Tác giả |
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 401 of 2534: Đă gửi: 04 July 2008 lúc 3:41am | Đă lưu IP
|
|
|
19. GIÚP ĐỞ SAU KHI CHẾT
Trong thế giới tân tiến, rất thường khi một người nào chết, th́ một trong những nỗi lo sầu nhất cho người ở lại là nghĩ rằng họ không thể làm ǵ để giúp đỡ những người thân yêu đă mất. Đó là một niềm tin chỉ làm cho sự sầu khổ của họ càng thêm trầm trọng. Nhưng sự thực không phải thế. Có nhiều, rất nhiều cách chúng ta có thể giúp người đă chết, và tự giúp cả chúng ta để sống vắng bóng họ. Một trong những đặc điểm của đạo Phật, một trong những đường lối chứng tỏ phương tiện thiện xảo và tâm từ bi của chư Phật là có rất nhiều pháp tu đặc biệt để giúp người chết, và c̣n an ủy được tang quyến đau buồn. Tử Thư có lối nh́n bao quát cả sống và chết, cho ta thấy rằng có nhiều cách giúp đỡ người khác trong mọi t́nh huống có thể nghĩ tới, bởi v́ không có một ranh giới nào giữa cái gọi là “sinh” và cái gọi là “tử”. Năng lực sáng chói và sự ấm áp của tâm từ bi có thể vươn tới để giúp đỡ tất cả mọi t́nh huống, mọi cảnh giới.
Khi nào ta có thể giúp
Trung Ấm tái sinh, như đă nói, dường như là một thời gian hết sức rầy rà đáng ngại. Nhưng trong đó có niềm hy vọng lớn lao. Những tính chất của thân ư sanh suốt trong giai đoạn Trung Ấm làm cho nó dễ bị thương tổn - sự sáng suốt của nó, di động, nhạy cảm, và thần thông - song cũng làm cho nó đặc biệt dễ cảm thụ đối với sự giúp đỡ của người sống. Sự kiện nó không có h́nh dạng vật lư làm cho nó rất dễ hướng dẫn. Tử Thư Tây Tạng ví thân ư sanh này như một con ngựa, dễ dàng được điều khiển với sợi dây cương hoặc với một thân cây khổng lồ, khi ở trên đất th́ có thể là khó di chuyển, nhưng khi đă nổi bềnh bồng trên mặt nước th́ bạn có thể đưa nó đi bất cứ đâu tùy ư, không cần nỗ lực.
Thời gian tốt nhất để tu tập cho người chết là 49 ngày Trung Ấm tái sanh, mà 3 tuần đầu là quan trọng nhất. Chính trong 3 tuần ấy, người chết có một liên hệ mạnh mẽ với cuộc đời này, làm cho họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của ta. Bởi thế, chính trong thời gian này sự tu tập của ta có thể ảnh hưởng đến tương lai của người chết nhiều hơn cả, hoặc giúp họ giải thoát, hoặc giúp họ có tái sanh tốt đẹp. Vậy ta nên dùng mọi phương tiện ta có thể để giúp họ, v́ sau khi h́nh dạng vật lư của họ bắt đầu quyết định, - thường là khoảng từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 49 - th́ cơ hội chuyển nghiệp cho họ càng bị hạn chế.
Tuy nhiên sự giúp đỡ người chết không chỉ giới hạn trong 49 ngày sau khi chết. Không bao giờ quá muộn để giúp đỡ người nào đă chết, dù họ chết lâu bao nhiêu về trước. Người mà bạn muốn giúp có thể đă chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta tu tập cho họ, vẫn c̣n được lợi lạc. Dudjom Rinpoche thường nói ngay cả khi người ấy đă đạt giác ngộ, họ vẫn c̣n cần tất cả sự giúp đỡ mà họ có thể dùng để giúp lại kẻ khác.
Ta có thể giúp đỡ như thế nào
Cách tốt nhất và dễ nhất để giúp đỡ một người chết là làm pháp Chuyển di tâm thức tinh yếu mà tôi đă tŕnh bày trong chương 13, khi chúng ta nghe một người nào đă chết.
Ở Tây Tạng, chúng ta nói cũng như bản chất của lửa là đốt cháy, của nước là giải khát, bản chất của chư Phật là hiện thân ngay khi người nào triệu thỉnh, v́ từ bi của các ngài là vô hạn, muốn giúp đỡ tất cả hữu t́nh. Đừng bao giờ tưởng tượng rằng bạn cầu nguyện không hiệu quả bằng một “người thánh thiện” cầu nguyện cho họ. Bởi v́ bạn gần với người chết hơn, nên mănh lực của t́nh yêu và chiều sâu của mối liên hệ sẽ làm cho sự cầu nguyện của bạn có năng lực hơn.
Các bậc thầy đă bảo đảm với chúng ta : hăy kêu cầu với chư Phật, các ngài sẽ đáp ứng bạn.
Khandro Tsering Chodron, người vợ tâm linh của Jamyang Khientse, thường nói rằng, nếu bạn thực sự có tâm tốt và có ư định chân thành, th́ khi bạn cầu cho người nào, sự cầu nguyện sẽ rất hiệu nghiệm. Bởi thế, hăy tin tưởng rằng nếu người nào bạn rất thương yêu đă chết, và nếu bạn cầu nguyện cho họ với t́nh yêu và ḷng chân thành, th́ sự cầu nguyện của bạn sẽ có hiệu lực đặc biệt.
Cách tốt nhất, hiệu quả nhất để làm pháp Chuyển di là trước khi thi thể bị chạm tới hay bị di chuyển bất cứ cách nào. Nếu điều này không thể thực hiện, hăy làm pháp Chuyển di tại chỗ mà người ấy đă chết, hay ít nhất tưởng tượng rơ rệt h́nh ảnh nơi ấy trong tâm bạn. Có một liên hệ mănh liệt giữa người chết với nơi chốn và thời gian chết, nhất là trong trường hợp người chết bạo tử.
Trong cơi Trung Ấm tái sanh, như tôi đă nói, tâm thức người chết sống trở lại cái kinh nghiệm chết mỗi tuần một lần, vào đúng ngày hôm ấy. Bởi thế bạn nên làm pháp Chuyển di, hay bất cứ pháp môn tu nào bạn đă chọn, vào bất cứ ngày nào trong 49 ngày, nhưng đặc biệt là vào những ngày tuần của người chết.
Mỗi khi người bà con hay bạn bè đă chết hiện lên trong tâm trí bạn, mỗi khi bạn nghe tên người ấy được nhắc tới, th́ hăy gởi đến họ niềm yêu thương của bạn, và tập trung làm phép Chuyển di. Làm pháp ấy bao lâu tùy ư, và càng nhiều lần càng tốt.
Một điều khác bạn có thể làm, mỗi khi bạn nghĩ tới người nào đă chết, là đọc ngay một câu chú như OM MANI PADME HUM, thần chú của đức Phật của ḷng từ mẫn, tịnh hóa được tất cả ác nghiệp đưa đến tái sanh ; hoặc câu OM AMI DEWA HRIH, thần chú của đức A Di Đà, vị Phật của ánh sáng vô lượng. Rồi bạn có thể tiếp theo bằng pháp Chuyển di.
Nhưng dù bạn có làm bất cứ pháp môn nào trên đây để giúp người chết hay không làm, đừng bao giờ quên rằng tâm trong cơi Trung Ấm rất bén nhạy, bạn chỉ cần hướng những thiện cảm đến họ cũng đủ lợi lạc cho họ rồi.
Khi bạn cầu nguyện cho người nào thân thiết, bạn có thể, nếu muốn, bao gồm cả những người đă chết khác trong lời cầu nguyện : những nạn nhân của chiến tranh, tàn bạo, tai ách, đói kém, hoặc những người đă và đang chết trong các trại tập trung, như tại Trung Quốc và Tây Tạng. Bạn có thể cầu nguyện cho những người đă chết nhiều năm về trước, như ông bà cố của bạn và những người trong gia đ́nh đă chết từ lâu, hay những nạn nhân trong hai cuộc thế chiến. Hăy tưởng tượng lời cầu nguyện của bạn đặc biệt trải đến những người đă chết trong cơn giận dữ, lo lắng hăi hùng.
Những người đă có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hăi đau đớn, hoặc ở măi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh. Khi bạn làm pháp Chuyển di cho họ, hăy làm với mức độ mănh liệt tha thiết hơn bao giờ cả.
Hăy tưởng tượng những tia sáng chói lọi tuôn phát từ chư Phật và Bồ-tát, trút xuống tất cả ân sủng từ bi của các ngài. Tưởng tượng ánh sáng ấy tuôn xối trên người chết, tịnh hóa họ hoàn toàn, giải thoát họ khỏi nỗi đau đớn rối loạn của cái chết, đem lại cho họ an b́nh sâu xa lâu dài. Rồi tưởng tượng, với tất cả tâm hồn bạn, người chết đang tan thành ánh sáng và tâm thức họ bây giờ đă được chữa lành, thoát mọi khổ đau và bay lên ḥa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật.
Một vài người Tây phương vừa qua viếng thăm Tây Tạng đă kể cho tôi nghe một câu chuyện mà họ chứng kiến. Một ngày nọ, một người Tây Tạng đang đi bộ bên lề đường, bị một chiếc xe cam-nhông của Trung Quốc đụng chết ngay tức khắc. Khi ấy, một tu sĩ t́nh cờ đi qua, vội vàng đến ngồi cạnh người chết nằm trên đất. Họ trông thấy tu sĩ ghé vào tai người chết đọc một câu ǵ đó ; th́nh ĺnh họ kinh ngạc thấy người chết sống lại. Khi ấy tu sĩ làm pháp Chuyển di tâm thức cho người ấy, và hướng dẫn ông ta an tịnh đi vào cơi chết. Cái ǵ đă xảy ra ? Rơ ràng vị tu sĩ đă nhận thấy nỗi kinh hoàng của người kia, làm cho y rất giao động khi chết, nên vị tu sĩ đă hành động chớp nhoáng : trước hết giải thoát tâm người chết khỏi nỗi đau buồn, rồi sau đó, nhờ pháp Chuyển di, đưa thần thức họ về một cơi Phật, hoặc một tái sanh tốt. Đối với những người Tây phương chứng kiến việc ấy, th́ tu sĩ có vẻ chỉ là một người b́nh thường, nhưng câu chuyện này chứng tỏ ông là một hành giả có năng lực rất đáng nể.
Thiền định và cầu nguyện không phải là cách duy nhất ta có thể làm để giúp người chết. Chúng ta có thể bố thí cho người bệnh, người nghèo khổ, để hồi hướng cho họ. Chúng ta có thể đem tài sản họ để lại để cho người nghèo. Ta có thể nhân danh họ mà đóng góp vào các việc nghĩa như sung vào bệnh viện, cứu trợ, tiếp dẫn đường hay tu viện.
Ta cũng có thể bảo trợ cho các khóa tu nhập thất của những hành giả tốt, hay lễ cầu nguyện do những bậc thầy vĩ đại hướng dẫn ở những nơi thiêng liêng như Bồ đề tràng. Ta có thể cúng đốt đèn cho người chết, hay bảo trợ những công tŕnh mỹ thuật liên hệ đến việc tu tập. Một phương pháp giúp đỡ người chết nữa là phóng sanh những con vật sắp bị giết. Pháp này thịnh hành ở Tây Tạng và dăy Hy Mă Lạp Sơn.
Điều quan trọng là hồi hướng công đức những thiện sự ấy cho người chết, cho tất cả người chết, để mọi người đă chết có được một tái sanh tốt và hoàn cảnh thuận lợi trong đời kế tiếp của họ.
Sự thấu thị của người chết
Hăy nhớ rằng tâm thức người trong cơi Trung Ấm sáng suốt bén nhạy gấp bảy lần khi sống. Điều này có thể làm cho họ đau khổ lớn hoặc lợi lạc lớn.
Bởi thế, điều cốt yếu là, khi một người thân chết, bạn phải càng cẩn thận càng tốt, trong tất cả hành vi cử chỉ bạn, để khỏi quấy rầy họ, làm họ tổn thương. V́ khi người chết trở về nhà với những người thân c̣n lại, hay với những người tụng niệm làm phép cho họ, th́ trong t́nh trạng mới của tâm thức họ, họ có thể không những trông thấy những ǵ đang xảy ra, mà c̣n đọc được trong tâm những người khác. Nếu bà con chỉ âm mưu tranh đoạt chia gia tài họ để lại, hay chỉ nói và nghĩ về ân oán, không co t́nh thương chân thực đối với người chết, th́ họ có thể vô cùng tức giận, đau khổ, vỡ mộng, và do đó sẽ bị lôi kéo vào những cảm xúc dữ dội mà phải đi vào một tái sanh bất hạnh.
Chẳng hạn, hăy tưởng tượng nếu người chết thấy người ta tụng kinh cho ḿnh không thành khẩn, tâm người tụng bận rộn với những việc giải trí tầm thường th́ họ có thể mất tất cả chút niềm tin nào họ có thể có. Hăy tưởng tượng nếu một người chết phải nh́n những người thân buồn sầu thảm thiết, cũng có thể làm cho họ vô cùng áo năo. Và nếu ví dụ người chết khám phá ra rằng bà con chỉ giả vờ yêu thương họ v́ tiền, th́ họ cũng có thể đau khổ vỡ mộng đến nỗi sẽ thành ma trở về ám ảnh người hưởng gia tài ḿnh để lại. Bây giờ bạn đă thấy những ǵ bạn làm, nghĩ, hay cư xử sau khi một người thân chết, có thể có tầm quan trọng ghê gớm và ảnh hưởng lớn lao đến tương lai họ nhiều hơn bạn tưởng.
Bạn cũng sẽ thấy tại sao điều thật thiết yếu cho tâm linh người chết được an ổn, là những người c̣n lại phải ḥa hợp. Bởi thế, ở Tây Tạng khi bà con bạn bè người chết tụ hội lại, họ thường được khuyến khích hăy cùng tụng đọc với nhau càng nhiều càng tốt một câu thần chú như OM MNI PADME HUM. Điều này ai ở Tây Tạng cũng có thể làm, v́ biết nó chắc chắn sẽ giúp đỡ người chết. Bởi thế, câu thần chú này gây cho họ nguồn cảm hứng để cùng nhau tụng đọc trong niềm sùng tín. Tính thiêng liêng của người chết trong cơi Trung Ấm cũng khiến nếu được một bậc thầy hay hành giả tâm linh giàu kinh nghiệm làm lễ, người chết sẽ được lợi lạc vô cùng. Điều vị ấy là là an trú trong tự tánh tâm nguyên ủy, rồi hô triệu thân ư sanh của người chết đang lang thang trong cơi Trung Ấm. Khi thân ư sanh đă đến trước bậc thầy, do năng lực thiền định của ông, ông có thể khai thị bản tánh thanh tịnh cho người chết. Nhờ năng lực thần thông, người chết thấy được tâm giác ngộ của vị thầy, và ngay tại chỗ được giải thoát.
Những cũng chính v́ lư do đó, mà bất cứ ǵ một hành giả thông thường có thể làm cho người chết, cũng có thể giúp họ rất nhiều. Bạn có thể tu tập pháp quán một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ liên hệ Tử Thư Tây Tạng, hay bạn có thể chỉ an trú trong một tâm trạng bi mẫn ; nhất là nếu khi ấy bạn có triệu thỉnh hương linh người chết, th́ họ được lợi lạc vô cùng.
Mỗi khi hành giả Phật tử chết, chúng tôi báo cho tất cả thầy và bạn đạo của họ biết để có thể khởi sự hành pháp cầu siêu cho họ ngay. Thường tôi thâu thập tên những người đă chết, rồi gửi đến cho những bậc thầy lớn mà tôi biết ở Ấn và Hy Mă Lạp Sơn. Cách vài tuần, các vị này làm pháp thanh luyện cho họ một lần, và mỗi năm có một thiền hội mười ngày để cầu siêu tập thể tại các tu viện.
Cách Tây Tạng cầu siêu người chết
1- Tử Thư Tây Tạng
Tại Tây Tạng, khi pháp Chuyển di đă làm cho người chết xong, quyển Tử Thư được đọc đi đọc lại nhiều lần, và những pháp tu liên hệ được thực hành. Ở miền Đông Tây Tạng, chúng tôi thường có truyền thống đọc Tử Thư suốt 49 ngày sau khi chết. Qua đó, người chết được chỉ cho biết họ đang ở giai đoạn nào trong tiến tŕnh, và được cho những chỉ dẫn hay cảm hứng mà họ cần.
Những người Tây phương thường hỏi tôi : “Làm sao một người đă chết có thể nghe đọc Tử Thư ?”
Câu trả lời giản dị là : Tâm thức người chết khi được hô triệu bởi năng lực của lời kinh, th́ có thể đọc được tâm ta và có thể cảm nhận đúng những ǵ mà ta có thể nghĩ hay thiền định về họ. Bởi thế, không có chướng ngại nào cho người chết để hiểu được Tử Thư Tây Tạng đang đọc cho họ, dù là đọc bằng Tạng ngữ.
Đối với người chết th́ ngôn ngữ không là một trở ngại, v́ tâm họ có thể đọc được ư nghĩa cốt yếu của kinh văn.
Điều này khiến cho sự tập trung tâm ư của người hành lễ càng thêm quan trọng, chứ không phải chỉ làm chiếu lệ mà được. Và bởi v́ người chết đang thực sự sống những kinh nghiệm đề cập trong sách, nên họ có thể có nhiều khả năng hơn ta để hiểu chân lư của Tử Thư.
Đôi khi tôi tự hỏi : “Nhưng nếu lỡ tâm thức đă ngất xỉu và rơi vào t́nh trạng quên lăng vào lúc chết th́ sao ?” . V́ ta không biết bao lâu người chết sẽ ở trong trạng thái hôn mê, và lúc nào th́ họ bắt đầu đi vào Trung Ấm tái sanh, nên Tử Thư được đọc và tu luyện liên tục để pḥng hờ.
Nhưng c̣n những người không quen thuộc với giáo lư hay Tử Thư th́ sao ? Chúng ta có nên đọc cho họ nghe không ? Đức Dalai Lama đă cho một lời chỉ dẫn rơ ràng :
Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an b́nh lúc chết... Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, th́ sự tái sanh của họ vẫn hiện hữu, bởi thế một tâm an b́nh là quan trọng vào lúc chết. Nếu người chết là một kẻ vô thần, th́ việc đọc Tử Thư có thể làm tâm họ giao động, có thể gợi sự thù ghét, và bởi thế có thể hại họ hơn là giúp họ. Nhưng nếu người nào mở ḷng ra mà nghe, th́ những câu thần chú hay danh hiệu Phật trong đó có thể giúp họ “kết nhân duyên” và nhờ thế có thể có ích lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng trên hết là xét thái độ của người chết.
2- Né Dren và Chang Chok
Cùng với việc đọc Tử Thư c̣n có lễ Né Dren để hướng dẫn hương linh, hay lễ Chang Chok để tịnh hóa hương linh, trong đó bậc thầy sẽ hướng dẫn người chết đến một tái sanh tốt.
Tốt nhất, hai lễ ấy nên làm ngay sau khi chết, hay ít nhất trong ṿng 49 ngày. Nếu thi thể không có đấy, th́ nên hô triệu thần thức người chết về trong một h́nh nhân hay tấm thẻ “bài vị” có h́nh và tên họ người ấy, gọi là một “tsenjang”. Lễ này có năng lực nhờ ở sự kiện rằng thời gian ngay sau khi chết, người chết thường có một ấn tượng mạnh về thân xác ḿnh trong đời vừa qua.
Nhờ năng lực thiền quán của bậc thầy, thần thức người chết đang lang thang trong cơi Trung Ấm, được gọi về trong tấm thẻ bài hay tấm ảnh tượng trưng cho họ.
Thần thức khi ấy được tịnh hóa, lọc sạch những hạt giống nghiệp trong sáu cơi, rồi được nghe một bài thuyết pháp giống như lúc c̣n sống ở đời ; và người chết khi ấy được khai thị bản tâm. Cuối cùng, lễ Chuyển di tâm thức được thực hiện và thần thức người chết được hướng dẫn đến một trong các cơi Phật. Sau đó tsenjang (h́nh nhân hay thẻ bài) được đốt, và thế là đă tịnh hóa nghiệp chướng của người chết.
3- Tịnh hóa lục đạo
Thầy tôi, Dilgo Khientse Rinpoche thường bảo, lễ “Tịnh hóa lục đạo” là lễ thanh luyện tốt nhất cho một hành giả đă chết.
Sự tu tập để tịnh hóa lục đạo này thường làm khi sống, dùng thiền định và quán tưởng để thanh lọc thân xác khỏi sáu phiền năo chính, cùng với sáu cơi mà phiền năo ấy tạo nên. Pháp này cũng có thể làm cho người chết rất hiệu nghiệm, v́ nó thanh lọc căn bản nghiệp của họ,ï và do đó thanh lọc cái gốc rễ của tương quan giữa họ với sinh tử. Điều này quan trọng, v́ nếu cảm xúc tiêu cực (phiền năo) không tịnh hóa, th́ chúng sẽ điều động thần thức tái sanh vào cơi nào đó trong lục đạo.
Theo mật điển Dzogchen, những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong hệ tâm-vật-lư là những huyệt đạo vi tế, nội phong hay năng lực, và nhóm lại ở một vài trung tâm năng lực (huyệt) đặc biệt trong cơ thể. Bởi thế, hạt giống của địa ngục và nhân của nó là giận dữ, được định vị trí ở dưới hai gót chân ; cơi ngạ quỷ và nhân của nó là dục tham, gốc ở bàn tọa ; cơi súc sinh và nhân của nó là ngu si th́ có vị trí ở rốn ; cơi người và nhân của nó là hoài nghi, có trị tri ở tim ; cơi tu-la và nhân của nó là ganh tị nằm ở yết hầu ; cơi trời và nhân của nó là kiêu mạn, th́ có vị trí ở đỉnh đầu.
Trong pháp tu tập để tịnh hóa lục đạo, khi mỗi cơi và cảm xúc tiêu cực của nó được thanh lọc, hành giả quán tưởng tất cả nghiệp do cảm xúc đặc biệt ấy tạo nên bây giờ đă khô kiệt, và thân phần liên hệ đến nghiệp của cảm xúc ấy hoàn toàn tan thành ánh sáng. Bởi thế, khi bạn làm pháp tu luyện này cho một người chết, th́ hăy nhất tâm quán tưởng rằng, sau khi làm xong, tất cả nghiệp được thanh tịnh và thân họ, toàn bản thể họ tan thành ánh sáng rực rỡ.
4- Pháp tu quán một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ
Một cách khác để giúp người chết là sự hành tŕ Trăm vị thần an lạc và phẫn nộ (những thần này đă được nói ở chương 17 - “Tia sáng nội tâm”). Hành giả quán toàn thân thể ḿnh là một mandala của trăm vị thần an lạc và phẫn nộ ; chư thần an lạc được quán ở huyệt tim, chư thần phẫn nộ ở năo. Hành giả khi ấy tưởng tượng chư thần phát ra ngàn tia sáng chan ḥa lên trên người chết để tịnh hóa tất cả ác nghiệp của họ.
Thần chú để tịnh hóa mà hành giả tụng đọc là thần chú Kim cương tát đỏa, vị thần chủ tŕ tất cả mandala của Mật giáo, và là vị thần ở trung ương trong mandala một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ, mà năng lực được hô triệu cốt để tịnh hóa và chữa bệnh. Thần chú này là “Thần chú một trăm ngữ âm”, bao gồm trăm “chủng tự” của trăm vị thần ấy. Bạn có thể xử dụng một dạng ngắn gồm sáu âm của thần chú Kim cương tát đỏa (Vajrasattva) là OM VAJRA SATTVA HUM (Tạng ngữ Om Benza Sattb Hung). Ư nghĩa câu này là “Hỡi thần Kim cương tát đỏa ! Nhờ năng lực của ngài, xin cho con được tịnh hóa, được chữa lành, được chuyển nghiệp”.
Một bài chú quan trọng khác trong mật điển Dzogchen và trong hành tŕ liên hệ đến Tử Thư Tây Tạng là A A HA SHA SA MA. Sáu âm của bài chú này có năng lực “đóng cửa ngơ” đi vào lục đạo luân hồi.
5- Hỏa táng
Thông thường trong nhiều truyền thống Đông phương, hỏa táng là cách để thanh toán thây chết. Trong Phật giáo Tây Tạng cũng có những pháp hành đặc biệt cho lễ hỏa táng. Chỗ hỏa táng hay dàn hỏa táng được quán tưởng thành mandala của Kim cương tát đỏa, hay Trăm vị thần an lạc và phẫn nộ. Chư thần được quán tưởng mănh liệt, sự hiện diện của họ được triệu thỉnh. Cái thây của người chết được quán như thực sự đại diện cho tất cả nghiệp ác và chướng ngại của họ. Khi cái thây bùng cháy, những ác nghiệp chướng ngại ấy được chư thần tiêu thụ trong một bữa tiệc lớn, chuyển hóa chúng thành ra bản chất trí tuệ. Những tia sáng được tưởng tượng như là tuôn phát từ chư thần ; cái xác được quán đang tan ră hoàn toàn thành ánh sáng, và tất cả bất tịnh của người chết được tịnh hóa trong ngọn lửa rực rỡ của trí tuệ. Khi quán tưởng điều này, ta có thể tụng đọc thần chú một trăm âm hay sáu âm của Kim cương tát đỏa. Sự tu tập giản dị này dành cho lễ hỏa táng là do Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche truyền lại.
Tro của cái xác và tsenjang (h́nh nhân, bài vị...) khi ấy có thể trộn với đất sét mà làm thành những h́nh tượng nhỏ gọi là tsatsa, được chú nguyện và dâng hiến nhân danh người chết để tạo những duyên tốt cho một tái sanh tốt đẹp trong tương lai.
6- Cúng tuần
Trong một môi trường Tây Tạng, những cuộc hành thiền tu tập xảy ra đều đặn mỗi ngày thứ bảy sau khi chết, hay nếu gia đ́nh có thể lo liệu, th́ suốt cả 49 ngày. Những tu sĩ được mời đến hành pháp, nhất là những vị Lama thường gần gũi gia đ́nh ấy và có liên hệ với người chết. Đèn được thắp sáng và liên tục đọc kinh cầu nguyện, cho đến khi cái xác được đưa ra khỏi nhà. Những phẩm vật được cúng dường lên các vị thầy và các bàn thờ, và phát chẩn cho kẻ nghèo nhân danh người chết.
Những pháp hành hàng tuần nhân danh người chết được xem là thiết yếu, v́ thân ư sanh trong cơi Trung Ấm đang kinh quá cái chết của ḿnh trở lại đúng vào ngày ấy mỗi tuần. Nếu người chết có đủ công đức do kết quả của thiện nghiệp quá khứ, th́ lợi lạc của những pháp này, hành tŕ nhân danh họ, sẽ làm cái đà để chuyển họ đến một cơi thanh tịnh. Nói thật chính xác, th́ nếu người ấy chết ngày thứ tư trước ngọ, th́ tuần thứ nhất sẽ làm vào thứ ba tuần sau đó. Nếu chết sau ngọ, th́ làm tuần vào ngày thứ tư tuần sau.
Người Tây Tạng xem tuần thứ tư sau khi chết là một ngày có ư nghĩa đặc biệt, v́ có người nói b́nh thường người chết không ở trong cơi Trung Ấm lâu hơn 4 tuần. Tuần thứ bảy cũng được xem là một khúc quanh quan trọng, v́ 49 ngày được xem là thời hạn lâu nhất trong cơi Trung Ấm đi đầu thai. Bởi thế, vào những dịp này, thầy và các bạn đạo sẽ được mời đến nhà, và những sự tu tập, cúng dường, bố thí... được thực hiện đại quy mô.
Một lễ cúng khác được thực hiện mỗi năm một lần sau khi chết, để đánh dấu ngày tái sanh của người chết. Phần đông gia đ́nh Tây Tạng thường làm lễ mỗi năm một lần vào những ngày giỗ thầy, giỗ cha mẹ, chồng vợ, anh chị em của họ. Vào những ngày ấy họ cũng bố thí cho người nghèo.
Giúp đỡ người đau buồn
Trong cộng đồng Tây Tạng, mỗi khi một người nào chết, th́ điều tự nhiên là thân quyến bạn bè họ tụ họp lại, và mọi người t́m cách này cách khác để giúp một tay. Toàn thể cộng đồng đem lại cho tang gia sự nâng đỡ tinh thần, t́nh cảm và thực tế, nên nhà có người chết không bao giờ bị bỏ mặc cho cảm thấy vô phương không biết phải làm ǵ. Mọi người trong xă hội Tây Tạng biết họ phải làm những ǵ họ có thể làm cho người chết, càng nhiều càng hay, và chính điều đó giúp tang quyến có thể chịu đựng, chấp nhận cái chết của người thân để tiếp tục sống.
Thật là khác xa với xă hội tân tiến, trong đó sự nâng đỡ của cộng đồng hầu như hoàn toàn không có. Tôi nghĩ sự nâng đỡ như thế thường đă giúp ích xiết bao cho thân quyến người chết khỏi kéo dài nỗi đau buồn và những khó khăn không cần thiết.
Những học tṛ tôi, làm cố vấn tỉnh cảm trong các Tiếp dẫn đường, cho tôi biết một trong những nguyên nhân buồn khổ trầm trọng nhất của một người mất mát người thân, là nghĩ rằng bản thân họ cũng như bất cứ ai, không ai có thể làm ǵ cho những thân quyến đă mất của họ. Nhưng như tôi đă nói, có rất nhiều việc mà bất cứ ai cũng có thể làm để giúp cho người đă chết.
Một cách an ủi người đau buồn là khuyến khích họ làm cái ǵ cho những người thân của họ đă chết : bằng cách sống hăng hái hơn, sống thay cho người chết, tu thay cho họ, và đem lại cho cái chết của họ một ư nghĩa sâu xa hơn. Ở Tây Tạng người ta c̣n đi hành hương nhân danh người đă chết, và vào những thời gian đặc biệt và nơi chốn thiêng liêng, họ sẽ nghĩ đến những người thân đă chết và tu tập để hồi hướng cho họ. Người Tây Tạng không bao giờ quên người chết : họ thường cúng chùa nhân danh người chết ; khi có những lễ hội cầu nguyện lớn, họ sẽ cúng vào đó nhân danh người chết ; họ tiếp tục hiến tặng cho những chương tŕnh tu học nhân danh người chết, và lúc nào gặp những bậc thầy họ cũng xin lời cầu nguyện đặc biệt cho người chết. Niềm an ủi lớn nhất cho một người Tây Tạng là khi biết một bậc thầy đang tu tập hồi hướng công đứ cho thân nhân đă chết của họ.
Vậy th́ đừng để cho ta chết đi một nửa theo với người chết ; ta hăy cố sống sau khi họ chết với niềm hăng say hơn nữa. Ta hăy cố ít nhất làm tṛn ước nguyện của người chết, ví dụ bằng cách bố thí vài sở hữu của họ cho hội từ thiện, hay bảo trợ nhân danh họ cho một dự án mà họ thường ưa chuộng.
Những người Tây Tạng thường viết thư chia buồn với bạn bè đang khóc người thân với những lời đại khái như sau :
“Mọi sự đều vô thường, mọi người rồi phải chết, bạn đă biết. Vậy mẹ bạn có chết cũng là điều tự nhiên : thế hệ già chết trước. Bà cụ đă già yếu, chắc cũng không ân hận ǵ khi bỏ thân xác này. Và v́ bạn có thể giúp bà bằng cách cúng vào các thiền hội tu tập và làm việc thiện nhân danh bà, chắc chắn bà sẽ sung sướng nhẹ nhàng. Vậy bạn đừng buồn” .
Nếu bạn ta có con hay một người thân c̣n trẻ chết, chúng ta có thể nói với họ :
“Con trai bạn đă chết, thật là như trời long đất lỡ với bạn. Tôi biết điều đó thật tàn nhẫn phi lư. Tôi không thể nào hiểu được. Nhưng có lẽ cái nghiệp của cháu là phải chết, và tôi tin rằng cái chết ấy chắc đă thanh toán được một món nợ nghiệp nào đó mà bạn và tôi không thể biết. Nỗi đau buồn của bạn cũng là của tôi. Nhưng hăy nhớ rằng, bây giờ bạn và tôi có thể giúp cháu, bằng sự tu tập của chúng ta, thiện nghiệp chúng ta, t́nh thương của chúng ta ; chúng ta có thể cầm tay cháu mà bước bên cạnh cháu ngay bây giờ, dù cháu đă chết, để giúp cháu có được một tái sanh mới và một đời sống dài hơn lần sau” .
Trong thế giới hiện nay của chúng ta, nơi mà ta không biết được cả đến chuyện có thể giúp đỡ người chết, nơi mà ta chưa từng đối mặt cái chết một lần nào trong đời, th́ chuyện tư duy sáng suốt và b́nh tĩnh như vậy không phải dễ. Một người lần đầu tiên khóc người thân có thể phải tan nát cơi ḷng v́ những cảm xúc rối bời như buồn, giận, chối bỏ, rút lui, mặc cảm phạm tội... th́nh ĺnh tàn phá tâm hồn họ. Muốn giúp những người như thế, bạn cần sự kiên nhẫn và tế nhị. Bạn cần thời gian ngồi với họ để cho họ nói, lắng nghe không phê phán mỗi khi họ nhớ lại những hoài niệm riêng tư nhất, hoặc cứ tái đi tái lại từng chi tiết của cái chết. Trên tất cả, có thể bạn chỉ cần ở đấy với họ, lúc mà họ đang kinh quá nỗi đau buồn khốc liệt nhất trong đời. Hăy sẵn sàng đến với họ bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc họ có vẻ không cần hiện diện của bạn. Carol, một góa phụ, khi được hỏi ai giúp bà nhiều nhất trong lúc chồng bà chết, đă trả lời : “Những người tiếp tục gọi điện thoại và ghé thăm, ngay cả khi tôi nói không cần” .
Những người buồn khổ cũng như đang trải qua một loại chết. Cũng như người chết, họ cần biết rằng những cảm xúc rối ren mà họ đang kinh quá là điều tự nhiên. Họ cũng cần biết rằng tiến tŕnh tang tóc thường cam go và dài đăng đẳng, khi nỗi đau buồn cứ tái đi tái lại theo chu kỳ. Nỗi kinh hoàng tê tái không tin ban đầu sẽ tàn phai, nhường chỗ cho một ư thức sâu xa tuyệt vọng về sự mất mát vô biên của họ, mà cuối cùng cũng sẽ hồi phục, trở lại thế quân b́nh. Hăy cho họ biết đây là một mẫu mực sẽ trở lại nhiều lần, tháng này qua tháng khác, và tất cả những cảm giác đau khổ, sợ hăi không thể chịu đựng, tưởng chừng như không c̣n sống ra con người được nữa, cũng chuyện là chuyện b́nh thường. Cho họ biết rằng, dù họ có thể đau đớn trong một, hai năm, nỗi đau của họ chắc chắn rồi cũng đi đến kết thúc và chuyển thành sự chấp nhận.
Judy Tatebaum nói :
“Nỗi đau buồn là một vết thương cần được chú ư để hàn gắn. Hàn gắn một nỗi đau buồn có nghĩa là đối mặt với nó một cách công khai, thẳng thắng, bộc lộ và phóng thích trọn vẹn nó, chấp nhận nó kéo dài bao lâu nó cần để cho vết thương lành lại. Thường ta cứ sợ rằng một khi công nhận nỗi đau buồn, chắc ta không thể nào chịu nổi. Sự thật th́ nỗi đau khổ được bộc lộ ra sẽ có lúc đi đến kết thúc. Đau khổ mà không bộc lộ được th́ cứ kéo dài bất tận”.
Nhưng thông thường, bạn bè và gia quyến của người đau buồn cứ mong cho người ấy “trở lại b́nh thường” sau vài tháng. Điều này chỉ tăng thêm nỗi lạc loài cô lập của họ, khi nỗi đau khổ vẫn tiếp diễn, và có thể càng sâu sắc hơn.
Ở Tây Tạng, như tôi đă nói, toàn thể cộng đồng, bạn bè, bà con, thường tham dự suốt 49 ngày sau khi một người nào chết, và mọi người đều bận rộn trong việc giúp đỡ tâm linh cho người chết, có hàng trăm chuyện để làm. Người đau buồn cứ việc đau buồn, họ khóc lóc chút đỉnh, đó là chuyện tự nhiên, và khi mọi người ra về, th́ ngôi nhà có vẻ trống trải. Tuy thế, sự bận rộn lo lắng nâng đỡ của người xung quanh - bằng nhiều cách tế nhị, làm ấm ḷng đă giúp họ rất nhiều trong nỗi đau thương tang tóc.
Trong xă hội Tây phương, sự chạm mặt một ḿnh với nỗi mất mát thực là khác hẳn. Và nhất là trong trường hợp một vụ chết đột ngột, tự sát, th́ nỗi đau khổ của người ở lại càng tăng cường mănh liệt. Nó làm cho họ càng cảm thấy bất lực không biết làm sao để giúp đỡ người chết. Điều rất quan trọng là để cho người thân đến nh́n thấy xác chết của người chết đột ngột, nếu không, họ rất khó mà nhận ra cái chết thực sự đă xảy đến. Nếu có thể, người ta nên ngồi cạnh xác chết ấy, để nói những ǵ cần nói, diễn tả niềm yêu thương, và khởi sự nói lời từ biệt.
Nếu điều này không thể thực hiện được, th́ hăy đem ra một tấm ảnh của người chết và khởi sự tiến tŕnh từ giă, hoàn tất mối tương quan, rồi buông xả. Hăy khuyên những người có người thân chết nên làm việc này, điều này sẽ giúp cho họ chấp nhận tin buồn, thực tại nát ḷng của cái chết. Cho họ biết những cách giúp đỡ người chết như đă nói trên, những cách đơn giản họ có thể làm, thay v́ ngồi bó gối một cách vô vọng, nghiền ngẫm về cái chết ấy trong nỗi âm thầm áo năo tự trách.
Trong trường hợp một cái chết đột ngột, những người thân thường có thể kinh quá những cảm xúc tức tối trước những ǵ mà họ cho là nguyên nhân cái chết.
Hăy giúp họ bộc lộ sự tức giận ấy, v́ nếu bị giữ lại trong ḷng, th́ sớm muộn sự tức giận ấy sẽ đưa đẩy họ vào một nỗi áo năo kinh niên. Hăy giúp họ buông xả cơn tức giận và cho họ thấy những chiều sâu của nó, là nỗi đau mất mát. Rồi họ có thể khởi sự công việc buông xả, một chuyện gay go nhưng cuối cùng sẽ hàn gắn mối thương tâm.
Cũng có nhiều khi người c̣n lại sau cái chết của một người thân, cảm thấy mănh liệt mặc cảm phạm tội, cứ bị ám ảnh bởi những lỗi lầm của ḿnh trong quá khứ với người đă chết, hoặc tự dày ṿ v́ nghĩ đáng lẽ ḿnh có thể làm ǵ để ngăn cái chết. Hăy giúp họ nói ra những cảm giác phạm tội ấy, dù chúng có vẻ phi lư đến đâu. Dần dà những cảm giác ấy sẽ giảm bớt, và họ sẽ tự tha thứ cho họ để tiếp tục sống nốt cuộc đời của ḿnh.
Một pháp môn trọng yếu
Bây giờ tôi sẽ cho bạn một phương pháp tu tập có thể giúp bạn rất nhiều, mỗi khi bạn bị đau đớn, buồn sầu kinh khủng. Đấy là một pháp mà thầy Jamyang Khientse tôi thường dạy cho những người đang kinh quá sự đau khổ tinh thần, dằn vặt tâm can. Và tôi biết với kinh nghiệm bản thân rằng pháp này có thể đem lại nguồn an ủi lớn lao như cất một gánh nặng khổng lồ. Đời sống của một người giảng dạy trong một thế giới như thế giới phương Tây không phải dễ. Lúc c̣n trẻ, có những lúc tôi gặp phải khủng hoảng khó khăn, khi ấy tôi luôn luôn triệu thỉnh Padmasambhava, như bây giờ tôi vẫn làm, và nghĩ đến ngài như tất cả các bậc thầy của tôi. Và tôi đă khám phá rằng phương pháp ấy thật có thể chuyển hóa tôi một cách mầu nhiệm, thảo nào các bậc thầy tôi thường nói rằng, pháp hành tŕ Padmasambhava là hữu ích nhất mỗi khi ta gặp khó khăn, v́ pháp này có cái năng lực mà bạn cần để vượt qua sự hỗn loạn, rối ren của thời đại.
Bởi vậy, khi bạn buồn nản, lo sầu, xuống dốc, khi bạn cảm thấy không thể đi thêm được nữa, cảm thấy cơi ḷng tan nát, th́ tôi khuyên bạn nên áp dụng pháp môn này. Điều kiện duy nhất để tu tập có hiệu quả là bạn cần phải làm thực tập này với tất cả năng lực của bạn, bạn cần phải xin cầu, và tha thiết xin cầu.
Mặc dù hành thiền, bạn vẫn c̣n có nhiều cảm xúc đau đớn khổ sở và vô số chuyện từ các đời quá khứ, hoặc đời này nổi lên mà bạn thấy khó thể đương đầu. Bạn có thể thấy ḿnh không đủ trí tuệ và định tĩnh để đối phó với chúng, và một mặt thiền định không mà thôi chưa đủ. Khi ấy điều bạn cần là cái mà tôi gọi “một sự tu luyện từ tim”. Tôi luôn luôn cảm thấy buồn sầu v́ người ta không có một kiểu làm như thế để giúp họ trong những lúc khốn đốn. Nếu bạn có làm, bạn sẽ t́m thấy ḿnh có một cái ǵ vô cùng quư báu, nó sẽ là một nguồn sức mạnh chuyển hóa cuộc đời bạn.
1- Triệu thỉnh
Trong bầu trời trước mặt, bạn hăy triệu thỉnh hiện diện của bất cứ thực thể giác ngộ nào mà bạn có cảm ứng nhất, và xem vị ấy như hiện thân của tất cả chư Phật, Bồ-tát, bậc thầy. Đối với tôi, hiện thân ấy là Padmasambhava. Nếu bạn không thể tưởng tượng ra trong tâm nhăn của bạn một h́nh dạng nào, th́ hăy cứ có một cảm giác mănh liệt về sự hiện diện ấy, và triệu thỉnh năng lực từ bi và ân sủng vô biên của ngài.
2- Hô triệu
Mở ḷng bạn ra, và kêu gọi ngài với tất cả nỗi đau đớn khổ sở mà bạn cảm thấy. Nếu bạn cảm thấy muốn khóc th́ đừng cố nín, mà cứ việc tuôn ra, và thực t́nh cầu xin sự giúp đỡ. Hăy biết rằng có một người nào thực sự đang ở đấy để giúp bạn, một người đang lắng nghe bạn, cảm thông bạn với ḷng từ mẫn, không bao giờ phê phán bạn : đó là một người bạn chân t́nh. Hăy hô triệu vị ấy từ đáy sâu nỗi đau đớn của bạn, dùng câu thần chú OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM, thần chú đă được xử dụng hàng bao thế kỷ bởi hàng trăm ngàn người, như một ḍng suối để tịnh hóa, chữa lành và che chở.
3- Làm tràn đầy hỷ lạc trong tim
Hăy tưởng tượng và biết rằng vị Phật mà bạn đang kêu cầu ấy đă đáp ứng với tất cả năng lực từ bi và trí giác của ngài. Nguồn ánh sáng rực rỡ từ nơi ngài đang tuôn về phía bạn. Hăy tưởng tượng ánh sáng ấy như vị cam lồ đang rót đầy tim bạn, và chuyển hóa tất cả đau thương của bạn thành hỷ lạc.
Một cách Padmasambhava xuất hiện là đắp y ngồi trong tư thế thiền, toát ra một cảm giác ấm cúng tiện nghi, với nụ cười yêu thương trên gương mặt ngài. Trong hóa thân này, ngài được gọi là “Đại lạc”. Tay ngài đặt thoải mái trên hai vế, đỡ lấy một cái tách làm bằng sọ người đựng toàn cam lồ Đại lạc. Nước cam lồ ấy đang tung tóe khắp nơi để chữa lành mọi đau thương bệnh tật. Ngài ngồi một cách an tịnh trên một ṭa sen nở, nằm trong một trái cầu bằng ánh sáng.
Hăy nghĩ về ngài như một mặt trời phúc lạc, suối nguồn của sự nồng nàn yêu thương, an ủi, chữa lành. Hăy mở ḷng bạn ra, tuôn ra tất cả đau khổ của bạn, cầu xin cứu giúp. Và đọc câu thần chú của ngài : OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM.
Bây giờ, hăy tưởng tượng hàng ngàn tia sáng tuôn ra từ nơi thân ngài hay từ tim ngài. Tưởng tượng ngài đang vui vẻ chan rưới vị cam lồ liên tục trên người bạn, một thứ ánh sáng như chất lỏng bằng vàng ṛng rót vào tim bạn, chuyển hóa khổ đau của bạn thành an lạc.
Đấy là phương pháp kỳ diệu mà thầy tôi thường dạy, nó đem lại cho tôi cảm hứng và sự giúp đỡ lớn lao vào những lúc tôi cần giúp đỡ.
4- Giúp đỡ người chết
Khi bạn làm thực tập này nhiều lần, đọc thần chú và làm cho tâm bạn tràn ngập hỷ lạc, th́ dần dần sự khổ đau của bạn sẽ tan ḥa vào trong niềm an tịnh của tự tánh tâm bạn. Bạn sẽ vui mừng nhận ra rằng, chư Phật vốn không ngoài tâm bạn, mà luôn luôn ở với bạn, bất ly tự tánh bạn. Và những ǵ Phật làm qua sự ban phước của ngài, là gia tŕ năng lực cho bạn, nuôi dưỡng bạn bằng niềm tin đối với Phật tánh ở bên trong.
Bây giờ, với tất cả năng lực tin tưởng mà pháp này đă đem lại cho bạn, bạn hăy tưởng tượng ḿnh đang gởi phúc lạc ấy, ánh sáng từ bi của chư Phật ấy đến những người thân yêu đă chết. Điều này đặc biệt quan yếu trong trường hợp một người gặp cái chết thảm khốc, v́ nó giúp chuyển hóa nỗi đau đớn của họ, đem lại cho họ b́nh an và phúc lạc. Trong quá khứ, có lẽ bạn đă cảm thấy tuyệt vọng, vô phương giúp đỡ những người thân, nhưng bây giờ, qua pháp tu tập này, bạn có thể cảm thấy được an ủi, khuyến khích và có thêm năng lực để giúp người đă chết.
Mở rộng cơi ḷng
Đừng mong có hiệu quả tức th́, hay một phép lạ nào đó. Có thể chỉ sau một thời gian, hay lâu hơn nhiều, trong lúc không ngờ, sự đau khổ của bạn sẽ chuyển hướng. Đừng mong đợi chấm dứt đau khổ một lần dứt khoát. Hăy mở rộng ḷng đối với nỗi đau buồn, như bạn mở ḷng ra đối với chư Phật và các bậc giác ngộ trong lúc thiền quán.
Bạn có thể cảm thấy biết ơn nỗi đau khổ, v́ nó cho bạn cơ hội làm việc thẳng với nó và chuyển hóa nó. Nếu không có đau khổ th́ bạn đâu bao giờ khám phá ra rằng tận đáy sâu của khổ đau c̣n có một kho tàng phúc lạc. Thời gian mà bạn đau khổ có thể là thời gian bạn cởi mở nhất, và chỗ mà bạn cực kỳ thương tổn có thể là nơi ẩn tàng sức mạnh lớn nhất của bạn.
Vậy bạn hăy tự nhủ ḷng : “Tôi sẽ không chạy trốn khổ đau. Tôi muốn xử dụng nó bằng cách tốt nhất, phong phú nhất, để tôi có thể thương yêu người khác và trở nên hữu ích cho họ”. Chung quy, chính khổ đau dạy cho ta ḷng từ mẫn. Khi bạn đau khổ, bạn mới biết người khác đau khổ như thế nào. Và nếu bạn có thể giúp người khác, th́ chính nhờ kinh nghiệm khổ đau của bạn mà bạn có thể có sự cảm thông và tâm từ bi để làm việc ấy.
Bởi thế dù có làm ǵ, bạn cũng nhớ đừng dập tắt nỗi đau khổ của bạn ; hăy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nỗi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hăy nhận nỗi đau khổ như nguyên trạng của nó, v́ kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội t́m ra được cái ẩn giấu sau nỗi đau buồn. “Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn”, Rumi viết. Nếu bạn mở ḷng ra với mọi sự, th́ nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường t́m kiếm từ bi và trí tuệ.
Và có lẽ chúng ta đều biết rơ rằng, ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, th́ ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được ǵ về kinh nghiệm khổ đau. Rilke viết rằng : “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, th́ không thể biết yêu thương” .
Chấm dứt đau buồn và rút bài học từ nỗi buồn đau
Khi bạn tràn ngập khổ đau, th́ hăy cố vươn lên bằng một trong những phương pháp thiền tôi đă đề cập trong chương 5 “Đưa tâm về nhà” . Một trong những phương pháp tôi thấy rất hiệu lực để làm lắng dịu, tiêu tan nỗi sầu là đi vào thiên nhiên, nhất là đứng nh́n một ḍng thác đổ, để cho nước mắt bạn, nỗi đau khổ của bạn trào tuôn và tịnh hóa bạn, như ḍng nước chảy kia. Hoặc bạn có thể đọc một bản kinh cảm động nói về vô thường, và để cho trí tuệ nói trong kinh xoa dịu ḷng bạn.
Chấp nhận đau thương để chấm dứt nó là chuyện có thể làm. Một cách mà nhiều người thấy hiệu nghiệm là phương pháp tôi đă nói về sự “hoàn tất công việc dang dở”, thay đổi đôi chút. Dù người thân của bạn chết từ bao lâu, bạn cũng sẽ thấy pháp này rất hiệu nghiệm.
Quán tưởng chư Phật, Bồ-tát đứng ở trên bầu trời trên đầu và xung quanh bạn, đang chiếu xuống những tia sáng từ bi, ban ân sủng cho bạn. Trước sự hiện diện ấy, hăy nói những ǵ bạn cần nói, những ǵ thực sự ở trong tim bạn, với người thân đă chết.
Quán tưởng người ấy đang nh́n bạn với niềm cảm thông và t́nh thương mến nhiều hơn bao giờ cả trong đời họ. Hăy biết rằng người chết muốn cho bạn hiểu rằng họ yêu mến bạn và tha thứ cho bạn những ǵ bạn đă làm, và họ cũng muốn xin bạn tha thứ cho họ.
Hăy để cho tim bạn tuôn ra thành lời bao nhiêu nỗi giận hờn, thương tổn, mà có thể bạn đă ấp ủ bấy lâu, rồi buông xả hoàn toàn. Bằng tất cả tâm trí bạn, hăy để cho sự tha thứ của bạn hướng về người chết. Nói với họ, bạn đă tha thứ, nói với họ bạn đă hối hận như thế nào về tất cả nỗi đau khổ có thể bạn đă gây ra.
Bây giờ, hăy để cho sự tha thứ và t́nh yêu thương của họ tràn ngập bản thể bạn. Hăy biết tận đáy ḷng bạn rằng bạn đáng được yêu thương, đáng được tha thứ, và hăy cảm thấy nỗi đau buồn của bạn đang tan biến.
Cuối cùng, hăy tự hỏi bây giờ bạn có thể thực sự nói lời từ biệt và buông xả người ấy hay chưa. Rồi tưởng tượng người ấy quay lưng bỏ đi, và kết thúc bằng pháp Chuyển di hay bất cứ pháp nào để giúp đỡ người đă chết.
Pháp này sẽ cho bạn cơ hội chứng tỏ t́nh yêu của bạn một lần nữa, làm một cái ǵ thêm nữa để giúp người đă chết, và chữa lành, hoàn tất mối tương giao trong tâm bạn.
Bạn có thể học được rất nhiều từ nỗi đau thương mất mát, nếu bạn mở ḷng ra. Sự đau thương có thể bắt buộc bạn phải nh́n thẳng vào cuộc đời bạn, t́m một ư nghĩa trong đó mà lâu nay bạn chưa thấy. Khi đột nhiên bạn cảm thấy bơ vơ v́ cái chết của người thân, th́ bạn như sống lại một cuộc đời mới và tự hỏi : “Ta sẽ làm ǵ với cuộc đời này ? Tại sao ta c̣n mong tiếp tục sống ?” .
Sự mất mát thương đau c̣n có thể nhắc cho bạn một cách mănh liệt cái ǵ có thể xảy ra nếu trong khi sống bạn không chịu bày tỏ t́nh thương mến của bạn, sự tán thưởng của bạn, hay sự xin lỗi, và bởi thế có thể làm cho bạn nhạy cảm hơn đối với những người thân c̣n sống. Elisabeth Kubler-Ross nói : “Điều tôi muốn nhắn nhủ mọi người là, hăy sống thế nào để bạn có thể nói những lời ấy trong lúc người kia c̣n có thể nghe được”. Và Raymond Moody, sau công tŕnh một đời nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, đă viết : “Tôi bắt đầu nhận ra rằng : tất cả chúng ta thường ngày như thế nào th́ khi gần chết, cũng như thế ấy. Hơn bao giờ hết, bây giờ tôi rất thận trọng để làm cho mọi người tôi yêu mến biết rơ cảm xúc của tôi” .
Bởi thế, lời khuyên tâm huyết của tôi cho những người đang ở trong cơn đau đớn sâu xa về nỗi mất mát người thân của họ, là hăy cầu nguyện chư Phật để được giúp đỡ, được ân sủng và sức mạnh. Cầu nguyện cho bạn sống để t́m ra ư nghĩa phong phú nhất cho đời sống mới của bạn, sau khi họ mất đi. Hăy nhạy bén đối với nỗi đau ḷng, hăy can đảm và kiên nhẫn. Trên tất cả, hăy nh́n vào cuộc đời bạn để t́m cách san sẻ niềm thương yêu của bạn một cách sâu xa hơn, đối với những người khác ngay bây giờ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 402 of 2534: Đă gửi: 04 July 2008 lúc 4:02am | Đă lưu IP
|
|
|
20. KINH NGHIỆM CẬN TỬ
NẤC THANG LÊN TRỜI
Ngày nay ở phương Tây chúng ta đă rất quen thuộc với kinh nghiệm cận tử, cái tên đặt cho một loạt những ǵ xảy đến cho những người chết hụt , và được họ kể lại sau khi thoát một tai nạn hay một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm cận tử này đă được kể khá nhiều, trong tất cả các truyền thống huyền học, bởi các văn sĩ, triết gia thuộc đủ trường phái khác nhau như Platon, Giáo hoàng Gregory, một vài bậc thầy giáo phái Sufisme, Toltoi và Carl Jung. Mẩu chuyện mà tôi thích nhất là mẩu chuyện của một sử gia Anh, thầy tu Bede, đă kể lại vào thế kỷ thứ 8.
Vào thời ấy, một phép lạ đáng chú ư, giống như những phép lạ ngày xưa, đă xảy ra ở Anh quốc. Để đánh thức những người đang sống mà tâm hồn đă chết, có một người đă chết trở về lại đời sống trong thân xác cũ của họ và kể nhiều chuyện mà y đă trông thấy. Một vài chuyện trong đấy tôi nghĩ là đáng nói vắn tắt ở đây. Có một gia chủ ở xứ Northumbrian, tên là Cunningham, sống một đời sùng tín. Ông ta ngă bệnh càng ngày càng nặng, cho đến vào đầu một đêm kia, ông chết. Nhưng đến lúc b́nh minh, ông th́nh ĺnh sống lại, ngồi dậy trên giường trước nỗi kinh ngạc của mọi người đang khóc xung quanh xác ông. Họ vùng bỏ chạy, chỉ trừ bà vợ, người yêu thương ông hơn ai hết, ở lại bên ông mặc dù bà cũng run lên v́ hăi sợ. Ông trấn an bà và bảo : “Đừng sợ, v́ tôi quả thực vừa thoát khỏi nanh vuốt thần chết, và tôi được phép sống lại giữa loài người. Nhưng từ đây tôi không được sống theo thói cũ, và phải có một lối sống hoàn toàn khác hẳn” . Không lâu sau đó, ông từ bỏ tất cả trách nhiệm ở đời và gia nhập tu viện Melrose...
Ông thường kể lại kinh nghiệm ông đă trải qua như sau :
“Một người đẹp trai trong chiếc áo rực rỡ, hướng dẫn tôi, và chúng tôi im lặng đi về hướng dường như là đông-bắc. Khi tiếp tục đi, chúng tôi gặp một thung lũng rộng, sâu, và có độ dài bất tận... Người ấy liền đưa tôi ra khỏi bóng tối, đến một bầu không khí có ánh sáng trong suốt, và khi người ấy dẫn tôi đi trong ánh sáng ấy, tôi thấy trước mặt một bức tường to lớn dường như có chiều cao và chiều dài vô tận. V́ tôi không trông thấy cửa ngơ, cửa sổ hay lối vào nào cả, tôi tự hỏi tại sao chúng tôi đi đến đấy làm ǵ. Nhưng vừa khi tới nơi, tôi không hiểu tại sao, chúng tôi đă ở trên nóc bức tường ấy. Bên trong có một cánh đồng khoáng đạt và vui vẻ trải ra... Ánh sáng tràn ngập trong đó, c̣n sáng chói hơn cả ánh mặt trời giữa ngọ...
Người hướng đạo nói : “Nay ngươi phải trở về nhập xác lại và sống giữa loài người một lần nữa, nhưng nếu ngươi cân nhắc hành động một cách cẩn thận và học hỏi để giữ cho lời nói và tư cách ngươi đều b́nh dị, có đạo đức, th́ khi chết, ngươi cũng sẽ được một căn nhà trong đó và sống giữa những linh hồn hạnh phúc mà ngươi đă thấy. V́ khi ta rời ngươi trong chốc lát là để xem tương lai của ngươi sẽ là ǵ” . Khi ông ta nói thế, tôi rất miễn cưỡng trở về thân xác, v́ tôi đâm ra mê mẩn trước vẻ đẹp và sự vui thú của cái nơi tôi đă thấy và những người trong đó. Nhưng tôi không dám hỏi người hướng đạo tôi, và trong khi ấy, không biết làm thế nào tôi chợt thấy ḿnh sống lại”.
Bede chấm dứt câu chuyện với những lời này :
“Con người của Chúa trời này không kể chuyện này và những điều y đă thấy với những người sống bất cẩn, vô cảm, mà chỉ nói với những người sẵn sàng ghi nhớ những lời của y và tăng thêm sự thánh thiện”.
Kỹ thuật y khoa tân tiến đă đem lại một chiều hướng mới mẻ, hấp dẫn cho tầm mức kinh nghiệm cận tử ; bây giờ nhiều người đă sống lại sau một tai nạn, cơn suy tim hay bệnh nặng, hoặc trong khi giải phẫu, trong cuộc chiến. Kinh nghiệm cận tử đă là đề tài của một số lớn khảo cứu khoa học và tư duy triết học. Theo một cuộc trưng cầu ư kiến của viện Gallup năm 1982, có đến 8 triệu người Mỹ, hay một phần hai mươi dân số, đă có ít nhất một lần suưt chết.
Mặc dù kinh nghiệm cận tử không ai giống ai, cũng như không có hai người cùng có một kinh nghiệm giống nhau về cơi Trung Ấm, tuy thế có một mẫu mực chung về các giai đoạn khác nhau trong kinh nghiệm cận tử, một “kinh nghiệm cốt lơi” xuất hiện :
1- Họ đều cảm thấy một tâm trạng đổi khác, an lạc và thoải mái, không đau đớn, hoặc có những cảm thọ về thân, hoặc cảm thấy sợ hăi.
2- Họ có thể để ư đến một âm thanh ào ào hay vù vù, và cảm thấy ḿnh rời khỏi xác. Đây gọi là “kinh nghiệm thoát xác” : Họ có thể nh́n thấy cơ thể họ từ một điểm ở trên cao ; thị giác và thính giác của họ bén nhạy hơn, tâm thức họ sáng suốt và rất nhạy cảm, và họ c̣n có thể đi xuyên qua vách tường.
3- Họ ư thức đến một thực tại khác, đi vào một bóng tối, trôi nổi trong một không gian có chiều hướng, rồi di chuyển rất nhanh qua một đường hầm.
4- Họ trông thấy một ánh sáng, lúc đầu chỉ là một điểm ở đằng xa, rồi họ bị cuốn hút tới đó và được bao phủ trong ánh sáng và t́nh yêu thương. Nó được mô tả như ánh sáng chói chang rất đẹp, nhưng không hại mắt nh́n. Vài người kể lại, họ đă gặp “một thực thể thuần là ánh sáng”, một hiện diện bằng quang sắc có vẻ toàn năng mà một số người gọi là Thượng đế hay Chúa Ki-tô, có ḷng từ mẫn. Đôi khi trước hiện diện này, họ có thể chứng kiến toàn cảnh cuộc đời họ diễn lại ; thấy mọi việc họ đă làm lúc sống, cả tốt lẫn xấu. Họ nói chuyện bằng thần cảm với hiện diện ánh sáng ấy, và tự thấy ḿnh ở trong một trạng thái phúc lạc, trong đó mọi khái niệm về thời gian và không gian đều vô nghĩa. Mặc dù kinh nghiệm ấy chỉ kéo dài một hai phút, nó vẫn là cái ǵ rất toàn vẹn và phong phú.
5- Một vài người thấy một thế giới nội tâm tràn đầy vẻ đẹp, dinh thự, phong cảnh thiên đường, với thiên nhạc, và họ có một cảm giác về nhất thể. Một vài người, dường như rất ít người, báo cáo thấy những h́nh ảnh ghê rợn của hỏa ngục.
6- Họ có thể đạt đến một biên giới mà họ không thể đi xa hơn; vài người gặp bà con bè bạn đă chết và nói chuyện với họ. Họ quyết định (thường rất miễn cưỡng) hoặc được bảo phải trở về lại thân xác và cuộc đời, đôi khi v́ ư thức sứ mệnh và phụng sự, đôi khi v́ để lo cho gia quyến, đôi khi chỉ để hoàn tất mục tiêu cuộc đời họ đang bị dang dở.
Khía cạnh quan trọng nhất của kinh nghiệm cận tử là sự chuyển hóa toàn diện trong sự sống, trong thái độ và trong tương giao của những người đă có kinh nghiệm ấy. Họ có thể không mất nỗi sợ hăi đối với nỗi đau và hấp hối, song chính cái chết th́ họ không sợ. Họ trở nên bao dung hơn, đầy t́nh thương yêu, và quan tâm đến những giá trị tâm linh, đến con đường trí tuệ, và thường họ thiên về đời sống tâm linh nói chung, hơn là quan tâm đến những giáo điều của một tôn giáo.
Thế th́ làm sao để giải thích kinh nghiệm cận tử ? Vài người Tây phương đọc Tử Thư Tây Tạng đă so sánh những kinh nghiệm cận tử này với các kinh nghiệm về thân Trung Ấm trong truyền thống Tử Thư. Nh́n qua th́ có vẻ tương đồng, nhưng nói chính xác th́ những chi tiết của kinh nghiệm cận tử liên hệ như thế nào với giáo lư Bardo ? Tôi nghĩ rằng việc này cần một khảo sát đặc biệt vượt ngoài tầm sách này, nhưng có một số điểm đồng và dị mà ta có thể thấy.
Bóng tối và đường hầm
Có lẽ bạn cũng nhớ, giai đoạn cuối tiến tŕnh tan ră của Bardo chết là khi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” xuất hiện “như một bầu trời trống trải trùng trong màn đêm tối mịt” . Ở điểm này, giáo lư nói đến một giây phút hỷ lạc hạnh phúc. Một trong những nét chính của kinh nghiệm cận tử là cái cảm tưởng di chuyển “với tốc độ kinh khủng” và “cảm giác vô trọng lực” qua một không gian tối đen, “một màu đen kỳ diệu, thanh b́nh, toàn triệt”, và đi xuống “một cái hầm đen dài” .
Một phụ nữ kể cho Kenneth Ring :
“Nó giống hệt một khoảng trống thoải mái thanh b́nh, đến nỗi bạn có thể tiếp tục đi tới. Chỉ toàn là màu đen, không có cảm giác nào cả... như là một đường hầm. Bạn cứ như là trôi giữa hư không”.
Và một bà khác kể :
“Điều đầu tiên tôi nhớ được là một tiếng xào xạc kinh khủng... Thực khó thể nói nên lời. Tôi có thể nói là nó như một cơn gió lốc, một trận cuồng phong kéo tôi đi. Và tôi đang được kéo từ một điểm chật hẹp đến một nơi rộng răi” .
Một phụ nữ kể cho Margot Grey :
“Tôi đang ở một nơi giống như là một khoảng trống ngoài trời. Hoàn toàn tối đen, và tôi cảm thấy đang được lôi kéo về phía cuối một đường hầm. Tôi biết thế v́ tôi có thể trông thấy một ánh sáng cuối đường. Tôi đang thẳng đứng và bị kéo về phía lối ra. Tôi biết đấy không phải là mộng mộng mị không xảy ra kiểu đó. Tôi không bao giờ tưởng tượng đó lại là mộng mị”.
Ánh sáng
Vào lúc chết, Ánh sáng Căn bản hay Linh quang xuất hiện với tất cả vẻ chói lọi quang vinh. Tử Thư Tây Tạng nói : “Hỡi thiện nam/nữ, tự tánh tâm ngươi là ánh sáng và koảng trống bất khả phân, nó trú như một vùng ánh sáng rộng lớn, vượt ngoài sống và chết ; quả thế, đấy là đức Phật với Ánh sáng không thay đổi” .
Melvin Morse, chuyên gia sưu tầm kinh nghiệm cận tử nơi trẻ em, có nhận xét : “Gần hết mọi kinh nghiệm cận tử của trẻ con (và một phần tư kinh nghiệm của người lớn) đều có yếu tố ánh sáng. Tất cả đều báo cáo rằng ánh sang xuất hiện ở giai đoạn cuối của kinh nghiệm cận tử, sau khi chúng ta đă có kinh nghiệm thoát xác, hoặc đă đi hết đường hầm” .
Một mô tả hay nhất về sự tiến gần ánh sáng được Margot Grey báo cáo :
Dần dần, bạn nhận ra rằng : rất xa ở đằng xa, một khoảng cách vô lượng, bạn có thể đạt đến cuối đường hầm, v́ bạn có thể trông thấy một ánh sáng trắng, nhưng nó quá cách xa, tới độ tôi chỉ có thể so sánh nó như khi nh́n lên bầu trời mà thấy một v́ sao duy nhất ở đằng xa. Nhưng bạn phải nhớ rằng ḿnh đang nh́n qua một đường hầm, và ánh sáng ấy sẽ lấp đầy cuối đường hầm. Bạn có thể tập trung trên điểm sáng ấy v́ khi bạn ngoi tới trước bạn sẽ gặp nó.
Dần dần, khi bạn du hành về phía điểm sáng ấy ở một tốc độ cực nhanh, ánh sáng càng ngày càng lớn. Toàn thể tiến tŕnh này nhớ lại dường như kéo dài chỉ chừng một phút. Khi bạn từ từ tiến đến ánh sáng cực chói lọi ấy, th́ không có cảm giác đường hầm đột ngột chấm dứt, đúng hơn bạn có cảm giác ḿnh tan vào trong ánh sáng ấy. Khi đó, đường hầm đă ở sau bạn, và trước mặt là một ánh sáng màu trắng xanh rực rỡ tuyệt đẹp. Ánh sáng vô cùng rực rỡ hơn cả một ánh sáng sẽ làm ḷa mắt bạn, nhưng ánh sáng này tuyệt nhiên không làm hại mắt bạn chút nào.
Nhiều người có kinh nghiệm cận tử đă tả ánh sáng ấy như sau :
Tôi sẽ tả về ánh sáng ấy là - vâng, đấy không phải là ánh sáng, mà là sự vắng mặt của bóng tối, toàn diện và viên măn... Bạn thường nghĩ, ánh sáng lớn là ánh sáng chiếu trên mọi vật làm nên những cái bóng.v.v... Nhưng ánh sáng này thực sự là vắng mặt của bóng đen. Chúng ta không quen với khái niệm này, v́ ta luôn luôn có một cái bóng từ nơi ánh sáng, nếu ánh sáng không bao quanh ta. Nhưng ánh sáng này toàn vẹn, tràn đầy tới nỗi bạn không nh́n vào nó, mà bạn ở trong nó.
Một người kể cho Kenneth Ring : “Nó không sáng. Nó như một ngọn đèn có chụp lại, hay ǵ ấy. Nhưng đó không phải là loại ánh sáng mà bạn có được từ ngọn đèn. Bạn biết nó ra sao không ? Giống như người nào đă để một cái chụp lên mặt trời. Nó làm cho tôi cảm thấy vô cùng an lạc. Tôi không c̣n sợ hăi. Mọi sự sẽ không sao cả” .
Một phụ nữ bảo Margot Grey : “Ánh sáng rực rỡ hơn bất cứ ǵ bạn có thể tưởng tượng nổi. Không có lời nào để mô tả nó. Tôi cảm thấy hạnh phúc khôn tả. Đấy là một cảm giác an lành, một cảm giác kỳ diệu. Ánh sáng chói lọi tới nỗi b́nh thường có thể làm ḷa mắt bạn, nhưng sao nó không làm ta đau mắt chút nào” .
Những người khác kể lại, họ không những trông thấy ánh sáng, mà c̣n có thể nhập vào đó, và kể về cảm giác ấy như sau : “Tôi không có cảm giác ḿnh là cái ǵ tách biệt với ánh sáng. Tôi chính là ánh sáng, và là một với nó” .
Một phụ nữ đă qua hai cuộc giải phẫu lớn trong trong hai ngày, đă kể cho Margot Grey : “Chỉ có tinh chất của tôi được cảm thấy. Thời gian không c̣n là cái ǵ cả, và không gian th́ tràn đầy phúc lạc. Tôi được tắm trong ánh sáng rực rỡ và ch́m ngập trong hào quang của ánh cầu vồng. Mọi sự đều tan ḥa vào nhau. Những âm thanh thuộc về một trật tự khác, ḥa điệu, không tên (bây giờ th́ tôi gọi là âm nhạc) ”.
Một người đàn ông khác khi đạt đến giai đoạn thể nhập ánh sáng đă tả :
“Loạt biến cố sau đây dường như xảy ra đồng thời, nhưng khi mô tả th́ tôi phải làm tuần tự. Tôi có cảm giác về một thực thể thuộc loại nào đó, một năng lực, đúng hơn là một con người, một trí tuệ mà ta có thể nói chuyện với. Về tầm vóc th́ “thực thể ấy” chiếm trọn khoảng không gian trước mặt ta, nuốt chửng tất cả mọi sự, bạn cảm thấy bạn cũng được bao bọc trong đó.
Ánh sáng ấy liền nói với bạn, đọc được ngay những làn sóng tư tưởng bạn, không cần ngôn ngữ. Thông điệp đầu tiên tôi nhận được là “Hăy thư giăn, mọi sự đều tốt đẹp, con không có ǵ phải sợ hăi”. Tôi liền được hoàn toàn thoải mái. Trong quá khứ nếu một người nào, như một bác sĩ, nói “Không sao, bạn không có ǵ phải lo sợ, không đau đâu”, th́ thường có đau, nên bạn không thể tin được. Nhưng đây lại là cái cảm giác kỳ tuyệt nhất mà tôi từng biết đến, đầy thuần túy là t́nh yêu. Mọi cảm giác đều toàn hảo. Bạn cảm thấy ấp áp, nhưng không dính ǵ đến thời tiết cả. Mọi sự ở đấy tuyệt đối sống động và sáng sủa. Cái mà ánh sáng truyền thông cho bạn là một cảm giác về t́nh yêu chân thật và thuần tịnh. Lần đầu tiên bạn cảm thấy điều ấy. Bạn không thể so sánh nó với t́nh yêu của vợ con bạn. Tất cả những t́nh yêu trên thế gian góp lại cũng không sánh được với cảm giác bạn có được từ nơi ánh sáng ấy” .
Một người đàn ông suưt chết đuối vào năm 14 tuổi, đă kể :
“Khi tôi đạt đến nguồn gốc của Ánh sáng, tôi có thể nh́n vào. Tôi không thể nào khởi sự mô tả bằng ngôn ngữ con người những cảm giác mà tôi có về những ǵ tôi trông thấy. Đấy là một thế giới vô biên, đầy sự an tĩnh, năng lực, vẻ đẹp và t́nh yêu. Dường như đời người không quan trọng khi so sánh với cái này. Tuy vậy, “nó” nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống, đồng thời cũng xin cầu cái chết như một phương tiện để đạt đến một đời sống khác tốt đẹp hơn. Đấy là tất cả vẻ đẹp và ư nghĩa của mọi hiện hữu. Đó là tất cả năng lực vũ trụ”.
Melvin Morse đă viết rất cảm động về kinh nghiệm cận tử của trẻ em, và kể lại cách chúng mô tả ánh sáng với sự hùng hồn đơn giản : “Cháu có một điều bí mật kỳ diệu để nói với chú. Cháu đă leo lên một cái thang bắc lên thiên đàng” . “Cháu chỉ muốn đi đến Ánh sáng ấy, quên thân thể cháu, quên tất cả mọi sự. Cháu chỉ muốn đạt đến Ánh sáng ấy” . “Có một Ánh sáng thực đẹp trong đó có đủ mọi điều tốt lành. Trong chừng một tuần lễ sau đó, cháu có thể thấy những tia nhỏ của Ánh sáng ấy nơi tất cả mọi sự” . “Khi cháu ra khỏi cơn hôn mê trong bệnh viện, cháu mở mắt và trông thấy những mẩu của Ánh sáng ấy ở khắp nơi. Cháu có thể thấy được mọi sự trong thế giới ăn khớp nhau như thế nào”.
Điểm tương đồng với Trung Ấm tái sanh
Trong kinh nghiệm cận tử, tâm tạm thời thoát khỏi thân xác, và kinh quá một số kinh nghiệm gần giống những ǵ mà một thân ư sanh trải qua trong cơi Bardo tái sanh.
1- Kinh nghiệm thoát xác
Kinh nghiệm cận tử thường khởi đầu bằng một kinh nghiệm thoát xác : người ta có thể trông thấy thân thể của chính họ, cũng như thấy hoàn cảnh chung quanh. Điều này trùng hợp với điều đă được nói trong Tử Thư :
“Tôi nhớ ḿnh tỉnh dậy khỏi hôn mê, rồi trôi giạt và tự thấy ḿnh đă ra khỏi xác, đang lơ lửng trên không nh́n xuống cái thân xác của tôi. Tôi chỉ biết ḿnh có một óc năo và đôi mắt, mà không nhớ đă có một xác thân” .
Một người đàn ông đă qua một cơn suy tim kể với Kenneth Ring : “Nó như thể là tôi đang ở trên không trung và chỉ có tâm tôi đang hoạt động. Không có cảm giác cơ thể, cũng như óc năo tôi cũng ở trên không. Tôi không có ǵ ngoài tâm tôi. Mất trọng lượng, tôi không có ǵ cả” .
2- Ngắm nh́n thân quyến một cách vô vọng
Trong Trung Ấm tái sanh, tôi đă tả rằng những người chết có thể thấy và nghe bà con đang sống của họ, nhưng không thể nào liên lạc được với họ, và điều này làm họ tức tối. Một phụ nữ ở Florida kể cho Michael Sabom, nàng đă nh́n xuống mẹ nàng như thế nào, từ một điểm gần cái trần nhà : “Điều to tát nhất tôi nhớ được là tôi cảm thấy vô cùng buồn bă v́ không thể làm sao để nói cho họ biết tôi không sao cả”.
Và một phụ nữ khác kể cho Michael Sabom : “Tôi đang ngồi tuốt trên cao nh́n chính tôi đang co giật, c̣n mẹ tôi và tớ gái th́ la lớn lên v́ họ tưởng tôi đă chết. Tôi thương hại cho họ... Một nỗi buồn vô tận. Nhưng tôi cảm thấy ḿnh đă tự do ở trên cao ấy, và không lư ǵ để đau khổ” .
3- Thân thể toàn vẹn, Di động và Sáng suốt
Trong Tử Thư Tây Tạng, thân ư sanh ở trong Trung Ấm tái sanh được mô tả là “như một thân thể của thời đại hoàng kim” , và có năng lực di động và sáng suốt phi thường. Kinh nghiệm cận tử cũng thấy rằng h́nh dạng mà họ có là toàn vẹn và ở độ tuổi thanh xuân. “Tôi đang trôi nổi, và tôi là một người trẻ hơn rất nhiều... Cái cảm tưởng tôi lúc ấy là tôi có thể nh́n thấy chính ḿnh qua một phản chiếu hay qua một cái ǵ đó mà làm cho tôi trẻ lại hơn 20 năm tuổi tôi lúc ấy” .
Họ cũng thấy ḿnh có thể du hành rất nhanh, chỉ bằng năng lực của tâm ư. Một cựu chiến binh Việt Nam đă kể với Michael Sabom rằng :
“Tôi có cảm tưởng tôi nghĩ tới nơi nào là có mặt ngay ở đấy... Tôi khoái chí v́ cảm giác về năng lực thần thông này. Tôi có thể làm bất cứ ǵ ḿnh muốn... Điều ấy c̣n thực hơn là chuyện tôi hiện đang ở đây nữa, thực đấy”.
“Bỗng chốc tôi nhớ ḿnh trở lại nơi chiến trường, chỗ tôi đă chết... Dường như thể là bạn hiện thân ra ngay ở đấy, rồi một giây sau, bạn đă ở đây, như một cái chớp mắt”.
Nhiều người chết đi sống lại cũng đă báo cáo họ có một cảm thức toàn tri “từ khởi thủy cho đến chung cuộc của thời gian”. Một phụ nữ kể với Rayond Moody : “Bỗng chốc, tôi có được hiểu biết về mọi sự từ vô thủy đến vô chung. Trong một giây, tôi có thể biết được bí mật của các thời đại, biết được ư nghĩa của vũ trụ, trăng sao, biết tất cả”.
“Có một giây phút trong đó dường như tôi biết tất cả mọi sự... Trong giây lát, ở đấy, dường như ngôn từ không cần thiết. Tôi nghĩ rằng tất cả điều ǵ tôi muốn biết là có thể biết ngay”.
“Khi ở đấy, tôi cảm thấy ḿnh ở trung tâm điểm của sự vật. Tôi cảm thấy ḿnh sáng suốt và trong sạch. Tôi cảm thấy ḿnh có thể thấy được ư nghĩa cốt yếu trong mọi sự. Mọi sự đều khít khao, đều có ư nghĩa của nó, ngay cả những lúc đen tối nhất. Nó như thể là những mảnh vụn của một tṛ chơi nối ráp đă được kết lại vừa khít”.
4- Gặp gỡ người khác
Tử Thư Tây Tạng mô tả thân ư sanh trong Bardo tái sanh là có gặp những người chết khác trong cơi Trung Ấm tương tự, người chết đi sống lại cũng thường (trong lúc chết) có thể nói chuyện với người đă chết.
Cựu chiến binh Việt Nam kể cho Michael Sabom, khi ông ta nằm bất tỉnh trên chiến trường, ngắm cái thi thể ḿnh :
“13 ba đứa đă bị tử trận vào ngày hôm trước, mà tôi đă cho vào túi nylon, bây giờ đang ở đấy với tôi. Hơn thế nữa, suốt trong tháng năm ấy, trung đoàn tôi chết 42 người. Tất cả 42 người đều có mặt ở đấy. Họ không ở trong h́nh dạng mà ta thấy như người thường... Nhưng tôi biết họ ở đấy. Tôi cảm thấy hiện diện của họ. Chúng tôi liên lạc với nhau không cần ngôn ngữ, lời nói”.
Một phụ nữ bị đứng tim v́ thuốc gây mê trong lúc nhổ răng, đă nói :
“Khi ấy tôi thấy ḿnh đang ở trong một phong cảnh đẹp đẽ, cỏ xanh hơn bất cứ thứ ǵ tôi đă thấy trên mặt đất, nó có một ánh sáng, một vẻ rực rỡ đặc biệt. Những màu sắc đẹp vượt ngoài mô tả, không có màu ǵ ở trên đời có thể so sánh được... Ở chỗ này, tôi thấy lại những người tôi biết đă chết. Không có lời trao đổi, nhưng dường như tôi biết được họ đang nghĩ ǵ, đồng thời tôi biết họ biết tôi đang nghĩ ǵ”.
5- Những cảnh giới khác nhau
Trong Bardo tái sanh, ngoài các loại thấy khác, thân ư sanh c̣n thấy được những ảnh tượng và dấu hiệu của những cảnh giới khác nhau. Một số ít trong những người chết đi sống lại thuật về những cảnh tượng của thế giới nội tâm, về những cơi thiên đường, đô thị ánh áng, với âm nhạc siêu trần.
Một phụ nữ kể với Raymond Moody :
“Ở tuốt đằng xa... tôi có thể trông thấy một đô thị. Có những ṭa nhà riêng rẻ, sáng chói, rực rỡ. Người ta sống hạnh phúc trong đó. Có hồ nước, suối nước tung tóe... cả một đô thị ánh sáng, tôi có thể nói : thật tuyệt vời. Lại có âm nhạc tuyệt diệu. Mọi thứ đều sáng chói, diệu kỳ... Nhưng, nếu tôi vào trong đó, th́ tôi nghĩ tôi đă không bao giờ trở lại... Tôi được bảo cho biết rằng nếu vào đấy th́ tôi không thể trở về... rằng tôi có quyền quyết định”.
Một người khác kể với Margot Grey :
“Tôi dường như thấy ḿnh ở trong một cái ǵ như là một dinh thự, nhưng tôi không thể nhớ được có tường vách nào. Chỉ có một ánh sáng vàng ṛng lan khắp... Tôi để ư quanh tôi nhiều người dường như đang tản bộ, mỉm cười ; họ dường như không phải đang đi, mà họ đang lướt qua. Tôi không cảm thấy có ǵ ngăn cách với họ ; tất cả cảm giác tôi nhớ nhất về họ là, một cảm thức toàn triệt về nhất thể ; tôi là một phần của tất cả mọi thứ quanh tôi”.
6- Cảnh tượng địa ngục
Nhưng không phải tất cả mọi người chết đi sống lại đều mô tả những cảnh tượng tích cực lạc quan, v́ bạn cũng đă thấy nói trong Tử Thư Tây Tạng. Vài người kể họ đă kinh quá những nỗi sợ hăi kinh hoàng, cô độc, buồn sầu ảm đạm, rất giống với cảnh tượng mô tả trong Trung Ấm tái sanh.
Theo báo cáo của Margot Grey, một người đă kể : họ “như bị hút vào trong một vực nước xoáy rộng lớn, đen ng̣m”, và những người đă làm ác th́ thấy ḿnh đang du hành xuống phía dưới thay v́ hướng lên trên, giống như Tử Thư mô tả những người sắp bị rơi vào những đọa xứ trong Trung Ấm tái sanh :
Tôi đang di chuyển như một phần của một ḍng sông âm thanh tiếng người lải nhải bất tận... Tôi thấy ḿnh ch́m vào trong đó, trở thành một phần của ḍng nước và từ từ bị ch́m ngập. Một nỗi kinh hoàng tóm lấy tôi, như thể tôi biết rằng một khi bị nuốt chửng bởi cái khối lượng tiếng ồn càng lúc càng tăng này, th́ tôi sẽ chết mất.
Tôi đang ḍm xuống một cái hố rộng sâu, đầy những sương mù cuồn cuộn. Từ dưới ấy có vô số những bàn tay và cánh tay vươn lên cố chụp bắt lấy tôi, kéo tôi vào đấy. Có tiếng rên siết kinh khủng, đầy tuyệt vọng.
(Trở về từ cơi chết, trang 32)
Những người khác kinh quá những điều mà ta chỉ có thể gọi là cảnh tượng địa ngục, với hơi nóng ngột ngạt và khí lạnh kinh hồn, và nghe những âm thanh của sự kêu la do bị hành hạ, hay tiếng ǵ như tiếng thú rừng. Theo báo cáo của Margot Grey, một phụ nữ đă kể :
“Tôi thấy ḿnh ở một nơi xung quanh toàn là sương mù mờ mịt. Tôi cảm thấy ḿnh đang ở địa ngục. Có một cái hố thật lớn từ trong đó hơi nóng tuôn ra, có những bàn tay và cánh tay đưa lên cố níu lấy tay tôi... Tôi kinh hoảng, sợ rằng bàn tay ấy sắp sửa tóm lấy tôi mà kéo vào trong địa ngục với họ... Từ phía khác, một con sư tử khổng lồ nhảy chồm về phía tôi, tôi thét lên. Tôi không sợ con sư tử, mà sợ nó sẽ làm cho tôi mất chân đứng và xô tôi vào cái hố sâu kinh khủng ấy... Dưới đó vô cùng nóng và luồng hơi dưới ấy tuôn lên cũng nóng khủng khiếp”.
(Grey, Trở về từ cơi chết, trang 63)
Một người đàn ông bị đứng tim đă kể lại :
“Tôi đang đi xuống, xuống sâu trong ḷng đất. Có nỗi giận dữ, và tôi cảm thấy sợ hăi vô cùng. Mọi sự đều một màu xám. Có tiếng ồn náo khủng khiếp như những con thú điên dại đang gầm gừ nghiến răng”.
(Trở về từ cơi chết, trang 70)
Raymond Moody viết : Có nhiều người cho rằng họ đă thấy những người dường như đă bị mắc bẫy do không thể đầu hàng cái khuynh hướng bám víu thế giới vật lư : tài sản, người, tập quán. Một phụ nữ nói về những con người “lạc loài” ấy như sau :
“Đầu họ cúi xuống, họ có những vẻ buồn thảm tuyệt vọng, họ dường như đang lê bước, như bị xiềng chung lại với nhau, không biết ḿnh đang đi đâu, không biết có ai để đi theo, hay có cái ǵ để t́m kiếm. Khi tôi đi qua, họ không buồn ngẩng lên nh́n xem cái ǵ. Họ dường như nghĩ : “Thôi, thế là xong. Tôi đang làm ǵ ? Tất cả chuyện này có nghĩa ǵ ?”. Chỉ thuần một tư thái vô vọng như thế, không biết ḿnh phải làm ǵ, phải đi đâu, không biết ḿnh là ai, hay ǵ cả. Họ dường như đi măi, đi măi tới trước, chứ không phải chỉ ngồi một chỗ, nhưng không có một hướng đặc biệt nào. Họ cứ đi thẳng tới, quay qua trái vài bước, rồi lại quay qua phải. Và tuyệt đối không có một việc ǵ để làm. Họ đang t́m kiếm, nhưng t́m cái ǵ tôi không biết được”.
(Moody, Tư duy, trang 19)
Trong những tường thuật mà ta có về kinh nghiệm cận tử, người ta thỉnh thoảng thấy có một ranh giới, một điểm ở đấy không thể có chuyện trở về. Ở ranh giới ấy, đương sự chọn lựa, hay được ánh sáng hiện diện bảo phải chọn lựa, trở về đời sống. Dĩ nhiên trong giáo lư Trung Ấm của Tây Tạng không có điều này, v́ Tử Thư th́ mô tả về những người đă chết thực sự. Tuy nhiên ở Tây Tạng có một số người gọi là déloks, cũng có cái ǵ gần giống với kinh nghiệm cận tử, và những ǵ họ thuật lại giống nhau một cách lạ lùng.
Délok : một kinh nghiệm cận tử của Tây Tạng
Một hiện tượng lạ lùng, ít được biết ở Tây phương, nhưng rất quen thuộc ở Tây Tạng, là délok. Tạng ngữ délok có nghĩa “trở về từ cơi chết”, và truyền thống délok là những người dường như “chết” do hậu quả một cơn bệnh, và tự thấy ḿnh du hành trong cơi Trung Ấm. Họ đi thăm các cơi địa ngục, ở đấy họ chứng kiến sự phán xét người chết và những thống khổ ở địa ngục, và đôi khi họ lên thiên đường hay những cơi Phật. Họ có thể được một thiên thần mang đi, người bảo vệ họ và giải thích cho họ những ǵ xảy đến. Sau một tuần, người chết trở về thân xác với một thông điệp của Diêm vương gởi cho những người sống, giục họ phải tu hành và có một đời sống lợi lạc. Thông thường, những người déloks này rất khó mà làm cho người ta tin được những ǵ họ kể, và họ dành suốt đời c̣n lại để kể cho người khác nghe những kinh nghiệm của ḿnh, để làm cho người ta tiến đến con đường tuệ giác. Có vài tiểu sử những déloks nổi tiếng được ghi lại thành vè, và được những người hát rong ca khắp xứ Tây Tạng. Một số khía cạnh của kinh nghiệm những déloks không những tương đương với giáo lư Trung Ấm trong Tử Thư Tây Tạng, mà c̣n tương đương với kinh nghiệm cận tử.
Lingza Chokyi là một délok nổi tiếng, xuất thân từ vùng quê tôi ở Tây Tạng và sống vào thế kỷ 16. Trong tiểu sử của bà, bà kể rằng bà không nhận ra ḿnh đă chết, bà thấy ḿnh thoát xác, thấy xác một con heo nằm trong giường bà, mặc áo quần của bà. Bà cuống cuồng cố một cách vô vọng để liên lạc với gia đ́nh, khi họ đang khởi sự công việc cầu nguyện cho cái chết của bà. Bà đâm ra tức giận họ, khi họ tỉnh bơ không để ư ǵ tới ḿnh, và không dọn thức ăn cho ḿnh. Khi những con cái bà khóc lóc, bà cảm thấy như “một trận mưa đá đầy cả máu mủ” tuôn xuống, làm cho bà đau đớn vô cùng. Bà cho chúng ta biết bà rất vui khi thấy làm lễ cầu siêu cho bà, và cuối cùng một niềm hạnh phúc vô lượng dâng lên khi bà đến trước bậc thầy đang làm lễ cho bà, đang an trú trong tự tánh tâm, và khi ấy tâm bà với tâm thầy trở thành một.
Sau một lúc bà nghe tiếng gọi của người mà bà nghĩ là thân phụ ḿnh, và bà đi theo ông. Bà đến cơi Trung Ấm, mà bà trông giống như một xứ sở. Từ đấy, bà kể, có một cây cầu dẫn xuống các cơi địa ngục, nơi mà Diêm vương đang kể những hành vi thiện ác của người chết. Trong cơi này, bà gặp nhiều người kể cho bà nghe chuyện của họ, và bà trông thấy một thiền giả vĩ đại đă xuống địa ngục để giải cứu các chúng sanh.
Cuối cùng Lingza Chokyi được trả về thế gian, v́ có sự lầm lẫn về lư lịch, bà chưa tới số chết. Với thông điệp từ Diêm vương cho những người sống, bà trở về nhập xác và b́nh phục. Bà đă dành cuộc đời c̣n lại để kể những ǵ bà đă học được. Hiện tượng délok không chỉ có trong quá khứ, mà vẫn tiếp diễn đến rất gần đây, ở Tây Tạng. Đôi khi một người như vậy rời bỏ thân xác chừng một tuần, gặp những người đă chết, đôi khi là những người họ hoàn toàn không quen biết. Những người này gửi gắm những thông điệp để mang về trần gian cho bà con họ, bảo bà con phải làm lễ này, lễ nọ nhân danh họ. Người chết hụt khi trở về sẽ nói lại những thông điệp ấy cho những thân quyến của người kia. Ở Tây Tạng, việc này được xem là thường, và có những phương pháp tinh vi để thử xem nhữngn gười sống lại ấy là thật hay giả. Con gái của Dilgo Khientse Rinpoche kể cho Francoise Pommaret, tác giả một quyển sách về các délok, rằng ở Tây Tạng, trong khi người délok đang trải qua cơn hôn mê, th́ các lỗ trên thân xác của họ được bít lại bằng bơ và bột lúa mạch trát lên mặt họ. Nếu bơ không chảy ra, mặt nạ lúa mạch không nứt ra th́ vị délok ấy được xác nhận là có chết thực. Truyền thống déloks vẫn tiếp tục ở Tây Tạng và vùng Hy Mă Lạp Sơn cho đến ngày nay. Những déloks là những người hoàn toàn b́nh thường, thường là những phụ nữ sùng tín. Họ “chết” vào những ngày đặc biệt trong lịch Phật giáo, chết đi vài giờ, và nhiệm vụ chính của họ là làm những sứ giả giữa người chết với người sống.
Thông điệp của kinh nghiệm cận tử
Như ta đă thấy, có những giống nhau giữa kinh nghiệm cận tử và giáo lư về cơi trung gian, nhưng cũng có những khác nhau. Sự khác nhau lớn nhất dĩ nhiên là người có kinh nghiệm cận tử chưa thực chết, trong khi giáo lư Bardo th́ nói về những ǵ xảy ra sau khi thân xác thực sự chết, và khi họ tái sanh. Sự kiện rằng kinh nghiệm cận tử không tiếp tục đi cuộc hành tŕnh xa hơn vào cơi chết vài người nói họ chỉ “chết” trong một phút - phần nào giải thích được sự khác nhau giữa hai bên.
Vài người cho rằng kinh nghiệm cận tử diễn tả những giai đoạn của tiến tŕnh tan ră trong Bardo cái chết. Tôi nghĩ c̣n quá sớm để cố liên hệ kinh nghiệm cận tử một cách chính xác với các mô tả về Trung Ấm, v́ người kinh quá kinh nghiệm cận tử chỉ có “suưt” chết mà thôi. Tôi thuật cho thầy Dilgo Khientse Rinpoche tính chất kinh nghiệm cận tử, và thầy gọi đó là một hiện tượng thuộc về cơi trung gian tự nhiên của cuộc đời này, v́ tâm thức chỉ tạm rời khỏi thân xác của người “chết” và lang thang trong các cơi.
Dilgo Khientse Rinpoche ngụ ư rằng những người chết đi sống lại đang kinh quá sự chết lâm sàng ở trong cơi trung gian tự nhiên của đời này. Có lẽ họ đang ở ngưỡng cửa của các cơi Trung Ấm, chứ chưa thực sự đi vào trong ấy rồi trở về. Dù họ kinh quá những ǵ đi nữa, họ cũng vẫn đang c̣n trong phạm vi Bardo tự nhiên của đời này. Kinh nghiệm về ánh sáng của họ có giống với sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chăng ? Có thể chăng ngay trước khi mặt trời to rộng ấy mọc lên, họ đă nh́n thấy được những tia sáng đầu tiên của b́nh minh ?
Dù ư nghĩa tối hậu của những chi tiết kinh nghiệm cận tử ra sao, tôi vẫn rất xúc động trước nhiều báo cáo mà tôi đă đọc hoặc nghe nói, nhất là trước những thái độ tuôn phát từ những kinh nghiệm ấy, những thái độ đă phản ảnh một cách phong phú nhân sinh quan của đạo Phật. Hai thái độ tôi đă đề cập là sự chuyển hóa sâu xa, sự bừng tỉnh về tâm linh xảy ra nơi những người chết đi sống lại, và những ư nghĩa mà “toàn cảnh cuộc đời” đem lại cho đời sống chúng ta. Tất cả những người chết đi sống lại đều có cái kinh nghiệm này, thấy toàn cảnh cuộc đời ḿnh diễn lại, và điều ấy chứng minh rơ ràng tính cách không thể trốn tránh của nghiệp, những hậu quả lâu xa và mănh liệt của tất cả hành động, lời nói và ư nghĩ chúng ta. Thông điệp chính mà những người chết đi sống lại đem về cuộc đời này, hay hiện diện của “thực thể ánh sáng”, là giống hệt như thông điệp của Phật và giáo lư Trung Ấm : những đức tính cốt yếu và quan trọng nhất trong đời là yêu thương và hiểu biết, từ bi và trí tuệ. Những người ấy chắc chắn bắt đầu thấy cái mà giáo lư Trung Ấm dạy chúng ta rằng : sống và chết ở ngay trong tâm. Và niềm tin mà phần nhiều họ có được sau khi chết đi sống lại cũng phản chiếu phần nào cái tri kiến sâu xa hơn của họ.
C̣n có những tương đồng lạ lùng giữa kinh nghiệm cận tử và hậu quả nó, với những trạng thái thần bí và tâm thức đổi khác. Chẳng hạn, một số hiện tượng bất thường đă được những người chết đi sống lại báo cáo. Một vài người sau đó đă có những linh kiến tiên tri, nói trước nhiều việc xảy ra trong đời mà về sau quả đă thành sự thực. Sau khi chết đi sống lại, nhiều người dường như kinh quá năng lực kundalini, nhiều người cảm thấy họ có năng lực thần thông hoặc chữa lành bệnh tật.
Nhiều người sống lại đă nói một cách lưu loát về vẻ đẹp, t́nh yêu, sự b́nh an, hạnh phúc và trí tuệ của cái mà họ đă trải qua trong giây phút chết. Với tôi, điều này có vẻ như họ có được một thoáng nh́n thấy vẻ sáng chói của tự tánh tâm, và do vậy không đáng ngạc nhiên chút nào khi cái nh́n ấy đă đem lại sự chuyển hóa tâm linh nơi họ. Nhưng như Margot Grey nhận xét : “Chúng ta không cần phải đợi suưt chết mới kinh quá được một thực tại tâm linh cao cả”. Thực tại ấy ở ngay đây, vào lúc này, trong cuộc đời, nếu ta có thể khám phá và thể nhập.
Tôi lại muốn đưa ra một đề pḥng cốt yếu : Xin bạn đừng để những tường thuật về kinh nghiệm cận tử - dù cũng khá hấp dẫn thật đấy - ru ngủ bạn đến chỗ tin rằng muốn an trú trong những trạng thái thanh b́nh an lạc ấy, bạn chỉ cần chết là được. Không phải và không thể giản dị thế đâu.
Đôi khi người ta gặp lúc quá đau khổ, tưởng chừng không chịu nổi nữa, mà nghe nói về những kinh nghiệm cận tử, họ có thể bị cám dỗ chấm dứt mọi sự bằng cách tự sát. Điều này có vẻ là một cách giải quyết đơn giản, nhưng họ quên một sự kiện rằng, bất cứ cái ǵø ta trải qua đều là một phần của cuộc đời. Không thể trốn chạy. Nếu trốn chạy kiểu đó, bạn sẽ phải đối mặt với nỗi đau khổ một cách sâu đậm hơn về sau.
Ngoài ra, trong khi quả thực đa số kinh nghiệm cận tử được sưu tập đều là những kinh nghiệm tốt đẹp, ta vẫn phải c̣n xét lại xem điều này nó có nghĩa là có rất hiếm kinh nghiệm ghê gớm, tiêu cực, hay chỉ có nghĩa là những kinh nghiệm này khó nhớ lại. Có thể người ta không muốn nhớ lại những chuyện đen tối khủng khiếp. Lại nữa, những người có kinh nghiệm cận tử cũng nhấn mạnh rằng, điều mà họ học được là sự quan trọng của việc cải hóa cuộc đời ngay bây giờ, khi ta c̣n sống, v́ họ bảo, chúng ta “có một sứ mạng quan trọng hơn trong lúc ta ở trên đời” .
Sự chuyển hóa cuộc đời ta ngay bây giờ là điều cấp thiết cốt yếu. Phải chăng thực là bi đát nếu cái thông điệp cốt tủy này của kinh nghiệm cận tử - rằng đời sống là thiêng liêng, và cần phải sống một cách nhiệt t́nh, có mục đích - lại bị che lấp, bị mất hút trong thái độ hời hợt là thi vị hóa cái chết ? Và có phải càng bi đát hơn, nếu thái độ lạc quan dễ dăi ấy càng đào sâu thêm thói xem nhẹ trách nhiệm đối với bản thân và với cuộc đời, một thói đang đe dọa sự sống c̣n của hành tinh trái đất ?
Ư nghĩa kinh nghiệm cận tử
Dĩ nhiên vài người cố t́nh chứng minh rằng những chuyện xảy ra trong lúc chết đi sống lại không có ǵ là kinh nghiệm tâm linh cả. Những nhà khoa học cố giải thích quấy quá những kinh nghiệm ấy là do những ảnh hưởng vật lư, thần kinh, hóa học hay tâm lư. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, cũng là bác sĩ và khoa học gia, th́ lại bác bỏ từng điểm một của giải thích ấy một cách minh bạch, và nhấn mạnh rằng họ không thể giải thích toàn thể kinh nghiệm cận tử. Melvin Morse viết cuốn tác phẩm vĩ đại của ông “Gần ánh sáng hơn”, học từ kinh nghiệm cận tử của trẻ em :
“Nhưng kinh nghiệm cận tử có vẻ là một chùm biến cố mà người ta không thể hiểu được toàn diện bằng cách nh́n từng mảnh vụn khác nhau của nó. Ta không thể hiểu âm nhạc bằng cách nghiên cứu những tần số âm thanh khác nhau đă tạo nên mỗi nốt nhạc, ta cũng không cần phải thấu hiểu vật lư học về âm thanh mới thưởng thức được Mozart. Kinh nghiệm cận tử vẫn c̣n là một sự huyền bí”. (tr.40)
Melvin Morse c̣n nói :
“Tôi nghĩ rằng chỉ cốt hiểu được kinh nghiệm cận tử, đó là bước đầu của chúng ta để hàn gắn sự phân chia lớn lao giữa khoa học và tôn giáo, khởi đầu với Isaac Newton gần 300 năm trước. Việc giáo dục những y sĩ, điều dưỡng viên, và chính chúng ta về những ǵ người ta kinh quá vào những giờ phút cuối cùng ấy, sẽ lung lay tận gốc những thành kiến ta trong đường lối suy nghĩ của ta về y học và đời sống”.
Nói cách khác, tiến bộ thực sự của kỹ thuật y khoa đồng thời cung cấp phương tiện cho nó tự cách mạng chính nó. Melvin Morse nói :
“Tôi thấy điều thực mỉa mai là chính kỹ thuật y khoa của chúng ta đă đưa đến vô số những kinh nghiệm cận tử như thế... Trải hàng thế kỷ, đă có nhiều kinh nghiệm cận tử, nhưng chỉ có 20 năm sau này ta mới có được kỹ thuật để phục sinh bệnh nhân. Bây giờ họ đang kể cho chúng ta nghe những kinh nghiệm của họ, vậy ta hăy lắng nghe họ nói. Điều này tôi cho là một thử thách cho xă hội ta... Kinh nghiệm cận tử, theo tôi nghĩ, là tiến tŕnh tâm lư tự nhiên liên hệ đến cái chết. Tôi dám tiên đoán rằng, nếu ta có thể hội nhập tri kiến này vào đời sống xă hội ta, th́ không những nó sẽ giúp cho những bệnh nhân sắp chết, mà c̣n giúp cho xă hội nói chung. Tôi thấy y khoa ngày nay thiếu hẳn tâm hồn... Không có lư do nào kỹ thuật và tâm linh không thể hiện hữu bên nhau được”.
Một trong những lư do tôi viết sách này là để chứng tỏ tôi tin điều Melvin Morse nói là có thể thực hiện. Kỹ thuật và tâm linh có thể, và cần phải, hiện hữu song hành, nếu ta muốn phát triển tiềm năng con người chúng ta một cách toàn vẹn. Phải chăng một nền khoa học nhân bản hoàn toàn hữu ích sẽ có can đảm khám phá những dữ kiện huyền bí về cái chết, những dữ kiện được khải thị trong kinh nghiệm cận tử và trong sách này ?
Bruce Greyson, một trong những tác giả quan trọng trong ngành nghiên cứu kinh nghiệm cận tử đă nói :
“Khoa học nên cố giải thích kinh nghiệm cận tử, v́ trong đó có ch́a khóa của sự tăng tiến khoa học... Lịch sử đă cho ta thấy chỉ nhờ cố giải thích những hiện tượng vượt ngoài tầm của ta mà khoa học đă phát huy được những phương pháp mới. Tôi tin kinh nghiệm cận tử là một trong những nạn để có thể bắt buộc các nhà khoa học phải phát triển một phương pháp mới, một phương pháp bao gồm một nguồn tri thức, không những chỉ tri thức lô-gích của học giả, hay quan sát thực nghiệm của nhà vật lư, mà c̣n cả kinh nghiệm trực giác của nhà thần bí nữa”.
Bruce Greyson cũng nói, ông tin kinh nghiệm cận tử xảy ra v́ một lư do : “Căn cứ trên sự canh chừng những kinh nghiệm cận tử bao năm nay, tôi nghĩ rằng chúng ta có những kinh nghiệm như thế là để mà học cách giúp đỡ người khác”.
Kenneth Ring lại con thấy một khả năng và ư nghĩa kỳ diệu trong kinh nghiệm cận tử. Ông ta hỏi tại sao ngày nay có quá nhiều người có kinh nghiệm ấy như vậy, và có sự chuyển hóa tâm linh vào thời đại này. Trong nhiều năm làm một trong những tiên phong gan dạ nhất trong lĩnh vực nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, ông đă dần dần thấy kinh nghiệm cận tử như là “sứ giả của hy vọng”, nó cho thấy một thực tại tâm linh cao cả hơn, và nhắc nhở chúng ta thay đổi một cách khẩn thiết mọi khía cạnh của lối sống ta hiện tại ; nhắc ta chấm dứt mọi tranh chấp, chia rẽ giữa những tôn giáo, dân tộc, và bảo vệ, cứu lấy sinh môi.
"Tôi tin rằng nhân loại nói chung đang cùng nhau nỗ lực để thức dậy một h́nh thái tâm thức mới mẻ hơn và cao cả hơn, và kinh nghiệm cận tử có thể được xem như một phương tiện tiến hóa để đem lại sự thay đổi này,qua thời gian vài năm, trong hàng triệu con người."
(Tiến về Omega, tr.7)
Có thể rằng điều này đúng hay không, c̣n tùy ở tất cả chúng ta : chúng ta có thực can đảm đối diện với những ư nghĩa hàm ẩn trong kinh nghiệm cận tử và giáo lư về Trung Ấm hay không, và có thể nhờ sự cải hóa ḿnh, mà chuyển hóa được thế giới xung quanh ta, và lần lượt qua từng giai đoạn, chuyển hóa toàn thể tương lai nhân loại hay không
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 403 of 2534: Đă gửi: 04 July 2008 lúc 4:24am | Đă lưu IP
|
|
|
21. TIẾN TR̀NH PHỔ QUÁT
Bốn mươi năm sau khi Trung Quốc chiếm cứ Tây Tạng, thế giới vẫn c̣n không biết ǵ về những chuyện xảy ra, không biết ǵ về tầm mức kinh hoàng, phá hoại, và sự diệt chủng có hệ thống mà dân tộc Tây Tạng đă và đang chịu đựng. Trên một triệu người trong số 6 triệu dân Tây Tạng đă chết dưới bàn tay Trung Quốc ; những khu rừng rộng lớn của xứ Tây Tạng, cũng cần thiết như rừng Amazon đối với sinh thái quả địa cầu, đă bị đốn trụi, đời sống thiên nhiên hầu như đă bị tàn phá hoàn toàn, b́nh nguyên và sông ng̣i đă bị ô nhiễm v́ phế thải hạt nhân, đại đa số tu viện trong số sáu ngàn rưỡi ngôi tu viện đă bị phá hủy, dân tộc Tây Tạng đang đối diện họa diệt vong, và vẻ huy hoàng của nền văn hóa Tây Tạng trên đất mẹ hầu như hoàn toàn bị xóa sạch.
Ngay từ đầu, lúc Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng vào thập niên 1950, nhiều sự tàn bạo dă man đă xảy ra. Những bậc thầy tâm linh, tăng ni, là những mục tiêu trước hết, v́ Trung Cộng muốn trước tiên là làm cho dân mất tinh thần bằng cách xóa sạch mọi dấu vết đời sống tôn giáo. Nhiều, thật nhiều câu chuyện đă đến nơi tôi trải qua bao năm nay, về những cái chết phi thường, cảm động, trong những hoàn cảnh tệ hại nhất. Những cái chết này đă làm chứng cho vẻ sáng chói của sự thật mà người Trung Quốc lấy làm tức tối đă không phá nổi.
