Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 204 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 361 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 10:29am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

AI CẬP HUYỀN BÍ

 

Người du khách cuối cùng đă về, người hướng dẫn viên cuối cùng đă lập lại đến cả ngàn lần những điều hiểu biết của ḿnh để giới thiệu cho du khách ngoại quốc về xứ cổ Ai Cập. Một bầy lừa mệt mỏi và đàn lạc đà bất kham đă lần bước chậm chạp trên đường về với những du khách cuối cùng trong ngày.
Trong khung cảnh xứ Ai Cập, bóng hoàng hôn có một vẻ đẹp siêu nhiên và khó quên. Mọi vật đều khoe màu đổi sắc, giữa khoảng trời đất bao la nổi bật lên những khoảng tương phản lạ lùng.
Tôi c̣n ngồi lại một ḿnh trên băi cát vàng, đối diện với pho tượng Sphinx hùng vĩ oai nghiêm tuyệt trần. Tôi nh́n một cách say mê cái cảnh tượng những màu sắc mỏng manh như sương phai mờ dần một cách nhẹ nhàng, trong khi mặt trời lặng đă cất đi những ánh vàng lộng lẫy trên nền trời Ai Cập. Những ánh lửa diệu huyền, nét huy hoàng tuyệt đối mà mặt trời lặn của Châu Phi c̣n bỏ sót lại trong không gian, có ai tiếp nhận bức thông điệp thiêng liêng của trời mà không cảm giác được trong giây lát cái phút lạc lơng của cơi Thiên Đàng? Niềm phúc lạc đó sẽ c̣n tồn tại khi con người chưa đến quá nỗi trụy lạc trong ṿng trần gian ô trược, trong sự sa đọa tâm linh, nó sẽ tồn tại khi con người c̣n biết yêu vần Thái Dương này là nguồn gốc của sự sống và của bao nhiêu màu sắc huy hoàng lộng lẫy xuất hiện trước mắt ta. Cổ nhân xứ Ai Cập thật ra đă không kém minh triết khi họ tôn thờ RÂ, biểu tượng ngôi mặt trời, mà trong thâm tâm họ coi như một vị Thần...
Trong bối cảnh hoàng hôn Ai Cập, dưới một nền trời xám ngắt đă tối mờ dần, tôi nh́n pho tượng đá Sphinx mỗi lúc càng sậm màu, cho đến khi những tia nắng vàng sậm cuối cùng đă tắt hẳn và không c̣n chiếu vào gương mặt lạnh lùng bí hiểm của nó nữa. H́nh thần tượng Sphinx nhô lên giữa băi sa mạc mênh mông gương mặt khổng lồ, than h́nh nằm duỗi ra, trải qua nhiều thế hệ đă từng gây sự sợ hăi cho những người Ả Rập dị đoan, và làm ngạc nhiên những người du khách hoài nghi, mà bằng chứng là những câu hỏi từ người lữ khách, lần đầu tiên con quái vật khổng lồ xuất hiện trước đôi mắt kinh ngạc của họ. Pho tượng đá bí hiểm ḿnh sư tử đầu người này có một sức hấp dẫn rất lạ lùng và phức tạp đối với bao nhiêu thế hệ du khách. Nó là một sự bí mật đối với người Ai cập, và một bài toán bí hiểm cho toàn thế giới. Ai đă điêu khắc ra nó? Vào thời đại nào? Không ai biết được. Nhà Ai Cập học chuyên môn nhất cũng chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ về ư nghĩa và lịch sử của h́nh thần tượng Sphinx.
Dưới ánh sáng le lói cuối cùng của một ngày đă tàn, đôi mắt tôi ngừng lại trên đôi mắt bằng đá của pho tượng thản nhiên bất động. Nó đă từng thấy hằng bao nhiêu là tỷ ức người lần lượt đến trước mặt nó, với những cái nh́n im lặng, đưa ra những câu hỏi không lời và không giải đáp, rồi bước chân ra về trong sự hoang mang! Nó đă từng thản nhiên lặng nh́n châu Atlantide bị tràn ngập dưới cơn đại hồng thủy và biến mất dưới ḷng biển sâu. Cái nụ cười thoảng qua của nó đă từng chứng hiến công tŕnh vĩ đại của vua Mena, vị Quốc Vương Ai Cập đầu tiên đă đổi ḍng sông Nile yêu quư của người Ai Cập và bắt nó chảy qua một đường hướng khác. Cái nh́n im lặng đượm mùi mến tiếc của nó đă từng thấy nhà tiên tri Moise, nghiêm cẩn và ít nói, từ giả nó lần cuối cùng. Câm lặng và đau thương, nó đă nh́n thấy những nỗi đau khổ của xứ Ai Cập bị tàn phá, suy vong sau cuộc xâm lăng của vị bạo chúa Cambyse, hoàng đế nước Ba Tư. Có lẻ vừa thích thú vừa khinh bỉ, nó từng nh́n thấy nữ hoàng Cléopâtre đẹp lộng lẫy và kiêu hănh trong chiếc thuyền rồng mũi trạm vàng, buồm may bằng nhung đỏ thắm và mái chèo đúc bằng bạc. Nó từng sung xướng nh́n thấy đức Jesu trên đường đi t́m đạo lư phương đông để chuẩn bị chờ ngày thi hành sứ mạng, ngày mà đức Chúa Cha gửi Ngài đi truyền bá cho thế gian một thông điệp thiêng liêng về đức nhân từ bác ái. Như một kẻ báo hiệu không lời, biểu tượng Sphinx chào mừng Bonaparte, khí cụ của định mệnh các nước Châu Âu, trước khi tên Mă Phá luân nổi bật làm lu mờ những tên khác, và ngay khi ông ta hăy c̣n là một nhân vật chưa tên tuổi, chưa đặt chân xuống chuyến thuyền Bellérophon để sang chinh phục xứ Ai Cập. Nó cũng nh́n thấy, với ít nhiều bi ai, toàn thể thế giới chú ư đến Ai Cập khi ngôi lăng tẩm của một vị Pharaon, vua Ai Cập thời cổ bị khai quật lên để cho người đời tọc mạch nh́n xem xác ướp của vua với những đồ ngọc ngà châu báu.
Thật vậy, đôi mắt bằng đá của pho tượng đă từng chứng kiến những điều đó và nhiều điều khác nữa. Nhưng bây giờ nó nh́n thấy ǵ? Không màng để ư kẻ thế nhân phàm tục đang bôn tẩu trên đường danh lợi, thản nhiên trước nỗi sung sướng, khổ đau của nhân loại, h́nh như biết rơ cái định mệnh đă ghi sẵn tất cả mọi biến cố lớn của trần gian, đôi mắt bằng đá kia nh́n thẳng vào cơi vô cùng...
H́nh thần tượng Sphinx đă chuyển màu xám sang màu đen, rồi một màu đen như mực, nền trời đă mất cái nét xám bạc của lúc ban chiều, tất cả điều đắm ch́m trong đêm tối, chúa tể của sa mạc. Nhưng pho tượng vẫn c̣n hấp dẫn sự chú ư của tôi và làm cho tôi bị thu hút như do mănh lực của một luồn từ điện vô h́nh. Đó là v́ tôi cảm thấy rằng màn đêm rủ xuống đă đem pho tượng trở về nguyên quán của nó. Cái bối cảnh đen âm u, đó mới đúng là cái bối cảnh thực sự của nó. Những ǵ là thần bí của một đêm Châu Phi tạo cho nó một bầu không khí thích nghi. Cũng trong những giờ ban đêm mà Râ và Horus, Isis và Osiris, những vị Thần Linh của xứ cổ Ai Cập, luôn luôn trở về với nhân gian. Tôi nhất định đợi lúc trăng lên và sao mọc để nh́n thấy một lần nữa cái chân tướng của h́nh thần tượng Sphinx. Tôi ngồi một ḿnh giữa đóng cát bao la, nhưng tôi không cảm thấy cô đơn, thật vậy, cảm giác cô đơn hiu quạnh không thẻ nào có được với tôi.
Ban đêm, tôi có thể ngắm nh́n thần tượng Sphinx dưới cái khía cạnh mà ít người du khách được nh́n thấy. Tạc trong khối đá, in trên nền trời xanh như chàm, cao bằng một ngôi nhà lầu bốn tầng, con sư tử đầu người khổng lồ vươn ḿnh nằm dài trong thung lũng của đồng cát. Dưới ánh trăng sao vừa ló dạng, những nét hùng vĩ của nó hiện rơ lần lần. Đó là cái biểu tượng lạ lùng của một xứ Ai Cập mà nguồn gốc bí ẩn được truy nguyên đến những thời đại xa xăm vô định. Giống như con vật nằm canh gát những bí mật của thời tiền sử, nghĩ đến những thế hệ của châu Atlantide mà kư ức mong manh của người đời không c̣n nhớ đến nữa, pho tượng đá khổng lồ chắc cũng sẽ c̣n tồn tại măi qua mọi thế hệ văn minh của loài người hiện nay, và nó cũng sẽ giữ nguyên vẹn không hề tiết lộ sự bí mật nội tâm của nó. Gương mặt khắc khổ và uy nghiêm của nó không phản ánh một điều ǵ, đôi môi khép chặt của nó vẫn giữ một sự im lặng muôn đời. Nếu pho tượng Sphinx có giữ ǵn cho nhân loại một thông điệp ẩn dấu nào mà nó đă chuyển đạt qua nhiều thế kỷ cho một số rất ít người hữu hạnh có một năng khiếu linh cảm khác thường, th́ điều bí mật đó có khi sẽ được nhắn nhủ thầm bên tai của người thí sinh tầm đạo.
Đêm tối dành cho h́nh thần tượng Sphinx một khung cảnh tuyệt hảo. Ở phía sau, bên mặt và bên trái pho tượng là "Thành phố của người chết," một khoảng đất rộng dẫy đầy những nấm mộ hoang cùng lăng tẩm.
Chung quanh vùng cao nguyên lởm chởm những núi đồi và đá tảng nhô lên từ dưới đồng cát ở phía nam, phía tây và phía bắc pho tượng Sphinx, những lăng tẩm và mồ mả được xây cất chứa những cổ quan tài đựng hài cốt và những xác ướp của những vị vua chúa, các vị đại thần và chức sắc của triều đ́nh hay tôn giáo của xứ Ai Cập thời cổ.
Không có một ngôi lăng tẩm nào mà khi bước vào mà người ta không thấy cỗ quan tài bật nắp ra và những đồ vàng ngọc châu báo tô điểm xác ướp đă bị lấy đi mất. Sự cướp bóc này đă xảy ra cùng lúc với sự khai quật những nấm mồ trong những cuộc đào xới để khảo cổ. Người ta chỉ lại tại chỗ những pho tượng nhỏ và những b́nh, vại chứa đựng ruột gan của những xác chết đă đem ướp bằng chất hương liệu. Ngay ở xứ Ai Cập thời cổ cũng đă có những kẻ trộm đào mồ, khi dân chúng nổi loạn chống giai cấp thống trị càng ngày càng trở nên suy tàn, họ trả thù bằng cách khai quật mồ mả và cướp bóc nơi nghĩa trang rộng lớn của nhà vua, tại đây những vị đại thần được cái vinh dự yên nghĩ giấc ngh́n thu bên cạnh xác ướp của các bậc vua chúa mà họ đă phụng sự từ thuở sinh tiền.
Một số ít những người chết mà xác ướp thoát khỏi bàn tay cướp bóc của những kẻ trộm đầu tiên, đă nằm yên nghỉ trong một thời gian khá lâu cho đến khi người Hy Lạp, người La Mă và người Ả Rập lần lượt thay phiên nhau đến đánh thức họ. Những ngôi mộ, lăng tẩm nào thoát khỏi cướp bóc và khai quật trong những cuộc biến cố sau này, được yên nghỉ thêm một thời gian khá lâu nữa cho đến đầu thế kỷ mười chín, khi các nhà khảo cổ hiện đại ra công thám hiểm dưới ḷng đất của xứ Ai Cập để t́m kiếm những ǵ mà kẻ trộm thời xưa c̣n sót lại chưa lấy đi. Như thế há phải chẳng tội nghiệp cho những bậc vua chúa, vương hầu bất hạnh của thời xưa, tuy xác ướp họ c̣n nằm đó, mà bị người ta khai quật mồ mả và cướp bóc kho tàng? Dầu cho những xác ướp của họ không bị dập tan ra từng mảnh do bàn tay bạo tàn của những kẻ trộm báu vật, th́ những xác ướp đó cũng đă bị giam cầm cho nằm yên nghỉ trong những cổ tàng viện để làm thỏa măn sự ṭ ṃ và làm mụch tiêu dị nghị b́nh phẩm của mọi người.
Đó là cái bối cảnh rùng rợn của thần tượng Sphinx khi nó vươn ḿnh và nhô đầu dậy trong cô đơn tịch mịch giữa đồng cát. Nó đă từng quan sát những hầm tối trong "Thành phố của xác chết," lần lượt bị sự cướp bóc của người dân Ai Cập nổi loạn và quân xâm lăng Ả Rập. Vị quản thủ đồ cổ Ai Cập tại bảo tàng viện British Museum là ông Wallis Budge không làm ai ngạc nhiên khi ông đi đến kết luận rằng: "Thần tượng Sphinx là để đuổi tà ma ra khỏi những nghĩa địa và lăng tẩm ở vùng chung quanh." Cũng không ai ngạc nhiên mà thấy rằng ba ngàn bốn trăm năm trước, vua Thoutmès thứ tư của Ai Cập có cho khắc vào một tảng đá lớn mà ông đặt ngay trước ngực tượng Sphinx, hàng chữ: "Một sự bí mật linh thiêng đă từng bao phủ vùng này từ lúc sơ khởi, v́ gương mặt của pho tượng Sphinx là một biểu tượng của thần Khepera, vị thần của sự Bất Tử, chúa tể các vị thần linh và ngự trị vùng này. Dân chúng ở thành Memphis và ở khắp địa phương cùng đưa tay lên để cầu nguyện trước mặt Ngài".
Như vậy không ai c̣n lạ ǵ mà thấy dân Ả Rập ở làng Gizeh gần bên có nhiều truyền thống rất dồi dào về những chuyện vong linh và âm hồn thường lởn vởn ban đêm trong bầu không khí chung quanh h́nh thần tượng Sphinx, một nơi họ cho rằng có nhiều ma nhất thế giới! Phải chăng bằng cách ướp xác những nhân vật quyền quư của thời xưa, người cổAi Cập đă kéo dài trong một thời gian vô hạn định sự tiếp xúc giữa những vong linh thời cổ với nhân loại chúng ta ngày nay?
Quả thật ban đêm là lúc mà người ta có thể ngắm nh́n thần tượng Sphinx một cách thú vị nhất. V́ dường như ban đêm là lúc mà cơi giới âm linh có vẻ gần gủi với ta hơn, tâm hồn ta sẵn sàng mở rộng đối với những cảm giác bất ngờ, trong khi ở chung quanh ta, dưới màn đêm bao phủ, thậm chí những h́nh thể vật chất thô kệch cũng thoát lấy một vẻ mờ ảo u huyền. Màn trời ban đêm đă trở thành màu chàm pha lẫn màu đỏ thắm, một thứ màu thần bí phù hạp với sự t́m ṭi thám hiểm của tôi.
Đêm tối kéo dài một cách từ từ êm ả và câm lặng như một con heo, nếu người ta không để ư đến những tiếng rú rùn rợn giống như tiếng người của vài con beo đốm trong sa mạc, là những tiếng động duy nhất điểm giờ khắc trôi qua. Chúng tôi vẫn ngồi đó, thần tượng Sphinx và tôi, dưới ánh sao vằng vặc của nền trời Châu Phi, sự giao cảm giữa chúng tôi mỗi lúc càng thêm sâu đậm; từ sự quen biết nhau, chúng tôi tiến đến t́nh bạn, có lẽ chúng tôi bắt đầu hiểu nhau ít nhiều.

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 362 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 11:09am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MỘT ĐÊM VỚI

 THẦN TƯỢNG SPHINX

Chương Một

 

Khi tôi đến với nó lần đầu cách đây vài năm, nó nh́n ra chỗ khác, yên lặng và khinh ngạo. Khi ấy tôi là ǵ đối với con vật khổng lồ này, nếu không phải là một kẻ phàm tục như bao nhiêu kẻ khác, là những sinh vật náo động đi bằng hai chân, làm bằng những chất liệu kiêu căng, tự măn, những dục vọng phù phiếm và những tư tưởng điên rồ? Về phần tôi, tôi đă tưởng nó là biễu tượng của một chân lư mà chưa ai t́m ra, một biểu tượng khổng lồ bí hiểm mà mọi lời cầu nguyện không được giải đáp và rốt cuộc chỉ rơi vào khoảng hư vô. Tôi đă bước ra về, hoài nghi và thất vọnh hơn trước, chán nản cơi trần gian tục lụy và ḷng tràn ngập những nỗi niềm cay đắng.

Nhưng đó không phải là vô ích mà ngày tháng đă trôi qua. Cuộc đời: đó là sự giáo dục tâm linh và thầy học của chúng ta.

Vị thầy học vô h́nh ấy đă dạy tôi một hai điều quan trọng. Tôi đă hiểu rằng bầu thế giới của chúng ta không phải xoay trong ṿng không gian mà không có mục đích.

Tôi đă trở lại với thần tượng Sphinx, với một tâm hồn già dặn và sáng suốt hơn. Ở lại ban đêm bên cạnh nó trên đồng cát xứ Ai Cập, tôi ngồi tịnh tọa, hai chân xếp bằng, và cố gắng thiền định để suy gẫm về ư nghĩa huyền bí của h́nh biểu tượng khổng lồ này.

Cả thế giới đều biết h́nh thần tượng Sphinx và nhận ra gương mặt hủy hoại và tàn phá của nó. Điều mà thế giới không hề biết, là bằng cách nào và tự bao giờ nó được tạc ra trong tản đá nhô lên giữa đồng cát, và những bàn tay nào đă biến khối đá hùng vĩ ấy thành một pho tượng khổng lồ như thế.

Khoa khảo cổ vẫn im lặng, các nhà bác học nghiêng đầu suy nghĩ với một sự hoang mang thầm lặng, v́ họ phải gạt bỏ một loạt những giả thuyết mong manh mà từ trước đến nay họ đă từng nêu ra một cách quả quyết và tin tưởng. Họ không dám đưa ra một cái tên nhất định, cũng không dám mạo hiểm ra một ngày giờ chắc chắn. Họ không c̣n nói rằng thần tượng Sphinx là công tŕnh của vua Khafra hay vua Khoufou, v́ họ nhận thấy các tài liệu cổ tạc trên đá đă chứng minh rằng pho tượng đă có sẵn dưới triều đại của các vị vua này. Việc sưu tầm các di tích cổ do những cuộc đào xới phát hiện được, đă đưa ra ánh sáng một bản cổ tự đề cập đến h́nh thần tượng Sphinx như một công tŕnh điêu khắc mà nguồn gốc đă mất đi trong vực thẳm của thời gian, mà người ta đă t́nh cờ khám phá ra được sau khi nó đă bị chôn lấp dưới băi cát sa mạc và hoàn toàn bị lăng quên, không c̣n ai nhớ đến nữa. Bản cổ tự này xuất xứ từ triều đại thứ tư, gồm những v́ vua trị v́ xứ Ai Cập cách đây gần sáu ngh́n năm. Đối với những vị vua ở vào thời kỳ cổ xưa ấy, h́nh biểu tượng Sphinx đă là một điều bí hiểm rồi, mà không ai biết có từ lúc nào!

Ban đêm đem lại giấc ngủ, nhưng từ giờ này qua giờ khác, tôi đă cố gắng đánh lui cơn buồn ngủ. Tuy nhiên, trong khi tôi vẫn tiếp tục cơn thiền định suy tư, đôi mí mắt của tôi đă nặng trĩu do sự phản ứng của cơ thể và tôi đă sắp thiếp đi. Bấy giờ th́ có hai mănh lực tương phản đang ḱnh chống nhau để tranh thủ lấy tôi. Một là sự ước muốn mănh liệt thức luôn suốt đêm như để chia xẻ phiên gác của con sử tử đá Sphinx. Hai là khuynh hướng để cho tinh thần lẫn thể xác của tôi tự thả trôi theo cái thú vị triền miên giữa cảnh vật trầm lặng và huyền ảo của đêm trường tịch mịch. Sau cùng tôi đă ḥa giải được cả hai khuynh hướng đó, theo sự thỏa hiệp này, tôi ngồi lim dim, đôi mắt hé mơ chỉ c̣n là hai cái khe nhỏ xuyên qua đó tôi hầu như không c̣n nh́n thấy ǵ nữa, và thần trí mơ màng nữa tỉnh nữa mê, tôi để cho gịng tư tưởng của tôi đắm ch́m trong một giấc mơ huyền diệu.

Tôi ngồi một lúc như thế, tự trả trôi theo một sự yên tĩnh triền miên nó xảy ra khi tư tưởng chấm dứt. Tôi mơ như thế được bao lâu, tôi cũng không hay biết nhưng sau một lúc tôi không c̣n nh́n thấy màu sắc ǵ nữa, mà thay vào đó, một cảnh tượng sống động xảy ra trước mắt tôi như một cuốn phim. Trong cảnh tượng đó, ánh trăng khuya chiếu vào một tia sáng nhạt mờ huyền ảo ...

Chung quanh tôi muôn ngh́n gương mặt nắng rám, da sậm đang lăng xăng hoạt động, kẻ tới người lui, kẻ th́ đội trên đầu những rổ đá sạn, người th́ trèo lên hay bước xuống những giàn tre mỏng manh dựng lên sát cạnh một khối đá khổng lồ. Trong số đó có những người cai truyền khẩu lệnh cho những thợ thuyền, hoặc kiểm soát công việc của những người thợ đá đang sử dụng búa ŕu trên ngọn đồi mà họ tạc theo một kiểu mẫu đă vạch sẵn. Những tiếng búa đục của họ giáng xuống liên tiếp vang dội trong bầu không khí chung quanh. Tất cả những người lao công thợ thuyền này điều có một gương mặt dày dạn phong trần, màu da mầu sậm đỏ, hoặc vàng mà hơi sám. Họ có một cái môi trên dày, và thân h́nh lực lưỡng.

Công việc của họ vừa xong, thay v́ một tảng đá dốc đứng kiên cố hùng vĩ trên mặt đất trước kia, nay đă nhô lên một gương mặt người khổng lồ với thân h́nh một con sư tử đại quy mô xem ra là một con quái vật dị kỳ đang vươn ḿnh trong một thung lũng lớn giữa đồng cát. Trên đỉnh đầu con quái vật, mà cái bờm vĩ đại dợn sóng phủ phía sau hai mép tai, có đặt một cái dĩa tṛn bằng vàng khối.

Thần tượng Sphinx!

Những phu thợ đă biến mất. Cảnh vật trở lại lặng im như một nấm mồ vô chủ. Khi đó ta nh́n thấy một biển lớn đang đập sóng trong khoảng không gian bên trái tôi, mà bờ biển chỉ cách đó độ một cây số. Trong cái im lặng đó có một cái ǵ rùng rợn, tôi cũng chưa kịp hiểu đó là ǵ cho đến khi từ trong ḷng biển đại dương dậy lên mộ tiếng gầm kinh khủng và kéo dài, mặt đất chuyển động và rung rinh dưới chân tôi. Với một tiếng gầm long trời lở đất, nước biển trào lên, một ngọn sóng lớn và cao như vách trường thành từ xa th́nh ĺnh phóng tới chúng tôi, và nuốt chửng cả con quái vật Sphinx và tôi.

Cơn đại hồng thủy!

Lại một cơn im lặng,

nó kéo dài được bao lâu, trong khoảng một phút hay là mười hai năm trường, điều đó tôi không định chắc ra được! Rồi bỗng nhiên tôi lại thấy tôi ngồi dưới chân pho tượng đá. Tôi nh́n chung quanh, không c̣n thấy biển đâu nữa mà chỉ thấy một khoảng rộng lớn đầy những ao đầm đă gần cạn, và răi rác đó đây những băi muối rất lớn đang khô dưới ánh mặt trời. Và ngôi mặt trời ngự trị khắp nơi một cách ngạo nghễ, những băi cát mỗi lúc càng rộng lớn và càng nhiều. Vầng thái dương vẫn thản nhiên phóng những tia nắng đỏ hút cho đến khô ráo những di tích ẩm ước cuối cùng, và biến khoảng không thành một xứ đầy cát mịn và khô, phản chiếu một màu vàng nhạt.

Băi sa mạc!

Thần tượng Sphinx vẫn ngắm nh́n cảnh vật, đôi môi dầy, rắn chắc và nguyên vẹn của nó h́nh như sắp nở một nụ cười, dường như nó cũng măn nguyện với sự cô đơn độc chiếc. Thật là một sự ḥa hợp tuyệt diệu giữa những con quái vật cô đơn với cảnh vật đ́u hiu lặng lẽ của vùng chung quanh. Dường như cái tinh thần đơn độc đă t́m thấy sự thể hiện xứng đáng của nó nơi con quái vật khổng lồ và thản nhiên này.

Thần tượng Sphinx vẫn nằm giữa đồng cát như thế cho đến khi một đoàn tàu từ xa tiến đến và ngừng lại trên bờ sông, thả lên bờ một nhóm người. Nhóm người này từ từ tiến đến gần, cúi rạp xuống lạy h́nh thần tượng và thốt ra những lời cầu nguyện đầy vẻ vui tươi an lạc.

Kể từ ngày ấy, cái im lặng thần tiên đă gián đoạn. Người ta bắt đầu dựng lên những nhà cửa ở vùng thung lũng gần bên, các bậc vua chúa cùng với triều đ́nh và tăng lữ lục tục kéo đến để chầu thần tượng Sphinx, chúa tể của sa mạc và vua không có triều đ́nh!

Tới đây, cái linh ảnh hiện ra trong trí tôi đă chấm dứt, nó vụt tắt như ngọn lửa rụi tàn của một cái đèn đă hết dầu.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 363 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 11:23am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẦN CANH GIỮ SA MẠC

Chương Hai

 

Các bầu tinh tú vẫn đua nhau chớp trên nền trời xanh thẫm con trăng thượng tuần vẫn tiếp tục chói rạng trên đỉnh đầu chúng tôi, thần tượng Sphinx có vẻ biến đổi màu sắc vẫn vươn ḿnh một cách hùng dũng dưới ánh trăng bạc. Khi tôi day đầu qua bên trái là nơi mà trong linh ảnh vừa rồi hiện ra trong trí tôi, tôi đă nh́n thấy biển cả gầm thét như sấm động và nuốt trôi cả vùng đất liền.

Một con dơi, có lẽ lầm tưởng tôi là phiến đá vô tri bất động như cái bối cảnh chung quanh, vỗ đôi cánh đụng vào đầu tôi rồi bay mất, làm cho tôi có cái cảm giác ghê tởm và rờn rợn người nơi sương xuống. Tôi nghĩ rằng có lẽ nó vừa mới chui ra từ trong một cái nấm mồ chôn xác ướp mà người ta vừa khai quật ở vùng gần bên.

Tôi ngắm nh́n cái đồng cát mênh mông chiếm trọn một diện tích ba triệu dặm vuông của vùng sa mạc Sahara, diễn ra đến tận chân trời cho đến chỗ nó giáp ranh với một dăy núi đồi dài dựng đứng như thành quách, che chở xứ Ai Cập và vùng châu thổ sông Nil. Thiên nhiên dường như cố ư dựng lên những dăy đồi của xứ Libye để bảo toàn cho xứ Ai Cập khỏi bị chôn vùi dưới đống cát của băi sa mạc này.

Mối nguy cơ đó là một sự thật hiển nhiên. Mỗi năm vào đầu mùa xuân, một trận cuồng phong với một sức mạnh và tốc độ kinh khủng, khai chiến với vùng bắc phi và thổi mạnh qua như vũ băo từ bờ biển Đại Tây Dương, xuyên qua trọn cả vùng lục địa Châu Phi. Chẳng khác nào một đạo binh xâm lượt khát máu và tàn bạo, trận gió lớn đi đến đâu, càng quất cát bụi đi đến đấy. Những cơn gió trốt cát bụi đi theo thành những cơn băo cát gieo sự tàn phá khắp nơi, chôn lắp nhà cửa, dinh thự, đền đài và thậm chí chôn luôn trọn cả những thành phố. Đó là cái mănh lực của những hột cát vàng, nó ngự trị vùng này như một lănh chúa quyền uy vô địch. Sức mạnh của những cơn băo cát có thể làm cho nền trời hoàn toàn sẫm tối và che khuất cả mặt trời. Những cơn gió trốt cuốn cát dậy lên dày đặc như sa mù ở Luân Đôn, thổi hết tốc lực, rồi nế không có ǵ ngăn chặn, nó sẽ quét sạch và chinh phục mọi chướng ngại gặp ở dọc đường. Tôi nh́n pho tượng đá Sphinx, những nét trên mặt của nó chỉ hiện ra một cách lu mờ dưới ánh sao khuya, nhưng cái miệng của nó, bề rộng có đến hai thước, đượm một vẻ bi thư hầu như đến rùng rợn, khác hẳn với cái nụ cười hồn nhiên của nhân vật hiện ra trong linh ảnh của tôi khi năy, là h́nh biểu tượng Sphinx của thời buổi sơ khai, của thời đại Atlantide. Những cơn gió băo của ca mạc thổi với tốc độ cuồng loạn đă sát phạt gương mặt của nó, cùng với sự hủy hoại do bàn tay phủ phàng thô bạo của những kẻ phàm phu không hề biết kính trọng quỷ thần!

Tự nhiên là những cơn bảo cát đă tấn công h́nh biểu tượng này, khi th́ âm thầm che lấp bao phủ, khi th́ ào ào sát phạt với cơn thịnh nộ của vũ bảo. Nó đă từng bị chôn lấp hay chăng: Đă hẳn rồi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Tôi nhớ đến giấc mộng huyền bí mà vua Thoutmès IV đă kể lại bằng chữ ám tự (hiéroglyphes) khắc trên phiến đá đỏ dựng lên giữa hai chân con sư tử đá. Tôi cũng nhớ lại lời than thở của nó trong giấc mộng vừa kể, khi nó bị cát chôn lấp đến cổ:

- Cát sa mạc đă lấp ta (vị thần che chở của nó nói), ta càng ngày càng bị chôn sâu hơn. Hăy mau ra tay dẹp cát đi, rồi ta sẽ coi ngươi như con ta và như ngươi trợ giúp ta.

Khi tỉnh giấc, vua Thoutmès nghĩ thầm rằng: "Dân chúng trong thành chỉ biết tôn sùng vị thần này, mà không có một người nào từng nghĩ đến việc giải tỏa pho tượng của ngài khỏi bị cát lấp."

Những h́nh vẽ ở phía trên phiến đá vẽ nhà vua dâng hương cho thần tượng Sphinx, kế đó là bài tường thuật giấc mộng lạ lùng của nhà vua, khắc bằng chữ ám tự:

"Hoàng thân Thoutmès cùng vài người bạn đi săn trong vùng Gizeh, ở ven sa mạc. Trên đường về hướng nam, hoàng thân đă tập bắn cung vào những tấm bia bằng đồng, săn sư tử và các loại thú dữ của sa mạc, và tập dong xe với những con tuấn mă chạy nhanh hơn gió.

"Vào lúc giữa trưa, hoàng thân dừng cuộc du hí v́ đă quá mỏi mệt. Sau khi dùng cơm trưa xong, người muốn nghỉ ngơi đôi chút, bèn cho kẻ tùy tùng lui bước. Trước khi nằm nghỉ, hoàng thân đọc kinh cầu nguyện các thần linh.

"Trong giấc ngủ mê, thần Thái Dương Râ nói với hoàng thân như một người cha nói với con:

- Ta nh́n thấy con đây, Thoutmès, con hỡi! Ta là Herou Khout, cha của con, ta muốn cho con giang sơn này. Con sẽ kế nghiệp trên ngai vàng, giang sơn bờ cơi này sẽ thuộc về con tất cả, con sẽ sở hữu những tài nguyên phong phú của xứ Ai Cập và những lân quốc sẽ đem đồ bảo vật đến cống hiến cho con!

"Giấc mộng kết thúc bằng lời kêu gọi khẩn thiết hăy giải tỏa thần tượng Sphinx ra khỏi đống cát phủ phàng nếu hoàng thân muốn kế nghiệp giang sơn Ai Cập như đă hứa.

"Hoàng thân Thoutmès bèn triệt để tuân theo những lời kêu gọi trong giấc mộng, và dùng một số nhân công rất lớn để giải tỏa những đống cát bao phủ thần tượng Sphinx ngập lên đến ngực."

Herou Khout, vị thần linh che chở h́nh biểu tượng Sphinx đă giữ đúng lời hứa. Hoàng thân được truyền ngôi lên làm vua Ai Cập, qua mặt cả những người anh lớn trong hoàng gia. Trở nên vua Thoutmès IV, người đem quân đi chinh phạt các lân quốc, luôn luôn thắng trận và mở rộng bờ cơi, đế quốc của người gồm thâu luôn cả xứ Mésopotamie ở phía đông, xứ Nubie ở phía nam, xứ Lybie ở phía tây, trong khi những đồ bảo vật cống hiến đem đến từ xứ Ethiopie, đúng như giấc mộng đă tiên đoán. Dưới triều đại của nhà vua, tài nguyên sung túc, quốc gia phồn thịnh, nền văn minh Ai Cập đạt đến một tŕnh độ cao tột chưa bao giờ có, thật đúng như lời báo trước trong giấc mộng. Những sự việc kể trên không phải là chuyện huyền thoại hoang đường, mà là những sự kiện có thật trong lịch sử. V́ người cổ Ai Cập, hơn cả những dân tộc khác của thời đại cổ xưa, đă chép sử một cách chu đáo, xác thực và tinh vi đến nỗi những sự việc xảy ra trong lịch sử của họ được khắc sâu trên tảng đá, để có thể tồn lâu bền hơn gấy mực và sách vở.

Những đốm sao đă lần lượt biến mất trên nền trời xanh đậm. Tôi hiểu rằng đêm thức sáng trắng của tôi đă gần chấm dứt. Tiết trời ban đêm khá lạnh, nhưng tôi cảm thấy cổ họng của tôi lại khô và nóng. Một lần nữa, tôi đưa mắt nh́n thần tượng bằng đá uy nghiêm, tượng trưng một cách thần diệu đấng thần minh câm lặng và tối cao có phận sự chăm nom ǵn giữ bầu thế giới của chúng ta. Phải chăng tôi đă lật một trang bí sử của thời tiền sử Ai Cập? Có ai dám thầm ước đoán tuổi của thần tượng Sphinx? Nếu người ta chấp nhận rằng nguồn gốc của nó truy nguyên ở châu Atlantide, làm sao có thể định cho nó một năm tháng ngày nhất định?

Tuy vậy tôi không có lư do để loại bỏ cái nguồn gốc đó, nó đă được phát họa một cách sơ lược trong linh ảnh của tôi dưới ánh sao khuya. Châu Atlantide không c̣n là một chuyện hư ảo của những triết gia Hy Lạp, những tăng lữ Ai Cập và những bộ lạc thổ dân Châu Mỹ. Không thiếu ǵ những nhà bác học, mỗi người tiêu biểu cho ngành học thuật chuyên môn của ḿnh, đă thâu lượm trên hàng trăm bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng châu ấy có thật. Tôi cũng hiểu rằng khi thần tượng Sphinx được tạc trong khối đá, th́ vùng châu thổ ở chung quanh không thể đă bị cát bao phủ, v́ với sự chướng ngại của đồng cát, một công tŕnh vĩ đại như thế không thể nào thực hiện  được. Như vậy điều hợp lư nhất là người ta phải nh́n nhận rằng công tŕnh điêu khắc này đă có trước khi đồng bằng châu thổ bị cát chôn lấp, trong khi vùng sa mạc Sahara đang c̣n là một biển lớn, và ở phía ngoài biển Sahara là vùng lục địa đă có một định mệnh bi thảm, tức châu Atlantide.

Dân Ai Cập thời tiền sử, những người đă tạc thần tượng Sphinx và thành lập ra nền văn minh cổ nhất thế giới, đă từ châu Atlantide đến lập quốc tại vùng châu thổ sông Nil trong một cuộc di cư khổng lồ. Cuộc di cư đó được thực hiện trước khi châu Atlantide sụp đổ và ch́m xuống đáy biển Đại Tây Dương, một cơn tai biến mà hậu quả là làm cho biển Sahara khô cạn và trở thành một vùng sa mạc mênh mông. Những vỏ ṣ, vỏ hến rải rác ở nhiều nơi và những bộ xương cá khổng lồ mà người ta t́m thấy chôn dưới cát, chứng tỏ rằng đống cát này ngày xưa chính là ở dưới đáy biển trồi lên.

Thật là cảm động thay khi biết rằng thần tượng Sphinx là một sợi dây liên lạc bền vững, cụ thể, bất biến giữa những thế hệ của nhân loại chúng ta ngày nay với những thế hệ cổ xưa của một thế giới đă tàn, thế giới của người Atlante đă biệt tích! Đối với thế giới hiện đại, h́nh biểu tượng này đă mất đi cái ư nghĩa của nó, nó chỉ c̣n là một kỳ quan của địa phương, thế thôi. Nhưng nó có ư nghĩa ǵ đối với người Atlante?

Để có một ư niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đă bỏ sót lại. Người ta phải truy nguyên, qua những nghi lễ đă suy tàn của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phụng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này. Nhưng sự sưu tầm đó giúp ta khám phá ra cái mục tiêu tối thượng của sự thờ phượng của họ, đó tức là ánh sáng, biểu hiện bởi ngôi Mặt Trời. Bởi lẽ đó, họ dựng lên khắp nơi bên Mỹ Châu thời cổ những ngôi đền h́nh kim tự tháp để thờ Mặt Trời. Những ngôi đền đó đều là những kiến trúc đồng một kiểu, hoặc có sửa đổi h́nh dáng chút ít, với những ngôi đền tương tự đă từng có ở châu Atlantide.

Khi Platon đến Ai Cập để học đạo tại thành Heliopolis trong 13 năm, những vị tăng lữ Ai Cập, thường vẫn rất dè dặt đối với ngoại nhân, ban cho người thí sinh Hy Lạp trẻ tuổi và hăng say này cái hân hạnh là truyền thụ cho y những giáo điều rút trong kho tài liệu bí mật mà họ giữ ǵn rất kỹ lưỡng. Trong số những điều tiết lộ, họ nói cho y biết rằng một Kim Tự Tháp lớn, nóc bằng, từ xưa đă được xây dựng tại trung tâm đảo Atlantide và trên nóc bằng đó, người ta đă dựng lên ngôi đền chánh của vùng lục địa để thờ phượng thần Thái Dương.

Những người Atlande di cư sang Ai Cập đem theo nền tôn giáo của họ và xây dựng tại đây những ngôi đền cùng một kiểu như ở Atlantide. Cái di sản đó của người Atlante có thể biểu lộ những đặc tính của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền và những lăng tâm h́nh dim tự tháp ở Ai Cập. Ngoài ra thần Mặt Trời luôn luôn chiếm một đẳng cấp vào hàng đầu trong các vị thần của Ai Cập.

Người Atlande cũng đem vào Ai Cập cái kỹ thuật điêu khắc đại quy mô cùng cái thẩm mỹ tạc tượng khổng lồ bằng đá. Những đền cổ đă tiêu tàn ở Mễ Tây Cơ, Pérou và Yucatan, do gịng giống người Atlante dựng lên và xây bằng những khối đá to lớn với những chỗ ráp nối rất tinh vi khéo léo, có một kiểu kiến trúc giống như của Ai Cập, cũng như những tượng thần khổng lồ bên trong các thánh điện ở các xứ ấy và ở Ai Cập đều có những nét tương tự như nhau.

Như thế, một điểm ánh sáng nhỏ đă loé lên trong cuộc sưu tầm của chúng tôi về ư nghĩa của thần tượng Sphinx. Người Atlante ở xứ cổ Ai Cập có lẽ muốn dựng nó lên như một pho tượng vĩ đại nhất, h́nh ảnh của một ư niệm thiêng liêng nhất ghi trong kư ức của họ, mà họ muốn hiến dâng cho vị thần của Ánh Sáng tức thần Mặt Trời. Có lẽ họ cũng đă dựng lên ở một nơi nào đó ngôi đền của vị thần ấy, ngôi đền này đối với họ cũng phải là ngôi đền vĩ đại nhất và cao trọng hơn tất cả mọi ngôi đền khác. 

Thần tượng Sphinx bằng đá là cái biểu tượng tôn quư của một giống người tôn thờ ánh sáng như một cái ǵ gần nhất với Thiêng Liêng. Ánh sáng là một vật tinh vi, tế nhị nhất trong những sự vật mà con người có thể cảm xúc được bằng một trong năm giác quan. Đó lá vật thanh nhẹ nhất mà khoa học có thể thực nghiệm; những luồng quang tuyến khác nhau đều là những loại ánh sáng rung động với một tốc độ ngoài phạm vi tiếp nhận được bởi con người chúng ta. Trong quyển Tạo Thiên Lập Địa cũng nói ánh sáng là vật được sáng tạo trước tiên; không có nó th́ không có sinh vật nào sống được. "Tinh thần của Thượng Đế lướt trên mặt của vực thẳm", Moise đă viết trong quyển sách kể trên "Và Thượng Đế nói: Ánh sáng hăy hiện ra! Và ánh sáng mới có". Phải chăng đó cũng là một biểu tượng hoàn hảo của cái ánh sáng thiêng liêng nó xuất hiện ra từ chỗ thâm sâu nhất của linh hồn khi con người hiến dâng trọn vẹn cả tôm hồn lẫn trí ḿnh cho Thượng Đế? Từ ngôi mặt trời, mới phát sinh ra ánh sáng, rồi ánh sáng mới tỏa ra khắp thế gian. Không có mặt trời, muôn loài vạn vật sẽ bị vĩnh viễn đắm ch́m trong đêm tối rùng rợn, không c̣n cây cối thảo mộc, không c̣n gặt hái mùa màng, loài người sẽ không c̣n tồn tại và sẽ biến mất khỏi mặt đất.

Nếu sự tôn thờ ánh sáng và mặt trời là cái nguyên lư chính yếu của nền tôn giáo châu Atlantide, nó cũng chiếm một địa vị tương đương trong nền tôn giáo cổ Ai Cập. Râ thần Thái Dương, là vị chủ tể, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác, là đấng Sáng Tạo ra tạo vật, vô sinh bất diệt.

Nếu thần tượng Sphinx thuộc về tôn giáo của ánh sáng, th́ chắc là nó cũng có liên hệ đến Mặt Trời.

V́ sau khi tôi dạy phía mặt trời mọc, tôi mới nhớ lại cái dĩa bằng vàng trong linh ảnh hiện ra trongtrí tôi hồi đêm, và sự liên hệ đó xuất hiện ra với tôi mau như chớp nhoáng. Để thử lại cho chắc chắn. Tôi mới cem kỹ lại một vật mà tôi đeo ở cườm tay phải, cái địa bàn dạ quang, nó là một hướng dẫn viên chắc chắn và bạn tốt của tôi. Và tôi nhận thấy rằng thần tượng Sphinx day mặt về hướng mà vầng Thái Dương bắt đầu xuất hiện mỗi ngày trên chân trời! Việc định hướng đông là để tượng trưng cho sự sống tái diễn không ngừng; cũng y như thế, những lăng tẩm của các nhà vua Ai Cập được xây cất trên bờ phía Tây sông Nil để tượng trưng cho sự sống đă qua, giống như mặt trời lặn. Cũng như mặt trời lên cao tận giữa lừng trời, th́ con người, sau khi được phục sinh, thăng lên cơi tinh thần. Cũng như vầng Thái Dương đi xuyên qua ṿm trời rồi tiếp tục lộ tŕnh, khuất mắt đối với chúng ta ở phía dưới chân trời, th́ con người cũng phải đi nhiều ṿng luân chuyển từ thế giới này qua cơi giới khác.

Con quái vật khổng lồ nơi đó biểu hiện sức mạnh của con sư tử, trí thông minh của con người và sự bằng an trầm lặng của đấng thần minh, muốn dạy ta một điều chân lư bất hủ về sự cần làm chủ lấy ḿnh, v́ con người có mục đích chủ trị những thú tánh và thắng con vật nằm trong ḷng y. Có ai ngắm nh́n cái thân ḿnh to lớn bằng đá với những móng chân và móng vuốt sư tử, với cái đầu và gương mặt của một người cốt cách phong nhă như thần tượng Sphinx mà không thu thập lấy cái bài học sơ đẳng ấy? Ai có thể khám phá cái ư nghĩa của biểu tượng con rắn cobra phùng mang, tượng trưng cái uy quyền của vua Ai Cập mà các vị vua chúa thường gắn trên măo, mà không hiểu rằng h́nh biểu tượng Sphinx không phải khuyến khích ta thống trị kẻ khác mà hăy chủ trị lấy ḿnh? Nó là nhà truyền giáo câm lặng, một nhà giáo sĩ bằng đá, thuyết pháp bằng sự im lặng cho những ai có tai biết nghe.

Phải chăng thần tượng Sphinx tượng trưng cho một vật có tính chất thiêng liêng? Đúng thế, nếu người ta tin theo những chữ ám tự khắc trên vách các ngôi đền ở miền thượng du Ai Cập, chẳng hạn như ở Edfou, nơi đó người ta thấy một vị thần biến h́nh thành một con sư tử đầu người để chiến thắng Set, quỷSatan Ai Cập. Một sự kiện lạ lùng làm cho người ta nghĩ rằng thần tượng Sphinx có chứa đựng một bí mật kiến trúc nào đó và che dấu vài điều bí mật khắc trong đá. Rải rác khắp nơi ở Ai Cập, những thần tượng Sphinx kiểu nhỏ được dựng lên trước những ngôi đền miếu như là những vị thần canh gác và bảo vệ ngoài cổng thánh đường; trong vài trường hợp, ngoài cổng đền cũng có dựng lên những tượng sư tử bằng đá. Thậm chí những ch́a khóa mở cửa đền cũng đúc giống h́nh sư tử. Thần tượng Sphinx ở Gizeh h́nh như là pho tượng duy nhất mà người ta không thấy đứng trước một ngôi đền nào.

Vậy ngôi đền thật sự của h́nh biểu tượng Sphinx là ở đâu? Tôi ngửng đầu lên và nh́n về phía sau pho tượng đá. Từ chỗ tôi ngồi, tôi nh́n thấy hăy c̣n vương lên một cách lu mờ dưới ánh sáng đầu tiên của buổi rạng đông, đưa thẳng lên trời cái mũi nhọn hơi tà đầu ngôi kiến trúc vĩ đại nhất của thế giới, cái kho tàng bí mật bằng đá chưa hề được giải đáp, cái phép lạ tuyệt vời của vũ trụ đối với cổ nhân và đối với cả chúng ta, cái bài toán đố bí hiểm của tất cả mọi thời đại, người bạn xứng đáng của thần tượng Sphinx khổng lồ: Ngọn Kim Tự Tháp!

Cả hai kỳ quan, được dựng lên từ hồi thời đại Atlantide, đều vươn lên ḿnh như những bằng chứng của vùng lục địa đă sụp đổ, và như cái di sản câm lặng của một giống người đă biệt tích một cách cũng bí mật như vùng lục địa quê hương của họ.

Cả hai thứ kỳ quan đều nhắc nhở cho hậu thế, những kẻ kế nghiệp giống người Atlante, biết những thành tích huy hoàng của nền văn minh đă mất.

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 364 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 11:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NGỌN KIM TỰ THÁP

Chương Ba

 

Những vị vua Ai Cập Pharaon nay đă hóa ra người thiên cổ, nhưng ngày nay họ c̣n để lại cho chúng ta những Kim Tự Tháp kiến trúc hùng vĩ, kiên cố dựng trên một vùng cao nguyên nhô giữa đồng cát. Nếu nước cổ Ai Cập vẫn c̣n hấp dẫn sự chú ư và thích thú của thế giới hiện đại, th́ trước hết là nhờ bởi những ngọn tháp này làm bằng chứng của thời đại cổ xưa ấy. Không có một đế quốc Đông Phương nào đă biệt tích mà để lại cho hậu thế những kỳ quan vĩ đại và lạ lùng như thế.  

Triết gia Pline khẳng định rằng uy danh của các Kim Tự Tháp Ai Cập sẽ vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Kể từ ấy đă có hai ngh́n năm qua, những thời gian không hề xóa mờ cái uy tín đó. Gần đây tôi có viết thư vài người bạn sống một cuộc đời rất ẩn dật tại một vùng hẻo lánh ở dưới tậncùng miền nam Ấn Độ. Những người này có lẽ không bao giờ đi xa hơn dăy đồi ở vùng chung quanh làng họ Ở, họ không hề chọc phá thế gian và thế gian cũng không hề làm phiền họ. Tôi cho họ biết về những công việc sưu tầm mà tôi đang theo đuổi ở ngọn Kim Tự Tháp lớn. Tôi không cần giải thích đó là cái ǵ và nó ở tại đâu, v́ tôi biết chắc họ cũng biết rơ. Bức thư trả lời của họ đă xác nhận sự tin tưởng của tôi. Thật vậy những người Ấn Độ chất phát này đă biết rơ đó là cái ǵ. Uy danh của những Kim Tự Tháp đă vang dội xa hơn là hồi thời đại của triết gia Pline.

Những ngôi kiến trúc cổ bất chấp sự tàn phá của thời gian này đă hấp dẫn sự chú ư của các nhà bác học cũng như sự ṭ ṃ của người đời. Tại sao? Bởi v́ chúng xuất hiện từ vực thẩm của một dĩ văng xa xăm, và cũng bởi v́ kích thước quy mô của những ngọn tháp này đă làm ngạc nhiên cả một thế hệ loài người đă từng quen thuộc với lối kiến trúc khổng lồ. Lần đầu tiên mà chúng ta nh́n Kim Tự Tháp, chúng ta có cảm giác như trở về một thời đại cổ xưa lạ lùng, mà nét cổ kính thâm nghiêm biểu lộ rơ ràng ở lối kiến trúc dị kỳ ấy. Chúng ta lấy làm ngạc nhiên mà thấy bằng cách nào những dân tộc cổ xưa đă xây dựng trên một băi sa mạc khô khan những ngọn núi nhân tạo như thế, không thua kém cả những công tŕnh tạo tác thiên nhiên. Khi những viên tướng soái Hy Lạp tiến vào Ai Cập và nh́n thấy những ngôi kiến trúc phi thường này chỉ mũi nhọn thẳng lên nền trời xanh của vùng sa mạc, họ nín thở v́ ngạc nhiên và đứng nh́n trân trối trong im lặng. Khi những nhà hiền triết của thời đại Alexandre soạn một quyển sách nói về những đại kỳ quan của thế giới, họ để Kim Tự Tháp đứng lên hàng đầu. Ngày nay, trong số bảy kỳ quan, chỉ c̣n cái kỳ quan đầu tiên là c̣n đứng vững.

Nhưng cái tính cách cổ xưavà kích thước vĩ đại đó dẫu rằng có gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đời, cũng chưa phải lư do duy nhất đă làm cho ngọn Kim Tự Tháp có cái uy danh lừng lẫy như vậy. Có nhiều sự kiện được người đời biết rơ hoặc không hề biết về Kim Tự Tháp lớn, có thể gây cho chúng ta một sự kinh ngạc lớn lao không kém sự kinh ngạc mà nó đă gây ra cho người cổ Hy Lạp.

Vậy cổ nhân xây Kim Tự Tháp với mụch đích ǵ? Thần tượng Sphinx tượng trưng cho cái ǵ? Đó là hai điều bí mật lạ lùng nhất, hào hứng sôi nổi nhất mà xứ Ai Cập dành cho du khách ngoại quốc cũng như cho dân tộc của họ. Đó cũng là những bí mật khó giải đáp nhất.

Phải chăng Kim Tự Tháp Ai Cập được dựng lên chỉ để làm ngôi mộ tàng trữ cái xác ướp của vua Pharaon? Ta có nên dựa theo những quyển du lịcxh chỉ nam và nhe theo lời của những người chỉ dẫn viên Ả Rập mà tin như vậy chăng? Có lẽ nào người ta lại dựng lên một ngôi kiến trúc vĩ đại với những khối đá tảng hằng mấy người ôm, cắt ra từ vùng núi đá vôi Tourah và cưa ra từ trong động đá đỏ Syène ở xa hơn nữa, chỉ để che lấp một cái thi hài bọc lụa trắng? Có lẽ nào người ta đă phí mất biết bao nhiêu công lao khó nhọc, làm việc ráo riết dưới cái nóng thiêu người của mặt trời Châu Phi, vận chuyển trên ba mươi triệu thước khối đá tảng, chỉ để phục vụ ư muốn sau cùng của một ông vua? Có lẽ nào người ta chịu khó cẩn thận ráp nối hai triệu ba trăm nghàn tảng đá khối, mỗi tảng nặng khoảng hai tấn rưỡi, để làm một cái mộ chỉ cần có vài tảng đá cũng xong?

