Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 195 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 441 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 11:14am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THÔNG ĐIỆP CỦA NHỮNG

 NGƯỜI ANH

 

 Tháng 10 vừa qua, đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ đă cho phát h́nh một tài liệu đặc biệt ghi nhận nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ .

 Cuốn phim này đă gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài đưọc bàn căi rất nhiều trong giới khảo cổ , môi sinh và nhân chủng học . Lần đầu tiên được tŕnh chiếu trong kỳ Đại Hội Tôn Giáo hoàn cầu tổ chức tại Chicago , nó đă gây một xúc động lớn cho toàn thể cử tọa .

 Chúng tôi ghi nhận lại đây bài thuyết tŕnh ‘ Elder Brother’s Warning ’ của kư giả Alan Ereira để bạn đọc cùng suy gẫm .

 Từ ngàn xưa, nhân loại đă có những nền văn minh lớn. Những nền văn minh đă tạo ra những kiến trúc vĩ đại như Kim Tự Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn Lư Trường Thành...Tuy nhiên dù phát triển đến đâu chăng nữa , nền văn minh nào cũng chiụ sự chi phối của luật vô thường , nay c̣n mai mất, cái ǵ cực thịnh th́ cũng có lúc suy tàn . Lịch sử đă chứng minh điều đó một cách hiển nhiên v́ ngày nay không mấy ai nhắc nhở ǵ đến những nền văn minh cổ xưa đó nữa ngọai trừ những giai đoạn rời rạc , pha trộn nhiều hư cấu khó tin .

 Nói đến Kim Tự Tháp , người ta thường nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những Kim Tự Tháp Nam Mỹ , mặc dù tại đây số Kim Tự Tháp c̣n nhiều hơn , đặc biệt hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn . Có lẽ v́ phần lớn Kim Tự Tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát .

 Columbia là một quốc gia nằm ở phía Nam Mỹ Châu . Phần lớn lănh thổ xứ này được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp chưa được khai phá, đặc biệt là các khu rừng quanh rặng Sierra, th́ gần như c̣n nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay , không mấy ai đặt chân đến.

 Đối với dân xứ này th́ rặng Sierra vẫn được coi là một nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều bí mật . Huyền thọai xứ này nói rằng đó là chỗ ở của những bậc Thần linh , có nhiệm vụ che chở cho nhân loại . V́ đỉnh núi lúc nào cũng bị che phủ bỏi những đám mây mù , thêm vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm nên cây cối mọc chằng chịt , khó có ai có thể vượt rừng đến đó được .

 Năm 1974 , một phi công bay lạc vào phía đông bắc của rặng Sierra, và phát hiện một Kim Tự Tháp rất lớn tọa lạc giữa rừng . Việc khám phá ra Kim Tự Tháp này đă thúc đẩy nhiều phái đoàn khảo cổ của các quốc gia khác kéo nhau đến đây nghiên cứu . Họ kết luận rằng chiếc Kim Tự Tháp xây bằng đá rất công phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những Kim Tự Tháp khác tại Nam Mỹ ; do đó nó thuộc một nền văn minh riêng biệt nào khác chứ không phải nền văn minh Incas hay Maya .

 Quanh Kim Tự Tháp là một thành phố bỏ hoang với nhũng hệ thống đường sá được lót bằng đá hết sức công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố c̣n có một hệ thống ống cống thoát nước rất hữu hiệu , chứng tỏ người xưa đă hiểu biết rành rọt về vấn đề vệ sinh .

 Theo các nhà khảo cổ th́ thành phố này đă được xây cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn minh Incas và Maya phát triễn, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở Nam Mỹ . Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như thế nào? Chủng tộc nào đă sống tại đây ? Tại sao họ lại biến mất , không để lại một dấu tích ǵ trừ chiếc Kim Tự Tháp và hệ thống đường sá tinh vi kia ?

 Các nhà nghiên cứu nhận xét rằng dù đă trải qua bảy tám ngàn năm mà hệ thống đường sá vẫn c̣n rất tốt , không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa , bảo tŕ th́ chỉ vài chục năm đă hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm.

 Dọc theo những con đường lót bằng đá, là những thửa ruộng trồng lúa và khoai , chứng tỏ nền văn minh này chú trọng nhiều về nông nghiệp . Một điểm đặc biệt là mỗi ngă tư đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi những kư hiệu lạ lùng trông như một tấm bản đồ .

 Bản đồ đường sá hay bản đồ chỉ dẫn điều ǵ vẫn c̣n là một câu hỏi lớn . Thông thường các nền văn minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về lịch sử, phong tục ,tập quán , nhưng không hiểu sao tại đây họ không hề t́m thấy một dấu tích đặc biệt ǵ về nền văn minh này ngoài các tấm bản đồ kỳ lạ kia .

 Cách đó không xa ở gần đỉnh núi có một bộ lạc người thiểu số gọi là Kogi sống biệt lập , không giao thiệp với ai . Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là con cháu của những người đă xây dựng lên Kim Tự Tháp và thành phố với đường sá xây bằng đá này , nhưng họ vẫn không biết v́ sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn và biến mất , không để lại dấu tích nào ?

 V́ người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra , không tiếp xúc và giao thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ . Trong khi những bộ lạc quanh vùng thường giao dịch, trao đổi hàng hoá với những người tỉnh thành , th́ người Kogi rất thận trọng và kín đáo , rút lên những vùng núi cao , không tiếp xúc với ai , chỉ giới hạn việc giao thiệp với một vài bộ lạc lân cận mà thôi .

 Đầu năm nay, kư giả Alan Ereira , phóng viên đài BBC tại Columbia , nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với ai , đă chấp nhận cho anh được phỏng vấn với điều kiện là anh phải đến tham dự buổi Đại Hội Tôn Giáo thế giới tổ chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993 và công bố một bản Thông Điệp của họ .

 Kư gỉa Areira đă viết : " Đây là một biến cố đặc biệt . Tại sao bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự nhiên họ lại cho phép tôi được phỏng vấn, quay phim ? Họ muốn ǵ đây ? Tại sao một bộ lạc sống biệt lập trong vùng rừng sâu núi thẳm , không tiếp xúc với thế giới bên ngoài , lại biết có một Đại Hội Tôn Giáo nhóm họp tại Hoa Kỳ để gởi một Thông Điệp ?

 Một điều may mắn là tuy người Kogi không liên lạc với ai , rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ , nhưng v́ họ tiếp xúc giới hạn với vài bộ lạc gần đó , nên chúng tôi đă t́m được một người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để làm công việc thông dịch."

 Phái đoàn của kư giả Ereira gồm 6 người , 2 kư giả, 1 nhân viên y tế và 3 nhân viên thu h́nh đă lên đường vào đầu năm 1993 . Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo lội suối, họ đă đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra . Đường vào đây phải vượt qua một vực thẳm rất sâu, chỉ có độc một cây cầu treo bện bằng dây thừng bắc ngang qua bờ vực . Được thông báo trước , một phái đoàn Kogi đă ra đón tiếp trước bờ vực .

 Khác với những bộ lạc thiểu số sống trong vùng thường ít mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều mặc quần áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm . Một người lớn tuổi đă bắt đâu bằng một bài diễn văn ngắn :

 " Chúng tôi là những trưởng lăo của dân Kogi , chúng tôi chấp thuận cho phép các ông được đặt chân vào đây trong ba ngày . Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần cuối các ông được phép đến đây.

 Hiển nhiên việc này đă được Hội Đồng Trưởng Lăo thảo luận rất kỹ và đồng ư. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ , một giống dân đă có mặt trên trái đất này từ lâu lắm rồi , trước khi tổ tiên các ông ra đời .

 V́ chúng tôi có mặt từ trước , chúng tôi tự coi ḿnh là những người anh lớn trong đại gia đ́nh nhân loại , do đó chúng tôi là anh và các ông là em . Theo lệ thường trong gia đ́nh , người anh thay mặt Mẹ Cha để giáo dục, dạy dỗ các em , nhưng chúng tôi biết rằng các em c̣n trẻ quá, c̣n hung hăng quá, c̣n cứng đầu, cứng cổ ngang bướng quá, chưa thể học hỏi được ǵ , nên trải qua mấy ngàn năm nay , chúng tôi, những người anh, đă quyết định giữ thái độ im lặng .

 Chúng tôi hy vọng theo thời gian , các em sẽ hiểu biết hơn, trưởng thành hơn và học hỏi được qua những lỗi lầm đă tạo . Tiếc thay thời gian quá nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được ǵ lại c̣n tiếp tục phá họai gia tài Mẹ Cha để lại , do đó, những người anh lớn bắt buộc phải lên tiếng .

 Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi cho phép các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi, một nếp sống truyền thống đă tiếp diễn mấy ngàn năm không thay đổi . Các ông được tự do nghiên cứu, ghi nhận, quay phim , chụp h́nh và làm tất cả những ǵ cần thiết , và sau đó chúng tôi có một Thông Điệp muốn gởi cho thế giới bên ngoài .

 Kư giả Ereira ghi nhận :" Thật không thể tưởng tượng được cảm giác lạ lùng của chúng tôi khi vượt qua chiếc cầu treo lơ lửng trên miệng vực thẳm đó để bước chân vào vùng đất của người Kogi .

 Chúng tôi có cảm tưởng rằng thời gian đă dừng lại hoặc chúng tôi đă đi ngược thời gian để trở về một thời điểm nào đó của lịch sử . Mặc dù thời gian chỉ vỏn vẹn có ba ngày nhưng phái đoàn của chúng tôi đă làm việc không ngừng .

 Mọi người tùy theo khả năng chuyên môn đă tận dụng thời gian để khảo cứu, ghi nhận . Chuyên viên thu h́nh đă làm việc không nghỉ , ghi nhận được hơn hai mươi giờ phim ảnh, tài liệu .

 Chuyên viên y tế đă khám hơn một trăm người và hoàn tất hồ sơ đầy đủ chi tiết về t́nh trạng sức khỏe của những người dân tại đây . Điều đặc biệt là tuy sống trong một t́nh trạng có thể tạm gọi là " thiếu tiêu chuẩn vệ sinh " theo quan niệm của những ngựi " văn minh "như chúng ta nhưng chuyên viên y tế không hề t́m thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật cả .

 Hàm răng của họ rất tốt , ngay cả triệu chứng sâu răng thường thấy tại các bộ lạc khác cũng không hề có tại đây . Tôi xin xác nhận rằng tất cả những ǵ chúng tôi ghi nhận đều được kiểm chứng cẩn thận để bảo đảm tính cách trung thực của nó .

 V́ thời gian quá ít , chúng tôi chỉ làm được những ǵ có thể làm và chắc chắn c̣n nhiều thiếu sót . Tôi được biết có đến hơn hai mươi làng mạc rải rác trên đỉnh Sierra , nhưng chúng tôi chỉ được đến thăm một làng duy nhất mà thôi.

 Chắc hẳn người Kogi đă có một lư do riêng nào đó nên không muốn chúng tôi đi thăm những nơi khác, nhưng chúng tôi cũng không muốn ṭ ṃ t́m hiểu thêm làm ǵ . Các Trưởng Lăo xác nhận rằng họ không giấu giếm chúng tôi điều ǵ, nhưng cũng không muốn sự có mặt của chúng tôi, gây xáo trộn đời sống yên lành của những người dân trong vùng .

 Điều đặc biệt đầu tiên mà chúng tôi thấy là những người dân Kogi thường sinh hoạt chung . Mỗi khi cần làm việc ǵ th́ mọi người kéo nhau ra làm việc đó một cách rất tự nhiên . Chúng tôi đă chứng kiến việc toàn thể dân chúng trong làng kéo nhau đắp lại con đường bằng đá dẫn vào làng . Họ tự động phân chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm làm một phần mà không cần phải có người hướng dẫn hay chỉ huy . V́ con đường này nối liền hai làng nên dân cả hai làng kéo nhau ra làm việc một cách hết sức trật tự .

 Chúng tôi được biết ngôi làng có một Hội Đồng Trưởng Lăo . Những người này thường cầm một chiếc ống nhỏ bằng gỗ , bên trong đựng vôi . Họ cầm một chiếc que xoay qua xoay lại để tán những mảnh đá vôi ra thành bột , thỉnh thoảng lại đưa lên miệng chấm một chút vôi vào đầu lưỡi .

 Một Trưởng Lăo cho biết : chiếc ống vôi tượng trung cho đời sống . Họ luôn tay xoay chiếc ống vôi đó v́ đời sống luôn luôn thay đổi , tiếp diễn không ngừng . Đá vôi tượng trưng cho chất liệu của đời sống . Sở dĩ họ nghiền nát những miếng vôi rồi đưa lên miệng v́ hành động đó làm cho đời sống trở nên ư nghĩa hơn.

 Tôi không hiểu rơ nghĩa của câu đó nên yêu cầu ông giải thích thêm . Vị Trưởng Lăo đă nói : " Đời sống là một sự mầu nhiệm . Nếu con người biết mài giũa thân và tâm để ư thức đời sống một cách trọn vẹn th́ người ta sẽ ư thức được những việc khác phi thường hơn ."

 Kư giả Ereira kết luận : " Tôi đă quan sát việc này rất lâu mà không hề giải thích ǵ hơn. Theo tôi th́ có lẽ đây là một phương pháp tỉnh tâm, ư thức hành động của ḿnh , một phương pháp giống như cách thực hành thiền định của ngựi Á Châu . Việc mài giũa tâm và thân qua hành động xoay xoay chiếc ống vôi nhỏ trên tay là một điều lạ lùng rất khó giải thích ."

 Chính giữa làng có một căn nhà rất lớn cất bằng lá cây . Đây là nơi hội họp của dân làng mỗi khi có việc quan trọng . Khác hẳn với những bộ lạc khác, chúng tôi không hề nh́n thấy các biểu tượng Tôn Giáo ,tín ngưỡng ǵ cả . Căn nhà hoàn toàn trống trơn và rất sạch sẽ .

 Một vị Trưởng Lăo cho biết đây là trung tâm sinh hoạt của làng , mọi việc quan trọng như cưới hỏi, chôn cất, trồng trọt, cày cấy, tiên đoán thời tiết đều được mang ra thảo luận tại đây để lấy quyết định chung .

 Tất cả mọi người đều có quyền phát biểu ư kiến , không có Tù trưởng hay một ai nắm quyền hành cả . Kư giả Ereira ghi nhận : " Thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy . Một bộ lạc không có Tù Trưởng, không có người lănh đạo , mọi quyết định đều là quyết định chung . Phải chăng đây là một h́nh thức dân chủ thô sơ nhất và chân chính nhất đă có từ ngàn xưa ?

 Theo chỗ chúng tôi ḍ hỏi th́ không có một điều ǵ được làm nếu không có sự đồng ư chung , nhưng quyết định chung ở đây không có nghĩa là đa số trên thiểu số mà là quyết định của toàn thể mọi người (Concensus) . Thật khó có thể tưởng tượng được một bộ lạc sống biệt lập lại có một truyền thống dân chủ đặc biệt như vậy ! Phải chăng nền văn minh cổ xưa ngày trước là một nền văn minh dựa trên căn bản dân chủ ? "

 Đơn vị nhỏ nhất của xă hội Kogi là đơn vị gia đ́nh . Trung b́nh một gia đ́nh gồm Cha Mẹ và các con nhỏ . Khi trẻ em c̣n nhỏ chúng được nuôi duỡng bởi Cha Mẹ , phần lớn là người Mẹ trực tiếp nuôi nấng con cái . Nếu có bệnh tật th́ các em được đưa đến cho các Trưởng Lăo chữa bệnh . Đôi khi các Trưởng Lăo cũng bó tay và em nhỏ không thể sống nhưng Cha Mẹ chúng chấp nhận , cho rằng đó là luật thiên nhiên .

 Nếu sống được đến lúc trưởng thành th́ người Kogi có tuổi thọ rất cao , tuổi trung b́nh của họ là khoảng một trăm hay hơn thế nữa . Một Trưởng Lăo cho biết : " Theo quan niệm của chúng tôi th́ sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh . Bệnh tật chỉ là hậu quả của những ǵ trái với thiên nhiên .

 Ngoài ra sự tương giao giữa con người với thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên nhiên bị phá hoại , chắc chắn con ngựi sẽ bị ảnh hưởng theo , do đó, con người phải biết t́m môi trường thích hợp để sống . Chính v́ sống theo với các định luật thiên nhiên mà có đủ thứ bệnh kỳ lạ xảy ra , đây là bằng chứng hiển nhiên rằng con ngựi chịu ảnh hưởng nhiều về môi trường và cách thức mà họ sinh sống ."

 Khi đứa nhỏ đuợc khoảng bảy tuổi th́ chúng bắt đầu rời Cha Mẹ để sống với Ông Bà Nội, Ông Bà Ngọai ở cách đó không xa để được giáo dục thêm về cách sống tự lập . Khi đuợc hai mươi mốt tuổi, th́ đứa nhỏ đi theo các bậc Trưởng lăo học hỏi, và khi gần ba mươi tuổi mới bắt đầu khởi sự lập gia đ́nh riêng .

 Người Kogi sống bằng cách canh tác và hái trái cây trong rừng, một lối sống hết sức thô sơ thựng được gán cho các dân tộc c̣n man dă . Phương pháp trồng trọt của họ cũng rất giản dị . Họ dùng một cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó vài hạt đậu rồi lấp lại . Việc trồng trọt hay gieo hạt được dành cho phái nữ v́ người nữ " mát tay " hơn người nam .

 Một Trưởng Lăo cho biết : " Chúng tôi vẫn biết có những phương pháp trồng trọt , canh tác khác có thể làm hoa màu nảy sinh rất nhiều , nhưng có nhiều để làm ǵ ? Gia đ́nh nào th́ cũng chỉ ăn ngày ba bửa . Có nhiều sẽ tạo nên t́nh trạng tham lam , tạo ra nhiều phiền toái vô ích ."

 Thiên nhiên đă lo liệu chu toàn th́ cứ theo đó mà sống . Các ông hăy nh́n kia , chim chóc không gieo hạt mà thiên nhiên có để cho chúng chết đói đâu ? Các thú rừng khác cũng thế , chả loài nào thiếu ăn cả , vậy tại sao con người phải lo tàng trữ , gia tăng thu hoạch thực phẩm ?

 Có dư làm rối loạn trật tự thiên nhiên , có nhiều hơn cái ḿnh cần là lấy đi mất phần của người khác hay sinh vật khác, và như thế là vi phạm một định luật căn bản của thiên nhiên và truyền thống sẵn có của dân Kogi . Các ông nên biết người Kogi chỉ sống vừa đủ , hoàn toàn không có ǵ dư thừa và do đó, tại đây không hề có trộm cướp hay các tệ nạn như các bộ lạc khác ."

 Một điểm rất đặc biệt là người Kogi không hề ăn thịt cá . Khác hẳn với các bộ lạc khác, họ không hề săn bắn hay có vũ khí . Truyền thống của họ không hề có vấn đề giết hại bất cứ một sinh vật nào , dù lớn hay nhỏ . Đây là một chi tiết đang làm nhức đầu nhiều nhà nhân chủng học và xă hội học .

 Từ trước đến nay, các lư thuyết đều cho rằng những bộ lạc dă man đều sinh sống bằng săn bắn và ăn trái cây trong rừng . Việc một bộ lạc không hề có tập tục ăn thịt cá là một là một sự kiện độc đáo , lạ lùng hiếm có và khó giải thích .

 Người Kogi cho rằng giết hại sinh vật là trái với luật thiên nhiên . Có lẽ v́ lư do đó, trong thời gian quay phim, phái đoàn đài BBC đă thấy rất nhiều hươu , nai , thỏ rừng , chồn , cáo đi qua đi lại trong làng như những gia súc mà không hề sợ hăi .

 V́ chỉ sống bằng rau cỏ thiên nhiên nên việc học hỏi, nghiên cứu các lá cây có dược tính là một môn học được giảng dạy rất kỹ lưỡng tại đây . Người Kogi cho biết họ có thể sống từ ngày này qua ngày khác bằng cách ngậm một vài lá cây mà thôi , có lẽ v́ chỉ ăn rau trái mà họ sống lâu như vậy !

 Phái đoàn đă ghi nhận việc một Trưởng Lăo dạy dỗ một thanh niên cách ăn uống như sau : " Khi ăn phải nhai thật từ từ , thong thả , phải ư thức từng chút một và tuyệt đối chú tâm vào việc ăn chứ không được nghĩ đến ǵ khác. "

 Cách ăn uống làm chủ vị giác là bài học vỡ ḷng đầu tiên trong phương pháp giáo dục của họ . Truyền thống tại đây không có trường học mà chỉ có cách dạy dỗ khẩu truyền từ Cha Mẹ , Ông Bà cho con cháu , và từ các bậc Trưởng Lăo cho những thanh niên .

 Cách giáo dục thanh niên tại đây cũng hết sức lạ lùng có một không hai . Khi được khoảng hai mươi tuổi , thanh niên được gởi đến học hỏi với các bậc Trưởng Lăo trong những túp lều đơn sơ hay một hang đá . Tại đây họ sẽ tập ngồi yên quay mặt vào vách tường trong bảy đến chín năm liền .

 Họ chỉ nhai một ít lá cây , uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được giảng dạy . Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định , các bậc Trưởng Lăo có nhiệm vụ hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm .

 Kư giả Ereira đă ghi nhận buổi giảng dạy trong một hang đá như sau : Thanh niên ngồi quay mặt vào vách , vị Trưởng Lăo bước vào ngồi ở phía sau quan sát thanh niên kia một lúc rồi mới đưa chiếc ống đựng vôi cho thanh niên sử dụng .

 Ông nói : " Ngươi hăy xoay chiếc ống thật từ từ , thong thả, ư thức từng hành động và biết rằng mọi vật trong thiên nhiên lúc nào cũng thay đổi như chiếc ống đang xoay trong tay ngươi vậy .

 Ngươi phải biết rằng đời sống vốn quư báu như vôi đựng trong ống , phải biết quư trọng đời sống của ḿnh cũng như của mọi sinh vật . Tất cả hiện diện nơi đây v́ một ư nghĩa nhất định chứ không phải t́nh cờ ."

 Trong một hang đá khác, một Trưởng Lăo giảng dạy về cách canh tác : " Ngươi phải biết tôn trọng từng gốc cây, từng ngọn cỏ v́ cây cỏ cũng có đời sống riêng của nó . Đừng bao giờ nghĩ đến việc chặt một cây mà không nghĩ đến hậu quả mà ngươi sẽ gây ra .

 Cây cối cho ngươi trái ăn, cho ngươi bóng mát và che chở ngươi khi cần thiết , vậy ngươi phải biết tôn trọng cây cối . Ngươi phải biết vạn vật liên quan với nhau chặt chẽ và ngươi phải ư thức rơ rệt về sự tương quan mật thiết này . Phá hoại trật tự này là phá họai đời sống và phá họai đời sống là tự hủy đó ."

 Kư giả Alan Ereira kết luận : " Trong suốt chín năm ngồi quán xét sự liên hệ giữa các sinh vật với nhau, về mối liên quan giữa con ngựi và con người , người và thú vật, người và rừng cây , người và con suối, mà họ biết tôn trọng thiên nhiên , không giết hại, không ăn thịt cá .

 Họ biết ư thức sự sống tràn đầy trong thiên nhiên , từ đỉnh núi cao xa to lớn cho đến những côn trùng nhỏ bé , từ những trận mưa đầu mùa đổ nước xuống các ḍng suối tươi mát cho đến những hoa thơm cỏ lạ mọc trong các thung lũng .

 Tâm thức họ tràn đầy các h́nh ảnh tuyệt vời của thiên nhiên qua các điệu nhạc mà chim chóc ḥa tấu, thưởng thức hương thơm của cỏ hoa, rung động với các thay đổi của thời tiết ... điều này phải có một kết quả lạ lùng nào đó v́ khi trưởng thành, bước ra khỏi hang đá , con người đó phải là một con ngựi ư thức rất sâu xa về ḿnh và sự tương quan giữa ḿnh và mọi vật .

 Khi đó họ trở nên một con người mà theo tập tục của xă hội Kogi là người đă trưởng thành , có thể lập gia đ́nh , có bổn phận với xă hội, hoặc tiếp tục đi theo các bậc Trưởng Lăo để học hỏi thêm và trở nên một trong những người này . Danh từ " Trưởng Lăo " của người Kogi không hề có nghĩa là người chỉ huy, mà chỉ có nghĩa là một người khôn ngoan (wise man) mà thôi ."

 Muốn đi theo con đường của các bậc Trưởng Lăo , một thanh niên c̣n phải học hỏi trong nhiều năm . Một trong những phương pháp quan trọng là việc tỉnh tâm để  " giao cảm với tâm thức vũ trụ ", nhờ đó họ có thể biết được nhiều việc xảy ra trên thế giới mặc dù không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra .

 Đa số các Trưởng Lăo thường bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để ngồi yên lặng, giao cảm với thiên nhiên , v́ đối với họ việc tỉnh tâm là mục đích chính của đời sống . Các nhu cầu như ăn uống, chỉ là phụ thuộc . Người ta chỉ bỏ ra vài giờ vào rừng hái trái cây, uống nước suối là đủ rồi , nhưng người ta không thể sống mà thiếu ư thức về ḿnh được .

 Một vị Trưởng Lăo cho biết : " Vũ trụ là một tấm gương lớn , phản ảnh tất cả mọi việc xảy ra trong đó . Biết rung động vởi vũ trụ là biết quán xét tấm gương kia, do đó người ta đâu cần phải đi đâu xa mà cũng biết được những điều cần thiết .

 Việc ngồi chín năm trong động đá đâu phải chỉ ngồi đó nhai vài lá cây , suy nghĩ vài câu nói, mà đ̣i hỏi người ta phải nổ lực t́m hiểu về ḿnh , v́ biết chính ḿnh là biết được vũ trụ và biết được vũ trụ th́ tất hiểu được các định luật thiên nhiên .

 Đă hiểu được các định luật này một cách sâu xa th́ làm sao có thể làm trái với nó được ? Sở dĩ con người làm việc sai quấy v́ họ khôngbiết ḿnh , chỉ sống hời hợt , quay cuồng và dựa trên những giá trị có tính cách giả tạo, những giá trị do tập đoàn tạo ra chứ không phải phát xuất từ những công phu suy gẫm sâu xa . Sống như thế không thể gọi là sống . Đó là sống mà như chết , thân thể tuy sống mà đầu óc đă chết từ lâu rồi "

 Đối với người Kogi việc chết cũng rất giản dị . Khi cảm thấy đă đến lúc phải ra đi , một người già thường t́m vào một hang đá sâu và ngồi yên trong đó chờ chết . Họ không làm đám tang , gia đ́nh than khóc như những bộ lạc khác , mà họ cho rằng đó là một việc b́nh thường , không có ǵ đáng quan tâm .

 Một điểm hết sức đặc biệt nữa của người Kogi là họ không hề có một tín ngưỡng thờ thần linh, hay vật tổ như các bộ lạc khác . Truyền thống nơi đây chú trọng trên căn bản tỉnh tâm suy gẫm, nên họ đă có những quan niệm hết sức đặc biệt , khác hẳn với những nền văn minh khác tại Nam Mỹ .