Ở phần đất tỉnh Kham của Tây Tạng, nơi tôi xuất thân, có một vị khenpo (trú tŕ) già, đă trải nhiều năm nhập thất trong núi. Người Trung Quốc tuyên bố họ sắp “trừng phạt” ngài mà ai cũng hiểu có nghĩa là tra tấn và giết chết và gửi đến nơi ẩn cư một tiểu đội để bắt. Vị trú tŕ quá yếu, không thể đi bộ, nên người Trung Quốc t́m cho ngài một con ngựa già gầy để đi cuộc hành tŕnh cuối của ngài. Họ trói ngài ngồi trên lưng ngựa và dắt ngựa đi xuống con đường để đến trại quân. Ngài khởi sự hát. Người Trung Quốc không hiểu được lời ca, nhưng những tu sĩ cùng bị bắt với ngài về sau đă kể ngài hát “bài ca chứng đạo”, những bài ca tuyệt đẹp tuôn phát tự nhiên từ những chiều sâu và niềm hỷ lạc của sự đắc đạo. Từ từ đoàn người đi theo con đường ngoằn ngoèo xuống núi, những người lính lầm lũi đi trong sự im lặng như đá, nhiều tu sĩ khóc, nhưng vị trú tŕ vẫn hát suốt quảng đường.
Chẳng bao lâu trước khi đoàn người đến trại binh, ngài ngưng hát và nhắm mắt. Toán người lại tiếp tục đi trong im lặng. Khi đi qua cổng để vào trại, họ mới biết ngài đă viên tịch. Ngài đă lặng lẽ từ giă nhục thân.
Ngài đă biết cái ǵ để làm cho ngài b́nh an đến thế, khi đối diện cái chết ? Cái ǵ đă đem lại cho ngài niềm vui và vô úy để ca hát vào những giây phút cuối cùng ? Có lẽ ngài đă hát một bài kiểu như những câu thơ từ “Tia sáng Vô nhiễm”, di bút của Longchenpa, bậc thầy Dzogchen vào thế kỷ 14 :
Trong bầu trời đêm không mây, mảnh trăng đầy
“Vua của các v́ sao” sắp sửa lên…
Gương mặt đấng từ bi của con, Liên Hoa Sanh
Dẫn con đi, tỏa ra niềm đón chào đôn hậu
Niềm hỷ lạc của tôi trước cái chết
C̣n vô vàn lớn hơn thương gia được của
Hơn các vị vua trời khi thắng trận
Hơn các bậc hiền nhân được hỷ lạc trong thiền
Nhu du khách khởi hành khi đến thời
Tôi sẽ không ở lại trong trần gian
Mà sẽ an trú trong thành tŕ đại lạc bất tử
Cuộc đời tôi đă xong, nghiệp tôi đă tận
Những lợi ích do cầu nguyện đem lại cũng không c̣n
Mọi việc thế gian đă chấm dứt, màn kịch cuộc đời đă buông
Trong nháy mắt, tôi sẽ nhận ra tinh hoa của đời tôi
Trong không gian thuần tịnh bao la của trung giới
Bây giờ tôi sắp an vị trong nền tảng sự Toàn vẹn tối sơ
Nội tài trong tôi đă làm cho tâm người hạnh phúc
Tôi đă dùng ân phước đời này để thực hiện tất cả lợi lạc của giải thoát
Hỡi các đệ tử cao quư, qua bao năm chung sống
Niềm vui san sẻ chân lư đă làm thầy măn nguyện
Giờ đây nhân duyên với đời đang chấm dứt
Thầy như kẻ ăn xin hài ḷng với cái chết
Đừng buồn cho thầy, mà hăy tiếp tục nguyện cầu
Đây là những lời tâm huyết để giúp các con
Như hoa sen nở, và các con trong niềm sùng tín như ong sà vào hút mật ngọt của niềm hỷ lạc siêu trần
Nguyện nhờ công đức những lời này
Khiến cho hữu t́nh các cơi sinh tử
Đạt Niết-bàn trong nền tảng sự toàn vẹn tối sơ.
Đây chắc hẳn là lời của một người đă thành tựu sự chứng ngộ cao nhất, cùng với những ǵ mà sự chứng ngộ ấy mang lại : niềm vui, giải thoát và trí tuệ - mục tiêu của giáo lư này và của đời người. Tôi nghĩ đến những bậc thầy như Longchenpa, và các bậc thầy tôi Jamjang Khientse, Dilgo Khientse, Dudjom Rinpoche, và tôi tưởng tượng những người đă tu chứng giống như những cánh đại bàng bay lượn vươn lên khỏi sinh tử, nh́n thấy sinh tử đúng như bản chất, nghĩa là trong một hỗ tương duyên sinh chằng chịt nhiệm mầu.
Nh́n bằng con mắt của chim đại bàng, con mắt của thực chứng, là nh́n từ trên cao xuống một phong cảnh trong đó những ranh giới do ta tưởng tượng giữa sống và chết bây giờ ḥa lẫn vào nhau và tan biến. Nhà vật lư David Bohm đă mô tả thực tại như là “sự toàn vẹn không gián đoạn trong ḍng biến dịch”. Những ǵ được các bậc thầy thấy bằng trực giác toàn vẹn chính là ḍng biến dịch ấy, cái toàn vẹn không gián đoạn ấy. Những ǵ mà trong vô minh chúng ta gọi là “sống”, và trong vô minh ta gọi là “chết”, chỉ là những phương diện khác nhau của cái toàn vẹn ấy. Đây là cái thấy rộng lớn có năng lực chuyển hóa, mà giáo lư Trung Ấm đă mở ra cho chúng ta, và được thể hiện bởi các bậc thầy tối thượng.
Những mặc khải của các Trung Ấm
Như vậy, nh́n sự chết qua con mắt thực chứng, chính là nh́n nó trong bối cảnh của sự toàn vẹn này, như một phần nhỏ của ḍng biến dịch vô thủy vô chung. Tính độc nhất vô nhị, năng lực của giáo lư Trung Ấm nằm ở chỗ qua sự chỉ rơ tiến tŕnh cái chết nó c̣n gợi cho ta cả tiến tŕnh sự sống.
Bây giờ ta hăy nh́n vào những ǵ xảy đến cho một người chết, vào từng mỗi giai đoạn trong 3 giai đoạn cao điểm của cái chết :
1- Ở cao điểm của tiến tŕnh chết, khi mà tứ đại, cảm giác và tư tưởng đă chấm dứt hoạt động, th́ bản chất tối hậu của tâm Ánh sáng Căn bản được hiển lộ trong giây lát.
2- Rồi, chỉ một thoáng, tia sáng của bản tâm ấy được tŕnh diễn, chiếu ra dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.
3- Kế tiếp, tâm thức người chết tỉnh dậy và đi vào Trung Ấm tái sinh; tâm phàm t́nh của y trở về, khoác một h́nh dạng gọi là “thân ư sanh” chịu sự sai khiến của nghiệp và thói quen quá khứ. Những nghiệp này lèo lái tâm phàm t́nh, bám lấy những kinh nghiệm huyễn hóa trong cơi Trung Ấm, xem như cái ǵ rất thực và chắc chắn.
Vậy, theo giáo lư Trung Ấm chỉ cho chúng ta, chết nghĩa là ǵ ? Không ǵ khác ngoài 3 giai đoạn của tiến tŕnh tuần tự thể hiện của tâm thức : từ tự tính thuần tịnh của bản tâm, qua ánh sáng và năng lượng (tia tự chiếu của bản tâm), rồi đi vào sự kết tinh càng vững chắc thêm của một h́nh dạng tâm thức (thân ư sanh). Những ǵ mở ra một cách rơ rệt trong Trung Ấm chết, Trung Ấm pháp tánh, và Trung Ấm tái sanh là một tiến tŕnh gồm 3 giai đoạn :
- Đầu tiên, sự chấm dứt hoàn toàn hoạt động tâm vật lư đưa đến sự phô bày tinh chất tâm
- Thứ hai, tia chiếu tự nhiên của nó.
- Thứ ba là kết tinh của thân ư sanh.
Giáo lư c̣n cho ta biết thêm rằng : 3 giai đoạn ấy không chỉ diễn ra trong tiến tŕnh chết, mà c̣n diễn ra ngay trong tâm ta vào lúc này, vào mọi lúc - trong những tư tưởng và cảm xúc của ta, và ở mọi tầng lớp kinh nghiệm tâm lư. Theo tôi, đấy là một tri kiến thực cách mạng, thay đổi cái thấy của ta về mọi sự, nếu ta hiểu được.
Một cách khác nữa để hiểu tiến tŕnh này là nh́n vào những ǵ được hiển bày vào mỗi giai đoạn của sự chết. Giáo lư nói đến 3 mức độ của hiện hữu, từ đó có ra Phạn ngữ kaya (thân). Kaya ở đây nghĩa là chiều hướng, phạm vi hay căn bản.
Ta hăy nh́n vào tiến tŕnh 3 giai đoạn đó :
1- Bản chất tuyệt đối, hiển bày dưới dạng Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang vào lúc chết, và được gọi là Pháp thân (Dharmakaya), chiều “chân không”, chân lư vô điều kiện, trong đó ảo tưởng, vô minh hay bất cứ loại khái niệm nào, đều chưa từng xâm nhập được.
2- Tia năng lực và ánh sáng nội tại được trưng bày một cách tự nhiên trong Bardo pháp tánh, gọi là Báo thân (Sambhogakaya), chiều phúc lạc toàn vẹn, phạm vi của “pháp hỷ sung măn” vượt ngoài mọi giới hạn nhị nguyên, ngoài thời không.
3- Phạm vi ngưng đọng thành h́nh dáng được hiển thị trong Bardo tái sanh, gọi là Ứng thân (Nirmanakaya), chiều biến hóa không ngừng.
Hăy nhớ bây giờ rằng khi ta nh́n vào bản chất của tâm, ta cũng thấy nó có 3 phương diện ấy : thể của nó là chân không, như bầu trời ; tướng hay bản chất của nó là tỏa sáng ; và dụng hay năng lực của nó là đại bi vô ngại ; cả 3 đều hiện diện đồng thời và ḥa nhập làm một trong tính giác Rigpa. Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) mô tả nó như sau :
Trong tính giác này, 3 thân không rời nhau và hiện diện viên măn như một :
- V́ Nó trống rỗng, vô sanh nên là Pháp thân.
- Sự sáng suốt của Nó biểu trưng tia chiếu tự nội của chân không ấy, nên là Báo thân.
- Nó khởi lên không bị chướng ngại, không gián đoạn, nên là Ứng hóa thân.
Ba thân đầy đủ và hoàn toàn hiện diện này, chính là tinh chất của Nó.
Như vậy, ba thân ám chỉ ba khía cạnh nội tại của tâm giác ngộ, và dĩ nhiên chúng cũng ám chỉ những khả năng khác nhau của nhận thức chúng ta. Phần đông chúng ta đều bị giới hạn trong cái thấy của ḿnh, và chỉ nhận thức theo chiều Ứng hóa thân gồm những h́nh sắc và biểu hiện. Đấy là lư do tại sao đối với phần đông chúng ta, giây phút chết là một khoảng trống, một trạng thái quên lăng, v́ chúng ta chưa bao giờ gặp, cũng chưa bao giờ phát triển một phương pháp để nhận ra thực tại Pháp thân, khi nó khởi lên dưới dạng Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang. Chúng ta cũng không hy vọng ǵ nhận ra lĩnh vực Báo thân khi chúng xuất hiện trong Bardo pháp tánh. Bởi v́ toàn thể cuộc đời ta đă được sống trong phạm vi nhận thức bất tịnh của những biểu hiện Ứng hóa thân, nên vào lúc chết ta được chuyển thẳng về lại trong chiều không gian ấy ; chúng ta thức dậy, kinh hăi và tán loạn, trong Trung Ấm tái sanh, trong một thân ư sanh, xem những kinh nghiệm huyễn hóa là chắc thực, cũng như trải nhiều đời trước ta đă xem chúng là thực. Bị thúc đẩy bởi nghiệp cũ một cách đáng thương, chúng ta loạng choạng tiến về phía tái sanh.
Tuy nhiên, những vị tu chứng th́ đă khởi lên một nhận thức hoàn toàn khác với chúng ta, một nhận thức trong suốt, tiến hóa, thanh tịnh đến nỗi dù họ vẫn c̣n mang một thân xác con người, họ đă thấy được thực tại dưới h́nh thức hoàn toàn thanh tịnh, trong suốt, ở trong một chiều không gian vô biên. Và đối với họ, như ta đă thấy, kinh nghiệm về cái chết không đem lại sợ hăi hay bất ngờ ; trái lại c̣n được tóm lấy như một cơ hội để giải thoát rốt ráo.
Tiến tŕnh trong giấc ngủ
Ba giai đoạn của tiến tŕnh mà chúng ta thấy mở ra trong các trạng thái Trung Ấm cũng có thể thấy được trong các mức độ tâm thức trong đời sống. Hăy xét chúng dưới sánh sáng những ǵ xảy đến trong giấc ngủ :
1- Khi ta ngủ, các giác quan và tầng thô của tâm thức tan ră, và dần dần bản chất tuyệt đối của tâm, có thể nói là Ánh sáng Căn bản, lộ ra trong chốc lát.
2- Kế tiếp có một chiều tâm thức, có thể so sánh với Bardo pháp tánh, vi tế đến nỗi ta thường hoàn toàn không ư thức ngay cả hiện hữu của nó. Có bao nhiêu người trong chúng ta khi ngủ, ư thức được cái lúc trước khi nằm mộng ?
3- Đối với phần đông chúng ta, tất cả những ǵ ta biết được chỉ là giai đoạn kế tiếp, khi tâm trở nên hoạt động trở lại, và ta thấy ḿnh trong một thế giới chiêm bao tương tự Trung Ấm tái sanh. Ở đây ta có một thân mộng và kinh quá những cảnh mộng mà phần lớn chịu ảnh hưởng thói quen và hoạt động của ta lúc thức, tất cả ta đều tin là chắc thực, không hề nhận ra ḿnh đang chiêm bao.
Tiến tŕnh trong tư tưởng và cảm xúc
Cũng chính tiến tŕnh ấy có thể nhận thấy trong sự vận hành của tư tưởng và cảm xúc, và cái cách chúng khởi lên :
1- Ánh sáng Căn bản, bản chất tuyệt đối của tâm, là trạng thái tối sơ của Tính giác Rigpa, hiện hữu trước khi bất cứ ư nghĩ hay cảm xúc nào khởi lên.
2- Trong không gian vô điều kiện của nó, một năng lực căn để dấy động, tia chiếu tự nhiên của Tính giác bắt đầu khởi lên như nền tảng, khả năng và nhiên liệu cho cảm xúc sống sít.
3- Năng lực này lúc ấy có thể khoác lấy h́nh dạng của ư nghĩ và cảm xúc, mà cuối cùng đẩy chúng ta vào hành động để tích lũy nghiệp.
Chỉ khi hành thiền thật quen thuộc, ta mới có thể thấy rơ tiến tŕnh này :
1- Khi ư tưởng và cảm xúc tuần tự im bặt, tan vào tự tánh tâm, ta có thể thoáng thấy Tính giác trong phút chốc : đó là trạng thái tối sơ.
2- Rồi ta để ư rằng, từ sự vắng lặng yên tĩnh của tự tánh tâm, mở ra một chuyển động (Chuyển tướng, nói trong kinh Lăng Già) và một năng lực sống sít đơn thuần : đó là tia tự chiếu của tính giác.
3- Nếu có một chấp thủ kèm theo sự sinh khởi của năng lực ấy, th́ năng lực ấy đương nhiên kết tinh thành ư tưởng, ư tưởng này lại đưa chúng ta trở về hoạt động tâm thức và khái niệm.
Tiến tŕnh trong đời sống hàng ngày
Ta đă thấy cái cách tiến tŕnh này xảy ra trong ngủ và mộng, và trong sự h́nh thành ư tưởng cảm xúc. Bây giờ ta hăy nh́n nó xảy ra trong kinh nghiệm đời sống hàng ngày.
Điều này dễ thấy nhất khi ta nh́n kỹ một động tác mừng hay giận. Hăy xem xét nó, bạn sẽ thấy luôn luôn có một khe hở trước khi một cảm xúc khởi sinh. Cái giây phút dạt dào trước khi năng lực của cảm xúc có cơ hội khởi lên, là một giây phút của tỉnh thức thuần túy, trong đó ta có thể thoáng thấy Tính giác chân thực. Trong một thoáng chốc, bùa lực của vô minh bị đánh tan, chúng ta hoàn toàn tự do thoát khỏi nhu cầu hay khả năng chấp thủ, và cả đến khái niệm “bám víu” cũng trởi thành dư thừa ở đây. Tuy nhiên, thay v́ ôm lấy “tánh không” của khe hở ấy, trong đó ta có thể t́m thấy phúc lạc của sự giải thoát, không vướng bận một ư tưởng, khái niệm nào, chúng ta lại tóm lấy sự bảo đảm khả nghi của cái màn kịch cảm xúc quen thuộc dễ chịu của chúng ta, được điều khiển bởi những khuynh hướng tập quán của ta. Đấy là cái cách mà một năng lực nội tại vô điều kiện, khởi lên từ tự tánh đă được kết tinh thành một cảm xúc, cái cách mà sự thanh tịnh nguyên thủy bỗng bị nhuốm màu và vặn vẹo bởi cái thấy theo kiểu luân hồi sinh tử của chúng ta, để đem lại một nguồn tương tục cho những vọng tưởng tán loạn hàng ngày.
Khi xét mọi khía cạnh của đời sống, ta sẽ thấy rằng chúng ta liên tục trải qua trong ngủ và mộng, trong ư tưởng và cảm xúc cũng một tiến tŕnh ấy như trong các cơi Trung Ấm. Và giáo lư Trung Ấm cho ta thấy chính điều này mang lại cho ta vô vàn cơ hội để giải thoát, bây giờ cũng như khi chết. Giáo lư chỉ cho ta thấy chính tính chất, h́nh dạng và sự độc đáo của tiến tŕnh này đă đem lại hoặc cơ hội giải thoát, hoặc khả năng tiếp tục mê lầm. V́ mỗi khía cạnh của toàn thể tiến tŕnh đều đồng thời trao cho ta cơ hội giải thoát, hoặc cơ hội trầm luân.
Giáo lư Trung Ấm mở ra cho ta một cánh cửa, chỉ cho chúng ta làm thế nào ta có thể bước ra khỏi chu kỳ chết và tái sinh bất tận ngoài tầm kiểm soát. Giáo lư ấy nói với ta rằng, suốt quá tŕnh các Trung Ấm của cuộc đời và của sự chết, mỗi khi ta có thể nhận ra và duy tŕ một ư thức bền bỉ về Tính giác Rigpa hay tự tánh tâm, hoặc khi ta có thể kiểm soát tâm ư được phần nào, th́ ta có thể đi qua cái cửa đó để tiến đến giải thoát. Tùy theo giai đoạn của Trung Ấm, tùy theo mức độ quen thuộc của bạn đối với cái Thấy về tự tánh tâm, và tùy theo chiều sâu của sự hiểu biết về tâm, ư nghĩ và cảm xúc bạn, mà sự nhận ra này sẽ sai khác.
Điều mà giáo lư Trung Ấm cũng dạy cho ta là những ǵ xảy ra trong tâm ta bây giờ trong đời cũng giống hệt như cái ǵ sẽ xảy đến trong các Trung Ấm sau khi chết v́ cốt tủy vốn không có khác nhau ; sống và chết là một, ở trong cái “toàn thể không gián đoạn” và “ḍng biến dịch”. Chính v́ vậy mà một bậc thầy Tây Tạng vào thể kỷ 17, Tsele Natsok Rangdrol giải thích những tu tập căn để cho mỗi giai đoạn Trung Ấm đời này, chết, pháp tánh và tái sanh theo kiểu t́nh trạng hiểu biết hiện tại của ta về bản chất của ư nghĩ và cảm xúc, về tâm và nhận thức của nó :
Hăy nhận chân hết thảy tướng xuất hiện đều như mộng
Chỉ do tâm ngươi chiếu ra, như huyễn, không thật
Không bám víu ǵ, an trú Tính giác vượt ngoài mọi khái niệm
Đây là tinh yếu của tu tập trong Bardo đời này
Ngươi rồi sẽ chết, không ǵ thực sự hữu ích lúc đó
Những ǵ ngươi kinh quá lúc chết chỉ do tâm thức biến ra.
Không tạo ư tưởng, để chúng tan biến trong Tính giác bao la
Đây là trọng tâm của tu tập trong Bardo cái chết.
Bất cứ chấp thủ ǵ vào sinh hay diệt, thiện hay ác, đều là tâm ngươi
Và tâm này là tia tự chiếu của Pháp thân, dù bất cứ ǵ sinh khởi
Không bám vào các sinh khởi ấy, hay lập khái niệm về chúng, chấp nhận hoặc chối bỏ :
Đây là cốt tủy sự tu tập cho Bardo pháp tánh
Sinh tử cũng tâm ngươi, niết-bàn cũng tâm ngươi
Mọi lạc khổ, vọng tưởng không ở đâu ngoài tâm
Vậy hăy đạt đến sự tự chế tâm ngươi
Đây là trọng tâm của Bardo tái sinh.
Bây giờ ta có thể nh́n vào một Bardo đặc biệt để thấy sự tu tập thiền định của ta, sự hiểu thấu cảm xúc ư tưởng ta, và những kinh nghiệm của ta trong Bardo ấy tương quan mật thiết với nhau như thế nào, và thế nào những kinh nghiệm của ta trong Bardo ấy phản chiếu trở lại trong cuộc đời thường của ta. Có lẽ Bardo hữu ích nhất để khảo sát là Bardo pháp tánh, nơi mà năng lực thuần túy sẽ trở thành cảm xúc bắt đầu sanh khởi tự nhiên như tia tự chiếu của Tính giác Rigpa ; và cảm xúc là mối bận tâm ám ảnh con người trong thế giới hiện tại. Thực sự hiểu được bản chất cảm xúc là đă tiến rất xa trên đường đến giải thoát.
Mục đích sâu xa nhất của thiền là có thể an trú không tán loạn vào trạng thái Rigpa, tự tính giác, và an trú cái Thấy (kiến) để nhận ra rằng bất cứ ǵ khởi lên trong tâm chỉ là sự hiển bày của tính giác ấy, cũng như mặt trời và muôn ngàn tia sáng nó chiếu ra chỉ là một, bất khả phân. Như Tsele Natsok Rangdrol nói trong câu thơ của ông về pháp tánh : “Bất cứ cái ǵ chấp thủ vào sinh hay diệt, tốt hay xấu, đều là tâm ngươi. Và chính cái tâm ấy là tia chiếu của Pháp thân…”
Như vậy, khi bạn ở trong tự tánh giác, và khi cảm xúc tư tưởng khởi lên, bạn nhận ra ngay chúng là ǵ, từ đâu chúng tuôn phát : khi ấy bất cứ ǵ khởi lên đều trở thành tia tự chiếu của tuệ giác ấy. Nhưng nếu bạn mất dấu sự hiện diện của ư thức trong suốt thuần tịnh ấy về Tính giác, th́ bạn không nhận ra được bất cứ ǵ khởi lên, và khi ấy nó trở nên tách biệt với bạn. Nó tiếp tục để h́nh thành cái mà ta gọi là một “ư tưởng”, hay một cảm xúc, và đấy là sự tạo tác của nhị nguyên. Để tránh điều này và những hậu quả của nó, Tsele Natsok Rangdrol nói: “Đừng bám vào những sự sanh khởi, lập thành khái niệm về chúng, chấp nhận hoặc chối bỏ chúng : đây là trọng tâm của tu tập cho Trung Ấm cuộc đời” .
Sự phân cách giữa bạn và những sanh khởi trong tâm bạn, và tính nhị nguyên mà nó gây ra được phóng đại một cách ghê gớm sau khi chết. Điều này giải thích làm thế nào nếu bạn không có sự trực nhận cốt yếu này về thực chất những ǵ sinh khởi trong tâm trong Bardo pháp tánh, những âm thanh, ánh sáng và quang sắc xuất hiện có thể khoác một thực tại khách quan, như thể là thực có những hiện tượng ngoại giới kinh hoàng đang xảy đến với bạn. Trong một t́nh huống như vậy, bạn chỉ c̣n nước là chạy trốn tia sáng chói lọi của chư thần an lạc và phẫn nộ ấy, để hướng đến những ánh sáng mờ quen thuộc quyến rũ của lục đạo. Vậy, sự trực nhận cốt yếu trong Bardo pháp tánh là, “đây là năng lực trí giác của tâm ta đang xuất hiện”: Chư Phật và ánh sáng trí tuệ cũng không ngoài tâm bạn, mà chính là năng lực tính giác của bạn. Nhận ra điều ấy là một kinh nghiệm bất nhị, và thể nhập vào đó là giải thoát.
Những ǵ xảy ra trong Bardo pháp tánh vào lúc chết, và bất cứ khi nào một cảm xúc bắt đầu sanh khởi trong tâm ta lúc sống, đều đi theo cùng một tiến tŕnh tự nhiên ấy. Vấn đề là chúng ta có nhận ra được thực chất sự sinh khởi ấy hay không. Nếu ta có thể nhận ra sự sinh khởi một cảm xúc đúng như thực chất của nó - nghĩa là năng lực tự nhiên của bản tâm - th́ ta có thể tự giải thoát khỏi những hậu quả tiêu cực, những nguy hiểm có thể có của cảm xúc ấy, và để cho nó tan trở lại vào trong tính sáng suốt thuần tịnh của Tính giác vô biên.
Sự nhận ra này, và sự giải thoát mà nó đem lại, chỉ có thể là kết quả của nhiều, rất nhiều năm tu tập thiền quán nghiêm chỉnh nhất, v́ nó đ̣i hỏi một sự quen thuộc lâu dài và an trú vững chăi trong tự tánh tâm. Ngoài sự tu tập ấy ra, không ǵ có thể đem lại cho ta niềm an tịnh và giải thoát khỏi những khuynh hướng tập quán, những cảm xúc mâu thuẫn trong ta, một sự giải thoát mà tất cả chúng ta đều khát khao có được. Mặc dù theo giáo lư, sự giải thoát ấy rất khó, nhưng sự biết rằng có thể giải thoát, cũng đủ là một nguồn cảm hứng và hy vọng lớn lao cho chúng ta. Có một cách để hiểu ư tưởng và cảm xúc, tâm và bản chất nó, sống và chết, một cách trọn vẹn, cách đó là đạt đến thực chứng. Các bậc đă giác ngộ nh́n sống chết như nh́n vào ḷng bàn tay, v́ họ biết như Tsele Natsok Rangdrol viết : “Sinh tử là tâm ngươi, niết bàn cũng là tâm ngươi ; tất cả lạc và khổ, tất cả vọng tưởng không hiện hữu tách biệt với tâm ngươi” . Và tri kiến sáng suốt này, được an trú vững vàng qua tu luyện dài lâu, được thể nhập trong từng cử động, ư nghĩ và cảm xúc - để thấy được chúng chỉ có thực một cách tương đối, chính tri kiến ấy đă giải tỏa được chúng. Dudjom Rinpoche nói : “Khi đă tịnh hóa ảo tưởng lớn, bóng tối của tâm, th́ ánh sáng rực rỡ của mặt trời không bị ngăn che khởi lên liên tục”.
Năng lực hỷ lạc
Tôi thường nghĩ đến câu Dudjom Rinpoche viết : “Bản tính của tâm là bản tính của mọi sự”. Tôi tự hỏi cái tiến tŕnh ba giai đoạn của các Trung Ấm (Bardo) có phải chăng không những đúng cho mọi mức độ tâm lư, mọi kinh nghiệm của tâm ở trong đời cũng như lúc chết, mà có lẽ c̣n là bản chất thực sự của chính vũ trụ.
Càng tư duy về ba thân và tiến tŕnh ba giai đoạn của các Trung Ấm, tôi càng t́m thấy những tương ứng lạ lùng phong phú với tri kiến sâu xa của các truyền thống tâm linh khác, và với nhiều lĩnh vực có vẻ rất khác nhau của nỗ lực con người. Tôi nghĩ tới tri kiến Ki-tô giáo về bản chất và mọi hoạt động của Thượng đế như Chúa ba ngôi, về Ki-tô hiện thân từ nền tảng của đức chúa Cha qua trung gian vi mật của Thánh thần. Phải chăng ít nhất nó cũng soi sáng cho ta vài điều, nếu ta xem Ki-tô cũng tương tự như Ứng hóa thân, đấng Thánh linh cũng như Báo thân, và nền tảng của cả hai như là Pháp thân ? Trong Phật giáo Tây Tạng, danh từ tulku, nhập thể, thực sự có nghĩa là Ứng hóa thân, sự nhập thể liên tục tái xuất hiện, hoạt động của năng lực đại bi và giác ngộ. Phải chăng cách hiểu này rất giống quan niệm ba thân của Ki-tô giáo ?
Tôi cũng nghĩ về tri kiến Thượng đế gồm ba đức của Ấn giáo, Phạn ngữ là satcitananda, dịch là “hiện thể, tâm và phúc lạc”. Với người Ấn giáo, Thượng đế là sự bùng vỡ xuất thần của tất cả những năng lực ấy cùng một lúc. Ở đây ta có thể thấy những tương đồng kỳ lạ với ba thân : Báo thân như ananda - năng lực phúc lạc của Thượng đế ; Ứng hóa thân như biểu hiện của Thượng đế ; và Pháp thân như tâm của Thượng đế. Bất cứ ai đă thấy pho tượng Shiva lớn trong động Voi ở Ấn, với ba mặt biểu trưng ba mặt của tuyệt đối, sẽ có được vài ư niệm về tính vĩ đại của tri kiến về thiêng liêng.
Cả hai tri kiến huyền học này về tinh túy, bản chất và hoạt động (thể, tướng, dụng) của yếu tố thiêng liêng làm cho người Phật tử hiểu rơ một trong những tầng mức khác của thực tại, tuy khác nhau mà tương nhập vào nhau. Có phải ít nhất, điều đáng chú ư là một tiến tŕnh gồm ba khía cạnh ấy cũng được thấy ở cốt lơi của mỗi truyền thống, mặc dù họ có nh́n thực tại theo quan điểm riêng của họ ?
Khi nghĩ về bản chất của sự biểu hiện có thể như thế nào, và những cách thế khác nhau nhưng có liên quan nhau để hiểu những biểu hiện ấy, tôi tự nhiên nghĩ tới tính sáng tạo của con người khi biểu hiện ra h́nh thể cái thế giới nội tâm của nhân loại. Tôi vẫn thường tự hỏi hàng bao năm nay, làm thế nào sự tŕnh bày ba thân và Trung Ấm có thể rọi ánh sáng vào toàn thể tiến tŕnh diễn đạt nghệ thuật, và ám chỉ đến bản chất thực và mục tiêu ẩn khuất của nó. Mỗi hành vi cá nhân, mỗi biểu hiện của óc sáng tạo, dù trong địa hạt âm nhạc, nghệ thuật, thi ca, hay trong những giai đoạn của phát minh khoa học, như nhiều nhà khoa học đă nói, đều tuôn phát từ một nền tảng huyền bí của một nguồn cảm hứng ốp vào h́nh dạng nhờ một năng lực trung gian để phiên dịch, truyền thông. Có phải chúng ta đang gặp ở đây một tác động khác của cái tiến tŕnh hỗ tương ba thứ mà ta đă thấy hoạt động trong các cơi Trung Ấm ? Phải chăng đấy là lư do khiến cho một vài công tŕnh âm nhạc và thi ca, và một vài phát minh khoa học, dường như có một ư nghĩa hầu như vô tận ? Và có phải điều này giải thích cái năng lực của chúng để hướng dẫn chúng ta đi vào một trạng thái quán tưởng và phúc lạc, ở đấy một bí ẩn cốt yếu của bản chất ta và bản chất thực tại được hiển lộ ? Từ đâu những ḍng thơ của Blake đến ? :
Nh́n thấy vũ trụ trong một hạt cát
Thấy thiên đường trong một đóa hoa
Nắm Vô biên trong ḷng bàn tay
Và vĩnh cửu rút lại trong một giờ.
Trong Phật giáo Tây Tạng, Ứng hóa thân được thấy như biểu hiện của giác ngộ, trong vô số h́nh dạng và cách thức, ở trong thế giới vật lư. Theo truyền thống, nó được định nghĩa theo ba cách : Một là Ứng thân của một vị Phật toàn giác, như Thích Ca Tất Đạt Đa, người được sinh ra trong thế giới này và giảng dạy trong đó. Loại Ứng thân thứ hai là một người có vẻ b́nh thường nhưng được cái phước có khả năng đặc biệt làm lợi lạc cho kẻ khác : một hóa thân hay tulku. Và thứ ba là một người qua đó một mức giác ngộ được thể hiện để làm lợi lạc và cảm hứng cho người khác qua những nghệ thuật khoa học công việc khác nhau. Trường hợp những người sau này bản năng giác ngộ “tự nhiên như ánh sáng mặt trời phải ra lệnh hay có ư thực nào về việc ấy, có mặt trời th́ tự nhiên có ánh sáng” . Kalu Rinpoche nói. Vậy phải chăng ta có thể nói rằng, năng lực và bản chất của thiên tài nghệ thuật cũng có nguồn cảm hứng tối hậu của nó từ trọng tâm này của chân lư ?”.
Điều này không có nghĩa là những nghệ sĩ vĩ đại có thể nói là đă giác ngộ, từ cuộc sống của họ rơ ràng là họ chưa giác ngộ. Nhưng một điều cũng rơ nữa là trong vài giai đoạn cao điểm và t́nh huống đặc biệt, họ có thể là những khí cụ, những “kênh” của năng lực giác ngộ. Ai khi đă lắng nghe những tuyệt tác của Beethoven hay Mozart, có thể chối căi rằng không có một cơi nào khác đă thể hiện trong tác phẩm họ ? Và có ai ngắm nh́n những ngôi giáo đường của Âu châu thời Trung cổ như Chartres hay Isfahan của Hồi giáo, hay Đế thiên Đế thích, hay Ellora của Ấn giáo, mà không thấy rằng những nghệ sĩ tạo ra chúng đă được cảm hứng trực tiếp bởi một năng lực tuôn phát từ nền tảng, suối nguồn của mọi sự ?
Tôi nghĩ một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cũng như một vầng trăng chiếu trong bầu trời đêm, nó chiếu sáng thế gian, nhưng ánh sáng ấy không là của riêng nó, mà mượn từ mặt trời, cái “tuyệt đối” đang bị ẩn khuất. Nghệ thuật đă giúp cho nhiều người thoáng nh́n thấy bản chất của tâm linh. Phải chăng một trong những lư do nghệ thuật tân tiến bị hạn cuộc là v́ nó đă mất đi cái tri kiến về nguồn gốc vô h́nh thiêng liêng của nghệ thuật, và mục đích cao cả của nó : đem lại cho người thưởng thức một tri kiến về bản chất thực của họ, địa vị của họ trong vũ trụ, làm cho họ thấy được giá trị, ư nghĩa và những khả tính vô biên của đời sống. Vậy phải chăng ư nghĩa đích thực của kiệt tác nghệ thuật là nó cũng tương tự như Báo thân, cái năng lực bất tận đầy phúc lạc mà Rilke gọi là “năng lực chắp cánh của niềm vui”, tia sáng truyền đạt, truyền thông tính thuần tịnh, ư nghĩa vô biên của cái tuyệt đối cho thế giới hữu hạn và tương đối, - nói cách khác là từ Pháp thân đến Ứng hóa thân ?
Mở ra cái thấy toàn diện
Một trong nhiều phương diện mà tấm gương của đức Dalai Lama đă gây cho tôi nguồn cảm hứng là, ngài rất quan tâm và có thái độ phóng khoáng đối với các khám phá mới của khoa học tân tiến. Chung quy, Phật giáo được xem là “một khoa học về tâm thức”, và khi tôi quán xét giáo lư Trung Ấm, th́ tính minh bạch và sự soi sáng rộng lớn của giáo lư này càng ngày càng gây cho tôi niềm tri ân và úy phục. Nếu Phật giáo là khoa học về tâm linh th́ theo tôi, Dzogchen và giáo lư Bardo chính là trọng tâm của nền khoa học ấy, hạt giống thực tiễn và thấu thị nhất, từ đó một cây lớn -những thực chứng tương quan lẫn nhau đă phát triển và sẽ tiếp tục phát triển theo nhiều cách mà nay ta chưa thể tưởng tượng nổi, v́ nhân loại hăy c̣n đang trên đà tiến hóa.
Trải nhiềug năm gặp gỡ với những khoa học gia đủ mọi ngành, càng ngày tôi càng kinh ngạc trước tính phong phú của những tương đồng giữa lời dạy của đức Phật với những khám phá mới của vật lư học hiện nay. Nhiều nhà tiên phong về triết học và khoa học Tây phương may thay cũng đă ư thức đến sự tương đồng ấy, và đang hăng say thám hiểm với một ư thức tế nhị ; để từ cuộc đối thoại giữa huyền học - khoa học về tâm thức - với các ngành khoa học vật chất, có thể phát khởi một tri kiến mới về vũ trụ và trách nhiệm con người trước vũ trụ. Càng lúc tôi càng có niềm xác tín rằng chính giáo lư Trung Ấm với tiến tŕnh mở ra ba giai đoạn ấy, sẽ là một đóng góp độc đáo cho cuộc đối thoại này. Tôi muốn chú ư đến một trong những tri kiến khoa học đă đặc biệt khiến tôi nghiền ngẫm, là tri kiến của nhà vật lư David Bohm đă nghĩ đến một phưong thức mới để tiếp cận thực tại mà, mặc dù c̣n đang gây nhiều tranh chấp, đă được phản ứng đầy thiện cảm của nhiều nhà nghiên cứu thuộc đủ mọi ngành : vật lư, y học, sinh vật học, toán học, thần kinh học, tâm bệnh học, và một số nghệ sĩ, triết gia. David Bohm đă nghĩ đến một cách nghiên cứu thực tại mới, căn cứ trên một sự thấu hiểu toàn diện và tính nhất thể của hiện hữu kể như một Toàn thể không gián đoạn, không chấp nối - và đây chính là lối nh́n của giáo lư Trung Ấm.
Cái trật tự năng động, nhiều chiều mà Bohm thấy đang vận hành trong vũ trụ, cốt yếu gồm ba phương diện. Phương diện rơ rệt nhất là thế giới vật thể thời - không của chúng ta với không gian ba chiều, mà ông gọi là cái trật tự rơ rệt hay mở. Từ đâu mà ông tin cái trật tự này mở ra ? Chính từ một lĩnh vực phổ quát, không gián đoạn, “một nền tảng ngoài thời gian”, cái trật tự hàm ẩn hay kín, như ông gọi, vốn là nền tảng bao quát tất cả kinh nghiệm chúng ta. Ông thấy tương quan giữa hai trật tự này như là một tiến tŕnh liên tục, trong đó cái ǵ mở ra trong trật tự rơ rệt lại được khép vào lại trong trật tự hàm ẩn. Cái nguồn gốc tổ chức nên tiến tŕnh này thành ra những cơ cấu khác nhau thiên h́nh vạn trạng, th́ ông đề nghị đặt tên là cái trật tự “siêu ẩn”, một chiều không gian tinh vi hơn nhiều, và có tiềm năng vô hạn.
Có thể chăng có một tương đồng giữa ba trật tự này với ba thân và tiến tŕnh Trung Ấm ? Như David Bohm nói : “Toàn thể khái niệm về trật tự hàm ẩn là một cách thể để bàn về nguồn gốc của h́nh sắc xuất phát từ vô sắc, qua trung gian tiến tŕnh mở ra”. (Renée Weber, ed. Đối thoại giữa các khoa học gia và hiền giả : Đi t́m Nhất thể, London, 1986)
Tôi cũng được cảm hứng từ việc David Bohm đă khai triển lối hiểu vật chất - theo đó, vật chất khởi lên từ vật lư học lượng tử - để hiểu chính tâm thức. Đó là một bước nhảy mà theo tôi sẽ được xem càng ngày càng cần thiết, khi khoa học mở rộng tầm nh́n, và tiến hóa. Bohm nói : “Tâm thức có thể có một cơ cấu giống như vũ trụ, và trong sự vận chuyển ở nền tảng, mà ta gọi là chân không ấy kỳ thực có một năng lực ghê gớm, một sự biến dịch. Những h́nh ảnh đặc biệt xuất hiện trong tâm có thể giống như những phân tử, và sự đạt đến nền tảng của tâm có thể được cảm thấy như là ánh sáng” . (Sđd, 48)
Cùng với khái niệm về trật tự hàm ẩn và trật tự rơ rệt ấy, David Bohm đă tưởng tượng ra một lối nh́n mối tương quan giữa tâm lư vật lư, giữa tâm và vật chất, gọi là ư nghĩa tâm-vật-lư. Ông viết : “Quan niệm về ư nghĩa tâm vật lư có nghĩa rằng vật lư và ư nghĩa của nó, tức tâm lư, không phải là hai thực thể biệt lập, đúng hơn đó là hai phương diện của một thực tại duy nhất bao trùm cả hai”. (Sđd, 73)
David Bohm cho rằng vũ trụ biểu hiện ba phương diện liên kết với nhau : vật chất, năng lượng và ư nghĩa.
Từ quan điểm trật tự hàm ẩn, th́ năng lượng và vật chất thấm nhuần một loại ư nghĩa nào đó, đem lại h́nh dạng cho hoạt động bao quát của nó và cho vật chất sinh khởi trong hoạt động ấy. Năng lực của tâm và của vật chất trong năo bộ cũng thấm nhuần một loại ư nghĩa đem lại h́nh dạng cho hoạt động bao quát của nó. Như vậy, một điều khá thông thường là năng lượng bao gồm vật chất và ư nghĩa, trong khi vật chất th́ bao gồm năng lượng và ư nghĩa… Nhưng ư nghĩa cũng bao gồm vật chất và năng lượng… Vậy, mỗi một khái niệm trong ba khái niệm căn bản ấy bao hàm hai cái kia. (Bohm, Unfolding Meaning, 90)
Giản dị hóa một tri kiến vô cùng tinh vi, tế nhị, bạn có thể bảo rằng đối với David Bohm “ư nghĩa” có tầm quan trọng đặc biệt rộng răi. Ông nói : “Điều này bao hàm trái với quan điểm thông thường rằng ư nghĩa là một phần cốt yếu nội tại trong hoạt động tổng quát của chúng ta, chứ không phải chỉ là một tính chất thuần túy trừu tượng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi. Hay nói cách khác, trong đời người, thông thường, ư nghĩa là sống…” . Chính trong hành vi giải thích vũ trụ, ta đang sáng tạo vũ trụ : Có thể nói rằng chúng ta là tổng thể của những ư nghĩa chúng ta”. (Bohm, 93)
Phải chăng sẽ có ích nếu ta khởi sự tưởng đến những tương đồng giữa ba phương diện của vũ trụ mà Bohm nói, với ba thân ? Một khai thác sâu hơn ư của Bohm có lẽ sẽ cho thấy rằng ư nghĩa, năng lượng và vật chất có tương quan lẫn nhau như ba thân. Phải chăng điều này có thể gợi ư rằng vai tṛ của ư nghĩa, như Bohm giải thích, có phần nào tương tự với Pháp thân, cái tổng thể vô điều kiện, luôn luôn sáng tạo, từ đó mọi sự sinh khởi ? Công việc của năng lượng, qua đó ư nghĩa và vật chất tác động lẫn nhau, có phần nào giống với Báo thân. Sự tuôn phát tự nhiên, liên tục của năng lượng từ cái nền tảng chân không, và sự tạo ra vật chất, theo tri kiến của Bohm, có phần giống như Ứng hóa thân, sự kết tinh liên tục của năng lượng ấy thành ra h́nh dạng và biểu hiện.
Khi nghĩ về David Bohm và cách giải thích đặc biệt của ông về thực tại, tôi có khuynh hướng tự hỏi, một nhà vật lư học vĩ đại sẽ khám phá được những ǵ, nếu đồng thời họ cũng là một hành giả đă được một bậc đại sư hướng dẫn và thực sự tu chứng ? Cái ǵ một nhà khoa học và một hiền nhân, như Longchenpa và Einstein hợp chung lại, sẽ nói với ta về bản chất thực tại nhỉ ? Có thể một trong những hoa trái tương lai của cây giáo lư Trung Ấm này sẽ là một cuộc đối thoại giữa khoa học và huyền học chăng ? Và điều ấy sẽ có ư nghĩa ǵ cho nhân loại ?
Sự tương đồng sâu xa nhất giữa ư tưởng của David Bohm và giáo lư Trung Ấm là cả hai đều tuôn phát từ một tri kiến về một nhất thể toàn vẹn. Tri kiến này, nếu nó có thể thêm sức cho cá nhân để chuyển hóa tâm thức họ, và nhờ vậy ảnh hưởng đến xă hội, th́ sẽ phục hồi cho thế giới chúng ta một ư thức cấp thiết về tương quan sinh tồn và ư nghĩa đời sống.
Điều tôi đề nghị ở đây là đường lối con người suy nghĩ về cái toàn thể, hay thế giới quan của họ, là điều quan yếu nhất cho trật tự của chính nhân tâm. Nếu con người nghĩ về cái toàn thể như là sự ráp nối những mảnh vụn biệt lập, th́ tâm thức họ cũng có khuynh hướng vận hành theo kiểu ấy. Nhưng nếu họ có thể bao gồm mọi sự liên kết ḥa hợp nhau trong một toàn thể bất khả phân, không gián đoạn, không biên giới (v́ mỗi biên giới là một phân chia, một gián đoạn) th́ khi ấy tâm họ sẽ có khuynh hướng di chuyển theo cách ấy, và từ đó sẽ có một hành động có trật tự nằm trong cái toàn thể. (David Bohm, Ṭan vẹn và trật tự hàm ẩn, 1988, xi.)
Tất cả các bậc thầy vĩ đại sẽ hoàn toàn đồng ư với Bohm khi ông viết :
Một sự thay đổi ư nghĩa là cần thiết để thay đổi thế giới này về chính trị, kinh tế và xă hội. Nhưng sự thay đổi này phải khởi sự với từng cá nhân, nó phải thay đổi cho cá nhân… Nếu ư nghĩa là một phần then chốt của thực tại th́ một thay đổi căn để đă xảy ra khi xă hội, cá nhân và những tương quan được thấy là có ư nghĩa ǵ khác. (Unfolding Meaning, 107)
Cuối cùng tri kiến của giáo lư Trung Ấm và sự thấu hiểu sâu xa về nghệ thuật và khoa học đều hội tụ ở một sự kiện: đó là trách nhiệm chúng ta đối với chính ḿnh và cho chính ḿnh; và sự cần thiết phải xử dụng trách nhiệm ấy một cách cấp bách để tự chuyển hóa chúng ta, ư nghĩa cuộc đời ta và thế giới xung quanh ta.
Như đức Phật dạy : “Ta chỉ cho ngươi con đường giải thoát, nhưng chính ngươi phải bước đi” .
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 404 of 2534: Đă gửi: 04 July 2008 lúc 8:32am | Đă lưu IP
|
|
|
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT
22. SỨ GIẢ H̉A B̀NH
(TỔNG KẾT PHẦN BỐN)
Một trong những học viện lâu nhất đă theo dơi sự h́nh thành quyển sách này trong bao nhiêu năm, mới đây đă hỏi tôi : “Thầy thực sự mong muốn điều ǵ sâu xa nhất qua quyển sách này, khi nó được xuất bản ?”. Khi đó trong tâm tôi hiện lên h́nh ảnh Lama Tseten, mà lúc c̣n bé tôi đă chứng kiến cái chết của ngài trong tư thái hài ḥa an tịnh. Tôi buộc miệng nói : “Tôi muốn mọi người đừng sợ chết, hay cũng đừng sợ sống. Tôi muốn mọi người chết trong thanh thản, được vây quanh bởi sự chăm sóc thông minh sáng suốt nhất, nhẹ nhàng nhất, và t́m được niềm hạnh phúc tối hậu nhờ thấu hiểu thực chất, tự tánh của tâm và của thực tại”.
Thomas Merton viết : “Chúng ta có được cái ǵ, dù có thể lên đến cung trăng, nếu ta không vượt qua được hố thẳm ngăn cách giữa chúng ta ? Đây mới là cuộc du hành quan trọng nhất trong các cuộc du hành để khám phá, mà nếu không có nó, th́ tất cả mọi chuyện khác không những vô ích, mà c̣n tai hại”. (Minh triết của Sa mạc, 90).
Chúng ta dùng hàng triệu Mỹ kim mỗi phút vào việc huấn luyện con người giết nhau và phá hoại, vào bom đạn và phi cơ chiến đấu. Nhưng trong khi ấy chúng ta gần như không tốn đồng nào vào việc giáo dục con người về bản chất cuộc đời và cái chết, vào việc giúp đỡ họ đối mặt và hiểu thấu những ǵ xảy ra khi họ chết. T́nh huống này thực đáng buồn, đáng kinh hăi xiết bao, và nó thực đă cho ta thấy chúng ta vô minh đến mức nào, ta thiếu t́nh thương chân thật đối với chính ḿnh và người khác đến mức nào. Hơn bất cứ ǵ khác, tôi cầu nguyện rằng sánh này có thể góp một phần nhỏ vào sự thay đổi t́nh trạng này trên thế giới, có thể thức tỉnh càng nhiều người càng tốt, làm cho họ chú ư tính cấp thiết của nhu cầu chuyển hóa tâm linh, tính cấp thiết của trách nhiệm đối với tự thân và tha nhân. Tất cả chúng ta đều có tiềm năng thành Phật, và đều mong muốn sống an ổn và chết an ổn. Khi nào th́ nhân loại mới thực sự thấu hiểu điều này, thực sự kiến tạo một xă hội phản ảnh được trí tuệ đơn giản mà thiêng liêng ấy trong tất cả lĩnh vực hoạt động của nó ? Nếu không có điều ấy, th́ cuộc đời có giá trị ǵ ? Nếu không có điều ấy, làm sao ta chết thoải mái được ?
Điều tối quan trọng bây giờ là một tri kiến sáng suốt về sự chết cần được đưa vào trong thế giới ở mọi tầng lớp giáo dục. Trẻ con không nên được “che chở” cho khỏi thấy chết chóc, mà phải được khai thị, lúc chúng c̣n nhỏ, cho thấy bản chất thực của cái chết và những ǵ họ có thể học được từ cái chết. Tại sao ta không khải thị tri kiến này trong những h́nh thức đơn giản nhất của nó, cho tất cả mọi nhóm tuổi ? Tri kiến về cái chết, về sự làm thế nào để giúp đỡ người sắp chết, về bản chất tâm linh của sự chết, cần được truyền thông cho tất cả tầng lớp xă hội ; tri kiến ấy cần được dạy tại các trường và phân khoa đại học đủ loại ; và quan trọng nhất, tại các bệnh viện có huấn luyện cho bác sĩ và y tá điều dưỡng bệnh nhân sắp chết, những người có trách nhiệm đối với bệnh nhân.
Làm sao bạn có thể là một bác sĩ giỏi thực sự, khi bạn không có ít nhất vài tri kiến về sự thật của cái chết ? Làm sao bạn có thể thực sự giúp đỡ tâm linh người bệnh sắp chết của bạn ? Làm sao bạn có thể là một y tá giỏi, nếu bạn không khởi sự đối diện với chính nỗi sợ chết của ḿnh, và do đó không có ǵ để nói với những người hấp hối khi họ hỏi bạn, nhờ bạn chỉ dẫn ? Tôi biết có nhiều bác sĩ, y tá có thiện ư, những người có tính phóng khoáng chân thành mở ḷng ra mà đón nhận những tư tưởng mới, cách làm mới. Tôi cầu nguyện cách này sẽ đem lại cho họ can đảm và sức mạnh mà họ cần có để giúp các cơ sở của họ thẩm thấu những bài học của giáo lư Trung Ấm này, và áp dụng. Phải chăng đă đến lúc nghề nghiệp y khoa nên hiểu rằng sự t́m ṭi chân lư về sống chết, và việc chữa bệnh vốn là hai chuyện không thể tách rời ? Điều tôi hy vọng từ quyển sách này là nó sẽ giúp mọi người khắp nơi, thảo luận về những ǵ có thể làm được cho người sắp chết, và những điều kiện tốt nhất để làm việc ấy. Một cuộc cách mạng tâm linh và thực tiễn trong việc huấn luyện bác sĩ và y tá, để chăm sóc bệnh nhân và đối xử với cái chết của họ, là điều quan yếu cấp thiết. Tôi hy vọng sách này sẽ là một đóng góp nhỏ mọn cho công việc ấy.
Tôi đă nhiều lần ca tụng công tŕnh tiên phong đang được thực hiện trong phong trào Tiếp dẫn đường. Ít nhất tại đấy chúng ta thấy người chết được đối xử với sự kính trọng mà họ đáng được. Tôi muốn nói lên ở đây một lời thỉnh cầu tha thiết đến tất cả các nền cai trị trên thế giới, rằng họ nên khuyến khích sự tạo lập những Tiếp dẫn đường, tài trợ cho công tŕnh này càng nhiều càng tốt.
Tôi có ư định cống hiến quyển sách này làm nền tảng cho nhiều loại chương tŕnh huấn luyện khác nhau, những người thuộc đủ loại ngành nghề, mà nhất là những người quan hệ mật thiết đến việc săn sóc người chết : gia đ́nh, bác sĩ, y tá, tu sĩ thuộc mọi giáo phái, cố vấn tinh thần, các nhà chữa bệnh tâm lư và những nhà tâm lư học.
Có cả một kho tàng tuệ giác y khoa trong Phật giáo Tây Tạng cũng như những tiên tri của Padmasambhava liên hệ chi tiết đến những chứng bệnh của thời đại này. Tôi cực lực kêu gọi nên đổ tiền bạc vào công tŕnh nghiên cứu nghiêm túc về những lời dạy đáng ngạc nhiên ấy. Biết đâu người ta không t́m ra được từ đấy những phương pháp chữa những bệnh ngặt nghèo, như Sida và ung thư, và những chứng chưa xuất hiện, và làm giảm thiểu tính chất kinh khủng của nó ?
Tôi hy vọng ǵ từ quyển sách này ? Hy vọng gợi cảm hứng cho một cuộc cách mạng êm thấm trong toàn thể lối nh́n của ta về sự chết và săn sóc người sắp chết, cũng như lối nh́n của chúng ta về sự sống và săn sóc người sống.
Trong khi quyển sách này đang được viết ra, th́ bậc thầy vĩ đại của tôi, Dilgo Khientse Rinpoche từ giă thân xác vào thứ sáu, ngày 27 tháng 9 năm 1991, ở Thimphu, Bhutan. Ngài đă 82 tuổi, và đă dành suốt đời giúp đỡ tất cả mọi người. Ai đă từng trông thấy ngài mà quên ngài được ? Ngài như núi tuyết sáng chói, sự hùng vĩ của ngài đă lan tràn nếu không có niềm an tịnh sâu xa luôn tỏa ra từ nơi ngài, cùng với tính hài hước tự nhiên và tâm hỷ lạc, những dấu hiệu của thực chứng. Với tôi và nhiều người khác, ngài là bậc thầy có tầm cỡ của Milarepa, của Longchenpa, của Padmasambhava, và ngay cả của đức Phật. Khi ngài qua đời, th́ như mặt trời lặn mất, để lại đêm tối đen dày, và cả một thời đại huy hoàng của nền học tâm linh Tây Tạng đă cáo chung. Dù tương lai có đem ǵ lại cho chúng ta, tôi chắc chắn không ai trong chúng ta sẽ c̣n gặp được người nào như ngài. Chỉ cần nh́n thấy ngài một lần dù trong giây lát, là cũng đă gieo trong bạn một hạt giống giải thoát mà không có ǵ sẽ phá hủy được, và sẽ có ngày hạt giống ấy đi đến kết nhụy đơm bông.
Có nhiều dấu hiệu kỳ lạ trước và sau khi Dilgo Khientse Rinpoche chết, chứng tỏ tầm mức vĩ đại của ngài, nhưng cái điềm làm cho tôi kinh hăi nhất th́ xảy ra cách xa bốn ngàn dặm Anh, ở miền Nam nước Pháp, tại một nơi gọi là Lerab Ling, gần Montpellier, nơi này sẽ được hiến cúng để thành lập một trung tâm nhập thất dưới ân đức của ngài. Xin để cho một trong những học tṛ tôi đang sống và làm việc tại trung tâm kể cho bạn nghe những ǵ đă xảy đến :
“Sáng hôm ấy bầu trời tối lâu hơn thường lệ, và dấu hiệu đầu tiên của b́nh minh là một đường dài màu đỏ thật sâu ở chân trời xa. Chúng tôi sắp xuống phố, và khi đến gần chót đỉnh con đường của chúng tôi, cái lều vải dựng tạm làm chỗ thờ, nơi sẽ xây chánh điện, hiện ra trên đỉnh đồi bên phải chúng tôi. Th́nh ĺnh một chùm tia sáng mặt trời thật sắc, xoáy vào ánh sáng mờ ban mai và chiếu ngay vào cái lều trắng, làm nó sáng lên rực rỡ. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi, và khi tới gần khúc quanh để xuống phố, một cái ǵ thúc đẩy chúng tôi nh́n lại ngôi lều. Bây giờ trời đă sáng. Chúng tôi kinh ngạc. Một ráng cầu vồng trải dài khắp thung lũng, màu sắc nó sáng chói, sống động, đến nỗi ta như có thể với tay ra mà sờ được. Nó vươn lên từ chân trời phía trái chúng tôi, làm thành một ṿng cung bắc ngang bầu trời. Điều mầu nhiệm là không có dấu hiệu ǵ là sắp mưa cả, chỉ có cái ráng cầu vồng xuất hiện linh động, rực rỡ nổi bật trên nền trời trống trải mênh mông. Chỉ đến chiều hôm sau đó chúng tôi mới biết tin đấy chính là ngày mà Dilgo Khientse Rinpoche từ trần ở Bhutan. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy chắc chắn rằng cầu vồng ấy là dấu hiệu ngài đă ban phước xuống cho tất cả, và cho vùng đất Lerab Ling”.
Khi đức Phật nằm niết bàn trong một khu rừng ở Kushinagara (Câu thi na) xung quanh có 500 đệ tử, Ngài đă dạy những lời cuối cùng : “Tất cả pháp hữu vi đă sinh thành đều sẽ phải hoại diệt, tan ră. Các con hăy nỗ lực tinh tiến đạt đến sự toàn thiện” . Những lời dạy ấy vẫn thường trở lại với tôi từ khi thầy Dilgo tôi từ trần. Có lời dạy nào sâu sắc về vô thường hơn cái chết của một bậc đạo sư tối thượng, đă từng như là cột trụ của thế gian ? Cái chết ấy làm cho chúng tôi, những người biết ngài, những đệ tử của ngài, cảm thấy bơ vơ, bị ném trở lại chính ḿnh. Bây giờ chúng ta phải tự ḿnh tiếp tục tiến lên và cố hết sức ḿnh để thể hiện truyền thống giáo lư mà ngài đă đại diện một cách cao cả. Chúng ta phải tự ḿnh làm những ǵ mà đệ tử Phật đă làm, khi bị bỏ lại trên thế gian này, không c̣n được ánh sáng trí tuệ của ngài d́u dắt : đó là “hăy nỗ lực tinh tiến để đạt đến toàn thiện” .
Cái cầu vồng bắc qua bầu trời nước Pháp, ở thung lũng Lerab Ling là một điềm triệu Dilgo Khientse Rinpoche đang ban phước và sẽ tiếp tục ban phước cho toàn thế giới. Khi đă thoát khỏi thân xác, ngài sống trong thế giới huy hoàng vượt ngoài thời - không của Pháp thân, có năng lực như những bậc đă giác ngộ, là có thể giúp đỡ chúng sanh không hạn cuộc. Hăy tin tưởng ở sự chứng đắc của ngài, và kêu cầu ngài với tất cả ḷng thành, th́ bạn sẽ thấy ngài ở bên bạn tức khắc. Làm sao ngài, người yêu thương tất cả chúng sanh với t́nh yêu toàn hảo như vậy, có thể bỏ rơi chúng ta được ? Và ngài sẽ đi đâu, con người đă nhập làm một với tất cả ấy ?
Thật may mắn cho chúng ta, rằng một bậc thầy như ngài, nhập thể của truyền thống Tây Tạng, đă ở với chúng ta 30 năm nay sau khi xứ sở Tây Tạng bị diệt vong. Ngài đă giảng dạy trong vùng Hy Mă Lạp Sơn, Ấn Độ, Âu châu, Á châu và Hoa Kỳ. Chúng ta thực may mắn làm sao đă có được hàng trăm giờ thu băng giọng nói và lời dạy của ngài, nhiều băng h́nh ghi lại vài nét hùng vĩ của sự hiện diện ngài, một vài phần của ḍng thác từ tâm giác ngộ của ngài, đă được dịch ra Anh ngữ và nhiều ngôn ngữ khác. Tôi đặc biệt nghĩ tới những giáo lư ngài dạy ở miền Nam nước Pháp, gần Grenoble vào năm cuối của đời ngài. Lúc đó, nh́n ra thung lũng và đồi núi, một khung cảnh gần như có cái hùng vĩ của Tây Tạng, ngài đă ban ân sủng là truyền giáo lư Dzogchen, một giáo lư quan trọng nhất, cho một ngàn rưỡi học viên, nhiều người trong đó là học tṛ tôi từ khắp thế giới, một điều làm cho tôi sung sướng vô cùng. Những bậc thầy hiện diện có cảm tưởng rằng qua hành vi cuối của đời ngài, Dilgo Khientse Rinpoche đang ban ấn tín cho việc giảng dạy những giáo lư này ở Tây phương, và đă ban phước cho sự đón nhận của họ bằng năng lực của nhiều đời thiền định nơi ngài. Về phần tôi, tôi cũng đang ban phước cho tất cả những ǵ tôi đă cố thực hiện cho nền giáo lư ấy từ bao năm ở Tây phương.
Nghĩ về Dilgo Khientse Rinpoche và những ǵ ngài đă làm cho nhân loại là nghĩ về tính vĩ đại của món quà tặng mà Tây Tạng hiến cho thế giới, được tập trung và được hiển lộ nơi một con người duy nhất.
Tôi luôn nghĩ rằng, không phải là chuyện t́nh cờ khi xứ sở Tây Tạng cuối cùng đă mất, đúng vào lúc Tây phương sắp mở tâm mở trí để đón nhận những truyền thông của trí tuệ phương Đông. Vậy, ngay vào lúc Tây phương trở nên sẵn sàng đón nhận, th́ một vài giáo lư sâu xa của truyền thống ấy, vốn từ lâu được bảo tŕ trong niềm cô tịch của núi Tuyết Tây Tạng, bây giờ có thể ban bố cho nhân loại. Điều thiết yếu hiện nay của chúng ta là cố gắng duy tŕ bằng mọi giá, truyền thống tuệ giác sống động ấy, mà người dân Tây Tạng đă chịu vô lượng khổ đau để làm cho chúng ta có được. Hăy nhớ đến họ luôn luôn trong tim chúng ta, và chúng ta hăy làm việc để thấy có ngày xứ sở Tây Tạng và những truyền thống của xứ sở ấy được phục hồi. Những giáo lư vĩ đại mà tôi đă san sẻ với bạn hiện giờ không được phép tu tập công khai trên đất Tây Tạng bởi chính những người đă có công bảo tŕ chúng. Mong sao sẽ có ngày các Tăng viện và Ni viện của Tây Tạng sẽ vươn lên từ đống tro tàn đổ nát, và những khoảng trống bao la của xứ Tây Tạng sẽ được hiến cho nền ḥa b́nh thế giới và sự theo đuổi giác ngộ của tất cả mọi người.
Một phần lớn của tương lai nhân loại có thể tùy thuộc vào sự tái lập một xứ Tây Tạng tự do, một xứ Tây Tạng sẽ đóng vai tṛ của một Thánh địa cho những người t́m chân lư thuộc mọi truyền thống tín ngưỡng, vai tṛ trái tim tuệ giác của một nhân loại tiến hóa, vai tṛ pḥng thí nghiệm để thử nghiệm những tuệ giác cao nhất, những kỹ thuật thiêng liêng nhất, để nó sẽ thành một nguồn cảm hứng giúp toàn nhân loại trong giờ phút lâm nguy. Thật khó t́m được khung cảnh toàn hảo cho việc tu tập tuệ giác ấy trong một thế giới như thế giới Tây phương chúng ta. Một xứ Tây Tạng được hồi phục, được tịnh hóa bởi bi kịch đau thương sẽ là khung cảnh lư tưởng, và điều này thực cấp thiết cho sự tiến hóa của loài người.
Tôi muốn hiến tặng sách này cho hàng trăm ngàn người chết trong sự khủng bố ở Tây Tạng, chết với đức tin của họ và với tri kiến kỳ tuyệt của giáo lư Phật. Tôi cũng muốn hiến tặng cho những người đă chết ở thế kỷ này trong những t́nh huống tương tự : người Do Thái, người Cao Mên, người Nga ; cho những nạn nhân hai cuộc thế chiến, cho tất cả những người chết bị bỏ rơi, bị quên lăng, và cho tất cả những người đang tiếp tục bị tước hết cơ hội tu tập con đường tâm linh của họ.
Nhiều bậc thầy tin rằng giáo lư Tây Tạng đang bước vào một thời đại mới. Có những lời tiên tri của Padmasambhava và nhiều bậc thầy thấu thị khác đă nói trước về việc giáo lư truyền đến Tây phương. Bây giờ thời gian ấy đă đến, và tôi biết rằng giáo lư sẽ khoác một đời sống mới. Đời sống mới này cần thay đổi, nhưng tôi tin rằng bất cứ một mô phỏng nào cũng phải tuôn phát từ một tri kiến sâu xa, để tránh phản bội sự thuần tịnh trong sáng của truyền thống hay năng lực của nó, hay tính “phi thời gian” của chân lư. Nếu có sự hiểu biết sâu xa về truyền thống phối hợp với ư thức thực tế về những vấn đề và thử thách của thời đại, th́ sự mô phỏng có thể tăng cường, mở rộng, làm phong phú thêm truyền thống, làm hiển lộ những tầng lớp sâu xa của giáo lư, và giúp cho việc ứng dụng giáo lư được hiệu quả hơn, trong việc đối phó với những khó khăn ngày nay.
Nhiều bậc thầy vĩ đại của Tây Tạng đă viếng thăm Tây phương trong 30 năm sau này, bây giờ đă viên tịch, và tôi tin chắc họ đă cầu nguyện cho giáo lư này sẽ lợi lạc không những cho người Tây Tạng, cho Phật tử mà thôi, mà c̣n cho cả toàn thế giới. Tôi nghĩ người Tây phương biết rơ tầm giá trị của giáo lư này khi họ đâm ra sẵn sàng đón nhận. Tôi nghĩ đến Dudjom Rinpoche và Karpama, những bậc thầy vĩ đại đă chọn để chết ngay trên đất Tây phương, như thể cốt ban phúc cho Tây phương bằng năng lực giác ngộ của các ngài. Mong sao những lời cầu nguyện của các ngài cho thế giới được chuyển hóa, cho tâm trí nhân loại được soi sáng được ứng nghiệm ! Mong sao cho chúng ta, những người hấp thụ giáo lư các ngài sẽ ư thức trách nhiệm đối với giáo lư ấy, và nỗ lực thể hiện giáo lư.
Thử thách lớn nhất mà một truyền thống tâm linh như Phật giáo phải đương đầu trong giai đoạn chuyển tiếp này từ khung trời cũ đến Tây phương là, làm thế nào trong một thế giới quay cuồng lăng xăng siêu tốc này, những người học giáo lư có thể t́m phương thức để thực hành giáo lư với một tâm linh b́nh thản và tính kiên tŕ mà họ cần, để có thể chứng ngộ sự thật của giáo lư. Sự huấn luyện tâm linh chung quy là h́nh thái giáo dục cao thượng nhất, đ̣i hỏi nhiều điều kiện nhất, và phải được theo đuổi với sự dấn thân, chuyên cần có hệ thống như bất cứ sự huấn luyện nghiêm túc nào khác. Làm sao có thể chấp nhận rằng, muốn thành một bác sĩ phải trải nhiều năm học và thực tập, thế mà với con đường tâm linh để sống ở đời, chúng ta lại chỉ cần một sự ban phép t́nh cờ, những lễ quán đảnh điểm đạo qua loa, và lâu lâu mới gặp vài bậc thầy chỉ để chào hỏi ? Trong quá khứ, người ta ở lại luôn một nơi để theo thầy suốt cả đời. Hăy nghĩ đến Milarepa, đă phụng sự Marpa hàng nhiều năm trước khi đủ trưởng thành tâm linh để rời thầy mà tự tu tập. Sự huấn luyện tâm linh cần một sự truyền trao liên tục, làm việc và học với thầy, theo thầy với niềm hăng say và sự thiện xảo tinh tế. Vấn đề chính của việc giảng dạy tương lai ở trong thế giới tân tiến là làm sao để giúp cho những người theo giáo lư t́m được môi trường nội tâm và ngoại cảnh thích hợp để thực hành giáo lư, chứng ngộ và thể nhập tinh yếu của nó.
Giáo lư của mọi con đường huyền học trên thế giới cho thấy rơ rằng trong ta có một b́nh chứa năng lực khổng lồ, năng lực từ bi và trí giác, năng lực mà Ki-tô giáo gọi là Cung điện nhà trời, hay Nước chúa. Nếu ta biết cách sử dụng và đây là mục đích con đường đi t́m tuệ giác th́ năng lực ấy không những có thể chuyển hóa bản thân ta, mà cả thế giới quanh ta. Có thời nào cấp thiết hơn bây giờ, để có được sự xử dụng sáng suốt năng lực thiêng liêng ấy ? Có thời nào cấp thiết hơn bây giờ để hiểu thấu bản chất của năng lực thuần túy ấy, hiểu cách điều hướng nó để lợi lạc cho thế giới ? Tôi cầu nguyện tất cả những ai đọc sách này sẽ có thể hiểu thấu và tin tưởng năng lực của giác ngộ, và trực nhận bản chất của tâm ; v́ nhận ra bản chất tâm bạn cũng có nghĩa là làm phát sinh một tri kiến sẽ thay đổi toàn bộ thế giới quan của bạn, giúp bạn tự nhiên khám phá và phát triển một ước muốn đầy bi mẫn, mong giúp đỡ tất cả mọi hữu t́nh, đồng thời cũng phát triển được một cái biết về cách giúp đỡ tốt nhất, trong bất cứ t́nh huống nào. Tôi cầu nguyện cho các bạn sẽ thấm được vào tâm khảm chân lư sống động trong lời này của Nyoshul Khenpo :
Một ḷng bi mẫn tự nhiên có thể phát sinh đối với những người chưa nhận ra chân tánh của ḿnh. Ḷng bi mẫn ấy rào rạt bao la đến độ nếu nước mắt có thể bộc lộ được th́ bạn sẽ khóc không bao giờ ngưng. Không những tâm đại bi, mà c̣n phương tiện thiện xảo cũng sẽ phát sinh khi bạn đă trực ngộ bản tâm. Hơn nữa, bạn c̣n tự nhiên giải thoát khỏi mọi khổ đau sợ hăi, như sợ sự sanh ra, sợ cái chết và giai đoạn Trung Ấm. Khi ấy, nếu bạn phải nói lên niềm vui và phúc lạc do sự chứng ngộ mang lại, th́ dù bạn có đem tất cả vinh quang, hưởng thụ, khoái lạc, và hạnh phúc trên đời gom lại, cũng không thể diễn tả được một nhần nhỏ xíu của niềm phúc lạc mà bạn có được khi trực ngộ bản tâm.
Phụng sự thế giới bằng năng lực trí tuệ và từ bi có nghĩa là tham dự một phần tích cực vào việc bảo tŕ hành tinh này. Những bậc thầy thuộc các truyền thống tôn giáo bây giờ đă hiểu rằng tu tập là điều thiết yếu không những chỉ dành cho Tăng Ni, mà cho tất cả mọi người, thuộc mọi tôn giáo, mọi lối sống. Những ǵ tôi cố chứng minh trong sách này là tính vô cùng thiết thực, năng động và hiệu nghiệm của sự phát triển tâm linh. Một lời dạy nổi tiếng của Tây Tạng là : “Khi thế giới đầy những sự ác, th́ mọi tai ương cần phải được chuyển hóa thành con đường giác ngộ”. Mối nguy mà tất cả chúng ta đang vướng phải đă khiến cho việc tu tập trở nên cấp thiết, đến nỗi ta không c̣n xem sự phát triển tâm linh như là một xa xí phẩm, mà như một điều kiện cần thiết để sống c̣n.
Ta hăy tưởng tượng rằng thế giới sẽ như thế nào nếu trong đó có một số lượng đáng kể những người tóm lấy cơ hội mà giáo lư đă chỉ, để dành một phần của đời họ cho việc tu hành nghiêm chỉnh, để trực nhận bản tâm, và do vậy xử dụng cơ hội cái chết của ḿnh để tiến gần hơn tới Phật quả, và tái sanh với một mục đích duy nhất là phụng sự và làm lợi lạc mọi người.
Quyển sách này đang đem lại cho bạn một kỹ thuật thiêng liêng, nhờ đó không những bạn có thể chuyển hóa cuộc đời hiện tại của bạn, chuyển hóa sự hấp hối và cái chết của bạn, mà c̣n chuyển hóa cả những đời sau của bạn, và do đó chuyển hóa cả tương lai nhân loại. Những ǵ mà những bậc thầy tôi và tôi hy vọng khơi nguồn nơi đây, là một bước nhảy tiến tới sự thăng tiến có ư thức của con người. Học cách thế nào để chết cũng là học cách sống ; học cách sống cũng là học làm thế nào để hành động không những trong đời này mà cả trong những đời sắp đến. Thực sự chuyển hóa bản thân và học làm sao để tái sinh như một ứng hóa thân để giúp người khác, chính là giúp đỡ nhân loại bằng cách hữu hiệu nhất.
Tuệ giác đầy bi mẫn của truyền thống chúng tôi và sự đóng góp cao quư nhất của nó cho trí tuệ tâm linh của nhân loại là sự hiểu và hành lư tưởng Bồ-tát, con người nhận lănh hết đau khổ cho mọi hữu t́nh, người khởi hành lên đường giải thoát không những cho một ḿnh ḿnh, mà c̣n để giúp đỡ người khác, người mà cuối cùng, sau khi đạt giải thoát tối hậu, không tan biến vào trong bầu trời tuyệt đối hay trốn khỏi nỗi thống khổ của sinh tử, mà tự nguyện trở lại nhiều lần để hiến ḿnh phụng sự toàn thế giới bằng năng lực từ bi và trí tuệ. Điều mà thế giới cần hơn bất cứ ǵ, đó là những sứ giả tích cực của ḥa b́nh như vậy, những sứ giả “mặc áo giáp nhẫn nhục”, những người sống cho lư tưởng Bồ-tát và sống để gieo rắc trí tuệ vào mọi lĩnh vực kinh nghiệm chúng ta. Chúng ta cần những Bồ-tát luật sư, Bồ-tát nghệ sĩ, Bồ-tát chính trị gia, Bồ-tát bác sĩ, Bồ-tát kỹ sư và chuyên viên, những Bồ-tát ở khắp nơi đang làm việc một cách tận tâm như những kênh truyền của trí tuệ và đại bi ở mọi tầng lớp và hoàn cảnh xă hội, đang hoạt động để chuyển hóa bản thân và người khác, làm việc không mệt mỏi v́ biết chắc có sự nâng đỡ của chư Phật và những bậc giác ngộ, để giữ ǵn thế giới và tiến đến một tương lai khá hơn. Teillard de Chardin nói : “Một ngày kia, sau khi chúng ta đă làm chủ được những cơn gió, những ngọn sóng, thủy triều và lực hấp dẫn… chúng ta sẽ khởi động năng lực của t́nh yêu. Khi ấy, lần thứ hai trong lịch sử loài người, con người sẽ t́m ra ngọn lửa” .
Một trong những hy vọng sâu xa nhất của tôi khi viết sách này là nó sẽ làm một người bạn trung thành cho bất cứ ai chon con đường trở thành một Bồ-tát, một nguồn d́u dắt và cảm hứng cho những người thực sự đối mặt với những thử thách của thời đại, và v́ ḷng bi mẫn mà khởi hành lên đường tuệ giác. Mong sao họ không bao giờ mệt mỏi hay thất vọng, vỡ mộng ; mong cho họ đừng bao giờ hết hy vọng dù có gặp bao nhiêu gian khó, chướng ngại, hăi hùng. Mong sao những chướng ngại ấy chỉ làm tăng thêm quyết tâm nơi họ. Mong sao họ vững ḷng tin ở t́nh yêu và năng lực của các đấng giác ngộ đă và đang gia tŕ cho trái đất bằng hiện diện của các ngài ; mong sao họ noi gương những bậc thầy vĩ đại đă y theo lời di giáo của Phật mà suốt đời nỗ lực tinh tiến để đạt đến toàn thiện. Mong sao cái thế giới mà nhiều bậc thầy huyền học thuộc mọi truyền thống đă tiên đoán, nhờ nỗ lực của tất cả chúng ta mà sẽ thành hiện thực : một thế giới tương lai không c̣n bạo hành, khủng bố, ở đấy nhân loại có thể sống trong hạnh phúc v́ đă trực nhận bản tâm. Tất cả chúng ta hăy cầu nguyện cho được thế giới tốt đẹp ấy, cùng với Shantideva và thánh Francis :
“Hư không c̣n tồn tại,
hữu t́nh c̣n tồn tại,
th́ nguyện của tôi vẫn c̣n.
Đó là cái ước nguyện xóa tan thống khổ của cuộc đời”.
“Xin Cha hăy biến con thành khí cụ ḥa b́nh của ngài.
Nơi nào có thù hận, cho con gieo rắc t́nh yêu.
Nơi nào có tổn thương, mang lại tha thứ.
Nơi nào có hoài nghi, mang lại niềm tin.
Nơi nào tuyệt vọng, mang lại hy vọng.
Nơi nào có bóng tối, mang lại ánh sáng.
Nơi nào có buồn khổ, mang lại niềm vui.
Lạy Cha,
Xin cho con an ủi người khác hơn là được an ủi;
Cho con cảm thông người khác hơn là được cảm thông;
Cho con yêu thương người khác hơn là được yêu thương;
V́ chính trong khi cho, là ta được nhận;
Khi tha thứ, là ta được tha thứ;
Và chính khi chết, là ta sinh vào đời sống vĩnh cửu”.
Xin dâng hiến sách này lên những bậc thầy tôi : với những bậc thầy đă quá văng, mong ước nguyện các ngài được thành tựu ; với những bậc thầy c̣n sinh tiền, mong các ngài trường thọ, công tŕnh thiêng liêng vĩ đại của các ngài sẽ gặp thành công sáng chói, mong sự giảng dạy của các ngài sẽ gợi cảm hứng cho tất cả hữu t́nh. Tôi thiết tha thành khẩn cầu nguyện cho Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche sẽ chóng tái sanh trong một nhập thể đầy năng lực giác ngộ để cứu giúp chúng ta qua những hiểm nguy của thời đại này.
Xin hiến tặng sách này cho tất cả những người đă chết có nhắc tới trong sách : Lama Tseten, Lama Chokden, Samten, Ani Pelu, Ani Rilu và A-pé Dorje. Xin bạn nhớ tới họ mỗi khi cầu nguyện, và nhớ cả những học tṛ của tôi đă chết và đang chết, những người mà ḷng sùng tín và can đảm đă gây cho tôi nhiều cảm khái.
Xin hiến tặng quyển sách này cho tất cả hữu t́nh đang sống, đang chết hay đă chết. Đối với những người vào giờ này đang kinh quá tiến tŕnh chết, mong rằng họ chết được an ổn, không đau đớn hăi sợ. Mong rằng tất cả những người đang sinh ra trong lúc này, và những người đang vật lộn với sự sống, hăy được nuôi dưỡng bằng ân phước chư Phật, mong họ gặp được giáo lư và đi theo con đường trí tuệ. Mong đời họ được hạnh phúc hữu hiệu, thoát khỏi mọi lo buồn. Mong bất cứ ai đọc sách này sẽ rút được nhiều lợi lạc bất tận từ đấy, và mong cho giáo lư trong này chuyển hóa tâm trí họ. Đây là lời cầu nguyện của tôi.
Mong sao mỗi một chúng sanh trong sáu cơi luân hồi cùng đạt đến nền tảng của sự toàn hảo tối sơ!
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 405 of 2534: Đă gửi: 04 July 2008 lúc 11:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÁT TIÊN
Bát Tiên là tám vị Tiên ở tám động đá của núi Bồng Lai trên đảo Bồng Lai nơi cơi Thiêng liêng.
Bát Tiên gồm tám vị Tiên kể tên ra sau đây:
1. Lư Thiết Quày. (Thiết Quày hay Thiết Quải là cây gậy sắt) nhưng thường gọi là Lư Thiết Quả.
2. Hớn Chung Ly.
3. Lữ Động Tân (Động là cái hang núi) nhưng thường gọi là Lữ Đồng Tân.
4. Lam Thể Ḥa.
5. Trương Quả Lăo.
6. Hà Tiên Cô.
7. Hàn Tương Tử.
8. Tào Quốc Cựu.
Sau đây là sự tích của Bát Tiên, viết theo Truyện Đông Du Bát Tiên:
1. LƯ THIẾT QUẢ
Ngài họ Lư, tên là Huyền, hiệu là Ngưng Dương, nên thường gọi là Lư Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tánh hạnh trong sạch, học rộng biết nhiều, không mộ công danh, muốn đi tu Tiên. Biết được Lư Lăo Tử đang dạy Đạo trên núi Họa Sơn, Lư Ngưng Dương liền t́m đến đó để xin học Đạo.
Đi dọc đường, Ông ngâm thơ rằng:
Tâm tánh con người có thấp cao, Khen ḷ Tạo Hóa đúc anh hào. Làm trai biết thấu ṿng vinh nhục, Đặng chữ thanh nhàn khỏi chữ lao.
Khi đến núi Họa sơn th́ Trời đă tối. Lư Ngưng Dương tự nhủ: Ḿnh là đệ tử đi cầu thầy học Đạo, lẽ nào ban đêm dám gơ cửa. Chi bằng ngủ đỡ trên bàn thạch trước cửa động, chờ Trời sáng sẽ xin vào ra mắt.
Ở trong động, Đức Lăo Tử đang đàm đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, xảy có cơn gió thanh, Đức Lăo Tử hỏi:
- Ông có biết gió ấy là điềm chi chăng?
- Chắc có người gần thành Tiên đi tới.
- Ta đă rơ Lư Ngưng Dương gần thành Tiên và là Tiên đứng đầu sổ hết thảy.
Nói rồi, Đức Lăo Tử truyền Tiên đồng ra mở cửa động mà đón. Xảy thấy một Đạo sĩ đang đứng trước động, liền hỏi:
- Có phải Lư Ngưng Dương đó không?
- Sao Tiên đồng lại biết tên tôi?
- Tôi vâng lịnh Lăo Quân ra cửa đón anh.
Lư Ngưng Dương vô cùng mừng rỡ, chắc là ḿnh có phước lớn nên mới được Lăo Quân biết đến, liền đi theo Tiên đồng vào ra mắt, thấy Lăo Quân có hào quang sáng ḷa, dung nhan tươi nhuận, râu tóc bạc phơ, và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cũng vậy.
Lư liền qú lạy ra mắt Lăo Quân và Huyễn Khưu. Hai vị đáp lễ rồi mời ngồi. Lư Ngưng Dương qú thưa rằng: Đệ tử tầm sư học Đạo, lẽ nào dám ngồi. Xin Thầy dạy bảo.
Lăo Tử bảo: Ngươi ngồi xuống rồi ta nói cho nghe:
Học Đạo cho minh, Lẳng lặng làm thinh, Đừng lo đừng rán, Cho tịnh cho thanh, Chẳng nên nhọc sức, Chớ khá tổn tinh, Giữ đặng tánh t́nh, Là thuốc trường sanh.
Lư Ngưng Dương mừng rỡ lạy tạ Lăo Quân.
Huyễn Khưu nói: Ngươi có tên trong Sổ Tiên, đứng đầu hết thảy. Về tu như vậy th́ thành.
Nói rồi truyền Tiên đồng đưa Lư Ngưng Dương ra khỏi động, xuống núi. Lư Ngưng Dương lạy tạ rồi theo Tiên đồng rời khỏi động, trở về quê, lên núi cất nhà bên động đá, tu theo lời Đức Lăo Tử dạy, cứ tu luyện hoài như vậy. Chẳng bao lâu cảm thấy nhẹ ḿnh, bước đi như gió.
Một người dân quê tên là Dương Tử lên núi thấy vậy cũng phát tâm mộ đạo, xin Lư Ngưng Dương thâu làm đệ tử, ở lại tu hành.
Ngày kia, Lư Ngưng Dương thấy hào quang chiếu vào cửa sổ, th́ biết có Thần Tiên giáng hạ, rồi mau sửa soạn lên núi đón tiếp. Xảy nghe tiếng hạc, ngó lên thấy Đức Lăo Tử và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cỡi hạc đáp xuống.
Lư Ngưng Dương lạy chào mừng rỡ.
Đức Lăo Tử nói:
- Bữa nay tinh thần hơn trước. Ta nhắm ngươi xuất hồn đặng. Vậy mười ngày ngày nữa, ngươi xuất hồn đi dạo các nước với ta.
Nói rồi liền từ giă, và hai vị cỡi hạc bay trở về núi.
Cách chín ngày sau, Lư Ngưng Dương kêu học tṛ là Dương Tử đến dặn rằng: Thầy sẽ xuất hồn đi thiếp bảy ngày ngươi phải ǵn giữ xác ta cẩn thận. Nếu sau bảy ngày mà ta không trở về th́ hăy thiêu xác.
Dặn ḍ xong, Lư Ngưng Dương nằm thiếp xuất hồn đi.
Khi Dương Tử giữ xác thầy được sáu ngày th́ người nhà đến báo tin rằng: Mẹ anh bịnh nặng, đang hấp hối, trông anh mau về cho mẹ thấy mặt mà tắt hơi. Dương Tử khóc lớn than rằng: Thầy đi thiếp chưa về, nếu ta đi, lấy ai giữ xác thầy, bằng không đi th́ làm sao thấy mặt mẹ, ôi khổ biết chừng nào!
Người nhà liền hỏi rơ Dương Tử về sự đi thiếp của thầy, rồi nói:
"Xác người chết đă sáu ngày, ngũ tạng thảy đều hư hết, lẽ nào sống lại bao giờ. Vả lại, thầy có dặn bảy ngày th́ thiêu xác, chắc thầy đă thành Tiên. Nay sáu ngày mà thiêu xác thầy cũng không lỗi. Mau thiêu xác thầy rồi về gặp mặt mẹ."
Dương Tử bần dùng không nỡ, nhưng túng thế cũng phải nghe lời, liền đặt nhang đèn, hoa quả tế thầy, rồi thiêu xác. Vừa khóc vừa đọc bài kệ sau đây:
Mẹ bịnh ngặt hầu kề, Thầy đi thiếp chưa về, Mẫu thân t́nh một thuở, Sư phụ nghĩa nhiều bề, Vẹn thảo nên quyền biến, Lỗi ngh́ luống ủ ê, Hồn linh xin chứng chiếu, Khoái lạc chốn non huê.
Thiêu xác thầy xong, Dương Tử liền gấp rút chạy về nhà, vừa đến cửa nhà th́ mẹ vừa tắt thở. Rủi ơi là rủi! Lỗi hết hai đàng, đă bất nghĩa với thầy, lại không tṛn hiếu sự.
Nhắc lại, Lư Ngưng Dương, hồn xuất về chầu Đức Lăo Tử, được thầy dẫn đi khắp các nước trên cơi thiêng liêng, đến núi Bồng Lai, gặp các Thánh Tiên, ra mắt đủ mặt, đến bảy ngày th́ xin về. Đức Lăo Tử cười nói rằng:
Hăy nghe bài kệ nầy th́ rơ:
Tịch cốc ăn lúa ḿ, Đường quen xe phơi phới, Muốn t́m cốt cách xưa, Lại gặp mặt mày mới.
Lư Ngưng Dương nghe bài kệ của thầy th́ ghi nhớ chớ không hiểu ngụ ư ǵ, nhưng cũng lạy thầy từ tạ ra về. Khi hồn về tới nhà th́ không thấy xác, không thấy học tṛ, coi lại th́ xác đă ra tro bụi.
Lư Ngưng Dương rất giận đứa học tṛ bất nghĩa nầy. Hồn bay phưởng phất xuống chân núi, gặp một thây ăn mày nằm dựa bên đường, kế bên cây gậy, có một chân cùi.
Lư Ngưng Dương nghĩ lại bài kệ của thầy cho, chợt hiểu, biết phận ḿnh phải vậy chớ không nên oán trách học tṛ, liền nhập hồn vào xác ăn mày, rồi ngậm nước phun vào gậy tre hóa ra gậy sắt. Bởi cớ đó, người đời không biết họ tên ông ăn mày này, thấy cầm cây gậy sắt, nên gọi là Ông Thiết Quày, sau gọi trại ra là Thiết Quả.
Sở dĩ Đức Lăo Tử không cho hồn Lư Ngưng Dương về kịp trước khi học tṛ thiêu xác là v́ Đức Lăo Tử muốn Lư Ngưng Dương bỏ xác phàm cho tuyệt sự hồng trần mà về luôn nơi Tiên cảnh, c̣n xác ăn mày là mượn tạm để tu, chớ muốn biến hóa thế nào cũng được.
Thiết Quả đánh tay biết rơ các việc đă xảy ra với đứa học tṛ ḿnh là Dương Tử. Thiết Quả liền đem linh dược đến cứu tử mẹ nó, kẻo đứa học tṛ tức tối ân hận cả đời tội nghiệp. Đến nơi thấy Dương Tử đang ôm quan tài mẹ khóc ngất, rồi rút gươm ra định tự vận. Thiết Quả kịp đến ngăn cản và nói:
- Ngươi có ḷng thành nên Trời khiến ta đến đây đem linh dược cứu tử mẹ ngươi. Vậy ngươi mau giở nắp quan tài ra, cạy miệng mẹ ngươi ra mà đổ thuốc.
Nói rồi lấy ra một hoàn thuốc đưa cho Dương Tử. Dương Tử làm y lời, giây lát, bà mẹ hắt hơi lấy lại hơi thở, rồi ngồi dậy bước ra khỏi quan tài, xem có vẻ mạnh khỏe hơn trước. Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Dương Tử quỳ lạy Thiết Quả, thưa rằng:
- Cảm tạ Tiên ông, xin Tiên ông cho biết danh hiệu.
- Ta đây là Lư Ngưng Dương, là thầy của ngươi. Bởi ngươi thiêu xác ta nên hồn ta phải nhập vào xác ăn mày này. Biết rơ việc làm của ngươi, nên ta không chấp, lại đến cứu tử mẹ ngươi để ngươi nuôi mẹ phỉ t́nh. Ta tặng thêm cho ngươi một hoàn thuốc nữa để ngươi uống vào sống lâu nuôi mẹ. Thầy tṛ sẽ gặp lại sau nầy.
Dương Tử cúi đầu lạy tạ thầy, chưa kịp hỏi thăm th́ Thiết Quả đă biến mất.
Thiết Quả biến hóa về núi Họa sơn, hầu thầy. Đức Lăo Tử cười nói:
- Vậy mới chắc thành Tiên, không lo trở lại trần thế.
Nói rồi truyền dọn tiệc ăn mừng Thiết Quả.
2. HỚN CHUNG LY
Hớn Chung Ly, họ là Chung Ly đời nhà Hớn (Hán), tên là Quyền, hiệu là Vân Pḥng, làm Đại Tướng trong triều đ́nh nhà Hớn.
Khi mới sanh, Chung Ly Quyền có điềm khác lạ, trên nóc nhà hào quang sáng đỏ, ai nấy đều kinh, lớn lên thành một vị tướng quân, vơ nghệ như thần, oai danh quá cọp.
Khi ấy triều đ́nh nhà Hớn nhận được sớ khẩn cấp của tướng trấn ải báo có binh Phiên do Bất Dực thống lănh đánh vào ải rất nguy kịch, xin triều đ́nh cử binh cứu viện.
Xem xong, Hớn Đế rất kinh hăi, liền hạ chiếu sai Đại Tướng Chung Ly Quyền làm Nguyên soái, Phùng Dị làm Phó Tướng, kéo đại binh năm mươi vạn gấp rút đi ra quan ải cứu viện.
Nguyên Soái Chung Ly tế cờ, hiểu dụ tướng sĩ xong th́ kéo quân đi ngay tới ải Kỳ Thủy đóng trại. Rạng ngày hôm sau, hai bên ra trận. Bất Dực đánh không thắng nổi Chung Ly, quân Phiên bại trận chạy dài. Tin chiến thắng liên tiếp báo về triều đ́nh, danh tiếng Nguyên soái Hớn Chung Ly vang dậy.
Lúc đó, Lư Thiết Quả đang ở Cung Tiên, đánh tay biết Hớn Chung Ly đă thắng quân Phiên nhiều trận, uy danh lừng lẫy, và lại biết kiếp trước của Hớn Chung Ly là Tiên coi sổ bộ ở Thượng giới, phạm tội bị đọa trần, nay mê việc chiến tranh mà không lo tu hành, biết chừng nào trở về ngôi vị cũ.
Lư Thiết Quả muốn độ Chung Ly, nhưng nếu để Chung Ly thắng trận hoài, triều đ́nh sẽ gia phong quan tước, th́ bị mê đắm trong ṿng phú quư vinh hoa, nên Thiết Quả định làm cho Chung Ly bại trận th́ mới độ được. Tính rồi liền hóa ra một Ông già bay xuống dinh Phiên của Bất Dực.
Lúc bấy giờ Bất Dực đang ngồi trong dinh, thở vắn than dài, không t́m được kế chi để đánh binh Hớn. Xảy thấy quân vào báo: Có một ông già cốt cách Thần Tiên xin vào ra mắt.
Bất Dực lấy làm lạ, liền cho mời vào, hỏi:
- Lăo trượng đến tôi có việc ǵ?
- Tôi đến đây bày cho Tướng quân kế thắng binh Hớn. Đêm nay tôi biết bên dinh Hớn có hỏa hoạn lớn, Tướng quân thừa dịp nầy kéo quân vào cướp dinh th́ chắc thắng mười phần.
Ông già nói xong liền từ giă đi mất.
Bất Đực, ḷng bán tín bán nghi, sợ lầm kế của Nguyên soái Chung Ly, nhưng cũng truyền lịnh chuẩn bị canh hai đến cướp dinh Hớn. Nếu thấy dinh Hớn bị hỏa hoạn như lời của ông già th́ sẽ tràn quân đánh vào, bằng không th́ rút binh về.
Bên dinh Hớn, tuy vừa mới thắng quân Phiên, nhưng cũng không dám kiêu, cắt đặt canh pḥng ban đêm rất cẩn mật v́ sợ cướp dinh.
Khoảng giữa canh ba, Lư Thiết Quả hóa phép đốt dinh Hớn, ngọn lửa cháy lan rất mạnh, binh lính không dập tắt nổi.
Bất Dực thấy đúng thời cơ, liền kéo đại binh đánh vào. Chung Ly Nguyên soái cầm giáo lên ngựa đánh với Bất Dực, thấy binh Hớn hoảng sợ chạy hết th́ cả kinh, quày ngựa bại tẩu. Bất Dực muốn bắt sống Chung Ly nên buông tên nhắm vào con ngựa của Chung Ly đang cỡi, làm ngựa trúng tên té nhào, may Phó tướng Phùng Dị chạy đến tiếp cứu, bắt một con ngựa khác đưa cho Nguyên soái. Hai người bại tẩu, ngó lại dinh Hớn bị lửa thiêu rụi, binh Hớn bỏ chạy tán loạn. Nguyên soái tức quá té nhào xuống ngựa chết giấc. Khi tỉnh lại than rằng:
- Ta làm Đại Tướng vâng chỉ đánh Phiên, ngỡ là cứu nước rạng danh, nào hay Trời khiến ta thảm bại thế nầy, chẳng những mắc tội với vua, lại c̣n hổ mặt với triều thần, thiệt là Trời muốn giết ta, ta c̣n sống làm chi nữa.
Than rồi, Hớn Chung Ly toan rút gươm tự vận. Phùng Dị cứ măi khuyên can. Xảy thấy binh Phiên kéo đến truy nă. Phùng Dị cản hậu, Hớn Chung Ly chạy trước. Chạy tới sáng th́ lạc mất, Hớn Chung Ly đến một nơi không có nhà cửa dân chúng, phía trước là núi, vừa đói vừa khát, tiến thoái lưỡng nan. Xảy thấy một ông săi mắt xanh chống gậy đi tới. Chung Ly mừng rỡ bước đến thưa rằng:
- Tôi là Hớn Nguyên soái Chung Ly Quyền đem quân đi đánh Bắc Phiên, bị bại trận nên chạy lạc tới đây, xin thầy chỉ nhà cho tôi tá túc để trở về triều đ́nh xin binh cứu viện.
Ông săi gật đầu, dắt Chung Ly chỉ một cái am, nói rằng
- Đây là chỗ ở của Đông Huê Chơn nhơn, tướng quân vào đó mà tạm nghỉ.
Nói rồi đi thẳng như bay. Hớn Chung Ly đi đến am, nh́n thấy cảnh vật xinh tươi yên tĩnh, phải chỗ của Thần Tiên, đến trước cửa am, định gơ cửa th́ nghe có tiếng ngâm thơ từ trong am vọng ra:
Việc thế chẳng đua tranh, Thanh nhàn lánh lợi danh, Thân nương theo động đá, T́nh gởi tại mây xanh. Chơi dạo say mùi đạo, Thong dong dưỡng tánh lành, Hỏi ai là bạn tác? Gió mát với trăng thanh.
Lư Thiết Quả sắp đặt trước, giả làm săi mắt xanh dẫn Hớn Chung Ly đến cho Đông Huê Chơn Nhơn dạy đạo. Hớn Chung Ly nghe tiếng ngâm thơ vừa dứt th́ có một ông Lăo cốt cách Thần Tiên, chống gậy bước ra hỏi:
- Có phải Chung Ly Quyền Nguyên soái đó chăng?
Hớn Chung Ly kinh hăi thưa:
- Phải, tôi vâng chỉ đi đánh Phiên, chẳng may thất trận chạy lạc đến đây, xin Thượng Tiên từ bi cho tôi tá túc.
Đông Huê Chơn Nhơn mời vào am đăi cơm chay, nói:
- Công danh như bọt nước, phú quư như ngọn đèn trước gió. Từ xưa đến nay, giang sơn nhiều chủ, phước thọ ít người. Bần đạo chán cảnh đời đau khổ, t́m nơi u nhă, sống thanh nhàn, thoát ṿng lợi danh trần tục. Tướng quân cũng nên thừa dịp nầy mà tu tâm dưỡng tánh, c̣n ham công danh phú quư làm chi. Chung Ly Nguyên soái lắng nghe liền tỉnh ngộ, muốn theo học đạo, hỏi:
- Tiên ông luyện phép chi mà đặng trường sanh?
- Phép trường sanh có ǵ lạ đâu, ḷng phải trống mà bụng phải đặc. Ḷng trống là không lo lắng, để cho thơ thới như không; bụng đặc là không theo sắc dục, nguơn khí chẳng hao, được như vậy th́ thành Tiên, trường sanh bất tử.
Hớn Chung Ly nghe vậy th́ mừng rỡ thưa rằng:
- Nhờ Tiên ông chỉ dạy, tôi xin lạy để làm học tṛ. Xin thầy cho biết tôn hiệu.
- Ta là đạo sĩ thời thượng cổ, nay đă thành Tiên, hiệu là Đông Huê.
Nói rồi truyền cho Hớn Chung Ly phép tu luyện và dạy luôn cho Chung Ly phép chỉ đá hóa vàng, rồi tặng cho một cây gươm thanh long chém quỷ.
Hôm sau, Hớn Chung Ly lạy thầy xin trở về nhà lo thu xếp việc nhà. Đông Huê Chơn Nhơn chỉ đường về nhà. Khi Chung Ly ngó lại th́ thấy thầy và nhà cửa đều biến mất, suy nghĩ biết là Tiên ông biến hóa để độ ḿnh. Chung Ly Quyền tự đặt hiệu cho ḿnh là Vân Pḥng, rồi cải trang đi riết về nhà đặng thăm gia quyến.
Gia đ́nh Chung Ly Nguyên soái hay tin thất trận và mất tích, tin tưởng là đă chết nên cả nhà than khóc để tang. Nay lại thấy Chung Ly cải trang trở về th́ thất kinh mừng rỡ, hỏi thăm cớ sự. Chung Ly thuật lại đủ hết. Gia quyến mừng rỡ nói rằng: Khi mới sanh ra có điềm lành, chẳng lẽ lại thác về nghiệp dữ.
Chung Ly Quyền không dám ở nhà lâu, sợ vua hay tin bắt tội, liền ăn mặc theo Đạo sĩ, từ giă gia quyến để đi tu, lại đến thăm anh ruột là Chung Ly Giảng, đang làm chức Lang Trung. Chung Ly Giảng ham mộ đạo đức đă lâu, nay nghe em nói, mừng rỡ bội phần, liền sắp xếp hành trang, cùng em trốn lên non tu luyện. Hai người nhắm núi Họa sơn đi tới. Dọc đường, thấy con c̣ trắng đang ngóng cổ, Vân Pḥng nói:
- Con c̣ cổ dài, le le cổ ngắn, không thể nào cắt bớt mà can bổ cho bằng. Việc đời cũng vậy, kẻ ưa danh lợi, người mến thanh nhàn.
Nhờ có gươm phép của thầy trao tặng, Vân Pḥng giết được cọp tinh đang phá hại dân làng, lại thấy dân quá nghèo khổ, nên dùng phép chỉ đá hóa vàng, lấy vàng phát cho dân.
Ngày kia, Đông Huê Chơn Nhơn t́m đến để dạy đạo thêm, truyền thêm phép tu luyện cho hai người.
Chung Ly Vân Pḥng đi dạo chơi đến núi Tứ Hạo, th́nh ĺnh một tiếng sấm nổ vang, núi nứt ra một cái khe. Vân Pḥng thấy lạ, liền tiến vào khe, gặp một cái hộp đá có một cuốn kinh, liền lấy kinh đem ra ngoài xem th́ khe núi biến mất, vách núi liền lại như cũ. Vân Pḥng thầm biết là Thần Tiên đă ban kinh cho ḿnh tu luyện, nên càng cố công. Chẳng bao lâu th́ đạt đến mức cao siêu.
Bỗng nghe tiếng nhạc vang Trời, nh́n lên thấy mây lành năm sắc, Tiên hạc bay xuống đáp trước mặt Vân Pḥng, nói tiếng người rằng: "Thượng Đế sai tôi xuống rước Vân Pḥng trở về phục chức cũ ở Thượng giới,"
Vân Pḥng liền đưa sách lại cho anh, dặn ḍ và giă từ, cỡi hạc lên Trời. Chung Ly Giảng ở lại tu theo sách đó, lâu ngày cũng thành Tiên, được Vân Pḥng cỡi hạc xuống rước.
3. LỮ ĐỒNG TÂN
Lữ Đồng Tân, con của Thứ Sử Hải Châu, sanh ngày 14 tháng 4. Khi bà mẹ mới sanh Ông th́ trong pḥng mùi hương thơm phức, có hạc trắng bay vào pḥng rồi biến mất. Ấy là Huê Dương Chơn Nhơn đầu thai xuống trần làm Lữ Đồng Tân.
Lữ Đồng Tân lớn lên, mắt phụng mày ngài, tay dài, cổ cao, mũi thẳng, xương g̣ má cao, chơn mày bên tả có nốt ruồi, dưới bàn chơn có chỉ như lưng qui, ḿnh cao 8 thước 2, tánh ưa bịt khăn huê dương (bao đảnh xanh), mặc áo đạo sĩ.
Khi ấy có thầy coi tướng Măn Tổ đến coi đoán rằng: "Người trẻ nầy tướng khác phàm tục, sau gặp chữ Lư th́ đắc thời, gặp chữ Chung th́ thành đạo."
Mọi người trong nhà đều nghe nhưng không hiểu ǵ.
Năm 20 tuổi, Lữ Đồng Tân xưng hiệu là Thuần Dương, nên gọi là Lữ Thuần Dương, đi thi đỗ Tú Tài, tiếp theo đỗ luôn Cử Nhân, nhưng khi thi Tiến Sĩ th́ rớt. Khi đến núi Lư sơn, gặp Huỳnh Long Chơn Nhơn dạy cho phép tu luyện và tặng cho một thanh gươm chém được yêu quái.
Ngày kia, Lữ Đồng Tân đến chợ Trường An, huyện Hàm Đan, vào quán rượu, gặp một đạo sĩ mặc áo trắng đang đề thơ trên vách ba bài thi như sau:
Ngồi đứng hằng mang rượu một bầu, Chẳng cho cặp mắt thấy Hoàng Châu. Dạo chơi ít kẻ tường tên họ, Trên thế thanh nhàn muốn được đâu?
Thần Tiên t́m bạn khó không nài, Có phước theo ta dễ mấy ai? Đông Hải rơ ràng nhiều động đá, Ít người được thấy núi Bồng Lai.
Dạo chơi theo thuở, ở theo thời, Danh lợi làm chi mắc nợ đời. Nằm nghĩ co tay hằng đếm măi, Mấy ai ao ước được như lời.
Lữ Đồng Tân thấy đạo sĩ cốt cách Thần Tiên, đề thơ thanh thoát th́ cảm phục lắm, liền đến làm quen, chắp tay chào hỏi và xin Đạo sĩ cho biết họ tên. Đạo sĩ mời ngồi, rồi nói rằng:
- Ông hăy làm một bài thơ cho ta biết ư trước đă.
Lữ Đồng Tân liền đọc:
Cân đai ràng buộc ư không màng, Áo vải coi ra rất nhẹ nhàng. Danh lợi cuộc đời chưa phỉ nguyện, Làm tôi Thượng Đế mới nên trang.
Đạo sĩ nói:
- Ta là Chung Ly Vân Pḥng, tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không?
Đồng Tân có vẻ lưỡng lự. Vân Pḥng biết họ Lữ c̣n muốn đi thi Tiến Sĩ để trổ danh với đời, nên ư c̣n dùng dằng.
Vân Pḥng muốn độ Lữ Đồng Tân nên ngồi nấu một nồi huỳnh lương, tức là nồi bắp vàng. Trong lúc chờ cho nồi bắp chín, Vân Pḥng đưa cho Lữ Đồng Tân một cái gối, bảo nằm xuống nghỉ, c̣n ḿnh th́ tiếp tục chụm củi đun nồi bắp.
Đồng Tân nằm xuống, kê đầu lên gối, giây lát chiêm bao thấy ḿnh vác lều chơng đi thi, ngang qua nhà giàu nọ, gặp người con gái rất đẹp th́ ướm lời. Nàng nói rằng: Nếu chàng thi đậu Trạng Nguyên th́ thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp.
Lữ Đồng Tân vào khoa thi đỗ Trạng, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp, được vua bổ làm quan Gián Nghị, lần lần thăng lên. Sau bốn mươi năm năm được vua phong tới chức Thừa Tướng, con cái đông đảo, sui gia cũng bực quan lớn, lại có cháu nội cháu ngoại. Thật là vinh sang phú quư tột bực.
Chẳng may, sau đó bị gian thần hăm hại, vu oan giá họa, vua tin lời, bắt tội, truyền tịch thâu gia sản, đày qua núi Lănh Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt ḿnh thức dậy.
Vân Pḥng ngồi kế bên cười lớn, ngâm câu thơ:
Nồi bắp hăy c̣n ng̣i, Chiêm bao đà thấy cháu.
Lữ Đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng:
- Thầy biết sự chiêm bao của tôi sao?
- Chiêm bao năm mươi năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường. (Do sự tích nầy mà người ta nói: Giấc Huỳnh lương, Giấc kê vàng, Giấc Hàm Đan, là để chỉ giấc mộng của Lữ Đồng Tân, xem vinh hoa phú quí là phù du mộng ảo). Đồng Tân nghe Vân Pḥng nói vậy, liền tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ thấy chán ngán cuộc đời, cầu xin Vân Pḥng truyền đạo.
Vân Pḥng nói:
- Việc nhà hăy chưa an, đời sau tu cũng không muộn. Nói rồi liền bỏ đi. Lữ Đồng Tân trở về nhà, bỏ việc công danh, lo tu tâm dưỡng tánh. Trong thời gian đó, Chung Ly Vân Pḥng lần lượt bày ra mười điều để thử tâm chí của Lữ Đồng Tân. Vân Pḥng rất hài ḷng về người đệ tử nầy, nói:
- Ta đă thử mười điều, khen ngươi bền chí, đáng được truyền đạo trường sanh. Song ngươi chưa có công quả bao nhiêu, nên ta rước gấp chưa được. Nay ta dạy ngươi phép chỉ đá hóa vàng, ngươi cứu đời cho có công quả, rồi ta sẽ rước ngươi về Thượng giới.
Lữ Đồng Tân thưa rằng:
- Vàng ấy chừng bao lâu mới phai?
- Cách 3000 năm mới trổ.
Lữ Đồng Tân châu mày thưa rằng:
- Như vậy th́ cứu người nghèo bây giờ mà lại làm hại những kẻ 3000 năm sau nhiều lắm, thiệt tôi chẳng nỡ.
Vân Pḥng khen:
- Ḷng ngươi nhơn đức mười phần, truyền đạo bây giờ cũng đặng.
Nói rồi dắt Lữ Đồng Tân về núi Triều Hạc, và sau đó truyền hết các phép tu luyện cho Lữ.
Một ngày nọ, Vân Pḥng gọi Lữ Đồng Tân nói:
- Ta sắp lên chầu Thượng Đế, sẽ tâu xin đem tên ngươi vào sổ Tiên. Cách mười năm nữa, đến gặp ta tại Động Đ́nh Hồ.
Xảy có một vị Tiên cỡi hạc bay đến nói:
- Có chiếu chỉ của Đức Thượng Đế phong Vân Pḥng làm chức Kim Khuyết Thượng Tiên. Hăy mau lên lănh sắc.
Vân Pḥng liền từ giă Lữ Đồng Tân rồi bay lên mây. Lữ Đồng Tân vẫn ở núi Triều Hạc để tu và lập công quả.
Ngày nọ, Lữ Đồng Tân đến sông Giang Hoài, được biết có một con giao thành tinh, phá hại dân chúng. Đă có nhiều đạo sĩ đến trị nó không nổi. Lữ Đồng Tân biết ḿnh có gươm phép của Huỳnh Long Chơn Nhơn ban cho, chắc trừ nó đặng, nên nói với quan Phủ để ḿnh lănh cho.
Nói rồi, rút gươm phép ra, miệng niệm Thần chú, phóng gươm xuống sông Giang Hoài, giây phút thấy nước sông nổi sóng, máu tươi vọt lên thắm đỏ ḍng sông, con giao long bị chém đứt họng nổi lên. Gươm linh nầy chém xong lại trở vô vỏ. Quan Phủ rất mừng, tặng cho Lữ vàng bạc để đền ơn, nhưng họ Lữ không nhận.
Lữ Đồng Tân đi qua Châu Nhạc Dương, bố thí thuốc chữa bịnh, và t́m người lành độ dẫn tu hành. Kế tới ngày hẹn với Chung Ly, Lữ Đồng Tân sắp đặt để đi đến Động Đ́nh Hồ đón Vân Pḥng và cùng Vân Pḥng đi độ Hàn Tương Tử.
4. LAM THỂ H̉A
Lam Thể Ḥa là Xích Cước Đại Tiên đầu thai xuống trần, nên c̣n nhớ tánh cũ, thường mặc áo rộng xanh, buộc dây lưng đen, một chân đi đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo chiếc mà không biết lạnh, thật lạ lùng.
Thường ngày, Ông Lam Thể Ḥa hay cầm cặp sanh dài ba thước (thước Tàu), đi ra ngoài chợ, vừa ca vừa nhịp, để xin tiền bố thí. Những bài ca do Ông tự đặt ra đều có ư khuyên đời bỏ dữ theo lành. Tiền xin được, Ông cột vào dây lưng, vừa đi vừa ca, khi tiền rớt cũng không thèm ngó lại, khi lại dùng tiền nầy bố thí lại cho người nghèo khổ.
Những trẻ nhỏ có dịp thấy Ông Lam Thể Ḥa, đến chừng lớp trẻ nầy lớn lên rồi già (tức là 60 hay 70 năm sau) th́ vẫn gặp ông Lam giống y như thuở trước, vẫn ăn mặc như trước, vừa đi vừa ca vừa nhịp, không già như người thường.
Về sau, Lam Thể Ḥa gặp Lư Thiết Quả, hai người đàm đạo trên lầu ở quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang Trời, đôi chim hạc từ trên không đáp xuống, rước hai vị Tiên về Thượng giới.
Khi cỡi hạc, Ông Lam bỏ cặp sanh rơi xuống đất, hóa thành ngọc, giây phút biến mất.
Trong Bát Tiên, Lam Thể Ḥa có tánh thuần hậu nhứt.
5. TRƯƠNG QUẢ LĂO
Trương Quả Lăo gốc là một con dơi trắng hồi tạo Thiên lập Địa, tu luyện lâu năm, hóa h́nh người, sau đến núi Trung Điều ở Hàng Châu, học đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, làm bạn với Lư Thiết Quả.
Các ông già bà lăo thuật chuyện về Trương Quả Lăo:
Khi các ông bà ấy c̣n con nít, th́ đă biết và gặp Ông Trương, thường thấy Ông cỡi con lừa trắng đi dạo khắp nơi, đặc biệt Ông ngồi ngược chiều, quay mặt ra phía sau. Đến khi đi về tới nơi ở, Ông liền đè bẹp con lừa, biến ra lừa giấy, xếp cất vào khăn. Khi muốn đi chơi, Ông lấy lừa giấy ra, phun nước vào th́ hiện ra con lừa trắng để Ông cỡi đi chơi. Khi các ông bà ấy già, vẫn gặp lại Ông Trương giống y như trước, không già hơn chút nào, thật là Ông đă đạt được phép trường sanh bất lăo.
Đến đời vua Đường Thái Tông, vua cho triệu Ông vào triều, nhưng Ông không chịu đến.
Qua đời Vơ Hậu, Bà cũng biết tiếng Ông Trương, nên cũng cho sứ giả đến triệu vào triều. Ông Trương đi được nửa đường th́ chết, giây lát thây thúi hóa ṿi, sứ giả phải bỏ thây lại đó mà về triều tâu lại cho Vơ Hậu rơ.
Nhưng sau đó, người ta vẫn gặp Ông Trương cỡi lừa trắng đi dạo như thường.
Đến đời Đường Minh Hoàng, vua sai quan là Bùi Ngộ đem chiếu đến rước ông Trương, ông Trương giả chết. Bùi Ngộ thắp nhang cầu khẩn, ông Trương từ từ sống lại, nhưng không chịu đi. Bùi Ngộ không dám ép, đành trở về triều tâu lại.
Đường Minh Hoàng lại sai hai sứ giả nữa là Dự Thông và Lư Trang Huyền, đem sắc chỉ đến rước nữa. Ông Trương thấy vua có ḷng trọng vọng nên mới chịu tới, được nhà vua và bá quan kính trọng mười phần. Minh Hoàng hỏi Trương Quả Lăo về chuyện Thần Tiên, Ông Trương ngồi làm thinh, nín hơi mấy bữa, không chịu nói.
Ngày kia Minh Hoàng làm tiệc đăi Trương Quả Lăo, Ông từ chối, nói rằng: "Tôi không biết uống rượu, duy có học tṛ tôi nó uống tới một đấu."
Vua Minh Hoàng xin vời tới. Giây phút có một đạo sĩ trẻ chừng mười sáu tuổi từ ngoài bay vào, ra mắt nhà vua.
Trương Quả Lăo nói:
- Nó là đệ tử của tôi, xin đứng hầu Bệ hạ.
Minh Hoàng thưởng cho nó một đấu rượu, nó liền uống hết. Minh Hoàng lại ép uống nữa. Trương Quả Lăo nói:
- Chẳng nên cho nó uống nhiều, nếu quá chén, ắt sanh điều quái gở.
Minh Hoàng cứ ép uống rượu để xem sự thể ra sao.
Giây phút, trên đầu đệ tử hiện ra một cái quả bằng vàng, rồi người đệ tử biến mất, quả bằng vàng ở dưới đất trơ trơ, giở nắp ra thấy rượu đầy quả. Coi lại, đó là quả vàng của vua. Ai nấy đều phục phép Tiên của Trương Quả Lăo.
Vua hỏi Ông Trương bao nhiêu tuổi. Ông Trương đáp:
- Tôi sanh năm Bính Tư đời vua Nghiêu.
Vua Đường lấy làm lạ, v́ thấy Ông Trương tuổi lối 70 hay 80, liền truyền lịnh cho quan coi tướng là H́nh Ḥa Phát coi tuổi Trương Quả Lăo, nhưng coi cũng không ra.
Vua liền sai Sư Dạ Quang là người coi thấu việc quỷ thần, coi cũng không biết tướng tinh của Trương Quả Lăo. Khi ấy có Đạo sĩ Diệp Pháp Thiện, học được phép Tiên, biết việc quỷ thần, rất được Minh Hoàng yêu mến, được Minh Hoàng vời đến hỏi tướng tinh của Trương Quả Lăo.
Diệp Pháp Thiện tâu rằng:
- Nếu Bệ hạ chịu cất măo cổi giày mà xin tội cho tôi với Trương Quả Lăo th́ tôi mới dám nói.
Vua Minh Hoàng v́ tính hiếu kỳ nên ưng chịu.
Diệp Pháp Thiện tâu rằng:
- Trương Quả Lăo cỡi lừa kỳ lắm, ngồi day ngược ngó ra sau, thiệt là con dơi trắng thời thượng cổ.
Nói vừa dứt lời th́ Diệp Pháp Thiện bị sặc máu tươi chết liền tại chỗ. Vua Minh Hoàng kinh hăi, liền cất măo cổi hài như đă hứa, đến gặp Trương Quả Lăo xin tội cho Pháp Thiện. Trương Quả Lăo nói:
- Nó nhiều chuyện lắm, nếu không trị nó th́ lậu cơ Trời.
Minh Hoàng cứ đứng đó năn nỉ hoài, buộc ḷng Trương Quả Lăo phải tha cho Pháp Thiện, đến phun nước vào mặt th́ Pháp Thiện sống lại như thường.
Minh Hoàng sắc phong cho cho Trương Quả Lăo là Thông Huyền Tiên Sinh, lại sai vẽ chơn dung của Ông Trương treo ở lầu Tập Hiền.
Ngày kia, Minh Hoàng đi săn, bắt được con nai tại đất Hàm Dương, truyền làm thịt đăi yến. Ông Trương can rằng:
- Nó là Tiên lộc ngàn năm, chẳng nên giết. Nguyên trước đây, vua Hớn Vơ Đế săn đặng con nai nầy, vua cho đóng đính bài trên gạt bên tả rồi thả cho đi.
Minh Hoàng truyền coi lại th́ trên gạt con nai nầy có đính bài đúng như Ông Trương nói, nhưng chữ trên đính bài đă ṃn. Minh Hoàng hỏi:
- Từ đó đến nay bao nhiêu năm?
Trương Quả Lăo đáp:
- Năm Quư Hợi, Hớn Vơ Đế đào ao Côn Minh, đến nay là năm Giáp Tuất, cộng lại là 852 năm.
Vua truyền quan Thái Sử coi lại th́ y số.
Sau Trương Quả Lăo xin về dưỡng già. Minh Hoàng cầm không được, liền ban tặng cho một chiếc xe, một cây lụa, hai lính hầu, đưa Trương Quả Lăo về Hàng Châu. Ông Trương cho một tên lính hầu về trào, chỉ giữ lại một tên, rồi hai thầy tṛ đi vào núi Thiên Bửu.
Ít lâu sau, Minh Hoàng lại cho triệu Trương Quả Lăo. Ông bèn giả chết, tên lính hầu lo chôn cất tử tế rồi báo về triều. Mấy hôm sau đó, người ta lại thấy Trương Quả Lăo cỡi lừa ngược đi dạo. Tên lính ấy lấy làm lạ, đào mộ của Ông Trương lên xem, chỉ thấy cái ḥm không.
Vua Minh Hoàng hay tin, cho lập một cái miểu tại núi Thiên Bửu để thờ Trương Quả Lăo.
6. HÀ TIÊN CÔ
Hà Tiên Cô, tên thật là Hà Tố Nữ, quê ở Quảng Châu, huyện Tăng Thành. Khi c̣n bé, Hà Tố Nữ có sáu cái xoáy trên đầu, ai cũng cho là kỳ. Hà Tố Nữ ở với mẹ tại khe Vân Mẫu.
Nhằm đời Đường Vơ Hậu, Hà Tố Nữ nằm chiêm bao được Thánh nhơn mách bảo nên ăn bột Vân Mẫu th́ nhẹ ḿnh chẳng thác. Hà Tố Nữ thức dậy, nhớ lại làm y lời. Bà mẹ thấy Tố Nữ đến tuổi trưởng thành nên có ư kén rể. Hà Tố Nữ nhứt định không chịu lấy chồng, chỉ muốn ở vậy nuôi mẹ.
Ngày kia, Tố Nữ đi kiếm bột Vân Mẫu th́ gặp hai Tiên Lư Thiết Quả và Lam Thể Ḥa đang mang giỏ Hoa Lam đi hái bông. Hai vị thấy Hà Tố Nữ gần thành Tiên, liền gọi đến, truyền cho phép tu luyện, và kêu tặng là Hà Tiên Cô.
Vơ Hậu nghe đồn, cho người đến rước Hà Tiên Cô, nhưng dọc đường đi về trào, Hà Tiên Cô biến mất.
Sau quan Thứ Sử họ Cao gặp Hà Tiên Cô ở trên lầu Quảng Châu. Thứ Sử về trào tâu cho Vơ Hậu rơ.
Lư Thiết Quả đến độ cả hai mẹ con Hà Tiên Cô về cảnh Bồng Lai.
7. HÀN TƯƠNG TỬ
Hàn Tương Tử sanh nhằm đời Đường, cháu ruột của Hàn Dũ, kêu Hàn Dũ bằng chú. Thuở nhỏ, Hàn Dũ ép cháu học Nho để tiến thân trên đường làm quan nhưng Hàn Tương Tử không chịu nên nói:
- Chú mộ công danh phú quư, cháu mộ đạo Thần Tiên.
V́ vậy, Hàn Tương Tử thường lo tu tâm dưỡng tánh.
Ngày nọ, Hàn Tương Tử gặp Chung Ly và Lữ Đồng Tân. Ba người dắt lên non hái đào chín. Chung Ly biết Hàn Tương Tử sắp thành Tiên, liền kêu Hàn leo lên cây hái đào chín, nhánh đào găy, Hàn Tương Tử té xuống bỏ xác thành Tiên, theo Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân lên ở núi Bồng Lai.
Hàn Tương Tử có ư muốn độ chú ḿnh là Hàn Dũ. Năm ấy, Trời hạn hán, Hàn Dũ vâng lịnh vua cầu mưa nhưng không linh. Bỗng nghe một đạo sĩ (do Hàn Tương Tử biến hóa ra) rao lên rằng:
- Ai muốn mua mưa tuyết, ta bán cho.
Hàn Dũ liền rước vào yêu cầu đạo sĩ cầu mưa, giây phút mưa xuống ngập đồng, tuyết sa chất ngất. Hàn Dũ nói:
- Không chắc ai đảo vơ mà đặng mưa tuyết nầy. Ta cầu đă nửa ngày rồi, có khi kết quả chậm một chút.
Đạo sĩ nói:
- Mưa tuyết do tôi cầu cao ba thước ba tấc.
Hàn Dũ đo lại, đúng y như lời đạo sĩ, mới tin đạo sĩ là Thần Tiên có phép mầu.
Đến ngày Hàn Dũ ăn lễ sinh nhựt, Hàn Tương Tử đến chúc thọ chú. Hàn Dũ thấy vậy, nửa mừng nửa giận hỏi:
- Bấy lâu nay ngươi theo học đạo Thần Tiên thế nào? Làm một bài thơ nghe thử.
Hàn Tương Tử ngâm rằng:
Đă quyết chí tu tŕ, Thành Tiên chẳng khó chi, Mây xanh hằng cỡi hạc, Động đá cứ ngâm thi. Đặt rượu trong giây phút, Trồng hoa nở tức th́. Lâu dài ngàn tuổi thọ, Điều độ kẻ tương tri.
Hàn Dũ nói:
- Ngươi cướp quyền Tạo Hóa đặng sao? Hăy đặt rượu và trồng hoa xem thử.
Hàn Tương Tử bảo đem một cái ché không, đặt giữa bàn, lấy mâm đậy lại, trong giây phút, rượu ngon đầy ché. Rồi Hàn ra trước sân, đào đất vun đống, tức th́ mọc lên một cây hoa mẫu đơn nở bông rất lớn, giữa bông có hiện ra hàng chữ:
Vân hoành Tần lănh gia hà tại, Tuyết ủng Lam quan mă bất tiền.
Hàn Dũ đọc rồi ngẫm nghĩ măi mà không hiểu ư ǵ, liền hỏi Hàn Tương Tử. Hàn Tương Tử đáp rằng:
- Ngày sau chú sẽ biết, bây giờ không dám lậu Cơ Trời.
Ai nấy trong bàn tiệc đều lấy làm lạ kỳ. Măn tiệc, Hàn Tương Tử từ giă về núi.
Lúc ấy nhằm đời vua Đường Hiến Tông, bên Tây Trúc đem dâng tượng Phật, vua muốn rước vào cung để thờ. Bá quan không ai dám can gián. Hàn Dũ thấy vậy liền dâng sớ can vua:
- Từ Tam Hoàng Ngũ Đế đến vua Vơ vua Thang, vua Văn Vương, chưa có Đạo Phật th́ thiên hạ thái b́nh. Đến đời Hớn, vua Minh Đế đem Đạo Phật vào Trung Nguyên th́ nhà Hớn chẳng lâu dài. Sau qua đời Lương Vơ Đế, vua rước Phật về thờ phượng hết ḷng, nhưng vua bị Hầu Kiển vây khổn, phải chết đói tại Đài Thành, sao Phật không cứu? Như thế chẳng nên tin Phật. Xin Bệ hạ đăi bọn Tây Vức rồi truyền đem tượng Phật ném xuống sông hay quăng vào lửa mà hủy đi kẻo thiên hạ mê lầm.
Đường Hiến Tông xem sớ xong th́ nổi giận, truyền lột chức Hàn Dũ và đày ra Triều Châu tức th́.
Hàn Dũ bị dẫn đi đày, đến một nơi hoang vắng, chẳng có nhà cửa người ở, mây giăng chót núi mịt mù, tuyết rơi bít lối. Chợt thấy phía trước có một đạo sĩ đang quét tuyết dọn đường, nh́n kỹ lại là Hàn Tương Tử. Hàn Dũ mừng rỡ hỏi:
Xứ nầy là chốn nào?
Hàn Tương Tử đáp:
Đây là Ải Lam quan, núi nầy là Tần lănh.
Hàn Dũ nhớ lại hai câu thơ trong hoa mẫu đơn th́ than:
Như vậy, số Trời đă định, chạy sao cho khỏi.
Từ đó, Hàn Dũ mới tin Trời và trọng Đạo. Đêm ấy, chú cháu bàn chuyện đạo đức đến khuya. Rạng ngày, Hàn Tương Tử tặng cho chú một hoàn thuốc, rồi dặn chú:
- Chú uống một hoàn thuốc Tiên nầy th́ khỏi sanh các bịnh. Không bao lâu, ở Triều Châu có sấu nổi lên phá hại, chú đặt văn tế đưa nó phải đi, kế đặng phục chức trở về triều. Sau đó, cháu sẽ về độ chú, truyền cho phép tu luyện.
Nói rồi, Hàn Tương Tử từ giă chú trở về cung Tiên.
8. TÀO QUỐC CỰU
Tại núi Bồng Lai, trong lúc ăn tiệc, uống rượu quỳnh tương, Lư Thiết Quả nói:
- Tại Bồng Lai có 8 động đá, mà anh em ta có bảy người, phải ráng độ thêm một vị nữa. Ta nhắm em của Tào Thái Hậu là Tào Quốc Cựu có khí tượng Thần Tiên, cũng nên độ kẻo uổng.
Hớn Chung Ly thưa rằng:
- Để tôi xuống coi thử, nếu thực vậy th́ tôi lo điều độ. Nói về Tào Quốc Cựu, tên thật là Tào Hữu, em ruột của Tào Thái Hậu, đời vua Tống. Tào Hữu có một người em ruột là Tào Nhị, ỷ thế của anh và chị, lập phe đảng hại dân, sang đoạt tài sản. Tào Hữu rất giận, thường la mắng Tào Nhị, nhưng Tào Nhị vẫn chứng nào tật nấy, lại đem ḷng oán trách.
Tào Hữu thường than rằng: Chứa lành có phước, chứa dữ mang họa. Em ḿnh làm dữ mười phần, lẽ nào không bị hại, tuy qua đặng dương pháp, chớ chạy sao khỏi luật Trời. Nếu tai họa tới th́ ḿnh phải tội liên can, chi bằng nên lánh trước kẻo nhơ danh và mắc nạn.
Suy nghĩ rồi, liền bán hết tài sản, đem tất cả tiền thâu được bố thí cho dân nghèo, rồi mặc áo quần đạo sĩ đi lên núi, t́m chỗ thanh vắng để tu hành. Qua được vài năm th́ Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân t́m đến gặp mặt, hỏi rằng:
- Ông tu luyện ra sao?
- Ḷng mộ đạo Thần Tiên th́ lánh việc trần, chớ tôi không biết phép tu luyện chi hết.
Hai Tiên liền hỏi tiếp:
- Đạo ở đâu mà mộ?
Tào Quốc Cựu chỉ Trời.
- Trời ở đâu?
Tào Quốc Cựu chỉ vào trái tim.
Hớn Chung Ly nói:
- Tâm là Trời, Trời là đạo. Ông đă biết rơ cội rễ, tu chắc thành Tiên.
Nói rồi, liền đưa Tào Quốc Cựu về núi Bồng Lai.
Từ đây về sau, núi Bồng Lai có đủ Bát Tiên ở trong tám động, tiêu diêu nhàn lạc vô cùng. Ngày kia, Hà Tiên Cô nói với bảy Tiên rằng:
- Lẽ thường, Tiên Ông mới thành th́ ra mắt Đông Vương Công, c̣n Tiên Nữ mới thành th́ ra mắt Tây Vương Mẫu. Kỳ trước, sanh nhựt của Đông Vương Công, Tiên Nữ cũng đi chúc thọ. Nay gần đến sanh nhựt của Đức Tây Vương Mẫu, bảy Ông tính đi chúc thọ không?
Hớn Chung Ly và Lam Thể Ḥa đồng nói:
- Tây Vương Mẫu không cai trị chúng ta, song Bà là vị làm đầu Tiên Nữ, các Thần Tiên đều phó hội, lẽ nào chúng ta không đi, ngặt chẳng có vật chi báu để dâng lễ Chúc thọ. Trương Quả Lăo nói:
- Tây Vương Mẫu ở Cung Diêu Tŕ thiếu chi vật báu, chúng ta đặt văn chúc thọ mà khánh hạ th́ hay hơn.
Lư Thiết Quả khen phải. Lữ Đồng Tân nói:
- Văn của chúng ta cũng tầm thường, ước đặng văn của Lăo Quân th́ mới xứng đáng.
Hà Tiên Cô nói:
- Thái Thượng Lăo Quân hậu đăi Lư Tiên Trưởng lắm, nếu Lư Tiên Trưởng cầu Ngài chắc đặng.
Lư Thiết Quả nói:
- Phải, song việc đông người mà đi một ḿnh ta th́ thất lễ. Vậy th́ tám anh em ta cùng đi đến mà cầu Lăo Quân.
Nói rồi, Bát Tiên đồng đằng vân qua Cung Đâu Suất. Đức Lăo Quân tiếp Bát Tiên, mời vào Cung, nói:
- Thuở nay, nhà Nho hay học sách của ta như Đạo Đức Kinh, Kinh Cảm Ứng, song dùng cho thông ư tứ mà làm văn, chớ chẳng bắt chước theo lời dạy bảo. Lại có kẻ kiêu ngạo, chê Phật, chê Lăo, nên ta chẳng đặt sách chi thêm nữa mà dạy đời.
Lư Thiết Quả thấy Lăo Quân có sắc buồn, nhưng cũng rán cầu xin đặt bài chúc thọ Vương Mẫu. Lăo Quân cười nói:
- Ta ít ưa việc ấy, v́ nhiều người làm không đặng mà lại hay chê. Song tám vị cầu ta, ta đặt giúp cho một bài từ cũng đủ.
Lăo Quân nói xong, liền viết một bài, đưa cho Bát Tiên xem thử. Ai nấy đều khen ngợi vô cùng. Bát Tiên từ tạ lui ra, đến cậy Chức Nữ làm trục bằng gấm, dán chữ sáng như sao, rồi đem đi chúc thọ. Bát Tiên đến Hội Bàn Đào chúc thọ Tây Vương Mẫu, thấy các Thần Tiên đến đông lắm. Bát Tiên dâng bức trướng chúc thọ. Tây Vương Mẫu khen văn đặt rất hay.
Sau khi măn tiệc, các Thần Tiên đều về hết, Bát Tiên c̣n lưu lại. Tây Vương Mẫu gọi bốn nàng thị nữ đến bảo rằng:
- Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến, An Phát Trinh, bốn người từ khi ca múa tại Hoa Điện của vua Hớn Vơ Đế đến nay cũng đă khá lâu, bây giờ hăy thổi sáo và đờn ca cho Bát Tiên uống rượu.
Bốn nàng vâng lời. Lam Thể Ḥa khen hay, rót rượu dâng lên Tây Vương Mẫu. Vương Mẫu nói:
- Nghe tiếng Lam Tiên ca hay, nên tŕnh nghề chung vui.
Lam Thể Ḥa vâng lời, lấy cặp sanh ra, vừa nhịp vừa ca. Ai nấy đều khen và cười ngất. Tây Vương Mẫu thưởng cho rượu và đào. Lam Thể Ḥa nói:
- Hàn Tương Tử thổi sáo hay lắm.
Tây Vương Mẫu bảo thử. Hàn Tương Tử vâng lời. Tây Vương Mẫu nghe xong, khen hay, bảo:
- Bản ấy rất hay, An Phát Trinh phải nhớ mà tập.
Tiệc xong, Bát Tiên từ tạ. Tây Vương Mẫu truyền đưa Bát Tiên đến chơn mây.
Bát Tiên thấy sóng biển Đông cao lắm. Đồng Tân nói: - Thuở nay nghe đồn Đông hải mà chưa đến xem phong cảnh thế nào. Sẵn dịp nầy, chúng ta nên xem qua một chuyến.
Lư Thiết Quả nói phải. Trương Quả Lăo can rằng:
- Bữa nay chúngta uống nhiều rượu say rồi, để khi khác.
Hớn Chung Ly nói:
- Sẵn dịp nầy chẳng đi dạo, c̣n đợi dịp nào?
Bát Tiên đồng đi đến mé biển. Lữ Đồng Tân nói:
- Nay đằng vân quá hải, không lấy làm tài, chi bằng mỗi người thả một phép xuống biển, cỡi qua tới mé bên kia mới thiệt thần thông.
Lư Thiết Quả quăng gậy xuống nổi lên mặt nước, rồi nhảy xuống đứng một chân trên gậy.
Hớn Chung Ly ném Phất chủ xuống biển và nhảy xuống đứng trên Phất chủ.
Trương Quả Lăo thả Lừa giấy, Lữ Đồng Tân thả Ống tiêu, Lam Thể Ḥa thả Ngọc bản, Hàn Tương Tử thả giỏ Hoa lam, Tào Quốc Cựu thả Thủ quyển, Hà Tiên Cô thả Bông sen.
Tất cả Bát Tiên đều đứng trên bửu pháp của ḿnh, giống như đứng trên thuyền, đồng vượt qua Đông hải.
Hết
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 406 of 2534: Đă gửi: 05 July 2008 lúc 12:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÁC SĨ GEORGE RITCHIE
CÂU CHUYỆN HỒN L̀A KHỎI XÁC
Trường hợp lạ lùng của bệnh nhân George Ritchie đă chết rồi sống lại. hiện đang là Bác Sĩ Tâm Trí, đă khiến cho các Khoa Học Gia cũng như các nhà Tâm Lư Học đặc biệt chú ư. Câu chuyện có thật này đă được đưa lên màn ảnh với tựa đề Beyond And Back, nó đă làm chấn động dư luận.
Lúc hai mươi tuổi George Ritchie, một sinh viên y khoa với hoài băo trở thành bác sĩ, đă phải gia nhập Quân Đội. Sau này anh đă trở thành vị bác sĩ trẻ tuổi nhất tốt nghiệp tại Đại Học Đường Virginia. Khi chiến tranh chấm dứt cũng là lúc anh tốt nghiệp y khoa và được tuyển chọn gửi đi huấn luyện tại Đại Học Đường Y Khoa Virginia.
Trước hôm đi anh bị sưng phổi nặng nặng. Bệnh t́nh của George Ritchie rất trầm trọng. Sau đó ít lâu th́ ông tắt thở. Người ta đă khám nghiệm và chuyển ông vào nhà xác. Nhưng chỉ trong khoảng chín phút sau ông đă tỉnh lại. Bác Sĩ Donald G. Francy, Y Sĩ Trưởng của Trại Barkeley gọi trường hợp của George Ritchie sống lại, là một trong những sự lạ lùng và ly kỳ nhất chưa từng bao giờ có. Trong một bài đă được kiểm chứng Bác Sĩ Francy viết như sau:
- "Bệnh nhân George Ritchie đă chết hẳn rồi lại sống lại rất mạnh khoẻ là một trường hợp chưa từng có. Điều đáng lưu ư là một người bị bệnh tim, khi tim ngưng đập có thể dùng cách này hay cách khác để làm tim đập lại. Nhưng trường hợp của George Ritchie với bệnh sưng phổi, cơ thể đă bị nhiễm độc, các cơ quan trong người đều bị phá hủy th́ việc làm cho trái tim đập lại không thể thực hiện được. Hơn nữa, George Ritchie đă chết ít nhất là chín phút, th́ bộ năo hư hỏng không thể toàn vẹn được".
Ritchie kể:
- "Lúc được chuyển sang nhà xác, cảm thấy tinh thần rất tỉnh táo. Lúc này khoảng nửa đêm. Ư nghĩ đầu tiên của anh là phải đi chuyến xe buưt sáng sớm để tới Trường Y Khoa tại Richmond để kịp dự lễ khai giảng khóa mới. Nhưng lạ lùng thay! Quần áo của anh đâu rồi? Anh t́m khắp nơi trong pḥng. À! có lẽ ở dưới giường chăng?
Tôi đi ṿng quanh rồi lạnh cứng. Có người nào đó đang nằm trên giường tôi ḱa! Tôi lại gần đó là một người đàn ông c̣n trẻ, tóc mầu nâu cắt ngắn nằm ngay đơ. Nhưng... không thể như thế được! Chính tôi vừa ra khỏi cái giường này mà. Tôi thắc mắc khó hiểu sự kỳ lạ này. Thật là quá lạ lùng nghĩ đến việc này nhưng không c̣n th́ giờ nữa.
Anh đi t́m người phụ trách để lấy lại quần áo. Ritchie trông thấy một trung sĩ đang đi ngoài hành lang, anh chận lại và yêu cầu ông ta giúp đỡ. Nhưng người này không thấy anh và cũng không nghe thấy anh nói cứ tiếp tục đi thẳng, khiến anh phải tránh ra nhường lối cho ông ta đi. Nóng ḷng tới Trường Đại Học, Ritchie ra khỏi bệnh viện rồi bay theo hướng bắc về Richmond với một tốc độ nhanh chóng. Anh phân vân không biết đi có đúng đường không.
Một con sông rộng ở dưới tôi. Tôi thấy có một cái cầu dài, cao và tít đằng xa bên kia sông có một thành phố lớn mà tôi chưa bao giờ đến cả. Tôi muốn đáp xuống kiếm người hỏi thăm. Tôi từ từ ngưng lại, ngay dưới tôi có hai con đường chập lại làm một và tôi bị cuốn hút bởi một luồng ánh sáng xanh chiếu ra từ một bảng hiệu gắn đèn nê-ông của một ṭa nhà có mái ngói đỏ. Tấm bảng hiệu "Past Blue Ribbon Beer" treo ngay trên cửa sổ và trước nhà bảng hiệu "Cafe" lơ lửng trên cửa ra vào...
Trên con đường nhỏ dẫn vào quán Cafe bán đêm này, có một người đang rảo bước. Tôi bèn xuống đi bên cạnh và hỏi:
- Làm ơn cho tôi biết đây là thành phố nào?
Ông ta vẫn tiếp tục đi thẳng... Chúng tôi tới quán Cafe. Ông ta xoay tay nắm cửa bước vào. Có lẽ ông ta bị điếc hẳn? Tôi lấy tay trái đập lên vai của ông ta. Không có ǵ cả mà h́nh như tay tôi vừa để vào khoảng không. Rơ ràng tôi thấy ông ta mà, tôi c̣n nhận ra ông ta có một cḥm râu đen ở cầm cần phải cạo đi nữa".
Mọi suy nghĩ Ritchie tựa hẳn vào một người đàn ông đang mắc dây điện thoại ở kế bên và đi xuyên qua. Trước khi đi đến phần kế tiếp, chúng tôi thấy cần phải báo cáo là, một năm sau đó bất ngờ Ritchie đă khám phá ra tên của thành phố này.
Trên đường trở về trại Barkeley trước khi đi công tác tại Âu Châu, Ritchie cùng những người bạn sinh viên y khoa đi xe hơi về trại. Đến ngày thứ ba họ tới Tiểu Bang Missisipi, một Tiểu Bang mà chưa bao giờ Ritchie đặt chân tới cả. Khi đến vùng ngoại ô của Vicksburg, Ritchie đă tả lại như sau:
- "Thành phố này tuy xa lạ nhưng h́nh như rất quen thuộc. Tôi đă biết rơ từng nét cong của bờ biển, từng khúc rẽ đường. Nơi đó, tôi biết rơ đường phố như thế nào! Tôi biết chắc chỉ c̣n một con đường ngắn là tôi có thể đến ngôi nhà trắng có mái ngói đỏ, có chữ Cafe bằng nê-ông gắn trên cửa ra vào.
Khi xe tới gần tôi nhận được ra con đường nhỏ mà tôi đă cùng một người không nhận ra tôi đi tới quán này. Cũng c̣n cả cột điện thoại mà tôi đă đứng ở đó rất lâu... bao lâu? Giờ nào, ngày nào với loại thân h́nh nào"
Trong cơn thoát xác, Ritchie cảm thấy đi Richmond thật phù phiếm, không ai thấy và nghe được anh cả.
- "Nếu tôi có trở về gia đ́nh th́ cũng chẳng ai thấy tôi? Ư tưởng cô đơn xâm chiếm tôi, dù sao tôi cũng phải về ngay nơi mà mọi người thấy tôi và nghe được tôi chứ".
Rồi George Ritchie nghĩ đến cái xác hăy c̣n đang nằm tại bệnh viện. Ritchie đă vội vàng quay trở về bệnh viện tại Trại Barkeley. Tới nơi Ritchie đă phải xục xạo t́m lại cái xác nằm tại một trong hai trăm căn pḥng, của năm ngàn binh sĩ đang ngủ. Lúc đó Trại Barkeley có hai trăm năm mươi ngàn khóa sinh.
Đèn không được sáng, thật khó khăn mới nh́n được mặt họ. Cả giờ rồi đă toát cả mồ hôi, qua hết pḥng này đến pḥng khác mà vẫn không kết quả. Đột nhiên anh nhớ ra! Tay trái anh có đeo một cái nhẫn hội viên Phi Gamma Delta. Và tiếp tục t́m kiếm, anh đă t́m được cái xác một người đàn ông trong một căn pḥng nhỏ, phủ một tấm chăn và tay trái có đeo chiếc nhẫn.
- "Tôi tiến lại từ từ, mắt dán chặt vào cái bàn tay đeo nhẫn. Tôi khiếp hăi. Dưới ánh đèn mờ ảo, tôi thấy bàn tay đó thật trắng và thật mềm. Trước đây, tôi đă nh́n thấy bàn tay này ở đâu rồi nhỉ? Tôi đă nhớ ra: Cha Dabney nằm trong pḥng khách Moss Side.
Tôi lùi lại gần cửa ra vào. Người nằm trên giường đă chết. Tôi cảm thấy khó chịu như trước đây tôi đă phải ở chung với người chết trong một pḥng.. Nhưng.. cái nhẫn là của tôi mà, vậy chính là tôi mà.. vậy th́ một phần của tôi nằm trên cái giường này, phủ bởi tấm chăn.
Vậy có nghĩa là tôi đă... Đó là lần đầu tiên tôi đă trực nhận đến chữ "chết" liên quan đến những ǵ đang xảy ra cho tôi. Nhưng tôi chưa chết mà.. sao tôi có thể chết trong khi tôi vẫn c̣n thức đây? Tôi bấu vào tấm chăn, cố gắng kéo xuống để mắt tôi nh́n được phía ngoài. Nhưng vô ích tất cả các cố gắng của tôi, cũng không đủ để tạo một cơn gió nhẹ, thoáng qua căn pḥng im lặng nhỏ bộ này.
Sau cùng thất vọng tôi ngồi xuống giường. Tôi nghĩ: Tôi đă thoát ra khỏi xác nên không tiếp xúc lại được. Đây là chính là lúc tôi cảm thấy da thịt tôi và tôi (h́nh hài và linh hồn) ở hai hành tinh riêng biệt".
Chợt George Ritchie thấy trong pḥng tự nhiên sáng hẳn lên. Anh nh́n vào cái bóng đèn mười lăm watts và chắc chắn cái bóng đèn này không thể sáng đến thế được!
- "Tôi ngạc nhiên thấy ánh sáng càng ngày càng rút lên ở trong pḥng, tất cả các bóng điện trong bệnh viện thắp lên cũng không thể sáng như thế, tất cả những ngọn đèn trên thế giới cũng không thể sáng như thế, sáng như cả triệu ngọn đèn dùng để bàn cùng cháy lên một lúc".
Bây giờ George Ritchie nhận thấy không phải là ánh sáng mà là một người đang bước vào pḥng, nói đúng hơn là một Người được làm bằng ánh sáng.
- "Con Người này đă tỏa ra sức thần thông của chính ḿnh, xưa hơn cả thời gian và hiện đại, hơn bất cứ ai mà tôi đă được gặp. Người này đă nh́n thấy suốt cuộc đời của anh. Người này đă biết đến cả những ǵ khó ưa trong tôi, Người đă chấp nhận và thương yêu tôi".
Người này đă hỏi anh:
- Anh đă làm được những ǵ trong đời?
Câu hỏi được nhắc đi nhắc lại nhưng anh lẩn tránh. Cuối cùng là anh cũng phải trả lời là chẳng làm được ǵ trong suốt cuộc đời. Không thể nào trong một vài chương mà có thể kể hết được. Con Người Thiên Thể này đă dẫn dắt Ritchie đi; sau này Ritchie gọi là "Một Cuộc Kinh Lư Giáo Dục".
Ritchie đă được dẫn đến thế giới thiên thể ở tầng trời cao nhất. Ỏ thế giới thiên thể này Ritchie đă nh́n thấy cảnh các linh hồn đam mê cảnh thế gian. Những người nghiện rượu được kéo ra khỏi các quán rượu, các quán cà phê và đây là địa ngục của họ:
Những người nghiện rượu trông thấy người khác đang uống mà không được động đến cái ly. Đây là địa ngục của họ. Ritchie đă nh́n thấy những người tự tử v́ thất vọng. Ritchie cũng được dẫn đến thăm một văn pḥng, mà người thoát xác đang la hét, và bắt người làm phải thi hành công việc như thế nào, nhưng các người làm này đâu c̣n tuân lệnh nữa. Đây là ông chủ đă quá cố của Ritchie.
Tuy đă được Southern Baptist một tông phái Tin Lành dạy dỗ nghiêm khắc. Ritchie cũng vẫn thấy giật ḿnh. Anh thấy Anh đang ở trong một Thư Viện Vĩ Đại có nhiều cuốn sách nói về vũ trụ mà chưa ai viết, và cuốn Thánh Kinh chỉ là một mà thôi.
Khi được đưa tới tầng trời thứ ba th́ Ritchie bị ngất ngây, bởi vô lượng ánh sáng của người Đồng Hành Thiên Thể, mà sau này Ritchie nghĩ là Đấng Tối Thượng, Tối Cao hơn cả. Đó là Đức Chúa Christ với người Thiên Chúa Giáo. Đức Phật với người Phật Giáo. Khrisna Phạm Thiên với người Ấn Độ Giáo. Messiah Giáo Chủ với người Do Thái Giáo. Có lẽ tất cả đều đúng. Đă đến lúc phải trở về với nhiều nuối tiếc.
- "Những bức tường đă ngăn chận chúng tôi. Những bức tường rất hẹp như những cái hộp, rồi trong khoảnh khắc tôi nhận ra được cái pḥng của bệnh viện, mà tôi đă bỏ đi trong một thời gian".
Anh cố gắng nhập vào cái xác đang nằm trên giường, Anh cố gắng mở mắt nhưng không sao mở mắt được v́ bị tấm chăn phủ mất. Anh muốn giở hai tay nhưng không thể được, và cảm thấy như đang nâng hai thanh sắt nặng. Anh chậm chạp xích hai bàn tay lại gần nhau và xoay cái nhẫn vài lần.
Rồi đầu óc Ritchie lại mờ đi. Ritchie lại rơi vào t́nh trạng hôn mê và h́nh như lại chết một lần nữa. Chính sau này thân xác anh cử động được, nhưng đầu óc anh vẫn mê man mất ba ngày.
Lần này khi mở mắt ra anh nh́n thấy cô y tá đang nh́n anh mỉm cười và nói:
- Thật vui mừng ông đă trở lại với chúng tôi, đă có lúc chúng tôi tưởng không thành công.
Sau này Ritchie được biết khi người trông nom bệnh viện, trở lại để sửa soạn đưa Ritchie vào nhà xác, th́ đôi tay anh đă được đổi vị trí. Nguyên lúc Bác Sĩ khám nghiệm phủ mặt Ritchie, đặt hai cánh tay thẳng và để đôi bàn tay úp xuống. Nhờ vậy Ritchie đă nh́n thấy cái nhẫn của ḿnh.
Nhận thấy có sự thay đổi (đôi tay không ở vị trí có) người trông nom (binh nh́) vội cấp báo Bác Sĩ. Sau khi khám nghiệm lại cẩn thận, vị Bác Sĩ đă một lần nữa tuyên bố Ritchie đă chết hẳn.
Tuy nhiên người trông nom bệnh viện này không thừa nhận lời tuyên bố của Bác Sĩ đề nghị:
- "Có thể chích một mủi Adrenalin vào thẳng tim cho Ritchie sống lại".
Về việc này George Ritchie đă nhận xét như sau:
- "Việc này không thể có được, thứ nhất là v́ một người binh nh́ đâu có thể tranh căi với cấp sĩ quan chỉ huy của ḿnh, hơn nữa lại là một bác sĩ chuyên môn có bằng cấp, thứ hai lời đề nghị của người trông nom trên phương diện y khoa chuyên môn, thật là lố bịch và buồn cười.
Bệnh sưng phổi đă làm tê liệt tất cả các bộ phận trong cơ thể, việc tiêm thuốc kích thích tim không thể chấp nhận được. Về trường hợp của tôi, bất cứ một nhà y khoa nào cũng không thể làm ǵ hơn được.
Ấy thế mà đề nghị cho một người đến canh chừng của người trông nom bệnh viện, với Bác Sĩ cho rằng việc này không hữu lư, đă được chấp thuận và đề nghị này lại thành công!
Thời gian b́nh phục thật là khó khăn. Khi trở về Richmond, Ritchie chỉ như một bộ xương, không ai có thể tin được Ritchie có thể theo học lớp y khoa. Phải mất đúng một năm Ritchie mới hoàn toàn b́nh phục".
Sau đó Ritchie được chuyển trở lại Trại Barkeley, và được gửi sang phục vụ một đơn vị ở Âu Châu. Khi chiến tranh kết liễu, Ritchie đă tiếp tục học lại, đậu Bác Sĩ và đă trở thành một Bác Ś chuyên khoa về tâm trí.
Bác Sĩ George Ritchie đă viết như sau:
- "Khi tôi xin vào nội trú tại Đại Học Đường Virginia, một người bạn đă khuyên tôi đừng nên cho Ban Tuyển Chọn biết chuyện tôi đă xuất hồn, v́ những người chấm điểm có thể nghi ngờ tôi. Người đầu tiên phỏng vấn tôi là Bác Sĩ Wilfred Abse, Giáo Sư Ngành Phân Tâm Học, Tâm Lư Học thuộc Viện Tâm Trí và là một trong những người, đứng đầu trong Ngành Phân Tâm Học tại Virginia. Ngay khi bước vào pḥng Bác Sĩ Abse đă nói với tôi:
- Tốt, này Bác Sĩ Ritchie h́nh như ông đă được gặp Chúa Christ. Tôi tưởng rằng cơ may của tôi đă bị ném qua cửa sổ.
Bác Sĩ Abse là người Do Thái, một người nghiên cứu về triết học Freud. Ông ta đă trực tiếp phỏng vấn tôi. Tôi đă nói hết sự thực và không giấu giếm chút nào về việc xảy ra tại Trại Barkeley, Texas.
Không thể ngờ được hai tuần lễ sau cuộc phỏng vấn, tôi nhận được thư thông báo Ban Tuyển Chọn, đă chấp nhận tôi vào nội trú, và tôi đă trở thành một Bác Sĩ về tâm trí.
Những năm sau này Bác Sĩ Abse trở thành người bạn thân của tôi. Trong một câu chuyện giữa chúng tôi, Bác Sĩ Abse đă cho biết:
- "Mọi người nơi đây đều biết rơ câu chuyện xuất hồn của Anh, nếu trong cuộc phỏng vấn anh giấu giếm th́ tôi đă không chọn anh, v́ cho anh là một người không có tinh thần vững vàng, một người như vậy ắt hẳn không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là ảo tưởng".
Cũng tại Bệnh Viện này, Bác Sĩ George Ritchie đă tiến tới chức vụ Viện Trưởng Viện Tâm Trí.
Sưu Tầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 407 of 2534: Đă gửi: 06 July 2008 lúc 3:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHIẾC NANH HEO RỪNG CỦA ĐẠO VUỐT
Trên quốc lộ mười lăm đường đi Sàig̣n Vũng Tàu, vào khoảng cây số tám mươi lăm, về phía bên tay trái, đối diện Rừng Sát là núi Ông Trịnh. Trên lưng chừng đồi núi này có một cái hang mà trước đây ông "Đạo Vuốt" đă từng tu trong đó. Ngày nay ông Đạo đă đi đâu bặt tăm mà chẳng ai biết, hang bỏ hoang trông thật tiêu điều hoang vắng.
Dưới chân núi Ông Trịnh là những g̣ mả nằm ngỗn ngang, v́ lâu ngày không ai chăm sóc sửa sang nên cỏ gai mọc um tùm. Người ta đồn rằng vào những đêm trăng mờ gió lạnh, có những tiếng khóc than thật thê lương hờn tủi, xuất phát từ những ngôi mộ đó, lời ai oán này chính là những phụ nữ đă bị ông đạo giết chết lấy hài nhi để luyện thiên linh cái. Không ai dám lai văng đến nơi đây, ngoại trừ lũ chồn cáo đào hang làm ổ mặc sức hoành hành, đêm đêm lẻn vào xóm làng để bắt gà vịt.
Trong làng có chú Ba Ten sống bằng nghề hái măng bẩy thú. Trước đây chú từng là đệ tử của ông đạo vuốt. Vào một buổi chiều mua thu trời tím thẫm, mưa gió rả rích, trong một căn cḥi tranh vách nứa, bên chai rượu đế và mấy con sóc nướng xă ớt, chú Ba Ten kể cho tôi nghe một chuyện về ông đạo vuốt.
- "Ông tên thật là Nguyễn văn Kiên thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên sáng lập rao giảng về nghĩa tứ ân là: ân tổ tiên, cha mẹ, đất nước và ân đồng bào. Ông gốc người Long xuyên về đây giữa năm 1960 cất một cái cḥi tranh, hàng ngày đi giảng đạo và chữa bệnh. Lúc ấy tôi đang bị sốt rét nặng, tưởng đă chết may nhờ có ông cứu chữa mới qua được cơn bạo bệnh. Sau đó tôi xin theo ông học cách chữa bệnh.
Thường ngày tôi và ông vào rừng, leo núi t́m cây hái thuốc. Một buổi trưa chúng tôi t́m được một hang sâu và rộng, trong đó có một ngọn suối nhỏ, nước trong và mát uống vào ngọt lịm. Bên ngoài hang xung quanh c̣n có nhiều cây ăn trái như xoài, bưởi, khế.. cảnh vật thật yên tĩnh xinh đẹp. Trước mặt nh́n ra biển cả bao la, bên trái là những cánh đồng lúa chín, bên phải là lăng của ông Trịnh, sau lưng là núi Thị Văi hùng vĩ phong cảnh thiêng liêng và hữu t́nh.
Thầy Kiên phấn khởi lắm. Ông nói:
- Hang đá nầy có lẽ là cái hàm rồng mà từ lâu ta vẫn để công t́m kiếm, vậy ta sẽ tu tại đây.
Một hôm hai thầy tṛ chúng tôi chuẩn bị thức ăn thật nhiều, đi thật sâu vào rừng để t́m các loại thuốc quư và hiếm, chúng tôi băng rừng vượt suối, nơi đây chưa hề có bước chân người lai văng, cây cối xanh mướt lạ thường, bốn bề vắng lặng chẳng nghe tiếng động của một con thú nào, kể cả tiếng chim cũng không có.
Hai thầy tṛ vẫn tiếp tục tiến sâu vào. Đến một cánh đồng cỏ tranh bỗng có tiếng cọp gầm liên hồi và tiếng hồng hộc giận dữ của loài heo rừng phát ra từ hướng trước mặt. Tôi giật ḿnh lo sợ, trống ngực đánh th́nh thịch tính lùi lại quay về, nhưng thầy Kiên lại ra dấu đừng sợ, ông cầm cây roi bằng gỗ mun tiến lên.
Bất đắc dĩ tôi phải rón rén hồi hộp từng bước theo sau. Tiếng mănh thú gầm gừ mỗi lúc một gần hơn, thầy Kiên ra dấu dừng lại, vạch đám cỏ phía trước ra. Tôi giật ḿnh khiếp đăm chết trân. Trước mặt chúng tôi là một con cọp vằn vện to bằng con ḅ, cặp mắt long lên ṣng sọc, nh́n đối thủ là con heo rừng khủng khiếp lông lưng dựng đứng, đầu to như cái thúng cặp nanh dài bén nhọn như hai lưỡi dao, chĩa lên phía trước như thách thức đợi chờ. Hai mănh thú gườm nhau, cọp bỗng mọp người xuống, phóng lên đánh tạt vào má heo thật mạnh, heo tránh được, đâm ngược chiếc nanh trúng bă vai cọp xé một đường dài, cọp gầm lên tức giận chụp lên lưng heo, nhờ lớp da dầy và chai cứng che chở, heo chỉ bị thương nhẹ. Hộc lên một tiếng thật lớn hất cọp rớt xuống, dùng bốn chân dậm túi bụi vào lưng và bụng cọp, cọp lăn lộn gầm thét ngữa miệng lên cắn vào chân và đùi heo, hai con mănh thú lăn xả vào nhau cắn xé, đâm chém bụi bay mịt mù.
Bỗng cọp gầm lên phóng ḿnh ra ngoài ṿng chiến, nằm phục xuống căm hờn nh́n đối thủ. Một hồi sau như đă nghỉ mệt xong và có lẽ đă t́m được lối đánh mới, cọp đập đuôi xuống đất, gầm lên một tiếng thật lớn phóng người lên cao, lộn ngược đầu xuống chụp ngược vào hậu môn heo, ư chừng muốn rút ruột heo lôi ra. Nhưng cọp không ngờ đă sa vào thế đánh của heo, heo đă nhanh như chớp quay lại cắm ngập chiếc nanh vào họng cọp, máu phọt ra có ṿi, cọp gầm lên đau đớn rồi phóng ḿnh bỏ chạy heo hăng hái đuổi theo. Cọp chạy đến một g̣ mối phóng ḿnh lên, heo chạy đến vừa đưa đầu ngước lên liền bị cọp thọc chân xuống móc mắt lôi ra, bị trúng đ̣n độc heo bật ngửa ra sau, giẫy giụa kêu vang thảm thiết, máu từ hốc mắt chảy ra lai láng, không bỏ lỡ cơ hội, cọp phóng xuống cắn mạnh vào họng heo giữ chặt ngấu nghiến, heo vùng vẫy yếu dần.
Tôi nhắm mắt lại không dám nh́n thêm cảnh tượng quá dă man tàn bạo nầy. Bỗng thầy Kiên chụp cây roi nhảy ra ngoài vọt ḿnh lên cao, hét lên một tiếng thật lớn dơ thẳng cây roi dùng hết sức b́nh sanh đập mạnh xuống lưng cọp "bốp", xương cọp gẫy rụm, cọp rống lên máu họng trào ra, ngáp ngáp mấy cái rồi ngoẽo đầu sang một bên chết tốt. Con heo rừng thoát chết từ từ đứng dậy, yên lặng nh́n thầy Kiên một chút rồi chậm chạp đi vào rừng cây. Lúc nầy tôi mới hoàn hồn, mon men đến bên thầy, ôm thầy thật chặt kính phục tài nghệ của thầy.
Về đến nhà tôi báo cho dân làng mang xe ḅ vô rừng kéo xác cọp về. Trông thấy xác cọp ai cũng lắc đầu lè lưỡi, có người kêu lên:
- Trời ơi! cọp nầy lớn quá, tôi mới thấy lần đầu phải trên ba trăm kg là ít.
Sau đó một người đánh diêm lên đốt bộ râu cọp. Theo lời người xưa kể lại, nếu nhét một sợi râu cọp vào mụt măng non, khi măng già râu cọp sẽ biến thành một loại sâu lạ, phân của sâu là một loại thuốc độc cực mạnh. Muốn giết ai chỉ cần bỏ một chút xíu vào nước hay rượu cho người đó uống sẽ chết ngay tức khắc. Để tránh tội ác phải thiêu hủy bộ râu cọp trước.
Vài tuần sau lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi đang phụ với thầy xúc thuốc phơi nắng bỏ vào bao đem cất, th́ con heo một mắt tới, thân h́nh nó thật ghê tởm lở lói, bên mắt hư của nó đỏ như quả ổi chín bị chim ăn gịi bọ lúc nhúc. Nó nh́n chúng tôi một chốc rồi quay lại phóng ḿnh thật mạnh đâm vào cây bằng lăng nằm im bất động. Khi đến xem th́ nó đă chết, chiếc nanh cắm thật sâu vào thân cây.
Hai tháng sau cây bằng lăng bỗng nhiên trụi lá chết khô. Rồi vào một đêm khuya mưa gió băo bùng, cây bằng lăng bị đánh trốc gốc, ngă dài trên mặt đất, chỗ có chiếc răng ngửa lên trên. Tôi và thầy Kiên dùng ŕu đẽo chặt cả tiếng mới lấy chiếc nanh ra được. Thầy Kiên quư chiếc răng nầy lắm, lúc nào cũng mang bên ḿnh.
Thầy Kiên là một thầy thuốc Nam rất giỏi, chữa bệnh rất mát tay, đă chữa cho nhiều người hết bệnh, tiếng tăm thầy vang lừng, người từ phương xa nghe danh ùn ùn kéo đến. Những người chữa theo Tây âu dần dần mất thân chủ, tức giận và đố kỵ tài năng, họ t́m cách hăm hại thầy, họ phao tin đồn là thầy có thiên linh cái. Từ đó ác danh đạo vuốt được gán cho thầy với những tội ác tày trời làm náo động khắp vùng, nên chính quyền t́m cách bắt thầy nhưng thầy đă thoát được. Báo chí làm ầm lên, họ phái phóng viên xuống địa phương băng rừng, leo núi vào tận trong hang chụp ảnh, t́m ṭi viết những bài phóng sự giật gân, hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Mọi người đều say mê, thích thú với những truyền thuyết huyền thoại về thầy, họ muốn biết mặt thầy t́m hiểu về thầy nhiều hơn nữa.
Nhưng bóng dáng thầy vẫn bặt tăm. Sự biến mất đầy bí ẩn của thầy làm mọi người thắc mắc ṭ ṃ hơn, biết bao nhiêu câu chuyện được đồn đăi lên, mỗi người kể mỗi khác về những ǵ họ thấy và có liên quan đến thầy. Ông Chín Tọc làm nghề bắt cắc kè quả quyết đă trông thấy thầy ngồi thiền trên tảng đá trong dăy núi Tóc Tiên, chị Mười Núi hái măng thấy thầy dạo trong rừng trúc trên núi bà Tám, anh Nhâm c̣n nói điều kỳ bí lạ lùng hơn là đă thấy thầy ngồi trong chiếc hang của thầy tu trước kia.
Thời gian qua đi mọi người v́ lo cho nhu cầu cơm áo hằng ngày nên vấn đề quan tâm thắc mắc về thầy cũng từ đó vơi dần. Cho đến một đêm khuya tiết trời oi bức, không một cơn gió thổi, tôi nằm trên giường cứ trằn trọc măi mà không ngủ được, đang thao thức bỗng có tiếng gơ cửa, bước ra ngoài tôi giật ḿnh sững sốt gặp lại thầy Kiên. Thầy đưa tôi một gói nhỏ và nói:
- Con giữ vật này, nó sẽ mang lại cho con nhiều may mắn.
Nói xong ông quay lưng lại bước vào màn đêm rồi mất hút. Vào nhà đốt đèn lên, mở ra xem th́ đó là chiếc nanh heo rừng."
Kể xong câu chuyện tôi thấy những giọt nước mắt đă lăn trên khuôn mặt bâng khuâng nhiều xúc cảm của chú Ba Ten. Uống cạn ly rượu đặt xuống bàn, chú yên lặng đứng dậy đi đến bàn thờ lấy xuống một gói vải đỏ, mở ra đưa cho tôi xem chiếc nanh heo rừng. Chiếc nanh thật đẹp dài gần hai tấc, lên nước bóng loáng như có thoa một lớp dầu bóng, có chổ ửng vàng như màu ḷng đỏ trứng gà, có chỗ màu nâu chocolate có chỗ màu nâu đen như màu máu khô, nh́n kỹ thấy gần đầu nanh có một lằn nứt ngang gần giáp ṿng, tôi nghĩ có lẽ đây là vết tích do heo húc quá mạnh vào thân cây khi trước.
Cầm chiếc nanh mát lạnh trong bàn tay, mà đầu óc tôi cứ nghĩ miên man về những huyền thoại của nó. Chuyện quyết đấu sanh tử giữa heo và cọp, chuyện heo "hiến" răng cho thầy Kiên và những truyền thuyết huyền bí về ông. Sau này trước khi tổ chức cho gia đ́nh đi vượt biên, tôi có nói với chú Ba Ten, chú tặng lại cho tôi chiếc nanh heo và nói:
- Ông bà ḿnh có câu có thờ có thiêng, có kiêng có lành, cháu nhớ lấy.
Tôi vô cùng xúc động trước tấm ḷng bao dung, nhân ái đầy vị tha của chú. Tôi nghĩ rằng chú phải thương tôi lắm mới cho tôi một vật quư giá và đầy kỷ niệm. Chuyện tôi tổ chức vượt biên bất thành, công an truy nă ráo riết, tôi phải trốn lánh từ nơi này đến nơi khác, phải mấy năm sau tôi mới qua được Campuchia, từ đó tôi vượt biên qua Thái Lan thành công.
Sáng nay trong một căn pḥng thật yên tĩnh, bên ly trà nóng, đầu óc trong sáng thảnh thơi không một chút suy tư, tay tôi cầm chiếc nanh heo, nhớ lại những chuyện đă qua, tôi nghĩ phải có một cái ǵ đó linh thiêng, huyền bí lắm đă chở che cho tôi vượt qua những gian nguy thử thách. Chợt tôi nhớ đến câu của chú Ba Ten:
- Có thờ có thiêng có kiêng có lành.
Thật là huyền diệu.
Nguyễn Tường Lâm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 408 of 2534: Đă gửi: 06 July 2008 lúc 5:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN CHIẾC BÀN XOAY
Dù để mặt bàn ở đâu th́ bàn đều xoay như ư muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa.
Trong chuyến vào Thành Phố Đà Lạt năm 2006, t́nh cờ tôi gặp ba chiếc bàn xoay và được biết chúng xuất xứ từ một gia đ́nh người làng An Ḥa, xă Nhơn Ḥa, huyện An Nhơn, tỉnh B́nh Định.
Điều lạ lùng là khi một ḿnh tôi đặt tay lên chiếc bàn xoay tại nhà số 30A đường Khe Sanh, th́ bàn không xoay dù tôi đă ra lệnh. Phải hai người đặt tay bàn mới xoay. Nhưng khi đến khu du lịch đồi Mộng Mơ, một ḿnh tôi đặt hai tay lên mặt bàn ra lệnh th́ bàn xoay.
Bấy giờ có mươi khách tham quan đang đứng vây quanh bàn. Một du khách kêu lớn: "Ông này ghê quá!". Tôi nảy ra ư định thử t́m hiểu vấn đề này. Không chuyên về hiện tượng siêu nhiên mà có người gọi là "Ngoại cảm", "Đặc dị công năng", "Tâm linh"… tôi chỉ gặp gỡ trong một vài cuốn sách trên bước đường nghiên cứu các tín ngưỡng và tôn giáo. Tôi biết với sức lực và tri thức một ḿnh tôi th́ không thể nghiên cứu tương đối khoa học về vấn đề này. Tôi cũng không có mục đích nghiên cứu khoa học thật sự đề tài này, chẳng qua một chút hiếu kỳ lúc có cơ hội.
Đầu năm 2007, trong một dịp trở lại Đà Lạt, nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi, tôi dự định làm một cuộc trắc nghiệm bàn xoay, dùng bốn nam hai nữ, có người đă kết hôn, người chưa kết hôn, người có tŕnh độ sau đại học... Đáng tiếc đến chiều th́ Đà Lạt đổ mưa chỉ c̣n tôi và một nam tài xế taxi tên là Nguyễn Anh Tuấn đi nghiên cứu. Nhờ một cán bộ khoa Đông Phương giúp đỡ, tôi được Tạ Hoàng Giang, Trưởng pḥng Kinh doanh Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ giúp đỡ tận t́nh. Nếu không có anh việc nghiên cứu khó ḷng được như đă làm.
Kế hoạch của tôi là trắc nghiệm từng cá nhân đặt một tay, hai tay, một ngón tay lên bàn xoay. Tay đặt sấp ngửa, nam nữ thay nhau để kiểm tra khả năng có tác dụng âm dương hay không. Đo đạc và cân mặt bàn để t́m hiểu lực cản. Đo tốc độ di chuyển của bàn nhanh chậm. Nhưng việc đo tốc độ không thực hiện được v́ thiếu trợ lư. Những chiếc bàn xoay đều là đối tượng khai thác khách tham quan nên không thể tiếp tục nghiên cứu làm ảnh hưởng kinh doanh của chủ nhân chiếc bàn. Thời gian nghiên cứu dài nhất là chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ.
Cả ba chiếc bàn được tôi chọn trắc nghiệm đều cùng một mô thức: ba chân nhỏ đỡ thân bàn là một trụ gỗ tṛn mà đầu trụ đặt vào một lỗ tṛn dưới mặt bàn làm trục cho mặt bàn xoay. Cả ba bàn đều như thế và mặt bàn đều là ván ghép chứ không phải một tấm gỗ tṛn nguyên vẹn. Dưới mặt bàn đều có hai thanh gỗ dài nhỏ ghép đỡ mặt bàn và cùng hai đoạn gỗ ngắn cấu tạo thành một ô tứ giác, trong đó có lỗ trục h́nh tṛn.
Độ tṛn ba mặt bàn đều không hoàn toàn chuẩn nhưng không sai số lớn nên nh́n mắt thường đều tṛn. Theo nh́n nhận của tôi th́ ba chiếc bàn cùng một loại gỗ đen sẫm thớ rất mịn, không biết gỗ ǵ nhưng có lẽ không phải gỗ tạp mà cũng không phải tứ thiết. Khác biệt chăng là bàn cao thấp khác nhau, đường kính mặt bàn khác nhau, độ dày mặt bàn khác nhau.
Kích thước cụ thể của chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ như sau: cao 87cm, đường kính mặt bàn 74cm, mặt bàn dày 1,7cm, mặt bàn cân nặng 8,5kg.
Lần lượt trắc nghiệm bốn người: đặt một tay, hai tay, úp bàn tay và ngửa bàn tay, dùng suy nghĩ khiến bàn xoay quay trái phải nhanh chậm dừng, không cần nói to thành lời. Hiệu quả là tất cả các trường hợp trắc nghiệm:
Mặt bàn đặt trên trục bàn, mặt bàn úp sấp trên ghế nhựa, mặt bàn để ngửa trực tiếp trên sàn gạch men, mặt bàn đặt nghiêng trên sàn gạch men th́ bàn đều xoay như ư muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa. Về chiếc bàn xoay nhà bác Trần Mến, anh Tạ Hoàng Giang nói:
- Bàn xoay này do bác Trần Mến bốn mươi bảy tuổi, cổ đông sáng lập Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ mang đến. Bác Trần Mến là người xă Hoài Phú, gần thị trấn Tam Quan huyện Hoài Nhơn tỉnh B́nh Định, mua bàn xoay ở xă Nhơn Ḥa, huyện An Nhơn tỉnh B́nh Định. Bác Mến lập nghiệp bằng bàn xoay. Hiện tại nhà bác c̣n một chiếc bàn xoay nhỏ hơn.
Nguyễn Anh Tuấn và tôi tiến hành trắc nghiệm kết quả giống như chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ. Chúng tôi đến nhà bác Lưu Xuân Ưởng ở số 30A đường Khe Sanh. Bác sáu mươi tuổi, người xă Trực Thành huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định, thuê gian nhà này để kinh doanh bàn xoay. Bác cho biết bác mua chiếc bàn xoay này của ông Nguyễn Tại thôn An Ḥa, xă Nhơn Ḥa, huyện An Nhơn tỉnh B́nh Định. Bác Ưởng biểu diễn để mặt bàn lên ghế nhựa cho xoay.
Do khó khăn về thời gian và người giúp việc nên tôi chỉ trực tiếp trắc nghiệm nhiều lần chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ, trắc nghiệm một vài lần ở hai bàn xoay sau, c̣n lại là do chủ nhân các bàn xoay và Nguyễn Anh Tuấn tiến hành. Các cuộc trắc nghiệm c̣n ở dạng quá thô sơ và v́ nhiều lư do nên chưa thực sự kỹ càng. Tôi thừa nhận trắc nghiệm chưa đủ giá trị khoa học. Nhưng dù vậy, tôi nhận thấy: Quả có một năng lượng từ trong thân thể tôi phát ra và tôi điều khiển được bàn xoay một ḿnh theo ư muốn của tôi.
Luồng năng lượng đó thắng được trọng trường 8,5kg (trọng lượng mặt bàn xoay) và hướng tác động vào bàn xoay tùy thuộc ư chí của tôi. Điều này giống như khi tôi điều khiển con lắc. Để con lắc cách bàn tay trái một người nam vài centimets th́ nó quay ṿng tṛn khi úp sấp bàn tay, lắc dọc khi đặt ngửa bàn tay; với tay phải nam giới th́ lắc dọc khi úp sấp, xoay tṛn khi lật ngửa bàn tay; đối với nữ th́ ngược lại… Điều này đă có tài liệu nói đến.
Nghĩa là hướng con lắc di động tùy theo âm hay dương của bàn tay và nam hay nữ; tuy nhiên tôi cũng có thể khiến cho con lắc đứng yên theo ư chí của tôi. Nhưng trường hợp bàn xoay th́ không phân biệt âm dương. Đáng tiếc, tôi đă không mang theo con lắc khi trắc nghiệm bàn xoay. Nhưng có lẽ con lắc và bàn xoay là hai hiện tượng khác nhau? Chúng chỉ giống nhau ở một điểm là ư chí con người có thể điều khiển được sự vận động của cả bàn xoay lẫn con lắc.
Bàn xoay cũng có hiện tượng người trắc nghiệm vô t́nh đẩy khi bàn đă xoay đưa cánh tay chạy ra xa mà người trắc nghiệm chưa kịp bước theo; hoặc giả người trắc nghiệm cố ư đẩy bàn xoay. Không phải ai cũng một ḿnh điều khiển được bàn xoay. Theo chủ nhân của ba chiếc bàn xoay th́ số người như thế không ít, nhưng đa số phải hai người mới điều khiển được bàn xoay. Hơn bốn mươi nam nữ sinh viên năm thứ nhất Khoa Hàn Quốc, học thuộc Trường Đại học Đà Lạt không ai một ḿnh điều khiển được bàn xoay.
Năm 2006 tôi không điều khiển được bàn xoay nhà 30A Khe Sanh nhưng ngay sau đó đến đồi Mộng Mơ th́ một ḿnh tôi điều khiển được chiếc bàn xoay ở đây. Như vậy là có vấn đề sức khỏe của người trắc nghiệm. Lái xe Nguyễn Anh Tuấn là một thanh niên cường tráng đă t́nh cờ thành người trắc nghiệm chính của tôi. Anh cho biết thường xuyên đưa khách tham quan bàn xoay và lần nào một ḿnh anh cũng điều khiển được bàn xoay.
Đă có một số sách báo viết về loại năng lượng này. Nói chung, tôi đọc không nhiều và không chuyên. Các tác giả sách báo đó đề cập đến hào quang con người, nhân điện, trường sinh học, trường năng lượng con người, trường năng lượng vũ trụ (ESP), năng lượng sinh học, bioplasma… khá phức tạp và trắc nghiệm khoa học với máy móc tinh vi, đưa ra những trị số khác nhau của năng lượng đó.
Nhưng không có điều ǵ giải thích hiện tượng bàn xoay và cũng chưa đề cập đến hiện tượng này dù có bàn về Psychokinesis (PK tức Viễn di sinh học). Tôi đề nghị các nhà nghiên cứu chuyên về lĩnh vực tiềm năng con người, tổ chức một dự án nghiên cứu kỹ càng hiện tượng bàn xoay, một cách tỉ mỉ khoa học, phối hợp nhiều nhà chuyên môn nhiều lĩnh vực hữu quan.
Các hiện tượng cận tâm lư (Parapsychology) đều cận khoa học đều là hiện tượng siêu việt (Paranormal) đă được tiền nhân cảm nhận như trong Yoga, Khí công, Thiền định, Cầu cơ… nay cần trắc nghiệm khoa học. V́ là hiện tượng siêu việt nên dễ bị người ta lừa gạt kẻ cả tin. Những trắc nghiệm ở Trung Quốc tiến hành mươi năm gần đây đă chứng minh điều đó. Nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, hợp tác chân thành th́ hiện tượng bàn xoay sẽ có đóng góp cho việc nghiên cứu cái mà nay gọi hỗn tạp là Ngoại cảm
Nguyễn Duy Hinh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 409 of 2534: Đă gửi: 06 July 2008 lúc 6:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN SỐ MẠNG
Tôi bị mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề Y học và nói với tôi rằng: Học nghề làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có thể giúp người. Vả lại luyện tập một nghề cho tinh vi có tăm tiếng, chính là sở nguyện của cha mày khi trước.
Sau đó, có một hôm tôi đến lễ chùa Từ Vân, nhân gặp một cụ già râu dài tướng đẹp, dáng mạo phơi phới như tiên, tôi đem ḷng kính mộ. Cụ nói với tôi: "Ta coi cậu là người trong chốn quan trường, sang năm đă đến khoa thi tấn học, sao cậu không chịu đọc sách?". Tôi tŕnh bày lư do và hỏi thăm tên họ quê quán của Cụ.
Cụ bảo: Ta họ Khổng, người đất Vân Nam. Ta được chánh truyền phép lư số trong sách Hoàng Cực của Thiệu Ưng tiên sinh. Ta muốn truyền lại cho cậu.
Tôi liền dẫn Cụ về nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy tiếp đăi Cụ rất hậu, và yêu cầu Cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, th́ quả nhiên từ những việc mảy may đều được Cụ đoán trúng rành mạch. Từ đó tôi nảy sanh ư muốn đọc sách, và đem chuyện bàn với người anh cô cậu là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi: hiện nay có Úc Hải Cốc tiên sinh đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi em tới đó học, rất tiện. Sau đó tôi trở thành học tṛ của thầy Úc Hải Cốc.
Khổng tiên sinh chấm số tôi như vầy: Lúc nhỏ thi huyện đậu thứ 14, thi phủ đậu thứ 71, thi tỉnh đậu thứ 9. Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi đều có tên đậu đúng như lời đoán.
Cụ lại đoán cả việc lành dữ trong suốt đời tôi, rằng năm nào thi đậu thứ mấy, năm nào được bổ Bẩm sinh năm nào được bổ chức Cống sinh, sau đó năm nào được bổ Tri huyện tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm tri huyện đủ ba năm rưỡi lại nên cáo thối và thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu ngày 14 tháng tám. Chỉ đáng tiếc số người không con.
Các lời đoán này tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận. Từ đó về sau, phàm mỗi lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi thế nào đều đúng như lời tiên sinh dự đoán, duy có điều này làm tôi hơi nghi là tiên sinh đoán tôi ăn lộc trong thời gian Bẩm sinh đủ số 91 thạch 5 đấu gạo th́ được bổ Cống sinh.
Nhưng cập kỳ tôi mới tiêu hết số gạo 71 thạch, đă được Đồ Tôn sư phê chuẩn cho tôi bổ Cống sinh, nên tôi nghi điều này tiên sinh đoán sai, không ngờ sau đó tôi bị quan đại lư Dương Công bác khước, phải kéo dài thời gian măi đến năm Đinh măo mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển văn thi của tôi tại khoa trường, khen rằng: Năm thiên sách này chính là năm thiên tấu nghị lên triều đ́nh, người có tài văn bài thế này há lại để vùi lấp măi ở chỗ song môn sao? Rồi ông tŕnh văn bài của tôi lên quan huyện và tôi được phê chuẩn bổ Cống sinh.
Kiểm điểm lại số gạo tiêu trong thời gian này cộng với số gạo 71 thạch khi trước th́ vừa đủ số 91 thạch 5 đấu không sai; do đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số mạng, mau chậm có vận thời, nên tôi cứ dửng dưng không c̣n để ư mong cầu một điều ǵ.
Sau khi bổ Cống sinh tôi phải vào yến đô học tại Quốc tử giám. Suốt một năm lưu lại kinh đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng lặng, không buồn xem văn thư ǵ cả. Qua năm Kỷ tỵ đi dạo Nam Ưng. Trước khi vào Quốc tử giám, tôi có đến viếng thăm Thiền sư Vân Cốc Hội ở núi Thể Hà. Ngồi chung với Thiền sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề nhắm.
Thiền sư hỏi tôi: người ta ở cơi đời sở dĩ không làm được Thánh Hiền chỉ v́ bị vọng niệm ràng buộc, nay ông ngồi suốt ba ngày mà không thấy khởi lên một niệm nào, là tại làm sao? Tôi trả lời: Thưa Thiền sư, tôi được Khổng tiên sinh chấm số, cho biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có móng ḷng mơ tưởng điều ǵ cũng vô ích, v́ vậy tôi không cần nghĩ tưởng điều ǵ.
Thiền sư cười: Lâu nay tôi đăi ông như bậc hào kiệt, không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm phu chay! Tôi giựt ḿnh, hỏi Thiền sư cho biết lư do, Thiền sư dạy: những người chưa được "không tâm" mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc ràng. Nhưng số mệnh chỉ câu thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được người cực thiện cũng như cực ác, ông suốt 20 năm nay chịu bó tay trước số mệnh không chuyển đổi được tí ǵ, như thế, há không phải phàm phu th́ là ǵ?
Tôi hỏi: Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có thể tránh được ư? Thiền sư dạy: Số mệnh do ta gây ra, họa phước chính ta t́m lấy. Đó là điều sách vở đă dạy đành rành. Kinh Phổ Môn, Phật dạy: Cần giàu sang được giàu sang, cần con trai con gái, được con trai con gái, cần sống lâu được sống lâu. Ôi! Vọng ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ chư Phật Bồ Tát lại khi cuống người đời mà nói ra câu ấy hay sao!
Tôi hỏi tiếp: Thầy Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời được, ấy là nói cầu những điều chính nơi tâm ḿnh có thể làm được kia, như điều đạo đức nhân nghĩa thời có thể ra sức mong cầu, c̣n như công danh phú quư là đều ngoài năng lực ḿnh, làm sao mong cầu được? Thiền sư nói: Thầy Mạnh Tử nói không lầm, chỉ tại ông hiểu lầm thôi. Ông không nghe ngài Lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói: Hết thảy phước điền, không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông nấy. Cầu ngay nơi ta, không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công danh phú quư, hễ trong đạt được th́ ngoài đạt được, nên càng thấy rơ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu.
Người nào không chịu khó ngó lui ḿnh để tu tỉnh, cứ như một bề dong ruổi t́m cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách t́m cầu thế nào chăng nữa, kết quả vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối mong cầu này hoài công vô ích. Những người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo cầu mong phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo t́m cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải bị thiệt tḥi cả hai mặt, là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa cũng hỏng.
Thiền sư lại hỏi tôi về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi điều. Thiền sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông c̣n có hy vọng thi đậu không? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: Không thể. Người khoa giáp phải là người có phước tướng, c̣n tôi chỉ là kẻ bạc phước, lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền tảng phước đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung đại độ, có khi c̣n cậy ḿnh tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ ǵ làm nấy, nói năng khinh suất dối trá, chẳng nể v́ ai.
Đấy toàn là những tướng của kẻ bạc phước, làm sao tôi mong cầu được khoa giáp! Vả lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng sinh, nước trong th́ đâu có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên tôi không con là phải; phàm khí tiết ôn ḥa mới nuôi dưỡng muôn vật, thế mà xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải; phàm nhân ái là gốc sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hảo huyền, chẳng hề hy sinh giúp ai, thế nên tôi không con là phải. Đó là chưa kể tôi c̣n có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượu làm tán tỉnh, tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết tật xấu của tôi th́ hẳn c̣n nhiều nữa...
Thiền sư nói: Không riêng ǵ một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian này thảy đều nằm trong lư nhân quả. Những người có được sản nghiệp trị giá ngàn vàng tức là người có được cái phước hưởng ngàn vàng đó, những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là người có được cái phước hưởng trăm vàng đó, những người bị chết đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó.
Thế mà người đời không nhận rơ lẽ này, cứ đổ dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật trời đất bất quá chỉ gia thêm những điều ḿnh đă tạo sẵn, chứ trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu. Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có công đức trăm đời thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp ǵn giữ; người nào có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, hai đời kế tiếp ǵn giữ, c̣n người nào tuyệt nhiên không con, ấy là người chỉ có công đức mỏng manh vậy.
Nay ông đă biết chỗ khuyết điểm của ḿnh, ông hăy tận t́nh gột bỏ cái tướng không phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và muốn vậy, ông phải lo tích đức, phải mở ḷng bao dung, phải giữ niệm ḥa ái, phải yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc trước đập tan ngày qua đă chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đă sinh, được vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lư đó.
Cái thân xác thịt c̣n có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lư này lại không cảm thông cùng trời đất? Thiên thái giáp trong kinh Thi có câu: Trời làm ương nghiệt, ḿnh có thể tránh, ḿnh làm ương nghiệt không thể nào tránh. kinh Thi nói: Thường hay nói phối hợp thiên mạng chính là nói tự ḿnh cầu được nhiều phước. Trước đây Khổng tiên sinh đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh con, đó là điều ương nghiệt do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ. Nếu ông mở rộng đức tính, gắng làm việc thiện, dồn chứa âm công, ḿnh gây ra phước, há ḿnh không được hưởng thụ hay sao?
Dịch là bộ kinh mưu tính việc sưu các ty hung giúp cho người quân tử, hạng người biết phản tĩnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu, th́ đâu có thể nói đến chuyện mưu tính sưu các ty hung? Mở đầu kinh Dịch c̣n có câu: Nhà nào chứa điều thiện sẽ có thừa điều phúc (tất thiện chi gia tất hữu dư khánh), ông có tin nỗi điều ấy chăng?
Tôi tin lời Thiền sư nói, nên thành tâm bái lănh. Tôi liền đến trước Phật đài tận t́nh phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của ḿnh, và dâng một sớ bạch, trước hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba ngàn điều lành, để báo đáp ân đức của trời đất tổ tông.
Thiền sư đưa bảng "Công hóa cách" chỉ cho tôi, khiến cứ mỗi ngày có công việc thiện ghi vào, c̣n làm ra mấy việc ác th́ thối trừ và gắng chuyên tŕ chú Chuẩn-Đề, như thế sở nguyện của ông tất có hiệu nghiệm.
Thiền sư lại dạy tiếp: Một nhà Phù lục thường nói rằng: Người họa phù mà không hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí truyền của cách họa phù không chi lạ, chỉ cốt giữ tâm không lay động mà thôi. Khi cầm bút họa phù, điều cần thiết trước tiên phải dũ sạch muôn mối duyên lự trong ḷng, tâm đừng khởi lên mảy may tưởng nghĩ nào cả.
Ngay khi tâm bất động ấy, hạ bút chấm một chấm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp huơ bút họa viết, không để một tư lự nào móng lên, được như thế là điệu phù thành linh nghiệm. Phàm người kỳ đảo trời đất cầu sửa đổi số mệnh cũng phải làm như thế, phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn tưởng khởi mới có cảm cách.
Khi thầy Mạnh Tử luận đến cái học lập mạng có câu: yểu và thọ không hai. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, th́ ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đă sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ư đă bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người.
Đến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đă nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.
Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ư nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dày, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế này thế kia mà được kết quả thế này, thế kia. Người thông đạt đạo lư, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong ḷng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.
Nay Ông chưa được "không tâm", Ông hăy tŕ niệm chú Chuẩn-Đề, cần niệm măi không gián đoạn, không cần kể số ít nhiều, tŕ niệm đến khi nào được thuần thục, trong tŕ niệm mà không tŕ niệm, trong không tŕ niệm mà tŕ niệm, th́ bây giờ được tâm không lay động, mà có sự ứng nghiệm rơ ràng.
Sau khi được Thiền sư chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu Học Hải trước kia để lấy Liễu Phàm, v́ từ đây đă hiểu cái lư nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn để ḿnh rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt ngày ǵn giữ cẩn thận, do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước. Ngày trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi, nhưng từ nay tôi đă biết lo ǵn ḷng giữ ư, cẩn thận từng khắc từng giờ, dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, ḷng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai quấy, mắc tội với trời đất, hoặc dẫu gặp ai ganh ghét, phá phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ xả.
Bước sang năm sau, bộ Lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ tên đậu ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ lại khảo thí từ tên đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần này không ứng nghiệm; và Tiên sinh không đoán tôi được đậu Cử nhân thế mà tôi đă đậu Cử nhân trong ḱ Hương thí mùa thu!
Tuy nhiên tôi tự xét việc hạnh nghĩa ḿnh làm chưa thuần thục, sai sót c̣n nhiều. Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái, hoặc có khi cứu giúp người mà tâm c̣n do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành mà miệng có nói ác, hoặc khi tỉnh th́ tháo vác mà khi say lại phóng dật... tôi đem tội chiết tính bù trừ với công, th́ thấy hẳn có nhiều ngày ḿnh sống uổng!
Tôi phát nguyện từ năm Kỷ tỵ mà măi đến năm Kỷ măo, suốt mười năm năm, mới hoàn thành ba ngàn việc thiện! Khi rời Lư Tiệm Am tiên sinh để vào Bản bộ Trung Quốc, tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện kia, năm Canh th́n có dịp trở lại Nam Biên, tôi mới thỉnh các Ḥa thượng Thánh Không, Huệ Không đến Đồng tháp Thiền đường chứng minh cho lễ hồi hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành khác để cầu sinh con, và đến năm Tân tỵ, tôi đă may mắn hạ sinh một quư tử.
Mỗi lần làm một việc ǵ, tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được, nên hễ làm được việc ǵ th́ lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một khoanh tṛn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng sinh, tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh.
Sang tháng tám năm Quư mùi, tính lại đủ số ba ngàn điều lành, sau khi đă khấu trừ các điều ác. Tôi lại thỉnh các Ḥa thượng Thánh Không, Huệ Không đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9, tôi lại phát nguyện làm thêm một vạn điều lành, cầu th́ đậu Tiến sĩ, quả nhiên năm Bính tuất tôi thi đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Đê.
Trong lúc làm Tri huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là Trị Tâm Thiền (sách sửa ḷng). Cứ mỗi sáng dậy, gia nhân đem nó giao lính hầu đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm được điều lành điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rơ ràng vào sách, đêm đến thiết án giữa trời, bắt chước ông Triệu Duyệt Đào thắp hương cáo với trời đất. Vợ tôi thấy đă lâu mà chẳng làm được bao nhiêu việc lành, mới châu mày buồn bă nói: Trước Ông ở nhà có tôi giúp sức, nên Ông đă làm đủ ba ngàn điều lành theo sở nguyện. Nay Ông nguyện làm thêm một vạn điều, nhưng ở tại công đường chẳng có việc ǵ để làm, th́ biết bao giờ Ông mới làm đủ số ấy.
Đêm đó, mộng thấy một Thần nhân, tôi mới than thở về lư do khó là đủ các điều lành minh đă hứa. Thần nhân bảo: Chỉ một việc giảm khinh tiền thuế cho dân của Ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành. Nghe lời Thần nhân bảo, tôi liền xét lại nhớ ḿnh có làm việc đó thật. V́ khi trước thuế ruộng của huyện Bửu Đê, mỗi mẫu phải đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi đă khu xữ làm cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào.
Tuy vậy, tôi vẫn hồ nghi không hiểu tại sao việc làm đó lại có thể sánh bằng một vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như Thiền sư vừa từ núi Ngũ Đài đến, tôi đem chuyện nằm mộng ra hỏi có đáng tin không, Thiền sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết, th́ một việc lành có thể đương được muôn việc lành, huống chi giảm thuế cho cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng một số tiền lương, nhờ Thiền sư đem về Ngũ Đài trai Tăng một vạn vị sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.
Khổng tiên sinh trước kia đoán tôi đến năm 53 tuổi gặp tai nạn, nhưng đến năm đó chẳng có ǵ xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo xin tăng thọ, và nay th́ tuổi tôi đă 69 rồi. Trong Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! Do đó tôi biết chắc rằng, họa phúc đều phải cầu ngay nơi ḿnh, đó mới thật đúng ư của Thánh Hiền, ngược lại người nào nói họa phúc do mệnh trời, th́ đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.
Hiện tại số mệnh mỗi người thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hăy tưởng như gặp điều không vừa ư, đang khi được thuận lợi hăy tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hăy tưởng là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hăy tưởng khi bị khuất phục, đang khi gia thể trọng vọng hăy tưởng như ḿnh ở hạng thấp hèn, đang khi có chút học vấn uyên thâm hăy tưởng ḿnh c̣n thiển cận.
Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ mà t́m cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đ́nh, ngoài th́ giúp người tai nạn, trong th́ lo ngăn ngừa tà ác chính ḿnh. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của ḿnh để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết ḿnh quấy tức một ngày an ḷng tự cho ḿnh là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ.
Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đ́nh trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ mà thôi!
Cái thuyết lư an thân lập mạng của Vân Cốc Hội Thiền sư trao dạy trên đây thật là chí t́nh, chí lư, chí chân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy.
HT Thích Trí Siêu
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 410 of 2534: Đă gửi: 07 July 2008 lúc 3:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
MẸ TÔI VÀ BÍ ẨN TÂM LINH
Mỗi độ Thu về nh́n lá vàng rơi giăng phủ kín lối đi, với những cơn gió thổi nhè nhẹ, hơi se lạnh làm tôi cảm thấy buồn man mác và nhớ mẹ tôi vô cùng. Mẹ tôi mất cũng vào mùa Thu, cách đây đă mười tám năm rồi, nhưng đối với tôi mẹ vẫn luôn hiện hữu và tưởng chừng như chuyện mới xảy ra mà thôi.
Không riêng ǵ tôi có cảm giác này, mà các anh chị tôi cũng vẫn thường nhắc nhở đến mẹ với tất cả t́nh cảm trân quư. Có dịp gặp nhau anh chị em tôi luôn nhắc đến kỷ niệm về Bố Mẹ, cuối cùng cũng xoay quanh về Mẹ với những điều khó tin về tâm linh, nhưng lại là sự thật đă xảy đến với gia đ́nh chúng tôi.
Khi c̣n nhỏ tôi thường được mẹ cho đi theo tới nhà họ hàng vào dịp lễ, tết đến nhà các bác tôi, trong lúc mẹ tôi và các bác tṛ truyện, nhiều lần tôi nghe các bác nói với mẹ tôi: Bà chết đi sống lại hóa ra thọ hơn ông nhà bà. Có lúc tôi nghe bác nói: Lúc bà chết, ông ấy khóc quá và làm thơ khóc bà nữa?! ...
V́ c̣n nhỏ nên tôi không chú ư mấy đến câu chuyện của các cụ nói với nhau. Khi khôn lớn mỗi lần nghe các bác tôi nhắc lại những lời nói trên, tôi thắc mắc hỏi lư do nào mà nói mẹ tôi chết đi sống lại, bác tôi bèn kể cho nghe câu chuyện về mẹ tôi.
Tôi sinh ra được tám tháng th́ mẹ tôi bị bệnh. Sau mấy tuần lễ ốm nằm liệt giường, một buổi sáng mẹ tôi dậy rất tỉnh táo, khoẻ mạnh, đ̣i ăn uống và tắm rửa thay giường chiếu sạch sẽ, rồi mẹ tôi dặn ḍ mọi chuyện trong gia đ́nh. Xong xuôi mẹ tôi cho biết trưa ngày hôm sau người sẽ ra đi.
Tưởng rằng cơn bệnh đă khiến mẹ tôi mê sảng nói thế, nào ngờ trưa hôm đó mẹ tôi mặc áo quần chỉnh tề và nằm ngay ngắn trên giường rồi ra đi thật. Cả nhà lo buồn và chuẩn bị tang lễ cho mẹ tôi. Bố tôi cắt đặt mọi việc nhà, chuẩn bị ngày hôm sau sẽ tẩm liệm. Ông nhờ một người bà con ngồi túc trực bên giường để canh xác trong lúc họ hàng tới đông đủ phụ lo cỗ bàn dựng rạp.
Trong lúc ngồi bàn chuyện với khách đến thăm, bố tôi đă làm bài thơ khóc mẹ tôi. Anh chị tôi lúc đó c̣n nhỏ nên chỉ nhớ được mấy câu, cho tới bây giờ mỗi lần có dịp gặp nhau, tôi vẫn được anh cả đọc cho nghe:
..Con thơ dậy dỗ bế bồng. Em về chín suối đau ḷng chăng em. Nhớ em trăm thảm ngh́n sầu. Nhớ em đến lúc bạc đầu chưa quên. Theo lời kể của bác tôi, đêm hôm trước ngày tẩm liệm mẹ tôi, người anh bà con ngồi canh bên giường. Anh uống rượu say, vào quan tài của mẹ tôi nằm khóc và nói:
- Bà ơi! Bà hăy sống dậy đi để lo cho các cô, các cậu c̣n nhỏ, để con chết thay cho Bà. Mọi người lôi anh ta ra và trách anh say rượu rồi nói càn!
Đến gần sáng mọi việc đă chuẩn bị xong xuôi, chờ tới giờ thầy cúng làm nghi lễ tẩm liệm. Ngay giờ bắt đầu làm lễ, mọi người ở dưới nhà ngang, nơi để giường mẹ tôi nằm (mẹ tôi mất ở quê), nghe như có tiếng rên khe khẻ. Hốt hoảng v́ tưởng con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có chuyện này, mọi người vội báo cho bố tôi biết.
Cụ bèn đến nơi và sờ người mẹ tôi, thật lạ v́ mẹ tôi mất đă cách đêm mà người Bà c̣n hơi ấm và mềm mại. Lát sau bố tôi xem lại th́ thấy cảm giác này tăng dần, ông bèn cho mời ông thầy thuốc đến bắt mạch đổ sâm cho uống.
Bố tôi cho rằng mẹ tôi đă sống lại. Ông không tin theo lời dị đoan nói rằng v́ có con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có hiện tượng lạ này. Sau khi đổ sâm cho uống, vài giờ sau mẹ tôi tỉnh lại, tuy c̣n rất yếu nhưng nói được vài câu. Mọi người trong gia đ́nh lúc đó đều nói: thật là điều bí ẩn khong thể giải thích được.
Sau khi mẹ tôi sống lại, bố tôi đem trả lại nhà hàng áo quan đă mua để lo cho mẹ tôi. Vài tháng sau, người bà con đă khóc đ̣i chết thế cho mẹ tôi đột ngột qua đời. Khi mua áo quan lo cho anh, gia đ́nh lại mua đúng cái mà anh đă từng nằm vào. Thật là sự mầu nhiệm trùng hợp lạ lùng! Sau khi đă b́nh phục hoàn toàn, mẹ tôi kể lại cho bố tôi và bà con nghe những những sự việc bà đă nh́n và nghe thấy trong lúc hồn xuất dương:
Mẹ tôi được bà nội tôi dắt tay đến các cửa quan ở địa ngục (bà nội tôi mất đả lâu rồi). Hai bà đi qua nhiều nơi lắm, thấy có những nơi người bị giam cầm tra tấn, giống như những cảnh bà đă thấy trong những bức tranh treo trong chùa. Bà nội tôi không cho mẹ tôi đứng lại xem, lôi đi và dặn mẹ tôi đừng lên tiếng.
Bà nội và mẹ tôi đi qua tất cả chín cửa quan, nơi nào bà nội tôi cũng quỳ lạy, khóc xin tha cho mẹ tôi sống thêm ít lâu nữa để lo cho con cái khôn lớn. Đến nơi thứ chín, có ba vị quan lớn râu dài mặt đỏ, ngồi trên ṭa sen cao, dưới đất trải chiếu hoa, chén đĩa đựng trái cây, trầu cau, ly đựng nước đều bằng bạc cả.
Bà nội tôi cũng quỳ lạy xin tha cho mẹ tôi được sống thêm lo cho con cái khôn lớn, bà nội tôi cứ quỳ và khóc măi không chịu đứng dậy. Hai người quỳ một hồi lâu th́ vị quan ngồi giữa nói với bà nội tôi, là ông tạm tha cho mẹ tôi về nuôi con.
Quá mừng bà nội đă dắt mẹ tôi chạy ra xe ngựa để trở về nhà. Về tới cổng nhà mẹ tôi nói với bà cho mẹ xuống xe. Chúng tôi đoán rằng có lẽ lúc mẹ tôi nói với bà tôi, là lúc ở nhà nghe được tiếng rên khe khẽ của mẹ tôi phát ra.
Chuyện mẹ tôi chết đi sống lại, tuy mới nghe có vẻ khó tin nhưng tất cả đều là sự thật. Sau khi mẹ tôi b́nh phục hoàn toàn và trở lại đời sống b́nh thường, có nhiều chuyện lạ xảy đến với gia đ́nh tôi nữa. Chính mẹ tôi đă kể lại cho chị em chúng tôi nghe:
...Bố tôi làm việc ở Nam Định, thỉnh thoảng mới về quê chơi ít ngày rồi lại đi. Riêng mẹ tôi thường về quê và sống nhiều ngày hơn, bao giờ bà cũng đưa chị em tôi cùng về. Hè năm đó nóng hơn mọi năm. Một hôm trời oi bức nóng nực, mẹ tôi dắt hai chị tôi lúc ấy c̣n rất nhỏ, ra cổng nhà đứng hóng mát.
Sáng hôm sau ngủ dậy mắt trái của người chị thứ hai sưng vù, con ngươi đỏ ngầu đau nhức nên chị khóc la dữ lắm. Chờ sáng hẳn mẹ tôi nhờ người giúp việc, chèo đ̣ đưa bà và chị tôi qua sông lên Nam Định gặp một vị bác sỹ bạn với bố tôi, nhờ ông khám xem chị tôi ra sao và xin thuốc chữa trị.
Sau vài lần điều trị mắt của chị tôi đă không khỏi, mà c̣n tệ hại hơn nữa, bác sỹ cho biết không chữa lành được. Quá tuyệt vọng mẹ tôi quay ra chữa thuốc nam cho chị. Trên đường đi hốt thuốc bà gặp một người quen mách cho biết là ở làng bên cạnh có một người lên đồng bóng, cho thuốc chữa khỏi rất nhiều người.
Mẹ tôi nghĩ : c̣n nước c̣n tảt nên đă đến nhà người này để xin thuốc chữa con mắt cho chị tôi. Đến nơi gặp ông Hưu, người lên đồng, mẹ tôi tŕnh bày lư do và xin được giúp đở. Ông bày lễ vật và cúng bái xong, một lát thấy người ông cứ lắc qua, lắc lại, rồi ôm mặt khóc hu hu. Khóc một hồi th́ ông quay qua mẹ tôi nói rằng:
- Con là cô Chín đây, con của mẹ mất đă lâu. Con muốn về nhà báo cho cha mẹ biết nhưng không biết cách nào. Mới đây nhân dịp về nhà, thấy mẹ dắt em ra đường đứng chơi nên con đă dí bông hoa nhài lên mắt em để mong mẹ biết mà t́m đến con.
Khóc xong một hồi th́ người lên đồng đưa cho mẹ tôi nước cúng, trái ớt, nhánh tỏi, nói đem về giă rồi đắp lên mắt chị tôi sẽ khỏi. Nói xong th́ thăng. Bán tín bán nghi không biết ra sao, mẹ tôi đánh liều làm theo lời dặn v́ theo lời bác sỹ, mắt chị tôi không chữa khỏi được coi như hư luôn rồi.
Sau khi đắp ớt tỏi cho chị tôi xong, mẹ tôi bế chị nằm ngủ ở vỏng. Đến nửa đêm trong lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, mẹ tôi thấy một người con gái đứng bên vơng nói:
- Để con ngắt bông hoa nhài cho em.
Mẹ tôi tỉnh dậy và cùng lúc đó chị tôi khóc thét lện. Mẹ tôi vội vặn lớn ngọn đèn dầu, thấy máu và mủ ở mắt chị tôi chảy ra, bà lau sạch cho chị rồi dỗ chị ngủ tiếp. Sáng hôm sau mắt chị tôi bớt sưng. Vài ngày sau thỉ khỏi hẳn. Thật như là một phép lạ khó tin nhưng đă xảy đến với người thân của tôi, nên từ ngày đó gia đ́nh tôi rất tin tưởng nơi thần linh.
Mẹ tôi cho biết chị cả của chúng tôi mất lúc chị mới lên chín tuổi. Chị cảm sơ trước khi mất đ̣i ăn nhăn, ăn xong th́ hôm sau chị mất. Mẹ tôi khóc nhớ thương chị măi, nhưng v́ chị mất lúc c̣n nhỏ nên không lập bàn thờ ở nhà chỉ cúng mỗi dịp giỗ chị thôi. Sau chuyện này xảy ra, mẹ tôi đă đến nhà thờ Tổ, nơi thờ cúng chị tôi, xin bát nhang về thờ. Nay bát nhang chính vẫn c̣n được thờ ở nhà thờ Tổ của ḍng họ ở ngoài Bắc.
Sau ngày đổi đời của đất nước, chú Út tôi từ ngoài Bắc vào chơi đă kể lại cho mẹ và chị em tôi về sự linh thiêng của chị Cả tôi, sự linh thiêng đă khiến dân làng rất tin tưởng và hàng năm họ góp gạo đến nhà thờ Tổ, nơi có bát nhang thờ Chị tôi, cùng nhau làm lễ cúng bái, chú tôi kể lại như sau:
- Khi gia đ́nh tôi di cư vào miền Nam sinh sống, nhà cửa bị tiếp quản, đóng trụ sở tại đó, tới mùa trái cây như nhăn, mận, ổi, họ leo lên cây hái trái để ăn và đem bán, lần nào trèo cây cũng bị té ngă găy tay, găy chân hoặc u đầu sứt trán, không cách nào leo lên cây được, đêm đến có người con gái lay giường bắt dậy, đ̣i trả nhà cho bố mẹ Cô.
Sau đó có người mách bảo nhà có người chết linh thiêng lắm, đến nơi thờ phượng, khấn vái xin phép hái hoa trái đem bán, nghe lời khuyên, họ mang bông trái cây đến nhờ chú tôi giúp, chú tôi nói, phải có ḷng thành, đích thân cúng mới được. Từ đó về sau, mùa nào trái ấy, họ đều đem lễ vật đến cúng chị Cả tôi rồi mới trèo cây hái trái, mọi việc êm xuôi, không bị té ngă nữa.
Dân làng ai có chuyện ǵ đều đến cầu xin chị tôi và đều được toại nguyện cả, nên ai ai cũng tin tưởng lắm. Chú út tôi c̣n kể cho nghe nhiều chuyện về sự linh thiêng của chị tôi nữa, chẳng hạn thời giặc Pháp hay về làng càn quét, cướp của giết người. Mỗi lần nghe báo động có giặc về làng, mọi người bồng bế, gồng gánh chạy loạn, nhiều lần chạy trong đêm tối, không nh́n rơ mặt nhau, trong hoàn cảnh như vậy, chú tôi khấn vái chị tôi phù hộ cho gia đ́nh và dân làng thoát nạn.
Thật là mầu nhiệm, chú tôi và mọi người nh́n thấy thấp thoáng phía trước có bóng người con gái cầm đèn soi đường cho mọi người. Dân làng cứ lặng lẽ đi theo ánh đèn, bao giờ cũng tránh được giặc Tây, không bị thiệt hại ǵ cả.
Sau ngày 30/4 vài tuần, tôi đến nhà thăm mẹ, đúng lúc đó tôi thấy bà chị dâu thứ đang đứng khóc hu hu trước bàn thờ và người lắc như lên đồng. Mẹ tôi vội thắp nhang và khấn vái rằng, nếu có phải chị Cả tôi về đồng, muốn nhập vào chị dâu tôi th́ cho biết chứ đừng hành xác chị tôi nữa, tội nghiệp chị ấy!
Sau đó mẹ tôi đưa rượu cho chị tôi uống, khai khẩu. Một lát sau chị dâu tôi ngừng khóc và nói cho biết chị Cả tôi về đồng, nhập vào chị dâu thứ của tôi để nói chuyện, một sự lạ là chị dâu tôi xưa nay đả phá đồng bóng dữ lắm, không tin dị đoan bao giờ, thế mà giờ chị Cả tôi lại nhập vào chị.
Chị tôi về đồng và nói rất thương mẹ và các em, nhưng không cứu văn được v́ hạn gia đ́nh phải gánh, cho biết sau này tất cả các em của Chị tôi sẽ sinh sống ở nước ngoài, có cuộc sống hạnh phúc, sung sướng, con cháu thành đạt nơi xứ người.
Mẹ tôi nói không tin v́ nay em trai, em rể Cô đă đi tù, những đứa ở nhà th́ sống vất vả, lo lắng mọi bề, cả nhà đều bị kẹt lại không ai đi thoát ra nước ngoài sinh sống cả. Chị tôi cười và nói cứ tin nơi Chị, sẽ có ngày đó đến với các em của Chị, nói xong th́ chị thăng.
Sau ngày đó, Chị tôi không về nhập đồng nữa, mọi người trong gia đ́nh cũng quên lăng câu chuyện này. Rồi phong trào vượt biên xảy ra, chồng tôi sau khi đi tù cải tạo được thả về, mẹ chồng tôi giúp vốn đă vượt biên thành công, con các chị tôi cũng vượt biển, tới được đất Mỹ sinh sống. Chưong tŕnh ra đi có trật tự được thực hiện, chồng tôi bảo lănh cho ba mẹ con tôi, gia đ́nh các chị tôi được con cái bảo lănh, gia đ́nh anh tôi đi diện HO.
Tất cả năm gia đỉnh anh chị em tôi đều sinh sống ở đất nước tự do này, con cái đều thành đạt, nên người. Bây giờ nhớ lại lại những lời mà Chị Cả tôi về đồng nói lúc năm xưa, không sai điểm nào cả. Vấn đề tâm linh thật khó mà giải thích!
Mẹ tôi sau này về ở với ba mẹ con tôi, bà nói chồng tôi không có nhà, tôi th́ trẻ chưa qua, già chưa tới, sợ mọi người ḍm ngó v́ có chồng gửi quà từ Mỹ về nuôi, và lúc đó hai con tôi c̣n quá nhỏ cần có người chăm sóc để tôi có thời giờ đến trường dạy học. Mẹ tôi sống rất nhân đức hiền từ, hết ḷng thương yêu con cái.
Mẹ tôi là một bà mẹ quê Việt Nam điển h́nh với tính t́nh đôn hậu, chịu thương, chịu khó, hy sinh cả đời lo cho chồng con. Những người quen cần ǵ, mẹ tôi sẵn ḷng giúp ngay. Những người buôn bán hàng rong kiếm sống qua ngày, mẹ tôi mua bao giờ cũng trả đúng giá đ̣i, không kỳ kèo bớt xén ǵ cả, nhiều người hoàn cảnh quá khổ, túng thiếu, mẹ tôi c̣n cho mượn vốn buôn bán, cho vay từ tháng giêng đến ba mươi tết đem trả, qua mùng bốn tết đến mượn lại mà không lấy bất cứ quà cáp ǵ mà họ đem biếu cả.
Mẹ tôi thường nói:
- Của trời của Phật đừng lo sợ mẩt, giúp ai được điều ǵ th́ nên giúp với tất cả tấm ḷng. Ảnh hưởng cách sống của mẹ tôi nên tôi và các con cũng học được tính vị tha, thương người của Bà, sẵn ḷng v́ mọi người. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi to tiếng với con cái hay người ngoài cả, nếu không bằng ḷng con cái điều ǵ, mẹ tôi chỉ chép miệng thở dài thôi.
Tôi c̣n nhớ lúc các con tôi c̣n nhỏ, con nít ham vui lười học nhất là con trai tôi, tối bị cúp điện thắp đèn dầu, muỗi vo ve bên tai mẹ tôi ngồi bên cạnh, quạt đuổi muỗi cho con trai tôi học bài, mẹ tôi nói ráng mà học con ạ, ở đâu, thời buổi nào cũng cần người có học cả, có học không sợ đói, mai đây qua đoàn tụ với bố các con, thấy các con học giỏi bố mới không phàn nàn mẹ con chứ, những câu nói của mẹ tôi khó quên được.
Mẹ tôi dường như biết trước ngày mất. Hai ngày trước khi mất mẹ tôi ngủ trưa và miệng nói chuyện rang rang. Tôi đánh thức mẹ tôi dậy th́ Bà nói để yên cho mẹ nói chuyện. Khi mẹ tôi tỉnh ngù, Bà cho biết sắp đến lúc mẹ đi rồi, trước kia được phép sống thêm để nuôi các con khôn lớn, nay là lúc về với Ông Bà, đă tám mươi bốn tuổi rồi, sống vậy là quá thọ rồi.
Rồi mẹ kể cho nghe vừa nói chuyện với mấy bà bác, mất đă lâu lắm rổi, các bạn đi chùa với mẹ tôi nữa, các cụ ngồi đầy xe bus chờ mẹ ngoài cổng, mẹ nói chờ mẹ về nhà lấy cây dù rồi sẽ đi sau. Biết chuyện ngày xưa mẹ đă từng chết đi sống lại, tôi rất tin tưởng lời mẹ nói là mẹ sắp ra đi.
Hôm sau tôi cho dọn dẹp nhà cửa gọn gàng sạch sẽ, những thứ không cần thiết, dẹp lên gác hết cho rộng nhà. Sáng hôm sau anh trai thứ của tôi đến thăm mẹ, tôi gọi anh ra pḥng ngoài kể cho anh nghe hiện tượng về mẹ tôi, anh gạt đi và nói tôi đừng quá lo lắng và tin chuyện mẹ nói sắp ra đi, mẹ rất khoẻ, không đau ốm ǵ cả th́ làm ǵ xảy ra chuyện cho mẹ được.
Tôi tạm yên ḷng, mẹ tôi gọi anh tôi đến, móc túi cho tiền và phân phát cho con cháu hết số tiền đang có, nói tôi đưa bọc quần áo mà mẹ tôi đă sắp sẵn, có cả miếng vàng nhỏ để trong túi nhỏ nữa. Trưa đó mẹ tôi tắm gội sạch sẽ, cho thay giường chiếu giặt mùng màn. Đến ba giờ sáng mẹ tôi thức giấc, tôi cũng vừa chợt tỉnh và qua giường Bà nằm, hỏi thăm cần tôi giúp việc ǵ không, Bà nói :
- Mẹ mệt quá chắc không sống được, nói xong ngả đầu vào tay tôi nhắm mắt đi luôn, tất cả chưa đến năm phút đồng hồ! Ôm mẹ trong ḷng mà không dám tin là mẹ đă mất, tôi không c̣n khóc được v́ chuyện xảy đến quá đột ngột!
Nghe tin mẹ tôi mất, bà con họ hàng xa gần xóm giềng tới thăm viếng rất đông, ai ai cũng thương tiếc mẹ tôi và nói :
- Mẹ tôi là người nhân hậu đạo đức thương người, sống rất giản dị cởi mở với tất cả mọi người, nên Cụ ra đi dễ dàng nhanh chóng như vậy. Có những người cháu của Bố tôi với tuổi đời trên dưới bảy mươi, đă khóc mẹ tôi và kể những công đức mà ngày mẹ c̣n ở quê giúp đỡ con cháu họ hàng. Được biết những chuyện về mẹ mà trước đây tôi chưa bao giờ nghe mẹ nhắc đến, tôi càng kính phục mẹ thêm.
Đă mười tám năm rồi tôi vẫn luôn nhớ đến mẹ và thấy thật là bất hạnh không c̣n mẹ để chia xẻ những khó khăn, vui buồn của cuộc đời, được nghe những lời khuyên của mẹ. Nhất là vào dịp lễ Vu Lan, về chùa dự lễ, thấy mọi người được cài bông hồng đỏ trên áo, c̣n tôi với bông hồng trắng, cảm thấy buồn và tủi thân vô cùng, thật thấm thía với câu thơ của thi nhân:
Hoàng hôn phủ trên mộ. Chuông chùa nhẹ rơi rơi. Tôi thấy tôi mất mẹ. Như mất cả bầu trởi. Nhớ mẹ con nghẹn ngào. Lời ca sầu vút cao. Hoa trắng cài lên áo. Thương mẹ mắt lệ trảo.
Mẹ ơi, hôm nay ngồi viết những ḍng chữ này về mẹ, con xin nguyện cầu cho mẹ được an nghỉ b́nh yên. Suốt cuộc đời mẹ đă cho chúng con t́nh yêu thương vô bờ bến, mẹ là bóng mát dịu êm đă che chở, nuôi nấng con nên người, mẹ là nguồn sống là t́nh thương yêu bất tận. Cả đời mẹ hy sinh chịu đựng, sẵn sàng gánh vác sự khó khăn cho con cái. Con xin gửi đến mẹ lời thơ của Thầy Thanh Trí Cao, nói lên tâm sự của con:
Vu Lan ư nhiệm mầu. Báo hiếu nghĩa thâm sâu. Đời con cài hoa trắng. Mẹ hiền giờ ở đâu. Lạy Phật con nguyện cầu. Cho dù mẹ ở đâu. Trần gian hay nước Phật Hồn mẹ không khổ đâu.
Kim Phương Oanh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 411 of 2534: Đă gửi: 07 July 2008 lúc 5:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
RẮN LẠI NGHE PHÁP
Chú dẫn : Ngày chủ nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp diên, bốn chúng đệ tử trong Vạn Phật Thành mới cùng nhau niệm "A Di Đà Phật" trên đường về Đại điện, th́ phát hiện ra một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước Đại điện, dài khoảng ba bốn bộ, h́nh dạng rất nhỏ và dài.
Đại chúng thấy rắn th́ sợ không dám tiến vào, bấy giờ vị Tăng giám thị, thầy Hằng Vô, muốn đem con rắn vứt ra ngoài. Song lúc đó th́ Hoà Thượng cũng đang tiến lại, Ngài mỉm cười nói rằng : "Không cần thiết đâu, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, không nên đuổi nó !"
Kỳ lạ thay, con rắn này không giống như những con rắn b́nh thường khác, ḿnh nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua ḿnh, mà nó không sợ hăi ǵ cả, nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hoà Thượng lên đài thuyết Pháp th́ dạy rằng : "Kêu con rắn vào đây mà nghe Pháp đi."
Con rắn nghe như vậy th́ lập tức tiến vào, nó ḅ từ từ vào đến ngay giữa Chánh điện không hề làm kinh sợ những người hai bên, rồi từ nơi Đại điện ở phía trái nó ḅ qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một ṿng, xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp ṭa, cũng giống như là quỳ trước tượng Phật vậy, nằm im nghe Pháp.
Hoà thượng mới khai thị cho nó như vầy :
"Nhất thiết chúng sinh Giai hữu Phật tánh Giai kham tác Phật."
Đó là câu nói từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chỉ v́ vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí huệ đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói nầy chúng ta có thể suy ra mọi chúng sinh đều có tánh Phật ; đă vậy th́ không nên sát sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên vọng ngữ, không nên uống rượu ; mà phải giữ năm giới ! Sát sinh là giết mười phương chư Phật, v́ chúng sinh là do Phật thị hiện mà ra. Do v́ một niệm không giác ngộ nên sinh ra ba thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển tướng), chúng sinh mới trầm luân trong biển khổ, xa ĺa rồi vĩnh viễn mất đi nền Đạo chân thật !
Các vị tu Đạo hăy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của ḿnh trong quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai, nên khi họ chưa thành Phật, ḿnh phải tôn kính họ. Ḿnh phải đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy th́ tự nhiên hết khinh thường, bất kính, hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh không phải chỉ là thứ hữu h́nh, thậm chí thứ vô h́nh như quỷ, thần, thiên, ma đều là chúng sinh cả. Cho nên ḿnh phải b́nh đẳng cung kính, tôn trọng họ, không nên coi thường họ.
Hôm nay con rắn mà các vị gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song, do nó thị hiện thân rắn, nên chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí c̣n bị lừa nữa. Rắn này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh, nếu không vầy th́ sao nó vào đây mà hết sức hiền hoà, nằm phủ phục chẳng động đậy ǵ cả nơi bục cửa ?
Tuy nhiên, lấy mắt nh́n th́ nó chỉ là con rắn nhỏ ; kỳ thật rắn này có sức thiên biến vạn hóa ; có thể ẩn h́nh, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua luợn lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc đạo. Trong Kinh Phật có đề cập tới Thiên Long Bát Bộ, th́ rắn này thuộc một trong tám bộ đó : Tức là Ma Hầu La Già (đại măng xà).
Quan sát nhân duyên con rắn này, có thể là : Ở thời nhà Châu, rắn này là một vị đại thần, xong tâm địa rất xấu xa, hiểm ác. V́ âm mưu soán đoạt ngôi vua, cho nên y dùng một con dao găm có tẩm rượu độc bỏ vào trong tay áo rồi đi hành thích nhà vua. Tuy nhiên, chẳng những y không soán đoạt được ngôi vua mà ngược lại, c̣n làm cho trời giận, dân oán. Vị đại thần đó khi lâm chung th́ sinh tâm hết sức sân hận, độc địa, cho nên chết rồi đọa làm thân rắn, rồi có đời chuyển thành con trăn lớn.
Ở trên thế gian có hai thế lực là âm và dương, hay thiện và ác. Nếu theo đường thiện mà tận lực tu phuớc và huệ th́ có thể thành Thiên, thành Thánh, thành Bồ-tát, thành Phật. Nếu theo đường ác mà luyện tập th́ thế lực càng ngày càng lớn, song toàn làm những chuyện hắc ám, nào là hăm hại, tàn sát, oán hận, báo thù, do đó mỗi ngày mỗi chồng chất oán khí đầy đặc, lớn lao ; kẻ tích tập oán khí sâu dầy đó sau này sẽ biến thành rắn độc, rồng độc v.v...
Những thứ rắn độc hay rồng độc không phải là thứ mà phàm thấy đặng, song chúng đầy dẫy trong thế giới này. Thứ rắn độc, rồng độc đó là do tâm tham, sân, si tích lũy h́nh thành. Cho nên khi bọn chúng tới chỗ nào là chỗ đó có tai họa. Thiên tai, nhân họa, phi thi (xác chết biết đi), tà quỷ (quỷ phá làng phá xóm), yêu tinh (những thứ cây cối thực vật, khoáng chất ... hấp thụ tinh khí trời đất mà thành), ma yếm (quỷ tu luyện lâu năm thành ma), hay hoạnh dịch lưu hành (những thứ bịnh nan y) đều do những thứ rắn độc này tác quái. C̣n rồng độc, dịch quỷ, th́ chuyên phóng khí độc, để làm loạn tâm người hoặc đoạt tinh khí của người, làm cho người ta kinh sợ, điên cuồng.
Cho nên, hiện thời lưu hành đủ thứ bịnh tâm lư, như là tinh thần phân liệt, hoặc là điên cuồng, khiếp sợ và đủ thứ tật bịnh sinh lư ..., tất cả đều không ra ngoài phạm vi làm sóng làm gió của bọn yêu ma quỷ quái này. Tâm lư học và y học hiện đại không hiểu được một cách sâu sắc nguyên do của những chứng bịnh đó, cho nên không thể đối bịnh cho thuốc để chữa trị. Đương nhiên Phật Pháp th́ có linh dược triệt để trừ hết được tai nạn, dứt hết được tai ương !
Lại nói đến nhân duyên của rắn độc này : V́ sẵn có tâm sân hận, lại thêm tu luyện cái tâm sân hận đó cho nên mới thành tinh. Rắn luyện pháp thuật càng ngày càng cao. Trải qua một thời gian lâu dài th́ nó thông thiên triệt địa, nhưng chỉ lấy chuyện hại người làm vui. Những chuyện tương tợ như con rắn này trong trời đất có nhiều vô số kể, nên tôi hy vọng bọn chúng mau sinh tâm sám hối, đừng làm chuyện yêu nghiệt, gieo họa cho nhân gian nữa.
Cho đến đời nhà Tống th́ con rắn này trở nên một con rồng độc. Nó ngự trị trên một con sông lớn, chuyên làm sóng gió mưa băo, sát hại không biết bao nhiêu thuyền chài, ngư phủ và khách qua sông. Cả một thời gian dài, có vị Thánh Tăng pháp thuật rất cao cường đặc biệt tới để giải cứu.
Vị đó tay cầm tích trượng, đứng bên bờ sông, lớn tiếng khiển trách rồng độc. Rồng độc nghe được th́ vô cùng tức giận, mới trổ hết bản lĩnh hiện ra thân h́nh măng xà dài ngàn trượng. Song, vị Pháp Sư v́ có Kim Cang Tam Muội chấp tŕ nên chẳng hề sợ hăi. Ngài dùng pháp "Câu triệu" và pháp "Hàng phục" (hai phương pháp để chế phục quỷ thần), trải qua ba ngày ba đêm sống chết chiến đấu với nó, cuối cùng th́ Ngài chiết phục được rồng độc.
Tà không thắng chánh ! Khi ác thuật bị phá rồi th́ rồng độc chẳng c̣n cách ǵ khác hơn là phải đầu hàng. Bấy giờ vị Pháp Sư này mới thuyết Pháp rằng :"Tất cả mọi thứ đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngă, và chỉ có cái nghiệp là theo thân ḿnh !" Đồng thời Ngài dạy nó nên sinh ḷng từ bi, dùng pháp thuật để giúp ích chúng sinh, chớ không thể gia hại sinh linh nữa.
Rồng nghe Pháp rồi th́ thức tỉnh, nên được con mắt thanh tịnh. Vị Pháp Sư mới truyền thọ cho nó Tam Quy, Ngũ Giới, rồi biểu nó tới một sơn động nọ để tu hành, đừng làm năo hại nhân dân nữa ; rồng độc liền tuân theo lời dạy. Từ đời Tống đến nay đă trải qua mấy trăm năm lịch sử rồi, con rồng đó đă trở thành một trong Thiên Long Bát Bộ, thần thông biến hóa vô cùng."
Có lần trong Điện Vạn Phật có một vị Tỳ-kheo-ni nói rằng :"Mấy ngày trước, khi đi ngang qua Đại Hỷ Xả Viện tôi thấy đuôi con rắn này tḥ ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ nó vào hộp gỗ, định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay đầu lại, mở hộp ra th́ rắn đă biến mất rồi. Rơ ràng rắn không cách ǵ có thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông."
Hoà Thượng cười mà nói rằng :"Con rắn này tôi đă biết nó từ trước rồi ! Hai mươi năm trước, khi tôi c̣n ở Chùa Từ Hưng trên núi Đại Dư ở Hương Cảng th́ nó đă từng tới Chuà để nghe Kinh. Tuy nó không làm hại ai nhưng ai cũng đều sợ nó ! Sợ cái tướng rắn. Có lần có người cũng nhặt nó bỏ trong hộp, rồi đem đi thật là xa, không biết bao nhiêu dặm, chừng khi mở hộp để thả nó, th́ rắn không cánh mà bay mất. Ngày nay Phật Pháp truyền sang Tây Phương, rắn này cũng không chối từ đường sá xa xôi bay qua Mỹ để hộ Pháp."
Sau cùng Hoà Thượng giảng dạy như sau :"Chúng sinh học Phật cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không trồng nhân ác th́ tự nhiên chẳng kết quả ác, nếu trồng nhân tốt th́ tương lai chắt chắn sẽ được kết quả tốt. Nhân, quả không sai một mảy may. Ḿnh giết cha người khác th́ có người giết cha ḿnh, ḿnh giết anh người khác th́ người khác sẽ giết anh ḿnh.
Đừng nghĩ rằng có thể tùy tiện làm chuyện ác v́ làm chuyện ác sẽ hết sức tổn hại cho ḿnh. V́ sao ? V́ trời cao có đức hiếu sinh, không muốn cho chúng sinh làm hại chúng sinh. Khi ḿnh làm sai với lư nhân quả th́ : Thân người mà mất đi, vạn kiếp khó có lại được. Cho nên, chuyện ǵ không tin cũng được, nhưng không thể không tin lư nhân quả ! Nếu bài bác lư nhân quả th́ tương lai sẽ hết sức nguy hiểm.
Bồ-tát sợ nhân mà không sợ quả, cho nên hết sức thận trọng lúc trồng nhân. V́ nếu vô ư mà trồng nhân ác, th́ lúc thọ quả báo ác, các Ngài đối mặt tiếp thọ quả báo, không chạy trốn, không oán trời cũng không trách người. Ngược lại, chúng sinh th́ sợ quả báo mà không sợ lúc trồng nhân. Lúc trồng nhân th́ hết sức tùy tiện làm chuyện điên đảo, đến lúc thọ quả báo ác th́ sợ hăi vô cùng, oán người trách trời : "Tại sao tôi phải chịu đau khổ thế này ? Tại sao tôi phải chịu báo ứng bất công như thế này.. ?"
Các vị có biết đâu rằng nếu như khi xưa không trồng nhân như vậy th́ bây giờ sao gặt quả như thế ? Hôm nay gặp nhân duyên này, có Thiên Long Bát Bộ hiện thân thuyết Pháp, cho nên tôi nhân cơ hội nó cho các vị biết tiền nhân hậu quả.
Chỉ nhân nhất trước thác, Thâu liễu măn bàn kỳ.
Nghĩa là : Chỉ đi sai một nước, Mà thua cả ván cờ.
Sai lầm chỉ một niệm mà kiếp vận khó văn hồi. May thay là con rắn nay đă quy y Tam Bảo, tương lai nó c̣n có cơ hội để minh tâm kiến tánh. Nếu các vị không tin vào nhân duyên này, th́ cứ tự ḿnh thí nghiệm xem ; c̣n nếu tin nhân quả, th́ đừng nên nghi ngờ ǵ chuyện này cả !
Hoà Thượng Tuyên Hoá
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 412 of 2534: Đă gửi: 07 July 2008 lúc 6:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
SỨC MẠNH CỦA D̉NG
ĐIỆN SINH HỌC
Năm 1938, tại trường ḍng Pèlerin bên bờ sông Hương đă xảy ra một chuyện kỳ lạ, làm xôn xao dư luận Huế. Một em học tṛ nghèo chết, được cuộn trong chiếu rách và đặt nằm tạm trên nền đất ẩm của một chiếc lều con ở cuối vườn. Ngồi cạnh xác là một em học tṛ khác, rất thương bạn nhưng cũng rất sợ ma.
Khoảng nửa đêm, một h́nh thù quái đản, tóc xoă, mặt bôi đen, lưỡi dán giấy đỏ dài, bỗng ho khẽ một tiếng, rồi lừ lừ tiến vào trong lều. Em học tṛ canh xác hoảng sợ, bỏ chạy. Không may, chân em vướng vào một lỗ rách giữa chiếu và dẫm lên da thịt cái thây. Thế là xác chết bỗng giẫy mạnh một cái như bị điện giật, chồm lên, quờ tay níu lấy chân cậu bé. Con ma, vốn là một cậu bé nghịch ngợm mặc dù sợ rúm cả người, vẫn liều chết lao tới, gh́ chặt "con quỷ nhập tràng", mong cứu bạn...
Rạng sáng, các thầy ḍng vào lều bỗng sững lại trước một cảnh thương tâm: giữa lều là ba cái xác bé bỏng, co quắp nằm đè lên nhau: xác em bé sợ "ma", xác "quỷ nhập tràng" và xác "con ma giả"... Căn cứ vào cách ăn mặc của "con ma giả" và tư thế của ba xác chết, cảnh sát và các thầy ḍng đă dựng lại diễn biến của câu chuyện theo tŕnh tự kể trên.
Hai mươi năm sau, trong thư viện của Trạm sinh học Poiaconda trên bờ sông Đen ở vùng Bắc Cực, giáo sự Lê Quang Long người Huế, đă t́nh cờ t́m ra ch́a khoá của chuyện buồn xảy ra trên quê hương ông, trong một bài báo của tập san "Kỹ thuật và Tuổi trẻ", số 193. Báo kể lại một chuyện tương tự, nhưng đánh thức "quỷ nhập tràng" không phải một em bé, mà là một con mèo đen!
Ḍng điện rất mạnh của sự khiếp đảm do cơ thể mèo, quạ và cậu bé phát đi đă làm cái xác "bị giật bắn". Mọi tế bào của một cơ thể sống đều là những pin điện tí hon. Ḍng điện của chúng rất yếu.
Với thực vật: điện của tế bào rễ củ hành là năm mươi mV, của tảo Nitella là sáu mươi mV, của bèo Nhật Bản là sáu mươi lăm mV... Với động vật và người, điện của tế bào cảm quang mắt là bốn mươi mV, của bắp thịt là sáu mươi mV, của năo là chín mươi mV...
Ta lấy một ví dụ: cách đây khoảng năm ngàn năm, người cổ Ai Cập sống trên bờ sông Nile đă biết: "dưới sông có những con cá trê (Malapterus) quật ngă được nhiều thú lớn như trâu ḅ khi chúng xuống sông uống nước bằng những cú đánh hiểm hóc và đột ngột, mà mắt của người trần không sao thấy kịp".
Ngày nay khoa học đă phát hiện trên chín trăm loài cá có khả năng phóng điện như vậy. Loài nào cũng mang trên ḿnh 1-2 "nhà máy điện" gồm vô số đơn vị phát điện trị số 60-120 mV.
Cá đuối điện (Torpedo) trong biển Italy hay quần đảo Guyan có chín mươi "cột điện" đấu song song, mỗi cột gồm bốn trăm "tấm điện" đấu nối tiếp.
Cá ch́nh điện ở Nam Mỹ (Electrophorus) có một trăm bốn mươi cột điện và sáu ngàn tấm điện. Lúc săn mồi hoặc đánh nhau với kẻ thù, cá phóng liên tiếp 3-5 (có lúc 30-50) xung điện, mỗi xung điện của cá ch́nh điện có thể lớn tới sáu trăm V, với cường độ một ampe.
Người ta đă có lần đo được trên một con cá đuối điện lớn miền Tây Âu (Torpedo occidentalis) ḍng điện phóng đi lớn cỡ một ngàn V, với công suất sáu kW! (Theo Prosper 1962).
Năm 1974, dư luận Italy xôn xao v́ có một em bé tên là Supina, lúc cáu giận có thể đốt cháy sách, chăn, màn, và cả chiếc giường em đang nằm. Tổng thống Italy dạo ấy là Santorini, đă treo giải năm chục ngàn USD cho ai giải thích được hiện tượng đó. Thực ra, "lưỡi tầm sét" đáng sợ của "ông Thiên Lôi" mười hai tuổi, đó là tia chớp điện phóng đi từ mười lăm tỷ tế bào pin sống của năo cậu bé.
Mấy năm sau, đến lượt Đài truyền h́nh nước Nga thông báo: cô bé mười ba tuổi Lútmila dùng má gây điện từ, hút một lúc sáuchiếc bàn ủi! C̣n Manzacki ở Ba Lan th́ tuyên bố: năo người là một trạm thu và phát sóng điện từ có chiều dài sóng lớn vài mươi mét, nên chẳng có ǵ lạ nếu ta có khả năng "thần giao cách cảm"!
Những chuyện giật gân như vậy nhiều vô kể trong các tập san và tạp chí vật lư, hoá học, sinh học đông tây kim cổ và cả trong đời thường. Bệnh viện lớn nào của ta chẳng có máy ghi điện tim? Và khoa tâm thần của các bệnh viện Hà Nội, Sài G̣n, Huế, Cần Thơ... đều có máy ghi điện năo.
Nhà vật lư Anh M. Faraday, người phát hiện và ứng dụng điện cảm ứng vào chữa bệnh đă có lần nói: "Cho dù điện vật lư có hấp dẫn bao nhiêu th́ cũng chẳng thể nào đem so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, của ḍng điện đang sống trong mỗi chúng ta".
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 413 of 2534: Đă gửi: 07 July 2008 lúc 6:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
CĂN BỆNH LẠ HAY LỜI
NGUYỀN KHỦNG KHIẾP
Tại Italia có một ḍng họ đă hơn hai trăm năm nay liên tục xảy ra những cái chết bí hiểm. Người dân địa phương đồn đại rằng họ bị ám ảnh bởi một lời nguyền khủng khiếp. C̣n đối với các nhà khoa học, đó là những nạn nhân khốn khổ của một căn bệnh kỳ lạ.
Những cái chết bí ẩn
Năm 1791, cậu bé Giacomo ra đời trong một gia đ́nh trung lưu khá giả tại một thị trấn nhỏ gần Venice. Cũng giống như tất cả các anh chị em trong nhà, Giacomo lớn lên khỏe mạnh và đầy sức sống. Cậu lập gia đ́nh với một phụ nữ cũng khỏe mạnh và xinh đẹp, rồi sinh ra những đứa con kháu khỉnh. Cuộc sống tưởng như chẳng c̣n ǵ hạnh phúc hơn. Nhưng đến năm bốn mươi lăm tuổi, Giacomo đột nhiên mắc một chứng bệnh bí hiểm. Suốt nhiều tháng trời, ông không thể chợp mắt dù chỉ một vài phút. Mặc dù đă chữa qua tất cả các thầy thuốc danh tiếng nhưng bệnh của Giacomo không hề thuyên giảm. Sau một thời gian, ông mất trí nhớ và qua đời trong t́nh trạng hoàn toàn suy kiệt v́ mất ngủ.
Trong hơn hai thế kỷ sau đó, hậu duệ của Giacomo đă trở thành một gia đ́nh đông đúc. Họ đều là những người khỏe mạnh, đẹp đẽ và giàu có. Nhiều người đă trở thành những chính khách, thương gia nổi tiếng ở Italia. Nhưng có một điều kỳ lạ là thế hệ nào cũng có những cái chết bí ẩn ở lứa tuổi trung niên. Nguyên nhân được ghi lại trong gia phả th́ rất nhiều, từ viêm màng năo, động kinh cho đến mất trí. Nhưng nguồn gốc của tất cả đều chỉ là chứng mất ngủ.
Căn bệnh diễn biến hết sức bất ngờ. Bệnh nhân là những người ở lứa tuổi từ bốn mươi đến năm mươi và trước đó hoàn toàn khỏe mạnh. Rồi một ngày, đột nhiên họ không sao chợp mắt được, dù đă thử đủ cách. Huyết áp tăng. Cơ thể mệt mỏi và suy yếu dần. Sau đó là ảo giác, mất trí nhớ, hoặc tệ hại hơn nữa là vẫn tỉnh táo nhưng liệt toàn thân, sau đó ch́m dần vào hôn mê và chết. Riêng trong thế kỷ XX, đă có ba mươi người trong số các con cháu của Giacomo chết một cách đau đớn như vậy. Người dân địa phương đồn đại rằng gia đ́nh này bị ám ảnh bởi một lời nguyền. V́ thế cho dù họ là một gia đ́nh danh giá, có học thức và giàu có, nhưng rất nhiều người không thể kết hôn. Họ cũng bị từ chối tham gia bảo hiểm nhân thọ v́ không hăng bảo hiểm nào dám chấp nhận rủi ro khi đón nhận những khách hàng mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị thần chết thăm hỏi.
Nỗi bất hạnh của 30 gia đ́nh
Măi cho đến năm 1986, định mệnh bí ẩn bao trùm gia đ́nh bất hạnh này mới được khoa học làm sáng tỏ. Đó không phải là lời nguyền hay bùa chú mà là một căn bệnh cực hiếm được gọi là mất ngủ di truyền gây tử vong (FFI).
Đây là một căn bệnh di truyền, hiện chỉ gặp ở khoảng ba mươi gia đ́nh trên toàn thế giới. Nếu một trong bố hoặc mẹ bị bệnh th́ con có 50% khả năng di truyền. Nguyên nhân là do đột biến kép xảy ra ở protein PrP. Cho đến nay, chưa có phương pháp điều trị FFI và người mắc căn bệnh này chắc chắn sẽ tử vong. Hy vọng duy nhất là liệu pháp gen, nhưng v́ đây là một căn bệnh vô cùng hiếm gặp, số người mắc bệnh không nhiều. V́ vậy không mấy nhà nghiên cứu để tâm t́m cách chữa trị. Do đó, hy vọng của những người mắc bệnh là cực kỳ nhỏ.
Trong số các con cháu của Giacomo hiện c̣n sống, có ít nhất hai mươi lăm người đang mang các gen gây bệnh. Điều đó có nghĩa là sẽ có hai mươi lăm con người không thể tránh khỏi cái chết ở lứa tuổi trung niên. Và điều bất hạnh là ở chỗ, họ đă biết rơ điều ǵ đang chờ đợi ḿnh, nhưng không có cách nào tránh khỏi nó.
Khoa Học Đời Sống
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 414 of 2534: Đă gửi: 07 July 2008 lúc 11:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁI ĐẦU LÂU
Chiều hôm đó, tôi ngồi chơi với Ngô Đàm trong pḥng sách của anh ta. Sau một hồi chuyện phiếm, bạn tôi lấy ra một cái hộp gỗ trắng đem khoe tôi:
- Tôi mới mua được cái này hay lắm.
- Cái ǵ?
- Rồi anh sẽ biết.
Nắp hộp mở, anh lấy ra một cái đầu lâu lớn, nương nhẹ đặt lên bàn, rồi nh́n tôi mỉm cười. Tôi hỏi:
- Anh mua vật này làm ǵ?
Đàm không trả lời ngay, lim dim mắt, gạt tàn thuốc lá và thong thả nói:
- Cái đầu lâu là biểu hiện sự chết, là một vật mà các nhà hiền triết hoặc tu hành bên Âu châu thường bày trước mặt, bên những chồng sách đầy bụi bám để suy nghiệm về những lẽ huyền bí của "đời sau". Đối với một nhà thông thái th́ đó là một vật khảo cứu cũng như viên đá lạ, một chất hóa học hay một ống cấy vi trùng. Tôi không phải là nhà hiền triết, không phải là nhà tu hành hay nhà thông thái, nên cái đầu lâu đối với tôi là một thứ bài trí ghê gớm, một thứ đồ... "mỹ thuật" của người hiếu kỳ như tôi. Nhưng có lẽ trong những lúc đọc sách ở nơi tĩnh mịch này, trong những khi suy xét về những điều bí hiểm của sự chết, của đời người, thứ đồ "bài trí" kia sẽ là một vật kích thích cho trí tưởng tượng của tôi... Biết đâu bạn anh sẽ chẳng là một nhà tư tưởng trầm mặc như nhà hiền triết, nhà tu hành?
Câu nói văn hoa, nửa nghiêm trang, nửa đùa cợt của Đàm khiến tôi hơi ngạc nhiên, nh́n bạn.
Bỗng cửa pḥng bật mở, một người thiếu niên mặc âu phục bước vào, chưa kịp nói ǵ đă trông thấy cái đầu lâu, rồi đứng đực ra đó. Đàm hỏi:
- Ḱa, anh Chung, sao hôm nay trông kỳ khôi thế?
Lúc ấy, Chung mới ngoảnh lại sẽ gật đầu chào tôi, rồi lại trân trân nh́n cái đầu lâu trên bàn, măi mới nói:
- ồ anh Đàm! Anh cũng có cái này ư?
- "Cũng có?" Thế ra tôi không thể có một cái đầu lâu được sao?
- ồ, thế anh không thấy ǵ lạ chứ? Anh không thấy ǵ ư?
Chung ngồi xuống, đưa tay vuốt tóc, mặt hăy c̣n vẻ lo lắng, nh́n hết tôi đến Đàm rồi đến cái đầu lâu. Anh nói:
- Sao lại có sự ngẫu nhiên lạ thường đến thế? Tôi đến đây cũng định thuật cho anh nghe về cái đầu lâu ở nhà tôi... th́ lại gặp ngay chính vật này... Chính cái đầu lâu này. Tôi đă tưởng nó đang ở nhà tôi biến lại đây, nên tôi mới sửng sốt đến thế. Để tôi kể đầu đuôi câu chuyện các anh nghe.
Chung lấy chén nước uống cạn một hơi, lóng cóng châm điếu thuốc lá rồi nói tiếp:
"Trước kia tôi vẫn ở trên Hàng Bông như anh đă biết. Nhưng cách đây nửa tháng, anh Lịch là người học trường Mỹ thuật mới ra năm nay, t́m được một cái nhà ngói ở ngoại ô để làm pḥng vẽ. Nhà ấy một tầng chia làm hai căn rộng. Lịch ở một căn c̣n một căn gọi anh Thao học năm thứ hai trường thuốc với tôi đến ở cho vui và chịu đỡ Lịch ít tiền thuê nhà.
Chỗ này ở xa thành phố, chung quanh toàn băi cỏ, một mặt ngoảnh ra phía đường cái. ở chỗ yên tĩnh như thế để học hành, lại rẻ tiền nhà, mà có hai người bạn cùng nhă nhặn tử tế cả th́ c̣n ǵ dễ chịu hơn. Tôi không bao giờ phàn nàn nếu trưa hôm kia anh Thao không có cái ư kiến kỳ quặc đem về nhà một cái đầu lâu.
Đầu lâu th́ tôi không lạ ǵ. Hồi c̣n học trường Bưởi, tôi đă được trông thấy nhiều lần ở pḥng thí nghiệm. Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà thương về lại là của một tên tù mới chết, trông c̣n mới, trắng hơn cái này nhiều, mà xương chưa được khô lắm. Thao xem ra quư hóa cái vật quái gở ấy lắm. Tôi th́ không. Tôi thoạt trông thấy nó bỗng ghê rợn cả người... Có lẽ v́ tôi thoáng nghĩ đến cảnh hiu quạnh chung quanh nhà của chúng tôi, hay có lẽ tôi vừa mới đọc xong những truyện linh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước... Cái đầu lâu đặt trên bàn học anh Thao kê gần cửa sổ lúc nào cũng như chăm chú nh́n tôi bằng hai con mắt đen và rỗng, mà hai hàm răng th́ nhe ra một cách chế giễu độc địa. Tôi có cái cảm giác khó chịu h́nh như "nó" biết cả những điều tôi nghĩ thầm. Tôi sinh ác cảm với "nó" và chắc hẳn "nó" cũng không ưa ǵ tôi. Cái vật trơ trơ kia không ngờ lại làm tôi băn khoăn đến thế. Tôi lấy đủ các nhẽ để tự nhủ ḿnh cũng không xong, mà nỗi lo ngại của tôi mỗi lúc một thêm nặng nề như đè nén măi ḷng ḿnh.
Tối hôm ấy, thấy bứt rứt trong người, để Thao ngồi học một ḿnh, tôi đi nằm trước. Anh Lịch ở pḥng bên cạnh vào nói mấy câu chuyện rồi lại ra ngay. Tôi nằm đó chừng đến hơn một giờ đồng hồ mới ngủ đi được. Nhưng cả trong giấc ngủ, tôi vẫn bị cái đầu lâu kia ám ảnh hoài. Tôi nằm mơ toàn thấy những đầu lâu với xương người, hay những cái ghê sợ hơn thế. Một lần tôi hốt hoảng thức dậy th́ ngọn đèn cây trên bàn học anh Thao đă tắt, trong nhà tối đen như bưng lấy mắt, bên ngoài cũng vậy, v́ tôi cố t́m cái cửa sổ chấn song sắt cũng không trông thấy đâu. Bên cạnh tôi anh Thao chừng đă ngủ say, tiếng thở đều và thong thả. Thỉnh thoảng một tiếng ngáy ở buồng anh Lịch lại đưa sang. Mọi vật quanh nhà đều im ĺm. Không một tiếng lá bay, không một hơi gió thoảng. Tôi muốn quên mà không thể quên cái đầu lâu kia được. Tôi thấy h́nh như nó có tri giác, nó "vẫn c̣n thức" và trong bóng tối, đang nhăn răng tráo mắt nh́n sự kinh khiếp của tôi.
Bỗng nhiên tôi thấy lạnh tái người đi. Từ phía bàn giấy anh Thao, tôi chợt nghe thấy những tiếng ken két như hai hàm răng nghiến vào nhau. Tiếng ấy nghe mỗi lúc một rơ dần, mà lâu đến gần một phút. Trước tôi c̣n muốn tin là tiếng anh Thao nghiến răng trong mơ. Nhưng Thao nằm bên cạnh tôi, mà tiếng kia th́ rơ ràng ở bàn giấy đưa lại. Tiếng nghiến răng vẫn không dứt, nghe ra giận dữ và ghê gớm hơn lên... Tôi vội nắm lấy cánh tay anh Thao, hết sức lay. Thao thức dậy hỏi th́ tiếng nghiến răng lại ngừng bặt. Tôi ghé tai Thao nói rất nhỏ:
- Này Thao ạ, tôi vừa thấy một việc lạ quá!
- ở đâu?
- ở cái đầu lâu.
- Có lẽ nào?
- Cứ để yên mà nghe.
Rồi chúng tôi không nói ǵ thêm, lắng tai nghe ngóng một lúc th́ lại thấy như trước, tiếng nghiến răng cứ trước nhỏ, sau to dần. Thao liền đứng phắt lên, chạy lại bàn đánh diêm thắp đèn: cái đầu lâu vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng lúc ấy ngoảnh mặt nh́n về phía giường tôi nằm.
Chúng tôi nh́n khắp nhà một lượt. Không có ǵ lạ. Cửa sang pḥng anh Lịch vẫn đóng kín. Của sổ tuy không có cánh, nhưng có chấn song sắt, mà cái bàn giấy của Thao kê xa đó những năm sáu bước, áp vào bức tường đối diện với giường của chúng tôi.
Thao bảo tôi rằng những tiếng vừa rồi là tiếng chuột gặm, nhưng chính anh cũng biết nhà chúng tôi không có qua một con chuột nào. Và cái tiếng lúc nẫy nghe to, nghe rơ một cách khác thường lắm.
Thao thấy tôi lo ngại cũng không b́nh tĩnh được, nhưng anh cố t́m lời an ủi tôi.
Chúng tôi để đèn rất lâu chờ xem, song không thấy ǵ. Nhưng khi tắt đèn lên giường nằm chưa đầy nửa giờ, th́ cái tiếng nghiến răng lúc năy lại bắt đầu, mà lần này thêm dữ dội.
Lúc ấy, cây đèn để ngay cạnh giường ngủ. Tôi chập ba que diêm làm một bật lên thắp. Trông sang bàn giấy th́ cái đầu lâu đang lắc lư như thằng phỗng nhựa của trẻ con chơi!
Ngô Đàm bỗng ph́ cười lên th́ Chung có ư không bằng ḷng.
"Quả thế, cái đầu lâu cứ nhăn nhở, lắc lư đến nửa phút. Mà chả có ǵ đáng cười hết. Chính anh Thao là người không sợ ǵ cả, lúc ấy cũng phải kinh ngạc mà nh́n tôi.
Suốt đêm ấy, chúng tôi không ngủ, cứ để đèn ngồi ŕnh th́ lại không thấy xảy ra việc ǵ nữa.
Sáng hôm sau (tức là hôm qua) chúng tôi nói chuyện ấy cho anh Lịch nghe th́ anh cũng không tin. Sau thấy tôi nhất định nài anh Thao đem cái đầu lâu vứt đi, Lịch mới cho là chuyện có thực. Nhưng anh nói:
- Đă thế th́ để đêm nay tôi cũng ŕnh xem, rồi có thế nào vứt đi cũng không muộn.
Th́ đêm qua cũng lại giống đêm trước. Cứ tắt đèn được một lúc lại thấy cái đầu lâu nghiến răng ken két mà thắp đèn lên lại thôi.
Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một đoạn dật sử về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy kể chuyện những thủ cấp sau ba, bốn giờ vẫn c̣n sống được, nên tôi càng cho việc cái đầu lâu kia nghiến răng là một việc phi thường. Bây giờ th́ tôi ṭ ṃ hơn là khiếp sợ. Tôi bảo Thao cứ để yên cái đầu đấy và đến rủ anh ngủ ở nhà chúng tôi một tối xem. Tôi vẫn biết anh hay để ư đến những thứ chuyện kỳ dị này lắm".
Ngô Đàm vui ḷng nhận lời. Tôi cũng ngỏ ư muốn đi với anh ta một thể và cùng hẹn đến tối sẽ có mặt ở nhà anh Chung.
Lúc Chung ra khỏi, Đàm xoa tay mỉm cười một ḿnh. Tôi hỏi ư anh về chuyện vừa rồi ra sao, th́ Đàm chỉ nhún vai, nói:
- Tôi sợ không gặp được cái ly kỳ như anh Chung nói, không khéo lại chỉ là một câu chuyện buồn cười thôi. Nhưng dẫu sao, ta cứ đi xem, không biết đâu mà nói trước được.
Bẩy giờ rưỡi hôm ấy chúng tôi đến nhà th́ các anh Thao, Chung và Lịch đang ăn cơm ở pḥng vẽ của Lịch. Đàm đứng xem mấy bức vẽ than của Lịch được chừng năm phút th́ các anh ăn xong. Chúng tôi sang cả pḥng bên kia nói chuyện.
Trước hết, Đàm đi lại bên bàn cầm cái đầu lâu ngắm nghía măi. Mặt anh có vẻ nghiêm trang như nhà thông thái đang khảo cứu, nhưng đôi mắt tươi cười một cách hóm hỉnh. Bỗng anh quay lại hỏi Lịch:
- Anh có thấy ǵ lạ ở cái đầu lâu này không?
- Không.
- Giá lúc anh cầm nó lên xem, anh chú ư chút nữa, th́ thấy bốn chiếc răng trong cùng hà gần một nửa.
Lịch ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng sao anh lại biết tôi đă cầm lên xem?
- Có ǵ là lạ. Anh cầm lên xem cẩn thận lắm, nhưng lúc chực bỏ cái quai hàm dưới ra để xem bộ răng th́ trượt tay suưt đánh rơi xuống bàn. Có phải không?
- Phải. Nhưng sao anh biết?
- Tôi thường đọc sách của Conan Doyle, nên cũng tập được một đôi chút tỉ mỉ. Những vết đen này là bởi than vẽ ở ngón tay anh ra... Chỉ cần để ư một chút cũng thấy được. Anh đang vẽ ở pḥng ngoài chắc chợt nghĩ đến cái đầu lâu, nên vào xem thử chứ ǵ?
Rồi Đàm đi khắp gian nhà, cúi nh́n các chân tường một cách cẩn thận như người đi t́m một vật quư đánh rơi. Anh lại nhờ Lịch cầm đèn ở pḥng bên sang, c̣n tự anh cũng cầm cây đèn bên cạnh cái đầu lâu, và bảo dẫn đi xem chung quanh nhà.
Bên ngoài tối như mực. Trên trời mây ám không có một ánh sao nào. Ngoài một hàng dóc rào mau, xa xa thấy một đám sáng chiếu lên: đó là thành phố Hà Nội. Sau một cuộc t́m xét rất kỹ càng, nhưng rất vô ích, Đàm đạo mạo như một nhà trinh thám, bước vào trong nhà rồi xoa hai tay vào với nhau. Thốt nhiên, như sực nghĩ ra điều ǵ, anh nói:
- Tôi khờ quá, không đem cái đèn bấm ở nhà tôi lại.
Thao nói:
- Hay để tôi lên phố mượn?
- Anh chắc có mượn được không. Thôi để tôi về nhà lấy vậy. Phiền thực, nhưng thế chắc chắn hơn.
Lúc Đàm trở lại th́ đă gần mười một giờ: anh đi nửa đường th́ xe đạp nổ bánh.
Chúng tôi để sẵn diêm với đèn gần tầm tay. Cái đèn bấm Đàm trao cho Chung, c̣n anh ta th́ ngồi ở một cái ghế thấp bên cạnh cửa sang pḥng anh Lịch. Trước khi tắt đèn, Đàm dặn chúng tôi không ai được làm ǵ, nếu không có lời anh ấy bảo.
Đèn tắt. Bóng tối dầy đặc trong nhà. Tôi đưa tay lên tận mắt cũng không trông thấy. Thao với Lịch nằm sát vách, c̣n Chung và tôi th́ ngồi ở mép giường. Không ai nói qua một lời. Tôi nghe hơi thở của Chung th́ biết anh ta hồi hộp lắm.
Cái lo ngại dần dần ám đến. Mà sự yên lặng ở gian pḥng có nhiều người này lại càng có vẻ khác thường. Chúng tôi cùng hết sức lắng tai, tiếng đồng hồ đeo ở tay anh Lịch nghe rơ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời giờ, nhưng măi cũng sinh chán, và trong ḷng lúc ấy thấy nôn nao một cách lạ. Tâm linh h́nh như bị kích thích và h́nh như báo cho tôi biết trước có một điều ghê gớm sắp xẩy ra...
Có lẽ chúng tôi ngồi đó đă ngót một giờ, có lẽ lâu hơn nữa; mà tịnh không thấy một tiếng động nào hết. Hai anh Thao và Lịch chừng như đă ngủ, tôi đưa tay định xem họ c̣n thức không th́ bỗng Chung nắm chặt lấy cánh tay tôi, nói khẽ quá đến nỗi tôi phải đoán ra chứ không nghe rơ:
"Im! Nghe!"
Tôi chú ư nghe th́ quả nhiên thấy có tiếng ken két nghiến răng thực. Lúc ấy tôi mới hiểu cái khiếp sợ của Chung. Lúc ấy tôi mới thấy rơ ràng cái ghê rợn của người gặp ma quái. Tay Chung vẫn nắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run run. C̣n tôi th́ cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê gớm lúc đó.
Thấy hơi nóng ở sau gáy, tôi biết hai anh Thao và Lịch đă ngồi dậy. Tôi tráo mắt nh́n bóng tối đen đặc và mỗi lúc tưởng thấy h́nh thù dị thường hiện lên.
Tiếng nghiến răng càng lâu càng rơ thêm. Thỉnh thoảng ngừng lại một giây rồi lại nghiến nữa. Đàm ngồi trên chiếc ghế gần đó có lẽ cũng sinh nát đảm: chúng tôi không trông thấy anh, mà đợi măi cũng không thấy anh bảo sao.
Hốt nhiên, từ phía đầu lâu, một tiếng quái gở gào lên trong những tiếng cười nghe sởn tóc gáy. Mọi người đều vùng dậy, tôi không đợi anh Đàm nữa, vớ lấy diêm đánh, mà Chung cũng bật đèn bấm lên.
Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng, và ngay cạnh đấy, một vật đen ng̣m đang giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đă đỡ chói th́ nhận ra đó là một con mèo đen bị giữ trong tay Đàm.
Đám lúc ấy, tay th́ giữ mèo trên bàn, nhưng người th́ ở dưới gầm bàn. Anh cả cười lách chui ra, vừa gặp lúc chúng tôi ồ cả lại. Con mèo giương mắt kinh hăi nh́n chúng tôi. Một con mèo to, đen, mà gầy, lông mọc xờ xạc không đều và không mượt.
"Đấy (lời Đàm nói) cái quái dị mấy hôm chỉ là ở con vật đói này mà ra cả. Các anh nên nhớ rằng cái đầu lâu vô tri giác kia c̣n mới, mới luộc xong, vẫn c̣n hơi thịt... Từ lúc anh Chung mới kể chuyện, tôi đă ngờ thế... Đến lúc xem lại cái đầu lâu với cái cửa sổ không có cánh này, th́ tôi đă hơi chắc. Mà bây giờ th́ đă nắm được, h́! Đă nắm được "điều huyền bí" ở trong tay".
Sự lo sợ của chúng tôi bấy giờ lại đổi ra sự kinh ngạc. V́ có ngờ đâu câu chuyện kỳ quái ấy chỉ gây nên bởi một con mèo.
Bên đường Thiên lôi
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 415 of 2534: Đă gửi: 08 July 2008 lúc 12:56am | Đă lưu IP
|
|
|
BẠN TIN CÓ MA HAY KHÔNG?
TẠI HOA KỲ?
Đây là một đề tài nghiêm túc v́ có liên quan đến nhiều người có tai mắt tại cộng đồng Việt Nam hải ngoại, như nghệ sỉ Nam Lộc, giám đốc nghệ thuật Trúc Hồ và trung tâm Asia phải cầu nguyện.
Tại hư viện Quốc Gia National Theatre. Lần này trung tâm Asia lấy chủ đề: “ Hành Tŕnh Ba Mươi Năm “ cho cuốn DVD ca nhạc của trung tâm này . Họ chọn rạp The National Theatre tại Washington DC làm nơi tŕnh diển.
Rạp này cách The White House chừng ba blocks đường, nằm đối diện với Freedom Plaza hay gọi công trường Tự Do. Theo đài Á Châu Tự Do th́ sở dỉ trung tâm Asia chọn The National Theatre v́ người thực hiện chương tŕnh là nhạc sỉ Trúc Hồ, họ chọn là có thể mời cảm tạ các ân nhân đă đón nhận người tị nạn, đồng thời cố gắng vươn lên và đạt thành quả của người Việt sau ba mươi năm ra hải ngoại.
Do đó anh yêu cầu luật sư Trịnh Hội và nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cùng điều khiển chương tŕnh nầy cùng với nghệ sỉ Nam Lộc, Việt Dzũng ..
Trung tâm Asia thường chọn những rạp nổi tiếng như Kodak Theatre, nơi này tại Hollywood thường dùng để trao giải Oscar hàng năm. Theo nguồn tin hành lang đáng tin cậy, th́ chi phí thuê rạp lên đến nữa triệu mỹ kim cho một ngày.
C̣n chi phí thuê rạp The National Thatre lên đến bảy trăm ngàn mỹ kim. Đó là tiền thuê rạp mà thôi, c̣n tiền chi phí như ê kíp quay h́nh, thu âm, ca sỉ.. nên tiền vượt lên trên hơn một vài triệu mỹ kim là thường.
C̣n rạp Kodak chứa đến ba ngàn chổ ngồi, trong khi rạp The National Thatre có sức chứa khoảng một ngàn ba trăm người. Thế nhưng tất cả tiền triệu triệu đó suưt trở thành mây khói...v́ trục trặc kỷ thuật trầm trọng một cách khó hiểu..
Theo nghệ sỉ Nam Lộc th́ 9 cái camera thu h́nh DVD đă không hoạt động đuợc ngay từ đầu xuất trưa. Trong lúc các kỷ thuật chuyên viên đang lo lắng sữa chữa th́ trên sân khấu các MC như Nam Lộc, Dương Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Trịnh Hội ráng kéo dài để câu giờ chờ sữa chữa xong...nhưng đến ba giờ chiều th́ vẩn chưa xong.
Khán giả bắt đầu khó chịu và một số yêu cầu trả tiền vé lại. Nếu 9 cái camera mà không thu h́nh cho DVD được th́ kể như khán giả bốn phương trời sẽ không có DVD thu h́nh gọi là "Hành Tŕnh Ba Mươi Năm" của trung tâm Asia.
Rạp The National có một oan hồn là một kịch sỉ tên là : John McCullough.
Các nghệ sỉ trong hậu trường bắt đầu suy nghỉ đến sự cúng vái hồn ma, nên các nghệ sỉ Thanh Thúy, Thanh Tuyền và Lâm Nhật Tiến bắt đầu đi mua hoa quả, nhang đèn bánh trái .
Anh Kim là một khoa học gia cho chương tŕnh NASA qua tâm sự với ṭa soạn, chính anh là người đi mua đồ cúng cho Thanh Tuyền. Khi anh mang đồ cúng vào rạp th́ bị người gác rạp ngăn anh lại không cho mang vào, nhưng anh tŕnh bày là dùng để cúng oan hồn th́ người gác rạp vui vẽ cho vào.
Các nghệ sỉ Công Giáo th́ nắm tay nhau đọc kinh . các nghệ sỉ Phật Giáo vừa đọc kinh vừa vái lạy cung kính. Không khí thật u tịch và linh thiêng.
Trong lúc tuyệt vọng th́ hai nhạc sỉ Trúc Hồ và Việt Dzũng đứng trên sân khấu thầm cầu nguyện linh hồn nhạc sỉ Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và hàng trăm ngàn vong hồn các người tị nạn chết trên con đường vựot biên bằng đường bộ, đường thủy.. sống khôn chết thiêng về rạp The National Theatre thương lượng với oan hồn nghệ sỉ John McCullough để show quay được h́nh DVD.
Cúng xong th́ như phép lạ xảy ra...tất cả một loạt 9 cái camera thu h́nh đồng loạt hoạt động tốt. Khi 9 cái camera chạy tốt, cô Thy Vân giám đốc trung tâm Asia đùa: “ Có lẽ anh Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và linh hồn hàng trăm ngàn người đă cùng nhau đánh với oan hồn kịch sỉ nên được mọi chuyện tốt.
Chính nghệ sỉ Nam Lộc hỏi các chuyên gia kỷ thuật máy móc thu h́nh th́ họ trả lời: “ Chúng tôi cũng không biết v́ sao như vậy ? Trong đời chúng tôi mấy chục năm trong nghề mà chưa lần nào thấy chuyện kỳ cục như vậy, tự dưng tất cả 9 máy không chạy, rồi tự dưng tất cả 9 máy chạy lại ?
Có điều sau khi oan hồn kịch sỉ John McCullough chịu thua, th́ bầu không khí trong hội trường bốc lên chưa từng thấy, đến nổi Thứ trưỡng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là Arthur Gene Dewey bốc lên trong lúc đọc diển văn dài đến trên mười phút, thay v́ ba phút mà thôi.
Kỳ Phát
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 416 of 2534: Đă gửi: 08 July 2008 lúc 10:05am | Đă lưu IP
|
|
|
THUẬT THẤY MA QUỶ
1. Phương pháp nhiếp Quỷ
Đầu tiên ngồi xếp bằng nhắm mắt tỉnh tọa, quên hết mọi việc bên ngoài, để dần dần đi vào mặc tưởng, dùng phương pháp hô hấp toàn thân, đưa tâm lực đi vào đơn điền, để đưa chân khí từ đan điền lên hai bàn tay đang bắt ấn Huyền Thiên Thượng Đế, tức hai tay trước bắt ấn như sau :
Đầu tiên ngón đeo nhẩn co lại vào ḷng bàn tay, kế đến ngón út bắt quàng qua lưng của ngón đeo nhẩn , ngón giửa co lại vào ḷng bàn tay, ngón cái đè trên đầu ngón giửa lại, c̣n ngón trỏ duổi thẳng ra, xong hai tay chắp lại, ḷng bàn tay hướng vào ḿnh, và hai đầu ngón trỏ bên trong của hai tay chạm ngửa nhẹ vào nhau, gọi là là Lư Sơn Lưu Ly Ấn.
Tiếp đến dùng tâm lực vận khí từ đan điền lên tỏa ra đầy lồng ngực, và từ đó để ư tại tâm nhản, như vậy không lâu sẻ trông thấy ma quỷ sẻ hiện h́nh, nhưng nếu ta mở mắt ra th́ ma quỷ liền biến mất ngay .
2. Phương pháp ban đêm trông thấy ma
Cách thứ nhất thấy ma tạm thời: Lấy hai mắt của con chim quạ đen, đem đi ngâm nước vài ngày, xong dùng nước này thoa lên trên mí mắt trái ba ngày, tối ngày thứ tư sẻ thấy quỷ hiện h́nh, tục gọi là mở quỷ nhản hay âm dương nhản.
Cách thứ hai vỉnh viển thấy ma quỷ: Lấy hai tṛng con mắt tươi của con chim quạ đen, đem nhúng xuống nước sôi vài lần và nuốt trọng xuống trong bụng, th́ suốt đời bạn sẻ trông thấy ma quỷ, mà không có cách giải cứu được, nếu có hối hận củng đả muộn, nên tính kỷ mới thực hành.
3. Phương pháp mở mắt thấy quỷ
Lấy nước sương trong ngày tiết thanh minh hay tiết đoan ngọ, đổ vào một chậu sành, bỏ hai lá cây liểu xanh tươi vào trong đó, ngâm trong nước sương nầy trong ba ngày, sau đó lấy nước nầy thoa vào mắt hay lấy lá nầy dán trên mí mắt sẻ thấy quỷ ngay .
4. Phép đợi quỷ
Sáng sớm khoảng một giờ đến ba giờ sáng, đi đến dưới một chân cầu vắng vẻ, xong đốt ba cây nhang trước mặt, kế đến đem một bó rơm nhỏ đội lên đầu và quỳ ở dưới chân cầu, gần nơi có nước ḍng nước chảy qua, đừng nên động đậy, như thế một lúc sau sẻ thấy ma quỷ đến, sẻ tưởng bạn là thần thổ địa và đến lạy bạn, th́ bạn đừng sợ và đừng lên tiếng, cũng đừng động đậy hoặc bỏ chạy, sẻ nguy hiểm cho bạn, cách nầy rất nguy hiểm.
5. Cách thấy quỷ trong tiết trung nguyên
Mổi năm đến tiết trung nguyên, th́ chùa chiền hay đạo quán đều tổ chức lể siêu độ rất lớn, do đó nếu bạn ngưng khí hội thần nh́n các đồ cúng, hay đứng dưới vạt áo của các thầy mà nh́n ra, th́ sau khi các thầy đọc kinh tụng chú xong, bạn sẻ thấy cô hồn các đản sẻ đến tranh lấy đồ cúng, khi nh́n bạn cần thành tâm th́ mới linh.
Mổ́i năm vào tháng bảy âm lịch là tháng của ma quỷ th́ ma quỷ ra nhiều, dể thấy chúng nó, c̣n những tháng khác th́ ít hơn. Nếu bạn sợ ma, không muốn thấy ma th́ chỉ đọc chơi thôi.
ÁNH SÁNG T2
ÚC CHÂU
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 417 of 2534: Đă gửi: 08 July 2008 lúc 11:03am | Đă lưu IP
|
|
|
KHOA HỌC TÂM LINH TỔNG HỢP
Những hiện tượng tâm linh và linh hồn, đă và đang là một vấn nạn từng trải qua bao thời đại; nó rất phức tạp và đa dạng; Do đó v́ những trở ngại mọi mặt trong một xă hội quy ước của con người, mặc dầu rất khó khăn cho người t́m chân lư, nhưng nhờ ta có thể nh́n những hiện tượng chung quanh, mà có thể biết được nguyên nhân.
Nh́n tất cả những kết quả cuối cùng, có thể biết được hư thật có không, mà ta không cần phải nói ra , hay cần đến sự chấp nhận hay đồng ư của mọi người. Mặc dù chân lư nầy không có ai nói đến, hay không được ghi chép rỏ ràng từ trong sách vở. Việc ǵ cũng có lư do của nó.
Tinh hoa của con người là Thần thức và Linh hồn; do đó con người có thể làm cho nó trở thành bất tử, qua kỷ thuật tâm linh siêu cấp, nhờ đó mà sinh mạng thức toàn vẹn của con người, được tiếp nối liên tục và sinh tồn măi măi...luôn hưởng hạnh phúc và phồn thịnh, trên cảnh thiên đàng nơi hạ giới này..
Con người nhờ sự di truyền của cha mẹ mà được sanh ra ở thế giới vật chất. Con người sanh ra được sở đắc một thể xác vật chất do mẩu DNA di truyền của cha mẹ tạo nên, theo một khuôn mẩu đă định sẳn trong DNA.
Với một bộ nảo vật chất mổi ngày một phát triển với một mức độ hoàn hảo, nơi đây trở thành trung tâm lưu giữ những kư ức, ấn tượng thu nhận của các giác quan, kinh nghiệm cùng kiến thức, văn hóa học tập của một cá nhân; ngoài ra nảo bộ c̣n là trung tâm thu và phát sóng và trao đổi thông tin đến các cá nhân khác, hay các tác nhân đồng bộ trong môi trường và vũ trụ xa gần chung quanh.
Khi đứa bé sinh ra các hoạt động sinh tồn, đều đặt dưới ảnh hưởng của DNA, vô thức hay linh hồn A lại da thức lúc nầy rất đơn giản; nhờ sự tiếp xúc của ngũ thức: mắt, tai, mủi, miệng, thân mà ư thức được tạo ra và sự chất chứa những thông tin bên ngoài, mổi ngày được tăng lên và trở thành đa dạng và phức tạp.
Từ đó tiềm thức hay thể vía t́nh cảm của đứa bé được tạo thành, với tuổi đời chồng chất, kho vô thức hay linh hồn trở thành nơi chứa của Dương Thần, Kư ức của dương thần và linh hồn cá nhân.
Các chức năng vi tế của nảo bộ là ư thức, tiềm thức và vô thức; ư thức là dụng cụ cho con người sử dụng tư duy hàng ngày, để sinh tồn trong thế giới vật chất, tiềm thức hổ trợ cho ư thức trong hoạt động tư duy và c̣n là chiếc cầu nối cho ư thức liên lạc với Dương thần.
Kư ức của dương thần và linh hồn, khi con đường siêu thức Antaskarana được khai thông. Dương thần vừa hướng dẩn ư thức trong tư duy, vừa là nơi cung cấp tất cả kư ức, kinh nghiệm và kiến thức xưa nay của cá nhân thu thập trong suốt một đời người. Ư thức chỉ có thể lưu thông với thể vía, hay tiềm thức và chỉ giao thông được với kư ức của dương thần, dương thần và linh hồn, khi nó nối được cầu siêu thức ANTASKARANA.
C̣n linh hồn cá nhân hay Âm thần là nơi chứa Dương thần cùng kư ức của dương thần ( kư ức của dương thần cũng là nơi chứa thể vía hay là tiềm thức của con người ) và cũng là nơi thông lộ liên lạc của một cá nhân với linh hồn của những người khác, đồng thời cũng là nơi liên lạc và đọc được những thông tin được lưu giữ trong kư ức của vũ trụ AKASHIC RECORD.
Khi con người c̣n sống, nhờ tập luyện phát triển những tiềm năng tiềm ẩn của con người, nên những người này khả năng tâm đặc biệt có thể đọc được những bức xạ tàn dư của người chết, và đọc được kư ức của vũ trụ.
khi cơ thể người này bị hư hại v́ tai nạn, bệnh tật hay già yếu, người này dùng phương pháp Tá Thi Hoàn hồn hay là Đoạt Xă Trọng Thức để chuyển toàn bộ tinh hoa tâm linh của họ qua một hài nhi mới sanh, hay qua một cơ thể khơe mạnh khác, hay qua thể xác mới của ḿnh nhờ vào phương pháp CLONE hiện đại. Nếu không t́m được một thể xác lư tưởng cho việc đoạt xă, th́ thần thức của người nầy phải tan rả như người b́nh thường.
C̣n những người b́nh thường, khi họ chết th́ tự ngă, ư thức tự thể và dương thần của họ cũng bị chết và tan mất, chỉ c̣n lại bốn hạt lưu tánh nguyên tử:
1. Linh hồn cá nhân và kư ức của dương thần, là một phần của dương thần đả mất ư thức
2. Trí, hạ trí
3. Vía, tiềm thức
4. Phách, được phóng ra trong không gian và được lưu trử như là một loại bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, bán hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh; nó sẻ được tái hiện trở lại cỏi vật chất qua bộ nảo của một người nào có kết cấu rung động đồng bộ với nó...Như những hiện tượng hồn ma, luân hồi, nói chuyện với người chết, thế giới của cỏi âm ..v...v...
Chúng ta quên đi những tiền kiếp, v́ chúng ta khi chết đi, thần thức của chúng ta cũng chết đi; và khi đứa bé mới được sinh ra, th́ phần tâm linh do nảo bộ cấu thành hoàn toàn trong trắng và vô tư, nếu nhờ sự cấu trúc đặt biệt của nảo bộ rung động đồng bộ với một bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, nên đứa bé hay người nào đó sẻ trở thành thiên tài hay cao nhân trong tức khắc, và bức xạ tàn dư hoàn chỉnh này hoàn toàn nằm dưới quyền sử dụng của dương thần hay tự ngả mới của đứa bé hay người đó.
Hoặc trong trường hợp đặt biệt do thể xác đứa bé hay một người nào đó bị đoạt xă, bởi một người khác biết kỷ thuật này, th́ thể xác của đứa bé hay người đó sẻ hoàn toàn chiếm ngự bởi tự ngả cùng bản ngả của người dùng kỷ thuật đoạt xả hay tá thi hoàn hồn. Ở những người b́nh thường, khi tâm nảo của họ bị thôi miên hay đi vào đại định, th́ họ có thể nhớ lại dĩ văng cùng những kỷ niệm của họ; nhưng khi đi sâu hơn nữa, th́ nảo bộ được sắp xếp lại theo một mức độ rung động khác thường, nên nó có khả năng bắt được một bức xạ tàn dư nào đó, làm cho con người có cảm tưởng là ḿnh đă từng sống ở một kiếp xa xăm nào đó, và tưởng lầm ḿnh là người đó ở kiếp trước.
Cả những trường hợp thí nghiệm, đặt nảo bộ dưới một kích thích điện từ hay tiêm một chất hóa học nào đó, cũng có thể điều chỉnh, tái phối trí các ḍng điện nảo của nảo bộ, và nó sẽ tạo sự cộng hưởng với những bức xạ tàn dư nào đó, th́ con người cũng có thể thấy hay đọc được những thông tin này và lầm tưởng là hiện tượng luân hồi, tái sinh hay kiếp sống trước đó của ḿnh.
V́ tất cả những thông tin ở môi trường chung quanh con người, đều phải đi xuyên qua ngũ quan của con người, cuối cùng đều biến đổi thành những luồng xung động thần kinh đă được mă hóa đặc biệt dưới ngôn ngữ của nảo bộ; nên những cuộc thí nghiệm như, kích thích nảo bộ của con người đang nhắm mắt hay đang ngũ, bằng một ḍng điện từ đă được mă hóa những thông tin mutimedia nào đó, th́ người này có thể thấy, nghe và như là đang sống thật trong ảo giác đó.
Trường hợp của Cô Kumari Shanti và Jeny được xem là tái sinh, cũng là trường hợp nảo bộ của hai người có cấu trúc đặc biệt có thể tự nhiên và thường xuyên bắt được bức xạ tàn dư hoàn chỉnh của người đă chết, mà hạ trí của họ bị đồng hóa với hạ trí được lưu giữ trong bức xạ tàn dư; nên hai người có thể nhớ lại toàn bộ sinh hoạt và t́nh cảm của người đă chết này như trong câu chuyện nêu trên; nhưng v́ là tự ngă của hai người vẩn c̣n, nên hai người này c̣n có thể nhận biết cha mẹ hiện giờ của họ là ai và cha mẹ kiếp trước trong bức xạ tàn dư là ai. Đây có thể xem trong tâm thần bệnh học là một con người hai cá tính.
C̣n trường hợp của Lanfranco Davito có thể nhớ lại sáu kiếp trước, là do nảo bộ của anh ta có một cấu trúc phức hợp, có thể lần lượt thu nhận tự nhiên được sáu bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, của sáu người đă chết ở những địa điểm và thời gian khác nhau.
Với hệ thống tín ngưởng và phong tục hiện nay của xả hội không giải thích được hiện tượng trên, nên lầm tưởng là người này đă sống qua sáu kiếp trước vậy, v́ sáu bức xạ tàn dư này, không có sự tồn tại Dương thần của người đă chết, nên sáu bức xạ tàn dư này được thông dịch và đọc ra bởi tự ngả và ư thức của chàng Lanfranco Davito.
Như máy DVD hay máy vi tính đọc dĩa hay nối với mạng multi-media internet vậy. Việc này được những nhà ngoại cảm cao cấp hay những nhà tâm linh đắc đạo có thể phân biệt và nhận chân được những dạng bức xạ này.
Ngày nay dần dần nhờ có sự sự hợp tác của khoa học quy ước và khoa học không quy ước ở phạm vi xả hội hay phạm vi cá nhân; luật luân hồi và tái sinh của linh hồn được giải thích với một nhản quang mở rộng hơn và cập nhật hơn, thích hợp với kỷ nguyên bảo b́nh của tâm linh và trực giác con người.
Dần dần con người có thể làm chủ vận mạng của ḿnh, thông qua sự tu luyện thiền định và yoga, con người có thể nâng cao định lực, tâm lực và linh lực của ḿnh; nhờ đó con người có thể tách rời cảm thể khỏi thể xác để khỏi chịu sự đau đớn của xác thân khi bệnh tật hay tai nạn.
Con người có thể du hành khắp mọi nơi qua kỷ thuật Remote viewing, xuất thần ngao du; con người có thể nói chuyện với nhau qua kỷ thuật truyền âm nhập mật, tha tâm thông; con người có thể dùng thuật khinh thân Lunggom để thâu ngắn con đường thiên lư; sống trong băng giá mà không bị lạnh qua kỷ thuật nội hỏa Tumo; con người có thể tự giải thoát thân tâm qua sự thăng hoa và chế ngự sự loạn động các thể xác, vía, trí ..
Một nền văn hóa mới sẽ dần dần được h́nh thành, và sẽ giúp đở nhân loại sống hài ḥa và hạnh phúc hơn, với đà tiến bộ với tốc độ ánh sáng của khoa học kỷ thuật quy ước và không quy ước của kỷ nguyên Bảo B́nh đầy hoa và ánh sáng này.
ÁNH SÁNG T2
ÚC CHÂU
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 418 of 2534: Đă gửi: 08 July 2008 lúc 12:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIỆN ÁC VÀ THẦN THÔNG
Thiện ác giai thiên lư. Đạo không có chánh tà. Đạo là một khoa học cao cấp; Chánh Tà do Tâm con người xữ dụng nó mà làm thành ra chính tà.
Do đó xă hội ngày nay chánh tà lẩn lộn, kẻ có thế lực đè đầu cưởi cổ người khác để trục lợi, mà luật pháp không trừng trị, th́ tại sao người hiền đức không có khả năng để cứu họ, là một người đạo đức, chẳng lẻ cứ than như thế mải th́ cuộc đời sẽ tươi đẹp ư...
Những người ác chẳng những họ có khả năng tự bảo vệ cho bản thân gia đ́nh của họ, mà họ lại c̣n dư thừa khả năng để làm hại người khác; c̣n những người hiền đức, tối ngày cứ bô bô cho ḿnh là chánh đạo, là chân chính.
Khi gặp kẻ ác đến hảm hại, th́ nhẩn nhục, nhút nhát mà lại c̣n cảm ơn kẻ ác đến cướp đi sinh mạng quư báu của ḿnh, và bảo rằng nhờ có họ, nên đă giúp ḿnh được trả nợ trần, được tiêu diêu nơi miền cực lạc và đạt đến niết bàn tịch tịnh...
Điều nầy không đúng theo tinh thần Bi - Trí - Dủng . Người đời chỉ có Bi , v́ họ có ḷng thương người bị bùa ngải hại, họ lại có Dủng v́ họ dám đánh phèn la, la bài hải có thầy ngải hại người....việc này ai cũng thấy và biết rỏ ...
Bùa , Ngải , Thư , Phù , Ếm , Đối , Thần Thông , Huyền năng , Pháp Thuật....là những khoa học cao cấp; Chính quyền của tất cả các nước trên thế giới đều có thiết lập những trung tâm nghiên cứu từ lâu , cũng như đă từng áp dụng trong những trận chiến quan trọng, hay những chiến lược bí mật..
Những ứng dụng về vũ khí hóa học, vi trùng, vũ khí sinh học..mà ta có thể dùng nhục nhản và ngũ quan để thấy được là vũ khí đă được tinh chế hóa và phát triển rút ra được từ Ngải, Thư, Ếm..
Những vũ khí về hạ âm và trường sinh học là kết quả tinh hoa được rút ra từ bùa chú, huyền năng và ngoại cảm..
Những vấn đề nầy thuộc bí mật quốc pḥng của các nước , không có phổ biến cho những người không có trách nhiệm và những người thường dân, nếu có th́ chỉ là vô số tài liệu được tung ra để đánh lừa và đánh sai hướng tiến lên của những người đạo đức mà thôi , như khuyên người ta nên hiền lành đạo đức là đủ rồi.
Đừng ham quyền năng thần thông, v́ nó sẽ cản trở con đường tu tập, cứ lo tu hành đạo đức đi th́ thần thông tự nhiên sẽ đến vậy, cũng như là ta trồng hạt cải sẽ thu hoạch được hạt gạo, trồng hạt đậu sẽ ra cây cam vậy...Thiệntai, thiện tai, nhân quả nhản tiền, đă có biết bao nhiêu người đă bị luật nhân quả chi phối là:
NGƯỜI LÀNH CHẾT YỂU, KẺ ÁC SỐNG DAI, CỎI ĐỜI Ô TRỌC, ĐỪNG TRANH DÀNH LÀM G̀, HẢY BỎ LẠI TẤT CẢ VẬT CHẤT TIỀN TÀI LẠI CHO NGƯỜI ÁC ĐI, TH̀ CON SẼ ĐƯỢC HƯỞNG ĐẦY ĐỦ NƠI THIÊN ĐÀNG CON Ạ...
HẢY KỆ HỌ CON Ạ, HẢY ĐỂ CHO NGƯỜI ÁC HỌ ĂN CƯỚP CỦA CON ĐI, V̀ THÓI ĐỜI ĐĂ CÓ NÓI: ĂN ÍT NO DAI, ĂN NHIỀU NO DỮ...MÀ.
Những điều nêu trên là do những người ác trêu chọc người hiền đức; người ác rất thích họ được như thế. Trong thế giới Huyền học không đơn giản như chúng ta nghĩ. Huyền bí học tự nó là một khoa học của kinh nghiệm tích trữ mà nhân loại đă có được và lưu truyền từ xa xưa đến nay, nếu ai cố công t́m ṭi học hỏi th́ sẽ thành công.
V́ là khoa học huyền bí cũng như khoa học tự nhiên hay một khoa học quy ước cũng như không quy ước nào khác, tự bản chất của nó là không có chính trị, đạo đức và thiện ác xen vào.
Nếu ta tập đúng hành đúng đủ hỏa hầu, định lực vững, tâm lực mạnh, theo đúng mục tiêu chỉ dẩn th́ sự huyền diệu sẽ xảy ra.
Cũng như theo đúng công thức của thuật luyện kim , ngoại đơn hay nội đơn hay pháp thuật, bạn có được công thức gia truyền, nếu có đủ các hóa chất hay dược vật, th́ ta củng có thể làm lay chuyển càn khôn và chuyển ngược t́nh thế đấy; và khoa học này vào tay người ác th́ sẽ thành ác quỷ hại người, khoa học nầy vào tay người đạo đức th́ sẽ thành Tiên Phật mà cứu khổ sanh linh.
DO ĐÓ ĐẠO ĐỨC LÀ ĐẠO ĐỨC, THẦN THÔNG LÀ THẦN THÔNG, KHÔNG CÓ VIỆC LO TU HÀNH ĐẠO ĐỨC MÀ SẼ CÓ THẦN THÔNG, CŨNG NHƯ KHÔNG THỂ NGỒI MÀI HOÀI MỘT MIẾNG NGÓI MÀ CÓ THỂ LÀM THÀNH GƯƠNG SOI MẶT ĐƯỢC; NGƯỢC LẠI KHÔNG THỂ CHỈ LO TRAO GIỒI THẦN THÔNG TH̀ SẼ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC.
Mà người đạo đức song song với việc trao giồi đạo đức th́ cũng lo trao giồi những quyền năng c̣n ẩn tàng trong cơ thể của con người, có như vậy BI-TRÍ-DỦNG được phát triển thăng bằng, th́ việc cứu nhân độ thế mới nằm trong khả năng đạo đức chân chính của ḿnh được, chứ không nên ỷ lại Trời Phật mà tự ḿnh trói ḿnh lại, tự dâng sinh mạng của ḿnh cho kẻ ác và kẻ ác thích lắm chứ....
Hảy tự nghĩ xem, khi kẻ ác dùng cường quyền để trục lợi người khác, mà chính quyền đương thời c̣n bênh vực và bảo vệ họ, th́ lúc đó người đạo đức liền dùng thần thông của ḿnh để cứu người th́ hiền đức th́ tốt biết chừng nào, khi cứu được người rồi mà quỷ thần c̣n chưa biết được, c̣n nói chi kẻ ác. Nếu làm được như thế nhiều lần, và mọi người đều làm được như vậy, chắc sẽ không có ai làm ác nữa v́ mới suy nghĩ ác từ đầu óc, th́ liền bị phát giác ra rồi, th́ c̣n đâu mà hại người khác nữa.
DO ĐÓ TẬP LUYỆN THẦN THÔNG KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ ĐẶC QUYỀN CỦA KẺ ÁC, MÀ NÓ CŨNG LÀ QUYỀN ƯU TIÊN ĐỂ CHO NGƯỜI ĐẠO ĐỨC, NHANH CHÂN LÊN KẺO TRỂ, NẾU V̀ LƯ DO VÔ MINH HOẶC NGHE THEO TÀ TRÁI, TH̀ CỨ NIỆM PHẬT MÀ CẦU VẢNG SINH CHO NHAU VẬY. THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN CHỈ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ BÁT NHĂ, KHÔN NGOAN NHƯ RỒNG VÀ HIỀN NHƯ BỒ CÂU H̉A B̀NH VẬY.
Bùa ngải cũng như những pháp thuật khác, đă được lưu truyền từ xưa đến nay nếu nó không có giá trị, th́ nó đă bị ch́m vào quên lảng từ lâu, không c̣n ai nhắc tới nó nữa. Trong xă hội cận đại người ta chỉ sợ hải bùa ngải, từ những ông thầy bùa tả phái; nhưng người ta không biết bùa ngải cũng giúp người rất nhiều của những ông thầy bùa thuộc các phái Lổ Ban Thần, hay những Cao Tăng đắc đạo.
Con người sợ hải khi nói tới nó, nhưng lại thích nghe hoặc t́m hiểu nó, cũng như người sợ ma mà lại thích nghe người ta kể chuyện ma. Trong thời kháng chiến chống Nhật tại Đông Dương, có những người kháng chiến dùng bùa ngải, phương thuật và khả năng ngoại cảm để chống giặc, làm cho bọn Nhật điêu đứng trước đối thủ vô h́nh này.
Và Nhật cũng là một quốc gia nghiên cứu nhiều về Mật Tông, Đạo gia và Thần đạo một cách nghiêm túc , họ gạt ra ngoài những hào quang mờ ảo và thần bí của kinh điển trong các tôn giáo và Du già Fakir; nên họ đă biết rằng những hiện tượng kỳ lạ và ma quỷ hiện ra quấy nhiểu toàn là do những người kháng chiến Nhật gây ra; nên họ đă ra lệnh tàn sát toàn bộ cư dân tại vùng đó; kể từ đó không c̣n những hiện tượng kỳ quái xảy ra để quấy nhiểu hay sát hại binh lính Nhật nữa.
Trong thời kỳ chiến tranh Đông dương các binh lính Tây Phương tràn vào đền thờ để tàn phá các tượng thờ trong nhà thờ, chùa chiền, họ tưởng rằng làm như thế sẻ tiêu diệt và làm khiếp đảm dân Đông Dương, gây cho họ hoang mang không c̣n nơi nương tựa của tinh thần nữa; nhưng họ đâu có biết rằng nền huyền học đông phương quá cao, không thể nào tiêu diệt được, v́ những đàn tràng hay h́nh tượng của chư Phật và Chúa đă in sâu vào tâm hồn của người dân đông phương.
Họ đi đến nơi nào đến lúc họ cần cầu nguyện, th́ họ chỉ cần ngồi xuống, lưng dựa vào thân cây, nhắm mắt lại là khung cảnh của nhà thờ hay đàn tràng của bổn tôn hay h́nh Đức Phật đă HIỆN NGAY RA TRONG TÂM NHẢN CỦA HỌ, VÀ HỌ ĐƯỢC TỰ DO MÀ CẦU NGUYỆN, NÊN NỀN HUYỀN HỌC ĐÔNG PHƯƠNG NHỜ ĐÓ MÀ TỒN TẠI.
Như việc tại một đền thờ một vị Thần tại miền nam Việt Nam, ngay trước khoảng trống trước tượng thờ, có bản thông báo, v́ sự thiêng liêng của vị Thần nà̀y xin mọi người đừng bước vào vùng trên, mà chỉ nên đứng ngoài phạm vi cho phép mà chiêm nghiệm mà thôi.
Có một dịp nọ một người lính Tây đi vào, và bất kể lời can ngăn của mọi người, người lính Tây này mới vừa kéo bứt dây bước vào chổ cấm, mặt mày hung hăng mà cười cợt bất kính đối với vị Thần trên kia, chỉ trong hai phút thất khiếu của người này liền bị ra máu, miệng ói ra nhiều máu và chết liền tại chổ.
Như vậy có phải sự linh ứng của vị Thần kia hay không, việc này th́ kính xin Thần Thánh trả lời. C̣n chuyện ở trần thế th́ thế này , vốn là người phác họa và tạo ra ngôi đền thờ này, đă có dự đoán sẳn để trừng phạt cho những người phá hoại hoặc đến gây sự, người này trước đó đă giấu sẳn một loại bột thuốc độc cực độc không mùi vị ở bên trên xà ngang trên đầu phía trước tượng Thần, và sợi dây được nối liền với sợi dây kéo ngang ngăn cấm mọi người không cho bước vào phạm vi ngăn cấm.
Cơ quan bài trí này chỉ có người phác họa sơ đồ và người giữ đền biết được mà thôi. Do đó khi người lính Tây nầy xông xáo bứt dây và bước vào trong pḥng, đă vô t́nh đưa ḿnh vào phạm vi của bột độc vừa được anh ta đă kéo tung vào không khí nên chỉ trong vài phút anh ta liền bị ngộ độc nặng và chết ngay lập tức. Rồi từ đó tiếng dử đồn xa, sự linh thiêng được xác định thêm lần nữa, nên từ đó uy danh của vị Thần nầy càng được mọi người cho là linh hiển, giúp ích được cho nền đạo đức của dân chúng và duy tŕ phong tục của xả hội.
Trong thời kỳ cách mạng ở Trung Hoa, các thầy bói , thầy bùa ngải đều được chính quyền ân xá cho tự kiểm, phải viết ra tất cả bí mật nhà nghề của họ, nên trong thời gian hơn mười năm trở lại đây, những tài liều nầy được chính quyền Trung Hoa phổ biến rộng rải trong quần chúng qua sách vở bày bán tự do, hoặc cho phép các thầy bùa ngải có quyền mở lớp dạy nghề, dùng bùa ngải để trị bệnh, giúp người v..v...
Đương nhiên là có người ác họ học xong đi hại người cũng có, chính quyền rất cởi mở, v́ khả năng của đă họ có thể kiểm soát các việc này một cách dể dàng, v́ các chuyên gia về các khoa huyền học nầy đều đă phục vụ trung thành cho lợi ích của dân tộc và nhà nước của họ cả rồi.
Cũng như tại Hoa kỳ là nơi bạn có thể, nếu có tiền bạn cũng có thể t́m học quyền năng để trở thành giáo chủ chánh phái hay trở thành ác quỷ Satan cũng rất dể dàng, cũng tương tự như vậy, v́ Hoa Kỳ cũng đă từ lâu biết và rành về các khoa huyền học nầy rồi, nên họ cũng cho tự do, v́ họ có thừa khả năng kiểm soát, nên ở các nước có nền kỷ thuật và huyền học cao, mổi năm đều có những hội chợ tâm linh như : Spychics fair Body, Spirit, Mind Festival, Witch Festival ..
Ngoài ra ở các nước này đều có vô số viện bảo tàng huyền bí học, viện bảo tàng phù thủy và những tiệm bán sách chuyên môn về huyền bí học, Phù Thủy, Bùa Ếm v..v..Trong đó có rất nhiều tài liệu quư giá được lọt ra từ trong những trường bí giáo từ những người đă học qua hoặc bỏ môn phái ra ngoài lập môn phái riêng theo chí hướng của họ cho ít g̣ bó và ít giáo điều hơn, và những những pháp chỉ dẩn rất dể hiểu và dể thực hành, chỉ cần bạn có một số kiến thức căn bản sau một thời gian t́m hiểu học hỏi, là bạn có thể lảnh hội một cách dể dàng.
Không như các phương pháp lề mề, lạc hậu hiện nay được truyền dạy trong các tôn giáo hiển giáo, quy ước xả hội. Cũng như một số thầy bùa ngải hay thầy bói, khi họ đă có niềm tin về Chúa th́ họ không hành nghề bùa ngải và thầy bói nữa, và họ cũng đă viết sách để kể ra những bí mật nhà nghề cho mọi người biết, thí dụ như những bí mật của giới bói toán ở thế giới người Hoa là GIANG TƯỚNG PHÁI CÙNG NHỮNG PHÁP THUẬT CỦA NÓ ở thời Dân Quốc và c̣n bí mật lưu truyền đến nay.
Ngày nay với nền khoa học kỷ thuật cùng tin hoc tiến bộ, những pháp thuật lợi dụng các chất hóa học cùng pháp thuật thuộc ảo thuật, ảo giác đă bị đào thải trong ṿng một trăm năm qua, hay những chất hoá học hay những chất thuốc này đă bị chính quyền cấm bán cho công chúng nhưng lại vô hiệu đối với các thầy chuyên môn, v́ họ biết cách bào chế các chất nầy qua vật liệu thiên nhiên hay qua các công nghệ phẩm dùng thường ngày.
Tuy nhiên khoa học chỉ là một đứa trẻ đối với nền huyền học bao la chân chính của nhân loại. Dù sao đi nữa, cho dù khoa học có tiến bộ đến đâu đi nữa, th́ con người cũng là một khâu chính trong việc quyết định quan trọng.
Nước nào sớm thành công và phát triển mạnh khoa học nhân thể trước, th́ nước đó sẽ trở thành cường quốc. Kỷ nguyên của trí xảo đă qua; Kỷ nguyên này là Kỷ nguyên của Trực giác và Tâm linh, cầu mong con người được thoát gông cùm của vô minh để có thể hưởng thụ những lợi ích của cuộc sống của vật chất và tung ḿnh thoát khỏi sự níu kéo của địa từ, để có thể sống an vui hài ḥa trong hai cỏi Tinh Thần và Vật Chất, đúng theo sự cấu tạo có ư nghĩa, khi Tạo Hóa đă nên con người.
TRI THỨC VÀ TUỆ GIÁC LÀ ÁNH SÁNG XUA TAN VÔ MINH VÀ SỢ HẢI .
CON NGƯỜI KHÔNG THỂ CHỐNG LẠI TẠO HOÁ MÀ CHỈ CÓ THỂ HỢP TÁC VỚI TẠO HOÁ MÀ THÔI.
KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ CON NGƯỜI
MÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI LÀ VÔ MINH - NGHÈO ĐÓI - BỆNH TẬT - THIÊN TAI VÀ CHIẾN TRANH.
NÓ ĐĂ CUỐN TRÔI ĐI BAO NHIÊU TÂM HUYẾT VÀ TRÍ TUỆ CỦA TIỀN NHÂN.
MÀ ĐÀN CON CỦA HỌ NGÀY QUA C̉N NGỤP LẶN ĐỂ T̀M VỀ NGUỒN SÁNG VÀ GIA TÀI Ấ .
VÀ HIỆN NAY ĐÀN CON ẤY ĐĂ T̀M ĐƯỢC NGUỒN SÁNG CÙNG GIA TÀI NÀY VÀ ĐANG BỒI ĐẮP ĐỂ NÓ THÊM PHONG PHÚ VÀ LUÔN RẠNG NGỜI MẢI MẢI.
SUNG SƯỚNG VÀ HẠNH PHÚC THAY, TA ĐƯỢC SINH RA LÀM NGƯỜI VÀ TA LÀ VẠN VẬT CHI LINH ĐỂ SỐNG HÀI H̉A CÙNG VẠN HỮU.
THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN LÀ Ở TẠI NƠI TRẦN THẾ NÀY , V̀ CÁC CỎI NẰM CHỒNG LÊN NHAU THEO KHÔNG GIAN NHIỀU CHIỀU ĐO, CÓ ĐIỀU LÀ TA CHỊU MỞ TÂM NHẢN RA HAY KHÔNG VẬY. NẾU MUỐN, TA HẢY CÙNG NHAU SÁNH BƯỚC, ĐỒNG TIẾN LÊN CÁC BẠN....
HUYỀN MÔN
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 419 of 2534: Đă gửi: 08 July 2008 lúc 2:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN TIỀM TÀNG BÊN TRONG CỦA HIỆN TƯỢNG QUỶ NHẬP TRÀNG
Rất có thể xung quanh chúng ta hoặc bất thần trong gia đ́nh một ai đó đă gặp hiện tượng chết đi sống lại. Có thể đó là hiện tượng hồn của người chết tự t́m được về với thể xác của ḿnh. Y học quen gọi là chết lâm sàng.
Thế nhưng chuyện quỷ nhập tràng lại là chuyện khác, tiềm ẩn bên trong nó sự khiếp đảm và kinh hăi của thế giới thần bí, mà đến tận bây giờ lư giải nó chỉ là điều nan giải mà thôi.
Tôi xin trích ngang câu chuyện mà tôi đă được bà ngoại kể từ hồi c̣n nhỏ, nhưng câu chuyện đó c̣n động lại trong tôi đến tận giờ. Người thầy của bà ngoại tôi, cụ học phép phù thủy của Khổng Minh và Quỷ Cốc tử.
Chính v́ vậy mà những các huyền bí xung quanh đạo học, cụ đều nắm rơ. Chỉ có điều riêng thuật bắt ma th́ có lẽ cụ không cao tay. Điều này không phải là do đạo học của cụ kém mà do chính Thiên Can Địa Chi quyết định. Cụ tuổi Tư mệnh mộc nên cái uy, hay đúng hơn là cái khí sắc không thể đủ uy lực trừ tà sát quỷ.
Riêng Bà ngoại tôi-người học tṛ-người con nuôi duy nhất được cụ truyền hết bá học lại có cái uy đó. Bà tôi kể rằng có lần cụ nói với bà tôi rằng:
- Con có căn mệnh của cụ Ngộ Không (bà tôi tuổi thân mệnh Kiếm Phong Kim, thanh kiếm thần) vậy nên con có cái uy sát quỷ trừ ma, nhưng nhớ là cái nghề này nó bạc. Ḿnh càng giúp dân độ thế được nhiều th́ quỷ ma càng oán ḿnh nhiều. Và đây là câu chuyện của một lần bắt ma của bà ngoại tôi.
Một buổi sáng sớm một người phụ nữ dắt một cô gái mặt mũi ngây dại đến gơ cửa nhà bà ngoại tôi. Nh́n sắc mặt ngây dại nhưng vẫn nhơn nhơn của cô gái th́ ai cũng bảo là nó bị điên rồi, cho vào nhà thương điên kia đi.
Nhưng chỉ có người phụ nữ kia Mẹ của cô gái, hiểu rơ là con bà ta bị ma nhập. Bởi theo lời bà ta kể th́ cứ thỉnh thoảng con ma kia lại mượn lời của cô gái, và luôn mồm nói muốn lấy cô làm vợ.
Bà đă chữa trị nhiều nơi nhưng chỉ được lúc tức thời, c̣n về nhà đâu lại hoàn đấy. Mẹ tôi mở cửa cho hai mẹ con người kia vào trong nhà. Người con gái mặt c̣n nhơn nhơn nằng nặc đ̣i mẹ dẫn về, vừa bước qua cửa để vào nhà bà tôi, th́ mặt chuyển sắc không dám nói năng, mà khuôn mặt cũng không c̣n vẻ ngây dại nữa, cô ta ngồi im không nói không rằng, không c̣n có biểu hiện điên loạn ḥ hét nữa.
Bà tôi cứ để hai mẹ con họ ngồi đấy, bà đi đánh răng rửa mặt xong, pha ấm trà rồi mời mẹ con họ uống. Người con gái lễ phép cầm cốc trà lên uống. Vừa uống xong th́ chân tay cô gái co quắp lại và quỳ xuống than khóc:
- "Con lạy thầy, thầy tha cho con. Con chỉ là bộ đội chết ở cây đa gần nhà Hoa (tên cô gái) con thương Hoa nên muốn lấy Hoa làm vợ chứ con đâu có muốn làm Hoa điên. Nhưng v́ con mụ này (hắn chỉ vào mặt mẹ cô gái) lại mời thầy bà về bắt con, nên con điên con quyết làm Hoa điên để bắt Hoa làm vợ con. Thầy thương con..."
Hóa ra sau này tôi mới biết là trong cốc nước trà bà tôi đưa cho cô gái đă được bà dùng Trú quyết trong đó (Trú đó là Trú trói ma) đồng thời bàn chân phải của bà luôn di trên sàn nhà như kiểu viết chữ ǵ đó để khoán tà ma. Bà tôi chậm răi uống cốc trà và bảo với anh bộ đội kia :
- Ngươi chết kiểu ǵ?
- Con chết bom trong một trân. càn của địch.
-Thế ngươi có định đi đầu thai không?
- Con không thích đi đầu thai, con muốn sống với Hoa, anh bộ đội trả lời.
- Hai người một trần một âm mà lại c̣n đ̣i lấy nhau th́ là loạn lẽ Trời. Không những Trời người không dung mà người c̣n bị đánh tan hồn vía vĩnh viễn không được nh́n thấy ánh mặt trời ở dưới ngục A tỳ thôi. Ngươi xem nếu ngươi yêu Hoa th́ nỡ để cô ta chết cùng ngươi à, hay để cô ta ngớ ngẩn thế này măi. Ngươi cũng có gia đ́nh người thân. Gia đ́nh ngươi đau khổ thế nào khi ngươi mất đi th́ Mẹ Hoa, gia đ́nh cô ta cũng vậy.
zNgười bộ độ cúi đầu lặng yên. Bà tôi dần không di chân phải nữa, người cô gái không c̣n bị co quắp nữa và tay chân được thoái mái hơn. Cô gái khóc, giọt nước mắt của anh bộ đội. Hắn đă thấu hiểu và không c̣n muốn cái ước vọng lấy Hoa làm vợ nữa. Nhưng hắn đ̣i làm cho hắn một mâm cỗ, một h́nh nhân nữ giống Hoa, tiền bạc, thuyền để hắn c̣n đi đầu thai chịu tội.
Mẹ cô gái ghi hết những lời hắn yêu cầu. Cuối cùng bà tôi nói với hắn rằng :
- Ngươi đă hiểu ra là tốt, nhưng đă hứa buông tha là phải buông tha. Người nhà Hoa sẽ làm theo đúng thỉnh cẩu của nhà ngươi để cho ngươi mau đi đầu thai chịu tội. C̣n nếu mà ngoan cố lừa gạt th́ lúc đấy ta dùng Phép trục hồn ngươi ra khỏi người Hoa để ngươi măi không được siêu sinh. Ngươi nhớ đấy.
Và rồi bà tôi quơ ba nén hương trước mặt cô gái, cô ta giật ḿnh và chạy tới ôm bà mẹ khóc nức nở sợ hăi. Người bộ đội đă thoát mệnh thể khỏi người cô Bà tôi kéo mẹ cô gái vào pḥng trong nhà, đưa cho bà ta năm đạo Dấu (Bùa của Đức Thánh Trần) và dặn là đeo trước cửa nhà hai lá, cô gái hai lá, một lá đốt cho cô gái uống. Bà tôi dặn rơ ràng như vậy bởi sợ rằng con ma kia bội tín.
Khoảng tháng sau, hai mẹ con cô gái đến nhà bà tôi tạ lễ bởi cô gái đă b́nh ổn. Nét mặt cô rạng rỡ hơn sau ba năm ngây dại.
Sau này khi tôi đă được tám tuổi, bà đă không c̣n theo cái nghiệp bắt ma nữa, bởi v́ bắt nhiều quá nên quỷ ma nó oán, và nó luôn theo để báo thù con cái cháu chắt của Bà ngoại tôi. Và Mẹ tôi cũng đă bị một lần ma nhập báo thù. Và sau lần chữa cho Mẹ tôi th́ bà đă quỳ trước Điện tiền xin không theo nghiệp bắt ma nữa.
Câu chuyện quỷ nhập tràng của bà như sau :
Ở nhà nọ, người vợ bị ốm đă lâu mà không thấy thuyên giảm. Người chồng hàng ngày vẫn bán hàng nước để nuôi vợ và kiếm kế sinh nhai. Có lần người vợ đột nhiên qua đời, người chồng đau khổ lắm mới để đến sáng hôm sau th́ liệm.
Không ngờ bốn tiếng sau khi tắt thở, người vợ đột nhiên bừng tỉnh và khỏe hơn bao giờ hết. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Người chồng thấy vợ sống lại th́ mừng lắm và ông c̣n mừng hơn nữa khi bệnh t́nh của vợ cũng khỏi luôn.
Chỉ có điều là vợ ông từ lúc sống lại cả ngày chỉ ở trong pḥng, ăn xong rồi trùm chăn mà rất sợ ánh sáng. Ông cũng thấy lạ nhưng nghĩ là chắc vợ mới khỏi bệnh nên mệt. Thấm thoát đă được ba tháng trôi qua, người vợ giờ đă bớt sợ ánh sáng hơn và sắc mặt trở nên sạm đen hơn nhưng đặc biệt là rất khỏe.
Một buổi sáng nọ, có ông già dáng vẻ hành khất đến quán nước của người chồng uống nước (Đó là thầy của bà ngoại tôi). Cụ già này sắc mặt hồng hào nhưng bàn tay trái th́ bị tật nên hơi khó cầm các thứ. Cụ ngồi lại nơi quán hàng nước của người chồng và nhâm nhi chén trà chát. Thỉnh thoảng lại thấy người chồng chạy vào trong pḥng rồi lại chạy ra, rất tất bật như chăm con thơ vậy. Cụ già cất lời :
- Ta thấy bác vất vả quá nhỉ, nhà có người ốm à hay phải chăm sóc bà đẻ vậy.
- Dạ, không ạ. Nhà cháu đấy ạ. Nhà cháu vừa mới khỏi bệnh nên ăn nhiều lắm mà lạ là ăn không biết no a. Người chồng vui vẻ đáp lời.
Cụ già ngồi đó nhâm nhi mẩu ô mai mặn và đang định bước đi th́ bất thần cụ nh́n thấy cái bát mà người chồng mang ra rửa, sau khi cho vợ ăn. Một vết xước dài đen ng̣m hằn trên bát. Vết đen này chắn chỉ nhăn quang như cụ mới nh́n thấy được. Cụ giật ḿnh và tim đập mạnh, trong đầu cụ hiện lên ba chữ QUỶ NHẬP TRÀNG. Cụ ngồi lại nơi quán nước để đợi người chồng ra tính tiền. Cụ lân la hỏi chuyện:
- Này Bác, cho tôi hỏi là bác gái nhà ḿnh bệnh ǵ vậy mà ăn khỏe thế?
- Cụ ơi, nhà con khỏi rồi cụ ạ. Cũng may mắn lắm cơ, nhờ Trời nhờ Phât mà hóa rủi thành may. Ba tháng trước con tưởng là mất nhà con rồi cơ cụ ạ thế mà nhà con sống lại mà lại mạnh khoe mới mừng chứ cụ ạ!
- Được ba tháng rồi cơ à? Cụ già lộ vẻ lo sợ.
- Vâng, được tṛn ba tháng rồi cụ ạ! Con giờ chỉ chăm sóc nhà con thôi cũng thấy vui. Người chồng đáp lời trong sự vui mừng khôn tả.
Kinh nghiệm và ḷng nhân hậu của người Thầy đă thôi thúc cụ già phải cứu anh chồng và cả gia đ́nh họ hàng anh ta. Nhưng giờ cứu như thế nào đây khi mà con quỷ nhập tràng kia đă được ba tháng rồi. Giờ nó tinh ranh và ma quái hơn nhiều.
Xin cho tôi ngừng chuyện để giải thích QUỶ NHẬP TRÀNG là ǵ? quỷ nhập tràng là cụm từ mà trong giới phù thủy bắt ma gọi là hiện tượng, Khi một người mất đi th́ hồn người đó sẽ bị hai ông quỷ sai(Chiêu Hồn Sứ) dẫn đi chịu tội.
Nhưng trong cái khoảnh khắc đó th́ có một hồn ma khác lại nhẩy vào chiếm cái thể xác kia khi mà cái xác đó vẫn c̣n hơi ấm và sự sống, như kiểu sống kư sinh. Nhưng tai hại là do mượn xác nên không thể ḥa nhập ngay với cái xác kia được, mà phải mất đúng ba tháng mười ngày, mới hoàn toàn điều khiển được cái xác mượn kia. Chỉ có điều là quỷ nhập tràng rất sợ ánh sáng, ăn rất khỏe và không biết no. Tai hại hơn là sau ba tháng mười ngày hắn sẽ đi t́m bằng hết họ hàng của cái xác mượn kia để ăn thịt.
Trở lại với câu chuyện của người chồng. Sau một hồi suy nghĩ khá lâu, cụ già kéo người chồng ra chỗ cách xa nhà của anh ta, rồi mới nói hết những cái mà cụ nhin thấy về gia cảnh hiện tại của anh. Anh thanh niên lạc quan cười bảo :
- Cụ ơi nhà con con biết, nhà con không bị quỷ nhập tràng đâu.
- Thế anh có thấy dạo này gà vịt hay lợn trong nhà anh bị mất con nào không?
- Cụ nói con mới nhớ, gần đấy con nuôi hai con lợn định đem bán th́ hôm nọ mất một con, chả hiểu là bị ai bắt mà vào chuồng chỉ c̣n thấy vũng máu. C̣n gà th́ mất nhiều cụ ạ, con nghĩ chắc mấy đứa trẻ quanh xóm nó bắt chơi.
- Không đơn giản như anh nghĩ đâu. Đấy là quỷ Nhập tràng nó ăn đấy. Bởi v́ đến tầm ba tháng là nó đă cứng lắm rồi, giờ nó thích máu tươi hơn. Anh phải nghe tôi để cứu anh và cả ḍng họ anh nữa. Anh phải làm theo tôi th́ mới mong thoát tai kiếp này.
- Vâng.. cụ dạy con... Người chồng đă bắt đầu run sợ thật sự.
- Giờ nó rất tinh ranh, không biết chừng giờ nó đă biết tôi gặp anh để bày tṛ bắt nó nên nó coi chừng đấy. Bởi nó đọc được suy nghĩ của anh. Giờ anh về là nó bắt anh nó cắn xé đấy. Chúng ta phải thu bát nó ngay đêm nay. Giờ anh làm đúng như tôi nhé, nếu không là cả tôi và anh cũng không thoát nổi nó đâu.
Ở đấy có bảy lá bùa Thái Thượng Lăo Quân. Giờ anh kiếm cho tôi con gà sống và bảy cái bát sành. Anh dán bảy cái dấu này vào ḷng bảy cái bát sành. Anh mang con gà và bảy cái bát đă dán dấu trèo lên mái nhà anh, chỗ có pḥng ngủ mà con Quỷ Nhập Tràng ở, ném con gà xuống trước, đợi cho nó ăn xong con gà th́ lần lượt ném bảy cái bát xuống. Tôi sẽ ở ngoài Trấn Huyệt hộ anh. Anh đi làm ngay đi.
Người chồng đi làm đúng theo lời cụ già dặn. Anh nhẹ nhàng trèo lên nóc nhà, lấy miếng ngói đỏ ra và ném con gà xuống. Con quỷ nhào ra nhai ngấu nghiến con gà trong thèm khát, người chồng quay mặt đi ghê sợ. Rồi khi lần lượt từng cái bát sứ chui vào bụng con Quỷ Nhập Tràng, đến cái bát thứ bảy th́ nó lăn ra, mùi hôi của cái xác người vợ ba tháng bốc lên nồng nặc. Cụ già vẫn ở ngoài Trấn huyệt. Cụ thấy một luồng khí xanh bay qua, rồi vụt chạy thẳng vào tít xa mà không thấy quay trở lại. Sáng hôm sau người chồng an táng vợ.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 420 of 2534: Đă gửi: 08 July 2008 lúc 2:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
HIỆN TƯỢNG MA QUỶ
Ma hay Quỷ nói đúng hơn là một hiện tượng có thật trong Thần Học. Vậy ma quỷ là ai? Là chính chúng ta vậy.
Ma là khi chết đi th́ phần hồn của người đó tích tụ lại thành những vong hồn. Có những vong hồn bị hai ông Chiêu Hồn Sứ bắt về Âm Tào để thụ án Đầu Thai hay là chuyển kiếp.
Có những vong hồn bất hảo khôn ngoan th́ trốn lại vất vưởng ở Trần Gian : Ma đói. Những vong hồn sống Lưu vong ở Trần Gian này lại hay gây ra những chuyện kỳ lạ.
C̣n Quỷ th́ là những vong hồn đă chết vào giờ Thiêng, họ được Âm Tào giữ lại làm Quỷ Sai. Ngoài ra ngay trong bản thân con người cũng có hai đến ba phần là Quỷ chế ngự.
Có những lúc mà phần Người không chế ngự được hai, ba phần Quỷ này th́ người đó sẽ dễ dẫn đến những hành động ác không lương thiện.
Cái hai, ba phần Quỷ này Đạo Phật gọi là THAM SÂN SI. Tất cả cái ác, tội lỗi của con người đều do THAM SÂN SI mà ra cả. Vậy ai sẽ là đối tượng của Ma ám? Là bất kỳ ai. Khi mà vong hồn vất vưởng đó hợp ai là sẽ theo người đó.
Nhưng có những người Căn mạng cao nên những vong hồn lưu vong có muốn Nhập hồn cũng không được. Vậy muốn không trở thành nạn nhân của Ma Quỷ ám th́ bản thân mỗi con người hăy làm trong sạch Tâm Hồn (Xóa bỏ THAM SÂN SI con Ma của mỗi con người) hướng thiện nhiều hơn và ăn mày cửa Phật, của Hội đồng các Giá, các Quan. Như vậy ḿnh sẽ được chở che khỏi những thế lực Ma Quỷ.
Khi mà Ma Quỷ ám, đến một thời gian nào đó khi mà vong hồn đó đă hoàn toàn đồng nhất trong suy nghĩ của người bị nhập (Chiếm ba hồn chín vía sống) th́ người đó sẽ hoàn toàn bị Điên.
Lúc đó suy nghĩ và hành động của người đó sẽ hoàn toàn bị Hồn Ma kia chế ngự mà không thể nào thoát ra được. Đây gọi là hiện tượng Ma Ám Bắt Hồn thường thấy.
Một hiện tượng nữa mà bên các thầy Pháp hay gọi là hiện tượng Động Nhà Thần. Hiện tượng này là hiện tượng mà người nào đó đi ra đường, chẳng may gặp phải Ma đói (Ma chết đuối, chết chém mất đầu, ngũ Quỷ, Thạch tinh...) trêu quở.
Lúc đó tùy theo mỗi loại Ma mà người bị trêu sẽ bị đau đầu, ốm đau hay là bị khó chịu, dù có khám bệnh cũng không ra bệnh ǵ cả. Chỉ khi xem thầy Pháp th́ mới biết là Động nhà Thần.
Khi đó sửa soạn lễ vật để cúng kiến th́ bệnh tự nhiên khỏi ngay tức th́. Hiện tượng này chỉ cần cúng kiến là khỏi, v́ vong Nhà Thần đó chỉ đ̣i cúng kiến mà thôi chứ không có dụng ư là bắt hồn.
Giải pháp tốt nhất cho hiện tượng khỏi bị Ma Quỷ ám là trong người luôn có Dấu hộ thân (Bùa hộ mệnh). Có nhiều loại dấu khác nhau nhưng dấu linh nghiệm hơn cả là dấu của Ngọc Hoàng Đại Đế, Thái Thượng Lăo Quân (dấu dập xóa), Trần Triều Hưng Đạo Vương, Ngũ Dinh Thần Tướng, Quỷ Cốc Tử, Thái Ất Thần Quan.
Có một điểm cần chú ư là Dấu (bùa) ở đây khác hoàn toàn với chữ Vạn hay những tấm Điệp của Phật. Chúng ta không nên lầm tưởng đó là Dấu. Gần đây th́ do lợi nhuận nên có một số vị Sư săi đă lừa phỉnh Điệp nhà Phật là Bùa hộ mệnh.
Đạo Phật vốn dĩ không có Bùa chú, v́ Đạo Phật dạy con người hướng Thiện nên không tồn tại Bùa chú Yểm Đảo, mà cái này chỉ có trong Đạo Pháp mà thôi.
Đạo Phật chỉ có các Trú (Khẩu Quyết, Chân Ngôn mà chúng ta vẫn thấy trong Kinh Sách) giúp cho con người thoái mái, tinh bạch Tâm hồn và một số chú trừ diệt Nghiệp Chướng và một số chú trừ Tà (không tiện nêu ra ở đây). Chúng ta cứ hiểu nôm na rằng Dấu là giấy tờ chứng nhận chúng ta là con cháu của các Ngài, các Giá, các Quan nên Ma Quỷ sẽ kiêng nể ra mà không dám động đến.
huykokuyo
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|