Những sử gia thận trọng cho biết rằng người ta không hề t́m thấy trong Kim Tự Tháp một quan tài, một xác chết, hay một cỗ xe tang nào, dẫu rằng có vài truyền thống cho rằng một trong những v́ vua Ai Cập có cho dựng trước cửa cung một cái ḥm dựng xác ướp bằng gỗ trạm trổ rất khéo, mà người ta đă lấy từ Kim Tự Tháp đem về. Trên những vách tường Kim Tự Tháp không thấy có khắc những chữ ám tự hay trạm h́nh nổi hoặc tranh vẽ những sự việc xảy ra trong thuở sanh tiền của các nhà vua đă băng, nói tóm lại không hề có những ǵ mà người ta thường thấy bên trong tất cả những ngôi mộ và lăng tẩm khác của Ai Cập. Các vách tường bên trong Kim Tự Tháp đều trống trơn, không tŕnh bày những mỹ phẩm như tranh vẽ, h́nh nổi, hay ám tự để trang hoàng cho đẹp mắt các vị vua Pharaon tường hay bày biện trong các lăng tẩm của họ, cũng không có dấu vết nào của sự trang trí mà người ta thường thấy ở những ngôi mộ quan trọng nhất ở xứ Ai Cập.

Điều mà có lẽ người ta cho là bằng chứng hiển nhiên nhất của giả thuyết đó là lăng tẩm của một vị vua Ai Cập, là cái ḥm trống trơn bằng đá đỏ, không đậy nắm, đặt dưới đất trong pḥng lớn mà về sau người ta gọi là Vương Cung. Phải chăng cái ḥm đá đă quá rơ rệt là cái quan tài của vua? Đối với nhà Ai Cập Học, điều đó đă hiển nhiên và vấn đề đă được giải quyết.

Nhưng tại sao hai bên chiếc ḥm bằng đá này không có khắc những chữ ám tự hoặc tranh vẽ theo thủ tục thông thường của nền tôn giáo cổ Ai Cập? Tại sao không thấy có một chữ nào hay một câu văn tự nào? Mọi cỗ quan tài khác đều luôn luôn có khắc chữ hoặc h́nh ảnh để lưu lại những kỷ niệm, kư ức về những trường hợp xảy ra chung quanh cái chết của người quá văng. Tại sao cỗ quan tài này lại là một ngoại lệ, nếu nó là cái quan tài của một trong các vị minh vương nổi tiếng nhất của Ai Cập?

Tại sao ống thông hơi dài trên bảy mươi thước được đặt từ trong pḥng đựng cỗ quan tài bằng đá để thông với không khí bên ngoài? Những xác ướp không cần thở không khí, c̣n phu thợ họ cũng không cần trở lại pḥng làm ǵ nữa một khi họ đă xây xong cái nóc pḥng. Không một nơi nào ở Ai Cập tôi thấy có một ngôi mộ của các bậc vua chúa mà có những ống thông hơi với bên ngoài.

Tại sao người ta đặt cỗ quan tài trong một pḥng năm mươi thước cao hơn mặt đất, trong khi ở những nơi khác người ta thường đào hầm đặt quan tài sâu dưới ḷng đất? Đó là cái tập tục thông dụng khắp xứ, người ta đặt thi hài người chết hoặc dưới ḷng đất hoặc trên mặt đất. Há ta chẳng thường nghe nhắn nhủ rằng: "Ngươi là các bụi, và ngươi sẽ trở về cát bụi."

Tại sao người ta đặt gian pḥng thứ nh́, gọi là Hậu Cung ở gần bên gian pḥng thứ nhất? Những vị vua Pharaon không hề được đem chôn ở gần bên các bà hậu phi, và một xác ướp không cần phải có đến hai huyệt. Nếu hậu cung có những h́nh ảnh hay những chữ ám tự khắc trên vách như phần nhiều những lăng tẩm mồ mả của Ai Cập, th́ ở đây người ta có thể coi nó như một hành lang, nhưng đàng này nó cũng trống trơn và không có một bày biện trang hoàng nào như Vương Cung. Và tại sao Vương Cung lại có những ống thông hơi, mặc dù những lỗ thông hơi đều bị bịt kín khi người ta khám phá ra chúng? Tại sao người ta lại thông hơi vào những gian pḥng kín mệnh danh là những ngôi mộ này? Và cũng tường nhắc lại, người chết không cần thở khí trời. Không, người ta càng t́m ra cái lư do thật sự của một công tŕnh đ̣i hỏi bao nhiêu phí tổn về tiền của, thời giờ, nhân lực và nguyên liệu như thế, th́ lư trí con người bắt buộc phải loại bỏ cái giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là những mồ chôn xác người, hay là những kho tài liệu tiên tri bằng đá. Người ta phải quay trở lại t́m sự giải đáp khác.

Cửa vào Kim Tự Tháp mà các du khách dùng hiện nay không phải là cánh cửa chính của người cổ Ai Cập. Cửa chính này từ nhiều thế kỷ vẫn là cái bí mật của Kim Tự Tháp, một bí mật được giữ ǵn rất chặt chẽ, cho đến khi một ông vua Ả Rập cương quyết đă chi phí cả một gia tài khổng lồ và huy động cả một đạo binh phu thợ để chọc thủng tấm màng bí mật kia và đă phát hiện ra cái của Kim Tự Tháp đă khép chặt. Từ khi cánh cửa chính bị đóng chặt, th́ nhiều thế kỷ đă lặng lờ trôi qua mà bên trong phía Kim Tự Tháp không hề có chân người bước vào, cho đến khi cái giấc triền miên ấy bị khuấy phá bởi những người đi t́m kiếm kho tàng. Sau cùng người ta đă t́m ra cái cửa chính đó vào khoảng năm tám trăm hai mươi. Vua Ả Rập Al Mamoun quy tựu trên cao nguyên Gizeh những viên kỹ sư, kiến trúc sư, nhà xây cất và thợ giỏi nhất của ông ta, rồi ra lệnh cho họ hăy t́m ra cái của vào Kim Tự Tháp. Viên kỹ sư chỉ huy chiến dịch khai phá này mới tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, việc này không thể làm được.

- Quả nhân muốn việc này phải được thực hiện.

Công tŕnh khai phá này không theo một kế hoạch nào nhất định. Tục truyền rằng của chính nằm ở mặt phía bắc của Kim Tự Tháp. Tự nhiên là người ta chọn chỗ trung tâm điểm của mặt phía bắc để khởi công. Sự có mặt của vua Ả Rập ở tại chỗ là một sự khích lệ tin thần cho đám phu thợ. Nhà vua muốn trắc nghiệm truyền thuyết cho rằng những vị vua Pharaon thời cổ đă từng chôn dấu Kim Tự Tháp những kho bảo vật khổng lồ. Tưởng cũng nói thêm rằng vua Al Mamoun chính là thái tử của vua Haroun Al Rachid, nhân vật nổi tiếng trong truyện Một ngh́n Lẻ Một Đêm.

Vua Al Mamoun không phải là một ông vua tầm thường. Ông ta đă ra lịnh cho những văn nhân trong xứ hăy dịch những tác phẩm của các bậc hiền triết Hy Lạp. Ông luôn luôn nhắc nhở cho quốc dân Ả Rập đừng quên những lợi ích của sự học hành. Chính ông ta đă từng tham dự những cuộc thảo luận giữa những bậc thức giả trong nước.

Những nhà xây cất Kim Tự Tháp thời xưa, tiên liệu rằng thế nhân ḷng dạ tham lam sẽ có ngày xúc phạm đến nơi cổ kính thâm nghiêm nầy, mới trổ cánh cửa kính một trỗ ở một khoảng độ vài thước cách điểm trung tâm mặt phía bắc, và cao hơn rất xa chỗ người ta định chắc là chỗ cửa ra vào. Kết quả là những phu thợ của vua Al Mamoun đă làm việc suốt nhiều tháng mà vẫn không t́m ra dấu vết ǵ của một cửa vào hay lối đi. Họ không t́m thấy ǵ khác hơn những vách tường kiên cố bằng đá khối dày đặc và cứng ngắc. Nếu họ chỉ dùng những dụng cụ thô sơ như búa đục, th́ công tŕnh đục khoét đó có lẽ kéo dài đến hết triều đại của nhà vua hay lâu hơn nữa. Nhưng họ t́m cách đốt những đám lửa nhỏ ở những chỗ ráp nối các tảng đá đến độ nung cháy đỏ, và tưới dấm thanh lên đó cho đến khi các tảng đá nứt nẻ ra. Ngày nay người ta c̣n nh́n thấy các vết cháy đen xạm trên các tảng đá đă từng kháng cự lại sức búa ŕu cách đây trên một ngh́n năm. Thợ rèn không ngừng làm việc suốt ngày để mài dũa những búa đục bị sức mẻ v́ va chạm với những tảng đá khối, trong khi những loại tảng đá bằng gỗ tiếp sức với lao công để cống gắng chọc lủng một lỗ cửa vào Kim Tự Tháp! Mặc dầu bao nhiêu cố gắng, trải qua bao nhiêu tháng trường dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời Ai Cập, cửa vào Kim Tự Tháp vẫn khép chặt, không ai t́m thấy, và họ bắt đầu chán nản tuyệt vọng. Phu thợ đă đào xới một khoảng trên ba mươi thước, họ đă sắp sửa buông hết dụng cụ và công khai nổi loạn không chịu tiếp tục một công việc vô ích như thế nữa, th́ th́nh ĺnh họ nghe thấy tiếng động của một tảng đá nặng vừa bị rơi xuống. Tiếng động ấy đến từ bên trong Kim Tự Tháp, chỉ cách họ đang làm việc một khoảng không xa.

Định mệnh đă can thiệp vào vụ này. Khi đó, sự hăng say và hứng khởi làm việc đă được hâm nóng lại. Không bao lâu, người ta đă mở đường đưa đến lối vào Kim Tự Tháp lớn từ nay mở cửa lại.

Kể từ lúc đó, người ta có thể đi lần theo con đường ấy để t́m thấy cái cửa bí mật. Cửa này được che dấu một cách khéo léo đến nỗi người ta không thể nào khám phá được từ bên ngoài. Sau bao nhiêu thế kỷ bị khóa chặc, cái cửa bí mật ấy không c̣n hoạt động được nữa mà dính luôn vào vách. Ngày nay nó đă biến mất, sau những vụ cướp phá để lấy đá về xây nhà sau vụ động đất tại thành phố Cairo. Cửa ấy giống như những cái cửa bằng đá mà người cổ Ai Cập đặt ở những lối vào những đền miếu bí mật của họ. Đó là một tảng đá xoay ṿng chung quanh những bản lề và khi khép lại th́ nó ăn khớp với mặt tường bên ngoài đến nỗi không ai có thể phân biệt được nó với những tảng đá khác ở chung quanh. Sự ngụy trang khéo léo đó cũng chưa đủ. Bên trong cánh cửa bí mật ấy, lối vào bị chăn lại một cánh cửa bằng gỗ rất nặng. Qua được cửa này, người ta c̣n phải vượt qua mười cánh cửa khác nữa trước khi lọt vào Vương Cung. Phần nhiều trong số mười cửa này đều bằng gỗ, nhưng có một cửa giống y như cánh cửa đá bên ngoài là một tảng đá khối xoay ṿng trên bản lề và ăn khớp với vách tường đá như một cửa bí mật. Tất cả những cửa này về sau không c̣n.

Sau khi những toán kỹ sư và phu thợ của nhà vua Al Mamoun đă lọt vào bên trong Kim Tự Tháp, họ nhận thấy rằng công việc của họ chưa phải đă xong.

Họ c̣n gặp phải bao nhiêu trướng ngại vật, những tảng đá khổng lồ chận ngang lối đi mà dụng cụ của họ đem theo không làm sao chọc thủng. Có khi họ phải đục xuyên vách đá để mở một lối đi khác thông qua những dăy hành lang dài đưa đến những gian pḥng trống trơn, mà về sau người ta đặt tên là Vương Cung, và Hậu Cung để cho dễ kêu gọi. Thật ra người cổ Ai Cập không hề sử dụng những danh từ đó bao giờ.

Trải qua bao nhiêu gian nan, lao khổ và chướng ngại, khi họ lọt được vào gian pḥng gọi là Vương Cung, th́ vua Al Mamoun và toán kỹ sư, thợ thuyền đi theo điều lấy làm vô cùng thất vọng. Đó chỉ là một gian pḥng trống, với một cỗ quan tài bằng đá, không đậy nắp. Trong cỗ quan tài người ta chỉ thấy có cát bụi, ngoài ra không có ǵ cả! Họ nghĩ phải chăng đó là một điều phi lư khi người cổ Ai Cập xây cất một ngôi mộ hùng vĩ như thế mà không có mụch đích hay dụng ư rơ rệt? Họ bèn ra công nậy bật lên những tảng đá lót dưới đất, đào xới một góc trong gian pḥng, dùng búa đập mạnh vào vách để thăm ḍ xem chỗ nào có thể là nơi chôn dấu kho tàng. Nhưng vô ích, thâm ư của những nhà xây cất Kim Tự Tháp vẫn là một điều bí hiểm khôn ḍ và chôn chặt trong ḷng đất lạnh. Đoàn người thám hiểm bèn lui gót ra về trong cơn thối trí và tuyệt vọng.

Toán phu thợ c̣n thám hiểm nhiều đường hần bí mật và một cái giếng sâu thẳm và đen tối như mật ăn sâu dưới ḷng đất, nhưng không hề t́m thấy kho tàng của cải, cùng bảo vật mà óc tưởng tượng loài người vẫn tin rằng có thật và vẫn nằm im một góc bí mật nào đó trong Kim Tự Tháp! Đến đây kết thúc cuộc phiêu lưu đáng ghi nhớ của vua Al Mamoun sau khi ông ta đă mở được cánh cửa bí mật của Kim Tự Tháp lớn, để mở màn cho những cuộc thám hiểm về sau này trong lịch sử t́m ṭi khảo cổ về Kim Tự Tháp Ai Cập. 

Sau khi vua Al Mamoun đă t́m ra cái cửa bí mật vào Kim Tự Tháp, nhiều thế kỷ đă trôi qua một cách lặng lẽ không ai dám bước vào bên trong ngọn tháp này. Sự truyền tụng trong dân gian không bao lâu đă bao trùm ngôi Kim Tự Tháp với một bầu không khí dị đoan mê tín và rùng rợn với nhiều truyện huyền thoại kinh dị đến rợn người! Bởi đó người dân Ả Rập tránh việc đi vào Kim Tự Tháp như người ta tránh ôn dịch. Chỉ có những tay phiêu lưu mạo hiểm mới thỉnh thoảng đột nhập vào để thám hiểm bên trong Kim Tự Tháp. Phần lớn những hành lang đen tối và những gian pḥng trống trơn trong Kim Tự Tháp vẫn tiếp tục yên nghỉ trong cái yên lặng thâm u ngh́n đời không người bước chân vào. Măi cho đến cuối thế kỷ mười tám mới có những người Châu Âu là những người nặng mùi vật chất và không mê tín, đến xem xét những đồng cát chung quanh, và từ đó người ta mới bắt đầu nghe lại những tiếng búa đục vang dội bên trong ngọn tháp cổ này.

Một người Anh có tinh thần phiêu lưu tên là Nathaniel Davison, lănh sự Anh tại Alger vào khoảng năm một ngàn bảy trăm sáu mươi, xin nghỉ phép dài hạn để sang Ai Cập. Ngọn Kim Tự Tháp làm cho ông ta suy nghĩ rất nhiều. Ông ta biết rằng người cổ Ai Cập thường chôn dấu trong ngôi lăng tẩm các vị vua chúa của họ một số vàng ngọc châu báu. Ông ta cũng biết dư luận chung của người đời coi những Kim Tự Tháp như những ngôi mộ khổng lồ.

Khi ông ta lọt được vào bên trong Vương Cung, ông ta khám phá được một việc: Mỗi khi ông ta hô lên một tiếng lớn th́ có một tiếng vang dội lại nhiều lần liên tiếp. Ông ta mới nghĩ rằng chắc là có một gian pḥng trống gần đâu đây, ở phía sau những tảng đá đỏ bao bọc chung quanh gian pḥng đầu tiên. Có thể rằng trong cái khoảng trống ấy, nguyên nhân gây ra tiếng vang dội nói trên, có nằm yên nghỉ một cái xác ướp quấn hàng lụa và có mang theo những đồ châu ngọc và bảo vật quư giá.

Ông Davison bèn mộ vài người phu thợ và bắt tay vào việc. Từ nhiều thế kỷ trước, vua Al Mamoun đă thăm ḍ cái nền đá trong Vương Cung, nhưng không t́m thấy ǵ. Những tiếng vang phản dội tiếng kêu của ông Davison dường như vọng lại từ phía trên. Ông ta mới chú ư đến cái nóc Vương Cung. Khi xem xét kỹ lưỡng trần nhà và những hành lang chung quanh, ông ta thấy rằng phương pháp tiện lợi nhất để trổ lên nóc nhà là đào một lỗ trống ở phần trên tường của dăy hành lang lớn để xen xét cho chắc th́ lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ngay tại chỗ ấy đă có sẵn một cái lỗ trống. Ông ta bèn chui vào và thấy một gian pḥng chiều dài độ bảy thước, ở ngay trên trần của Vương Cung. Cái nóc của gian pḥng này rất thấp đến nỗi ông Davison phải ḅ trên hai đầu gối để t́m cái kho tàng vô giá nó đă hấp dẫn ông đến đây. Nhưng gian pḥng hoàn toàn trống rỗng! Ông ta bèn trở về Alger tay không. Ông ta chỉ được cái vinh dự là những nhà khảo cổ đến sau ông đă lấy tên ông để đặt tên cho cái gian pḥng nhỏ hẹp mà ông đă khám phá trên nóc Vương Cung!

Trong những năm đầu của thế kỷ mười chín, người kế nghiệp của ông Davison trong công việc t́m ṭi ở Kim Tự Tháp là một nhân vật lạ lùng, gồm những đặt tính của những triết gia mơ tưởng, một nhà thần bí và một nhà khảo cổ. Đó là đại úy Caviglia, một người Ư Đại Lợi. Ông đă dành một thời gian khá lâu cho việc sưu tầm ở Kim Tự Tháp. Lord Lindsay, người đă gặp ông ta trong một chuyến du hành sang Ai Cập, có viết một bức thư gửi về Anh Quốc như sau:

"Caviglia có nói với tôi rằng y đă dành cho việc học hỏi khoa Huyền Môn một sự hăng say đến nỗi làm cho y suưt chết. Y tuyên bố đă đạt tới cái giới hạn tùng cột trên lănh vực Huyền Môn bị ngăn cấm với tầm hiểu biết của con người. Chỉ có sự trong sạch trong ư đồ của y đă cứu được y. Y có những tư tưởng lạ lùng, nó không phải là của trần gian. Y cho rằng là rất nguy hiểm mà tiết lộ những tư tưởng đó... "

Trong công cuộc sưu tầm khảo cổ của ông, Caviglia tạm trú một thời gian trong gian pḥng Davison, sau khi ông đă dọn dẹp cái pḥng thấp và tối tăm đó thành một gian pḥng để ở ngay trong Kim Tự Tháp! Công tŕng khảo cổ của ông không phải chỉ là giới hạn trong Kim Tự Tháp lớn mà thôi. Ông c̣n để lại cho đời những sưu tầm trong hai Kim Tự Tháp thứ nh́ và thứ ba, sự thám hiểm những hầm chôn xác ướp ở giữa các Kim Tự Tháp và thần Sphinx, việc khai quật vài cỗ quan tài quan trọng và những di tích lạ lùng khác của nền văn minh cổ Ai Cập.

Vào thời đại của nữ hoàng Victoria, định mệnh đă đưa sang Ai Cập một viên sĩ quan ưu tú của quân đội Hoàng Gia Anh Quốc, kiêm một nhà khảo cổ học uyên bác, đó là đại tá Howard Vyse. Ông ta đă huy động hàng trăm phu thợ để thực hiện những cuộc đào xới chung quanh các Kim Tự Tháp trong một công tŕnh thám hiểm đại quy mô chưa từng có từ một ngh́n năm nay, kể từ thời đại của vua Al Mamoun. Ông ta đă kêu gọi sự hợp tác của đại úy Caviglia trong một thời gian, nhưng hai người lại xung đột nhau v́ tính khí bất đồng; một người Anh kỹ lưỡng, cẩn thận, trọng nguyên tắc kỷ luật và một người Ư tay ngang, bất chấp những quy ước, cỗ lệ, đành phải sớm xa nhau.

Đại tá Vyse đă chi phí cho công tŕnh khảo cổ của ông ở Ai Cập hết mười ngàn Anh kim tiền riêng của ông và đă thu hoạch được những kết quả cụ thể. Nhiều thùng lớn chứa đầy những di tích cổ và bảo vật lư thú đă vượt biển để sung vào Bảo Tàng Viện Anh Quốc. Nhưng những cổ vật lư thú nhất vẫn c̣n ở lại tại chỗ.

Ông Vyse đă khám phá bốn gian pḥng trong Kim Tự Tháp lớn chồng chất lên nhau ở ngay trên trần nhà của gian pḥng Davison. Công việc khám hiểm này không phải là dễ dàng và không nguy hiểm. Trong khi họ đào một lối đi hẹp từ dưới lên trên xuyên qua những nóc pḥng đá dày đặc, những phu thợ của ông ta luôn luôn suưt ngă xuống đất từ một bề cao mười thước! Những gian pḥng này cũng thấp và hẹp như gian pḥng Davison, và cũng hoàn toàn trống trơn không có ǵ cả.

Do sự khám phá kể trên và khi xem xét cái trần nhà bằng đá vôi của gian pḥng ở trên chót đỉnh, người ta mới hiểu lư do của việc xây cất năm gian pḥng thấp hẹp chồng chất lên nhau. Đó là để bảo vệ Vương Cung cho khỏi chịu cái áp lực nặng nề của toàn thể khối đá tảng khổng lồ ở phía trên, chẳng khác như một hệ thống trái độn bằng không khí tạo nên bởi những khoảng trống của gian pḥng. Việc xây cất hệ thống trái độn này cũng che trở Vương Cung khỏi bị đè bẹp bởi khối đá tảng ở phần trên trong trường hợp có thể xảy ra một cơn động đất làm sụp đổ Kim Tự Tháp. Bởi đó, Kim Tự Tháp đă chống đỡ một cách hữu hiệu sự tàn phá của thời gian trong bao nhiêu ngh́n năm và chứng tỏ sự chu toàn cùng cái kiến trúc vô cùng thần diệu của người cổ Ai Cập.

Trong số những điều phát hiện của đại tá Vyse, có một điều lạ lùng là một loạt những chữ ám tự này chưa hề thấy trong Kim Tự Tháp. Những chữ ám tự này do những người đá khắc trên mặt những phiến đá tảng dùng để xây cất năm gian pḥng kể trên. Trong những ám tự ấy có những tên của ba vị vua Ai Cập, là Khoufou, Khnem. Khoufou, và Khnem. Các nhà Ai Cập Học không thể đưa ra sự giải thích nào khác về cái tên khnem v́ họ không t́m thấy tài liệu lịch sử về một vị vua Ai Cập nào có cái tên đó. Nhưng họ biết rơ tên vua Khoufou: Đó là vị vua Pharaon của triều đại thứ tư, mà người Hy Lạp gọi là vua Khéops. Sự khám phá của ông Vyse đă đưa đến việc xác định vua Khoufou là người đă xây dựng nên Kim Tự Tháp, và xác định Kim Tự Tháp được dựng lên từ thời nào.

Tuy nhiên, cái xác ướp của vua Khoufou không hề được t́m thấy ở bất cứ nơi nào bên trong Kim Tự Tháp.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 365 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 11:45am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MỘT ĐÊM TRONG KIM TỰ THÁP

CHƯƠNG BỐN

 

Tôi sắp sửa đuổi theo một hoạt động lạ lùng nhất của đời tôi, tuy lạ lùng nhưng vẫn trong sự thầm lặng. Tôi có ư định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp và ngồi thức suốt đêm trong Vương cung trong khi đêm tối dày đặc bao phủ nền trời Châu Phi.  

Tôi đă ở một đêm trong ngôi kiến trúc kỳ dị nhất mà con người đă từng dựng lên trên bầu hành tinh của chúng ta.

Thật không phải dễ ǵ mà lọt được vào lúc ban đêm trong Kim Tự Tháp. Tuy mọi người đều có thể viếng ngọn tháp cổ này, nhưng nó không phải là tài sản của công chúng. Nó là tài sản của Chánh Phủ Ai Cập. Không phải ai cũng có thể lọt được vào trong đó và chiếm được một gian pḥng trống để ngủ một đêm, chẳng khác như xâm nhập gia cư của người khác và nằm trong pḥng ngủ tốt nhất của họ.

Mỗi khi một du khách muốn vào trong Kim Tự Tháp, y phải mua một tấm thẻ của Sở Bảo Tŕ Cổ Tích với giá năm đồng. Tôi bèn đến đó và xin phép ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp lớn.

Khi công chức sở ấy nghe lời thỉnh cầu của tôi, y tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên chẳng khác nào như y nghe tôi xin giấy phép để du hành lên mặt trăng. Tôi nói vài lời vắn tắt để bày tỏ lư do sự yêu cầu của tôi. Từ sự ngạc nhiên, viên công chức bước qua sự thích thú, y mỉm cười. Tôi hiểu rằng có lẻ y coi tôi như một nhân vật có đủ điề kiện để lọt vào một nơi mà ít người muốn ở lại ban đêm trong đó. Sau cùng y nói với tôi:

- Tôi chưa hề nhận được một lời thỉnh cầu như thế bao giờ. Tôi không có thẩm quyền chấp thuận hay từ chối.

Y bèn giao tôi lên cho thượng cấp của y quyết định. Cái cảnh tượng buồn cười ở văn pḥng viên công chức lúc năy lại tái diễn. Tôi bắt đầu cảm thấy bớt lạc quan trong ư định của ḿnh.

- Không thể được! Viên chủ sự nói với một giọng cương quyết tuy rằng đầy hảo ư, chắc hẳn rằng y đang đứng trước một người bị loạn thần kinh. "Điều ấy thật vô lư. Tôi rất tiếc." Y vừa nói vừa gằn từng tiếng vừa nhún vai, và đứng dậy để sửa soạn đưa tôi ra cửa.

Tôi về nhà ngồi suy nghĩ để t́m cách thực hiện mục đích. Quyết định này của tôi trở nên một sự ám ảnh. Hôm sau, tôi bèn xin vào yết kiến Thiếu tướng El Lewa Russell pacha, chỉ huy trưởng cảnh sát thành phố Cairo. Tôi ra khỏi văn pḥng ông ta với một huấn lệnh viết tay, yêu cầu viên cảnh sát trưởng quận đô thành gồm khu vực Kim Tự Tháp, hăy dành cho tôi mọi sự giúp đỡ cần thiết để thực hiện mục đích.

Chiều đến, tôi bèn đến văn pḥng thiếu tá Mackersey, trưởng ty cảnh sát địa phương, bót cảnh sát Mena. Họ đưa cho tôi một quyển sổ để tôi kư tên vào đó, xong rồi bóy cảnh sát có phận sự giữ ǵn an ninh cho tôi cho đến sáng ngày mai. Một cảnh binh bót Mena được biệt phái để hộ tống tôi đến Kim Tự Tháp và ra chỉ thị cho viên cảnh sát có vơ trang túc trực ở phía ngoài trong đêm đó.

Khi chúng tôi bắt tay từ giả, Thiếu tá Mackersey nói đùa:

- Chúng tôi chịu trách nhiệm lớn mà để ông một ḿnh ở trong đó suốt đêm. Ông không có ư định đặt chất nổ để phá Kim Tự Tháp chứ?

- Tôi hứa với ông không bấy nhiêu đó, mà c̣n hứa sẽ không vác nó lên lưng mà chạy!

- Tôi e rằng chúng tôi phải tạm nhốt ông trong đó một đêm. Cứ tối đến, chúng tôi phải khóa trái cái cửa sắt ở chỗ cổng vào. Như vậy ông bị cầm tù trong mười hai tiếng đồng hồ.

- Tốt lắm! Hôm nay, không có cái dinh thự nào làm cho tôi thích hơn là cái nhà giam đó.

Tôi bước vào trong Kim Tự Tháp do cái khoảng trống mà ngày xưa vua Al Mamoun đă cho đào một gốc để t́m lối vào, và bắt đầu thám hiểm bên trong ngọn tháp không lồ. Thật ra trước kia tôi đă từng bước vào đó rồi, nhưng bây giờ là lần đầu tiên mà tôi đến đây để thự hiện một công tŕnh khảo sát cũng lạ lùng như cái công tŕnh nó thúc đẩy tôi trở lại xứ Ai Cập.

Sau khi đă đi qua những dăy hành lang và đường hầm đen tối quanh co như mê cung, tôi lọt vào gian pḥng chính của Kim Tự Tháp, gọi là Vương Cung. Nhưng ống dẫn khí thông hơi ra đến bên ngoài, là những bằng chứng đánh đổ giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là một ngôi lăng tẩm. Tôi rọi đèn bấm lên các vách và trên trần, và lại một lần nữa lấy làm thán phục sự nối ráp một cách toàn hảo và tinh vi những khối đá rắn chắc và to lớn đă được mài dũa trơn bén. Dưới mặt đất cũng như trên các vách đá, c̣n những vết tích để lại do những cuộc thám hiểm của những kẻ t́m kiếm kho tàng. Ở một góc về phía tây bắc, có một lỗ vuông dài và sâu, và ở kế bên là một tảng đá dài dựng bên vách, trước kia dùng để lót sàn bằng đá nhưng bị cậy bật lên bởi những kẻ t́m vàng và c̣n để lại đó. Nằm song song với tảng đá này là một cái ḥm bằng đá không có nắp, mặt đá phẳng lỳ không có trạm trổ hay khắc chữ chi cả giống như một cổ quan tài. Đó là vật duy nhất trong gian pḥng trống trơn, đầu xoay về hướng Bắc chân xoay về hướng Nam.

Tảng đá cậy bật lên từ dưới đất có thể dùng làm chỗ ngồi. Tôi bèn ngồi lên đó, hai chân sếp bằng và sửa soạn ở lại đó suốt đêm. Tôi đặt xuống bàn tay mặt tôi cái nón, áo ngoài và đôi giày, phía bên trái tôi để cái đèn bấm bậc sáng, một b́nh thủy thermos đựng trà nóng, một b́nh nước lạnh, quyển sổ tay và cây bút máy. Tôi đưa mắt nh́n một lần cuối cùng khắp chung quanh gian pḥng, nh́n qua cái ḥm đá ở bên cạnh tôi, rôi tắt luôn ngọn đèn bấm.

Khi tôi đột nhiên đắm ch́m trong đêm tối, tôi tự hỏi: Việc ǵ có thể xảy đến cho tôi đêm nay? Trong hoàn cảnh lạ lùng này, tôi chỉ có một việc là đợi chờ ...

Giờ phúc trôi qua một cách chậm chạp, trong khi đó tôi cũng từ từ cảm thấy gian pḥng Vương Cung này có một bầu không khí rất lạ mà tôi chỉ có thể gọi bằng tĩnh từ thiêng liêng. Tôi đă cố t́nh giữ một tinh thần thụ cảm, một cảm giác thụ động, một thái độ tiêu cực, để có thể ghi nhận một cách rơ ràng và toàn vẹn mọi sự ǵ vượt khỏi lănh vực phàm gian thực tại. Tôi muốn rằng không có một thành kiến riêng tư nào ngăn cản tôi tiếp nhận sự ǵ có thể xảy đến từ lănh vực siêu linh. Lần lần tôi định tĩnh tinh thần cho đến khi tâm trí tôi hầu như vắng lặng, hư không.

Sự vắng lặng nó bao phủ tâm trí tôi lúc ấy đem đến cho tôi một sự hiểu biết rơ ràng về một cái vắng lặng khác, đó là cái vắng lặng tràn ngập cuộc đời tôi. Cơi thế gian, với sự náo động ồn ào của nó, đối với tôi trở nên xa lạ như nó không hề có từ bao giờ. Không một tiếng động, không một hơi thở đến với tôi từ cảnh đêm tối chung quanh. Thật ra, thế giới của những Kim Tự Tháp do im lặng ngự trị một cách im lặng đă có từ thời tiền sử xa xăm và không một người du khách nào có thể làm gián đoạn, bởi v́ mỗi đêm lại đem lại sự im lặng trở về nguyên vẹn, hoàn toàn, gây cho ta sự sợ hăy nghiêm trọng nhất.

Tôi bèn quan sát bầu không khí uy nghiêm trong gian pḥng. Những người nhạy cảm thường nhận thức được cái kinh nghiệm thông thường này trong những nơi đền miếu cổ kính thâm nghiêm. Kinh nghiệm của tôi cũng bắt đầu bằng cái cảm giác tương tự. Thời gian càng trôi qua, cái ư thức về sự cỗ lổ thậm thâm của ngọn Kim Tự Tháp này càng in dấu vết sâu đậm trong tâm hồn tôi, tôi càng cảm thấy rằng thế kỷ hai mươi đang lui dần và mất dạng. Tuân theo cái quyết định mà tôi đă lập sẵn cho ḿnh, tôi không đưa ra một sự phản ứng nào cả để chống lại cái cảm giác đó, trái lại, tôi để cho nó tăng cường thêm gấp đôi.

Tôi bắt đầu có cái cảm giác lạ lùng về một sự hiện diện vô h́nh đến gián đoạn sự cô đơn của tôi. Dưới bức màn đen tối dầy đặc bao phủ chung quanh, tôi cảm thấy rằng có một cái ǵ cựa quậy và sống động bắt đầu xuất hiện. Đó là một cảm giác mơ hồ nhưng có thật. Phối hợp với ư niệm mỗi lúc càng tăng về sự trở về dĩ văng, nó làm cho tôi có ư thức rơ rệt về một ảnh hưởng siêu linh, thần bí.

Tuy thế, không có ǵ nhất định, rơ rệt trong cái ư niệm mơ hồ đó về một sự hiện diện lạ lùng và sống động trong bóng tối. Giờ phút trôi qua lặng lẻ, đưa đến một luồng khí lạnh mỗi lúc càng tăng. Ảnh hưởng của ba ngày nhịn đói mà tôi đă áp dụng để tăng gia sự nhạy cảm của tôi, lúc ấy biểu lộ bằng những cơn run rẫy mỗi lúc càng nhiều. Do những ống thông hơi, không khí lạnh từ bên ngoài lọt vào Vương Cung đă thấm vào ḿnh tôi xuyên qua lớp áo mỏng, làm cho tôi run lên cầm cập. Tôi bèn đứng dậy mặc thêm áo ngoài mà tôi đă bỏ trên tảng đá cách đó vài giờ v́ e sợ tiết trời nóng nực. Nhưng đó là tiết trời ở một vài nơi tại vùng cận Đông. Khí hậu nóng bức lúc ban ngày, và lạnh lẻo lúc ban đêm.

Tôi ngồi lại trên tảng đá và đắm ḿnh trong cái im lặng chết người và trong đêm tối rùng rợn. Cái im lặng của nhà mồ, cái ḥm bằng đá trống trơn ở bên cạnh tôi không làm cho thần kinh tôi lắng dịu, trong khi sự gián đoạn vừa rồi trong cơn thiền định của tôi dường như cũng làm gián đoạn cả một chuyện khác. Thật vậy, tôi nhận thấy rằng điều nghi ngại về một sự sống vô h́nh lởn vởn ở chung quanh tôi đă trở thành một điều chắc chắn. Quả thật, bên cạnh tôi có một cái ǵ sống động, thổn thức, nhịp nhàng, tuy rằng tôi vẫn chưa nh́n thấy đó là vật ǵ. Đột nhiên tôi cảm thấy lo sợ khi tôi nghĩ đến sự cô quạnh của tôi và những nguy cơ có thể xảy đến. Tôi vẫn ngồi yên như thế một ḿnh, trong gian pḥng tối ở một chiều cao bảy chục thướt khỏi mặt đất, cao hơn nhiều đối với sự sinh hoạt của một triệu dân thành phố Cairo, ở giữa màn đêm đen tối như mực, bị giam lỏng trong ngọn tháp lạ lùng này mà cửa ngoài đă khóa chặt, ở ven một băi sa mạc rộng đến hàng mấy trăm dặm, trong khi ở bên cạnh gian nhà ngục tạm thời của tôi trong một đêm, có lẽ là ngôi kiến trúc cổ xưa nhất thế giới, đang chen chúc nhau một cách la liệt hỗn độn bao nhiêu những mồ mả âm u, trong cái nghĩa địa của một đế đô cổ xưa ngh́n đời ngay nay đă biệt tích.

Dưới cặp mắt tôi, là cặp mắt đă từng quan sát tỉ mỉ cơi giới siêu linh, những điều huyền bí thuộc cơi siêu h́nh, và sưu tầm cặn kẽ khoa pháp môn phù thủy của phương Đông, th́ gian pḥng rộng răi của Vương Cung lúc ấy có sự hiện diện của những nhân vật vô h́nh, và những vị Thần linh có nhiệm vụ canh gác ngôi kiến trúc thâm nghiêm này. Dường như một gọng nói từ cơi u minh sắp sửa thốt lên bất cứ lúc nào để phá tan cái im lặng bao la này. Tôi đă từng quen thuộc với sự cô đơn, và tôi rất thích sống trong cô đơn, nhưng sự cô quạnh của gian pḥng này có một cái ǵ nguy hiểm và rùng rợn đáng sợ.

Sự tối tăm nó làm đắm ch́m tất cả mọi sự vật, bắt đầu đè nặng lên đầu tôi như một khối sắt ngh́n cân. Trong người tôi phảng phất một sự sợ hăy vô lư. Tôi bèn xua đuổi nó đi tức khắc. Người ta không cần có một sự can đảm thể chất để lại bên trong Kim Tự Tháp hoang vắng, mà là cần có ít nhiều can đảm tinh thần. Người ta chắc rằng không có một con rắn nào chui ra từ một cái lỗ hay một khe đá, cũng không có một kẻ sát nhân nào ẩn núp trong đó từ lúc tối trời. Thật ra những sinh vật duy nhất hiện ra trước mắt tôi từ chặp tối là một con chuột sợ hăy chạy loạn cả lên để t́m lối thoát khi nó gặp ánh đèn sáng rực của tôi ở ngoài hành lang, kế đó tôi khám phá ra hai con cắc kè ḅ ở trên trần của Hậu Cung, màu da vàng đục của chúng cho thấy chúng đă sống rất lâu đời, và sau cùng là những con dơi ở dưới hầm đá. Cần nói thêm là vài con dế đă thốt ra tiếng kêu rất lớn khi tôi bước vào hành lang chính, nhưng khi nghe tiếng động, chúng nó liền im bặt. Và bấy giờ, th́ cái im lặng bao trùm khắp Kim Tự Tháp. Không có ǵ của thế giới vật chất làm tôi bất măn, nhưng dẫu sao, tôi lại cảm thấy một lần nữa một cảm giác khó chịu mơ hồ dường như có những cặp mắt vô h́nh đang ŕnh rập tôi ở đâu đây. Chốn này thật là phảng phất một bầu không khí yêu ma hư ảo.

Vài loại rung động của tinh lực, âm thanh và ánh sáng lọt ra ngoài phạm vi khả năng cảm xúc thông thường của con người. Những chương tŕnh truyền thanh đi xuyên khắp không gian để đến tai những thính giả trên thế giới, nhưng họ sẽ không nghe thấy ǵ nếu họ không điều chỉnh cho máy thu thanh của họ bắt đúng luồng sóng điện. Tôi đă xả thiền và thoát ra khỏi trạng thái hoàn toàn thụ cảm, để dồn tất cả sức mạnh, tập chung ư chí vào sự cố gắng nhằm chọc thủng cái im lặng và bóng tối dày đặt nó bao phủ chung quanh tôi. Nếu do hậu quả sự tập trung tinh thần mănh liệt vào nội tâm, khả năng quan sát của tôi được nới rộng đến một tầm mức phi thường, th́ chừng đó có thể nào tôi không bắt chợt nh́n thấy sự hiện hiện của những sức mạnh vô h́nh? Biết đâu?

Tôi chỉ biết rằng khi tôi tự điều chỉnh bằng phương pháp hồi quan phản chiếu mà tôi được truyền thụ từ lâu trước chuyến du hành lần hai sang Ai Cập, tôi nhận biết được rằng có những mănh lực bất hảo đă xâm chiếm gian pḥng, có một cái ǵ tiến lại gần tôi mà tôi cảm thấy là nguy hiểm. Một sự sợ hăi làm rung chuyển tâm hồn tôi. Tôi cố xua đuổi đi th́ nó lại trở lại từng hồi. Tôi cố gắng áp dụng phương pháp hồi quan phảng chiếu một cách ráo riết hơn nữa sự nhạy cảm càng tăng theo cái đà thường lệ của nó và biến thành một linh ảnh. Những h́nh bóng lởn vởn chập chờn vô định trong gian pḥng, lần lần chúng nó hiện ra với những h́nh thù rơ rệt hơn, đột nhiên có những vong linh hung ác xuất hiện và xáp lại gần kề bên gương mặt tôi. Kế đó, một vật đen ng̣m tiến lại gần tôi với một cái nh́n dữ tợn và đưa tay lên với một cử chỉ hăm dọa, như muốn gây cho tôi một sự kiêng nể pha lẫn với sự kinh hoàng.

Những vong linh mà người ta không thể lường được tuổi từ bao nhiêu đời, dường như đă kéo nhau lại đó từ cái nghĩa địa gần bên, một cái nghĩa địa cổ xưa đến nỗi những xác ướp quật lên liền tan ra thành tro bụi trong những chiếc ḥm bằng đá. Chính những vong hồn c̣n bám víu xác ướp cổ lổ này, đă xuất hiện một cách hung dữ trong gian pḥng của tôi. Tất cả những chuyện huyền thoại về những ma quái lởn vởn ở ṿng chung quanh Kim Tự Tháp đă trở lại trong kư ức của tôi, với những chi tiết rùng rợn khi những chuyện ấy được kể lại cho những người Ả Rập ở làng gần bên. Khi tôi nói với một người bạn trẻ Ả Rập tôi có ư định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp, y cố gắng khuyên can tôi:

- Mỗi tấc đất trong đó điều có ma! Vùng này có tất cả một đạo binh yêu ma và thần linh.

Sự cảnh cáo này không phải là vô ích, v́ bây giờ tôi có thể nhận thấy đúng như thế. Những hồn ma bóng quế đă xâm nhập vào nơi tạm trú của tôi, và quay cuồng khắp chốn, cái cảm giác khó chịu và khó tả của tôi lúc đầu nay đă được hoàn toàn giải đáp. Dưới một sự căng thẳng như thế, ở chính giữa cái thể xác bất động của tôi, tôi nhận thấy rằng quả tim của tôi đập mạnh như búa bổ. Sự sợ hăy điều quái dị, nó ŕnh rập chúng ta luôn luôn, lại xâm chiếm chiếm lấy tôi một lần nữa. Sự sợ sệt, kinh hăi, khủng khiếp lần lượt đến với tôi và lột trần bộ mặt dữ tợn của chúng. Hai bàn tay tôi tự nhiên nắm chặt lại như những gọng kềm. Nhưng tôi quyết vượt qua cơn thử thách, tuy rằng những h́nh thù ma quái lúc đầu đă gây cho tôi cảm giác sợ sệt, sau cùng chúng nó làm tôi phải huy động tất cả sự can đảm và tinh thần chiến đấu mà tôi có thể.

Đôi mắt tôi vẫn nhắm, trong khi tất cả những vong hồn màu xám đục, và mờ sương, lướt nhẹ chung quanh và hiện rơ rệt trong linh cảm của tôi, luôn luôn với sự thù nghịch mănh liệt, sự nhất tâm ráo riết ngăn cản theo đuổi quyết định của tôi.

Cả một đoàn ma quái thù nghịch vây phủ lấy tôi. Tôi có thể giải vây được dễ dàng bằng cách bật đèn bấm hoặc đốt đuốc lên, hoặc đứng lên để thoát mau ra khỏi pḥng và chạy một quảng độ vài ba trăm bộ đến cổng ngoài, tại đó người gác cổng có vơ trang có thể đem đến cho tôi một sự tăng viện đáng kể. Cơn thử thách bắt tôi phải chịu một h́nh thức tế nhị của sự cực h́nh, nó khuấy phá linh hồn tôi, trong khi thể xác tôi vẫn nguyên vẹn. Nhưng đồng thời trong tôi cũng có một sự thúc đẩy mạnh mẽ buộc tôi phải vượt qua giai đoạn thử thách ấy cho đến cùng.

Sau cùng giai đoạn quyết liệt đă đến. Những loài yêu quái h́nh thù ghê rợn, gớm ghiếc, không thể tả nỗi mà chỉ có ở cơi Âm Ty, những loài ma quỷh́nh dung cổ quái, dị hợm, điên rồ, rùng rợn, quái đản, từ đâu kéo đến thật đông chung quanh tôi, sự ghê tởm mà chúng nó gây cho tôi làm cho tôi chảy qua một cơn đau khổ không thể tưởng tượng! Trong vài phúc đồng hồ, tôi đă trải qua những cơn xúc động mà kể từ đó về sau tôi không thể nào quên được. Cái cảnh tượng độc đáo ấy đă được khắc trong kư ức của tôi bằng những nét sâu đậm không thể xóa mơ. Kể từ nay, bất cứ giá nào ở cơi trần gian này tôi sẽ không bao giờ muốn tái diễn cái kinh nghiệm khủng khiếp như đêm nay; tôi sẽ không bao giờ ở lại một đêm nữa trong Kim Tự Tháp.

Cảnh tượng ấy chấm dứt đột ngột lạ thường. Những loài yêu ma, quỷquái biến mất dạng trong bóng tối mà từ đó chúng đă xuất hiện ra; chúng trở về cơi U Minh của những người đă chết, đem theo luôn với chúng tất cả những sự gớm ghiếc, ghê tởm và rùng rợn. Thần kinh của tôi hầu như bị bẻ găy hết nữa phần, đă cảm giác được một sự thoải mái dễ chịu lớn lao chẳng khác nào như một lính chiến ngoài mặt trận khi cơn oanh tạc dữ dội đột nhiên chấm dứt.

Không biết bao nhiêu thời gian đă trôi qua cho đến khi tôi ư thức được một sự hiện diện mới trong gian pḥng. Đó là một sự hiện diện tốt lành, một nhân vật có thiện cảm, đứng ngay ở chỗ cửa vào và ban cho tôi những cái nh́n đầy hảo ư. Sự có mặt của người này đem đến một sự thay đổi hoàn toàn cho bầu không khí chung quanh, một sự thay đổi rất khả quan và lành mạnh. Một yếu tố mới bắt đầu ảnh hưởng đến con người nhạy cảm của tôi, vừa bị trải qua một cơn đe dọa khủng khiếp, bây giờ th́ tôi đă trấn tĩnh và trở về với sự b́nh yên. Nhân vật ấy bước đến gần tảng đá chỗ tôi đang ngồi, khi đó tôi thấy có một nhân vật khác nữa cùng đi theo sau. Cả hai người cùng đứng gần bên tôi và nh́n tôi một cách nghiêm chỉnh; những cái nh́n của họ chứa đầy một ư nghĩa tiên tri. Tôi cảm thấy rằng một giờ phút quan trọng của đời tôi sắp đến gần.

Hai vị này hiện ra trong linh ảnh của tôi với một h́nh dáng khó quên. Những tà áo rộng trắng và giầy dép của họ, tất cả đều trở lại trí nhớ của tôi trong khoảnh khắc. Ngoài ra, họ có mang những phù hiệu rơ ràng về chức sắc của họ, người ta nhận ra ngay họ là những vị Đạo trưởng cao cấp của nền tôn giáo cổ Ai Cập. Một ánh hào quan bao phủ quanh ḿnh họ chiếu một ánh sáng lạ lùng khắp một phần của gian pḥng. Thật ra, họ có vẻ đặc biệt hơn những người thường; họ có cái cốt cách huy hoàng của những bậc siêu nhân, gương mặt họ toát ra một sự bằng an lạ thường, cái bằng an của một đạo viện thâm nghiêm.

Hai vị vẫn đứng yên như hai pho tượng, họ chăm chú nh́n tôi với hai chắp ngang trên ngực, và giữ một sự im lặng hoàn toàn.

Phải chăng tôi đang hoạt động trong một chiều đo thứ tư của không gian, và thức tỉnh để quan sát một cái dĩ văng ngh́n đời? Cái ư thức của tôi về thời gian phải chăng đă thụt lùi trở về thời cát bụi xa xăm của nước cổ Ai Cập? Không, không thể được, v́ tôi đang nhận thức rơ ràng hai nhân vật ấy có thể nh́n thấy tôi, thậm chí họ cũng đang sắp sửa nói chuyện với tôi.

Hai vị khuất mặt nghiên ḿnh tới trước, một vị h́nh như đôi môi mấp máy; gương mặt người kề sát bên gương mặt tôi, đôi mắt người chiếu diệu một tia sáng huyền ảo. Giọng nói của người vang dội bên tai tôi:

- Tại sao ngươi lại đến chốn này và định kêu gọi đến những năng lực huyền bí? Cuộc sống trần gian không đủ làm thỏa măn ngươi hay sao?

Những lời này đến với tôi không phải bằng sự xúc cảm vật chất của thích giác; v́ lẽ không có một rung động âm thanh nào đă xé tan cái im lặng trong gian pḥng. Nhưng dường như tôi nghe những lời ấy cũng như một người điếc nghe được ở bên trong lỗ tai của ḿnh. Tiếng nói mà tôi nghe được, người ta có thể ngờ rằng đó là tiếng nói trong nội tâm, bởi v́ tuy rơ ràng là tôi nghe thấy bên trong lỗ tai tôi, nhưng nó cũng có thể gây ra cái ấn tượng của một tư tưởng. Nhưng thật ra không phải như vậy. Đó là một tiếng nói thật sự.

Tôi đáp:

- Thưa không!

Vị đạo trưởng nói với tôi:

- Sự náo nhiệt phồn hoa của chốn thị thành đông đúc sẽ chấn an tinh thần cho những kẻ ḷng c̣n run sợ. Đi, người hăy trở về với những thân nhân bạn bè, và ngươi sẽ chóng quên cái điều vọng tưởng vu vơ nó đă đưa ngươi đến đây.

- Tôi không thể.

Người lại nói:

- Con đường ảo vọng sẽ làm cho ngươi mất cả lư trí. Nhiều người đă từng đi lạc vào đó, và trở về thành kẻ loạn óc, điên khùng. Người hăy trở về trong khi c̣n kịp thời giờ, hăy trở về với con đường dành cho những bước đi của người trần gian.

Nhưng tôi lắc đầu và nói nhỏ như trong hơi thở:

- Tôi phải theo con đường này, đối với tôi không c̣n con đường nào khác.

Vị đạo trưởng lại bước đến gần và lại nghiêng ḿnh về phía chỗ tôi ngồi. Tôi nh́n thấy đó là gương mặt một vị trưởng lăo hiện ra trong đêm tối. Trưởng lăo nói th́ thầm vào tai tôi:

- Kẻ nào tiếp xúc với chúng ta sẽ tuyệt giao với cuộc đời thế tục. Ngươi dám chắc rằng ngươi có đủ sức đi vững bước một ḿnh chăng?

- Thật ra tôi cũng không biết.

Vị trưởng lăo lại nói th́ thầm:

- Hăy theo ta, rồi khi ngươi đă nh́n thấy, ngươi hăy trả lời cho ta biết.

Kế đó tôi nh́n thấy, như trong một linh ảnh xa xăm, những đường lộ ngoắt ngoéo như mê cung của một thành phố lớn. Cảnh tượng đó hiện ra rất mau chóng, cho đến khi tôi nhận thấy ở phía trước có một ngôi nhà cổ, gần một nơi có rào sắt. Tôi thấy một cầu thang tối om đưa lên một pḥng nhỏ hẹp ở phía dưới nóc nhà. Vị đạo trưởng lại đột nhiên xuất hiện tại chỗ ấy, ngồi một bên giường nằm của một ông già khác mà râu tóc rối nùi, với những nét mặt gân guốc phong trần. Ông già này hẳn là đă vượt quá từ lâu về cái độ về chiều của cuộc đời, căn cứ vào nước da màu xám tro và bọc lấy xương của ông ta. Gương mặt hốc hác xương xẩu của ông ta chứng tỏ một sức lực đă tàn, làm cho tôi động ḷng trắc ẩn, nhưng khi nh́n kỹ ông ta tôi cảm thấy rợn người v́ tôi thấy ông ta đang vật lộn với tử thần, một cuộc vật lộn mà kết quả đă hiển nhiên không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Vị đạo trưởng dẫn đường cho tôi nh́n người hấp hối với cái nh́n thương hại. Người dơ tay lên và nói:

- Đợi vài phút nữa thôi, ông bạn hỡi, và ông bạn sẽ được b́nh an. Đây tôi có đem đến cho ông bạn một người đi t́m những mănh lực nhiệm mầu. Ông bạn hăy nói với y vài lời, để chia sẽ với y ích nhiều kinh nghiệm.