 Theo quan niệm của người Kogi truyền từ đời này qua đời khác, th́ thuở ban sơ vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú hay bất cứ một cái ǵ, và chính cái trống rỗng uyên nguyên đó được gọi là " Mẹ Vũ Trụ " hay Kaluna. Danh từ Mẹ Vũ Trụ không phải một đấng Hóa Công (Creator) mà chỉ là một tâm thức (Mind) , một trạng thái tuyệt đối hoàn hảo của tâm thức .

 Một Trưởng Lăo đă nói : " Các quan niệm như tinh tú, mặt trời, mặt trăng , đất, nước, gió, lửa từ đâu đến ? Phải chăng từ tâm thức này sinh ra ? Chính tâm thức đó phát sinh ra tư tưởng và khi tư tưởng vận hành , giống như cuộn chỉ xoay từ sợi , mà tất cả mọi vật đều phát sinh .

 Tóm lại tất cả đều do tâm tạo . Có tất cả chín thế giới phát sinh từ tâm thức vũ trụ cũng như một người Mẹ sinh ra chín đứa con . Một đứa con có một đặc tính hay sắc thái tiêu biểu bằng các màu sắc khác nhau .

 Thế giới thứ chín chính là cái thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống . Tất cả mọi thế giới đều tuân theo những qui luật nhất định liên quan đến việc sinh ra, lớn lên , phát triễn rồi chết đi . Đó chính là định luật thiên nhiên không thể thay đổi .

 Ư thức rơ rệt các định luật này rất quan trọng, v́ nó là cây cầu tâm thức nối liền chúng ta và các cảnh giới khác, và sau cùng với Mẹ Vũ Trụ (Kaluna) . Chính v́ ư thức mà người ta biết rằng, trái đất này không phải tạo ra riêng cho loài người, mà cho tất cả mọi sinh vật khác nữa ."

 Kư giả Ereira đă đặt câu hỏi về Kim Tự Tháp và thành phố bỏ hoang với Trưởng Lăo người Kogi, nhưng họ lắc đầu từ chối không tiết lộ ǵ về lịch sử của thành phố đó . Mặc dù họ tự nhận là con cháu của những người đă xây cất ra thành phố đó, nhưng họ cho biết :

 " Tại sao các ông cứ quan tâm đến những kư hiệu lạ lùng, những tấm bản đồ bằng đá kia làm chi ? Các ông sẽ không thể hiểu nỗi những ẩn nghĩa đó khi tâm các ông c̣n xáo trộn . Các tâm hồn non dại, chưa trưởng thành , chưa biết làm chủ ḿnh thường chỉ thích ṭ ṃ chạy theo những kỳ lạ , những hăo huyền bên ngoài chứ không biết quay vào bên trong để hiểu chính ḿnh .

 Chỉ khi biết ḿnh th́ mới biết đưọc những điều mà Kim Tự Tháp kia được xây cất vào việc ǵ, và những tảng đá kia để chỉ dẫn những ǵ . Khi xưa tổ tiên của chúng tôi đă biết rơ những điều này, nhưng khi con người trở nên tham lam, ích kỷ , giết hại, ăn thịt cá , phá hoại trật tự của thiên nhiên, th́ tổ tiên chúng tôi biết không thể thay đổi ǵ được .

 Họ rút vào rừng sâu núi thẳm, chờ đợi những người em sẽ rút tỉa những bài học mà họ phải học , những lỗi lầm mà họ đă gây ra , nhưng tiếc thay đă bao lâu nay h́nh như chẳng mấy ai học hỏi được điều ǵ hết "

 Sau ba ngày ghi nhận, tiếp xúc và quay phim ; buổi tối hôm ấy , mọi nguời quây quần trong căn nhà chính để nghe một Trưởng Lăo tuyên bố về Thông Điệp mà họ muốn gửi cho thế giới .

 Đó là một ông lăo lớn tuổi nhưng c̣n khỏe . Nh́n hàm răng c̣n nguyên vẹn, mọi người nghĩ ông lăo chỉ vào khoảng sáu mươi là nhiều, nhưng về sau kư giả Ereira được biết vị Trưởng Lăo này đă sống trên một trăm năm rồi .

 Hầu như vị Trưởng Lăo nào cũng đều trên một trăm tuổi trở lên cả . Chúng tôi không nh́n thấy những dấu vết già yếu , bệnh tật trên thân thể họ như vẫn thường thấy ở các bộ lạc khác .

 Vị Trưởng Lăo lên tiếng : " Chúng tôi đă thảo luận rất kỹ về điều chúng tôi muốn nói . Chúng tôi muốn gửi một Thông Điệp cho các em trong gia đ́nh nhân loại . Chúng tôi nói bằng trái tim , những lời nói chân thành nhất rằng, hiện nay Nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn, mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra .

 Thứ nhất, nhân loại cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà , đều là con cùng một Mẹ . Dù chúng ta có màu da khác nhau, mặc quần áo khác nhau , có những truyền thống khác nhau , tuân theo những quan niệm khác nhau , sống trong những điều kiện khác nhau nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi .

 Bên trong chúng ta đâu hề khác biệt. Khi đói chúng ta đều đói như nhau , lúc khát chúng ta đều khát như nhau , chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau . Hiển nhiên phải như vậy rồi v́ chúng ta đều là con cùng một Mẹ, nhưng tiếc là các em đă không chú ư đến điều này, v́ các em đă quên mất nguồn gốc thiêng liêng của các em rồi .

 Sống xa Mẹ đă lâu, các em đă quên hẳn người Mẹ sinh ra các em, săn sóc, che chở, nuôi dưỡng các em . V́ thiếu ư thức, các em đă phá nát gia tài Mẹ Cha để lại , phá hoại một cách không thương tiếc , không một mảy may thương tiếc !

 Các anh đây sinh trước, gần Cha Mẹ hơn nên hiểu được ḷng Mẹ Cha đang tan nát , đau khổ. Mẹ đă buồn v́ các con sinh sau nở muộn đă không biết thương yêu nhau mà trái lại cứ chém giết , hận thù nhau , làm hại lẫn nhau khiến Mẹ Cha khổ sở vô cùng .

 Không những thế, các em c̣n dày xéo lên thân thể Mẹ Cha, mà không biết rằng các em đang giết hại chính đấng đă sinh ra các em . Các anh biết rơ việc này nên chỉ muốn khuyên các em hăy dừng lại, quan sát và ư thức việc làm hiện nay của các em, v́ giết hại đấng sinh thành ra ḿnh chính là giết hại chính ḿnh đó .

 Mẹ của các em là ai ? Chính là trái đất này . Ḷng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là những dăy núi cao có mặt khắp nơi . Này các em, đốt rừng, phá núi , đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó .

 Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có Mẹ . Nếu trái đất bị hủy hoại th́ chúng ta sẽ sống ở đâu ? Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm chỉnh .

 Các anh không biết trong ṿng vài năm nữa thế giới sẽ biến đổi như thế nào ? Chắc không lấy ǵ tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại mà không biết bảo tŕ môi trường sinh sống . Tại sao được thừa hưởng một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi vậy ?

 Tại sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay , thế hệ trước đă giữ ǵn cẩn thận , đă trân trọng từng tấc đất, từng ngọn suối, từng khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em có thể tự hào rằng ḿnh văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa ?

 Làm sao có thể nói rằng nhân loại đă tiến bộ khi con người càng ngày càng gia tăng thù hận , chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi ? Các anh biết vậy nhưng phải làm sao đây ? Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao , không thể vi phạm được ?

 Ḷng các anh vô cùng đau đớn v́ các anh thấy rằng trái đất đă khô kiệt rồi , mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ c̣n trong giây lát . Do đó, các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hăy thức tỉnh, ngưng ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại , nếu không th́ trễ quá mất rồi "

 Kư giả Ereira ghi nhận : " Thật khó có thể tin rằng những người Kogi lại biết rơ t́nh trạng phá hoại môi sinh và chiến tranh đang xảy ra trên thế giới hiện nay khi họ không rời phạm vi của đỉnh Sierra .

 Tuy nhiên điều này có lẽ cũng không sai v́ có nhiều bằng chứng rằng môi trường sinh sống của nhân loại đang bước vào một giai đoạn nguy kịch rơ rệt . Một bằng chứng hiển nhiên là lớp tuyết trên đỉnh Sierra trước nay vẫn đóng rất dày mà nay chỉ c̣n trơ lại một vài mảng mà thôi .

 Gần đỉnh núi có một hồ nước rất lớn , vốn là nơi lưu trữ nước khi tuyết tan vào mùa hè . Hồ nước này sẽ đổ xuống các sông ng̣i , chảy qua những đồng bằng trước khi chảy ra biển . Hiện nay hồ nước này cũng đă gần cạn khô , mực nước tại sông ng̣i quanh vùng đều xuống thấp và dân chúng ở vùng đồng bằng đă than là suốt mấy năm nay nạn hạn hán đă hoành hành dữ dội , số lượng thóc lúa thu hoạch được càng ngày càng xuống rất thấp .

 Khắp nơi trên thế giới , người ta nói về t́nh trạng nhiệt độ gia tăng (Global Warning) gây ra bởi nạn đốt rừng phá núi , xẻ đường và hậu quả của những ô nhiễm kỹ nghệ . Thêm vào đó biển cả cũng gặp nhiều khó khăn bởi việc các chất cặn bă gia tăng , giết hại các sinh vật, căn bản của đời sống các loài thủy tộc .

 Thêm vào đó, việc phát triển các kỷ thuật đánh cá tối tân bằng các tấm lưới khổng lồ như lưới vét (Drift Net) của các quốc gia tân tiến, đă làm nhiều dân tộc sống ở ven biển gặp nhiều khó khăn về thực phẩm v́ chẳng c̣n có cá để ăn ."

 Người ta tiên đoán rằng chỉ vài năm nữa thế giới sẽ lâm vào t́nh trạng suy kiệt dinh dưỡng . Nạn đói kém sẽ xảy ra khắp nơi , và những quốc gia làm chủ được thực phẩm sẽ là những quốc gia có quyền lực mạnh nhất .

 Biết rơ nguy nan này , các quốc gia tân tiến đang phát động những căn bản kinh tế, kỹ nghệ mới đặt trên vấn đề môi sinh mà nạn nhân đầu tiên sẽ là các quốc gia kém mở mang, chậm tiến . Chính những quốc gia này sẽ trở thành miếng mồi ngon để các quốc gia tân tiến kéo đến mở mang kỹ nghệ , phóng uế bừa băi các chất cặn bă , và phá hoại môi sinh .

 Nhân danh khoa học kỹ thuật, các quốc gia tiên tiến đang cho thuyên chuyển những nhà máy , kỹ nghệ từ xứ họ qua những quốc gia khác, dưới những danh nghĩa rất tốt đẹp như hợp tác, phát triển kỹ thuật . Hiển nhiên họ đă ư thức t́nh trạng phá hoại môi sinh và hậu quả của nó trong quốc gia của họ, và quyết định nếu kỹ nghệ là cần thiết, th́ hậu quả của nó phải xảy ra một nơi nào khác, chứ không phải trên lănh thổ của họ .

 Nói một các khác, chính sách thực dân mới sẽ không xây dựng trên t́nh trạng chiếm đất, nhưng sẽ đặt trên căn bản phá hoại môi sinh tại những nơi khác , v́ đây là một sự phá họai có tính cách vĩnh viễn , không thể phục hồi .

 Những quốc gia mà môi sinh bị phá họai sẽ không bao giờ ngóc đầu lên được, khi t́nh trạng thực phẩm thiếu sót v́ đất mầu bị phá họai , rừng rậm bị phá hủy , biển cả và đất đai chứa đựng toàn những chất ô nhiễm . Dĩ nhiên dân chúng sẽ bị những bệnh tật kỳ dị không thể chữa , những thứ bệnh có thể gây tổn thương đến yếu tố di truyền và hoàn toàn suy kiệt nhân lực (Oligarchy) bởi các hóa chất kỹ nghệ .

 Thế giới ngày nay đang bước vào một khúc quanh lịch sử, mà trong đó t́nh trạng môi sinh sẽ đóng một vai tṛ thiết yếu , quan trọng .

 Khi phái đoàn kư gỉa đài BBC rời rặng Sierra vào tháng Hai năm 1993 , những người Kogi đă ân cần nhắn nhủ : " Xin các ông hăy mang Thông Điệp này ra gởi cho thế giới bên ngoài, để nhân loại biết rằng t́nh trạng đă thực sự nguy kịch lắm rồi ! Nếu họ không chịu thức tỉnh th́ đợi đến bao giờ nữa đây? "

                                               

                                          Alan Ereira

                                                            Nguyên Phong dịch
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 442 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 8:00pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA

LỜI NÓI ĐẦU

 

 Tác giả: Ruth Montgomery Coward, Mc Cann Geoghegan, Inc. 200 Madison Ave New York, NY. 1001.

 Tác giả là một phóng viên báo chí, vốn không tin những sự huyền bí. Nhưng trong nhiều năm, bà đă được chứng kiến nhiều sự kỳ lạ xảy đến cho những người thân và bạn bè, báo trước những việc sắp tới, hoặc báo tin đúng lúc việc xảy ra tại nơi khác rất xa, có khi phải vài ngày sau mới được tin theo lối thông thường.

 Bà cũng đă tiếp xúc với nhiều con đồng (medium) dự nhiều phiên gọi hồn và viết tự động mà ta gọi là cầu cơ. Con đồng là người có khả năng tiếp xúc với người sống qua miệng hoặc tay của họ. Chính tác giả cũng có khả năng đánh máy tự động, là để cho một linh hồn mượn tay của ḿnh đánh máy ra những điều muốn nói.

 Bà là một trong nhiều nhà học giả khảo cứu về thế giới vô h́nh. Nhờ những điều hỏi được các linh hồn, bà đă viết ra một số sách như:

 A Search for the Truth (T́m Sự Thật), A Gift of Prophecy: Jeane Dixon (Nhà Tiên Tri Jeane Dixon), Here and Hereafter (Đây và Sau Đây), A World Beyond (Thế Giới Bên Kia) và cuốn này.

 Cuốn Thế Giới Khi Xưa này cũng được viết ra bằng những tài liệu do những linh hồn cao siêu mà tác giả gọi là Dẫn-đạo-sư (spirit guides) đă đánh máy ra qua bàn tay của bà. Dẫn-đạo-sư kể lại sự tích từ khi khai thiên lập địa, nghĩa là từ khi trái đất mới thành h́nh, rồi bắt đầu có loài người, những sự phấn đấu của những người thái cổ (homo-sapiens) với thiên nhiên và với những giống vật khổng lồ đời tiền sử.

 Khi Dẫn-đạo-sư nói đến những điều khó tin như cây cối rậm rạp vùng nhiệt đới tại nơi ngày nay băng giá quanh năm, tác giả đă tham khảo và t́m thấy những tài liệu khoa học trong tập Bách Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) và vài cuốn khác, nói đến những vết tích cây cối và động vật bị chết cứng đột ngột dưới lớp băng đá rất dày, trong những trận thiên tai đời thượng cổ.

 Khi Dẫn-đạo-sư nói đến lục địa trên vùng đại dương ngày nay, hoặc nói đến biển cả ở nơi đất liền hiện tại, tác giả cũng t́m được tài liệu khoa học chứng minh sự biến đổi đó.

 Dẫn-đạo-sư nói rằng loài người bắt đầu sinh ra trên trái đất cách đây từ 5 đến 7 triệu năm. Người Bắc Kinh, là bộ xương cổ xưa t́m thấy tại vùng Bắc Kinh, được coi là bộ xương người xưa nhất mà các nhà bác học ước đă được 500 ngàn năm.

 Nhưng khi cuốn sách này sắp được xuất bản 1976, tác giả được biết các nhà khảo cổ đă t́m thấy tại miền đông Phi Châu, những xương bàn tay người ba triệu năm trước và xương sọ người một triệu rưỡi năm trước.

 Bác sĩ Donald Johnson nói rằng sự xem xét hơn ba chục xương bàn tay và cổ tay, rải rác trên một sườn đồi cho thấy rằng bàn tay có thể cử động như bàn tay người thời nay, chứ không như bàn tay của hai loài đười ươi (gorilla và chimpanzee) là loài khỉ gần giống người hơn cả, hai loài này vẫn phải chống tay xuống đất để đi. Điều nhận xét này loại bỏ thuyết của khoa học cho rằng người và khỉ cùng chung một thủy tổ.

 Bác sĩ Duane Gish cũng t́m thấy tại một ḷng sông vùng Texas, có vết chân người in vào đá gần vết chân khủng long. Có lẽ xưa là đất lâu ngày đất ấy trở thành đá. Khủng long (dinosaur) là một loài vật khổng lồ thời tiền sử thuộc loài thằn lằn, có khi dài đến 30 thước (100 ft), cao hơn 5 thước (18 ft), thường chân sau rất lớn chân trước rất nhỏ, đuôi lớn và dài, cổ ngắn đầu to hoặc cổ dài đầu nhỏ.

 Điều này chứng tỏ loài người đă có sớm hơn là người ta tưởng, v́ các khoa học gia vẫn cho rằng khủng long đă tuyệt chủng nhiều ngàn năm trước khi có người. Những người thái cổ đă phải phấn đấu kinh khủng với những vật khổng lồ, trong nhiều triệu năm sống chung với chúng.

 Trong cuốn này, các dẫn-đạo-sư nói đến ba thiên tai, một trong đó là nạn trái đất đổi trục đă khiến cho vùng đại-lục Lemuria ch́m xuống dưới Thái B́nh Dương, đồng thời loài khủng long bị tuyệt chủng. Tác giả nghi ngờ rằng sao trái đất c̣n tồn tại được qua một tai nạn lớn lao nhường ấy, nhưng sau được biết các khoa học gia hiện đại đă nói Bắc cực và Nam cực đă có nhiều lần thay đổi vị trí trong thời gian ngàn triệu năm qua.

 Dẫn-đạo-sư cũng đồng ư với Edgar Cayee. Edgar Cayee là một người Mỹ làm nghề chụp h́nh, nhưng có khả năng tự thôi miên. Khi ông thức tỉnh chỉ là một người thường, không hiểu biết ǵ hơn người khác, nhưng khi ngủ thôi miên ông rất sáng suốt, có thể:

 - Nói rơ nguyên nhân bí hiểm bệnh tật của một bệnh nhân và cách chữa, trong khi các bác sĩ đều chịu bó tay.

 - Nói ra những hành vi qúa khứ của một người trong những đời trước, đă đưa đến hậu quả là những khổ nạn mà người ấy phải chịu ngày nay.

 - Nói về những biến cố lớn trong quá khứ và tương lai.

 Ông đă qua đời vào khoảng 1945, thọ hơn 70 tuổi. Ông c̣n để lại hơn 30 ngàn hồ sơ về các buổi thôi miên của ông, rằng gần cuối thế kỷ này sẽ có một lần trái đất đổi trục nữa, nhưng lần này có điều đáng mừng hơn là đáng sợ, v́ tai nạn ấy sẽ đem lại một nền ḥa b́nh, bởi lẽ nhân loại sẽ có quá nhiều vấn đề kiến thiết phải lo, không c̣n đầu óc nghĩ tới tham vọng đất đai của kẻ khác.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 443 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 8:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
THẾ GIỚI KHI XƯA
 
 
I. THUỞ SƠ KHAI

Trong Thánh-Kinh (Bible) có câu: "Thuở sơ khai, Thượng-Đế tạo ra Trời và Đất". Nhưng thế giới từ đâu mà có, và trước đó là ǵ? Dẫn-đạo-sư nói rằng: Trước đó chỉ là sự trống rỗng sâu thẳm quá sức hiểu biết của con người. Không có hỗn mang, không có tiếng động, không có yên tĩnh, không có ǵ cả. Thế nhưng cái Mănh-lực mà ta gọi là Thượng-Đế vẫn có luôn luôn ở đó, v́ khôngcó Thượng-Đế th́ không có vật ǵ, không có động lực, cũng không có cả cái không có.

Hỏi: cái Mănh-lực ấy từ đâu ra? Dẫn-đạo-sư thành thật nói: Chúng tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, v́ lẽ trước khi phát sinh ra linh hồn con người th́ chưa có cuốn sổ thiên nhiên (Cuốn sổ nầy theo như tôi hiểu, là cuốn sổ vô h́nh, mà ta thường gọi là sổ Thiên Tào, ghi chép tất cả các việc ở thế gian không thiếu xót việc ǵ.
 
Các nhà Tiên tri là những người có thần nhăn có thể xem thấy cuốn sổ ấy và biết được những việc quá khứ vị lai. Cũng thế, tất cả hành động của một người từ bao nhiêu đời trước đều được ghi vào trong tâm thức, mà kinh Duy thức gọi là A-lại da thức hoặc thức thứ tám, thức ấy bất diệt và mang theo kho tàng phúc tội từ đời nầy sang đời khác theo luật luân hồi nhân quả.)

Cho đến khi Thượng-Đế đặt những hành tinh vào quỹ-đạo, tạo nên tác động và sự ḥa nhịp, th́ linh hồn chúng ta chỉ là những phần tử của Toàn Thể, không có sự linh hoạt và hiểu biết. Nhưng Mănh-lực ấy vẫn có đó, Thượng-Đế vẫn có đó, vẫn có ở đó cái trí thông minh hoàn toàn khôn khéo, ngoài tầm hiểu biết của tâm trí con người.

Cái Mănh-lực ấy bắt đầu tác động, và những ư nghĩ nẩy sinh ra trong Đại-Thể ấy, để rồi trở thành sự thực. Từ những nguyên tử hợp thành mảnh li-ti, rồi những mảnh li-ti cuốn vào nhau quay theo chiều hướng nhất định, dần dần đến những khối lớn trở thành hành tinh xoay quanh những mặt trời do từ lực hút dẫn.

Vài hành tinh dần dần khô cứng vỏ ngoài, sinh vật vi-tế hiện ra, trước c̣n đơn giản như những tế bào, sau phức tạp hơn như trứng, tinh trùng và bào thai. Từ Mănh-lực ấy, gọi là Thượng-Đế, bắn ra hàng triệu triệu tàn lửa, mỗi tàn lửa là một linh hồn bao quanh Đại-Thể, mỗi linh hồn được tự do đi theo ư muốn của ḿnh. Theo các Dẫn-đạo-sư, tất cả chúng ta được tạo  nên cùng một lúc trong lần bùng nổ tàn lửa đầu tiên ấy, sau đó không có tạo ra linh hồn nào nữa, và cho tới nay có nhiều linh hồn c̣n chưa bước vào đời vật chất.

Lúc phôi thai, các linh hồn là những tàn lửa nhỏ do Thượng-Đế phóng ra, cũng như những đứa trẻ chập chững đi bên cạnh cha, đều ngây thơ như nhau. Rồi sau có một số lang thang ra ngoài đường chính như những đứa trẻ mất nết, muốn thử sức ḿnh mà không theo khuôn khổ của Thượng-Đế. Nhân đó, những tính xấu như ghen ghét, tham vọng, phát sinh và càng ngày càng tăng trưởng
 
Nói đến sự cấu tạo lên vũ-trụ, dẫn-đạo-sư viết: Có nhiều chuyển biến trong thời gian trái đất dần dần đặc cứng. Đầu tiên là khí, rồi đến nước, rồi đến đất, đến cỏ cây, đến sinh vật, rồi những linh hồn nhập vào sinh vật hưởng thú ăn, ngủ, sinh sản, rồi bị ràng buộc vào thân h́nh vật chất.

Rồi Mănh-lực mà ta gọi là Thượng-Đế lại sinh ra một loại sinh vật tŕnh độ cao hơn, có bàn tay, bàn chân, và xương đứng thẳng, với khối óc lớn hơn, có thể phân biệt thiện ác, và có thể điều khiển thú vật, chim cá, nhờ thông minh hơn. Mới đầu mọi sự đều tốt đẹp, sau v́ họ được tự do làm theo ư muốn, những sinh vật ấy phối hợp với những linh hồn đă nhập vào thân súc vật, mà sinh sản ra những loại bán-nhân dị-h́nh, như người có móng chân ngựa, có đuôi, sừng, vây cá, lông chim.
 
Đó là các hậu quả thương tâm của sự cố ư bất tuân lệnh Thượng-Đế. Những bán-nhân ấy xưa kia nhan-nhản trên trái đất, nay c̣n nhớ lại là những thân h́nh chân ngựa ḿnh người (contaur), thần dê (salyr), người đuôi cá (mermaid). Một số đă được tạc h́nh trong các ngôi mộ cổ Ai-Cập, những thân h́nh người có sừng, có móng vuốt, có cánh, hoặc bộ phận bất thường khác.
 
Ngay cả đến tượng thần Sphinx tại Ai-Cập, là một trong những kỳ quan thế-giới, cũng được tạc với mặt người, thân sư tử và có cánh. Những thân h́nh ấy, không nên coi là chuyện thần thoại, mà là có thực, do lỗi lầm nguyên thủy là sự phối hợp với loài vật.
 
Tại sao những người đầu tiên ấy lại phối hợp với thú vật, cá và chim? Dẫn-đạo-sư nói: Thoạt kỳ thủy, mỗi linh hồn là một thư-hùng lưỡng-thể, có đủ cả âm-lực và dương-lực, cũng như Thượng-Đế. Một linh hồn có thể tự ư muốn ở trong một xác thân bao lâu cũng được, hàng ngàn năm, v́ thế không cần sinh sản.
Nhưng sau có những linh hồn bị ràng buộc vào thân xác thịt và phối hợp với loài vật, nên cần phải đặt ra một hệ-thống để cho con người có thể sinh sản riêng giống người và thỏa măn nhu cầu phối hợp. Nhân đấy, một linh hồn nhập vào thân xác thịt được chia làm hai, tức là hai nửa, và chỉ khi nào hết đời vật chất trở về cơi tâm linh, hai phần mới lại nhập một. Linh hồn đầu tiên nhập vào thân h́nh người là Amelius, là một cá thể hoàn toàn. Nhưng đến khi Amelius trở lại th́ thành ra hai phần Adam và Eve.

Tác giả nhắc lại lời Edgar Cayee cũng nói đến tên Amilius, hai chữ khác nhau về chính tả, v́ Edgar Cayee chỉ "nói" lên trong lúc thôi-miên, c̣n dẫn-đạo-sư đă đánh thành chữ nên chính xác hơn.

Tập quán thông thường coi đàn bà ở địa vị thấp hơn đàn ông. Thực ra việc sinh con đẻ cái cực kỳ quan trọng. Vả chăng mỗi chúng ta khi trở lại trái đất, lấy thân h́nh hoặc nam hoặc nữ, vậy vinh dự không dành riêng cho phái nào. Ngay chính Thượng-Đế là một cá thể hoàn toàn, chẳng phải nam, chẳng phải nữ; chúng ta gọi là Cha, chỉ là theo tập quán thông thường.

Sự sinh ra những người đầu tiên là một biến chuyển cực kỳ quan trọng, không những v́ tŕnh độ trí khôn và thân h́nh con người cao hơn tất cả các sinh vật khác, mà c̣n v́ chính một phần tâm linh của Thượng-Đế ở trong đó, khiến con người, với sự tự do làm theo ư muốn, có thể đạt đến quyết định sau khi suy luận, điều này hoàn toàn không có trong loại vật. Y được chọn con đường y đi, được thương yêu và được thù hận, v́ y là một phần của Thượng-Đế, nên y có thể tạo ra ư nghĩ rồi đem ư nghĩ đến chỗ thực hiện. Như vậy, con người trở lên một cá tính, nhưng vẫn là một phần của Toàn Thể Vĩ Đại.
 
Vậy th́ ghét bỏ hay khinh khi một người khác tức là thù hận chính ḿnh và cả Tạo Vật. Mỗi chúng ta là một phần của Toàn Thể Nguyên Thủy, và bị tách ra cho đến ngày chúng ta được hợp trở lại với Thượng-Đế.

Những lời Dẫn-đạo-sư nói cũng tương tự lời của Edgar Cayee và những nhà siêu-h́nh-học khác, v́ lẽ tất cả sự việc đều ghi vào sổ thiên nhiên, và những tâm linh sáng suốt được đọc sổ ấy, đều được nói lên sự thật như nhau. Edgar Cayee cũng nói rằng Amelius là thiên thần đầu tiên nhập vào thân h́nh người, và một số linh hồn đă làm trái ư muốn của Thượng-Đế mà phối hợp với cầm thú, khiến cho những quái vật được sinh ra. Sự kiện này đă tiếp diễn trong nhiều ngàn năm.

Nhưng từ khi linh hồn người được phân chia ra nam nữ để sinh sản ra cùng giống, Thượng-Đế đặt ra luật khiến cho loài người không thể sinh ra con cái khi phối hợp với loài khác. Năm giống người được vào trái đất cùng một lúc, mỗi giống có một mầu da riêng biệt để thích hợp với ánh nắng mặt trời và hoà đồng với hoàn cảnh (Từ trước tôi không khỏi thắc mắc, sau khi đọc truyện Adam và Eve, rằng ai là thủy tổ của loài người. Theo kinh Thánh (Bible), Đức chúa trời (God) đă tạo ra trời đất cỏ cây động vật và sau cùng là người trong sáu ngày.
 
Người đầu tiên Adam và Eve sinh ra tại vườn Eden ở trong khu vực Assyria-Euphrates, tức là vùng tây Á châu từ Địa trung hải đến vịnh Ba tư. Đến khi cháu Adam đời thứ 20 là Abram (sau đổi là Abraham) v́ nạn đói phải đi sang Ai Cập, và cháu Adam đời thứ 23 là Joseph bị các anh bán sang Ai Cập, th́ thấy rằng người Ai Cập không phải là ḍng-dơi Adam. Theo tập Exodus là Jehovah (chương 6) "là Đức Chúa Trời của người Do Thái" (The Lord of the Hebrews, chương 3), vậy Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh chỉ sinh ra người Do Thái, chứ không sinh ra người Ai Cập. Ngoài ra, c̣n người Á châu da vàng, người Âu châu da trắng, người Phi châu da đen, người Mỹ châu da đỏ, ai đă sinh ra? Nay đọc cuốn sách nầy, dẵn đạo sư nói có năm giống người được sinh ra tại năm nơi với màu da khác nhau, như thế có lư hơn.)

Từ đấy mặt địa cầu càng ngày càng đông người ở. Những tâm linh ở trong thân h́nh người ấy có thể giao tiếp với nhau bằng ư nghĩ, và cũng có thể tự ư thoát ra khỏi từ lực của trái đất, để tạo lên những vật rất to lớn và di chuyển vật ấy từ nơi này đến nơi khác. Thực ra họ có thể phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử, nên với phương pháp giản dị này, ta thấy có những đầu khổng lồ trên Cù-lao Easter (Easter Island) (Easter Island là một cù lao trên Thái B́nh Dương thuộc Chi Li (Chile)), kim-tự-tháp lớn tại Ai-Cập, và nhiều di tích khác của một nền văn minh cao hơn ngày nay rất nhiều.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 444 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 8:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
THẾ GIỚI KHI XƯA
 
 
II. NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT

 
Các nhà siêu-h́nh-học đều công nhận rằng Đại-lục Mu, cũng tên là Lemuria, trong quá khứ, là nơi phát nguyên nền văn minh. Đại lục ấy là một vùng đất đai rộng lớn đi từ bắc California đến nam Peru, bao gồm một phần lớn Thái B́nh Dương, mà những đảo Hawaii, Tahiti, Polynesia và Easter là những di tích c̣n sót lại. Từ miền tây California, bấy giờ thuộc bờ biển của Lemuria sang đến Bắc mỹ, là biển cả, trong đó có vùng Hồ Mặn (Great Salt Lake) tại Utah. Lưu vực sông Mississippi là bờ biển phía tây của lục địa Hoa Kỳ ngày nay. Nhưng khi Lemuria bị ch́m xuống và đất nhô lên thành dăy núi Rocky và Appalachian, th́ trong một thời gian, sông Mississippi đổ vào những Đại Hồ (Great Lakes), trước khi một thiên tai khác, một lần nữa, thay đổi địa thế.

Các dẫn-đạo-sư ước rằng người thái-cổ đă có ở trên trái đất từ năm đến bảy triệu năm, sau khi những bán-nhân thô lỗ đă được sinh ra từ nhiều triệu năm trước. Người đầu tiên là Amelius có thân h́nh nhẹ nhàng, có thể hiện diện tức th́ tại bất cứ nơi nào trên trái đất. Amelius và những người sau cũng có thân h́nh nhẹ như thế, đều có khả năng chuyển ư nghĩ thành sự thật, và di chuyển những vật nặng bằng cách phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử của vật ấy. Chính amelius cũng là một ư nghĩ của Thượng-Đế chuyển thành sự thật.

Theo dẫn-đạo-sư nhiều người thái-cổ cao trên ba thước rưỡi, và những loài thú, cá, chim, phối hợp với họ để sinh sản ra những con dị h́nh to lớn, một số những con này có nhiều tài lạ khiến chúng được tôn thờ trong thần thoại Hy-Lạp và La-Mă.

Trong thời Amelius sống trên trái đất với h́nh thể nhẹ nhàng, con người không bị bám chặt trên mặt đất v́ sức hút của từ lực, nên không nặng nề. Amelius là một thư-hùng lưỡng-thể, nghĩa là có đủ âm lực và dương lực, là một người mẫu hoàn toàn, chỉ trừ không thể ăn uống, tiêu hoá và sinh sản, bản năng này chỉ được phú cho người sau này khi đă được phân chia nam nữ. Những người bất tử đầu tiên ấy luôn luôn ở trong t́nh trạng trẻ trung không già không chết như người vật chất. Họ muốn đến đâu là tức th́ đến đó, cũng như h́nh ảnh ti-vi được thấy tại tất cả mọi nơi nếu có máy thích hợp. Họ ở Atlantis, Lemuria, ở Mỹ Châu, Á châu, ở đâu họ cũng t́m cách an ủi và dạy bảo những kẻ dị h́nh.

Đến khi Thượng-Đế đặt ra luật loại nào sinh sản ra loại ấy, khiến cho không thể trộn lẫn hai loại khác nhau, th́ người không c̣n phối hợp được với thú, chim, cá và sinh sản ra loại dị h́nh nữa. Từ khi có Adam và Eve đầu tiên đă phân chia nam nữ, sinh sản loài người lan tràn trên mặt đất, và thời kỳ vàng son trên Lemuria lư tưởng quá sức tưởng tượng của người hiện đại, đến nay đă hơn bốn triệu năm.

Những người đầu tiên sinh sản nhanh chóng, v́ sự sinh nở tự nhiên không khó khăn, nên có nhiều phụ nữ sinh mấy chục con trong đời họ. Sự hoà nhịp với thiên nhiên được hoàn toàn nên không có tật bệnh, và họ có thể ở trong thân h́nh rất lâu. Nhưng về sau họ bị ràng buộc vào vật chất, nên thể chất họ trở thành nặng nề hơn và khả năng bảo vệ đời sống giảm dần đi.

Từ khi trái đất dần nguội lạnh, vỏ ngoài co lại thành những nơi lồi lên lơm xuống, những lồi lơm ấy đă thay đổi nhiều lần, khiến nên nơi này đất liền ch́m xuống biển, nơi khác đất từ biển nổi lên. Dẫn-đạo-sư nói rằng gần cuối thế kỷ này một thiên tai như thế sẽ xảy ra, nhiều lục địa sẽ biến thành biển cả và biển cả trở thành lục địa, nơi băng giá sẽ nóng bức và vùng nhiệt đới sẽ đông lạnh. Một số nhà địa-chất-học cũng công nhận rằng trái đất đă thay đổi trục nhiều lần trong qúa khứ, bằng chứng là thấy có vết tích cây cối, động vật và khủng long dưới những lớp băng đá dày tại nam bắc cực. Bác-sĩ Frank Hibben ước tới bốn mươi triệu thú vật đă bị chết cứng đột ngột trong lần đổi trục cuối cùng trước đây.

Dẫn-đạo-sư khuyên những ai lo sợ thảm họa ấy hăy nhớ rằng đời sống vật chất chỉ là đời sống mỏng manh. Mục đích của chúng ta là thực hiện sự toàn thiện, để cho không phải trở lại đời vật chất nữa. Càng bám vào của cải trần gian th́ càng cản trở bước tiến của tâm linh. Trong đời sống tâm linh, của cải không có nghĩa ǵ, v́ mọi vật đều do ư nghĩ sinh ra, muốn ǵ có nấy tức th́. Những ai lo sợ hủy diệt vật chất, nên biết rằng thân xác tuy mất, nhưng linh hồn vẫn c̣n tồn tại đời đời.

Lư do duy nhất năm giống người khác nhau được tạo lên là để giúp cho con người thích nghi với khí hậu. Màu da của người da đen cần để che thân dưới mặt trời gay gắt miền nhiệt đới, và cũng để dễ dàng ẩn náu trong rừng rậm âm u của Phi-Châu. Người da trắng ở nơi giá lạnh mùa đông tuyết phủ, cần ít mầu sắc để che thân dưới ánh mặt trời xiên nghiêng. Mầu nâu được dành cho những người ở vùng bán-nhiệt-đới Thái B́nh Dương nhiều gió băo. Màu đỏ để hoà đồng với đất đỏ châu Atlantis và châu Mỹ. Sau cùng mầu vàng cho người phương đông hợp với đất vàng và mặt trời ít gắt. Mỗi giống có một thủy tổ Adam hay muốn gọi tên ǵ cũng được, và một Eve tượng trưng cho sự tạo thành con người hoàn toàn có bộ phận loài vật.

Dẫn-đạo-sư đồng ư với Edgar Cayee rằng Amelius tái sinh là Adam và Eve, cả hai đều tái sinh nhiều triệu năm sau là Jesus và Mary. Về điểm dẫn-đạo-sư ước từ năm đến bảy triệu năm từ khi có người thái-cổ trên trái đất, tác giả vẫn c̣n thắc mắc cho đến ngày 31-10-1975 được đọc một bài báo Associated Press như sau: "Các nhà bác học đă tuyên bố hôm qua rằng xương người cổ xưa nhất đă được t́m thấy tại một ḷng sông khô cạn miền đông Phi Châu. Những răng và xương hàm đă hóa thạch của 11 người đă được ước lượng chính xác bằng kỹ thuật phóng xạ, có từ 3.350.000 đến 3.750.000 năm. Đây là di tích cổ xưa nhất thế giới.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 445 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 8:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
             
THẾ GIỚI KHI XƯA
 
 III. ĐẠI LỤC LEMURIA


Trong buổi sơ khai của nền văn minh trên đại lục Lemuria, những loại cây có nhiều đời sống không khó nhọc. Sau v́ nhân số gia tăng, những người thái-cổ phải cố gắng để có thêm thực phẩm. Trước c̣n là đời sống vô định, nay đây mai đó, về sau họ phải gom hạt giống để trồng loại cây có nhân như hạt dẻ. Nông nghiệp bắt đầu từ đó, và là một bước tiến phi thường, cũng như ngày nay bay lên mặt trăng.

Nhiều dân Lemuria làm nghề đánh cá và tỏ ra có tài trên mặt biển. Thoạt đầu, họ ở những vùng bờ biển, rồi sau di chuyển vào nội địa. Họ nuôi cừu (trừu) và gia súc mà họ coi như là anh em, nhưng khi dân số càng đông th́ họ giết để ăn thịt. Tuy rằng đa số cao lớn hơn người ngày nay rất nhiều, nhưng trong thời kỳ thí nghiệm ấy, cũng có những người nhỏ bé hơn người lùn bây giờ. Tất cả những người ấy đều ưa thích hát và nhảy múa theo nhịp sáo và nhịp trống.

Những người Lemuria đầu tiên có đời sống tâm linh cao. Họ ḥa nhịp với Thượng-Đế, nghĩa là hiểu những ǵ Thượng-Đế truyền dạy bằng cách truyền tư tưởng. Dần dần họ bị ràng buộc vào trái đất, khiến thân h́nh nặng nề hơn, và con mắt thứ ba, là mắt sáng suốt hiểu biết mọi sự, bắt đầu lu mờ.
 
Một số sống thanh đạm, ăn dè dặt, và luôn luôn tưởng niệm đến Tạo-Hóa, nên vẫn có thể thông cảm với Thượng-Đế. Họ không dự vào những thú vui của người trần tục để giữ cho tâm linh họ gần với Thượng-Đế. Họ dạy bảo dân chúng những điều trong sạch, ngay thẳng, nên được dân chúng kính nể và chia sẻ hoa lợi mùa màng với họ. Từ đấy phát sinh giới thầy tu đầu tiên.

Những người cao siêu ấy c̣n giữ được khả năng phân tán nguyên tử và di chuyển những tản đá lớn. Đến đây, tác giả hỏi đến nguyên lai những đầu khổng lồ trên cù lao Easter. Dẫn-đạo-sư nói: Đó là những tản đá rất lớn đánh dấu nơi công trường vĩ đại mà dân từ khắp nơi trên đại lục Lemuria kéo đến tụ họp trong những cuộc đại lễ.
 
Những đầu to lớn ấy với những nét mặt khác nhau tượng trưng các vị thần, mỗi vị ngự trị trên một phạm vi riêng biệt và hướng về một phương trời. Những đầu ấy được dựng lên trong thời sơ khai, khi con người chưa bị ràng buộc vào sức thu hút của từ lực, và như thế được tạo lên dễ dàng.

Dẫn-đạo-sư kể lại một sự tích về những khối đá khổng lồ ấy. Trong thời kỳ giới thầy tu được nhiều uy tín, có những kẻ ghen ghét muốn làm giảm uy tín ấy. Họ thách đố những thầy tu trong ngôi đền tại vị trí hiện nay của cù-lao Easter: Ai có thể di chuyển một cái đầu khổng từ nơi này qua nơi kia th́ sẽ được nhận đồ dâng cúng và được quyền ưu đăi hơn người khác.
 
Những kẻ thách đố xảo quyệt ấy đă biết cách di chuyển những vật to lớn bằng một phương pháp huy động tinh thần gần như thôi miên, góp sức nhiều người cùng nhau tác động. Một số đông tụ họp lại, và đến giờ đă định họ đều bước tới, niệm câu thần chú, và cùng nhau ghé vai vào dưới cằm một cái đầu bằng đá, nâng bổng lên được vài phân, nhưng rồi kiệt lực đều té cả xuống.
 
Đến lượt các thầy tu, họ dùng khả năng phân tán nguyên tử, cùng nhau hát lên, ngước mắt nh́n trời, cử động bàn tay ( Có lẽ là hộ thần là bất quyết), tức th́ đầu đá khổng lồ biến mất. Tất cả đám đông hoảng hốt kêu lên: "Trả lại đầu đá cho chúng tôi." - Xin vâng, thầy tu vừa nói xong, đầu đá hiện ra trên một ngọn đồi khác. Những kẻ thách đố xấu hổ, và từ đấy uy tín các thầy tu càng cao.

Thời bấy giờ có những linh hồn từ các hành tinh khác đến thăm. Mặc dù họ mang h́nh thể khác hẳn trên hành tinh của họ, nhưng họ có thể biến thành h́nh người thái-cổ khi họ đến trái đất. V́ những thân h́nh của họ nhẹ gần như bóng sáng, cũng như Amelius và những người thái-cổ đầu tiên, nên họ có thể đi về trong thời gian ư nghĩ phóng ra.
 
Dẫn-đạo-sư giải thích rằng v́ họ có khả năng phân tán và kết hợp nguyên tử, nên họ thoát ra ngoài ảnh hưởng từ lực của trái đất, họ nhẹ hơn không khí, tùy ư muốn biến hiện chính thân ḿnh hoặc những tản đá lớn lúc nào cũng được, đến nơi nào cũng được. Những kim-tự-tháp Ai-Cập và các di tích khổng lồ khác đă được tạo dựng lên bằng phương pháp ấy.

Đại lục Atlantis là một nơi thiên đường không nóng không lạnh, dân chúng thuộc giống người da đỏ, và cũng có những bán nhân thân h́nh thô kệnh, là ḍng dơi của những người đă phối hợp với cầm thú. Không như người Lemuria chịu khó dạy dỗ và nâng cao những kẻ dị h́nh ấy, người Atlantis đối đăi với họ như những con vật để khuân vác nặng nề và làm những việc ti tiện.

Văn minh trên lục địa Lemuria lên đến cực điểm. Nền giáo dục rất cao, những người trưởng thành có tŕnh độ ngang với tiến sĩ ngày nay, nhiều người c̣n tiến xa hơn về cảm giác và ư thức. Chính quyền rất dịu dàng, ḥa hoăn, hàng ngày ít việc làm v́ không có tội ác, không có thù hận.
 
Nếu ai có điều bất ḥa nhất thời với một người khác, th́ người trọng tài giải thích rơ ràng quan điểm của đôi bên. Không người nào bị giam vào tù ngục, v́ người ấy có thể thoát ra khỏi tức th́, bởi lẽ ai cũng có thể chuyển ư thành sự thực. H́nh phạt về một hành động sai lầm chỉ là lời khuyên nhủ khiến họ hiểu tính chất của điều lầm lỗi và tránh không tái phạm.

Về luật luân hồi nhân quả, dẫn-đạo-sư nói rằng luật ấy đă có từ trước khi linh hồn nhập vào thân xác thịt. Đó là luật trời, nếu ai làm trái th́ phải đền tội. Amelius và những người sinh ra cùng thời đầu đă hiểu luật ấy. Một số v́ cám dỗ mà giao hợp với cầm thú đă gây nhân xấu nó theo chúng ra ngoài thân xác cho đến thân sau, khi đời sống đă bị Thượng-Đế rút ngắn.
 
Khi tái sinh ra thành những Adam, Eve và thân h́nh khác, họ đă phải cố gắng xoá cái nợ luân hồi ấy bằng cách đối xử tốt với loài vật. Nhưng bấy giờ Satan lợi dụng cơ hội để điều khiển những kẻ làm sai ư muốn của Thượng-Đế. Vị thần sa ngă ấy quyến rũ những linh hồn xấu xa, càng ngày càng đông bộ hạ, đi ngược lại con đường dự định của Thượng-Đế, có lúc tưởng chừng như y có quyền năng mạnh hơn cả Thượng-Đế, nhưng không phải.
 
Thượng-Đế vẫn toàn năng, vẫn theo dơi kẻ lạc đường nhất thời, và khi một linh hồn biết hối cải và hồi đầu về Cha, tức th́ có sự lạ chờ đón y. Do đó mà có luân hồi, là chuyện đáng buồn cho người đời cứ phải trở lại nhiều lần vào cái thân vật chất, nhất quyết rửa sạch vết xấu xa trong tâm thức. Một số linh hồn đă tiến cao đến toàn thiện, đă hoàn tất bánh xe luân hồi, không phải trở lại đời vật chất nữa.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 446 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 8:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
THẾ GIỚI KHI XƯA
 
IV. D̉NG DƠI THIÊN THẦN


Văn minh trên trái đất chưa bao giờ lại được tiến bộ như thời vàng son trên đại lục Lemuria và Atlantis. Đa số dân chúng có tŕnh độ trí thức cao, và nhờ sự cần cù của họ, cây cối tốt tươi bao phủ khắp mặt đất.

Nhưng không phải là tất cả đều thơ mộng. Nhờ sự phồn thịnh do sức người tạo lên, có vài giống vật sinh sản nhanh hơn loài người. Điểu thú khổng lồ phá hoại mùa màng, thằn lằn to lớn từ biển ḅ lên đầy mặt đất, và những con khủng long với thân vĩ đại và đầu nhỏ bé, hung bạo đến nỗi người phải họp nhau lại trong những khu bảo vệ chặt chẽ. Tại Lemuria t́nh trạng rất nguy nan, khiến người ta phải đào hầm dưới đất hoặc moi rộng hang ở sườn núi để ẩn náu.

Những con khủng long khổng lồ lang thang khắp nơi, đạp đổ cây cối, tàn hại hoa mầu, phá hoang vườn tược mà người ta tốn công trồng tỉa để có thức ăn và bóng mát. Chúng dày séo lên tất cả mọi vật trong tầm của chúng, một ngón chân của chúng có thể đè nát một đứa trẻ con. Chúng thường đánh nhau kịch liệt để tranh dành miếng mồi ngon như người hoặc thú vật. Đuôi lớn của chúng quạt khắp rừng rậm và sông ng̣i để t́m miếng ăn.

Để tránh các thú dữ ấy, người phải sống trong những hang mà cửa vào thấp nhỏ. Đó là một thế giới trong bóng tối. Chỉ có đàn ông mới dám đi ra để kiếm mồi khi những thú dữ không có ở gần. Họ sống bằng thịt săn và ít rau cỏ trồng quanh cửa hầm. Phụ nữ cả đời chỉ được trông thấy bóng người đi qua cửa hang.

Họ nói với những bóng ấy, tưởng đó là những tâm linh của thế giới khác đến nói chuyện với họ, không biết rằng đó là bóng của những người có thân h́nh như thường đứng trước họ và quay lưng ra ánh sáng. Trẻ con dám phiêu lưu ra ngoài, khi không trông thấy có con vật khổng lồ nào từ xa mới chui ra khỏi cửa hang. Mắt họ bị chói ḷa v́ không quen với ánh sáng mặt trời.

Những gia đ́nh ấy hôn phối lẫn nhau trong những buổi lễ ngắn ngủi tổ chức bởi những thầy tu là những người c̣n nhớ đến đời sống tâm linh xưa kia. Trước mặt thầy tu, đôi trai gái nắm tay nhau, và tất cả cùng hát những câu chúc tụng. Nếu có người săn được một con vật, nhỏ như con thỏ hoặc lớn như con trâu, th́ đó là một đại tiệc. Họ ăn, họ ngủ, họ nói chuyện, họ sinh sản. Đó là đời sống âm thầm tăm tối của những người Lemuria ít may mắn.

Vậy mà họ là ḍng dơi thiên thần! Trước khi một số gan dạ cố gắng trừ khử những con vật kinh khủng ấy, tưởng chừng ít có hy vọng cho sự tiến hoá của loài người.

Dẫn-đạo-sư kể lại một gia đ́nh Lemuria chừng 20 người cả con và cháu, sống cách đây khoảng 60 ngàn năm. Họ ở trong hang đào sâu trong đất dưới một ngọn đồi, cửa hang rất thấp, ra vào phải ḅ, để giữ cho những con vật to lớn không thể vào được.

Họ ngủ trên những chiếu đan bằng cỏ mọc quanh hang, sống bằng hạt dẻ và trái cây, đôi khi có thịt do đàn ông săn được. Họ sống trong bóng tối lờ mờ, chỉ có chút ánh sáng nơi gần cửa vào và những khi đốt đuốc, cây đuốc làm bằng mỡ những con vật đă chết, nhưng đuốc ấy tỏa nhiều khói quá chỉ dùng khi nào rất cần.

Một ngày kia, trong khi đàn ông ra ngoài săn bắn, một con khủng long to lớn đánh hơi biết có người trong hang, nó lách cái đầu nhỏ của nó vào cửa hang, cố sức cậy ra một lỗ lớn để vào. Tất cả đàn bà, trẻ con trong hang sợ hết hồn, nhưng cũng phải can đảm lấy gậy đập vào đầu nó trong khi miệng nó phun ra khói.

Đàn ông nghe tiếng ồn ào chạy về, lấy giáo nhọn đâm vào nó hàng trăm nhát cho đến khi nó chết. Rồi mấy chục người ở những hầm quanh đấy phải họp nhau lại lôi xác nó ra xa vừa để tránh mùi hôi thối, vừa để những con vật khác khỏi đến gần.

Đó là cảnh sống hằng ngày của những gia đ́nh thời bấy giờ, luôn luôn ở trong t́nh trạng sợ hăi. Họ ao ước được thấy cảnh đẹp bên ngoài, cũng như ngày nay một người già bệnh tật ao ước được lên cơi trời.

Chỉ có những người đánh cá là không phải ở trong cảnh sợ hăi tối tăm ấy, v́ vùng bờ biển cây cối thưa thớt, những con khủng long và mam-mút (là loại voi khổng lồ có nhiều lông và ngà cong lên) thường không lui tới. Nhưng v́ đông dân cư quá nên chỉ có một số ít được hưởng cái tự do ấy.

Thật là một ngày quan trọng vô cùng khi một chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống hồ Chalda trên đại lục Lemuria, đem lại hy vọng cho những kẻ khốn khổ, ḍng dơi của những bậc trí thức cao mà ngày nay sa xuống gần ngang súc vật, với đời sống trong tăm tối không có tương lai.

Họ hết sức vui sướng khi được biết rằng những người Atlantis muốn cộng tác với họ để triệu tập một đại hội thế giới bàn cách trừ khử những con vật khổng lồ.

Máy bay có thể đáp xuống băi biển không sợ nguy hiểm, v́ những con vật khổng lồ không ở nơi băi cát. Khi những người Atlantis đầu tiên đặt chân lên Lemuria, tin tức lan ra rất nhanh trên khắp đại lục, phá tan không khí buồn tẻ trong nhiều thế hệ.

Tin tức được loan ra bằng hệ thống một loại dây leo truyền âm do một nhạc khí tựa như cái trống của bộ lạc Phi Châu, trống nọ truyền đến trống kia đi xa hàng trăm dặm. Những người mới đến chào hỏi người Lemuria như là những anh em lâu ngày mới gặp lại nhau. Người Lemuria chạy vội đến nơi đón khách quư, vui mừng khôn tả.

Khi người Atlantis nói đến những điều mới lạ trên đất họ, người Lemuria sụt sùi khóc, v́ cảm thấy khác biệt một trời một vực giữa cảnh xa hoa của người và cảnh khốn khổ của ḿnh. Chẳng khác nào một người mọi Phi Châu chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng, nay được nghe tả cảnh phồn hoa Nữu Ước và Luân Đôn.

Một số những người niên trưởng Lemuria đi theo đám quư khách trở về Atlantis để cùng họp với những người từ các nước phương xa đến hội. Atlantis có nhiều tàu, nhiều khinh-khí cầu, nên việc triệu tập dễ dàng nhanh chóng, và những thanh niên được đưa đi học về kỹ thuật và hóa học.

Phi công lái chiếc máy bay tên là Drofus. Cùng với y có hai nhà bác học để điều khiển quả cầu pha lê nhỏ trong máy bay cho phù hợp với một tia sáng của quả cầu lớn trung ương. Đây là một phương pháp tinh vi mà ngày nay không ai hiểu được.

Muốn bay từ Lemuria hoặc một nơi khác xa Atlantis, th́ phải sửa soạn rất công phu, để điều hợp quả cầu nhỏ trong phi cơ với một tia sáng của quả cầu lớn, khiến cho phi cơ tự động theo hướng mà bay trở về. Nguyên tắc những quả cầu pha lê có nhiều mặt phẳng đă bị chôn vùi với đại lục Atlantis, ngày nay không ai biết cách tạo lên và xử dụng những quả cầu ấy.

Người Atlantis bấy giờ là những người tốt bụng. Họ thấy đời sống khốn khổ mà những con vật khổng lồ đă gây cho người Lemuria, họ thúc giục những người này di cư sang nước họ, và họ dạy cho cách đóng những chiếc tàu lớn để có thể đi xa. Nhưng họ không cho ai biết bí mật Quả cầu Pha lê, nó giúp họ điều động các máy bay và tàu ngầm của họ. V́ họ có phương tiện vận chuyển nhanh chóng tiện lợi, nên những lần triệu tập hội đồng cũng được nhanh chóng.

Có những máy bay loại nhẹ chở vài ba người, buộc vào một quả cầu, chỉ cần một khu nhỏ để đáp xuống và bốc lên, lại có bộ phận điều khiển luồng gió, đại khái như máy trực thăng ngày nay, để di chuyển gần. Những máy lớn và mạnh hơn điều khiển bằng tia sáng loại laser do Quả cầu Pha-lê phát ra, cần phi đạo dài hơn, như máy phản lực hiện thời.

Những sân bay được xây tại nhiều nơi để chở người đi dự hội và để tiếp tế hàng hóa, v́ khi ấy Atlantis giữ địa vị lănh đạo trong việc sáng chế và sản xuất các loại hàng. Lemuria trong những ngày cuối được coi như một bà mẹ khôn ngoan và dịu hiền, cố gắng dạy bảo những nước nhỏ, nhưng bọn này ưa thích đời sống tối tân của Atlantis hơn là triết lư của Lemuria. Điều này khiến chúng ta nghĩ đến bọn trẻ tại Hoa-Kỳ ngày nay.

Trong những hội họp quốc tế, có người đưa ra ư kiến ḍ t́m đến tổ những con vật khổng lồ để diệt con nó ngay khi c̣n nhỏ. Người Atlantis chế ra một hơi độc để "thổi" vào tổ chúng khi thuận chiều gió, cách ấy tỏ ra có hiệu quả với những con nhỏ, nhưng không đủ sức sát hại những con lớn.

Dẫn-đạo-sư tả khí cụ được dùng tựa như cặp đũa để t́m mỏ hay mạch nước ngày nay, nhưng tinh vi hơn nhiều, để t́m ra tổ khủng long và mam-mút, những đũa ấy giúp cho những người liều mạng đi t́m đích xác vị trí và thổi thuốc vào tổ nó. Những người gan dạ đă đi t́m khắp các nơi trên thế giới.

Cuộc chiến đấu với khủng long và các vật khổng lồ khác đă kéo dài nhiều thế kỷ và đă có nhiều cuộc hội họp quốc tế để bàn cách giải phóng đất đai nhanh chóng hơn. Người ta đă đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc diệt trừ những vật khổng lồ khiến chúng đă giảm bớt, trước khi một thiên tai xảy đến, đáy biển trồi lên, lục địa ch́m xuống, chôn vùi đại lục và chôn luôn cả những vật khổng lồ.

Khi một giống nào làm nguy hại cho giống khác, th́ giống ấy không thể tồn tại lâu bền trên trái đất. Cái luật ấy là một sự cảnh cáo cho nhân loại hiện nay đương làm cho đất đai, sông biển và không khí nhiễm độc nguy hại cho các loài khác.

Được hỏi tại sao Thượng-Đế đă sinh ra những vật khổng lồ ấy rồi lại khiến cho chúng bị diệt chủng, như thế có phải là Thượng-Đế đă lầm không? Dẫn-đạo-sư nói: Thượng-Đế không lầm. Tạo-Hoá là một pḥng thí nghiệm trường kỳ. Thoạt đầu con người cao hơn ba thước hoặc thấp hơn một thước, rồi sau trở lại trung b́nh hơn một thước rưỡi, và trong mấy ngàn năm gần đây lại cao hơn trước.

Nhưng nếu nhân loại cứ tiếp tục nhiễm độc trái đất, làm nguy hại cho các giống khác, th́ sẽ phải chịu số phận như loài khủng long. Ḿnh được sống th́ phải để cho kẻ khác cùng sống với ḿnh, đó là luật chung của vũ-trụ, nếu chỉ phá hoại, tàn hại giống khác, sẽ không tồn tại lâu trên trái đất.

Khi những vật khổng lồ bị giảm sút dần đi, th́ đời sống con người đỡ khổ, họ đă có thể hưởng ánh sáng mặt trời và gió mát. Dân số tăng rất nhanh chóng, những phụ nữ có hàng chục đứa con. Việc sinh sản không khó khăn và không cần săn sóc như ngày nay, v́ đó là sự tự nhiên, cũng như loài vật sinh con đẻ trứng chẳng cần ai săn-sóc và dạy cách nuôi con.

Trẻ con lớn lên được dạy bảo nhờ những người c̣n nhớ đời sống tâm linh và cảm thông với các linh hồn như ta nói chuyện với hàng xóm. Chúng được dạy cho biết lư do tại sau chúng thác sinh ra đời vật chất, và chúng phải làm việc thiện để hoàn tất sứ mệnh theo luật Trời.

Những bậc cha mẹ cũng hiểu rằng con họ cũng là những linh hồn ngang tuổi với họ, đă chọn họ làm cha mẹ để học hỏi và tiến hóa trong thân xác thịt. Những trẻ con Lemuria có lẽ là những kẻ hoàn toàn nhất trong nhân loại, chúng gần như không biết đến tội lỗi đối với cha mẹ, thầy dạy và bạn bè.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 447 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 9:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA
 
V. NHỮNG MÁY BAY ĐỜI

 THƯỢNG CỔ

 

Atlantis là một đại lục huyền ảo, lư tưởng, xưa nay không đâu bằng, với rừng rậm thâm u, với cánh đồng bát ngát, với khe nước suối, và một con sông lớn ngăn cách Poserdia với phần đất đai c̣n lại. Thật là một cơi thần tiên! Vua Atlantis tên là Atlas tức là một Adam, vợ là Heputh.

Châu Atlantis chạy dài từ duyên hải đông Hoa Kỳ, gồm những vùng bờ biển Georgia, Carolina, Virginia, west Indies và Braril, băng qua Đại Tây Dương đến gần duyên hải tây Phi Châu. Những vua đầu tiên là những linh hồn tiến hóa cao, c̣n nhớ đời sống tâm linh và có thể cảm thông bằng tư tưởng. Vua Atlas phóng những luồng điện và những người dưới bắt luồng điện ấy hiểu được ư vua không cần nói hay viết.

Nhưng đó không phải là một trạng thái thôi miên, chỉ là sức mạnh của ư nghĩ. Sức mạnh ấy tỏa ra từ Atlas qua các con cháu, trở thành năng lực linh động, từ ấy nẩy sinh ra những sáng chế kỳ lạ, chưa bao giờ có từ khi châu ấy bị ch́m.

Vua Atlas phóng ra một tư tưởng, những người khác bắt được làn sóng tư tưởng ấy đưa đến chỗ thực hiện ư nghĩ thành sự thật. Có như thế, những người Atlantis trong nhiều ngàn năm, đă sáng chế ra máy bay, tàu ngầm, tàu nổi, và tia điện như loại tia laser ngày nay, đưa đến một nền văn minh cao tột bực chưa từng có.

Atlas và Heputh sinh ra 24 người con và có nhiều cháu, đều có tŕnh độ tâm linh cao. Mỗi người con là một ông Hoàng cai quản khu vực của ḿnh. Anh quốc ngày nay nằm trong phạm vi của một khu vực, trước khi bị loạt thiên tai nhận ch́m tất cả đất đai từ Hoa Kỳ đến Anh, Bồ Đào Nha và miền tây Phi Châu. Thời bấy giờ người sống rất lâu, hàng triệu năm, nên chưa có vấn đề thừa hưởng, và chẳng bao lâu vua Atlas có hàng trăm con cháu.

Tác giả nhận thấy rằng những điều Dẫn-đạo-Sư nói trên tương tự với sự tích Atlantis mà nhà học giả Hy-lạp trứ danh Plato đă để lại cho văn minh tây phương. Plato được biết sự tích ấy do luật gia đại tài Solon ở thành Athens 600 năm trước kỷ nguyên, ông nầy đă sang Ai-Cập mười năm và đă học nhiều sự tích Atlantis do các thầy tu thành Sais, thủ đô Hạ Ai Cập.

Theo Plato kể lại, vị thần Poseidon sinh ra năm đứa con trai sinh đôi, người con trưởng là vua Atlas có nhiều con cháu tiếp tục trị v́ vương quốc trong nhiều thế kỷ.

Dẫn-đạo-Sư nói thêm rằng Atlas là con cháu là ḍng giống thuần túy không bao giờ ô nhiễm v́ chung sống với những bàn-nhân đă có từ lâu trên Atlantis trước thời Atlas. Người Atlantis coi những bàn-nhân thô lỗ ấy như loài vật để làm việc nặng, như khuân vác, cày bừa, và sau nầy vận chuyển máy móc.

Tuy có sự phân biệt giữa hai hạng người và bàn-nhân, nhưng lúc đầu họ không cảm thấy bị lạm dụng, v́ mỗi bên đều làm hết sức ḿnh. Nhưng mấy chục ngàn năm sau, sinh ra có sự tranh chấp, không những giữa người và bàn-nhân, mà c̣n ngay chính giữa loài người, v́ bấy giờ đă mất quan niệm họ hàng và quan niệm đồng nhất.

Khi ấy Atlas và con cháu gần đă qua đời lâu rồi, dân chúng đă đông đầy trên đại lục, đồng thời những chim và thú khổng lồ đă sinh sôi nẩy nở ra nhiều, trở thành mối đe dọa tiêu diệt nhân loại.

Được hỏi rơ hơn về sự cấu tạo loài người, Dẫn-đạo-Sư nói: Người ta lúc đầu chỉ là những h́nh bóng do ư nghĩ của Thượng Đế mà thành, nhưng từ khi phối hợp với loài vật sinh ra những bàn-nhân, th́ bị ràng buộc vào mặt đất. Khi Thượng Đế sinh ra nam và nử là hai phần của linh hồn.

Ngài dùng những chất liệu ở mặt đất để tạo thành những thân h́nh xác thịt, như đă tạo nên loài vật và các sinh vật khác, các nguyên liệu căn bản vẫn thế: khí, nước, đất, kim thạch, sinh tố. Thân h́nh người ta là sự sáng tạo tối cao, cũng bằng cùng những thứ vật liệu như các h́nh thể khác trên trái đất nầy.

Xin chớ nghĩ rằng Tạo Hóa có hai bàn tay lớn từ trên trời tḥ xuống cạo đất xét trộn với nước, kim thạch, cây cỏ. Thực ra chỉ là ư nghĩ của Thượng Đế dùng những vật liệu thích hợp tạo nên h́nh một sinh vật hoàn toàn.

Atlantis trong nhiều ngàn năm được những vua và hoàng tử sáng suốt nối tiếp nhau trị v́, mưu lợi ích chung. Rồi sau, người Atlantis hành hạ những bàn-nhân, gọi chúng là lao động nửa người nửa vật, cũng như người Mỹ miền nam trong thời kỳ đồn điền hưng thịnh, những trại chủ hành hạ người da đen bị bắt từ Phi Châu tới để làm nô-lệ.

Những bàn-nhân xấu số ấy thường ở với nhau, nên ḍng giống không khá lên được. Họ ở trong những túp lều, trong khi người Atlantis giống da đỏ sống xa hoa, với đủ đồ trang bị tự động do sức mạnh của quả cầu Pha-lê thu hút năng lực của mặt trời phát ra.

Người Atlantis có đầu óc sáng tạo, thích thí nghiệm tất cả các loại khí (hơi), kim thạch, thảo mộc, và họ dùng những bàn-nhân để làm việc nặng nhọc như khuân vác, vận chuyển, hoặc làm việc nhẹ như điều hành những công tác dưới sự chỉ huy của người Atlantis.

Dẫn-dạo-sư nói rằng những sinh linh (beings) từ ngoài không gian được hấp dẫn tới Atlantis v́ năng khiếu sáng tạo của những người ở đấy, và đă dành nhiều th́ giờ đàm luận với họ. Những quư khách không gian ấy đă giúp nhiều trong việc tạo nên Quả cầu Pha-Lê vĩ đại.

Nhờ sức mạnh lớn lao của Quả cầu ấy mà những máy bay, tàu nổi, và tàu ngầm được duy chuyển với một tốc độ kinh khủng. Lúc đầu sức mạnh ấy được dùng vào việc ích lợi chung, nhưng về sau lại dùng vào việc phá hoại.

Quả cầu vỉ đại! cái lực lượng do việc thiện và việc ác mà Edgar Cayee đă nói đến, hiện nay c̣n nằm sâu dưới Đại Tây Dương khu Tam giác Bermuda, ở đấy đă có biết bao máy bay và tàu biển biến mất một cách bí mật trong những thập niên gần đây.(Xem chương. IX. biển Sargasso bí mật)

Những khách không gian đă dạy cho người Atlantis đă tạc nên Quả cầu khổng lồ, sau khi họ đă bắt đầu chinh phục được năng lực bằng những quả cầu nhỏ để điều khiển những đồ trang bị. Trên một sườn đồi, họ t́m thấy một mạch đá thạch anh (quart) đủ lớn để phản chiếu tất cả tia sáng của mặt trời và mặt trăng, v́ mặt trăng cũng dự phần vào cuộc thí nghiệm lớn lao ấy.

Sau khi đă dục bỏ hết đất bám chung quanh,họ khắc những mặt phẳng rất tỉ mỉ để phản chiếu tất cả các tia sáng. Thời bấy giờ bầu khí quyển hoàn toàn trong sạch, nên tia sáng không bị thiên lệch. V́ họ sản xuất năng lực thừa dùng hàng ngày, nên họ t́m cách tích trữ năng lực c̣n dư vào những thùng lớn bằng đồng, để cho các máy bay và tàu không phải tùy thuộc vào sự cung ứng năng lực mỗi ngày.

Những khách không gian ấy đến trái đất bằng những phi thuyền tuyệt xảo. Có nhiều loại máy bay khác nhau, phần lớn có những đĩa và những máy xoay tṛn để không bị sức hút của từ lực khi cất cánh và hạ cánh. Đến nơi họ chuyển những vật liệu lấy ở trái đất thành khí chất để làm ra điện lực. Những người Atlantis theo mẫu ấy đă sáng chế ra những máy bay và tàu chuyển động bằng năng lực do Quả cầu vĩ đại phóng ra.

Theo Dẫn-đạo-Sư, v́ có những thú vật khổng lồ càng ngày càng đông, nên người Atlantis đă phải tập trung vào những khu có tường thành bao bọc, và nhu cầu đă thúc đẩy tài sáng tạo của họ. V́ họ là ḍng dơi những "linh hồn nhẹ hơn không khí", nên họ c̣n giữ được khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh và sáng tác ra những kỳ quan mà thế giới chưa từng thấy.

Tại sao những người không gian đến Atlantis mà không đến Lemura? Dẫn-đạo-Sư nói: Đó là ǵ cái lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng có óc sáng tạo như nhau th́ dễ gần nhau hơn.

Những khách không gian và người Atlantis đă phải mất nhiều năm mới tạo nên Quả cầu khổng lồ, và cái gương phản chiếu để chứa đựng quả cầu đó. Rồi họ sáng chế những tàu, máy bay, cả loại máy đứng yên một chỗ trên không trung như máy trực thăng ngày nay.

Với những máy nầy họ đă học được địa đồ những vùng rộng lớn trên trái đất. Một số họa đồ ấy được t́m thấy mấy trăm năm trước, cho thấy h́nh ảnh trái đất trước lần đổi trục sau cùng, khi mà Nam-cực không có băng tuyết.

Những họa đồ ấy đă được t́m thấy tại Thỗ-Nhĩ-Kỳ hồi đầu thế kỷ 18, là sở hữu của Đề-đốc Thổ Piri Reis. Đó là bản sao họa đồ rất cổ, cho thấy những dăy núi ở Nam-cực trong thời không có băng tuyết. Những nhà địa-dư học măi đến năm 1952 dùng phương pháp đo tiếng vang mới h́nh dung được những núi ấy. Ngày nay đem những h́nh chụp từ vệ tinh so với bản địa đồ ấy th́ thấy rất giống nhau.

Đại học Georgetown trong buổi phát thanh vô tuyến ngày 26-8-1956 b́nh luận về địa đồ Reis, nói rằng nếu không dùng phương pháp chụp h́nh từ trên không trung th́ không thể nào họa được địa đồ ấy.

Trong cuốn Edgar Cayee on Atlantis, chính con Edgar Cayee cũng có đề cập tới địa đồ ấy.

Chắc chắn rằng chưa ai có thể bay được hồi đầu thế kỷ 18 khi địa đồ Reis được t́m thấy. Edgar Cayee và các dẫn-đạo-sư đồng ư rằng những người Atlantis là những phi hành gia đại tài.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 448 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 9:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
THẾ GIỚI KHI XƯA

VI. ATLANTIS HIỂN NHIÊN CÓ THẬT


Plato, nhà hiền triết Hy-lạp 24 thế kỷ trước (427-347 trước kỷ nguyên) đă nói đến một đại lục rộng lớn nằm tại phía tây eo biển Gibraltar, đó là đại lục Atlantis. Khi bị ch́m xuống v́ động đất, Atlantis trở thành một vùng biển bùn lầy trong nhiều ngàn năm, tàu thuyền không qua lại được. Edgar Cayee trong khi thôi miên, nói Atlantis bị ch́m mất dạng sau ba trận thiên tai, trận sau chót khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên.

Những nhà địa chất học cũng nhận rằng những đại lục ngày nay đă trải qua rất nhiều biến chuyển nổi lên ch́m xuống trong nhiều triệu năm. Bờ biển Na-uy, Thụy Điển, Đam Mạch, đă trồi lên hàng trăm thước trong nhiều ngàn năm gần đây.

Cù lao Sivily thuộc Ư ngày nay cao 1000 thước trên mặt biển, xưa là đáy biển. Những lớp than đá tại Pennsylvania chứng tỏ rằng vùng ấy đă ở trên và dưới mặt biển ít nhất 23 lần. Trận động đất tai hại nhất trong thời cận đại đă xảy ra 200 năm trước tại thủ đô Bồ-đào-Nha (gần bờ biển đông của Atlantis) sát hại 60 ngàn người trong sáu phút.

Nhiều người chạy đến bến bờ cẩm thạch tưởng rằng được an toàn, nhưng bến tàu đột nhiên ch́m xuống biển sâu 200 thước, hút xuống tất cả người và tàu thuyền lân cận. Đồng thời đất nứt ra ở một làng Maroc nuốt cả 10 ngàn người ở đó. Nhiều người ngày nay c̣n nhớ nạn núi phun lửa Pelée trên đảo Martinique năm 1902, thành phố thủ đô và 30 ngàn dân chúng bị quét sạch trong ṿng mấy phút.

Gần 40 năm trước, Edgar Cayee đă tiên đoán một phần Atlantis quanh Bimini bắt đầu nổi lên khoảng 1968-1969. Trong mấy năm vừa qua, các nhà địa chất học đă chụp được những h́nh tựa như những bức tường và những ṭa nhà ở dưới mặt nước tại đó.

Năm 1949 nhà bác học Maurice Ewing thuộc đại học Columbia, đă công bố một bản báo cáo về những cuộc thám hiểm dưới Đại-Tây-Dương trong đó có nói đến việc khám phá một băi cát nằm dưới sâu 5600 thước dưới mặt nước và cách xa đất liền 2000 cây số, nơi ấy xưa là băi biển, v́ chỉ có bờ biển mới có băi cát.

Bắc Mỹ thời tiền sử khác với h́nh thể ngày nay, v́ người ta t́m thấy xương cá voi tại Michigan, New Hampshire,Montreal, ở những nơi cao hơn mặt biển 150 đến 200 thước.

Những kim-tự-tháp tại Ai-Cập và Mể Tây Cơ có nhiều điểm tương tự, như là những chữ thập trên các ngôi đền ở Mễ Tây Cơ đă có từ lâu trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm và đem đạo Gia Tô truyền vào nước. Dẫn-đạo-Sư giải thích rằng:

Từ đời xa xưa không có núi, những kim-tự-tháp được xây dựng trên Lemuria và Atlantis, là những nơi cao nhất cho các thầy tu tôn thờ Thuợng Đế. Bao giờ người ta cũng nghĩ rằng Thượng Đế ở trên cao, trái với đất ở dưới. Thập-tự tượng trưng cho người đứng trên trái đất với hai tay dang ra, giữa khoảng từ mặt đất lên đến trời.

Trong thời vàng son trên Atlantis, theo lời dẫn-đạo-sư, những nhà ở cũng tựa như thời La-mă, dùng đá, cẩm thạch, đất sét để xây. Nhờ được khí hậu tốt, người ta ưa sống ngoài trời, nên có nhiều hành lang và sân trống giữa nhà. Người Atlantis có óc sáng tạo, chuyển ư nghĩ thành đồ dùng. Nhiều người c̣n giữ ḿnh trong sạch không tội lỗi, nên có thể phóng ư nghĩ nhanh hơn là gửi thơ. V́ lẽ ấy những sáng tác mỹ thuật giống nhau tại nhiều nơi trên hoàn cầu.

Nói về luân hồi, Dẫn-đạo-sư giải thích: Lúc đầu, người đều toàn thiện nên sống rất lâu. Nhưng sau v́ cám dỗ làm dơ bẩn linh hồn, nên đời sống bị rút ngắn lại. Những linh hồn ấy trăi qua một thời gian thiền định để kiểm điểm lại những lỗi lầm và quyết định chuộc tội, nên t́m cơ hội trở lại đời vật chất, do đó mà có luân hồi.

Luân hồi cần thiết cho sự tiến hóa cũng như không khí để thở. Khi ở trong thân h́nh vật chất th́ linh hồn muốn trở về với đất Sáng Tạo. Họ nhớ đến t́nh trạng toàn thiện, và mặt dù con đường đi cực nhọc và khó khăn, có rất nhiều linhhồn đă đi được đến nơi và ḥa đồng với Thượng Đế, không phải quay trở lại thân h́nh vật chất nữa. Không phải là tất cả các linh hồn đều đă đầu thai. Có một số muốn ở lại trạng thái tâm linh để giúp đỡ những linh hồn trong thân xác thịt, có thể gọi đó là những thiên thần hộ mệnh.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 449 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 9:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
THẾ GIỚI KHI XƯA

  VII. ĐỜI SỐNG TRÊN ATLANTIS

Dẫn-đạo-sư nói: Trong một đời trước, cách đây hơn 51.000 năm, tác giả tên là Thelama, đă sống cùng gia đ́nh trên Atlantis gần Poseidon, thành phố lớn nhất của Poseidia, trong một khu vườn trại rộng lớn có tường cao bao bọc chung quanh để tránh khủng long và man-mút. Ở đây cái nạn những con vật khổng lồ c̣n đỡ hơn ở Lemuria.

Những người Atlantis có mũi nhọn dài, tóc đen bóng như than, mắt đen, môi tô son, da đỏ như người thổ dân Mỹ, những nguời nầy ḍng dơi người Atlantis. Không có tục bôi móng tay móng chân, nhưng họ xoa dầu lên tay, mặt và ngực để giữ cho da mềm và đỡ bị nắng rám.

Quần áo họ bằng hàng dệt nhuộm màu các kiểu, đàn ông nhiều khi c̣n làm dáng hơn đàn bà. Răng trắng như ngọc trai và không bị sâu. Rau cỏ và trái cây họ đều ăn sống, c̣n thịt th́ ăn nướng nhưng ít ăn trừ khi có đại tiệc. Bao giờ cũng có một ngày để lễ mặt trời và một ngày để lễ mặt trăng tṛn được coi là Hoàng Hậu Ban Đêm.

Thượng Đế là đấng tối cao, ít khi được nói đến tên, mà chỉ tôn xưng là Ngài. Khi cần cầu đến Thượng Đế th́ chúm môi lại tṛn như chữ o và phát âm thanh "o" để chỉ mặt trời, và ngậm miệng lại phát âm thanh "om"(Nhiều câu chú trong kinh Phật có chữ "Ôm", ta thường đọc là "Úm" hoặc "Án"). Nếu được như thế th́ đó là căn nguyên của tiếng "Om" trong khi thiền (lời tác giả).

Cừu (trừu) được nuôi trong nhà như bạn, cũng như chó ngày nay. Chúng được buộc yên cho trẻ con cưỡi, lông được xén để ngồi gối hoặc dệt hàng mặt. Những nhà giàu hay mở tiệc có khi kéo dài hàng tuần lễ, khách từ mọi nơi được gởi thiệp mời do chim bồ câu mang đi và đem thiếp trả lời về. Họ không ăn thịt chim và cừu, coi chúng như những báo nhân.

Giới cầm quyền có những lâu đài lộ thiên lan rộng ra hàng mấy trâm thước mỗi chiều, và họ cũng lịch sự tao nhă như người thời nay. Nước được dẫn bằng ống từ giếng hay từ suối trong khe núi. Người Atlantis đều thọ mấy trăm năm (Thelama thọ 300 năm) do đó họ có nhiều thời giờ để phát triển khả năng

Trong thời Thelama trên Atlantis. Quả cầu pha-lê vĩ đại và các phi cơ đă được thành h́nh. Thelama gặp một nhà bác học trẻ tuổi đến Poseidia từ nơi xa mà ngày nay là Alegia. Y nghiên cứu cách thu hút năng lực của mặt trời tạo ra một tia sáng kiểu laser bằng Quả cầu Pha-lê vĩ đại, để chuyển động các tàu và phi cơ đi quanh trái đất.

Cha Thelama là cố vấn trong triều, mời y đến ở trong trại v́ nhà y ở xa quá. Y tự phụ y là người đặc biệt, không tin có Thượng Đế mà y không trông thấy, đă tạo ra vũ-trụ, nên không theo luật trời.

Y muốn thu hút năng lực không những để chuyển động máy móc, mà c̣n để sai khiến mọi người, và y muốn diệt chủng những bàn-nhân, như kiểu những nhà bác học của Hitler. Trái lại, Thelama rất tin Thượng Đế, v́ thế cuộc hôn nhân đă dự tính giữa Thelama và y đă không thành.

Y trở lại Poseidon và được chính phủ cho phép nhóm của y nghiên cứu Quả cầu Pha-lê vĩ đại. Việc nầy phải mất nhiều năm và có nhiều người khác cộng tác, nhưng y là một trong những nhà bác học nổi tiếng nhất đă sáng chế ra quả cầu pha-lê. Mảnh lực hùng vĩ Quả cầu Pha-lê từ đấy đă giúp ích nhiều cho dân Atlantis, nhưng sau nầy chính nó lại tiêu diệt đại lục và đa số dân chúng.

Sự bí mật của Quả cầu là ở trong thán chất. Những người điều khiển việc kiến tạo nầy cùng ở trong một khu có đầy đủ tiện nghi và xa hoa tối tân. Họ hướng những mặt phẳng của quả cầu một cách rất tinh xảo để thu hút năng lực của mặt trời và phản chiếu ra thành tia kiểu laser để phục vụ nhân loại.

Khi hoàn thành, những tia từ quả cầu phát ra có thể chuyển động máy móc trên trời hay dưới biển đi nhanh với tốc độ âm thanh. Quả cầu không được đặt tại thành phố Poseidon, mà ở gần nơi mà ngày nay là đảo Bimini, ở đó lâu lâu nó c̣n hoạt động.

Atlantis bấy giờ văn minh nhất thế giới về tất cả mọi phương diện, duy kém Lemuria về triết lư. Tính ham biết lên đến cực điểm, và những giải pháp được nghiên cứu theo mọi khía cạnh, trên tiến bộ nhanh chóng lạ lùng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 450 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 10:00pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
THẾ GIỚI KHI XƯA
 
 
VIII. TRÁI ĐẤT CHUYỂN TRỤC
 
Những đám mây báo trước tai họa đă bao phủ trái đất cách đây khản 50.000 năm. Dẫn-đạo-sư nói rằng những sinh linh bên ngoài không gian đă trông thấy nhiều đường rạn nứt, cũng như những vệ tinh nhân tạo này nay chụp h́nh mây và gió bảo.
 
Từ trước trái đất đă nhiều lần chuyển động khi vỏ ngoài dần dần nguội đi, nhưng những lần ấy không đáng kể v́ chưa có loài người có h́nh thể vật chất, họ chỉ như là những bóng sáng có thể phóng ḿnh đến những nơi an toàn.

Những người có tâm linh sáng suốt ở Lemuria đă biết trước tai họa sẽ đến và khuyên những ai c̣n muốn lưu lại trên trái đất hăy di chuyển đến những nơi an toàn hơn. Nhiều người lánh sang Á-Châu, Phi- Châu, Mỹ-Châu, mang theo giống rau cỏ, trái cây, hạt dẻ, đă trồng từ nhiều ngàn năm, và được người bản xứ đón tiếp, những người nầy coi họ là người văn minh hiểu biết hơn.

Những người khác cảm thấy đời sống xác thịt đă đủ muốn trở lại trạng thái tâm linh khi thiên tai đến. Những người lánh khỏi Lemuria muốn bảo tồn nền văn hóa của họ đă tiến cao và lưu lại cho đời sau, họ có một triết lư vững vàng, chứ không phải là một cuộc tỵ nạn hổn loạn để được an thân.

Đồng thời những người không gian cũng báo cho người Atlantis biết về tai hoạ sắp đến, mà một số người nầy lánh sang những nơi mà ngày nay là Yucatan thuộc Mễ-tây-Cơ, hoặc Ai-Cập. Li-bi, Tây-ban-Nha, Bồ-đào-Nha. Họ mở trường dạy văn chương, toán, canh nông và kỷ thuật, và cũng như người Lemuria, dựng những ṭa nhà h́nh kim tự, v́ luôn luôn họ hướng lên Thượng Đế.

Những ngày chót của Lemuria kéo dài trong mấy trăm năm. Những người di dân đem theo kiến thức của họ về khoa chiêm tinh, v́ có một số đă liên lạc với những hành tinh khác trên bầu trời và hiểu luật chuyển động của các hành tinh cũng như trái đất. Những người Lemuria dạy người bản xứ tôn thờ Đức-Sáng-Tạo và giúp họ xây những ngôi đền hướng về Mẫu quốc:

Những đền tại Mỹ châu quay mặt về huớng tây và đền tại Á châu quay mặt về hướng đông. Tục nầy vẫn c̣n tồn tại nhiều ngàn năn sau. Người ta nhận thấy những đền ở Mể-tây-Cơ hướng về phía tây, và đền Angkor Wat (Đế Thiên Đế Thích) tại Cao-Miên hướng về phía đông.

James Churchward nói rằng đă khám phá những chữ khắc tại hai nơi giống nhau. Dẫn-đạo-sư nói rằng thời ấy không có hàng rào ngôn ngữ, tuy giọng nói khác nhau chút đỉnh nhưng vẫn hiểu nhau.

Rồi đến khoảng 48.000 năm trước kỷ nguyên, thiên tai kinh khủng đă xẩy đến. Những hỏa-diệm-sơn phun lửa, mặt đất rung chuyển tựa như một tờ giấy bị ṿ nát, trái đất giao động mạnh và đổi trục, nước biển dâng lên khiến toàn thể Lemuria ch́m mất dạng, chỉ c̣n lại vài nơi cao như Hawaii, Cahiti, Polynesia và một số đảo khác.

Địa dư thế giới thay đổi trong chớp mắt, và sau đó trong một thời gian dài, sương mù dày dặt bao phủ trên nơi đất liền xưa đă nuôi sống bao nhiêu triệu người và sinh linh khác. Nhiều khu đồng bằng nay đă thành núi cao khe thẳm.

Những khu thành phố lớn ở Peru và Mể-tây-Cơ xưa kia gần ngang mặt biển, nay vọt lên cheo leo lưng chừng trời cao hai ba ngàn thước. California ngày nay là bờ biển đông của Lemuria, đă thoát khỏi nạn lụt nhờ dính vào địa lục mới là miền tây Hoa Kỳ ngày nay từ đáy biển nổi lên. Nhiều đám đất mới cũng nổi lên tại Âu-Châu và Sahara xưa là đáy biển nay trở thành vùng đất ph́ nhiêu.

C̣n Atlantis thế nào? Không thay đổi mấy. Một phần đất miền tây ch́m xuống, trong khoảng từ bờ biển đông Hoa Kỳ đến Brésil ngày nay. V́ đường xích đạo thay dổi, nên khí hậu lư tưởng của Atlantis trở thành nóng bức, ảnh hưởng đến tính t́nh con người.

Khi những vùng nóng ấm trở thành đông lạnh, và những nơi băng tuyết thành nhiệt đới, những con khủng long không quen với sự thay đổi thời tiết đột ngột, đă chết hàng vạn, thân h́nh rất lớn mà đầu óc tất nhỏ nên thiếu trí nhớ.

Cả những con vật khổng lồ ở dưới nước, trên cạn và trên không cũng không sống nổi. Nhiều tàn tích khủng-long c̣n nguyên vẹn đă được đào thấy tại vùng bắc cực. Ngày nay chỉ c̣n vài loại to lớn ở sâu dưới biển, nhưng không nguy hại cho loài người nữa.

Người tuy cũng chết rất nhiều v́ trái đất đổi trục, nhưng nhờ thông minh hơn nên một số c̣n sống sót và bắt đầu công việc tái tạo. Đất ph́ nhiêu có nhiều nên không có vấn đề nhân mản, v́ số người bị tiêu diệt khi ấy gần bằng số toàn thể nhân loại ngày nay.

Nếu thực như thế th́ điều này trả lời câu hỏi của một số người thắc mắc về luật luân hồi, rằng nhân số ngày nay càng ngày càng tăng nhiều hơn xưa th́ những người ấy từ đâu mà ra? Lịch sử của chúng ta mới bắt đầu từ mấy ngàn năm, đâu có biết được thời tiền sử.

Cù lao Easter, một đồi cao xưa là thánh địa thiêng liêng nhất của Lemuria, đă tồn tại an toàn. Những người trước kia di cư sang Mỹ Châu bắt đầu kiến thiết lại những thành phố với những ngôi đền tại Mễ-tây-Cơ và Leru. Ngày nay có những nơi người ta đào thấy được nhiều lớp thành phố chồng chất lên nhau do những thiên tai liên tiếp nó đă chôn vùi những thành phố ấy.

William Niven, một nhà khảo cứu mỏ, hồi đầu thế kỷ đă đào bới tại một nơi gần thành phố Mễ-tây-Cơ (Mexico city) và đă t́m thấy tàn tích của ba thành phố cổ nằm đè lên nhau qua một lớp đá cát dày chỉ mấy thước, những lớp đá cát này chứng tỏ nơi đây đă là băi biển, mà ngày nay ở trên 2000 thước cao hơn mặt biển.

Hàng triệu hàng triệu linh hồn mất thể xác trong nạn ch́m đắm Lemuria, đă trở về trạng thái tâm linh. Những hồn nào đă tiến hóa v́ làm được nhiều công đức, th́ không phải trở lại đời sống vật chất nữa, và sẽ tiếp tục tu tiến để trở về với Thượng Đế, c̣n những kẻ đă làm việc thất đức sẽ phải luân hồi nhiều lần để học nhẫn nhục và t́nh thương.

Một số người đương sống ngày nay là người đă ở Lemuria hay Atlantis, nhưng không phải là tất cả đều trở lại cùng một lúc hay trong khoảng vài trăm  năm.

Khi Lemuria bị ch́m, những người Atlantis ngạc nhiên sợ hăi, họ coi Lemuria là mẹ đẻ của nền văn minh, tuy rằng Atlantis đă tiến hơn nhiều. Những người lảnh đạo Lemuria đều là nhà triết học, canh tác và chiêm tinh, đă dẫn đầu thế giới về triết học và tôn giáo

Nay lănh đạo tinh thần không c̣n, Atlantis chỉ thiên về lảnh đạo vật chất. Quả cầu Pha-lê giúp ích cho sự sáng tác rất nhiều, văn minh vật chất càng tiến th́ những kỷ thuật gia càng có quyền thế. Khoa học được tôn sùng trên hết và người ta bớt tin tưởng ở Thượng Đế. T́nh trạng ấy cũng gần giống nước Mỹ ngày nay, chú trọng nhiều về máy móc, đời sống vật chất lên cao, nhưng tín ngưỡng và triết lư xuống thấp.

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 451 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 10:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA

IX. BIỂN SARGASSO BÍ MẬT


Sau khi Lemuria ch́m, Atlantis trở thành lảnh đạo thế giới, nhưng không được ḷng người v́ tính kiêu căng, chỉ muốn dùng vơ lực để bắt các nước khác thần phục. Tuy chưa biết dùng đến chất nổ. nhưng với quả cầu Pha-lê họ có thể phóng năng lực của tia sáng mặt trời làm nổ những thành phố rất xa.

Cướp bóc là sự rất thường. Những người Atlantis trong thời kỳ thứ hai này vơ vét đem về nước tất cả cái ǵ họ thích, từ các nơi xa Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu.

Chính thể tại Atlantis trong thời vàng son là quân chủ, những quốc vương trị v́ trú trọng đến đạo đức và tôn giáo. Nhưng sau khi Lemuria bị ch́m, ngôi vua chỉ tượng trưng cho nghi lễ, c̣n thực quyền ở trong tay những nhà bác học.

Atlantis là một thành tŕ học vấn vững mạnh trước khi xảy ra thiên tai. Những học giả từ khắp nơi đến các trường đại học tại đó để dự lớp học về địa chất, thiên văn khoa học, toán học, canh nông. Nhiều người có thể tính nhẩm tới 11 số và có những bảng tính tiện dùng hơn máy tính ngày nay.

Những tài liệu được chất chứa trong những thùng làm bằng ruột súc vật chế biến có thể tồn tại trong nhiều ngàn năm nếu được bảo tŕ kỹ lưỡng. Nhiều thùng ấy nay c̣n nguyên vẹn trong thùng tài liệu chôn dấu không xa Kim-tự-tháp lớn tại Giza, về hướng thần tượng Sphinx.

Có những thùng khác được cất tại Yucatan. H́nh trái đất được chụp theo một phương pháp không giống ngày nay. Radio bấy giờ đă có, tiếng nói được truyền bằng sự phản ứng của đá thạch anh (quartz) trên chất kim khí và điều khiển bởi những mặt phẳng của Quả cầu Pha-lê.

Trong 20.000 ngàn năm sau trận thiên tai, Atlantis dần dần suy đồi, bên trong mục nát, chỉ nhờ có Quả cầu Pha-lê mà c̣n giữ được uy thế đối với các nước. Nhưng không phải là tất cả các nước đều chịu thần phục.

Những dân ở nơi mà sau này là Ba Tư hợp với Hi-Lạp chống lại Atlantis. Người Atlantis dùng Lybia làm căn cứ để tấn công Hi-Lạp nhưng bị đánh lui, và khi họ tập trung lại lực lượng để tấn công lần nữa th́ một thiên tai kinh khủng xảy đến làm thay đổi lịch sử.

Những nhà bác học tăng cường năng lực của Quả cầu Pha-lê, và để khuất phục những dân Á Châu ở cách xa nửa ṿng địa cầu, nơi mà ngày nay là Trung Hoa, Họ dọi tia sáng xuyên qua trái đất, khiến cho vỏ trái đất nổ tung nhận ch́m hầu hết đại lục Atlantis và luôn cả Quả cầu Pha-lê.

Vùng ấy ngày nay gọi là biển Sargasso. Vùng biển bí mật này, phần lớn nước đứng, với nhiều rêu biển nổi trên, trong nhiều thế kỷ đă được mệnh danh là "Nghĩa địa của Đại-tây Dương"! Xưa những tàu buồm qua đó đều biến mất dạng, rồi sau những tàu có động cơ cũng vậy.

Quá trưa ngày 5-12-1945, một đoàn 5 chiếc phi cơ Hăi quân Grumman TBM-3 Avenger cất cánh từ căn cứ Fort Lauderdale, Florida, để tập dợt, do 5 phi công lái với 9 phi hành đoàn. Đoàn phi cơ gọi là Phi vụ 19, do trung úy Hăi quân Charles C. Taylor, một phi công với trên 2500 giờ bay, điều khiển. Chừng 70 phút sau, sau khi bay qua phía bắc đảo Bimini, một phi công bay trên phi trường Hăi quân Fort Lauderdale, nhận được tính hiệu lạ lùng của phi cơ điều khiển.

Phi công nầy bị lạc, cả hai địa bàn đều hư, Rồi những tính hiệu bị loạn, căn cứ không thể liên lạc được với người nào trong số 14 người trên 5 phi cơ. Ngay sau đó, một phi cơ hai máy Martin Mariner với phi hành đoàn 13 người cất cánh từ căn cứ Hăi quân Banana River để t́m 5 phi cơ lạc và dẫn họ về căn cứ.

Nhưng rồi sau không nhận được tính hiệu nào của cả 6 phi cơ, và mặt dù một cuộc t́m kiếm vĩ đại chưa từng có gồm hơn 300 phi cơ, 4 khu trục hạm, 18 tàu tuần, mấy chiếc tàu ngầm, hàng trăm phi cơ và tàu của tư nhân, và cả phi cơ và tàu của Anh đóng tại quần đảo Bahama, không t́m thấy một vết tích nào cả, không một vết dầu, không một phao hoặc một mảnh vụn.(Những bí mật của vùng này đă được nói đến trong cuốn, "khu tam giác Bermuda" (The Bermuda Triangle).

Tác giả Adi-Kent Thomas Jeffrey đă kể rơ tên 12 chiếc tàu, một tàu ngầm nguyên tử và hơn một chục phi cơ được ghi nhận đă mất tích tại đây từ 1609 đến 1968,không để lại một dấu vết ǵ: mảnh gổ, mảnh áo, hay vết dầu trên mặt biển, mặc dù rất nhiều tàu và phi cơ qua lại t́m kiếm.).

Charles Berlitz trong cuốn "Khu tam giác Bermuda" (The bermuda triangle) nói ranh giới biển Sargasso chạy dài từ 200 dặm phía bắc đảo Antilles lớn, dọc theo và cách bờ biển Hoa Kỳ 200 dặm tới mỏm Hatteras tại North Carolina, rồi thẳng ra Đại-tây-Dương đến Phi Châu và Bồ Đào Nha, ngược lên hướng bắc rồi trở về Mỹ, ranh giới nầy hợp với ranh giới mà dẫn-đạo-sư đă nói về Atlantis.

Khu tam giác Bermuda nằm trên phần phía tây của biển Sargasso gần khu xưa kia đặt Quả cầu Pha-lê. Berlitz nói rằng trong một phần tư thế kỷ vừa qua, hơn một ngàn nhân mạng đă mất tích tại đó, không để lại một vết tích ǵ của những phi cơ và tàu thủy.

Dẫn-đạo-sư giải thích rằng Quả cầu Pha-lê vẫn c̣n nằm dưới biển Sargasso, và khi mặt trời và mặt trăng đến một vị trí nào đó, ảnh hưởng đến Quả cầu, khiến cho những tia phát ra làm nguy hại cho tàu biển và phi cơ đi qua tầm những tia ấy.

Vụ nổ đă xé đại lục Atlantis mạnh hơn một triệu lần sức nổ của trái bom ném xuống Hiroshima, không những đă nhận ch́m hầu hết Atlantis c̣n gây nên bảo tố và sóng thủy triều trên khắp nửa thế giới ở tây phương trong nhiều tháng.

Vụ nổ ấy đă được nhận thấy từ các hành tinh khác trên bầu trời. May mắn là những tia của quả cầu pha lê không thể xuyên qua ḷng lỏng của trái đất để sang tận Trung Hoa,nên vùng nầy không hề ǵ. Nạn hồng thủy lớn lao đă được kể lại trong những huyền thoại của nhiều sắc tộc, như dân Do Thái trong thánh kinh.

Phần c̣n lại Atlantis chỉ là hai ḥn đảo Poseidia và Og. Những sự di chuyển đi xa bằng phi cơ và tàu không được nữa v́ những quả cầu nhỏ đều quá yếu. Vùng biển đă chôn vùi đại lục, nay như là một vũng bùn lầy đầy những tàn tích.

Đất đai mới nổi lên th́ khô cằn v́ chất phóng xạ, tựa như sau một vụ nổ bom nguyên tử khổng lồ. Dân Atlantis c̣n lại phải di chuyển đến những nơi khác và trà trộn với dân Mỹ Châu, Á Châu, Âu Châu và vùng Địa Trung Hăi.

Hai ḥn đảo c̣n lại vẫn bị rung động ngầm, những hỏa diệm sơn thi nhau bùng nổ, rồi sau hai đảo ấy cũng ch́m nốt xuống biển.

Thiên tai này xảy ra khoảng 12.000 ngàn năm trước, chỉ c̣n lại vài ḥn đảo nhỏ như azores và Bahamas.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 452 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 10:20pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA

X. THẾ GIỚI THỜI TIỀN SỬ


Trong thời Lemuria toàn thịnh, một số dân đă đến lập nghiệp tại vùng đồng bằng Á Châu, nơi mà ngày nay là Gobi. Họ liên lạc với mẫu quốc bằng ư nghĩ và cũng bằng tàu thuyền. Họ sống lẫn lộn với dân bản xứ da vàng, một trong năm giống đă được sinh ra từ nguyên thủy.

Triết lư là môn học được ưa chuộng nhất. Những ngôi đền đều hướng về đông, là hướng về đại lục Lemuria. Sau khi trái đất đổi trục nhận ch́m Lemura và nhiều núi nổi lên khắp nơi, các thầy tu xây cất những tu viện trên núi cao, để dể ḥa đồng với vũ-trụ lực.

Để giữ truyền thống của Lemuria, họ bảo toàn văn hóa triết lư và tôn thờ Thượng Đế. Những tu viện ấy ngày nay nằm ở Tây Tạng, và dăy núi Hy-Mă-Lạp-Sơn xưa là một phần của đồng bằng Gobi. Gobi khi ắy khí hậu ẩm ướt, đất đai ph́ nhiêu, ngày nay là sa mạc.

V́ Quả cầu Pha-lê của Atlantis không thể chuyển động máy bay và tàu qua một bên kia trái đất, nên không có mấy người Atlantis đến Gobi và Trung Hoa ngày nay. Nhưng v́ tham vọng, những nhà bác học cầm quyền tại Atlantis muốn chinh phục vùng này, đă dọi tia sáng qua trái đất, nhưng tai họa đă đến với chính họ.

Vùng Ấn Độ được nổi lên sau Gobi và trước khi Lemuria ch́m. Từ trước không có thổ dân,người Lemuria đến rất nhiều, coi đó như là thuộc địa, và sống chung với người da vàng cũng di dân đến. Nhiều thầy tu đến đó để truyền bá văn hóa Lemuria.

Dân chúng Ấn Độ ngày nay là ḍng dơi nhiều lớp văn minh: Thầy tu và dân Lemuria, di dân da vàng, da đen , da trắng, và những bàn-nhân tuy h́nh thể không giống những cùng đinh (untouchable) Ấn Độ ngày nay, nhưng sống ở nước thấp nhất, nhân đó cản trở công việc dân-chủ-hóa xă hội này.

V́ ở đây có rất ít người Alantis, nên văn hóa không bị nhiểm độc bởi tham vọng quyền thế của họ. Nhưng khi Lemuria ch́m th́ người Atlantis bắt đầu đến đông.

Trong tập Bách Khoa Toàn Thư (Encydopedia Britannica) tác giả thấy có đoạn nói về Ấn Độ. Khi những người Aryan xâm chiếm Ấn Độ, họ thấy dân ở đấy văn minh hơn họ về nhiều phương diện, rơ ràng đó là những di dân từ miền đông tới (Lemuria ở về miền đông).

Churchward trong cuốn "những con cháu Lemuria" (The children of Mu). Nói đến những người Naacals, 70.000 năm trước, đă đem đến đây những sách "Cảm hứng thiêng liêng về Mẫu quốc", những sách ấy được cất giữ trong một tu viện Tây-Tạng.

Trong sách của người Naacal, nói đến những người Maga lập nghiệp ở Ấn Độ 70.000 năm trước, màu da sậm và mắt đen sắc, câu này có vẻ tả người Lemuria da màu. Lại có câu: Cũng như Ai Cập, Ấn Độ không bao giờ có một thời man rợ trước thời văn minh. Ấn-Độ là hạt ngọc trai trên trán của Mẫu quốc Lemuria.

Những người da trắng, thoạt tiên ở trong vùng Carpathe-Caucase, dần dần tràn lan về phía tây quanh Địa trung Hăi rồi cùng tập trung tại dăy núi Pyrénée miền nam nước Pháp. Họ cũng tràn về phía đông nam đến Ba Tư và Ai Cập.

Tại Ba Tư họ lập thành ḍng giống Aryan mà Đức Quốc Xă đă tự hào là ḍng dơi.Người da trắng cũng cầm quyền tại Ai Cập, quốc vương là Araaraat. Một vị cao tăng là Ra Ta theo Araaraat đến, cùng với hàng trăn người khác, lo giúp đở những người bản xứ, trong ấy có nhiều bàn-nhân được Ra Ta giúp loại bỏ những bộ phận dị h́nh.

Ra Ta hợp tác vơi những người Atlantis tại Poseidia, dùng phương pháp giải phẩu và năng lực những quả cầu Pha-lê nhỏ c̣n xót lại, để loại bỏ những đuôi, móng, sừng, lông cánh, cho các bàn-nhân.

Những người Atlantis đến Ai Cập càng ngày càng đông để tránh tai nạn, v́ hai ḥn đảo c̣n lại thường bị rung chuyển, và những nhà tiên tri đoán sẽ có nạn hồng thủy nữa. Hermes, là sứ giả của Atlantis có nhiệm vụ bảo vệ những tài liệu quư giá, đă đem những tài liệu ấy đến Ai Cập và hợp tác với Ra Ta xây dựng kim-tự-tháp để cất giữ những bí mật của thời oanh liệt xưa.

Kim-tự-Tháp lớn nhất được xây dựng tại Giza trong thời gian trước và sau khi Atlantis bị ch́m lần cuối, vào khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, trong đó có chứa tất cả những toán số để tính vị trí các ngôi sao, kinh tuyến, vĩ tuyến và đường kính trái đất, chiều dày lớp vỏ trái đất. v.v...

Kim-tự-tháp cũng có mục đích làm cái kho để chứa những bảo vật của Atlantis, nhưng v́ thiên tai xảy đến nhanh chóng quá, nên những bảo vật đều bị chôn vùi dưới biển.

Nhiều người nghĩ rằng những người thượng cổ có quay hàm lớn và khối óc nhỏ. Nhưng những bộ xương cổ xưa đă được khám phá hơn 100 năm trước tại Pháp cho thấy người xưa cao hơn và xương sọ lớn hơn người ngày nay.

Những người ấy đă sống quanh Địa trung Hăi 15 đến 30 ngàn năm trước, trán cao, gồ má cao, quay hàm nở, thân cao hai thước, không có vẻ ǵ giống loài khỉ. Nếu thực những người ấy là tổ tiên loài người, th́ quả là người thời nay đă suy đồi hơn xưa.

Âu Châu xưa kia chỉ gồm có mấy ḥn đảo Anh quốc và Na-uy, Thụy Điển ngày nay, c̣n phần lớn lục địa mới được nổi lên sau khi trái đất đổi trục.

Những người Lemuria và Atlantis c̣n lại dần dần pha trộn giống với người da trắng tại Âu Châu, người da vàng tại Mông Cổ, người da đen tại Phi Châu, Úc Châu và các quần đảo tại vùng Nam Dương là những đất đai Lemuria c̣n xót lại, dân chúng ở đó lâu ngày mất liên lạc với giới lănh đạo và thầy tu nên trở thành man rợ.

Miền Nam cực trong nhiều triệu năm thuộc vùng ôn đới và nối liền với Úc Châu, trước khi bị thiên tai tách ra bằng những vùng biển rộng lớn. Người Atlantis đă họa địa đồ miền này nhưng thấy không thể ở được v́ đầy dẫy những khủng long và vật khổng lồ. Khi trái đất đổi trục, những vật ấy bị tiêu diệt v́ không chịu nổi cái lạnh băng giá đột ngột.

Khi Lemuria hăy c̣n, Alaska ở trong vùng nhiệt đới như Florida ngày nay, nhưng ít có người dám ở đó v́ những khủng long và man-mút rất nhiều. Nhưng khi trái đất đổi trục, những con vật khổng lồ ấy bị chết v́ băng giá, một vùng đất nổi lên bắt cầu từ đấy sang miền đông bắc Á Châu, vùng này cũng bị đông lạnh.

Rất lâu về sau, mới có những bộ lạc du mục Á Châu đi phiêu lưu qua đấy, dần dần tiến xuống những vùng ấm áp hơn. Những người Á Châu ấy càng ngày càng đến đông, rồi trộn lẫn với những người da đỏ và da nâu thành những giống phụ. Những người Mễ-tây-Cơ ngày nay có vài nét mặt Á Đông là v́ cuộc di dân này từ Siberia đến vùng nắng ấm trung Mỹ.

Nhiều người Alantis lánh nạn sang Mỹ Châu, ở đây những người Lemuria đă đến từ nhiều ngàn năm trước. Đất đai ph́ nhiêu, hoa màu được phân phát đều cho mọi người, không hề có sự tranh dành.

Những người Lemuria bắt đầu chiếm vùng bờ biển phía tây hiện thời và xứ Yucatan (Mễ-tây-Cơ), nhưng về sau họ di chuyển đến những đất mới nổi lên tại vùng trung ương Hoa Kỳ ngày nay.

Họ đă mang theo những tài liệu và xây một pḥng rất kính gần thành phố Uxmad tại Yucatan để cất những tài liệu về văn minh Atlantis và về việc xây dựng một Quả cầu Pha-lê. Nhưng không một người nào c̣n sống sót khi đó biết cách tái tạo Quả cầu Pha-lê đă mất.

Sau khi phần c̣n lại của Atlantis bị ch́m nốt, pḥng kín ấy nằm sâu dưới nước, lâu ngày không ai c̣n biết đích là chỗ nào, rồi đến khi đất lại nổi lên, không c̣n thể nhận biết được pḥng ấy đă được chôn tại đâu.

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 453 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 10:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA

XI. NHỮNG THIÊN THẦN TRONG THÁNH KINH

 

Những nhà bác học nói rằng 70.000 năm trước, Bắc-cực nằm ở vùng Nam-cực, và có thể một ngày kia quay trở lại. Những tảng đá có từ lực trái ngược với từ lực của trái đất và đă được khám phá tại Ấn Độ, Pháp và Nhật Bản trong khoảng từ 1855 đến 1929.

Trong đầu thập niên 1960, Ban Khảo Sát Địa Chất Hoa Kỳ đă báo cáo rằng theo sự nghiên cứu những tảng đá lớn thu thập từ khắp nơi trên hoàn cầu, th́ đă có chín lần trái đất đổi trục trong thời gian ba triệu rưởi năm qua.

Trong thời vàng son của Lemuria và Atlantis, hai đại lục ấy phần lớn nằm tại vị trí Thái b́nh Dương và Đại tây Dương, tuy nhiên không phải cùng vị trí đối với trục trái đất ngày nay.

Phần lớn lục địa Mỹ Châu và Âu Châu c̣n nằm dưới mặt biển, núi non hầu như không có, cho đến khi Lemuria ch́m xuống bấy giờ núi mới nổi lên như một tờ giấy bị ṿ nhàu. Tại Alaska có những vết tích động vật và cây cối chồng chất lên nhau như trong những thiên tai.

Những thân h́nh man-mút c̣n cả thịt da và lông nguyên vẹn đă được đào thấy tại vùng băng giá bắc Sibérie, tỏ rằng những con vật ấy đă bị đột nhiên đông lạnh. Trong Bắc băng Dương quanh Bắc cực, có rất nhiều tàn tích man-mút, tê-giác, ngà voi, những giống này cần rất nhiều cây cỏ để sống, không thể nào ở những nơi quanh năm đá phủ.

Rơ ràng Alaska và miền bắc Sibérie xưa kia là xứ nóng. Trái lại có nhiều bằng chứng cho thấy rằng vùng nhiệt đới Brézil và Phi Châu xưa kia bị bao phủ dưới một lớp dày băng đá.

Điều đó có thể giải thích tại sau, khoảng 50.000 năm trước người Atlantis với những phi cơ của họ, đă có thể chụp h́nh Greenland và Nam-cực khi những nơi ấy không bị băng đá bao phủ (Bản địa đồ Reis đă nói ở trên)

Trong số những thiên tai nhiều vô kể đă thay đổi cục diện trái đất, có ba lần đáng để ư hơn cả là Lemuria bị ch́m 48.000 năm trước kỷ nguyên, phần lớn Atlantis bị ch́m 28.000 năm trước kỷ nguyên, và phần c̣n lại của Atlantis bị ch́m nốt 10.000 năm trước kỷ nguyên.

Theo dẫn-đạo-sư và Edgar Cayee, nạn hồng thủy trong Thánh Kinh trùng hợp với thiên tai thứ hai cách đây khoảng 30.000 năm.

Những thời kỳ nói trên chỉ là phỏng chừng, v́ thời gian trên trái đất không nghĩa lư ǵ đối với thế giới tâm linh. Chỉ ước rằng những Adam và Eve hiện thân trên trái đất khoảng 4 triệu năm trước. Amelius với h́nh thể nhẹ vài năm trước đó, và những bàn-nhân nhiều triệu năm trước nữa.

Trong Thánh Kinh chỉ nói đến gia đ́nh Noah, cháu Adam đời thứ 10, được thoát khỏi nạn hồng thủy, nhưng thực ra c̣n rất nhiều người khác nữa, mặt dù đă có hàng vạn người chết ở Trung Đông và hàng triệu người chết tại Atlantis. Noah là tổ ḍng giống Semite, các cháu chắt là Abraham, Jacob, Joseph, David rồi đến Jesus Christ.

Abraham, cháu Adam đời thứ 20, có hai con trai: Con thứ hai Isaac là con vợ cả, là ḍng giống thuần túy Lemuria; con lớn Ishmaci là con vợ bé, sau này là tổ dân tộc Ả-Rập. Con cháu thứ hai của Isaac là Jacob, là tổ dân tộc Do-Thái (Jew). Dân Do-Thái vẫn giữ được truyền thống của người Lemuria và tôn thờ Thượng Đế (GOD).

Nhờ tín ngưỡng ấy, chứ không phải là nhờ có giúp đở người khác, họ được các thiên thần trợ lực t́m một xứ sở, và sau một thời gian dài lang thang rồi sống nhờ Ai-Cập, họ đă được trở về đất hứa. Theo dẫn-đạo-sư, Moses là một người Lemuria đầu thai vào ḍng giống Hebrew để cứu dân tộc này ra khỏi cảnh nô lệ tại Ai-Cập.

Tâm linh (Spririt) và linh hồn (Soul) khác nhau thế nào?. Dẫn-đạo-Sư giải thích như sau. Linh hồn là cá thể riêng biệt, là Ta. Tâm linh là cái sức mạnh của đời sống rút từ nhiều nguồn tiến hóa.

Khi một hài nhi nhập vào thân xác thịt, linh hồn nó qua nhiều kiếp luân hồi, đă tạo nên một cái-thể và mẫu mực ăn ở hành động trong đời sống tới. Bấy giờ tâm linh được rút vào ḥa nhịp với linh hồn ấy để cho con đường đi tới được tốt đẹp hơn.

Tâm linh là tinh hoa của Thượng Đế, nhưng v́ đă tách rời với đại khối từ khi bắt đầu làm người, nên có nhiều đẳng cấp khác nhau. Cả linh hồn và tâm linh đều cùng hướng về hợp với Đức Sáng Tạo. Tâm linh (Esprit) nói ở đây có lẽ là Tâm thức, là A-Lại-Da-Thức, là Phật tính trong kinh Phật.

Đức chúa Jesus gọi tâm linh là Đức Chúa Thánh Thần (Holy Spririt: le saint Esprit). Không có tâm linh, chúng ta sẽ quay trở về đời xác thịt như thú vật.

Nói đến các thiên thần, dẫn-đạo-sư nói có ba hạng. Thượng thiên thần là những vị không bao giờ sinh vào thân vật chất, v́ không bao giờ trái luật thiên nhiên, hoàn toàn ḥa đồng với Thượng Đế. Những vị ấy cai quản những khu vực rộng lớn trong vũ-trụ.

Thứ đến những thiên thần, mà một số đă sống trong đời vật chất. Sau nhiều đời sống không tội lỗi, những vị này không cần trở lại và được ở gần Thượng Đế. Nhưng cũng có nhiều thiên thần không bao giờ sinh vào thân xác thịt. Các thiên thần có nhiệm vụ trong việc tiến hóa của nhân loại và của các động vật, thực vật và khoáng vật.

Sau cùng là những thần hộ mệnh, là những tâm linh trước đă sống trong đời xác thịt, nay hết ḷng giúp đở người sống tránh khỏi tai ương và chết bất thần. Đây là những linh hồn quảng đại, tuy vậy chưa được tiến cao bằng những thiên thần và thượng thiên thần.

Một số thần hộ mệnh giúp cho những sáng kiến, như Instein là một trạm tiếp nhận những luật vũ-trụ nên có thể trong những giấc mơ, xảy ra những ư nghĩ phi thường.

Chúng ta cũng có thể trở thành những thiên thần nếu chúng ta biết nghe tiếng nói yên lặng của Thượng Đế bên trong chúng ta, và quay vào đó (lương tâm) trước khi quyết định hay hành sự một việc ǵ. Tất cả chúng ta cần phải nghe hoặc cảm thấy tiếng đó, nhưng thường thường ta vẫn quên trong khi đi trên con đường tươi đẹp của ta.

Khi ở bên kia ngưỡng cửa (cơi vô h́nh) tự nhiên ta hiểu rơ thế nào là phải là trái, v́ ta sẵn có tinh hoa của Thượng Đế bên trong chúng ta và không bị những cám dỗ vật chất nó cạm bẫy ta. Ta hiểu rơ rằng những hành động vô ư thức trong đời xác thịt đă làm cho ta xa Đấng Sáng Tạo.

Như thế, thay v́ được hưởng khung cảnh t́nh yêu thương thuần túy không ích kỷ mà chúng ta có thể đạt tới, ta c̣n phải ở đây học đi học lại những bài học trước trong những thời gian chờ đợi giữa hai đời sống trên mặt đất.

Cho nên ta cần phải học sau cho có thể, phân biệt tức khắc không lưỡng lự cái hay với cái dỡ, đều phải với đều trái, như ta thuộc ḷng bản cửu chương - Hăy làm việc thiện bỏ việc ác.

Trở lại t́nh trạng nhân loại trên trái đất từ sau khi Atlantis hoàn toàn ch́m hết khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, dẫn-đạo-sư nói rằng người ta dần dần tụt xuống tŕnh độ gần như dă man v́ không c̣n những người lảnh đạo của hai đại lục trước nữa.

Những phương tiện vận chuyển như thời sơ khai. Tàu thuyền không thể đi lại được trên Đại Tây Dương v́ bùn lầy và những tàn tích nổi lềnh-bềnh. những trận thủy tai và động đất đă phá hủy các kho tàng tài liệu, và những dân tộc rời rạc quên cả lối viết đọc xưa, v́ không c̣n tu sĩ giảng dạy, không c̣n người lảnh đạo tâm linh.

Trừ một vài nơi như Ấn Độ, Ai Cập, Peru, ngoài ra dân chúng không hiểu biết ǵ về văn hóa. Đó là thời kỳ đen tối.

Trong thời kỳ ấy, những thú vật được người chăn nuôi để làm việc nặng nhọc, v́ những bàn-nhân hầu như mất hết, nhờ phương pháp thành công của người Atlantis và Ra Ta. Khi mọi người bắt buộc phải làm lấy các việc chân tay, họ không có th́ giờ rèn luyện trí thức, nên không tiến hóa.

Sau nhiều ngàn năm thời tiền sử đen tối ấy, việc học mới lại được phục hồi tại vùng Tiểu Á. Thành Athens và một vài nơi khác quanh Địa Trung Hăi trở thành những trung tâm văn học.

Người Ai Cập không bao giờ dập tàn ngọn đuốc, nhưng họ giử lấy riêng cho họ. Từ khi Alexander the Great truyền bá ngọn đuốc văn minh cùng với đạo quân chinh phục, Athens bừng sáng, Rome (La mă) trỗi lên và rồi sụp xuống. Lịch sử bắt đầu từ đó.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 454 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 10:41pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA

XII. NHỮNG V̉NG TÁI SANH

Những người đă quen biết nhau trong những đời trước, có khuynh hướng trở lại ṿng tái sanh cùng với nhau. Các quốc gia cũng vậy, cũng cùng với nhau khi thăng khi trầm.

V́ những nền văn hóa của Lemuria và Atlantis đă tiến đến cực thịnh trong nhiều triệu năm, và v́ thiện và ác luôn luôn đi sát cạnh nhau, không thể nói rằng tất cả người Lemuria cao thượng và tất cả người Atlantis tội lổi.

Nhưng trong giai đoạn sau của Atlantis, có rất nhiều người quá hăng sai về kỹ thuật, đă phá hủy lục địa của họ. Edgar Cayee đă cảnh cáo rằng những linh hồn phá hoại ấy đă đầu thai trở lại rất nhiều trong nữa thế kỷ 20 này, thu hút bởi thời kỳ đặc biệt khoa học tân tiến ngày nay.

Thời kỳ phục hưng (Renaissance) tại Âu Châu trong thế kỷ 14 và 15, và thời kỳ Mỹ dành độc lập thế kỷ 18, là những thời dựng lên sự nghiệp của những người Lemuria tái sanh.

Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, George Washington, xưa ở Lemuria rồi sau ở Atlantis. Wondrew Wilson sống đời thứ nhất ở Lemuria, thuộc về giới tu sĩ.

Khi trở lại Atlantis, ông là một ông hoàng trẻ trong hoàng cung, nhưng từ sớm ông đă thiên về triết học và hoạt động tôn giáo. Ông rời khỏi hoàng cung để dốc ḷng vào việc họa và việc tôn thờ, nhưng trong thế kỷ 20 ông không thể lôi cuốn Clémenceau và Lloyd George theo ư kiến ông, v́ hai ông nầy là người Atlantis thực tế.

Winston Churchill là một người Atlantis thuần túy, rất tinh xảo về chiến trận. Franklin D. Roosevelt đă sinh cùng thời với Wondrew Wilson tại Atlantis, có tài về trị quốc. Anwar Sadat xưa cũng giữ một địa vị cao tại Ai Cập sau thời Ra Ta.

Cũng đă từng thương lượng giăn ḥa với các lân bang hiếu chiến. Gerald Ford xưa cũng là một nhà chính trị ḥa b́nh tại Ai Cập và Atlantis. Bao giờ cũng có những người từ các nền văn hóa khác nhau cùng sinh ra một thời.

V́ có một số nhiều người xưa đă sống trong thời kỳ sau của Atlantis ngày nay tái sinh trên mặt đất, chắc chắn rằng sẽ có những hành động hiếu chiến, bất ḥa và vô nhân đạo.

Nói đến Đông phương, dẫn-đạo-sư cho biết rằng những người đầu tiên lập nghiệp tại Gobi là những người hiểu biết đạo Trời, và có đầy ḷng từ bi bác ái với tất cả nhân loại.

V́ thế họ truyền lại nhiều phúc đức trên khắp vùng này bao gồm phần lớn Trung Hoa ngày nay, Tây Tạng và Mông Cổ, và sự thấm nhuần của tâm linh vào đời sống hàng ngày đă sản xuất ra những tư tưởng cao siêu chưa từng có: Khổng học và Phật học

Nhóm cầm quyền tại đó ngày nay phần lớn gồm những người Atlantis tái sinh, đă sống trên đất Gobi sau khi Lemuria ch́m xuống biển, và đặt ách độc tài trên dân da vàng. Mao trạch Đông xưa là một người Atlantis nắm quyền tại Gobi trên 10 năm đến khi bị nguời Aryan xăm lăng truất quyền.

Chu Ân Lai là một người Mông Cổ theo Mao, đă bán nước cho người Atlantis. Những người cầm quyền tại Nga trong mấy chục năm gần đây cũng là người Atlantis, tuy nhiên Staline xưa là người Mông Cổ, khát máu và quyết định vươn lên bằng bất cứ cách nào, đă từng cộng tác với người Atlantis xâm lăng Gobi.

Sau khi tác giả nhận được những lời trên này ít lâu. Chu Ân Lai chết v́ bệnh ung thư. Tác giả hỏi về Hoa Quốc Phong mà bên tây phương ít người biết đến. Dẫn-đạo-sư nói: Hoa Quốc Phong là một người Atlantis trong thời kỳ sau chỉ c̣n lại hai đảo, là một thủy thủ đi thám hiểm đến Gobi.

Y yêu thương một phụ nử Mông Cổ và đem thị trở về Atlantis. Nhưng bị sợ hăi v́ thấy người ta chỉ tôn thờ máy móc và sáng chế, thị thuyết phục Hoa trở lại Gobi và ở luôn đó. Hoa không phải là người Atlantis có học thức, v́ hầu hết đời y sống trên mặt biển, nhưng y khôn ngoan, và khi y nghe nói một số đông người Atlantis rời bỏ quê hương v́ đất rung động, y quyết định lập một tổ-chức thực dân với y làm chủ, và tuyển mộ những người mới đến Gobi.

Y thành lập vương quốc riêng của y, và cai trị tất cả vùng đất thuộc Trung Hoa ngày nay đă được nổi lên thành đồi núi. Nhiều người Atlantis đă đến đó lập nghiệp, nhưng ǵ y đối đăi gắt gao với họ, nên họ vượt qua núi đi sang Ấn Độ và các vùng lân cận. Y sẽ không cầm quyền tại Trung Hoa được lâu, và sau khi Mao chết, y sẽ phải nhường quyền cho Đặng.

Đặng Tiểu B́nh cũng là một người Atlantis có nhiều tài, xưa kia y hay đi tới Gobi, cuộc hành tŕnh rất gian nan v́ Quả cầu Pha-lê không có hiệu lực qua phần bên kia trái đất. Y có tư tưởng ḥa b́nh, và như thế là điều tốt cho Trung Hoa và thế giới tây phương ngày nay.

Y sẽ hợp tác với tây phương nhiều hơn Mao, và sẽ đưa Trung Hoa trở lại với các quốc gia thân thiện. Trung Hoa sẽ trở thành một lănh tụ thế giới sau khi trái đất đổi trục trong hai thập niên tới, khi đất đai rộng lớn của nó sẽ bị thay đổi nghiêm trọng và sẽ giải phóng dân chúng khỏi bàn tay sắt của chính phủ.

Những người Atlantis lan tràn đến bắc Phi Châu, pha trộn với người da trắng từ vùng Caucase, phát sinh ra nền văn hóa Ai Cập ở mức độ cao. C̣n những người da đen không pha trộn với các giống khác, tiến hóa rất chậm, nhưng thời của họ đă đến.

Họ được sinh ra ở Phi Châu có nhiều ánh nắng, nên có màu da che chở cho họ thích hợp với khí hậu. Tại đây có ít những con vật khổng lồ và không có khủng long. Và những loài vật cũng không sinh sản quá nhiều như khủng-long và man-mút tại Lemuria và Atlantis.

Bánh xe luân hồi đă mang lại trong nhiều ṿng những người xưa kia đă chung đụng với nhau, không có người nào không phải trở lại đời sống nhiều lần. V́ thế không có ai c̣n là thuần túy người Lemuria hay người Atlantis. Dẫn-đạo-sư nói:

V́ xă hội ta ngày nay đa số là những người Atlantis trong thời cuối, nên những lớp trẻ và lớp chưa đứng tuổi có nhiều hành động sai lạc như phá rối, bắc cóc, nổ bom, bạo động, ma túy...

Ngày nay là một thời tao loạn, và điềm báo trước bạo động sẽ tiếp tục trong thập niên 1980, cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ này khi trái đất đổi trục lần nữa. Một trận chiến tranh khác với vơ khí nguyên-tử sẽ mang lại t́nh trạng như tại Atlantis khi năng lực của Quả cầu Pha-lê phát ra đă phá hủy châu Mỹ.

Trong thời vàng son, khi chưa có phi cơ dùng năng lực Quả cầu Pha-lê, những sự vận chuyển đều bằng tàu thuyền và xe trượt. Vận chuyển bằng xe trượt rất khó khăn vất vả, do những bàn-nhân hoặc trâu kéo trên mặt đất. Không hiểu tại sao họ không chế ra bánh xe.

Cũng như trâu, chó mèo cũng được nuôi trong nhà. Chúng thuộc giống sói, cáo, hoặc cọp, báo, sư tử, nhưng loại nhỏ hơn, nhiều hơn và trung thành với người. Được hỏi những loài vật ấy có hồn không, Dẫn-đạo-sư trả lời:

Linh hồn loài vật thuộc về một loại riêng và cũng là một phần của tinh hoa Thượng Đế, nhưng không phải là linh hồn người, cũng như tính linh của cây cỏ đối với tính linh của đất đá và các vật khác, mỗi loại có liên lạc riêng với Tạo Hóa.

Tất cả linh hồn người là những tàn lửa từ Thượng Đế sinh ra cùng một lúc từ nguyên thủy. Linh hồn loài vật cũng tiến hóa không ngừng, nhưng không bao giờ được thành người, cũng như chim và cây cỏ không bao giờ trở thành thú vật, v́ mỗi loài ở trong một phạm vi riêng biệt.

So sánh Hoa Kỳ với Atlantis, dẫn-đao-sư nói rằng: Khi Hoa Kỳ mở cửa cho tất cả các dân tộc và trở thành một nơi chứa đựng những người nghèo từ các nước, chủng tộc và tín ngưỡng hoà tan với nhau, chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ.

Cho tới thế kỷ này, Hoa Kỳ là một thí dụ rực rỡ của Atlantis trong thời kỳ vàng son khi mọi chủng tộc đều được hoan nghênh, và tất cả mọi người đều cố gắng tiến hóa về Tâm linh, về tinh thần và về văn hóa.

Hoa Kỳ giống Atlantis về nhiều phương diện và cần so sánh những trạng thái nó đưa đẩy lên cao cùng những trạng thái nó dẫn đến sụp đổ của đất đai mạnh lớn ấy. Chắc chắn chúng ta phải kềm hăm cái ḷng ham muốn vô biên về vũ khí kỹ thuật cho chiến tranh và về địa vị lănh đạo thế giới.

Con đường đi ngày nay đưa thẳng đến một cuộc xung đột khác trong những thập niên 1980 và 1990 trước khi diễn ra tai họa chuyển trục trái đất.

Theo dẫn-đạo-sư th́ tai họa này khó tránh khỏi. Nhưng theo Edgar Cayee, luật ân huệ vượt lêntrên luật nhân quả. Nếu không được Thượng Đế ban ân huệ, th́ chúng ta sẽ phải trăi qua 20 năm xung đột bạo lực, đổ máu và có thể chiến tranh hạt nhân trước khi trái đất đổi trục vào cuối thế kỷ này.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 455 of 2534: Đă gửi: 15 July 2008 lúc 10:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

THẾ GIỚI KHI XƯA

XIII. ĐI SANG TINH CẦU KHÁC
 
 
Nhiều nhà chiêm tinh học nói rằng người, vật, cá, chim, cây cỏ đều bị ảnh hưởng của các tinh cầu khác, trái đất có lẽ cũng vậy. Chúng ta đều biết rằng nước biển lên xuống là do sức hút của mặt trời và mặt trăng, và từ thượng cổ người ta đă biết trồng tỉa theo tuần mặt trăng.
 
Nay dẫn-đạo-sư lại nói rằng những linh hồn cũng phải trăi qua những rung động của tinh cầu khác để hoàn bị sự tiến hóa trước khi ḥa đồng với Tạo Hóa. Dẫn-đạo-sư cũng nhấn mạnh về sự cần thiết tham thiền, cả đến sau khi chết.
 
Khi linh hồn chưa tiến cao, th́ chọn tinh cầu rung động nhẹ hơn như Kim-tinh (Venus) để chịu đựng dể dàng hơn. Những linh hồn trên Kim-tinh đều dịu-dàng, đầy ḷng yêu thương và ḷng tôn thờ Đức Sáng Tạo.
 
Trên Hỏa-tinh (mars) không khí nóng bỏng, để cho những linh hồn đốt cháy tính nóng nảy hiếu chiến, Cho nên tốt hơn là trong đời sống vật chất, cần san bằng những mối bất ḥa, hơn là chịu áp lực trên Hỏa-tinh. Nhưng người nào chịu nổi áp lực ấy th́ sự đốt cháy sẽ nhanh chóng hơn, và sẽ không phải ở lâu trên đó.

Trên hành tinh Uranus, có ảnh hưởng "đ́nh chiến", những linh hồn học hỏi giàn xếp bằng cách không nghĩ đến nguyên nhân những mối bất ḥa. Tuy nói vậy nhưng không phải dễ, v́ những linh hồn đă thù hận nhau trong suốt một đời, nay phải luôn luôn đối diện với nhau.
 
Nếu họ cố gắng chịu đựng trong một thời gian khá lâu trên Uranus th́ mối bất ḥa có thể sẽ tiêu tan. Nhưng đôi khi có những linh hồn không chịu nổi t́nh trạng kéo dài ấy, nên có dịp liền trở lại đời sống vật chất, nhất định giải quyết vấn đề trong thân xác thịt để có thể hoặc chiến đấu hoặc thương lượng ḥa b́nh.

Ảnh hưởng của Neptune dể chịu hơn là của Hỏa-tinh và Uranus nhiều. Những tham vọng được xoay chiều nhẹ nhàng, khiến cho tâm hồn được yên tỉnh, nên nhiều linh hồn không muốn đi nơi khác.
 
Nhưng ai muốn được nhanh chóng hợp nhất với Thượng Đế th́ không muốn kéo dài thời gian yên tỉnh, v́ những thử thách gắt gao là những cơ hội để tiến hóa nhanh chóng hơn. Sau thời gian ở Neptune, những linh hồn sẵn sàng chịu đựng thử thách gắt gao hơn như ở Uranus, Uranus là nơi mài dũa linh hồn.

Rồi dẫn-đạo-sư nói đến Mộc-tinh (Jupiter). Mộc tinh dạy cho tính tự chế ngự, đồng thời tính cương quyết theo lẽ phải, nhưng không được có tính tự phụ, Nếu người nào có cảm tưởng rằng ḿnh cao hơn nguời khác, th́ được nhắc nhở rằng ḿnh chỉ là một vật rất nhỏ mọn, phải tùy thuộc vào một nguời mẹ mang nặng đẻ đau.

Thủy-tinh (Mercury) là thủy ngân. Trên Thủy tinh người ta có thể thấy lại h́nh ảnh tất cả các đời sống trước và ấn định hướng đi lên hay đi xuống trong hoạt động tương lai. Đó là một nơi rất nhỏ để un đúc lại các nguyên động-lực trong mỗi lần giáng sinh, để cố gắng xóa bỏ trong một đời sống tất cả những nhân xấu từ xưa.
 
Đây không phải là một nơi nghĩ an nhàn, v́ không những là phải kiểm điểm lại những lầm lỗi trong đời mới trăi qua, mà c̣n cả hàng ngàn đời trước. Những lầm lổi càng nhiều th́ sự đau khổ càng nhiều. Có lẽ v́ thế mà có những linh hồn can đảm đă chọn thân h́nh bất toàn, như mù, điếc, tàn tật, để trả quả cho nhanh chóng.

Thổ-tinh (Saturn) là cao hơn hết, là nơi những linh hồn đă tiến đến mức toàn thiện. Dẫn-đạo-sư không thể nói ǵ nhiều về Thổ-tinh, v́ chưa được lên đến đó. Có những linh hồn từ Thổ-tinh trở về đă nói rằng chưa đủ tŕnh độ c̣n phải trở lại để tu thêm.

Dẫn-đạo-sư nói thêm rằng nếu trong đời sống vật chất mà chúng ta đạt tới mức gần hoàn toàn (toàn thiện) th́ những cuộc hành tŕnh sang các tinh cầu khác rất là nhẹ nhàng. Tại sao phải đi sang tinh cầu khác? V́ cần phải đền bù tội lỗi đối với người khác và phải ĺa bỏ thái độ ích kỷ và trịch thượng.
 
Đó là một phương pháp san bằng. Cho nên trong đời vật chất, cần phải thiện những ư nghĩ và hành động đối với người khác, v́ việc làm ấy dễ hơn rất nhiều là phải chịu khổ năo tinh thần trên các tinh cầu. Vậy tại sao không bắt đần ngay từ bây giờ phương pháp gột rửa cuốn sổ thiên nhân ấy!
 
Hăy cân nhắc những điều thiệt hại đă gây cho người khác, rồi ngay từ bây giờ bắt đầu t́m cách chuộc lại, hoặc giúp đở những người kém ta. Nếu những người đó đă làm thiệt hại cho người ta th́ cũng chẳng sao, v́ đó là việc nhân quả của họ, họ sẽ phải đền bù.
 
Hăy để mặc họ về chuyện đó, nhưng cứ giúp đỡ họ đi khi nào có thể được, hăy quên đi, tha thứ đi. C̣n ở trong đời vật chất th́ rất dễ, nhưng khi đă bước sang cơi tâm linh th́ rất khó. Hăy xóa bỏ tội lỗi khi c̣n ngày giờ, hăy lợi dụng tối đa cơ hội c̣n ở trong xác thịt.

 

   HẾT

 

 

 

 

 

 

 



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 456 of 2534: Đă gửi: 18 July 2008 lúc 11:18am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CÚNG VONG, CÚNG LINH

 VỚT VONG

 

Bài nói chuyện dưới đây giữa sư Tinh Tuệ và phóng viên Nguyễn Quang Minh, sẽ soi chiếu nhiều vấn đề tâm linh theo quan niệm của Phật Giáo, nhân có những quan niệm sai lệch về việc thực thi các nghi thức tín ngưỡng.

NQM: Thưa sư Tinh Tuệ, xin ông cho biết đôi chút về ḿnh, trước khi chúng ta đi sâu vào những khúc mắc về vấn đề tín ngưỡng, xoay quanh các h́nh thức cúng, tế, bái, v.v. theo quan niệm Phật giáo mà ông đă tu tập?

STT: Sư xuất thân là một nhà tu theo Phật Giáo Nguyên Thủy, hệ thống của Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan. Sư xuất gia với các ngài thiền sư Việt Nam theo hệ thống Phật Giáo Nguyên Thủy, là giữ giới, bố thí và hành thiền. Sư có duyên lành, đă gặp được các ngài thiền sư người Thái, người Miến Điện và tu tập trong hơn 15 năm qua.

NQM: Thưa sư Tinh Tuệ, nhân mùa Vu Lan, xóa tội vong nhân dịp rằm tháng 7 âm lịch, các nơi chùa chiền tổ chức cúng vong, cúng linh, vớt vong… Xin ông cho biết ư kiến của ông về các h́nh thức này, theo quan niệm Phật Giáo là thế nào?

STT: Theo tinh thần của đức Phật, người quá văng vừa mới ĺa đời, ngài xác nhận rằng, chính người đó đă đi tái sanh vào cảnh giới thích hợp với ḿnh. Tức là cảnh giới làm người, hoặc cảnh giới cao hơn gọi là Chư thiên, hoặc thấp hơn là cảnh giới súc sanh, a-tu-la c̣n gọi là ma, thấp hơn nữa là ngạ quỷ c̣n gọi là quỷ sứ, hoặc thấp hơn nữa là cơi địa ngục.

Đức Phật dạy rằng dưới cơi người, có bốn cảnh khổ: Cảnh địa ngục, cảnh ngạ quỷ, cảnh a-tu-la và cảnh thú. Cũng theo tinh phần của đức Phật, qua các cảnh giới nói trên, nếu trong thân nhân của chúng sanh phải sanh vào một trong bốn cảnh khổ nói trên, ngài dạy rằng, h́nh thức đúng đắn nhất mà chúng sanh nên làm, là ngay khi chết, phải thỉnh chư tăng tới, hoặc gia đ́nh thí chủ đó tới chùa để dâng cúng vật thực, hoặc tứ vật dụng.

Tứ vật dụng là: Chỗ ở, thuốc men, thực phẩm, quần áo… Rồi từ chỗ dâng cúng cho chư tăng, do công đức tu tập của họ, sự hồi hướng công đức mới tay người thân của thí chủ được. Sự hồi hướng này được chuyển tải qua các bài kinh, kệ để gởi tới người quá văng.

NQM: Như vậy, sự hồi hướng đó, qua chư tăng, người quá văng có nhận được đầy đủ không?

STT: Có thể nhận được, có thể không, tùy theo cảnh giới cho phép mà họ nhận được hay không. Ngay sau khi chết, Đức Phật dạy rằng người quá văng đó sẽ đi tái sanh ngay liền.

Thời gian mà chúng ta có thể h́nh dung cho việc tái sanh được đức Phật nói rằng, giống như con sâu đo, nó nhả đầu này, là nó bắt đầu kia… Con sâu sẽ kiếm hướng thích hợp cảnh giới mà nó sẽ đầu thai, giống như người vậy.

NQM: Như vậy, các h́nh thức cúng mở cửa mả, cúng 49 ngày, 100 ngày cho người mất, ông nghĩ sao?

STT: Theo như lời Phật dạy trong kinh điển, và sau này các bậc thầy tổ thánh tăng cũng nhắc lại rằng, đến năm nay là 2.549 năm, các h́nh thức anh vừa nêu… kể cả các h́nh thức cúng kiếng đốt nhà, đốt xe, vàng mă, v.v. cho người thân đó là sai lầm.

Làm như vậy chẳng khác nào muốn người thân của ḿnh ở cảnh địa ngục hay sao? Họ làm sao hưởng được những thứ cúng kiếng này. Biết đâu họ đang ở những cảnh giới cao hơn sung sướng hơn? Điều đó không hợp lư.

NQM: Như vậy, trong dân gian, một số vị sư, các nhà lănh đạo tôn giáo đă cố t́nh hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường u minh, mê muội qua các h́nh thức cúng bái, nhằm mục đích trục lợi trên phương diện vật chất. Làm thế nào, chúng ta có thể nhận chân ra được người thân của ḿnh khi quá văng, ở cảnh giới nào để chúng ta hướng tâm niệm cầu xin cho chính xác, bỏ ra ngoài những tà kiến nói trên?

STT: Đức Phật thường nhắn nhủ rằng, khi người thân quá văng, không ai biết được người thân ḿnh sẽ đi vào cảnh giới nào, do đó, việc làm đúng đắn và cần thiết nhất, là chúng sanh cần dâng cúng tứ vật dụng như tôi đă tŕnh bày ở trên cho các chư vị sư tăng để xin họ hồi hướng cho thân nhân quá văng mà thôi.

Khi các vị sư tăng dùng công đức tu tập của ḿnh hồi hướng cho người quá văng, không riêng ǵ người quá văng, thân nhân của người muốn xin lễ nhận được, mà mọi chúng sanh, tùy theo cảnh giới nhận được th́ được, không th́ thôi.

Tuy nhiên, tôi vẫn thấy v́ thương tiếc người thân trong gia đ́nh, nên phần lớn chúng sanh chỉ muốn cầu xin, hồi hướng riêng cho người thân của ḿnh, trên thực tế, hồn người chết không nhận được đầy đủ như lời cầu đâu. Chúng sanh 3 giới, 4 loài đều nhận được các bài kinh kệ.

Một câu chuyện ngắn nói về chuyện hồi hướng vật phẩm này để quí vị thưởng lăm cho tỏ tường. Vào thời đức Phật, có một vị vua tên là B́nh Sa Vương, ngài là người đạo đức, một hôm thỉnh đức Phật và chư tăng tới hoàng cung để thiết lễ trai tăng, độ ngọ trước 12 giờ.

Vua được đức Phật hỏi rằng “Thưa ngài, xin ngài nh́n ra ngoài kinh thành, ngài thấy ǵ không?” Đức Phật hỏi 3 lần, vua B́nh Sa Vương đều trả lời là không thấy ǵ cả. Đức Phật hỏi tăng chúng, bảo họ nh́n ra ngoài kinh thành, xem có thấy ǵ không, chư tăng nh́n ra ngoài, quả nhiên, họ nói rằng thấy đông đảo người thân bằng quyến thuộc đang tụ tập bên ngoài, chờ chực cầu xin chư tăng tụng niệm kinh kệ, hồi hướng công đức để họ được hưởng…

Đức Phật muốn dạy vua B́nh Sa Vương bài học không thể áp đặt lên người khác, mà phải qua các vị chư tăng. Đêm hôm đó, vua nằm mơ, thấy các vị thân bằng quyến thuộc hiện về, cảm tạ ngài đă hồi hướng vật phẩm qua lời cầu xin của chư tăng.

Có vị nhận được, có vị không nhận được, có vị nhận được nhiều, có vị nhận được ít tùy theo cảnh giới của mỗi người. Có người được đầu thai nhờ đủ duyên đủ phước. Không ai giống nhau. Lời dạy của Phật gọi là Hoan hỉ chư phước.

NQM: Như vậy, tu sĩ, chư tăng đóng một vai tṛ “trung gian” khá quan trọng để hồi hướng công đức tới người quá văng. Làm thế nào để đánh giá vào sự đúng đắn của những vị chư tăng này, trong khi hiện nay, có quá nhiều người lạm dụng vai tṛ trung gian này?

STT: Theo tinh Phật, người tu hành, gọi là chư tăng… là người phải ăn ở theo Phật, giữ giới theo Phật, và hành tŕ theo lời dạy của Phật. Tức là phải xa lánh thế gian, ở nơi thanh vắng. Không được liên hệ nhiều với thế gian. Thế gian có nghiệp của thế gian. Đă gọi là người tu, đă khoác áo tu, làm con của Phật, phải giữ giới cho đứng đắn.

Không thể có những sinh hoạt nửa tu, nửa đời, không thể nào cứ thấy chỗ nào vui, chỗ nào đông là tới, đó không phải là người tu. Theo tinh thần đó, các vị thánh tăng nói rằng, người tu phải giữ giới, tu tập công đức.

Khi ra ngoài xă hội, nếu có nhân duyên với người thế gian trong các tiền kiếp, họ dâng cúng, hay xin lễ hồi hướng cho thân nhân quá văng, bằng các vật phẩm tứ vật dụng, mời chư tăng tới nhà v.v. bổn phận phải làm các công việc như sư nói ở trên.

C̣n nếu tham lam, định giá h́nh ảnh to nhỏ, kinh đọc nhiều lần, ít lần… Đặc biệt không nên bỏ tro cốt của người chết vào b́nh, vào hũ để trong chùa, sau đó nhận tiền của bá tánh, để dán tên ông bà cha mẹ của các chúng sanh, rồi ra giá tiền với hũ lớn nhỏ. Theo sư biết, có một số chư tăng đă ra giá tiền cho khung ảnh, lớn nhỏ giá nào, hũ tro cốt lớn th́ giá bao nhiêu… hoàn toàn sai với lời dạy của Phật.

Chư tăng nào nhận tiền của thí chủ, bá tánh để nuôi mạng ḿnh bằng các h́nh thức đó, xây cất chùa chiền bằng các sự thu nhận đó, đều là bất chánh. Đó là việc đi ngược lại lời dạy của Phật. Ngài nói “thà nhận ngậm thỏi sắt lửa đỏ, c̣n sướng hơn là những vật cúng sai quấy đó!” Không thể nào nhận được những vật bất chánh đó.

NQM: Nhân nói về vai tṛ trung gian, hiện nay, có một số chùa tại quận Cam, các vị sư đă ra giá tiền đóng góp để xây chùa, giá viên gạch, cửa sổ, cột kèo là bao nhiêu, và kêu gọi chúng sanh đóng góp, sư nghĩ sao?

STT: Đức Phật vẫn dạy trong kinh là, các chùa chiền là cần thiết, v́ có chùa mới có nơi chốn để chư tăng tu tập. Tuy nhiên, như anh vừa nêu, nếu đặt ra giá tiền, kích thước, rồi tranh nhau bán, mua… Chính đức Phật nói rằng, khi ḿnh vắt sữa ḅ, phải chừa sữa ḅ, chứ không thể vắt cạn tài sản của chúng sanh như vậy. Giá cả như vậy là sai, hoàn toàn là tà kiến.

NQM: Trở lại với việc các oan hồn uổng tử mất mà không đầu thai vào cảnh giới nào được, vất vưởng nơi bờ sông, bờ suối hay biển cả, các h́nh thức vớt vong, cúng vong có giúp ǵ cho họ không?

STT: Chúng sanh có nghiệp của chúng sanh. Mỗi người đều có nghiệp lực riêng. Ví dụ như một cha mẹ sinh ra 5 người con, nhưng không ai giống ai. Có thể giống về ngoại h́nh như nhau, nhưng tính t́nh khác nhau. Trong 5 người con, có người xuất chúng, ngoan hiền, cũng có kẻ ngu muội, gian ác… Không ai giống nhau.

Sắc pháp giống nhau, tâm tính khác nhau. Karma, nghiệp lực của từng người khác nhau. Trong các tiền kiếp, vật lực sẽ tạo nên các nghiệp lực khác nhau cho mỗi người. Nếu có cùng duyên, dù sinh vào cùng một gia đ́nh, nhưng quả báo khác nhau.

Do đó, khi ra đi, cũng theo những nghiệp lực khác nhau. Bổn phận của người c̣n sống duy nhất mà họ muốn làm, chỉ là việc thỉnh chư tăng đến nhà để cầu xin, tụng các bài kinh. Chỉ có vậy thôi.

NQM: Làm sao chúng sanh có thể tin tưởng là qua các vị chư tăng, các phẩm vật tứ vật dụng tới tay được người thân?

STT: Đức Phật ngài cũng dạy rằng, chư tăng cũng giống như 3 thửa ruộng: Ruộng tốt, ruộng thường, và ruộng xấu. Nếu công đức của vị sư tốt, th́ ứng với ruộng tốt, khi gieo phẩm vật xin hồi hướng, người quá văng nhận được nhiều hơn. Nếu vị chư tăng đó công đức thường, sự hồi hướng cũng yếu. C̣n nếu vị nào không có công đức, là ruộng xấu, sự hồi hướng coi như không có.

Vậy làm sao nhận diện vị sư nào đúng đắn? Phật dạy rằng, hăy nh́n vào y phục của nhà sư, tướng mạo, hành động, bước đi, cách hành tŕ của họ trong thế gian… Phải quan sát, chứng nghiệm, t́m hiểu xem vị tăng lữ đó đă cởi bỏ hết tham sân si hay chưa, sẽ biết ngay họ là thửa ruộng tốt hay xấu.

Theo tinh thần của Phật giáo nguyên thủy, những bộ y mà chư tăng mặc (như bộ đồ sư Tinh tuệ đang mặc) được kết lại bởi chính mẫu mă mà đức Phật đă chỉ dạy từ hơn 2.500 năm qua. Nếu kẻ nào mặc những lá y không đúng với mẫu vẽ của Phật, không phải là chư tăng đúng đắn chân chính.

NQM: Là một vị sư, chư tăng chân chính, theo sư, các vị đó có được tham gia vào các hoạt động xă hội, văn hóa, chính trị hay không?

STT: Theo tinh thần của đức Phật, ngài vẫn ca ngợi tinh thần phục vụ của các vị chư tăng, nếu những bài pháp, tác phẩm có tính cách phục vụ Phật pháp, tức là khuyên dạy người bỏ bớt sân hận, si mê th́ mới được.

C̣n các hoạt động khác, kể cả các h́nh thức của đức Phật để kinh doanh, mua bán, trục lợi cho ḿnh, cho chùa của ḿnh, hoặc tham gia đảng phái, các hoạt động xă hội, chính trị, giáo dục có tính cách đời thường, tạo ra nghiệp lực, ảnh hưởng đời sống tu tập đều là sai.

Ví dụ như c̣n đứng vào phe này, phe kia, tranh chấp thế này thế kia để làm lợi cho phe ḿnh, có tính chất chính trị, đều là sai theo tinh thần Phật giáo.

NQM: Trong đời sống của chúng ta, chúng sanh vẫn than văn là ḿnh khổ quá, hoặc sướng quá. Câu nói “địa ngục ở trần gian” hay “thiên đàng hạ giới”… phản ánh từng kiếp sống ngay tại trần thế. Xin sư cho biết tại sao có sự khác biệt, kẻ sướng người khổ một cách rơ ràng như vậy?

STT: Theo đức Phật thường nhắc nhở nhiều lần, khẳng định rằng, duyên lành làm người trong thế gian rất khó. Tuy nhiên, cũng có nhiều loại người trong thế gian. Có hạng thánh nhân trong xác phàm, có hạng người trong xác người, và cũng có loại súc sanh trong xác người.

Chúng ta có thể nh́n ra ngay những hạng người này trong xă hội, xung quanh ta. Do đó, trong cuộc sống, không có ǵ vui sướng, hạnh phúc cho bằng gặp hạng thánh nhân trong xác phàm, với họ chúng ta thấy b́nh an, hoan lạc, dễ chịu, sung sướng. Rồi chúng ta cũng gặp người trong xác người với hỉ, nộ, ái, ố, sân, si… như người.

Họ cần được an ủi. Và tệ nhất, là hạng súc sinh mang lốt người, toàn là hành động gian ác, bất nhân, bất nghĩa, có hành động ma quái, đê tiện, hèn hạ không thua ǵ loài cầm thú, ác điểu. Các loại, hạng người này, khi lâm chung, sẽ đi vào cơi, giới thích hợp với chúng.

Thánh nhân vào nơi cao đẹp, người vào cơi thường, thú vào địa ngục. Nói tóm lại, hành động sống ở đời ra sao, nó sẽ phù hợp với cảnh chết bấy nhiêu. Anh hỏi sư tại sao lại có người khổ kẻ sướng, đều do nghiệp lực của từng hạng người như sư tŕnh bày ở trên.

NQM: Hàng súc sanh th́ nhiều, thánh nhân tại sao ít thấy thế?

STT: Đức Phật dạy rằng, hàng thánh nhân ít ỏi như hai sừng ḅ. Sừng ḅ chỉ có hai. C̣n chúng sanh xuống 4 đường ác đạo nhiều như lông ḅ. Ngài khẳng định lông ḅ nhiều như người ác. Hiền nhân, thánh nhân khó kiếm, theo lời Phật dạy chính là hàng tăng lữ, chư tăng, tu sĩ.

V́ sao, v́ họ đă cố gắng tu tập, cởi bỏ sân si, để sống cho đúng với lời đức Phật dạy. Tuy nhiên, đó là những chư tăng chân chính. C̣n những kẻ đội lốt tu hành để làm ác, kiếp sau c̣n xuống tận cùng của địa ngục, ngạ quỷ, không bao giờ khá lên được.

 

                                                                Hết

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 457 of 2534: Đă gửi: 18 July 2008 lúc 11:34am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ ẨN VỀ ĐIỀM BÁO

TRONG GIẤC MƠ

 

 Một trong những thách thức lớn nhất với khoa học hiện đại là, giải mă bộ năo người với những thông tin được báo trước, mà người ta thường gọi là “điềm báo trong giấc mơ”.

 V́ sao báo mộng lại có thể vượt trước được cả không gian, thời gian? Cho đến nay vẫn chưa có được lời giải thích hợp lư.

 Ngày 29-8-1893 tại Mỹ, phóng viên Samson của tờ báo “Hoàn Cầu” kết thúc công việc, nằm nghỉ trên sofa rồi ngủ luôn. Bảy giờ sau tỉnh dậy, anh vẫn nhớ rơ mồn một những ǵ xảy ra trong giấc mơ.

 

 Anh ngồi ngay vào bàn làm việc và ghi lại tất cả: núi lửa Krakatoa phun mạnh ở gần đảo Java, dung nham và đá bùn cuốn một đám người ra biển… Samson viết xong tiện tay ghi luôn hai chữ “quan trọng” rồi ra về.

 

 Hôm sau tổng biên tập đến thấy trên bàn làm việc của Samson có một bài viết, cho rằng anh đă nhận được tin tối qua, lập tức đăng ngay vào mục “tin khẩn”. Mấy chục tờ báo cũng đăng theo. V́ là tin thất thiệt nên dư luận phản đối gay gắt và Samson bị mất việc.

 

 Tuy nhiên chỉ mấy ngày sau đó, núi lửa Krakatoa quả nhiên hoạt động rất mạnh. Rất nhiều người thiệt mạng trong lần phun trào này. Giấc mơ đáng sợ của Samson trở thành hiện thực. Chuyện ngẫu nhiên như vậy đến nay vẫn không có lời giải thích thỏa đáng.

 

 Trên thế giới những chuyện báo mộng như vậy cũng không ít. Tổng thống Mỹ Kennedy nằm mơ thấy ḿnh bị ám sát. Quả nhiên ông ra đă bị sát hại vào ngày 22-11-1963.

 

 Ngày 3-3-1974 ở ngoại ô Paris, một máy bay DC-10 của hăng hàng không Thổ Nhĩ Kỳ bị nạn. 346 người thiệt mạng. Trước khi xảy ra sự việc này, một nữ công dân Mỹ, Robins, đă biết trước sự việc.

 

 Ngày 16-2 bà đă nằm mơ thấy chuyện đó và đă báo trước:

 

 - “Máy bay DC-10 đến London sẽ gặp nạn vào tháng ba hoặc tháng năm, mấy trăm người chết không ai thoát”.

 

 Ngày 24-2, bà ta lại nằm mơ thấy rơ ràng sự việc:

máy bay từ Paris đi London… tai nạn xảy ra trong rừng… một tuần nữa xảy ra. Lời dự báo của Robins được ghi âm và cục điều tra Liên bang gửi đến trực ban hàng không. Đáng tiếc là người ta đă không có biện pháp đề pḥng nên tai nạn vẫn xảy ra.

 

 Ngược lại có nhiều điều báo mộng đă giúp kịp thời thay đổi kế hoạch, nên giảm được tổn thất và thương vong. Thí dụ như một giám đốc bệnh viện đă nằm mơ thấy sau năm 1972 sẽ có máy bay rơi xuống bên cạnh bệnh viện của ông. Ông đă áp dụng các biện pháp đề pḥng.

 

 Ngày 7-2-1973, quả nhiên một máy bay chiến đấu phản lực đă rơi ngay cạnh pḥng làm việc của ông. V́ đă có các biện pháp cấp cứu kịp thời nên giảm hẳn số thương vong. 

 

 Khoa học hiện đại đang đi sâu nghiên cứu giấc mộng, đă phát hiện được những chức năng liên tưởng gợi ư và sáng tạo của nó. Một số nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về khả năng truyền cảm thông tin, những nghiên cứu về mặt này sẽ có khả năng giải thích được hiện tượng gợi ư.

 

 Nhưng để giải thích hiện tượng báo mộng vẫn c̣n thiếu sức thuyết phục. V́ sao báo mộng lại có thể vượt trước được cả không gian thời gian? Cho đến nay vẫn chưa có được lời giải thích hợp lư.

 

 

                                                           Phương Thảo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 458 of 2534: Đă gửi: 18 July 2008 lúc 7:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON NGƯỜI CÓ HỒN VÀ THỂ 

 

 Hồn là điểm thiêng liêng linh diệu trong con người. Nó vốn bất tiêu bất diệt. Ấy là điểm linh quang do Chơn linh của Tạo hóa ban cho. Chơn linh ấy có ba Ngôi, th́ hồn cũng có ba bực:

 1. Linh Hồn (Âme divine - Atma) cũng gọi Phật hồn, Chơn hồn, Chơn ngă, Chơn tâm, Ngươn  thần.

 2. Anh hồn (Âme spirituelle - Boddhi) cũng gọi Tiên hồn, Bồ đề, Bát nhă, Trí huệ.

 3. Nhơn hồn (Âme humaine - Coprs mental supérieur) cũng gọi Giác hồn, Thần thức, A lại Da thức, Thượng trí thức, Tâm thức, Nghiệp thức.

 Nhơn hồn đồng nguyên chất với cơi Tiên. Anh hồn đồng nguyên chất với cơi Thiên Tiên, cũng gọi cơi Bồ đề (Monde spirituel ou Boddhique). Linh hồn đồng nguyên chất với cơi Ngọc Tiên Thiên, cũng gọi là cơi Niết bàn (Nirvana).

 Thể th́ có bốn thứ là:

 Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể.

 1. Vật thể (Corps physique: Rupa) là xác thịt, thể thứ nhứt của con người. Nó do bốn nguyên tố lớn hiệp thành (Tứ đại giả hiệp). Bốn cái nguyên tố ấy là: đất, nước, lửa, gió. Vật thể bị bao bọc bởi một lớp tinh khí (éther), gọi là Khí thể (Double éthérique: linga-sharira), cũng gọi là cái Phách, kêu nôm là cái Vía, thuật âm phù gọi Tướng tinh.

 2. Khí thể dùng rút sanh lực vào Vật thể đặng giữ cho Vật thể được sanh tồn. Nhờ có Khí thể chở che bao học, Vật thể mới không tan ră. Khí thể dính với Vật thể bởi một sợi từ khí (lienmagnétique). Khi nào Khí thể bứt sợi dây ấy mà ĺa khỏi Vật thể, th́ con người phải chết. Lúc bấy giờ, Vật thể mất sự che chở của Khí thể, nên lần lần tiêu ră.

 Nhà âm phù thuật sĩ dùng phép thôi miên có thể làm cho Khí thể của người sống xuất khỏi Vật thể trong một lúc (nhưng không cho dang ra xa, sợ đứt sợi từ khí mà nguy cho tánh mạng). H́nh nó xuất ra mờ mờ như đám sương mù, người có thần (voyant), trông thấy được.
Lúc bấy giờ, xác phàm hết cử động, hết biết cảm giác, trơ trơ như một tử thi.
Người hít thuốc mê không c̣n biết đau đớn là v́ thuốc mê đă làm cho một Khí thể ra khỏi xác thịt.

 3. Thể thứ ba là Thần thể hay Chơn thần (Corps astal: Kama). Dính với Khí thể bởi một sợi từ khí, Chơn thần làm trung gian cho Vật thể và Hồn. Chơn thần là tạng chứa tham ái và t́nh cảm tức là nguồn gốc sự cảm giác. Hể nó vọng động, th́ mắt tham sắc, tai tham thanh, mũi tham hương, lưỡi tham vị và thân tham xúc. Nó là vai chủ động của lục căn. Tâm lư học gọi là ư thức.

 Người ta có thể luyện phép xuất Thần ra khỏi xác mà vân du trên cơi Thần (Trung giới) là cơi thích hạp với Chơn thần v́ đồng một nguyên chất. Chơn thần của các vị tu đắc đạo vốn huyền diệu vô cùng tuy c̣n ở xác phàm mà tự do xuất nhập, trong nháy mắt dạo khắp ba ngàn thế giới, tiếp xúc với Thần Tiên. Người đồng tử (médium) nhờ xuất được Chơn thần ra khỏi Phách mà thông công với các Đấng Thiêng Liêng.

 4. Thể thứ tư là Thánh thể (Corps mental inférieur: manas inférieur). Phật giáo gọi Mat nạ thức hay Truyền thống thức; Tâm lư học gọi Trí thức. Nó giao thông giữa Thần và Hồn. Hễ Chơn thần phân biệt cái ǵ là tốt, cái ǵ là xấu, hoặc điều ǵ là thiện, hoặc điều ǵ là ác nó cũng tùy theo mà phân biệt như vậy, rồi truyền sang cho Nhơn hồn hay biết.

 Tóm lại, con người có bốn thể là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể. Và ba hồn là: Nhơn hồn, Anh hồn và Linh hồn. Khi con người chết, bốn thể lần lần tiêu tan, duy có hồn là bất tiêu bất diệt, đi đầu thai kiếp nầy sang kiếp khác, cho tới khi được hoàn toàn giải thoát (đắc đạo). 

 Xương thịt thuộc đất, v́ tánh nó đặc và chắc. Huyết dịch thuộc nước v́ là chất lỏng. Ôn độ trong châu thân thuộc lửa, v́ tánh nó ấm. Khí chất trong châu thân thuộc gió v́ tánh nó động.

 Khi con người chết, bốn cái nguyên tố trong châu thân lần lần tan ră, rồi hiệp thành một vật thể khác, để rồi tan nữa rồi hiệp nữa, thoạt có, thoạt không, thoạt c̣n, thoạt mất, thiệt rơ ràng một giả tướng.

 
 NHƠN HỒN SAU KHI GIẢI THỂ

 
 Người ta chết là khi sợi từ khí cột dính Vật thể và Khí thể bị bứt đi
(*1), thế là Khí phách và Thần hồn ĺa xác thịt.
Thiệt ra, cái chết chỉ là sự ly dị giữa Vật thể và Khí thể. Khí thể vốn là tạng chứa sanh lực, mà nếu nó ĺa khỏi Vật thể th́ Vật thể hết sanh lực, phải lần lần tan ră.

 Vài ngày sau khi con người chết, Khí thể của người ấy ĺa khỏi Chơn thần. Nó không cử động mà cứ vơ vẩn gần tử thi. Ban đêm đi đến nơi thanh vắng, nhứt là nơi mồ mả, những người tánh nhát hay sợ sệt; sự sợ sệt ấy khích thích thần kinh hệ (système nerveux) làm cho họ thấy được h́nh dạng Khí thể vẩn vơ nơi đó. Họ cho là "gặp ma" (fantôme éthèrique).

 Khí thể của người chết tiêu tan một lượt với tử thi. Tần nhơn (người Cao miên) có tục hỏa táng (Crémation), nghĩa là thiêu tử thi, rồi chôn tro, hoặc đựng trong hủ đem thờ nơi chùa. Dùng hỏa táng,th́ Khí thể tiêu liền theo xác thiêu.

 Khi Hồn người chết cổi hết Vật thể và Khí thể, nó được nhẹ nhàng thong thả như trút được một gánh nặng. Lúc bấy giờ, nó lại linh hoạt hơn khi c̣n tù túng trong xác phàm. Nó vẫn sống như thường ở cơi vô h́nh; cái sống nầy mới là sống thiệt, có điều Nhơn hồn không cảm xúc theo phàm trần v́ nó không c̣n Vật thể.

 Lúc nầy Nhơn hồn linh hoạt nhờ Chơn thần là cái vỏ bao bọc nó như Khí thể bao bọc xác thịt vậy. Chơn thần vốn đồng nguyên chất với Trung giới là cơi Thần (Monde astral). Cho nên, sau khi rời bỏ xác phàm và cái phách (Vật thể và Khí thể), Hồn nhờ Chơn Thần làm chiếc xe đưa vào cơi Thần là nguyên quán, là quê hương của Chơn thần vậy.

 Vẫn biết Chơn thần là tạng chứa những hột giống thuộc về t́nh cảm. Con người, nếu lúc sanh tiền đă chú trọng vật chất, chỉ lo thỏa măn tham ái tất nhiên Chơn thần bị trọng trược bởi những hột giống xấu xa ấy, nên nó lâu tan ră. Chơn thần ấy chẳng khác nào cái khám có bốn vách kiên cố để nhốt Hồn người trong một thời gian rất lâu ở Trung giới.

 Vậy nên chú trọng điều này: ở cơi phàm con người hành động thể nào, sự hành động ấy dầu lành dầu dữ, dầu thấp hèn hay cao thượng, cái ấn tượng của các hành vi ấy đều in gắn vào tinh chất (matière astrale) của cơi Thần.

. Đến khi Hồn trở về cơi Thần, th́ cái ấn tượng ấy hiện ra có thứ lớp rơ ràng; Hồn người trông thấy chẳng khác nào mục kích một phim chớp bóng (*2).

 Lúc bấy giờ, Hồn người được sung sướng mà nhận thấy hành vi nhơn thiện và cao thượng của ḿnh khi c̣n ở thế, hoặc ăn năn và đau khổ mà xem lại những điều độc ác thấp hèn của ḿnh đă tạo. Sự sung sướng và sự đau khổ ấy, tức là phần thưởng phạt thiêng liêng cho hồn người tại Trung giới, tức là miền Âm cảnh mà người ta quen gọi là Địa ngục (Enfer), tiếng Phạn là Kama Loca.

 Hồn những người tu mà giữ tṛn nhơn đạo và chuyên việc nhơn đức và hồn của chiến sĩ đă liều ḿnh v́ nước, khi về đến cơi Thần đều được hưởng các điều khoái lạc thiêng liêng là phần thưởng cho sự hành vi của ḿnh khi c̣n ở thế. Đó là đắc Thần vị (thành Thần).

 Ở cơi Thần những Hồn đồng một tŕnh độ tấn hóa với nhau, đều liên hiệp từng đoàn thể để giúp đỡ nhau đặng tấn hóa thêm lên. Hưởng và chịu thưởng phạt thiêng liêng ở cơi Thần trong một thời gian lâu hay mau tùy theo căn nghiệp của ḿnh.

 Nhơn hồn giải thoát được Chơn thần v́ Chơn thần đến ngày tiêu tán. Chơn thần tiêu tán, th́ bao nhiêu hột giống của nó tàng trữ bấy lâu, tức là những hột giống luân hồi (atomes permanents) đều rút vào cái thể thứ tư là Thánh thể, để làm nghiệp duyên cho kiếp tái sanh.


 Chỉ c̣n cái Thánh thể bao bọc, Nhơn hồn bỏ cơi Thần mà vào từng cao nhứt của Trung giới, tức vào cơi Thánh (Monde mental inférieur). Nhơn hồn ở cơi nầy lâu hay mau cũng tùy theo kiếp sống của ḿnh tại thế.

 Như lúc sanh tiền con người đă hành động cao thượng về tinh thần trí thức, nếu con người đă có những tư tưởng thanh cao và những t́nh cảm cao siêu của phàm tánh, nếu con người đă biết quên ḿnh để phụng sự một lư tưởng cao cả, hoặc một chủ nghĩa vị tha, th́ Nhơn hồn được hưởng bền lâu những hạnh phúc thiêng liêng nơi cơi Thánh tốt tươi vui vẻ, và được tiếp xúc với các v́ minh Thánh nơi đây. Đó là đắc Thánh vị (thành Thánh).

 Nên biết rằng ở cơi Thánh, chẳng một việc ǵ là phát đoan (khởi đầu). Những công việc ở đây toàn là kiếp tục. Nói một cách dễ hiểu là: một hạnh phúc không thể bắt đầu tạo ra ở cơi nầy. Nó phải phát đoan từ cơi Phàm, rồi đến đây mới tiếp tục mà phát triển thêm.

 Cho nên con người khi c̣n ở thế, cần phải sống một cuộc đời nhơn thiện và thanh cao về tinh thần trí thức và lư tưởng, chớ không phải đợi lên đến cơi thiêng liêng mới lo hành thiện, th́ muộn lắm rồi. Luật nhơn quả (Loi de Karma) vốn chí công: nhơn nào, quả nấy.

 Khi c̣n ở thế, chúng ta tự tạo phẩm vị thiêng liêng của chúng ta là cái kết quả của những hành vi thuận hay nghịch với Thiên đạo (Loi divine). Khi c̣n ở thế, chúng ta vẫn có quyền tự do định đoạt cho ḿnh. Chớ nên quá hững hờ tự tạo lấy xiềng xích đặng sau rồi buộc trói lấy ta.

 Khi Thánh thể tiêu tan, những hột giống luân hồi tàng trữ bấy lâu trong đó rút vào Nhơn hồn (Thần thức) để làm nghiệp nhơn cho kiếp tái sanh, như đă nói trước kia.

 Nhơn hồn lúc bấy giờ hết bị thể phách ràng buộc, nó được thong thả trở về bổn nguyên là Tiên cảnh (Monde mental supérieur), nơi mà Thiên Chúa giáo gọi là Thiên đàng (Paradis), tiếng Phạn là "Devakan".

 Điều cần yếu nên biết là tất cả Nhơn hồn sau khi rời bỏ bốn thể, đều trở về cơi Tiên trong một thời gian lâu hay mau tùy theo duyên nghiệp của ḿnh, nhưng đó chưa phải là đắc quả Tiên.

 Đắc quả là những Nhơn hồn lúc ở thế biết tu hành theo chánh pháp mà được sáng suốt. Cho nên khi về cơi Tiên, th́ có linh cảm hiểu biết và hưởng được những điều khoái lạc thiêng liêng và những thanh phước của Tiên cảnh (*3) u nhàn xinh đẹp.

 Nhơn hồn của những bực chơn tu đắc Tiên vị, khi ĺa cơi phàm, th́ cổi luôn tất cả bốn thể một lượt; vượt khỏi cơi Thần và cơi Thánh mà lên thẳng cơi Tiên. Nhưng sau khi hưởng hết quả vị, nói một cách khác, sau khi măn hạn (*4), Nhơn hồn c̣n phải luân hồi lại nữa.

 Đến như Nhơn hồn, khi c̣n ở thế không biết tu hành, th́ lúc trở về Tiên cảnh, vẫn mờ mờ mịt mịt, không hiểu biết chi hết. Tại cơi thiêng liêng nầy, những Nhơn hồn ấy ở vào trạng thái vô vi vô giác (état inconscient). Có lẽ độc giả lấy làm lạ, sao lại Trung giới, Nhơn hồn ở vào trạng thái hữu giác (état conscient), mà khi đến Thượng giới nó lại vô tri vô giác.

 Điều đó cũng không khó hiểu. Lẽ thường, hai cái thái cực vốn bằng nhau, nhứt là hai cái thái cực về quang độ (degré de lumière). Nếu ánh sáng lu lờ, người ta chỉ thấy mờ mịt, như ở vào cơi u minh. Nếu ánh sáng có cái quang độ trung b́nh, người ta được thấy tỏ rơ, như ở vào cơi Thần, cơi Thánh.

 Đến như quang độ lên đến cực điểm, th́ ánh sáng chói ḷa, người ta bị chóa mắt như bị "nắng quáng đèn ḷa" mà không thấy chi hết, hoặc không thấy chi đặng rơ.

 Ấy vậy Nhơn hồn mê muội không tu ở vào cơi Tiên là cơi sáng ḷa, th́ chỉ mờ mờ mịt mịt trong trạng thái vô vi vô giác đó thôi.

 

******

 

 (*1) Có khi sợi từ khí khó bứt làm cho kẻ hấp hối phải nhiều đau đớn. Cho nên tôn giáo dùng kinh "độ hồn" đọc trong khi người bịnh sấp tắt hơi, là để giúp cho sợi từ khí nhờ sức rung động của những tiếng mầu nhiệm trong câu kinh mà được bứt ra dễ dàng. Người tu hành đầy đủ đạo đức th́ Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi từ khí ấy lại được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liểu trần một cách êm ái.

 (*2) Đó là "Nghiệt cảnh đài" (Psyché astrale) của nhà Phật.

 (*3) Điều nầy sẽ giải trong bài luận "Chơn Ngă".

 (*4) Nhơn hồn đắc Tiên vị hưởng quả mấy ngàn năm, hoặc mấy muôn năm, rồi phải luân hồi nữa, cho đến khi đắc Phật vị mới hoàn toàn giải thoát. 

   

                                                        
Nguyễn Trung Hậu

 

 

 

 

 

 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 459 of 2534: Đă gửi: 18 July 2008 lúc 9:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

MẮNG THẦN PHÁ MIỄU

 

 Về đời Hồng Đức nhà Lê, ở làng Trung An huyện Vĩnh Lại Hải Dương, có nhà nho sĩ Văn Định kết duyên cùng con quan thượng Nhữ Văn Lan. Tiểu thư họ Nhữ nhan sắc tuyệt vời thông minh xuất chúng, giỏi văn chương, tinh tướng số, kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi, thấy Văn Định có tướng sinh quư tử, mới nhận lời trao hôn.

 Hai người lấy nhau sinh được một con trai mặt mũi tinh anh, đặt tên là Bỉnh Khiêm, chưa đầy tuổi đă biết nói. Được mẹ dạy bảo, mới lên bốn tuổi Bỉnh Khiêm đă thông kinh truyện, học đến đâu thuộc ḷng đến đó, nhớ đọc một lúc mấy chục bài thơ nôm.

 Khi tóc c̣n để trái đào, một hôm Bỉnh Khiêm cùng bọn trẻ đi tắm bến Hàn, có kể thuật sĩ đi thuyền trông thấy nói rằng:

 - Cậu bé này có tướng làm vua, tiếc là da thịt dày quá, chỉ làm đến Trạng nguyên, Tể tướng là cùng!

 Mồ côi sớm Bỉnh Khiêm được một tay hiệp khách giang hồ tên là Lư Hưng Chi nhận làm con nuôi, rồi giao cho một người bạn trụ tŕ đem về dạy dỗ ở một ngôi chùa.

 Lớn lên Bỉnh Khiêm theo học ông Bảng nhỡn Lương Đắc Bằng ở Thanh Hóa. Lương tiên sinh hồi sang sứ nhà Minh, gặp một người cùng họ ngụ cư bên Tàu là Lương Nhữ Hốt có tặng cho quyển Thái Ất thần kinh, đem về học tập rất tinh lư số, tiên tri.

 Bỉnh Khiêm được thầy truyền lại phép thuật tinh vi, và khi sắp mất cụ Lương trao cho quyển kinh Thái Ất, tác phẩm của đạo sĩ Triệu Nga đời Tống, thế kỷ thứ X.
 Bấy giờ trong nước đang biến loạn, Bỉnh Khiêm bèn đi ở ẩn, lấy việc ngao du sơn thủy làm thú ở đời. Ông lên chơi chùa Bội Sơn, gặp lại nhà sư đă dạy dỗ ḿnh thuở bé đang cầm đầu đảng cướp Hồng Nhật. Các tham quan ô lại cũng như các nhà giàu độc ác đều bị đảng cướp này trừ diệt, lấy của để giúp cho người nghèo khó.

 Quan phủ Vương Liêu Thăng là kẻ sâu dân mọt nước bị Lư Hưng Chi ra tay hạ sát, triều đ́nh treo giải thưởng lớn cho ai lấy được đầu họ Lư.

 Bị tập nă ráo riết, Lư Hưng Chi t́m đường trốn sang Tàu, đem theo Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng vài bộ hạ tâm phúc. Vượt núi băng rừng nhiều ngày, đến giáp giới Trung Quốc, Lư Hưng Chi ghé lại trại một người bạn cũ, giữa một vùng núi non với hai ngàn thủ hạ.
 
 Chủ trại là Hoàng Mưu mất vợ sớm, có một người con gái đến tuổi lấy chồng, thấy Bỉnh Khiêm là người lỗi lạc, bèn ngỏ ư với Lư Hưng Chi muốn gả cho. Đính hôn sau, Lư Hưng Chi và Bỉnh Khiêm cùng đám tùy tùng nhờ Hoàng Mưu giúp vượt qua biên giới.

 Tiến vào nội địa Trung Hoa, giữa đường họ gặp một toán cướp lớn chặn đánh, chỉ có Lư Hưng Chi thoát được, c̣n Bỉnh Khiêm cùng đám người đi theo đều bị bắt. Tướng cướp là Lư Lăng Tử tra hỏi, thấy Bỉnh Khiêm là người thông thái, giỏi lư số, tiên tri, bèn giữ lại tôn làm quân sư.

 Trại ở trên một ngọn núi kỳ vĩ, chung quanh có nhiều dăy núi cao bao bọc như những thành lũy thiên nhiên. Bỉnh Khiêm miễn cưỡng phải ở lại đây, suốt ngày chỉ đọc sách ngâm thơ.

 Một hôm có một ông già ăn mặc nâu sồng, đeo khăn gói đỏ, tay chống gậy trúc lần ṃ đến cổng trại. Bị quân canh đuổi đi, ông già trở đi, trở lại đến lần thứ ba, nằn ń đ̣i xin gặp chủ trại. Bỉnh Khiêm đang đi dạo, trông thấy ông già cốt cách khác thường, gọi hỏi chuyện th́ ông ta nói:

 - Tôi là kẻ ngao du sơn thủy, đi đó đây khảo sát địa lư để t́m một nơi gửi nắm xương tàn, đến chốn này thấy có khí lạ, mới dừng bước lại.

 Rồi ông già ngắm Bỉnh Khiêm mà bảo rằng:

 - Tôi đoán ông không phải là người ở vùng này, mà chỉ là thượng khách của chủ trại. Nhưng chốn này sắp bị quân triều đ́nh đến đánh nay mai...

 Hỏi thêm ông già không nói, chỉ bảo rằng có biết lư số, thiên văn và đă mấy năm trời nay đi t́m một quyển sách để thông suốt quá khứ vị lai mà chưa được gặp. Bỉnh Khiêm ṭ ṃ hỏi:

 - Cụ bảo quyển sách ǵ mà thần diệu như thế ? Ông già đáp:

 - Đó là một quyển sách thần, có đủ những phép tắc dạy cho biết rơ việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Quyển sách này trước ở tay thầy dạy tôi, nay đă qua đời, tặng cho một người cùng ḍng họ làm sứ thần nước Việt, rồi nghe ông này trao lại cho một môn đệ.

 Đó là quyển kinh lấy tên là Thái Ất. Nhưng tôi biết chắc rằng vị sứ thần cũng như môn đệ của ông ta không thể nào dùng được quyển sách ấy, v́ trong đó toàn là những câu kinh kỳ bí, mà họ không có lời giải. Tôi th́ có lời giải mà không có quyển kinh Thái Ất.

 Bỉnh Khiêm hỏi tới:

 - Sao thầy dạy cụ lại chỉ truyền cho cụ biết lời giải mà không cho cụ quyển sách ?

 Ông già đáp:

 - Theo lệ cổ truyền th́ không ai có thể giữ nổi cuốn kinh này lâu đời được. Sứ thần Việt được cuốn kinh, nhưng không có phần giải. Khi thầy dạy tôi sắp mất, có trao phần giải cho tôi mà không dặn rơ là tôi phải mất công hai năm mới t́m ra cuốn kinh. Tôi tính đến hôm nay vừa đúng là hai năm.

 Bỉnh Khiêm vội đi lấy ở trong hành lư ra một cuốn sách bọc vải điều trao tận tay ông già. Vừa lật xem qua mấy trang, ông già không giấu được nỗi ngạc nhiên sung sướng, trang trọng đặt cuốn sách lên trước mặt rồi sụp lạy.

 Cả hai người mặc dầu tuổi tác cao thấp chênh lệch, làm lễ đồng môn với nhau, rồi bắt đầu trao đổi nghiên cứu kinh Thái Ất. Trong ṿng bảy hôm, họ đă thuộc ḷng cả cuốn kinh cùng những lời giải đáp, rồi vội vă chia tay, sợ xúc phạm đến thiên cơ, v́ cả hai đều thành tiên tri, thấu suốt cả quá khứ, hiện tại và tương lai.

 Ông già tức là Hoàng Thạch Lâm đi về phương bắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đi về phía nam. Trở về nước gặp lúc nhà Mạc đang ở ngôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi đỗ Trạng nguyên, được vua phong làm Đông các đại học sĩ.

 Làm quan tám năm ông dâng sớ xin chém đầu mười tám tên nịnh thần, vua Mạc không nghe, ông bèn cáo bệnh từ quan. Khi ông về trí sĩ, dựng nhà chơi mát ở làng gọi là am Bạch Vân, lại làm một cái quán ở bên sông Tuyết Giang dựng bia kư sự ḿnh.

 Lúc th́ bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc Hải, lúc th́ cùng vài nhà sư dạo chơi núi An Tử, núi Ngọc Vân và núi Đồ Sơn. Đi đến đâu đều làm thơ ngâm vịnh, gặp chỗ nào phong cảnh đẹp th́ dừng lại, thường ngày không để ư ǵ đến việc đời, sống nhàn tản theo chủ trương của Lăo, Trang.

 Triều Mạc vẫn quư trọng, lấy lễ sư phó đăi ông, hễ có việc ǵ th́ sai sứ t́m đến hỏi ư kiến hoặc mời về kinh để thương nghị các chính sự trọng yếu. Vua Mạc phong ông làm Thái phó Tŕnh Quốc công. Người đương thời gọi ông là Trạng Tŕnh.

 Học tṛ của Trạng Tŕnh tác thành rất nhiều, nổi danh có Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử.

 Lúc nhà Lê bắt đầu trung hưng, vua Mạc ngự giá đến nhà ông hỏi các kế công thủ, Trạng Tŕnh bảo rằng:

 - Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời.

 Sau bảy năm, nhà Mạc mất, lui về giữ đất Cao Bằng, quả nhiên truyền được ba đời, bảy mươi năm mới tuyệt.

 Khi vua Lê Trung Tông mất, không có con kế vị, bấy giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền, sai Phùng Khắc Khoan đến hỏi ư kiến ông, ông không nói ǵ, chỉ quay lại bảo người nhà rằng:

 - Năm nay mất mùa, nên t́m giống cũ mà gieo mạ.

 Phùng Khắc Khoan về nói lại, Trịnh Kiểm hiểu ư ông, t́m Lê Duy Bang là ḍng nhà Lê về, lập lên làm vua.

 Một lần Trịnh Tùng có ư chiếm ngôi vua, sai sứ đến hỏi ông, ông cũng không nói ǵ, chỉ đưa đi chơi trong một cái chùa trên núi, bảo tiểu rằng:

 - Giữ chùa thờ Phật th́ mới có oản ăn.

 Sứ giả về nói lạị Trịnh Tùng biết ư ông khuyên phải giữ đạo làm tôi, th́ mới được hưởng phúc, nên mới thôi manh tâm bội nghịch.

 Vào lúc Trịnh Kiểm có ư hại Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn lấy làm lo, mật sai người đi cầu ông bày cho kế lánh họa. Ông đang chống gậy chơi trong vườn cảnh, có mấy dăy đá xếp lại làm non bộ quanh co đến trước sân, có đàn kiến đương ḅ trên đá, ông đưa mắt nh́n theo đàn kiến mà nói rằng:

 - Một dảy núi Hoành Sơn kia có thể nương thân đến muôn đời.

 Người sứ về thưa lại, chúa Nguyễn mới quyết tâm xin vào trấn thủ trong xứ Thuận, Quảng miền Hoành Sơn, quả nhiên mỗi ngày một thịnh, dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn lâu dài.

 Trạng Tŕnh tinh về thuật số, đoán trước được nhiều việc đúng, c̣n để lại được một số sấm kư về sau, người ta truyền là rất ứng nghiệm.

 Trước khi mất, ông có viết một tờ chúc thư gửi cho viên tri huyện ở vùng ông đời sau, có câu:

 - Tôi cứu cho ông khỏi chết v́ sà nhà đổ, ông sẽ cứu cho cháu tôi đang nghèo khổ.

 Ông trao cho cháu bức thư này dặn đến ngày tháng ấy, giờ ấy mang đến đưa cho quan huyện, và nhớ gọi ra khỏi công đường mà trao. Quả nhiên đúng ngày giờ nói trên, viên tri huyện nghe có cháu ông Trạng Tŕnh đến kiếm bước ra tiếp, vừa đi khỏi th́ cột sà ngang lớn bị mọt đục găy rơi ngay chỗ ghế ngồi.

 Thoát chết, ông huyện nọ xem thư hết ḷng cảm phục, liền đưa cháu ông Trạng Tŕnh về nhà hết ḷng nuôi cho ăn học.

 Trạng Tŕnh c̣n để lại cho đời mấy trăm bài thơ nôm gọi là Bạch Vân Am thi tập, sống đến 95 tuổi mới mất. Những sấm kư của ông truyền lại, người đời sau đem các việc xảy ra để đối chiếu, giải thích cho đến gần đây, c̣n được chứng nhận là đúng.

 

                                                                   Sưu Tầm

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 460 of 2534: Đă gửi: 18 July 2008 lúc 11:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

PHÁT HIỆN HÓA THẠCH CỦA RỒNG

 

 Ai bảo rồng là loài vật hư cấu chỉ tồn tại trong truyền thuyết? Từ năm 1996, các nhà khảo cổ Trung Quốc đă t́m thấy bộ xương hóa thạch nguyên vẹn của một con rồng với hai sừng nhọn, lỗ mũi to và hếch y hệt mô tả trong truyện cổ dân gian.

 Di vật quư giá này được t́m thấy ở huyện tự trị dân tộc Miêu Quan Lĩnh, thuộc thành phố An Thuận, tỉnh Quư Châu vào năm 1996, cho đến nay vẫn giữ được dáng h́nh nguyên vẹn với tổng cộng 7,6 mét chiều dài, trong đó đầu dài 76 cm, cổ dài 54 cm, thân dài 2,7 mét và rộng 68 cm, khúc đuôi c̣n lại chiếm 3,7 mét.

 Đầu rồng gần giống h́nh trụ tam giác, riêng khóe miệng đă kéo dài đến 43 cm, phần rộng nhất có bề ngang 32 cm. Sừng nhọn nhô lên từ đỉnh đầu, mỗi chiếc dài 27 cm và rất cân xứng với nhau. Chúng hơi cong và hơi nghiêng, trông càng giống y chang những h́nh ảnh được mô tả trong truyền thuyết.

 Rồng Trung Quốc được coi là loài ḅ sát sống vào kỷ Tri-át cách đây khoảng 200 triệu năm. Là động vật lưỡng cư, chúng sống chủ yếu dưới nước và thỉnh thoảng mới ngoi lên bờ. Thức ăn của chúng là cá và các loài ḅ sát nhỏ.

 Đây là lần đầu tiên Trung Quốc t́m thấy rồng hóa thạch có bộ sừng. Phát hiện này là chứng cớ khoa học quan trọng giúp giới khảo cổ lần t́m nguồn gốc loài rồng, một loài vật tưởng chừng chỉ có trong những tác phẩm hư cấu.

 Hiện những mẫu hóa thạch này vẫn đang được trưng bày tại Viện bảo tàng đời sống hóa thạch cổ đại ở thành phố An Thuận tỉnh Quư Châu.

 

                                                                     ST

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.3320 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO