bại của bọn cướp. Mỗi lần như vậy, y đă tỏ rơ một sự thù hận sâu xa đối với bà và đối với các vị chân sư nói chung. Thỉnh thoảng y đă gửi đến các ngài những bức thông điệp với lời lẽ đầy căm hờn và các ngài không hề để ư đến. Sự xuất hiện th́nh ĺnh của y đă nhắc nhở cho bà chủ nhà những hành động bất hảo trong quá khứ của y một cách rơ rệt đến nỗi bà đă mất b́nh tĩnh trong một lúc. Nhưng bà liền trấn tĩnh lại và bước đến gần người ấy.
Khi bà đến gần, y toan đứng dậy nhưng không thể làm ǵ khác hơn là thu h́nh để ngồi ngay ngắn hơn một chút, với một vẽ mặt kinh khiếp sợ hăi đến cực độ. Sự căm hận toát ra từ mọi cử chỉ của y, thân ḿnh y run rẩy lập cập như những người bị chứng liệt bại. Bà chủ nhà chúng tôi tỏ ra một dáng điệu trái ngược hẳn với y, v́ bà đă lấy được sự b́nh tĩnh và không c̣n tỏ ra một dấu hiệu xúc động nào.
Chúng tôi có ư nghĩ đem người kia đi. Trước khi chúng tôi có thể thốt ra lời, bà chủ nhà đă đọc được tư tưởng chúng tôi và đưa tay lên để yêu cầu chúng tôi giữ im lặng. Tô Mặc hiểu rằng bà đảm đương trách nhiệm của t́nh h́nh lúc ấy, và những ǵ chúng tôi làm chỉ đưa đến việc đặt bà trong một t́nh thế khó xử. Chúng tôi bèn rút lui cách đó một quăng xa. Bà nói chuyện với người ấy bằng một giọng thấp nhỏ và êm đềm trong một lúc khá lâu trước khi nhận được sự trả lời.
Khi người ấy bắt đầu trả lời, bà chủ nhà bèn ra dấu cho chúng tôi bước lại gần. Chúng tôi ngồi xuống đất trước mặt hai người và lấy làm sung sướng mà có thể làm một cử chỉ khả dĩ đưa đến bớt sự căng thẳng. Tên cướp giải thích rằng y được các tên chúa đảng đề cử y đến với tư cách một sứ giả ḥa b́nh để thương thuyết việc giao nạp kho tàng của cải mà họ nghi rằng đang được chôn dấu trong ngôi đền khoét trong hang núi. Nếu dân làng chịu đem nạp cái kho tàng ấy, bọn cướp hứa là sẽ không đánh phá họ nữa và sẽ thả hết các dân làng bị cầm tù mà theo y cho biết th́ có đến trên ba ngàn người. Họ cũng hứa sẽ rời xứ này và không bao giờ c̣n làm hại những người dân sống ở miền thung lũng.
Bà chủ nhà chúng tôi giải thích cho y biết rằng trong đền không có một kho tàng nào có một giá trị nào đối với bọn cướp. Bà cho y biết nhiều chi tiết và đề nghị đưa y xem tất cả các gian pḥng trong đền hoặc bất cứ nơi nào y muốn. Y từ chối hẳn, v́ sợ rằng bị giữ lại làm con tin. Không một lời đảm bảo nào của chúng tôi có thể thuyết phục được y. Bà chủ nhà xác nhận với y sự thành thật của chúng tôi và y liền tin ngay.
Nhưng khi đó y đang ở vào một t́nh thế khó xử v́ y là kẻ chủ mưu vụ đánh cướp này. Chính y đă khêu gợi óc tưởng tượng của bọn cướp và làm cho chúng có nhiệt hứng để đánh cướp kho tàng. Y đă diễn tả một cách linh động và hấp dẫn những kho của cải dồi dào bất tận nó sẽ về tay chúng nếu chúng thành công. Thật vậy, chính sự hứa hẹn kho tàng đă làm cho cha y và y có thể duy tŕ sự đoàn kết trong bọn cướp. Y là một tên đầu đảng của một trong năm toán cướp đang tập trung lực lượng để phát động cuộc tấn công.
T́nh h́nh đă đi đến chỗ bí lối. Nếu y trở về toán cướp của y với cái tin tức không có kho tàng, chúng sẽ lên án y ngay như một kẻ phản bội và đối xử với y một cách tương xứng. Như vậy, y sẽ không thể ngăn cấm bọn cướp mở cuộc tấn công, v́ sau tất cả những cố gắng mà y đă làm để đưa cuộc chuẩn bị đến giai đoạn hiện tại, người ta sẽ không c̣n tin tưởng nơi y nữa. Y thật là bị lâm vào một t́nh thế rất khó khăn.
Trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, bà chủ nhà t́nh nguyện đưa y trở về trại. Bất chấp những lời can gián của chúng tôi, bà muốn đi ngay lập tức. Bà trấn an chúng tôi rằng không có ǵ nguy hiểm nếu bà đi một ḿnh, nhưng nếu có chúng tôi đi theo, th́ bọn cướp sẽ nghi kỵ và tất cả chúng tôi sẽ bị lâm nguy. Chúng tôi bèn lẳng lặng tuân theo v́ không thể làm ǵ khác hơn.
Tên tướng cướp bèn lên ngựa, và chúng tôi đỡ bà chủ nhà lên ngồi trên lưng ngựa phía sau tên cướp, trên một tấm yên thứ nh́ đă sắp đặt sẵn. Hai người ra khỏi làng, bày trước mắt chúng tôi một cảnh tượng khó quên nó sẽ luôn luôn sống động trong kư ức chúng tôi đến tận muôn đời; tên cướp với một nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, c̣n bà chủ nhà quay lại mỉm cười và thản nhiên nói với chúng tôi rằng bà sẽ trở về vào lúc chiều tối.
Suốt những giờ c̣n lại trong ngày hôm đó, chúng tôi không c̣n hứng thú để làm việc, và đi thẩn thơ vô định chung quanh làng cho đến lúc xế chiều. Sau đó chúng tôi trở về nhà trọ để đợi bà chủ nhà. Về đến nơi chúng tôi thấy trên bàn đă có bày những thức ăn ngon lành. Quư vị độc giả thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi đến bực nào khi chúng tôi thấy bà chủ nhà ngồi đó nơi đầu bàn với nét mặt tươi cười hồn nhiên như mọi ngày. Chúng tôi đứng sững sờ trong im lặng. Bà lấy dáng trang trọng và nói một giọng hơi chế giễu:
- Các bạn hỡi, người ta thường chào hỏi nhau khi bước chân vào nhà.
Khi đó chúng tôi mới nghiêng ḿnh và t́m thấy lại giọng nói để thốt ra tiếng chào bà.
Bà nói tiếp:
- Tôi đă hoàn toàn thất bại trong mưu toan thuyết phục bọn cướp, nhưng bọn họ đồng ư với nhau là hứa sẽ trả lời tôi trong ṿng ba ngày. Bây giờ tôi biết rằng sự trả lời của họ sẽ là khởi một cuộc tấn công, nhưng tôi đă cứu mạng sống cho tên tướng cướp, ít nhất là trong lúc này. Chúng ta sẽ chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công, v́ không ǵ có thể ngăn cản bọn chúng được nữa.
Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta chắc phải có lúc nghĩ đến sự công b́nh thiêng liêng để t́m thấy đức tin vững chắc hầu có vượt qua những lúc khó khăn nguy hiểm trong đời.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 328 of 2534: Đă gửi: 24 June 2008 lúc 4:05am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
CHƯƠNG TÁM
1. Một Đêm Yên Tịnh Với Đức Jesus
Sau bữa cơm, chúng tôi đứng dậy và bà chủ nhà đưa chúng tôi ra vườn. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Jesus, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Bút Già đă ngồi sẵn tại đó. Chúng tôi bèn ngồi xuống bên cạnh các vị và liền cảm thấy một sự thoải mái bằng an khôn tả nó cho chúng tôi hiểu rằng từ đây cuộc đời chúng tôi c̣n phải nương tựa vào các Chân Sư biết bao nhiêu. Chúng tôi đă ràng buộc chặt chẽ với các ngài dường như bởi những sợi dây sắt. Tôi nhận thấy rằng đó không phải là một điều tốt. Mỗi người trong chúng tôi cần phải thực hiện cái vai tṛ nhất định của ḿnh trên sân khấu lớn của cuộc đời, để cho không ai trở nên một con người bù nh́n, thụ động. Tôi hiểu rằng nếu chúng tôi không thể đứng vững mà không cần ai trợ giúp, hay không thể trông cậy ở tự nơi ḿnh, th́ các ngài sẽ bắt buộc phải cắt đứt mọi liên lạc. Sau đó, Tô Mặc đă có dịp nêu ra vấn đề này một cách hoàn toàn thành thực và cởi mở.
Mặt trời vừa khuất bóng, ánh tà dương c̣n tô màu lên cảnh vật lúc trời chiều, bày ra một sự phong phú màu sắc và một vẻ đẹp không tả. Không một ngọn gió thổi, không một tiếng động làm gián đoạn sự yên tĩnh chung quanh chúng tôi. Sự sợ sệt về bọn cướp cho đến lúc ấy vẫn đè nặng trong ḷng chúng tôi, cũng đă hoàn toàn thoải mái lạ thường. Chúng tôi dường như tự thả trôi theo gịng thời gian một cách vô tư, không màng ǵ đến ngày mai.
Th́nh ĺnh, dường như chúng tôi cảm thấy ḿnh nghe giọng nói của đức Jesus, không nói ra bằng lời. Một loại ảnh hưởng rung động nhịp nhàng đến với chúng tôi thay v́ những lời nói. Ảnh hưởng này c̣n sâu đậm và rơ rệt hơn nhiều so với ảnh hưởng của lời nói. Nhip độ của nó thật không thể tả nổi. Đó thật là một kinh nghiệm hoàn toàn mới lạ đối với chúng tôi. Những ư tưởng dường như tràn ngập chung quanh và tồn tại trong trí chúng tôi. Không những ư nghĩ vừa đến, chúng tôi bèn chép ra bằng tốc kư, rồi sau đó diễn dịch thành từng lời, từng câu. Sau cùng, chúng tôi đem tŕnh lên cho các vị chân sư duyệt xét.
- Những tư tưởng đó được ghi chép lại như sau:
- Khi tôi nói: "Đây là đấng Chirst của Chúa Trời," tôi thấy xuất hiện ra Người của Chúa Trời. Tôi thấy thể xác tôi như cái linh điện của Chúa Trời, cái khí cụ, cái vận hà hoàn hảo xuyên qua đó cái Nguyên Lư Sáng Tạo vĩ đại được biểu lộ tự do. Khi tôi nhận định rằng tôi là trời, trong trạng thái đó, tôi làm chủ của mọi t́nh h́nh và tôi biểu lộ điều mà tôi sùng kính. Tôi không bao giờ có thể biểu lộ Chúa Trời nếu cái Chân Ngă của tôi không thê hiện được Chúa Trời cho toàn thể nhân loại. Trong cái thái độ tích cực đó, người ta chế ngự tất cả mọi hoàn cảnh. Chân Ngă đă toàn thắng. Chúa Trời và con người cùng là một.
Một bạn trong chúng tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Làm sao chúng tôi có thể biểu lộ cái Nguyên Lư đó và sử dụng nó trên thực tế?
- Hăy để cho thể xác của bạn trở nên một cái động cơ xuyên qua đó luân chuyển cái Nguyên Lư Sáng Tạo vĩ đại, nó là mọi sự phát huy của mọi sự quyền năng. Khi đó, thể xác của bạn sẽ tác động như một cái máy phát điện. Nó sẽ thu thập và tăng trưởng luồng tinh lực, và bạn sẽ xuất phát nó ra dưới h́nh thức những tia bạch quang tinh anh sáng suốt không có ǵ có thể cưỡng lại nổi. Trong t́nh trạng đó, không một hành động thù nghịch nào của đối phương có thể làm hại bạn. Bạn có thể phóng dọc theo những tia sáng đó là những luồng điện mănh liệt đến nỗi nó sẽ tiêu diệt cái thể xác của kẻ nào muốn làm hại bạn. Kẻ nào cưỡng lại luồng tinh lực đó, càng làm tăng gia mănh lực của nó. Người nào dùng ư muốn ích kỷ của ḿnh mà chống lại nó, sẽ tự diệt lấy họ. Nếu không ai cưỡng lại sức mạnh đó, nó sẽ toát ra một ảnh hưởng tốt lành xuyên qua người xuất phát và người thọ lănh lấy nó.
2. Luồng Bạch Quang Tinh Anh
Đó là cái tia sáng tinh khiết của Thượng Đế. Sự rung động của nó diễn ra trên một nhịp độ cao nhất, tất cả những người nào chấp nhận nó sẽ cùng có một rung động điều ḥa và hoàn toàn đồng nhịp. Không một tai họa nào có thể xảy đến cho họ, v́ họ rung động cùng nhịp với Thượng Đế. Không ǵ có thể làm hại được người nào thọ lănh sự rung động của Thượng Đế. Rung động tức là sống. Bây giờ bạn thấy bằng cách nào bạn vẫn luôn luôn sống với Thượng Đế chăng? Trong trạng thái đó, không c̣n có thể nào có sự chia rẽ đặc biệt. Sự cách biệt duy nhất là sự cưỡng nghịch lại, nguyên nhân của sự bất điều ḥa.
Không có một sự ǵ xấu xa có thể đến gần bạn khi bạn hợp nhất với Thượng Đế. Đó không c̣n phải là một đặc ân cho một số ít người, mà là một triển vọng cho tất cả. Chừng đó, tất cả đều sống theo Luật Trời, theo gịng tư tưởng rung động với một nhịp độ cao nhất. Không một rung động xấu xa nào có thể đạt tới nhịp độ đó, hoặc xâm nhập vào cái cơi giới mà tất cả mọi người đều sống yên lành, đó tức là Cơi Trời của họ.
Ngườt ta cũng có thể dùng cái quyền năng đó để xua đuổi những tư tưởng xấu xa và những ác ư của thiên hạ nhắm vào ḿnh. Nếu bạn muốn, bạn cũng có thể tăng cường cái tia bạch quang thiêng liêng đó, gán cho nó cái quyền năng của Thượng Đế, nới rộng và biến đổi tinh lực của cái tư tưởng xấu nhắm vào ḿnh bạn, rồi đặt cho nó trong tấm gương phản chiếu của bạn và gởi lại cho đối phương với tốc lực của ánh sáng. Những tư tưởng nhắm vào ḿnh bạn với một nhịp độ rung động hạ thấp, bị trả lại dưới h́nh thức một tia bạch quang tinh anh. Mănh lực của các tia sáng này mạnh mẽ đến nỗi, khi nó trở về nguyên quán, nó có thể tiêu diệt thể xác của người đă phóng ra cái tư tưởng xấu xa nói trên. Dầu bạn có biết hay không biết cái nguồn gốc hay địa điểm xuất phát luồng tư tưởng đó, nó vẫn quay trở về nguyên quán một cách chắc chắn.
Người ta có thể biến đổi cái quyền năng của Thượng Đế và phóng nó ra ngoài với một cường độ mănh liệt không thể cưỡng nổi. Đó là những tia bạch quang mà các bạn nh́n thấy toát ra từ thân ḿnh thôi. Thân thể các bạn cũng toát ra những tia sáng đó, nhưng không mạnh bằng. Khi các bạn tiếp tục sử dụng cái quyền năng đó và kết hợp nó với cái Nguyên Lư Sáng Tạo, các bạn sẽ tăng thêm cường độ ánh sáng của ḿnh và có thể dùng nó để thực hiện mọi điều ước vọng tốt lành tùy ư muốn.
Bây giờ, bạn hăy tăng cường tia bạch quang đó, và hăy gởi đến nó cái sức mạnh của Thượng Đế. Hăy truyền vào nó một mănh lực gấp mười ngàn lần hay mười triệu lần cái sức mạnh của tư tưởng mà người ta nhắm vào bạn. Kế đó, hăy để cho tia bạch quang ấy trở về nguyên quán của nó. Khi người muốn hại bạn nhận tia sáng ấy trở về và chấp nhận nó như một vật của Thượng Đế, th́ mọi ác ư sẽ được xóa bỏ, tha thứ và quên lăng. Không ǵ có thể làm hại bạn hay làm hại kẻ đă phóng ra luồng tư tưởng xấu. Bạn và người ấy, cả hai đều b́nh đẳng trước Thượng Đế. Cả hai đều là một, và một sự điều ḥa tuyệt đối đă thay thế cho sự bất ḥa.
Trái lại, nếu người phóng ra luồng tư tưởng xấu không nhận tia bạch quang mà bạn đă gởi trả về nguyên quán với một cường độ tăng lên gấp bột phần, th́ thể xác y sẽ bị tiêu diệt. Nếu người ta có thể cho tia bạch quang ấy hoàn tất công việc của nó, nó sẽ hủy diệt mọi thứ rung động trái ngược. Nếu cưỡng lại nó, th́ đương sự chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Y tự chuốc vào ḿnh sự chống đối của toàn thể sức mạnh sáng tạo.
Dưới khía cạnh đó, bạn tiêu biểu cho Thượng Đế bằng cách ban rải sức mạnh thiêng liêng, theo định luật dĩ tức báo oán. Nhưng dẫu cho với thái độ đó, bạn hăy thành thật, nhỏ nhoi, khiêm tốn, và đừng xét đoán ai cả. Hăy đặt trọn hết t́nh thương trên luồng bạch quang đó và coi nó như là t́nh thương của Thượng Đế. Khi bạn làm như thế, th́ hằng muôn ngh́n Thiên Thần sẽ tùng phục theo ư muốn của bạn. Bạn cứ giữ một mực hiền lành, khiêm tốn tuân theo luật Trời và ánh sáng của Thượng Đế, tức sự sống, t́nh thương, sự tinh khiết và mỹ lệ thiêng liêng trường cửu muôn đời.
Thể xác con người chứa đựng bảy trung tâm bí yếu (tiếng phạn gọi là Chaka = luân xa), có thể sử dụng như những tấm gương phản chiếu. Người ta có thể làm cho chúng chiếu một ánh sáng rực rỡ hơn gấp bội phần bất cứ một ánh sáng giả tạo nào. Khi người ta muốn phát ra ánh sáng đó, th́ nó sẽ chiếu ánh sáng vào một cường độ mạnh và có tác dụng lớn lao hơn cả những ngọn đèn điện một trăm watts. Nếu người ta có thể làm tất cả bảy trung tâm đều được chiếu sáng cùng một lượt, th́ người ta được hoàn toàn bao phủ bởi một tấm giáp sắt không thể chọc thủng. Thể xác người ấy sẽ chiếu bằng một thứ ánh sáng mạnh hơn gấp bội ánh sáng của ngôi mặt trời giữa trưa. Người ấy đứng trước đấng thiêng liêng, sáng tạo ra muôn loài...
Trong khi những tư tưởng đó đến với chúng tôi bằng nhưng âm ba rung động, ánh sáng hào quang toát ra từ đức Jesus và các vị siêu nhân trở lên chói ḷa. Những làn sóng tư tưởng ấy lại tiếp tục:
- Nếu bọn cướp này vẫn ngoan cố trong ư định đánh phá thôn ấp, rốt cuộc chúng sẽ tự tiêu diệt lấy nhau. Cơ hội đă được đưa đến cho họ rời khỏi làng mà không làm hại đến dân chúng. Nếu họ không đón nhận cơ hội ấy, họ sẽ quay lại để giết nhau. Người ta không thể mưu toan tiêu diệt kẻ đồng loại mà không chuốc lấy tai họa tương tự vào ḿnh. Chúng ta chỉ gửi đến cho bọn cướp ấy luồng bạch quang tinh khiết của t́nh bác ái thiêng liêng. Nếu họ đáp lại t́nh thương bằng sự hận thù, sự phản bội hay sự báo oán, th́ họ sẽ tự ḿnh biến đổi luồng bạch quang tinh anh đó thành một ngọn lửa nó sẽ tiêu diệt lấy họ. Các bạn đừng sợ sệt ǵ cả. Chúng ta chỉ ban rải t́nh thương, nhưng chúng ta không thể ép buộc họ chấp nhận. Nếu bọn cướp đến đây với t́nh thương, th́ sẽ không có sự xung đột. Dầu sao, th́ chính nghĩa của chúng ta đă thắng.
Đến đây, chúng tôi được thông báo rằng một người đem tin đă đă đến gần làng. Chúng tôi bước ra đón tiếp y và được cho biết rằng bọn cướp đă chấm dứt việc đánh phá và cắm trại một cách yên ổn ở cách đó ba mươi lăm cây số. Từ khi có sự kêu gọi cứu trợ của dân làng, họ đă ngưng mọi con tin trong trường hợp có sự kháng cự bằng vơ lực. Theo người sứ giả đem tin tức, th́ có tin đồn rằng bọn cướp sẽ tấn công làng vào ngày hôm sau hay hôm sau nữa, nếu của cải kho tàng không được đem nạp cho họ. Y cũng chuyển đạt lời chào hỏi của các tù binh. Tất cả dân làng đều t́nh nguyện hy sinh tánh mạng để bảo vệ làng, nhưng người sứ giả được cho biết sự hy sinh đó không cần thiết. Y được mời hăy trở về nhà với những lời cám ơn và sự biết ơn sâu xa của dân làng về những cố gắng của y v́ mục đích bảo vệ chung cho tất cả mọi người. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi t́m thấy lại những sự hứng khởi trong việc làm, và mọi tư tưởng sợ sệt đều đă biến mất. Ngày kế đó, chúng tôi đang nghiên cứu vài h́nh tượng khắc trên tảng đá của hang núi, th́ chúng tôi bèn lưu ư đến người canh tuần làng. Người này đứng ở phía bên kia hang núi trên một vị thế cao hơn chỗ chúng tôi đứng, và như vậy y có thể quan sát khắp trên một vùng rộng lớn hơn nhiều. Nh́n xuyên qua ống ḍm, chúng tôi thấy người ấy đang làm dấu báo hiệu cho làng. Không bao lâu, chúng tôi thấy dân làng chạy náo loạn tứ phía và hiển nhiên là họ t́m nơi trú ẩn trong những hang động sâu thẳm của vùng núi non hẻo lánh này. Tất cả đều tỏ vẻ vô cùng xao xuyến náo động.
Chúng tôi lắng tai nghe thấy tiếng ồn ào như sấm động từ đằng xa vọng lại của bọn cướp đang tiến tới. Một người trong chúng tôi trèo lên cao hơn một chút nữa để quan sát t́nh h́nh. Y kêu gọi chúng tôi và nói nh́n thấy một đám mây bụi bay lấp đầu dậy lên bởi đoàn kỵ mă đang phi nước đại tiến về phía hang núi.
Chúng tôi đem cất dấu đồ dụng cụ của ḿnh trong một khe đá ở gần bên, và t́m nơi trú ẩn trong những khe núi chớn chở, từ đó chúng tôi có thể quan sát những động tịnh của bọn cướp. Đoàn kỵ mă ngừng lại ở chỗ cửa vào hang núi. Năm chục tên cuớp đi tiên phong phi ngựa tiến lên phía trước, kế đó tất cả bọn đều quất ngựa phóng nước đại chạy vào hang. Tiếng vó ngựa chạy dồn dập cùng với tiếng ḥ hét vang rền hợp thành một khúc ḥa tấu rùng rợn khôn tả.
Chúng tôi chiếm một vị thế rất thuận lợi, v́ những vác núi đều hầu như dựng đứng như vách thành. Chúng tôi có thể nh́n xuống dưới hang núi và xem thấy bọn cướp tiến tới như nước vỡ bờ, không có ǵ ngăn cản nổi. Đoàn quân tiên phong đă vượt khỏi chỗ vị trí chúng tôi, và những người kỵ mă đi đầu đoàn trung quân tiến lên rất mau. Chúng tôi lấy ống ḍm nh́n trở lại vế làng th́ thấy dân làng đang bị náo loạn trong cơn khủng khiếp.
Chúng tôi cũng thấy một thàn viên trong bọn chúng tôi đứng trên bao lơn của ngôi đền. Y ngưng làm việc để nh́n xem bọn cướp đang tiến tới. Kế đó y quay lại và nh́n về phía cửa vào sảnh đường chính của ngôi đền. Đức Jesus xuất hiện từ trong cửa đó bước ra. Ngài đi thẳng đến bao lơn và đứng yên một lúc, trong một tư thế oai nghiêm như một pho tượng.
Tất cả những ống ḍm của chúng tôi lẽ tự nhiên là nhắm tập trung về Ngài. Bao lơn cách xa chỗ chúng tôi trú ẩn đến năm cây số và ở độ ba trăm thước cao hơn. Chúng tôi nhận thấy Ngài đang nói chuyện và lời nói Ngài vọng đến chúng tôi thật rơ ràng. Người đoàn viên đứng trên bao lơn bèn suống để ghi chép lời ngài tốc kư. Tôi cũng làm y như vậy. Một sự phối kiểm về sau đó chúng tôi biết rằng lời nói của đức Jesus lấn át hẳn tiếng ồn ào của bọn cướp đang phi ngựa tiến tới. Tuy nhiên, chúng tôi được biết rằng Ngài không hề nói lớn hơn lúc b́nh thường, cũng không hề thay đổi âm điệu thường nhật của Ngài.
Khi đức Jesus vừa cất tiếng nói, tất cả dân làng đều hoàn toàn im lặng. Dưới đây là những lời ngài nói mà về sau chúng tôi có đưa cho Ngài duyệt xét. Tôi chỉ có một ước vọng sâu xa nhất, là đừng bao giờ quên những lời nói ấy, dẫu cho tôi phải sống đếm mười ngàn năm:
Ánh Sáng
"Trong khi tôi đựng một ḿnh trong cơn im lặng vĩ đại của Chúa Trời, một ánh sáng tinh anh chiếu diệu trong ḷng tôi và thấm nhuần mỗi nguyên tự của thân thể tôi. Sự Sống, T́nh Thương, Sức Mạnh, Sự Tinh Khiết, Sự Mỹ Lệ và Toàn Thiện ngự trị nơi tôi một cách tuyệt đối. Trong khi tôi nh́n vào trung tâm của ánh sáng đó, tôi thấy một ánh sáng khác, lỏng, dịu, trắng vàng, và tinh anh sáng suốt một cách tuyệt diệu, nó nuôi dưỡng và phát huy ánh lửa mơn trớn của luồng ánh sáng vĩ đại nói trên. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một với Chúa Trời, và hợp nhất với toàn thể vũ trụ của Ngài...
3. Bức Tường Rào Màu Nhiệm
Khi đức Jesus vừa nói xong, một tia bạch quang sáng rỡ chói ḷa tự nơi bí huyệt của quả tim ngài phóng ra xa đến tận hang núi và chấm đất ở chỗ khúc quanh về bên trái, ngay trước mặt đoàn quân tiên phong của bọn cướp. Một bức tường trong giây lát đă dựng lên như vách thành ở ngay chỗ ấy, với những mũi nhọn tủa ra chơm chởm tỏ ra như những mũi tên. Những con ngựa ở hàng đầu đang phóng nước đại như bay tới trước, hốt nhiên nhảy dựng lại th́nh ĺnh làm cho một số lớn những kỵ mă tiên phong bị hất văng xuống đất. Nhiều con ngựa nhảy dựng và đứng lại cửa hang, đi ngược chiều với toàn thể bọn cướp ở đạo trung quân. Khi chúng đến gần đạo quân này, những kỵ mă c̣n chưa bị té ngựa cố gắng kiềm hăm ngựa của họ, nhưng vô ích. Cùng với những con ngựa vô chủ phóng tới như điên, họ chạm trán với bọn cướp đi trung quân, là, cho những hàng đầu của đạo quân này bị lỡ trớn và đứng khựng lại. Những hàng kế đó, không biết sự hiểm nguy, vẫn phóng nước đại tiến vào đám người hỗn độn nói trên, và trong hang núi ấy hiện ra cái cảnh tượng của một đám người ngựa lộn xộn và mất trật tự, không c̣n hàng ngũ kỷ cương ǵ cả.
Trong một lúc, có sự im lặng của nhà mồ, chỉ gián đoạn bởi những tiếng thét rú lên của những ngưởi kỵ mă trong cơn khủng khiếp và tiếng ngựa hí thất thanh. Kế đó diễn ra một cảnh tượng rùng rợn ở ngay tại chỗ mà đoàn kỵ mă tiên phong hoảng kinh quay đầu trở lại, bị chạm trán với những hàng quân đầu tiên của bọn cướp ở đạo trung quân. Những con ngựa không người cưỡi, trong cơn hoảng hốt, đă phóng vào đám rừng người, làm cho một số lớn những người kỵ mă bị trật yên và hất văng xuống đất. Những con ngựa của họ trờ thành vô chủ, không người kiềm chế, và càng làm tăng thêm sự hỗn loạn. Chúng nó bắt đầu hí vang, nhảy vọt bên tả bên hữu, và thét rú lên từng hồi trong cơn hăi hùng và khủng khiếp tụt độ. Kế đó, cơn hỗn loạn cơn hỗm loạn lan tràn khắp cả bọn cuớp đang bị lúng túng và bế tắc lưu thông trong hang núi ở phía dưới chúng tôi.
Th́nh ĺnh chúng tôi thấy những nguời kỵ mă tuốt gươm trần ra khỏi vỏ và chém loạn xạ tứ phía. Những người khác rút súng bắn vào đám người ngựa với ư định khai đàng huyết lộ để thoát thân. Không bao lâu, cảnh tượng đó đă biến thành một trận giặc thư hùng, chỉ có những kẻ mạnh nhất sống sót. Trận giặc chấm dứt bằng sự đổ xô nhau để chiếm những khoảng trống, giữa những kẻ có cái may mắn thoát khỏi cơn chém giết vừa qua. Họ rời khỏi hang núi và để lại những đống xác người ngựa đă chết hoặc bị thương.
Chúng tôi hối hả đi xuống để t́m cách trợ giúp tối đa cho những kẻ bị thương. Tất cả dân làng và vị siêu nhân đều tiếp tau với chúng tôi. Những sứ giả được gửi đi khắp bốn phía để cần trợ giúp. Chúng tôi làm việc ráo riết suốt đêm và cho đến sáng ngày hôm sau. Đức Jesus và các Chân Sư bổn thân săn sóc những kẻ bị thương khi chúng tôi vừa đem họ ra khỏi đống thịt người ngựa hỗn tạp, có kẻ sống lẫn kẻ chết. Khi chúng tôi cứu trợ tất cả cho đến người cuối cùng, chúng tôi trở về quán trọ để ăn sáng. Vừa bước vào nhà trọ, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy tên Cướp Đen đang ngồi nói chuyện với đức Tuệ Minh. Cho đến khi đó, chúng tôi không hề hay biết ǵ về sự có mặt của đức Tuệ Minh. Ngài nhận thấy cái nh́n ngạc nhiên của chúng tôi và nói:
- Chúng tôi sẽ nói chuyện lại sau.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi bèn ra ngoài cùng với Tô Mặc. Tô Mặc cho biết đức Tuệ Minh và y đă t́m thấy tên Cướp Đen bị thương nặng và không thể cử động được nữa, v́ tên cướp bị ngựa đè lên ḿnh. Hai vị đă kéo tên cướp ra và chở y đến một nơi tạm trú, tại đây y được dành cho tất cả mọi tiên nghi có thể t́m được. Kế đó hai vị kêu gọi đến sự giúp đỡ của bà chủ nhà trọ chúng tôi và giao tên cướp cho bà chăm sóc. Khi những vết thương của y được băng bó xong, y yêu cầu bà chủ nhà cầu xin với đức Chúa Trời cho biết y phải làm ǵ để được cứu rỗi. Y cũng xin bà dạy cho y biết đọc kinh cầu nguyện.
Bà hỏi y có muốn được b́nh phục sức khỏe chăng. Y đáp:
- Có, tôi muốn được lành mạnh hoàn toàn cũng như bà.
Bà chủ nhà nói:
- Bây giờ anh cầu xin được có sức khỏe, lời cầu xin của anh đă được đáp ứng. Anh sẽ được hoàn toàn lành mạnh.
Kế đó, tên cuớp nằm thiếp đi trong một cơn ngủ mê li b́. Đến nửa đêm, những vết thương của y đă hoàn toàn khép kín và không để lại một cái thẹo nào. Tô Mặc đă nhận thấy điều này khi y đi canh tuần lúc ban đêm. Tên cuớp bèn đứng dậy, mặc y phục vào, và t́nh nguyện giúp tay cứu trợ cho những kẻ thoát nạn. Chúng tôi cũng thấy một số đông bọn cướp được hoàn toàn b́nh phục mà trước đó chúng tôi nghĩ rằng họ không sao qua khỏi. Khi công việc cứu trợ kết thúc, tên Cướp Đen len lỏi trong đám đồng bọn bị thương và cố gắng hết sức để an ủi và trấn tĩnh tinh thần họ. Nhiều người giống như những con thú bị gài bẫy, họ lo sợ bị tra tấn, đến chết, v́ đó là cách đàn áp những kẻ bị sa lưới theo phong tục bổn xứ. Ư nghĩ đó ăn sâu vào trong trí óc họ đến nỗi họ không có một sự phản ứng tốt lành nào đối với những cách đối xử nhân đạo mà người ta dành cho họ. Họ sợ rằng những cố gắng của chúng tôi để trợ giúp cho họ mau b́nh phục sức khỏe, chỉ có mục đích là để cho chúng tôi có thể tra tấn họ lâu dài hơn. Sau cùng, tất cả đều đă khỏi bịnh, tuy rằng một số ít người kéo dài bịnh tật dây dưa trong nhiều tháng với niềm hy vọng rơ rệt không dấu diếm rằng nhờ đó họ có thể đ́nh hoăn lại ngày tra tấn của họ!
Ít lâu sau đó, tên Cướp Đen quy tựu tất cả những tên "Cựu thương binh" nào t́nh nguyện theo để thành lập một toán quân để bảo vệ làng mạc chống lại những cuộc tấn công của bọn cướp về sau này, y cũng chiêu mộ được nhiều dân làng gia nhập vào toán quân đó. Về sau chúng tôi biết rằng kể từ ngày đó, những bọn cướp không c̣n đánh phá vùng này nữa. Hai toán đoàn viên của phái đoàn chúng tôi rốt cuộc đă vượt qua vùng lănh thổ này trên lộ tŕnh của họ đi đến vùng sa mạc Gobi. Tên Cướp Đen và đồng bọn đă hộ tống an ninh cho phái đoàn trong vùng địa phận của họ, và vùng lân cận, ít nhất trên bảy trăm cây số đường trường, và không người nào muốn nhận tiền thù lao về công việc đó.
Chúng tôi c̣n thường nghe nói về tên Cướp Đen. Y đă phát triển nhiều công việc từ thiện và cứu trợ trong toàn thể vùng này và dành trong cuộc đời để giúp đỡ cho dân chúng được sống yên lành hạnh phúc mà không hề nhận tiền bạc của ai.
Ngày thứ hai sau khi bọn cướp đă bị tiêu diệt, vào lúc trưa, chúng tôi đă săn sóc tất cả những kẻ bị thương và đă đi quan sát một lần cuối cùng để biết chắc rằng không một người nào c̣n bị bỏ sót lại trong hang núi giữa đống xác người ngựa nằm ngổn ngang la liệt như băi chiến trường. Trong khi chúng tôi trở về quán trọ để ăn điểm tâm và nghỉ ngơi, một người trong bọn cất tiếng lên cái ư nghĩ nó vẫn ám ảnh chúng tôi từ nhiều giờ:
- Tại sao sự chết chóc rùng rợn và hủy hoại sinh mạng khủng khiếp như thê?
Chúng tôi mệt đừ, và cơn xúc động đă làm cho chúng tôi bị hoàn toàn kiệt sức. V́ bọn cướp gây cho dân làng một sự sợ hăi kinh hoàng tột độ, nên tất cả mọi cố gắng cứu trợ đều đổ dồn lên vai chúng tôi, nhất là trong những giờ phút đầu tiên. Dẫu cho rằng khi chúng tôi đă lôi hết những kẻ bị thương ra khỏi đống xác người ngựa nằm ngổn ngang chồng chất lên nhau, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn để thuyết phục dân làng ra tay trợ giúp những kẻ bị thương. Họ tuyệt đối không thấy có một lư do nào để giúp đỡ chúng tôi cứu mạng những kẻ toan giết hại đến sinh mạng của họ. Nhiều người cảm thấy ghê tởm khi phải sờ vào một xác chết. Nếu họ không có một sự kính trọng đặc biệt nào đối với các vị Chân Sư, th́ họ đă rời khỏi vùng này ngay lập tức mà không hẹn ngày trở lại.
Dầu sao, chúng tôi đă quá mệt mỏi và rất đau ḷng, v́ đó là cái kinh nghiệm khủng khiếp nhất trong đời chúng tôi. Khi cơn xúc động của những ngày đầu tiên đă lắng dịu, chúng tôi lại bắt tay vào việc một cách hào hứng hăng say. Mùa lễ Phục Sinh đă sắp đến và chúng tôi định kết thúc công việc siêu tầm ở làng này trước khi trở về Ấn Độ. Công việc được hoàn thành rất mau chóng. Cuộc chuẩn bị cuối để trở về trước ngày lễ Phục Sinh, và chúng tôi định dành trọn ngày Chúa Nhật để nghỉ ngơi dưỡng sức.
Khi bước ra cửa để đi tới đền trước lúc b́nh minh, chúng tôi gặp Chandersen ngồi trong sân quán trọ. Y đứng dậy để đi theo chúng tôi, và nói với Tô Mặc sẽ gặp chúng tôi tại chánh điện. Y đề nghị rằng chúng tôi nên trở về Ấn Độ qua ngă Lhassa, thủ đô Tây Tạng, kế đó qua Mouktinath do truông núi Kandernath trên dăy Tuyết Sơn rồi từ đó, chúng tôi sẽ đi tới Darjeeling.
Về đến làng, chúng tôi thấy mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ chúng tôi lên đường. Một số khá đông dân làng đă đi trước để vạch đường trên các truông núi bị bao phủ dưới một lớp tuyết dày đến ba bốn thước tây. Truông núi mà chúng tôi mà chúng tôi sẽ vượt qua xa cách đến tám mươi cây số và trên một chiều cao độ bốn ngàn thước. Phần lớn vùng này núi non chớn chở khó vượt qua. Dân làng có thói quen vạch một con đường ṃn và nện tuyết ém xuống cho chặt một ngày trước khi lên đường. Tuyết được ép chặt trên đường lộ sẽ đông đặc lại khi ban đêm và người ngựa sẽ đi dễ hơn.
Chúng tôi thức dậy rất sớm trước khi trời sáng và nhận thấy rằng mọi chi tiết đă được chăm sóc chu đáo. Dật Sĩ và một người hướng đạo bổn xứ sẽ đi theo chúng tôi. Tất cả dân làng đều tề tựu đông đủ để tiễn đưa chúng tôi lên đường. Chúng tôi lấy làm tiếc mà phải rời khỏi làng, tại đây chúng tôi đă trải qua hai mùa đông tốt đẹp. Dân làng là những người hồn nhiên chất phát và dễ thương. Để tỏ ḷng ưu ái, nhiều ngườ trong bọn họ đă tiễn đưa chúng tôi trên bảy tám cây số rồi mới trở về. Khi đó chúng tôi mới từ giă họ một lần cuối cùng và tiếp tục lộ tŕnh trải qua nhiều tháng trên đường trở về Ấn Độ. Nhưng chúng tôi c̣n phải trải qua nhiều tháng trên đường về trước khi nh́n thấy lại những ngọn núi đầu tiên của dăy Tuyết Sơn.
Theo lộ tŕnh đă định, chúng tôi đi xuống thung lũng Giamanuchu, đi dọc theo một con sông đến truông Tonjnor Jung, rồi đi ṿng theo con sông Brahmapoutre để đến Lhassa, thủ đô Tây Tạng.
Khi chúng tôi gần đến Lhassa, th́ đă thấy nóc điện Potala, tức cung điện của vị Đạt Ma Lạt Ma, chúa tể xứ Tây Tạng, nhô lên từ đằng xa như một viên ngọc quư duy nhất của thành phố này. Lhassa là thủ phủ chính trị của Tây Tạng, nhưng c̣n vị lănh đạo tinh thần tối cao là vị Phật Sống, tức là vị chúa tể cầm quyền cai trị về mặt đạo đức tâm linh từ một trung tâm hyền bí ẩn dấu gọi là Shamballa, hay Bạch Ngọc Cung. Chúng tôi rất mong ước được viếng thăm trung tâm huyền bí và linh thiêng này, mà người ta nói rằng được dấu rất sâu dưới ḷng đất ở vùng sa mạc Gobi.
Chúng tôi vào thành phố Lhassa cùng với đoàn người hộ tống. Người ta đưa chúng tôi đến những nhà trọ có chuẩn bị sẵn đủ mọi thứ tiện nghi có thể t́m được. Một đám đông kéo đến trước nhà trọ, đứng hằng giờ để nh́n xem chúng tôi, v́ sự hiện diện của người da ở tại đây là một cảnh tượng hiếm có. Chúng tôi được mời đến viếng tu viện Lạt Ma Giáo vào ngày hôm sau lúc mười giờ. Chúng tôi được yêu cầu bày tỏ những điều ước muốn của ḿnh, và mọi người sẽ vui ḷng giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt.
Bất cứ chúng tôi đi đâu, đều có một nhóm, người đi theo sau lưng. Một lính canh được đặt trước cửa nhà trọ để đuổi những kẻ ṭ ṃ, v́ dân chúng thủ đô Lhassa có thói quen bước và nhà người lạ mà không báo trước. Sự có mặt của chúng tôi là một điều mới lạ duy nhất trong đời họ, và chúng tôi không thể trách họ về sự ṭ ṃ nói trên. Khi một người trong chúng tôi đi ra ngoài một ḿnh, những kẻ ṭ ṃ bao vây chung quanh với ư định rơ ràng là để nh́n xem cho tận mắt, sờ mó tận tay để biết chắc rằng y quả là một người thật, và đôi khi sự quan sát ấy tỏ ra quá đỗi sỗ sàng đối với nạn nhân!
Ngày hôm sau chúng tôi thức dậy rất sớm và sửa soạn đi đến tu viện để gặp vị Sư Trưởng. Khi chúng tôi đi gần đến tu viên, vị Sư Trưởng bước ra tiếp đón chúng tôi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy: Cùng đi với Sư Trưởng, lại có cả đức Tuệ Minh và đức bà Mă Ly. Đó là một sự tao ngộ lư thú. Chúng tôi bước vào tu viện và nghỉ lại đó.
Sau những cuộc đàm luận lư thú về Đạo Lư vớ Sư Trưởng, chúng tôi bàn về việc lên đường đi Shamballa.Vị Sư Trưởng hỏi rằng cùng đi với chúng tôi được chăng. Một trong các vị siêu nhân đáp lại rằng người có thể đi không khó nếu người có thể rời xác phàm và trở về nhập xác tùy ư muốn. Dầu sao, nhóm các vị Chân Sư sẽ đi Shamballa ngay tối hôm ấy. Chúng tôi đồng ư rằng các ngài sẽ tựu họp tại nhà trọ của chúng tôi vào lúc xế chiều và Tô Mặc sẽ cùng đi với các ngài. Thật vậy, các ngài đă tựu họp tại đó sau khi chúng tôi trở về nhà trọ. Sau một cuộc nói chuyện ngắn, các ngài bước ra cửa và chúng tôi không c̣n gặp lại các ngài trong nhiều ngày.
4. Yến Kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma
Trưa ngày hôm sau, chúng tôi được thông báo cho biết rằng đức Đạt Lại Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi tại biệt điện. Vị Sư Trưởng đến ngay chiều hôm đó để đưa cho chúng tôi những chỉ thị về cuộc yết kiến này mà chúng tôi phải chờ đợi tôi được dành cho cái đặc ân này ngay sau khi một sứ giả đem tin tức trở về cho đức Thái Tuế (một danh hiệu của đức Đạt Lai Lạt Ma biết rằng cuộc thăm viếng của Bạch Ngọc Cung (Shamballa) đă diễn ra một cách tốt đẹp. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng được thông báo về những sự diễn biến đă xảy ra trước đây tại một làng, khi mà một ngôi nhà nhỏ tự nhiên mọc lên một cách mầu nhiệm.
Chúng tôi cố gắng gây cho ngài một ấn tượng tốt đẹp đến mức tối đa, v́ chúng tôi đă xin phép để theo dơi cuộc khắp nơi trong xứ. Chúng tôi được biết rằng vị thống đốc của tỉnh sẽ đến trước giờ trưa và đă thông báo cho biết, do một viên sứ giả đem tin, rằng ngài sẽ giúp đỡ chúng tôi tất cả quyền hạn của ngài. Đó thật là một sự ngạc nhiên bất ngờ. Chúng tôi thức dậy sớm và đi cùng với một nhóm tùy tùng đến yết kiến xă giao vị thống đốc. Người tỏ vẻ rất hài ḷng về cử chỉ này và mời chúng tôi cùng đi với người. Khi chúng tôi và vị thống đốc đến nơi, chúng tôi được đưa vào gian pḥng dành cho quan khách tại biệt điện. Từ đó, chúng tôi đi thẳng đến một pḥng riêng để làm những cuộc lễ đầu tiên để chuẩn bị cho cuộc yết kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.
Khi chúng tôi đến nơi, ba vị Lạt Ma cao cấp đă ngồi trên những chiếc ghế cao có lót nệm dày, trong khi những vị những vị Lạt Ma cấp dưới ngồi dưới đất trong tư thế nhập thiền (Samadhi). Hai vị Lạt Ma mặc áo đỏ đứng trên những chiếc ghế đẩu và điều khiển khúc thánh ca hợp tấu. Vị Sư Trưởng bạn chúng tôi th́ ngồi trên chiếc ngai có che lọng theo nghi lễ chờ viên thống đốc đến.
Sân ngoài của tu viện được trang hoàng lịch sự trong dịp này. Những bức tranh tuyệt đẹp tŕnh bày những cảnh tượng thành lập tượng lịch sử diễn ra từ năm 1417 khi đức Tsong Kappa thành lập môn phái Phật Giáo Thống Nhứt ở Tây Tạng, mà Lhassa là trung tâm chính yếu.
Và lúc sau đó, vị thống đốc cùng đoàn tùy tùng bước vào và đi thẳng đến chỗ ngồi của vị Sư Trưởng, vị này cũng đă từ trên ngai bước xuống. Cả hai đều đứng chung một chỗ để tiếp đón chúng tôi đến pḥng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ṭa sảnh được trang hoàng với những tấm thảm bằng lụa treo trên vách rất lộng lẫy, và với những bàn ghế bằng gỗ quư đánh bóng rất đẹp.
Sau khi được đưa vào pḥng khách, chúng tôi quỳ xuống một lúc đức Thái Tuế rồi mới đứng dậy, và chúng tôi được mời ngồi. Vị Sư Trưởng thay mặt chúng tôi để chúc mừng Thái Tuế và tŕnh bày mục đích cuộc viếng thăm của chúng tôi. Đức Thái Tuế đứng dậy và mời chúng tôi bước lại gần. Một vị Lạt Ma hầu cận đưa chúng tôi đến chỗ của mỗi người. Vị Sư Trưởng và viên thống đốc ở hai góc cùng một hàng với chúng tôi. Khi đó, đức Đạt Lai Lạt Ma bước xuống ngai và đứng trước mặt chúng tôi. Ngài cầm lấy một cây quyền trượng (sceptre) do vị quan hầu cận đưa cho ngài, rồi từ từ đi dọc theo hàng của chúng tôi đứng và điểm nhẹ cây quyền trượng lên trán của mỗi người. Kế đó, vị Sư Trưởng làm thông ngôn, ngài chúc mừng chúng tôi đến xứ Tây Tạng. Ngài nói rằng ngài có hân hạnh tiếp đón chúng tôi như những vị khách trong thời gian chúng tôi lưu lại thành phố này. Ngài yêu cầu chúng tôi hăy tự coi ḿnh là những vị khách danh dự của quốc gia và dân chúng Tây Tạng trong thời gian lưu trú hiện tại và bất cứ lúc nào trong tương ư định sẽ trở lại xứ này.
Chúng tôi đưa ra cho ngài nhiều câu hỏi và được biết rằng ngài sẽ trả lời vào ngày hôm sau. Ngài mời chúng tôi đến xem những tài liệu và bia đá cổ được lưu trữ dưới hầm biệt điện. Ngài gọi một vị quan hầu cận và truyền khẩu lịnh mà vị quan ấy thông dịch lại, nhưng chúng tôi hiểu rằng chúng tôi được tự do đi lại khắp nơi trong biệt điện mà không có giới hạn. Kế đó, đức Thái Tuế ban ân huệ cho chúng tôi, bắt tay chúng tôi một cách thân mật, và cho người đưa chúng tôi cùng với vị Sư Trưởng và viên thống đốc về dịch xá an nghỉ. Hai vị này xin phép vào pḥng chúng tôi v́ họ muốn duyệt xét nhiều vấn đề.
Vị Sư Trưởng nói:
- Có nhiều lư thú đă xảy ra từ khi các bạn đến lưu trú trong làng nhỏ cùng với chúng tôi. Chúng tôi đă xem xét nhiều tấm bia đá cổ trong tu viện và nhận thấy rằng tất cả đều có đề cập đến nền văn minh cổ của xứ Gobi. Chúng tôi tin chắc chắn rằng tất cả các nền văn minh và tín ngưỡng tôn đều xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất. Chúng tôi không biết rơ căn nguyên và thời đại nào đă sáng tạo nên các bia đá ấy đă ghi lại những tư tưởng của một dân tộc đă từng sống cách đây nhiều ngàn năm. Chúng tôi đă có xem phần tóm lược của bản dịch do vị Lạt Ma xứ Kisou Abou dịch lại cho chúng tôi. Chính nhờ nó mà tôi đă đạt tới khúc quanh quan trọng của đời tôi vậy.
Sáng ngày hôm, khi chúng tôi đang đợi vị sư trưởng, một sứ giả đem tin đến cho hay rằng đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi vào lúc hai giờ trưa. Chúng tôi bèn đi t́m vị Sư Trưởng và gặp nguời ở ngoài cửa ṭa sảnh đường, vẻ mặt hân hoan và cầm nơi tay một tờ công lệnh cho phép chúng tôi được tự do lưu thông khắp nơi trong xứ. Sau khi đọc tờ thông điệp mà người sứ giả đă đem đến cho chúng tôi, vị Sư Trưởng nói:
- Đây là một thư mời với mục đích chánh thứ trao tặng tờ giấy thông hành cho các ông.
Khi chúng tôi đă tựu họp lại, có người đề nghị với chúng tôi hăy quên đi ngay lại pḥng lưu trữ các tài liệu văn khố. Chúng tôi liền đi tới từng nhóm và khi đến nơi, một sự bất ngời làm chúng tôi ngạc nhiên. Tại đó chúng tôi thấy có hằng ngh́n những pho tài liệu khắc trên những tấm bảng bằng đồng và bằng gang, và trên những tấm bia bằng đá cẩm thạch trắng trạm trổ rất đẹp. Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi có dịp quan sát tận mắt loại tài liệu cổ đó.
Vị Sư Trưởng cho chúng tôi biết rằng ông không được biết rơ các bia đá cổ đó, nhưng người ta có nói cho ông biết rằng nguồn gốc của chúng là ở Ba Tư. Ông mới t́nh nguyện đi t́m một vị Lạt Ma biết rơ tường tận về những bia đá cổ này. Ông ta bèn bước ra ngoài, và chúng tôi bắt đầu cuộc quan sát. Không một đoàn viên nào trong nhóm chúng tôi biết đọc những chữ cổ khắc trên các bia đá. Chung quanh những bia đá này đều chừa một cái lề, bề rộng chừng năm phân tây, trên lề có khắc h́nh nổi. Nhiều h́nh nổi này được khắc bằng vàng ṛng cẩn trên đá cẩm thạch, c̣n những chữ cổ tự cũng cẩn vàng nhưng không khắc cho nổi lên. Những bia đá đều sắp thành từng loạt rất có ngăn nắp quy cũ, và mỗi loạt đều có mang một số thứ tự.
Trong khi chúng tôi đang đắm ch́m trong cơn mơ tưởng mông lung, th́ vị Sư Trưởng đă về đến nơi cùng với một vị Lạt Ma cao niên, có phận sự coi sóc các văn khố tài liệu. Vị Lạt Ma thuật cho chúng tôi nghe lịch sử các văn bản và tài liệu cổ, và câu chuyện làm cho chúng tôi thích thú say mê, đến nỗi vị Sư Trưởng phải nhắc nhở chúng tôi về cuộc hội kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.
Giờ yết kiến đức Đạt Lai Lạt Ma đă gần đến và chúng tôi tôi phải mặc áo và tràng dự lễ trong dịp này. Khi chúng tôi đến nơi sảnh đường, th́ đức Đạt Lai Lạt Ma vừa đi qua dăy hành lang cùng với toán ngự lâm quân bước vào sảnh đường do một cửa lớn. Cách cửa hông vừa mở, chúng tôi lại được đưa vào pḥng khách trang hoàng lộng lẫy như đă nói ở trên.
Ở giữa pḥng khách, đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi trên một sàn cao có trải nệm thêu chỉ vàng. Ngài mặc áo rộng thêu vàng, với khăn choàng đỏ. Vị Sư Trưởng đưa chúng tôi đến trước mặt ngài và lại đứng cùng một hàng với chúng tôi như trước. Sau những lời chào hỏi chúc mừng, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trên sàn bước xuống và đứng trước mặt chúng tôi với hai bàn tay đưa lên. Chúng tôi bèn quỳ xuống để cho ngài ban ân huệ.
Khi chúng tôi đứng lên, ngài bước tới trước vị trưởng đoàn chúng tôi, ghim một cái xiên (broche) trên ngực y và nói những lời này do một viên thông ngôn dịch lại:
- Cái xiên này sẽ bảo đảm cho túc hạ và cả phái đoàn, quyền tự do lưu thông khắp nơi trong xứ tùy ư muốn. Do tờ văn bằngnày, quả chân củng bang cho túc hạ tư cách công dân danh dự của xứ Tây Tạng, và nước chàm quận công vùng sa mạc Gobi.
Kế đó ngài từ từ đi dọc theo hàng ngũ chúng tôi và ghim một cái xiên tương tự nhưng nhỏ hơn lên ngực mỗi người và nói:
- Quư vị hăy đeo cái xiên này, nó tượng trưng cho ḷng ái mộ của quả nhân. Nó sẽ mở rộng cửa cho quư vị khắp nơi trong xứ Tây Tạng, và có giá trị như một tờ giấy thông hành ở bất cứ nơi nào quư vị muốn đến. Kế đó, ngài cầm lấy cái hộp ống dài đựng tờ văn bằng từ trên tay vị Sư Trưởng và trao cho vị trưởng phái đoàn. Những cái xiên đều rất đẹp, làm bằng vàng y có cẩn một viên ngọc bích ở giữa. Trên viên ngọc có khắc bằng h́nh nổi bức chân dung vô cùng linh động và xem rất giống của đức Đạt Lai Lạt Ma. Đức Thái Tuế và các vị Lạt Ma cận thần đều là hiện thân của sự khả ái và lịch sự, và chúng tôi không biết nói ǵ khác hơn là thốt ra hai tiếng "Cám ơn".
Kế đó, vị Lạt Ma hầu cận cho biết chúng tôi được mời dự dạ tiệc với Đạt Lai Lạt Ma ngay tối hôm đó tại biệt điện.
Sau bữa tiệc, câu chuyện lại xoay quanh vấn đề về những tấm bia đá cổ lạ kỳ. Đức Đạt Lai Lạt Ma và viên lăo thần đảm trách kho tài liệu cổ, do sự trung gian của một viên thông ngôn, thuật lại cho chúng tôi nghe lịch sử của những bia đá cổ mà chúng tôi đă ghi chép cẩn thận và kể lại sau đây.
Những bia đá cổ là do một vị sư Phật giáo t́m ra được trong một cái hầm ở dưới nền đất của một ngôi đền cổ đă điêu tàn ở xứ Ba Tư. Vị sư thuật lại rằng y được hướng dẫn đến nơi chôn giấu những bia đá cổ do bởi những tiếng hát dịu dàng êm ái vọng ra từ ngôi đền cổ, mà y nghe văng vẳng bên tai trong khi tọa thiền. Bài hát rất du dương và giọng hát rất trong trẻo đến nỗi làm cho nhà sư phải chú ư và ṭ ṃ. Nhà sư bè đi về hướng từ đó vọng ra tiếng ca và bước vào bên trong các hầm đá của một ngôi đề cổ đă đổ nát. Giọng hát dường như xuất phát từ dưới hầm. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, và không thấy có một lối nào đi xuống phía dưới hầm, nhà sư bèn quyết định t́m ra nguồn gốc xuất phát ra giọng hát.
Nhà sư mới t́m những đồ khí cụ thô sơ và bắt đầu đào xới trong những đống gạch ngói đổ nát. Không bao lâu, y t́m thấy một phiến đá lớn dường như là để lót sàn đá dưới hầm. Y cảm thấy thất vọng v́ trong một lúc y tưởng rằng đă bị lạc hướng v́ tiếng gió rít lên từng hồi trong những tường xiêu vách đổ của ngôi đền.
Trước khi rời khỏi chỗ ấy, nhà sư bèn ngồi tọa thiền trong một lúc. Trong khi y đang nhập định, th́ tiếng hát trở lên trong trẻo hơn và rơ ràng hơn trước, và ra lịnh cho y phải tiếp tục cuộc thăm ḍ, t́m kiếm. Một sự cố gắng dường như phi phàm giúp cho y chuyển động tấm phiến đá lật qua một bên và khám phá ra một con đường hầm. Khi y chui lọt qua cửa hầm này, th́ đường đi được soi sáng dường như bởi một mănh lực vô h́nh. Trước mặt nhà sư, chiê1u một vầng ánh sáng chói ḷa. Nhà sư bèn đi theo, ánh sáng đó d́u dắt y đến cửa một hang động lớn, khép chặt bằng những cách cửa bằng đá rất kiên cố. Trong khi y đang ngắm nh́n những cánh cửa đá này, th́ cánh cửa rít lên một phiến đá lớn từ từ xoay ngang, để lộ ra một cửa vào, y chui xuyên qua đó. Trong khi y bước qua cửa này, th́ giọng hát lại xuất hiện, trong trẻo êm ái dường như người hát đang ngồi ở phía trong. Ánh sáng dừng lại ở chỗ ngoài cửa từ lúc năy, bấy giờ lại di chuyển vào bên trong động và chiếu sáng khắp nơi. Những tấm bia đá cổ đều dựng đứng nơi đây, trong những khoảng trống đục khoét trên vách tường đá, phủ đầy cát bụi đắp lên đó tự muôn đời.
Nhà sư bèn quan sát vài tấm bia cổ, và liền hiểu ngay sự mỹ lệ và giá trị của những tấm bia này. Y bèn quyết định chờ dịp thổ lộ với ba người tâm phúc tin cậy, để cùng họ t́m cách di chuyển những tấm bia đá ra ngoài và đem cất dấu ở một nơi an toàn. Y bèn rời khỏi hầm, đặt phiến đá lớn lại nguyên chỗ cũ, lấy gạch ngói vụn nát phủ lên như trước, rồi đi t́m những người bạn tâm phúc sẵn ḷng tin tưởng câu chuyện y tường thuật và có đủ can đảm cùng phương tiện để cùng y thực hiện kế hoạch.
Sự t́m kiếm này kéo dài đến hơn ba năm. Hầu hết những người mà y thuật chuyện cho nghe đều tưởng rằng y đă loạn trí, hay điên khùng. Sau cùng, trong chuyến hành hương, y gặp ba vị tăng lữ mà y quen biết trong cuộc đi hành hương tương tự trước đây, và thuật lại chuyện ḿnh cho họ nghe. Họ tỏ ra rất hoài nghi. Nhưng vào buổi tối đúng vào lúc chín giờ, trong khi họ đang ngồi quây quần chung quanh một ánh lửa trại, th́ giọng hát lại bắt đầu một bài ca nói về đề tài những bia đá cổ. Ngày hôm sau họ chấm dứt cuộc hành hương và bắt đầu cuộc hành tŕnh đi đến ngôi đền cổ, Kể từ đó, giọng kia lại hát mỗi ngày đúng vào lúc chín giờ tối, giọng hát ấy càng nhẹ nhàng khi bốn người du khách đi đường mệt mỏi.
Khi họ đă gần đến ngôi đền cổ điêu tàn, và chuyến hành tŕnh đă sắp kết thúc, th́ h́nh ảnh mảnh mai thanh tú của một đứa trẻ thiếu niên xuất hiện vào lúc một giờ trước lúc giữa trưa và bắt đầu vừa hát vừa hướng dẫn họ đến chỗ ngôi đền. Khi họ đến nơi, th́ phiến đá lớn đă bị cậy bật lên. Họ liền đi theo đường hầm đến chỗ động đá. Những cánh cử tự nhiên mở rộng khi họ đến gần, và họ bước vào động. Chỉ một lúc ngắn ngủi cũng đủ cho các vị tăng lữ nhận biết giá trị của bảo vật này. Họ bèn đi đến một làng cách đó độ một trăm cây số để t́m mua lạc đà và đồ lương thực tiếp tế, để chuẩn bị đem các bia đá cổ đến chỗ an toàn.
Họ mua được mười hai con lạc đà và trở lại ngôi đền cổ và gói gém cẩn thận các bia đá cổ chắc chắn cho khỏi bị hư hỏng dọc đường. Kế đó họ mua thêm ba con lạc đà nữa, và bắt đầu một cuộc hành tŕnh lâu dài đến Peshawar, xuyên qua các nước Ba Tư và A Phú Hăn.
Gần đến Peshawar, các vị tăng lữ mới đem cất giấu đồ bảo vật trong một hang núi hẻo lánh; và để đồ vật nằm yên tại đó trong ba năm. Để giữ ǵn các bia đá cổ, một trong các vị tăng lữ luôn thay phiên ngồi tọa thiền trước cửa hang núi. Từ Peshawar họ trở các bia đến Lahnda, trong tỉnh Punjab, và lưu trữ tại đó trong mười năm. Kế đó xuyên qua nhiều giai đoạn chậm chạp từ từ và chậm chạp, đồ bảo vật đă được trở đến đây và lưu giữ trong biệt điện của đức Đạt Lai Lạt Ma. Như thế tất cả là bốn chục năm đă trôi qua kể từ khi các bia đá được đem đi từ nơi chôn dấu đầu tiên. Từ biệt điện, người ta c̣n phải chở đồ vật này đến "Bạch Ngọc Cung" (Shamballa), tức là hiện thời nó vẫn đang di chuyển trên lộ tŕnh, chứ chưa thực sự đến chỗ an toàn chỉ định.
Đến chỗ này của câu chuyện lịch sử, một người trợ tá đem bốn tấm bia đá vào pḥng, và đặt lên một bàn gỗ giống như cái bàn mà chúng tôi đang ngồi chung quanh, thành thử chúng tôi nh́n thấy các bia đá tận mắt. Khi kim đồng hồ chỉ đúng chín giờ, giọng hát lại trổi lên những âm điệu nhịp nhàng du dương. Giọng hát vô cùng em dịu, và trong lanh lảnh như đứa trẻ thiếu niên, đại ư nói về Nguồn Gốc thiêng liêng của muôn loài, sự tạo lập vũ trụ và các bầu thế giới do một ư chí thiêng liêng thấm nhuần tất cả vạn vật, cái Nguyên Lư vô biên và vô cùng minh triết cai quản tất cả mọi h́nh thức trong Vũ Trụ càn khôn, và sự thực hiện Chân Ngă để giúp cho con người có thể thấu đạt cái Nguyên Lư vô biên và hỗn hợp với Thượng Đế.
Những cuộc sưu tầm ráo riết và công phu hơn có lẽ sẽ chứng minh rằng những bia đá cổ này chỉ là những bổn sao được tạo nên để bảo tồn các tài liệu cổ trên các bản chánh nay đă bị thất lạc. Nếu giả thuyết này đúng, th́ các bia đá này đă được khắc vào thời kỳ sơ khai của nền văn minh cổ Ấn Độ. Dầu sao, theo chỗ chúng tôi biết, th́ thế giới văn minh hiện đại không có tài liệu cổ nào giống như thế. Những bia đá cổ với những tài liệu khắc trên đó vốn xuất xứ từ đâu mà ra, nếu không là từ cái Nguồn Gốc duy nhất?
Bốn tấm bia đá cổ vẫn c̣n đó, đang được dựng lên ở trước mặt chúng tôi, và mỗi tấm bia đáng giá cả một kho tàng của cải của một ông vua.
Câu chuyện tường thuật trên đây có vẻ hơi đi ra ngoài về mục đích chính yếu, nhưng chúng tôi thấy cần phải tŕnh bày một cách vắn tắt tối đa, những chuyện xảy ra ở nhiều nơi cách biệt rất xa, mà người ta đă t́m thấy những tài liệu có liên hệ trực tiếp đến những nền văn minh cổ xưa nhất thế giới. Chúng tôi cũng sẽ nói sơ qua về những nền nghệ thuật và văn hóa của họ, cùng những tư tưởng và động lực đă giúp cho nền văn minh ấy duy tŕ được sự sinh tồn của họ ở một tŕnh độ rất cao.
Vài nhóm người rất hiếm vẫn tiếp tục thực hành đời sống tâm linh cao cả. Những nhóm người đă một phần nào trở nên những ngọn đuốc soi đường cho nhân loại đang tiến hóa đến một cao điểm mới của lịch sử văn minh thế giới. Hăy c̣n chờ xe phải chăng những thiếu sót lỗi lầm của một thiểu số, được tăng cường bởi đa số nhân loại, có thể nào lại một lần nữa nhận ch́m thế giới và lôi cuốn phần đông loài người vào trong quên lăng trong một thời gian lâu dài.
Tấm mức quan sát của chúng tôi cho thấy rằng hiện tại có tiềm lực chứa đựng tất cả tương lai. Chỉ có những công tŕnh của hiện tại mới tạo nên tương lai. Nếu hiện tại đượ hoàn hảo, th́ tương lai cũng không khỏi được hoàn hảo. Không phải là sự hoàn hảo của hiện tại được nối tiếp theo trong tương lai. Chính cái ư thức về sự hoàn hảo hiện tại nó đưa đến cái ư thức của một tương lai toàn vẹn.
Dù chúng tôi đi đến đâu, chúng tôi cũng khám phá những dấu tích của một dân tộc, ở một thời kỳ nhất định nào đó, đă hoàn toàn sống trong hiện tại. Trọn cái tương lai của dân tộc ấy hoàn toàn phù hợp hoàn toàn đúng đắn với những công tŕnh hiện tại của họ, đến nỗi tương lai của họ không là cái nguồn gốc của lời răn: "Các ngươi chớ băn khoăn lo lắng ǵ về tương lai." Họ áp dụng điều này: "Hăy sống với hiện tại một cách thành thật, rồi tương lai cũng sẽ tốt đẹp an toàn."
Tư tưởng ấy luôn luôn tái xuất hiện trong những phong tục, tập quán, những bài dân ca, và những kinh cầu nguyện của họ.
Chúng tôi cũng nghiên cứu những chuyện huyền thoại về những âm binh vùng "Biển Cát," theo như danh từ của người Trung Hoa thường gọi vùng sa mạc Gobi. Ở nhiều nơi trên sa mạc, người ta nghe có tiếng nói dị kỳ. Nhiều khi chúng tôi nghe trong khoảng không, có tiếng người kêu gọi đúng tên họ chúng tôi. Có khi chúng tôi nghe thất tiếng động ồn ào huyên náo của một đám đông người dường như ở rất gần. Chúng tôi cũng thường nghe tiếng đàn do nhiều loại nhạc khí khác nhau, kèm theo với những giọng hát rất dịu dàng thánh thót. Chúng tôi đă từng nh́n thấy rất nhiều ảo ảnh và nghe tiếng động của những cồn cát di chuyển.
Chúng tôi chắc rằng những tầng lớp không khí ở một chiều cao nhất định nào đó bên trên băi sa mạc đă trở nên trong suốt đến nỗi vào những lúc mà tất cả những điều kiện bên ngoài đều hoàn toàn ḥa hợp với nhau đến mức tối đa, th́ nhữn lớp không khí ấy có tác động giống như những "Pḥng âm thanh," nó phản chiếu lại những âm ba rung động đă được phát ra trong thời quá khứ. Chúng tôi tin rằng những diễn biến xảy ra từ thời Trung Cổ đă được tái diễn lại được bằng cách đó.
Chúng tôi mắc bận rộn về những công việc đến nỗi mất cả ư thức về ngoại cảnh, và thời gian trôi qua mau như bay. Dưới sự chỉ dẫn của vị Lạt Ma cao niên, chúng tôi sao chép lại các tài liệu cổ trên các bia đá cùng những tài liệu khác nữa.
Buổi sáng ngày chúng tôi lên đường, thời tiết rất sáng sủa, quan đăng và mọi việc đă sắp đặc sẵn sàng cho chuyến đi bận về của chúng tôi đến Shigarzé. Chúng tôi đă từ giă tất cả những nhân vật hầu cận của đức Đạt Lai Lạt Ma. Một đám đông dân chúng cũng tề tựu trên các đường phố để tiễn đưa chúng tôi. Họ vẫy tay khắp nơi để ra dấu từ giă, hoặc chắp tay cầu nguyện cho chúng tôi được an toàn vô sự. Một phái đoàn đại diện dân chúng đă đi trước chúng tôi nhiều cây số đường trường, và năm chục người tiễn đưa chúng tôi đến tận Shagazé, trên vùng thượng lưu sông Brahmapoutre.
Trong khi chúng tôi đi gần tới thành phố này, tức là thành phố quan trọng thứ nh́ của xứ Tây Tạng sau thủ đô Lhassa, chúng tôi nh́n thấy tu viện Tashi Lumpo rất lớn, ở cách hai cây số ngoài thành phố. Một phái đoàn sư săi của tu viện này đă đi bộ trên năm cây số để tiếp đón chúng tôi và mời chúng tôi an nghỉ tại tu viện trong thời gian lưu trú tại đây.
Khi bước vào tu viện, chúng tôi cảm thấy một niềm an tĩnh thấm nhuần các gian pḥng như một sự hiện diện cao cả vô h́nh. Thật vậy, đó là nơi nghỉ ngơi lư tưởng trước khi bước chân lên đoạn đường sẽ đưa chúng tôi dến hồ Dolma và đến thị trấn Sansrawar.
Sau khi dùng bữa cơm chiều với vị Lạt Ma, chúng tôi bàn luận về những ngôi đền rất đẹp và rải rác khắp nơi trong thành phố. Kế đó câu chuyện xoay qua vấn đề khác biệt giữa các tín ngưỡng và tôn giáo. Một vị Lạt Ma rất cao niên nói:
- Các vị Lạt Ma và đạo sĩ Yogi không cùng chia sẻ những tin tưởng giống nhau. Ngưới Yogi không thể chấp nhận rằng giáo lư của bất cứ một người nào xướng ra là có giá trị quyết định độc đáo. Tất cả mọi người phải đạt tới sự thông suốt trong tự nội tâm của họ. C̣n những tu sĩ Lạt Ma giáo th́ tuân theo một cách chặt chẽ các giáo lư của đức Phật. Họ nghĩ rằng mỗi người đều đang tiến hóa và cứu cánh sẽ đạt tới quả vị tối cao của Phật. Một người Gia Tô sẽ đạt tới tŕnh độ tâm thức của đấng Chirst. Người Phật tử sẽ đắc quả vị của Phật Thích Ca...
Chúng tôi thấy sáu vị Lạt Ma cầm đầu một nhóm tu sĩ gọi là các Tu Sĩ đi Ta Bà. Nhóm sư săi ta bà này đi châu du khắp nơi, không tiền bạc chi cả, cũng không bao giờ khất thực. Họ không nhận lănh đồ vật hay tiền bạc của ai cả. Họ luôn luôn giao tiếp với nhau và với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tu viện. Nhóm tu sĩ ta bà này chia làm ba toán, mỗi toán có một vị Lạt Ma cầm đầu, tức là gồm một cơ cấu chỉ huy có chín vị Lạt Ma. Ba vị toán trưởng có thể ở ba xứ khác nhau. Mỗi vị sư săi đi ta bà luôn tiếp xúc với vị toán trưởng của ḿnh, và vị trưởng toán này giao tiếp thường xuyên với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tu viện. Các vị này giao tiếp với nhau bằng một phương pháp mà chúng tôi tạm gọi là chuyển tư tưởng v́ thiếu một danh từ chính xác hơn, nhưng chúng tôi biết rằng đó là một thứ mănh lực tinh tế hơn và chính xác hơn nhiều. Người ta gọi nó là atma, tức là sự giao cảm trực tiếp giữa linh hồn với linh hồn mà không có một vật ǵ làm trung gian. Chúng tôi đă gặp sáu vị Lạt Ma này và dùng buổi ăn sáng chung với các vị vào ngày hôm sau.
Vị Lạt Ma cho chúng tôi biết rằng người sẽ đi theo chúng tôi đến tận đền Pora Tat Sanga khi chúng tôi hoàn thành mọi công việc. Chúng tôi nhận lời, v́ vị Lạt Ma này là bạn thiết của vị hướng đạo vừa dẫn đường vừa làm thông ngôn cho chúng tôi. Cả hai người giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu các tài liệu cỗ.
Nguyễn Hữu Kiệt
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 329 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 4:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Á CHÂU HUYỀN BÍ
(Tiếp Theo)
Trong khi nói chuyện, vị Lạt Ma già nói một cách tự nhiên:
- Hai người đoàn viên đă từ giă các ông ngày thứ hai vừa rồi, sẽ đến Calcutta ngày hôm nay lúc mười một giờ ba mươi. Nếu các ông muốn tiếp xúc với họ, th́ có thể được.
Vị trưởng phái đoàn chúng tơi viết một bức thông điệp gọi hai đoàn viên ấy hăy đến thẳng Darjeeling để lo thu xếp về một công việc cần phải làm, và đợi chúng tôi đến vào ngày hai mươi bốn tháng tám. Y đề ngày trên bức thông điệp, chép một bổn sao để lại, và đưa bổn chánh cho vị Lạt Ma. Vị này đọc xong, xếp tờ giấy lại cẩn thận và để qua một bên. Sau đó, hai đoàn viên đă gặp lại chúng tôi tại Darjeeling ngày hai mươi bốn tháng tám. Họ đưa cho chúng tôi xem một bức thông điệp viết tay được chuyển giao đến tận tay họ sau khi họ đến Calcutta không đầy hai chục phút. Họ đă nghĩ rằng người đem thơ chắc là một thư tín viên được gửi đi từ trước với những chỉ thị rơ rệt. Bây giờ chúng tôi đă có bằng chứng cụ thể về những quyền năng thần giao cách cảm của các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nếu họ đă chứng tỏ quyền năng trên địa hạt nầy, chắn hẳn là họ cũng có thể nới rộng quyền năng trên những lănh vực khác nữa?
Chúng tôi hối hả lên đường đến Pora tat Sanga, v́ một số đông khách hành hương sẽ tựu họp lại đó vào mùa này là mùa thuận tiện cho một cuộc hội họp như vậy. Chúng tôi đi ngang qua thị trấn Gyantzé, tại đây chúng tôi được cho biết là sẽ gặp một một vị đệ tử rất đặc biệt, mà người ta gọi là vị "Vị đệ tử cười." Những giọng hát tiếng cười của y làm cho người ta nghe dứt hết mọi cơn sầu khổ, và giúp đỡ khách hành hương vượt qua những đoạn đường gau go khó khăn nhất lộ tŕnh của họ.
Khi chúng tôi bước vào sân tu viện, một người thanh niên lực lưỡng bước đến gần chúng tôi với nhữn lời chào mừng nghinh tiếp. Y cho chúng tôi biết rằng các vị Lạt Ma muốn mời chúng tôi ở lại tu viện trong thời gian lưu trú tại làng này. Chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ lên đường ngay ngày hôm sau, v́ chúng tôi phải đi gấp lên truông Phari. Y đáp:
- Chúng tôi biết rằng các bạn định đi tới Pora tat Sanga. Tôi cũng trở về đó sáng ngày mai và rất sung sướng mà được cùng đi với các bạn nếu các bạn cho phép!
Chúng tôi nhận lời. Với một chuỗi cười dài cởi mở, y đưa chúng tôi đến chỗ ngủ, trong gian pḥng lớn của tu viện. Sau khi đă xếp đặt cho chúng tôi được có đủ tiện nghi, y chúc chúng tôi nghỉ yên giấc, xin khiếu từ và nói y sẽ gặp lại chúng tôi rất sớm vào sáng ngày hôm sau. Y vừa bước đi vừa hát bằng giọng rất trong. Đó là vị "Đệ Tử Cười." Sáng ngày hôm sau, y đánh thức chúng tôi dậy bằng một giọng hát vang lừng và loan báo rằng bữa điểm tâm đă sẵn sàng.
Chúng tôi từ biệt các vị Lạt Ma, được các vị ban ân huệ trước khi lên đường, và thấy rằng mọi việc đă chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi của chúng tôi đến truông núi Phari. Truông này đưa du khách qua khỏi các đỉnh núi Phari và Kang La. Nói chung, đường đi rất cheo leo, nhưng ở những đoạn đường khó đi, th́ người đệ tử đi trước dẫn đường vừa hát và vừa cười. Trong những đoạn đường gồ ghề lồi lơm nhất, giọng hát của y vang rền và dường như đưa chúng tôi đi một cách dễ dàng êm ái.
Chúng tôi lên tới đỉnh truông núi vào lúc ba giờ chiều. Trạm nghỉ chân sắp tới của chúng tôi là thị trấn Manha Muni với một ngôi đền rất to lớn như pháo đài. Cũng như ở các nơi khác, tại đây chúng tôi được tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi được cho biết rằng người ta không cần giữ chúng tôi ở lại, v́ Chân Sư Pouridji đă đi trước chúng tôi đến đền Pora tat Sanga là nơi có rất nhiều đạo sĩ Yogi và tu sĩ các môn khác đă tề tựu rất đông tại đây. Ngày hôm sau, đám người hành hương tựu họp rất sớm v́ họ muốn đi sớm để được gặp Chân Sư Pourdji. Họ cũng muốn chiêm ngưỡng ngôi đền Pora tat Sanga là ngôi đền cao nhất thế giới, một ṭa kiến trúc mỹ lệ dựng trên một đỉnh núi cao. Tất cả đoàn người hành hương và chúng tôi đều lên đường. Ngọn Everest hùng vĩ nhô lên trước mặt chúng tôi dưới lớp áo tuyết trắng như pha lê và chiếu ánh sáng dịu của b́nh minh. Nó dường như mời mọc chúng tôi hăy cố gắng tiến thêm vài bước, chỉ vài bước nữa thôi, rồi đưa tay ra trước để nắm manh áo tuyết của nó. Nhưng mỗi khi chúng tôi tiến thêm vài bước, th́ khối đá khổng lồ vẫn lọt ra ngoài tầm tay chúng tôi. Chúng tôi đă vượt qua khỏi núi Chomolhari thật là treo leo hiểm trở, nhưng bây giờ chúng tôi đi một cách vô cùng vất vả trên một con đường mà thường khi chúng tôi phải ḅ trên bốn cẳng! Tuy nhiên, những giọng hát tiếng cười của người đệ tử vẫn đưa chúng tôi đi nhẹ nhàng thoải mái như lướt trên hai cách. Trong cơn hứng khởi, chúng tôi quên cả sự hiểm nguy, và dường như chúng tôi vượt qua những đoạn đường khó khăn một cách dễ dàng nhanh chóng. Chuyến đi ngày hôm ấy không có vẻ ǵ là lâu lắc hay mệt nhọc đối với chúng tôi, mà dường như chỉ kéo dài trong chốc lát. Những âm ba rung động của thần lực, của sự an tĩnh và điều ḥa toát ra từ các ngôi đền luôn luôn hấp dẫn người du khách đến những ngọn núi này. Thật không lạ ǵ mà thấy rằng dăy núi Tuyết Sơn vẫn gây nguồn cảm hứng tâm linh cho khách lữ hành, và các thi nhân vẫn luôn luôn ca tụng sự huy hoàng hùng vĩ của nó.
Sau cùng, đến chiều tối, chúng tôi đă vượt qua tất cả mọi nỗi khó khăn trên đường ṃn và dừng chân trên một khoảng đá bằng phẳng rộng lớn, ai nấy mệt nhoài và thở dốc. Nhiều ngôi đền rải rác xa xa, nhưng đền Pora tat Sanga đẹp như viên ngọc, nhô lên ở một chiều cao bảy trăm thước trên đầu chúng tôi, và chiếu một vầng ánh sáng rực rỡ, soi sáng tất cả các núi đá và đền miếu ở vùng chung quanh.
Đám người hành hương và chúng tôi cùng ngồi quây quần trong một hang đá rộng lớn. Chúng tôi ngạc nhiên mà nhận thấy rằng có cả phụ nữ trong đám hành hương. Không có sự kỳ thị hay phân biệt nam nữ trong những chuyến hành hương, ai muốn đi đều có thể xin gia nhập. Các vị Chân Sư đă từng sống ở tại đây. Chân Sư Niri cũng đă từng đi qua con đường ṃn của chúng tôi vừa đi. Hôm nay, nhà đạo sĩ Santi cao cả, khiết bạch và khiêm tốn, đă ngồi tọa thiền tại hang đá này và đang đắm ch́m trong cơn đại dịnh.
Chúng tôi hỏi làm sao t́m được nơi ăn chốn ở cho tất cả những người hành hương này? Vị Đệ Tử Cười cất tiếng hát:
- Đừng lo chi vấn đề nhà ở. Tại đây có đầy đủ thức ăn, chỗ ngủ và áo quần cho tất cả mọi người.
Kế đó, người đệ tử lại hát một giọng du dương:
- Xin mời tất cả mọi người hăy an tọa.
Khi chúng tôi vừa ngồi xuống th́ những chén thức ăn nóng và bổ dưỡng xuất hiện. Vị đạo sĩ Santi cũng đă xả thiền đứng dậy và bắt đầu chuyền thức ăn cho các du khách, với sự trợ giúp của người đệ tử và các người hành hương khác.
Khi ai nấy đều đă ăn uống no ḷng, tất cả khách hành hương đều đứng dậy và người ta đưa họ đi từng nhóm nhỏ đến các ngôi đền kế cận để nghỉ lại trong đêm đó.
Vị đệ tử đưa chúng tôi đến một ngôi đền tọa lạc trên một khối đá, ngăn cách chỗ chúng tôi bởi một vách đá dốc đứng chừng hai mươi lăm thước bề cao. Khi đến gần, chúng tôi nhận thấy một cây cột trụ dài, chân trụ chấm đất, c̣n ngọn th́ đỡ lấy các mơn đá de ra phía dưới ngôi đền. V́ cây cột trụ này dường như là phương tiện duy nhất để lên tới ngôi đền, nhóm chúng tôi tựu lại dưới chân trụ để t́m cách trèo lên. Trong một lúc, cái hy vọng duy nhất để có chỗ ngủ là ban đêm dường như tùy thuộc vào khả năng của chúng tôi để trèo lên cây trụ ấy. Nhưng người đệ tử nói:
- Các bạn chớ nên hấp tấp vội vàng.
Kế đó, y cất giọng lớn:
- Hỡi Thượng Đế mến yêu, chúng con sở cậy nơi Ngài để có chỗ trú trong đêm nay.
Ngay khi ấy, tất cả mọi người chung quanh chúng tôi đều giữ im lặng trong một lúc, rồi bằng một giọng đồng thanh ḥa tấu rất mănh liệt, họ thốt lên những lời này:
- Đó là quyền năng của Thượng Đế, AUM...
Trong khoảnh khắc, tất cả chúng tôi đă thấy ḿnh đứng trên mơn đá, và cùng đi với những người hành hương khác đến ngôi đền rải rác chung quanh, được chỉ định cho từng nhóm. Khi đến nơi, chúng tôi không c̣n giữ lại một dấu vết nào của sự mệt nhọc. Đêm đó chúng tôi ngủ yên giấc như trẻ con. Chúng tôi thầm nghĩ rằng nếu những rung động của thần lực toát ra từ nhóm người đó được sử dụng để san bằng núi non thành b́nh địa, th́ ắt là điều ấy vẫn có thể làm được!
Sáng ngày hôm sau, lúc bốn giờ, giọng hát mạnh mẽ rơ ràng của người đệ tử đánh thức chúng tôi dậy. Y hát:
- Cơi thiên nhiên đă thức dậy. Nhữn người con của thiên nhiên cũng phải thức giấc. B́nh minh của một ngày mới đă xuất hiện. Sự tự do của ngày này đang chờ đón các bạn AUM!
Chúng tôi đến gần chỗ mơm đá gie ra ngoài và gác lên đỉnh cột trụ trong ngàu hôm trước. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cột trụ đă thay thế bằng cầu thang rất chắc chắn. Khi xuống cầu thang, chúng tôi tự hỏi không biết có phải chúng tôi đă mơ hay chăng?
Người đệ tử đón chúng tôi dưới chân cầu thang nói:
- Không, các bạn không mơ đâu. Chính Chân Sư Pourdji đă mơ tưởng cái cầu thang trong đêm qua và đă đặt nó tại đây v́ sự ích lợi công cộng. Đó là giấc mơ trở thành sự thật đấy.
Trong khoảng khắc mười lăm ngày chúng tôi đă trải qua trong vùng này, mỗi ngày chúng tôi được ăn những thức ăn nóng hổi và bổ dưỡng không hề thấy có ai làm bếp hoặc nấu nướng ǵ, và được cung cấp thức ăn rất đầy đủ.
Người đệ tử và một người đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi Pora tat Sanga. Đường đi khởi đầu bằng những nấc thang tam cấp đục trong khối đá. Kế đó, người ta phải đi trên những tấm sàn gỗ bắc ngang để nối liền các khe hở giữa hai vách núi, tạo nên những vực thẳm dưới chân người lữ hành. Có những chỗ khác, người ta phải leo dây, mà một đâu dây được cột chặt với những mô đá đưa ra ở phía trên. Sau hai giờ đồng hồ, những người leo núi vẫn chưa có thể vượt qua mơm đá thứ nh́ chiều cao ở một trăm bảy mươi lăm thước cao hơn điểm khởi hành. Khi đó, họ mới nhận thấy rằng họ bắt buộc phải bỏ dở chuyến trèo núi này.
Nh́n thấy họ lưỡng lự và biết rơ vị trí khó khăn của họ, đạo sĩ Santi kêu Tonjnor Jung:
- Tại sao các anh không xuống đi?
Người đệ tử đáp:
- Chúng tôi thử đi xuống nhưng đá trơn quá không xuống được.
Y đă trải qua cái kinh nghiệm thông thường là trèo lên một vách đá hầu như trơn láng c̣n dễ hơn là xuống!
Khi đó, người đạo sĩ nói đùa:
- Nếu vậy, tại sao các anh không ở nguyên tại chỗ? Chúng tôi sẽ trở lại sáng ngày mai với đồ lương thực, và chắc chắn các anh sẽ có thể trèo lên tới đỉnh!
Kế đó, đạo sĩ yêu cầu hai người leo núi hăy hoàn toàn b́nh tĩnh, và hướng dẫn họ cẩn trọng trong ba tiếng đồng hồ để cho họ đi xuống được an toàn. Khi họ đă xuống tới đất và gặp lại chúng tôi, người Yogi mỉm cười và nói:
- Như thế là sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ tàn lụi dần.
Hai người thanh niên bèn ngước nh́n lên đỉnh núi với những cặp mắt đầy mong ước. Họ nói:
- Nếu Chân Sư Pourdji đang ở trên đó, chúng tôi thật là không may mà không gặp được ngài. Cuộc trèo núi này thật quá khó khăn đối với chúng tôi.
Người Yogi đáp:
- Các anh đừng lo ngại ǵ. Một vị cao cả hơn chúng tôi sẽ lo việc ấy. Bây giờ các anh hăy nghỉ ngơi, các anh đă khởi sự một cách tốt đẹp đó.
Chúng tôi bèn tự hỏi trong sự ngạc nhiên, bằng cách nào người ta có thể xây cất một ngôi đền trên chót núi như ngôi đền Pora tat Sanga.
Nhiều giọng nói thốt lên hỏi rằng bao giờ chúng tôi mới có thể gặp được Chân Sư. Người Yogi đáp:
- Chiều nay.
Thật vậy, chân sư Pouridji đă đến gặp chúng tôi trong buổi cơm chiều. Chúng tôi có nhắc đến việc trèo núi của hai người thanh niên bị thất bại. Chân Sư nói rằng hai người đă thành công trong việc trèo núi nhờ bởi mưu toan lần thứ hai mà họ đă làm trong tư tưởng.
Bốn giờ chiều ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều tựu họp trong hang đá ở phía dưới ngôi đền. Đạo sĩ Santi đang ngồi nhập định. Ba người trong nhóm bèn đi tới một tảng đá bằng phẳng và ngồi lên đó trong tư thế tọa thiền. Trong giây lát, tảng đá bay bổng lên trên không và chở ba người lên tới ngôi đền trên đỉnh núi.
Khi đó đạo sĩ Santi nói với người đệ tử và hai người nữa:
- Các anh sẵn sàng chưa?
Họ đáp là sẵn sàng và liền ngồi xuống một bên đạo sĩ trên tảng đá. Tảng đá này liền bắt đầu tự cất ḿnh nhẹ bổng lên và chở cả ba người lên đến trước sân đền. Kế đó, người ta mời chúng tôi đứng chung lại thành một nhóm. Tất cả mọi người đều đứng dậy. Những người đă lên tới đền từ trước bèn bước ra sân và bắt đầu hát thành ngữ AUM. Trong khoảnh khắc, chúng tôi đă thấy ḿnh không c̣n ở dưới đất nữa mà đă có mặt tại sân đền trên chót núi. Chỉ trong giây lát, tất cả chúng tôi đă tề tựu đông đủ tại ngôi đền cao nhất thế giới.
Khi chúng tôi đă ngồi an tọa, Chân Sư Pouridji cất tiếng nói:
- Nhiều người trong các bạn chưa hề nh́n thấy hiện tượng khinh thân và cho rằng đó là một phép lạ nhiệm mầu. Thật ra, đó không có ǵ lạ phép lạ cả. Đó chỉ là kết quả của một quyền năng tự nhiên của con người. Chúng tôi được truyền thụ phép ấy do bởi pháp môn Yoga cổ truyền. Trong quá khứ, nhiều người đă từng sử dụng quyền năng đó mà không ai cho là nhiệm mầu hết cả. Đức Phật cũng đă từng viếng thăm nhiều nơi xa xôi hẻo lánh bằng phương tiện khinh thân. Tôi từng thấy hằng ngh́n người đă đạt tới kết quả tương tự. Ngoài ra c̣n có những cách biểu lộ quyền năng cao hơn nhiều so với những ǵ các bạn sẽ được nh́n thấy. Những sự biểu lộ đó chứng minh sự hiện hữu của một sức mạnh vạn năng. Khi người ta hoàn toàn làm chủ được cái sức mạnh vạn năng đó, người ta có thể sử dụng nó để lấp biển dời non.
Các bạn ca tụng sự tự do, các bạn tuyên dương đức vô úy. Nhưng thay v́ các bạn quên mất sự nô lệ, và không c̣n nhắc đến nó nữa, các bạn vẫn c̣n nhớ đến nó một cách quá rơ, và chính là sự tự do mà các bạn đă quên. Một pháp môn Yoga thuần túy là một thông điệp tự do cho toàn thể thế giới.
Kế đó Chân Sư Pouridji thuyết giảng về ư nghĩa thần bí của thánh ngữ AUM. Sau khi dứt lời, ngài mời chúng tôi cùng đi theo ngài đến một động đá rất lớn ở dưới ḷng đất, tại đây, nhiều vị đạo sĩ Yogi đang ngồi tọa thiền nhập định. Chúng tôi ở lại ngôi đền và trong động đá này chín ngày. Nhiều vị Yogi đă từng sống tại động đá trong nhiều năm, và khi họ rời khỏi nơi vắng vẻ cô liêu, họ thực hiện những công tŕnh tốt đẹp về đạo đức tâm linh giữa những người của dân tộc họ.
Chúng tôi được cho biết rằng sau cuộc hội họp này, nhiều vị Chân Sư sẽ trở về Ấn Độ do con đường đi đến hồ Sansrawar và Mouktinath. Từ Mouktinath chúng tôi có thể đi dễ dàng đến Darjeeling. Đó là một tin lành, và triển vọng được đi chung với các đấng cao cả làm cho chúng tôi rất hănh diện.
Chúng tôi đi từ động này đến động khác và nói chuyện với nhiều tu sĩ và đạo sĩ Yogi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy nhiều vị trong số đó sống tại đây mùa đông cũng như mùa hè. Chúng tôi hỏi họ có bị lạnh v́ tuyết xuống nhiều vào mùa đông hay không. Họ đáp rằng tuyết không rơi xuống vùng chung quanh chỗ họ Ở, và vùng này không hề có sương mù hay băo tố.
Thời gian qua mau như thoi đưa, và bây giờ chúng tôi đă sắp đến ngày lên đường.
5. Chuyến Đi Trở Về
Sáng ngày chúng tôi lên đường, tất cả đoàn người đều thức dậy vào lúc ba giờ sáng do bởi tiếng hát vang của người "Đệ Tử Cười." Chúng tôi nghĩ là chắc có thể xảy ra chuyện ǵ khác thường, v́ y mời tất cả chúng tôi hội họp lại trong một lúc. Trong khi chúng tôi bước ra ngoài, ánh sáng từ đền Pora tat Sanga toát ra với một ánh hào quang rực rỡ đến nỗi tất cả vùng chung quanh đến chiếu sáng. Người đệ tử đứng ở một góc đền và yêu cầu chúng tôi chiêm ngưỡng cảnh tượng ấy trong im lặng. Chúng tôi thấy hàng trăm bóng người đứng yên, hai tay đưa lên. Cơn im lặng bị gián đoạn bởi những lời kêu gọi:
- Xin chào tất cả các bạn, Chân Sư Pouridji sắp sửa ngâm thánh ca.
Hằng ngh́n giọng cất lên phụ họa với giọng ngâm của ngài, và tiếng vang dội lại gây cho người nghe cái cảm giác là c̣n có hằng ngh́n giọng hát khác nữa. Mỗi chữ vang lên rơ ràng trong cơn im lặng của buổi b́nh minh. Chân Sư nói:
- Có thể nào có một vị Thượng Đế cho người Ấn Độ, một Thượng Đế cho người Trung Hoa, một Thượng Đế cho người Do Thái và một Thượng Đế cho người Gia Tô chăng? Chỉ có một Nguyên Lư duy nhất, đại đồng và thiêng liêng cai quản tất cả muôn loại vạn vật. Cái ánh sáng trung ương của Nguyên Lư ấy gọi là Thượng Đế. Thượng Đế phải là bao gồm hết tất cả. Tất cả đều thấm nhuần sự sống của Thượng Đế. Điều ấy, chắc hẳn không có nghĩa là có một vị Thượng Đế cá nhân, riêng biệt cho một nhóm người nào.
Khi chúng ta nói về Thượng Đế, chúng ta chỉ nói có một đấng Duy Nhất, Ngài là của tất cả, cho tất cả, trong tất cả và xuyên qua tất cả. Nếu người Ấn Độ đặt một tên cho Thượng Đế của họ, và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, th́ tư tưởng của họ đă có sự phân cách. Nếu người Trung Hoa đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, th́ tư tưởng của họ đă bị phân chia. Nếu người Do Thái đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, th́ tư tưởng của họ đă có sự cách biệt. Nếu người Gia Tô đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, th́ tư tưởng của họ cũng đă bị phân chia. Một cái nhà mà nó tự đă chia rẽ cách biệt, th́ đă bị tiêu diệt ngay từ trước, và nó phải sụp đổ. Nếu có hợp nhất, nó sẽ sống trường cửu. Các bạn hăy chọn lựa xem nên theo đằng nào. Chia rẽ, cách biệt có nghĩa là phá sản và diệt vong. Hợp nhất trong cái Nguyên Lư Âm Dương có nghĩa là tiến bộ, danh dự và quyền năng. AUM, AUM, AUM.
Tiếng thánh ngữ AUM này dường như vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Chúng tôi có thể nghe tiếng ngân vang của nó vang dội lại trong ít nhất là mười phút, dường như tiếng cồng của ngôi đền điểm giờ khắc trôi qua. Có những lúc, dường như các tảng đá cũng thốt ra tiếng ngân đó. Trong khi những âm hưởng vang dội lại đă tan dần, tất cả những người hành hương đều tề tựu trong hang đá ở phía dưới ngôi đền, và chúng tôi cũng họp chung với họ.
Khi nhóm chúng tôi đă ngồi xuống, đạo sĩ Santi đưa tay lên khỏi đầu, và tất cả mọi người đều đồng thanh cất tiếng ngâm thánh ngữ AUM như trước. Lại một lần nữa, những vách đá phản ảnh lại tiếng vang. Tiếng dội kéo dài cho đến khi chúng tôi đứng dậy, và tất cả đều giữ một lúc im lặng. Kế đó, người đệ tử cất tiếng hát:
- Chúng tôi sẽ từ giă các bạn. Chúng tôi gửi cho các bạn những lời chúc lành sâu đậm nhất, khi chúng tôi phải cách biệt với sự hiện diện khả ái của các bạn. Chúng tôi yêu cầu các bạn hăy dành cho chúng tôi cái danh dự được tiếp đón các bạn một lần nữa. Chúng tôi rất do dự phải chia tay với các bạn. Chúng tôi mong ước các bạn sẽ trở lại và có ngày sẽ tái ngộ với chúng tôi. Cầu xin cho các bạn hăy nhận được những ân huệ tốt đẹp của đấng thiêng liêng.
Câu trả lời đến ngay dường như chỉ thốt ra bởi một người:
- Các bạn thân mến, chúng ta không bao giờ cách biệt nhau dầu các bạn tưởng rằng không gian đào một vực thẳm giữa chúng ta, v́ Thượng Đế thấm nhuần tất cả không gian và nối liền với chúng tôi. Chúng tôi cũng không cảm thấy cần thốt ra lời từ giă các bạn không phải là những chuyến đi và đến. Các bạn luôn vẫn ở đây. Biệt ly, thời gian, quên lăng, không hề có. Hiện tại là ở đây, và tương lai là cũng ở đây. Chúng ta có thể ở tại nơi đâu, nếu không phải là tất cả cùng ở nơi Thượng Đế?
Chúng tôi đă đi được một quăng đường dài khi những lời sau này vọng đến tai chúng tôi. Những bước chân dong ruổi trên đường lộ đưa chúng tôi đi xa, nhưng ḷng chúng tôi vẫn c̣n ở Pora tat Sanga. Thật quả là không có sự biệt ly, và chúng tôi không hề cảm thấy rằng đă rời khỏi nơi thánh điện tôn nghiêm đó.
Trên đường về, người đệ tử đưa đường cho chúng tôi vẫn luôn luôn cất tiếng hát vang và cười rất vui vẻ. Cũng như lần trước, giọng hát tiếng cười của y dường như giúp chúng tôi vượt qua dễ dàng tất cả những đoạn đường khó khăn gập ghềnh. Vào lúc hai giờ trưa, chúng tôi đi qua thị trấn Maha Muni, nhưng thay v́ dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, chúng tôi vẫn tiếp tục đi thêm mười sáu giờ đồng hồ, và vượt qua trên một trăm hai chục cây số. Tuy vậy, chúng tôi không hề cảm thấy mệt nhọc chút nào, và cuộc hành tŕnh vẫn tiếp tục như thế cho đến bờ hồ Sanarawar.
Tại đây, người ta đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi đền rất mỹ lệ Ở gần bên bờ hồ. Chúng tôi nghỉ ngơi suốt hai ngày trước khi tiếp tục lộ tŕnh đi qua truông núi trên dăy Tuyết Sơn. Địa điểm này phong cảnh u nhă và có vẻ rất thần tiên. Hồ nước phẳng lặng và xanh biếc như viên ngọc nằm giữa một khung cảnh núi non hùng vĩ bao bọc chung quanh. Các loài chim ca hát líu lo trên các cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh hồ. Nhiều vị Chân Sư cùng đi với chúng tôi cư ngụ tại đây.
Chúng tôi tiếp tục lộ tŕnh đến Mouktinath cùng với đạo sĩ Santi. Chúng tôi thường nghe nói về sự cheo leo hiểm trở của truông núi trên dăy Tuyết Sơn. Chuyến du hành kéo dài suốt nhiều ngày, nhưng chúng tôi đi đường một cách dễ dàng suôn sẽ và đến Mouktinath đúng ngày giờ đă định. Tại đây, chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của đức Tuệ Minh và nhiều vị siêu nhân khác. Những lời nói không thể nào diễn tả được sự vui mừng vô hạn của chúng tôi trong dịp tái ngộ này. Chúng tôi đă từng đi đến tận những vùng xa xôi cách trở, và đă được dành cho một sự tiếp đăi trọng hậu và khả ái nhất đời. Tuy nhiên, chính tại đây mà chúng tôi mới cảm thấy ḿnh đă thật sự "Trở về nhà."
Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 330 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 4:04am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN NHẢN VÀ ÂM DƯƠNG NHẢN
Trong kinh Phật gọi Thiên Nhản là Thiên Nhản Trí Thí Thông, có nghĩa là năng lực của Thiên Nhản là sự biểu hiện của trí huệ, có được năng lực thần thông vạn năng.
Tuy nhiên trong mắt của người tu tŕ Thiên Nhản là do bẩm sinh mà có, chớ không phải có được nhờ sự tu hành .
Thiên Nhản Thông chỉ có những vị Thần Tiên trong chuyện thần thoại mới có được, thật ra khả năng có Thiên Nhản chỉ là một hư cấu trong trí tưởng tượng của con người mà thôi, bởi v́ xưa nay không có một người nào có được thiên nhản và thấy được thiên nhản là như thế nào ?
Âm Dương Nhản, tức cặp mắt âm dương th́ có nhiều người bẩm sanh đả có được hoặc, người ta đả thấy được và nghe được, nhiều người đả có được âm dương nhản.
Những người có được âm dương nhản, có thể thấy được ảnh vô h́nh của linh giới như quỷ thần , hoặc họ có thể tiên liệu sự việc có thể sẻ xảy ra trong tương lai, họ c̣n có thể xem trong ḿnh người khác đả có bệnh ǵ xảy ra.
Nhưng sự thủ đắc cặp mắt âm dương được h́nh thành, thông thường nhờ thông qua sự t́m thầy học đạo, tập luyện thần thông, hoặc có người sau một thời gian tập luyện khí công, và không biết làm sao mà tự nhiên, đả làm khơi hoạt được cặp mắt âm dương nhản này.
Có người sau một cơn trọng bệnh, hoặc bị thương tích nào đó, th́ liền có được cặp mắt âm dương, có người th́ đả có từ nhỏ, có người th́ tự nhiên trong một lúc bần thần xáo trộn nào đó, tự nhiên có được cặp mắt âm dương .
Những người khi thủ đắc được âm dương nhản , mặc dù là có thị lực hơn người thường, nhưng bản thân họ cũng không thể giải thích được hiện tượng này ?
Do đó hiện nay có rất nhiều người khai mở được âm dương nhản, có thể xem thấy được những linh thể vô h́nh.. nên đả tự xưng là có được thiên nhản thông, và mở lớp thu nhập học viên để giảng dạy cách khai mở thiên nhản này.
Theo sự nh́n nhận của đại đa số, th́ thật ra không thể phân biệt được sự khác nhau giửa thiên nhản và âm dương nhản là như thế nào ?
Bởi v́ những người đả có được âm dương nhản, tự thân cũng không biết là thiên nhản hay là âm dương nhản, nên đả có người tự nhận rằng ḿnh có thiên nhản, và âm dương nhản và thiên nhản là giống nhau.
Trên thực tế, thiên nhản và âm dương nhản có nhiều chổ khác nhau:
Tùy theo năng lực khác nhau, tổng quát có năm loại mắt là: Thứ nhất là mắt thường.
Nhục nhản nh́n thấy được các vật hữu h́nh.
Âm dương nhản là mắt thứ hai.
Thiên nhản là mắt thứ ba.
Pháp nhản là mắt thứ tư.
Phật nhản là mắt thứ năm.
Trừ những người bị mù c̣n cặp mắt thịt th́ mọi người sanh ra đả có, c̣n lại các loại mắt khác th́ cần phải thông qua sự tu tŕ bí pháp đặc biệt, th́ mới có thể sở đắc được.
Từ xưa đến nay chỉ có Đức Quán Thế Âm Bồ Tát , Phật Thích Ca Như Lai và Đức Chúa Jesus mới có được những loại mắt này.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến sự khác biệt giữa âm dương nhản và thiên nhản mà thôi.
1. Âm Dương Nhản: Là do sự tu tŕ bí pháp linh giới mà thụ đắc, có người do sự tu hành trong tôn giáo mà có được, có người do thần linh nhập thể mà có được, có người do một phút boàng hoàng hốt hoảng nào đó cũng có được mắt âm dương.
Có một số người khi có được âm dương nhản th́ rất mừng vui, v́ có thể nh́n thấy được linh khí, linh thể hoặc thấy được những việc có thể xảy ra trong tương lai hoặc xem bệnh..
Nhưng có một số người khi có được cặp mắt âm dương, nhưng trí huệ và kiến thức về cỏi linh giới hay tâm linh không có nhiều, nên cảm thấy sự có được cặp mắt âm dương mang đến sự phiền phức và khổ nảo cho họ.
Nhiều khi những cái họ muốn nh́n thấy th́ không thể nh́n thấy, c̣n những cái họ không muốn nh́n thấy th́ lại bổng nhiên hiện ra trước mắt, có khi họ nh́n thấy những h́nh ảnh kinh dị của linh khí hoặc linh thể, làm họ hoảng hốt và những hiện tượng này xảy ra tùy thời gian và nơi chốn khác nhau không nhất định, nên cặp mắt âm dương nầy đả làm xáo trộn cuộc sống hằng ngày của họ.
Nên những người này cần phải biết rằng, dù thấy hay không thấy, kinh dị ghê sợ hay đẹp đẻ th́ cũng đừng chú ư đến chúng, v́ chúng dù sao cũng là h́nh ảnh mà thôi, nếu ta không chú ư đến chúng nó và không sợ nó th́ ta không bị nó ảnh hưởng.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường th́ dể đi đến điên loạn, c̣n nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là b́nh thường, ta làm việc của ta nó làm việc của nó, đường ai nấy đi th́ mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận những h́nh ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành, giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khơe mạnh và hạnh phúc, th́ ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi.
Do đó, ngoại trừ những người mở được cặp mắt âm dương nhờ sự chỉ dẩn của minh sư, qua sự chuyên tu để mở âm dương nhản, th́ họ có thể sử dụng một cách tùy ư thích.
C̣n đại đa số những trường hợp khác, do sự bột phát tự nhiên hay do thương tật, tai nạn, bệnh tật mà làm khai phát cặp mắt âm dương, th́ họ không biết cách sử dụng khả năng này một cách tùy ư thích, và thường không có sự chuẩn bị tâm lư cho việc sử dụng khả nầy này, nên thường bị hoảng sợ khi thấy được những cảnh của cỏi linh giới.
Nên có một số người cảm thấy không thích, khi họ bổng nhiên có được khả năng này, nhưng không biết làm sao cho nó mất đi, để có được cuộc sống an lạc khi xưa .
Chỉ c̣n một cách là học hỏi và t́m hiểu thêm, những kiến thức về âm dương nhản, thiên nhản hay những kiến thức về tâm linh, nay đả có rất nhiều ở sách vở và trên các mạng lưới internet tâm linh, mổi ngày đều cập nhật hóa và phong phú hơn.
2. C̣n cách thức hai là dù có nh́n thấy hay không thấy những h́nh ảnh hay cảnh vật kinh dị, ghê sợ hay đẹp đẻ th́ ta cũng đừng chú ư đến chúng, v́ chúng dù sao cũng là h́nh ảnh hay chỉ là ảo ảnh mà thôi, nếu ta không chú ư đến chúng nó và không sợ nó th́ ta không bị nó ảnh hưởng.
THẤY QUÁI DỊ MÀ KHÔNG CHO LÀ QUÁI DỊ, TH̀ SỰ QUÁI DỊ ĐÓ SẺ TỰ TAN BIẾN.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường th́ dể đi đến xáo trộn sinh hoạt thường ngày.
C̣n nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là b́nh thường, ta làm việc của ta, nó làm việc của nó, đường ai nấy đi, th́ mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận chọn lọc những h́nh ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khơe mạnh và hạnh phúc th́ ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi .
C̣n những thông tin mà không phù hợp đạo đức luân thường của con người, th́ không nên tin và làm theo, nếu không th́ sẻ bị quả báo nhản tiền cho thân tâm ngay trong kiếp nà̀y.
Nên cần cẩn thận mà sớm tránh xa nó, để thân tâm luôn được an lạc và hưởng được những quả lành, của sự thủ đắc khả năng của cặp mắt âm dương này.
ÁNH SÁNG T2
ÚC CHÂU
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 331 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 10:35am | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN TRONG PHÚT HẤP HỐI
Con người đă và đang t́m kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học thực sự lúng túng khi một số người đă kể lại cái chết cho biết những ǵ mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống.
Vào năm 1957, tại một sân bay nhỏ của Anh đă xảy ra tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sĩ ngồi ghế phía sau bị văng khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi mà ông ngă gục không thể nào nh́n được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng là người đó thấy rơ tất cả những ǵ xảy ra ở sân bay.
Nạn nhân thấy thân thể của ông ta nằm bất động ở phía dưới ḿnh khoảng 60m, thấy cả người hoa tiêu và phi công dính máu đang chạy về phía ḿnh. Việc những người đó biểu lộ sự chú ư đối với thân thể của ông đă làm bác sĩ ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh.
Sau đó, nạn nhân thấy một ôtô cứu thương từ nhà để xe đi ra và một bác sĩ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại một trạm xá và lấy theo một thiết bị. Tiếp đó, nạn nhân theo dơi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang "thi thể" của ông tới bệnh viện thành phố. Thân thể nạn nhân được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc.
Ông ta cảm thấy mùi khó chịu của clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ư thức rơ ràng và b́nh thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại quay vào "trong" thân thể bị thương, kèm theo cảm giác đau đớn. Sau này do ṭ ṃ, người đó đă phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Vào năm 1892, một nhà địa chất người Thụy Sĩ tên là Enbơ Hem bị trượt ngă xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của ḿnh trong khoảnh khoắc hoàn toàn thất vọng, nhà địa chất đă thu thập được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các "đồng sự" của ḿnh đều trải qua một cái ǵ đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đă được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đă có nhiều kết quả.
Khi rơi từ độ cao lớn, ở thời điểm đầu tiên, con người trải qua sự sợ hăi mạnh mẽ, t́m kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không tránh khỏi và các ư định thoát thân đă rời khỏi năo bộ. Cái chết không c̣n làm kinh hoàng và phiền muộn, nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm lo lắng: xót xa v́ rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh...
Nếu thời gian rơi đủ dài th́ sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba, hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng h́nh ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những h́nh ảnh ấy mănh liệt đến mức nào c̣n tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi con người.
Vào năm 1972, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngă từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: "Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết, nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đă chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy khuôn mặt mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy các bạn bè ...".
C̣n Hem lại mô tả bức tranh quá khứ như sau: "Tôi thấy ḿnh là đứa bé bảy tuổi đi đến trường học, rồi thấy ḿnh hồi lớp bốn cùng với thầy giáo yêu quư".
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và chuyển qua một trạng thái thần bí. Khi một người rơi xuống vực thẳm th́ người đó hiểu được rằng, thân thể của ḿnh sẽ va vào đá và bị hủy hoại, xương sẽ găy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan tới cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến "thân xác" của ḿnh.
Sự cảm nhận của nạn nhân bị xâm chiếm bởi các ư nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương. Một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời mày hồng và màu lam lộng lẫy, ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rơ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về với sự sống.
Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hăi. Trường hợp như vậy đă xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng Đevit Lêvingxtơn tại một vùng rừng Phi Châu. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cắn xé. Nạn nhân ngă sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. Con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông bật dậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người chết lâm sàng đă được phân tích tỉ mỉ trong cuốn sách của R.Mouđi: Cuộc sống sau cái chết. Những người như vậy trải qua một cái ǵ đó giống nhau, mặc dù độ rơ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ "thân xác" và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. Sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự cố của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc giục họ trở lại với "thân xác" v́ c̣n chưa tới lúc "chuyển tiếp"...
Một câu hỏi hay được đặt ra là làm thế nào để phân biệt một người bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết?
Lịch sử y học đă chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XI, Anđrei Vazali bị kết án tử h́nh v́ đă giải phẫu thân thể một nhà quư tộc Tây Ban Nha. Người này đă tỉnh lại trên bàn mổ và b́nh phục trở lại. Tuy thế, bản án đối với AVazali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan toà đă dựng lên án đó, chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một "tử thi" sống lại, đă nắm chặt lấy cổ và tay nhà phẫu thuật bệnh lư khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Một nhà thơ tên là Patrarka đă hồi tỉnh trước khi đưa đi mai táng 4 giờ và c̣n sống thêm được 30 năm nữa.
Một người phục vụ ở Vatican được coi là đă chết do bệnh hen. Trong số các bác sĩ làm nhiệm vụ có một người rất cẩn thận, đă đưa ngọn nến đến gần mắt người chết. "Tử thi" co giật mạnh và sau đó c̣n sống được khá lâu, với một cái sẹo trên mũi do bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sĩ có uy tín của Anh đă tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2.500 người bị chôn sống.
Có thể điều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người c̣n sống đă bị chôn vùi. Chính tại Anh và cuối những năm 60, đă xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim. Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đă phát hiện được một cô gái c̣n sống nằm giữa các tử thi.
Những điều nêu trên cho thấy rằng, giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rơ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngưng thở được coi là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan niệm đó đă bị phủ nhận hoàn toàn.
Một số nhà Yoga có thể tự ngừng thở mà sau đó vẫn sống khoẻ mạnh. Dấu hiệu khác của cái chết là sự mất mạch và sự ngừng hoạt động của tim. Tuy nhiên, điều đó không phải bao giờ cùng đúng. Các nhà Yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đă có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24ºC mà họ vẫn không chết.
Một cậu bé ở Thụy Điển được t́m thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18ºC, nhưng đă b́nh phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (như tả, đậu mùa, uốn váng) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhăn cầu hay sự cứng đờ của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Hơn nữa, một số cơ quan tiếp tục hoạt động sau thời điểm chết lâm sàng. Cái chết tiến đến không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hoá dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không thể là dấu hiệu của cái chết, bởi v́ trường sinh học ở một số người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử th́ có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung năo đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân bị chết lâm sàng chỉ mấy phút. Bởi v́ nếu để lâu quá th́ trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại.
Tất cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ư chúng ta hăy thận trọng khi xem xét các quá tŕnh xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
DĐDN (s.t)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 332 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 10:51am | Đă lưu IP
|
|
|
GƯƠNG LƠM DIỆU KỲ
Năm 212 trước Công nguyên, đoàn thuyền La Mă đang vây thành Syracuse (thuộc Hy Lạp), bỗng trên mặt thành xuất hiện vô số tấm gương phản chiếu ánh nắng mặt trời, khiến đoàn thuyền bốc cháy. Nhà bác học Hy Lạp Archimet đă lợi dụng hiệu ứng gương lơm để tập trung ánh sáng vào một điểm, thiêu cháy kẻ địch.
Người xưa từng sử dụng gương lơm vào nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là trong các tṛ pháp thuật. Gương lơm vốn tạo được một thế ánh sáng không hắt bóng ở tiêu điểm của ḿnh. Các thầy phù thủy và các nhà pháp thuật cho rằng chính ở tiêu điểm của gương lơm tập trung một nguồn năng lượng sinh học vô h́nh, và nếu mắt ai lọt được vào đúng tiêu điểm ấy th́ người đó sẽ có khả năng thấu thị.
Ở nhiều dân tộc có tục gọi hồn người đă khuất bằng chén hoặc chậu đồng ḷng cong, mặt trong nhẵn bóng như gương, thực chất cũng là một dạng gương lơm. Năm 1950, trong một hang sâu ở Epire thuộc miền tây Hy Lạp, nhà khảo cổ Sotir Dakar t́m thấy một chiếc nồi đồng rất lớn, mặt trong nhẵn bóng, có niên đại khoảng 3.000 năm.
Điều kỳ lạ là hễ đưa mắt đến sát mặt phẳng miệng nồi nh́n vào trong, người ta có thể thấy những h́nh ảnh huyền ảo rất lạ lùng, kỳ bí, đặc biệt là mỗi người lại nh́n thấy một h́nh ảnh khác nhau và cùng một người nhưng nh́n ở hai thời điểm khác nhau th́ h́nh ảnh nh́n thấy cũng khác nhau.
Đó là những h́nh ảnh quang cảnh hoặc người, thú vật nhưng ở thời kỳ thời rất xa xưa. Tính toán theo độ cong của đáy nồi, người ta xác định được tiêu điểm của mặt cong này nằm đúng tâm của mặt phẳng miệng nồi. Đáng tiếc là chẳng bao lâu sau, chiếc nồi này bị đánh cắp từ kho của một viện bảo tàng ở Hy Lạp và từ đó đến nay không ai biết ǵ về số phận của nó.
Ở một số dân tộc, các nhà tiên tri lại sử dụng gương lơm để đoán hậu vận. Các pháp sư Ấn Độ thường dùng gương lơm mặt trong tráng vàng, nhưng cũng có người lại ưa dùng loại gương làm bằng sắt ṛng. Sắt nguyên chất, tinh khiết đến 99,999% không bao giờ bị sét rỉ, khi được đánh kỹ th́ cho độ bóng tuyệt hảo và gương sắt được gọi là "gương của hoàng đế Solomon", được đánh giá rất cao trong giới pháp sư chuyên phán hậu vậu cho mọi người. B́nh nguyên Naska với hàng triệu đường hào thẳng tắp, nhằng nhịt. Cũng có những loại gương lơm của người xưa mà công dụng của chúng cho tới nay vẫn c̣n là điều bí ẩn.
Chẳng hạn những chiếc gương được t́m thấy rất nhiều ở gần khu vườn h́nh học Naska ở Peru. Những chiếc gương này có đường kính khoảng nửa mét, hơi cong, được làm bằng hợp kim vàng, bạc và đồng, mặt trong được đánh rất nhẵn. V́ mặt gương chỉ hơi lơm nên gương có tiêu cự đến vài kilomét.
Do mặt gương rất bóng nên sức phản chiếu rất mạnh: ánh nắng mặt trời hắt ra từ gương có thể nh́n thấy rơ ở tiêu điểm, dù nơi đó cách mặt gương hàng cây số. Người ta không hiểu thổ dân da đỏ Inka cổ xưa dùng những tấm gương này làm ǵ. Căn cứ vào khả năng chiếu xa của chúng, có thể đoán họ dùng chúng như một công cụ truyền tín hiệu. Cũng có thể đó là một công cụ xác lập đường thẳng (tại b́nh nguyên Naska có hàng triệu đường hào cắt nhau nhằng nhịt, mỗi đường hào dài hàng chục đến hàng trăm kilomét nhưng đều thẳng tuyệt đối).
Không ít phát minh khoa học ra đời từ gương lơm. Nhà bác học người Anh Roger Bacon (1214-1294) từng sở hữu những tấm gương lơm "bách khoa". Người đương thời coi ông là "nhà phù thuỷ vĩ đại", song theo cách hiểu ngày nay, ông là một nhà thực nghiệm cần mẫn, suốt đời khám phá những bí ẩn của tự nhiên. Không chỉ là nhà vạn vật học, Bacon c̣n là nhà "vạn sự vật học" v́ đă lao vào hầu hết mọi lĩnh vực của cả khoa học tự nhiên lẫn xă hội.
Ông đă chế ra hai tấm gương lơm kỳ diệu, đem giảng dạy ở Đại học Oxford. Với tấm gương thứ nhất, người ta có thể đốt nến vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, bằng cách đưa đầu ngọn nến vào đúng tiêu điểm của gương. Tấm gương thứ hai có khả năng giúp người sử dụng nh́n thấy quang cảnh của bất cứ nơi nào trên trái đất nếu mắt người nằm ở đúng vị trí cần thiết cách mặt gương một khoảng nhất định nào đó; nếu xê lệch gương sang góc khác và mắt người cũng di chuyển theo cách thích hợp th́ sẽ nh́n thấy một quang cảnh khác.
Cứ như toàn bộ quang cảnh trên bề mặt trái đất được phản ánh lên một tấm gương nào đó ở thượng tầng không khí rồi phản ánh ngược vào tấm gương kỳ diệu của Bacon. Tấm gương thứ nhất bị các giáo sư đồng nghiệp phản đối v́ sinh viên suốt ngày chỉ chăm chỉ thực tập đốt nến mà không đoái hoài ǵ đến sách vở và các loại thí nghiệm khác. Tấm gương thứ hai th́ bị giáo hội cáo buộc là một vật "tà đạo". Kết quả là cả hai bị đập nát và Bacon bị tước quyền giảng dạy.
Cũng do vụ rắc rối trên đây mà nhiều tài liệu, sách vở, những ghi chép... của Bacon bị đốt bỏ. Nhưng những ǵ c̣n lại đến ngày nay cũng cho biết rằng chính ông là người đầu tiên dự đoán sự ra đời của kính hiển vi, kính viễn vọng, động cơ cho ôtô, máy bay, tàu thuỷ. Hàng trăm năm trước khi Berthold Schwarz chế tạo ra thuốc súng, Bacon đă có những ghi chép về thành phần hoá học cũng như nguyên lư hoạt động của một loại chất có thể gây cháy nổ tương tự như thuốc súng về sau.
Cũng chính nhờ vào kết quả những thực nghiệm về quang học của Bacon mà kính đeo mắt được ra đời vào năm 1287. Những ghi chép của Bacon c̣n cho thấy ông đă mường tượng được cấu trúc tế bào, hiểu được thực chất của quá tŕnh thụ thai chính là sự kết hợp của tinh trùng và trứng. Ngoài ra, Bacon c̣n nắm được nguồn gốc một dạng năng lượng mà tính ra c̣n mạnh hơn gấp nhiều lần năng lượng nguyên tử!
Nhờ đâu Bacon có được những hiểu biết sâu rộng như vậy, khi mà ông sống ở thế kỷ 13, trước vài trăm năm so với các nhà bác học hàng đầu thế giới như Giordano Bruno, Galileo Galilei, Leornado da Vinci, Isaac Newton, Albert Einstein... với những phát minh về sau mới trở thành tri thức của nhân loại? Các nhà bác học cho rằng đó là v́ ông chế tạo ra được những dụng cụ khoa học đặc biệt hoặc được hưởng những dụng cụ như vậy từ một nguồn gốc bí ẩn nào đó.
Một trong những loại dụng cụ đặc biệt ấy chính là gương lơm. Trong những ghi chép của Bacon c̣n lại đến ngày nay có một tài liệu cho biết ông đă "nh́n thấy bằng gương lơm một ngôi sao h́nh con ốc sên nằm ở khoảng giữa các cḥm sao Pegas, Andromed và Kassiopei". Thật đáng kinh ngạc là 400 năm sau, vào thế kỷ 17, với những kính viễn vọng mạnh, các nhà thiên văn học châu Âu đă t́m ra tinh vân Andromed h́nh xoắn ốc ở đúng ngay vị trí này.
Tại sao gương lơm lại có những khả năng đặc biệt như vậy? Chưa ai có thể giải đáp thấu triệt, nhưng đại để, cũng như gương phẳng, gương lơm phản xạ những năng lượng nh́n thấy được và không nh́n thấy được, thậm chí cả những bức xạ tinh tế của cơ thể con người, nhưng gương lơm có thể gia cường những dạng năng lượng này. Đặc biệt, chỉ gương lơm mới tạo ra được tiêu điểm, điểm hội tụ tất cả những tia phản xạ. Đây cũng chính là điểm mấu chốt của những ǵ được coi là khả năng huyền bí, diệu kỳ của gương lơm.
Năm 1667, các nhà khoa học ở viện hàn lâm khoa học Florentie đă làm một thí nghiệm sau: hướng mặt gương lơm về phía một khối băng lớn đặt ở khoảng cách khá xa và kết quả đo đạc cho thấy nhiệt độ ở tiêu điểm của gương lơm thấp hơn đáng kể so với nhiệt độ không khí xung quanh. Các viện sĩ kết luận rằng vật lạnh cũng phát ra bức xạ lạnh, tương tự như vật thể nóng phát ra bức xạ nhiệt.
Ngày nay chúng ta biết rằng không hề có cái gọi là "bức xạ lạnh". Căn cứ trên quy luật nhiệt động học, khoa học hiện đại chứng minh được rằng thực ra không phải "tia lạnh" hội tụ ở tiêu điểm gương lơm mà chính là do nhiệt ở điểm đó có xu hướng thoát ra môi trường xung quanh. Như vậy, gương lơm có đặc tính không chỉ của một ăngten thu mà c̣n của ăngten phát. Ngày nay, các ăngten thu phát sóng vô tuyến truyền thanh, truyền h́nh đều có dạng ḷng chảo (ăngten parabol) là v́ thế.
Gương lơm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà c̣n có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin. Vào khoảng cuối thập niên 1980, giáo sư Kozyrev, người Nga, đă chế tạo một hệ thống gương lơm bằng nhôm để nghiên cứu các loại bức xạ khác nhau, trong đó có cả những bức xạ từ các sinh thể. Thật kỳ diệu, hệ thống gương Kozyrev c̣n phát huy tác dụng trong một hoạt động được gọi là tác động từ xa.
Vào đầu thập niên 1990, các nhà khoa học ở Phân viện hàn lâm khoa học Nga tại Novosibirsk đă tiến hành một số thí nghiệm với gương lơm Kozyrev và thu được những kết quả đáng kinh ngạc, trong đó phải kể đến cuộc thí nghiệm trao đổi thông tin giữa những người xa lạ ở cách nhau nửa ṿng trái đất mà không cần đến một thiết bị kỹ thuật liên lạc nào, với sự tham gia của hơn 4.000 người ở 22 quốc gia khác nhau. Nhưng gương lơm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà c̣n có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin.
Năm 1997, Hội cổ vật Pháp yêu cầu báo chí phổ biến rộng răi lời cảnh báo đối với những người sưu tầm đồ cổ nói riêng và dân chúng nói chung là không nên lưu giữ, mua hoặc bán một chiếc gương cổ có ḍng chữ "Louis Arpo, năm 1743" trên khung bao, nếu có nó trong tay, hăy mau đem nộp cho chính quyền hoặc cảnh sát. Theo thống kê của các nhà thi hành luật pháp nước này, cho đến đầu thế kỷ 20, trong gần 200 năm tồn tại và qua tay nhiều chủ, chiếc gương đă gây cái chết cho tổng cộng 38 người.
Cần biết rằng đây là một chiếc gương hơi lơm, có thể phóng to h́nh ảnh lên một chút, rất thuận tiện cho các bà các cô dùng để sửa lông mi, kẻ lông mày và thực hiện một số trang điểm tinh tế trên mặt.
Từng có nhiều giả thuyết khác nhau về cơ chế gây hại của nó. Có người cho rằng đây là một chiếc gương đặc biệt, có khả năng phản chiếu những tia sáng dị thường gây xuất huyết năo. Người khác đoán rằng chiếc gương đă tích tụ những nguồn năng lượng siêu nhiên nào đó rồi phản ánh, tác động lên người đối diện. Lại có người cho rằng đó là một chiếc gương chứa phép thuật, có thể h́nh dung như một cái phễu, hút linh hồn con người sang thế giới bên kia.
Tất cả chỉ là phỏng đoán, chưa có một nghiên cứu khoa học nào, v́ chiếc gương này bị nhốt trong kho suốt gần 1 thế kỷ và khi có nhà khoa học nhớ tới th́ nó đă không cánh mà bay. Dù sao, các nhà khoa học vẫn cố gắng t́m lời giải đáp cho những cái chết bí ẩn mà người ta cho rằng do chính chiếc gương nọ gây ra.
Theo một luận thuyết th́ gương có một đặc tính gần như nam châm: hút và lưu giữ những chất độc. Từ thế kỷ 17, nhà triết học người Italy Tomaso Campanella (tác giả cuốn sách Thành phố mặt trời, được coi là tuyên ngôn của chủ nghĩa xă hội không tưởng) từng viết: "Những phụ nữ già yếu hay nhỏ đờm giăi và chảy nước mắt sống, hơi thở nặng mùi, mỗi khi soi gương th́ làm cho gương mờ đi do tác động của những chất độc hại thoát ra từ nước mắt, đờm giăi và hơi thở...".
Năm 1739, các nhà khoa học ở Viện hàn lâm khoa học Pháp cũng có một kết luận tương tự, được ghi thành văn bản hẳn hoi: "Khi một người phụ nữ già yếu ngồi trước gương lâu hơn cần thiết, trên mặt gương sẽ tích tụ hơi ẩm chứa những chất không tốt từ người đó. Các phân tích hóa học cho thấy những chất đó rất độc hại...".
Kết luận này phần nào lư giải điều kiêng kỵ trong dân gian: không được soi gương khi đang ốm đau hay cảm thấy mệt mỏi trong người, thậm chí khi tâm trạng có điều ǵ buồn bực. Người ta cho rằng những lúc như thế, trong người thường phát ra hơi độc, hơi độc này được gương hấp thu rồi sau đó phát ra rất mạnh, gây ảnh hưởng không tốt đến người sử dụng gương sau đó.
Tuy nhiên, theo các nhà khoa học hiện đại, chiếc gương Louis Arpo nếu thật sự gây ra cái chết cho mấy chục người th́ cũng không phải do chất độc tích tụ trên mặt gương. Chất độc, dù mạnh đến mấy, cũng có thể lau rửa dễ dàng, đặt biệt là trên mặt gương sáng bóng, mà suốt mấy trăm năm lẽ nào chiếc gương này không được lau rửa một lần? Nhưng có thể tiếp cận vấn đề từ một hướng khác: rất có thể chiếc gương đă tích tụ, lưu giữ và rồi phát ra một lượng thông tin nào đó, hay nói đơn giản, đó là một chiếc gương có kư ức...
Chiếc gương treo hay đặt trong nhà chính là một nhân chứng thầm lặng, chứng kiến toàn bộ những ǵ xảy ra trong thị trường của ḿnh. Nói cách khác, nó như là một chiếc máy quay phim ghi lại tất cả những ǵ diễn ra trước "ống kính" của ḿnh. Song chúng ta ai cũng biết rằng h́nh ảnh phản chiếu trong gương chỉ là ảnh ảo và gương soi không bao giờ có được tính năng của máy quay phim.
Tuy nhiên, việc gương soi có khả năng ghi nhận, lưu giữ thông tin tuy khó tin nhưng lại rất có thể có thật. Cũng giống như nhiều thứ đồ vật khác, gương có thể mang trong ḿnh dấu ấn nhân cách người chủ. Từ xa xưa, người ta đă quan niệm rằng một đồ vật nào đó được một người sử dụng lâu dài th́ sẽ hấp thụ tư duy, t́nh cảm của người đó.
Ngoài ra, gương cũng như nhiều thứ đồ vật khác có thể hấp thụ, lưu giữ thông tin về những diễn biến của các sự vật diễn ra xung quanh ḿnh, đặc biệt đối với một chiếc gương lơm vốn có tính năng của một ăngten thu, phát như đă nói phần trước.
Trong một thí nghiệm sinh học có sử dụng gương, các nhà nghiên cứu Nga đă t́nh cờ phát hiện đặc tính "nhớ" của gương: Những chiếc gương sau khi được sử dụng trong thí nghiệm vẫn lưu giữ và phát xạ thông tin về những vật thí nghiệm được đặt ở trước mặt chúng. Đặc tính này của gương gây không ít phiền toái cho các nhà khoa học, v́ ở các thí nghiệm sau, những thông tin được lưu giữ từ những lần trước do gương phát ra có thể gây nhiễu, ảnh hưởng đến kết quả. Tuy nhiên, đây lại là cơ sở khoa học khá vững chắc để lư giải hiện tượng chiếc gương "sát thủ" ở Pháp.
Từ xa xưa, trong nhiều dân tộc ở châu Âu tồn tại quan niệm rằng làm vỡ gương là một điềm xấu. Dĩ nhiên, trong một gia đ́nh êm ấm, những thông tin lưu giữ trong gương là những điều tốt đẹp và nếu đó là một chiếc gương lâu đời th́ đó chính là cuốn biên niên sử của gia đ́nh. Tuy nhiên, thử h́nh dung những người chủ thường sử dụng gương trong những thời điểm đặc biệt như khi đang tức giận, buồn bực, căm thù, oán hận...
Khi đó, cơ thể bị kích hoạt rất mạnh, v́ thế, nguồn năng lượng sinh học mà họ phát ra cũng mạnh tương ứng, rất dễ dàng hấp thụ vào gương để rồi sau đó phát ra. Nếu đó là gương phẳng th́ tác hại không lớn lắm, nhưng nếu là gương lơm th́ năng lực phát xạ có thể cao hơn gấp nhiều lần, mà tiêu điểm của gương chính là nơi hội tụ những tia năng lượng "xấu" này.
Những chủ nhân về sau, dù hoàn toàn vô tội, nhưng nếu cơ thể họ ở vào đúng tiêu điểm của gương th́ sẽ rất có hại, đặc biệt nếu tiêu điểm rơi vào đúng những bộ phận quan trọng của cơ thể như năo, tim chẳng hạn th́ sự nguy hiểm đến tính mạng là điều khó tránh khỏi.
Pravda
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 333 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 11:13am | Đă lưu IP
|
|
|
BÓNG NGƯỜI TRÊN SƯƠNG MÙ
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nh́, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, t́nh cờ gặp v́ cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi c̣n là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp nhau trong toa hạng nh́, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi t́nh cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ư không bằng ḷng, nhưng v́ nể tôi nên không nói ǵ. Tôi nh́n vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đă xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quư ǵ mà anh giữ cẩn thận thế này.
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng th́ chính là một con ngài, nhưng đối với tôi..
Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đă mười năm nay..
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện ǵ, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích ǵ đấy
- Vâng, nhưng sự tích buồn... chuyện đă ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Saigon th́ tôi c̣n là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, t́nh cảnh tôi độ ấy anh đă rơ.
- Cũng như t́nh cảnh tôi..
- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong t́nh cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng v́ cảnh nghèo, v́ nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.
Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi th́ vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôị Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào kêu với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nh́n đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ v́ sao, tôi liền đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghẹ Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc ǵ phải ngần ngừ! Tôi không việc ǵ đâu, đă thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái ǵ làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: h́nh như tôi đi thế này, lúc về chắc không nh́n thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:
- Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hăm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí c̣n nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một ḿnh trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.
Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi tḥ đầu ra cửa nh́n thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nh́n rơ ǵ cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy.. rơ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái h́nh người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng ḿnh trông hoảng, nhưng không, h́nh người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nh́n rồi hỏi:
- Bác có thấy ǵ không?
Vừa nói xong h́nh người vụt biến mất. Bác "ét" tḥ đầu ra và bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.
- Không rơ ràng tôi thấy có h́nh người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào ḷ, c̣n tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nh́n thẳng trước mặt. Được một lát, h́nh người đàn bà lại hiện ra, lần này rơ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm đầu xúc than cho vào ḷ. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái h́nh người ấy có thật, mà ai cũng phải thấỵ Tôi đến cầm lấy tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:
- Nh́n xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói: - Lạ thật!... ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái h́nh người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rơ, lơ lửng giữa lưng trời.
Rồi cái h́nh người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ư bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự ǵ nguy hiểm.
Tôi bảo bác "ét":
- Bác này, có sự ǵ lạ sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái h́nh lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái h́nh người trước c̣n vẫy tay thong thả, sau vẫn thật nhanh như người tỏ ư thất vọng, v́ bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
C̣n tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
- Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái "phanh" như định hăm rồi lại không hăm.
Một lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rơ hơn lần trước, giục tôi:
- Hăm lại! Hăm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết ǵ nữa, nhắm mắt hăm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quăng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đă thấy người "xếp tanh" cầm đèn lên hỏi:
- Việc ǵ thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, v́ nói thật ai tin ḿnh. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự ǵ lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đă.
Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôị Vừa đi được một quăng th́ nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậỵ Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hăm kịp th́ cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính v́ tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả.
Người "xếp tanh" mừng cuống quít, hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hăm?
- Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giăn ra, quan Toàn Quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái ǵ bám ở cái đèn để đầu toa, nh́n kỹ th́ ra một con bướm thật to, vướng vào đèn, đương đập cánh để t́m đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái h́nh người đàn bà lúc năy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu h́nh người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đă giúp ḿnh được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nh́n vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...
Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà th́ thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự t́nh cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đă nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm ǵ, tôi thoát được thân tôi mà làm ǵ, giầu sang phú quư bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn thờ nói:
- Bây giờ chỉ c̣n lại cái xác bướm không hồn!
Nhất Linh
(Viết theo chuyện một người bạn kể lại)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 334 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 11:21am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐIỀU BÍ ẨN VỀ GIÁC QUAN
Hầu như ai trong số chúng ta cũng có một vài mức độ của khả năng ngoại cảm. Có người giống như chim thiên di, v́ họ luôn biết hướng bắc nằm ở đâu, trong khi những người khác không cần phải đeo đồng hồ, v́ họ biết lúc nào là mấy giờ. Khi bị ai đó nh́n lén, chúng ta đều có cảm giác “nhồn nhột”, khó chịu.
Nếu bạn nghĩ rằng con người có 5 giác quan th́ vẫn chưa chính xác. Ngoài các giác quan thông thường như: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác, con người c̣n có thêm một giác quan nữa, được gọi là cảm giác vận động trong cơ thể, tức là chúng ta có thể nhận thức được mức độ căng cứng của các cơ, vị trí tương đối của các chi trong cơ thể chẳng hạn.
Tuy nhiên, các nhà tâm lư học và khoa học c̣n đề cập về giác quan thứ bảy, chứ không phải là “giác quan thứ sáu” như chúng ta vẫn thường hay nói!
Giác quan thứ bảy là một tập hợp của các giác quan, gọi chung bằng cái tên “khả năng ngoại cảm”. Một trong những bằng chứng sống kỳ lạ nhất về ngoại cảm là cô Jane O'Neil ở Anh. Cô đă tận mắt chứng kiến một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Cú sốc lớn đến nỗi cô phải nghỉ việc trong nhiều tuần. Sau biến cố này, cô phát một khả năng nh́n thấy bằng “con mắt thứ ba”.
Một ngày nọ, cô cùng với một người bạn đi nhà thờ Fotheringhay ở Northamptonshire. Jane nh́n ra phía sau bàn thờ và thấy có một bức tranh rất đẹp, trong khi cô bạn th́ chẳng thấy ǵ cả.
Sau đó, hai cô quay trở lại nhà thờ lần nữa để “làm cho ra ngô ra khoai”. Nhưng lần này th́ Jane hết sức kinh ngạc khi trông thấy quang cảnh của một nhà thờ hoàn toàn khác lạ, nhỏ bé hơn nhà thờ hiện tại, nhưng bức tranh th́ đă biến mất.
Cô mô tả h́nh ảnh này với một chuyên gia am hiểu về lịch sử địa phương, th́ được biết đấy chính là căn nhà thờ cổ có từ trước đó 400 năm, và được trùng tu vào năm 1553. Tuy nhiên, có nhà khoa học lư giải rằng Jane đă trải qua một biến động trong cuộc sống, nên cô đă có một số ảo giác. Và một trong các ảo giác đó vô t́nh trùng hợp với thực tế của lịch sử.
Cô Jane là một trong những trường hợp có khả năng nh́n về quá khứ của 4 thế kỷ trước. Một số người có thể cảm nhận được sự hiện hữu của một vật thể lớn ở gần đấy. Và dù có bị bịt mắt, họ vẫn không dại ǵ bước đâm sầm vào một bức tường. Khá nhiều người trong chúng ta có khả năng phân tích cường độ và chất lượng âm thanh. Chỉ cần nghe qua một đoạn nhạc là có thể nói đích xác đó là những nốt ǵ. Danh sách về các giác quan c̣n có thể thêm vào rất nhiều.
Chuyển sang thế giới động vật, chúng ta đă khám phá ra vô số những giác quan mà con người không có. Dơi, cá heo và những con vật khác dùng sóng âm siêu âm là một ví dụ rơ ràng nhất. Nếu giải thích đó là sự mở rộng của khả năng thính giác th́ quá đơn giản, đặc biệt là trong trường hợp của cá heo. Người ta vẫn chưa hiểu nhiều về một giác quan ở một số loài cá, giúp chúng có thể phát hiện ra một vật thể dựa vào những hoạt động điện tinh tế của vật thể này.
Nhiều cơ quan ở những con thú săn mồi ban đêm có thể “thấy”, sử dụng các tế bào nhạy cảm với nhiệt. Đây cũng là một danh sách có thể bổ sung thêm nhiều cùng với thời gian. Thậm chí đă có một số bằng chứng là cây cối cũng có giác quan, nhưng những giác quan đó là ǵ th́ chúng ta vẫn chưa biết được đích xác.
Nói tóm lại là không có câu trả lời chắc chắn nào cho câu hỏi thế giới sinh vật có bao nhiêu giác quan.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 335 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 11:28am | Đă lưu IP
|
|
|
KHÁM PHÁ THẾ GIỚi BÙA NGẢI
THỜI CỔ ĐẠI
Nhiều thầy pháp bất lương luyện một loại ngải hại người, đó là ngải yêu (hay bùa mê, thuốc lú). Ai bị trúng ngải đó là tâm thần mê man, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái t́nh.
Trong thế giới của những thầy pháp thời cổ đại tồn tại nhiều bí kíp kỳ lạ. Bùa ngải là một trong số đó. Ngày nay khoa học đă cho thấy đó là những điều hoang đường, tuy nhiên những câu chuyện đồn đại xung quanh chúng vẫn là những điều đầy hấp dẫn và nhuốm màu huyền bí.
Thuật luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những khả năng siêu nhiên để đoán biết tương lai, cải tạo số phận, hay chữa trị bệnh nan y... thời xa xưa khá thịnh hành ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Người ta gọi đó là luyện ngải và tin rằng ngải giúp con người chế ngự sức mạnh huyền bí.
Những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời ḿnh để luyện "công lực". Họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người... Sau khi đă luyện thành cao thủ, họ sẽ t́m và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền "công lực" sang. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ, qua đó đánh giá tài cao thấp.
Theo những câu chuyện lưu truyền, loại ngải quư hiếm nhất là Phù phấn ngải. Đây là một loại thực vật giống hoa lan đất nhưng có bộ rễ lớn hơn, thường mọc trong rừng thẳm. Loại ngải này có một lớp bột mịn phủ trên lá, nếu ai vô ư đụng phải sẽ thấy ngứa ngáy khó chịu, sau đó toàn thân sưng phù, đau đớn trong khoảng 100 ngày sẽ chết nếu không được các vị cao tăng cứu chữa. Loại ngải này rất hiếm, được gọi là "Phù phấn ngải" v́ lớp bột rất độc trên lá. Nhưng nếu được tôi luyện đúng cách, nó sẽ trở thành một loại ngải cứu người rất quư.
Những cao tăng muốn t́m được loại ngải này phải vào sâu trong rừng thẳm. Khi t́m được, phải loại bỏ lớp phấn độc bên ngoài một cách rất khéo rồi đem trồng vào chậu đất nung, cho các chất tượng trưng cho Ngũ hành vào (gồm có đất núi, diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối biển).
Sau khi nuôi trồng, người ta đặt ngải lên bàn thờ và bắt đầu luyện bằng các quyền phép của bản thân. Khi ngải được luyện xong, trong nó sẽ có 2 phần được gọi là thiên năng (năng lực tự nhiên) và linh phù (năng lực của người luyện). Các tay luyện ngải cao cấp c̣n nuôi ngải bằng trứng gà, hoặc máu gà. Họ cho rằng làm như vậy ngải sẽ mạnh hơn. Nhưng với những người non tay, cách luyện này có thể gây nguy hại cho chính họ. Phù phấn ngải luyện xong dùng để trị bệnh mất trí, hoảng sợ, thậm chí có thể t́m được người bị mất tích.
Một loại ngải c̣n quư hiếm hơn và đă bị thất truyền hàng trăm năm là Bạch đại ngải. Người ta cho rằng Bạch đại ngải mọc ở đâu th́ các loài thú dữ đều hoảng sợ và không dám sinh sống ở quanh đó. Nếu ai đó trồng loại ngải này mà không biết về tu luyện th́ sẽ nguy hại cho bản thân. Trước khi nhổ cây, phải ngâm một bài bùa chú, đại khái: "Nhiệm màu thay, nhiệm màu thay/Bạch đại ngải, Bạch đại ngải...". Nếu loài ngải này mà được một cao tăng luyện th́ sẽ có thể giúp con người cải tử hoàn sinh.
Những pháp sư chạy theo vụ lợi cá nhân thường luyện một loại ngải hại người, đó là ngải yêu hay bùa mê, thuốc lú. Đó là thứ ngải để "lừa t́nh". Ai bị trúng ngải đó là tâm thần mê man, không biết ǵ về đạo lư, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái t́nh. Những người bị trúng ngải yêu có dáng điệu luôn suy tư, hờ hững với xung quanh.
Loại Mê tâm ngải có tác dụng tương tự. Cây mê tâm lá màu xanh sẫm to bản, h́nh cái kiếm, hoa màu tím đen có đốm trắng, có mùi hắc rất khó chịu. Người trúng ngải này sẽ mất ăn mất ngủ, tâm thần bất loạn. Những kẻ muốn dùng ngải mê tâm hại người bắt buộc phải biết tên tuổi của nạn nhân th́ mới thành công. Những tay nuôi loại ngải này thường bị dân làm ngải coi thường, liệt vào loại mờ ám.
Một loại ngải khác có tên khá kinh dị là Huyết nhân ngải. Nó mọc trong các khu rừng có thú dữ. Muốn t́m được Huyết nhân ngải, phải đợi vào đêm, khi ngải ửng lên màu đỏ như máu mới có thể nh́n thấy và nhổ được v́ ban ngày lá cây màu xanh như b́nh thường. Hoa của loài ngải này nhỏ li ti và có màu đỏ như những giọt máu.
Tương truyền, loài hổ báo sau khi ăn thịt những người tuổi Dần sẽ bỏ lại quả tim của nạn nhân, từ quả tim bỏ lại đó sẽ mọc lên Huyết nhân ngải. Khi nhổ loài ngải này, phải đọc thần chú, luyện để nó hội đủ khí âm dương trong hàng năm trời. Củ của Huyết nhân ngải nếu đem ngậm một lát nhỏ sẽ giúp nhịn đói 1 tuần mà sức lực không suy giảm. Ngải này giúp người dùng có thần giao cách cảm, đoán biết được những sự kiện ngh́n trùng xa cách.
Tại Trung Hoa có một loài thực vật rất quư hiếm mọc trong rừng sâu, trên những thân cây gỗ mục. Có những pháp sư cả đời đi t́m không thể thấy, nhưng nếu ai có duyên sẽ gặp được, đó là loại Mai hoa xà vương ngải. Theo những tài liệu về bùa ngải th́ loài này có thân mềm mại, lá xanh đốm vàng trông như rồng cuốn. Hoa nở sắc vàng, hồng rực rỡ, có mùi hương vô cùng quyến rũ. Xung quanh cây có nhiều rắn chúa Mai hoa đến ở mới có tên như vậy.
Mai hoa xà vương ngải nếu luyện được thành công, khi ngậm vào miệng sẽ giúp thân thể cứng rắn như thép, dao chém không đứt. Nếu chẳng may ngải chết, người luyện phải làm lễ ma chay rất trang trọng và đem chôn trên vùng núi cao thoáng mát.
Ngày nay khoa học phát triển, không c̣n đất cho các pháp sư hành nghề luyện ngải nữa. Tuy vậy, những câu chuyện đậm màu huyền bí vẫn là đề tài hấp dẫn những người hiếu kỳ trong lúc "trà dư, tửu hậu". Mặt khác, các nhà Đông y học đang tiếp tục nghiên cứu những loài thực vật rất quư hiếm vốn được dùng làm ngải để dùng cho việc chữa bệnh.
VnExpress
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 336 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 12:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÓ HAY KHÔNG KIẾP LUÂN HỒI
Sau khi chết, con người có “trở lại” mặt đất theo một vài dạng khác không? Giới khoa học phương Tây và các chuyên gia tâm lư đă dày công nghiên cứu một cách có hệ thống về “kiếp luân hồi” từ rất lâu nhằm phân tích dưới ánh sáng khoa học về bản chất vấn đề.
Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến “kiếp trước” hoặc sự “đầu thai vào kiếp sau”. Rồi họ nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ, logic và nghiêm túc.
Nếu phát hiện ra điều ǵ đó “không b́nh thường”, họ liền phân tích một cách chuyên sâu hơn nhằm khám phá xem có liên quan ǵ tới “kiếp luân hồi” theo quan điểm tín ngưỡng cố hữu không? “Mảnh đất màu mỡ” cho các cuộc nghiên cứu nói trên đa số là các trẻ em.
Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ), bắt đầu kể về “kiếp trước” của ḿnh:
Trong thời c̣n là một bé gái. Người mẹ th́ cho rằng con bé nói rặt những chuyện ngốc nghếch và luôn t́m cách ngắt lời đứa bé. Nhưng Roberta vẫn không ngừng kể về “cha mẹ trước đây” của ḿnh. Em c̣n kể về chiếc ôtô mà “người cha kiếp trước” từng có và khẳng định rằng em đă cùng sống với “cha mẹ cũ” tại một khu trang trại.
Khi bé gái lên 4 tuổi, em được dẫn tới một trại chuyên thuần ngựa ṇi. Roberta rất tự nhiên và phấn chấn nói: “Con từng cưỡi ngựa thuần thục nhiều lần rồi”. Thật ra, em đă trèo lên ḿnh ngựa bao giờ đâu. Roberta c̣n đ̣i mẹ làm những món thức ăn “khoái khẩu” mà “mẹ trước” đă từng nấu. Em tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quăng đời “kiếp trước” của ḿnh và không bao giờ nhớ lại được nữa?.
C̣n Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo, Sri Lanka:
Trước khi bé biết nói, cha mẹ nhận thấy rằng em rất sợ... nước. Mỗi khi người mẹ định tắm cho bé, đều gặp phải các phản ứng dữ dội cùng tiếng kêu khóc. Em c̣n rất sợ ôtô. Khi Samlini nói được, em đă mô tả “quăng đời trước đây” của ḿnh một cách tỉ mỉ. Em kể:
“Một hôm cha mẹ “kiếp trước” sai em đi mua bánh ḿ. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buưt đi sát bên cạnh, hất em xuống ḍng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: “Mẹ ơi!”. Sau đó, em bị ch́m hẳn vào giấc ngủ vô biên”. Cha mẹ của Samlini suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Sau đó một thời gian, họ biết được câu chuyện của một bé gái 11 tuổi từng bị chết đuối trong hoàn cảnh tương tự, y hệt câu chuyện mà cô con gái họ đă kể lại.
Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lư học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson, người đă nghiên cứu các hiện tượng về “kiếp trước” suốt nửa thế kỷ nay kể lại.
Ông cùng các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Tổng hợp Virginia đă thử t́m các bằng chứng, được tồn tại như một “thực trạng X”, mặc dù không t́m được những yếu tố vô lư trong “các X” và họ cũng không thể lư giải chúng dưới ánh sáng khoa học được.
Giáo sư Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như “ảo giác”, nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. C̣n một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đă từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự “đầu thai” hoặc “kiếp luân hồi” hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thiết, chứ chưa “dám” nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.
Trước đây nhiều năm, đa số các nhà khoa học phủ nhận sự “đầu thai”, cho đó là một tṛ “hoàn toàn lừa bịp”. Nhưng ngày nay đa phần trong số họ đă thừa nhận hiện tượng này như là một phương cách chữa các chứng khủng hoảng tâm lư.
C̣n Giáo sư Tiến sĩ Abraham Kelsy, Trưởng khoa Y học lâm sàng của Viện Đại học New York, trong các thực nghiệm riêng của ḿnh đă dùng những phương pháp giúp các bệnh nhân nhớ lại “quăng đời kiếp trước” của họ, và bằng cách này giúp họ giải phóng khỏi những vướng mắc hiện tại.
Ông giải thích:
“Tôi đă rút ra được kết luận là, rất nhiều biểu hiện hiện tại của người bệnh là hệ lụy của kiếp trước, và chính chúng là những trở ngại phong tỏa nghị lực của cuộc sống thực tại. Theo tôi, cơ thể con người luôn mang sẵn những thứ phi vật chất, những thứ vẫn tồn tại sau khi thân xác đă chết. Nôm na như người phương Đông gọi là “hồn”.
Chính thứ “hồn” này được tái sinh đầu thai lại. Niềm tin này của tôi càng được củng cố qua các phân tích tỉ mỉ về “chất lượng riêng” của mỗi cá nhân.
Tại sao trong một gia đ́nh, trẻ em thường khác biệt nhau, dù rằng chúng được sinh ra cùng cha cùng mẹ, có cùng một tổng thể gien và lớn lên trong cùng một môi trường?
Rất nhiều trẻ em, khi đang chơi, luôn có xung quanh chúng “những người bạn vô h́nh” nào đó mà chúng luôn cho là đang hiện hữu thật sự. Tới độ 4-5 tuổi, thứ cảm giác ấy đột nhiên biến mất. Điều này theo các nhà khoa học chính là kỷ niệm về những người bạn "kiếp trước" của chúng.
Vẫn chưa có một nhà tâm lư học nào có thể giải thích một cách logic về những cá tính khác nhau, cũng như các “chất lượng cá nhân” khác nhau của đám con trẻ được sinh ra từ một gia đ́nh chung.
Trong từng trường hợp, thể hiện những dấu hiệu ảnh hưởng từ “kiếp trước”, được giới tâm lư học nêu ra các giả thuyết về những “biến dạng của tâm lư”: như mê ngủ, nghe hoặc đọc được ở đâu đó..
Giới vương quyền Ai Cập thời cổ cũng từng hay nói về các “kiếp luân hồi”, cả Hoàng đế Pháp Napoléon, cũng như nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng khác cũng vậy, những người thường nhớ về "kiếp trước", để chỉ muốn tạo ra cái ấn tượng về “xuất xứ thần thánh” của họ.
Đa phần trong chúng ta không hề gợi nhớ lại “kiếp trước” ngay cả qua những cách tân tiến hoàn thiện nhất. Trong trường hợp đó, không tồn tại quan niệm “đầu thai” trong thực tế. Ngoài ra cũng c̣n nhiều điểm bất đồng ngay cả giữa những người vốn luôn tin vào “kiếp trước”.
Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến tŕnh này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng “đầu thai” trong “ṿng xoay luân hồi” của mỗi người.
ÁNH SÁNG-T2-ÚC CHÂU
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 337 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 12:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
KINH HOÀNG VỚI
HIỆN TƯỢNG MA GIẤU
Có thể câu chuyện tôi kể ra dưới đây sẽ không làm các bạn ngạc nhiên cho lắm, nhưng đối với tôi đó là một trong những câu chuyện kinh dị xác thực nhất tôi đă từng nghe. V́ sao ư? V́ đó là sự thực, đó là một hiện tượng xảy ra cho những bạn trẻ hư không biết nghe lời.
Có thể bạn đă nhiều lần từng đặt chân tới Đà Lạt, nơi đây không chỉ có những cảnh vật đẹp tuyệt vời mà c̣n có những lời đồn đại về oan hồn ma quỷ, đó chính là những đặc trưng thuộc về Đà Lạt. Tôi sẽ không để các bạn sốt ruột, tôi sẽ đi ngay vào câu chuyện chính sau đây:
Thứ Sáu vừa rồi trường mẹ tôi tổ chức đi Đà Lạt dành cho khối 12, coi như đó là một kỷ niệm cuối cấp đáng nhớ cho các học sinh. Tôi th́ không đi v́ tôi nghĩ đi với "tụi lóc cóc" chẳng có ǵ vui thế là nằm vùi ở nhà. Và tôi đă được nghe diễn biến câu chuyện từ mẹ tôi, Giáo viên cấp III, v́ thế đừng nói là tôi thổi phồng mọi chuyện.
Ngày đầu tiên mọi việc diễn ra suôn sẻ, tụi học sinh đi chơi và ngắm cảnh. Đến ngày thứ hai trường Tổ chức cho đi leo núi Lang Biang. Học sinh nào lên đỉnh núi đầu tiên sẽ giựt được giải "chinh phục" của trường trị giá 300.000đ.
Ai cũng hăng hái leo cật lực để về đích đầu tiên, và cũng không có ít học sinh ham tiền cố gắng suy nghĩ cách lên nhanh nhất, nhưng cũng chẳng có ai liều bằng cậu học sinh A1, lớp cô Hoàn chủ nhiệm.
Cậu ta cũng leo núi b́nh thường như các bạn, đến gần đích đột nhiên cậu ta nổi hứng rủ các bạn leo lên núi dốc bằng đường tắt. "Lối này tuy dốc và nhiều đá nhưng chúng mày yên tâm đi, lên đích nhanh lắm".
Thế nhưng 3 đứa bạn c̣n lại đi cùng nhóm, không ai tán thành. Chàng ta bỏ mặc sự can ngăn của bạn bè và tự tiếp tục "mở lối đi riêng!"
Cậu bé cứng đầu ấy tên là Hà Trung, hiện đang học lớp 12A1. Nói riêng một chút, chắc có lẽ bị sự mặc cảm anh trai cậu học hệ B, nên cậu có vẻ không thích đi chung với nhóm (1 nhóm 3 người, trong đó có anh trai Trung, đứa anh tuy quậy, nhưg có lẽ nó cũng biết nên chỉ biết đi khúm núm sau lưng thằng em).
Tách ra riêng rồi... Trung tiếp tục leo măi theo hướng thẳng đứng, với dốc đá và độ cao khá nguy hiểm. Trong đầu đinh ninh một ư nghĩ rất trẻ con, là ḿnh sẽ tới trước nhất. Dĩ nhiên sẽ chẳng có ǵ đáng nói nếu như Trung đi với một người bản xứ thông biết lối đi, đàng này cậu ta muốn tự thân, xung quanh chẳng có ai đi cùng, tiếng í ới đùa giỡn của các học sinh dần xa tầm tai của Trung, cậu ta cho rằng đó là chuyện b́nh thường, v́ chắc mẩm ḿnh đă leo cao lắm rồi (?) v́ Trung sẽ đi đúng hướng cần đi.
Lúc này những ánh nắng đă chiếu rọi, Trung cảm thấy nóng, nóng v́ leo núi và cũng nóng v́ hừng hực khí thế, cậu ta bỏ chiếc áo lạnh ra và chỉ mặc duy nhất mỗi một chiếc áo ngắn tay.
Càng leo càng mệt và Trung càng thở dốc. Khi cả đoàn đă lên tới đỉnh núi và cũng đă xác định được người thắng cuộc, nhưng ngươờ thắng không phải là Trung. Những đứa bạn vô tư cười khẩy với nhau định bụng sẽ chọc tức Trung một trận ra tṛ khi gặp Trung tại đỉnh núi này, chúng hồn nhiên đâu biết rằng Trung đang dần lạc lối và đang chuẩn bị rơi vào cuôc chiến đấu với tử thần và rừng thiêng nước độc...
Càng leo Trung càng mệt. Có lẽ Trung cũng sẽ leo lên được đỉnh Lang Biang đúng hướng, nhưng cũng có lẽ một âm lực ma quỷ nào đó đă điều khiển tầm mắt của Trung và bẻ ngoặt hướng đi của Trung qua ngọn đồi bên cạnh.
Mà nghe nói rằng ngọn đồi này cây cối chằng chịt và rất âm u ghê rợn, thú dữ luôn chực chờ và những cái bẫy thú nếu dẫm nhầm phải là chết ngay tức khắc (bẫy thú của người dân tộc rất sâu và ngă xuống th́ không có đường lên, 2-3 ngày người ta mới đi thăm bẫy thú 1 lần). Trung mất hồn, trời càng nắng Trung càng cố leo để mong gặp được một ai đó quen mặt trong đoàn ḿnh.
Gần 12 giờ trưa, mọi người chuẩn bị xuống núi để dùng cơm, vẫn chưa thấy Trung đâu. Một số thầy cô đă nghi ngờ và điểm danh có mặt và xác định ngay sự vắng mặt của Trung. Trưa chiều cả trường sốt ruột, bắt đầu tá hoả v́ không thấy Trung. Sẩm tối, cả đoàn hoảng hồn lên v́ Trung lạc ngay núi Lang Biang. Khí hậu đă bắt đầu se lạnh thêm, ánh sáng dần nhường chỗ cho những bóng đèn, cột đèn néon ở ngoài đường.
Một kế hoạch truy t́m người bị lạc đă huy động cả công an toàn thành phố, mặt các thầy cô lo lắng v́ sự mất tích của cậu học tṛ, c̣n những đứa con gái th́ nhăn mặt rú rít lên v́ sợ, c̣n các đứa con trai x́ xầm một cách thất thần với nhau cái ǵ đó. Riêng ba đứa bạn cùng nhóm với Trung bắt đầu run rẩy và xám ngắt, nói ǵ th́ nói, 3 đứa này cũng có một phần trách nhiệm trong đó.
Mẹ tôi thấy xót cả ruột khi biết được Trung chỉ mặc độc nhất chiếc áo ngắn tay, bữa trưa và bữa tối nó cũng chưa ăn ǵ. Một thầy giáo vội t́m đến ngôi làng của người dân tộc bản xứ, đưa tiền cho họ để hỏi thăm tung tích của Trung và các thầy cô rợn hết cả tóc gáy khi nghe người dân tộc nói:
Một là chỉ có 5% nó đi lạc, 2 là 85% nó đă chết bị sẩy chân té vực hoặc thú dữ ăn thịt, 10% c̣n lại nó đă bị ma giấu. Không thể nào t́m được.
Càng leo Trung càng kiệt sức vừa đói lại vừa lạnh, Trung tủi thân rất nhiều. Chỉ mới bảy giờ mà trong rừng tối đen như mực, Trung cố sức kêu gọi khản cổ mà đáp lại chỉ là tiếng vọng của núi rừng. Xung quanh Trung bây giờ chỉ c̣n tiếng cú, tiếng côn trùng kêu và tiếng Trung đi đạp lên lá khô loạt xoạt.
Đột nhiên Trung cảm thấy ớn lạnh, Trung ngồi xuống đám lá nghỉ mệt một chút rồi lại ṃ lối để đi tiếp. 9 giờ tối, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống khu rừng làm cho cây cối mang những h́nh thù quái dị và ghê rợn, Trung bắt đầu tự nhát ḿnh, Trung nh́n cây nào cũng tưởng như nó đang nh́n lại Trung, cười khanh khách và quơ tay vẫy Trung.
Cũng trong thời gian này cả trường vẫn đang náo loạn, các thầy cô, CA và cả người dân tộc đang bủa vào rừng t́m cậu ta. Mọi người cũng có những suy nghĩ tiêu cực nhưng không dám nói (nếu Trung chết th́ cũng phải t́m bằng được xác cậu ta mới về).
Cô Hoàn chủ nhiệm lớp Trung rất tội, cô lo cho cậu học sinh của ḿnh, cô bỏ ăn, bỏ nghỉ ngơi, trên tay thường trực chiếc điện thoại di động, cũng không thể nào nhớ được hôm đó cô đă gọi đi bao nhiêu cuộc điện thoại. Cô đă khóc rất nhiều, người tiều tuỵ hẳn đi.
Một số thầy cô được giao ở lại trông nom và trấn an lũ học sinh, số c̣n lại cùng CA và người thiểu số leo tiếp lên núi để t́m Trung trong những ngọn đèn pin leo lét. Rừng về đêm thật khủng khiếp, nó âm u và đáng sợ, cộng thêm cái lạnh trên dưới 5 độ C làm cho mọi người đều sởn gai ốc.
Những người dân tộc sống ở vùng núi rất hay, họ có thể nh́n trên những đám lá khô mà thấy được có dấu chân người hay dấu chân thú đi qua lối nào. V́ thế họ đă nh́n và khẳng định Trung leo hẳn sang ngọn đồi bên kia (đứng trên đỉnh Lang Biang có thể nh́n thấy).
Cả đoàn người lại hớt hăi chạy đi t́m Trung, tiếng nói chuyện, tiếng gọi vang cả khu rừng, nhưng vẫn không nghe thấy tiếng trả lời dù là lời thều thào nhỏ nhất. Riêng cô Nga tổ Văn ráng sức đâm thẳng qua đỉnh ngọn đồi ấy, nhưng không hiểu sao cô không thể nào đi tiếp được, dưới những đám lá chi chít đầy những gai và hố.
V́ thế không hiểu bằng cách nào Trung vẫn băng qua được những đám hố gai này và hướng thẳng lên đỉnh núi (theo dấu chân cậu ta đă để lại). Cả Đoàn không đi tiếp được nữa đành ở vị trí đó mà ráng sức gọi. Hơn 11g đêm mọi chuyện vẫn chưa đâu vào đâu, vẫn rối tinh rối mù.
Về phần Trung sau khi nghỉ mệt và cố gắng lết đi tiếp Trung quá đuối sức. Trời quá tối Trung ṃ mẫm đi mà không xác định được phương hướng, Trung kéo lê từng bước mệt nhọc. Trung đă từng nghĩ đến cái chết và h́nh ảnh thân thương đầu tiên hiện lên trong tâm trí cậu là mẹ ḿnh và toàn bộ gia đ́nh, Trung thấy hối hận thấy sợ hăi và hoảng loạn. Trung đă khóc rất nhiều và ngất đi không c̣n biết ǵ nữa.
Tỉnh dậy, trăng đă lên đỉnh đầu. Hàm răng run lập cập v́ quá lạnh, mặt mũi Trung tái mét, lờ đờ hốc hác như người bị bỏ đói lâu ngày. Trung cố gắng lê thêm mấy bước, dưới ánh trăng lờ mờ cậu ta thấy một chấm tṛn màu trắng ở xa xa.
Mất ư thức, Trung vội vă leo ngay lên đó, không cần biết nó là cái ǵ và nó ra sao, mặc kệ cho đôi môi tím tái v́ lạnh cùng với đôi chân đầy những vết trầy xước tứa máu. Trung thấy như in trong mắt cậu ta là một ngôi miếu nhỏ, Trung thấy trong ngôi miếu này có chăn, có chiếu, có gối như là có ai đă sắp đặt để "chờ đón" Trung vậy.
Nhưng cái lạ là ở chỗ, trước thềm tam cấp có treo một tấm bảng loè loẹt nét chữ màu đỏ: "Cấm Vào Nếu Không Sẽ Bị Bắn Chết", nét chữ xiên xiên vẹo vẹo cùng với màu sơn đó khiến Trung có cảm tưởng như ai đó lấy máu quệt bằng ngón tay mà thành tấm bảng này vậy. Trung thấy lành lạnh sau gáy cậu bước thụt lùi, chỉ dám đứng ngó cái chiếu có bày sẵn chăn mền ngay ở cửa miếu dưới ánh trăng ma quái.
Được một lúc thật lâu, với cái rét căm căm và những đốm sáng lập loè của mắt thú rừng xa xa, Trung đánh liều chui vào đại để trú qua đêm nay. Trung đói bụng quá, lại vừa mệt định bụng sẽ ngủ nhưng không hiểu sao chăn chiếu lúc năy biến đâu mất hết?
Trung ảo giác ư chắc chắn không phải, Trung không mệt đến độ không nh́n được vật ngay sát mắt? Ma ư? Không, lại càng không, Trung vốn là người theo Đạo Thiên chúa, Trung không tin vào mấy chuyện ma quái ǵ vớ vẩn ở đây cả. Thây kệ Trung ngả lưng và co quắp để cố chống chọi với cái lạnh. Trung bắt đầu thiếp đi, là chiếc đồng hồ đeo trên tay Trung chỉ đúng... 12g đêm!
Cả đoàn người đêm ấy bị một phen mất ngủ, một số người hồi hộp lẩm bẩm cầu nguyện điều ǵ đó. Ai cũng loé lên suy nghĩ Trung bị té vực, nhưng cũng không ai dám mạnh miệng để nêu lên trường hợp ấy. Những câu tṛ chuyện, những sự hoạt động của mọi người cũng chỉ để cho có, chỉ để xua đi những ư nghĩ quái quỷ đeo bám, mọi người như vô hồn, thẫn thờ ngồi chờ đợi tin tức của Trung, mong một điều ǵ đó kỳ lạ có thể xảy ra.
Thiếp đi trong cơn mê, Trung nghe thoang thoảng rất nhiều tiếng người í ới gọi cậu, nhưng v́ Trung quá mệt và quá đuối rồi, Trung không gượng dậy nổi nữa. Trung cố hết sức nhưng chỉ nghe được những tiếng kêu âm ỉ phát ra từ họng ḿnh, như là có một bàn tay vô h́nh nào đó chắn ngang trước miệng Trung, cản tiếng gọi của Trung.
Ngoài kia ánh đèn pin rọi qua rọi lại, các thầy cô đi qua lại gần ngay trước mặt Trung, Trung có thể nh́n thấy bóng họ nhưng tuyệt nhiên họ không nh́n thấy cậu ta.
Đoàn người ra về trong sự mệt mỏi, các thầy không tránh khỏi lo lắng, c̣n các cô th́ mắt trũng lại v́ khóc và v́ thất vọng. Các thầy cô định bụng rằng về sẽ nghỉ một giấc rồi 2-3 tiếng sau (lúc trời sáng) sẽ vào rừng t́m Trung tiếp.
Về đến nơi đồng hồ chỉ 2g30. Trời gần sáng khu rừng có chút ánh mặt trời th́ lại thấy đỡ ghê sợ hẳn. Tiếng lá khô lại loạt xoạt v́ những bước chân của mọi người bủa đi t́m. Chợt thầy Long không tin vào mắt ḿnh khi thấy thấp thoáng đằng xa Trung đang từ từ bước xuống, khuôn mặt Trung tái nhợt v́ lạnh, hai chân run rẩy không vững.
Không chần chừ một giây thầy bước tới đỡ Trung, quá xúc động hai thầy tṛ ôm nhau khóc ṛng, ngay cả những người khác cũng quá vui mừng mà không cầm được nước mắt.
Dẫn Trung về Khách sạn, không khí nặng nề bao trùm trên những khuôn mặt lo sợ dần tan biến, mọi người đều thở phào tạ ơn Bề trên đă giúp đỡ.
Người dân tộc nói đây là hiện tượng "ma đưa lối, quỷ dẫn đường", nghĩa là ma quỷ chỉ muốn hù con người và cảnh cáo họ khi họ lọt vào địa phận cấm mà không xin phép, chứ không hề làm hại một ai. Khoảng vài ngày sau ma quỷ sẽ trả người về địa thế.
Ngay cả những người theo đạo Thiên chúa dưới chân núi cho biết: họ vốn không tin vào những chuyện này, nhưng khi sinh sống ở đây, chứng kiến hàng chục trường hợp tương tự, họ không tin cũng phải tin! Bên cạnh đó, họ c̣n cho biết thêm là thường th́ ma giấu người rất lâu (khoảng 3 ngày), nhưng chắc vừa rồi quá đông người t́m kiếm đă đánh động cả khu rừng, v́ không muốn phiền đến địa phận thiêng nên ma quỷ đă trả Trung về sớm. Tôi cũng xin nhấn mạnh lại các chi tiết:
- Trung leo đúng đường, nhưng không hiểu sao bị bẻ ngoặt hướng sang ngọn đồi bên cạnh.
- Trung điềm nhiên băng qua được các bẫy thú dưới đám lá khô, mà cũng là con đường đó th́ không ai qua được.
- Giữa chốn núi rừng hoang vu lại xuất hiện một ngôi miếu ở gần trên đỉnh, ai rảnh đi xây miếu? Và để làm ǵ? v́ dưới chân núi đă có miếu rồi?
- Một điều lạ nữa trong miếu lại để sẵn chăn mền chờ Trung, để Trung chui vào rồi th́ lại biến mất?
- Cậu trai lạc giữa rừng với thời tiết lạnh 2 độ C, duy nhất một chiếc áo ngắn, không ăn không uống vẫn có sức lết xuống núi?
Tôi không biết suy nghĩ của bạn thế nào, nhưng riêng tôi th́ tôi thấy quá sợ hăi khi kể lại câu chuyện này, và tôi tin: "Ma giấu" là có thực.
Người Kể Chuyện Ma
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 338 of 2534: Đă gửi: 25 June 2008 lúc 5:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN VỀ NHỮNG NGƯỜI BIẾT BAY
Các vị thần trong thần thoại phương Đông có một khả năng đặc biệt. Họ có thể bay. Tuy nhiên những người b́nh thường như các giáo sĩ Bà La môn ở Ấn Độ, người luyện Yoga, các thuật sĩ và ẩn sĩ cũng có thể khinh công và lơ lửng trong không khí.
Có một chương trong kinh Vệ Đà nói về thuật bay lên, trong đó hướng dẫn phương pháp luyện tập đạt tới t́nh trạng nhấc ḿnh lên khỏi mặt đất. Nhưng không may trải qua nhiều thế kỷ, nhiều từ cổ Ấn Độ và các khái niệm trong đó đă bị quên mất, nên những điều truyền thụ vô giá này không thể chuyển được thành ngôn ngữ hiện đại.
Cũng liên quan đến những người biết bay thời cổ, nhiều tài liệu chép tay cho biết họ có thể tự nhấc ḿnh lên khỏi mặt đất đến chín mươi cm. Họ làm việc này không phải để biểu diễn cho công chúng xem, mà chỉ v́ mục đích chọn một vị trí phù hợp, nhằm thực hiện những nghi thức tôn giáo.
,Thuật khinh công đă tồn tại từ rất lâu ở Ấn Độ và Tây Tạng. Nhiều nhà bác học, trong các cuộc nghiên cứu về phương Đông đă đề cập đến các "thầy tu Tây Tạng biết bay".
Alexandra David Neel, một nhà thám hiểm người Anh, một ngày nọ đă chứng kiến một tu sĩ Phật giáo bay lên khỏi mặt đất hàng chục mét trên cao nguyên đầy thông, Cnang Tang. Neel kể lại rằng tu sĩ nọ bật lên khỏi mặt đất nhiều lần như một quả bóng tennis nẩy. Cặp mắt của ông ta hướng về một số ngôi sao đang ở nơi nào đó trên bầu trời để xác định vị trí đến. Vị tu sĩ ấy có thể thấy được các v́ sao vào ban ngày... Những người châu Âu từ lâu cũng đă quan tâm đến khả năng bay lên của con người. Tuy nhiên có một sự khác biệt lớn giữa những người biết bay thời Trung cổ ở phương Đông và phương Tây. Không giống những giáo sĩ Bà La Môn, thuật sĩ Yoga và những ẩn sĩ, các tu sĩ ở châu Âu không tham gia bất cứ một lớp huấn luyện đặc biệt nào để được bay lên. Họ thường lơ lửng trong không trung sau khi đă đạt đến trạng thái xuất thần.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, Thánh Theresa nữ tu ḍng Carmelite, là một trong những người có thuật khinh công của thời Trung cổ. Bà đă bay trước sự chứng kiến của hai trăm ba mươi tu sĩ Công giáo. Vị nữ tu đă viết về "món quà" bất thường của ḿnh trong tự truyện vào năm 1565. Một điều cần lưu ư trong tự truyện này là bản thân Thánh Theresa không muốn bay.
Bà đă mất nhiều giờ cầu nguyện trong một nỗ lực xin thoát khỏi năng lực đặc biệt này. Vào một đêm nọ, Thượng đế đă nghe được lời cầu xin của bà và người nữ tu không bao giờ c̣n bay được nữa.
Josef Desa từng là "người bay" nổi tiếng nhất. Ông ta xuất thân từ một gia đ́nh mộ đạo ở miền Nam Italy. Từ khi c̣n là một cậu bé, Josef đă là một người rất sùng tín, sẵn sàng chịu đựng mọi khổ hạnh để đạt được trạng thái xuất thần. Sau đó, ông gia nhập ḍng thánh Francis và luyện được khả năng bay.
Giới khoa học đă quan sát hơn một trăm trường hợp về khả năng bay của Josef và ghi chép những nhận xét trong tài liệu chính thức. Tuy nhiên những người Cơ đốc giáo tỏ ra không hài ḷng về hiện tượng này, và hậu quả là Josef được đưa đến một tu viện xa xôi vào năm 1653. Ba tháng sau ông lại phải đến một tu viện khác, rồi tiếp tục đến một tu viện khác nữa...
Khi Josef xuất hiện, tin tức về "người có phép mầu" lan ra nhanh chóng. Nhiều người từ những vùng lân cận t́m đến đứng bên ngoài bức tường của tu viện chờ đợi một điều kỳ diệu. Cuối cùng Josef lại được đưa đến một tu viện ở Osimo. Ông đă mất tại đây vào năm 1663 và được phong thánh bốn tháng sau đó.
Daniel Douglas Hewm là người có thuật phi thân nổi tiếng nhất thế kỷ 19. Trên một tờ báo Mỹ, một nhà báo đă mô tả trạng thái bồng bềnh trong không gian của Hewm như sau: "Bất th́nh ĺnh Hewm bắt đầu nhấc ḿnh lên khỏi mặt đất khiến những người trong pḥng sửng sốt, ngạc nhiên. Tôi thấy chân của ông ta cách mặt đất khoảng 0,3 mét. Ông ta vọt lên rồi hạ xuống. Đến lần thứ ba th́ ông ta chạm trần nhà..."
Hewm đă biểu diễn năng lực đặc biệt này trước hàng ngh́n khán giả, trong đó có cả những người nổi tiếng như William Makepeace Thackeray, Mark Twain, Napoleon III cùng những nhà chính trị, bác sĩ, khoa học gia. Người ta không phát hiện ra sự lừa đảo nào trong hiện tượng này.
Có nhiều tranh căi liên quan đến sự bay lên của con người. Một số nhà nghiên cứu nói rằng đó là sản phẩm của trường sinh học, tạo ra bởi một dạng năng lượng tinh thần đặc biệt phát ra từ năo người.
Bác sĩ Alexander Dubrov chuyên gia về sinh vật học, là người ủng hộ giả thuyết này. Ông chỉ ra rằng trường sinh học được tạo ra một cách có chủ ư bởi người phi thân, do đó họ có thể kiểm soát và thay đổi hướng khi lơ lửng trên không.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 339 of 2534: Đă gửi: 26 June 2008 lúc 10:30am | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI CHẾT CÓ NHẬN ĐƯỢC
SỰ CÚNG DƯỜNG KHÔNG?
Câu chuyện dưới đây xảy ra trong cuộc đối đáp giữa Đức Phật và Bà la môn Janussoni. Bà la môn Janussoni hỏi :
- Bạch tôn giả Gotama, chúng tôi là các Bà la môn chuyên làm các lễ cúng cho người chết, với mục đích mong rằng sẽ đem lại lợi ích cho người chết. Như vậy thưa tôn giả có thật sự lợi ích không ?
Đức Phật đáp :
- Này Bà la môn, nếu có Tương Xứng người chết sẽ hưởng được phẩm vật cúng dường, bằng ngược lại chẳng có lợi ích ǵ cả.
Bà la môn Janussoni nóng ruột hỏi:
- Nhưng thế nào là tương xứng và không tương xứng ?
- Này Bà la môn, ai sống sát sanh lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói thêu dệt, có tham ái, có sân si và tà kiến, sau khi mạng chung sanh vào Địa Ngục. Tại đó, y nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của địa ngục. Cúng đồ ăn của con người là không tương xứng. Y sẽ không hưởng được ǵ từ sự cúng dường của thân thuộc đó.
- Này Bà la môn, nếu người nào sống đầy dẫy mười ác đă nêu, khi mạng chung bị sanh vào loài Bàng Sanh. Tại đấy, y nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của loài bàng sanh. Quả là không tương xứng, khi người thân quyến đem phẩm vật con người để cúng quảy cho họ. Làm sao người chết đă thọ thân bàng sanh ăn được ?
- Ngay cả trường hợp, người chết khi c̣n sống tu tập, trau giồi mười thiện nghiệp, được tái sanh làm Con Người, hoặc phước báu hơn là làm Chư Thiên đi nữa, th́ tại đấy, tùy theo con người hoặc chư thiên, họ có món ăn riêng để nuôi sống hiện hữu của họ. Cả hai trường hợp này cũng thật không tương xứng, nếu người thân quyến cúng dường mong người chết thọ nhận được. Người chết đă tái sanh làm người, làm chư thiên rồi làm sao thọ nhận !
- Duy có một trường hợp người chết tái sanh làm thân Ngạ Quỷ, món ăn nào mà thân quyến bè bạn con cái muốn hiến cúng cho họ, th́ họ sẽ trọn hưởng được. Loài ngạ quỷ sẽ sống và hiện hữu nhờ vào các món ăn cúng quảy này. Đây là trường hợp duy nhất có sự tương xứng .
- Thưa Tôn giả Gotama, người Bà la môn hỏi, các trường hợp người thân chết tái sanh vào các loài bàng sanh, địa ngục hay sanh lại làm người hoặc sanh làm chư thiên, sự cúng quảy không có sự thọ hưởng. Nhưng nếu người thân chết không tái sanh vào cơi ngạ quỷ, th́ ai sẽ là đối tượng thọ hưởng những của bố thí đó ?
- Này Bà la môn, nếu không là người thân thuộc đó, th́ những người thân thuộc khác của người cúng, ở ngạ quỷ, sẽ được hưởng thay trọn phần .
- Nhưng nếu cả ḍng họ thân thuộc của người bố thí ấy, không có ai bị tái sanh trong ngạ quỷ th́ phẩm vật cúng sẽ thuộc về ai ?
- Không có trường hợp này, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, mà không có một ai đó trong huyết thống bị sanh vào. Nhưng này Bà la môn, nên nhớ rằng, mặc dù thế, người bố thí ấy phải được hưởng quả báo tốt .
- Có phải Tôn giả đă nói về một giả thiết không thể xảy ra ?
- Đúng thế, này Bà la môn, trong suốt quá tŕnh sống, người nào tuy sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói thêu dệt, có tham có sân si, tà kiến, nhưng người ấy biết bố thí, ủng hộ cho những người có đạo đức, người sống v́ sự nghiệp đạo đức. Người ấy khi mạng chung sẽ sanh cộng trú với loài voi, nhưng là loài voi được ăn uống, trang sức đầy đủ.
Nếu nghiệp duyên của người ấy sanh vào loài ngựa, ḅ hay trâu, hay bất kỳ loài bàng sanh nào khác, th́ tại đấy, y vẫn thọ hưởng đầy đủ đồ ăn uống trang sức tương xứng .
Nếu như ai đó, từ bỏ sát sanh, trộm cướp, tà hạnh từ bỏ nói láo, lời độc ác, lời hai lưỡi, lời thêu dệt, từ bỏ tham, sân si và tà kiến, lại c̣n biết bố thí và nhất là bố thí cho người có cuộc sống đạo đức, người v́ sự nghiệp đạo đức. Khi người ấy tái sanh làm người, th́ tại đấy y sẽ hưởng thọ năm thứ công đức của loài người.
Nếu người ấy tái sanh vào chư Thiên, th́ tại đấy, y sẽ hưởng thọ năm thứ công đức của chư thiên. Trong mọi trường hợp, người bố thí vẫn gặt kết quả tốt tương xứng. Người bố thí, cúng dường nhất định có kết quả .
Sau pháp thoại đầy ư vị, hứng thú Bà la môn Janussoni đă bỗng chốc trở thành một nam cư sĩ tinh tấn .
(Kinh Tăng Chi III-539-543)
MỘT ÍT NHẬN XÉT
Thế nào là hành trang tư lương cho người mất, và làm thế nào để người mất nhận được hành trang tư lương đó. là một vấn đề rất quan trọng và bức thiết trong Phật giáo.
Phật giáo, nền giáo lư nhân bản, chăm lo đến đời sống con người khi con người c̣n trong thai mẹ cho đến lúc sanh trưởng và cái ngày từ giă cuộc sống. Đối với Phật giáo, cái chết được đánh giá ngang bằng và quan trọng như cái sống, là một tiền đề nối liền với cái sống kế tục.
Chuẩn bị cho cái chết không chu đáo, người chết sẽ gặp phải nhiều bất hạnh. Và do đó, chuẩn bị chu đáo cho cái chết cũng tức là chuẩn bị tốt cho cái sống.
Chết và sống không thể tách rời. Lợi ích và bất hạnh sẽ tùy thuộc phần lớn vào hành vi cuộc sống thường nhật và nhất là tâm niệm và hành vi cuộc sống lúc lâm chung hay trong thời gian bốn mươi chín ngày của thân trung ấm.
Thân trung ấm là giai đoạn chuyển tiếp cần thiết để một người mạng chung, có được điều kiện thích hợp thọ sanh vào nơi thích ứng với nghiệp đă tạo tác của nó. Thân trung ấm sẽ tồn tại từ lúc một người vừa tắt thở cho đến tối đa là bốn mươi chín ngày.
Thời gian tồn tại dài hay ngắn, hoàn toàn tùy thuộc vào tính chất phức tạp của nghiệp nhân người đó đă gieo trổ quả tái sanh trong một điều kiện và nhân duyên thích hợp và tương ứng.
Thời gian này là một dịp tốt để thân nhân quyến thuộc tu tạo nhiều phước duyên hồi hướng cho người mới mất. Và chính người mới mạng chung đó cũng c̣n được cơ hội hồi tâm, hướng thiện để hoặc là giảm bớt nghiệp ác đă làm khi c̣n sống, hoặc là tăng trưởng thêm phúc duyên, nếu khi sống ḿnh đă sống thiện .
Kinh Địa tạng, một bộ kinh ṇng cốt dạy về cách chuẩn bị hành trang tư lương cho người mất, giới Phật giáo Bắc tông ai cũng đều biết đến và thọ tŕ đọc tụng rất thường xuyên trong các lễ tang, các tuần thất, các ngày kỳ giỗ, và nhất là nửa tháng c̣n lại của tháng bảy âm lịch .
Kinh Địa tạng dạy, hành trang tư lương cho người mất, không ǵ khác hơn là những tu tạo phước đức như là làm phước, tu thiện, phóng sanh, bố thí, cúng dường, tụng kinh, hồi hướng công đức từ những người thân quyến c̣n sống thực hiện với tất cả sự thành tâm.
Tuy nhiên, kinh Địa tạng cũng khẳng định rất rơ là hành trang tư lương đó có chu đáo cỡ nào, th́ người mất chỉ tiếp hưởng được một phần mà thôi, c̣n sáu phần c̣n lại, người thân quyến tu tạo sẽ trọn hưởng.
Đây là một nguyên tắc nhân quả, ai gieo nhân tốt th́ người đó hưởng quả tốt, người được hồi hướng chỉ được cộng hưởng một phần công đức mà thôi (Xem kinh Địa Tạng, phẩm bảy, mục ba). Thực chất phương pháp này cốt yếu nhắm vào sự làm lợi ích cho người c̣n sống, thông qua việc tạo hành trang cho người mất.
Bản thân người mất, trong thời gian thân trung ấm, có được lợi ích nhiều hay ít, hoàn toàn tùy thuộc vào sự tùy hỷ vào việc làm cho ḿnh, và nhất là sự hồi tâm hướng thiện, thanh tịnh hóa ḿnh trước khi thọ sanh.
Trường hợp mẹ tôn giả Mục Kiền Liên trong kinh Vu Lan Bồn là sự kiện điển h́nh. Bà được thoát khổ, sanh về thiện giới do cải tạo hoàn toàn tâm lư tham lam, sân hận, si mê trước đó.
Việc làm hành trang này chỉ có hiệu quả, khi người chết chưa đi thọ sanh, do chưa t́m được nhân duyên và điều kiện thích ứng. C̣n trường hợp thọ sanh rồi th́ sao? Câu trả lời thích đáng đă nằm trong tích truyện kinh Tăng Chi vừa nêu .
Trong cuộc đối thoại giữa Đức Phật với Bà la môn Janussoni, Đức Phật đă vạch ra một chân lư đáp số rằng, người mất chỉ nhận được hành trang tư lương do thân quyến gởi đến, trong trường hợp tương xứng, không tương xứng ta sẽ có một đáp số ngược lại.
Khái niệm tương xứng của Đức Phật, bao gồm hai nội dung:
Thứ nhất, tự nghiệp nhân thiện ác của người mất, sẽ tự quyết định thiện thú hay ác thú họ phải sanh vào.
Thứ hai, mọi hành trang tư lương chỉ đến tay người mất, và người mất thụ hưởng được khi mà họ đang thọ thân ngạ quỷ .
Các thọ thân c̣n lại như trời, người, a-tu-la, địa ngục và súc sanh th́ không được.
V́ tại năm cơi sống đó, người mất đi thọ sanh sẽ sống với điều kiện thọ sanh từ nghiệp nhân của ḿnh.
Trời có cách thọ dụng của trời, người có cách thọ dụng của người. A-tu-la, địa ngục và súc sanh mỗi mỗi cũng có cách thọ dụng của riêng ḿnh, do đó hành trang tư lương sẽ không phù hợp, và không cần thiết với năm loại thọ sanh này.
Song mặc dù thế, Đức Phật vẫn lưu ư chúng ta về phước báu tất yếu cho người tạo tác, các hành trang tư lương. Quả báo đó luôn luôn tốt đẹp và có lợi nhiều mặt cho người ấy.
Sống với mười ác nghiệp nhưng có bố thí, dù đọa lạc làm bàng sanh, cũng thù thắng hơn các bàng sanh khi sống đă tạo mười nghiệp ác mà không có bố thí.
C̣n nếu người ấy khi sống thực hiện mười hạnh lành mà c̣n có bố thí, th́ khi thọ nhân con người hay chư thiên, luôn luôn là con người hay chư thiên thù thắng hơn các con người và chư thiên khác .
Qua tích truyện này chúng ta thấy kinh điển Nam tông và Bắc tông sẽ bổ sung cho nhau, sẽ hoàn thiện và làm toàn bích tri thức chúng ta về sự nhận định, tiếp cận và thực hành lời dạy Đức Phật.
Nhận thức điều này, chúng ta nên xa ĺa tri kiến phân biệt Tông phái, cái mà Đức Phật cho là điều chướng ngăn thánh đạo, để cùng nhau chung lo ngôi nhà Phật giáo toàn diện không Nam tông Bắc tông, không chi không phái, không phân chia biệt thù.
Làm lợi ích cho con người và nhân loại, những thực thể sống ngày một khô cằn, chai sạn bởi sự bế tắc của vật chất, bởi sự lẩn quẩn của tôn giáo, triết phái đang khao khát những món ăn tinh thần thanh khiết, đầy bổ dưỡng thật sự của Phật giáo chánh kiến, viên dung .
LotusNet
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 340 of 2534: Đă gửi: 27 June 2008 lúc 9:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
LỜI NGUYỀN CỦA NGƯỜI TỬ TỘI
Năm 1821, tại thị xă Newtown Montgomeryshire thuộc nước Wales1, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước ṭa để thẩm phán. Đứng trước quan ṭa ông ta khẳng định tuyên bố rằng, ông là người vô tội.
Nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người, mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.
Nh́n thẳng vào quan ṭa với ánh mắt nẩy lửa Newton thét lớn:
- TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ĐỂ CHỨNG MINH ĐIỀU ĐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MĂI MĂI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔI..
Vài ngày sau, John Newton đă bị treo cổ công khai trước quần chúng. Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu th́ bỗng đâu một cơn băo kéo tới, sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ.
Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố. Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần, với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt.
Nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây, th́ miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là v́ giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất h́nh chữ nhật, trơ trọi mọc một loại cỏ dại ḅ chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.
Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton, v́ thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng tăng dần trong khu thị xă nhỏ này.
Để xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đă nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được, th́ họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận.
Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm. Và vài tháng sau người ta lại t́m đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước, nhưng trải qua nhiều năm một cọng cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.
Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price, đă đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ. Ông ta viết:
"Đă ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ trên nấm mồ này, cho dù chúng ta đă dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng không thể mọc lên. V́ vậy tôi cùng nhiều người khác tin rằng đây là sự chứng minh "vô tội" của người đàn ông đáng thương."
Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng, quan ṭa đă xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất, rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.
Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng th́ người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non, lúc đó ai cũng hớn hở v́ cỏ đă mọc được trên nấm mồ Newton rồi, như vậy họ sẽ không c̣n cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa.
Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đă ḅ lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi, có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.
Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa, v́ họ biết rằng cho dù có trồng th́ cũng vô dụng, v́ vậy mảnh đất nhỏ xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non.
Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này, vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại ḅ ngổn ngang theo khuôn của chiếc quan tài, vẫn c̣n nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ.
Đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của ṭa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|