Đột nhiên tôi trở nên không phải chỉ là một người chứng kiến, mà lại là diễn viên trong cái màn bi kịch lạ lùng này. Với một tiếng thở rất nhọc mệt làm se thắt ḷng, người hấp hối day đầu lại và nh́n thẳng vào mặt tôi. Dẫu cho tôi có đi tận chân trời góc bể tôi cũng không bao giờ quên cái nét kinh hoàng hiện ra trong đôi mắt của y.

- Anh c̣n trẻ hơn tôi, y nói th́ thầm, nhưng tôi đă đi khắp vũ trụ một lần, hai lần, ba lần. Tôi cũng vậy, tôi đi t́m cái mà anh đang t́m. Ồ! Tôi đă t́m kiếm xiết bao!

Y ngừng lại một lúc, đầu y lại rơi xuống gối, y cố gắng nhớ lại việc cũ. Kế đó y ngồi nhỏm dậy, chống đở trên hai khủy tay, rồi đưa ra một cánh tay dài và gầy ốm. Bàn tay y với những ngón tay xương xẩu, giống như tay của một bộ xương người. Y nắm lấy bàn tay tôi siết chặt như một cái kềm. Tôi cảm thấy rằng cái nh́n sâu sắc của y soi vào tận hai mắt tôi và định t́m hiểu linh hồn tôi.

- Đồ điên, y nói lớn, những mănh lực duy nhất mà tôi t́m thấy chỉ là những mănh lực của xác thịt và của ác quỷ! Không có mănh lực nào khác. Anh nghe chưa, không có mănh lực nào khác nữa!

Sự cố gắng ấy vượt quá sức của y. Y liền rơi xuống gối, và tắt thở. Vị hướng dẫn tôi không nói một lời. Người ngồi yên trong một phút suy tư bên cạnh giường. Khi đó, cái linh ảnh đă tan đi mất. Một lần nữa tôi lại thấy tôi ngồi trong Kim Tự Tháp. Vị đạo trưởng im lặng nh́n tôi, và tôi cũng đáp lại bằng cái nh́n câm lặng. Người đọc được tưởng tôi, nên từ trong bóng tối, vọng đến tai tôi những lời này:

- Được, ngươi đă chọn con đường này. Quyết định của ngươi từ nay sẽ không thay đổi. Vĩnh biệt.

Người liền biến mất. Tôi c̣n ngồi lại một ḿnh với vị đạo trưởng thứ nh́, vị này từ lúc đầu chỉ đóng vai tṛ một nhân chứng im lặng. Người bèn bước đến trước chiếc ḥm bằng đá. Người có cái gương mặt của một ông lăo rất già. Tôi không thể đoán tuổi tác của người đến bao nhiêu.

- Con hỡi, ông lăo nói một cách b́nh tĩnh, những đấng cao cả ǵn giữ những quyền năng thần bí đă thu nhận con trong bàn tay của các ngài. Đêm nay con phải được đắt đến pḥng thụ huấn. Con hăy nằm ngữa trên tảng đá này. Hồi thời cổ xưa, th́ phải nằm trong cái ḥm đá kia, có lót những cành và lá cây chỉ thảo.

Đoạn ông lăo chỉ cỗ quan tài ở giữa pḥng. Tôi không làm ǵ khác hơn là vâng lời vị đạo trưởng già bí mật. Tôi nằm đặt lưng trên tảng đá. Tôi vẫn chưa biết rơ chuyện ǵ xảy ra ngay sau khi đó. Tôi cảm thấy như ông lăo đă cho tôi uống một liều thuốc mê đặc biệt, có ảnh hưởng rất chậm v́ tất cả bắp thịt của tôi đều cứng đơ, kế đó th́ một sự tê liệt từ từ xâm chiếm lấy cả tứ chi. Toàn thân tôi trở nên nặng nề và cứng ngắc. Trước hết, hai bàn chân tôi tê lạnh, rồi lần lần đến hai chân và cảm giác tê lạnh cứ đi dần dần từ dưới lên trên. Bây giờ th́ cả hai chân tôi đều không c̣n cảm giác ǵ nữa.

Dường như tôi sắp bước vào trạng thái nữa mê nửa tỉnh, một cái linh tính bí mật báo cho tôi biết rằng sự chết đă đến gần. Tuy thế, tôi vẫn không nao núng, v́ từ lâu tôi đă vượt khỏi sự chết cố hữu của người đời và tôi chấp nhận điều không thể tránh được với một tinh thần triết lư.

Cảm giác lạnh đă lên đến ngực, phần dưới thân h́nh tôi đă hoàn toàn tê liệt. Khi đó, tôi có một cái ǵ như là nhói vào quả tim, nhưng cái cảm giác đó qua mau và tôi hiểu rằng cơn khủng hoảng cuối cùng sẽ không c̣n lâu nữa. Nếu tôi có thể nới rộng hai quai hàm đă cứng th́ tôi đă bật cười về cái tư tưởng đầu tiên đến với tôi lúc ấy. Cái tư tưởng đó là: "Ngày mai, người ta sẽ t́m thấy xác chết của tôi trong Kim Tự Tháp, và thế là hết." Tôi biết chắc rằng tất cả những cảm giác của tôi đều do cái nguyên nhân là sự chuyển tiếp của linh hồn tôi giữa cuộc đời thế tục và cơi giới bên kia nấm mồ.

Tuy tôi biết rơ ràng tôi đang trải qua những cảm giác của một kẻ đang hấp hối, nhưng tôi không có một sự phản ứng nào không thể chống cự lại. Sau cùng, tất cả ư thức của tôi đă tập trung lên đầu, một sự quay cuồng điên loạn cuối cùng diễn ra trong khốc óc của tôi. Tôi cảm thấy dường như tôi bị cuốn lôi theo một trận cuồng phong dữ dội và tôi chui qua một cái lỗ nhỏ hẹp. Rồi trong một lúc, tôi hoảng sợ như sắp bị ném vào khoảng không gian vô tận, tôi lao ḿnh vào khoảng không ... , và tôi liền được giải thoát!

Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả những nỗi sung sướng của sự giải thoát mà tôi vừa trải qua. Tôi đă biến thành một vật tâm linh, một vật cấu tạo bằng tư tưởng và t́nh cảm, không c̣n bị trói buộc bởi những chướng ngại của cái ngục tù nó vẫn giam hăm tôi, tức là cái thể xác nặng nề bằng xương thịt này. Thoát ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác. Tôi đă trở nên giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên không hề mất đi cái ư thức của ḿnh. Thật ra, ư thức về sự sống của tôi lại c̣n đậm đà nồng nhiệt hơn trước. Trên hết mọi sự, việc thoát lên một cơi giới thanh cao hơn đem cho tôi cái cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cơi giới thuộc về chiều đo thứ tư nó dung nạp lấy tôi.

Trước tiên, tôi thấy tôi c̣n nằm ngửa trên lưng, giống như cái thể xác mà tôi vừa rời bỏ, và lơ lửng trên cái sàn gạch đá. Kế đó tôi cảm thấy như có một bàn tay đẩy nhẹ tôi tới trước và đở tôi đứng dậy trên hai chân. Sau cùng, tôi cảm thấy như vừa đứng, lại vừa lơ lửng trên không.

Từ trên không gian, tôi ngắm nh́n cái thể xác bằng xương thịt mà tôi vừa rời bỏ, đang nằm yên, bất động trên tảng đá. Gương mặt không cảm xúc, lật ngửa lên trần nhà, đôi mắt hé mở, tuy nhiên hai con ngươi không c̣n đủ sáng đểchỉ rằng hai mí mắt không đóng chặt. Hai tay chắp trước ngực, cử chỉ mà tôi không nhớ đă làm trước khi đó. Hai là ai đó đă chấp hai tay của tôi lại mà tôi không hay? Hai chân duỗi thẳng dọc theo nhau từ đầu đến cuối. Đó là cái thể xác nằm ngửa của tôi, dường như đă chết, mà tôi vừa thoát ra khỏi và bỏ lại đó.

Tôi nhận thấy rằng một tia ánh sáng yếu ớt và trắng như bạc từ ḿnh tôi, cái tôi mới, phóng xuống cái thể xác đang nằm yên bất động trên tảng đá. Đó là một điều lạ, nhưng lạ hơn nữa là tôi thấy cái sợi nhau rún vô h́nh bí mật đó chiếu sáng cả một gốc pḥng Vương Cung mà tôi đang lơ lửng trên không, và soi lên những viên đá trên tường như một ánh trăng sáng diệu.

Tôi chỉ c̣n là một bóng ma, một vong linh không thể xác đang vẫn vơ trong không gian. Tôi đă hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những chữ ám tự cổ xưa. Với cảm giác bay lơ lửng trên  không chẳng khác nào như tôi có mọc hai cánh và bay lướt trên cái thể xác đă bỏ rơi, giống như con chim bay lượn trên một vật ǵ ở dưới đất, cái biểu tượng đó thật là khéo lựa chọn.

Vậy là tôi đang ở trong không gian, tôi đă tách rời linh hồn tôi ra khỏi cái xác phàm, tôi đă tự phân thân tôi ra làm thành hai phần khác nhau, tôi đă rời bỏ cơi thế gian mà tôi vẫn ở bấy lâu nay. Tôi có cảm giác như trở nên một vật tinh anh như dĩ thái, thanh nhẹ vô cùng, trong một cái thể mới, tức cái thể vía, mà tôi khoát lấy kể từ nay. Nh́n tảng đá lạnh trên đó cái thể xác tôi đang nằm, tôi có một ư nghĩ giản dị nó biểu lộ ra một cách thầm lặng bằng những lời này:

- Đó là trạng thái của sự chết. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một linh hồn, và tôi có thể sống ngoài xác thân. Tôi sẽ tin như vậy luôn luôn, v́ tôi đă trải qua kinh nghiệm đó.

Cái tư tưởng đó bám chặt lấy tôi một cách ráo riết như một gong kềm, trong khi tôi vẫn lơ lửng phất phơ trên cái thể xác trống rỗng. Tôi đă kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng phương pháp hiệu quả nhất: Bằng cách di chuyển thật sự ra khỏi thể xác, rồi thấy rằng ḿnh vẫn c̣n sống! Tôi tiếp tục nh́n cái xác phàm c̣n bỏ xót lại. Phải chăng là nó mà trong bao nhiêu năm tôi vẫn gọi là cái tôi? Một đống nhục thể, vôtri giác, có thế thôi. Đó là điều mà bấy giờ tôi mới khán phá, với bằng chứng rơ ràng. Nh́n vào đôi mắt mù tịch không c̣n thấy ǵ nữa, không c̣n đáp ứng với ngoại cảnh, tôi mới nhận thấy rơ tất cả sự mỉa mai của vấn đề. Cái thể xác vật chất của tôi vẫn giam hăm lấy tôi, cái tôi thật, nhưng bây giờ tôi đă thật được tự do. Trước kia, tôi vẫn được trở đi lại đó đây trên hành tinh này, bằng một cái cơ thể mà từ lâu nay tôi vẫn lầm lẫn với cái tôi thật.

Dường như cái ư thức về luật hấp dẫn đă biến mất, tôi vẫn phất phơ trên không trung và cảm thấy vừa như treo lơ lửng lại vừa như đứng một cách lạ lùng. Bỗng nhiên xuất hiện bên cạnh tôi vị đạo trưởng già đạo mạo, cốt cách thanh kỳ. Đôi mắt nh́n lên, gương mặt trầm tĩnh, phong độ ung dung, người cầu nguyện:

- Ô Amen, Ô Amen ở trên trời, hăy nh́n về cái thể xác đứa con ngài và ban cho y ân huệ trong cơi giới tâm linh.

Kế đó người nói với tôi:

- Bây giờ con đă học xong bài học lớn. Con người, mà linh hồn sinh ra từ đấng bất diệt, không thể nào chết mất đi đâu. Con hăy ghi nhận cái chân lư đó bằng ngôn ngữ của trần gian.

Ngay lúc đó, trước mặt tôi lần lượt xuất hiện gương mặt khá quen thuộc của một thiếu phụ đă quá văng mà tôi đă đi đám táng trên hai mươi năm về trước, rồi đến những nét mặt quen thuộc của một người bạn chí thân mà tôi đă đưa đến chỗ yên nghĩ cuối cùng cách đây hai mươi năm, sau cùng là nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ mà tôi đă biết chết trong một tai nạn. Cả ba người điều nh́n tôi trong sự trầm lặng, giọng nói thân mật của họ đă thốt ra chung quanh tôi. Tôi nói ít lời vắn tắt với mỗi người ấy, rồi họ lui gót rồi biến mất. Vị đạo trường già nói:

- Họ cũng sống như con đây, như cái Kim Tự Tháp này đă từng chứng kiến cái chết của nữa phần nhân loại và nó vẫn c̣n tồn tại. Con hỡi, con nên biết rằng trong ngọn tháp cổ này c̣n ấn tàng cái di sản đă mất của những giống người đầu tiên và sự liên minh mà họ đă kư kết với đấng tạo hóa, do sự trung gian của vị tiên tri đầu tiên. Nhưng người được chọn lựa ngày xưa đă được đưa đến đây để tŕnh bày cho thấy cái liên minh đó và để khi họ trở về nhà, họ có thể duy tŕ sự bí mật đó măi măi trong dân gian. Con hăy ghi nhớ lời cảnh cáo này: "Khi nào con người từ bỏ đấng Hóa Công và nuôi sự thù hằn với kẻ đồng loại, th́ họ phải chịu cái số phận của những vị quốc vương châu Atlantide ở vào thời đại xây cất cái Kim Tự Tháp này. Họ sẽ bị diệt vong bởi chính ḷng tà vạy của họ cũng như dân Atlantide ngày xưa vậy."

Không phải đấng tạo hóa đă nhận ch́m châu Atlantide mà chính sự ích kỷ, bạo tàn và mù quán tâm linh của những dân tộc sống trên vùng lục địa vô phước ấy. Đấng tạo hóa yêu thương tất cả nhân loại, nhưng sự sống c̣n của con người bị cau quản bởi những định luật huyền bí mà Ngài đặt ra cho họ. Vậy con hăy ghi nhớ những lời cảnh cáo này.

Khi ấy, tôi bị xâm chiếm bởi một sự ước muốn mănh liệt là muốn biết thêm sự liên minh bí mật ấy. Chắc hẳn vị đạo trưởng đă đọc được tư tưởng của tôi, v́ người liền nói nhanh:

- Mọi sự phải đến vào đúng ngày giờ của nó. Chưa phải lúc, con ạ, chưa phải lúc.

Tôi cảm thấy một sự thất vọng chua cay. Người nh́n tôi trong vài giây đồng hồ rồi nói tiếp:

- Chưa có một người nào thuộc chủng tộc của con được phép biết điều ấy. Nhưng v́ con đă giỏi về các khoa này, v́ con đă đến với chúng ta với cả tấm ḷng thiện chí và hiểu biết, con có thể được vài sự hài ḷng. Bây giờ, con hăy theo ta.

Khi đó xảy ra một chuyện lạ kỳ. Dường như tôi đă lọt vào một cơn mê, trong một lúc tôi đă mất cả ư thức về ngoại cảnh và kế đó tôi đă được đưa đến một chỗ khác. Tôi thấy tôi đanng ở một dăy hành lang dài, có chiếu một thứ ánh sáng êm dịu, tuy tôi không thấy có cửa sổ hay đèn đuốc chi cả.

Tôi nghĩ rằng cái nguồn phát ra ánh sáng này không ǵ khác hơn là cái hào quang bao bọc chung quanh ḿnh vị đạo trưởng già đồng hành với tôi, pha lẫn với sự chiếu sáng với sợi dây từ điển rung động trong dĩ thái ở phía sau lưng tôi. Nhưng tôi phải nh́n nhận rằng sự giải thích nầy vẫn chưa đủ. Các vách tường điều bằng đá ửng màu đất nung, và các phiến đá được ráp nối một cách vô cùng tinh vi. Đất nghiêng theo đường dọc lài lài xuống, theo một gốc tương đương với dốc lài từ cửa vào Kim Tự Tháp. Gian pḥng vuông vức và thấp, nhưng không gây trở ngại. Tôi không thể khám phá ra nguồn gốc của cái ánh sáng bí mật ấy, phía trong gian pḥng cũng chiếu sáng không kém, dường như có một ngọn đèn soi sáng khắp pḥng. Vị đạo trưởng già mời tôi đi theo con đường dốc. Người căn dặn:

- Đừng quay đầu lại nh́n phía sau.

Chúng tôi vẫn đi như thế trên một quăng đường dốc, kế đó tôi thấy một gian pḥng lớn, gống như một nơi thánh điện, ở tận chỗ cuối đường. Tôi đang biết rơ là tôi đang ở phía trong hay ở phía dưới hầm Kim Tự Tháp, nhưng trước đó tôi không hề thấy con đường dốc và gian pḥng này. Lẽ tất nhiên con đường dốc và gian pḥng này điều bí mật cho đến khi nó vẫn chưa hề bị khám phá. Tôi không khỏi cảm thấy kinh sợ, do sự phát hiện đột nhiên này, trong khi một sự ṭ ṃ mănh liệt cũng không kém khiến tôi tự hỏi đâu là chỗ cửa vào con đường hầm bí mật này và cửa đó ra sao. Sau cùng tôi day đầu lại và liếc nh́n ra phía sau để hy vọng t́m thấy cái cửa bí mật. Tôi lọt vào con đường dốc này mà không do một ngă nào, nhưng ờ phí cuối đường hầm tôi nhận thấy rằng hầu như chỗ cửa vào đă bị đóng chặt bởi những tảng đá vuông lớn và trét bằng một chất nhựa giống như xi măng. Tôi xem xét một vách tường đá trắng, kế đó tôi cảm thấy như bị xô té bởi sức mạnh vô h́nh không cưỡng lại được, cho đến khi tất cả cảnh tượng ấy biến mất dạng và tiếp tục bay lơ lửng trên không gian. Tôi c̣n nghe cái âm hưởng vọng lại từ xa như một tiếng vang "Chưa phải lúc ... chưa phải lúc ... " và trong giây phúc tôi đă nh́n thấy cái thể xác vô tri bất động của tôi nằm trên tảng đá. Vị đạo trưởng già nói nhỏ với tôi.

- Con hỡi! Con có t́m thấy cái cửa bí mật hay không, điều ấy cũng không quan hệ ǵ. Con hăy t́m trong nội tâm con đường huyền bí nó đưa con đến nơi thánh điện ẩn dấu trong chỗ thầm kín của linh hồn, rồi con sẽ t́m thấy cái kho tàng bí mật. Sự bí mật của Kim Tự Tháp chính là sự bí ẩn trong người của con vậy. Những thánh điện thâm nghiêm, những di tích chứng minh của thời cổ, tất cả đều có chứa bên trong linh hồn của con. Bài học của Kim Tự Tháp chính là đây: Con người phải quay về nội tâm, thám hiểm tận chỗ chung tâm huyền bí của bản chất ḿnh để t́m thấy chân ngă, cũng như người ta phải thám hiểm tận chỗ thâm sâu ẩn dấu của ngọn tháp này để khám phá ra điều bí mật tối trong của nó. Thôi, ta vĩnh biệt con từ đây!

Tâm hồn tôi quay cuồng trong một cơn gió lốc nó lôi cuốn tôi đi, tôi trượt xuống dưới thấp, xuống thấp măi, một sự mê man nặng nề xâm chiếm lấy tôi. Tôi thu thập tàn lực để cố gắng cử động những bắp thịt đă cứng đơ, nhưng vô hiệu quả, sau cùng tôi ngắt liệm đi ...

Tôi giật ḿnh và mở mắt dậy trong bóng tối dày đặc. Khi toàn thân tôi đă co giăn lại được, tôi ḍ dẫm trong đêm tối để t́m ngọn đèn bấm và bậc đèn lên. Tôi vẫn ở trong Vương Cung, tinh thần căng thẳng đến cực độ, làm cho tôi phải phóng ḿnh nhảy dựng lên và kêu to, tiếng kêu của tôi vang dội lại rền rỉ trong đêm trường. Nhưng thay v́ chân tôi đạp lên mặt đất phía dưới, tôi cảm thấy dường như tôi bị rơi trong khoảng không. Tôi bèn đưa hai tay quơ và bám chặt lấy cạnh của tảng đá và treo ḿnh lủng lẳng trên vực thẳm, nhờ đó tôi mới khỏi té ngă. Khi đó tôi mới việc ǵ đă xảy ra. Khi tôi vừa nhảy dựng lên tôi đă đi đến đầu cuối của tảng đá mà tôi không hay và hai chân tôi đă ở phía trên một cái lỗ trống đào sẵn ở phía góc tây bắc của gian pḥng.

Tôi bèn định tĩnh tinh thần và tự gỡ ḿnh thoát ra t́nh trạng đó một cách an toàn. Tôi lấy đèn bấm soi đồng hồ đeo tay th́ thấy kiếng đă bể ở hai nơi do hậu quả của bước nhảy, khi tôi quơ tay đụng vào tường. Nhưng đồng hồ vẫn c̣n chạy, phát ra tiếng kêu "tích tắc" nhẹ nhàng và lanh lẹ. Khi tôi xem giờ, tôi muốn phát cười to lên, dẫu rằng giữa bầu không khí cỗ kính thâm nghiêm này.

Đồng hồ chỉ vừa đúng nửa đêm, cái giờ cổ điển của những biến cố ly kỳ. Hai cái kim giao nhau chỉ đúng ngay vào số mười hai, không suy chuyển một phút hơn hay kém!

Khi viên cảnh binh trực đêm mở cái cổng sắt vào lúc mặt trời mọc, một lăng tử ḿnh dính bụi bậm, dáng điệu mệt nhọc hai mắt thâm quầng, tập tễnh đi ra từ phía hành lang tối om bên trong Kim Tự Tháp. Y dụi hai mắt, và nh́n ra về phía đồng bằng với những cảnh vật quen thuộc. Trước hết y hít những hơi thở dài để thở bầu không khí tự do trong lành. Rồi do bản năng thúc đẩy, y quay mặt về phía RÂ, bầu tinh tú của lúc b́nh minh, và âm thầm thờ kính Thần Thái Dương đă ban cho loài người cái ân huệ vô giá: Ánh Sáng!

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 366 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 11:59am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHÀ PHÙ THỦY THÀNH CAIRO

CHƯƠNG NĂM

 

Tại Cairo, người ta sống trong hai thế giới khác nhau. Bạn lọt vào thế giới Ả Rập khi từ công trường trung ương Ataba el Khadra, bạn đi về phía đông. Bạn lọt vào thế giới Âu Tây hiện đại nếu bạn đi ngược lại chiều hướng trên. Một sự sống lạ lùng hỗn hợp Đông phương với Tây phương, thời trung cổ với thời kỳ hiện đại, màu mè sặc sỡ và sự sống cẩu thả, thiếu vệ sinh của phương Đông, cùng với sự ngăn nắp sạch sẽ của Âu Tây chung lộn với nhau dưới cái nhịp độ sinh hoạt thực tế hằng ngày. Chính tại Cairo mà tôi khám phá hằng hà sa số những pháp sư, phù thủy và đồng tử, nhà tiên tri và chiêm tinh gia, thầy bói và tướng số, tu sĩ và thuật sĩ, gồm những thành phần rất đông đảo và đủ mọi hạng. Chính phủ Ai Cập đă ra lịnh cấm phần nhiều những hoạt động của họ, và áp dụng những biện pháp hạn chế. Mặc dầu tôi vẫn có thiện cảm với những người thuộc thành phần kể trên, tôi phải nh́n nhận rằng chánh phủ hoàn toàn có lư khi áp dụng biện pháp gắt gao đối với họ. Những tay bợm băi thường lừa bịp những người mê tín nhẹ dạ, những người buôn thần bán thánh dễ thuyết phục những người sẵn sàn nghe theo họ, những kẻ tiên tri giả mạo thường làm cho công chúng tin tưởng nơi những sự lầm lạc của ḿnh. Người ta không thể làm được đúng mức những sự tổn hại mà các ông thầy bói và tướng số sẽ gây cho thân chủ quá thật thà, thường vịn theo những lời bói toán, tiên tri làm cái kim chỉ nam cho cách sinh hoạt và sử thế của ḿnh. Tuy vậy, người ta cũng biết khá đủ về những tệ đoan gây nên, nó là cho chánh phục phải can thiệp.

Dầu sao, trong số những thành phần ấy đă có một vài nhân vật làm cho tôi thích thú ngoài phạm vi hành nghề của họ. Đó là: Một nhà phù thủy đă làm chết một con gà mái dưới mắt tôi bằng những câu thần chú và bằng khoa pháp môn: Một nữ phù thủy người Soudan, đă đoán trúng rằng xứ Ấn Độ là nơi mà tôi đă trải qua một thời gian rất may mắn tốt lành, và sau đó đă tiên đoán vài điều về tương lai; một người thanh niên Ai Cập đạo Gia Tô và gốc xứ Syrie, tin tưởng chắc chắn rằng y là hậu nhân của thánh Elie và sống một cuộc đời ẩn dật lánh xa thế tục như đấng tiên tri nọ; một ông lăo dị kỳ sống với gia nhân trong một ṭa nhà lớn bên cạnh một ngồi đền hồi giáo, và sống tách rời thế gian đến nỗi ông ta dùng hết thời giờ của ḿnh để nói chuyện với các vong linh bí mật; một bà nọ rất can đảm, bất chấp lịnh cấm của vua Ibn Séoud, đă lén quay phim tại thánh địa Mecca, nhưng bây giờ lại muốn học hỏi vấn đề đạo lư với những bậc danh sư thượng thặng; nhà thuật sĩ trứ danh Tahra Bey, không ngần ngại cắn một lưỡi dao găm vào cỗ họng ḿnh hoặc vào ngực trên cổ quả tim mà không sao cả, thậm chí cũng không chảy máu. Những nhân vật khác nữa cũng làm cho tôi phải chú ư, nhưng tôi không thể diễn tả hết mọi người với đầy đủ chi tiết, mà chỉ kể đại khái những chuyện về một vài người đáng lưu ư nhất.

Một khía cạnh khác đời sống ở Cairo cũng rất hấp dẫn đối với tôi, đó là khía cạnh tôn giáo, v́ thành phố này đă từng là trung tâm truyền bá nền văn minh Hồi giáo trong khoảng trên một ngh́n năm.

Tôi t́m thấy ở chỗ của nhà phù thủy vào một buổi trưa hè nóng bức, sau khi đă đi t́m đường rất lâu và mất rất nhiều công phu dọ hỏi. Tôi đi theo một con đường lớn vẫn c̣n lót bằng những tảng đá rất cũ đến một khu xóm ồn ào, cũ kỹ, b́nh dân, mà những con đường hẹp quanh co chen chúc nhau giữa ngôi đền hồi giáo El Azhar và khu nghĩa địa âm U Bad el Wazir. Một đoàn lạc đà nối đuôi nhau đi vào thành phố, mỗi con lạc đà đều có đeo trên cổ một cái lục lạc đồng, khiến cho cuộc diễn hành của chúng phát ra những tiếng khua nghe rất vui tai. Để t́m địa chỉ của nhà phù thủy, tôi vạch một lối đi xuyên qua nhiều ngơ ngách tối tăm, quanh co lẩn khuất như chốn mê cung, nhiều lối đi chật hẹp đến nỗi nền trời chỉ xuất hiện qua những khe hở không đều giữa những nóc nhà hai bên đường. Tuy nhiên, ánh nắng mặt trời rọi xuống lối đi chật hẹp đó tạo nên một khung cảnh chỗ sáng chỗ tối trông rất ngoạn mục.

Sau cùng tôi đi vào một con đường khúc khủyu đưa đến nhà một người mà tôi t́m kiếm, xuyên qua những lớp bụi trắng rất dầy và những ngọn gió đưa vào từ những ngọn đồi khô khan nhô lên ở vùng ngoại ô thành phố. Ngôi nhà rộng lớn và có vẻ cũ kỹ, mặt tiền xây bằng những tảng đá dài sơn màu mè sặc sỡ, và trên gác có nhiều cửa sổ, tôi đợi một lát th́ một đứa trẻ độ mười bảy tuổi ra hỏi với một giọng do dự:

- Thưa ông muốn hỏi ai?

Khi tôi nói đích danh nhà phù thủy, th́ người thiếu niên lùi bước với vẻ ngạc nhiên. Hẳn là trong số những thân chủ của nhà này, không có nhiều người Âu.

Người thiếu niên nói:

- Ông kiếm cha tôi! Về chuyện chi, xin ông cho biết?

Tôi cho biết ư kiến của tôi và đưa ra một tờ giấy giới thiệu viết bằng viết ch́. Khi y thấy chữ kí tên, đôi mắt y sáng lên, y mời tôi vào nhà, mời tôi vào pḥng khách, chỉ một cái divan có lót vải trắng và mời tôi ngồi. Kế đó, y bước lên lầu và liền trở xuống. Tôi nghe tiếng chân người lê những bước đi chậm chạp, và những người thiếu niên bước vào pḥng, theo sau có một người thân h́nh vạm vỡ, trạc độ sáu mươi tuổi, người này vừa bước vào vừa đưa tay lên trán để chào tôi theo lối bản xứ.

Y choàng trên đầu một chiếc khăn trắng phủ xuống tận vai, để một mái tóc đen như huyền. Nét mặc y già dặn và biểu lộ một tính t́nh cỡi mở, tốt bụng, râu mép khá rậm những bộ râu dưới cằm th́ thưa. Đôi mắt y lớn luôn luôn xuống đất và đôi mí nheo lại. Y mời tôi cứ an tọa và y ngồi trên một chiếc ghế lớn.

Với vài lời vắn tắt, nhà phù thủy bài tỏ sự hân hạnh được tôi đến viếng, và mời tôi dùng giải lao trước khi vào đề câu chuyện. Tôi cám ơn, nhưng v́ biết rơ tập quán bổn xứ, tôi yêu cầu y đừng cho tôi uống cà phê, v́ tôi không dùng thứ ấy. Y mời tôi dùng trà của xứ Ba Tư, một thứ trà rất ngon, tôi bèn vui ḷng nhận. Trong khi chờ đợi, tôi định phỏng vấn nhà phù thủy về đời tư của y, nhưng vô hiệu quả. Ngoài vài lời độc âm ngắn ngủi theo phép lịch sự bổn xứ, y không chịu nói ǵ về cuộc đời của ḿnh. Trái lại, y xoay chiều câu chuyện và đưa ra nhiều câu hỏi về mục đích của tôi. Tôi trả lời thành thật và không do dự. Trong khi đó, người gia bộc đă dọn ra những thức ăn đặc biệt Ai Cập, gồm có những khoanh bánh ngọt làm bằng bột ḿ trộn với mật ong và chiên vàng, chuối và những chén trà Ba Tư thơm phức. Khi chủ nhà hiểu rằng việc sưu tầm của tôi không có mục đích chế nhạo hoặc ác ư ǵ khác, y trở nên rất cở mở. Nhưng, dướ`i cái lớp nhă nhặn lịch sự bên ngoài đó, tôi nhận thấy y luôn luôn giữ ḿnh, dường như không muốn tiết lộ cuộc đời ḿnh cho người khách lạ. Bỗng nhiên, y thay đổi thái độ, và đề nghị cho tôi xem một vài bí thuật phù thủy của y. Y nói:

- Ông hăy đưa cho tôi cái khăn tay.

Tôi đưa khăn cho y, y cầm lấy rồi trả lại tôi rồi nói:

- Được rồi. Bây giờ ông hăy xé nó ra làm hai mảnh.

Tôi làm y theo lời. Y cầm lấy mảnh khăn và viết trên đó một vài dấu hiệu nguệch ngoạc bằng một cây viết mực. Xong rồi, y xếp mảnh khăn lại đưa cho tôi, và yêu cầu tôi để trong một cái dĩa nhỏ bằng đồng ở cạnh tôi trên divan. Tôi theo dơi với ít nhiều thích thú. Nhà phù thủy bèn cầm một mảnh giấy và vẽ trên đó một h́nh tam giác lớn, trong đó y vẽ vài dấu hiệu bí mật và vài chữ Ả Rập. Y đưa cho tôi mảnh giấy và bảo tôi để lên cái khăn đă xếp làm tư. Xong, y mới nói lầm thầm trong vài phút một thứ ngôn ngữ dị kỳ khó hiểu, hai mắt y nhắm nghiền. Rồi th́nh ĺnh y mở mắt ra.

Ngay khi đó, cái khăn bị xé hai bốc cháy trên cái dĩa đồng bên cạnh tôi. Ngọn lửa bốc lên cao làm tôi ngạc nhiên, và trở thành một luồng khói dày đặc bay khắp pḥng. Khói làm tôi ngộp thở và cay mắt. Tôi bèn vội vă đứng dậy đi ra cửa, th́ nhà phù thủy đă ra đến đó trước tôi, y gọi người gia bộc mở hết các cửa sổ cho bớt khói.

Phải chăng đó là khoa phù thủy chánh hiệu, hay đó chỉ là một tṛ ảo thuật dùng những hóa chất bắt lửa? Tôi không băn khoăn cho lắm về việc ấy, v́ tôi không thấy cần một sự chứng minh để làm ǵ. Nhưng ông lăo tỏ vẽ rất hănh diện về cái ḱ công của y. Tôi hỏi:

- Ông đă đốt cái khăn bằng cách nào?

- Bằng cái sai khiến âm binh.

Đó là câu giải thích của y, nó chẳng giải thích ǵ cả, nhưng tôi không hỏi thêm ǵ nữa. Đó là v́ Ai Cập người ta thường dùng cách đó để giải thích những điều mầu nhiệm ngoài lănh vực thiên nhiên.

Nhà phù thủy bảo tôi:

- Ông hăy trở lại trong ba ngày nhưng ông đừng quên đem theo một con gà lông trắng. Tôi nhận thấy nơi ông có một cái ǵ tôi thích, bởi đó tôi vui ḷng giúp ông một việc. Ông hăy nhớ đem một con gà tơ, đừng già quá, mà lông trắng mà thôi.

Tôi nghĩ đến những tay phù thủy Phi Châu thường cắt cổ gà trống trắng rồi phóng tia huyết gà lên đầu những thân chủ của họ, nên tôi từ chối lời đề nghị của ông này. Y khẩn khoản mời mọc tôi nhiều lần, và nói thêm rằng nghi thức phù thủy này có bàn tay của một vị thần linh rất cao tay ấn sẵn sàng hành động để pḥ trợ cho tôi. Nhưng tôi vẫn một mực từ chối. Sau cùng tôi nói cho y biết rằng loại nghi thức này làm cho tôi ghê tởm, và tôi thà không có những sự lợi ích mà y đă gán cho việc hành lễ ấy. Nhà phù thủy bảo đảm rằng sẽ không có việc đổ máu trong nghi thức này. Nghe như thế tôi đồng ư.

Một lần nữa, tôi lại đi qua con đường nhỏ hẹp dưa đến chỗ ở của nhà phù thủy. Lần này, tôi đi qua chợ bán gà vịt ở phía sau công trường Ataba el Khadra, và mua một con gà mái tơ lông trắng. Tôi ôm con gà trong tay và cảm thấy hơi thở ấm của nó dưới ḷng bàn tay tôi. Tôi tự hỏi không biết lăo phù thủy sẽ dành cho nó một số phận ra sao.

Khi tôi đến nơi, lăo phù thủy không c̣n dè dặt nghiêm nghị như mọi ngày, mà lại mỉm cười. Y yêu cầu tôi để con gà ở giữa tấm thảm trải trên nền gạch, rồi bước qua ba lần trên một b́nh lư hương đốt trầm nghi ngút ở một góc pḥng. Khi tôi đă bước qua ba lần trên khói trầm thơm phức, tôi bèn ngồi trên divan và nh́n lăo chủ nhà. Nhà phù thủy lấy ra một tờ giấy, vẽ trên đóù một h́nh vuông chia làm chín ô vuông nhỏ, trong mỗi ô vuông đó y vẽ một dấu hiệu thần bí hoặc một chữ Ả Rập. Kế đó, y niệm lầm thầm, một câu thần chú và đôi mắt y nh́n chăm chú vào con gà. Thỉnh thoảng, y dậm thêm vào những câu thần chú bằng một cử chỉ ngắn như ra lệnh bằng ngón tay trỏ. Con vật bắt đầu sợ hăy và chạy chốn vào một góc pḥng, núp dưới một cái ghế. Khi đó, nhà phù thủy bảo tôi bắt con gà lại và để nó ở giữa tấm thảm như cũ. Tôi nói cho y biết tôi không muốn sờ vào con gà một lần nữa. Người con trai ông lăo khi đó bước vào pḥng ngồi với chúng tôi, y mới bắt con gà và để lại chỗ cũ.

Con gà lại bắt đầu tỏ vẻ sợ sệt và lại muốn chạy vào góc pḥng. Nhưng lăo phù thủy, bằng một giọng mạnh mẽ, ra lịnh cho nó hăy nằm yên. Con gà bèn nằm yên lập tức. Lúc ấy, tôi nhận thấy toàn thân nó run lên. Nhà phù thủy lại mời tôi bước qua ba lần trên ḷ trầm. Khi tôi trở lại ngồi trên divan, con gà không nh́n vào lăo phù thủy nữa, mà hai con mắt nó nh́n về phía tôi cho đến lúc cuối cùng.

Khi đó tôi nhận thấy một sự lạ lùng. Hơi thở của con gà trở nên nặng nề và khó khăn, mỗi hơi thở chỉ c̣n là một hơi thở dài và hổn hển, mỏ nó há ra luôn dường như nó đang cố gắng để đem không khí vào phổi. Nhà phù thủy bèn đặt lá bùa dưới đất ở một bên nó. Y lui gót một cách nhẹ nhàng về phía cửa mở, y đứng nơi đó và lại vừa đọc thần chú vừa nh́n thẳng vào con gà. Những câu thần chú của y lên giọng ra lịnh, lần lần người ta thấy con gà đă uể oải và như sắp tắt thở. Nó cố gắng một lần chót để đứng dậy nhưng lại té ngă xuống v́ kiệt sức. Vài phút trôi qua, nó giật ḿnh vài cái, hai cánh vỗ một cách yếu ớt. Những cử động của nó càng bớt dần và dứt hẳn. Thân ḿnh nó cứng đơ, rồi đến cái đầu, rồi tôi nhận thấy rằng con gà nóng hổi mà tôi vừa đem đến nửa giờ trước đây, không thốt ra được lời nào và có một cảm giác như buồn mửa. Lăo già yêu cầu tôi để cái khăn tay trên xác con gà, và nói với một giọng lạ lùng:

- Khoa pháp môn đă thành công hoàn toàn. Kể từ nay, vị thần linh đă giết con gà này sẽ phù trợ cho ông. Đôi khi, tôi cũng đă làm một nghi thức như thế mà con gà không chết, đó là bởi v́ thần linh từ chối không chịu pḥ trợ cho thân chủ của tôi.

Tôi quan sát nhà phù thủy này suốt buổi hành lễ và thấy y luôn luôn nh́n xuống đất. Y giải thích thái độ đó như sau:

- Khi tôi niệm chú hô thần để kêu gọi một vị, và khi thần linh xuất hiện để chịu cho tôi sai khiến, th́ không bao giờ tôi nh́n thẳng vào y. Đó là một trong những quy luật phải noi theo. Nhưng cuộc lễ hy sinh này chưa phải là đă xong. Ông c̣n bổn phận gói xác con gà lại và đem về nhà cho đến ngày mai, đợi đến lúc nữa đêm, ông sẽ đi đến cầu Kasr el Nil và liện xác nó xuống sông. Trong khi đó, ông hăy đưa ra một lời ước nguyện, và có ngày thần linh sẽ giúp được ư ông muốn.

Cái khăn của tôi không đủ để gói xác con gà. Tôi thấy trong pḥng có một tờ báo, tôi bèn dùng nó để gói lại. Về đến nhà, tôi đưa cái gói cho tên gia bộc Ả Rập c̣n trẻ tuổi của tôi, và đăn y nên mở ra và sờ mó ǵ đến nó cho đến đêm sau. Nhưng lời dặn này là thừa. Tôi chỉ nói thoáng qua là con gà đă bị hy sinh do bàn tay của một nhà phù thủy, và không phải dùng để ăn. Tên gia nô lùi lại trong sự sợ hăi, và kể từ lúc ấy, y tránh không đến gần con gà.

Chiều đến, tôi ra tiệm dùng cơm với hai người bạn, một người Mỹ và một người Ai Cập. Tôi thuật lại cho họ nghe chuyện con gà bị giết bằng khoa phù thủy. Họ quả quyết rằng con gà bị giết bằng những phương pháp khác hơn là khoa pháp môn. Về phần tôi, tôi không bày tỏ ư kiến ǵ mà chỉ giữ kín quan niệm của tôi. Khi thuật lại tất cả các chi tiết, họ phá lên cười, và con gà là đầu đề chính của câu chuyện chúng tôi trong buổi tối hôm đó. Tôi cũng phải thú nhận rằng tôi cũng mỉm cười khi tôi nghe những câu nói đùa châm biếm của những ông bạn tôi về nhà phù thủy vắng mặt, họ dùng y làm cái bia cho sự những sự chỉ trích và bỡn cợt rất ngộ nghĩnh. Th́nh ĺnh tất cả đều tắt phụt trong tiệm ăn, chúng tôi c̣n đang ăn dở bữa chưa xong. Tất cả những cố gắng của người chủ tiệm vẫn không thể nào làm cho đèn cháy lại được, và bữa tối hôm ấy kết thúc dưới ánh đèn nửa mờ nửa tỏ. Người bạn Ai Cập của tôi, cựu sinh viên trường đại học Sorbonne và có tiếng là một con người đa nghi, bèn mất đi trong một lúc sự hài hước đùa cợt của y.

-Chính nhà phù thủy của anh đă làm chuyện ấy!

Y nói với một giọng với vẻ giễu cợt bề ngoài, nhưng tôi thấy bên trong có ẩn một điểm lo ngại. Có thể rằng cái cầu ch́ t́nh cờ bị nổ làm tắt điện, điều ấy là hiển nhiên. Nhưng việc này xảy ra trong những hoàn cảnh nó làm tôi nhớ lại hai việckhác đă xảy ra mợt cách lạ lùng trong những trường hợp tương tự. Việc thứ nhất là trường hợp cá nhân của tôi, c̣n việc thứ hai được nhà văn hào trứ danh Robert Hichens thuật lại cho tôi, có quen thân với nhân vật chính câu chuyện.

Câu chuyện thứ nhất xảy đến cho tôi từ nhiều năm qua khi tôi theo đuổi về cuộc sưu tầm về những giáo phái xuất hiện về những thời kỳ đó, ở khắp Châu Âu và Mỹ Châu. Một trong những chi phái đó là do sự điều khiển của một phần tử bất hảo, cụ linh mục bị trục xuất khỏi Giáo Đường, nhưng y là một nhân vật có quyền năngvà kiến thức rộng. Do sự điều tra, tôi được biết rằng y có một thuật thôi miên rất mạnh và y lợi dụng thuật ấy để đạt những mục đích tà vạy, để khai thác và làm tiền những kẻ nhẹ dạ mê tín. Thay v́ cảnh cáo những người mà tôi quen biết trong số các nạn nhân của y, tôi giữ kín sự khám phá của tôi, v́ tôi tin rằng những kẻ bất lương sớm muộn ǵ cũng phải đền tội.Yếu tố quyết định đă xảy đến dường như do sự t́nh cờ khi tôi gặp lúc mười giờ đêm, một thiếu phụ, vợ của một người mà tôi rất quen biết. Cách đi đứng của bà ta có vẻ lạ lùng làm cho tôi phải ngừng bước giữa đường để hỏi chuyện với bà ấy, và tôi vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng bà ta đang đi đến nhà của thầy ḍng tu xuất để ngủ đêm tại đó. Tôi đưa bà ấy đến cột trụ đèn gần nhất và dưới ánh đèn đện, tôi quan sát cặp tṛng trắng và con ngươi trong mắt bà ta, th́ thấy rằng bà ta đă hoàn toàn bị thôi miên. Tôi thấy có bổn phận phải giải tỏa phép thôi miên cho bà ấy ngay lập tức và thuyết phục bà hăy trở về nhà.

Qua ngày hôm sau, tôi đến viếng một người bạn Ấn Độ để hỏi thăm ư kiến của y về vấn đề này. Tôi thuật lại cho y nghe rơ tất cả những điều tôi khám phá về hành động bất lương của tên lưu manh nọ, và nói rằng theo ư tôi một ngưới như thế thật là quá nguy hiểm mà để cho họ tự do để làm hại kẻ khác. Người Ấn Độ đồng ư với tôi, y c̣n tỏ ra vô cùng phẫn nộ và đề nghị trừng phạt tên lưu manh bằng một sự trù ẻo nặng nề. Tôi biết rơ người bạn tôi đă được thụ huấn về môn Yoga của Ấn Độ và về những bí thuật khác của các nhà đạo sĩ Đông phương: Một sự trù ẻo xuất phát từ cửa miệng của y không phải là chuyện tầm thường. Xét thấy rằng sự trừng phạt đó hơi quá đáng đối với trường hợp này, tôi nói rằng y có thể hành động theo như ư muốn nhưng theo tôi nghĩ rằng nên dùng phương pháp nhẹ hơn, để làm cho tên nọ phải bỏ xứ ra đi mà không trở về. Người Ấn Độ bằng ḷng, nhưng về phần y th́ điều đó cũng không ngăn trở y thốt ra một sự trù ẻo, và y đă làm. Xong rồi, tôi mới đi t́m tay đạo đức giả nọ, và thấy y đang tụ hợp một số đệ tử đông đảo trong một gian pḥng hẹp, nơi đó đang diễn ra một sự hỗn loạn ồn ào, vang rền tiếng kêu thất thanh của tên giáo chủ bịp bợm, biểu lộ một sự vô cùng sợ hăi và tuyệt vọng.

- Ác quỷ có mặt ở đây! Đó là do bàn tay của ác quỷ!

Tôi bật vài cái diêm quẹt, th́ thấy y nằm dài trên cái bục gỗ, dường như đang bị chứng động kinh và mê man bất tĩnh. Người ta thấp đèn cầy lên. Những đệ tử của y chở y sang một khách sạn gần bên, và cố gắng làm cho y tỉnh dậy bằng thứ giải lao quen thuộc của y là rượu Whisky. Trong khi đó những người khác thuật lại cho tôi nghe những ǵ đă xảy ra. Tất cả môn đồ đang ngồi trên ghế, lẳng lặng nghe vị giáo chủ của họ thuyết pháp, th́nh ĺnh tất cả những bóng đèn điện đều nổ tung một lượt với một sức mănh liệt như bom nổ, những mănh chai của các bóng đèn bị hất văng ra tứ phía. Gian pḥng bị đắm ch́m trong đêm tối, và giữa những cơn hỗn loạn kinh khiếp, họ nghe tiếng thầy họ té ngă một cách nặng nề trên bục gỗ và thốt ra những tiếng kêu thất thanh v́ kinh hăi. Tôi bèn theo y qua bên khách sạn, tôi một bức thư ngắn rồi bỏ trong một bao thư có niêm phong cẩn thận. Tôi đưa bức thư đó cho viên trưởng tràng của nhóm đệ tử bị gạt, và yêu cầu y đưa cho thầy y khi nào anh ta tỉnh dậy và có thể đọc được.

Đó là một bức tối hậu thư, bắt buộc y phải rời bỏ thành phố trong ṿng hai mươi bốn giờ và không được trở lại nữa nếu không cảnh sát sẽ truy nă y. Y bèn ra đi, và độ một năm sau, tôi nghe tin y đă chết trong một làng hẻo lánh. Nhưng điều lạ lùng nhất trong câu chuyện này là gian pḥng bị tắt điện tối om đúng vào lúc mà cuộc lễ trù ẻo của người Ấn Độ bạn tôi lên đến mức độ hữu hiệu tuyệt đối!

Câu chuyện thứ hai liên hệ đến Huân tước Carnavon, nhà khảo cổ đă khai quậtlăng tẩm của vua Toutankhamon. Cả thế giới đều biết câu chuyện hy hữu về sự khám phá dị kỳ này, không một ai không biết rằng người cổ Ai Cập đă trù ếm những kẻ nào xâm phạm đến ngôi lăng tẩm này. V́ chứng bịnh bạo phát, người ta phải chở Huân tước Carnavon đến Cairo để được điều trị bằng những phương liệu y khoa tốt nhất mà thành phố ấy có thể cung cấp. Người ta đưa ông Carnavon vào khách sạn Continenal Savoy, một trong những khách sạn lớn nhất của Cairo. Một buổi tối, ít lâu sau khi ông được đưa vào đây, tất cả các ngọn đèn điện bị tắt. Đêm tối kéo dài gần một giờ. Khi đường dây điện được thiết lập lại, người nữ y tá săn sóc cho Huân tước Carnavon thấy ông ta đă chết trên giường bệnh.

Bây giờ, tôi hăy trở lại chuyện con gà.

Hôm sau vào lúc nửa đêm, người ta thấy một người tay ôm một cái gói nhỏ lững thững đi qua cầu Kasrel Nil, đến giữa cầu y có vẻ ngập ngừng chờ đợi lúc thuận tiện để thi hành một công tác ǵ bí mật. Việc ấy không thể dễ làm như người ta có thể tưởng, v́ chiếc cầu này ở ngay trung tâm khu vực người Âu. Một trại lưnh Anh nằm ở một phía bên cầu, ở phía bên kia, là tổng hành dinh của viên Cao Ủy Anh, có cảnh sát canh gát nghiêm nhặt. Vào giờ này mà ném từ trên cầu một vật khả nghi bọc bằng giấy xuống ḍng sông đen ng̣m, lỡ có ai nh́n thấy, phải chăng người ta kết luận rằng ḿnh là một kẻ sát nhân, toan vất bỏ một mảnh thi hài của người chết để phi tan? Tuy nhiên, tôi cũng có dịp quăng cái gói xuống sông từ lan can cầu. Khi nó rơi xuống nước với một tiếng chơm, người dạ hành thở phào một cái nhẹ nhơm và rảo bước đi ngay một cách an toàn. Tên gia bộc Ả Rập của tôi cám ơn Allah khi tôi trở về nhà b́nh yên. Y có vẻ sung sướng như một con mèo bắt được con chuột đầu tiên.

Trong những thăm viếng kế tiếp, tôi cố gắng yêu cầu nhà phù thủy giải thích những phương pháp của y với những chi tiết hơn, để có thể biết xem đó có phải là những tṛ ảo thuật không? Nhưng ông lăo không muốn đề cập tới vấn đề ấy, và đắm ch́m trong những cơn im lặng kéo dài dường như đă lọt vào một thế giới khác, có lẽ là thế giới của quỷthần. Tôi hiểu rằng thật rất khó mà muốn cho một người kín đáo trầm lặng mở miệng để nói chuyện tâm t́nh cởi mở với ḿnh. Người con trai của ông lăo trả lời những câu hỏi của tôi biết rằng cha y không hề nói cho bất cứ một người nào biết những bí mật của ông ta. Chính người con trai đă từng hỏi cha y về những điều bí mật đó từ lâu để cho y có thể nối nghiệp chaḿnh, nhưng y liền bị từ chối và ông lăo cho y biết rằng nghề phù thủy vừa khó thực hành lại vừa nguy hiểm. Ông lăo đă thuật cho y nghe câu chuyện của một nhà phù nọ, sau khi đă kêu gọi một vị thần để sai khiến, chừng xong việc rồi th́ không thể nào làm cho vị thần kia biến mất! Kết quả th́ vị thần kia phản ngược lại y và gây cho y những sự đau khổ gớm giếc kinh khủng! Đó là một ví dụ của những sự khó khăn trong nghề vẫ thường xảy ra. Hiện nay những ngưới con trai theo học luật khoa, một nghành hoạt động ít nguy hiểm hơn, so với khoa phù thủy.

Thế là tôi không thể hy cọng nhà phù thủy già tiết lộ những bí mật của y, dù là thật hay giả. V́ chính cái màn bí mật này nó bảo đảm cho cái quyền năng và tiếng tăm của y. Tôi đành thôi không hỏi thêm ǵ nữa. Đó cũng là một sự tự nhiên nếu nhà phù thủy không thấy cao hứng để tiết lộ những điều có ảnh hưởng đến tiếng tăm và sự nghiệp của ḿnh.

Nhưng nếu tôi không thể làm cho y cởi mở tấm ḷng, th́ tôi tưởng tôi có thể thuyết phục y nói cho tôi nghe những lư thuyết đại cương, và do đó tôi có thể học hỏi được những ǵ bí ẩn đằng sau những câu chuyện mà người Ai Cập thuật lại về các loại thần linh. Trong khi tôi nói chuyện với y, th́ tôi nghe xuyên qua cửa sổ, tiếng trống nhịp nhàng đều đặn vọng lại từ một nhà gần bên. Bên nhà láng giềng, một tay phù thủy Ả Rập hạng trung cấp đang cố gắng, bằng những câu thần chú và tiếng trống, đuổi tà ra khỏi xác thân một người bệnh mà người ta cho là quỷ phá. Nhà phù thủy thấy tôi đang ngẫm nghĩ, bèn nói:

- Những dân tộc các ông bên Tây phương không tin khoa pháp môn cổ truyền của chúng tôi, bởi v́ khoa này sử dụng những sức mạnh của thần linh.

Tôi im lặng. Tôi hiểu thái độ tư tưởng của một người phương Đông một cách dễ dàng, nếu không, tôi đă khônhg bao giờ chú ư đến những xứ này. Ở đay, người ta cho rằng thần linh ở khắp mọi nơi. Nếu một người bị đau ốm, hay bị một điều tai họa, đau khổ, đó là họ bị hung thần nhập xác hay ám ảnh cuộc đời họ. Nếu họ được giàu sang hay quyền thế, đó là v́ họ được sự pḥ trợ, giúp đỡ của một thần pḥ mạng tốt lành. Sau cùng tôi hỏi nhà phù thủy:

- Những vị thần đó như thế nào?

Tôi đă hỏi đúng lúc, v́ y đang vui vẻ. Y đáp:

- Ông nên biết rằng những vị thần linh đó có thật, tuy rằng người thời nay đă mất cái nhăn quan để nh́n thấy họ. Cũng như trong cơi vật chất có loài động vật, th́ trong cơi vô h́nh cũng có những cơi tâm linh, không phải người chết, mà họ xuất xứ trong cơi giới tâm linh. Đó là những thần linh. Tuy thế, ta đừng lầm họ với những linh hồn thú vật, v́ họ có một tính chất khác hẳn. Vài vị thần có trí khôn như người, có những vị tốt lành như những bậc thánh, cũng có những hạn khác là hung thần, ác quỷ. Nói chung những nhân vật trong cơi tâm linh có thể chia làm ba hạng chính: Thần linh, nhân loại và Thiên Thần. Các hàng Thiên Thần, thuộc về hạng tốt lành, không hề sống trên mặt đất. Những hạn thần linh gồm cả thiện lẫn ác, cũng không hề sống trên thế gian. C̣n hạng nhân loại th́ đó là những người, nam hay nữ, đă từng sống ở thế gian và rời bỏ sau khi chết. Cũng như loài vật có bổn phận phụng sự loài người ở cơi thế gian, như loài chó, ngựa, lạc đà được tập luyện để biết vâng lời sai khiến của con người, th́ một vài thần linh có thển để con người sử dụng và sai khiến trong cơi giới vô h́nh hoặc hữu h́nh. Khoa pháp môn thời cổ, cũng như khoa pháp môn của vài nhà phù thủy chân chính c̣n sống vào thời đại này, phần chính yếu là biết làm thế nào để kêu gọi sự trợi giúp của những hạng thần linh ấy. Nói tóm lại, đó cũng là một loại thần linh học.

- Người ta dùng phương pháp nào để có được sự trợ giúp đó?

- Trước hết, cần phải biết tên mỗi vị thần linh để có thể ra lệnh cho họ. Kế đó, phải viết trên một tờ giấy một lá bùa gồm có tên của vị thần, một đoạn kinh Coran, một số hệ lồng trong khung của một sơ đồ, thường là một h́nh vuông hay h́nh tam giác. Điều thứ ba là phải đốt các loại hương trầm, mà thành phần các chất hương liệu sẽ thay đổi tùy theo tính chất vị thần mà ḿnh muốn kêu gọi. Điều thứ tư là phải đọc những câu thần chú. Sau cùng, phải có quyền năng mà nhà phù thủy tiếp nhận được trong khi làm lễ thụ huấn do thầy y ban cho.

Nhà phù thủy ngưng một chút rồi nói tiếp:

- Nhưng muốn có được cái bản lĩnh đó, người học tṛ khoa pháp môn phải trải qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đó khoa pháp môn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người. Tôi có thể tŕnh bày cho ông biết những sự tin tưởng của chúng tôi, như tôi đang nói trong lúc này, nhưng c̣n tiết lộ những bí thuật có một giá trị thật sự, th́ tôi đă có lời thệ nguyện với thầy tôi là không bao giờ làm điều đó, trừ khi nào tôi được truyền pháp cho một đệ tử được thâu nhận sau nhiều năm học hỏi. Thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí mật của chúng tôi bị tiết lộ cho mọi người bởi v́ chừng đó những kẻ hung dữ có thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác v́ mục đích ích kỷ, c̣n về phần chúng tôi th́ sẽ mất hết quyền năng, không c̣n hiệu lực ǵ nữa. Từ trước đến nay tôi vẫn luôn luôn từ chối việc thâu nhận học tṛ. Thật ra, theo những luật lệ của môn phái chúng tôi, th́ tôi có bổn phận truyền pháp cho một đệ tử trước khi tôi qua đời, để cho khoa pháp môn được tồn tại măi măi trong nhân loại. Nhưng v́ tôi đă biết trước được ngày giờ tôi chết, nên tôi sẽ thi hành bổn phận đó vào đúng lúc.

Nhà phù thủy lại ngừng một lúc. Tôi lấy làm hài ḷng mà được y từ bỏ sự dè dặt để nói chuyện cởi mở với tôi. Tôi bèn hỏi thăm về sự nhập môn của y. Y đáp:

- Tôi xin kể một phần tiểu sử của tôi.Tôi sinh ra đă sáu mươi năm nay tại thành Suag, thuộc tỉnh Girga. Cha tôi cũng là một nhà phù thủy và chiêm tinh gia chuyên nghiệp nổi tiếng. Tôi c̣n nhớ rơ, khoa pháp môn của cha tôi hấp dẫn tôi một cách mănh liệt và làm cho tôi rất say mê. Cha tôi nhận thấy tôi có khuynh hướng đó, người mới tuyên bố là truyền pháp cho tôi, và huấn luyện để chuẩn bị cho tôi nối nghiệp người. Cha tôi có rất nhiều sách cổ viết bằng bút tự Ả Rập và những loại sách quư rất hiếm có về khoa pháp môn, người mới đưa cho tôi học. Sau khi người đă truyền pháp cho rồi, tôi bèn rời khỏi nhà rồi đến Cairo để vào trường Đại Học El Azhar. Hồi đó tôi mới có 18 tuổi. Tôi học về các khoa văn chương và tôn giáo nhưn gtôi vẫn hoàn toàn giữ kín bí mật của tôi. Tôi có đem theo vài quyển bút tự của cha tôi, và tiếp tục học sách ấy ở nhà. Tôi học được một điều, là phân biệt được những tính chất khác nhau của con người, cho đến khi tôi trở nên thuần thục để có thể biết được với cái nh́n thoáng qua, tánh t́nh và ư muốn của một người.

Tôi rời khỏi trường Đại Học lúc tôi 28 tuổi. Sau đó tôi sống biệt lập ở một nơi hẻo lánh, và tiếp tục thực hành khoa pháp môn cho đến khi tôi cảm thấy có đủ bản lănh để có thể hoàn toàn kiểm chếvà làm chủ được nhữngThần linh. Khi đó tôi mới thực sự bước vào nghề và bắt đầu nhập thế. Trừ phi người ta có thể đạt được tới bản lănh đó, th́ tốt hơn đừng nên theo đuổi khoa pháp môn. Mấy đứa con tôi đă van xin tôi truyền pháp cho chúng, nhưng tôi đă hướng chúng đi theo con đường khác, v́ tôi thấy chúng nó thiếu sự can đảm cần thiết để trở nên một nhà phù thủy lành nghề và có thể thành công.

Tôi cũng đă thực hành khoa chiêm tinh. Nhiều người Ai Cập có địa vị cao đă đến viếng tôi, và tôi thường tiên đoán vận mạng của họ. Những vị hoàng thân, bộ trưởng, quan chức, phú thương điều có đến hỏi ư kiến tôi. Một vị quan to của triều đ́nh Abyssinie đă nhờ tôi đoán số; năm ngoái, tôi tiếp đoán vị công chúa của hoàng triều Abyssinie. Quốc Vương xứ Maroc đă gởi đến tôi một vị đặc sứ mang theo quốc thư để hỏi về vận mạng tương lai.

một năm nọ bốn tên ăn trộm lẻn vào nhà tôi lúc ban đêm định giết tôi để cướp của, tôi đuổi chúng đi với chỉ có một cây gậy. Qua ngày hôm sau, tôi dùng bí thuật để biết tên của chúng. Sau đó tôi có đủ bằng chứng để đưa chúng ra trước pháp luật và cho chúng lănh án năm năm tù. Cách đây không lâu, tôi được gọi đến một nhà bị ma khuấy phá, làm lật đổ bàn ghế và vật dụng trong nhà lúc ban đêm. Tôi đốt một ḷ hương trầm và niệm chú; trong mười lăm phút, vài âm binh đă xuất ghiện. Đó là những âm binh đă khuấy phá trong nhà nọ. Tôi ra lệnh cho chúng phải đi ngay và để cho nhà kia được b́nh yên. Chúng bèn đi mất và mọi sự đều trở lại b́nh thường.

Nhà phù thủy vỗ hai tay làm hiệu, tên gia bộc bèn bưng ra một mâm đựng mứt, bánh ngọt và trà thơm Ba Tư. Nhân lúc dùng trà bánh, tôi hỏi:

- Có thể nào làm cho một người khác thấy được những vị thần linh đó không?

- Được chứ, sau những cuộc chuẩn bị lâu dài và nhiều cố gắng, điều đó có thể thực hiện được. Cuộc chuẩn bị gồm có việc đốt trầm hương và niệm thần chú. Khi đó một vị thần xuất hiện từ luồng khói trong gian pḥng tối tăm và nói lớn tiếng. Tôi không thực hành khía cạnh đó của khoa pháp môn v́ tôi đă già để làm những cố gắng dày công như thế.

Tôi lấy làm ngạc nhiên trước nhân vật lạ lùng này, nếu y có thể tiếp xúc với quỷ thần một cách dễ dàng như thế th́ đó thật là một người nguy hiểm. Tuy nhiên, y cũng tỏ ra có những t́nh cảm như mọi người, v́ khi ấy đứa cháu gái y mới lên sáu tuổi và mặc quần áo ngộ nghĩnh bất chợt chạy tung tăng vào pḥng, y cuối xuống hôn nó một cách rất tŕu mến và chơi với nó rất lâu.

Tôi lại hỏi:

- Những điều ngu hiểm của khoa pháp môn này như thế nào?

- Người nào kiểm soát và sai khiến được thần linhphải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh không phải chỉ là những vật vô tri trong bàn tay của y. Đó là những nhân vật có trí khôn va ư chí riêng biệt. Họ luôn luôn có thể nỗi loạn chống lại người đă khuất phục được họ. Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đă làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết ḷng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ư trí của y bị sút kém, hoặc y lạm dụng quyền năng v́ mục đích tà bậy, th́ khi đó vài loại thần linh có thể phản công trở lại và tác hại, gây cho y những khó khăn bất ngờ, như tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử. Với sự trợ giúp của những thần linh đó, người ta có thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy không đủ sức kềm chế thần linh, họ có thể phản động lại một cách trắng trợn và hại người đă khuất phục được họ.

- Phải chăng người cổ Ai Cập cũng đă từng biết rơ những hạng thần linh đó?

- Lẽ tất nhiên, sự hiểu biết đó là yếu tố căn bản về quyền năng của các vị tăng lữ trong các đền cổ Ai Cập. Họ sử dụng thần linh như những vị thần canh gác mồ mả hoặc giữ kho tàng của cải rất vĩ đại. Người ta kêu gọi đến thần linh trong những cuộc hành lễ ở các đền thờ. Tôi cần nói thêm rằng có khi người ta cũng dùng các thần linh để thực hiện những mục đích tà bậy, bất chánh.

Tôi thuật lại cho ông lăo nghe kinh nghiệm của tôi trong Kim Tự Tháp lớn, khi tôi thức suốt một đêm trong Vương Cung, và cái kinh ảnh khi tôi nh́n thấy cái vong hồn của hai vị đạo trưởng già và con đường hầm bí mật.

Nhà phù thủy cho biết:

- Bên trong Kim Tự Tháp và ở vùng chung quanh thần tượng Sphinx có một hạng thần linh đặc biệt. Những thần linh này đă bị các vị pháp sư lăo thành của thời cổ Ai Cập bắt nhốt tại đó để ǵn giữ nhưng nơi bí mật ... Những vị thần linh ấy phóng ra những ảo ảnh để đánh lạc hướng những người nào muốn đột nhập vào những chốn thâm nghiêm bí ẩn trong các đền thờ, và nhờ đó họ giữ ǵn cho những nơi ấy trở nên bất khả xâm phạm. Tôi cũng tin rằng Kim Tự Tháp lớn có những đường hầm bí mật, những gian pḥng kín và những tài liệu ẩn dấu. Tôi cũng đă đến đó một lần với ư định t́m kiếm những thứ ấy, nhưng v́ những người canh gác không cho bất cứ một ai đi xuống con đường hầm, nên tôi đành thất vọng trở về. Lẽ dĩ nhiên, những vị thần ǵn giữ những nơi bí mật của Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx có thể bị lôi cuốn và mua chuộc, nhưng muốn như vậy, người ta phải biết rơ h́nh dáng và tên của họ cùng những câu thần chú đặc biệt để kêu gọi các vị thần. Nhưng tiếc thay, những điều đó nay đă mất không c̣n nữa, và đă bị chôn vùi theo các nhà đạo sĩ cổ Ai Cập.

Tôi bèn hỏi những quyền năng mà y đă đề cập đến, v́ tôi được bí nhưng quyền năng đó không phải là vô giới hạn. Y đáp:

- Lẽ tất nhiên chúng tôi không dám tự hào làm được bất cứ việc ǵ. Chúng tôi có thể làm một vài việc, chỉ có thể làm được một vài việc, thế thôi. Chỉ có đấng Allah mới biết hết tất cả và quyết định mọi sự. Chúng tôi chỉ có thể cố gắng thi thố tài nghệ của ḿnh mà thôi, c̣n thành hay bại là tùy nơi đấng Allah.

Tôi xin kiếu từ và lại trở ra con đường hẹp và đầy các bụi, dưới ánh nắng trong sáng của mặt trời thành Cairo. Tôi c̣n cất trong túi áo một viên ngọc lớn, chùi láng bóng, màu nâu đỏ, h́nh bầu dục mà nhà phù thủy đă tặng cho tôi để làm vật kỷ niệm, và theo như lời y cho biết th́ viên ngọc này ngày xưa là vật sở hữu của một vị vua Pharaon. Tôi ngắm viên ngọc và nghĩ đến nhà phù thủy mà tôi vừa tiếp xúc, cùng những thần linh bí mật vô h́nh mà y nói là lúc nào cũng sẵn sàng vâng lời sai khiến của y. Tôi thấy rằng, khi đạt đến đó, người ta đă bước vào một lănh vực nguy hiểm, gần kề với khoa pháp môn huyền bí và tà môn tả đạo.

Những thần linh ấy phải chăng là những sự bịa đặt cổ truyền và vô căn cứ? Không, tôi phải nh́n nhận rằng trong những cơi giới bí ẩn của thiên nhiên, có những sinh vật không phải là loài người. Một lư luận giản dị bằng cách so sánh có thể đưa đến kết luận đó. Cũng có thể là trong hàng ngũ những sinh vật vô h́nh đó, có những loại hung ác, tà bậy, cũng như có những loại hiền ḥa và tốt lành. Một vấn đề nữa là xác định xem những thần linh đó có thể làm những việc phi thường chăng như là phù thủy đă tuyên bố. Tôi không thể giải đáp vấn đề đó ngay tại chỗ.

Tôi có ư định nghiên cứu những khía cạnh của khoa pháp môn chính hiệu. Đó là kết quả đầu tiên và lạ lùng mà tôi đă gặt hái trong chuyến du hành sang Ai Cập.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 367 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 12:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NIỀM AN TĨNH CỦA

 THÁNH ĐỊA ABYDOS

CHƯƠNG SÁU

 

Trên bảy ngàn năm trước khi đức giáo chủ Mahomet đem cho những bộ lạc du mục xứ Ả Rập cái đức tin nơi một đấng thượng đế hoàn toàn siêu linh, th́ xứ ấy đă từng có một nền tôn giáo cổ thờ những thần tượng không lồ bằng đá mà về sau đức Mahomet chủ trương phải dẹp bỏ. Tuy vậy những tín đồ ưu tú nhất của nền tôn giáo cổ xưa đó thật ra cũng chỉ tôn sùng một vị thượng đế như đức Mahomet đă khởi xướng. Sự tín ngưỡng của họ không phải chỉ là tôn thờ thần tượng mà thôi.

Những nhà Ai Cập học uyên bác ngày nay không thể biết nhiều hơn về một tôn giáo thuộc về tiền sử có rất ít tài liệu đến nỗi không ai có thể vén tấm màn bí mật của nó, và người ta chỉ c̣n đưa ra những giả thuyết về những nhân vật và những sự việc xảy ra vào một thời kỳ quá khứ xa xăm như thế.

Tại một vài nơi ở Ai Cập, những đến thờ cổ xưa và những ngôi đền Hồi Giáo ở gần sát bên nhau, chẳng hạn như tại Louqsor. Về điểm này, xứ Ai Cập cho ta thấy một sự tương phản lạ lùng. Đă bao lần những đoàn kỵ binh hùng dũng của đạo binh xâm lăng Ả Rập đă từng cắm ngọn cờ xanh màu lục của đấng tiên tri khắp xứ Ai Cập. Thời gian trôi qua, ngọn cờ màu lục đă có lúc chuyển qua các ngọn cờ màu hồng, màu trắng, màu xanh dương, rồi lại tái xuất hiện. Nhưng trong cái bối cảnh ở tận đằng sau, vẫn c̣n rên rỉ tiếng c̣i yếu ớt trong những ngôi đền cổ.

Xứ Ai Cập không thể làm mất đi những dấu vết của nền tôn giáo cổ của họ. Dĩ văng, giống như con chim phụng hoàng, luôn luôn xuất hiện th́nh ĺnh trước mắt ta do công tŕnh đào xới của các nhà khảo cổ. Những di tích thần tượng bằng đá nhắc lại những thời đại cổ xưa, mà người đời không c̣n biết đến nữa.

Tuy nhiên, cái ranh giới giữa dĩ văng và hiện tại vẫn c̣n mơ hồ. Những người nhạy cảm đều đồng nhận thấy rằng cái bầu không khí cổ thâm nghiêm cùng sự tín ngưỡng đáng quư của những dân tộc biệt tích đó vẫn c̣n phản phất một cách sự thật và đè nặng lên xứ này. Nếu những ngôi đền cổ của họ ngày nay chỉ c̣n là những di tích hoang tàn, sụp đỗ, làm nơi trú ngụ của những loài dơi vỗ cánh bay lượn trong đêm tối, nếu ở đó nay chỉ c̣n một vài xác chết đă bị moi ruột, được những nhà chuyên môn thời cổ dùng chất hương liệu ướp xác và tẩm liệm để giữ ǵn nguyên vẹn cho đến bây giờ, th́ dù sao vong hồn của họ cũng c̣n phản phất không xa những chốn đền đài cổ kín mà xưa kia họ đă từng quen thuộc. Cái mănh lực, quyền uy của người chết vẫn c̣n tồn tại ở Ai Cập một cách bền bỉ hơn bất cứ ở xứ nào mà tôi được biết.

Cái dấu vết tinh anh tế nhị đó, tôi lại có dịp nhận thấy khi tôi ngồi xếp bằng ở một chỗ kín đáo bên trong một dăy hành lang nhiều cột trong ngôi đền Seti ở Abydos. Những h́nh tượng lạ lùng nh́n tôi hoặc biểu dương các tư thế trên vách tường chung quanh. Cái ấn tượng mạnh mẽ của quá khứ xâm chiếm lấy tâm hồn tôi và đưa đến trước mắt tôi những linh ảnh của một thời đại đă bị xóa mờ trong dĩ văng.

Tôi nh́n thấy một cách vô ư thức những đám rước cổ xưa đi vào đền và tiến bước một cách nhịp nhàng vào những nơi thánh điện. Tôi cản thấy cái quyền uy của những vị tăng lữ kiêm pháp sư thời cổ đă từng làm cho Abydos trở thành một trung tâm tôn thờ thần Osiris, vị thần mà họ h́nh dung là đội một cái măo có ba ngấn. Những lời cầu nguyện của họ đă phóng ra những tiếng vang dội đến tận trời xanh và từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Sự hiển diện im lặng và huy hoàng của một đấng thần linh cao cả bắt đầu bao trùm lấy tôi và làm cho tôi ngây ngất. Dưới đôi cánh che trở của người, tôi thấy rằng cuộc đời thế tục của tôi với những dục vong lăng xăng của nó, bắt đầu mở dần và biến mất như cát trôi qua kẽ ngón tay. Vào thời trước, Strabon đă viết:

- Tại Abydos, người ta thờ thần Osiris, nhưng trong ngôi đền này th́ không một nhạc công nào được phép dùng nhạc khí như ống sáo hay đàn dây để mở đầu những nghi lễ cúng tế thần theo nghi thức thông thường trong những cuộc hành lễ tôn giáo.

Sự an tĩnh toát ra từ những vách tường trắng của gian pḥng này, một niềm an tĩnh thần tiên mà thế giới bên ngoài không biết được và không thể hiểu. Không phải trong sự náo động ồn ào mà người ta t́m thấy trong những giờ phút tốt đẹp của đời ḿnh, chỉ khi nào sự an tĩnh từ từ lướt nhẹ vào tâm hồn ta, ta mới có được sự hợp nhất thâm thúy với hạnh phúc, minh triết và quyền lực thiêng liêng.

Tôi ngồi một cách thoải mái trong một góc tường, có lẽ giống như một vị tăng lữ thời xưa, một trăm thế hệ trở về trước, và để cho cái ảnh hưởng êm đềm của bầu không khí chung quanh thấm nhuần vào người tôi như một giấc mơ. Thật là một điều kỳ diệu mà cảm thấy ḿng cô lập trong giây lát, quên đi tất những kết quả mà sự văn minh tiến bộ đem đến cho ta. Quên đi sự ích kỷ cố hữu của thế nhân, những sự hiểu lầm không tránh khỏi, những thù ghét vô lư, những sự ganh tị đắng cay nó sẽ ngẩng đầu lên như con rắn để phun nọc và mổ vào ḿnh ta, khi ta trở về với cơi thế tục vô minh hắc ám! Tôi tự hỏi: "tại sao người ta phải trở về đấy nhỉ?"

Sự cô đơn dường như là một điều bất hạnh đối với chúng ta, nhưng một sự minh triết thâm sâu dạy cho ta biết nh́n nó như một ân huệ. Chúng ta phải vượt lên đỉnh núi cao tột của những điều mơ ước và hăy tập quen sống trong sự cô đơn. Bởi v́ chúng ta muốn t́m thấy sự sống tâm linh giữa đám đông người, ta sẽ thấy ǵ? Linh hồn không có ở đó. Nếu ta muốn t́m chân lư hay sự thật, ta chỉ thấy có sự hư giả, dối trá.

Sự ấm áp vốn ngự trong tâm hồn. Người ta có thể trăi qua một buổi dạ hội trong một pḥng khách lớn, giữa một nhóm độ ba bốn người, và vẫn thấy ḿnh cô độc như ở trên băi sa mạc Sahara. Những thân h́nh có thể ngồi lại gần nhau, những tâm trí họ vẫn cách biệt muôn trùng, và mỗi người vẫn thấy ḿnh cô độc. Có người mời ta đến nhà v́ phép xă giao bắt buộc, theo những lề lối thông thường, chúng ta đến nơi nhưng chủ nhà không có ở đó để tiếp ta. Y chỉ để lại đó có cái xác không hồn, v́ biết rằng giữa tâm hồn ta với y có một vực quá sâu thẳm để có thể lấp bằng. Làm quen với một người như thế, thà rằng đừng làm quen nữa c̣n hơn! Những ǵ thượng đế đă phân ly, ngăn cách, th́ con người chớ khá kết hợp lại! 

Tôi đă lên dường để t́m sự bằng an của cơi trời, một cơi giới bao la mà những tin tức thời sự của trần gian không hề lọt vào. Tại sao ta không chịu sống cô đơn và nhận lấy những ân huệ tốt lành của một cuộc đời ẩn dật, thoát ly khỏi những điều phiền năo vô ích, ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch như tại ngôi đền Abydos này?

Chúng ta thường khinh rẻ những người bỏ cuộc đời thế tục để đi t́m một đời sống cao thượng hơn, trong khi mà sự ẩn dật của họ chỉ có mụch đích là sẽ trở lại để truyền cho người thế gian một vài điều tốt lành. Tôi nhớ lại lời cam kết long trọng của tôi với những bậc mà tôi kính trọng, tôi biết rằng sự trở về của tôi là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên điều này không làm cho tôi lo buồn, v́ tôi cũng hiểu rằng bao giờ tôi chán nản cuộc đời trần gian, tôi lại có thể trở về với cái nguồn gốc thâm trầm của bản chất tâm linh tôi và lại t́m thấy sự mát mẻ của tâm hồn, ung dung tự tại, bằng an và hạnh phúc.

Thật vậy, trong sự im lặng thiên liêng đó từ trong nội tâm của tôi, tôi có thể rơ ràng nghe tiếng nói của Thượng Đế, cũng như trong cái im lặng thâm trầm của ngôi đền Abydos tôi có thể nghe những tiếng yếu ớt hơn của những đấng thần minh. Khi ta sống với ngoại cảnh, ta sống giữa những h́nh bóng hư ảo và những sự băn khoăn, ưu phiền, nhưng khi ta hướng vào bên trong, ta sẽ thấy những chân lư siêu việt và những niềm phúc lạc trường cửu.

Chúng ta đă mất cái nghệ thuật ngồi một ḿnh, chúng ta không c̣n biết phải làm ǵ trong những giờ phút cô đơn. Chúng ta không biết t́m hạnh phúc trong cái kho tàng thầm kín của ḷng ta, chúng ta phải bỏ tiền ra để mua lấy sự tiêu khiển từ bên ngoài, hoặc trả tiền thù lao cho những kẻ đem cho ta một thú vui giả tạm trong chốc lát. Không những chúng ta không biết ngồi một ḿnh, mà chúng ta c̣n không biết giữ im lặng. Nhưng nếu chúng ta biết ngồi im một chỗ trong một thời gian ngắn và sử dụng tâm trí theo một phương pháp nhất định, chúng ta sẽ thu hoạch được một sự minh triết thâm sâu đáng kể, và đem cho tâm hồn ta một sự bằng an tuyệt vời.

Tôi ngồi suốt như thế trong suốt hai tiếng đồng hồ, thời gian trôi qua, tiếng kim đồng tay vẫn chạy đều vọng vào tay tôi, tôi lại mở mắt một lần nữa. Tôi nh́n quanh, những cột trụ lớn và chắc của gian pḥng đỡ lấy cái trần nhà dầy đặc. Những tia nắng xuyên qua những lỗ hở trên nóc chiếu vào pḥng làm nổi bậc lên những h́nh tượng các vị thần chạm trổ trên vách. Người ta thấy một vị vua Pharaon đứng chiêm ngưỡng một vị thần được tôn sùng vào thời đó hoặc được dắt trước tượng thần Osiris. Ngoài ra, c̣n có những loạt hàng chữ ám tự khắc trên vách, ư nghĩa rất bí hiểm và khó đối với người thường.

Người ta thấy ở khắp nơi h́nh ảnh của vua Pharaon đang chiêm bái, dâng hương và nhận lănh ân huệ của các đấng thần minh. Trong một thánh điện đặc biệt, không dành riêng cho sự thời phượng một đấng thần linh nào nhất định, có nhiều vị thần của Ai Cập được tôn sùng. Mỗi vị có một bàn thời riêng, thời h́nh tượng hoặc vẽ hoặc tạc trên đá, nhưng tựu trung th́ thần Osiris giữ một ưu thế tuyệt đối và một cấp bậc cao hơn tất cả. Bảy nơi thánh điện xây bằng những tản đá lớn được dành cho các vị thần Horus và Isis, Ptah và Harakht cùng những đấng thần minh khác.

Nữ thần Isis mang tấm màn thưa che mặt, tức nữ thần Minh Triết, được h́nh dung tại đây với vẻ hiền từ của một đức hiền mẫu, đưa cánh tay mặt ra đặt trên vai của vua Pharaon sùng tín. Một bên ngài là chiếc thuyền bát nhă, giữa thuyền có đặt một bàn thờ chạm h́nh hoa sen, ḍng nước dợn sóng sẵn sàng đưa nữ thần lên tận cảnh giới Thiên Đường cực lạc là nơi cư ngụ của các đấng thần minh, các vị nữ thần và những người trần gian được các ngài ban ân huệ. Trước cảnh tượng này, người du khách sẽ ngạc nhiên tự hỏi sao người cổ Ai Cập lại có thể quá ngây ngô để chấp nhận những sự tin tưởng đó, những vị thần nay đă hoàn toàn biệt tích và những con thuyền bát nhă linh thiêng chở các đấng ấy lên Trời. Thật ra những chiếc thuyền ấy chỉ là những biểu tượng, yếu tố của một thứ ngôn ngữ huyền bí mà các đạo gia ưu của thời xưa hiểu được dễ dàng nhưng thế giới hiện đại không thể nào hiểu nổi. C̣n những đấng thần minh, đó không phải chỉ là những điều hư giả. Trong cái vũ trụ vô biên vô tận của Thượng Đế, có những cảnh giới dành cho những nhân vật khác hẳn và tiến hóa cao hơn loài người. Nếu trải qua thời gian tên họ và h́nh dáng của những vị ấy tiến hóa và thay đổi, th́ tính chất căn bản của họ vẫn giữ nguyên vẹn, bất biến.

Tôi đồng ư với Plutarque khi ông ta nói rằng: "Chỉ có bấy nhiêu vị thần chung cho tất cả mọi dân tộc khác nhau, dù là dân Hy Lạp hay dân tộc dă man cũng vậy. Cũng như mặt trời, mặt trăng, các bầu tinh tú, trời cao, đất rộng, biển cả là của chung của muôn loài, th́ những đấng thần minh cũng là sở hữu chung của tất cả mọi người, dẫu rằng mỗi quốc gia hay dân tộc đặt cho các đấng ấy những cái tên khác nhau."

Nếu những đấng ấy lọt ra ngoài tầm nhăn quang của chúng ta, công tŕnh của họ vẫn không phải là đă chấm dứt. Họ hoạt động trên những cơi vô h́nh mà chúng ta không nh́n thấy, nhưng chúng ta vẫn ở trong ṿng ảnh hưởng của họ. Họ luôn luôn ḍm ngó đến bầu thế giới được giao phó cho họ săn sóc chăm nom. Họ vẫn tiếp tục kiểm soát, điều khiển sự tiến hóa của nhân loại, dẫu rằng họ không c̣n xuất hiện dưới thế gian. Tôi tin nơi các đấng thần minh, cũng như người cổ Ai Cập. Tôi cho các đấng ấy là một tập đoàn gồm những bậc siêu nhân loại, có sứ mạng trông nom điều khiển vận mạng, và d́u dắt những hoạt động chính yếu của các dân tộc, và sau cùng, hướng dẫn từng cá nhân và từng sự việc thế gian đi đến cứu cánh hoàn hảo và toàn diện.

Bảy thánh điện trong ngôi đềnAbydos đă chứng minh người xưa đă từng dùng lửa và nước, dâgn hương và có những nghi thức lễ bái cầu nguyện. Những cuộc hành lễ này có tính cách thời h́nh tượng hoặc có tính cách tâm linh tùy theo quan niệm và ư đồ của những người hành lễ. Người nào cho rằng những nghi thức cúng tế bề ngoài là đủ thay thế cho đạo đức, rơi vào sự mê tín dị đoan. Người nào dùng nghi thức lễ bái như những biểu tượng để nhắc nhở, khiêu gợi ḷng sùng tín và ḷng hy sinh mà y muốn hiến dâng suốt đời cho đấng Tạo Hóa, sẽ tăng tiến đạo hạnh trong nền tôn giáo chân chính. C̣n vị tăng lữ dùng những nghi lễ của khoa pháp môn cổ truyền, th́ gánh lấy một trách nhiệm rất lớn, v́ y có thể kêu gọi đến những mảnh lực vô song thuộc về quyềnh năng của ác quỷ hay của Thiên Thần. Kẻ phàm tục không hề được phép đột nhập vào nơi thánh điện tôn nghiêm này, mà những bàn thời thếp vàng lóng lánh hồi thời cổ xưa, nay đă biệt tích. Trong phần nhiều những đền cổ Ai Cập mà chỉ có giai cấp tăng lữ là đóng vai tṛ cốt yếu. Những vị tăng lữ này đă từng tranh thủ và chiếm giữ uy quyền trong lúc thhịnh thời, sau cùng đă mất hết cả ảnh hưởng đối với dân chúng khi nền tôn giáo cổ bắt đầu suy tàn.

Thời gian đem đến với nó những sự biến thiên lạ lùng, chiếc ḥm đá của nhà vua Pharaon sáng lập ra ngôi đền này, cổ quan tài đựng xác ướp của vua Seti, ngày nay đang nằm ở cách Abydos trên ba ngh́n dậm đường, trong một cổ tàng viện ở giữa thành phố Luân Đôn náo nhiệt phồn hoa. Tôi nghĩ rằng nếu thi hài nhà vua này được chôn sâu hơn độ ba mươi thước nữa dưới ḷng đất, th́ có lẽ xác ướp của ông ta đă tránh khỏi cái lộ tŕnh từ Ai Cập sang Anh Quốc.

Tôi đến ngồi dưới bóng mát của gian pḥng có nhiều cột. Tục truyền rằng chính Abydos là nơi mà Osiris, bậc thánh nhân thời cổ Ai Cập, được tẩm liệm và chôn cất trong nghĩa địa của nhà vua Thinis, một thành phố ngày xưa được dựng lên ở tại đó nhưng nay đă biệt tích. Vua Neferhotep cho biết rằng ông đă khám phá ra Abydos trong t́nh trạng điêu tàn khi lên ngôi vua Pharaon. Ông cho biết rằng ông đă sưu tầm trong thư viện thành Heliopolis để t́m ra những tài liệu nói về ngôi đền Osiris ngày xưa được dựng lên ở Abydos. Ông nói thêm rằng sau khi nghiên cứu những tài liệu cổ xưa ấy, ông đă có thể phục hồi lại những nghi lễ đă mất. Những v́ vua kế nghiệp ông sau đó đă dùng tài liệu này để sửa sang lại những chỗ hoang tàn, xây cất lại ngôi đền và cất thêm nhiều kiếntrúc mới chung quanh. Như thế, những đền đài cổ đă được dựng lên trong thành Thinis, nhưng thời gian đă tàn phá tất cả. 

Trong thời kỳ sơ khai của xứ cổ Ai Cập, những nghi lễ huyền bí của Orisis là một nghi thức chính đại của nến tôn giáo cổ, và người ta thực hành những nghi lễ này trước tiên tại Abydos. Bởi đó, nơi này, ngày xưa là một trong những thánh địa thiên liêng nhất. Tôi hiểu rằng chính cái bầu không khí cổ xưa đó hăy c̣n phảng phất đâu đây và gây cho tôi một ấn tượng sâu xa, trong khi tôi vẫn dửng dưng đối với những nghi thức trịnh trọng mà người ta vẫn thực hành hằng ngày trong những ṭa thánh diện rất tráng lệ nhưng kém cổ xưa của vua Seti dựng lên. Lịch sử buổi sơ khai của thánh địa Abydos có liên hệ mật thiết với tiểu sử của Osiris và thục lùi trong vực thẳm của thời gian về thời kỳ tiền sử của Ai Cập, một cái dĩ văng xa xăm không c̣n dấu vết trước cả thời kỳ xuất hiện của các v́ vua Pharaon, nghĩa là từ thuở ban đầu. Đó là cái thời kỳ xa xưa mà các đấng thần minh vẫn c̣n chưa biệt dạng khỏi tầm nhăn quang của con người, cái thời kỳ mà theo các sử gia Ai Cập, những bậc Thánh Vương hăy c̣n cầm quyền cai trị dân gian.

Tôi nghĩ rằng: Thật là huyền diệu thay! Những luồng từ điển huyền bí vẫn tiếp tục rung động một cách thường xuyên ở tại đây, luôn luôn sống động và duy tŕ cái bầu không khí thần diệu của thánh địa Abydos từ thời tiền sử, mà những tâm hồn nhạy cảm mà có thể cảm xúc được.

Chính tại đây, Abydos, là nơi được thành lập ngôi đền chính và đầu tiên để thời thần Osiris tại Ai cập. Nhưng Osiris là ai? Truyền thuyết và huyền thoại nói rằng đó là một nhân vật bị sát hại và phân thây, nhưng về sau những mảnh thi hài được chấp nối lại làm cho người sống lại.

Tôi đă thiền định rất lâu để t́m hiểu vấn đề này và đợi câu trả lời ... Lời giải đáp đă đến với tôi từ cái im lặng chôn sâu tự muôn đời trong dĩ văng:

Hồi thời kỳ Atlantide, một vị Thánh Vương đă tiên liệu cần phải xây dựng một nơi cư trú mới cho những người đạo đức tâm linh trong giới thế hệ trẻ, và đă di cư cho họ về hướng đông, trên một vùng đất gọi là xứ Ai Cập ngày nay. Vị Thánh Vương ấy đă biến hóa rất cao đến một tŕnh độ siêu nhân loại, tức tŕnh độ của các bậc thần tiên, bởi đó ngài không những là một nhà lănh đạo cai trị dân gian như người ta hiểu theo lối thường t́nh của thế nhân, mà người ta c̣n suy tôn ngài như thầm thánh. Ngài mới sắp đặt cuộc di cư cho những phần tử ưu tú đó ra khỏi lục địa, trong khi châu Alantide đang đạt tới mức văn minh tột đỉnh, v́ những đấng Thần Minh đă bắt đầu chuẩn bị những vùng đất mới từ lâu trước khi châu Atlantide bị thiên tai và biệt tích.

Như thế, không để cho châu Atlantie sụp đổ, nhiều đoàn người trong số những phần tử u tú nhất bắt đầu tản cư. Những người ở miền tây châu ấy di cư sang vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ châu, c̣n những người thuộc các đế quốc miền đông châu Atlantide di cư sang Phi Châu, và đặt nền tảng cho văn minh Ai Cập.

Những người ấy sửa soạn tàu bè, trương buồm lướt sóng trực chỉ hướng đông. Vùng này đối với họ hăy c̣n xa lạ, họ đến đó khai phá đất hoang và thiết lập nhiều vùng thuộc địa mới trên những điểm khác nhau dọc theo miền duyên hải Âu Phi. Đoàn người do sự điều khiển trực tiếp của Osiris đặt chân lên vùng đất Ai Cập thời tiền sử, họ dừng chân trên các vùng bờ biển trước khi đi ngược ḍng sông Nil, vượt qua ba ngọn Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx, những ngôi kiến trúc và tượng đá này đă được xây cất và bỏ sót lại do đoàn người Atlantide đầu tiên đổ bộ lên Ai Cập. Sau cùng Osiris mới dừng chân tại đó, ở một vùng cách không xa vị trí thành Abydos hiện tại. Đoàn người di cư này thấy miền Bắc Ai Cập đă có một giống thổ dân bản xứ cư ngụ, họ được một nhóm dân này tiếp đón một cách hiền ḥa, và v́ đoàn người Atlante có một nền văn minh cao hơn, nên được dân bản xứ chịu khuất phục và chịu điều khiển. Do đó mới phát sinh ra nền Ai Cập đầu tiên.

Trước khi từ giả dân chúng, Osiris đă đặt ra những nghi lễ tôn giáo thuộc về Huyền Môn mà ngài để lại cho dân Ai Cập như một cái di sản dài hạn, để duy tŕ tên tuổi, công nghiệp và giáo lư của ngài. Như vậy dân Ai Cập thời tiền sử đă có một nền văn minh và văn hóa trước khi thành phố Luân Đôn mới ngoi lên giữa băi śnh lầy nước đọng. Nhiều thế kỷ trôi qua, đă đến lúc mà người ta phải phục sinh và chấn chỉnh lại nền tôn giáo cổ Osiris. Khi đó mới xuất hiện một bậc giáo chủ, một vị thánh nhân danh hiệu là Thoth, ngài lập ra thành Sais một trung tâm mới để dạy khoa Huyền Môn của Osiris cho những tập đoàn dân bổ xứ của Ai Cập thời tiền sử.

Nhưng c̣n chuyện huyền thoại về việc Osiris bị sát hại do đâu mà ra? Tôi không thể t́m ra một câu trả lời trực tiếp. Bởi vậy tôi dành cho nó một cơn thiền định sau này.

Tôi đành đứng dậy sửa soạn ra về. Tôi bước qua những tản đá lớn nhỏ không đều mà mặt đá đă ṃn từ lâu. Ngày xưa, những mặt đá này có chạm trỗ bông hoa rất đẹp, nhưng bây giờ thời gian đă xóa mờ tất cả. Tôi c̣n nh́n một lần cuối cùngnhững cột trụ to lớn hùng vĩ, đầu cột trụ nhô lên cao, đă từng nâng đỡ suốt bao nhiêu thế kỷ những tản đá lớn chạm trỗ trên nóc, và nay vẫn c̣n vương ḿnh đỡ lấy nóc đền một cách hùng dũng, oai nghi. Thế là cuộc thăm viếng của tôi ở ngôi đền cổ kết thúc.

Đó là thánh địa Abydos, được coi như là nơi an nghỉ cuối cùng của bậc Thánh Nhân Osiris, nhưng thật ra th́ đó là ngôi đền đầu tiên để làm lễ điểm đạo cho các vị môn đồ của phái Huyền Môn thời cổ Ai Cập.

Tôi đă t́m được một nơi thích thú, v́ tôi biết rằng cái niềm an tĩnh thiêng liêng bất diệt của nó đă xâm chiếm lấy hồn tôi như một bàn tay vô h́nh.

Nếu trong những giờ phút qua mau của cuộc đời, tôi đă có đôi khi sống được dài khoảnh khắc bất diệt mà tôi hằng nhớ đời đời không quên, th́ chỉ khi đó tôi ư thức rằng tôi đă không sống một cách vô ích. Ấy là những giờ phút mà tôi đă trải qua tại Abydos.

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 368 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 12:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

LỄ ĐIỄM ĐẠO HUYỀN BÍ TRONG ĐỀN CỖ AI CẬP

CHƯƠNG BẢY

 

Câu trả lời mà tôi t́m kiếm để giải đáp sự bí hiểm của câu chuyện huyền thoại về cái chết của Osiris, tôi đă thấy được sau khi đi ngược ḍng sông Ni lđể khảo cứu về ngôi đền nữ thần Hathor ở Denderad. Ngôi đền này rất lớn và được giữ ǵn nguyên vẹn, nhờ nó bị hoàn toàn chôn vùi dưới lớp cát mịn và nóng của sa mạc suốt hơn một ngh́n năm. Từ hướng Bắc, tôi trèo lên một cầu thang rất hẹp và đă ṃn. Dọc đường thỉnh thoảng tôi ngừng lại để nh́n xem, dưới ánh đuốc cầm nơi tay, những cảnh tượng chạm trổ trên vách tường. Đó là một cảnh tượng một đám rước lễ quan trọng nhất của đền Denderad vào lúc đầu năm, chính vua Pharaon đích thân dẫn đầu cuộc diễn hành. Các vị tăng lữ, vị tăng lữ, tư tế của phái Huyền Môn, những người cầm cờ nối tiếp nhau đi trên vách tường cũng như họ đă từng diễn hành như thế hồi thuở sanh tiền, và đi từ dưới lên trên chính cái cầu thang này. Lên khỏi cầu thang, tôi đă ra khỏi bóng tối để ra chỗ đầy ánh nắng chói ḷa và xuyên qua những tản đá khổng lồ của nóc đền, tôi đến trước một thánh điện nhỏ đứng cô lập một ḿnh trong một góc của nốc bằng. Nóc đền được nâng đỡ bằng những cột trụ lớn có chạm h́nh nữ thần Hathor.  

Tôi bước vào và nhận ra đó là một thánh điện mà xưa kia người ta dùng để hành lễ điểm đạo theo khoa Huyền Môn của Osiris cho đến thời đại các vị vua Ptolémée. Trên tường, những h́nh chạm nổi phô diễn đức Osiris nằm trên giường, chung quanh là những người trợ tá để giúp đỡ những việc vặt và những ḷ hương trầm. Những hàng chữ ám tự và tranh ảnh thuật lại lịch sử sự chết và sự phục sinh của Osiris, và những chữ khắc trên tường ghi lại những lời cầu nguyện từng giờ suốt một đêm mười hai giờ.

Tôi ngồi xuống đất, tức là nóc bằng của ngôi đền lớn, và bắt đầu thiền định về câu chuyện huyền thoại cổ xưa. Sau khi đă ngồi yên khá lâu trong cơn trầm tư mặc tưởng, tôi bắt đầu t́m ra manh mối sự thật mà trải qua nhiều thế kỷ, nó đă biến thành một câu chuyện huyền thoại ly kỳ: Osiris bị phân thây và sau đó được ráp lại từng mảnh.

Do đâu mà tôi có cái ch́a khóa của bài toán đố bí hiểm này? Do một sự nhớ lại th́nh ĺnh. Tôi nhớ lại lúc tôi ngồi trong Vương Cung bên trong Kim Tử Tháp lớn, khi mà từ trong bóng tối dầy đặc, hiện ra cái linh ảnh cho tôi thấy hai vị Đạo Trưởng Ai Cập đă cao niên, một trong hai vị này đă làm cho thể xác tôi mê thiếp đi và đưa linh hồn tôi vào một trạng thái ư thức rơ ràng. Trên thực tế, thể xác hôn mê của tôi lúc đó đă hoàn toàn vô tri giác, sự sống chỉ c̣n tồn tại là do một sự hô hấp vô ư thức, c̣n linh hồn th́ đă thoát ra ngoài. Tôi chỉ là một người chết, mà linh hồn đă từ bỏ thể xác. Nhưng, khi kinh nghiệm ấy chấm dứt, tôi đă hồi sinh trở lại và trạng thái chết giả cũng không c̣n. Phải chăng đó quảù là một sự phục sinh hẳn ḥi, một sự tái sinh trở lại đời sống phàm trần sau khi đă nh́n xem cơi giới bên kia? Phải chăng đó là một sự sống trong cơi vô h́nh?

Tôi đứng dậy nh́n xem một lần nữa những h́nh ảnh trên tường để xác định lại điều ấy. Osiris nằm duỗi thẳng thân ḿnh, dường như đă chết, xem giống như một xác ướp và liệm vào ḥm. Tuy nhiên, tất cả những chi tiết cho thấy sự chuẩn bị một nghi lễ dành cho người sống chứ không phải cho người chết: Thể xác hôn mê, những vị tăng lữ hành lễ, những b́nh lư hương để làm cho mê thiếp đi.

Những cuộc lễ điểm đạo này luôn luôn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn không chừng, tŕnh độ điểm đạo càng cao th́ cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vụ tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc hành lễ này.

Đó là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ văng. Nó có ư nghĩa ǵ? Sự Sát Hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức Huyền Môn này.

Lối kiến trúc các ngôi đền cổ đều theo một kế hoạch song đôi, mỗi ngôi đền đều có hai phần, một phần dành cho những hoạt động tôn giáo thông thường, một phần dành cho những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn. Phần sau này hoàn toàn được ngăn ra thành một chỗ riêng biệt trong đền.

Bằng phương pháp thôi miên, gồm có việc xử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân ḿnh, cùng với việc xử dụng một chiếc đủa thần, người thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết. Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vô h́nh mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo có thần nhăn mới nh́n thấy được. Như vậy mặc dù mọi hoạt động thể xác đă ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại. Tất cả ư nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn không có sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lư đó bằng một phương pháp rơ ràng và thật tế nhất, nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân ḿnh mọi diễn biến khách quan của sự chết, bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cơi giới bên kia. Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái ḥm đựng xác ướp có vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngoài, nắp ḥm được đóng chặt và khóa lại cẩn thận. Xét về bên ngoài, th́ y là người đă chết!

Nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp ḥm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đó là ư nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nói rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris không khác ǵ hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử Huyền Môn sau cuộc lễ Điểm Đạo.

Ṭa thánh điện mà tôi đang quan sát, ngày xưa đă từng là nơi chứng kiến bao nhiêu những cuộc hạ sát và những cuộc phục sinh như đă diễn tả ở trên. Hồi thời đó, trong pḥng có một cái giường và những vật liệu cần thiết cho cuộc điểm đạo. Khi người thí sinh đă trải qua trạng thái đồng thiếp và sắp sửa được đánh thức dậy, người ta chở y đến một nơi thoáng khí để cho những tia nắng đầu tiên của mặt trời mọc lúc b́nh minh rọi thẳng vào gương mặt c̣n mê man của y.

Trong những thời đại cổ xưa nhất, nhiề vị tăng lữ cao cấp nhất và tất cả những vị tư tế ở các đền thờ bên Ai Cập đều có sự hiểu biết thâm sâu về những điều huyền bí của các khoa thôi miên và từ điển, và có thể đặt những người thí sinh vào một cơn đồng thiếp thâm sâu đến nỗi dường như họ đă chết. Những vị tăng lữ thượng tọa c̣n có thể làm hơn thế nữa, hơn cả những nhà thôi miên hiện đại, v́ những vị ấy biết phương pháp làm cho linh hồn người thí sinh vẫn thức tỉnh trong khi thể xác của y nằm trong cơn đồng thiếp, làm cho y thực hiện được những kinh nghiệm siêu phàm, mà y sẽ nhớ lại được sau khi y tỉnh dậy và trở về trạng thái b́nh thường.

Bằng cách đó, họ có thể đem người thí sinh sự hiểu biết về tính chất của linh hồn, và khi bắt buộc linh hồn y tạm thời rút lui ra khỏi thể xác, họ làm cho y nhận thức được sự hiện hữu củ cơi thế giới bên kia cửa Tử, mà những h́nh ảnh trên ḥm được xác ướp có vẽ những biểu tượng đầy ư nghĩa. Bởi đó, người cổ Ai Cập khắc trên nắp những cổ quan tài bằng đá, hoặc vẽ bằng màu trên những ḥm đựng xác ướp, hoặc tô điểm ngoài b́a những kinh sách tôn giáo của họ những h́nh chim dị kỳ, bay ra khỏi hoặc đứng trên cái xác ướp. Đó là một  con chim có đầu người và tay người, thường được h́nh dung một tay cầm một cánh buồm, tượng trưng cho hơi thở, và tay kia cầm một h́nh thập tự cuốn tṛn, tượng trưng cho sự sống. Những biểu tượng này dù khắc trên đá hay vẽ trên giấy, đều ngụ ư tượng trưng dạy cho ta biết rằng ngoài cơi phàm trần vật chất này c̣n có một cơi giới tâm linh. Trong quyển sách Tử Thư (sách của người chết) có chỗ đề cặp đến những người chết, nhưng thật ra đó là nói về những người chết giả, nằm mê trong cơn đồng thiếp, vô tri bất động như ngươi chết thật, và linh hồn đă đi qua một kẻ khác. Đoạn sách ấy đề cập đến cuộc điểm đạo. Cơi giới bên kia đi xuyên qua cơi trần một cách huyền diệu, và những vong linh ở cơi ấy có thể ở gần bên chúng ta. Một từ ngữ khoa học nói rằng trong thiên nhiên vốn không có ǵ mất đi đâu. Khi một người từ bỏ cơi trần, bỏ lại cái thể xác vô tri bất động, linh hồn y lại xuất hiện trên cơi vô h́nh, vô h́nh đối với mắt phàm chúng ta, nhưng hữu h́nh đối với những nhân vật tinh anh trên đó.

Tuy rằng phương pháp điểm đạo này có những đặc tính bề ngoài giống như khoa thôi miên hiện đại, nhưng nó vượt rất xa những phương pháp thôi miên, v́ khoa này chỉ thức động đến chỗ tiềm thức, mà không thể làm cho đương sự có ư thức được sự sinh hoạt trên các cơi giới thâm sâu huyền diệu hơn.

Theo sự tin tưởng của quần chúng, th́ Osiris là một nhân vật đă chịu pháp nạn và bị giết, rồi được phục sinh và chui lên khỏi mồ. Tên của ngài đă trở nên đồng nghĩa với sự hồi sinh, sự bất tử của ngài gây cho mọi người một niềm hy vọng trở nên bất tử y như người sau khi chết.

Hồi thời ấy, người ta đă tin tưởng ở sự bất diệt của linh hồn và ở đời sống bên kia nấm mồ. Người ta cũng tin rằng trong khi con người bước vào đời sống mới đo, những đấng thần minh xét đoán linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y trong quá khứ. Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích dáng, người hiền sẽ được và cảnh thiên đàng hạnh phúc, và hợp nhứt với Osiris. Những điều đó khá thích hợp với quần chúng và đem đến cho những tâm hồn chất phác những viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng. Người ta không nhồi sọ dân chúng với những triết lư thâm sâu hoặc những giải thích tế nhị về tâm lư. Tất cả những huyền thoại hoang đường và chuyện ngụ ngôn b́nh dân phải được hiểu như là những biểu tượng có hàm xúc một ư nghĩa hợp lư và chứa đựng một chân lư thâm sâu. Để duy tŕ cho giáo lư ấy luôn luôn tồn tại trong dân gian, giai cấp tăng lữ trong trong các đền thờ không những chỉ dùng nghi thức lễ bái thờ phượng, mà thỉnh thoảng c̣n tổ chức những buổi tŕnh diễn kịch nghệ công cộng có tính cách tượng trưng dể tŕnh bày cho dân chúng biết lịch sử của Osiris.

Những nghi thức lễ bái và tŕnh diễn công cộng là để dành cho quần chúng v́ nó thích hợp với phần đông, nhưng có c̣n một phần giáo lư thâm sâu hơn và pháp môn huyền bí th́ để truyền thụ cho những người trí thức. Những người Ai Cập có học thức, có văn hóa và những người có giai cấp quư tộc cũng biết rơ điều ấy, nếu họ cảm thấy có khuynh hướng về con đường này th́ họ t́m cách để xin được nhập môn.

Các ngôi đền gồm có những gian pḥng kiến trúc đặc biệt và cô lập một nơi dành cho những cuộc lễ điểm đạo, mà chỉ có những vị tăng lữ ưu tú và chọn lọc mới có quyền hành lễ, những người này được gọi là Đạo Trưởng hay Thượng Tọa. Những cuộc lễ Điểm đạo này được cử hành trong ṿng bí mật và ngoài phạm vi những nghi lễ hằng ngày để chiêm bái các vị thần. Người Ai Cập gọi những cuộc lễ đặc biệt này là những lễ Điểm Đạo Huyền Môn.

Những vị đạo đồ (đệ tử Huyền Môn đă được điểm đạo, Initié) đă từng nói đến tính cách khác thường của những cuộc điểm đạo, không giống như những nghi lễ thông thường. Thí dụ, một vi đạo đồ đă tuyên bố rằng" nhờ những lễ điểm đạo mà người ta biết rằng sự chết không phải là một điều dở mà là một điều hay cho người thế gian". Chính v́ vị đạo đồ ấy đă trở nên một xác chết và đă thu hoạch được những điều lợi ích rất lớn sau cái kinh nghiệm đó. Những bài văn viết bằng chữ ám tự nói về người ấy như là" được hồi sinh", và y có thể thêm vào tên họ của y ḍng chữ này: "Người đă tái sinh hai lần". Trên vài ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ đă phát hiện ra câu này, nó diễn tả tŕnh độ tâm linh của người chết.

Những vị môn đồ chọn lọc đă học được những điều bí mật ǵ trong những cuộc điểm đạo ấy? Điều nay tùy nơi tŕnh độ mà họ đă vượt qua, nhưng đại khái người ta có thể đúc kết những kinh nghiệm của họ thành hai loại kết quả chính, tiêu biểu những ǵ họ đă được tiết lộ cho biết.

Ở những tŕnh độ sơ khai, các thí sinh được hiểu biết về Tiểu Ngă, tức linh hồn con người mà khoa ám tự h́nh dung bằng một "Người chim" nhỏ, do đó họ đă giải đáp được điều bí mật về sự chết. Họ biết rằng người ta chỉ thoát ra một trạng thái sinh hoạt này để bước vào một trạng thái sinh hoạt khác, và sự chết chỉ là của thể xác h́nh hài chứ không tiêu diệt được linh hồn, tức Chân Ngă. Họ cũng biết rằng không những linh hồn c̣n tồn tại sau khi cái thể xác đă mất c̣n tiến hóa lên những cơi giới thanh cao hơn.

Ở những tŕnh độ điểm đạo cao hơn, người thí sinh được biết về Đại Ngă, họ được giao cảm trực tiếp với đấng tạo hóa, nà tiếp ngay với đấng thiêng liêng. Họ nhận được sự giải thích đúng đắn về sự đọa lạc của con người, ngày nay đă xuống quá thấp từ cái trạng thái tâm linh nguyên thủy. Họ được cho biết về huyền sử của châu Atlantide, có liên hệ chặt chẽ với sự suy vong của nó. Kế đó được đưa lần lần lên những cơi thanh cao huyền diệu hơn, cho đến khi họ đạt tới cái ư thức tâm linh cao cả mà con người đă từng có từ thời kỳ nguyên thủy. Như thế trong khi họ tiếp tục con đường hành hương trong thời gian họ thu thập được những kho tàng tân linh quư báu của cơi vô cùng.

Khi tôi thực lại những cảm tưởng du hành của tôi đến điểm này, có lẽ tôi không ra ngoài đề nếu tôi ghi chép nơi đây vài lời diễn tả những sinh hoạt khác trong các đạo viện Huyền Môn thời cổ, do lời tường thuật của một người đă từng sống vào một thời kỳ cổ điển và đă từng họ điểm đạo, ít nhất là ở vào những cấp bậc đầu tiên. V́ y có lời thề nguyền là sẽ không tiết lộ từng chi tiết rơ ràng những ǵ y đă kinh nghiệm trong cuộc điểm đạo, y chỉ có đưa ra những lời giải thích đại cương và những sự ngụ ư mơ hồ. Tuy thế, lời tường thuật này cũng là một văn kiện đầy đủ nhất mà chúng ta được biết của một vị đạo đồ để lại. Vị ấy là Apuleé, được điểm đạo ở cấp bậc đầu tiên của phái Huyền Môn Isis. Tác giả một cuốn sách tự thuật nhan đề Lucius. Trong quyển sách này, tác giả tự thuật lại cuộc đời của ḿnh khi ông ta gơ cửa đền với tấm ḷng nhiệt thành cầu Đạo.

Từ lâu đời, khoa Huyền Môn Ai Cập vẫn được giữ kín và được khép chặt đối với người ngoại quốc. Chỉ trong một thời kỳ về sau này mới có một số ít những người đó được thu nhận và được điểm đạo. Họ luôn luôn tôn trọng lời cam kết giữ ǵn bí mật. Những luật lệ nhập môn đều rất chặt chẽ và nghiêm khắc.

Trong danh sách ấy, Apulée viết:

"Với mỗi ngày trôi qua, sự ước muốn được điểm đạo của tôi càng gia tăng. Tôi tim đến nhiều vị Đạo Trưởng và khẩn cầu người ít nhất hăy bằng ḷng điểm đạo cho tôi. Nhưng vị Đạo Trưởng, có tiếng là người rất cương nghị và áp dụng rất chặt chẽ những luật lệ nghiêm khắc của Đạo, bác bỏ lời thỉnh cầu của tôi với những lời lẽ êm ái dịu dàng, cũng như bậc cha mẹ gạt bỏ những ước vọng điên rồ của con cái hăy c̣n quá non dại. Người trấn an tâm hồn tôi bằng cách đưa cho tôi bằng điều hy vọng là hăy sở cậy nơi một niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Ngươi nói rằng ngày giờ điểm được chỉ định cho mỗi người do mật lệnh của vị Nữ Thần, và ngươi Đạo Trưởng đứng ra làm chủ lễ trong dịp ấy cũng phải do Thiên Ư chọn lựa.

" Vị Đạo Trưởng bảo tôi hăy chờ mật lệnh ấy cũng như mọi người với một tấm ḷng kiên nhẫn sùng kính, và khuyên tôi nên gạt bỏ ḷng nhiệt thành quá đáng cùng mọi người băn khoăn bồn chồn. Trong khi tôi cố tránh hai điều ấy, tôi cũng phải luôn luôn túc trực sẵn sàng để đáp ứng kịp thời khi có lệnh gọi, va đừng tỏ ra xôn xao nóng nảy khi tôi không được lưu ư đến.

"Đó là bởi v́ cửa vào địa ngục và quyền ban sự sống đều ở trong tay Nữ Thần, và chính cuộc lễ điểm đạo được coi như sự chết t́nh nguyện của người thí sinh, có khi nguy hiểm đến tính mạng của y. Bởi đó, Nữ Thần thích chọn những người mà cuộc đời đă sắp tàn, và sắp sửa bước vào cơi Tử, đối với những người ấy, những điều huyền bí nhiệm mầu của Nữ Thần có thể được tiết lộ cho họ một cách an toàn. Do định mệnh thiêng liêng, Nữ Thần bảo đảm cho những người ấy một sự phục sinh mới mẻ, người đặt họ vào chỗ khởi điểm của một giai đoạn sinh hoạt mới. Bởi vậy, trường hợp của con cũng thế, con phải đợi đến khi có lệnh gọi của Thiêng Liêng.

"Ân huệ tốt lành của vị Nữ Thần đă không bỏ rơi tôi sau khi ngài đă bắt tôi phải chịu sự dày ṿ đay nghiến của một sự chờ đợi lâu dài. Nhưng trong ban đêm tăm tối, những mật lệnh rơ ràng của Nữ Thần đă báo cho tôi biết rằng ngày mong ước của tôi đă đến, và ngài chấp nhận những lời khẩn cầu nồng nhiệt của tôi.

"Bằng những lời an ủi khả ái, Nữ Thần đem đến cho tâm hồn tôi một niềm phúc lạc rất lớn, đến nỗi tôi bỏ ngủ thức dậy trước lúc b́nh minh và hối hả đi đến tịnh thất của vị Đạo Trưởng. Tôi vừa đến nơi th́ vị Đạo Trưởng cũng đă vừa bước ra khỏi pḥng, tôi bèn nghiêng ḿnh kính cẩn chào Người. Tôi nhất định yêu cầu Người làm lễ điểm đạo cho tôi với một giọng khẩn thiết hơn trước, như là một điều mà bây giờ tôi có quyền đ̣i hỏi. Nhưng khi vừa thấy tôi th́ người đă lên tiếng trước: "À, hữu phước thay cho con, Lucius, Nữ Thần cao cả đă chiếu cố đến con để ban cho con cái ân huệ thiêng liêng đó! Ngày mà con mong đợi từ lâu, nay đă đến, do lệnh dạy thiêng liêng của Nữ Thần đáng tôn kính, ta sẽ làm lễ điểm đạo cho con được bước vào cửa đạo diệu huyền."

"Khi đó, vị Đạo trưởng cao niên đạo mạo đặt bàn tay mặt của người trong ḷng bàn tay tôi và dắt tôi đến trước cửa Thánh Điện. Sau khi đă long trọng làm lễ khai môn và lễ dâng hương hoa buổi sáng, người mới lấy từ những chỗ bí mật của đền thờ vài quyển sách bút tự viết bằng một thứ chữ lạ kỳ.

"Kế đó, Người bước đến trước Thánh Điện và trong lúc mặt trời c̣n chưa ló dạng, Người dắt tôi đến quỳ dưới chân Nữ Thần. Sau khi đă tiết lộ cho tôi vài đều bí mật, những điều này quá thiêng liêng để có thể nói ra bằng lời, Người mới dặn tôi, trước mặt tất cả mọi người đến chứng kiến cuộc lễ hôm đó, hăy giữ ǵn trai giới trong suốt mười ngày liên tiếp, không ăn thịt loài vật và không uống rượu.

"Tôi tuân theo những lời răn đó một cách chặt chẻ. Sau cùng, đă đến hành lễ điểm đạo, tức ngày tôi hiến dâng cuộc đời tôi cho Nữ Thần. Mặt trời đă ngả về tây, đêm tối đă sắp đến trong khi ấy từ bốn phương xuất hiện rất đông đảo những vị đạo đồ thánh thiện của quá khứ đứng vây chung quanh tôi, mỗi vị đều ban cho tôi những quà tặng theo nghi lễ cổ truyền. Kế đó, sau khi những vị chưa được điểm đạo đă được mời đi ra ngoài, tôi được cho mặt áo mới và vị Đạo trưởng cầm tay tôi để dắt tôi đến giữa thánh điện.

"Qúy vị độc giả hiếu kỳ có lẽ nóng ḷng muốn biết những ǵ đă xảy ra vào lúc đó. Tôi chắc hẳn là muốn tường thuật lại cho quư vị nghe nếu tôi được phép nói, và nếu quư vị cũng được phép nghe. Nhưng lưỡi tôi sẽ tê cứng và tai quư vị cũng sẽ điếc như bị đầu độc nếu tôi vi phạm lời thề để làm thỏa mản sự ṭ ṃ của quư vị. Tuy nhiên chắc hẳn quư vị cũng bị thúc đẩy bởi một ḷng mong ước thanh cao, nên tôi không để cho quư vị phải đợi chờ lâu hơn nữa. Vậy quư vị hăy nghe và tin tưởng, v́ điều tôi nói đây là sự thật. Tôi đă bước đến gần kề địa hạt của Tử Thần, tôi đă đặt chân lên ngưỡng cửa của Âm Ty, tôi đă vượt qua mọi cảnh giới, và rồi tôi đă trở lại cơi trần. Tôi đă nh́n thấy mặt trời chói rạng huy hoàng, giữa lúc đêm tối. Tôi đă đến gần các đấng Thần Minh ở cơi trên cũng như hạ giới, và tôi đă đến chiêm bái các ngài tận mặt. Qúy vị hăy coi chừng: Tôi đă nói ra những điều mà, mặc dầu đă được nghe, quư vị không bao giờ nên biết."

Một năm sau, Lucius đă được điểm đạo ở cấp bậc Huyền Môn Osiris, cao hơn cấp bậc Isis. Trong số ít những người ngoại quốc khác đă được điểm đạo theo khoa Huyền Môn Ai Cập, có Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque và Hérodote.

Trong những tác phẩm của Hérotote, ông đă nhắc đến điều ấy với một sự dè dặt tối đa. Ông đă diễn tả từng chi tiết những buổi tŕnh diễn văn nghệ tượng trưng và những cuộc lễ bái công cộng, nhưng ông từ chối không chịu tiết lộ những điều bí mật bên trong. Ông ấy nói như sau: "Đối với những điều huyền bí đó, mà tôi đă được biết đầy đủ, tôi có lời cam kết phải giữ một sự im lặng hoàn toàn." Sử gia Plutarque đă viết rằng:

"Khi ta nghe nói đến huyền thoại của người Ai Cập về các đấng Thần Minh, những chuyến du hành, sự phân thây, và những chuyện huyền hoặc hoang đường khác nữa, ta chớ nên tưởng rằng tất cả những chuyện ấy đều có thật. Mỗi dân tộc đều có những biểu tượng, khi th́ mờ ám, khi th́ dễ hiểu, để tŕnh bày những điều chân lư bất hủ. Chính bằng cách đó mà ta nên đọc hoặc nghe những chuyện đó với ḷng sùng kính và với một tinh thần triết lư."

Plutarque nói về mục đích điểm đạo ở cấp đẳng Huyền Môn Isis như sau:

"Bằng phương tiện điểm đạo, người thí sinh có thể được chuẩn bị đến mức tối đa để đạt tới sự thông cảm với đấng Tối Cao. Bởi lẽ đó, đền thờ đấng Thiêng Liêng được gọi là Iseion, ám chỉ sự hiểu biết đấng Vô Cùng, bất sinh bất diệt, sự hiểu biết đó có thể đạt được bằng cách điểm đạo nếu người thí sinh đă được chuẩn bị sẵn sàng."

Đó là quan điểm của triết gia Hy lạp Plutarque. Ta hăy nghe nhà hiền triết xứ Syrie tên là Jamblique nói về khoa Huyền Môn Ai Cập mà ông là một vị đạo đồ, như sau:

"Cái tinh hoa và toàn vẹn của mọi đều thiện đều có sẵn nơi các đấng Thần Minh, cái quyền lực đầu tiên và cổ xưa của các ngài cũng là đều sở hữu của các vị tăng lữ ở các đền thờ. Một sự hiểu biết các đấng Thần Minh sẽ phản ảnh lại nơi con người chúng ta, và giúp cho ta tự biết ḿnh. Cái phần Thiêng Liêng nhất của con người, trước tiên được hợp nhất với Thần Minh, về sau lại bị chướng ngại bởi một sự trói buộc của mọi điều dục vọng trần gian và sự kiềm tỏa của định mệnh. Bởi vậy, cần phải xét xem bằng cách nào con người có thể được giải tỏa khỏi những trái buộc ấy. Chỉ có sự hiểu biết về Thượng Đế mới phá tan những sợi dây kiềm tỏa đó. Đó là mục đích của Huyền Môn Ai Cập, làm cho con người nâng cao linh hồn ḿnh để ḥa hợp với Thượng Đế".

Một vị đạo đồ khác là Proclus nói rằng:

"Trong một cuộc điểm đạo ở mọi cấp đẳng Huyền Môn, các dấng Thần Minh cho thấy nhiều khía cạnh của các ngài. Đôi khi người thí sinh thấy xuất hiện trước mặt y một vầng sáng không h́nh thể nhất định toát ra từ các ngài, xem dường thể một vầng hào quang. Có khi vầng hào quang đó khoác lấy h́nh người, có khi khoác lấy một h́nh thể khác. Một vài h́nh thể đó không phải là Thần Minh, và làm cho ta sợ hăi."

Triết gia Platon cũng đả từng được điểm đạo, nói rằng:

"Do hậu quả của lễ điểm đạo thiêng liêng, chúng ta chiêm ngưỡng những linh ảnh giản dị xuất hiện trong một vầng sáng tinh anh, và nhờ được thanh lọc để trở nên tinh khiết, chúng ta được giải thoát được cái xác thân trọng trược, mà từ trước chúng ta vẫn bị dính liền với nó như con ṣ dính trong cái vỏ." Như vậy ông muốn nói rằng mục đích tối hậu của sự điểm đạo Huyền Môn là đưa con ngươi trở về với những nguyên tắc tâm linh mà nhân loại đă mất đi từ lúc nguyên thủy.

Một vị đạo đồ khác nữa là Moise, người Do Thái lai Ai Cập. Sách Tân Ước nói rằng "Moise đă từng giáo dục trong tất cả nền minh triết của Ai Cập." Ư nghĩa của câu này là nền minh triết thâm sâu nhất của xứ Ai Cập đă được tiết lộ cho Moise, điều đó không khác ǵ hơn là sự hiểu biết mà Moise được truyền dạy bởi giáo lư Huyền Môn Ai Cập.

Sách Tân Ước c̣n nói rằng: "Moise phủ kín mặt bằng một tấm màng che". Tính chất tấm màng che như thế nào, th́ đoạn sau này trong sách ấy đă cho ta thấy ư nghĩa của nó:

"Cho đến ngày nay, tấm màng che ấy vẫn phủ kín lên việc đọc sách Cựu Ước" (2è épitre aux Corinthiens). Như vậy, đó không phải là tấm che bằng vải, mà là một tấm màng che kín ư nghĩa của những chữ trong sách, che lấp sự hiểu biết. Bởi đó, tấm màng che mặt của Moise thật ra lời thệ nguyện giữ im lặng và giữ bí mật mà ngài đă cam kết trong cuộc lễ điểm đạo.

Moise đă thu thập được sự minh triết của ngài tại đạo viện thuộc ngôi đền tại thành phố On, mà người Hy Lạp gọi là He'liopolis khi họ chinh phục xứ Ai Cập, một thành phố đă biệt tích ở cách vài dặm phía Bắc Cairo. He'liopolis và Memphis, một thành phố khác nữa cũng đă biệt tích ngày xưangười ta có thể nh́n thấy từ trên đỉnh Kim Tử Tháp, đều coi Kim Tử Tháp lớn như một nơi thánh điện tối cao để hành lễ điểm đạo Huyền Môn. Thành He'liopolis và ngôi đền lớn của nó ngày nay không c̣n nữa, những bức tường gạch kiên cố bao bọc chung quanh thành phố và những cột trụ đền đến ngày nay đă bị chôn vùi dưới đống các sâu bốn thước. Chỉ c̣n cây thạch tiễn (obe'lisque) bằng đá đỏ ở trước cổng thành là c̣n đứng vững. Moise đă từng nh́n thấy cây thạch tiễn này v́ ông đă đi ngang qua đó nhiều lần. Đó là cây thạch tiễn cổ xưa nhất c̣n đứng vững ở Ai Cập. Trong số những vị học giả mộ đạo thời cổ đă từng bước chân đến cổng đền này để t́m ánh sánh minh triết, có triết gia Platon và sử gia Herodote. Những vị này cũng đă thấy cây thạch tiễn đến ngày nay vẫn c̣n trơ gan cùng tế nguyệt, đứng tro trọi một ḿnh giữa cảnh đồng ruộng bao la. Dưới chân cây thạch tiễn, những nông phu đang cà sâu cuốc bẩm, và hàng ngày dắt trâu ra đồng. C̣n một cây thạch tiễn khác nữa mà vua Thoutmès III dựng lên trước đền thờ Thái Dương ở He'liopolis và ngày nay đang nhô lên cao vút bên bờ sông Tamise ở Luân Đôn. Được biết dưới cái tên là Mũi Kim của Cléopâtre, nó nhắc nhở cho dân chúng thủ đô Anh quốc náo nhiệt phồn hoa ngày nay nhớ lại cả một thế giới đă biệt tích cùng với một nền văn minh lộng lẫy huy hoàng của một thời đại cổ xưa nay không c̣n nữa.

Cây thạch tiễn có vẽ như một tên quân canh đúng gác cổng đền, c̣n những hàng chữ ám tự khắc trên bốn mặt của nó thuật lại lịch sử của ngôi đền. Nhưng nó không phải chỉ là một mũi tên khổng lồ bằng đa được dựng lên để khắc chữ trên đó, nó c̣n là một biểu tượng thiêng liêng, và mũi nhọn của mỗi cây thạch tiễn đều lấy h́nh dáng một Kim Tử Tháp nhỏ.

Heliopolis ngày xưa là một trung tâm rất lớn về các nghành học thuật cổ điển và đạo lư, nó gồm có đến 13,000 học viên và có một dân số rất đông đảo. Nó có một thư viện nổi tiếng, thư viện này về sau góp phần xây dựng thư viện Alexanrie, danh tiếng nhất của thời đại cổ.

Lúc thiếu thời, Moise đă tiến bộ rất mau chóng, tỏ ra có một học vấn uyên thâm và một đức hạnh gương mẫu đến nỗi ông vượt qua một cách danh dự tất cả những cấp bậc điểm đạo, và đạt tới cấp đẳng cao tột ít người có, là cấp đẳng chân sư. Từ đó, ông đă có thể trở nên một vị đâo trưởng. Chính tại đạo viện mà ông được thụ huấn trước kia, dính liền với ngôi đền lớn tại Heliopolis, thành phố của mặt trời, mà ông nhận lănh chức vị đó. Ông đứng làm chủ lễ điểm đạo cho những thí sinh khác theo nghi lễ Huyền Môn Osiris, là lễ nghi thuộc về cấp đẳng cao nhất.

Hồi thời đó, ông có tên là Osarsiph, một tên chữ Ai Cập, v́ ông vốn la người Ai Cập lai Do Thái. Đến khúc quanh của đời ông, khi ông nhận sứ mạng mà định mệnh giao phó, ông ghi dấu cơ hội này bằng cách đối lấy một tên người Do Thái. Những người Ai Cập trí thức đều tin rằng tên họ của mỗi người vốn có năng lực thần bí. V́ đó, mà tên Osarsiph đă trở thành Moise.

Vị vua Pharaon trị v́ lúc đương thời, vốn là một hôn quân vô đạo và hung ác, ngược đăi người Do Thái một cách bất nhân độc ác đến nỗi làm cho Moise phải động ḷng v́ chính ông cũng có ḍng máu Do Thái trong huyết quản. Sử chép rằng ông đă giải phóng những bộ lạc Do Thái ra khỏi t́nh trạng nô lệ, giam cầm, ông đă hướng dẫn họ rời khỏi vùng thung lũng Gochen và noi theo lịch sử ngày xưa vẫn nối liền Châu Phi và Châu Á, con đương mà chính hoàng đế Nă Phá Luân đă cỡi ngựa đi qua và suưt chết ch́m khi ông gần đến thành Suez.

Người ta có thể t́m thấy vài mẩu chuyện về sau của Moise trong Kinh Thánh, nhưng những chuyện này lại bị pha lẫn một cách đáng tiếc với những truyền thuyết và huyền thoại mơ hồ.

Năm quyển đầu tiên của bộ sách Cựu Ước, được góp nhặt lại dưới nhan đề Pentateuque là do Moise soạn ra. Những quyển sách ấy chứa đựng một nền minh triết thâm sâu mà Moise muốn truyền lại cho dân tộc Do Thái, nhưng về sau lại có lẫn lộn những yếu tố lịch sử liên quan đến sự sáng tạo thế giới và những chủng tộc đầu tiên của nhân loại.

Thật ra th́ Moise, với tư cách một chân sư, từng biết rơ và sử dụng lối văn tự huyền bí của các vị đạo đồ nghĩa là dùng chữ ám tự với một ư nghĩa tâm linh ẩn dấu. Ông soạn bộ sách Pentatueque bằng chữ ám tự Ai Cập mà chỉ có những bậc tăng lữ đă điểm đạo mới có thể hiểu. Nhưng khi người Do Thái tới định cư tại Palestine, trải qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết về khoa ám tự càng ngày càng giảm sút. Lần lần, giới tăng lữ đă không c̣n đọc được thứ chữ ấy nữa, và có thể đoán ṃ một cách khó khăn. Điều này không co ǵ lạ, nếu người ta nhờ rằng chính ở tại Ai Cập, vào thế kỷ thứ tư sau Thiên Chúa giáng sinh, phép diễn đạt khoa khoa ám tư đă hoàn toàn mất hẳn. Độ một ngh́n năm sau cuộc di cư của dân Do Thái, khi những bậc cao niên lăo thành củ dân tộc ấy góp nhặt một bộ sách mà ngày nay ta gọi là Cựu Ước, th́ họ gặp phải một khó khăn rất lớn khi đem dịch những quyển sách của Moise ra chữ Do Thái. Đó là v́ Moise đă viết sách ấy bằng thứ chữ riêng của các vị chân sư, c̣n những bậc trưởng lăo Do Thái, dầu có học thức uyên thâm, cũng chưa phải là những vị chân sư đó.

Bởi đó, thường có những chỗ dịch sai nghĩa, những ư nghĩa tượng trưng th́ lại bị hiểu lầm như những sự việc có thật, những sự mô tả bằng ám tự được coi mô tả những việc đă xảy ra, những câu ư nghĩa bóng bẫy bị hiểu lệch lạc thành ra những chỗ dịch sai lầm. Một thí dụ là "Sá ngày tạo thiên lập địa" đối với Moise có nghĩa làsáu chu kỳ thời gian dài đăng đẳng, được gọi là một cách tượng trưng là sáu ngày v́ những lư do mà chỉ các vị đạo đồ biết được mà thôi. Nhưng câu ấy được dịch lại sát nghĩa từng chữ, v́ các nhà phiên dịch tưởng rằng đó là sáu ngày hai mươi bốn giờ!

Hậu quả là những quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh chứa đựng nhiều sự việc dị kỳ đối với thế hệ hiện tại v́ khoa học tiến bộ càng ngày càng kiểm thảo chặt chẽ những bản dịch cổ tự đó từng điểm một.

Nhưng bộ sách Kinh Thánh sẽ trở nên vô cùng phong phú khi người ta đọc nó với sự hiểu biết những ch́a khóa bí mật được truyền dạy cho những vị đạo đồ trong các đền cổ bên Ai Cập.

Như vậy, Moise phải được coi như một trong những nhân vật đáng kể nhất đă ngộ đạo trong cơn xuất thần huyền bí của những cuộc điểm đạo Huyền Môn.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 369 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 2:25pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NGÔI ĐỀN DENDERAD

CHƯƠNG CHÍN

 

Trước khi rời khỏi thánh điện trên nóc bằng của ngôi đền Denderad, tôi nh́n xem một ṿng Hoàng Đạo (Zodiaque) rất đẹp khắc trên trần. Tôi biết rằng đó chỉ là một phó bổn đă được sao lục lại, v́ bổn chánh đă bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phó bổn được sao lại một cách hoàn toàn đúng đắn.

Cái ṿng tṛn đó chứa đầy những h́nh ảnh các loài thú, h́nh người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu tṛn và ở chung quanh là mười hai cung Hoàng Đạo. Tô điểm thêm cho cái biểu tượng này, có h́nh mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người qú, sắp chung quanh h́nh bầu tṛn, hai tay đưa lên, ḷng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một ṿng tṛn.

Như thế, toàn thể vũ trụ lưng chuyển không ngừng được h́nh dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới h́nh thức tượng trưng. Đó chính là sự tŕnh bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người có óc hoài nghi nhất, không khỏi cảm thấy thán phục cái trí óc thông minh tuyệt vời đă làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đó.

Hiểu một cách đúng đắn, th́ ṿng Hoàng Đạo của đền Denderad h́nh như mô tả h́nh trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ. Vậy đó là thời kỳ nào? Đó là một vấn đề khác. Chúng tôi không thể nêu ra đây những sự giải thích thiên văn trừu tượng và phức tạp. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đó không trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm (équinoxe du printemps) không chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đó mặt trời đang đi vào một cḥm sao khác hẳn.

Sự biến chuyển lớn lao đó diễn ra bằng cách nào? Do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những v́ sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đó có nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngôi định tinh riêng của nó. Sự luân chuyển tế vi, khó nhận thấy, của Đường Phân Điểm (équinoxe) trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với cḥm sao. Khi đă đo lường sự vận chuyển trung b́nh của những bầu tinh tú đó, người ta biết có bao nhiêu ngàn năm đă trôi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đó gọi là Tuế Sai (précession des équinoxes). Đó là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hoàng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đó.

Nói cách khác, đều đó có nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hoàng Đạo, va mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của không gian. Sự luân chuyển vĩ đại đó của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đó người ta có thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.

Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học có thể xác định bản đồ đó được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ văng xa xăm đôi khi có thể giúp cho ta t́m ra những sự kiện vô cùng quan trọng. Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra ṿng Hoàng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vô cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đă t́m được cái ch́a khóa để tri nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, v́ họ thấy trong ṿng Hoàng Đạo đó, xuân phân điểm cách xa vị trí của nó bây giờ. Nhưng măi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngôi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mă và ṿng Hoàng Đạo Ai Cập này đă phối hợp một Hoàng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đó người ta không theo vấn đề đó nữa.

Một ư kiến cho rằng ṿng Hoàng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đó là một ư kiến sai lầm. Phải chăng nói như thế là kết luận người Ai Cập không có ṿng Hoàng Đạo của họ? Nếu vậy th́ giới tăng lữ Ai Cập đă từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại không có ṿng Hoàng Đạo chăng? Giới tăng lữ Ai Cập đă từng tôn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đă xáp nhập khoa này vào tôn giáo của họ, làm cho họ có thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại không có một ṿng Hoàng Đạo? Ngoài ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thông về khoa thiên văn.

Thật vậy, người Ai Cập đă sao lục một phần ṿng Hoàng Đạo của họ theo bản chính đă có từ trước tại đền Denderad, ngôi đền này đă được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phó bổn để bảo đảm cho nó được tồn tại muôn đời. Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo tŕ bằng cách đó, nhưng lại bị rơi trong quên lăng và rốt cục đă biến mất theo những nhân viên bảo tŕ văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập.

Những nhà khảo cổ đă phát hiện tại xứ Mésopotamie những viên gạch cổ xưa, trên đó các nhà thiên văn xứ ấy đă ghi nhận rằng mùa xuân bắt đầu khi mặt trời đi vào cḥm sao Kim Ngưu. V́ lẽ rằng trong kỷ nguyên Thiên Chúa, ngày đó được ghi nhận là ngày Mặt Trời đi vào cḥm sao Bạch Dương, tức là ngày 21 tháng 3 dương lịch, người ta nhận thấy tằng một sự thay đổi lớn lao như thế đưa nền văn minh xứ Chaldée thụt lùi về một thời kỳ dĩ văng xa xăm nhất, đúng như chính người Chaldée đă tuyên bố. Cũng như thế, cứ xét vị trí của đường điểm phân trong ṿng Hoàng Đạo của đền Denderad, th́ nó đánh dấu một thời kỳ thái cổ hàng bao nhiêu thế kỷ. Nhờ đó, người ta truy nguyên ra nền văn minh cổ nhất của Ai Cập ở vào thời kỳ nào. Cái vị trí đó chỉ rằng từ đó đến nay, có trên ba "đại niên" rưỡi đă trôi qua trên vũ trụ kế, tức là mặt trời đă xoay ṿng chung quanh ngôi định tinh của nó trên ba lần rưỡi.

Sự kiểm điểm chính xác những thống kê thiên văn xác định rằng sự xê dịch trung b́nh củu tuế sai là 50.2 giây mỗi năm, do đó người ta có thể tính tron g dĩ văng để đi đến điểm quy định bở vị trí của Hoàng Đạo đền Denderad. Ví ṿng lớn của Hoàng Đạo chia làm 360 độ, nên khoảng tuế sai 25, 800 năm lập thành một chu kỳ "đại niên." Như thế, mỗi chu kỳ trọn vẹn của mặt trời trải qua không dưới 25, 800 năm, tính ra th́ ít nhất là 90,000 năm đă trôi qua kể từ cái ngày được ghi nhận trên Hoàng Đạo đền Denderad.

Chín mươi ngàn năm! Phải chăng đó là một điều khó tin? Những vị tăng lữ thông thiên văn Ai Cập không chấp nhận điều đó. Sử gia Hy Lạp Hérodote thuật lại lời các tăng lữ đă nói với ông rằng dân tộc Ai Cập tự cho là dân tộc cổ xưa nhất thế giới, và họ cất giữ trong các đạo viện và các đền thờ cổ những văn khố tài liệu xưa đến 12,000 năm trước khi ông đến viếng xứ này. Người ta biết Hérodote đă thu thập các tài liệu lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ là dường nào, và ông thực sự xứng đáng gọi là "Người cha của lịch sử." Các vị tăng lữ đó c̣n nói với ông rằng "Mặt trời đă từng mọc lên hai lần ở tai chỗ mà ngày nay nó lặn, và trái ngược lại." Lời khẳng định lạ lùng này ngụ ư rằng hai miền cực địa của trái đất đă hoàn toàn đảo lộn những vị trí đầu tiên của chúng, điều này ám chỉ rằng trên địa cầu đă từng có những cuộc biến thiên vĩ đại đă làm thay đổi cục diện các vùng lục địa và đại dương. Những cuộc sưu tầm địa chất học đă xác nhận điều đó, nhưng c̣n những thời kỳ xảy ra những cơn biến thiên đó th́ thụt lùi về một cái dĩ văng xa xăm tịt mù.

Một hậu quả khác là khí hậu ở các vùng địa cực ngày xưa không phải lạnh lẽo mà đó là khí hậu của miền nhiệt đới. Trạng thái đó của quả địa cầu chỉ có thể gây ra bởi những sự biến chuyển vĩ đại trong không gian, và điều này đă chúng thực lời nói của các vị tăng lữ Ai Cập.

Những vị tăng lữ ấy không hề biết ǵ về khoa địa chất học hiện đại, họ chỉ có những tài liệu cổ khắc trên mặt đá của những cây thực tiễn, trên những tấm bia đá, những mâm đồng, hoặc viết trên lá cây chỉ thảo. Ngoài ra c̣n có những giáo điều và lịch sử bí truyền chỉ được tiết lộ trong khoa Huyền Môn, hoặc được truyền khẩu cho môn đồ trong các đạo viện trải qua bằng bao nhiêu thế kỷ.

Bằng cách nào giới tăng lữ, tuy không biết ǵ về địa chất học, lại biết được những sự biến thiên và dời đổi cuộc diện trên địa cầu, nếu không phải là nhờ những tài liệu cổ của họ? Sự hiểu biết đó càng xác nhận sự kiện rằng họ đă nắm giữ được những tài liệu đó, và cũng giải thích sự hiện hữu của những ṿng Hoàng Đạo chính cống mà bổn Hoàng Đạo của đền Denderad chỉ ghi chép lại một phần.

Do những sự việc kể trên, một khoảng thời gian 90,000 năm không c̣n là chuyện mơ hồ khó tin. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là nền văn minh Ai Cập. Có thể rằng dân tộc và nền văn minh Ai Cập đă từng có trên một vùng lục địa khác và chỉ di cư sang Châu Phi trong một thời kỳ về sau này.

Lịch sử Ai Cập bắt đầu ở triều đại thứ nhất, nhưng ta phải nhớ rằng xứ ấy đă từng có người ở từ lâu trước thời kỳ của tài liệu cổ xưa nhất c̣n tồn tại đến bây giờ. Lịch sử của dân tộc Ai Cập cổ xưa và những tên tuổi của những vị vua chúa của họ là những điều mà các nhà Ai Cập học không hề biết. Lịch sử Ai Cập thời thái cổ dính liền với lịch sử (đă mất) của châu Atlantide. Các vị tăng lữ Ai Cập cũng là những nhà thiên văn, đă thừa hưởng ṿng Hoảng Đạo của họ từ châu Atlantide. Đó là lư do v́ sao ṿng Hoàng Đạo của đền Denderad có thể cho thấy dấu vết của những cuộc vận hành tinh tú khổng lồ trải qua những gịng thời gian dài vô tận so với những ṿng Hoàng Đạo của kỷ nguyên lịch sử.

Sự khám phá mỗi di tích mới của nền văn minh cổ xưa đó làm cho chúng ta phải thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên. Trong khi mà, Theov những quan niệm của chúng ta về sự "Tiến bộ" chúng ta tưởng rằng càng đi thụt lùi về dĩ văng, th́ chỉ có giống người càng thô kệch và dă man hơn, nhưng trái lại có khi ta lại thấy có những dân tộc văn minh, tiến hóa và rất tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo. Dẫu cho ở vào một vài thời kỳ tiền sử xa xăm, cũng có những dân tộc dă man và những dân tộc văn minh sống đồng thời với nhau trên địa cầu. Khoa học, tuy đă phát họa cho ta thấy một thời quá khứ của địa cầu nó thách thức tầm hiểu biết thiển cận của chúng ta, nhưng vẫn chưa có đủ dữ kiện để tŕnh bày đầy đủ những chi tiết về những thời kỳ đó. Nhưng khoa học vẫn tiến bộ không ngừng, và sẽ có thể làm được điều đó. Vậy chúng ta chớ nên phủ nhận một cách vội vàng những truyền thống cổ Ai Cập về con số 90,000 ngàn năm, và cũng đừng nên vội chấp nhận con số năm hay sáu ngàn năm lịch sử của nhân loại như người ta vẫn thường nh́n nhận. Tuổi của quả địa cầu luôn luôn đính chánh sự tin tưởng này của những người có một quan niệm quá nghèo nàn về tổ tiên của chúng ta, sự hiểu biết về quá tŕnh của vũ trụ sẽ có thể đem đến cho họ, tuy không phải là một cách dễ dàng, những tầm nhăn quang bao quát và rộng lớn hơn nữa. Trong những khoảng không gian bao la vô tận, phải chăng c̣n có những nghĩa địa của càn khôn, ở nơi đó có những tinh cầu chết và những bầu tinh tú tắt nguội, đă từng có một thời phát triển trong những nền văn minh rực rỡ huy hoàng ngày nay đă mất?

Tôi bước xuống cầu thang và trở ra cửa ngoài đă quan sát phía bên trong ngôi đền lớn mà lúc đầu tôi đă đi qua nhanh để t́m nơi thánh điện Huyền Môn mà tôi muốn xem trước hết. Trong gian pḥng rộng, hai mươi bốn cây cột lớn mang trên chớp vuông gương mặt chạm trỗ nhưng đă bị sứt mẻ của nữ thần Hathor, những mặt cột đền có khắc đầy những hàng chữ ám tự. Thật đáng buồn mà thấy rằng ngôi đền thờ nữ thần Hathor, vị nữ thần Ai Cập tượng trưng Sắc Đẹp và Ái T́nh, đă thoát khỏi sự tàn phá của thời gian để rồi lại bị tàn phá nhiều hơn do bàn tay phủ phàng của con người. Hầu hết pho tượng của nữ thần đều bị chặt, đẽo bằng búa rều, do sự phẫn nộ của những người cuồng tín, những gương mặt bị sứt mẻ chỉ c̣n thấy những vành lỗ tai dài và những mái tóc dầy cộm. Dền Denderad là một trong những ngôi đền đồ sộ to lớn nhất của Ai Cập, và trong số những đền mà người ta c̣n tế lễ thờ phượng khi hoàng đế La Mă Théodose, vào năm 379 sau Thiên Chúa kỷ nguyên, ban hành một chỉ dụ ngăn cấm nền tôn giáo cổ đă suy tàn và làm cho nó chết hẳn.

Viên sứ giả của hoàng đế là Cynegius đă thio hành lệnh cấm ấy một cách vô cùng gắt gao. Ông tuyên bố đóng cửa tất cả các đền thờ và các đạo viện, ngăn cấm mọi cuộc hành lễ điểm đạo và những nghi lễ cổ truyền. Lúc đó những đám dân cuồng tínd0ột nhập đền Denderad, đuổi các tăng lữ và xâm phạm vào những nơi thánh điện thiêng liêng. Họ phá hũy các pho tượng nữ thần Hathor, cướp bốc những đồ vàng ngọc, chặt đẽo gương mặt xinh đẹp và chạm trổ tinh vi của nử thần, ở bất cứ nơi nào họ đi đến.

Ở những nơi khác, sự tàn phá c̣n khóc liệt hơn nữa, v́ người ta phá hủy các tường rào, triệt hạ những cột đền và đập tan từng mảnh những pho tượng khổng lồ, người ta tiêu diệt công tŕnh của bao nhiêu ngàn năm. Đó là những biến thiên của nền tôn giáo mà những tín đồ lúc đầu đă chịu đựng những sự ngược đăi bắt bớ, chịu pháp nạn rồi tử v́ Đạo, và cuối cùng lại dành một sự ngược đăi tương tự cho kẻ khác. Họ cho rằng bổn phận họ phải phá hủy công tŕnh của tiền nhân, để tạo nên một công tŕnh khác thích hợp với họ.

Lúc bước vào đền, tôi nghĩ đến các v́ vua của triều đại Ptolémeé, những v́ vua kiêu hănh đă từng đến ngôi đền này trên những cổ xe thếp vàng óng ánh, trước một đám quần chúng im lặng và tôn kính. Thời đó, đă có bao nhiêu là đám rước lễ long trọng, náo nhiệt tưng bừng, diễn ra trên sân đền rộng lớn, mà ngày nay sân đền lại vắng tanh không một bóng người!

Nh́n di tích của chánh điện mà ḷng tôi c̣n thấy buồn man mác, huống chi là những hang động âm u ở dưới hầm mà tôi đang bước đến? Những gian pḥng tối đen dưới hầm này được xây bên trongnhững bức tường nền dầy kinh khủng. Vách tường cũng được tô điểm bằng những h́nh ảnh chạm trổ rất công phu, mô tả những cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng ngày xưa đă từng diễn ra ở dưới hầm này.

Rời những hầm tối đen giống như những nhà mồ, tôi trở lại chỗ cửa chính. Cổng đền ngày xưa được khép bằng những cánh cửa bằng đồng rất kiên cố thếp vàng sáng chói lộng lẫy. Tôi bước ra ngoài và đi quanh một ṿng chung quanh đền.

Thật khó mà tin rằng khio vua Ả Rập Abbas Pacha phát hiện ra ngôi đền này giữa thế kỷ 19, phần lớn đă bị chôn vùi dưới một đồi cát và sỏi vụn. Nó được phơi bày ra ánh sáng trở lại nhờ bởi những nhát cuốc xẻng của những phụ thợ đến làm công việc đồi cát này. Có bao nhiêu người đă đi qua vùng này ngày xưa, mà không hề biết đến cái kho tàng thiêng liêng của dĩ văng mà họ đang dày xéo dưới gót chân của họ.

Tôi ngừng lại một lúc để nh́n lên mặt ngoài tường cái h́nh nổi chạn trổ chân dung nữ hoàng Cléopâtre. Vị nữ hoàng Ai Cập này lúc đương thời đă ra lệnh tu bổ bức tường chung quanh đền, hồi đó đă bắt đầu sụp lở. Để ghi tạ công đức, người ta đă tạc tượng nữ hoàng ở trên tường để làm kỷ niệm. Hoàng tử Césarion cũng được khắc tượng ở một bên nữ hoàng, giống người cha một cách lạ thường. Nữ hoàng Cléopatre, con gái của vua Ptolémée, cũng là người cuối cùng trong tất cả các nữ hoàng Ai Cập. Khi hoàng đế Jules César cầm quân vượt biển Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Ai Cập, th́ nữ hoàng Cléoâatre đă trở nên t́ng nhân của vua ngay từ khi César vừa đổ bộ lên đất liền. Chính do sự trung gian của Cesar mà nữ hoàng đă hướng xứ Ai Cập đến việc liên kết với một hải đảo xa xôi, mà định mệnh đă đặt để rằng sẽ đóng một vai tṛ quan trọng trong lịch sử Ai Cập trên 18 thế kỷ về sau! Và những quân sĩ La Mă cũng đă đem vào Anh Quốc tôn giáoSérapis, cùng với bao nhiêu di sản tinh thần khác nguồn gốc Ai Cập. Một sự liên lạc, tuy gián tiếp, đă bắt đầu có giữa hai nước kể từ khi đó.

Trên bức tường chạm trổ, nữ hoàng Cléopatre đội cái thứ măo tṛn như cái dĩa có sừng, giống như măo của nữ thần Hathor, để bộ mái tóc dài thắt bính. Gương mặt đầy đặn và xinh đẹp, tướng mạo uy nghi của một bậc vương giả quren truyền lịnh và sai phái kẻ dưới, cương quyết thực hiện mọi kế hoạch đến cùng, bằng mọi phương tiện. Chính do ành hưởng của nữ hoàng mà Jules César đă nuôi cái mộng dùng thành Alexandrie làm kinh đô của đế quốc La Mă và trung tâm của thế giới. Khi Cléopâtre qua đời, th́ nền độc lập của Ai Cập cũng không c̣n nữa.

Tôi hồi tưởng lại rằng Cléopâtre cũng là một giai nhân tuyệt sắc củu thế giới cổ xưa, và là một trong những người đàn bà đă từng đóng vai tṛ quyết định của lịch sử. Có ai ngờ rằng vận mệnh của một bậc vĩ nhân, vận mệnh của cả một đế quốc rộng lớn, có đôi khi lại treo lơ lửng dưới cái nụ cười quyền rũ hiện ra trên đôi môi xinh đẹp của một giai nhân?

Phần trên những vách tường đá của ngôi đền đều có khắc hàng chữ ám tự (hiéroglyphes). Truyền thuyết cho rằng loại chữ ám tự của thời cổ Ai Cập là do vị thánh sư Thoth tức Tehuti, phát minh ra. Điều này cũng có một sự thật về lịch sử. V́ chính một vị siêu nhân, một đấng Chân Sư daqnh hiệu là Thoth, đă đem thứ chữ này, như một sự tiết lộ của thánh thần, cho những con cháu của dân Atlante di cư sang vùng đất mới trên bờ sông Nil, trước khi những luồng sóng cuối cùng đă nhận ch́m châu Atlantide xuống đáy biển. Vị chân sư Thoth cũng là tác giả của quyển Tử Thư (Sách của người chết).

Người Ai Cập mô tả chữ ám tự của họ là thứ ngôn ngữ của Thần Minh. Đó là bởi v́ không những họ tin rằng loại chữ này được Thần Minh ban cho họ, mà cũng v́ nghĩa ẩn dấu của nó được giữ kín đối với quần chúng và chỉ tiết lộ cho những vị môn đồ Huyền Môn đă được điểm đạo. Những nhà Ai Cập hiện đại chỉ có thể hiểu được ư nghĩa thông thường của chữ ám tự theo sự hiểu biết của người b́nh dân, điều đó đă là một thành quả vẻ quang rồi. C̣n cái ư nghĩa ẩn dấu, bí truyền th́ họ tịt mù chẳng biết ǵ cả. Đó là bởi v́ muốn thấu triệt loại chữ ám tự, ngôn ngữ của Thần Minh, người ta phải cần dùng đến một thứ đạo nhỡn, để hiểu biết nó trên khía cạnh tâm linh, chứ nếu không, th́ không thể nào hiểu tận cùng đến chỗ sâu xa huyền diệu của nó. Điều này cũng tương tự như trường hợp của người thí sinh muốn thấu hiểu những pháp môn bí truyền được tiết lộ cho y trong các cuộc lễ điểm đạo của phái Huyền Môn Ai Cập.

Nhờ công tŕnh của các nhà Ai Cập học, và nột phần cũng do bàn tay của định mệnh, những kho tàng tâm linh quư báu thể hiện nơi những hàng chữ ám tự khắc trên tường đá trong các đền thờ hoặc viết trong những pho sách cổ bằng lá cây chỉ thảo, mới được phiên dịch ra và lưu truyèn lại cho hậu thế.

Vai tṛ của định mệnh trong sự khám phá này thật là la lùng. Nếu Napoléon không đem binh viễn chinh sang Ai Cập, th́ loại ngôn ngữ huyền bí khắc trên tường và viết trên giấy chỉ thảo ngày nay có lẽ vẫn c̣n câm lặng không hề có người đọc. Chính Napoléon vẫn từng là người của định mệnh đến một mức độ phi thường. Ông ta không hề tiếp xúc với một quốc gia nào, một cá nhân nào, hay một nhân vật nào mà không ảnh hưởng sâu rộng đến vận mạng của họ. Ông là khí cụ của định mệnh, hay là của thần Némésis.

Cuộc viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập đă dọn đường cho sự t́m ṭi khảo cứu về cách sinh hoạt và tư tưởng xứ Ai Cập thời cổ. Khi xứ Ai Cập bị đặt dưới quyền đô hộ của Hy Lạp, loại ngôn ngữ cổ xưa này bị suy sụp. Lẽ tự nhiên là chính quyền toan tính phổ biến ngôn ngữ và nền giáo dục Hy Lạp trong những giai cấp có học thức. Những quan chức quan trọng trong chính quyền đều dành cho những người Ai Cập giữ chức giỏi chữ Hy Lạp. Nhà cầm quyền Ai Cập đóng cửa các đạo viện cổ ở He'liopolis, là nơi đào tạo rất đông những tăng lữ thời xưa và nơi truyền bá sự học hỏi ngôn ngữ Ai Cập. Trừ ra một số ít tăng lữ vẫn duy tŕ việc dùng tiếng Ai Cập trong ṿng bí mật, chữ Hy Lạp đă thật sự trở nên một thứ quốc ngữ Ai Cập.

Đến cuối thế kỷ thứ 3 của Thiên Chúa kỷ nguyên, trong xứ Ai Cập người ta không c̣n t́m thấy một người nào có thể giải thích ư nghĩa thông thường b́nh dân của chữ ám tự cổ nữa, đừng nói chi đến việc sử dụng thứ chữ ấy. Mười lăm thế kỷ đă trôi qua. Việc dùng chữ ám tự dường như đă hoàn toàn biến mất ở Ai Cập, th́ đột nhiên xuất hiện trước hải cảng Alexandrie, do một cơn băo tắp vào bến, và vượt qua sự canh tuần của hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của đô đốc Nelson, chiếc thuyền chở Napoleon và định mệnh của người.

Không bao lâu, quân đội viễn chinh Pháp được chuyển đến sứ Ai Cập. Người ta đào đất ở nhiều nơi để xây móng đắp nền làm những công sự pḥng thủ. Một trong những địa điển lần đầu tiên được lựa chọn do bởi tầm quan trọng chiến lược của nó là vùng châu thổ sông Nil, kế cận hải cảng Rosette. Một viên sĩ quan trẻ tuổi, trung úy pháo binh Boussard, đă phát hiện một điều vô cùng quan trọng như một sự t́nh cờ đưa đến cái ch́a khóa để truy ra ư nghĩa của các ám tự Ai Cập. Trong khi đào đất đắp nền xây pháo đài St Juluen, những quân sĩ của ông ta th́nh ĺnh đào được một khối đá đen đă bể. Trung úy Boussard liền hiểu ngay rằng tảng đá này có một tầm quan trọng rất lớn v́ nó có khắc chữ, đó là một sắc lệnh của giới tăng lữ thành Memphis ban bằng sắc danh dự cho vua Ptolémeé thứ 5. Bản chính bằng chữ Hy Lạp khắc trên 54 gịng, kèm theo hai bản dịch ra chữ ám tự và cổ tự.

Viên đá này được gởi về Châu Âu, tại đây các nhà bác học mới ra công nghiên cứu cho đến khi họ có thể thiết lập toàn bộ chữ cái ám tự Ai Cập tương đương với những cái Hy Lạp. Cái ch́a khóa này từ đó đă giúp cho các nhà khảo cổ và Ai Cập học đọc được những bản chữ ám tự khắc trên tường và trong các sách chỉ thảo đă từng là những điều bí hiểm trong bao nhiêu thế kỷ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 370 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 2:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ MẬT CỦA NHỮNG KỲ

 QUAN KARNAK

CHƯƠNG MƯỜI

 

Sau cùng, chúng tôi đă đến xứ Ai Cập cổ kính, thâm nghiêm, và hấp dẫn mà con sông Nil, những đền đài, đồng ruộng, làng mạc và nền trời xanh đậm cùng nhau phối hợp để tạo nên một cảm giác quyến rủ và sống động. Đó là xứ Ai Cập của những thời đại mà các vị vua Pharaon sang cả quyền uy c̣n đang trở về, mà hết cả ngày này sang ngày kia, những sân đền c̣n vang dội âm hưởng tiếng thánh ca của các vị tăng lữ.

Tôi đến Louqsor, cách thủ đô Cairo 450 dặm sau khi đi ngược ḍng sông Nil. Đến đây, người ta trở về dĩ văng và sống với dĩ văng một cách dể dàng khộng cần một cố gắng nào cả, cảnh vật chung quanh đem đến cho ta một lọat những h́nh ảnh cổ xưa. Chỉ có miền nam Ai Cập, mà các nhà địa lư học gọi là miền thượng du Ai Cập, c̣n giử được cái phong vị đó trước mắt nhưng du khách thời nay. Cố đô danh tiếng của nó, thành phố cổ điển Thèbes, mà thi hào Homère gọi là "Thành phố một trăm cửa," ngày nay đă biệt tích, nhưng nó c̣n để lại cho chúng ta tại Karnak, một trong những trung tâm tôn giáo của giới tăng lữ Ai Cập.

Ngày nay, Karnak là viên ngọc quư của vùng này. Những đền đài cổ, điêu tàn nhưng vẫn c̣n hùng vĩ của nó nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Một trong những ngôi đền này mà ngôi đền to lớn nhất mà người ta có thể t́m thấy ở Ai Cập, dó là đền thờ Amen Ra. Thời xưa, tất cả những ngôi đền khác ở Ai Cập đều phụ thuộc vào ngôi đền này. Thế là tôi đă đi hành hương tại Karnak và chiêm ngưỡng những đền thờ hoang tàn sụp đổ dưới ánh mặt trời nắng gắt cũng như dưới ánh trăng khuya êm dịu.

Karnak ở kếcận một khu rừng xanh biếc, cách ba dặm ở phía bắc Louqsor. Người ta đến đây bằng con đường đầy bụi bặm, đi xuyên qua một cánh đồng lớn dưới một nền trời xanh lợt. Dọc đường có một ngôi mộ của một vị vua Ả Rập, nóc bầu tṛn sơn trắng, sau cùng nhô lên trước mắt tôi hai cây cột trụ cao vút của cổng đền. Cổng đền xem rất hùng vĩ ngoạn mục, đặc biệt hấp dẩn sự chú ư của du khách. Trên chót người ta nh́n thấy tượng vua Ptolémée xây dưng lên ngôi đền này, đang cúng dâng lể vật cho các vị thần thành Thèbes.

Bước vào cổng, tôi đă ở trong ngôi đền thần Khonsou, vị thần đầu chim ưng, mà ngôn ngữ b́nh dân gọi là con của Amen. Trên tường có chạm h́nh nổi diển tả một đám rước lể du thuyền tấp nập trên sông, dưới thuyền chở tượng thần Amen Ra đi ngược ḍng sông Nil đến tận Louqsor. Tôi bước vào ngôi đền sụp đổ, tại đây ngày xưa người ta giữ chiếc linh thuyền rước tượng thần Konsou. Tất cả những đồ vật dùng để rước lể được cất giữ tại đây có ư nghĩa rất nhiều đối với quần chúng, những tăng lữ tham quyền cố vị và nhất là đối với các vị vua chúa. Trái lại, nó không phải là quan trọng đối với một số ít đạo đồ, những vị này chỉ coi các nghi lể cúng tế như những nghi thức tượng trưng, chứ không có một giá trị tâm linh thật sự.

Kế đó, tôi phát hiện một lọat những h́nh nôi rất lư thú chạm trổ trên tường phía đông của một gian pḥng bên trong, tiếp cận với chánh điện. Điều làm cho tôi chú ư trước nhất là pho tượng một nhân vật đă từng quen thuộc với tôi trong một đêm suy tư giữa băi sa mạc, thần tượng Sphinx! Tôi liền hiểu ngay đó là một điều quan trọng và người ta có thể quan sát khắp đền trong nhiều ngày giữa những tường, vách và cột trụ đá mà không t́m thấy có thần tượng này.

H́nh nổi đầu tiên là h́nh vua Ramsès thứ 4, đang đứng trước mặt nữ thần Ament và dâng nữ thần một pho tượng nhỏ. Kế đó là một h́nh nổi trên tường có chạm h́nh hai nhân vật. Phía trước là một h́nh thiếu nhi, không ai khác hơn là Horus, con của Orisis. Trên đầu Horus có h́nh biểu tượng mặt trời và con rắn, tay trái để lên hai đầu gối, c̣n tay mặt đưa lên, ngó tay trỏ chỉ môi, ngụ ư giữ im lặng. C̣n nhân vật kia, phía sau Horus, là thần tượng Sphinx.

Nữ thần Ament đưa bàn tay về phía Ramsès, tay cầm một thập tự giá có quai h́nh ṿng tṛn ở một đầu, c̣n đầu kia điểm vào giữa mắt của vua Ramsès. Bức h́nh đó có ư nghĩa ǵ?

Một nhà Ai Cập học có chắc sẽ đưa ra một sự giải thích hoàn toàn hợp lư và khá đúng theo quan điểm của y. Y sẽ nói rằng nhà vua đang hiến dâng lể vật cho nữ thần, thế thôi. Y không c̣n nói ǵ hơn. Những cảnh tượng chạm trổ trên vách như thế thường diển tả những mẩu chuyện vặt hoặc nhắc lại điển tích những chiến công rực rỡ của một triều vua nào đó. Nhưng ở đây lại là môt việc khác. Trước hết người ta nhận ra đó là việc thực hành một nghi lể tối thiên liêng, nhất là bức h́nh được chạm gần bên chánh điện trung ương là chổ thâm nghiêm nhất của ngôi đền này.

Cũng như lọai ám chữ Ai Cập được dùng để diển tả một ư nghĩa bí truyền mà chỉ có những người tăng lữ đă điểm đạo được biết mà thôi, th́ đây cũng vậy, gương mặt các và thần đối với những vị đạo đồ thời cổ có hàm xúc một ư nghĩa thâm sâu hơn là đối với quần chúng. Như vậy, ư nghĩa huyền diệu của các bức h́nh này chỉ có thể hiểu được bởi những người nào đă từng thấu triệt giáo lư Huyền Môn.

Điểm cốt yếu trên bức h́nh nổi, là cử chỉ hành động của nữ thần Ament. Cái thập tự giá có quai h́nh ṿng tṛnmà nữ thần điểm vào giữa hai mắt của vua Ramsès, các tăng lữ điểm đạo gọi là cái ch́a khóa của Huyền Môn, nó tượng trưng cho việc điểm đạo để thu nhận vào tổ chức Huyền Môn thật sự vậy. Một nhà Ai Câp học sẽ cho rằng nó chỉ tượng trưng cho việc mở cửa, từ lâu vẫn khép chặt, để bước vào tổ chức thiên liêng này. Dưới h́nh thức kỷ hà, nó tượng trưng linh hồn bất diệt của người đạo đồ đă được giải thoát ra khỏi cái thể xác vật chất "Bị đóng chặt trên thập tự giá." Cái ṿng tṛn, không đầu không đuôi, tượng trưng tính chất bất diệt của linh hồn tương đương với các đấng Thần Minh, c̣n cái thập tự giá tượng trưng cho trạng thái xuất thần của người đạo đồ, do đó có sự chết và bị "đóng chặt vào thập tự giá" của y. Trong vài đền thờ cổ, người ta đặt y nằm trên cái giường gổ h́nh thập tự giá.

Điểm giữa hai chân mày chỉ vị trí của tùng quả tuyến, tức bộ hạch óc mà những động tác phức tạp vẫn chưa được khoa học hoàn toàn biết rơ. Trong những cấp bật điểm đạo đầu tiên, vị Đạo Trưởng dùng phép làm kích động bộ hạch ấy một phần nào, để giúp cho người thí sinh tạm thời mở rộng thần nhăn và nhận thấy những ma quái hiện h́nh hoặc những nhân vật tâm linh xuất hiện ở gần bên y. Phương pháp sử dụng vào việc này một phần do mănh lực từ điển, một phần tùy thuộc vào một vài chất hương liệu rất mạnh.

Bởi đó, khi nữ thần Ament cầm cái thập tự giá điểm vào giữa hai mắt của vua Pharaon, cử chỉ đó ngụ ư rằng nhà vua đă được điểm đạo theo tổ chức Huyền Môn, và nhà vua sẽ tạm thời mở thần nh́n trong một thời gian. Nhưng nhà vua bị cấm nhặt không được tiết lộ cho ai biết những ǵ nhà vua được thấy và những cảm xúc trong cuộc lễ điểm đạo. Điều này được diễn tả bởi nhân vật đầu tiên trong bức h́nh nổi, thiếu nhi Horus, tức là vị thần Hormakhou, mà ngón tay đưa lên môi khép chặt ngụ ư phải tuyệt đối giữ im lặng và bí mật. Những h́nh ảnh tương tự cũng được phô bày gần bên các thánh điện và những gian pḥng điểm đạo trong tất cả các ngôi đền thờ cổ, luôn luôn với ngón tay trỏ đưa lên môi. Một hiệu lệnh ngầm có ư tượng trưng: Hăy giữ im lặng về những ǵ liên hệ đến những ǵ bí mật thiêng liêng. C̣n nhà vua cầm pho tượng nhỏ với một cử chỉ hiến dâng có nghĩa là người sẵn sàng hy sinh lời nói của ḿnh và luôn luôn giữ im lặng.

Phía sau thần Hormakhou c̣n có h́nh chạm một nhân vật thứ hai thần tượng Sphinx. Đó là ngụ ư ǵ?

Cũng như vị đạo đồ trong cơn xuất thần đă mất khả năng dùng lời nói trong thời gian điểm đạo, thần tượng Sphinx vẫn luôn luôn im lặng và không hề thốt ra một tiếng nào. Thần tượng Sphinx luôn luôn biết giữ ǵn bí mật. Vậy đó là những bí mật ǵ?

Đó là những điều huyền bí trong cuộc điển đạo.

Thần tượng Sphinx canh gác ngôi đền điểm đạo hùng vĩ nhất của thế giới cổ: Ngọn Kim Tự Tháp. Những người đi hành lể ở Kim Tự Tháp thời xưa đều đến từ bờ sông Nil, trước khi đến nơi họ phải đi ngang qua trước thần tượng Sphinx. Trong cái im lặng của nó, thần tượng Sphinx tượng trưng cho sự im lặng và sự bí mật của cuộc điểm đạo.

Như thế vua Pharaon đă được mới tham dự một nghi lể huyền bí lớn nhất có thể được ban cho con người.

Ba bức h́nh khác hoàn thành một loạt những cảnh tượng làm lể điểm đạo, mà ngày nay du khách có thể xen tự do, nhưng ngày xưa chỉ dành cho một số ít người biệt đại. Trên những bức h́nh đó, người ta thấy những cảnh tượng tiếp theo sau khi nhà vua đă bước qua cửa Huyền Môn.

Trong bức h́nh thứ hai, nhà vua đứng giữa hai vị thần, Horus trưởng thành và Thoth. Mổi vị thần này cầm một cái b́nh rót lên trên đầu vua Ramses, không phải rót nước, mà rót một ḍng những thập tự giá có quai tṛn tràn ngập đầu và rớt xuống chung quanh vua.

Thoth là vị thần minh triết và bí giáo. Trong hính này, ngài ban cho vua sự hiểu biết bí truyền về những sức mạnh thần bí và minh triết tâm linh, là những điều quư báu đă từng làm cho Ai Cập nổi tiếng như cồn vào thời đại cổ. Ngài cũng là vị thần Nguyệt Tinh. Bởi đó, tất cả các nghi lể tôn giáo và phù phép có tầm quan trọng bí mật, nhất là những cuộc lể điểm đạo Huyền Môn, đều diển ra ban đêm vào những lúc trăng non và trăng rằm, là những giai đoạn mặt trăng có ảnh hưởng lớn nhất.

Hours khi trưởng thành, là thần thái dương. Vai tṛ của thần Horus trong h́nh này chỉ rằng, mặc dầu khởi sự vào lúc ban đêm, lể điểm đạo kết thúc vào lúc ban ngày vào giờ b́nh minh. Khi những tia nắng đầu tiên của mặt trời sớm mai rọi thẳng vào đỉnh đầu người thí sinh th́ vị đạo Trưởng niệm thần chú để y tỉnh dậy.

Trong bức h́nh thứ ba, vua Ramses trở nên vị đạo đồ đầy minh triết, được hai vị thần khác nắm lấy tay vua để chúc mừng, vừa đưa lên trước mặt vua những thập tự giá có quai, ngụ ư rằng từ nay nhà vua trở nên bạn hữu đồng môn với các đấng thần minh do bởi cuộc điểm đạo vừa trải qua. Trong cảnh cuối cùng, nhà vua dâng một pho tượng nhỏ cho thần Ament-Ra. Đó là pho tượng một vị thần ngồi, có một lông chim cắm trên đầu, tức là thần chân lư, nghĩa là với một sự hiến dâng trọng vẹn, người sẽ hướng mọi tư tưởng và hành vi theo những định luật tâm linh nó cai quản đời sống con người, như đă được tiết lộ cho nhà vua trong cuộc lể điểm đạo.

Như vậy, những bức h́nh chạm trổ này đă cho tôi thấy đời sống tâm linh của một vị Pharaon có đạo đức, và phát hiện cho tôi biết vài điều về những nghi thức lể trong khoa Huyền Môn Ai Cập.

Tôi bước qua cánh cửa ở đầu gian pḥng lớn của chánh điện, và đứng trước một bàn thờ nhỏ, ở hai bên có h́nh tượng vua Pharaon đang chiêm bái và cây linh kỳ của nữ thần Hathor. Ở phía dưới, một lổ hỏng lớn của một nền đá bị sụp lở tối đen ng̣m, tôi lấy đèn bấm soi xuống th́ thấy chổ sụp lở đó đưa xuống một đường hầm dưới đất. Đó là cái động xây dưới hầm của đền thờ Karnak, có nhiều ngăng cách và hành lang dài. Ở bề mặt cánh cửa lớn, tôi nhận thấy có hai lổ hỏng khác cũng là chổ nền đá bị sụp lở và đưa xuống những đường hầm nhỏ hẹp đầy bụi bặm chưa từng có vết chân người bước đến.

Tôi bèn thám hiểm những con đường hẹp này th́ thấy một đường đi xuyên qua động dưới hầm đến chổ thờ thần Khonsou. Đường dưới hầm bao phủ một lớp bụi dầy đặc đến nổi người ta phải nh́n nhận rằng bụi đă đóng ở đây nhiều thế kỷ, tôi cố t́m thấy dấu vết xem có người đă đến đây chăng. Nhưng ngoài những dấu bàn chân, hẳn từ người Ả Rập gác đền thờ Khonsou ở gần bên, tôi không thấy ǵ nữa, chỉ thấy có những đường cong ngoằn ngoèo rất nhiều và xem rất có mỹ thuật được vẽ ra từ hai cái lổ đen bởi một vài con rắn nhỏ.

Những đường hầm đen tối kia và cái động đá bí mật kia có ư nghĩa ǵ?

Tôi đang tự hỏi như thế, th́ cái động thâm u dưới hầm, giống như cái nhà mồ, dường như xuất hiện trước mắt tôi. Tôi nhớ lại cuộc hành lể cổ truyền tái diển sự chết và sự hồi sinh của Osiris, và cuộc lể mà tôi đă thấy khắc trên vách đá của thánh điện nhỏ trên nóc bằng của đền thờ Denderah, chính cuộc lể mà tôi đă nh́n thấy trong linh ảnh và tôi đă sống qua kinh nghiệm bản thân một đêm trong Kim Tự Tháp, chính cuộc lể mà Osiris đă truyền lại từ châu Atlantide cho những vị Đạo Trưởng và tăng lữ của thời cổ Ai Cập.

Tại sao người ta lại làm lể điểm đạo Huyền Môn ở những nơi đen tối và âm u như những chốn này?

Có ba lư do để giải thích câu hỏi đó. Để giữ ǵn tuyệt đối bí mật và an toàn cho việc ban phép mầu vừa có tính cách riêng tư lại vừa nguy hiểm. Để làm cho người thí sinh bước vào trạng thái xuất thần một cách dể dàng hơn, bằng cách không cho y nh́n thấy vật ǵ ở chung quanh và như vậy, để cho y dễ tập trung sự chú ư vào nội tâm. Sau cùng, để có được một h́nh thức biểu tượng hoàn hảo mà cổ nhân vẫn thích dùng, phải chăng các vị Đạo Trưởng nhận thấy người thí sinnh vẫn c̣n ở trong trạng thái vô minh u tối về phương diện tâm linh, vào lúc sắp bắt đầu cuộc lễ điểm đạo? Và sự thức tĩnh của y sẽ dược thực hiện bằng cách mở mắt chào đón những tia sáng mặt trời ở một chỗ khác, nơi đó y sẽ được chở đến sau khi điển đạo, khi đó y đạt được sự giác ngộ tâm linh. Sau một cuộc điểm đạo kéo dài một cách chậm chạp, bắt đầu lúc ban đêm và kết thúc vào buổi trời rực sáng, người đạo đồ đă vượt qua từ sự vô minh hắc ám (đêm tối) đến sự soi sáng tâm linh (ánh sáng).

Cuộc hành lễ điểm đạo Huyền Môn được thực hiện những động đá dưới hầm, hoặc trong những gian pḥng đặc biệt bên cạnh thánh điện thâm nghiêm, hoặc trong những thánh điện nhỏ trên nóc bằng của ngôi đền, chứ không bao giờ của một nơi nào khác. Tất cả những nơi này đều bị triệt để cấm nhặt đối với dân chúng, họ không hề dám lại gần, v́ những kẻ nào vi phạm sẽ bị những sự trừng phạt rất nặng nề, khủng khiếp. Những vi Đạo Trưởng nhận lấy việc điểm đạo cho một thí sinh, tức là đảm đương một trách nhiệm nặng nề, v́ vấn đề sống chết của vị thí sinh nằm trong tay các ngài. Người thí sinh có thể bị thiệt mạng nếu có kẻ nào vô phúc th́nh ĺnh xuất hiện, làm gián đoạn cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng.

Như vậy có khác nào trong khi một người bị bịnh nặng đang chịu một cuộc giải phẩu hiểm nghèo, mà để cho người ngoài cuộc bỗng nhiên đột nhập vào pḥng mổ? Nói cho cùng, th́ lễ điểm đạo phải chăng không khác ǵ một cuộc giải phẫu tách rời linh hồn ra khỏi thể xác? Đó là lư do v́ sao tất cả những pḥng điểm đạo đều được giữ ǵn, canh pḥng cẩn mật và đặt ngoài ṿng xâm nhập của người đời. Những pḥng gần bên thánh điện của một ngôi đền lớn, người ta chỉ có thể đi đến sau khi đă vượt qua một đường hẹp tối om, ánh sáng mỗi lúc càng mờ dần từ phía cửa vào, để rồi hoàn toàn biến mất khi người ta đến ngưỡng cửa thánh điện. Khi người thí sinh đă hoàn toàn mê thiếp đi trong cơn xuất thần, th́ thể xác y được đặt trong bóng tối âm u của gian pḥng, cho đến khi cuộc điểm đạo chấm dứt, người ta mới mang y ra bên ngoài ánh sáng. C̣n ở những pḥng điểm đạo trong động đá dưới hầm, người ta cũng hành lễ một cách tương tự, tất cả mọi thứ áng sáng đều tắt hẳn trong cơn đồng thiếp, và động đá trở thành cái nhà mồ, nói theo cả hai ư nghĩa tượng trưng và thật sự.

Tôi chui xuống động đá dưới hầm do một lỗ hỏng trên nền đá và thám hiểm một gian pḥng tối âm u, tại đây ngày xưa các vị tăng lữ đă cử hành những nghi lễ huyền bí nhất của họ. Xong rồi tôi chui lên khỏi hầm với một cảm giác thoải mái dễ chịu giữa ánh sáng mặt trời êm ấm và không khí trong lành.

Tôi đi qua những cổng vĩ đại của đền thờ Amen Ra, kéo dài cuộc hành hương của tôi giữa những di tích của một thời đại huy hoàng ngày nay đă mất.

Những cổng đền này có lẽ vừa kích thước với những người khổng lồ hơn là với những người trần gian nhỏ bé như chúng ta. Sở thích của người Ai Cập về những kích thước đại quy mô đôi khi đưa đến kết quả là gây một cảm giác rợn người, cũng như trường hợp Kim Tử Tháp lớn gần thủ đô Cairo và những bức tường rào với những cổng đền mà tôi đang đứng núp dưới bóng mát trong lúc này. Bề dày của những vách tường này đến 15 thước, dẫu cho những thành quách củng không bao giờ cần đến một bề dầy như vậy. Hẳn là người ta ngụ ư rằng thế giới phàm tục bên ngoài phải được ngăn cách để khỏi làm hoen ố ṿng thánh thiêng liêng của ngôi đền mà người cổ Ai Cập gọi một cách hănh diện là "Ngai vàng của thế giới." Than ôi! Ngai vàng ngày nay đă điêu tàng trong cô quạnh. Khi tôi bước vào sân đền rộng lớn, tôi thấy có một đống gạch ngói c̣n sót lại của những ṭa kiến trúc đồ sộ đă sụp đỗ, chỉ c̣n vài cây cột trụ đứng trơ vơ giữa cảnh đổ nát hoang tàn. Tôi chậm răi tiến bước, chân tôi dẫm lên nền đất gồ ghề mọc đầy cỏ dại, nay đă dành lấy chổ của thềm đá hoa đẹp lộng lẫy ngày xưa xây trên một diện tích rộng lớn, chiều dài có đến trên một trăm thước.

Qua khỏi sân đền h́nh vuông dài, tôi đă đến một cổng cao có chạm đầy những h́nh nổi sơn màu, và mở ra giữa những tàn tích của một cái cổng khác mà hai cột trụ đá hai bên đă sụp đổ chỉ c̣n trơ lại một đống đá ngổn ngang dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời. Ngày nay, cổng đền này cao không dưới ba chục thước. Bảy bậc đá tam cấp cũng đă biệt tích mà những nhà kiến trúc thời xưa xây ở ngoài cổng đền, như những h́nh thức biểu tượng ám chỉ sự tuần tự tiến hóa của con người từ cơi hạ giới phàm trần lên đến cơi giới cao siêu nhất mà y có thể đạt tới bằng sự phát triển tâm linh. Cũng như nhiều dân tộc khác của những nền văn minh cổ, người cổ Ai Cập diển đạt ư nghĩa huyền bí của số hệ theo quy mô trật tự của sự cấu tạo vũ trụ càn khôn.

Họ quan niệm rằng ngày thứ bảy hay cơi thứ bảy đem đến sự nghỉ ngơi, sự bằng an tuyệt vời cho con người cũng như cho muôn loài vạn vật trên thế gian. Tôi đă nhận thấy sự hiện diện của con số bảy trong tất cả các đền thờ ở khắp nơi tại xứ này, và dăy hành lang lớn trong Kim Tự Tháp cũng có sự biểu lộ của con số bảy một cách rơ ràng và lạ lùng.

Bởi đó, thật là một điều tự nhiên mà thấy bảy bậc tam cấp, ngày nay đă sụp đổ, được dựng lên ngoài cổng vào ṭa kiến trúc cao lớn và hùng vĩ nhất của Karnak, ṭa đại sảnh đường của đền thờ Amen Ra.

Tôi bước vào. Một viễn cảnh phi thường, mười sáu hàng cột trụ đá khổng lồ chen chúc nhau xuất hiện trước mắt tôi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống cảnh tượng đó, tạo thành một h́nh ảnh độc đáo mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mổi cột trong số 130 cây cột trụ đứng, phát ra một cái bóng dài trên nền đá đă loang lỗ nhiều nơi. Những cột trụ đá trắng dựng lên chơm chởm như một đạo binh khổng lồ, bề chu vi của mổi cột có đến mười thước tây! Thật là kinh khủng, một kỷ thuật kiến trúc đại quy mô không tiền khoáng hậu, vĩ đại vô cùng! Một rừng cây khổng lồ bằng đá trên một diện tích 100 thước bề rộng, thật là một điều rất là Ai Cập!

Ṭa đại sảnh dường này phần lớn được xây cất vào hồi triều đại vua Seti, chính vị vua Pharaon này cũng đă xây dựng nên ngôi đền Abydos là nơi tôi đă hưởng một sự yên tĩnh lạ thường. Nhưng ở đây th́ cái ấn tượng hùng tráng, oai vệ ngự trị khắp cả, nó khiêu gợi các h́nh ảnh của một thời đại đă tàn, mà người ta đă từng thực hiện một công tŕnh vĩ đại như thế. Vua Seti đă không sống được lâu để hoàn thành công tŕnh sáng tạo khổng lồ này. Chính vua Ramsès đại đế đă tiếp tục công tŕnh ấy, ông dùng những khối đá của vùng đồi Aswan dể tạc thành những cây cột trụ to lớn của sănh đường. Bằng lối kiến trúc đại quy mô đó, cổ nhân đă dụng ư khai phóng tâm hồn cho con người thấy những viễn ảnh rộng lớn, làm cho con người thoát ly ra khỏi cái ṿng bẩn chật nhỏ nhen của những tham vọng thường t́nh, gây nguồn cảm hứng cho y có những hoài bảo to tác và chí nguyện cao cả, giúp cho y mở rộng tầm nhăn quan và nung nấu chí khí để làm những việc vĩ đại phi thường. Nói tóm lại, người ta muốn được giống như vị minh quân Ramsès, xây dựng lên những ngôi đền to lớn vĩ đại, rồi thiết lập chung quanh đó những thành thị kiểu mẫu, nơi đó người ta có thể sống trong ánh sáng của những hoài bảo thanh cao và những lư tưởng siêu việt.

Trời đă sắp sửa về chiều. Tôi c̣n dừng bước ở nán lại, trong khi mặt trời sắp sửa lặn tỏa ra khắp vùng những ánh hào quang rực rỡ đủ màu. Cuộc hành hương của tôi đă kết thúc.Toàn thể cảnh vật gồn những đền miếu sụp đổ hoang tàn, những cánh đồng và băi sa mạc chung quanh nhuộm bao nhiêu sắc màu dồi dào phong phú của bóng hoàng hôn của vùngnhiệt đới, đă đem đến cho tôi một niềm phúc lạc thâm trầm say sưa, lâng lâng thoát tục.

Cái thú vị thần tiên ở chốn này thật thấm thía đậm đà, nó thấm nhuần vào người chúng ta giống như sương mù bao phủ trên sông, một cách từ từ mà ta không hề hay biết, cho đến khi ta nhận thấy rằng nó đă hiện diện khắp chung quanh ta. Nếu người ta không có một linh hồn tinh vi, tế nhị, th́ người ta c̣n thấy ǵ hơn trong những ngôi đền sụp đổ này, ngoài những đống gạch đá, cát sỏi và bụi bậm? À, phải chứ! Trong sự chiêm ngưỡng như nơi cổ tích hùng vĩ này, chúng ta hăy biết t́m thấy những ấn tượng khác nữa, để khi trở về ta sẽ thấy rung động đến tận tâm hồn, trong ḷng tràn ngập một niềm sùng kính thiêng liêng, ư thúc được cái vẻ đẹp huy hoàng và sự tranh trọng tôn nghiêm nó vẫn c̣n phảng phất và tồn tại măi với thời gian.

Bầu không khí vắng vẻ hoang vu của Karnak đă đem đến cho tôi một điều ích lợi rất lớn. Tôi đă có thể đắm ḿnh trong sự im lặng thần tiên của nó để hưởng thụ được nhiều lạc thú tâm linh luôn luôn đổi mới.

Thời đại hiện kim không giúp cho chúng ta hưởng cái thú ngồi cô đơn một ḿnh, thế hệ cơ giới ngày nay không c̣n để cho ta thưởng thức cái vui trong im lặng. Tuy nhiên, tôi tưởng rằng mỗi ngày ta cần phải có một sự ẩn dật tạm thời, dành ít nhiều th́ giờ cho một sự trầm tư vắng lặng. Chính bằng cách đó mà người ta hồi phục lại sự b́nh an của cơi ḷng, và nguồn cảm hứng tốt lành sẽ trở về với một tâm hồn chán nản. Đời sống của chúng ta hiện nay giống như một cái nồi súp de sôi sục và rú lên từng chập, con người chỉ biết lăn xả vào đó. Mỗi ngày, người ta càng mất đi sự gần gũi thân mật với chính ḿnh, và lại càng gần gũi thân mật nhiều hơn với cái nồi súp de!

Sự suy tu trầm lặng hàng ngày đem đến những kết quả dối dào của sự sinh hoạt tâm linh. Do đó người ta có được sự cương nghị trong những giờ phút quyết định, sự can đảm dám sống một cuộc đời độc lập không tùy thuộc vào dư luận của một số đông người, và sự ổn định tinh thần giữa tất cả những cơn loạn động ồn ào của cuộc đời thế tục.

Đời sống hiện đại có cái tác động tệ hại nhất là nó làm nhục đi cái khả năng suy tưởng thâm trầm. Trong sự náo động ồ ạt của một thành phố lớn, có ai đă dừng chân để nhớ lại rằng đời sống nội tâm của ḿnh đang đi đến chỗ tê liệt? Họ chỉ biết rằng họ đang vội vàng gấp rút, thế thôi. Nhưng luật tự nhiên không hề gấp rút vội vàng. Nó đă phải cần đến bao nhiêu triệu năm để cấu tạo nên cái nhân vật vừa yếu đuối vừa loạn động như con người thời nay. Và rất có thể rằng nó sẽ đợi chờ đến một thời kỳ mà con người biết sống một cuộc đời b́nh dị hơn, yên tịnh và trầm lặng hơn, để cho y thoát ra khỏi t́nh trạng đọa lạc và đau khổ mà y tự chuốc lấy cho ḿnh. Chừng đó, con người mới có thể nh́n vào cái nguồn cội thâm sâu của mọi tư tưởng thiêng liêng, nó đă bị vùi lấp đi trong sự náo động cuồng loạn mà y và những kẻ đồng loại đă từng lao đầu vào trong cuộc sống hàng ngày.

Những cuộc thăm viếng của tôi vào giờ ban đêm tại Karnak là những chuyến đi thích thú nhất, nhất là vào đêm trăng rằm. Màn đêm Ai Cập bao phủ những ngôi đền cổ với một ánh trăng huyền ảo, nó hé lộ cho ta thấy những khí cạnh thú vị, và che khuất phần c̣n lại trong một bóng tối thích hợp với những ngôi đền miếu thâm nghiêm này.

Trong những chuyến hành hương về đêm, tôi đă dùng nhiều phương tiện di chuyển khác nhau, mà tất cả đều làm cho tôi thích thú. Tôi đă đi thuyền bườm ngược gịng sông Nil xuôi theo cơn gió thổi mạnh, hoặc cởi lạc đà, hoặc dùng xe ngựa đi theo con đường ṃn cũ kỹ, với ít nhiều tiện nghi. Nhưng trong đêm trăng rằm như đêm nay, tôi thấy không ǵ thích thú hơn là đi bộ, và tôi đă vượt qua quăng đường hai hay ba dặm bằng chân như các vị tăng lữ thời xưa, dầu trong những ngày lễ long trọng rực rỡ của sứ cổ Ai Cập. Một ánh trăng bạc rọi xuống lớp vụi trắng dày đặc bao phủ con đường ṃn mà tôi đi qua. Thỉnh thoảng, những con dơi lớn vỗ cánh trên không và kêu to rồi bay mất dạng. Ngoài ra không c̣n tiếng động nào nữa, một cái im lặng thâm trầm xâm nhập chiếm lấy cả vùng chung quanh cho đến khi tôi bước chân đến làng Karnak. Trên con đường làng, thỉnh thoảng tôi gặp một vài người đi lưa thưa, tay xách một ngọn đèn lồøng nhỏ ánh sáng lập ḷe, những ánh đèn dầu khi mờ khi tỏ chiếu ra ngoài những cửa sổ hai bên đường. Thỉnh thoảng tiếng chân người làm cho vài con chó cất tiếng sủa vang.

Đế đầu đường, tôi thấy nhô lên trước mặt tôi cái cổng đền màu bạc của vua Ptolémeé, giống như một tháp canh khổng lồ ǵn giữ mặt ngoài của ngôi đền lớn mà nóc nhọn vươn lên trên nền trời xanh thẩm.

V́ là ban đêm, nên cổng đền đă bị ngăn lại bằng một bức rào. Tôi đánh thức người gác cổng đang ngủ trong một cái cḥi tranh gần bên, ngọn đèn bấm sáng trưng của tôi làm cho y nheo cặp mắt đỏ ngầu đang ngái ngủ. Sau khi đă mở cổng cho tôi bước vào, tôi đưa cho y một món tiền thù lao để đền bù việc làm y thức giấc nửa đêm, và y đă cho tôi đi lại tự do. Tôi bước qua sân đền và ngồi trong vài phút giữa đống tảng đá ngỗn ngang của một cái cổng thứ nh́ đă sụp đổ, cổng này ngày xưa đứng ở chỗ cuối sân trước khi đưa vào pḥng đại sảnh đường. Tôi suy tư một lúc về sự cao cả huy hoàng xưa kia của đền thờ Amen Ra ngày nay đă suy tàn. Một lúc sau tôi đă đứng giữa cột trụ hùng vĩ và những cảng tượng loang lỗ điêu tàn của ṭa đại sảnh đường. Ánh trăng khuya soi xuống các cột trụ, tỏa xuống nền đất những bóng đen dầy, làm cho những hàng chữ ám tự khắc trên cột ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ. Tôi tắt ngọn đèn bấm để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng, nó làm cho toàn thể ngôi đền đượm nét ảo huyền như cảnh mộng. Trước mặt tôi là cây trụ thạch (obe'lisque) của nữ hoàng Hatchepsou, vương ḿnh lên cao giống như một cây kim khổng lồ bằng bạc.

Tôi vừa từ từ bước trong bóng tối mờ đến những nơi thánh điện ở phía sau những dăy cột trụ khổng lồ của đại sảnh đường, th́ tôi có cảm giác mơ màng dường như có sự hiện diện nào ở bên tôi? Tuy nhiên, ít nhất là mười lăm thế kỷ đă trôi qua mà những người sùng tính không c̣n đặt chân đến những nơi đền miếu hoang tàn này nữa. Những tượng thần bằng đá bị sứt mẻ cũng đă chịu đựng trong sự im lặng cô đơn đó đă từng bấy nhiêu lâu, tôi cũng biết rằng xứ Ai Cập ngày nay không có một người nào c̣n sự tin tưởng và truyền bá nền tôn giáo cổ. Vậy tại sao tôi cảm thấy có sự hiện diện của người sống chung quanh tôi, trong ngôi đền đă chịu sức tàn phá của thời gian và đắm ch́m trong sự im lặng của nhà mồ? Tôi rọi đèn khắp nơi, soi khắp các cột trụ cùng vách tường, những đống gạch đá sụp đổ ngổn ngang mà những thền đá sứt mẻ, cũng không thấy có dấu vết của một bóng người.

Tôi lại rảo bước tiến tới, một ḿnh cô quạnh trong đêm khuya, tôi vẫn không sao thoát khỏi cái cảm giác ám ảnh đó. Ban đêm luôn luôn đem đến những sự sợ hăi rùng rợn của nó, luôn luôn làm tăng thêm sự sợ sệt của ta dẫu cho lúc đầu đó chỉ là những sự e ngại nhỏ nhặt. Tôi đă từng chấp nhận và mến yêu những đêm ấm áp và yên tĩnh của xứ Ai Cập, mà cái thú vị thần tiên đă thâm nhập vào người tôi. Nhưng đêm nay th́ lại khác hẳn: Những ngôi đền sụp đổ tàn tạ này dưới ánh trăng huyền ảo có những nét hầu như rùng rợn. Tôi ư thức được một cảm giác bức rức khó chịu dưới ảnh hưởng của giờ đêm khuya khoắt và của nơi chốn này. Tại sao?

Tôi đi lần theo con đường lót đá cũ đưa đến những ngôi kiến trúc điêu tàn ở về hướng bắc, và đến cái miếu nhỏ thờ thần Ptah. Tôi đi qua cái sân hẹp có nhiều cột và một cửa khác, tôi đă bước vào thánh điện. Một ánh trăng rọi vào một trong những bức tượng kỳ lạ nhất của Karnak, đó là pho tượng nữ thần Sekhmet, với thân thể một nữ nhân, đầu sư tử. Truyện thần thoại Ai Cập gán cho nữ thần này cái vai tṛ trừng phạt và tiêu diệt nhân loại.

Tôi ngồi xuống một bậc thềm đá, và nh́n xem ánh trăng soi xuống những bức tường đổ nát. Từ xa xa, vọng lại một tiếng kêu rùng rợn của một con chó rừng săn mồi. Tại đây trong trạng thái thụ cảm, tôi lại cảm thấy trong ḷng tôi có cái ấn tượng về một sự hiện diện vô h́nh, pha lẫn sư sợ sệt hoang mang.

Phải chăng những vong hồn của các vị tăng lữ thời xưa, của những đám đông tín đồ tôn sùng hăy c̣n lởn vởn ở chung quanh những nơi đền miếu cổ xưa này? Hay họ vẫn c̣n khấn vái cầu nguyện thần Ptah, tay cầm một linh trượng tượng trưng cho quyền lực và sự ổn định? Phải chăng vong hồn các vị tăng lữ và vua chúa thời xưa nay vẫn c̣n phảng phất trong những ṭa đền đài cổ của họ, những h́nh bóng sống động, tuy không c̣n thể chất?

Tôi t́nh cờ nhớ lại câu chuyện la lùng mà tôi được nghe thuật lại do một người bạn, mộ viên chức người Anh tùng sự với chánh phủ Ai Cập tại Cairo. Người bạn tôi đă gặp một thanh niên gịng quư tộc ở Anh Quốc đến Ai Cập trong vài tuần để đi du ngoạn và xem thắng cảnh. Đó là một thanh niên vô tư lự, chỉ biết ưa thích sự xa hoa vật chất. Từ Louqsor, y đến Karnak vào một buổi trưa và chụp một bức ảnh ṭa sảnh đường của đền thờ Amen Ra. Khi tấm h́nh được rửa xong, y lấy làm ngạc nhiên mà nh́n thấy trong đó có h́nh một vị đại tư tế Ai Cập, đứng dựa lưng vào một cột trụ đá, hai tay khoanh trên ngực. Y cảm thấy rúng động trong tâm hồn đến nổi tâm tính y hoàn toàn thay đổi. Kể từ đó, người thanh niên này chăm ch́ khảo cứu học hỏi về các hiện tượng thần bí và các vấn đề tâm linh.

Tôi vẫn ngồi yên trên thềm đá, không c̣n muốn đứng dậy. Lúc ấy tôi đă đắm ch́m trong một cơn suy tư triền miên không dứt, giữa những h́nh tượng câm lặng của các vị thần.

Nửa giờ trôi qua như thế, kế đó tôi bước vào trạng thái mơ màng. Một tấm màn dường như rơi xuống che phủ tầm nhăn quang của tôi, tất cả sự chú ư của tôi đều tập trung vào một điểm ở khoảng giữa hai chân mày, sau đó một luồng ánh sáng kỳ diệu phi thường, không hề thấy ở trần gian, bao phủ lấy tôi. Trong ánh sáng đó, tôi thấy một người đàn ông màu da sậm, vai rộng và cao, đứng gần một bên tôi. Khi tôi ngẩng mặt lên để nh́n người ấy th́ y cũng day mặt lại và ngó ngay tôi.

Tôi rung rẩy dưới cơn xúc động, khi tôi nhận ra y.

V́ người ấy không phải ai xa lạ, mà ... chính là tôi!

Người ấy có một khuôn mặt giống như của tôi bây giờ, nhưng y mặc y phục của xứ Ai Cập thời cổ. Đó không phải là bậc vương giả hay một người dân b́nh thường, mà là một tăng lữ với một cấp bậc nào đó, mà tôi nhận ra ngay do cái măo và chiếc áo của y.

Luồng ánh sáng lan rộng một cách mau chóng chung quanh y và lan ra tận phía sau, cho đến khi nó bao trùm một cảnh tượng diễn ra bên một bàn thờ: Nhân vật trong linh ảnh của tôi bắt đầu cử động và từ từ tiến đến chỗ bàn thờ. Khi y đến nơi bèn chấp tay cầu nguyện th́ thầm ...

Khi y bước đi, tôi cũng bước đi với y; khi y cầu nguyện, tôi cũng cầu nguyện với y, không phải như một người ngoài cuộc đi kèm theo một bên y, mà cũng như chính tôi là người ấy. Một linh ảnh mâu thuẫn: Trong đó tôi vừa là khán giả lại vừa là diễn viên. Tôi nhận thấy người ấy đang đau xót đến tận đáy ḷng, v́ t́nh trạng xứ sở của y, y động mối thương tâm ví nh́n thấy xứ cổ Ai Cập đang lâm vào cảnh suy tàn.

Trên hết mọi sự, y đang đau khổ mà nh́n thấy nền tôn giáo thiêng liêng của y đang lọt vào bàn tay nhơ bẩn của những kẻ bất lương tàn bạo. Trong cuộc cầu nguyện, y luôn luôn khẩn cầu các vị Thánh Thần hăy ra tay cứu vớt nền chân lư cho dân tộc của y. Nhưng sau cùng, Cơn buồn thảm của y vẫn không vơi, v́ y không nhận được một lời ứng đáp nào và hiểu rằng sự suy tàn của Ai Cập là một điều không thể cứu văn. Y bèn lui ra trong cơn thất vọng, và nét mặt ưu tư, ḷng buồn rười rượi. Ánh sáng ấy trở lại, vị tăng lữ đă biến mất cùng với cái bàn thờ. Tôi vẫn ngồi trơ một ḿnh, trần lặng suy tư gần bên đền thờ Ptah, một lần nữa. Lúc ấy tôi cũng đang nét mặt ưu tư và ḷng buồn rười rượi ...

Phải chăng đó chỉ là một giấc mơ, do các khung cảnh đặc biệt chung quanh tôi lúc ấy gây nên?

Phải chăng đó là sự cuồng loạn của một khối óc suy tư?

Phải chăng đó là sự thoát thai của một ư nghĩ t́m tàng gây nên bởi ḷng tha thiết cuả tôi đối với dĩ văng?

Phải chăng đó là do nhăn quang thần bí khiến cho tôi nh́n thấy vong hồn của một vị tăng lữ thât sự đă xuất hiện ở ngay chổ?

Hay phải chăng đó là cái kư ức xa xôi về một tiền kiếp cuả tôi khi xưa ở Ai Cập?

Đối với tôi, th́ v́ tôi nhận biết biết rơ sự cảm xúc của tôi đă căng thẳng đến mức độ nào trong khi và sau khi tôi có cái linh ảnh đó, nên tôi chỉ có thể có một câu trả lời. Người khôn ngoan không bao giờ kết luận vội vàng, v́ sự thật là một cái ǵ quá mỏng manh mà ta khó nắm chắc. Cổ nhân đă từng nói rằng sự thật nằm ở tận đáy của một cái giếng vô cùng sâu thẩm. Dẫu rằng thế nào, tôi nh́n nhận rằng tôi phải trả lời là đúng cho câu hỏi cuối cùng.

Nhà bác học Einstein đă bỏ cái quan niệm bảo thủ vẫn có từ trước về vấn đề thời gian. Ông đă chứng minh bằng toán pháp rằng người nào có thể quan niệm sự vật theo hệ thống bốn chiều đo sẽ nh́n dĩ văng và hiện tại với một tầm hiểu biết khác hẳn với quan niệm thông thường của người đời. Điều đó có thể giúp cho ta hiểu rằng thiên nhiên vẫn giữ một kư ức toàn vẹn về dĩ văng, nghĩa là tất cả sự diễn biến trong vũ trụ trong hàng bao nhiêu thế kỷ đă qua đều vẫn c̣n tồn tại trong kư ức thiên nhiên. Do đó tôi mới hiểu bằng cách nào, trong những cơn thiền định thâm sâu, người ta có thể giao cảm một cách bí mật và tự nhiên với cái kư ức đó.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 371 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 3:03pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

TÔI GẶP MỘT VỊ CHÂN SƯ

CHƯƠNG MƯỜI MỘT


      
Cách vài dặm phía tây bờ sông Nil ở Louqsor, một dăy đồi màu nâu sậm tách khỏi nền trời, ngăn cách vùng thung lũng ph́ nhiêu với vùng sa mạc Lybie. Dăy đồi này che khuất một truông núi khô khan dưới ánh nắng như thiêu đốt của mặt trời, không một ngọn cỏ mọc, toàn là đá tảng và cát nóng, không một sinh vật nào sống tại đó chỉ trừ loài rắn rết và bồ cạp. Đó là vùng nghĩa địa chôn xác chết của thành Thèbes thuở xưa, ngày nay đă biệt tích. Nhiều xác ướp hăy c̣n nguyên vẹn đă được bốc ra khỏi những hầm hố tối tăm trưng bày trước mắt công chúng tại những viện bảo tàng lớn ở Âu Mỹ.

Tôi đang sưu tầm khảo cứu về nhiều vấn đề trong những ngôi lăng tẩm và những ngôi đền lộ thiên ở cách thung lũng này chừng vài dặm, và trong những dấu vết c̣n sót lại của thành Thèbes cổ xưa vừa mới được đào xới lên khỏi mặt đất ở ven miền sa mạc phía Tây. Để thực hiện chuyến đi thám hiểm đó từ Louqsor, không có phương tiện di chuyển nào tốt hơn là một con lừa, v́ giống lừa có một bước đi vững chắc, biết t́m đường vạch lối đi xuyên qua những tảng đá lởm chởm, tránh những đá sỏi bén nhọn và những bờ vực thẳm.

Đó là những cuộc du hành lư thú, do đó tôi có dịp thỏa măn sự khao khát hiểu biết, t́m ṭi những tài liệu cổ về những pháp môn bí truyền và những hoài bảo tâm linh của thành Thébes cổ xưa nay đă bị chôn vùi dưới mặt đất. Tôi cũng đă ghi nhận những dấu vết huyền linh c̣n xót lại trong bầu không khí của vài ngôi mộ cổ, hăy c̣n chưa xóa mờ cái ảnh hưởng của sự suy tàn và kiệt quệ tâm linh đă làm cho gịng dơi của một dân tộc kiêu hùng và cao cả của thời xưa rơi vào bàn tay ô uế của những kẻ thực hành khoa Bàng môn tả đạo.

Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đă gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đă do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi v́ tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đă tuyên bố, và bởi v́ những điều ấy có thể làm cho cài thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi v́ tôi đă cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quư độc giả. Tuy nhiên, tôi đă cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ư muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà h́nh như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại.

Tôi đă sưu tầm trong những ngôi mộ cổ trên thung lũng từ sáng sớm đến quá trưa. Để trở về nhà mau hơn, tôi noi theo con đường tắt vượt qua các ngọn đồi và tránh con đường ṿng quanh xa lắc dưới đồi. Lên đến đỉnh đồi, tôi bước xuống đất để cho con lừa nghỉ mệt một lúc v́ nó đă thở hổn hển. Thừa dịp đó, tôi ngắm cảnh hùng vĩ ngoạn mục ở xa xa, dài ra đến tận chân trời. Đỉnh ngọn đồi này cao hơn cả các ngọn đồi khác, và ngự tri khắp vùng đồng bằng ở chung quanh. Màu cát vàng của sa mạc tương phản rơ rệt với nền xanh tươi của đồng ruộng đă được tưới nước. Một sự yên tĩnh lạ thường bao trùm khắp cả, và thấm nhuần vào người tôi với một cảm hứng tâm linh dồi dào. Người ta có thể cảm thông với thiên nhiên một cách tuyệt diệu không đâu hơn chỗ này. Bốn bề hoàn toàn im lặng, tôi cảm thấy rằng h́nh như tôi đă cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài.

Tôi vừa quay lại, và đi vài bước th́ chính lúc đó, tôi nh́n thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc. Người ngồi yên bất động, và dường như đắm ch́m trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi nhỏ, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một cḥm râu ngắn. Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nh́n thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhăn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu măi vào kư ức tôi.

Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đă làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, h́nh bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tṛng trắng tinh anh tương phản rơ rệt với tṛng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục.

Chúng tôi im lặng nh́n nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những ǵ người đă nói trước tiên, v́ trí óc của tôi h́nh như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng. Một bộ phận nào bí mật th́nh ĺnh hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nh́n thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác h́nh như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đă rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm.

Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, th́ người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, th́ mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh tôi.

Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đă tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Dông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu ǵ để vào đề, th́ như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói:

- Thưa ngài, tôi chắc ngài đă biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài.

Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nh́n tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên:

- Phải tôi hiểu.

Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, v́ điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng.

Đôi mắt của dị nhân lại nh́n tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói:

- Chính tôi đă có ư gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy.

- Ngài muốn nói chi?

- Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đă.

Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đă nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rơ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nh́n vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác.

Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ư và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nh́n tôi, th́ đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu. Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Dôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói:

- Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài.

- Thật vậy sao? Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đă điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự t́nh cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên t́nh cờ, trước hết đă ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta.

Tôi lắng nghe, mà trong ḷng hồi hộp trông chờ những ǵ sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đă phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững t́nh h́nh. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người có một tŕnh độ tâm linh cao cả như thế.

Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mănh lực vô h́nh, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đă kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả. Người c̣n nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến ḿnh, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị chân sư. Người nói:

- Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nh́n nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai. Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nh́n nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm.

Tôi cảm thấy dị nhân nói có lư. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị chân sư đă từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rơ những điều huyền diệu của cơi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết.

Thay v́ để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong ṿng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đại tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử.

Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ư muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian. Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác ḿnh một cách thụ động.

Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ:

- Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi th́ có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, v́ đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton.

Tôi thụt lùi v́ ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài:

- Tôi có thể được biết quư danh của ngài chăng?

Chân sư im lặng một lúc và nh́n phong cảnh ở đằng xa. Tôi nh́n gương mặt cao quư của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói:

- Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hăy gọi tôi là Ramak Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu rơ ư nghĩa của nó. Theo tôi nó nghĩa là Bằng An. Xứ Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thể thế giới. Tôi đă từng châu du khắp cả năm châu bốn bể. Tôi chỉ có thể xác của người phương Đông, c̣n về tinh thần th́ tôi không tùy thuộc mộ xứ nào nhất định. Tâm hồn tôi chỉ thuộc về bằng an.

Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rơ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của ḿnh. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu v́ chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi. Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một ḿnh tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rơ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một tŕnh độ tâm linh và giác ngộ cao hơn tŕnh độ của tôi hiện giờ. Ngài nói một cách thành thật, vả thậm chí cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đă gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nil, trong đền thờ Louqsor.

Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi v́ ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy.

Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt chân sư, v́ cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn.

Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trợt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nh́n lên đỉnh đồi hùng vĩ.

Chân sư Ramak Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm ǵ ở đó, tuy "Rất bận rộn," nhưng vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ c̣n ngồi ở đó chăng, khi màng đêm rơi xuống bao phủ lấy trọn dăy đồi Lybie?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 372 of 2534: Đă gửi: 30 June 2008 lúc 3:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THÔNG ĐIỆP CỦA CHÂN SƯ

CHƯƠNG MƯỜI HAI

 

Như đă hẹn, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa chúng tôi diễn ra giữa những cảnh hoang tàn của đền Louqsor. Tôi ngồi trên một tảng đá dài có khắc đầy chữ ám tự bên cạnh chân sư, ngài cũng ngồi xếp bằng hai chân và nh́n tôi.  

Quyển sổ tay của tôi đă mở sẳn, tôi cầm bút ngồi đợi, sẵn sàng ghi chép thông điệp của chân sư bằng tốc kư. Chân sư Ramak Hotep không phí thời giờ với những lời khách sáo rườm rà, ngài vào đề một cách đột ngột:

- "Những người khai quật các mồ mả của xứ cổ Ai Cập để giải tỏa những sức mạnh nguy hiểm cho thế gian. Những nhà khảo cổ cũng như những kẻ đào mồ để cướp của, đă vô t́nh khai quật mồ mả của những kẻ ngày xưa thực hành khoa tả đạo bàng môn. Trong thời kỳ cuối cùng của lịch sử Ai Cập, những người thuộc thành phần trí thức và tăng lữ đă sa đọa rất nhiều, người ta thực hành công khai những tà thuật ma giáo và pháp môn phù thủy. Khi ánh sáng chân lư, đầu tiên được phổ biến trong nền tôn giáo chân chính cổ Ai Cập, bắt đầu lu mờ, và những tà thuyết dị đoan, duy vật càng ngày càng lộng hành, người ta thấy xuất hiện việc tẩm xác ướp với tất cả nghi lễ phiền phức kèm theo đó. Tuy nhiên, đàng sau những tà giáo là bày ra sự thực hành việc tẩm xác người với những mục đích ám muội, đen tối và tà vạy, c̣n có một chi phái chủ trương việc ướp xác để duy tŕ một sự liên lạc lâu bền với cơi hồng trần.

"Lúc khởi thủy th́ khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những vị thánh vương cùng hoàng kim thời đại, của thời kỳ tiền sử Ai Cập và cho những vị Đạo Trưởng đă tiến hóa cao về phương diện tâm linh, là những sứ giả chân chính của Thượng Đế, để cho thể xác đă thấm nhuần thần lực thiêng liêng của các ngài vẫn c̣n tồn tại lâu bền và làm cái trung gian ban rải thần lực cho thế gian.

"Từ đó mới nảy sinh ra sự thờ phượng tổ tiên, những thi hài được tẩm chất thơm chỉ là để theo một nghi lễ chánh thức nhằm mục đích để cho con cháu biết mặt những tổ tiên đă qua đời. Thật ra đó là cách bắt chước sai lạc cách thực hành khoa ướp xác thời cổ Ai Cập để giữ ǵn những di tích thánh thiện của các vị Thánh vương và tăng lữ chân tu. V́ trong thời gian tàn tạ suy vong trở về sau, khi xứ này mất đi nguồn ánh sáng tâm linh chân chính, và người ta dùng tà thuật để kêu gọi những sức mạnh hắc ám của cơi âm ty, những người trí thức trong giới tăng lữ và giai cấp cầm quyền chỉ định rằng người ta phải ướp xác của họ sau khi chết. Người ta thực hành việc ướp xác này, hoặc v́ mục đích dùng tà thuật hắc ám, hoặc v́ sợ mất linh hồn trong cơi địa ngục mà họ sẽ bước vào sau khi chết, hoặc chỉ biết làm theo tập tục của phần đông. Trong hầu hết mọi trường hợp, trước khi chết mỗi người đều lo sắp đặt mọi việc và đă chuẩn bị sẵn ngôi mộ của ḿnh từ khi c̣n sống. Khi đă sắp đặt xong th́ đương sự hoặc một vị tăng lữ rành về khoa pháp môn mới kêu gọi một âm binh hay quỷ thần, có khi là một vị thần tốt lành nhưng thường th́ là thần hung ác, để bảo vệ trông nom cái xác ướp của y và làm thần canh gác giữ mồ.

"Để bảo vệ những xác ướp đó, lúc đầu những ngôi mộ được che dấu mộ cách kỹ lưỡng và sau đó người ta tuyên bố với công chúng rằng người nào động chạm đến các mồ mả sẽ bị các thần linh trừng phạt một cách nặng nề kinh khủng. Dân chúng tin theo lời cảnh cáo đó và những mồ mả được tôn trọng suốt một thời gian rất lâu. Nhưng v́ các tăng lữ và giới cầm quyền càng ngày càng sa đọa nhiều hơn gấp đôi lần nên dân chúng dần dần không c̣n tin tưởng nữa. Từ đó việc khai quật mồ mả diễn ra một cách công khai để cướp lấy vàng ngọc châu báu được chôn theo những xác ướp của những nhân vật quyền quư thời xưa.

"Trong trường hợp xác ướp là của một người có ít nhiều hiểu biết về khoa pháp môn hoặc đặt dưới sự trông nom của các nhà phù thủy, th́ những vị thần linh được kêu gọi để giữ ǵn mồ mả và trừng phạt những kẻ đào mồ. Những phù phép bí mật đó thường vô cùng nguy hiểm nhưng rất hiệu nghiệm. Những mảnh lực thần bí của nó vẫn có trong những ngôi mộ khép chặt và có thể tiếp tục tồn tại ở trong suốt nhiều ngàn năm. Bởi vậy những nhà khảo cổ vô t́nh khai quật những mồ mả đó sẽ chuốc lấy những điều tai họa hiểm nghèo.

"Nhưng nếu cơ nguy đó chỉ hăm dọa sự an toàn tính mạng của các nhà khảo cổ và gia đ́nh họ mà thôi, th́ điều mà tôi muốn nói đây không có quan trọng lắm. Trái lại, vấn đề này có liên hệ đến sự an toàn của toàn thể thế giới.

"Đó là v́ trong số những ngôi mộ của các nhân vật quyền quư và tăng lữ mà người ta khai quật lên, có những mồ mả được đặt dưới sự giữ ǵn và bảo vệ nói trên. Từ trong các ngôi mộ đó, hằng hà xa số những âm binh ác quỷ bị giam hăm trong ấy từ lâu, bèn kéo ra tràn đầy khắp nơi ở cơi hạ giới. Mỗi xác ướp được bốc ra và chở vào những viện bảo tàng bên âu Mỹ có mang theo các vị thần linh cùng với cái ảnh hưởng khốc hại của nó. Điều đó chỉ có thể đem đến cho thế giới những hậu quả tai hại, hậu quả với những tính chất khác nhau, thậm chí có thể gây một ảnh hưởng phá hoại đối với các vận mệnh các quốc gia. Những người Tây phương v́ không có phương pháp tự vệ chống lại nên đành chịu bất lực trước những kẻ vô h́nh đó.

"Khi thế giới chúng ta hiểu rằng có nhiều thần linh hung ác bị nhốt trong những ngôi mộ cổ, th́ chừng đó có thể là quá trễ. V́ lúc đó tất cả các mồ mả đều đă bị khai quật và những hung thần ác quỷ thoát ra khỏi mồ. Chúng có thể gây nhiều điều tác hại cho thế gian, và ngoài ra chúng ta c̣n gây nên những vụ phản bội trên lĩnh vực quốc tế. Sự mù quáng của con người đối với những luật thiên nhiên không v́ thế mà không đem lại sự đau khổ cho những kẻ vi phạm. Không biết ǵ về những mảnh lực khốc hại của khoa pháp môn phù thủy, không phải là một lư do để tránh cho thế kỷ này tránh khỏi cái hậu quả trừng phạt dành cho những kẻ đột nhập vào những chốn thâm nghiêm, một hành động ṭ ṃ không cần thiết chút nào cho họ.

"Những hung thần ác quỷ đó, được tạo nên bằng phương pháp phù thủy, đă được giải tỏa trong thế kỷ hiện tại một số khá đông để gây nên sự khủng hoảng cho thế giới. Chúng hành động từ cơi giới vô h́nh, nhưng cũng rất gần với cơi hạ giới để ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống trực tiếp của người trần gian. Chúng tôi là những người chăm lo săn sóc cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, có thể triệt hạ những mảnh lực hắc ám đó trên địa hạt của chúng, nhưng luật thiên nhiên không cho phép chúng tôi tiêu diệt chúng, cũng như chúng tôi không thể trừ khử những người trong nhân loại mà chúng tôi biết là tối nguy hiểm cho kẻ khác. Quyền năng của chúng tôi chỉ giới hạn trong việc che chở những người hoặc những cơ quan tốt lành dưới sự bảo vệ đặc biệt của họ.

"Những vật ǵ mà người ta lấy ra từ trong các ngôi mộ cổ cùng với những xác ướp, vàng ngọc, bùa chú, y phục ... đều có thấm nhuần cái ảnh hưởng thần bí của ngôi mộ. Nếu ảnh hưởng đó không phải do người ta đă dùng phù phép trấn ếm quỷ thần th́ việc khai quật mồ mả không có hậu quả ǵ, c̣n nếu ngôi mộ có thần linh giữ ǵn th́ việc đào mồ cướp của sẽ gây nên tai họa hiểm nghèo. Những nhà khảo cổ và Ai Cập học trái lại, thường không biết rơ điều đó và không biết phân biệt những ngôi mộ nào là có phù phép trấn ếm và ngôi mộ nào là không, nên họ khai quật luôn cả thứ nọ cũng như thứ kia. Dầu người ta có biết hay không, tôi cũng đưa ra cho thế giới cái thông điệp này là "Chớ nên động chạm đến các ngôi mộ cổ mà người ta không hiểu tính chất hiển linh huyền bí của nó." Người đời phải dừng tay lại không nên khai quật mồ mả, cho đến khi nào họ có được sự hiểu biết đầy đủ để nhận định những hậu quả khốc hại của điều mà họ định làm.

"Phần nhiều các vị vua chúa Ai Cập đều có ít nhiều quyền pháp thần thông, với những ư đồ tốt hoặc xấu, v́ họ được các vị tăng lữ pháp sư truyền dạy cho họ.

"Lúc đầu, người ta chỉ dùng một những phép thuật thần thông để tự vệ hoặc để trừ gian và bênh vực kẻ yếu, nhưng khi xứ Ai Cập đă mất đi những lư tưởng cao thượng của nó, th́ người ta bắt đầu lạm dụng những pháp thuật này. Chẳng hạn nhà phù thủy dùng tà thuật để ám hại kẻ thù ở cách xa, hoặc chế ngự, khuất phục người khác để thực hiện những tham vọng cá nhân của ḿnh, hoặc để giúp cho thân chủ của y. Người ta đă dùng những pháp thuật thần thông đó để sai khiến âm binh canh gác và giữ mồ.

"Việc khai quật những ngôi mộ cổ ở Ai Cập có thể đặt kẻ vi phạm dưới những ảnh hưởng khốc hại của những mảnh lực huyền bí vô h́nh. Dẫu cho đó là ngôi mộ của một vị hiền minh và có pháp thuật thần thông cao cường, th́ thế gian cũng có thể bị ảnh hưởng lây và chịu sự trừng phạt đau khổ v́ đă làm động mồ mả của một linh hồn tiến hóa. Tuy nhiên, những đồ bảo vật bị lấy trộm ở ngôi mộ đó sẽ không gây hậu quả tai hại, mà trái lại có một ảnh hưởng tốt lành. Nhưng nếu người sở hữu bảo vật ấy có một tâm địa bất hảo, th́ họ sẽ không thừa hưởng được một ân huệ tốt lành nào cả, mà ân huệ này dành cho những người hiền lành và có tâm địa thanh cao. Đó là do ảnh hưởng tâm linh trường cửu lâu bền của một vị vua đạo đức có một tâm hồn cao quư hồi thuở sinh tiền. Vua Toutankhamon là một trường hợp tiêu biểu cho những vị vua đó. Người có một sự hiểu biết thâm sâu về khoa huyền môn và một tâm hồn đạo đức. Sự khai quật ngôi mộ của vị vua này đă gây tai họa cho những người đào mồ và bằng một cách khó hiểu, cho cả thế giới bên ngoài. Trong những năm tới đây, thế giới c̣n phải đau khổ nhiều và phải chịu hậu quả của những sự xúc phạm mồ mả của những bậc tiền nhân thời cổ Ai Cập. Tuy nhiên, những sự khó khăn về vật chất sẽ đưa đến một sự lợi ích về tinh thần.

"Bởi đó, tôi lập lại, những người muốn t́m kho tàng ẩn dấu, hoặc do một sự thúc đẩy của ṭ ṃ quá đáng hơn là một tinh thần khảo cứu khoa học thật sự, mà muốn thám hiểm vào tận những nơi cổ kính phù phép trấn ếm linh thiêng, sẽ không tránh khỏi tai họa hiểm nghèo. Ở bên Tây Tạng là nơi có những ngôi mộ ẩn dấu của những vị Lạt Ma thời xưa, người ta hiểu tại sao dân chúng không chịu để cho người ngoại chủng đột nhập vào xứ của họ. Nhưng ngày nào mà người ta được phép đến gần đế viếng thăm hay để chiêm ngưỡng những ngôi mộ đó, th́ những kẻ nào làm kinh động đến mồ mả sẽ mắc phải những tai họa khôn lường.

"Hồi thời thượng cổ, trung tâm chánh yếu của khoa pháp môn phù thủy vẫn là Ai Cập. Xứ ấy vượt hẳn cả Ấn Độ về chánh đạo lẫn bàng môn, nghĩa là những pháp môn chân chánh giúp đời hay những tà thuật hại người. Ngày nay những sức mạnh thần bí đă được phát động trong quá khứ, hăy c̣n ảnh hưởng đến dân tộc và xứ sở Ai Cập, và hậu quả có khi lành khi dữ. Hậu quả đó có thể là những bệnh tật, chẳng hạn như bệnh ung nhọt lở loét, một hậu quả của những mảnh lực phù phép tà vạy luôn luôn hành động trong xứ và ảnh hưởng đến những người dân Ai Cập thời bấy giờ.

"Vậy ông hăy ghi chép và truyền bá những lời cảnh cáo này. Bây giờ ông đă hiểu lư do của sự gặp gỡ của chúng ta. Dẫu cho chúng ta có bị sự chống đối, khinh bị do sự dốt nát vô minh của người đời, ta cũng làm xong bổn phận của ḿnh, bổn phận của tôi, và nếu ông muốn, cả bổn phận của ông. Định luật thiên nhiên vốn không tha thứ sự vô minh, dốt nát, nhưng trong vấn đề này, thậm chí đến cái lư lẽ đó người ta cũng không được viện ra để tự bào chữa cho ḿnh."

Thông điệp của chân sư Ramak Hotep đă chấm dứt. Tôi đă ghi chép lại đúng nguyên văn và tŕnh bày nơi quyển sách này.

Chân sư c̣n gặp tôi nhiều lần khác, kế đó tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh xa hơn về phía Nam. Trong mỗi lần gặp gỡ như thế, Chân sư đều có cho tôi biết thêm những tài liệu liên quan đến cái cơ quan huyền bí mà ngài có dự phần. Một ngày nọ, tôi có dịp đề cập đến vài kinh nghiệm của tôi ở Ấn Độ mà tôi có dịp nghe một đạo sĩ trẻ nói rằng thầy y đă có hơn bốn trăm tuổi. Chân sư Ramak Hotep trịnh trọng đưa ra một lời quả quyết lạ lùng và khó tin: Vài vị Chân sư đă từng sống từ thời cổ Ai Cập cho đến nay!

Tôi vẫn không quên những tiếng kêu ngạc nhiên mà tôi đă thốt ra khi tôi nghe ngài nói như vậy. Dị nhân quả quyết rằng thể xác của vị Chân sư nói trên nằm yên trong trạng thái xuất thần ở tận dưới đáy các ngôi mộ chưa được khám phá, và khoa khảo cổ của thế gian không bao giờ phát hiện được. Ngài giải thích cho tôi nghe rằng:

- "Những ngôi mộ của đấng Chân sư cao cả được giữ ǵn vô cùng bí mật đến nỗi những kẻ đào mồ không bao giờ t́m thấy được. Đó không phải là mồ mả của những người chết mà là của người sống. Những mồ mả đó không chứa đựng những xác ướp, mà chứa đựng thể xác của các vị Chân sư nằm trong một trạng thái đặc biệt mà danh từ xuất thần cũng chỉ diễn tả một cách gần đúng mà thôi. Ông đă nhận thấy rằng bên Ấn Độ các nhà thuật sĩ fakir tự để cho người ta chôn sống trong một thời gian, trong khi đó thể xác của họ nằm trong trạng thái hôn mê, xuất thần.

"Sự hoạt động của bộ máy hô hấp đă hoàn toàn ngưng hẳn trong khi đem chôn sống. Trạng thái của các vị Chân sư Ai Cập cũng giống như vậy một phần nào, nhưng bản lĩnh của các ngài c̣n cao xa hơn nhiều, v́ các ngài vẫn giữ cho thể xác c̣n sống trong khi xuất thần, và kéo dài đến nhiều ngàn năm.

"Hơn nữa, giữa các ngài và những nhà thuật sĩ Ấn Độ có một sự khác biệt rất lớn. Những nhà thuật sĩ đó rơi vào một trạng thái hoàn toàn vô ư thức trong khi bị chôn sống, họ không nhớ ǵ cả cho đến khi thức tỉnh. Trái lại những vị Chân sư Ai Cập vẫn hoàn toàn có ư thức khi ngồi trong ngôi mộ, thể xác của các ngài nằn trong cơn mê thiếp nhưng tinh thần th́ vẫn tự do hoạt động. Ở Ấn Độ, ông đă đến viếng "Người tu sĩ suốt đời không nói" ở gần Madras. Lần đầu tiên, ông thấy y trong cơn đại định xuất thần, thân ḿnh không cử động, xem dường như một xác chết. Nhưng trong khi đó tinh thần y vẫn tỉnh táo v́ khi ông đến lần thứ hai, không những y biết rơ những ǵ xảy ra trong lần viếng thăm đầu tiên, mà c̣n phản đối việc ông đă định chụp ảnh y. Trong cơn xuất thần, người tu sĩ ấy vẫn hoạt động trên lĩnh vực tâm linh và ngay trên cả địa hạt hồng trần bằng cách sử dụng một thể tinh anh như chất dĩ thái. Các vị Chân sư Ai Cập được đem chôn sống cũng ở trong một t́nh trạng tương tự, thể xác của các ngài nằm trong một trạng thái đại định c̣n thâm sân hơn nhiều. Trong khi đó, tinh thần các ngài vẫn tự do di chuyển, ngao du các cơi, và tư tưởng, cảm nghĩ một cách hoàn toàn ư thức. Các ngài có cái đặc quyền đi lại và hoạt dộng trong cả hai cơi giới, cơi giới vật chất và cơi giới tâm linh.

"Thể xác của ngài được ẩn dấu trong các ngôi mộ bất khả xâm phạm, trongkhi chờ đợi linh hồn các ngài trở về. Thật vậy một ngày kia, linh hồn các ngài sẽ trở về nhập vào thể xác nằm yên bất động, và sẽ xuất hiện trở lại ở cơi thế gian. Phương pháp làm cho các ngài hồi sinh trở lại phải được thực hiện bởi những người có đầy đủ bản lĩnh và thấu triệt những pháp môn cần thiết. Một trong những phương pháp đó là đọc những câu chân ngôn bí mật. Có điều lạ là thể xác các ngài chỉ ướp ở bề ngoài cho có lệ mà thôi, sau khi đă được bọc vải trắng và đặt trong ḥm đựng xác ướp. Tuy nhiên, những thể xác đó khác hẳn với những xác ướp khác ở chỗ c̣n nguyên vẹn và quả tim chưa lấy ra. Tất cả những bộ phận trong ngũ tạng c̣n y nguyên, chỉ từ cái bao tử đă xẹp xuống, v́ các ngài không c̣n ăn uống ǵ kể từ lúc xuất thần đại định. Một điểm khác nữa là các vị Chân sư đều có bao phủ gương mặt và toàn thân với một lớp sáp khi cơn đại định bắt đầu.

"Những ngôi mộ của các ngài được giữ kín, che dấu cẩn mật và chỉ có rất ít. Đó là v́ những đấng chân sư ở cấp đẳng rất cao mới có thể bước vào trạng thái đó và không phải vị chân sư nào cũng chịu làm như vậy. Trạng thái xuất thần đại định của các ngài khác hẳn với trạng thái của những người đồng tử (medium) và những người chịu phép thôi miên. Thật ra có những tŕnh độ đại định thâm sâu đến nổi những nhà khảo cứu hiện đại không thể thăm ḍ đến chỗ rốt ráo cùng tận. Những kết quả mà họ thâu thập được hăy c̣n rất nông cạn, so với trạng thái xuất thần đại định thâm sâu độc đáo của những vị Chân sư Ai Cập trong khi chôn sống. Những vị Chân sư này trong khi yên nghĩ dưới mồ, thật ra vẫn luôn luôn hoạt động ráo riết không ngừng.

"Một vị Chân Sư đă bị chôn sống từ năm 260 trước Thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác được hạ nguyệt từ trên 3,000 năm trước thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác nữa từ trên 10,000 năm nay! Tất cả những vị này đều vẫn hoạt động rất tích cực và trong ṿng bí mật cho sự hạnh phúc và tiến hóa tâm linh của nhân loại. Các ngài vẫn biết rơ những việc ǵ xảy ra trên thế giới, tuy rằng thể xác các ngài vẫn nằm yên dưới mồ. Đó là những người Toàn Thiện. Thể xác của các ngài đă trở nên bất khả xâm phạm, không một loài côn trùng sâu bọ nào có thể động đến, do bởi những nguồn thần lực mạnh kinh khủng toát ra từ toàn thân của các ngài.

Ngoài ra các ngài c̣n luôn luôn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vi Chân sư khác đang sống hiện nay, chính những vị này cũng có một phần thể xác sinh hoạt như người thường. Những kho tàng tâm linh quư báu do các vị Chân sư Ai Cập ǵn giữ từ thời cổ xưa sẽ được lưu truyền lại cho hậu thế, khi nào có một vị Chân sư của thời buổi hiện đại biết phép hành lễ để kêu gọi những vị tiền bối thức tĩnh và hồi sinh trở lại, khi ngày giờ đă điểm.

 

 

                                            

Paul Brunton

Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 373 of 2534: Đă gửi: 01 July 2008 lúc 12:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CHẾT OAN

 

 Câu chuyện này có thật mà tôi nghe kể từ một người bạn. Tôi không tiện viết tên thật của ngườ́ chết nên thay vào một cái tên khác. 

 Hậu năm nay vừa đúng hai mươi tuổi, v́ ham chơi nên Hậu bỏ học nửa chừng đi theo bạn bè rồi lập băng đảng. Đúng ngày mùng một tết Hậu cùng vớí đám bạn rủ nhau đi chơi đánh bài. Bài bạc th́ lúc nào củng xảy ra nhửng chuyện không hay như cải nhau hay gây v́ chuyện tiền bạc ǵ đó.

 Rồi một người bạn của Hậu đả tranh cải ǵ vớí một người khác. Hai người họ kênh nhau và nói là sẽ thanh toán nhau. Tưởng chỉ là nói thôi, nhưng thật không ngờ Hậu cùng mấy người bạn vừa bước ra parking, th́ người mà lúc nảy gây với bạn của Hậu đă chờ sẳn ngoài đó. Tay th́ cầm cây súng đứng cách Hậu khoảng mười lăm thước.

 Người đó đưa súng chỉa vào bạn Hậu và lảy c̣. Nhưng thật không ngờ viên đạn đó đi lạc hướng và trúng ngay vào cổ Hậu. Hậu té xuống giẫy giụa mấy cái rồi chết luôn. Người mà dau khổ nhất cái chết của Hậu là má Hậu. Khi nghe tin con ḿnh bị chết th́ bà ngả ra xỉu.

 Sau khi lo tang ma cho con ḿnh đàng hoàng th́ mọi việc đả trở lại như củ. Nhưng tối nào mổi khi lên giường th́ bà đều nhớ tới đứa con đă mất rồi, nước mắt bà cứ chảy ra cho dến khi bà ngủ hồi nào cũng không hay. Một hôm đang ngủ nửa khuya th́ bà nghe tiếng của thằng Hậu vang vang bên lổ tai ḿnh:

 "Má ơi .. dậy nói chuyện vớí con má ơi. Con buồn quá má ơi.. "

 Bà hốt hoảng ngồi dậy th́ thấy căn pḥng vẩn vắng lặng với ngọn đèn ngủ tù mù đang toả ánh sáng yếu ớt trong căn pḥng. Ngoài trời th́ gió đung đưa cây cối xào xạc tạo ra những âm thanh thật kỳ quái làm cho bà tự nhiên rùng ḿnh.

 Bà tự nhủ rằng không lẻ thằng Hậu nó về hay sao, nó kêu ḿnh dậy nói chuyện với nó. Không lẻ hồn nó chưa được siêu thoát sao. Nhưng bà lại nghỉ ra một lư do đễ tự trấn an ḿnh là chắc tại nhớ nó quá. Nên nằm mơ thấy vậy thôi.

 Nhưng vừa nhắm mắt lại th́ tiếng của Hậu lại vang vang bên tai bà. Mổi lúc một lớn làm bà không tài nào ngủ được. Người bà bắt đầu run lên v́ biết thằng con bà nó hiện hồn về và đ̣i nói chuyện với bà. Rồi trời củng hừng sáng và bà lập tức chạy ra khỏi pḥng kể đầu đuôi câu chuyện cho mọi người nghe. Nhưng không ai trong nhà tin là Hậu hiện hồn về. Họ cứ cho là bà v́ nhớ thương nó quá nên ảo tưởng vậy thôi.

 Sang đêm hôm sau th́ cũng như đêm hôm qua,  đúng vào nữa đêm th́ tự nhiên gió thổi mạnh lên làm cho cánh cửa mở toang ra và đập mạnh vào. Bà lấy hết can đảm đi tới cửa sổ đóng kỷ cánh cửa lại và cài luôn then chốt.
Đang nằm trên giường mà bà vẫn nghe tiếng gió ở bên ngoài thổi mạnh làm cho cây cối kêu cà kẹt tạo cho bà cảm giác rùng rợn. Rồi có tiếng như ai đó đang đập vào cửa sổ của bà nghe cốp.. cốp. Bà hoảng quá kéo cái mền trùm lên quá đầu và co rúm người lại.

 Tiếng gỏ cửa lớn dần lên và nhỏ từ từ theo gió.. chằng bao lâu th́ có một ngọn gió khác thổi mạnh lên và lần này bà không c̣n nghe tiếng gỏ cửa nữa mà tiếng bàn tay ai của ai đó đang cào lên cửa sổ cũa bà. Lúc này mặt của bà tái xanh giống như không c̣n một giọt máu nào. bà sợ hăi lấy hai tay bịt lổ tai ḿnh lại hy vọng đừng nghe những âm thanh kỳ quái đó nữa. khoảng một lát sau th́ bà lại nghe tiếng của Hậu ở ngoài cửa sổ vọng vào:

 " Má ơi..mở cửa cho con vào má ơi.. con lạnh quá má ơiii ..

 Lúc này th́ tim bà như ngừng đập người bà cứng đơ, đúng rồi Hậu hiện hồn về thật rồi không phải ḿnh tưởng tượng ra, bà vừa sợ vừa thấy tội nghiệp cho con. Không lẻ hồn nó c̣n loanh quanh trong nhà này sao. Lúc này bà nhớ lại nhửng lời người ta nói là:

 Nếu ai bị chết oan th́ bốn mươi chín ngày sau người đó mới biết ḿnh chết. không lẽ thằng Hậu nó c̣n chưa biết nó chết rồi sao. Suốt đêm đó bà chẳng ngủ được v́ lo sợ. Sáng hôm sau th́ bà lập tức đi đến chùa đễ nhờ các thầy sư tụng kinh cho con ḿnh mau được siêu thoát đừng về làm cho ḿnh sợ nữa. 

 Vài ngày sau, khi bà đang giặt quần áo th́ bổng dưng máy giặt ngưng chạy. Nước trong máy giặt từ từ dâng cao lên và tràn ra ngoài, điện đèn trong nhà th́ tắt lụi hết, các cửa trong nhà th́ mở toang ra và có một làn gió lạnh thổi thốc vào làm bà rùng ḿnh toàn thân ớn lạnh, bà biết Hậu về nữa nên bà lập tức đi ra bàn thờ của Hậu lấy vài cây nhang đốt lên rồi  van vái:

 " Con ơi.. nếu con có bị chết oan th́ con hăy mau đi đầu thai đi, đừng có về đây làm cho má sợ nữa.."

 Sau câu nói của bà th́ đèn điện đỏ lại và máy giặt cũng chạy lại b́nh thường. Từ đó về sau bà không c̣n thấy Hậu về nữa. 


                                                                  Sưu Tầm

 

 

 

 

 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
ngocnhan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 155
Msg 374 of 2534: Đă gửi: 01 July 2008 lúc 2:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnhan

Bác hiendde sưu tập được thật nhiều truyện, thật khâm phục công sức của bác.

Cảm ơn bác nhiều.

__________________
tướng tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt
Quay trở về đầu Xem ngocnhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnhan
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 375 of 2534: Đă gửi: 02 July 2008 lúc 11:36am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

Thân chào bác ngocnhan. Có nhiều tác phẩm hay được nhào nặn bởi tim óc của người sáng tác, nếu không lưu truyền có phải đáng tiếc lắm ru? tui không dám nhận lời khen của bác đâu. Quư bác vào đề mục huyền bí này giải trí được vài trống canh là tui thấy vui lắm rùi. Kính.  

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 376 of 2534: Đă gửi: 02 July 2008 lúc 10:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ÔNG ĐỊA CỦA TÔI

 

Thông thường trong đời sống hằng ngày người ta chọn một tôn giáo, một niềm tin nào đó để khấn vái, để cầu xin những điều mà họ mong mỏi, họ bị lâm nguy hay khi trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Ví dụ mẹ tôi thường cầu trời khấn phật, bạn tôi cầu xin mẹ Maria, d́ tôi khấn vái phật bà Quan Âm, ông bán thịt quay BBQ ở phố Tàu mà tôi quen vái ngài Quan Công.

Riêng tôi Ông Địa là đấng vạn năng trong đời sống tâm linh của tôi. Tại sao vậy ? Bởi v́ tôi xin ngài thứ ǵ th́ ngài cho ngay không một chút lưỡng lự, ngoại trừ điều ước cuối cùng là trúng Superlotto Jackpot tuần này vô cùng nóng hổi: US$100M, có thể chọn cash value option, tiền tươi. Tôi nguyện ḷng khi nào ngài cho tôi vào danh sách ưu ái nhận giải Superlotto Grand Prize này th́ tôi bế ngài đi mỗi bước du hành từ Tahiti sang Cancun, từ Jamaica sang Bahamas...

Ông Địa và Phật Di Lặc :

Thông thường người ta hay nhầm lẫn giữa hai vị thần linh này. Khi tôi sang Trung Quốc, bạn tôi đưa tôi vào một nơi đại lư bán đồ sứ, người bán hàng chỉ tôi vài mẹo vặt phân biệt. Các tay làm đồ gốm khi làm mô h́nh khuôn đúc đức phật Di Lặc, th́ họ cho những dấu hiệu phân biệt để nhận diện như: ngài Di Lặc th́ khoác áo choàng cà sa có dấu chữ vạn, hay tay ngài đeo chuỗi hạt.

C̣n ông Địa hay ông Thổ Địa thường cầm quạt, hay quấn khăn trên đầu như chú cuội. Dáng dấp hai vị này dù là đức Di Lặc hay ngài Thổ Thần, Thổ Địa đều bề thế, costeau, đô con, nặng cân, mũm mĩm và bụ bẫm như nhau.

Tôi bảo người bán hàng cho hai ông ngồi ngang nhau trên bàn, để tôi so sánh là nên thỉnh ngài nào. Bạn đi chung cùng tôi bảo tôi so sánh làm ǵ, ngài nào cũng vậy thôi hay là thỉnh cả hai. Tôi trả lời anh:

- Này nhé, anh nh́n xem hai ngài đều nặng kư cả đấy, lo thức ăn đàng hoàng cho các ngài là cả vấn đề lớn lao, chứ phải giỡn sao.

V́ nhà tôi thờ ngài nào là thức ăn, trái cây, mâm quả phải thay đổi định kỳ, tươm tất như lời huấn thị của madame nội tướng của tôi. Trong khi liếc nh́n thoáng qua lại ngài nào cũng tốt mă, tốt tướng, đẹp giai và nụ cười quư ngài tươi như hoa, nhân hậu, rất duyên dáng như thống đốc heavy weight champ Jesse Ventura của tiểu bang Minnesota.

Cuối cùng tôi nghe lời người bạn thỉnh luôn hai vị về Mỹ. Tiền thỉnh không đáng là bao, nhưng sợ lỡ các ngài bị thương, mang tật nguyền như sút tay, găy chân là ḿnh ân hận suốt đời, quư ngài sẽ quở trách tôi cho cuộc đời này te tua. 

Hiệp 1. Ông Địa giúp trên biển.

Sau khi lấy tàu hỏa từ Thẩm Uyến (Shengzhen) về lại Cửu Long (Kowloon), chúng tôi lên phà từ Kowloon trở lại Hong Kong. Phà đang bị cơn băo dữ đe dọa, phà nhấp nhô, lắc lư v́ bị sóng gió nhồi, đột ngột thấy phía trước mặt chúng tôi, là chiếc tàu sắt đánh cá đang chống chọi lại cơn băo, và thật tội nghiệp con tàu đánh cá di chuyển như con rùa ḅ.

Trong khi phà chúng tôi cho c̣i hú inh ỏi báo động và cố lách, tránh né. Hai chiếc phà và tàu tránh nhau trong đường tơ kẽ tóc, ruột gan tôi co bóp theo từng tiếng c̣i tàu hụ, tôi ôm chiếc xách tay có tượng Ông Địa ngồi tịnh khẩu ở trong đó, Ông Địa chẩn từng nhịp tim, từng hơi thở để cho tôi sự b́nh yên.

Lên trên bờ chúng tôi vào một tửu lầu ăn tối, tôi cho người bạn đồng hành biết, tôi may mắn v́ có vị thần linh bám sát tôi, bạn tôi hỏi ai vậy. Tôi cầm bức tượng Ông Địa ra cho bạn tôi xem vị thần đỡ mạng chúng tôi hiệp một, gặp nạn trên biển. 

Hiệp 2. Ông Địa giúp trên không.

Trên chuyến bay từ HongKong sang Đài Bắc, ngài Di Lặc được yên nghỉ trong valise gởi trong compartment máy bay, riêng Ông Địa lại nằm theo xách tay di động của tôi, tôi cưng ngài như cưng trứng mỏng.

V́ trời băo bùng trong eo biển vịnh Đài Loan, chiếc Boeing 747 của hăng Eva Airlines bị băo nhồi khủng khiếp, nó lắc lư con tàu đi, làm hành khách hoảng vía lắc lư như con tim sai nhịp đập. Băo nhồi tiếp tục càng mạnh hơn, máy bay gầm thét làm thân tàu chao đảo khi con tàu cố giữ thế thăng bằng.

Giọng tiếp viên hàng không báo động cài seatbelt, giữ b́nh tĩnh và pḥng hờ emergency đă được hướng dẫn. Tôi ôm Ông Địa vào ḷng mà miệng đọc chú tiếng quốc ngữ Annamta: 

- Úm bà la cho tai qua nạn khỏi. Ông Địa c̣n là con c̣n.  Ông Điạ đi là con đi. Ông Địa có chút từ bi. Cho con thoát nạn con th́ đội ơn. Úm bà la cho tai qua nạn khỏi ...

Cứ thế mà úm bà la niệm chú chừng chục lần là mọi việc xong xuôi. Thế rồi phi trường Chang Kai Shek của Đài Bắc hiện ra trước mặt, chúng tôi thoát nạn v́ nhờ Ông Địa. Ngài đỡ chúng tôi hiệp hai. 

Hiệp 3. Cháy khách sạn Nam Hoa. 

Chúng tôi vào trọ tại khách sạn Nam Hoa, năm tầng lầu, nhân viên khách sạn cho biết họ chỉ c̣n pḥng trống ở lầu ba và năm thôi. Người bạn đồng hành của tôi chọn pḥng ở lầu ba v́ gần tầng dưới hơn. Tôi bảo bạn tôi nên chọn tầng thứ năm, v́ tôi muốn quan sát phong cảnh chung quanh khu vực thành phố.

Vă lại tôi không ưa số pḥng là hai mươi ba, con số vô duyên với tôi. Bạn tôi ch́u ư. Khi đồng hồ chỉ đúng 12:30 khuya, khách trong khách sạn chạy náo loạn, tiếng la bằng ngôn ngữ Quan thoại, dân Annamta như tôi bí lù, chả biết thiên hạ nói ǵ, anh bạn đồng hành phiên dịch lại. C̣i hụ báo hiệu chuyện chẳng lành, chúng tôi ngó xuống đường, xe cứu hỏa vừa trờ đến, khói từ lầu ba bốc ra ngoài.

Chúng tôi không dùng thang máy được v́ điện cúp, thang lầu bi kẹt cứng v́ pḥng hai mươi hai bị cháy sát thang lầu. Khi mọi diễn biến xong xuôi, chúng tôi đi ngủ lại lúc ba giờ sáng, bạn tôi bảo:

- Hên quá, tụi ḿnh suưt book pḥng số hai mươi ba.

Tôi cười kh́ và trả lời:

- Ông Địa bảo rồi pḥng hai mươi ba không tốt mà.

Tôi ôm Ông Địa ra hôn ngay vào bụng "pregnant" của ngài như lời tạ ơn sâu xa nhất. Bất cứ nơi nào bạn đi, trên trời, dưới biển hay trên bộ, ngài sẵn ḷng nở nụ cười hiền ḥa độ lượng bảo vệ tính mạng cho bạn được b́nh yên.

Ông Thổ Địa và Ông Thần Tài:

Ngày vợ tôi sang tiệm neo để tự làm chủ lấy ḿnh, tiệm này vốn là ngôi chùa Bà Đanh, khách lưa thưa vắng vẻ quá. Người co partner xúi bà nhà tôi nhào vô thử thời vận.

- Sợ ǵ một ăn hai thua..

Bà co-partner nói khích chúng tôi. Nhà tôi hỏi ư tôi. Tôi trả lời kiểu a dua a ṭng rất nịnh đầm:

- Bà sao tui vậy.

Thế là nàng vô vai tṛ làm co-owner. Sau hai tháng đầu tiệm y chang như xưa, khách vẫn ít ơi thưa thớt. Người co-partner là một phụ nữ Annamta gốc Bông bèn mời ông thầy tướng số gốc Trung quốc cư ngụ tại vùng Bông kiều Alhambra, nghe đâu người có nội công thâm hậu, thượng thừa về tử vi, phong thủy cho các cơ sở thương mại tại các khu vực đậm nét Bông kiều.

Thầy ếm bùa bát quái trước sau, thầy kêu chúng tôi treo kiếng ếm diệt tà ma quỷ. Qua người thông ngôn dịch lại là quỷ vampire Dracula c̣n sợ kiếng, huống chi quỷ ở tiệm neo là loại cắc ké, dế óc tiêu, dễ trị như trở bàn tay và không đáng kể.

Ông đi từ trước ra sau, ông lắc đầu ngao ngán, ông nói bọn tôi mua tiệm lầm chết bỏ v́ hướng cửa trước chạy thẳng một đường ra ngỏ cửa sau, chả kín đáo ǵ cả thảo nào vắng khách, nếu có bỏ thêm tiền vào th́ như con bệnh sốt xuất huyết thôi, v́ tiền vào ngă trước chạy thẳng ra ngă sau mất tiêu hết.

Ông c̣n chê thêm cái cây oak khổng lồ ở sân trước parking đậu xe là biểu tượng ma quỷ án ngữ cản khách vào. Thầy bùa cho treo miếng kiếng chống lại bọn tà ma quỷ ám haunting ghost trước cửa ra vào, mấy bà co owners tin như điếu đổ. Thầy bảo tiệm phải có chậu nước hay bồn nước trước cửa, một nguyên tắc chính của khoa địa lư phong thủy.

Chúng tôi mua chiếc bồn nước kiểng có cây bonsai, ngoài ra trang trí thêm cho kế hoạch hốt bạc là chưng cây tiền (money tree) mà lá có năm hay sáu cánh như lá cây khoai ḿ, rồi thêm vài cây thủy tre (water bamboo) mà các nơi bây giờ hay chưng. Phong thủy cần nước mà water bamboo nói lên cả một cái lư thuyết Âm Dương ngũ hành: "Thủy sinh mộc, Mộc sinh hỏa, Hỏa sinh thổ, Thổ sinh Kim". Mà kim là tiền tươi.

Theo thầy tướng số vừa đi, mồm th́ thầm chú trù ếm tà ma khi thầy bấm các nốt đốt tay. Đoạn thầy bảo các bà điều quan trọng hơn cả là phải có vị Thần Tài phù trợ. Vụ này thầy bùa cung cấp v́ vị thần này do một danh pháp sư Trung quốc đă thỉnh tận Trung quốc mới linh thiêng mà thầy biết nơi thỉnh. Sau này khi tôi nhận h́nh mà ḷng tự hỏi sao Thần Tài Trung quốc của danh pháp sư lại y chang các vị Thần Tài đang ngồi chễm chệ trên các kệ bán nhang đèn ở phố Broadway, khu Chinatown.

Tôi chăm chú nh́n một h́nh vẽ ngài Thần Tài trong y phục Trung hoa y như các đấng thần linh Quan Công, Trương Phi hay Lưu Bị. Sau khi thiết kế xong chương tŕnh pḥng chống tà ma quỷ ám tại tiệm, thầy bái bai chúng tôi và chúc lành mọi điều may mắn.

Thế là tiệm neo phục vụ người bản xứ Cờ Bông cộng thêm vị Thần Tài gốc Trung Bông trấn giữ ngay địa đầu cửa ải th́ nhất xứ thiên hạ, chứ c̣n lo ǵ nữa ? Cái lư thuyết địa lư phong thủy đó cắn bọn tôi một phần máu, máu đă đổ mà thầy bùa pháp sư từ Trung quốc không lật nổi thế cờ, người co partner xin tự nguyện rút lui.

Chúng tôi c̣n lại lẽ loi đơn chiếc và cô thế như chưa ai sẵn ḷng thế cô. Trên đường đi làm về, ngồi trên xe vợ tôi hỏi tôi tính ra sao, tôi bảo nhà tôi là kể từ nay tôi thỉnh Ông Địa của tôi hiện đang thờ ở nhà, lên giải vây thế vai tṛ ngài Thần Tài Trung quốc của vị pháp sư họ Ma, tức họ Mă theo chữ bỏ dấu Annamta.

Ngày "điều động" Ông Địa của tôi lên cho mặt trận miền tây đang yên tĩnh của thành phố Hồ tây (Westlake), chúng tôi làm lễ ra mắt cúng bái ŕnh rang như cô dâu mới về nhà chồng, nào là heo sữa BBQ Liên Hoa và vịt quay cùng hiệu Liên Bông BBQ từ Little Saigon lên yểm trợ, rượu Mai Quế Lộ theo đúng tiêu chuẩn văn hóa gốc Bông bên nhà vợ tôi.

Nhang khói vừa tàn ngay vào mùa prom các nữ sinh hai trường trung học Westlake high school và Thousand Oaks high school chen chân nối đuôi vào, bà chủ chú tâm mần bá thở. 

Nhà Tiên Tri Tí Hon Aaron McBain.

Nếu chúng tôi cưng Ông Địa chúng tôi bao nhiêu th́ chú bé Aaron, con trai bà Barbara McBain cưng Ông Địa chúng tôi bấy nhiêu. Bé Aaron năm tuổi, da mịn màng trắng toát như bông bưởi, đôi mắt vừa xanh biếc như màu nước biển crystal blue, vừa tṛn xoe, tóc vàng hoe, cười khoe hàm răng trắng đều đặn, thật xinh xắn.

Bà Barbara có một ḿnh cháu Aaron nên đi đâu cũng vác nó theo. Ông xă của bà là một pilot cho một hăng máy bay airlines lớn, ông thường vắng nhà. Tội nghiệp bà, đôi khi bà cô đơn, bà ghé tiệm chúng tôi làm neo, rồi tán dóc hay đôi khi chạy tạt qua thăm hỏi chúng tôi. Có hôm bà ghé tiệm bán sách kế bên để hai mẹ con bà xem sách. Tựu trung bà là khách quen thân như người trong gia đ́nh đối với chúng tôi.
Một hôm Barbara đang ngồi chuyện tṛ với nhà tôi trong lúc làm neo, tôi ngồi bàn desk bên trong đọc sách, một sự kiện bất thường, Aaron không chạy tung tăng như mọi lần, cháu ngoan ngoăn im lặng ở khu vực bàn thờ. Mọi người yên tâm tṛ chuyện mà chả màng thắc mắc Aaron đang nghĩ ǵ.

Cách thiết trí của tiệm là những tủ kiếng chắn phía trước che luôn bàn thờ, th́ từ bên trong tiệm chúng tôi không thể nh́n thấy bàn thờ và cháu Aaron. Trong sự hồ nghi nào đó v́ cháu Aaron im lặng quá, tôi bỏ cuốn sách xuống bàn đi về phía Aaron, tôi há hốc mồm khi trong thấy cái messy party lầy lội của Aaron.

Cháu quá vồn vă với Ông Địa của tôi. Cháu cho Ông Địa một buổi ăn trưa no nê, cháu đút Ông Địa đủ thứ mà mẹ cháu mang theo trong bao xách tay, từ bánh brownie đen ng̣m, chocolate pudding cũng đen ng̣m nốt, cho luôn một hủ Yoplait strawberry yogurt tưới lên đầu Ông Địa, lót dạ thêm McDonald's pancake, eggs, syrup. Cuối cùng bồi thêm b́nh sửa của cháu và ly Coke của mẹ cháu giải khát cho Ông Địa.

Tôi la báo động lên, mặt cháu tái mét, mẹ cháu chạy ra tức giận phết mấy cái tát vào mông cháu. Thế là nhà tôi âu sầu, người măi lẩm bẩm:

- Thôi chết rồi tận thế rồi, phá Ông Địa như vậy th́ chỉ có nước húp cháo rùa thôi.

Người ta nghỉ là cháo thượng hạng như cháo hải sâm, cháo bào ngư, kế nữa là cháo tôm, cháo cá và cháo thịt, tệ hơn th́ có cháo hột vịt muối, cháo dưa mắm, cháu củ cải muối, cháo củ kiệu, và hạng bét là cháo rùa v́ rùa làm ǵ có thịt, cái mai rùa nhai vào mỏi hàm, ê răng tức làm giàu cho nha sĩ thôi. Do đó cháo rùa là cháo đạm bạc, nghèo nàn nhất xứ, nghèo hết thuốc chữa.

Chúng tôi bỏ gần ba tiếng đồng hồ lau dọn cho khu vực được sạch sẽ. Cuối ngày khách ra về hết, hai vợ chồng lui cui tắm cho Ông Địa bớt nhầy nhụa, nhơ nhớp v́ các chất sữa, bơ, bột và đường bám vào người Ông Địa. Khi Ông Địa được lau khô bằng Kleenex soft paper tissues, rồi cho tí nước hoa fragrant body splash, mùi lemon romance vào hai vai ngài, mà h́nh như nhà tôi đang nói khẽ ngỏ lời xin lỗi, v́ chú bé Aaron chơi dại quá, đă hỗn láo với ngài.

Tôi c̣n bàn thêm trên đường về chuyến này tụi tôi xui tận mạng: "Ông Địa ra đời, nguyên quán Trung quốc tại miệt Á châu chỉ ưa ăn thức ăn Á đông thôi, sao bé Aaron nỡ tâm Mỹ hoá hay Americanized Ông Địa, thế th́ hỏng hết nát bét hết.

Tôi c̣n đưa ra lời tiên đoán, từ ngày mai trở đi là tiệm chúng tôi sẽ vĩnh viễn húp cháo rùa dài dài.
Ngày mai trở lại tiệm mọi người âu lo chờ đợi lời Ông Địa phán. Cái chúng tôi không ngờ là thằng bé dạy cho chúng tôi bài học vỡ ḷng về việc vệ sinh cho Ông Địa, là đă tám tháng trời ngài bị nhang khói bụi bậm hành hạ.

Trong khi theo Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ hay Hội Ung Thư Mỹ Quốc th́ đă có hàng triệu người Mỹ là nạn nhân của sự thể second hand smoker để rồi họ bị ung thư phổi, bị hen suyễn, bị bệnh tim mạch như heart attack hay stroke,...

Trong khi đó tám tháng qua Ông Địa chúng tôi phải vất vă hít thở nhang khói, khổ sở trăm lần hơn các nạn nhân second hand smokers, và tôi lại nhẫn tâm dùng dây xiềng xích Ông Địa lại. Lư do v́ các cháu nhi đồng của nước Mỹ khi lại tiệm thường hay bê Ông Địa ra chơi như búp bê, mà đă xích chân Ông Địa th́ làm cách nào Ông Địa exercise, hay vận đông thể dục được sau mỗi ngày ăn no nê, trong khi mỗi ngày lượng cholesterol Ông Địa càng gia tăng, v́ nào là bánh bao, bánh ḿ thịt Lee's Sandwiches, há cảo, sủi cảo, dumplings, xá xíu, xíu mại,... toàn thứ high cholesterols thôi. Sau khi Ông Địa được cho tắm piscine mát mẻ th́ ngày đó đông khách lạ thường. 

Bài học từ bé Aaron nhắc nhở: Nên tắm cho Ông Địa thường xuyên, đổi thức ăn cho ngài, ăn đồ Á châu hoài Ông Địa sẽ ngán ngẩm, chán chết mà ngài không dám nói.

Ông Địa cảnh cáo.

Tháng sau đó Barbara dẫn Aaron lại tiệm chúng tôi trong nỗi tức giận, khi Barbara khóc bù lu bù loa thông báo cho chúng tôi biết, Mark (bố cháu Aaron) đă đi theo con mèo hai chân bỏ sang Dallas và bỏ bà rồi. Những giọt nước mắt oan khiên, cô đơn được nhà tôi mách nước là chắc tại cháu Aaron đă chơi hỗn với vị thần linh là Ông Địa, nên mới có chuyện xui nhà bà ấy.

V́ Barbara nói lần đầu tiên xảy ra, sau sáu năm sống chung vô cùng hạnh phúc. Vợ tôi dẫn Barbara ra trước bàn thờ Ông Địa mách bảo như đạo diễn rằng th́ là Barbara nên chuộc tội xin lỗi, khấn vái Ông Địa và xin ngài cho Mark trở lại với gia đ́nh.

Barbara tin lời nhà tôi cứ mỗi hai tuần ghé qua làm neo và khấn vái đốt nhang và xá ba xá rất thuần thục, nhuyễn nhừ. Nhiệm mầu thay hai tháng sau Mark bị con mèo hai chân Dallas đá lăn cù, chàng chạy về lại Cali xin lỗi Barbara xin cho ở lại. Thế là tiếng đồn gần xa đến tai các khách khác. Mấy nàng Mỹ nữ bị chồng lay off, kép cho retire, bồ cho de, bị phụ t́nh đến kính cẩn nghiêng ḿnh thắp nhang cho Ông Địa của chúng tôi để cầu xin một phép nhiệm mầu trong đời sống hôn nhân hay trong t́nh yêu tràn trề hạnh phúc kiểu Cờ Bông.

Bé Aaron với bài học. Trở về với cát bụi.

Trong một hôm sáng đầu tuần vắng khách, cũng nhân dịp lễ Trung Thu vừa qua, ai nấy miệt mài làm việc cho khách hẹn. Mẹ cháu Aaron măi mê đang đọc sách ở tiệm bên cạnh, Aaron lẻn vào tiệm neo chúng tôi thực hiện kế hoạch mission impossible, Aaron liếc nh́n bàn thờ có thím gà mái dầu hấp muối của tiệm Sam Woo, gà mái bị phủ một lớp giấy kiếng trong suốt, transparent wrap cho khỏi bị bám bụi nhang, bên cạnh có nước tương gừng, nước chấm xí mụi, cơm nấu theo kiểu Hải Nam mà tất cả đều có bao kiếng wrap, rồi hai hộp chè hạt sen, bạch quả, khoai môn cũng để nguyên ngăn nắp trong hộp (theo kiểu chè Cali), kế bên là hộp bánh Trung Thu thập cẩm cũng c̣n nguyên trong hộp.

Chú bé Aaron ngẫm nghĩ không hài ḷng hay sao đó: "Tại sao cúng lại cho Ông Địa mà mọi thứ đều bị niêm phong, phủ kín mít từ gà, cơm, bánh, chè ? Tại sao cúng mà không mở ra ?".

Thế là cháu cho tự động mở toạc ra hết. Lư nhang quá đầy cháu đem các cọng nhang tàn trong lư hương đă đốt c̣n phần đỏ, cháu ném vung vẩy tứ tung ra thảm, xong lấy tro tàn nhang thoa lên thím gà mái, xong thoa luôn bốn cái bánh Trung Thu nhân thập cẩm, rưới tro tàn nhang lên cơm, lên chè...

Lại một lần tôi nữa tôi bắt gặp Aaron làm hỗn với Ông Địa, vị thần linh của tôi, tôi quát tháo lên. Thế là mẹ cháu từ tiệm sách bên cạnh chạy vội sang. Kỳ này Barbara giận dữ v́ Aaron dám trù ếm Ông Địa của chúng tôi sớm về với cát bụi, nên cháu thật sự muốn tập sự cho Ông Địa làm quen dần với bụi bậm.

Barbara lại đốt nhang quỳ tạ lỗi, cầu xin khấn vái sợ Ông Địa trở về với cát bụi th́ chắc là chàng Mark kia sẽ bỏ mẹ con nàng nhà sang Dallas luôn và dứt t́nh Cali muôn thuở. Sau khi Aaron cho Ông Địa xơi món gà ướp tro, ḷng tôi hơi lo âu, v́ lỡ Ông Địa có mệnh hệ chi th́ business của bà nhà đi đong như chơi, nhất là ở giai đoạn suy thoái kinh tế trầm trọng nhất của nước Mỹ hiện tại.

Vă lại cái dáng bề thế heavyweight champ của ngài mà chúng tôi cứ măi cúng kiến gà, vịt, tôm càng, heo, bánh bao, bánh ḿ thịt, xíu mại, xá xíu, há cảo, sủi cảo, dumplings, ... th́ Ông Địa sẽ một sớm một chiều sẽ thật sự trở về với cát bụi như chơi. Tôi đề nghị nhà tôi cho ngài theo chương tŕnh comprehensive diet, tức ăn kiếng toàn diện hay ăn chay.

Từ nay Ông Địa chỉ được dâng hưởng trái cây tươi và fruit juice thôi, ưu tiên là chuối cau (baby bananas) có nhiều potassium tốt cho bệnh nhân tim mạch và cho ông uống nước dừa xiêm loại tươi, nước mát bông cúc, nước mát rau má.. nước sâm American ginseng sẽ mát rượi tâm hồn. để ngài có được an giấc ngủ ngon, chứ không ngủ ngon chúng tôi sẽ có thêm nhiều khốn đốn vất vă.

Và cũng từ nay Ông Địa không c̣n được cung cấp các đặc sản "bia ngoại" như Heineken, Sapporo, Budweiser hay đế Mai Quê Lộ nữa, mà chỉ có: Nước sâm, nước mát, nước dừa. Trong ba thứ đó ông ưa nước nào ?

Cách đây hai tuần, mẹ con Barbara và Aaron McBain đến từ giă chúng tôi. Barbara cho biết Mark t́m được việc làm mới tại Georgia, nên gia đ́nh sẽ dọn qua Atlanta. Barbara và Aaron đốt nhang vái Ông Địa lần cuối cùng và bé Aaron thật dễ thương trong nụ cười thơ ngây hồn nhiên, cháu hôn má và cái bụng pregnant của Ông Địa. Tôi bảo Barbara là Ông Địa sẽ pḥ hộ cho Aaron học hành giỏi và biết đâu, mười ba hay mười lăm năm sau này cháu trở lại Cali, theo học đại học hay đi làm.

Hy vọng khi đó Ông Địa sẽ c̣n hiện hữu để tiếp đón người xưa với cái ân t́nh tri kỷ mà cháu Aaron đă dành cho Ông Địa của tiệm chúng tôi.

 "Goodbye and good luck to you all the way you go.."

 

                                                           Việt Hải

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 377 of 2534: Đă gửi: 02 July 2008 lúc 11:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ĐẠO TƯỞNG

 

 Tân Châu được biết, tên thật của ông là Lâm Văn Quốc tự Ba Quốc, con của ông Lâm Văn Ngươn, mẹ là Nguyễn Thị Nhỏ, quê ở Cái Cùng xă Long Điền, một thôn nằm ở giữa xă Vĩnh Mỹ và Gia Thái tỉnh Bạc Liêu.

 Cái đất sinh ra ông là Cái Cùng. Tên "Cái Cùng" gợi cho người ta một vùng rừng đất hoang sơ của U Minh, một vùng rừng c̣n những con rắn khổng lồ đêm đêm treo ḿnh giữa hai thân cây, tự lấy thân ḿnh làm gàu tát nước giữa đêm khuya để bắt cá.

 Thuở nhỏ nhà nghèo, Cái Cùng là nơi xa xôi hẻo lánh, nên ông chỉ học đến lớp abc.. Lớn lên với thân h́nh vạm vỡ của ông, ông thích vơ nghệ. Ông thích giao du với các hảo hớn, học vơ "Thiếu lâm tự" để thỏa chí b́nh sanh, ông lưu lạc lên đất Miên, qua Lào, học thêm bùa ngải.

 Sau bao năm "tầm sư học đạo" ông trở lại đất Tân Châu, lănh cai quản cho gia đ́nh người cậu của ḿnh là ông Nguyễn Chánh Sắt, người có tiếng trong làng văn làng báo thời bấy giờ. Ba Quốc nổi tiếng là người siêng năng, giỏi giang việc đồng áng, to lớn và "hầm hừ" vậy, nhưng hiền lành dễ thương.

 Chẳng bao lâu vào một đêm mưa gió, những đêm mà sông Tiền như con rồng chuyển ḿnh, dậy sóng hàn đập ́ ầm, sau những ngày bần thần ră rượi, biếng nói biếng cười, cặp mắt như lờ đờ, khi đỏ ngầu, thân xác ông như bị một vị khuất mặt nào đó hành hạ ông, ông la, ông hét, ông đấm ngực, ông đụng đầu vào cột nhà, rồi ông "phát huệ", ông lại xưng là "ta là tướng núi" và đủ thứ danh tánh.

 Sau đó ông lập am hành đạo. Rời nhà người cậu bỏ việc đồng áng, bằng bùa ngải ông bỏ công đi trị bịnh cho bà con dọc theo sông Tiền. Theo lời kể, lạ thay, bịnh nào ông trị cũng hết. Đó là bịnh nhẹ. C̣n bịnh nặng những bịnh kinh niên, ông gọi là bịnh tà ma ám ảnh, sau khi cho bịnh nhân uống bùa ngải, ông ra thần oai, ông đụng đầu vào cột nhà cho tà ma hoàn xuất.

 Rồi ông trầm tư dùng luồng sáng của đôi mắt chiếu vào bịnh nhân. Lạ thay bịnh nhân nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng lồm cồm ngồi dậy xá lạy ông.

 Vào năm 1928, cái am bằng tre lá như một cái cḥi ruộng được dựng lên, bề thế tọa lạc trên con đường gọi là Hương Chùa, cách chợ Tân Châu độ cây số ngàn.

 Đạo của ông lấy kinh gốc từ chùa Tây An. Mỗi ngày ông hành lễ ba thời: khuya, ngọ và chiều. Trước hết ông lễ Bàn Thầy, Bàn Thánh, Bàn Thần. Bàn chư vị Năm Ông, mỗi bàn mười hai lạy. Xong ông ra lễ bàn Thông Thiên lạy đủ bốn phương: đông, nam, tây, bắc.
 Khi hành lễ cũng có chuông mỏ ngân vang như nhà chùa. Sau mười bốn năm hành đạo 1925-1939 ông có trên mười ngàn tín đồ, sống rải rác trên khắp cả đất Tân Châu, từ sông lớn đến kinh rạch qua các đồng sâu.

 Ông đi đến đâu cũng được tín đồ tung hô vái lạy. Từ đó ông tự xưng là "Minh Hoàng Quốc", lúc ban đầu, đạo tưởng có nghĩa là ông ngồi tưởng cho bịnh nhân thoát bịnh. Sau cái nghĩa của Đạo Tưởng được nâng cao hơn, tưởng về "giang san tổ quốc, tưởng đến ngôi vua".

 Dần dần cái sân am hành đạo của ông biến thành sân vơ. Một đêm đệ tử thấy thần oai ông đụng đầu vào một thân cây, cây lá rung rinh như đương đầu trước ngọn gió. Như vậy chắc ông thấy cũng chưa đủ, có lần ông đóng cây đinh ba tấc vào cột nhà, trước mặt hàng ngàn tín đồ đứng vây quanh, ông đụng đầu vào cây đinh, cây đinh quẹo ngang mà đầu ông không hề có một vết xước sát.

 Rồi đêm đêm, như một thời xa xưa nào được dựng bên bờ sông đất Tân Châu. Trước cái sân am hành đạo của ông, lá dừa bó thành đuốc nổ lép bép, đỏ đùng đục như ánh ma trơi. Hàng trăm tín đồ với sắc phục vàng hươm, kiếm loang loáng trong ánh đuốc đỏ rực dưới trời đêm, bên con sông không bao giờ mệt mỏi, vừa trôi vừa vỗ sóng dập bờ.

 Chừng như đă có một đạo quân, ông Đạo Tưởng bắt đầu lập triều đ́nh: Ông là Minh Hoàng Quốc, quân trẻ của Nguyễn Văn Hương, Đinh Phan, Vương Lèo và Nguyễn Soái Năm. Đă có tham vọng có triều đ́nh có quân đội, ắt phải có ngày hành động.

 Theo sách đă ghi, đó là đêm mùng 8 rạng ngày 9 âm lịch năm Kỷ Măo (20 -2 -1939) đêm trăng lưỡi liềm mờ mờ ảo ảo cùng nhang khói, tín đồ từ xa kéo đến nghe ông thuyết pháp. Buổi thuyết pháp trong đêm huyền ảo ấy, ông không giảng giáo lư cao siêu của đấng Từ bi hay đức hy sinh cao cả của Phật Thích Ca, mà chuyển giọng sang sảng như tiếng kèn thúc quân.
 "Hỡi đồng bào. Dân tộc ta đă bị người Lang Sa cai trị nhục nhă gần trăm năm nay, số của chúng ta đă sắp măn, đồng bào hăy cùng bổn đạo đánh đuổi quân thù rửa nhục nước". Rồi ông đưa tay vỗ ngực dơng dạc tự xưng "Ta là Chánh v́ Vương thừa mạng trời lập Quốc".

 Như sóng dậy từ ḷng người, tiếng ḥ hét của tín đồ dâng lên như sấm, đuốc huơ cao, dao gươm kiếm vung lên loang loáng, tiếng reo tiếng trống tiếng phèng la nổi dậy trời... Chó dọc theo con sông cất tiếng tru xao xác cả dân chợ dân làng.

 Rạng ngày mùng 9 trời vừa hừng sáng, c̣ Laffont, quận trưởng Nguyễn Văn Đề, thơ kư Phan Văn Thông cùng với hai tiểu đội lính vũ trang súng trường, xếp hàng theo một bờ kinh Vĩnh An tiến vào đường chùa. Quân của c̣ Laffont vây tṛn lấy cái am của ông Đạo Tưởng trong tầm súng.

 Ông Đạo Tưởng không hề nao núng... Cái am của ông không c̣n là cái am hành đạo nữa. Là một triều đ́nh đă bày binh bố trận, sẵn sàng chinh chiến. Đuốc trước am, ông Đạo Tưởng oai vệ trong sắc phục vàng, áo tay rộng, đầu phủ bịch cân, lưng thắt dây đen, chân mang giày vàng, cổ đeo ḷng tḥng xâu chuỗi bồ đề, theo cách mô tả của người cùng thời "ông đường đường như Vu Hồng đương kiểm binh vua tướng quỷ, sái đậu thành binh hầu xuất trận".

 Đứng hai bên dài dọc theo sân vơ, gồm hàng trăm nam nữ "đầu trọc áo vàng" tay gươm tay giáo, bừng bừng khí thế. Giữa sân vơ là hai cái thây của hai vợ chồng Hương Kiếm đă bị đem ra tế cờ vào giữa đêm v́ tội phản đạo. Ông cất giọng về phía quân thù, nhằm nói với tên c̣ Laffont và quận Lễ:

 - Các ông cứ bắn súng đi. Súng đạn của các ông không lủng được da thịt của quân "Minh Hoàng Quốc" này đâu. Bắn đi.

 Sau lời thách thức của ông, súng vẫn im. Với giọng nói hùng hồn và sang sảng của ông, tín đồ không chỉ tin súng không làm ǵ được ông mà kể cả họ nữa. Họ đă được thầy tẩm cho bùa ngải rồi. Cả ông, cả họ không c̣n là người thường nữa, họ là người ḿnh đồng da sắt.

 Quận Lễ đứng từ xa cất tiếng:

 - Ba Quốc hăy buông gươm giáo đầu hàng. Không sẽ thiệt mạng.

 Đạo Tưởng phất tay áo:

 - Hỡi binh sĩ. Trẫm nay vốn thiệt là "Minh Hoàng". Các người hăy trả áo lại cho bọn Lang Sa cùng ta tiêu diệt kẻ thù. Tiến.

 Tín đồ của ông một loạt trụ bộ, rừng chân đi vừa chĩa gươm giáo vừa hô, tiếng hô như tiếng gầm phát ra từ những lồng ngực rừng rực máu.

 Phía bên c̣ Laffont và quận Lễ, đạn lên ṇng, một họng súng cất lên trời.

 - Cốp.

 Súng không nổ. Viên đạn lép đầu tiên của c̣ Laffont là bằng chứng cho ḷng tin của Đạo Tưởng và tín đồ.

 Gươm giáo lủa tủa trong vang lên cùng tiếng gầm thét. Súng bắt đầu nổ. Nhưng đạn chỉ cày lên sân cỏ bốc khói chẳng trúng ai. Quân "đầu trọc áo vàng" của Đạo Tưởng vừa nhảy vừa xông lên như một đám lân vừa đạp xác pháo vừa cất cao đầu.

 Khi mặt dần giáp mặt, ông Đạo Tưởng vừa lắc hai vai vừa bước, phất hai tay áo, đưa hai bộ vuốt hùm, mắt trợn nh́n c̣ Laffont, Lê trong nháy mắt, hai bộ vuốt hùm của ông sẽ móc cả ruột gan c̣ Laffont. C̣ Laffont vừa lùi bước vừa móc súng, bàn tay cầm súng của hắn run lẩy bẩy. Một tiếng nổ.

 Nghe tiếng "hực" của ông, binh lính tín đồ giật ḿnh quay lại. Con người siêu phàm đang loạng choạng, vừa ngă, vừa đưa cái bàn tay móng vuốt hùm lên lồng ngực. Cái lồng ngực căng đầy của ông máu tràn đẫm cả chiếc áo vàng. Không một lời trối trăn, chỉ có tiếng "ừng ực" uất nghẹn không nên lời, hai con mắt nh́n trời trợn ngược.

 Bao năm tu luyện bùa ngải, chỉ cần một tiếng nổ, một viên đạn đồng bằng đầu đũa, mộng lớn của ông bỗng tan biến như khói hương trong am hàng đạo trong cơn gió. Ông ngă xuống, không một tín đồ nào ở bên ông, quanh ông chỉ c̣n là gươm giáo của tín đồ đă tản chạy.  

 Sau này có một lăo râu dài đến tận ngực, vốn trước kia, thỉnh thoảng ông được Đạo Tưởng mời vào am đàm đạo. Ông kể lại với một vài bạn tri âm:

 "Ông Đạo muốn làm vua nước Nam, nhưng ông không biết biên giới nước Nam ḿnh từ đâu đến đâu. Nước Nam có bao nhiêu sông lớn, bao nhiêu núi cao, ông cũng không rành. Ông tưởng đánh được đồn Tân Châu th́ cả quân Pháp đầu hàng. Ông tội thay".

 Ông lăo đă đến bàn thờ ông Đạo Tưởng thắp ba nén nhang:

 - Chí khí của ông thật là đáng phục, xin ông nhận cho tôi ba lạy.

 Ông quỳ, ông lạy ba lạy rồi chắp tay ngửa mặt lên trời:

 - Hỡi ôi. Ông Đạo Tưởng.

 

                                                                 Sưu Tầm

 

 

 

 

 

 

 


 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 378 of 2534: Đă gửi: 03 July 2008 lúc 12:15am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

HAI CON MẮT

 

 Ông Cửu Niệm ốm li b́ đă gần hai tháng. Ông ta mắc một bệnh mà các thầy lang đều cho là bệnh mê sảng của những người già lẫn, tuy ông Cửu năm nay chưa đầy sáu mươi. Bệnh như không tăng mà cũng không  lui. Đêm nào cũng vậy cứ vào khoảng một, hai giờ khuya ông Cửu lại ú ớ kêu la cầu cứu, khiến con cháu ông đều thức dậy chạy cả đến bên giường.

 Vừa thở hổn hển ông vừa thuật lại giấc mơ dữ dội: hai con mắt hiện lên ám ảnh ông chăm chú nh́n ông, hai con mắt to như mắt hộ pháp ḷng trắng dă và tṛn, ḷng đen đen nháy và vuông. Ông rên hừ hừ:

 - Ối trời ơi.. hai con mắt.. hai con mắt vuông..

 Rồi cho đến sáng ông Cửu không sao ngủ được. Một hôm ông gọi đông đủ con cháu đến bảo:

 - Tao chắc đây là một việc báo thù hay một việc đ̣i của.

 Ông Cửu như ngần ngại, sợ hăi xấu hổ nằm im ĺm suy nghĩ, giương mắt nh́n thẳng lên đỉnh màn. Trong khi ấy các con cháu ông yên lặng, lo lắng kính cẩn đứng đợi. Về sau không giữ nổi ông thở dài kể tiếp:

 - "Chúng mày hẳn không biết v́ sao ngày nay tao có cái cơ nghiệp này, cha mẹ tao có để cho tao một đồng một chữ nào đâu. Cả người trong làng cũng vậy, thấy tao đương nghèo đói, đói thực ấy bỗng trở nên giàu có, làm nhà làm cửa, tậu vườn tậu ruộng th́ họ cũng đoán và đồn rằng tao được của,thế thôi, chứ sự thực th́ tao chưa hé ra với ai một lời nào.

 Nhưng sự thực th́ chính tao được của. Ngày xưa tao nghèo lắm, thường đi gánh thuốc lào thuê cho người hoặc làm bất cứ công việc ǵ, để kiếm một ngày hai bữa cơm và vài tiền quư, có khi trời làm đói kém, chỉ được một ngày hai bữa cơm thôi cũng đă là may lắm rồi.

 Một hôm tao đào móng nhà cho ông chánh Thà. Lúc ấy về chiều tối, ai nấy đă nghỉ tay sắp sửa ăn cơm. Nhưng tao c̣n đào chơi vài nhát thuổng nữa. Có lẽ trời xui khiến ra thế, v́ có ai bắt ḿnh làm đâu! Mà nào ḿnh có làm việc cho ḿnh cho cam!

 Bỗng giữa những tiếng giục giă:

 - Ra ăn rỗi, anh Niệm!

 Tao thấy chỏi tay và nghe thấy một tiếng cạch, lưỡi thuổng của tao vừa xiên xuống một vật rắn chắc như thành một cái tiểu sành vậy. Tao cúi xuống bới nh́n th́ đó là một cái vật nhỏ đậy nắp mà nắp lại trát gắn bùn rất cẩn thận. Tao đồ rằng trong đó có vật quư nên lấp lại điềm nhiên đi ăn cơm với mọi người.

 Đêm hôm ấy tao xin ngủ lại chỗ xưởng làm, như thể là một sự rất thường ḿnh vẫn ở làm thuê cho ông chánh, có khi trong luôn năm ba bữa nửa tháng không về qua nhà. Tao chờ đêm khuya vắng đến chỗ móng đào bới đất moi lên được một cái vại chỉ bằng cái vại nén cà nhỏ ấy thôi. Nhưng mà tao bê thấy nặng quá.

 Nền nhà mới dựng vào một khu vườn rộng, ông chánh Thà giàu lắm đất ở thênh thang có tới vài mẫu. Tao đem cái vại của tao tới bụi chuối rậm, rồi mở nắp lấy hết những vật ở trong, gói vào giẻ rách giấu đi. Tao cũng không biết đó là những vật ǵ. Măi hôm sau đem về mới biết là vàng, toàn những vàng thoi..."

 Ông Cửu ngừng kể. Các con cháu vẫn im lặng đứng chờ, v́ chưa thấy có liên lạc giữa hai con mắt vuông, với cái vại vàng chôn. Sau một lúc lâu ông Cửu lại nói:

 - "Vậy tao chắc nay... nó đ̣i của. Nó theo tao nó đ̣i của. Hai con mắt nó hiện ra kia.. hai con mắt nó về để báo cho tao biết.. để báo cho tao biết rằng tao đă đến ngày tận số"

 Ông Cửu nghẹn ngào như bị hai bàn tay vô h́nh bóp cổ. Người con cả ông an ủi.

 - "Thưa thầy, thầy được của là trời cho thầy. Của ấy là của trời. Nếu là của ông cha ông chánh Thà để lại, th́ sao ông chánh lại không biết ǵ, th́ sao xưa kia ông ta lại không đả động tới, mà các cụ tiền nhân cũng không báo mộng báo mù ǵ cho ông ta hay, nhất là tại sao của ấy lại không lọt vào tay ông ta.

 Lại điều này nữa khiến con tin chắc chắn rằng trời dành của ấy cho thầy, là tại sao thầy lại t́m thấy cái vại để vàng giữa lúc nghỉ việc ? Nếu thầy đào được sớm hơn vào buổi sáng hay buổi trưa chẳng hạn, th́ có phải đă ầm ĩ lên và ông chánh đă nhận mất vàng rồi c̣n đâu.

 Không, con dám quả quyết rằng của ấy là của trời chứ không phải là của tổ tiên ông chánh. Của trời dành cho thầy. V́ thuở xưa hay kiếp trước thầy đă tu nhân tích đức nhiều lắm".

 Ông Cửu mỉm cười nhắc lại:

 - Thầy đă tu nhân tích đức nhiều lắm.

 Ông nghĩ đến những việc ông đă làm, nào cho vay nặng lăi, nào trữ thóc gạo lại không bán làm cho giá cao lên trong khi bao nhiêu người chết đói, và ông lẩm bẩm:

 - Hay đó là hai con mắt của bọn ấy đến đ̣i mạng đến bắt ḿnh phải đem mạng ḿnh ra mà thế mạng.

 Nhưng ông nghĩ tiếp ngay, v́ trong khi ốm tinh thần ông sáng suốt khác thường.

 "Nếu là mất của chúng th́ sao hai con mắt ấy lại lạ lùng thế. Sao tṛng đen lại vuông lại to thế ? Không, chắc đây là mắt thần".

 Tự nhiên trong tưởng tượng của ông, một vị thần hiện ra ngồi trên bệ gạch, một vị nữ thần miệng gắn nhựa trám và hai con mắt to thao láo tṛng trắng tṛn tṛng đen vuông. Rồi pho tượng biến dần biến dần, chỉ c̣n lại hai con mắt đăm đăm nh́n ông. Ông lại la:

 " Trời ơi..hai con mắt..hai con mắt vuông.

 Và lắc đầu xua tay đuổi cả con cháu ra ngoài pḥng.
Mấy người con bàn nhau về căn bệnh cha. Họ đoán có tiền căn nghiệp chướng chi đây. Họ liền mời các vị cao tăng đến lập đàn ba ngày ba đêm ở sân để tụng kinh giải ách cho cha.

 Đêm thứ ba cúng chúng sinh: một nhà sư tốt giọng hát bài ca chiêu hồn để gọi linh hồn chúng sinh về nghe kinh phật, trong bọn có đủ các hạng cùng khổ trong loài người.

 Nào những kẻ sa cơ, lỡ bước...

 Bỗng ông Cửu kêu rú lên một tiếng rồi ngất đi. Và ông mơ thấy ông đi trên con đường nắng chân mỏi bụng đói. Hai bên đường lúa mọc xanh rờn, người làm việc đông đảo. Họ hát những câu ca dao mà ông cũng thuộc và những khi đi gặt hái ông thường hát.

 Tới một cái miếu con ẩn trong bóng cây đa um tùm, ông dừng chân ngồi nghỉ. Một tia hy vọng vụt chiếu rọi vào mắt ông: ông vừa trông thấy kê trước cửa miếu một cái nia đầy những xu và trinh... Ông đưa mắt nh́n quanh: không một ai. Mấy nén hương cắm trên một thẻ vàng tỏa mùi thơm lạnh lẽo và càng làm tăng phần tĩnh mịch nơi miếu vắng.

 Ông tự nhủ thầm:

 "Ḿnh chỉ việc đưa tay ra bốc một nắm bỏ túi là sẽ có cơm ăn, là sẽ không chết đói".

 Và ông đưa tay ra thực. Nhưng ông lại rụt tay lại, tưởng như có ai ghé mắt đâu đó đứng nh́n. Ông nghĩ đến câu chuyện Mường, chuyện Thổ, những chuyện ma xó giữ nhà: ḿnh vào nhà lấy trộm vật ǵ trong khi chủ đi vắng; con ma sẽ đọc tên vật ấy lên rồi nó theo dơi ḿnh mà bóp cổ cho ḿnh chết. Tự nhiên, ông rùng rợn dựng tóc gáy vội vă bỏ đi.

 Đi được một quăng ông lại quay về cái nia tiền. Ông định bụng cứ lấy một ít đi ăn cơm rồi chết th́ chết cũng cam ḷng. Chết c̣n hơn đói. Giữa lúc ấy một người đi đến. Ông sợ hăi nấp vào sau gốc đa. Người kia thản nhiên qua miếu, và ông nghe thấy hắn ném vào nia một đồng trinh. Chờ cho hắn đi khỏi, ông lại nhô ra đến bên cái nia đăm đăm nh́n. Nhưng vẫn không sao dám nhặt vài đồng trong nia tiền.. của thánh.

 "Của thánh.. lấy tội chết thánh quật chết"

 Ông Cửu Niệm th́ thầm. Rồi quả quyết đi thẳng. Một quăng xa, ông gặp trên con đường rẽ vào một cái chợ đương họp, một chị ăn mày ngồi phục bên một cái rổ, một cái gậy, và ngước mắt trắng đục nh́n trời, miệng kêu than như ca hát:

 "Con người th́ có, con mắt th́ không...".

 Trong rổ có hai đồng trinh. Mắt ông Cửu như dán vào đó. Ông đứng im một hồi lâu, tai như lắng nghe câu van lơn của người ăn mày. Nhưng sự thực ông đương nghĩ thầm:

 "Nó mù! Nó mù! Nó không trông thấy ḿnh.. Quanh đây không một ai.."

 Và ông cúi xuống lẳng lặng cúi xuống, rón rén nhặt hai đồng trinh thu vào trong bọc. Rồi ông hấp tấp chạy như sợ người mù đuổi theo. Ông vào chợ mua bát cơm đầy ăn ngốn ngấu. Ăn xong ông quay về con đường cũ. Qua đầu đường ông vẫn thấy người ăn xin ngồi nguyên chỗ, và trong rổ của nó hai đồng trinh vẫn c̣n. Ông mừng thầm tự nhủ:

 "Th́ ra ḿnh mơ thấy ḿnh lấy hai đồng trinh của nó. Kỳ thực ḿnh có lấy đâu?

 Tới miếu cũ ông ngắm lại cái nia. Lạ lùng chưa! Bao nhiêu trinh trong nia đă sắp thành từng đôi một. Và chỉ trong một giây biến thành những cặp mắt. Những cặp mắt ấy to măi ra, to măi ra và trừng trừng nh́n thẳng vào mắt ông, những cặp mắt tṛng trắng tṛn, tṛng đen vuông. Cùng một lúc tiếng ăn mày cất lên tứ phía giọng nghe thê thảm:

 "Lạy ông lạy bà, ông bà thương con, con người th́ có, con mắt th́ không".

 Rồi bao nhiêu cặp mắt vuông bay tới tấp vây chặt lấy ông Cửu..Ông kêu thét lên:

 - Trời ơi..hai con mắt vuông.

 Rồi ông tỉnh mộng. Ngoài sân tiếng nhà sư đọc bài chiêu hồn chúng sinh, giọng trầm bổng như kẻ ăn mày kêu đường. Ông Cửu thở hổn hển rồi lại ngất đi.
Sáng hôm sau ông gọi các con đến trối trăn:

 - Cha nhiều tội lắm. Cha ở ác với rất nhiều người, nhưng với hai con mắt... với hai con mắt vuông ấy th́ cha chết mất. Đó là hai con mắt thịt, hai con mắt trần, chứ không phải mắt thần, mắt thánh nào cả như cha vẫn tưởng nhầm. Ngày ấy..đă lâu lắm..Nhưng mà thôi đă có các con chuộc tội cho cha. Ngay hôm nay các con rao mơ rằng luôn năm hôm cha phát chẩn cho những người đói khó trong khắp vùng này. Mỗi người các con cho một bát gạo với hai đồng trinh. Hai đồng trinh các con nhớ chưa?  Đó là cha trả nợ c̣n bát gạo là cha trả lăi.

 Chiều hôm ấy ông Cửu nghe tiếng mơ rao, và biết rằng các con ông sẽ làm theo lời ông trối lại. Ông sung sướng mỉm cười trong giấc ngủ cuối cùng. ông chắc chắn sẽ thoát khỏi sức áp bách, sức thôi miên của hai con mắt vuông.

 

                                                            Đời Nay

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 379 of 2534: Đă gửi: 03 July 2008 lúc 10:30am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
HÀNH TR̀NH ĐI VỀ BÊN
 KIA THẾ GIỚI
 
 
Khi được hỏi về t́nh trạng sức khỏe của ḿnh, người Ai Cập cổ thường chỉ có một cách trả lời: "Hôm nay tôi khỏe, ngày mai th́ tùy thuộc vào thần linh". Nền văn minh cổ Ai Cập gắn bó rất chặt chẽ với tôn giáo, và số lượng lớn các thần linh trong đó có Thần Anubis, vị thần đầu chó rừng được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ tŕ cho toàn bộ công việc ướp xác, cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.
 
 
CÁI CHẾT VÀ CUỘC SỐNG Ở BÊN THẾ GIỚI BÊN KIA
 

Ước mong của mỗi một người Ai Cập là, sau khi sống mạnh khỏe đến tuổi 110 ở trần thế, sẽ được thờ phụng khi bước sang thế giới bên kia. Người quá cố muốn được những con ḅ kéo trên một chiếc xe tang đến tận ngôi mộ đă được chuẩn bị đầy đủ, chu đáo của ḿnh về hướng Phương Tây, với những nghi thức tang lễ và rưới rượu, và có những thân bằng quyến thuộc đưa tiễn.
 
Những câu chữ và h́nh khắc họa trên đá, phía trước và bên trong ngôi mộ, phải tôn vinh đến muôn đời những kỳ tích kiên cường mà kẻ quá cố đă đạt được ở cơi trần, và khích lệ người qua đường quan tâm niệm câu thần chú sau: "Cầu cho nhà vua hiến lễ cho Osiris, Chúa tể của Abydos1 và Chủ nhân của nghĩa trang, để ngài ban ngh́n bánh ḿ và chum bia, ngh́n ḅ và ngỗng, vải lanh ướp xác và thuốc dẻo tẩm hương thơm, và một ngh́n những thứ tốt lành tinh khiết, cần cho cuộc sống của các thần linh, tất cả sản phẩm của trái đất và sự dồi dào của sông nước, ban cho linh hồn-Kâ của X, xin được chứng giám".
 
Cũng có những câu chữ khắc họa c̣n trực tiếp hơn như sau: "Ngươi là kẻ đang sống ở cơi trần và đi qua ngôi mộ này, bởi v́ ngươi yêu cuộc sống và căm ghét cái chết, nếu ngươi muốn thành đạt và được cấp trên khen tụng, nếu ngươi muốn sống để nh́n thấy con trai ngươi hành nghề của ngươi và được nâng bậc cao hơn, ngươi phải niệm câu thần chú.
 
Nếu ngươi đến ngôi mộ này với ư định tốt, th́ xin mời. Nhưng nếu ngươi đến đây để phá hủy hay nguyền rủa, th́ bản thân thần Amon sẽ bắt ngươi, nữ thần Mout sẽ bắt vợ ngươi và thần Khonsou sẽ bắt con cái ngươi, cho đến muôn đời".

Đối với người Ai Cập, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa đơn giản (nhưng khó khăn) từ dạng tồn tại này sang một dạng tồn tại khác, và dạng tồn tại mới này tuyệt vời và thỏa ḷng đến mức những thành phần cấu tạo nên con người vừa mới qua đời phải được đảm bảo an toàn và được bổ sung bằng những phương tiện thích đáng để anh ta có thể tiếp tục tồn tại, và những nghi thức của lễ tang phải được thực hiện đầy đủ.
 
Người Ai Cập quan niệm rằng con người được tạo nên từ những yếu tố là thân xác, kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống), linh hồn, bóng và tên, và khi chết, những yếu tố bị tách rời đó cần được quy tụ lại để đảm bảo cho một cuộc sống khác. Xác chết do đó cần được bảo toàn với thời gian. Nghệ thuật ướp xác chính là sinh ra từ đó.
 
Ngày nay, Bảo tàng về Ướp xác ở thành phố Louxor vẫn thường xuyên mở cửa để du khách vào tham quan. Ở đó, trong ánh đèn hiu hắt như trong thế giới cơi âm, người ta có thể theo dơi các công đoạn ướp xác, kỹ thuật ướp, những vật liệu cần thiết cho việc ướp xác và tẩm liệm, chôn cất, cũng như một số sản phẩm xác ướp động vật (mèo, cá sấu...). Ở Bảo tàng Cairo, du khách cũng có thể tận mắt nh́n thấy xác ướp của người.

Hiện tượng chuyển dịch hàng ngày của mặt trời tạo cho người Ai Cập niềm hy vọng về một cuộc sống khác sau khi chết. Mặt trời há chẳng chết đi mỗi chiều tối để lại chói sáng vào sáng hôm sau, trẻ trung và mạnh mẽ trở lại đó sao? Do số phận của vua Ai Cập gắn liền với thần mặt trời, trong khi sống cũng như trong cái chết, nên nhà vua không phải e ngại về nguy cơ bị rơi vào t́nh trạng "không tồn tại".
 
Và bởi triều thần cũng có trách nhiệm phục vụ cho nhà vua ở thế giới bên kia, cũng như họ đă làm ở trần thế, nên họ cũng có quyền hy vọng sẽ sống c̣n sau khi chết. Theo ḍng thời gian, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, niềm tin vào sự phục sinh và một cuộc sống sau khi chết đă tiến dần xuống những bậc thang thấp hơn trong xă hội và chiếm lĩnh đời sống tâm linh của toàn bộ dân chúng.

Để có cơ may sống c̣n sau khi chết, mỗi cá nhân phải chuẩn bị cho cái chết của ḿnh. Người Ai Cập biết rằng trái tim của người chết (nơi ngự trị mọi ư tưởng và t́nh cảm) phải được đem đi cân, theo những chuẩn mực nghiêm ngặt của thần Maât (luật về những hành xử đạo đức phù hợp với mong muốn của các thần linh và những chỉ dụ của nhà vua). Anh ta phải là người đức hạnh và trong sáng để có thể được thần Thot "chứng thực", và được phép đi đến vương quốc của thần Osiris.

Những kẻ có hành xử đạo đức không tốt th́ t́m cách náu ḿnh trong ma thuật. Một con bọ hung được đặt trên ngực người chết với nhiệm vụ che giấu công thức xưng tội, nhằm ngăn chặn không để cho trái tim người quá cố đưa ra một chứng cứ không có lợi nào vào ngày phán xét.
 
Xác ướp phải được bảo vệ một cách chắc chắn. V́ vậy phải có một mộ phần bằng đá hơn là bằng đất, hay tốt hơn cả là được khoét trong một tảng đá c̣n nguyên. Thông thường mộ phần được chuẩn bị ngay từ khi chủ nhân của nó vẫn c̣n sống. Phần lớn những ngôi mộ tư nhân thời Cựu Vương triều là những lăng mộ được gọi là "mastaba" có h́nh kim tự tháp đứt đoạn, trong khi những ngôi mộ vua chúa lại là những kim tự tháp bắt đầu có vào thời Trung Vương triều.
 
Các hầm mộ gia tộc th́ thịnh hành từ thời Tân Vương triều. Các vị pharaon đầu tiên được chôn cất trong những kim tự tháp (nổi tiếng nhất là những kim tự tháp Giza, trong đó đặc biệt hơn cả là kim tự tháp mang tên Khéops). Các pharaon "thế hệ mới" lại chọn cho ḿnh những ngôi mộ nằm sâu trong ḷng đất (hypogée) được đào trong một "ouadi" (hay "wadi") ở vùng sa mạc phía tây của thành Thèbes, có tên gọi là "Thung lũng các Vị Vua" (Vallée des Rois). Vợ và con của họ được chôn cất ở một "ouadi" ở gần đó, nhưng ít nổi tiếng hơn, gọi là "Thung lũng các bà Hoàng" (Vallée des Reines).

Việc tẩm hương được những người chuyên nghiệp đảm nhiệm. Công việc chính thức kéo dài bảy mươi ngày. Trong thời gian đó người quá cố được moi ruột ra và được ngâm trong một dung dịch có tác dụng loại nước. Sau đó, người ta nhồi vào những chỗ trũng những hương liệu và các loại thuốc dẻo mau khô (onguent siccatif).
 
Cuối cùng xác chết được bọc trong rất nhiều lớp băng quấn bằng lanh trắng phủ thạch cao, nhựa và chất bitum. Những tấm bùa được chèn vào giữa các lớp băng, để bảo vệ từng phần, từng cơ quan của cơ thể người quá cố. Một tấm mặt nạ dành cho người quá cố được phủ lên phần đầu đă quấn băng.

Bốn chiếc b́nh di hài (vase canope) được dùng để đựng nội tạng đă được làm khô và được xếp vào trong một cái hộp đặt trong pḥng mộ chính. Nắp các b́nh di hài có h́nh đầu người hoặc, về sau này, h́nh các con trai của thần Horus: chim cắt, người, khỉ đầu chó và chó rừng. Sau khi làm khô trái tim, người ta trả nó về chỗ cũ. Chỉ ở những công đoạn sau cùng bộ năo mới được rút ra khỏi đầu qua đường mũi.

Xác ướp được đặt trên một chiếc xe tang kéo, với những con ḅ được đóng vào xe để kéo, và được trịnh trọng đưa đến ngôi mộ giữa những tiếng ca hát, than khóc và khói hương nghi ngút. Gia đ́nh, bằng hữu đi theo xác ướp, mang theo những vật dụng của người quá cố cần thiết cho cuộc sống ở thế giới bên kia.
Ngôi mộ đă có sẵn những đồ đạc nặng, những áo quan và quách.
 
Trong đoàn đưa tang có cả những phụ nữ khóc thuê. Trước lối vào lăng mộ, một vị tu sĩ hay người thừa kế của kẻ quá cố thực hiện những nghi thức cuối cùng. Nghi thức quan trọng hơn cả là việc "khai khẩu" (mở miệng), thể hiện ở thao tác chạm vào những bộ phận liên quan đến các giác quan, trên mặt nạ của kẻ quá cố (miệng, mũi, mắt và tai) với một bộ vật dụng bằng đá lửa và đồng, đồng thời niệm những câu thần chú để dùng ma thuật phục hồi các giác quan cho người chết.

Xác ướp được phủ đầy các ṿng hoa, và cuối cùng được đặt vào trong một hay nhiều chiếc quan tài, và lăng mộ được niêm phong lại. Bên ngoài, một bữa cơm vội vàng được dọn ra để tưởng nhớ người đă khuất, và những thức ăn c̣n thừa được chôn bên cạnh, cùng với những ǵ c̣n lại của quá tŕnh ướp xác.

Hành tŕnh về đến vương quốc của thần Osiris thật phức tạp và đầy hiểm nguy nên không thể không lắng nghe những lời khuyên bảo thích hợp, bởi cần thiết phải tránh những phần tử xấu và những kẻ canh giữ có vũ trang đáng sợ. "Tử thư" hay "Cuốn sách của Những Người Chết" (Livre des Morts) cung cấp cho người qua đời những lời chỉ dẫn và những công thức ma thuật cho phép vượt qua những khó khăn đó.
 
Kể từ thời Tân Vương triều, cuộn giấy papyrus đó trở thành một thành phần cốt yếu trong việc trang bị lăng mộ. Nó bao gồm những văn bản và biểu tượng họa đồ, cũng như tên và chức danh của người quá cố. Vào khoảng cuối Cựu Vương Triều, một bản hướng dẫn về thế giới bên kia, cổ xưa hơn nhưng về cơ bản là tương tự như thế, cũng đă được sử dụng trong những ngôi mộ vua chúa (kim tự tháp), nhưng dưới dạng những chữ viết hiéroglyphe được khắc họa và vẽ trên tường các pḥng bên trong.

Thuyền, vốn là một phương tiện di chuyển hết sức thông dụng của người Ai Cập, cũng được xem là phương tiện đi lại của thần linh (các thuyền thiêng). Ngay cả trên mặt đất, thần linh cũng có thể đi lại bằng thuyền, và những chiếc thuyền này được các vị tu sĩ gánh trên vai. Vua cũng di chuyển bằng thuyền. Khi qua đời, kẻ quá cố sẽ được chuyên chở qua bờ Tây của ḍng sông Nile trong những chiếc thuyền tang, và ở thế giới bên kia, họ cũng dùng thuyền để đi đến xứ sở Abydos của Osiris, cũng như để di chuyển ở những vùng sông nước bên trong xứ sở đó.

Ngay cả ở thế giới bên kia, kẻ quá cố được xem như vẫn phải tiến hành những công việc tay chân nặng nhọc nếu như thần linh buộc họ phải làm, như quét dọn những ḷng kênh tắc nghẽn, chuyên chở cát qua sông... Để thoát khỏi những lao dịch đó mà không mắc phải tội khước từ ư thần linh, một h́nh nhân người quá cố, được gọi là "oushabti", được đặt trong ngôi mộ.
 
Một công thức ma thuật, được vẽ hay khắc họa trên thân của h́nh nhân bằng gỗ này, tự động bắt h́nh nhân nhận lănh công việc thay cho người quá cố. Những công cụ lao động và một cái túi cũng được vẽ trên tay và trên vai h́nh nhân. Gia đ́nh kẻ quá cố có nhiệm vụ thường xuyên thăm viếng ngôi mộ để mang đến thức ăn, tu sửa những hư hỏng, và chăm lo việc thờ phụng.

Với niềm tin vào hiệu ứng ma thuật của những h́nh ảnh, người Ai Cập phủ lên các bức tường trong ngôi mộ những tác phẩm hội họa, khắc nổi nhiều màu, hay maket ba chiều, với các câu chữ và h́nh ảnh thể hiện những cảnh trí như hoạt động mỹ nghệ, nông nghiệp cần thiết cho việc sản xuất ra những vật dụng phục vụ cho cuộc sống, như lương thực, đồ dùng trong nhà, y phục, những tấm bùa... Những h́nh ảnh này chính là những chứng cứ vô giá về cuộc sống hàng ngày của người Ai Cập cổ.

Trong ngôi mộ cũng phải có những bức tượng của người quá cố, được thể hiện một ḿnh hay cùng với những thành viên khác trong gia đ́nh, bởi v́ Kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống) có thể nhập vào đó. Phần lớn các tác phẩm của nghệ thuật làm tượng tư nhân đă được t́m thấy chính trong các ngôi mộ.

Những h́nh ảnh được thể hiện trên một bức tường của ngôi mộ cổ của Sennedjem ở Deil el-Medina, gần thung lũng các vị vua, cho thấy từ trên xuống dưới, những nghi thức tuần tự theo thời gian: hai khỉ đầu chó chào đón mặt trời đang mọc trên chiếc thuyền của ḿnh. Sennedjem và vợ đang tôn vinh các vị thần Ré-Horakhty, Osiris, và Ptah, một người con trai của họ đang chèo thuyền và thần Khonsou đang tiến hành thủ tục "khai khẩu" (mở miệng) cho người quá cố, cuối cùng là đôi uyên ương đang lao động trên những cánh đồng của thế giới thiên đường.

 

 


 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 380 of 2534: Đă gửi: 03 July 2008 lúc 10:48am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 
HÀNH TR̀NH ĐI VỀ BÊN
 KIA THẾ GIỚI

                                   

THẤN ANUBIS VỊ THẦN ĐẦU CHÓ RỪNG


Anubis là vị thần Ai Cập được thể hiện với h́nh dạng thân người và đầu chó rừng, cũng có khi là cả đầu và thân đều là của chó rừng như trong trường hợp Anubis đang trong tư thế canh giữ "kho báu" của Tutankhamun. Anubis được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ tŕ cho toàn bộ công việc ướp xác, và cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.

Là vị thần chuyên về việc tẩm hương cho xác chết và "cân linh hồn", trước tiên Anubis là nhân vật có nhiệm vụ canh gác các khu nghĩa địa và các ngôi mộ cá nhân, và là bậc thầy của việc tẩy uế. Vị thần đầu chó rừng này được tôn vinh từ thời kỳ đầu của Cựu Vương Triều như một vị thần lớn của những người quá cố, tham gia vào việc phán xét linh hồn.

Về sau, Anubis bị Osiris thay thế, nhưng vẫn giữ một vai tṛ quan trọng ở thế giới bên kia: đó là vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm, và thao tác tẩm hương thơm lần đầu tiên Anubis thực hiện, chính là trên Osiris vừa tạ thế và qua đó đă khiến cho Osiris được hồi sinh trở lại.

Về sau, vị thần đầu chó rừng Anubis c̣n được xem là "kẻ dẫn dắt linh hồn"; và với vai tṛ này của Anubis, người Hy Lạp đă đồng hóa vị thần này với thần Hermès để tạo ra một nhân vật thần linh pha trộn là Hermanubis.

Du khách tham quan Ai Cập có thể t́m thấy h́nh ảnh của thần Anubis ở rất nhiều nơi, được khắc họa trên đá hay thể hiện trên các bức vẽ trong các đền thờ, lăng mộ. Sau đây là một vài thí dụ minh họa:

- Anubis ở bức khắc nổi nhiều màu trên đá, với Séthi đệ I. Vị vua này đang nhận từ tay của thần Anubis những chiếc vương trượng tượng trưng cho vương quyền.

- Anubis (được thể hiện dưới dạng song đôi và đặt đối xứng) đang che chở cho Sennedjem và vợ trong nghi lễ tôn vinh mười ba vị thần của địa phủ, đứng đầu là Osiris và Ré Horus.

- Anubis cùng đứng với Horus sau lưng thần Osiris đang ngồi, trong tư thế đón chào vị vua vừa tạ thế, ở h́nh vẽ trang trí cho ngôi mộ của vua Horemheb.

- Anubis cùng với Ramsès III, nhà vua đang mang chiếc mũ không vành màu đỏ. Sau lưng vua là vị hoàng tử trẻ với lọn tóc truyền thống của tuổi vị thành niên, tay cầm chiếc quạt nghi lễ, biểu hiện của vai tṛ cố vấn cho nhà vua.

- Anubis trong cảnh cân linh hồn của Djet Khonsou ioufankh, tu sĩ của Amon và Thot, minh họa cho cuốn "Tử thư" bằng giấy papyrus đặt trong ngôi mộ của người quá cố. Anubis đang chủ tŕ buổi lễ cân linh hồn. Linh hồn được cân nhưng thay cho quả cân thông thường là một chiếc lông đà điểu, biểu tượng của thần Maât. Thần Thot đang ghi lại kết quả trên một tấm bảng thư lại. Người quá cố đưa tay lên cao nhằm biểu lộ sự ngay thẳng của ḿnh. Nếu trái tim nặng hơn chiếc lông, th́ điều đó có nghĩa là người quá cố là một kẻ tội lỗi.

Ngoài ra, những tư liệu c̣n lưu giữ được cũng cho thấy cảnh ướp xác và tẩm hương thơm cùng những công đoạn và vật liệu được dùng cho việc ướp xác và tẩm liệm. Những người làm công việc tẩm hương thơm và những vật dụng cần thiết để chuẩn bị cho người qua đời mang sang thế giới bên kia:

1. Ở công đoạn quấn băng, người phụ trách chính công việc tẩm hương thơm mang mặt nạ h́nh chó rừng, tượng trưng cho thần Anubis, vị thần bảo vệ cho những người quá cố.

2. Tất cả những thành phần thuộc cơ thể người chết được quấn trong những lớp băng riêng. Ở mỗi công đoạn, người phụ trách việc tẩm hương thơm phải niệm những câu thần chú. Cũng có khi xác ướp được bọc trong một tấm vải liệm.

3. Một số tấm bùa chú mang những h́nh thù khác nhau được xếp xen vào các lớp băng quấn, với nhiệm vụ bảo vệ từng phần của xác chết, trong đó có những tấm bùa mang h́nh ảnh thần chó rừng Anubis.

4. Với những kẻ giàu có, xác ướp được đặt vào những lớp áo quan xếp chồng vào nhau được tạo nên từ vải lanh, hay giấy papyrus nhúng trong thạch cao, và cuối cùng được đặt trong một cái quách bằng đá;

a- áo quan bên trong thuộc thời Tân Vương Triều.

b- áo quan thời Trung Vương Triều.

c- quách thời Tân Vương Triều.

5. Gan, phổi, dạ dày và ḷng được đặt trong những chiếc b́nh di hài và cất trong một chiếc hộp, bên cạnh quan tài.

 Nhưng có lẽ đặc biệt và ấn tượng hơn cả là h́nh ảnh thần Anubis ngự trên chiếc rương gỗ mạ vàng, ở đó có những h́nh vẽ biểu trưng của thần Osiris và thần Isis. Thần Anubis được thể hiện dưới h́nh dạng một con chó rừng (cả đầu lẫn thân), một bức tượng làm bằng gỗ, dáng uy nghi, thanh thoát.

Cổ, tai và mắt được mạ vàng, nổi bật trên màu đen của cả thân h́nh đang trong tư thế ngồi. Khi nhà khảo cổ học Carter đă không c̣n chút hy vọng nào nữa trong việc t́m kiếm của ḿnh, th́ ông t́nh cờ phát hiện ra một bậc cấp bằng đá vôi trong thung lũng các vị vua...

Ở bậc cấp thứ mười sáu, ông thấy hiện ra một cánh cửa niêm phong với những dấu hiệu của Tutankhamun. Có những vết tích cho thấy ngôi mộ đă bị xâm nhập và sau đó được niêm phong lại. May mắn thay, kẻ trộm chỉ lấy đi vài thứ vặt vănh. Tấm mặt nạ bằng vàng khối tuyệt vời và lừng danh của Tutankhamun, cũng như tất cả những vật dụng dùng cho việc chôn cất, đều c̣n y nguyên:

Ba chiếc quan tài lồng vào nhau (hai bằng gỗ và một bằng vàng) nơi Tutankhamun an nghỉ, được bảo vệ trong một cái quách bằng đá, bốn nhà táng bằng gỗ mạ vàng, được chạm trổ với h́nh ảnh những tấm bùa, chiếc rương đựng những b́nh di hài. Một bức tượng của thần Anubis, vị thần cai quản các ngôi mộ, ngồi chễm chệ trên chiếc rương đựng di hài và ngăn lối vào căn pḥng ngang, nơi cất giữ phần lớn kho báu đă được chôn cất.

Phải chăng ở đây thần Anubis, vị thần mang h́nh dạng chó rừng của thần dân Ai Cập, vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm và cai quản mộ phần, đă thực hiện một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó đối với lăng mộ của Tutankhamun, để bảo tồn và lưu giữ những di sản vô giá không những của các vương triều Ai Cập cổ đại, của mọi người dân Ai Cập xưa và nay, mà c̣n là của toàn nhân loại, từ Đông sang Tây, từ thuở xa xưa cho đến tận muôn đời.

Cũng có thể ở đâu đó Anubis vẫn đang hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang của ḿnh, ở những lăng mộ, đền thờ cổ xưa nào đó hiện đang bị thời gian, đất cát chôn vùi, mà vài chục năm nữa, hoặc vài trăm năm nữa, thậm chí vào một thời điểm nào xa xôi hơn trong tương lai, nhân loại sẽ có cơ may và diễm phúc cùng nh́n ngắm, thưởng ngoạn, và khâm phục.

                                                            Tia Sáng

 

 

 

 

 

 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.4609 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO