Tác giả |
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 501 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 7:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
Nói đến luân hồi, nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông không mấy người để ư đến. Từ đó cho ta thấy rằng, không khí trong không gian quan trọng đối với sức khoẻ sanh tử đời sống nhân sanh như thế nào, th́ luân hồi cũng tương quan mật thiết trọng yếu đối với kiếp sống thăng hoa hay đọa lạc của con người cũng như thế ấy. Chỉ khác ở chỗ là, không khí thuộc về thể khí mắt phàm và dụng cụ khoa học có thể thực nghiệm. C̣n tâm linh con người thuộc về tinh thần, quanh quẩn trong luân hồi nổi ch́m trong sáu nẻo, mắt phàm khó mà thấy biết.
Tuy nhiên những hiện tượng nhất là về tâm linh tinh thần mắt phàm không thể thấy biết và khoa học không thể chứng nghiệm mà bảo rằng không có luân hồi là nông nổi thiếu suy tư. Đối tượng của trí thức khoa học là chứng minh sự h́nh thành của vật thể. Đối tượng của tuệ giác Phật học là thuyết minh tận cùng chân lư của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lư của Phật học. Trước đây hơn 2500 năm, Đức Phật Thích Ca đă thuyết minh về đạo lư luân hồi nhân quả, ngày nay các nhà trí thức nhân loại mới bắt đầu vén màn huyền bí luân hồi.
Đối với vấn đề luân hồi, vào hạ bán thế kỷ 20, những nhà khoa học, triết học, tâm lư học v.v... đă nhiều năm để tâm cố gắng nghiên tầm thực nghiệm qua những hiện tượng và đă gặt hái được những thành quả đáng kể, điều đó được ghi nhận tŕnh bầy qua các bản báo cáo, sách báo bằng phương pháp khoa học thực nghiệm, làm cho vấn đề luân hồi trở nên sáng tỏ.
Để cống hiến cho những ai yêu thích t́m hiểu đời sống tâm linh sinh động thăng trầm chuyển hóa qua các dạng thức, Tỳ Kheo Thích Tâm Quang đă dầy công nghiên đọc các tác phẩm Âu Mỹ nổi tiếng thực nghiệm về luân hồi và dịch thành tập "Những Chuyện Luân Hồi Hiện Đại".
Nay xin giới thiệu đến độc giả bốn phương cùng thưởng thức.
Tỳ Kheo Thích Đức Niệm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 502 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 7:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
LỜI NGƯỜI DỊCH
Luân Hồi, Đạo Lư căn bản của Phật Giáo là một sự thực có thể chứng nghiệm được. Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo mang lại an lạc hạnh phúc cho con người nói riêng và công bằng xă hội cho nhân loại nói chung. Tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo là hướng thiện đi đến Chân, Thiện, Mỹ; ngược lại không tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo th́ tự ḿnh sẽ rơi vào hố sâu, vực thẳm, đau khổ triền miên.
Khi c̣n tại thế, Đức Phật đă nói: "Ngu Si là tối tăm nhất, không tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo là nguồn gốc sinh ra tội lỗi nhất."
Ngày nay có các quốc gia bất hạnh cầm đầu bởi những người không tin tưởng Luân Hồi, Nhân Quả, Nghiệp Báo đă gây ra bao tội lỗi và đưa dân tộc đến chỗ tối tăm, thoái hóa, đau khổ, tan ră.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ 20, các nước trên thế giới nhất là các nước Âu Mỹ văn minh tiền tiến, các Học Giả, các Khoa Học Gia, đă tiến sâu vào lănh vực nghiên cứu, điều tra, thực nghiệm vấn đề Luân Hồi.
Nhận thấy các Học Giả, Bác Học, các Giáo Sư như các Tiến Sĩ Y Khoa Ian Stevenson, Raymond A. Moody, các Tiến Sĩ Giáo Sư Robert Almeder, Hans Holzer, Sylvia Cranston, Carey Williams, H.N. Banerjee, John Van Auken, đă xuất bản các cuốn sách nổi tiếng về các chuyện luân hồi điển h́nh, trung thực đă được kiểm chứng nên chúng tôi mạo muội trích dịch một số các bài trong các cuốn sách để cống hiến cho độc giả bốn phương.
Dù đă hết sức cố gắng nhưng không khỏi có nhiều khiếm khuyết, vậy nên chúng tôi rất hoan hỷ đón nhận các ư kiến quư báu của các vị cao minh, độc giả bốn phương để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Cũng trong dịp nầy chúng tôi xin thành kính tri ân Chư Tôn Đức, Ḥa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng, Ni, đă khích lệ tinh thần và các Quư Đạo Hữu Viên Minh Phạm Đ́nh Khoát, Quảng Lâm Châu Ngọc Ṭng, Minh Hỷ Phan Duyệt, Quảng Hải Ngô Thanh Hùng, Diệu Chân Lương Thị Mai và Diệu Hỷ Nguyễn Cung Thị Hỷ đă góp phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam Bảo và nguyện cầu Hồng Ân Chư Phật thùy từ gia hộ Quư Vị cùng Bửu Quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 503 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 7:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
I. GIÁO SƯ SYLVIA CRANSTON VÀ CAREY WILLIAMS
Giáo Sư Sylvia Cranston là một chuyên gia khảo cứu về luân hồi từ 30 năm nay. Bà là tác giả của các cuốn sách nổi tiếng về luân hồi như An East-West Anthology, Reincarnation in World Thought, Phoenix Fire Mystery...
Bà đă từng đi diễn giảng tại Hoa Kỳ, Gia Nă Đại, Anh, Ái Nhĩ Lan và đă xuất hiện nhiều lần trên các đài vô tuyến truyền thanh truyền h́nh.
Giáo Sư Carey Williams, người Hoa Kỳ, chuyên dạy Y Tế, phụ trách nhiều lớp giảng dạy về sự sống chết của con người.
Chúng tôi xin trích dịch một vài chuyện trong cuốn Reincarnation, A New Horizon In Science, Religion and Society của hai tác giả do nhà Xuất Bản Julian Press, New York, phát hành năm 1984.
-2-
MỘT NGƯỜI NÔ LỆ DA ĐEN MÙ L̉A TRỞ THÀNH NHẠC SĨ LỪNG DANH
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams
Chú mù Tom sanh năm 1849 tại Georgia,Hoa Kỳ trong thời kỳ chế độ nô lệ c̣n đang mạnh mẽ. Là một người da đen, chào đời vào thời này, lại bị tàn tật ngay từ lúc mới sanh, thật là một bất hạnh!
Trong một tạp chí, Webb Garrison đă viết một bài với tựa đề "CHÚ MÙ TOM VÀ SỰ HUYỀN BÍ CỦA ÂM NHẠC". Ông đă ghi như sau:
"Hầu hết mọi nông dân tại Georgia trong một trăm năm qua đă đặc biệt chú ư đến việc thương mọi nô lệ. Trong đó có Perry H. Oliveer ở Quận Moscogee. Bởi thế khi người nô lệ da đen của ông sanh ra một đứa con trai mù th́ tự nhiên ông phải thất vọng vô cùng. Ít lâu sau trong một cuộc đấu giá nô lệ, ông đem bán người mẹ cho Tướng James Bethune ở Columbus, Georgia. Sau đó ông mới đem thằng nhỏ da đen bị mù ra khỏi nơi dấu và nói rằng: "Tôi quên không cho Ngài biết người đàn bà nô lệ này c̣n đứa con trai. Tôi đồng ư cho không đứa nhỏ này" (Theo Coronet, tháng 7 năm 1952 ). Người mẹ đáng thương cùng đứa con trai mù 1 tuổi đau ḷng từ bỏ căn nhà và bạn bè để về làm nô lệ cho người chủ mới xa lạ. Tướng James Bethune đặt tên cho đứa trẻ là Thomas Green Bethune, nhưng cả thế giới này chỉ biết Chú là "Chú Mù Tom". Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "My Antonia" bà Willa Cather đă thuật lại cuộc đời của Chú mà bà gọi là Người Mù Arnault.
Trong nhiều bài tường thuật về sự kỳ diệu này, bài có giá trị nhất là bài của Bà Ella May Thornton, Quản Thủ Thư Viện Georgia, 1 Quản Thủ được xếp vào hàng danh dự của các Tiểu Bang. Đó là Bài "Sự Huyền Bí Của Chú Mù Tom" của Bà đăng trong tập "The Georgia Review" xuất bản mùa đông năm 1961. Sau đây là một đoạn:
"Lúc Tom c̣n nhỏ đang phải bồng trên tay th́ Tom đă tỏ ra rất nhậy cảm trong bất cứ một tiếng động nào và đặc biệt về âm nhạc. Tất cả những người trong gịng họ Tướng James Bethune lúc bấy giờ phần đông đều thông minh, học thức và giàu ḷng từ thiện đều công nhận tài năng khác thường của đứa bộ da đen này.
Khả năng kỳ diệu về âm nhạc được khám phá khi chú Tom mới lên 3 tuổi. Vào một buổi chiều trên thềm ngôi biệt thú, th́nh ĺnh giọng của Chú vang lên ḥa ca với giọng hát của các ái nữ Tướng Bethune. Không những Chú đă ca phần êm dịu ở phần đầu bản nhạc nhưng phần thứ hai mới là khó hát nhất... Thế mà Chú đă trọn vẹn hát hết bản nhạc một cách tài t́nh không gượng gạo.
Cuộc tŕnh diễn bất ngờ lần sau vào năm Chú lên 4 tuổi, cũng vào một buổi chiều các thiếu phụ trẻ tuổi sau khi đă chơi dương cầm mấy tiếng đồng hồ tản mác quanh biệt thự. Bỗng nhiên họ được nghe lại những bản nhạc mà họ đă chơi từ lúc đầu. Mọi người vội vă trở về pḥng khách, họ sửng sốt thấy một chú Mọi đen nhỏ xíu đang say sưa dạo nhạc trên đàn dương cầm với những bản mà chú vừa được nghe.
Trước đây không một ai trong gia đ́nh Tướng Bethune cho phép Chú Tom được chạm vào cây đàn. Ella May Thornton c̣n nhấn mạnh thêm: "Một đứa trẻ nô lệ mà đánh đàn dương cầm th́ làm sao có thể dấu nổi một gia đ́nh đông đúc như gia đ́nh Tướng Bethune!".
Tạp chí Nghiên Cứu về âm nhạc xuất bản Tháng 8 năm 1940 đă ghi nhận như sau: Ngay khi bắt đầu chơi dương cầm, Chú đă biết sử dụng các phím đàn trắng và đen, Như vậy chứng tỏ Chú đă từng hiểu biết về dương cầm của âm nhạc Tây Phương. Các phím đàn dương cầm sắp xếp không như nốt thường mà do óc sáng chế kỳ diệu cuả một người có biệt tài về âm thanh. Thật khó sử dụng đối với một đứa bộ bị mù và chưa từng được ai chỉ dẫn huấn luyện. Bà Thornton nhấn mạnh: "Chú có thể chơi các bản nhạc cổ điển nổi tiếng một cách thành thạo, khác hẳn những người chơi đàn 'bằng tai' thường thấy. Chú Tom đă dùng các ngón tay ḿnh một cách rất chính xác nhà nghề. Cho nên năm 1862, một chuyên viên điêu luyện về âm nhạc nói là Chú Tom chơi đàn giỏi được như vậy, chắc chắn phải được học ở 'Nhà Trường'". Mặc dù thần kinh Chú Tom hoàn toàn bị giới hạn nhưng nếu cho Chú vào học tại các Trung Tâm dành cho các trẻ em chậm phát triển th́ thật sai lầm. Chú Tom có một bộ óc điện tử có thể ghi và tŕnh tấu lại các bản nhạc dù mới chỉ nghe có một lần. Với khả năng siêu việt Chú có thể lập lại chính xác một bản nhạc mới dài 20 trang. Ngoài ra Chú Tom c̣n có khả năng sáng tạo nữa. Bà Thornton nhớ lại "Thời bấy giờ ở Columbus, Georgia có rất nhiều giáo sư âm nhạc; trong đó có giáo sư Carlo Patti, anh của Bà Adelina. Tướng Bethune đă nhờ Giáo Sư Patti chỉ dạy thêm nhạc cho Chú Tom. Chính Giáo Sư là người đă từng dậy nhạc cho các ái nữ của Tướng Bethune, nhưng ông từ chối và nói như sau: "Tôi không thể chấp nhận lời yêu cầu, Thế giới chưa bao giờ thấy được một sự lạ như thế ở một người da đen, và từ xưa tới nay chưa từng thấy một hiện tượng nào như thế. Tôi không thể dạy cho Chú thêm một chút ǵ nữa, tầm hiểu biết của Chú về âm nhạc c̣n hơn cả chính tôi đă biết và đă học - trường hợp thần đồng này quả là một ngoại lệ và sự việc này đă biến thành một hiện tượng hữu h́nh. Tôi không thể hiểu nổi. Tất cả những ǵ tôi có thể giúp Chú ấy là cho Chú ấy nghe những bản nhạc hay và chính Chú ấy sẽ tự ghi lại và tự tấu được không cần sự hướng dẫn hay chỉ bảo của tôi."
Vào lúc 8 tuổi Chú bắt đầu tŕnh diễn các bản ḥa tấu trước công chúng. Lúc 12 tuổi, trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc, Chú Tom tŕnh diễn tại Nữu Ước trong một cuộc ḥa tấu ngày 19 Tháng Giêng năm 1861. Trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc này, Chú đă tŕnh diễn rất nhiều lần tại các thành phố sau chiến tuyến của cả hai phe bảo thủ và thống nhất. Ḥng ngàn binh sĩ cả hai phe lâm chiến đă được dự thính nghe Chú tŕnh diễn. Một số khán giả này đă tường thuật lại một cách thích thú và trung thực về tài năng của Chú trong các Nhật Kư, Tùy Bút, Phỏng Vấn xuất bản trên các báo chí sau đó. Năm 1866 và năm 1867, Chú đă đi tŕnh diễn tại các Quần Đảo thuộc Anh Cát Lợi, tại Lục Địa và trên khắp nước Mỹ. Chú đă tŕnh diễn tại Ṭa Bạch Ốc và chính Chú điều khiển buổi tŕnh diễn này.
Chú Tom không bị giới hạn về một loại nhạc nào cả, Chú có thể tŕnh diễn Nhạc Khúc của Beethoven, Mendelsohn, Bach và Chopin và cũng có thể chơi các bản nhạc bất luận về loại ǵ.
Nguồn cảm hứng đến với Chú trong lúc Chú ngồi dạo dương cầm khiến cho Chú sáng tác được những bài ngẫu hứng cùng những bản trường ca bất hũ có tới cả ngh́n bản. Các sáng tạc với âm điệu tuyệt vời cùng những lời nhạc rất hay có thể nói lên Chú Tom đă nắm được trọn vẹn khoa học và kỹ thuật về âm điệu nhạc lư. Chỉ có thể cho rằng tất cả các yếu tố tạo thành sức mạnh âm nhạc đó đă có sẵn trong con người Chú Tom.
Ella May Thornton đă kết thực bài tham cứu bằng một câu hỏi: "Một câu được đặt ra để hỏi các Nhà Tâm Lư Học, các Nhà Vật Lư Học, các Nhà Khoa Học cùng các Chuyên Gia về Âm Nhạc có thẩm quyền có thể giải thích về trường hợp này của Chú Tom không? Sau một thời gian nghiên cứu tôi đă không t́m được câu trả lời. Chỉ có thể giải thích được đó là Luân Hồi và người ta đă kết luận rằng ở một thời điểm nào đó, ở một nơi nào đó, ở một kiếp nào đó Chú Tom đă là một nhà nhạc sĩ siêu đẳng."
Sự hiện diện của Chú Mù Tom ở Âu Mỹ đă có một ư nghĩa đặc biệt. Trong giai đoạn cuối cùng của chế độ mọi nô người da đen tại Hoa Kỳ, Chú Mù Tom đă chứng tỏ cho hàng triệu khán thính giả trên thế giới biết rằng một người nghèo, bị khinh rẻ, bị coi là chậm tiến, một người da đen thất học đă làm nên sự nghiệp vĩ đại mà không một người da trắng nào dù tài giỏi đến mấy nữa cũng không làm được. Phải chăng tài năng này Chú đă có từ kiếp trước? Cho nên các giáo sư đă t́m được sự giải thích, đó là Luân Hồi. Tương tự như thế trường hợp của Bà Sơ Teresa, một Tu Sĩ Ky-Tô-Giáo, Giáo Sư Mỹ Thuật tại Chủng Viện Brooklyn, có mặt trong một buổi thuyết tŕnh về luân hồi của Hội Thanalogy Foundation tại Đại Học Đường Columbia, được hỏi bởi một học sinh rằng có phải những nét vẽ điêu luyện của Sơ là do sự huấn luyện và thực hành sau nhiều năm kinh nghiệm mà có phải không? Sơ Teresa đă xác nhận là do tiền kiếp của Sơ mà có.
Trong những chuyện luân hồi do Tiến Sĩ Ian Stevenson điều tra đă chứng minh được có luân hồi nên con người đă có những khả năng đặc biệt, điều mà những khả năng đến với con người từ lúc nào và phát triển từ bao giờ chúng ta không phát hiện được. Ian Stevenson đă nêu lên thí dụ: "Trong hiện kiếp chúng ta biết đi đứng nhưng không ai có thể nhớ lại chúng ta đả biết tự lúc nào. Con người tuy không nhớ được những ǵ ở tiền kiếp song những tài năng và những cá tính đặc biệt ở kiếp trước đă là các chất liệu cho chúng ta trong kiếp này."
-3-
BÀ SHAKUNTALA DEVI, MỘT NHÀ TOÁN HỌC ĐẠI TÀI
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams
Bà Shakuntala Devi, Nhà Toán Học Thần Đồng này đă được cả Quốc Tế công nhận và biết đến. Bà là người sanh trưởng tại Ấn Độ. Bà đă du hành qua nhiều nước trên thế giới và đă làm cho các nhà toán học sửng sốt ngỡ ngủng với tài năng xuất chúng của Bà.
Bà đă t́m được đáp số của các bài toán c̣n nhanh hơn cái máy điện tử tối tân nhất. Trong chuyến du hành sang nước Mỹ năm 1977, tài nghệ siêu việt của Bà đă được các báo chí ca ngợi. Bà đă được US National Standard trao giải thưởng Univac 1108 v́ tính được 23 căn số của 201 con số trong 50 giây. Tên Bà đă được ghi trong cuốn Guiness Book of World Records (Cuốn Sách Ghi các Thành Tích Kỷ Lục Trên Thế Giới). Bà có thể tính nhanh hơn máy điện tử mà không phải chuẩn bị trước. Muốn được như Bà, máy điện tử cần phải có 13,466 chỉ dẫn và 4,883 dữ kiện. Nếu nói là may mắn, theo máy điện tử th́ kết quả sự may mắn đó là 1 trong 598 triệu lần.
Tài năng của Bà đă được khám phá khi Bà mới lên 3 tuổi. Lúc ấy cha mẹ Bà thấy Bà có tài năng kỳ lạ về những con số nên đă đem Bà đến Học Viện Địa Phương để t́m hiểu. Trước mặt các vị Giáo Sư của Đại Học Đường Bengalore, Bà đă chứng tỏ tài năng phi thường qua những đáp số về Logarithms (Đối Số) về căn số của con số phức tạp và về tổng số chỉ trong ít phút. Tên tuổi của Bà đả trở nên lừng lẫy. Học vấn của Bà chỉ ở mức trung b́nh nhưng Bà cho biết: "Tôi rất thích các con số và say mê các con số, mọi sự trên đời dù là nghệ thuật, khoa học hay triết lư, tất cả đều căn cứ trên những con số". Khi c̣n nhỏ tuổi, tài năng phi thường của Bà được coi như thiên phú và Bà cứ tưởng rằng tất cả mọi người đều giống như Bà nghĩa là cũng có tài như Bà về toán học và Bà đă ngạc nhiên vô cùng khi thấy sự thực không phải như vậy.
Người ta đặt câu hỏi: Bà du lịch ṿng quanh thế giới để phô trương tài năng của Bà mục đích để kiếm tiền phải không? Không phải như vậy.
Ngày 3 Tháng 1 Năm 1974, tờ báo Ottawa Citizen phỏng vấn Bà với tựa đề: "NGƯỜI ĐÀN BÀ TÍNH TOÁN GIỎI BẬC NHẤT TRÊN THẾ GIỚI". Bà nói: "Tôi tin rằng những thành tích của loài người là quan trọng nhất, điều đó chứng tỏ con người vẫn c̣n siêu việt hơn máy móc. Thế giới c̣n chưa hiểu hết được khả năng của trí tuệ con người, nó vô cùng tận, tôi đă chứng tỏ cái khả năng ấy".
Trong một cuộc phỏng vấn khác trên Đài Vô Tuyến Truyền H́nh tại Ottawa của chương tŕnh "This Day" (Ngày Nay) để trả lời câu hỏi tại sao Bà lại có tài năng đặc biệt đó, Bà cho biết người Ấn Độ giải thích là bởi sự "LUÂN HỒI", kiếp trước Bà ở Ai Cập. Điều không thể chối căi là đă có rất nhiều các nhà toán học kỳ tài trên đất nước của các vị Pharaohs (Những nhà Vua nổi tiếng Ai Cập). Kim Tự Tháp Cheops (Một kỳ quan trên thế giới) với lối kiến trúc hoàn toàn dựa trên căn bản toán học phức tạp đến nỗi các điều tra viên, 1 thế kỷ qua đă cố nặn óc mà vẫn chưa t́m được hết mọi bí ẩn.
-4-
CÔ BÉ BLANCHE BATTISTA
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams
Câu chuyện Luân Hồi này do Bác Sĩ người Anh Raynor Johnson điều tra và chính Bác Sĩ Johnson đă giới thiệu gia đ́nh Battista với Mục Sư Tiến Sĩ Leslie Weatherhead, Cựu Chủ Tịch Hội Methodist Conference Anh tại Melbourne, Úc Đại Lợi. Tiến Sĩ Weatherhead đă kể lại trong một bài thuyết giảng về đề tài: "Một Trường Hợp Luân Hồi".
Đại Úy Battista và vợ, đều là người Ư có sanh một người con gái tại La Mă và đặt tên là Blanche. Đại Úy Battista có mướn một người vú em Thụy Sĩ nói tiếng Pháp tên Marie để trông nom Bé Blanche. Marie thỉnh thoảng dạy bộ Blanche bài hát ru con bằng tiếng Pháp. Bé Blanche rất thích bài này thường hát đi hát lại mỗi ngày nên thuộc ḷng. Chẳng may Bé Blanche bị chết nên Marie phải trở về Thụy Sĩ.
Đại Úy Battista viết: "Tiếng hát Ru con từ nay đă im bặt trong gia đ́nh nhưng âm vang của nó vẫn nhắc nhỡ chúng tôi nỗi đau buồn về cái chết của đứa con nên chúng tôi cố tránh không nghĩ đến các kỷ niệm."
Bé Blanche chết được 3 năm, người mẹ, Bà Signora Battista mang thai. Lúc thai được 4 tháng, Bà đă thấy một giấc mơ lạ lùng trong lúc nửa tỉnh nửa mê, Bà cả quyết thấy rơ ràng Bé Blanche hiện ra và nói với Bà bằng giọng quen thuộc như hồi nào: "Mẹ ơi con sẽ trở về với mẹ". Rồi Bé Blanche biến mất. Đại Úy Battista hoài nghi, nhưng đến tháng 2 năm 1906, vợ ông sanh một bộ gái và ông cũng đặt tên cho đứa con gái này là Blanche. Đứa con mới sanh giống hệt như đứa con gái trước.
Chín năm sau cái chết của đứa con gái đầu, khi đứa thứ hai được 6 tuổi th́ một việc bất ngờ đă xảy đến. Đây là lời của ông:"Trong khi tôi và vợ tôi đang ở trong pḥng đọc sách kế cận pḥng ngủ th́ cả hai chúng tôi đều nghe thấy giọng hát ru con bằng tiếng Pháp vẳng ra từ pḥng ngủ của đứa con gái chúng tôi đang ngủ. Lấy làm lạ chúng tôi liền vào xem th́ thấy con gái chúng tôi đang ngồi trên giường và hát bài ru con với một giọng Pháp rất tự nhiên. Bài hát này chưa được ai trong chúng tôi dạy cho con gái cả. Vợ tôi hỏi con đang ca bài ǵ đó th́ nó trả lời đang ca bài hát bằng tiếng Pháp. Tôi liền hỏi: "Ai dạy con bài hát hay vậy?" Nó đă trả lời: "Không ai dạy con cả, bài hát này đă có sẵn trong đầu óc của con".
Blanche, người con gái Ư Đại Lợi, khi luân hồi đă báo cho mẹ biết là sẽ trở lại và Blanche hăy c̣n nhớ bài hát bằng tiếng Pháp mà trước Blanche đă được Marie, người trông nom em dạy em ở tiền kiếp.
-5-
"LÀ MỘT QUÂN NHÂN, TÔI CHIẾM CỬA THÀNH"
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams
Câu chuyện sau đây được giải thưởng hạng nhất trong một cuộc thi toàn quốc với chủ đề: "Một sự trùng hợp lạ lùng mà tôi biết".
Cuộc thi này do Tạp Chí "The American Magazine" tổ chức và câu chuyện được đăng trong Tháng Bảy Năm 1915. Dù chỉ là một sự trùng hợp hay một sự ǵ khác nữa, độc giả có thể tự ḿnh phán xét lấy. Người kể lại chuyện này là một thiếu phụ tại Minneapolis.Nội dung của câu chuyện ngắn có thực này rất đơn giản nhưng rất giá trị v́ được ghi lại trung thực từ nhiều năm qua, tài liệu lịch sử hiện c̣n lưu trữ là những bút tích hiện hữu đă chứng minh cụ thể.
Người đàn bà đáng tin cậy nhất kể lại câu chuyện ấy như sau:"Anne, cô em gái cùng mẹ khác cha của tôi nhỏ hơn tôi 15 tuổi là một đứa bộ kỳ quặc ngay từ tấm bộ. Nó không giống một ai trong gia đ́nh, da nó ngăm ngăm trong khi mọi người khác đều trắng trẻo ḍng dơi thừa hưởng Tô Cách Lan - Ái Nhĩ Lan của cha ông.
"Ngay khi biết nói rành rẽ, nó thường kể những câu chuyện hoang đường về nó. V́ thấy khá ngộ nghĩnh, tôi đă dùng bút chờ ghi lại những điều nó nói trong nhật kư của tôi. Tôi có bổn phận phải trông nom nó - mẹ tôi rất bận rộn - và tôi rất hănh diện về bà. Ở một đứa trẻ như nó không thể nào có được những câu chuyện hoang đường, với lại cái trí óc non nớt của nó làm sao có thể hiểu được những việc đại loại như thế.
Điều đáng nói nữa là tất cả mọi việc nó làm đều như một thói quen; nó chẳng bao giờ giải thích là tại sao nó lại làm như vậy. Nếu bạn nh́n cách thức nó cầm ly sửa lên và uống một hơi cạn ly sửa th́ bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên và bật cười v́ nó mới có 3 tuổi đầu.
Những việc như thế làm mẹ tôi khó chịu và bà thường quở trách nó. Là một đứa trẻ ngoan, cố gắng vâng lời, nhưng rồi sau đó lại đâu vào đó.
"Mẹ à! Con không thể làm hơn thế được, từ trước đến nay con vẫn làm như vậy mà". Nó nói với mẹ tôi bằng giọng trẻ thơ pha nước mắt.
Qúa nhiều việc xảy ra do thói quen về cách ăn nói, cách suy nghĩ và cách hành động của nó nên cuối cùng chúng tôi không để ư đến nữa và cho nó là một đứa trẻ hoàn toàn khác hẳn những đứa đồng tuổi.
Năm nó lên 4 tuổi một hôm cha tôi làm nó phẫn uất điều ǵ đó, nó tức ḿnh ngồi ngay dưới đất trước mặt chúng tôi và bảo rằng nó có ư định đi xa." -Trở về thiên đường, nơi con từ đó đến đây hả?" Cha tôi châm biếm hỏi. Nó lắc đầu"-Con không đến với Cha từ thiên đường". Nó b́nh thản xác nhận. Thái độ này vẫn thường thấy ở nó." -Trước tiên con sẽ lên mặt trăng - Cha có biết ǵ về mặt trăng không? Trên đó cũng có người nhưng muốn lên rất khó".
Đó là một dự định hoang đường, tôi lấy bút ghi vào nhật kư.
Cha tôi tiếp: "-Vậy ra con từ mặt trăng đến với chúng ta à?
"-Ồ! Không phải " Nó trả lời cha tôi với một thái độ điềm tĩnh.- Con đă ở đấy nhiều lần, có khi là đàn ông, có khi là đàn bà.
Vẻ b́nh thản của nó khiến cha tôi bật cười làm nó tức giận. Nó không thích bị diễu cợt."-Đúng vậy, đúng vậy." Nó phản đối ngay:"Một lần con đă đến Gia Nă Đại lúc đó con là đàn ông, ngay cả tên con con c̣n nhớ nữa mà".
Cha tôi chế nhạo:"- Ái Chà! Ái Chà! Một đứa con gái nhỏ tại Hoa Kỳ lại là một người đàn ông Gia Nă Đại Thế con c̣n nhớ tên là ǵ?" Nó suy nghĩ một chút rồi trả lời:
- "Lishus Faber", Nó nhắc lại và cả quyết đúng là tên Lishus Faber. Nó nói rơ rành rẽ nên tôi đă ghi lại trong nhật kư của tôi cái tên "Lishus Faber"."-Này Lishus Faber, thời đó anh làm nghề ǵ? Cha tôi vẫn hỏi nó với điệu bộ diễu cợt."- Con là quân nhân và con đă chiếm được cửa thành". Nó trả lời cha tôi một cách cao ngạo của một người thắng trận.
Tất cả đều đă được tôi ghi vào nhật kư. Đă rất nhiều lần, chúng tôi cố gắng hỏi nó giải nghĩa thêm các câu nói của nó nhưng nó một mực chỉ nhắc lại câu trên và tỏ vẻ tức giận v́ chúng tôi đă không hiểu. Trí tưởng tượng của nó ngừng lại khi nói đến giải nghĩa. Dù chúng tôi sống trong một cộng đồng có kiến thức và t́m mọi cách để t́m hiểu câu chuyện như một người t́m hiểu câu chuyện có liên quan đến những đến những đứa con yêu quư của ḿnh nhưng không một ai có thể ức đoán được.
Vài người khuyến khích tôi cố gắng đi xa hơn nữa và tôi đă bỏ một năm để nghiên cứu lịch sử Gia Nă Đại với hy vọng t́m thấy một trận chiến nào đó có người "chiếm được cửa thành". Tất cả đều vô vọng. Cuối cùng tôi được một quản thủ thư viện giới thiệu với tôi một cuốn tài liệu, một cuốn sách dầy cũ và rất ngộ nghĩnh với chữ s's viết giống như f's. Đă một năm qua tôi không c̣n hy vọng ǵ t́m hiểu được. Thế mà một cuốn sách cổ xưa sống động v́ có nhiều h́nh vẽ với nhiều truyện ngắn đă giúp tôi t́m thấy câu chuyện thật bất ngờ.
Câu chuyện nói về thành tích chiến đấu của một đội quân nhỏ, chiếm đánh một thành phố cũng không có ǵ quan trọng. Một viên Trung Úy trẻ với toán quân của ông - với gịng chữ hiện ra trước mắt tôi - "Chiếm Cửa Thành"; Viên Trung Úy này tên là "Aloysius Le Febre" (Trùng hợp với tên và câu nói của đứa em nhỏ ngây thơ của tôi đă nói trước đây với cha tôi! ).
Về việc em gái tôi cho rằng con người đă có lần sống trên mặt trăng thật là kỳ lạ, tuy nhiên theo quan điểm của các nhà thông thiên học, sự việc rất có thể v́ mặt trăng trước đây là một hành tinh có người sanh sống và là nơi ở xa xưa của chúng ta. Điều đáng quan tâm là giờ đây người ta đă khám phá ra những viên đá do các phi hành gia mang về từ mặt trăng đều đă có lâu đời hơn các viên đá hiện tại trên trái đất.
-6-
CÓ PHẢI VỊ BÁC SĨ TÂM LƯ NGƯỜI HOA KỲ ĐĂ SỐNG Ở THẾ KỶ THỨ 17 TẠI ÂU CHÂU KHÔNG?
Tác giả: Sylvia Cranston và Carey Williams
Không phải chuyện b́nh thường khi một nhà tâm lư học viết khảo luận, nhất là cuốn sách đó nói về luân hồi. Và nhất định một câu chuyện như vậy phải được nghiên cứu kỹ lưỡng - nếu không cũng là chính kinh nghiệm bản thân của tác giả về tiền kiếp, khiến cho tác giả mạnh dạn viết thành sách. Nhà Tâm Lư Học này là Bác Sĩ Tâm Lư Frederic F. Flach; ông là giáo sư chuyên khoa tâm lư của Đại Học Y Khoa Nữu Ước và cũng là Bác Sĩ Tâm Lư của Dưỡng Đường Payne Whitney ở Bệnh Viện Nữu Uớc. Ông có pḥng mạch riêng rất đông khách. Cuốn sách của Bác Sĩ Flach có tựa đề "Fridericus" được xuất bản vào năm 1980.
Đầu tiên Bác Sĩ Flach chú ư đến luân hồi trong lúc khảo cứu đề tài "Sức Mạnh Kỳ Bí Của Phiền Muộn". Thật là hy hữu - một đồng sự của ông đă khám phá ra bản luận án số 1620 bằng tiếng La Tinh của một Bác Sĩ người Thụy Sĩ cùng tên Frederich F. Flacht nghiên cứu một đề tài như ông. Lúc đó ông cho chỉ là một sự trùng hợp lạ lùng nhưng ông không khỏi không nghĩ phải chăng vị Bác Sĩ Thụy Sĩ kia chính là ông thời nay.
Sau khi phát hành cuốn sách Fridericus, Bác Sĩ Flach đă kể với phóng viên ông tin tưởng mănh liệt chính ông là Bác Sĩ Fridericus.
Vị Bác Sĩ Thụy Sĩ ở tại Basel " là một Bác Sĩ chuyên về tâm lư giống như tôi hành nghề này rất hiếm ở thời ấy. Có một sự trùng hợp lạ lùng giữa những điều vị Bác Sĩ Thụy Sĩ viết và điều tôi nghiên cứu". Ông nói: "C̣n một sự trùng hợp khác nữa là miền Âu Châu mà Fridericus tới,những thành phố mà Fridericus đi qua trong đời cũng chính là những nơi mà gia đ́nh tôi đă sống. Gia đ́nh tôi một phần gốc ở gần Zurich. Có một thị xă mang tên Flach. Một phần khác ở ngay phía Bắc biên giới, tức là phía nam của Đức Quốc bây giờ. Một phần khác nữa th́ từ Strasbourg đến. Nếu bạn khoanh tràn khu vực đó th́ thấy đúng là Bác Sĩ Thụy Sĩ đă đến từ vùng đó.Ông là một Bác Sĩ hành nghề tại Thị Xă Worms ngay phía bắc Strasbourg, và ở tại Basel, Heidelberg và Mulhouse. Lại nữa ông lấy vợ hai lần. Tôi cũng lấy hai lần vợ. Ông ta có ba người con, tôi cũng có ba con.Năm 1977, Bác Sĩ Flach đi Âu Châu để t́m hiểu thêm về Fridericus (Bác Sĩ Thụy Sĩ). Bác Sĩ Flach nói:"Mục đích chính của tôi là t́m mọi dấu vết của Fridericus. Tôi đă đến Basel, Worms, Heidelberg,Strasbourg và Mulhouse.Tôi muốn biết cảm nghĩ của tôi khi đến các vùng này. Tại Basel tôi cảm thấy rất quen thuộc - một cảm giác ấm cúng như được về nhà."
Cuốn sách "Fridericus" được viết theo quan điểm của một Bác Sĩ Tâm Lư được huấn luyện kỹ càng, có nhiều kinh nghiệm. Và thật là thích thú khi theo dơi các lập luận để giải quyết vấn đề chính được nêu lên bởi bốn chuyên gia khác nhau. Trong đó đa số cuộc đối thoại xoay quanh vấn đề có hay không có luân hồi.
Trường hợp của Bác Sĩ Flach không có nhiều chi tiết không là một trường hợp đặc biệt nhưng cũng là dấu hiệu đáng quan tâm trong hiện đại. Điều chắc chắn là 50 năm về trước đây không một nhà tâm lư nào lại dám đề cập đến vấn đề (Luân Hồi) như vậy.
-7-
MỘT TRƯỜNG HỢP KỲ LẠ TẠI LEBANON
Tác Giả: Sylvia Cranston và Carey Williams
Vào năm 1962 khi Tiến Sĩ Stevenson đến Ba Tây để điều tra một vụ luân hồi gặp một người di cư gốc Lebanon cho Tiến Sĩ biết rằng ở làng anh ta, làng Kormayel có rất nhiều trường hợp tái sanh. Anh ta có viết thư giới thiệu Tiến Sĩ với người anh họ của anh ta hiện c̣n đang sống ở đó, nhưng mọi đến 2 năm sau Tiến Sĩ mới đến thăm được. Vào thượng tuần tháng 3 năm 1964, Tiến Sĩ Stevenson, không báo truớc đă tự đến nơi đó và được biết người mà Tiến Sĩ Stevenson muốn gặp đă đi Beirut để tránh mùa đông lạnh lẽo của miền quê hương rừng núi này.
Dân làng Kormayel biết được nhiệm vụ của Tiến Sĩ Stevenson đă báo cho Tiến Sĩ biết có một em bộ 5 tuổi tên Imad Elawar đă luôn luôn nhắc về tiền kiếp của em từ khi một tuổi. Đối với dân bản xứ, việc này không xa lạ v́ có nhiều trường hợp tương tự. Trên thực tế Tiến Sĩ Stevenson thấy dân nơi đây không theo Hồi Giáo mà theo đạo Druse và tỷ lệ luân hồi tại đây được coi như cao nhất thế giới. Hai trăm ngàn người Druse phần lớn sống tại Lebanon, Syria, miền Bắc Do Thái và Jordan. C̣n một thiểu số di cư sang Hoa Kỳ và Ba Tây.
Tiến Sĩ Stevenson đă t́m được người cha em Imad và ông này lại chính là người anh họ với người bạn của ông tại Ba Tây. Câu chuyện trở nên hấp dẫn và có giá trị đặc biệt v́ ông có thể điều tra trước hai gia đ́nh liên hệ về cả quá khứ lẫn hiện tại để biết rơ sự tồn tại của mỗi gia đ́nh. Vén đươc màn bí mật ông có thể quan sát em nhỏ ngay tại nhà về tính t́nh của em và cũng về việc lần đầu em gặp lại những người thân tiền kiếp của em. Sau hết trước khi đi kiếm những người này, Tiến Sĩ Stevenson đă ghi 50 dữ kiện mà em Imad đă nhớ được.
Bây giờ bắt đầu vào chuyện.
Imad sanh ngày 21 tháng 12 năm 1958, khi bắt đầu biết nói th́ lời nói đầu tiên của em là những tên Jamileh và Mahmoud. Khi biết nói trôi chảy rồi th́ em tiết lộ nhiều chuyện ở kiếp trước, tên những người mà em biết, tài sản mà em có và vài biến chuyển có xảy ra trong đời em. Em kể lại em là người của gia đ́nh Bouhamzy sống ở làng Khriby cách làng Kormayel một con đường núi khúc khuỷu dài 25 dậm. Trong gia đ́nh hiện thời của em chỉ có cha em là người đă đến Khriby để dự tang lễ của một người Druse nổi tiếng.
Imad đă nói về những người mà em nêu tên và lớn tiếng hỏi họ sống với nhau ra sao. Trong giấc ngủ em cũng nói như vậy. Cả thảy có 14 tên em nhắc đến. Người được nhắc nhiều nhất là Jamileh, một phụ nữ đẹp mà em say sưa so sánh với người mẹ kém hấp dẫn hiện tại. Em nói Jamileh mặc bộ quần áo mầu đỏ do em mua tặng và mang giầy cao gót - loại giầy mà ngày nay các phụ nữ trong làng cũng ít dùng. Mẹ của Imad cho biết khi lên 3 tuổi em có nói em muốn cao bằng Jamileh và một hôm nằm trên giường với mẹ em đă yêu cầu mẹ hăy cư xử như Jamileh.
Em c̣n nhớ thời tiền kiếp em thích đi săn em có một cây súng hai nàng. Để mô tả cây súng có hai nàng em dùng hai ngón tay chập lại với nhau. Về tài sản em có một căn nhà, một xe hơi nhỏ mầu vàng, một chiếc xe buưt và một chiếc xe vận tải chở đá.
Về những chuyện ở kiếp trước em nhớ một lần em có đánh một con chó. Nhưng chuyện làm em khổ tâm nhất là một tai nạn xe cộ nghiêm trọng đă xảy ra. Một chiếc xe vận tải đă đụng phải một người đàn ông (tức là em) làm găy hai chân và cán nát bụng. Người đàn ông được chở đi Bác Sĩ và đă phải giải phẫu. Bà mẹ và Bà Nội của em cho rằng việc này rất đáng quan tâm v́ ngay khi mới biết đi em vẫn hay nói rằng em sung sướng biết mấy khi có thể đi lại được! Người cha em cho tất cả những chuyện trên là nhảm nhí và gọi em là đứa điêu ngoa, v́ vậy em chỉ dám kể cho những người đàn bà trong nhà mà thôi.
Tuy nhiên mọi người trong nhà đều thấy một hôm lúc Imad lên 2 tuổi đă chận một người lạ mặt ngoài đường ôm chầm lấy ông ta mừng rỡ. Người lạ mặt liền hỏi "Em biết tôi sao?" - "Vâng, ông là người hàng xóm của tôi " em trả lời. Người này là Salim Aschar, người làng Khriby ngày xưa ở cạnh nhà Imad sự thực này măi sau mới khám phá ra được chứ vào lúc này cũng chưa ai biết em là người của gia đ́nh Bouhamzy. Tuy nhiên điều này không ngăn cản gia đ́nh hiện tại của em đi đến kết luận - ḥan toàn không chính xác như chúng ta sẽ biết sau này. Nghĩa là lúc đầu Tiến Sĩ Stevenson đă được người ta cung cấp những tin tức sai lạc.
Đây là câu chuyện mà cha mẹ em đă cung cấp:
Những lời nói đầu tiên khi em mới biết nói là Mahmoud và Jamileh, chính là tiền thân của em và người vợ. Mahmoud đă bị xe vận tải đụng chết. Chuyện này không những đă do Imad kể lại mà chính em là một đứa trẻ rất sợ hăi mỗi khi nh́n thấy xe vận tải lớn và các xe buưt. Ngay cả lúc c̣n chập chững biết đi em vẫn thường chạy trốn khi nh́n thấy 2 loại xe trên.
Một chuyện nhỏ nữa là ngày hôm sau Tiến Sĩ Stevenson cùng Imad và cha em đến Khriby. Em đă tỏ ra xúc động như là em đă xa cha mẹ lâu năm nay mới được về thăm lại. Trên đường đi em đă cho Tiến Sĩ Stevenson biết thêm về kư ức của em. Nhưng cuộc viếng thăm này không mang lại một kết quả cụ thể nào để chứng minh câu chuyện bí mật về tiền kiếp của Imad v́ đúng là có Mahmoud Bouhamzy, nhưng hiện nay người này c̣n đang sống. Vợ anh ta không mang tên Jamileh và căn nhà cũng không như Imad đă mô tả.
Ngày hôm sau đó, Tiến Sĩ Stevenson quyết định một ḿnh đến Khriby để điều tra lấy. Tiến Sĩ đă thấy một người Bouhamzy tên Haffez có người cha bị xe cán gẫy hai chân và đè nát bụng. Và mặc dầu đă phải giải phẫu hai lần song ông ta vẫn chết. Vợ ông ta cũng không phải là Jamileh và căn nhà cũng không giống như Imad mô tả. Sự điều tra của Tiến Sĩ Stevenson cho đến ngày ấy cũng chưa đi đến kết quả cụ thể.
Bất ngờ một tia sáng tự nhiên lóe lên! Haffez cho biết ông ta có một người anh họ rất quyến luyến với cha của Haffez và vô cùng đau xót trước tấm thảm kịch tai nạn ấy. Người này tên Ibrahim Bouhamzy có một người chú tên Mahmoud có một người t́nh nhân tên Jamileh. Mối quan hệ giữa hai người Mahmoud và Jamileh đă làm cho dư luận xôn xao. Vẻ đẹp của Jamileh rất thanh tú, nàng ăn diện theo thời trang đúng như Imad đă mô tả. Hơn thế nữa căn nhà mà Imad nói đến đúng là căn nhà của Ibrahim Bouhamzy. Ibrahim đă chết v́ bệnh lao vào khoảng trên 20 tuổi và đă bị bán thân bất toại lối một năm trước khi chết. Imad sung sướng biết bao khi được đi ṿng quanh nơi này! Sau khi Ibrahim chết, Jamileh đă lấy chồng và chuyển đến một làng khác.
B́nh luận về sự thất bại lúc đầu Tiến Sĩ Stevenson nói: "V́ sự suy luận sai lầm của gia đ́nh Imad cộng thêm vào sự quá tin tưởng vào ḷng thành thật của họ khi họ cung cấp các tin tức, hơn nữa giữa đám người Hồi và người Cơ Đốc Giáo xung quanh th́ người Druse vẫn được tiếng là thành thực".
Khi Tiến Sĩ Stevenson quay trở lại gia đ́nh Imad và báo cho họ kết quả điều tra của ḿnh, cha mẹ Imad không được vui v́ quan hệ của Imad với Jamileh ở tiền kiếp làm gương mặt của Bà mẹ Imad sa sầm đau khổ.
Hôm sau Tiến Sĩ Stevenson dẫn Imad và người cha đến nhà Ibrahim để xem Imad có thể nhận ra được điều ǵ kể từ khi Ibrahim chết vào năm 1949.
Theo lời Imad trước khi đi nhà này có hai cái giếng, một cái đầy nước c̣n một cái th́ cạn. Tiến Sĩ Stevenson đă đích thân đi xem những cái giếng này. Cả hai đều đă bị lấp từ khi Ibrahim chết. Thực ra đây không phải là giếng nước mà là 2 cái hầm xây bằng bê tông để chứa nước cốt nho. Theo như Tiến Sĩ Stevenson miêu tả, có một bộ phận đặc biệt được chế ra để hầm được luân phiên điều chỉnh nghĩa là hầm này đầy th́ hầm kia cạn.
Đến lúc này th́ xuất hiện 3 người đàn bà cùng dẫn Imad đi ṿng quanh nhà. Ba người này là mẹ, chị của Ibrahim và người hàng xóm. Imad đă trả lời đúng 13 câu hỏi liên quan đến những người thân ở tiền kiếp. Tuy nhiên, Imad không nhận ra người mẹ mặc dù Imad vẫn thường nói rất thương yêu mẹ. Giờ đây người mẹ đă già và thay đổi hẳn. Người chị liền hỏi: "Thế em có biết ta là ai không?" Imad trả lời ngay: "Chị Huda". Rồi chỉ một bức tranh sơn dầu trên tường và bảo đó là em Fuad. Một bức ảnh lớn được đưa ra và chỉ vào Imad họ hỏi: "Ai đây? Em của em hay là người chú của em? " Imad trả lời: "Tôi đấy "
Người chị tiền kiếp lại hỏi Imad: "Trước khi chết em có nói một câu ǵ em c̣n nhớ không?"
Imad trả lời: "Chị Huda! Gọi Fuad cho em". Đúng như vậy, Người em Fuad vừa ra khỏi nhà một lúc Ibrahim muốn gặp em lần cuối nhưng không kịp, Ibrahim đă chết liền sau đó. Ibrahim rất thương em, một tấm h́nh nhỏ của Fuad được trao cho Imad để làm kỷ niệm. Imad nâng niu và hôn tấm h́nh này rất là âu yếm.
Trong khi đi xem nhà, Huda đă được Imad cho biết bà mẹ có lần bị cái cửa dẫn ra sân kẹp ngón tay. Tiến Sĩ Stevenson nhận thấy ngón tay của Bà mẹ hiện nay hăy c̣n bị dẹp v́ tai nạn này.
Một người hỏi Imad: "Khi em ngủ th́ chiếc giường được đặt như thế nào?" Imad cho biết cái giường để theo h́nh chữ thập. Rồi một câu hỏi thích hợp khác được nêu lên: "Khi em đau ốm, những người bạn đến nói chuyện với em bằng cách nào?" Imad trả lời:
"Qua cửa sổ".
-"Tại sao?"
-"V́ họ không dám vào pḥng sợ lây bệnh Và cũng v́ thế mà cái giường được kê như trên." Imad trả lời.
Một câu hỏi thử thách khác:
"Thế cây súng được dấu ở đâu?" Imad chỉ đằng sau cái tủ quần áo trong một cái hộc trên tường. Mẹ của Ibrahim xác nhận là đúng và thêm vào chỉ có Bà Cô và Ibrahim là biết chỗ dấu súng mà thôi.(Việc này được giữ bí mật; ở thời đó có súng là bất hợp pháp).
Trường hợp này có hai diễn biến rất hay. Những diễn biến này được khám phá bởi Mahmoud, người chú của Imad trong một vài lần tiếp xúc với Tiến Sĩ Stevenson khi Tiến Sĩ Stevenson trở lại Lebanon để phỏng vấn các nhân chứng.
Mahmoud là tên một trong hai người mà Imad thường nhắc đến lần đầu tiên khi c̣n nhỏ. Khi Imad đến Khriby, Imad đă không gặp được Mahmoud, nhưng đến mùa hè năm 1970, Imad 12 tuổi, Mahmoud, người chú bất thần đến thăm nhà Imad. Imad không nhận được ra là Mahmoud. Khi Mahmoud đưa một tấm h́nh cho Imad coi, tấm h́nh này Mahmoud có bộ ria mép, hỏi Imad h́nh này là ai th́ Imad đă trả lời: "Đó là h́nh Chú Mahmoud". Sau đó người chú có mời Imad về Khriby ở với ông ta vài ngày. (Imad đă không đến Khriby từ khi Tiến Sĩ Stevenson và Imad đến đó vào năm 1964).
Diễn biến thứ hai khiến người chú xúc động vô cùng xảy ra khi Imad và ông ta đang đi bộ tại Khriby. Thấy một người đàn ông trên đường, Imad đă chặn lại và xin phép nói chuyện. Người chú hỏi Imad: "Con muốn nói ǵ với người đó? Ông ta là một cựu quân nhân đấy" Imad trả lời chính là lư do mà Imad muốn tṛ chuyện. Imad đă nói chuyện rất lâu với người này và người này cho biết Imad chính là Ibrahim tái sanh và nhắc lại với người này về những thời trước đă cùng sống với nhau như thế nào. Người cựu quân nhân này đă xác nhận với người chú Mahmoud là chính ông ta và Ibrahim đă gia nhập Quân Đội Pháp một ngày và đă cùng sống với nhau trong quân ngũ.
Trong phần kết luận, Tiến Sĩ Stevenson đă báo cáo trong số 57 điều Imad nói về tiền kiếp trước khi gặp những người thân có th́ Imad đă nói trúng 51 điều. Những điều đúng này gồm có cả cái xe hơi mầu vàng, xe buưt, xe vận tải mà Imad thường nhắc tới và nói những thứ trên là thuộc của Imad ở tiền kiếp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 504 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 8:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
II. TIẾN SĨ IAN STEVENSON
Tiến Sĩ Ian Stevenson sanh ngày 31 Tháng 10 Năm 1918 tại Montreal, Gia Nă Đại. Cha ông là phóng viên của Tạp Chí Time, Luân Đôn. Ian Stevenson học về y khoa và tâm lư tại Đại Học Y Khoa Mac Gill, Montreal, Gia Nă Đại và đậu Y Khoa Bác Sĩ năm 1943. Tiến Sĩ Ian Stevenson đă phục vụ tại Bệnh Viện Saint Joseph, Tiểu Bang Arizona, Hoa Kỳ, Viện Đại Học Louisana, New Orleans từ Năm 1947 đến Năm 1957. Bắt đầu năm 1957 Tiến Sĩ điều khiển Ngành Tâm Trí và là Viện Trưởng Viện Tâm Trí tại Đại Học Virginia, Charlotsville.
Tiến Sĩ là tác giả của nhiều bài khảo luận về Bệnh Tâm Trí đăng trên các Tập San Y Học. Ngoài việc trị bệnh cho các bệnh nhân Tiến Sĩ c̣n phụ trách giảng dạy tại các Trường Đại Học Hoa Kỳ.
Tiến Sĩ là một nhà phân tích về tâm trí có biệt tài và đến năm 48 tuổi Tiến Sĩ đă đạt đến nấc thang danh vọng cuối cùng; thế mà Tiến Sỉ bỏ nghề y khoa chuyên môn để bước sang một lĩnh vực khác, đó là công cuộc điều tra và nghiên cứu về Luân Hồi.
Trong một cuộc phỏng vấn, Kư Giả Eugene Kinkaid của tờ New Yorker đă hỏi Tiến Sĩ lư do g̀ đă khiến Tiến Sĩ bỏ nghề y khoa chuyên môn để đi theo một nghề không chính thống. Tiến Sĩ đă trả lời:"Tôi không đồng ư các phương pháp áp dụng để chữa trị các bệnh nhân tinh thần. Lư thuyết của ngành tâm trí hiện nay cho rằng cá tính của một con người là do ảnh hưởng của tính chất di truyền hoặc là ảnh hưởng thời gian của người cha hay người mẹ trước và sau khi sanh, Song rất nhiều trường hợp tôi đă khám phá ra chúng ta không thể đồng ư với lư thuyết trên cả về tính cách di truyền lẫn ảnh hưởng thời gian."
Tiến Sĩ Ian Stevenson đă giải thích trong việc nghiên cứu về luân hồi Ông đă phải dùng đến nhiều phương pháp chuyên môn của một nhà sử học, một nhà luật học, một nhà tâm trí học và t́m các dữ kiện qua những chứng nhân, tài liệu như nhật kư, giấy khai sanh, báo cáo giảo nghiệm, hồ sơ bệnh lư, tin tức của các báo chí vân vân...
Tập San về Bệnh Thần Kinh và Trí Năo (The Journal of Nervous and Mental Desease) số 165 Tháng 9 Năm 1977 đă dành riêng nói về công cuộc nghiên cứu luân hồi, về có sự sống sau khi chết của Tiến Sĩ đă khiến cho các độc giả cùng các nhà khoa học gia rất chú ư đến những chứng minh của Tiến Sĩ. Cũng trong Tháng 5 Năm 1977 Tiến Sĩ đă đăng một bài khảo luận "The Explanatory Value of The Idea of Reincarnation" nêu vấn đề luân hồi trên tập san này.
Phản ứng của các độc giả ra sao? Tiến Sĩ Eugene Brody, nhà xuất bản tờ báo cũng là một nhà tâm trí học của Viện Đại Học Y Khoa Maryland trong một cuộc phỏng vấn đă cho biết như sau: "Tôi đă nhận được lối 300 đến 400 lá thư của các Khoa Học Gia yêu cầu cho in lại số báo trên. Quả là đă có nhiều người chú trọng đến vấn đề này."Tiến Sĩ Ian Stevenson đặc biệt khảo cứu các trẻ em trên thế giới cả Đông lẫn Tây có kư ức về tiền kiếp. Ông đă xuất bản 5 cuốn sách về luân hồi, trong đó có cuốn "Children Who Remember Previous Life" (Những Thiếu Nhi C̣n Nhớ Tiền Kiếp) do nhà Xuất Bản University Press of Virginia, Charlotsville phát hành năm 1987 mà chúng tôi xin trích dịch vài truyện trong tác phẩm này.
-8-
GOPAL GUPTA
Tác giả: Tiến Sĩ Ian Stevenson
Gopal Gupta sanh ngày 26 Tháng 8 Năm 1956 tại Dehli Ấn Độ. Cha mẹ của Gopal thuộc giai cấp trung lưu, học vấn không đáng kể. Từ lúc lọt ḷng đến lúc 2 tuổi không có ǵ đặc biệt.
Khi Gopal bắt đầu biết nói từ khoảng 2 đến 2 tuổi rưỡi, có một người khách đến thăm gia đ́nh Gopal. Cha của Gopal sai Gopal đem cất cái ly người khách vừa uống xong. Gopal đă làm cho mọi người ngạc nhiên. Em nói rằng: "Con không thể làm việc đó v́ con là một Sharma (thuộc Bà La Môn, một giai cấp thượng lưu của Ấn Độ). Trong cơn giận giữ, Gopal đă làm vỡ cái ly. Cha của Gopal bắt Gopal giải thích lư do. Gopal liền kể lại vài chi tiết về tiền kiếp của em. Em cho biết trước kia em ở thành phố Mathura, cách xa Dehli 160 dậm về phía nam. Em là chủ nhân một hăng thuốc Sukh Shancharak, có một căn nhà rất lớn, có nhiều đầy tớ, có hai người anh và một người vợ. Em đă căi nhau với một trong hai người anh và đă bị bắn chết.
Gopal cho biết ở tiền kiếp em thuộc ḍng dơi Bà La Môn nên từ chối không chịu cất ly v́ người Bà La Môn thường không bao giờ cầm những vật dụng ǵ mà người giai cấp thấp hơn đă đụng tới. Gia đ́nh của Gopal hiện tại thuộc ḍng Bania, giai cấp thương mại.
Cha mẹ của Gopal không có liên hệ ǵ với Mathura, nên sự phát hiện của Gopal về tiền kiếp không gợi cho cha mẹ Gopal một kư ức nào cả. Mẹ của Gopal không thích và cũng chẳng bao giờ khuyến khích Gopal nói về tiền kiếp cả. Cha của Gopal th́ lại càng lạnh nhạt với những câu chuyện về tiền kiếp khi Gopal kể. Tuy nhiên thỉnh thoảng cha của Gopal có kể lại cho vài người bạn nghe về chuyện tiền kiếp của Gopal. Một trong những người này cho biết h́nh như ông ta có nghe thấy một vụ giết người trùng hợp với câu chuyện trên ở Mathura, nhưng cha của Gopal chưa tin nên cũng chẳng mấy quan tâm để đi Mathura t́m hiểu sự việc có thật hay không.
Cho đến năm 1964, nhân cơ hội có một buổi đại hội về tôn giáo tổ chức tại Mathura, cha của Gopal trong lúc đi dự hội đă khám phá ra là tại Mathura có hăng thuốc Sukh Shancharak. Ông t́m đến Hăng thuốc và được gặp viên Quản Lư. Ông kể lại cho Viên Quản Lư nghe chuyện Gopal nói về tiền kiếp. Viên Quản Lư rất ngạc nhiên v́ có một chủ nhân của hăng này đă bị người anh ruột bắn chết cách đây mấy năm. Người chủ này là Shaktipal Sharma chết ngày 27 Tháng 5 năm 1948, vài ngày sau khi bị bắn.
Viên Quản Lư báo cho gia đ́nh Sharma biết việc viếng thăm của cha Gopal. Vài người trong gia đ́nh Sharma đă tới Dehli thăm gia đ́nh Gopal và đă mời Gopal tới Mathura. Trong những cuộc gặp gỡ tại Mathura cũng như Dehli, Gopal đă nhận ra một số người và một số nơi mà trước kia Shaktipal đă quen biết và thêm vài tin tức đặc biệt về đời tư của Shaktipal Sharma. Gia đ́nh của Sharma rất ngạc nhiên v́ Gopal đă cho biết trước đây Shaktipal Sharma dự định muốn mượn một số tiền của vợ và muốn lấy số tiền để cho anh ḿnh vay hùn vốn vào công ty. Cuộc căi vă đă xảy ra giữa hai anh em, Shaktipal muốn cho người anh nguôi giận đă tăng số tiền cho vay lên nhưng người vợ lại từ chối không cho. Do đó người anh đă cáu kỉnh và trong lúc nóng giận đă bắn Shaktipal Sharma. Chi tiết của tấn thảm kịch này đă được dấu kín không ai được biết ngoại trừ những người trong gia đ́nh. Vụ người anh giết em này đă được đăng tải trên báo chí. Sự hiểu biết tường tận về nội vụ cùng với sự nhận dạng được một số người trước đây đă quen với Shaktipal khiến cho gia đ́nh của Shaktipal Sharma phải công nhận Gopal chính là hiện thân của Shaktipal. Song song với những lời tuyên bố về tiền kiếp, Gopal đă tỏ ra phong thái của một người Bà La Môn giàu có cho nên cá tính của em đă làm trở ngại không ít đến gia đ́nh hiện tại của em. Em đă không ngần ngại nói rằng em thuộc gịng dơi cao quư hơn những người hiện tại của gia đ́nh em. Em đă từ khước những công việc nội trợ cho rằng những công việc này chỉ đáng để cho những người đầy tớ làm mà thôi. Em không bao giờ uống sửa nếu sửa nếu được rót vào một cái ly đă có người khác sử dụng.
Tiến Sĩ Jamua Prasad đă từng cộng tác với tôi (Ian Stevenson) nhiều năm trong nhiều trường hợp tại Ấn Độ, đă bắt tay điều tra vụ này năm 1965. Riêng tôi bắt đầu vào năm 1969 khi tôi đích thân phỏng vấn hai gia đ́nh tại Dehli cũng như Mathura. Tôi vẫn c̣n liên lạc với họ cho đến năm 1974. Sau khi đi thăm Mathura vào năm 1965 th́ Gopal không có ư định đến thăm nơi này nữa. Vài năm sau 1965 thỉnh thoảng Gopal có đến Dehli thăm hai người chị của Shaktipal. Nhưng sau đó th́ sự liên lạc giữa hai gia đ́nh đă không được duy tŕ nữa. Gopal càng lớn lên th́ cái phong thái Bà La Môn của tiền kiếp thể nhập nơi anh ngày dần biến mất và anh từ từ ḥa ḿnh với đời sống khiêm tốn của gia đ́nh hiện tại. Anh cũng ít nói đến đời sống của Shaktipal Sharma, nhưng đến cuối năm 1974 cha của Gopal vẫn nghĩ rằng con của ông c̣n nhớ đến những kư ức của chuyện này.
Đối với tôi (Ian Stevenson) trường hợp luân hồi này rất đáng được kể đến v́ sự trung thực, làm sao Gopal có thể biết rơ về lúc sống cũng như lúc chết của Shaktipal Sharma. Tuy Shaktipal Sharma thuộc một gia đ́nh khá giả tại Mathura và việc anh bị thảm sát đă làm xôn xao dư luận nhưng hai gia đ́nh Sharma và Gopal đă sống ở hai thành phố cách xa nhau và thuộc hai giai cấp khác hẳn nhau. Đời sống xă hội của hai gia đ́nh ở trong hai qóy đạo riêng biệt và chính tôi tin tưởng mănh liệt là hai gia đ́nh theo như lời họ thuật lại đă không bao giờ được biết nhau cho đến khi xảy ra sự việc trên.
-9-
CORLISS CHOTKIN JR.
Tác Giả: Ian Stevenson
Trường hợp này là lời nói trước của một người đánh cá lớn tuổi ở Tlingit, Alaska tên Victor Vincent. Ông cô cho người cháu gái Corliss Chotkin Sr biết là sau khi ông cô chết, ông cô sẽ đầu thai làm đứa con trai của cô ta. Ông cô chỉ cho cô ta thấy hai vết thẹo sau hai lần giả́ phẫu, một trên sống mủi và một đằng sau lưng. Ông cô nói là đứa con cô ta (tức là ông cô tái sanh) sẽ mang 2 vết thẹo như trên.
Victor Vincent chết vào mùa xuân năm 1946. Khoảng mười tám tháng sau, ngày 15 tháng 12 năm 1947, cháu gái của ông cô sanh một đứa con trai và được đặt tên là Corliss Chotkin Jr. Đứa nhỏ mang hai vết thẹo y như hai vết thẹo của Victor Vincent trước kia. Vào năm 1962, lần đầu tiên khi tôi (Ian Stevenson) xem xét hai vết thẹo tôi được Bà Chotkin cho biết hai vết thẹo có thay đổi theo thời gian nhưng hăy c̣n rất rơ ràng. Nhất là vết thẹo đằng sau lưng đă làm tôi kinh ngạc, nó rộng chừng 5 ly, dài chừng 3 phân, so với chỗ da khác th́ vết thẹo này có mầu sậm hơn và hơi lồi, có nhiều chấm đen chung quanh tựa như vết thương được khâu nhiều mủi.
Khi Corliss vừa được 13 tháng Bà Chotkin thường tập cho Corliss gọi tên của nó, th́ Corliss thường nóng nảy nói rằng: "Mẹ không biết con là ai à? Con là Kahkody mà". Kahkody là cái tên do Bà lúc đặt cho Victor Vincent khi c̣n sống. Bà Chotkin có kể lại cho một người cô th́ bà này cho biết là sau khi Victor Vincent qua đời được ít lâu bà có nằm mơ thấy Victor Vincent trở về sống với gia đ́nh Chotkin. Bà Chotkin chưa bao giờ cho bà cô ấy biết là chính Victor Vincent đă nói trước với bà là sẽ tái sanh làm con trai bà.
Khi được chừng 2, 3 tuổi Corliss đă nhận ra nhiều người mà trước đây Victor Vincent đă từng quen biết trong đó có người vợ của Victor Vincent. Corliss c̣n kể 2 biến cố xảy ra trong cuộc đời của Vincent mà chỉ có ḿnh Vincent biết được mà thôi. Thêm nữa c̣n có nhiều nét đặc biệt giống như Victor Vincent, chẳng hạn như cách chải đầu. Corliss đă chải kiểu tóc giống như Vincent trước đây. Cả hai cùng nói lắp (cà lăm), cùng thích bơi lội và tầu bè, cùng thuận tay trái, cùng có chung khuynh hướng về tôn giáo. Cũng như Vincent, Corliss có khiếu về máy móc, có khả năng về sử dụng và sửa chữa. Mẹ của Corliss cho biết đă tự học một ḿnh cách làm sao cho chiếc thuyền máy chạy được. Khác hẳn với cha là ông Chotkins, một người không mấy thích máy móc và càng không có năng khiếu về máy móc.
Khi lên 9 tuổi, Corliss ít nói đến tiền kiếp của ḿnh, cho đến năm 1962 th́ hầu như Corliss không c̣n nhớ ǵ nữa.
Tôi (Ian Stevenson) đă gặp Corliss và gia đ́nh cả thảy 3 lần và đầu năm 1960 và 1 lần vào năm 1972. Lần gặp cuối cùng tôi thấy Corliss không c̣n nói lắp (cà lăm) như trước nữa, khuynh hướng về tôn giáo của anh cũng giảm đi song anh vẫn c̣n thích máy móc. Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, Corliss đă được gửi sang chiến đấu trong đoàn Pháo Binh. Một trái đạn nổ gần bên đă làm Corliss bị điếc. Năm 1972 lần cuối cùng gặp lại Corliss, tôi thấy anh vẫn mạnh khoẻ và đang làm việc tại một nhà máy xay bột gần nhà của anh tại Sitka Alaska'
-10-
MA TIN AUNG MYO
Tác Giả: Ian Stevenson
Ma Tin Aung Myo sanh ngày 26 Tháng 12 năm 1953 tại làng Nathul miền thượng Miến Điện. Cha Cô là U Aye Maung và mẹ cô là Daw Aye Tin. Khi c̣n đang mang thai Ma Tin Aung Myo, 3 lần Bà mơ thấy một người lính Nhật cởi trần, mặc quần soọc đă theo bà và nói rằng ông ta sẽ đến ở với vợ chồng Bà.
Khoảng 3, 4 tuổi, Myo đă có những hiện tượng nhớ đến tiền kiếp của ḿnh. Mỗi lần thấy máy bay bay ngang làng Nathul, Myo đều sợ hăi và khóc. T́nh trạng này kéo dài nhiều năm. Lúc lên 4 tuổi có lần Myo khóc sướt mướt; được hỏi lư do cô trả lời là cô khao khát được về nước Nhật. Rồi sau đó Myo kể là Myo là người lính Nhật đóng quân ở Nathul trong thời Đệ Nhị Thế Chiến khi Quân Đội Nhật Bản chiếm giữ Miến Điện. Myo nói rằng cô là hỏa đầu quân và bị bắn chết trong một cuộc oanh tạc của máy bay Đồng Minh. Myo cung cấp vài chi tiết khác về tiền kiếp mà cô c̣n nhớ. Trước kia Myo ở phía Bắc nước Nhật, đă lập gia đ́nh và có một con. Trước khi nhập ngũ gia đ́nh có một cửa hàng nhỏ.
Trong lúc Quân Đội Nhật rút lui khỏi Miến Điện, Cô bị máy bay bắn chết. (Có thể sự việc xảy ra vào năm 1945). Cô đă mô tả lối ăn mặc của người lính Nhật và cách thức ẩn tránh khi bị máy bay oanh tạc. Riêng cô bị kẹt ngoài bờ đê nên đă bị bắn chết. Myo không nhớ tên cũng như quê quán của người lính Nhật. Tuy nhiên những ǵ Myo kể lại rất phù hợp với những biến chuyển trong thời gian Quân Đội Nhật chiếm đóng Miền Thượng Miến Điện. Mẹ của Myo cho biết có quen thân với một người lính Nhật làm hỏa đầu quân khi quân đội Nhật Bản đóng tại nơi đây, nhưng không biết anh lính Nhật này chết tại đâu.
Lối xử sự của Myo rất khác thường, giống như phong cách của một người lính Nhật. Myo không thích khí hậu nóng bức tại miền thượng Miến Điện và cũng không thích các món ăn nấu theo kiểu địa phương, Myo thích ăn đồ ăn có đường, cá sống. Myo thường tỏ vẻ mong đợi ngày trở về Nhật Bản và có nhiều khi nằm úp mặt khóc v́ nhớ nhà. Myo cũng thường tức giận mỗi khi có ai nhắc tới người Anh hoặc người Mỹ trước mặt Myo.
Điều đặc biệt nhất là Myo thích làm con trai. Cô hay mặc quần áo đàn ông và thích cắt tóc kiểu con trai. V́ vậy khi đi học Myo bị nhà trường bắt buộc phải ăn mặc theo kiểu phụ nữ. Myo đă từ chối và năm lên 11 tuổi Myo đă bỏ học. V́ học vấn kém nên Myo đă phải làm nghề tầm thường. Năm 1974 khi tôi (Ian Stevenson) gặp Myo lần đầu tiên th́ cô đang bán rong đồ ăn ở ga xe lửa.
Thưở c̣n nhỏ, Myo thích chơi tṛ đóng vai người Lính. Myo đ̣i cha lần nào đi Mandalay cũng phải mua cho cô một cây súng giả. Ba người chị cũng như người em trai độc nhất của cô lại không thích tṛ này. Myo thích chơi đá banh và khúc côn cầu, hai môn thể thao chỉ dành cho con trai.
Cha mẹ Myo đă có 3 người con gái trước khi sanh Myo. Tuy cả hai ông bà đều muốn có một đứa con trai, nhưng điều đó không có nghĩa là hoan nghênh tinh thần thích làm con trai của cô. Người mẹ phản đối con kịch liệt c̣n người cha th́ khoan dung hơn.
Càng lớn, Myo càng có vẻ đàn ông, Myo thích ăn mặc theo kiểu con trai và không nghĩ đến việc lấy chồng. Ngược lại Myo nói rằng thích một người vợ. Myo coi ḿnh như một nam nhi và không thích được đối xử như một phụ nữ. Khi U Win Maung, người phụ tá của tôi (Ian Stevenson) tại Miến Điện gọi Myo bằng "Ma", tiếng lịch sự để chỉ người phụ nữ Miến, th́ cô yêu cầu được gọi cô là Maung, tiếng thông dụng để chỉ thanh niên Miến hoặc không dùng danh từ nào cả. Trong một cuộc phỏng vấn, cô đă nói với tôi và U Win Maung rằng cô sẽ rất hài ḷng nếu chúng tôi chọn bất cứ cách nào để giết cô miễn là bảo đảm cho cô khi được sanh trở lại cô sẽ là đàn ông. Gia đ́nh Myo cho rằng sự luyến ái của Myo khác thường như vậy v́ tiền kiếp Myo là đàn ông và cũng xác nhận cái tính khí y hệt thanh niên của cô là do tiền kiếp cô là người lính Nhật Bản.
Tuy rằng chi tiết để xác minh người lính Nhật không được đầy đủ nhưng tất cả những hành động cũng như tính t́nh của Myo đă phản ảnh rơ ràng Myo đúng là hiện thân của một người Lính Nhật Bản.
Tôi (Ian Stevenson) đă gặp lại Myo vào năm 1975 và sau đó th́ không gặp nữa nhưng U Win Maung, người phụ tá của tôi tại Miến Điện đă gặp Myo vào năm 1970, sau này c̣n gặp lại cô 2 lần nữa vào năm 1977 và năm 1981.
-11-
MỐI T̀NH TUYỆT VỌNG
Tác Giả: Ian Stevenson
Đây là một trường hợp Tiến Sĩ Ian Stevenson đăng trên tờ Journal of Nervous and Mental Disease (T́ Báo nói về Bệnh Thần Kinh và Tâm Trí) và năm 1983.
Tại Rio Grand Do Sul, một Tiểu Bang cận nam của Ba Tây, một bé gái của một trại chủ giàu có tên là Senor C.J. De Oliveiro ra đời. Tên bé gái là Maria nhưng thường gọi là Sinha và thân mật hơn là Sinhazinha.
Khi lớn lên Sinha rất yêu mến đời sống thôn dă nơi quê cha và thỉnh thoảng nàng thường đến chơi làng Dom Feliciano cách 12 dậm. Nơi đây Sinha quen với Ida Lorenz, vợ một giáo viên.
Rồi th́ 2 lần t́nh yêu đến nhưng lần nào nàng cũng đều bị người cha nghiêm khắc bảo thủ ngăn cản và một trong 2 thanh niên đă tự tử v́ tuyệt vọng. Sinha ngày càng héo hon sầu năo. Lo lắng người cha đă thu xếp cho nàng đi du ngoạn Pelotes, một thị trấn ven biển trong mùa hội nhưng t́nh trạng của nàng cũng không khả quan hơn.
Với mục đích hủy hoại thân ḿnh nàng đă tự hành xác bằng cách dầm thân dưới trời giá lạnh cho đến khi kiệt sức. Nàng bị khan tiếng, nhiễm trùng cổ họng, sưng phổi rồi ho lao. Vài tháng sau nàng chết.
Trước khi chết nàng có tâm sự với người bạn thân Ida Lorenz rằng bệnh hoạn là tự nàng làm ra. Nàng c̣n căn dặn 2 điều:"Một, tôi sẽ tái sanh làm con gái của Ida và hai, khi biết nói tôi sẽ kể lại mọi điều về đời sống hiện tại của tôi lúc đó chị sẽ nhận ra".
Ida có nói cho chồng biết và hai người cùng chờ xem sự việc xảy ra sao. Ngoài ra không một ai trong gia đ́nh biết cả.
Vài tháng sau khi Sinha chết, Ida sanh được một bộ gái đặt tên là Marta. Marta có những nét đặc biệt tương tự như Sinha. Khi Marta chưa đầy 1 tuổi, người cha của Sinha đến thăm gia đ́nh Ida Lorenz, một gia đ́nh khác ông Valentin cũng đến chơi cùng lúc ấy. Ông Valentin có vẻ thương yêu chiều chuộng Marta, nhưng ngược lại Marta cứ đeo theo cha của Sinha mặc dầu ông này thường không thích trẻ nhỏ. Marta đă vuốt râu ông và nói: "Chào Ba". Lúc đó với ông lời chào ấy không có ư nghĩa ǵ nhưng rồi 11 năm sau ông mới công nhận là Sinha tái sanh thành Marta.
Sau đây là lời của ông Ida Lorenz, người cha hiện tại của Marta kể lại do Tiến Sĩ Ian Stevenson, người điều tra vụ này chuyển dịch Người chị tên Lola của Marta đă thấy một chuyện sau:"Lúc Marta được 2 tuổi rưỡi, một hôm sau khi giặt xong quần áo ở một con suối gần nhà Marta và Lola trở về nhà. Marta nói với chị: "Lola cơng em đi" Lola (cũng như tất cả trẻ con hàng xóm của chúng tôi) không biết ǵ về lời hứa sẽ tái sanh của Sinha nên trả lời: "Em đi được đâu cần chị cơng". Marta nói: "Dạo trước lúc em lớn và chị nhỏ em thường cơng chị đó". Lola vừa cười vừa vặn lại: "Em lớn lúc nào?" Marta trả lời: "Lúc em không ở đây, mà ở xa chỗ này, nơi có nhiều ḅ đực, ḅ sửa, có nhiều cây cam, và có nhiều con vật như dê, nhưng không phải các con dở này (nó muốn nói các con cừu mà nó chưa bao giờ thấy ). Câu này mô tả cái nông trại của cha mẹ Sinha.
Rồi vừa đi vừa chuyện tṛ Marta và Lola về tới nhà. Lola kể cho chúng tôi những ư tưởng lạ lùng của Marta và tôi nói với Marta: "Này con gái nhỏ của Ba, Ba chưa bao giờ ở đấy sao con lại nói con ở đấy?" Marta trả lời: "Đúng vậy, lúc đó con có cha mẹ khác".
Một người chị khác của Marta trêu em:
"Thế em cũng có một người đầy tớ da đen như bây giờ phải không?" (muốn nói đến đứa con gái da đen mồ côi mà chúng tôi đang nuôi). Marta trả lời ngay: "Không, lúc đó người đầy tớ da đen của chúng tôi đă lớn và biết cả nấu ăn, chúng tôi cũng có một em da đen nhỏ, và một hôm em nhỏ này quên không múc nước về nên bị cha tôi đánh".
Nghe vậy tôi liền nói: "Cha chưa bao giờ đánh một em nhỏ da đen nào cả con gái bộ nhỏ ạ" Marta nói: "Nhưng đó là người cha kia của con mà; bị đánh em nhỏ kêu khóc và cầu cứu con: Sinhazinha hăy cứu tôi! và con đă xin cha đừng đánh nó nữa và thằng nhỏ chạy ngay đi múc nước về".
Tôi hỏi: "Vậy ai là Sinha hay Sinhazinha? ". Marta trả lời: "Chính là con đấy, con c̣n có tên là Maria và một cái tên nữa mà con không nhớ".Tên đầy đủ của Sinha la Maria Januaria De Oliveiro.
Để thử xem Marta nói có đúng không, Ida cũng hỏi một câu: "Mẹ thường đến nông trại thăm Sinha, vậy Sinha thường làm ǵ để đón tiếp mẹ?" Marta nói nó thường pha sẵn cà phê, vừa đứng chờ trước nhà vừa nghe máy hát để trên thềm đá.
Sau khi phỏng vấn người em gái của Sinha, Tiến Sĩ Ian Stevenson được biết quả đúng như vậy. Sinha thường làm thế để tiếp đón người bạn quư của ḿnh tức người mẹ hiện tại.
Ida hỏi Marta là Sinha đă nói thế nào khi Ida đến thăm Sinha lần cuối cùng trước khi Sinha chết. Marta đă diễn tả: "Nàng thều thào bên tai Ida, chỉ vào cuống họng ḿnh rằng nàng không thể nói được v́ đau cuống họng". Cảnh này chỉ một ḿnh Ida biết mà thôi.
Liên tiếp mấy năm sau, Marta kê khai 120 bản về đời sống của Sinha và về những người mà Sinha quen biết. Người cha hiện nay của nàng c̣n giữ tất cả những tài liệu này. Có nhiều điều ông ta, vợ ông ta và ngay cả đến những đứa trẻ khác trong gia đ́nh hoàn toàn không biết nhưng sau khi phối kiểm th́ thấy đều rất trung thực.
Bấy giờ Marta thường nhắc đến căn nhà của Sinha và mong ước được về thăm nhưng măi đến năm 12 tuổi vào cái tuổi mà Marta ít nhắc đến tiền kiếp của ḿnh th́ Marta mới được măn nguyện. Vừa đặt chân tới nhà có Marta đă nhận ra cái đồng hồ treo tường và nói là của ḿnh. Nàng c̣n nói đằng sau cái đồng hồ có in tên nàng bằng chữ vàng. Người cha ở tiền kiếp nghe vậy bèn lấy cái đồng hồ xuống, quả nhiên đằng sau có in ḍng chữ vàng: "Maria Januaria De Oliveiro". Cái đồng hồ do Sinha mua và tự ḿnh lên dây. Đó là đồ vật duy nhất mà Marta nhận được tại nông trại.
Sau chuyến viếng thăm của Marta, một người bà con của Sinha nghe nói Sinha tái sanh, đă không báo trước mà t́m đến nhà ông bà Lorenz và hỏi Marta như sau: "Nếu quả cô là Sinha, xin cho tôi biết quan hệ giữa chúng ta như thế nào?" Không chút ngặp ngừng Marta đă trả lời đúng: "Bà là chị họ và cũng là mẹ đỡ đầu". Người đàn bà này hoàn toàn chưa bao giờ biết làng Dom Feliciano, nơi mà gia đ́nh và Marta đang sống.
Một chuyện khác xảy ra khi Marta 19 tuổi và được một nông trại mời đến kèm trẻ. Gia đ́nh này theo đạo Cơ Đốc Giáo gốc nên không bao giờ Marta đề cập đến luân hồi. Một phụ nữ già da đen cũng làm tại nơi đây thấy Marta đă nói với mọi người: "Cô gái này giống hệt như Sinha ". Hóa ra người đàn bà da đen chính là người đầy tớ trước đây của nông trại Oliveiro mà lúc lên 2 tuổi rưỡi Marta đă có lần nhắc tới.
Sinha t́m cái chết bằng cách tự hủy hoại thân thể ḿnh với bệnh lao phổi và thanh quản - nay hai bệnh nghiệp chướng trên đă trở lại với nàng - Marta rất dễ bị cảm lạnh và sưng phổi trong khi những đứa con khác của gia đ́nh Lorenz không một ai bị bệnh này cả. Tiến Sĩ Ian Stevenson đă b́nh luận: "Bệnh đau về hệ thống hô hấp và yết hầu của Marta hiện nay đúng là bệnh t́nh trước đây của Sinha. Tôi tin rằng trong hiện tại Marta hay mắc chứng bệnh này là v́ có sự liên quan đến tiền kiếp và cái chết của Sinha".
Hậu quả thứ hai là hoàn cảnh trái ngang có thể đưa nàng đến ư định tự hủy hoại thân ḿnh. Marta có xác nhận với Tiến Sĩ Ian Stevenson, mặc dù chưa bao giờ có ư định tự tử cả, xong có thể làm việc ấy nếu có sẵn một khẩu súng.
Trên b́nh diện xác thực và khích lệ, nàng đă vượt đến sự tốt đẹp của bản thân tiền kiếp. Nàng đă được nhiều người đặc biệt nhớ đến nàng v́ t́nh thương yêu và ḷng nhân ái đă được thể hiện trong cuộc sống hiện tại của nàng. Với kinh nghiệm tái sanh nàng đă t́m được cách hữu hiệu để làm giảm bớt sự đau khổ và ưu sầu của những người chung quanh.
Tiến Sĩ Ian Stevenson đă viết trong báo cáo:"Một ngày nọ một thiếu phụ đến thăm gia đ́nh Lorenz và ta thán về cái chết của người cha. Thiếu phụ này nói: "Ồ các bạn thân mến, người chết rồi không bao giờ trở lại được". Nghe vậy Marta đă lên tiếng: "Xin bà đừng nói thế, tôi cũng đă chết và bà có thấy không tôi đang sống lại đấy".
Một bửa khác trong cơn mưa băo, một người chị của Marta đă lo lắng cho người em Emilia mới chết có thể bị ướt dưới mộ sâu. Marta đă nói: "Chị đừng nói vậy, Emilia đâu c̣n ở nghĩa địa, Emilia đă ở một nơi an toàn tốt đẹp hơn nơi của chúng ta hiện nay, linh hồn không bao giờ bị ướt cả".
-12-
SHAMLINIE PREMA
Tác Giả: Ian Stevenson
Shamlinie Prema sanh ngày 16 Tháng 10 năm 1962 tại Sri Lanka Colombo. Cha mẹ của Shamlinie sống ở Gonagela, cách Colombo 60 cây số về phía nam và lớn lên tại đó.
Cha mẹ của Shamlinie nhận thấy ngay từ khi biết nói, Shamlinie đă rất sợ nước, thường dẫy dụa khóc thét lên mỗi khi có ai muốn đem em nhúng xuống nước. Em cũng sợ cả xe buưt và thường khóc lóc mỗi khi cha mẹ đem lên xe buưt hay nh́n thấy xe buưt từ đằng xa. Sự việc này làm cho cha mẹ em bối rối, ông bà cho rằng những biến cố ở kiếp trước đă ảnh hưởng tới đời sống hiện tại của em.
Đến khi biết nói em đă liên tiếp kể chuyện tiền kiếp của em cho cha mẹ cũng như những người thân thuộc. Em cho biết ở tiền kiếp em sống tại làng Galtudawa cách xa Gonagela 2 cây số. Em nói rằng cha mẹ tiền kiếp của em c̣n đang sống tại Galtudawa và em thường nhắc đến bà mẹ Galtudawa. Em cũng nói tới mấy người chị và hai người bạn học cùng trường. Em tả căn nhà ở tiền kiếp mà em đă sống, địa thế cũng như đặc điểm khác hẳn cái nhà mà em đang sống. Em kể nguyên do cái chết của em xảy ra như thế nào. Một buổi sáng để điểm tâm trước giờ đi học em đi mua bánh ḿ trên con đường bị ngặp nước. Một chiếc xe buưt chạy ngang làm bắn tung nước và em bị hất xuống ruộng. Em chỉ c̣n biết dở tay vẫy gọi "Mẹ" và sau đó em cảm thấy như ngủ thiếp đi.
Ở Galtudawa có một cô gái tên là Hemaseelie Guneratne bị chết đuối ngày 8 tháng 5 năm 1961 trong hoàn cảnh tương tự. Hemaseelie đă lùi một bước để tránh xe buưt và cô bị rơi xuống ruộng lúa ngặp nước. Hemaseeli là một học sinh 11 tuổi. Cha mẹ Shamlinie không hề quen biết gia đ́nh Hemaseelie và cũng chưa gặp Hemaseelie lần nào cả. Tuy nhiên cha mẹ Shamlinie có được nghe chuyện cô học sinh chết đuối, cũng cảm thấy buồn nhưng sau đó rồi ông bà cũng quên bẵng đi.
Lần đầu tiên nghe em kể câu chuyện bị chết đuối cha mẹ em không nghĩ rằng em có liên quan đến cô bộ Hemaseelie bị chết đuối cả. Khi Shamlinie lên 3 tuổi em nhận ra một người anh em họ của Hemaseelie khi người này đang đi trên đường phố ở Gonagela. Hơn một năm sau, Shamlinie lại nhận ra người chị của Hemaseelie cũng tại Gonagela. Đồng thời Shamlinie đ̣i đi Galtudawa để thăm "Mẹ Galtudawa" và em cho rằng người mẹ hiện tại không sánh bằng "Mẹ Galtudawa" ở tiền kiếp.
Cuối cùng cha mẹ của em đă đưa em đến nhà Hemaseelie Gueratne ở Galtudawa. Nhiều người tụ tập nơi đây v́ họ nghe nói có một cô gái tái sanh trở về thăm làng có. Sự hiện diện của những người lạ mặt khiến Shamlinie thấy thiếu thoải mái. Tuy nhiên Shamlinie cũng nhận ra "bà mẹ của Hemaseelie tên là W.L. Podi Nona" trong khi đó gia đ́nh Guneratnes vẫn c̣n hoài nghi. Cuộc viếng thăm rất ích lợi v́ đă xác minh được những việc mà Shamlinie đă từng tuyên bố. Hầu hết những chuyện Shamlinie kể về tiền kiếp đều trùng hợp với đời sống của Hemaseelie tại Galtudawa. Thêm vào đó, hai gia đ́nh trong khi trao đổi tin tức đều nhận thấy Hemaseelie và Shamlinie đều có nhiều điểm giống nhau về cách thức ăn mặc cũng như sở thích ăn uống.
Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này và năm 1966, vài tuần lễ sau khi Shamlinie viếng thăm Galtudawa lần đầu tiên. Tôi đă phỏng vấn một số người c̣n nhớ rơ những điều Shamlinie đă kể và đă làm, về cả cuộc đời tiền kiếp của Hemaseelie. Mấy năm sau tôi có đến thăm cả hai gia đ́nh để có thể kiểm chứng và cũng để xem sự tiến triển của Shamlinie ra sao. Ngoại trừ một vài điều cách biệt nho nhỏ, c̣n tất cả những tin tức mà tôi thâu lượm được đều rất xác thực và các nguồn tin mới này vẫn rất phù hợp với những điều mà họ nói trước kia.
Sau lần viếng thăm đầu tiên Galtudawa, Shamlinie trở lại thêm vài lần nữa thăm gia đ́nh Guneratnes và sau đó các chuyến viếng thăm thưa dần ngày càng ít đi và Shamlinie càng lớn lên th́ những kư ức về tiền kiếp của em mờ dần đi. Đến năm 7 tuổi th́ Shamlinie không c̣n kể về tiền kiếp của em nữa. Khi lên 11 tuổi vào năm 1973, Shamlinie đă hoàn toàn quên hẳn kư ức về tiền kiếp ngay cả đến những việc trước đây em thường nhắc đến. Em cũng không c̣n sợ nước như hồi 4 tuổi nữa và khi em lên 8 tuổi th́ em cũng không c̣n sợ hăi khi trông thấy xe buưt tuy nhiên vẫn c̣n một chút sợ sệt.
Năm 1973 tôi có trở lại thăm Shamlinie và thấy em đă trở thành một cô gái Sinhalese b́nh thường.
Trường hợp luân hồi của Shamlinie rất trung thực. Hai gia đ́nh ở cách xa nhau 2 cây số và cũng không là thân thuộc mà Shamlinie lại hiểu biết đời sống của Hemaseelie với nhiều chi tiết rơ ràng.
Theo sự xét đoán của tôi (Ian Stevenson) sự liên hệ của hai gia đ́nh không có, nên không thể nào giải thích nổi tại sao Shamlinie lại có thể hiểu biết tường tận đời sống cũng như cá tính khác thường của Hemaseelie. Phải chăng Hemaseelie đă tái sanh thành Shamlinie?
-13-
SULEYMAN ANDARY
Tác Giả: Ian Stevenson
Suleyman sanh ngày 4 Tháng 3 Năm 1954 tại Falougha, Lebanon. Gia đ́nh Suleyman thuộc ḍng Druses, một tôn giáo bắt nguồn từ Islam (Hồi Giáo). Tuy nhiên tôn giáo này đă tách ra khỏi khối Hồi Giáo chính thống và những người theo đạo Druses cũng coi như không c̣n lệ thuộc vào khối Hồi Giáo. Luân Hồi là một giáo lư căn bản của Đạo Druses.
Khi c̣n thơ ấu Suleyman nhớ vài chi tiết về tiền kiếp của anh. Đôi khi qua các giấc mộng, anh kể là anh đă có con ở tiền kiếp và c̣n nhớ cả tên của chúng nữa. Anh nhớ anh sống tại Gharife và là chủ của một hăng ép dầu.
Không giống đa số các trường hợp luân hồi khi c̣n nhỏ tuổi nhớ kiếp trước nhiều hơn, càng lớn tuổi anh càng nhớ lại nhiều về tiền kiếp. Trong lúc ở với bà nội khi anh 11 tuổi, anh cảm thấy anh có nhiều kư ức về tiền kiếp. Một hôm bà ngoại anh đến nhà mượn một cuốn kinh về đạo Druses. Suleyman đă từ chối không cho mượn c̣n lỗ măng bắt lỗi bà ngoại không có cuốn kinh trong nhà. Bà nội anh bất măn về thái độ cư xử của anh và yêu cầu anh giải thích. Bất ngờ anh nhớ lại ở tiền kiếp anh có rất nhiều kinh sách về Đạo Druses và không bao giờ anh cho ai đem những cuốn kinh này ra khỏi nhà. Người Druses rất quư trọng các cuốn kinh và thường giữ ǵn cẩn thận. Hành động của Suleyman nếu là một thiếu niên th́ quả là vô lễ, nhưng với một người đă trưởng thành như Suleyman th́ lại là một việc b́nh thường.
Sau câu chuyện trên, Suleyman đă kể nhiều các chi tiết về đời sống tiền kiếp của anh. Anh nhớ anh là một tù trưởng ở Gharife và có tên là Abdallah Abu Hamdan. Anh c̣n kể thêm nhiều chi tiết cuộc đời của Hamdan. Lúc bấy giờ Suleyman rất sợ bị chế nhạo khi nhận là tù trưởng ở tiền kiếp. Anh nghĩ là gia đ́nh và bạn bè sẽ cho anh là ngạo mạn và sẽ châm biếm anh. Cho nên anh đă dấu kín trong ḷng. Hai năm sau anh mới kể lại cho một số bạn bè trước cho một số người ít tuổi và về sau cho một số người lớn.
Vài người thân đứng tuổi của gia đ́nh Suleyman đề nghị đem Suleyman đi Gharife để phối kiểm các tin tức nói về tiền kiếp của Syleyman. Gharife cách xa Falougha chừng 30 cây số, thuộc một vùng khác phạm vi Lebanon. Muốn đi Falougha đến Gharife phải có lư do xác đáng. Gia đ́nh của Suleyman không quen ai ở Gharife cả và cũng không có một liên hệ nào với Gharife cả. Có một người trong gia đ́nh Suleyman làm việc tại Gharife trong một thời gian ngắn nhưng cũng không biết những lời kể của Suleyman đúng hay sai. Sau đó chính người này đến Gharife điều tra đă xác nhận những điều Suleyman kể lại đều rất đúng. Cùng lúc ấy có vài người khác công nhận tính cách trung thực của các sự việc trên.
Giống như trường hợp của Á Đông, câu chuyện của Suleyman được nhiều người biết đến. Một người anh em họ của Suleyman đă gặp vài người Gharife ở Saudi Arabia và được biết những lời kể của Suleyman rất xác thực. Người tên là Abdallah Abu Hamdan mà Suleyman nhận là tiền kiếp của ḿnh là chủ nhân một hăng dầu ép và làm tù trưởng nhiều năm trước khi chết v́ bệnh tim năm 1942 lúc 65 tuổi. Những người Gharife đă mời Suleyman đến thăm Gharife. Lúc đầu anh từ chối nhưng đến năm 1967 anh đă đi Gharife 2 lần, vào mùa hạ và mùa thu. Khi tới Gharife anh cảm thấy thẹn thùng và bỡ ngỡ. Người vợ góa của Abdallah Abu Hamdan và 2 người con c̣n sống tại Gharife nhưng anh không nhận ra họ và cũng không nhận được những người thân quyến. Anh nhận được 3 người khác và vài nơi tại Gharife. Có lẽ điều quan trọng nhất là anh đă chỉ một con đường có từ năm 1967 không c̣n sử dụng, con đường trước kia dẫn đến nhà Abdallah Abu Hamdan. Tuy nhiên tầm quan trọng của trường hợp Suleyman không nằm trong sự xác nhận của anh mà là những cá tính riêng biệt của anh phát sanh từ tiền kiếp. Trước khi Gharife, cũng như trong cuộc viếng thăm lần đầu, Suleyman đă 17 lần nói về tiền kiếp của anh. Những lời anh kể gồm có tên các con anh và các chi tiết khác về đời sống của anh. Những lời phát biểu của anh đều đúng ngoại trừ hai trường hợp: 1) Salim là em chứ không phải con anh, 2) Salim không bị mù mà Naseeb con anh mới bị mù.
Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này vào tháng 3 năm 1968 và tiếp tục cho đến năm 1972. Tôi đă phỏng vấn nhiều người tại Falougha và Gharife. Sau này Suleyman di cư sang Saudi Arabia và từ năm 1972 tôi không c̣n gặp Suleyman nữa. Khi Suleyman c̣n nhỏ tuổi anh đă tỏ ra phong thái một người lớn. Anh thích giao du với người lớn hơn là người đồng lứa tuổi và ngay cả giữa đám người lớn anh cũng chọn chỗ ngồi dành riêng cho những vị có đặc quyền. Anh không thích bị ai la rầy và khi ấy anh thường nói: "Đừng mắng tôi, tôi là người lớn mà". Suleyman thường sợ bị người khác chế nhạo nếu họ biết anh nhận là ông tù trưởng ở tiền kiếp. Gia đ́nh và bạn bè thường chế anh là "Ông Tù Trưởng". Điều này cũng không làm anh buồn mấy v́ một số người trong gia đ́nh đă tin anh và thân yêu gọi anh bằng cái tên này. Dĩ nhiên họ chỉ tin anh sau khi anh đă xác thực được những điều anh kể về tiền kiếp của Abdallah Abu Hamdan. Trong gia đ́nh Suleyman cũng tỏ ra là người mộ đạo hơn những người khác giống hệt như Abdallah Abu Hamdan. Trước khi chết, Hamdan đă trở thành tộc trưởng, một chức vị cao cấp mà nhiều người mơ ước.
Tôi thấy Suleyman không muốn đến thăm Gharife nên anh đă từ chối lần đầu. Gia đ́nh của Suleyman hiểu rơ hơn cho rằng anh không thích đi Gharife v́ anh không muốn nh́n lại những thảm kịch trong đời sống của Hamdan. Các con của Hamdan không mấy nên người, có nhiều thói hư tật xấu, một người th́ di dân sang Hoa Kỳ, một người th́ ăn ở với Hamdan không hiếu thuận. Trong những ngày cuối cùng Hamdan gặp khó khăn. V́ muốn giúp đỡ một người bạn Hamdan đă ngụy tạo một tài liệu khiến chính phủ khám phá ra được và Hamdan bị cất chức. Cuối cùng Hamdan đă đầu tư vào việc ép dầu nhưng t́nh trạng tài chánh eo hẹp nên việc buôn bán không kết quả. Việc đầu tư thất bại làm Hamdan buồn phiền, nhuốm bệnh rồi qua đời. Hamdan chết năm 1942, 12 năm trước khi Suleyman sanh ra đời. Được hỏi về thời gian 12 năm chưa luân hồi th́ Suleyman ở đâu, Suleyman trả lời không nhớ ǵ cả.
Với kư ức của Suleyman về tiền kiếp là Abdallah Abu Hamdan, tôi (Ian Stevenson) không nghĩ rằng những tin tức do Suleyman thâu lượm được bằng cách thông thường v́ hai làng cách xa nhau đến 30 cây số và hai gia đ́nh cũng không có liên lạc ǵ với nhau cả.
-14-
TIỀN THÂN BONGKUCH PROMSIN
Tác giả: Ian Stevenson
Bongkuch Promsin sanh ngày 12 Tháng 2 Năm 1962 tại làng Don Kha, Tỉnh Nakhon Sawan, Thái Lan. Ông Pamorn Promsin, cha Bongkuch là Hiệu Trưởng một trường Trung Học gần Don Kha. Tuy ông có kiến thức khá nhưng lương hàng tháng lại ít ỏi nên cuộc sống của gia đ́nh rất đạm bạc.
Ngay khi biết nói rành rẽ, Bongkuch đă hay kể chuyện về tiền kiếp của ḿnh. Bongkuch tả cho gia đ́nh nghe nhiều chi tiết về đời sống trước như em ở làng Hua Tanon cách Don Kha chừng 9 cây số, em có tên là Chamrat và c̣n nhớ tên cha mẹ của Chamrat. Em cũng kể ra các vật dụng mà em có như là con dao, chiếc xe đạp, và gia đ́nh ở tiền kiếp có nuôi 2 con bà.(Gia đ́nh hiện tại của em không nuôi bà). Em cho biết một chi tiết đặc biệt là đă bị hai tên sát nhân giết chết ở Hua Tanon. Họ đă đâm em nhiều nhát để lấy chiếc đồng hồ đeo tay và sợi giây chuyền của em. Sau đó họ đă vất thây em xuống ruộng. (Khi kể chuyện này Bongkuch chừng 2 tuổi). Bongkuch cho biết sau khi chết em ở trên một ngọn cây gần nơi bị giết một thời gian là bảy năm. Một hôm trời mưa em trông thấy người cha hiện tại (Pamorn Promsin) đi ngang, em đă theo ông về nhà bằng xe buưt. Cha của Bongkuch xác nhận là trước khi vợ ông mang thai Bongkuch, ông có đi Hua Tanon để dự một phiên họp và hôm đó trời mưa.
Mẹ của Bongkuch cho biết có lần Bà đi t́m măng ở khu vực xảy ra án mạng trước khi mang thai Bongkuch nhưng không nhớ rơ thời gian nào. Bà nói rằng Bà không đến nơi gia đ́nh Chamrat cư ngụ. Ông Pamorn Promsin v́ nghề nghiệp có quen biết vài thầy giáo ở Hua Tanon nhưng không có bà con hoặc bạn bè ở đấy. Cả hai vợ chồng đều xác nhận với tôi (Ian Stevenson) là không biết ǵ về vụ Chamrat, một thiếu niên bị giết cả. Những tin tức giết người của một làng như Hua Tanon có được loan truyền đến các vùng lân cận như Don Kha nhưng những vụ án mạng thời ấy thường hay xảy ra nên người ta không mấy quan tâm đến và hầu như đă quên vụ án xảy ra. Hơn nữa vụ án xảy ra nay đă trên 10 năm th́ tôi cho rằng dù cha mẹ Bongkuch có nghe kể vụ Chamrat bị giết cũng ít chú ư và gần như là quên ngay.
Chuyện Bongkuch kể về tiền kiếp của ḿnh đă đến tai gia đ́nh Chanrat và một vài người đă tới Don Kha thăm Bongkuch.(Lúc này Bongkuch chừng 2 tuổi rưỡi). Sau đó Bongkuch có theo gia đ́nh đến Hua Tanon. Những chuyến viếng thăm này chỉ có mục đích là để kiểm chứng những điều Bongkuch nói về tiền kiếp. Chuyện về tiền kiếp của Bongkuch là có thực. Hai người dính líu trong vô giết Chamrat, một người đă tẩu thoát được, c̣n một người tuy bị bắt nhưng được tha v́ thiếu chứng cớ. Tôi (Ian Stevenson) có thẩm vấn vài người cảnh sát hiện c̣n nhớ rơ vụ án, họ đă xác nhận những lời Bongkuch cho biết về vụ giết người rất là trung thực kể cả tên những người bị t́nh nghi.
Các báo cáo về trường hợp này đă được đăng trên báo chí Thái Lan vào tháng 3 năm 1965 và một thông tin viên đă gọi cho tôi. Bác Sĩ Sophon Nakphairaj (Giám Đốc Bệnh Viện của Chánh Pḥ Tỉnh Nakhon Sawan) đă điều tra vụ này năm 1965. C̣n tôi điều tra vụ này năm 1966. Tôi đă phỏng vấn cả hai gia đ́nh tại Don Kha và Hua Tanon. Tôi vẫn tiếp tục điều tra vào những năm sau đó, và lần chót tôi gặp cha mẹ Bongkuch vào năm 1980. Tính t́nh khác thường của Bongkuch đă khiến cho gia đ́nh em và sau ngay cả tôi cũng đều phải quan tâm đến em. Trong thời gian nói nhiều đến tiền kiếp gia đ́nh thường thấy em có nhiều tật xấu, chẳng hạn như cách thức rửa tay và đôi khi em nói những tiếng mà gia đ́nh không hiểu. Sở thích về ăn uống của Bongkuch không giống như những người trong gia đ́nh v́ gia đ́nh Chamrat là một gia đ́nh Lào. (Người Thái cho rằng những món ăn của người Lào không tinh khiết bằng những món ăn của Thái và tiếng nói lạ lùng chính là tiếng Lào). Gia đ́nh Bongkuch không có ai biết nói tiếng Lào ngay cả những người dân làng Don Kha. Bongkuch thích các món ăn Lào, chẳng hạn như món ăn cơm nếp mà người Lào ưa chuộng. Bongkuch thù ghét các người giết Chamrat và em hăm dọa là sẽ trả thù khi có dịp. Thỉnh thoảng em lấy một cây gậy nhỏ và đánh vào một cái trụ mà em tưởng tượng là kẻ thù đă giết Chamrat; em vừa đánh vừa gọi tên những kẻ sát nhân. Có lúc em nghĩ rằng em là một người lớn bị tù túng trong một thân h́nh đứa nhỏ cho nên em có cử chỉ của một người lớn. Em đánh răng (Trẻ con Thái Lan thường không đánh răng). Đặc biệt có lần em đă tới tiệm hớt tóc để xin cạo râu. Em không để ư đến những bộ gái cùng lứa tuổi mà chú ư đến các thiếu nữ. Một hôm có một thiếu nữ đến thăm gia đ́nh em và dự định ở chơi ít bửa, nhưng v́ thái độ mơn trớn ve văn của em khiến thiếu nữ bực ḿnh phải ra về sớm. Ngoài tính hơi phóng đăng, đôi khi anh lại muốn xuất gia đầu Phật. Hai bản chất trái ngược này của Bongkuch rất phù hợp với tính t́nh của Chamrat. Trước khi chết, Chamrat có gắn bó với một người bạn gái, Chamrat cũng đặc biệt lưu ư đến tôn giáo và anh muốn trở thành một thầy tu. (Điều này không có ǵ là bất thường v́ ở Thái Lan, rất nhiều thanh niên vào Chùa tu một thời gian và sau đó trở về đời sống cư sĩ và lập gia đ́nh).
Khi Bongkuch càng lớn lên th́ trí nhớ về tiền kiếp càng mờ dần. Trong làng, các trẻ khác vẫn thường chế nhạo em là "đứa trẻ có hai đời sống", điều này làm em muốn quên kư ức. Đến năm 10 tuổi th́ em không c̣n kể chuyện với ai về tiền kiếp của ḿnh nữa Kư ức mờ nhạt dần với thời gian, em đă trở lại hoàn toàn b́nh thường.
Năm 1980, vào lần cuối cùng tôi (Ian Stevenson) gặp lại em, lúc này em đă 18 tuổi đang theo theo học ở một trường Tỉnh Nakhon Sawan. Một điều mà em không bỏ được là tính thích ăn cơm nếp như những người Lào.
-15-
TIỀN THÂN CỦA GILLIAN VÀ JENNIFER POLLOCK
Tác Giả: Ian Stevenson
Gillian và Jennifer Pollock, hai chị em sanh đôi, sanh ngày 4 tháng 10 năm 1958 tại Hexam Northumberland, Anh Quốc. Trong khoảng thời gian từ hai tuổi đến bốn tuổi, 2 em thường nhắc đến cuộc đời của 2 người chị có tên là Joanna và Jacqueline. Ngày 5 Tháng 5 Năm 1957, một người điên lái xe hơi đă đâm lên vỉa hỗ tông vào Joanna và Jacqueline đang đi bộ làm hai em chết ngay tại chổ. Lúc xảy ra tai nạn, Joanna được 11 tuổi và Jacqueline 6 tuổi.
Thảm kịch làm cho ông bà Pollock đau đớn. Tuy nhiên Ông John Pollock vùng tin ở luân hồi nhưng vợ ông th́ không. Vào đầu năm 1958 khi bà mang thai ông quả quyết rằng Joanna và Jacqueline đă đầu thai song sanh để trở lại với gia đ́nh. Bất chấp hồ sơ y khoa đă ghi nhận Bà Florence Pollock chỉ sanh một người con, ông John Polloch vẫn tin là vợ ông sẽ sanh đôi.
Đúng như sự dự đoán của ông, vợ ông đă sanh đôi. Ông bà Pollock nhận thấy em Jennifer có hai bớt cùng một cỡ và cùng một vị trí như 2 vết bớt trên người Jacqueline, một vết trên trán gần sống mủi Jacqueline. Jacqueline có vết thẹo này là v́ bị té, c̣n vết kia là một mụn ruồi mầu nâu ở phía trái thắt lưng của Jennifer giống y như Jacqueline.
Trong thời gian từ 2 đến 4 tuổi, hai chị em song sanh thường nói đến đời sống của 2 người chị đă chết. Hai em nhận ra vài món đồ chơi mà chị của chúng đă chơi trước kia và tỏ ra rất quen thuộc như đă từng có. Ông Bà Pollock xác nhận là ông bà cũng không bao giờ đề cập đến 2 đứa con đă chết với đôi trẻ song sanh và chúng cũng chưa bao giờ nh́n thấy các đồ chơi trước khi chúng nhắc đến hai người chị.
Jennifer thường ỷ lại vào chị là Gillian cũng như trước đây Jacqueline thường nương tựa vào Joanna. Khi hai em bắt đầu học viết th́ Gillian, ngay từ buổi ban đầu đă biết cầm bút một cách rành rẽ giữa các ngón tay, c̣n ngược lại Jennifer th́ cầm cây viết bằng cả nắm tay. Joanna lúc chết đă 11 tuổi nên đă biết viết c̣n Jacqueline chỉ mới 6 tuổi c̣n đang tập viết nên cầm cây viết bằng cả nắm tay.
Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này năm 1964 và thường xuyên liên lạc với gia đ́nh Pollock cho đến năm 1985. Ḷng nhiệt thành tin vào luân hồi của ông Pollock có thể làm cho trường hợp bị suy giảm và một số người không tin rằng hai ông bà hay những người khác trong gia đ́nh đă không nói trước mặt 2 em về cái chết của 2 người chị. Để trả lời việc nói rằng quan niệm quá tin tưởng về luân hồi của ông có thể làm thiệt hại cũng như sai lạc hẳn ư nghĩa của trường hợp, ông đă khôn khéo trả lời việc đó cũng có nhưng chỉ một phần nào thôi. Việc không dấu diếm về luân hồi khiến ông ghi nhớ các nhận xét và các tính t́nh của 2 đứa con song sanh giống như 2 đúa chị đă chết nhưng hầu hết các bậc cha mẹ người Âu Châu thường không tin mà c̣n nhạo báng.
Năm 1978 tôi (Ian Stevenson) đă thử máu 2 chị em song sanh để xem chúng sanh ra từ một trứng hay hai trứng. Cuộc thử máu này cho thấy hai chị em do một trứng sanh ra, có nghĩa là cùng một chủng tử. Có những người cho rằng những vết bớt trên người Jennifer là do di truyền nhưng nếu như vậy th́ Gillian cũng phải có các vết bớt đó; đằng này Gillian không có vết nào cả. Những vết bớt trên Jennifer lại trùng hợp với những vết bớt trên người Jacqueline cả về kích thước lẫn vị trí. (Phải chăng Jennifer chính là hiện thân của Jacqueline nên đă có những vết này).
Gillian và Jennifer đă lớn lên b́nh thường như mọi người và hầu như đă quên hẳn những chuyện khi c̣n thơ ấu thường hay kể kư ức về tiền kiếp. Lần tôi gặp hai cô vào năm 1985, hai cô không c̣n nhắc ǵ đến tiền kiếp của ḿnh nữa tuy nhiên hai cô cũng không từ chối các bằng chứng trước đây mà ông bà Pollock đă nhận thấy khi hai cô c̣n thơ ấu.
-16-
SAMUEL HELANDER
Tác Giả: Ian Stevenson
Samuel Helander sanh ngày 15 tháng 4 năm 1976 tại Helsinki, Phần Lan, Âu Châu. Từ một đến hai tuổi em thường nói đến đời sống của người cậu (em trai mẹ) có tên là Pertti Haikio. Về sau càng lớn Samuel càng giống tính t́nh của cậu Pertti.
Tôi điều tra vụ này vào năm 1978 và năm 1981. Những người cung cấp tin tức cho tôi gồm có mẹ Samuel, bà ngoại Samuel, người này cũng là mẹ của Pertti.
Pertti Haikio sanh ngày 8 tháng 6 năm 1957 tại Helsinki, Phần Lan, chết v́ bệnh tiểu đường ngày 10 tháng 6 năm 1975 khi vừa 18 tuổi. Vài tháng trước khi chết, Pertti mắc bệnh tiểu đường trầm trọng - đă uống thật nhiều nước mà gia đ́nh không ai để ư đến việc này - Pertti đă bị bất tỉnh và chết.
Mẹ Pertti, Bà Anneli Lagerqvist (đă tái giá sau khi ly dị với cha Pertti) và người con gái là Marja Helander mẹ của Samuel) rất buồn thảm sau cái chết của Pertti. Lúc có mang Samuel được 10 tuần, Marja có ư định muốn phá thai. Trong một giấc mộng, Marja nằm mơ thấy Pertti căn dặn "đừng phá thai, hăy giữ đứa nhỏ".
Khi Samuel được 1 tuổi rưỡi, được hỏi đến tên th́ Samuel trả lời "Pelti". (Ở thời điểm này và sau một thời gian nữa Samuel không nói rơ được vần r trong chữ Pertti). Gia đ́nh rất lấy làm lạ v́ đă nhiều lần căn dặn tên là Samuel nhưng em cứ nhất định là Pelti (sau này th́ Pertti). Năm lên 6 tuổi Samuel vẫn cho ḿnh là Pelti. Tuy nhiên em không từ chối lại gần mẹ mỗi lần bà gọi em là Samuel. Samuel đă nhớ một vài điều liên quan đến tiền kiếp chẳng hạn nhận ra vài người trong ảnh hay vài món đồ quen thuộc của Pertti. Những tấm h́nh chụp Pertti khi chưa tới 10 tuổi thường làm Samuel chú ư. Nh́n vào một bức h́nh Pertti lên ba, Samuel nói rằng lúc chụp tấm h́nh này Pertti bị chó cắn vào bắp chân trong khi Samuel chưa bao giờ bị chó cắn và nghe ai nói đến việc Pertti bị chó cắn. Bức h́nh cũng không có dấu vết ǵ cho biết Pertti bị chó cắn. Nh́n một bức h́nh Pertti mang nạng, Samuel nói đó là h́nh Samuel, em đă phải nằm nhà thương để băng bột đôi chân. Khi tôi (Ian Stevenson) đến Helsinki để t́m hiểu, tôi có được xem tấm h́nh này. Tấm h́nh chụp Pertti mang nạng và người ta có thể đoán là Pertti bị thương đôi chân nhưng bực h́nh không có dấu vết ǵ cho biết đôi chân Pertti đă bị băng bột trước khi chụp h́nh. Vào khoảng 4 tuổi Pertti đă bị tai nạn gẫy 2 chân. Và lúc nói ra điều này th́ Samuel cũng khoảng gần 4 tuổi. Mỗi dịp thấy h́nh của Pertti, Samuel đều nhận là h́nh của em. Nh́n tấm h́nh cha Pertti, Samuel nói "Đây là h́nh cha tôi". Bà Marja vẫn dấu tấm h́nh này v́ sợ người chồng sau ghen tuông nên quả quyết là Samuel chưa bao giờ nh́n thấy tấm h́nh đó cả. Samuel cũng nhận được nhiều món đồ của Pertti: một cây đàn lục huyền cầm, một cái áo lạnh bằng nhung sọc và một chiếc đồng hồ có vứt trong một ngăn tủ, toàn đồ linh tinh bỏ đi. Khi thấy chiếc đồng hồ, Samuel vội chụp ngay, nói là của em và xin được giữ lại mặc dầu chiếc đồng hồ đă mất cả quai. Khi ngủ có lúc em để dưới gối, có lúc cất trong ngăn kéo giường.
Hỏi về cái chết của Pertti th́ Samuel nói rằng Pertti đă được quàn tại một nơi có nhiều quan tài, có vài chiếc được mở nắp. (Samuel chưa bao giờ được dẫn tới một nhà quàn nào cả). Xác của Pertti sau khi chết được mang tới một nhà quàn. Samuel c̣n cho biết mẹ Pertti (Bà Ngoại Samuel) đă khóc thảm thiết như thế nào. Khi được đưa tới nghĩa trang, Samuel đă chỉ vào ngôi mộ Pertti mà nói rằng "Đây là mộ tôi".
Bà ngoại cũng như mẹ Samuel đều nhận thấy Samuel có cá tính giống Pertti. Khi Pertti c̣n nhỏ có lần bị uống nước trong bồn tắm nên đă sợ nước, sau đó khoảng 15, 16 tuổi Pertti lại bị ngă từ một cầu tầu xuống biển, suưt chết dưới nước sau tai nạn này, Pertti càng bị nước ám ảnh. V́ vậy Pertti không bao giờ bơi lội cả. Samuel cũng vậy, em rất sợ nước, tắm với Samuel là "một cực h́nh" - nên em luôn luôn phản đối mỗi lần phải tắm. Khi bắt đầu biết nói, Samuel gọi Bà Anneli Lingerqvist là "Mẹ" (Bà ngoại Samuel và là mẹ Pertti) c̣n mẹ ruột của em là Marja Helander th́ em lại gọi bằng tên và nói "Bà không phải mẹ tôi đâu". Samuel thường tỏ ra âu yếm và quyến luyến Anneli (Bà Ngoại) và thường đ̣i bú sửa của Bà. Măi đến khi lên 5, Samuel mới thôi không gọi Bà Anneli là "Mẹ" nữa.
Khi Pertti c̣n sống, cứ vào chiều ngày lễ Giáng Sinh, khi mọi người thân đă quây quần đầy đủ, Pertti có thói quen đi hôn từng người một. Trong gia đ́nh chỉ có ḿnh Pertti làm vậy. Vào Giáng Sinh năm 1978 khi được 2 tuổi rưỡi Samuel đi ṿng quanh pḥng và hôn từng người một y như Pertti đă làm ngày trước. Samuel cũng có hai bộ điệu giống như Pertti, khi đứng th́ chân trước chân sau và tay th́ chống nạnh, khi đi th́ hai tay chắp đằng sau lưng. Trong gia đ́nh không một ai có cử chỉ như trên cả.
Qua sự thực và những bằng chứng hiển nhiên đă được phối kiểm về trường hợp luân hồi này, Pertti chết năm 18 tuổi vào ngày 10 tháng 6 năm 1975 đă tái sanh ngày 15 tháng 4 năm 1976 làm con của chị ruột là Marja Helander và mang tên hiện nay la Samuel Helander.
-17-
ROBERTA MORGAN
Tác Giả: Ian Stevenson
Tôi được biết trường hợp luân hồi này vào tháng 2 năm 1971 khi Bà Shirley Morgan, mẹ của Roberta ở Minnesota điện thoại đến Đại Học Đường Virginia nói là từ mấy năm nay Roberta, con Bà cứ quả quyết là có "cha mẹ" khác. Em muốn đến thăm nhưng gần như tuyệt vọng. Em nói em đă hứa về thăm cha mẹ khác này và em muốn giữ đúng lời hứa.
Roberta sanh ngày 28 tháng 8 năm 1961 và đến tháng 2 năm 1971 em được 9 tuổi rưỡi. Em bắt đầu nói về tiền kiếp từ khi em khoảng 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi (1). Bà Morgan cho biết trong khoảng thời gian này em nói nhiều đến tiền kiếp nhưng lúc này Bà chưa hiểu về luân hồi nên cho rằng Roberta nói vớ vẩn mà thôi. Về sau nhờ đọc sách và suy luận Bà mới thấy là Roberta quả đă nhớ được tiền kiếp của ḿnh và sự việc Bà cấm đoán không cho Roberta nói về tiền kiếp là sai.
(1) Nhưng đến năm 1971, em đă thôi nhắc tới, tôi sẽ nói rơ lư do sau.
Đến năm 1971, sau khi có ít khỏi niệm về luân hồi, Bà cảm thấy có trách nhiệm là phải t́m ra gia đ́nh tiền kiếp của Roberta. Sau khi được điện thoại của Bà, tôi có liên lạc với Bà và yêu cầu Bà viết ra tất cả những ǵ mà Roberta nhớ được về tiền kiếp của em. Bà Morgan đă làm theo những lời tôi dặn và đă trả lời những câu hỏi của tôi trong những thư kế tiếp.
Tháng 7 năm 1972 tôi đến Minnesota thăm Roberta và Bà Shirley Morgan - (tôi không gặp cha Roberta) - Roberta đă tỏ ra thân thiện với tôi nhưng vào lúc này em đă quên hẳn tiền kiếp của ḿnh. Qua các cuộc đàm thoại và các tin tức Bà Morgan cung cấp cho tôi được biết câu chuyện như sau.
Trong thời kỳ em hay nhắc đến tiền kiếp th́ em cư xử giống như một người con nuôi. Em nhớ rơ căn nhà của gia đ́nh em. Nhà em trên một ngọn đồi không có nhà nào kế bên và phải đi qua một con đường đất dài mới tới. Gia đ́nh em có một trang trại nuôi ngựa và chó. Có lần lúc 4 tuổi em được đưa tới chuồng ngựa, em đă đi thẳng lại những con ngựa và cho chúng ăn. Có người hỏi em: "Em có sợ ngựa không?" Em đă trả là i: "Không em đă cưỡi ngựa nhiều lần ". Roberta cũng nói đến chiếc xe hơi của người cha. Em không nhớ rơ là xe chở khách hay xe chở hàng nhưng xe này thỉnh thoảng người cha của em vẫn chạy. Roberta nói rằng: "Cha và mẹ khác cũng sống ở thành phố này " (Thành phố này khác thành phố mà tôi đến thăm họ). Có một lần cùng ngồi xe với mẹ, Roberta đă chỉ một con đường nói là em ở đó. Em cho biết con đường đất cũng dẫn đến xa lộ. Em muốn xuống xe đến thăm ngôi nhà xưa nhưng Bà Morgan ngăn cản v́ lúc đó Bà chưa hiểu ǵ về luân hồi nên đâu có để ư đến lời nói của một đứa trẻ. Roberta đă cằn nhằn mẹ nhiều ngày v́ Bà không dẫn em đến thăm cha mẹ ở tiền kiếp nhân dịp tốt này.
Roberta đ̣i mẹ mua những đồ chơi giống như đồ chơi mà em thường có, khi nghe mẹ nói không biết đó là những đồ chơi nào th́ Roberta bảo rằng là Bà kém thông minh. Và một lần khác em đă gắt gỏng v́ Bà không nhớ đến tiền kiếp của em, theo em Bà Morgan phải biết đến tiền kiếp của em.
Quả là Roberta đă nhớ rất rơ tiền kiếp. Về người mẹ ở tiền kiếp Roberta nói với Bà Morgan: "Mẹ (hiện tại) cư xử giống hệt như người mẹ trước của con nhưng Bà ấy nh́n không giống mẹ". Roberta khen người mẹ trước nội trợ giỏi nhất là về nấu ăn. Khi Bà Shirley Morgan nấu vài món ăn mới cho bửa cơm chiều th́ đôi khi Roberta lại nói là em đă ăn nhiều lần món ăn này. Một hôm Bà Morgan nấu món bắp nhồi sẽ để dành cho gia đ́nh một ngạc nhiên. Khi Bà đặt món ăn lên bàn Roberta đă không ngạc nhiên chút nào c̣n nói: "Con đă ăn nhiều lần món này, mẹ không nhớ là mẹ trước của con thường nấu món này sao". Em đă dùng một tên khác để gọi món ăn này nhưng Bà Morgan không c̣n nhớ. Bà Morgan hỏi Roberta cách nấu món ăn này của người mẹ trước, Roberta đă kiên nhẫn tả lại. Roberta cũng cho rằng mẹ hiện tại ngu xuẩn không biết chùi các cửa kiếng như người mẹ trước. Ngoài ra Roberta thường xen vào câu chuyện của cha mẹ và phát biểu nhiều ư kiến mà theo mẹ em em không thể nào biết như vậy. Roberta cho vài manh mối về thời đại em sống ở kiếp trước chẳng hạn như em không thích mặc quần áo kiểu cọ, gia đ́nh có xe hơi, đa số các chủ trại đều có xe hơi. Roberta c̣n nhấn mạnh cha mẹ trước của em c̣n sống và cố gắng t́m thế nào cũng thấy.
Roberta có khuynh hướng mặc quần áo con trai. Em không muốn làm con gái. Em thích các đồ chơi dành cho con trai. Khi Bà Morgan hỏi thẳng rằng em chết như thế nào th́ em trả lời "Con không chết, con chỉ xa cha mẹ một thời gian, con đă nói với họ là con sẽ trở về". Không bao giờ em nói là em yêu mến cha mẹ trước của em hơn nên Bà Morgan nghĩ rằng Bà là người được Roberta thương mến nhiều hơn. V́ em không nhớ tên cha mẹ nên Bà Morgan không thể nào kiếm ra được gia đ́nh tiền kiếp của em.
Bà Shirley Morgan cùng chồng là người Cơ Đốc Giáo - Bà là thành viên của Hội Cơ Đốc nên không bao giờ được nghe về luân hồi cả. V́ không hiểu luân hồi nên thời gian Roberta nói về tiền kiếp Bà chẳng những đă không khuyến khích mà c̣n bực ḿnh nữa. Lại nữa Roberta đă so sánh Bà với người mẹ ở tiền kiếp nên Bà không thích Roberta nói về tiền kiếp. V́ vậy cho nên mỗi lần nói đến tiền kiếp là Bà tức giận và đánh Roberta. Sợ bị trừng phạt nên Roberta đă phải ngừng không dám nói về tiền kiếp nữa. Dù vậy, đến năm 4 tuổi hỏi em, em cũng vẫn nói là em đă có nhiều lần cưỡi ngựa.
Sau này Bà Shirley Morgan cảm thấy hối hận và bị ám ảnh bởi những lời ghi nhận của Roberta và Bà đă đổi ư muốn đi t́m lại cha mẹ ở tiền kiếp cho Roberta. Bà đă rất ân hận v́ đă đánh đập Roberta, cấm đoán em nói về tiền kiếp khiến em không dám nói về tiền kiếp nữa và cũng v́ vậy việc t́m kiếm không thể thực hiện được. Nếu trong thời gian Roberta nói về tiền kiếp, Bà không đánh đập em, khuyến khích em, rất có thể em nhớ lại tên cha mẹ em ở tiền kiếp. Rất tiếc là khi Bà Shirley Morgan thay đổi thái độ th́ Roberta đă 9 tuổi ruỡi rồi nên không c̣n nhớ ǵ về tiền kiếp cả.
Sau khi thăm gia đ́nh Roberta vào mùa hè năm 1972, tôi không c̣n liên lạc với gia đ́nh này nên không c̣n biết ǵ hơn về trường hợp này nữa.
-18-
TIỀN THÂN CỦA SUSAN EASLAND
Tác Giả: Ian Stevenson
Lần đầu tiên tôi biết trường hợp này vào năm 1968 khi tôi nhận được thư của Bà Charlotte Eastland. Sau khi đọc các bài tham cứu của tôi trên các tạp chí, Bà đă viết thư cho tôi những ǵ mà con gái Bà là Susan nói về tiền kiếp. Susan có nhiều kư ức về người chị gái tên là Winnie đă chết.
Tôi đă thư từ liên lạc với Bà Eastland trong năm 1968 và đầu năm 1969. Tới mùa thu năm 1969 tôi đến thăm Bà ở Idaho. Tại nhà Bà, tôi đă gặp Susan, nhân vật chính của câu chuyện và người con gái lớn của Bà là Sharon. Tôi rất tiếc không được gặp Ông Robert Eastland, người chồng sau này của Bà v́ Ông Robert đă nhiều lần mục kích Susan nói về tiền kiếp.
Winnie là con của Bà Charlotte Eastland lên 6 tuổi rất dễ thương đă bị xe đụng chết vào năm 1961. Cái chết đột ngột của Winnie làm gia đ́nh Bà Eastland rất đau buồn. Bà cầu mong Winnie được tái sanh trở lại với gia đ́nh. Lúc này Bà chỉ có ư niệm mơ hồ về luân hồi. Bà kể cho tôi nghe là ở Ấn Độ người ta nói rằng con người có thể tái sanh làm con vật (theo Bà cũng không thể) chứ không nghe nói một người chết có thể tái sanh thành người khác được.
Sau khi Winnie chết được 6 tháng, người con gái lớn nhất trong gia đ́nh là Sharon nằm mơ thấy Winnie trở về với gia đ́nh. Rồi hai năm sau Bà Eastland mang thai Susan th́ Sharon cũng lại nằm mơ thấy Winnie trở về. Năm 1964 Bà Eastland c̣n đang ở trong nhà Bảo Sanh chờ sanh Susan th́ người chồng trước của Bà (cha của mấy đứa con Bà) có nghe thấy Winnie nói: "Thưa Ba con đang trở về". Hai năm trước gia đ́nh đă mất đứa con gái là Winnie th́ nay Susan ra đời, ai nấy đều thầm mong Susan chính là Winnie tái sanh.
Khi được hai tuổi, Susan bắt đầu nói ít nhiều đến đời sống của Winnie. Nếu có ai hỏi Susan năm nay bao nhiêu tuổi th́ Susan trả lời là sáu tuổi (tuổi lúc Winnie bị chết). Khi lên năm tuổi, Susan có vẻ già dặn hơn tuổi, Susan cả quyết là lớn hơn người anh tên Richard đang 11 tuổi. Winnie lớn hơn Richard 3 tuổi, cho nên nếu là Winnie th́ điều này rất đúng, c̣n là Susan th́ sai hoàn toàn!
Được xem hai tấm ảnh của Winnie, Susan nhất định "Đó là h́nh tôi mà". Không những thế Susan c̣n đ̣i gĩù những tấm ảnh nữa. Một cái Susan treo chỗ giường ngủ, c̣n một cái th́ mang theo người trong một thời gian.
Susan chưa bao giờ được gọi bằng tên Winnie, nhưng có một lần, Susan cầm lấy cây bút chờ viết nguệch ngoạc vào cánh cửa nhà bếp chữ "Winni". Em bỏ sót chữ e và viết chữ I nghiêng thay v́ thẳng. Trong thời gian này, Susan thường nói câu: "Khi nào tôi đi học tôi sẽ chơi đu ở trong trường". Susan chưa đi học, em vẫn ngồi đu ở sân nhà. Winnie khi xưa lúc bắt đầu đi học trước khi bị chết thảm vẫn hay chơi đu ở trong trường.
Khi Winnie c̣n sống, Bà Eastland có một lọ bánh có h́nh con mèo. Mỗi khi đứa nào muốn ăn, Bà thường hỏi con mèo có thể cho con Bà mấy chiếc và Bà giả bộ nói giọng con mèo trả lời: "Meo, con có thể lấy một chiếc" (Số bánh thay đổi tùy theo đứa trẻ đ̣i nhiều hay ít). Khi Winnie chết Bà cất cái lọ đi và quên hẳn đă mấy năm. Lúc Susan lên 4, Bà Eastland lại mang cái lọ ra và bỏ vào đầy bánh. Susan đ̣i một chiếc, Bà vô t́nh hỏi Susan "Con mèo nói sao?", không suy nghĩ Susan trả lời: "Meo, con có thể lấy một chiếc". Bà Eastland không thể ngờ Susan có thể trả lời đúng ngay câu hỏi mà xưa kia Bà thường dùng khi kể tới chi tiết này. Bà có nhận xét tinh tế là một đứa trẻ thông minh như Susan có thể trả lời được câu hỏi và tôi muốn thêm là có thể trả lời đúng bởi thần giao cách cảm, nhưng đúng từng chữ, từng câu là việc khó. Chỉ có thể nói rằng Susan chính là Winnie xưa kia mới lập lại được mà thôi.
Susan sau đó kể thêm vài chuyện nữa khi Winnie c̣n sống. Susan đă kể lại một cuộc đi chơi bờ biển cùng gia đ́nh em có bắt được một con cua và c̣n nói được tên những người tham dự cuộc đi chơi hôm đó. Bà Eastland nhớ là một năm trước khi Winnie chết gia đ́nh Bà có đi chơi bờ bể của Tiểu Bang Washington. Họ nhảy sóng, nghịch cát, nhặt vỏ ṣ và bắt hến. Tuy nhiên Bà không nhớ họ có bắt được con cua hay không. Susan kể chính xác tên 3 trong số 4 người tham dự, em đă quên người cha kế sau này. Em c̣n đính chính lại là có cả cha em (cha của Winnie) và cũng cho biết đă cùng với Sharon đi chơi đồng cá, Susan không biết sợ ngựa và đă có lần đi dạo dưới chân ngựa. Sự việc đúng như vậy, Winnie trước đây đă từng chơi với Sharon trên băi cá, không sợ ngựa và cũng có lần đi dạo dưới chân ngựa.
Bà Eastland hỏi Susan có nhớ Cậu Bé Gregory ở trước nhà không th́ Susan cho biết c̣n nhớ và c̣n cho biết là thường chơi với Greg (tên tắt của Gregory). Bà Eastland chưa bao giờ nói với Susan về Gregory cả, thế mà Susan vẫn biết được.
Hỏi Susan c̣n nhớ Chú George ở phố trên không? Susan nói không c̣n nhớ căn nhà của Chú thế nào nhưng có nhớ Chú và c̣n thêm rằng: "Con có thói quen ngừng lại thăm Chú và chơi ở nhà Chú một lát trước khi tới trường". Ngày Winnie bị xe đụng chính là ngày em ngừng lại để chơi với Chú George. Cậu Bé Gregory và Chú George cùng ở chung một thành phố với Winnie trước khi em chết, c̣n Susan th́ được sanh và sống tại một thành phố khác nhỏ hơn ở Idaho.
Quư Vị Độc Giả thấy ở đây mẹ của Susan thỉnh thoảng đă gợi lại trí nhớ tiền kiếp của Susan bằng cách hỏi em các sự việc trong đời Winnie tuy có thể biết được tiền thân của em nhưng mặt khác lại có thể đưa đến sự lầm lẫn, nhất là đối với một người thông minh và thận trọng như Bà Eastland. Một lần khác Bà Eastland kể cho Susan rằng Winnie dă làm mất đôi giầy mới ngoài cánh đồng. Lần ấy Susan cười và nói rằng em không quan tâm đến việc mất đôi giầy. Em c̣n thêm: "Mẹ phải lên phố mua cho con đôi giầy mới nữa". Sự việc xảy ra đứng như vậy, Winnie chỉ mất một đôi giầy trên cánh đồng.
Đến cuối năm 1969, tôi vẫn theo dơi trường hợp luân hồi này. Cho đến năm 1977 khi tôi liên lạc với Bà Eastland để phối kiểm lại một số chi tiết th́ có một sự việc khác Susan vừa nhớ được như sau:
Susan cho biết có lần em theo Bà Eastland đến một băi chơi ném bóng, trong lúc mẹ em ném bóng, em (Winnie) đi mua kẹo ở một khu vực gần đấy. Một em trai ở đấy đang chạy quanh đến ôm và hôn em (Winnie). Bà Eastland nhớ rơ chuyện này khi Bà kể chuyện cho chồng Bà nghe, Ông rất giận dữ.
Susan nhắc lại những kư ức về Winnie với vẻ tha thiết như nhắc lại những sự việc của chính ḿnh đă xảy ra "từ lâu".
Trong một lá thư gửi cho tôi, Bà Eastland viết: "Susan học rất tấn tới, h́nh như nó biết và chỉ cần nhớ lại mà thôi. Bà nhận thấy tính nết cũng như hành động của Susan giống hệt như Winnie ngày trước. Cả hai đều tháo vát, lanh lợi và ngăn nắp khác hẳn người chị Sharon tính nết rụt rè nhút nhát. Tuy nhiên về h́nh dáng th́ Susan không giống Winnie. Winnie có tóc đỏ và mắt nâu sậm c̣n Susan th́ tóc vàng, mắt xanh. Nhưng cả hai cùng có lông mọc đằng sau lưng. Cha các em cũng vậy, mà mấy đứa khác lại không. Susan cũng có một vết thẹo nhỏ bên hông trái đúng chỗ Winnie bị xe đụng gây ra vết thương trầm trọng khiến bị tử nạn. (Tôi có bản sao hồ sơ y khoa của bệnh viện nơi Winnie được mang tới sau tai nạn và chết ở đó).
Qua những kư ức về tiền kiếp mà Susan nhớ lại, Winnie đứa con gái của Bà Eastland đă chết năm 1961, và tái sanh năm 1963 cũng tại gia đ́nh Bà và mang tên mới là Susan. Trường hợp này xảy ra ở Hoa Kỳ, trong một gia đ́nh theo đạo Cơ Đốc không chấp nhận thuyết luân hồi. Khi tôi đến thăm, Bà Eastland cho biết người ta có thể trục xuất Bà ra khỏi cộng đồng Cơ Đốc nếu biết được Bà có niềm tin vào thuyết luân hồi. Bà đă khám phá ra tính cách hấp dẫn và lôi cuốn của thuyết này, dù rằng Bà vẫn luôn theo đúng tôn chỉ các Nhà Thờ Cơ Đốc Giáo đề xướng ra. Bà quả quyết với tôi là cho tới khi tôi đến thăm Bà vào mùa hè năm 1969 Bà chưa hề kể cho các con Bà niềm tin tưởng của Bà là Susan chính là Winnie tái sanh. Tuy nhiên, sau lần ấy, Bà đă kể cho chúng để giải tỏa các thắc mắc của chúng về lư do thăm viếng của tôi.
-19-
TIỀN THÂN CỦA MICHAEL WRIGHT
Tác Giả: Ian Stevenson
Tôi bắt đầu điều tra vụ luân hồi này từ khi người mẹ của Michael là Bà Catherine Wright gọi điện thoại cho tôi. Người đồng sự của tôi nói chuyện với Bà Wright trước nhận thấy vẻ hốt hoảng khi Bà báo tin cho hay con trai Bà, Michael, nói đến tiền kiếp và nhận là người yêu có của Bà trước khi Bà lấy người chồng hiện tại. Người bạn này tên là Walter Miller đă bị chết trong một tai nạn khi xe của Walter đâm xuống ruộng.
Tuy không tin có luân hồi, nhưng Bà Wright lại rất tin tưởng vào những hiện tượng lạ kỳ. Vào tháng 9 năm 1978, Bà gọi điện thoại đến Đại Học Đường Virginia. Một tháng sau tôi mới đến Texas để phỏng vấn Bà. (Hầu hết các tin tức thâu lượm được trong nội vụ đều do cuộc phỏng vấn này và một cuộc phỏng vấn khác cách đó một năm do Emily William Cook, cộng sự viên của tôi phụ trách). Qua cuộc phỏng vấn, tôi nhận thấy Bà và Bà mẹ của Bà tin tưởng có luân hồi, ngược lại người chồng th́ không. Nghĩ cho cùng th́ chồng của Bà không đồng quan điểm cũng phải v́ vui vẻ sao được khi người bạn trai của vợ ḿnh đă chết lại tái sanh làm đứa con của gia đ́nh. Sở dĩ Bà Wright lấy người chồng hiện tại v́ người bạn trai Walter Miller đă chết; phải chăng Walter Miller chưa chết hẳn mà lại tái sanh để xâm nhập vào gia đ́nh của ông?
Trong khoảng thời gian từ lúc gọi điện thoại cho tôi vào tháng 9 năm 1978 đến lần viếng thăm Bà vào cuối tháng 10, Bà Wright đă không quan tâm đến sự hờn giận của người chồng và kể hết những điều mà con Bà, Michael, đă nói về tiền kiếp. Bà cho biết chồng Bà cũng phỏng đoán Michael là hiện thân của Walter Miller, người bạn trai có của Bà.
Trở lại người bạn trai của Bà, Walter Miller, chết vào mùa hè năm 1967 lúc chưa đầy 18 tuổi. Là một học sinh trung học phổ thông, có triển vọng về hội họa, Walter Miller dự tính vào đại học năm thứ nhất vào mùa thu năm đó. Walter và Catherine đă biết nhau 3 năm, đă hẹn hà nhiều lần và đă cùng nhau đính ước.
Một đêm Walter Miller cùng người bạn là Henry Sullivan đi dự khiêu vũ về, v́ quá chén nên lúc về Walter ngủ gục trên tay lái khiến chiếc xe đâm xuống ruộng và Walter chết liền tại chỗ, c̣n người bạn th́ không sao cả.
Walter chết, Catherine đau xót, nhưng nàng cố đè nén cơn xúc động, Một năm sau, năm 1968, Catherine lấy Frederick Wright, người bạn trai khác. Họ có con gái đầu ḷng rồi Michael ra đời. Trước khi chuyện này xảy ra, vào khoảng một năm sau cái chết của Walter, Catherine đă mơ thấy Walter tái sanh. Walter nói rằng anh không chết, anh sẽ trở lại và tiếp tục vẽ chân dung cho Catherine. Catherine nghĩ rằng có thể Walter luân hồi, sẽ tái sanh vào một gia đ́nh nào đó, có thể vào gia đ́nh người chị của Walter là Carole Davis v́ Carole có mang vào thời điểm này và không bao giờ có ư nghĩ là Walter sẽ đầu thai vào làm con ḿnh.
Michael sanh ra b́nh thường, thời thơ ấu có đôi khi khó thở. Năm lên ba, Michael bắt đầu nói về tiền kiếp, kể những sự việc xảy ra mà một đứa trẻ lên ba không thể nào có thể biết được.
Có một ngày Michael đă làm cho Bà Wright sợ hăi v́ em buột miệng gọi "Carole Miller". Sau khi Walter chết, Bà vẫn giữ liên lạc với Carole Miller nhưng Carole đă lập gia đ́nh 10 năm về trước và Michael chỉ gặp có hai lần biết tên hiện tại là Carole Davis chứ không hề biết tên thật là Carole Miller.
Michael cũng kể với mẹ như sau: "Bạn tôi và tôi đi trên một chiếc xe, xe đâm xuống ruộng, lén đi lén lại nhiều vàng, cửa xe bị bật ra. Tôi bị văng ra ngoài và chết ngay tại chỗ". Michael sau đó c̣n cho biết thêm chi tiết như là kính xe bị vỡ, và sau tai nạn, anh được chở qua một cái cầu. Anh cũng nói anh và người bạn đă ngừng bên xa lộ để đi tiểu trước khi gặp tai nạn. Michael nói trúng cả tên thành phố có cuộc khiêu vũ và tên người bạn cùng đi xe chung.
Bà Catherine Wright xác nhận các chi tiết về tai nạn của Walter Miller đă được đăng trên các báo chí (có cả ảnh chiếc xe) rơ ràng và đúng như lời Michael thuật lại. Walter bị văng ra khỏi xe, gẫy cổ và chết ngay tại chỗ; xác anh được xe cứu thương chở qua một cái cầu gần chỗ xảy ra tai nạn. Michael cũng cho biết một vài chi tiết khác nhưng những chi tiết này chỉ ḿnh Walter Miller biết được mà thôi, chẳng hạn như chi tiết về căn nhà của Walter, tên họ của Henry Sullivan (và chỉ nhầm chút xíu về biệt danh của Henry Sullivan).
Trong cuộc phỏng vấn Bà Catherine Wright với mẹ của Bà là Margaret Carpenter, cả hai đều xác nhận Michael đă nói về tai nạn xe cộ trước mặt họ và Michael đă nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Chúng tôi nhận thấy những chuyện Michael thổ lộ với mẹ là Catherine rất có thể làm cho Catherine lo lắng, bối rối nên chắc chắn Bà không khuyến khích Michael, con Bà nói chuyện về tiền kiếp.
Việc Bà Catherine Wright gọi điện thoại cho tôi và cho tôi biết tự sự về việc này chứng tỏ Michael có thể là hiện thân của Walter Miller đă chết trong một tai nạn xe cộ vào mùa hè năm 1967.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 505 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 8:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
III. GIÁO SƯ H.N. BANERJEE
Giáo Sư H.N. Banerjee là một Giáo Sư nổi tiếng Khoa Trưởng Khoa Tâm Linh của Đại Học Đường Rajasthan, Jaipur, Ấn Độ. Ông chuyên khảo cứu về các vụ luân hồi tại Âu cũng như Á. Hàng trăm chuyện luân hồi đă được giáo sư điều tra tại chỗ. Hồ sơ các vụ đó hiện c̣n đang lưu trữ tại Trường Đại Học này.
Sau đây là hai vụ điển h́nh: Chandgari và Necati trong cuốn Reincarnation East and West của tác giả do nhà Xuất Bản Double Day, New York, Garden City phát hành năm 1974.
-20-
CHANDGARI
Tác Giả: H.N. Banerjee
Chandgari là một làng nhỏ có dân số hơn 1 ngàn người nằm trên Thượng Lưu Sông Hằng, Ấn Độ. Từ Đại Lộ Chính đường dẫn vào làng là những con đường nhỏ, thế mà một câu chuyện luân hồi xảy ra đă khiến cái làng bộ nhỏ xa xôi này trở thành nổi tiếng trên thế giới làm cho tất cả các Trung Tâm Tâm Lư, Siêu Linh Học đều phải chú ư.
Câu chuyện nghịch lư bằng sanh mà cũng là tử nữa. Câu chuyện không xảy ra chỉ riêng ở làng Chandgari mà cũng c̣n liên quan đến làng Itarni thuộc Quận Aligarth cách Chandgari chừng ít dậm.
Vào đầu năm 1960, một thanh niên làng Itarni tên là Bhajan Singh, 21 tuổi bị chết sau một cơn sốt cấp tính.
Cũng khoảng thời gian trên một đứa bộ được sanh ra tại Chandgari và được cha mẹ đặt tên là Munesh. Từ khi chào đời đến lúc lên 3 tuổi mọi việc đều b́nh thường, không có ǵ đáng kể. Nhưng khi được 4 tuổi, trong lúc chơi với các bạn đồng trang lứa, em thường nhắc đến cái làng Atharni và nói rằng em đă từng ở nơi ấy. Các bạn em đều chế nhạo, cho rằng em nói đến một cái tên xa lạ không có trên thực tế.
Một hôm người mẹ đang tắm cho em th́ em la lối om ṣm. Bà giận dữ tát em một bạt tai. Em hờn dỗi nói: "Mẹ à, nếu mẹ đánh con nữa, con sẽ đi khỏi nơi đây ". Bà thắc mắc hỏi em định đi đâu. Với một giọng tự nhiên em trả lời: "Con sẽ trở về làng con, làng Atharni mới thật sự là làng của con, con không phải người thuộc làng này ". Người mẹ chưa bao giờ nghe thấy làng Atharni cả, nhưng sau vài phút nghĩ ngợi bà cho rằng có lẽ em muốn nói đến làng Itarni, một làng cách xa Chandgari vài dậm. Bà la rầy và cấm em không được nói đến chuyện ngớ ngẩn ấy nữa. Em căi lại là chuyện này không ngớ ngẩn và c̣n cho biết tên em không phải là Munesh mà la Bhajan Singh, người làng Atharni chứ không phải làng này.
Em c̣n nói em có một căn nhà, một cái giếng, một thửa vườn và một nông trại. Em nói thêm: "Con có một người vợ, một người anh, một người mẹ và một người con gái".
Người mẹ mắng em và bảo em đừng bao giờ kể chuyện của đứa trẻ nít ban ngày mê ngủ, nhưng ngược lại em nói đó là sự thực. Giận quá, bà đánh em một trận nên thân và bắt em phải im ngay.
Khi bắt đầu đi học, Munesh kể cho bạn bè ở trường về gia đ́nh em ở làng Atharni. Mọi người đều chế nhạo chê cười câu chuyện của em. Song không bao giờ Munesh thay đổi và cả quyết chính em là Bhajan Singh, em có thể nhớ lại tất cả những chuyện thật của em ở kiếp trước. Không một ai trong gia đ́nh cũng như trong bạn bè của em tin tưởng vào câu chuyện. Tuy nhiên trong gia đ́nh em có ông nội em là người thương em nhiều nhất. Ông cô quyết định điều tra vụ này xem thực hư ra sao. Ông cô nghỉ rằng sau khi t́m được sự thực, tất nhiên Munesh không c̣n nói bậy nữa. Ông cô có biết một người láng giềng quê ở Itarni, do đó ông cô đă t́m đến người này. Người láng giềng này đă có tuổi nên có nhiều kư ức về quá khứ. Ông cô hỏi: "Có bao giờ ông nghe thấy ở Itarni có một người tên là Bhajan Singh không? Người này đă chết sau một cơn sốt, để lại một người vợ và một người con gái?"
Sau một hồi suy nghĩ, người láng giềng cho biết: "Tôi có nhớ một người ở Itarni có cái tên như vậy, và người ấy đă chết rồi để lại một người vợ và một người con gái. Hiện nay người vợ và đứa con gái đang sống tại Itarni".
Sau khi nghe được tin này, ông cô viết thơ cho gia đ́nh Bhajan Singh và cho biết cháu nội ông tên Munesh ở Chandgari là hiện thân của Bhajan Singh.
Ít ngày sau, người anh của Bhajan Singh và người em rể của Bhajan Singh đă đến Chandgari để t́m hiểu sự việc. Khi hai người đến th́ Munesh c̣n đang đi học. Munesh được người nhà đón về. Khi gặp hai người này th́ Munesh nhận ra một trong hai người là anh của ḿnh. (Từ lúc sanh ra đến nay, Munesh chưa bao giờ được gặp người này cả) Munesh nói: "Anh là anh tôi tên là Bhure Singh"
Chắp hai tay như cầu nguyện với vẻ kính cẩn em lại trước người lạ và gọi người này là anh. Người này không phải là người nhẹ dạ chấp nhận ngay mà liên tiếp hỏi Munesh về nhà cửa, về gia đ́nh tại Itarni và về vợ con ra sao. Munesh đă trả lời đúng những câu hỏi của người anh không chút ngập ngừng. Munesh c̣n cho ngừời anh biết ở tiền kiếp em có một người bạn thân ở gần nhà. Người anh hỏi tên người đó th́ Munesh cho biết tên là Bhagwati. Ông Bhure Singh xác nhận "Đúng như vậy, Bhajan Singh và Bhagwati trước đây cùng lứa tuổi và hai người rất thân với nhau. Chúng là đôi bạn thân cho đến ngày Bhajan Singh từ trần lúc 21 tuổi.
Khi người anh và người em rể lên đường về nhà th́ Munesh hết sức buồn bă, cố giữ lấy người anh và năn nỉ người anh đừng về. Người anh đă phải dỗ dành Munesh như sau: "Em cứ an tâm, trong ít ngày nữa anh sẽ trở lại, khoảng một tuần thôi anh sẽ đến đây mang Munesh về thăm Itarni".
Vài ngày sau có hai người đàn bà tới làng Chandgari. Một người là Ayodhya Devi, vợ của Bhajan Singh và người thứ hai là chị dâu của em. Để t́m hiểu sự thực cũng như bán tín bán nghi về tin tức một đứa trẻ tự nhận là chồng luân hồi trở về, nên người vợ đă cùng người chị dâu t́m đến làng Chandgari để gặp Munesh.
Hai người đàn bà này vóc dáng hao hao giống nhau, cũng cao và mảnh khảnh; 2 người đều che mạng kín mặt. Nghe tin có 2 người đàn bà lạ tới làng để t́m Munesh, một số dân làng đă đổ xô đến nhà Munesh. Khi gặp Munesh và ông nội, hai người đàn bà này vẫn che mạng và không giới thiệu ḿnh là ai. Ông nội Munesh muốn thử cháu nên hỏi: "Này Munesh trong hai người đàn bà này, một người là mẹ con đấy, con có nhận được ai là mẹ con không?". Không chút ngập ngừng, Munesh trả lời không ai là mẹ của Munesh cả, chỉ có vợ và chị dâu. Ngay lập tức Munesh chạy lại cầm tay Ayodhya Devi và nói rằng: "Đây là vợ tôi".
Vừa sợ hăi vừa nghi ngờ có thể đây là một cái bẫy nên bà ta đă vội vàng rút tay ra khỏi bàn tay của Munesh. Tuy nhiên khóe mắt của bà ta và Munesh nh́n nhau chứa chan t́nh cảm. Người đàn bà dịu dàng nói với Munesh: "Lại đây tôi hỏi vài câu". Rồi người góa phụ hỏi Munesh nếu quả thật Munesh là hiện thân của người chồng có th́ hăy cho biết những chuyện bí mật riêng tư giữa hai người mà người ngoài không ai biết được.
Munesh trả lời: "Đúng vậy tôi có đánh vợ tôi bằng hai cái cây dùng để xay bột. Sau khi dự cuộc thi ở Agra, tôi trở về Itarni th́ gặp vợ tôi đang căi nhau với mẹ tôi. Tôi đă đánh vợ tôi và làm cánh tay phải của vợ tôi bị chảy máu".
Người góa phụ vô cùng sửng sốt, và xác nhận việc bất hạnh đó quả có xảy ra. Rồi Munesh c̣n cho góa phụ biết thêm nhiều chi tiết về sự thân mật giữa hai vợ chồng mà chỉ có hai người biết được mà thôi. Lúc nói những điều bí mật này Munesh đă không cho mọi người nghe thấy.
Góa phụ Ayodhya Devi xác nhận những ǵ Munesh nói đều đúng sự thực và xin phép cho Munesh cùng về Itarni. Bấy giờ gia đ́nh Munesh mới tin đây không phải là một chuyện ngớ ngẩn mà là một chuyện có thực. Munesh cùng ông nội đi Itarni. Khi đến nơi th́ một đám đông người đă chờ sẵn, trong đám đông này, Munesh đă nhận đươc Bhagwati Prasad, người bạn thân ở tiền kiếp. Bhagwati nhận rằng anh đă chơi rất thân với Bhajan Singh xưa kia, để thử thách Bhagwati có hỏi Munesh nhiều câu, Munesh trả lời rất chính xác, có những sự kiện mà chỉ hai người biết được với nhau mà thôi. Tới Itarni Munesh không cần người hướng dẫn, tự ḿnh t́m được nhà, và nhảy lên ḷng mẹ Bhajan Singh. Munesh ôm chầm lấy bà, y như một đứa con mới t́m lại được mẹ sau nhiều năm xa cách. Mọi người chứng kiến nh́n thấy nước mắt đầm đ́a trên gương mặt Munesh. Sau đó Munesh thăm nhà cửa chỉ cho biết những ǵ đă thay đổi so với hồi tiền kiếp.
Qua những sự kiện trên, Munesh quả là hiện thân của Bhajan Singh, đă từ trần vào năm 1960, lúc 21 tuổi tại Itarni.
-21-
NECATI
Tác Giả: H.N. Banerjee
Necati Unlustaskiran là một gia đ́nh Ả Rập nghèo tại Thành Phố Adana, Thổ Nhĩ Kỳ. Khi mới chào đời em được đặt tên là Malik. Nhưng hai ngày sau, trong một cơn mộng, người mẹ đă thấy đứa con của ḿnh yêu cầu được đổi tên là Necip.
V́ trong gia đ́nh đă có người mang tên Necip rồi, nên theo tục lệ không thể hai người cùng một gịng họ cùng mang một tên nên gia đ́nh đă quyết định đổi Necip thành Necati.
Khi bắt đầu biết nói, Necati thường kể những chuyện lạ lùng. Em nói những tên và những điều rất lạ mà gia đ́nh em chưa hề thấy bao giờ cả. Em nói đến kiếp trước của em, em kể tên những người em quen biết và tên của những người em đă từng sống chung Em mô tả em lớn lên như thế nào, và ở tiền kiếp em đă bị một người bạn thân giết.
Em bảo ở tiền kiếp tên em là Necip Budak và em sống ở Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ, vợ em tên là Zehara và có ba đứa con. Em nhớ lại là em rất sung sướng khi bồng bế đứa con trai tên Najak đi thăm người bạn thân Ahmed Renkli. Necip và Renkli là đôi bạn chí thiết.
Một việc bất hạnh đă xảy ra với đôi bạn này. Một hôm Ahmed Renkli báo cho Necip biết là Renkli sẽ qua thăm Necip và mang biếu anh một ít trà, nhưng khi Renkli đến lại quên mất trà. Necip phàn nàn và hai người to tiếng căi nhau..., đi đến ẩu đả. Cuối cùng Renkli đă quá giận rút con dao nhíp sẵn có trong người và đâm túi bụi vào Necip. Necip đă chết thê thảm trên vũng máu.
Những người ở trong thị trấn thấy Necati quả là hiện thân của Necip Budak bị giết trước đây nên đều gọi Necati bằng tên Necip.
Những dữ kiện sau đây do Necati cho biết đă được kiểm chứng và xác nhận:
1. Zehara, vợ của Necip c̣n đang sống, chồng của Zehara tức Necip bị thảm sát. Zehara cùng Necip có ba người con.
2. Khi mang Necati đến nhà người chồng đă chết, Necati đă nhận được ngay ra được người vợ Zehara, nói được cả tên những đứa con, ngoại trừ đứa con thứ ba sanh sau khi Necip chết.
3. Một sự việc Necati nói là trong một cuộc căi vă Necip đă lấy dao đâm vào đùi vợ. Đúng như Necati đă nói, khi khám nghiệm Zehara có thấy một vết sẹo khá lớn trên đùi Zehara do Necip đâm.
4. Adana là nơi sanh của Necati. Adana cách xa Mersin là nơi trú ngụ bị đâm chết khoảng chừng 75 cây số. Gia đ́nh Necati hiện tại và Necip-Zehara đều không có liên hệ và không hề quen biết nhau.
Phải chăng Necati chính là Necip Budak đă luân hồi nên mới có thể nhận được nào là vợ, nào là con và nhất là chỉ được vết thẹo trên đùi vợ mà chính Necip đă đâm trong khi nóng giận?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 506 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 8:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
IV. HỌC GIẢ JOHN VAN AUKEN
John Van Auken là một học giả, thành viên của Hội A.R.E. (Association for Research And Enlightement, Hội Nghiên Cứu và Giác Ngộ) của tổ chức Edgar Cayce từ 19 năm qua và rất nổi tiếng về những bài thuyết giảng và những tác phẩm của Ông, trong đó có tác phẩm "Reincarnation: Your Secret Life (Luân Hồi:Bí Mật về Đời Sống Của Quư Vị) do nhà xuất bản Ballantine Publishing Co. phát hành Năm 1991. Cuốn sách chứng tỏ tầm hiểu biết sâu rộng của Ông trong đó có phần Phụ lục nói về Edgar Cayce.
Chúng tôi xin trích dịch phần Phụ lục nói về Edgar Cayce .
-22-
LUÂN HỒI VỀ EGAR CAYCE
Tác Giả: John Van Auken
Edgar Cayce sanh Ngày 18 Tháng 3 năm 1877 tại một nông trại gần Hopkinsville, Kentucky. Thuở c̣n nhỏ Cayce đă chứng tỏ có trúc giác thần thông. Năm lên 6, Cayce cho cha mẹ biết có thể nói chuyện với những người họ hàng mới chết. Gục đầu ngủ trên cuốn sách, lúc thức dậy Cayce có thể nhớ trọn vẹn nội dung cuốn sách. Hết lớp bẩy, Cayce bỏ học và bước vào đời. Năm 21 tuổi, Cayce bị chứng sưng yết hầu làm mất giọng nói. Các bác sĩ điều trị không ai t́m được nguyên nhân căn bệnh. Cayce đă nhờ một người bạn giúp ông vào trạng thái thôi miên (trước khi c̣n đi học, ông vẫn hay áp dụng). Người bạn đă giúp ông. Trong trạng thái thôi miên ông đă nói rơ ràng và đi thẳng ngay vào bệnh trạng của ông. Ông cho biết phải dùng đến thuốc ǵ và phải điều trị như thế nào. Nhờ đó ông đă tự chữa được hết bệnh đau cổ họng mất tiếng.
Các bác sĩ của Thành Phố Hopkinsville và Bowling Green tại Kentucky đă lợi dụng tài năng độc nhất vô nhị của Cayce để chữa trị cho bệnh nhân của họ. Chỉ cần cho Cayce biết tên và địa chỉ của bệnh nhân là Cayce có thể dùng thần giao cách cảm để đến với xác cũng như tâm linh của người này. Người bệnh không cần phải ở gần Cayce mà bất cứ ở đâu Cayce cũng có thể đến với bệnh nhân bằng thần giao cách cảm.
Một vị bác sĩ trẻ làm việc chung với Cayce, đă tường tŕnh cái khả năng kỳ diệu này của Cayce cho Hội Nghiên Cứu Bệnh Lư của Boston; sự kiện làm kinh ngạc mọi người. Tờ Nữu Uớc Thời Báo số ra Ngày 9 Tháng 10 Năm 1910 đă đăng tải hai trang cột chính về đề tài này với nhiều h́nh ảnh. Từ đó mọi người trên toàn quốc đều t́m đến Cayce "Nhà Tiên Tri Hôn Mê" và Cayce nổi tiếng.
Để đi vào trạng thái hôn mê, Ông thường nằm trên một chiếc trường kỷ, tay khoanh trước ngực và thở mạnh. Khi cặp chân mày Ông nhíu lại, đó là dấu hiệu báo cho người phụ trách (thường là Gertrude, vợ Ông) có thể nói chuyện với Ông. Nếu không có cái nhíu mày báo hiệu tức là Ông không tới được trạng thái hôn mê mà ông ch́m vào giấc ngủ. Ông thực hiện phương pháp như có người bệnh ở sát bên Ông, và đầu óc Ông như một bộ máy quang tuyến X khám xét từng mỗi tế bào trong cơ thể. Khi công việc này xong, Ông nói: "Sẵn sàng trả lời". Đầu óc sắp sẵn những câu trả lời cho các câu hỏi của bệnh nhân trong lúc Ông vẫn hôn mê. Khi nào Ông nói: "Bây giờ đă xong" là người phụ trách phải biết làm cho Ông tỉnh lại.
Nếu phương pháp không được thi hành đúng, Ông có thể ở trong t́nh trạng nguy hiểm. Có lần Ông bị hôn mê ba ngày liền khiến các bác sĩ tưởng là Ông phải chết.
Cứ mỗi lần ở trong t́nh trạng xuất hồn, viên tốc kỷ của Ông là Gladys Davis Turner phải ghi nhanh tất cả những ǵ Ông nói ra, đôi khi cô thư kỷ này ghi sai th́ chính Ông dù đang hôn mê vẫn có thể sửa lại cho đúng. Thần thức của Ông có thể nh́n thấy tất cả mọi thứ chung quanh Ông và cả ở xa nữa.
Ngày 10 Tháng 8 Năm 1923, trong một cuộc thí nghiệm, mọi người đều muốn hỏi về sự sống, sự chết và tiền đồ của nhân loại. Trong một căn pḥng nhỏ ở một khách sạn tại Dayton, Ohio, Arthur Lammers đă nêu vấn đề triết lư ra để hỏi Ông về cái khả năng kỳ diệu của Ông. Trong cuộc khảo sát này, ông bắt đầu nói đến luân hồi như một sự thật hiển nhiên, như một thực thể.
Cuối cùng Edgar Cayce đă chuyển về Virginia Beach (Virginia) thiết lập một bệnh viện do chính Ông điều khiển để chẩn bệnh theo phương pháp của Ông. Từ năm 1925 đến năm 1944 Ông đă tiên đoán 2500 lần, mô tả đời sống tiền kiếp nếu mọi người hiểu rằng luân hồi là thực. Những vấn đề như quá sợ hăi, thần kinh rung động, thiên tài về ca nhạc, khả năng thiên phú, khó khăn trong hôn nhân, học tập của các trẻ em theo Edgar Cayce cho biết là do nghiệp quả của tiền kiếp.
Ngày 3 Tháng Giêng năm 1945 Edgar Cayce từ trần tại Virginia Beach, để lại trên 14000 tài liệu tốc kỷ của hơn 6000 người thuộc mọi tầng lớp xă hội trong thời gian 43 năm qua.
Những lời tiên đoán của ông về siêu linh là một trong những hồ sơ quan trọng bậc nhất về tâm linh. Qua những hồ sơ, những thư từ, báo cáo, qua những sự phối kiểm của hàng ngàn những cuộc thí nghiệm về những lời tiên đoán của Cayce đă đem lại lợi ích quư báu cho các nhà tâm lư học, học sinh, các nhà văn, những nhân viên điều tra, và cho tất cả các lớp quần chúng.
Một tổ chức gọi là A.R.E. (Association For Research and Enlightement, 67th St & Atlantic Avenue, Virginia Beach, VA 23451) được thành lập từ năm 1932 để ǵn giữ những tài liệu quư báu của Cayce. Đây là một tổ chức mà hội viên những người tự do tư tưởng, tiếp tục ghi nhận, thâu lượm các tin tức, thực hành các vô điều tra và thí nghiệm, tổ chức các khóa học, hội thảo và diễn thuyết. Hội này có một thư viện lớn bậc nhất về khoa bán tâm lư, siêu linh học. Hội cũng giữ một bản thống kê trên 300 cuốn sách quư giá về lĩnh vực này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 507 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 8:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
V. TIẾN SĨ ROBERT ALMEDER
Tiến Sĩ Robert Almeder, Giáo Sư Triết của Đại Học Đường Georgia, Giám Đốc Trung Tâm Kỹ Thuật của Đại Học này là tác giả của tác phẩm khảo luận về luân hồi "Evidence For Life After Death" "Bằng Chứng Về Đời Sống Sau Khi Chết". Ông cũng là thành viên của Viện Khoa Học Quốc Gia, đă được thưởng hai giải thưởng xuất sắc về Giáo Dục (Outstanding Educator of America Award) năm 1984, từng viết trên 50 bài khảo luận về triết học đăng tải trên các báo như Philosophy of Science, Synthese, The American Philosophical Quarterly, Philosophia, Erkentnis và The History of Philisophy Quarterly. Ông đă xuất bản 8 tác phẩm, trong đó có tác phẩm The Philosophy of Charles Pierce, và A Critical Introduction.
Ông đă dùng những chuyện có thật đă được phối kiểm để dẫn chứng trong cuốn "Evidence for Life After Death".
Dưới đây là vài chuyện trong tác phẩm trên do nhà Xuất Bản Thomas Springsfield, Illinois phát hành năm 1987.
-23 -
CÔ BÉ SWARNLATA (Tái sanh sau khi chết được 9 năm)
Tác Giả: Robert Almeder
Năm 1951 trong một cuộc du ngoạn, một người Ấn Độ tên Mishra, cư ngụ tại thành phố Panna, thuộc Quận Madhya Pradesh mang theo đứa con gái 3 tuổi cùng vài người khác đến thành phố Jabalpur cùng Quận, cách Panna 70 dậm về phía Nam. Trên đường trở về khi đến địa phận thành phố Katni cách Jabalpur 57 dậm về phía Bắc, Swarnlata bất ngờ đề nghị người tài xế rẽ vào một con đường mà em nói là đường về nhà em nhưng người tài xế hoàn toàn không để ư đến lời yêu cầu này. Sau đó khi mọi người ngừng lại ở Katni để dùng tṛ giải khát, Swarnlata nói rằng mọi người sẽ được dùng tṛ ngon hơn nếu ghé vào nhà em gần đấy.
Lời nói của em làm Mishra nghĩ ngợi v́ ông biết là gia đ́nh ông, kể cả ông chưa có ai từng sống ở thành phố Katni cả. Ông càng ngạc nhiên hơn khi nghe con gái thường kể với bạn bè về tiền kiếp em thuộc gia đ́nh Pathak tại Katni.
Hai năm sau khi được 5 tuổi em thường múa các vũ điệu và hát các bản nhạc cho người mẹ xem và nghe (sau này cho nhiều người khác). Cha mẹ em đều xác nhận không có người nào dạy em vũ và hát cả.
Năm 1958 khi lên 7, t́nh ć em gặp một người phụ nữ từ Katni đến, em cho biết đó là người đàn bà em quen ở kiếp trước. Đến lúc này th́ Mishra mới chịu nhận là con gái ông biết nhiều dữ kiện của kiếp trước.
Tháng 3 năm 1959, Giáo Sư Tâm Lư Học Banerjee của Đại Học Rajasthan tại Jaipur bắt đầu điều tra. Sau khi tiếp xúc với Swarnlata tại Chhatarpur, Ông đi Katni làm quen với gia đ́nh Pathak mà Swarnlata cho rằng em là một thân nhân của gia đ́nh này. Trước khi Giáo Sư Bernajee đi Katni, theo lời mô tả của Swarnlata ông đă ghi 9 điểm đặc biệt về nơi của gia đ́nh Pathak. Những chi tiết này hoàn toàn đúng như Swarnlata nói trước khi tới gia đ́nh Pathak. Chắc chắn là trước khi Giáo Sư Banerjee tới Katni, gia đ́nh Mishra không hề biết ǵ về gia đ́nh Pathak cả.
Nhận thấy những điều Swarnlata cho biết về tiền kiếp trùng hợp với người con gái của gia đ́nh Pathak có tên là Biya, vợ của Pandley, cư ngụ tại Maihar. Biya đă chết năm 1939 - tám năm trước khi Swarnlata ra đời.
Mùa hè năm 1959 vài người trong gia đ́nh Pathak và gia đ́nh Pandley cùng đến Chatarpur, nơi ông bà Misshra và Swarnlata cư ngô. Trước sự chứng kiến của một số điều tra viên, tuy không được giới thiệu nhưng Swarnlata đă nhận ra từng người trong hai gia đ́nh và gọi đúng tên họ. Em đă kể lại những sự việc xảy ra khi Biya c̣n sống mà theo trong gia đ́nh những sự việc này chỉ ḿnh Biya biết được mà thôi. Chẳng hạn như em cho biết em có một cái cái răng cửa bịt vàng. Các người chị dâu của Biya xác nhận là đúng. Lẽ tự nhiên gia đ́nh Pathak coi Swarnlata là hiện thân của Biya mặc dầu trước đây gia đ́nh này không hề tin tưởng là có luân hồi.
Sau chuyến viếng thăm của gia đ́nh Pathak và Pandley, cũng trong mùa hè năm 1959, Swarnlata và gia đ́nh đến Katni và Maihar, nơi Biya đă lập gia đ́nh và đă chết. Khi tới Maihar em đă nhận thêm một số người và cho biết những nơi có sự thay đổi so với lúc em c̣n sống. Những tiết lộ này đều được phối kiểm là đúng. Về sau em c̣n tiếp tục đến thăm gia đ́nh em trai của Biya và biểu lộ một sự thương yêu nồng nàn.
Tuy nhiên có vấn đề là trước đây Biya chỉ nói được tiếng Hindu trong khi những bài hát và những điệu múa mà Swarnlata tŕnh diễn lại bằng tiếng Bangali.
Trong cuộc điều tra này, các điều tra viên nhiều lần đă có ư thử thách để làm cho em lầm lẫn nhưng cuối cùng cũng phải công nhận những điều em nói về tiền kiếp rất chính xác.
Trường hợp trên đây đă được phối kiểm với những bằng chứng hiển nhiên, không ai có thể chối căi sự luân hồi của Biya.
-24-
BÀ LYDIA JOHNSON (Một Phụ Nữ Hoa Kỳ hiện đại, là một nông dân Thụy Điển ở Thế Kỷ Thứ 16)
Tác Giả: Robert Almeder
Năm 1973, Bà Lydia Johnson bằng ḷng giúp chồng trong cuộc thí nghiệm thôi miên. Bà rất đắc lực v́ dễ đi vào t́nh trạng hôn mê. Bác Sĩ Harold Johnson là một nhân vật nổi tiếng và trọng vọng tại Philadelphia. Năm 1971 ông đă dùng thuật thôi miên để chữa trị cho một số bệnh nhân.
Khi các cuộc thí nghiệm với người vợ đă tiến hành tốt đẹp, ông quyết định thôi miên vợ để t́m hiểu đời sống tiền kiếp của Bà, nhưng đang nửa chừng th́ bỗng nhiên bà co giật người như bị đánh và sợ hăi hét lên. Bà ôm chặt đầu. Ông phải chấm dứt ngay cuộc thí nghiệm. Hai lần thử lại kết quả vẫn thế. Mỗi lần hồi tỉnh bà đều cho biết đă mục kích thấy cảnh tượng nhiều người già cả h́nh như bị bắt buộc nhảy xuống nước chết đuối. Chính Bà cũng cảm thấy như bị ai đẩy, rồi cú đánh rồi tiếng thét và cơn nhức đầu. Sau mấy lần thí nghiệm đều như trên, Bác Sĩ Harold Johnson đă mời Bác Sĩ John Brown đến thử lại cuộc thí nghiệm. Trước khi cơn đau tái diễn, B.S. John Brown nói với Bà: "Bà c̣n trẻ hơn họ đến 10 tuổi đấy." Và lần này không như lần trước Bà bắt đầu nói nhưng không phải những câu hay những tiếng nói vẫn dùng hàng ngày mà phần lớn là thứ ngôn ngữ lạ làm chẳng ai hiểu được. Giọng nói của Bà y hệt giọng đàn ông. Rồi chính Bà, một phụ nữ 37 tuổi, thốt ra câu: "Tôi là đàn ông". Được hỏi tên Bà cho biết "Jensen Jacoby".
Với ngôn ngữ ngoại quốc, xen lẫn vài tiến Anh ngặp ngừng, Bà tả lại cuộc đời tiền kiếp của Bà. Trong lần thí nghiệm này (và trong các lần sau đó), cũng với giọng đàn ông, Bà Lydia Johnson cho biết 3 thế kỷ trước Bà sống tại một làng nhỏ ở Thụy Điển. Những điều Bà nói trong lúc thôi miên đều được ghi âm và ghi chép kỹ lưỡng. Nhiều nhà ngôn ngữ học Thụy Điển được mời lại để phiên dịch lời nói của Jensen Jacoby. Trong các cuộc thí nghiệm sau, Bà Lydia Johnson hoàn toàn chỉ nói tiếng Thụy Điển, một ngôn ngữ mà từ trước đến nay Bà chưa từng biết tới. Khi được hỏi: "Ông làm ǵ để sống?". Jensen Jacoby cho biết ông là một người làm nghề nông ở thế kỷ thứ 16 tại Thụy Điển. Được hỏi: "Ông sống ở đâu?", Jacoby trả lời "Sống ở trong nhà" và khi được hỏi nhà ở đâu, Jacoby trả lời: "Ở Hansen". Tất cả đều được hỏi bằng tiếng Thụy Điển. Jacoby đă tả lại anh ta có cá tính đơn giản phù hợp với một người làm nghề nông . Tầm hiểu của anh chỉ hạn hẹp trong đời sống ở trong làng và một trung tâm thương mại mà anh được đến xem. Jensen Jacoby cho biết anh nuôi bà, ngựa, dở và gà. Anh thường ngày dùng bánh mờ, sóa, phó mát, cá hồi và bánh ngọt làm bằng hột cây anh túc do Latvia, vợ anh ta nấu nướng. Jacoby đă tự tay cất một căn nhà bằng đá để ở và vợ chồng anh không có con. Mẹ của Jacoby là người Na Uy và Jacoby là một trong ba người con trai của gia đ́nh. Jacoby đă sống tự lập.
Một vài vật dụng được mang đến trong khi Bà Lydya Johnson c̣n đang bị thôi miên. Bà được yêu cầu mở mắt ra để lựa chọn các vật dụng này. Là hiện thân của Jensen Jacoby, Bà đă chọn một chiếc thuyền mẫu của Thụy Điển ở Thế Kỷ Thứ 17, một cái đấu bằng gỗ để dùng trong việc mua bán lựa mờ thời cổ, 1 cây cung và tên và những hột cây anh túc. Các dụng cụ tối tân chẳng hạn như cái ḱm th́ Bà từ chối v́ không biết cách xử dụng.
Kết quả thí nghiệm về thôi miên trên đây đă chứng minh được Bà Lydia Johnson đă là hiện thân của Jensen Jacoby, một nông dân ở Hansen, Thụy Điển chết cách đây ba Thế Kỷ.
-25-
CẬU BÉ BISHEN CHAND
Tác Giả: Robert Almeder
Bishen Chand sanh năm 1921 trong một gia đ́nh có tên là Ghulam ở Thị xă Bareilly, Ấn Độ. Khi được 1 tuổi rưỡi, Bishen Chand thường hay hỏi về Thị Xă Philbhit, một thành phố cách Bareilly 50 dậm. Không một ai trong gia đ́nh Ghulam (Bishen Chand) quen biết người nào tại thành phố này cả. Bishen Chand đ̣i gia đ́nh chở em đến thành phố này v́ em tin chắc rằng kiếp trước em đă sống ở đó.
Thời gian trôi qua, Bishen Chand vẫn không ngưng nói chuyện về tiền kiếp của ḿnh tại Thành Phố Philbhit. Gia đ́nh em rất khó chịu phải nghe câu chuyện lập đi lập lại nhiều lần. Vào mùa hạ năm 1926, Bishen Chand được 5 tuổi, em nói là em nhớ lại rất rơ ràng tiền kiếp của ḿnh: em là con một vị điền chủ giàu có tên là Laxmi Narain. Em bảo rằng em c̣n nhớ có một người chú tên là Har Narain sau này trở thành Cha của Laxmi Narain. Em tả lại ngôi nhà mà em đă sống, có 1 pḥng dùng làm nhà th́ và nhiều pḥng khác dành cho phụ nữ. Ḥng ngày em thường hay ca hát và nhảy múa với các cô Nautch, những vũ nữ chuyên nghiệp và cũng là những gái mại dâm. Em nhớ lại em thường đến dự tiệc tùng ở nhà người láng giềng có tên Sander Lal, căn nhà có "cái cổng màu xanh lá cây". Một hôm em khuyên cha nên lấy thêm một nàng hầu.
Cha Bishen là một thư kỷ của chính phủ nên rất nghèo. Trong khi nhớ về tiền kiếp với đời sống sung túc, giàu có, Bishen càng bực bội với cuộc sống hiện tại túng bấn nghèo nàn. Thỉnh thoảng em khước từ không dùng những món ăn mà theo em các người hầu hạ (trong tiền kiếp của em) cũng chẳng dùng. Bishen đ̣i ăn thịt cá trong khi nhà nghèo không có nên em thường sang hàng xóm để ăn. Những quần áo vải em bỏ một bên mà đ̣i quần áo lụa (em cho rằng quần áo vải cũng chẳng đáng cho các người hầu hạ của em mặc). Xin tiền cha, cha không cho, em khóc lóc.
Một hôm cha của Bishen nói rằng ông có ư định mua một chiếc đồng hồ và em bảo: "Cha à, đừng mua, khi nào về Philbhit con sẽ lấy cho cha 3 cái đồng hồ tốt của Hiệu Muslim mà con đă thành lập." Bishen c̣n cho biết thêm tên người chủ tiệm đồng hồ.
Chị Bishen lớn hơn em 3 tuổi, một lần đă bắt gặp em lấy rượu mạnh uống (mặc dù rượu này cất trong tủ chỉ dùng để làm thuốc). Em nói với người chị là em có thói quen uống rượu mạnh, ở tiền kiếp em thường uống rượu mạnh. Về sau em c̣n cho biết là ở tiền kiếp em có một nàng hầu (em hiểu sự khác biệt nàng hầu và vợ) tên là Padma. Mặc dầu Padma là gái mại dâm nhưng em rất mực thương yêu. Em c̣n hănh diện khoe là em đă giết một người đàn ông từ nhà Padma đi ra.
Trí nhớ về tiền kiếp của Bishen đă lọt đến tai Ông K.K.N. Sahay, một luật sư ở Bareilly. Ông đă đến nhà Bishen Chand và ghi chép tất cả những điều em nói. Sau đó ông đưa Bishen, người cha và người anh của em đi Philbhit.
Luật Sư Sahay và gia đ́nh Bishen đă t́m được đúng ngôi nhà của Laxmi Narain. Laxmi Narain, người mà Bishen nhận là tiền kiếp của ḿnh đă chết được gần 8 năm. Một số đông đồng bào đă tụ tập tại đây khi nghe tin Luật Sư Sahay và gia đ́nh Bishen tới Philbhit. Hầu hết mọi người trong vùng đều nghe tiếng giàu có của gia đ́nh Narain và tính t́nh phóng đăng của người con trai tên Laxmi. Laxmi Narain đă gian díu với Padma, cô gái mại dâm (hiện c̣n sống tại đó) và v́ ghen tuông Laxmi đă bắn chết t́nh địch. Gia đ́nh Narain giàu có thế lực, nên Laxmi Narain được trắng án. Tuy nhiên vài tháng sau Laxmi Narain đă chết v́ bệnh lúc 32 tuổi.
Khi đem em đến trường, Bishen đă chạy ngay vào pḥng mà trước đây Laxmi Narain đă từng học. Một người đưa cho em tấm h́nh có chụp học sinh trong trường, Bishen đă nhận ra 1 người bạn có hiện diện giữa đám đông. - và khi người này hỏi về thầy giáo th́ Bishen đă tả đúng là thầy giáo th́ mập và có râu quai nón.
Tại đây Bishen đă nhận ra nhà của ông Sander Lal mà em đă tả lúc trước (trước khi đi Philbhit) có cổng xanh lá cây. Luật Sư Sahay khi đăng tải vụ này trên tờ báo quốc gia "The Leader" vào tháng 8 Năm 1926 là chính ông đă đến tận nơi và tận mắt thấy cái cổng của gia đ́nh Sander Lal mầu xanh lá cây.
Em cũng chỉ cho mọi người biết cái sàn mà Laxmi Narain đă cùng ca hát và nhảy múa với các cô gái Nautch. Các người bán hàng nơi đây cũng đều xác nhận.
Cũng trên tờ báo "The Leader" Luật Sư Sahay viết rằng tên cô gái điếm Padma mà Bishen đă nói là người t́nh mà em rất đỗi yêu thương cũng đă được đám đông hiện diện hôm ấy công nhận là đúng.
Trong ngày hôm đó v́ muốn thử Bishen, người ta đă đem đến truớc mặt em một căp trống Tabbas. Cha của Bishen cho biết là từ khi sanh ra cho đến bây giờ Bishen chưa bao giờ được nh́n thấy loại trống Tabbas này cả. Trước sự kinh ngạc của gia đ́nh và của mọi người Bishen Chand đă chơi trống một cách thành thạo chẳng khác ǵ Laxmi Narain khi c̣n tại thế. Khi mẹ của Laxmi Narain gặp Bishen th́ quả là một cảm t́nh sâu đậm đă phát sanh gióa hai người. Bishen đă trả lời tất cả các câu hỏi của Bà Mẹ Laxmi Narain (chẳng hạn như có lần em đă ném các quả dưa muối). Bishen đă nói tên và tả người đầy tớ hầu ḿnh thuở trước và c̣n cho biết giai cấp của người này. Sau này em cho biết em thương yêu Bà Mẹ Laxmi Narain hơn là người mẹ đă sanh ra em hiện nay.
Cha của Laxmi Narain, trước khi chết, có chôn một số của cải nhưng mọi người trong gia đ́nh không biết ở đâu. Khi được hỏi tới vụ này, em đă dẫn mọi người đến một căn pḥng của gia đ́nh. Tại đây người ta đă t́m được 1 kho toàn những đồng tiền vàng chứng tỏ quả là em đă sống tại nhà này ở tiến kiếp.
Khi nghiên cứu vụ này Stevenson (Tiến Sĩ Ian Stevenson, Chuyên Gia Khảo Cứu Luân Hồi) đă khẳng định đây là một trường hợp rất có ư nghĩa bởi v́ hồ sơ c̣n được lưu giữ tại Văn Pḥng một Luật Sư đáng tin cậy và nhiều nhân vật chính hiện c̣n sống và sự phối kiểm tin tức của Bishen có thể thực hiện được. Rất nhiều người biết Laxmi Narain hiện c̣n sống và biết rơ ràng khi Bishen nói về những kư ức của em.
Hơn thế nữa theo Stevenson đây không phải là một vụ giả tạo v́ gia đ́nh Bishen Chand không có lợi lộc ǵ trong vô liên hệ với gia đ́nh Laxmi Narain đă bị sa sút từ khi Laxmi Narain từ trần.
Bishen Chand quả là tiền thân của Laxmi Narain.
-26-
SHANTA DEVI
Tác Giả: Robert Almeder
Shanti Devi sanh năm 1926 tại thành phố có Dehli. Năm lên 3 tuổi em thường kể lại cho gia đ́nh nghe về tiền kiếp của em. Shanti nói kiếp trước em lấy một người chồng tên là Kendarnarth sống ở gần Muttra. Em có hai con và em chết khi sanh đứa con thứ ba vào năm 1925. Shanti đă mô tả căn nhà trước đây em từng sống cùng chồng và các con tại Muttra. Shanti nói tên của em ở tiền kiếp là Ludgi. Em mô tả các người thân bên em cũng như bên chồng em ở tiền kiếp, cách sinh sống của họ như thế nào và bị chết ra sao. Việc Shanti Devi tái sanh xảy ra rất mau, một năm sau khi chết nên kư ức của em ở tiền kiếp c̣n rất rơ ràng, mới mẻ.
V́ thấy Shanti Devi cứ lập đi lập lại nhiều lần về tiền kiếp của ḿnh nên Kishen Chand, người cậu của em đă gửi thư đi Muttra theo địa chỉ Shanti Devi cho biết để xem thực hư ra sao. Thư đến tay ông Kendarnarth, một người góa vợ và con đang sầu muộn v́ người vợ tên Ludgi vừa chết trong khi sanh đứa con thứ ba năm 1925. Vốn là người theo Ấn Độ Giáo chính thống nên ông không chấp nhận vợ ông Ludgi đă luân hồi và trở thành Shanti Devi ở Dehli nhưng ông không khỏi hoài nghi v́ có sự trùng hợp này.
Để t́m hiểu sự thực, ông Kendarnarth đă nhờ người em họ tên Lal (sống ở Dehli) đi điều tra và đă hỏi về cô bé Shanti Devi này. Lấy cớ đi buôn bán, ông Lal đă t́m được đến nhà Shanti Devi. Vừa trông thấy ông Lal, khi ra mở cửa, em đă ̣a khóc và ôm choàng lấy ông. Bà mẹ Shanti Devi cũng chạy vội ra, ông Lal chưa kịp mở miệng th́ Shanti Devi (lúc này 9 tuổi) nói với mẹ: "Thưa mẹ đây là người em họ của chồng con. Hồi c̣n ở Muttra, chú ấy và chúng con không ở xa nhau lắm, nhưng nay chú ấy đă chuyển về Dehli. Con rất sung sướng gặp lại chú ấy. Chú ấy phải vào nhà. Con muốn biết tin tức của gia đ́nh con."
Sau khi được em kể lại những chuyện thuộc tiền kiếp của em, Ông Lal xác nhận là đúng nên đă đề nghị ông Kendarnarth đem người con cưng đến Dehli để thăm Shanti Devi.
Khi ông Kendarnarth cùng người con trai tới nhà Shanti Devi th́ Shanti Devi đă ôm hôn họ và đă gọi họ bằng các tên thân yêu. Shanti Devi đă đối xử với ông Kendarnarth như một bà vợ hiền. Em đă mời ông dùng bánh bích quy với phó mát. Bị xúc động Ông Kendarnarth đă không ngăn được nước mắt. Shanti Devi đă đă dùng những câu nói mà trước đây Ludgi vẫn sử dụng hằng ngày để an ủi ông, vè về ông.
Câu chuyện đă làm cho báo chí và dư luận xôn xao. Các nhân viên điều tra đă đưa Shanti Devi đi Muttra và yêu cầu em dẫn họ về cái nhà mà em đă từng ở và đă chết tại đó ở tiền kiếp Khi xe lửa vừa tới Muttra, Shanti Devi sung sướng ̣a khóc và dở tay vẫy một vài người đứng trong sân ga. Em cho các điều tra viên biết một người là mẹ chồng và một người là anh chồng. Em đă nói đúng. Điều quan trọng hơn nữa là, vừa từ trên xe lửa bước xuống, thay v́ dùng tiếng Ấn Độ Hindustrani như em đă được học tại Dehli th́ Shanti Devi đă dùng tiếng địa phương Muttra mà em chưa từng bao giờ được dạy dỗ để nói chuyện với mọi người. Là hiện thân của Ludgi đă cư trú tại Muttra, nên em đă nói được tiếng địa phương này.
Sau đó Shanti Devi đă dẫn các điều tra viên về nhà Kendarnarth và c̣n cho biết thêm các chi tiết khác mà chỉ có ḿnh Ludgi biết chẳng hạn khi ông Kendarnarth hỏi Shanti Devi trước khi chết Ludgi có dấu mấy cái nhẫn nơi nào. Shanti Devi cho biết những chiếc nhẫn đó được bỏ trong một cái b́nh và chôn dưới đất của căn nhà có. Các nhân viên điều tra đă t́m thấy những chiếc nhẫn đó.
Trường hợp luân hồi này đă được tŕnh bày trước dư luận báo chí thế giới và là một đề tài sôi nổi trong việc khảo cứu tại nhiều trường học.
-27-
NHỮNG HỒN MA CỦA CHUYẾN BAY 401
Tác giả: Robert Almeder
Trong đêm thảm khốc 28 Tháng 12 Năm 1972 chiếc phi cơ 401 của Hăng Eastern Airlines đă bị rớt xuống vùng Everglades, Tiểu Bang Florida. Tất cả 101 người vừa phi hành đoàn vừa hành khách đều tử nạn. Sau đó 2 tháng, Hồn Ma Bob Loft, viên phi công chính và Don Repo, viên phi công phụ đă xuất hiện trên một phi cơ khác cùng đường bay.
Theo ông John Fuller, nhân viên phụ trách việc điều tra tai nạn nói trên thi hai hồn ma này đă xuất hiện nhiều lần, nhất là trên chiếc phi cơ 318 mang động cơ L-1011 sử dụng một số phụ tùng cũng như vật liệu c̣n lại của chiếc 401.
Một lần, khi chiếc phi cơ 318 chuẩn bị cất cánh từ Newark đi Miami, viên phi công phụ đă hoàn tất việc kiểm soát lần chót cùng viên phi công chính bước vào pḥng lái. Thực phẩm đă được cung cấp đầy đủ. Mọi công tác chuẩn bị đă xong. Máy bay chỉ c̣n chờ cất cánh. Như thường lệ cô chiêu đăi viên chính đếm lại số hành khách của chuyến bay. Cô thấy dư một người. Nơi dẫy ghế hạng nhất, có một người ăn mặc như phi đoàn trưởng của hăng đang ngồi. Cô nghĩ có lẽ vị này dă làm xong nhiệm vụ và trở về Miami nên khỏi mua vé, v́ lẽ đó số hành khách đă dư ra một người. Cô thấy phải báo cáo cho vị khách này tên ông không được liệt kê trên danh sách hành khách. Cô lại gần và hỏi xem có phải Ông đă được phép ngồi trên loại ghế Jump Seat (loại ghế tự động có thể nhảy dù ra ngoài khi máy bay gặp nạn) của dẫy ghế hạng nhất để trở về Miami hay không? Nhưng Ông không trả lời và điềm nhiên nh́n thẳng về phía trước. Cô hỏi thêm lần nữa. Ông vẫn không trả lời, vẫn nh́n thẳng phía trước mặt.
Thấy lạ, cô liền báo cáo ngay cho vị giám thị trưởng. Vị này và cô cùng tiến về phía phi đoàn trưởng lạ lùng cũng hỏi lại như trên nhưng cũng như hai lần trước không được trả lời. Viên phi đoàn trưởng này nh́n chung không có ǵ khác lạ, duy có một điều là Ông có vẻ rụt rè ngơ ngác. Một trong hai người chạy vào pḥng lái tường tŕnh sự việc cho viên phi công chính (tức phi đoàn trưởng của chuyến bay). Ông John Fuller nhấn mạnh là có khoảng 6 hành khách ngồi gần vị khách này đều hiếu kỳ muốn biết sự việc. Viên phi công chính biết rất rơ là không hề c̣n một vị phi công nào khác ngoài phi hành đoàn của chuyến này, có nghĩa là vị khách lạ này không có giấy tờ hợp lệ. Vừa đi Ông vừa nghĩ như vậy và tiến về phía vị khách. Viên giám thị và cô chiêu đăi viên đứng kế bên.
Ông cúi xuống nh́n mặt vị khách. Đột nhiên máu Ông như muốn đụng lại. Ông hét lên: "Trời Ơi! Chính là Bob Loft đây mà!". Toàn thể dẫy ghế hạng nhất im phăng phắc. Trước mắt mọi người, vị khách lạ lùng bỗng dưng biến mất. Viên phi công chính trở về pḥng điều hành, ngưng việc cất cánh, kiểm soát lại một lần nữa, nhưng vô ích, vị khách lạ vẫn mất dạng. Sau đó chuyến bay vẫn tiếp túc cuộc hành tŕnh về Miami. Tất cả hành khách lẫn phi hành đoàn đều hết sức kinh hăi. Khi về tới Miami, 3 nhân viên của chiếc 318 (cô chiêu đăi viên, vị giám thị và viên phi công) có xem lại sổ ghi các biến cố xảy ra trong chuyến bay th́ lạ thay các trang giấy có ghi rơ ràng sự việc trên đă hoàn toàn biến mất. (Theo luật lệ của FAA - Cơ Quan Giám Sát Luật Lệ Không Vận, th́ mỗi chi tiết xảy ra trong chuyến bay đều phải ghi hết vào sổ).
Bắt đầu từ vụ này, sau mỗi chuyến bay, người ta đă lấy báo cáo ghi sổ xếp ngay vào hồ sơ (Luật Lệ này trái với nguyên tắc của Hẫng Eastern từ trước tới giờ).
Một lần khác nữa, hồn ma Bob Loft cũng xuất hiện trên phi cơ 318 đứng giữa chiêu đăi viên và phi công chính, làm họ sợ hăi phải hủy bỏ chuyến bay.
Viên phi công phụ Don Repo cũng xuất hiện trên Phi cơ 318 nhiều lần. Một thời gian sau, hồn ma phi công chính Bob Loft không c̣n thấy nữa, nhưng người ta vẫn thấy Don Repo cho đến 2 năm sau ngày chuyến phi cơ 401 lâm nạn.
Sau đây là vài sự việc xảy ra do Ông John Fuller ghi nhận; những sự việc đáng kể nhất đă xảy ra trước mắt một số người. Người ta tính có tới 12 lần hồn ma Don Repo xuất hiện cho đến cuối năm 1973. Thường thường Don Repo xuất hiện ra để giúp đỡ các cô chiêu đăi viên hay các nhân viên cơ khí sửa chữa các trục trặc kỹ thuật. Don Repo xuất hiện như một người bạn tốt, thích giúp đỡ mọi người. Có nhiều lần người ta thấy Don Repo tṛ chuyện với một số người trên máy bay.
Sau đây là một sự việc xảy ra có sự chứng kiến của một nữ hành khách đi vé hạng nhất của chiếc phi cơ 318 từ Nữu Ước về Miami. Máy bay đang c̣n trên phi đạo. Nhân viên phụ trách đếm số hành khách đang tiến về dẫy ghế hạng nhất. Nữ hành khách nói trên ngồi cạnh một nhân viên phi hành trong bộ đồng phục kỹ sư cơ khí của Hăng Eastern. Có điều ǵ đó làm cho bà ta lo ngại. Viên kỹ sư gương mặt xanh sao, có vẻ như đang bệnh. Bà ta nói rằng nếu Ông cảm thấy không được khoẻ, Bà sẽ gọi một chiêu đăi viên đến giúp đâ Ông, nhưng Ông làm ngơ không trả lời. Bà liền gọi cô chiêu đăi viên đến. Cô xác nhận trông Ông như một người đang bệnh. Cô hỏi Ông có cần ǵ không th́ Ông đă biến mất trước sự sửng sốt của nhiều hành khách. Riêng vị nữ hành khách ngồi cạnh bị khích động vô cùng. Vị nữ hành khách và nhân viên phi hành đă khám phá ra vị kỹ sư cơ khí ngồi dẫy ghế hạng nhất đó chính là Don Repo.
Năm 1974 một phi đoàn trưởng đă xác nhận với ông John Fuller chính ông đă được một kỹ sư cơ khí phi hành ngồi trên một ghế Jump Seat của chiếc L-1011 cho biết hệ thống điện của máy bay đang trục trặc. Ông ra lệnh kiểm soát thêm một lần nữa th́ khám phá được một mạch điện bị hư. Sau đó ông nh́n lại th́ thấy chính là viên phi công phụ Don Repo.
Thêm một chuyện xảy ra trong chuyến bay đi Mexico City vào tháng 2 năm 1974. Chiếc 318 đang sẵn sàng cất cánh. Một nữ nhân viên phi hành chợt nh́n thấy gương mặt của Don Repo nơi cánh cửa chính. Gương mặt nh́n thẳng mặt cô. Cô chạy lên cầu thang mời một nhân viên phi hành xuống xem. Cả hai vẫn nh́n thấy gương mặt trên cánh cửa. Họ liền báo với Ban Điều Hành. Viên kỹ sư cơ khí của Ban Điều Hành lập tức xuống xem, vẫn c̣n thấy gương mặt của Don Rep đang đăm đăm nh́n ông và nói với ông rằng: "Hăy cẩn thận! Máy bay có thể bị bốc cháy!" Rồi gương mặt biến mất. Quả đúng như vậy, trong lúc cất cánh, một máy bị cháy. Chiếc 318 chỉ c̣n chạy bằng một máy mà thôi.
Những cấp thẩm quyền của Hăng Eastern cho rằng những hồn ma của chiếc 401 (Bob Loft và nhất là Don Repo) chỉ là chuyện nhảm nhí (có lẽ v́ sợ ảnh hưởng đến việc thương mại của Hăng) và nói rằng không một ai trông thấy cả nhưng lại từ chối không cho ai xem sổ ghi các biến chuyển của các chuyến bay liên hệ. Người ta chỉ biết rằng, khi tất cả các đồ phụ tùng c̣n lại của chiếc máy bay bị rớt 401 đă được tháo gỡ khỏi chiếc 318, th́ các hồn ma nói trên không c̣n thấy xuất hiện nữa.
Sự việc trên cũng giống như sự việc hồn ma Butler (Bà George Butler) ở một làng tại Machiasport, Tiểu Bang Maine, chết rồi nhưng c̣n xuất hiện nhiều lần trước sự chứng kiến của hàng trăm dân địa phương. Mục sư Cummings đă nhận được khoảng 30 bản tường tŕnh.
Hồn ma của chuyến bay 401 cũng đă xuất hiện nhiều lần trong nhiều trường hợp trong một thời gian khá dài trước một số người được mục kích.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 508 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 8:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
VI. TIẾN SĨ RAYMOND A. MOODY
Ca Sĩ Elvis Presley, một nghệ sĩ siêu đẳng Hoa Kỳ chết ngày 16 Tháng 8 Năm 1977 tại nhà riêng ở Graceland, Memphis, Tennessee, Hoa Kỳ đă khiến hàng triệu người trên thế giới ḅng hoàng xúc động. Ảnh hưởng tâm linh của Elvis đối với quảng đại quần chúng Hoa Kỳ rất rộng lớn Tiến Sĩ Raymond A. Moody đă bỏ ra trên 9 năm để sưu tầm, điều tra, nghiên cứu và viết cuốn sách "Elvis Presley After Death "( Elvis Presley Sau Khi Chết)
Tiến Sĩ Raymond A. Moody Jr. tốt nghiệp Đại Học Đường Virginia với văn bằng B.A., M.A., và Ph. D. (Tiến Sĩ). Sau khi dạy triết cho Đại Học Đường East Carolina, ông lại tốt nghiệp Y khoa Bác Sĩ Đại Học Đường Georgia vào năm 1976 và là Bác Sĩ Nội Trú của Y Khoa Đại Học Đường Virginia. Ông đă xuất bản những cuốn sách nổi tiếng như Life After Life, Reflections on Life After Life, có cả hàng triệu độc giả trên thế giới. Chúng tôi xin trích dịch một vài chuyện có thật trong cuốn Elvis Presley After Death do nhà Xuất Bản Peach Tree phát hành năm 1987.
-28-
JEREMY MORGAN, HIỆN THÂN CỦA ELVIS
Tác Giả: Raymond A. Moody
Vào mùa đông năm 1985, tôi đến thăm Nancy Morgan và Jeremy, con trai nàng tại căn nhà nhỏ của nàng tại miền đồng quê Oregon Lúc đó nàng 33 tuổi và Jeremy th́ 6 tuổi rưỡi. Hai tuần lễ trước đây, Nancy gọi điện thoại báo cho tôi biết nàng có nhiều chứng nghiệm bất thường với Elvis. Nàng không chịu tiết lộ bằng điện thoại và nghĩ là tôi nên đến gặp nàng th́ thuận tiện hơn cho việc nghiên cứu của tôi. Nàng mời tôi đến nhà và tôi nhận lời.
Tôi tới nơi Nancy và Jeremy ra cửa chào tôi và dẫn tôi vào pḥng khách. Tôi nhận thấy có mấy bức tranh của Elvis treo trên tường. Ḷ sưởi xây bằng loại gạch cổ khá đẹp với cái hầm đựng củi. Nancy, người dáng cao, tóc nâu duyên dáng, với cặp mắt xanh, tươi cười cho tôi biết nàng đă ly dị chồng từ khi Jeremy chưa sanh ra đời và chồng nàng là một dân chài. Nàng không nghe tin tức ǵ về người chồng từ khi ly dị và nàng nuôi Jeremy một ḿnh. Nàng cho biết nàng là người ái mộ Elvis từ lâu. Nàng có rất nhiều dĩa nhạc của Elvis và xem tất cả các phim do Anh đóng.
Đến đây nàng đi ngay vào vấn đề, nàng tuyên bố với một một luận điệu rất thành thực và cả quyết là Jeremy Morgan, con nàng là hiện thân của Elvis. Tôi đang ngồi tại ghế sô-pha và ngạc nhiên sao nàng có thể đi đến một kết luận lạ kỳ như vậy, nàng nói nhanh và mạnh dạn." Khi Elvis chết, tôi cảm thấy như mất đi một người bạn thân nhất. Tôi lấy Willie, chồng tôi ngay khi học hết trung học, ngoài việc Elvis chết, tôi chống đối chồng tôi suốt cả năm 1977. Khi Elvis chết tôi quá thất vọng và lâm bệnh. Tôi tưởng tôi sẽ chết.
Willie và tôi bắt đầu đến gặp vị mục sư của chúng tôi vào tháng 10 năm 1977. Chúng tôi đến gặp vị mục sư hai lần mỗi tuần để nói về chuyện hôn nhân của chúng tôi. Vào mùa Giáng Sinh năm đó, tôi có đi lại với chồng tôi và tôi mang thai. Tôi nới với Willie, chồng tôi, anh hết sức giận giữ. Anh la tôi và bảo tôi không cẩn thận và cho là lỗi tại tôi. Tuy nhiên anh cũng ở với tôi thêm vài tháng và sau đó anh bỏ đi và từ đó tôi không c̣n nghe tin ǵ về anh nữa. Người anh em họ của anh cho tôi biết anh đi biển làm nghề chài lưới.
Tôi nhớ thương Elvis hơn là tôi nhớ thương chồng tôi. Trong khi mang thai, nhiều đêm không ngủ tôi đă khóc v́ nhớ thương Elvis. Tôi khóc lóc: "Elvis bây giờ Anh ở đâu, sao Anh nỡ bỏ mẹ con tôi?" Nhiều đêm tôi mơ thấy Anh. Một đêm tôi mơ thấy Anh, khi tỉnh dậy tôi tưởng Elvis vẫn ở trong pḥng ngủ với tôi.
Trong lúc mang thai Jeremy không có ǵ xảy ra để tôi tin đứa nhỏ trong bông tôi là Elvis cả. Một lần tôi nghĩ là sau khi sanh, tôi sẽ đặt tên đứa nhỏ là Elvis, nhưng tôi lại nghĩ: "Không,tôi không tài nào chịu đúng được mỗi khi gọi con tôi lại nghĩ là Anh đă chết."
Tôi được biết là tôi sẽ sanh ngày 12 tháng Tám,nhưng tôi tưởng rằng tôi sẽ sanh vào ngày 16 tháng Tám tức đúng một năm sau khi Anh chết. Đến ngày 12, tôi vẫn chưa sanh, tôi yên chí sẽ sanh vào ngày 16. Ngày 16, vẫn chưa sanh. Đến ngày 18, tôi đau bông, em tôi và chồng nó chở tôi đi bệnh viện đêm đó và tôi sanh lúc 7 giờ 30 chiều tức một năm 2 ngày sau khi Elvis chết.
Khi sanh Jeremy sanh tôi chưa bao giờ có ư nghĩ Jeremy là Elvis. Jeremy là một đứa trẻ ngoan thực sự tinh khôn. Nó ngủ nhiều. Không có vấn đề ǵ khó khăn với nó. Nó thích chơi với đồ chơi của nó trong nôi. Tôi thường nói chuyện với nó trong khi tôi ủi đồ. Tôi thường vặn nhạc Elvis cho nó nghe và nó thích lắm, thường nhảy cỡn lên, khi nghe nhạc và mỉm cười.
Giáo Phái Baptist (Tẩy-Lễ) của một nhà th́ đă dậy dỗ tôi. Mẹ tôi nói nhiều về truyền thống và tôi được rửa tội thánh thần khi lên 14 tuổi. Luân hồi không bao giờ được dạy hay nói đến trong nhà th́ và tôi cũng không bao giờ tin tưởng hăy nghĩ về luân hồi cả.
Khi tôi biết Jeremy là hiện thân của Elvis là lúc Jeremy gần 18 tháng. Một hôm tôi đang chơi với nó, tôi nh́n thấy có cái ǵ trong cặp mắt nó. Đúng là cặp mắt của Elvis. Tôi nghĩ: "Phải chăng Jeremy là hiện thân của Elvis và Elvis đă trở lại?" Tôi ḅng hoàng, và tôi không biết tại sao. Jeremy lúc nào cũng thích nhạc Elvis. Mắt nó giống như Elvis. Tôi nghĩ rất nhiều đến Elvis trong lúc mang thai và một đêm tôi có cảm giác Elvis ở trong pḥng tôi.
Rồi tôi nh́n thẳng vào mắt Jeremy và hỏi: "Jeremy, có phải con là Elvis không?" Nó cười, tôi chắc chắn nó hiểu tôi nói ǵ. Nó trả lời "Ờ hử" gật đầu. Tôi xúc động những muốn kể cho mọi người cùng biết, song tôi bỏ ư định ấy v́ nghĩ là khi tôi nói ra chắc mọi người cho tôi là mất trí. Tôi chỉ kể cho người duy nhất là em gái tôi nghe mà thôi. Tối hôm đó tôi với Jeremy đến nhà cô em gái. Chúng tôi ngồi trong nhà bếp. Tôi hỏi em tôi: "Ruth à, em có thấy Jeremy có ǵ đặc biệt không?"
Em tôi trả lời: "Em không biết, nhưng đôi khi em thấy Jeremy giống như Elvis, có thể Elvis tái sanh thành Jeremy."
Tôi thở dài nhẹ nhỏm khi nghe em tôi nói. Em tôi cũng thấy giống như tôi. Em tôi c̣n cho biết có một tối em tôi và chồng nó giữ Jeremy giúp tôi v́ tôi đi vắng, Jeremy nói:
"Elvis thích đậu phọng và chuối." Chính chúng tôi đă không biết điều đó cho đến vài tháng sau chúng tôi mới khám phá ra sự thật này. Elvis thích đậu phọng và bánh kẹp chuối thực. Tôi đọc được tin này vài tháng sau buổi tối trong bếp nhà cô em gái tôi. Tại sao Jeremy lại biết về Elvis trong khi chúng tôi lại không biết?"
Từ đó về sau trong thâm tâm, tôi lúc nào cũng nghĩ Jeremy chính là Elvis. Tôi biết Jeremy cũng sẽ làm một cái ǵ nổi bật trong đời nó. Nó có thể không phải là một ca sĩ, nhưng sẽ được nổi tiếng và sẽ được người đời ngưỡng mộ. Chắc ông không tin, nhưng sự thật sẽ như vậy, rồi cả thế giới sẽ thấy điều đó.
Năm vừa qua tôi đến gặp một nhà siêu linh học. Bà này chưa hề biết ǵ về tôi mà tôi cũng không để lộ chút nào cho bà ta biết. Bà ta nắm tay tôi và nói nhiều điều mà chỉ ḿnh tôi biết. Điều cuối cùng của bà ta nói ra là bảo tôi có một đứa con trai, đứa trẻ này thật đặc biệt, kiếp trước là một người nổi tiếng. Bà nói hàng triệu người đă yêu mến người này và thằng nhỏ này cũng sẽ trở nên lừng lẫy.
Tôi không nói cho bà ta biết nhưng tôi biết bà ta muốn nói về chuyện ǵ. Tôi không kể cho bà ta biết Jeremy chính là hiện thân của Elvis.
V́ thế tôi cố gắng hết sức ḿnh để cung cấp cho Jeremy những ǵ cần. Một ngày nào đó Jeremy sẽ trở nên một nhân vật quan trọng và được dân chúng mến mộ."Khi Nancy chấm dứt câu chuyện của nàng, nàng đứng dậy và đi xuống bếp. Một lát sau nàng trở lại với một khay đầy bánh ḿ kẹp. Trong khi ba chúng tôi ăn, tôi nói chuyện với Jeremy. Tôi muốn biết phản ứng của em. Tôi hỏi:"Này Jeremy, em nghĩ thế nào về câu chuyện của mẹ em kể cho tôi nghe? Em có nghĩ em là Elvis không?" Tôi phải nhận là tôi thật kỳ cục khi đặt câu hỏi này cho một em nhỏ mới 6 tuổi.
Jeremy không chút ngặp ngừng trả lời:"Vâng", tôi chính là Elvis. Tôi chết rồi nhưng tôi đă trở lại.'
Tôi hỏi: "Em tin tưởng điều này bao lâu rồi?" Em nhớ lúc nào là lúc đầu tiên khi em nghĩ như vậy?"
"Lúc nào tôi cũng biết tôi là Elvis ngay từ khi mới sanh". Em bảo đảm với tôi không chớp mắt."Tôi trở lại để được ở bên mẹ tôi. Mẹ tôi đau khổ v́ tôi, cho nên tôi đă trở về sống với mẹ tôi."
Không thể nào nhầm lẫn, Jeremy đă nói bằng một giọng giống như giọng của Elvis. Cách phát âm, nhấn mạnh,chuyển giọng - tất cả đều như hệt Elvis kẻ cả cái giọng nhừa nhựa của vị danh ca này. Tôi suy gẫm không thể nghi ngờ ǵ, Mẹ em đă dạy con học được tất cả giọng nói của Elvis từ khi em c̣n đang nằm trong nôi.
Tôi hỏi em rằng khi lớn lên em muốn làm ǵ.
Em trả lời: "Tôi chưa biết,cũng có thể là một nhạc sĩ, một diễn viên trên truyền h́nh, cũng có thể là một phi công."
Trong khi nói chuyện với em, dần dần tôi thấy h́nh như em đă có thể b́nh tĩnh giữ được sự cảm xúc của em. Em thông minh trên mức trung b́nh, em học khá. Không một người bạn hay một thầy giáo nào biết được sự bí mật lư lịch của em khi tôi hỏi em cho tôi biết. Mẹ em đă dặn ḍ em không nói cho ai hay.
Tôi nghĩ hẳn là Nancy đă dạy cho em thâm nhập và khuyến khích em với cách giáo dục em bằng nhạc, cá tính, đời sống của Elvis. Trong gia đ́nh không có người cha, Nancy đă tạo ra "một người cha giả tưởng" cho con dưới h́nh thức một việc ngông cuồng hoàn chỉnh. Việc này đưa đến kết quả là cho cho Jeremy thấy h́nh ảnh một người đàn ông gương mẫu - người này chính là Elvis.
Khi tôi sửa soạn ra về, Nancy nói nàng muốn cho tôi xem một việc nữa.
"Hăy xem đây!" Nàng vừa nói vừa ra hiệu cho Jeremy và ngay tức khắc Jeremy thi hành vai tṛ của ḿnh. Tôi thích thú chăm chú theo dơi Jeremy; nó bắt đầu hát bản "Don't Be Cruel" (Xin Đừng Độc Ác) bắt trước y hệt như Elvis từ giọng hát, điệu bộ, cách đi ṿng trong một màn tŕnh diễn gần như hoản hảo về động tác và kiểu mẫu của người mẹ anh hững.
Khi màn tŕnh diễn chấm dứt, tôi cảm ơn hai mẹ con nàng về sự khả ái và ḷng hiếu khách trong buổi tối không bao giờ quên được này. Tôi ra về, ḷng bâng khuâng suy nghĩ không biết rồi đây họ sẽ ra sao?
-29-
JACK MATHEW GẬP THẦN HỒN ELVIS PRESLEY TRÊN ĐƯỜNG MEMPHIS
Tác Giả: Raymond A. Moody
Đầu tiên tôi được nghe Bill Grady, viên quản lư một cơ sở buôn bán phụ tùng xe hơi tại một thành phố nhỏ ở Alabama kể về cuộc gặp gỡ rất ngộ nghĩnh của Jack Matthew và Elvis Presley. Tôi đến đấy để thuyết giảng và tôi cũng có cho biết là tôi chú trọng đến vấn đề thời sự đó trong dịp này. Sau đó Bill Grady đến và sẵn sàng cho tôi biết một chuyện vô cùng lư thú. Bill nói có quen một tài xế lái xe vận tải cỡ lớn tên là Jack Mathew. Jack nói là ông ta thấy Elvis Presley trên xa lộ sau khi Elvis đă chết và c̣n chở Ca Sĩ này nữa. Bill hỏi tôi có muốn nói chuyện với Jack không, Jack ở cách xa đây chừng khoảng 8 dậm tại một thành phố ở Alabama. Tôi trả lời tôi rất muốn gặp Jack, và Bill mời tôi ghé qua cửa hàng của anh sáng hôm sau để biết địa chỉ của Jack, cửa hàng của anh có hồ sơ ghi địa chỉ của Jack.
Tôi đến cửa tiệm Bill lối 9 giờ sáng. Bill nh́n tôi mỉm cười, anh đứng sau cái quầy hàng bằng gỗ cây sồi và đưa tôi một mảnh giấy có ghi địa chỉ và số điện thoại của Jack Matthew. Bill mời tôi ngồi nói chuyện chơi một lát và uống cà phê.
Trong lúc chúng tôi uống cà phê và tṛ chuyện, Bill cho tôi biết không biết Jack Matthew có chịu tiếp tôi không v́ Jack là một người sống cô đơn, thầm kín. Anh cũng cho tôi biết sức khoẻ của Jack không được tốt, Jack đau bao tử và phổi v́ uống rượu và hút thuốc - biết rơ Jack qua Bill, tôi có thể nói chuyện với Jack dễ dàng hơn.
Khi trở về nhà, tôi liên lạc với Jack bằng điện thoại ngay. Bốn tuần qua dù cố gắng điện thoại gặp Jack nhưng vẫn thất vọng không thể nào gặp được Jack. Tôi có vài lần dặn ḍ bà mẹ của Jack nhưng vẫn không được hồi âm. Cuối cùng tôi đành bỏ qua chuyện Jack và cho là Jack không muốn tiếp chuyện tôi.
Một buổi sáng vào khoảng 8 giờ, tôi đang ngồi tại văn pḥng th́ điện thoại reo. Một giọng nói khàn khàn như người ngái ngủ vang lên: "Bác Sĩ Moody phải không, tôi là Jack Matthew". Hết sức thích thú, tôi cho Jack biết là tôi là một bác sĩ tâm trí, tôi rất chú trọng đến câu chuyện lạ lùng của Jack và Elvis mà tôi đă được nghe qua do Bill Grady kể lại. Tôi đề nghị được gặp Jack để tôi biết rơ ràng hơn. Jack hỏi tôi nghĩ sao về chuyện này, liệu tôi có gán cho Jack là một "Thằng Điên" hay "Thằng Sạo" chăng. Tôi trả lời là trong công cuộc khảo cứu của tôi tôi đă gặp rất nhiều người tâm lư b́nh thường cho tôi biết những chuyện thật khó tin về Elvis Presley và cảm nghĩ của tôi là tôi không có ư kiến "đúng hay sai" về những chuyện đó, nhưng tôi dám chắc họ là những người rất thành thực với tôi.
Jack tán thành và anh hẹn sẽ nói chuyện với tôi trong một ngày gần đây.
Ba tuần lễ sau, tôi lại nhận được điện thoại của Jack. Anh báo cho tôi biết hai ngày nữa anh sẽ đến Tennessee. Anh muốn tôi đến gặp Anh tại một trạm xe vận tải gần thành phố. Anh sẽ đến đó vào khoảng 5 giờ chiều hoặc muộn hơn. Tôi nói tôi sẽ đến đó gặp anh và báo anh biết anh sẽ nhận ra tôi là tôi sẽ mặc một áo ấm mầu nâu và đeo một máy thâu băng.
Vào đúng ngày hẹn tôi đến trạm xe vận tải vào khoảng 4 giờ 15 chiều; 5 già, 6 giờ rồi 7 giờ cũng vẫn chưa thấy Jack đến. Tôi định ra về th́ vào khoảng 8 giờ kém 20, tôi thấy một người tài xế xe vận tải, cao, gầy, tóc hoa râm, bước vào cửa chính và đang nhớn nhác nh́n quanh. Thấy tôi anh cúi đầu chào và bước tới. Anh mặc quần Jeans xanh, áo sơ mi Flannel sọc xanh, và đi đôi giầy ̣ng cao bồi. Cánh tay phải vắt chiếc áo dạ ngắn sọc đỏ. Có lẽ đă hai ngày anh chưa cạo râu.
Khi tới gần bàn tôi ngồi. anh nói vời tôi: "Xin lỗi Bác Sĩ Moody, tôi đến trễ. Dọc đường cách dây độ 100 dậm, xe tôi bị hư, trời lại mưa to quá ". Tôi nh́n qua cửa sổ, trời đang mưa như trút nước đă hơn một tiếng đồng hồ.
Jack ngồi xuống và chúng tôi gọi cơm chiều. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Đầu tiên Jack cho tôi biết là anh đă cai rượu và anh dă phải vào nhà thương cả thảy 3 lần. Hiện giờ anh đă bỏ được rượu khoảng gần một năm nay. Tôi thầm nghĩ, đôi mắt sâu thẵm và chan chứa t́nh cảm chứng tỏ anh là người ghiền rượu.
Sau khi dùng cơm xong, anh bật lửa châm thuốc hút. Tôi đề nghị anh nói chuyện về việc chứng nghiệm với Elvis Presley.
"Trở lại vào Năm 1980, ngày đó là ngày 20 tháng Chạp, tôi nhớ rơ v́ ngày đó là ngày tôi giao động mà c̣n v́ ngày đó xảy ra trước hai ngày sinh nhật của mẹ tôi ( Ngày 22 tháng Chạp là ngày sinh nhật của mẹ tôi). Thật khẩn trương làm sao v́ tôi phải trở về nhà tại Alabama cho kịp sinh nhật của mẹ tôi. Từ miền cực Tây tôi phải chuyên chở và giao hàng tại Memphis. Tôi lo sợ chẳng may dọc đường xe bị hư th́ tôi không kịp về dự lễ sinh nhật của bà. Tôi dự định xuống hàng tại Memphis hôm 21 và trở về ngay đêm đó. Tất cả gia đ́nh tôi đều về nhà dự lễ sinh nhật của bà và ở lại cho đến ngày Giáng Sinh.
Tôi rất lo lắng cho mẹ tôi v́ bà bị bệnh tim vừa nằm 2 tháng bệnh viện để điều trị. Tôi sợ có thể đây là lần sinh nhật cuối cùng của bà. Tôi đang ở với bà. Tôi có lấy vợ được 5 năm và vợ tôi đă bỏ tôi vào năm 1978; từ đó tôi vẫn sống với bà.
Đêm ấy tôi lên đường. Trời tối đen như mực. Lúc đó vào khoảng 9 giờ 30, tôi đến cách Memphis chừng một trăm dậm về phía tây. Tôi biết rơ con đường này và dự trữ đến Memphis vào đêm ấy. Bấy giờ, có điều là lạ là tôi rất ít khi cho người đi đường quá giang. Cách nay khoảng sáu năm có lần tôi cho một gă quá giang ở Nevada, tự nhiên gă này nổi khùng chửi mắng tôi. Gă đâm tôi nhưng tôi đánh bật được con dao khỏi tay gă và xô gă xuống lề đường.
Tôi là một tài xế xe vận tải độc lập nhưng kể từ dạo đó tôi không cho ai quá giang nữa. Thời buổi này, ông không thể ngừng xe dọc đường cho khách quá giang.
Nhưng đêm 20 tháng Chạp lại khác hẳn. Tôi dừng xe lại đổ thêm xăng. Tôi cảm thấy bồn chồn nên xuống xe và đi bộ ṿng quanh để lấy lại sự thư thái. Tôi uống hết hai ly cà phê. Chung quanh trạm xăng đèn pha chiếu sáng rúc, nhưng bên kia đường và phía cánh đồng th́ tối om. Phía đường bên kia có nhiều bụi cây, một vùng toàn cây. Nh́n về phía ấy tôi thấy một ánh sáng. Không phải ánh sáng của một cây đèn bấm mà giống như một vầng ánh sáng phát ra từ những lùm cây. Tôi nghĩ ngợi. Lúc đầu tôi tưởng là đám mây sáng qua các cành cây, nhưng tôi quả không biết ánh sáng trên từ đâu phát ra. Tôi đứng bên đường và đăm đăm nh́n chùm ánh sáng mờ mờ. Rồi bỗng nhiên tôi thấy một người đi đằng trước ánh sáng này. Anh ta đi dọc theo con đường về phía xa lộ. Anh ta mặc áo khoác, tay cặp một gói đồ.
Tôi cho là Anh đang đi dọc con đường và bước qua vùng ánh sáng, nhưng ngay lúc ấy tôi thấy Anh ta đang đi trên đường. Có thể Anh từ rừng cây bước ra, Thực tôi không biết Anh từ đâu tới. Tôi vừa đoán có lẽ Anh đang đi dọc con đường trước khi tôi thấy Anh nhưng tôi không biết thật.
Thoạt đầu tiên tôi không nh́n thấy chân Anh. Anh đang đi đằng sau vài lùm cây thấp nên tôi chỉ trông thấy phần trên từ hỏng lên tới đầu mà thôi. H́nh như Anh nh́n thấy tôi, tiến tới và băng qua đường. Giờ này không có xe cộ ǵ cả.
Tôi đến ngay bên Anh và hỏi: "Anh đi đâu?". Trong ḷng tôi cảm thấy thương hại Anh. Tại sao, tôi không biết. Anh có vẻ lo âu. Tôi nghĩ là Anh không nghe câu hỏi của tôi v́ tôi nói hơi nhỏ nên Anh không trả lời. Tôi lại nói to hơn: "Anh đi đâu?"
Lần này Anh nh́n tôi và nói: "Memphis"
Tôi hỏi: "Đi nghỉ lễ ở Memphis à?"
Anh trả lời: "Vâng tôi đi về nhà thăm cha mẹ tôi".
Anh nói giọng Tennessee rất trầm. Tôi không thấy rơ mặt Anh v́ Anh đội một cái mũ lớn, cũng có thể là loại mũ trùm đầu. Tôi không hiểu tại sao Anh lại ở trên con đường cách xa Memphis cả trăm dậm, nên tôi hỏi:
"Anh đi bằng ǵ?"
Anh trả lời: "Tôi ra xa lộ để xin quá giang."
Rồi Anh tiếp tục đi cho đến khi khuất dạng. Tôi trở về trạm xăng, lên xe quay trở về xa lộ. Từ trạm xăng ra xa lộ chừng nửa dậm, nhưng mới đi chừng khoảng một phần tư dậm, tôi đă thấy Anh đang đi bên lề đường bên trái, tay cắp gói đồ.
Không suy nghĩ tôi ngừng xe ngay bên cạnh Anh. Tôi quay kính xe xuống, tḥ đầu ra ngoài nói với Anh: "Tôi đi Memphis đây, tôi cho Anh quá giang".
Anh cảm ơn tôi, băng qua đường và trèo lên xe. Tôi chạy ra xa lộ, thẳng đường đi Memphis. Nh́n Anh vừa lên xe, tôi có thể nói Anh là người lịch lăm. Anh gọi tôi là "Ngài", vậy "Thưa Ngài' hoặc "Thưa Ngài không". Tôi nghĩ Anh hẳn phải được giáo dục kỹ lưởng.
Tôi thật là quá mệt trên suốt quăng đường c̣n lại đi Memphis nhưng nhờ có cà phê mà tôi c̣n tỉnh táo. Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, tôi không nhớ hết, nhưng tôi c̣n nhớ có nói đến âm nhạc mà cả Anh và tôi cùng thích. Anh cho tôi biết Anh đang mong mái gặp cha mẹ Anh. Tôi nói là Anh nghĩ đến mẹ Anh cũng như tôi nghĩ đến mẹ tôi. Cha mẹ là những người gần gủi thực sự. Anh nói với tôi Anh có mấy món quà biếu cha mẹ Anh trong gới đồ Anh đang mang theo. Anh cũng kể với tôi có một thời gian Anh làm tài xế xe vận tải và Anh biết nhiều loại xe. Anh c̣n nói Anh có vài chiếc Cadillacs, nhưng tôi không tin. Tôi nghĩ Anh chỉ là một gă nghèo khổ, muốn làm cho ra vẻ, nhưng tôi không nói với Anh điều đó. Tôi nghĩ thật là chuyện khó tin, một người có mấy chiếc Cadillacs lại phải xin quá giang xe giữa đường như thế này.
Chúng tôi rất tương đắc. Tôi cho Anh biết là tôi ghiền rượu. Anh tỏ vẻ thông cảm và cho tôi biết Anh cũng nghiện ma túy, thuốc ngủ, nên rất hiểu tôi. Lúc này trong xe rất tối nên tôi không thấy rơ mặt Anh. Tôi không thể nói Anh bao nhiêu tuổi. Tôi nghĩ Anh chừng 30 hay 35, cũng có thể trẻ hơn.
C̣n chừng ít dậm nữa là tới Memphis, những ngọn đèn hai bên đường giúp tôi nh́n thấy Anh rơ hơn. Tôi trông Anh rất quen thuộc. Chắc chắn truớc đây tôi đă gặp Anh. Tôi hỏi Anh muốn xuống đâu. Anh cho tôi địa chỉ, đó là Đại Lộ Elvis Presley. Anh bảo Anh xuống gần đây cũng được. V́ muốn biết Anh là ai nên tôi tự giới thiệu: "Tôi là Jack Matthew". Tôi nh́n Anh khoảng một giây.
Lúc tôi vừa nh́n Anh th́ Anh quay lại nh́n thẳng vào mặt tôi và nói: "Thưa Ngài tôi là Elvis Presley".
Tôi lạnh cũng và cứng đơ. Mồ hôi vă trên trán và ḷng bàn tay... tôi không thể nói được. Tôi lắp bắp h́nh như câu: "Anh nói chơi đó chứ!". C̣n độ một dậm nữa, tôi sợ quá và không nói nên lời. Tôi không biết sao tôi c̣n có thể lái xe được trong t́nh trạng này.
Đúng là Elvis Presley, hay hồn ma Anh. Trông Anh vẫn giống như xưa, như những ngày vui của Anh. Chân tôi run rẩy trong đôi giầy ống.
Cuối cùng Anh nói Anh muốn xuống xe và tôi đă ngừng lại để Anh xuống. Tôi đă gặp hồn ma! Tim tôi đập th́nh thịch.
Tôi chưa bao giờ đến Graceland cả nhưng hai tuần sau đó, tôi mạnh dạn trở lại Memphis và chạy qua Graceland. Thật là gần chỗ tôi đă ngừng xe để Anh xuống.
Đó là câu chuyện của tôi. Tôi không uống rượu hôm xảy ra chuyện đó. Tôi đă bỏ được rượu khoảng một tuần trước khi chuyện đó xảy ra. Tôi thề tôi không uống một giọt rượu nào đêm đó cả. Tôi cũng không dùng một loại thuốc nào đêm đó. "
Sau khi Jack kể xong chuyện, tôi đă mất cả tiếng đồng hồ để cật vấn. Tôi muốn biết anh có phải là người ái mộ Elvis trước đêm 20 Tháng 12 Năm 1980 không. Anh trả lời Anh có ái mộ Elvis nhưng anh thích loại nhạc dân ca hơn là kích động nhạc. Những ca sĩ thần tượng của anh là Willie Nelson và Waylon Jennings.
Tôi nhận thấy Elvis và Jack có vài điểm tương đồng về cá tính trong đời sống. Thứ nhất là Elvis và Jack cũng gần gủi thương yêu mẹ. Cả hai dều lái xe vận tải và đều thích xe; cả hai cũng ly dị và vương mắc chất độc (rượu, ma túy). Một điểm nữa là Jack gặp sự xuất hiện của Elvis trên con đường hoang vắng, sự lo âu của Elvis cũng như sự băn khoăn lo lắng của Jack trước khi gặp, là làm sao về nhà kịp để đoàn tụ với gia đ́nh.
Sau khi nghe tôi tŕnh bầy, Jack rất ngạc nhiên về những sự trùng hợp và tương đồng tôi nêu lên mà anh không nghĩ tới. Anh hỏi tôi xem có phải v́ nguyên do tâm lư hay bệnh hoạn mà chuyện xảy ra đêm đó.
"Thú thật tôi không biết, Jack à. Nếu anh muốn biết tôi giải thích, tôi sẽ nói anh nghe. Như anh biết tôi đang thử không chấp nhận chứng nghiệm của anh, tôi chỉ nói sự giải thích có thể có được chứ không phải là đúng hẳn."
Anh dục tôi: "Cứ nói đi"
Đầu óc tôi quay trở về lúc tôi học y khoa trong thời gian nội trú và thực hành về trường họp người nghiền rượu bất th́nh ĺnh bỏ rượu như Jack nói với tôi anh đă chấm dứt không uống độ một tuần trước khi câu chuyện kỳ lạ xảy ra trên đường Memphis. Tôi bắt đầu chậm răi nói với người tài xế xe vận tải đang ngồi trước mặt tôi.
"Jack, anh có bao giờ nghe thấy chứng bệnh mê sảng động kinh không?"
- "Có, họ nói với tôi rằng mỗi lần tôi đi chữa bệnh ghiền rượu tại bệnh viện có thể nh́n thấy các con chuột mầu hồng sau khi bỏ được rượu. Riêng tôi chẳng bao giờ thấy, nhưng người bạn cùng chữa trị với tôi nói cho tôi biết là có thấy".
Tôi nói cho anh biết có trường hợp ít ngày sau khi ngừng rượu, người ghiền thấy những ảo ảnh linh hoạt. Người đó nh́n thấy những vật mà thật ra không có. Người đó đổ mồ hôi, giao động và run rẩy. Những người bị mê sảng động kinh thường mất ngủ, mệt mỏi và luôn luôn sợ hăi.
Jack rất chú ư đến điều tôi nói. Tôi ngưng một chút nh́n anh, anh uống một ngụm cà phê và hít một hơi thuốc lá.
"Vài triệu chứng của bệnh mê sảng động kinh đă xảy ra với anh đêm đó". Tôi tiếp tục:
"Anh nói với tôi anh sợ sệt khi anh ngừng tại trạm xăng. Rơ ràng anh mệt mỏi và đi tản bộ chung quanh để chấn tĩnh. Sau này anh nói anh bị ra mồ hôi và lạnh cứng v́ sợ hăi. Tất cả những việc đó xảy ra một tuần sau khi anh ngưng uống rượu".
Tôi ngừng lại và thấy anh trầm ngâm nh́n ra phía xa. Trông anh như mất trí. Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau. Tôi bắt đầu suy nghĩ liệu một người bị mê sảng động kinh có thể lái được một xe vận tải lớn đi hàng trăm dậm mà không hề hấn ǵ như trường hợp của Jack không.
Thật là ngoài tầm tay, tôi tự hỏi có thể như vậy được không và óc tôi liên tưởng đến một việc đă xảy ra cách đây mấy năm cho chính tôi.Một đêm tôi đang làm việc trong pḥng cấp cứu th́ có một người, cũng là tài xế xe vận tải, bị bệnh mê sảng động kinh trầm trọng đến. Anh này là người ghiền rượu, anh nói với tôi anh lái xe xuyên bang, đột nhiên thấy nhiều ảo ảnh. Anh bắt đầu thấy các xác chết và những con vật kỳ quái to lớn nằm dài trên mặt đường. Tuy nhiên anh vẫn điều khiển được cái xe về nhà, vào bệnh viện thành phố sau một cuộc hành tŕnh dài. Tôi đă t́m đuọc câu trả lời: "Có thể một người sau khi cai rượu bị ảo ảnh vẫn có thể lái một xe lớn trên xa lộ.
Jack làm tôi tỉnh mộng: những lời anh nói khiến tôi giựt ḿnh trở về thực tại, tôi đang ở trong một quán ăn của một trạm xe vận tải miền đồng quê Tennessee.
"Bác Sĩ Moody, tất cả những ǵ ông nói đều đúng cả." Jack nói. "Thật đúng tôi hết sức bị giao động đêm đó. Tôi quên không nói cho ông biết. Bây giờ tôi mới nhớ lại, đêm đó, tôi mất b́nh tĩnh vô cùng."
"Tốt, sự kiện anh giao động hiển nhiên hơn là việc anh ngưng uống rượu. Có thể việc anh nh́n thấy Elvis là một ảo ảnh nếu anh bị chứng mê sảng động kinh."
"Vậy, có thể là tất cả chỉ trong tưởng tượng mà thôi." Jack hỏi.
"Ai biết được, có thể một phần là sự thật mà cũng có thể một phần là ảo ảnh.Có thể là có một người đă quá giang xe anh, đi xe cùng anh 100 dậm, và phần cuối anh đă ảo ảnh người này là Elvis Presley như trong giấc mơ". Tôi trả lời anh.
Trông anh do dự. "Tôi không biết Bác Sĩ à" anh nói.
"Tôi cũng không biết, Jack ạ"
Cả hai chung tôi đều cười.
Lúc này trời đă khuya. Jack muốn lên đường đi một quăng rồi mới nghỉ. Trời mưa cũng đă tạnh. Tôi tiễn đưa anh ra xe của anh, chúng tôi bắt tay từ giă, anh leo lên xe. Anh quay kính xuống, nh́n tôi, miệng cười toe toét. Tiếng động cơ bắt đầu nổ và rú lên.
"Suy nghĩ, tất cả mọi thứ là do tôi uống rượu", Anh cao giọng nói để át tiếng nổ của động cơ.
"Vâng có thể là đúng, mà chuyện kia cũng có thể là đúng"
"Cái ǵ, Bác Sĩ Moody?" Anh hỏi lại.
"Có thể là anh đă thực sự nh́n thấy hồn ma của Elvis Presley" Tôi nói thật to cho anh nghe.
Cả hai chúng tôi đều cười rộ, và tôi đứng nh́n theo chiếc xe vận tải cồng kềnh của anh, với đèn nhấp nháy, kéo đi vào miền núi lạnh lẽo của Tennessee trong đêm khuya.
-30-
CHIẾC ÁO CHOÀNG BỊ ÁM ẢNH BỞI THẦN HỒN ELVIS
Tác Giả: Raymond A. Moody
Vào Năm 1975 khi Elvis Presley cho cô chiếc áo choàng, Janice McMichael không bao giờ nghĩ nó sẽ là vật lưu niệm. Giờ đây chiếc áo h́nh như có một đời sống riêng tư, đôi khi cô lo lắng có nên giữ hay không. Tôi (Raymond A. Moody) nói chuyện với Janice tại Hoa Thịnh Đốn vào mùa hè năm 1986. Lúc đó Cô 39 tuổi và là một thiếu phụ tóc vàng duyên dáng đang làm thư kư cho một trường đại học. Trước khi bắt đầu vào đời cô có biết Elvis.
"Tôi có đi theo Elvis trong những năm đầu của thập niên 70. Về phần Anh không có ǵ quan trọng, về phần tôi có những ngông cuồng cá nhân: Tôi đang thử làm thương mại trong thị trường ca nhạc thời gian này. Tôi là một diễn viên xinh đẹp,tài giỏi, nhưng tôi nhận thấy dù có tài năng cũng khó để có thể biểu diễn kiếm tiền. Tôi người Ohio bỏ nhà năm 21 tuổi đi California t́m việc với ước vọng trá thành một diễn viên. Thật may mắn nên tôi đă được tuyển chọn trong vài màn tŕnh diễn. Tuy nhiên vẫn không đủ sống với nghề này.
Vào đầu năm 1970 một người bạn đă giới thiệu tôi với Elvis Presley Anh thật tử tế dễ mến. Khi tổ chức một bửa tiệc, Anh không yên ḷng nếu chưa gặp mặt tất cả mọi người, Anh thường tṛ chuyện hỏi về quê quán và đời sống cuả từng người. Anh thật là dịu dàng. Tôi không biết phải nói ǵ thêm nữa về Anh. Tôi không nhớ rơ đă gặp anh bao nhiêu lần; có thể là 5 hay 6 lần. Tôi không bao giờ gặp Anh trong chương tŕnh b́nh thường. Có thể nói rằng tôi là người t́nh đặc biệt của Anh, nhưng thực ra không phải thế.
Thời kỳ tôi biết Anh, Anh rất sợ chết. Anh có vẻ không được khoẻ. Nhưng cá tính hiền ḥa của Anh vẫn chói sáng. Tôi và Anh nói nhiều đến sự chết chóc. Anh muốn biết ư tưởng của tôi về cái chết. Tôi nhớ đă nghĩ:
"Anh là người giàu có trên thế giới nhưng muốn một thứ, mà tiền không thể mua được. Anh muốn biết về sự chết." Đó cũng là điều tôi quan tâm, v́ thế chúng tôi tṛ chuyện. Lần cuối cùng tôi gặp Anh khoảng vài năm trước khi Anh chết. Tôi không nhớ rơ năm nào, tôi nghĩ là năm 1975. Sau khi gặp Anh tôi ra về. Trời lạnh và mưa. Tôi không mặc áo ấm v́ tôi đến bằng máy bay từ miền Nam California ấm áp. Elvis choàng cho tôi chiếc áo khoác mầu nâu nhạt của Anh. Tôi nhận thấy việc tặng đồ đối với Anh gần như tự động. Hầu như Anh không bao giờ để ư đến.
Trước khi quen Elvis tôi rất dè dặt. Khi gặp Anh, tôi nhận thấy nhược điểm này. Anh có lối cư xử làm người ta thấy dễ chịu. Cách ăn nói của Anh cũng vậy. Elvis làm tôi không c̣n dè dặt, chiếc áo là món quà đặc biệt với tôi, gợi cho tôi nhớ lại lời cổ nhân nói bè bạn có thể cởi áo cho nhau. Tôi mua một cái túi nhựa để treo áo này trong tủ áo. Từ khi có chiếc áo tôi đă đổi chỗ ở ba lần và mỗi lần dăn nhà, chiếc áo đều được tôi đem theo về chỗ ở mới.
Cái chết của Elvis như cả tấn gạch đè nặng lên tôi. Tôi được tin này sau hôm Anh chết. Tôi ở nhà cả ngày hôm đó viết thư và nghe nhạc của Anh. Buổi sáng khi đồng hồ báo thức vừa ngừng reo, tôi mới nghe tin loan báo Anh chết hôm qua. Thật là kỳ dị, trước đây hai ba ngày tôi thoáng có ư nghĩ là tôi đến gặp Elvis. Tôi biết Anh không được khoẻ. Ư nghĩ thoáng qua trong đầu tôi Anh không sống mọi được và tôi nên lại thăm Anh. Đúng là điều kỳ quặc tôi sợ Anh chết hai ngày trước khi Anh chết? Elvis chết làm tôi ngơ ngẩn.
Tôi bị giao động. Thỉnh thoảng đôi tay tôi như run lên. Tôi lo lắng về sức khoẻ của tôi, tôi sợ hăi cái chết suốt trong sáu tháng trời. Elvis h́nh như bất tử. Anh là người chết đầu tiên mà tôi biết. Bà nội, Bà ngoại tôi vẫn c̣n sống. Tôi không được biết ông ngoại ông nội tôi v́ các cô mất trước khi tôi ra chào đời. Elvis là người thứ nhất tôi biết rơ là chết. Trong khoảng sáu tháng tôi sợ cái chết đến hết hồn.
Trong thời gian này chiếc áo choàng ít được tôi dùng đến. Chỉ một tuần chiếc áo đă hai lần rơi xuống sàn tủ trong lúc tôi đi làm. Chưa bao giờ áo này rơi như vậy thế mà chiếc áo rơi hai lần trong một tuần. Tôi không thể biết rơ thời gian là bao lâu sau khi Elvis chết. Có lẽ chừng một tháng nhưng chắc chắn không quá hai tháng. Lần đầu thấy chiếc áo rơi, tôi có cảm giác sợ sệt. Thành thật mà nói tôi đă tự hỏi có phải Elvis từ bên kia thế giới đang cố làm tôi chú ư đến không. Sau lần thứ hai tôi lấy túi nhựa ra và treo áo vào tủ.
Tôi nhớ rơ là vào tháng 11, cái áo thực sự hoạt động. Áo rơi khỏi mắc 3 lần thượng tuần tháng 11, một lần tôi nh́n thấy áo đang rơi, lúc đó tôi đúng cách độ 5 feet. Lần này là ban ngày. Tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao cái áo có thể rơi như thế. Thật là kỳ dị.
Không mấy người biết nguyên nhân nào tôi có cái áo kể cả mẹ tôi và em gái tôi. Tôi hiểu là nếu có người biết xuất xứ của chiếc áo thể nào họ cũng đánh cắp, tôi chắc chắn như vậy. Tôi biết có một người khoe trong quán rượu là ông ta có một tập dĩa gốc của Elvis với nhăn hiệu mặt trời. Không đầy một tuần lễ sau, nhà ông bị đột nhập và tập dĩa bị mất trộm. Bạn không thể để cho người ngoài biết bạn có những vật lưu niệm của Elvis, nếu bạn muốn giữ.
Trong túi bên phải của chiếc áo c̣n sót lại vài mảnh khăn giấy lau mặt và một đồng xu. Tôi bật cười - một đồng xu trong túi áo của một ông triệu phú! Khăn giấy và đồng xu vẫn c̣n nguyên trong túi. Tôi chưa bao giờ lấy ra.
Tôi bị khủng hoảng tinh thần từ khi Elvis chết nên tôi đă t́m một người đến ở chung. Người này tên Mary, quê ở Oklahoma. Mary đến đây để làm việc cho chánh phủ. Tôi sợ hăi có người xâm nhập vào pḥng tôi và thấy tôi có một ḿnh nên tôi đă để Mary ở chung và chia bớt tiền nhà với tôi. Đây là lần duy nhất tôi cảm thấy sợ hăi sự cô đơn khoảng 6 tháng sau khi Elvis chết.
Mary dời tới tháng Giêng. Tháng 11, chiếc áo như biết hoạt động, rơi 3 lần. Ngày 20 tháng 11 tôi tỉnh dậy giữa đêm khuya. Cái đèn ngủ ở ngoài hành lang phía ngoài pḥng ngủ chiếu ánh sáng thẳng vào cái tủ đóng ch́m trong tường để treo quần áo. Tủ này có hai cánh của kéo, một cánh th́ được kéo hết về một phía, phía tủ mở là phía treo chiếc áo. Tôi không biết sao tôi lại thức giấc giữa đêm khuya và nh́n về phía cái tủ. Tôi cố tập trung đôi mắt nh́n vào cái tủ v́ tôi không tin cái ǵ mà tôi đang thấy. Cái tay áo của chiếc áo choàng chuyển động, tay áo co lên rồi duỗi xuống. Đó là tay áo phải. Tôi biết rơ là tay phải theo cách treo của áo. Tôi hoảng vía. Tôi cố cử động mà không nổi. Tôi như bị tê liệt. Tôi không biết là bao lâu. Có thể 10 phút, cũng có thể 30 phút. Thỉnh thoảng cái tay áo co lên từ từ rồi lại buông xuống. Buổi sáng, thức dậy tôi thấy chiếc áo vẫn c̣n treo trên mắc. Lần này chiếc áo không rơi. Tôi chưa bao giờ thấy chiếc áo chuyển động như lần đó cả.
Tôi cũng chưa bao giờ kể cho Mary biết chuyện về chiếc áo. Vào tháng Hai một người đàn bà đến ở một căn pḥng dưới hành lang của chung cư. Tôi có biết bà ta. Tên Bà là Alice. Bà là người rất chú trọng đến siêu linh. Bà ta đă đưa tôi đến dự một cuộc hội về siêu linh tại Hoa Thịnh Đốn. Một hôm, ngồi uống trà với bà tại căn pḥng của bà tôi đă kể câu chuyện chiếc áo cho bà nghe nhưng tôi chỉ nói áo này là do một người bạn có tặng tôi. Tôi không nói áo này của ai cả. Bà lên căn pḥng tôi và nh́n xung quanh. Bà bảo tôi bà có thể đoán về chiếc áo này. Bà nới áo này của một người đàn ông tinh thần rất cao nhưng chết yểu. Tôi rất ngạc nhiên và nói là bà bà đoán trúng. Bà nói bà nghe thấy nhạc rất hay chung quanh chiếc áo. Tôi th́ không nghe thấy ǵ cả, chắc chắn như vậy, nhưng bà ta nói đúng là nhạc này của người đàn ông chết yểu.
Sau đó một chuyện kỳ lạ nữa lại xảy ra với chiếc áo. Vào cuối tháng Hai, tôi đẩy chiếc áo qua một bên để có thể mắc thêm quần áo. Khi tôi cầm nơi cổ áo tôi thấy cổ áo ướt, cổ áo bị ướt cả. Không có lư cái áo choàng này chung quanh lại bị ướt. Tôi lo sợ. Mary không thích Hoa Thịnh Đốn nên dời đi vào đầu tháng Ba. Tôi lại sống một ḿnh, lại càng thêm lo lắng, tôi sợ cái chết, tôi vẫn sợ chiếc áo.
Ngày 21 tháng Ba, một giấc mộng đến với tôi. Tôi mơ thấy tôi và Elvis đi qua những lùm cây. Đây là đồng quê, một miền rất đẹp. Chung quanh là những dẫy núi cao xanh thẳm. Trời xanh trong tuyệt đẹp. Tôi có thể nh́n thấy các con chim đủ mầu sắc như mầu sắc của các cầu vồng bay lượn chung quanh. Chúng tôi tản bộ trên một con đường nhỏ. Chung quanh chúng tôi đủ mọi loại hoa đẹp muôn mầu sắc đang đua ní. Elvis cầm tay tôi và chúng tôi đi sát bên nhau. Giấc mơ này giống như thật. Khi tôi tỉnh dậy tôi liền ghi lại tất cả. Chúng tôi đi qua một cái cầu đá bắc qua con suối nhỏ. Elvis nói chuyện với tôi. Tôi đă ghi lại tất cả những ǵ Anh nói. Chúng tôi ngồi trên cầu đá. Anh cầm tay tôi và siết chặt tôi vào ḷng Anh. Anh nói:
"Janice à, em có vẻ ngần ngại, phải không em? Em c̣n nhớ không chúng ta đă cùng nhau tṛ chuyện nhiều lần về cái chết. Chúng ta có muốn cùng nhau chung sống sau khi chết không. Anh cố gắng nói em biết qua chiếc áo choàng, em yêu dấu nhưng em quá sợ hăi. Việc không thành. Anh muốn nói cho em biết chúng ta sẽ sống cùng nhau sau khi chết. Thôi em đi và sống nhé."
Anh ôm tôi thật chặt và nói câu từ giă. Rồi Anh mỉm cười, nụ cười thật dịu dàng vốn dĩ của Anh và cởi chiếc áo choàng Anh đang mặc trong giấc mộng và đắp lên ḿnh tôi. Cái áo này làm bằng một loại vải giống như lụa. Áo mầu vàng thật đẹp. Đến đây giấc mộng chấm dứt. Tôi tỉnh dậy và lập tức viết ngay tất cả xuống giấy.
Từ ngày 21 tháng Ba năm 1978, tôi không c̣n nghĩ đến cái chết nữa. Giấc mộng đă làm tôi khoẻ hơn. Chiếc áo choàng vẫn trong tủ áo. Tôi không c̣n sợ nó nữa. Tôi sẽ giữ nó mọi mọi. Elvis Presley lúc nào cũng ở trong thâm tâm tôi."
V́ tôi chỉ ở Hoa Thịnh Đốn có hai ngày để dự một cuộc hội nghị về nghề nghiệp, tôi không có đủ th́ giờ để đến pḥng Janice xem chiếc áo. Tôi cảm ơn cô đă cho tôi chia sẻ chứng nghiệm riêng tư của cô. Tôi chưa bao giờ được nghe những chuyện như thế trước đây.
Tôi cũng nói cho Janice biết chứng nghiệm mà cô nằm trên giường không cục cựa được trong khi nh́n thấy cái áo chuyển động gợi cho tôi trường hợp y khoa rất hiếm gọi là "tê-liệt trong khi ngủ". Hiện tượng này rất là hiếm, người trong trường hợp này là người nhậy cảm đang trong tính trạng lo âu, đang bị đè nén đúng như t́nh trạng của Janice. Những người bị bệnh này lúc thức dậy rất tỉnh táo; tuy nhiên vẫn thấy bắp thịt như tê liệt và cảm thấy lo âu và sợ sệt. Đôi khi t́nh trạng này cũng liên hệ đến cái gọi là "thùy miên mộng ảo", những h́nh ảnh sống động hiện ra trên thế giới như thật. Có lẽ việc xảy ra cho cô đêm đó có thể là một giai đoạn của bệnh "tê-liệt trong khi ngủ" với những h́nh ảnh sống động của chiếc áo - hậu quả là một giấc mộng trong khi thức. Tôi không có luận giải về chiếc áo rơi, tuy nhiên tôi b́nh luận là rơ ràng giấc mộng đưa đến quyết định trong việc tiếc thương Elvis mà cô đang trải qua trong thời gian ấy.
Janice là một thiếu phụ trẻ, thông minh, và tự tin.
Chứng nghiệm quả không c̣n nghi ngờ ǵ nữa đă khiến Janice thành một người hạnh phúc hơn. Nàng cả quyết là nàng hàm ơn nhiều t́nh bạn mà Elvis Presley đă dành cho nàng.
-31-
NHỜ ELVIS PRESLEY, T̀M THẤY ĐỨA CON BỎ NHÀ RA ĐI
Tác Giả: Raymond A. Moody
Harold Welch là cảnh sát viên của một thành phố nhỏ tại Georgia có hơn 15 năm. Anh là người to lớn lực lưỡng có vẻ bướng bỉnh. Anh thường nói anh rất hănh diện được là con trai của một công nhân hăng dệt. Anh là người lịch lăm, ăn nói mềm mỏng khó có thể h́nh dung nơi anh một chứng nghiệm kỳ lạ về siêu linh. Khi kể lại chuyện kỳ lạ của ḿnh, anh rất trung thực, mô tả các biến chuyển chính xác, không thêm bớt mầu mè và rất ít giải thích. Anh nói chuyện với tôi trong một pḥng khách nhỏ, không có cửa sổ của một ṭa nhà gạch vừa dùng làm Ṭa Thị Sảnh, vừa dùng làm Trạm Cảnh Sát.
"Chuyện xảy ra chắc chắn vào tháng Ba Năm 1982. Thằng con trai út tên Tony của tôi đă gây cho tôi ít nhiều rắc rối. Nó giao du với bọn côn đồ và cả bọn đă bị bắt trong một cửa tiệm dưới phố. Có người tin cho vợ chồng tôi biết nó hút cần sa. Tôi th́ chưa bao giờ gặp. Trước mặt các con tôi đă thề là sẽ thẳng tay trừng trị nếu bắt gặp đứa nào phạm tội ma túy và tôi c̣n muốn pháp luật cứng rắn với nó như với bất cứ ai khác.
Tony là một đứa trẻ chưa bao giờ phạm lỗi lầm nào cả. Nó là một đứa bộ tốt nhưng lại giao du với bọn xấu. Đôi khi nó không về nhà. Có một thời gian, chúng tôi không thể nào kiểm soát nổi nó. Tới đầu tháng Hai Năm 1982, chúng tôi thật sự phải đương đầu với nó. Nó đang học cấp II, Trung Học. Điểm học tập của nó xuống thấp dưới hẳn cái khả năng của nó. Năm đó vợ tôi giải phẫu lưng và nằm điều trị tại bệnh viện 1 tháng, sau đó phải tĩnh dưỡng ở nhà thêm một thời gian nữa. Cứ mỗi tuần trong nhà lại xảy ra một hai lần căi vă đôi khi ḥa lẫn nước mắt về điểm học tập, về sự say sưa và về đám bạn bè của nó. Ngày 3 hay ngày 4 Tháng Hai, nó đi chơi đến 3 giờ sáng mới về và say rượu. Vợ chồng tôi lo sợ đi t́m nó khắp nơi, suốt hai tiếng đồng hồ mà không thấy nó. Khi nó về, tôi nổi nóng, chửi mắng nó thậm tệ, lẽ ra tôi không nên nặng lời như vậy. Bất cứ người cha nào cũng phải làm như tôi thôi.
Bốn năm ngày sau, nó không nói với chúng tôi một lời. Hễ ở nhà là vào pḥng riêng nghe nhạc. Tony rất thích Elvis Presley và các nhạc sĩ dân ca. Nó không thích loại kích động nhạc giật gân như phần đông thanh niên thời nay. Lúc nào nó cũng chỉ Elvis. Pḥng nó treo đầy những bảng quảng cáo Elvis. Tôi cũng muốn như vậy; thà vậy c̣n hơn là nghe các băng nhạc cuồng tấu nặng mùi ma túy.
Tony biết tất cả về Elvis. Tôi th́ không. Lần gần gủi nhất với Elvis là khi tôi được gọi đến để tăng cường an ninh cho cuộc tŕnh diễn của Anh tại một thành phố gần đây. Tôi không bao giờ t́m cách đến gần Anh và cũng chưa gặp Anh bao giờ.
Tony có ư định đến California để đóng phim. Nó đă dành dụm được số tiền trên hai ngh́n đồng. Một tuần lễ sau ngày tôi nổi cơn thịnh né, Tony bỏ nhà ra đi không nói một lời. Nó đi biệt tăm.
Tôi đă ở trong nghề cảnh sát 20 năm. Tôi biết các bậc cha mẹ không thể làm ǵ hơn được gặp trường hợp như Tony của tôi. Vợ tôi đau buồn khóc suốt hai tuần lễ. C̣n tôi th́ hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Tôi nghiện thuốc lá từ năm 12 tuổi nhưng tôi đă bỏ v́ tôi bị sưng phổi trầm trọng và khó thở. Khi Tony bỏ nhà đi, tôi hút trở lại 3 gói một ngày.
Tôi chắc chắn Tony đi California. Tôi cũng biết những đứa trẻ lang thang nơi đó khó mà có cơ hội. Tôi hiểu rằng nếu nó ở đấy lâu, tiền sẽ hết, nó sẽ sa vào chỗ xấu xa. Đứa con trai lớn của tôi tên Harold Jr làm ở Nha Cảnh Sát Atlanta, có nhiều kinh nghiệm t́m những trẻ mất tích. Tôi và Harold Jr quyết định đi Los Angeles để kiếm Tony.
Tony bỏ đi Ngày 11 Tháng Hai. Ngày 3 Tháng Ba tôi và Harold Jr đáp máy bay xuống Los Angeles. Trong thời gian này, Bác Sĩ cho vợ tôi uống thuốc ngủ v́ vợ tôi quá lo lắng cho Tony mà mất ngủ. Cứ mỗi lần điện thoại reo là vợ tôi lại khổ sở. Cuối cùng tôi phải ngủ ngoài pḥng khách và mang theo cái điện thoại để vợ tôi có thể ngủ. Tôi ngủ trên cái ghế sự pha để trả lời điện thoại cho dễ. Phần lớn là các điện thoại gọi đến cho các đứa khác đang c̣n ở chung với chúng tôi. Tôi rất mong Tony gọi về.
Vào đêm ngày 1 Tháng Ba, tôi đang ngủ trên sự pha trong pḥng khách th́ nằm mơ thấy Elvis Presley. Trong giấc mộng, Elvis vào văn pḥng tôi. Anh nói Anh biết vài tin tức về Tony. Tôi nhớ Anh nói: "Thưa ông, tôi lo lắng cho Tony, Tony rất ái mộ tôi. Tony đang ở Los Angeles, tôi không thể đến với nó được". Elvis mặc quần áo thường, khoác ngoài cái áo choàng mỏng của cảnh sát. Elvis cho tôi xem cái thẻ. Tôi có treo một tấm bản đồ thành phố trên tường ngay sau bàn giấy, nhưng trong giấc mộng th́ lại là tấm bản đồ thành phố Los Angeles. Anh chỉ cho tôi vài con đường nhưng chưa bao giờ tôi tới Los Angeles nên khó mà nhớ được tên các con đường đó. Cố gắng hết sức tôi cũng không thể nhớ tên một con đường nào.
Elvis đành chịu. Anh bắt đầu nói với tôi: "Hăy nh́n, Tony đang ở trong một cái nhà có pḥng cho thuê". Rồi Anh chỉ cho tôi quang cảnh. Một đường phố ngắn có một nhà thuốc tây ở góc đường và trước mặt là một tiệm ăn nhỏ. Đột nhiên tôi và Elvis ở ngay trên con đường phố đó và đi bộ xuống, Mọi thứ như mờ mịt, tôi không nh́n rơ mấy. Elvis cố gắng chỉ cho tôi để tôi có thể nhận được. Elvis nắm cánh tay tôi và lay tôi. Anh nói: "Nh́n đây ông, ông phải nh́n kỹ. Rất là quan trọng đấy ông". Anh chỉ tôi một căn nhà có, một căn nhà tồi tệ. Elvis nói: "Ông à, con ông đang ghiền ma túy đấy, ông phải giúp đỡ nó". Tôi có thể nói là Elvis cố gắng chỉ cho tôi cái nhà có. Đó là một căn nhà hai tầng. Tôi thấy một con mèo trên thềm đang cố vào nhà. H́nh như con mèo của căn nhà ấy. Con mèo mầu vàng có sọc.
Elvis cố gắng chỉ cho tôi tên con đường nhưng tôi không tài nào nhớ được. Elvis vẫn giống như trong h́nh. Trong giấc mộng tôi thấy Anh cao chừng khoảng 6 feet và chừng 30 tuổi. Tôi thấy Anh rơ ràng nhưng chung quanh Anh th́ mờ ảo. Tôi cố tập trung nhận diện căn nhà nhưng tôi chỉ thấy qua làn sương mù. Tôi cảm ơn Anh v́ sự quan tâm của Anh.
Tôi tỉnh dậy, đầu đau và tai ù. Bấy giờ ông có thể nghĩ tôi là người mất trí. nhưng tôi, tỉnh dậy, tôi biết tôi sẽ t́m được Tony. Giấc mộng vẫn ám ảnh tôi cả ngày hôm sau. Điều tôi ngạc nhiên là tấm thẻ cảnh sát. Tôi vẫn biết Anh rất thích giúp đỡ an ninh cảnh sát. Trước kia, chưa bao giờ tôi nằm mơ thấy Elvis. Giấc mộng hầu như thật.
Harold Jr và tôi đáp máy bay xuống Los Angeles ngày 3 Tháng Ba. Chúng tôi bắt tay vào việc ngay. Tôi liên lạc với các nhân viên an ninh cảnh sát địa phương. Họ sẵn sàng cộng tác. Tôi nới chuyện với một chuyên viên về vụ này. Ông ta chỉ cho tôi những địa điểm mà các em thường tụ tập. Chúng tôi đưa h́nh của Tony, Chúng tôi gặp một số người tại các chỗ này xong không một ai nhớ là đă nh́n thấy Tony.
Harold Jr thuê một chiếc xe hơi. Chúng tôi đến tất cả những nơi do chuyên viên cho biết. Ngày 9 tháng 3 tôi đang lái xe, chợt nh́n thấy một tiệm bán thuốc tây và trước mặt có một quán nhỏ bán bánh mờ thịt nướng y như tôi đă trông thấy trong giấc mộng. Bây giờ chắc Bác Sĩ nghĩ: "ông này mất trí rồi" phải không, Bác Sĩ Moody? Không đâu! khi nh́n thấy tiệm thuốc và quán ăn tôi tự nói: "Đúng là con đường Elvis chỉ cho tôi trong giấc mộng". Lúc này là 2 giờ chiều.
Tôi quay sang nói với Harold Jr: "Con à, chúng ta sẽ t́m thấy Tony tại chỗ này." Harold Jr chắc nghĩ rằng ông già này bí mật. Tôi dừng xe sát lề đường ngay trước cửa hiệu thuốc. Tôi sang phía phải con đường và đi xuống chừng nửa quăng tôi nh́n thấy ba căn nhà 2 tầng có. Con đường này trông rất quen thuộc. Bây giờ tôi không biết nói với ông thế nào nhưng đúng là con đường mà tôi và Elvis cùng đi trong giấc mộng.
Tôi không biết trong giấc mộng Elvis chỉ cho tôi căn nhà nào. Tôi nhớ phần rơ nhất là cái cửa chính và mấy bậc thềm. Tôi lại gần nh́n kỹ hơn th́ thấy một căn nhà có cửa và bậc thềm giống như trong mộng. Tôi liền đi tới nhà này và gơ cửa. Một bà già chống gậy ra mở. Tôi nhận thấy cửa trước có kính và phần trên có màn trắng giống như tê mỏng che bên trong cửa kính. Những màn này được ngăn ra giống như những màn tôi nh́n thấy trong giấc mộng.
Tim tôi đập mạnh như muốn ra khỏi lồng ngực khi bà cô mở cửa. Bà cô nh́n tôi. H́nh như bà cô sợ hăi. Có lẽ bà cô tưởng tôi là người điên chăng. Bà cô hỏi: "Cái ǵ! Tôi có thể giúp ǵ cho ông?" Tôi hỏi: "Thưa Cô, Tony Welch có ở đây không?" Bà cô trả lời:
"Có".
Tôi nói với Bà tôi là cha y, y đă bỏ nhà đi. Tôi phải gặp ngay y. Bà cô chỉ cho tôi pḥng của Tony trên lầu trông ra cầu thang. Đến đây Harold Jr ngơ ngác như trong sương mù. Tôi không nói cho Harold Jr biết giấc mộng. Harold Jr có vẻ bối rối và theo chân tôi lên cầu thang.
Khi tôi lên đến pḥng Tony, tôi gơ của. Tôi nghe thấy y nói "Xin cứ vào". Tôi mở của bước và o. Thằng nhỏ đang nằm dài trên giường đọc tạp chí. Tôi nh́n thẳng vào mặt y và mỉm cười. Mặt y trắng bệch như tấm vải trải giường. Nó nói "Thưa Ba, Ba làm sao mà t́m được con thế?" Nó ̣a khóc và nhảy đến tôi.
Tôi đứng đấy ôm choàng thằng nhỏ lối một phút. Tôi cũng khóc. Nó nói: "Thưa Ba, con muốn trở về nhà."
Chúng tôi xếp đồ dùng cho nó. Tôi trả tiền nhà cho bà cô. Khi chúng tôi sắp sửa bước ra tôi hỏi bà cô: "Thưa cô, cô có nuôi mèo không?" Bà cô trả lời "Không, tôi không nuôi mèo." Tôi hỏi bà cô cô có thấy một con mèo vàng có sọc ở lối xóm không. Tôi muốn biết về con mèo mà tôi trông thấy trong giấc mộng. Tôi chắc chắn con mèo đó ở đâu đây. Bà cô trả lời bà cô không thấy con mèo nào như vậy. Bà cô không hỏi tôi tại sao tôi muốn biết. Nhưng theo hành động của tôi và lối nh́n của Harold Jr chắc bà cô tưởng chúng tôi thuộc loại điên khùng.
Trên xe về khách sạn, Harold Jr và Tony không hỏi tôi sao tôi lại biết. Tôi không bao giờ kể cho chúng hay. Thực ra tôi cũng cảm thấy khó nói với các con tôi là Elvis chỉ đường cho tôi trong giấc mộng. Tôi giữ kín trong ḷng. Harold cho rằng tôi t́m được là do tin tức của một cảnh sát viên thuộc Nha Cảnh Sát Los Angeles, và tôi cũng không muốn phổ biến nguyên do tôi đă thành công. Tôi không nói về Elvis, những ǵ Anh đă đến với tôi.
Đêm đó tại khách sạn, tôi và Tony suy nghĩ về sự may mắn. Tony nói: "Thưa Ba, có một điều rất ngộ, con đă nằm mơ thấy Elvis hai lần. Trong cả hai giấc mộng Elvis bảo con là Ba sẽ đến đón con về. Anh cũng nói Anh lo lắng cho con và Anh sẽ giải quyết được."
Tôi bằt đầu khóc khi nghe thấy vậy, nhưng tôi vẫn chưa nói cho con tôi về giấc mộng. Tôi vẫn chưa nói đến Anh, nhưng tôi đă thấy thần kinh căng thẳng. Tôi sẽ nói về Anh một ngày gần đây.
Quả là đúng như trong giấc mộng Elvis nói Tony ghiền ma túy. Chúng tôi đă cố gắng cho Tony bỏ ma túy. Tony đă vượt qua, và rất khoẻ mạnh. Mọi việc đều tốt đẹp.
Tôi không hiểu sao tôi lại nằm mộng như vậy. Trước đây cũng như sau đó không bao giờ có những giấc mơ như thế nữa. Tôi đâu phải là người không biết suy nghĩ. Tôi phải đứng trên cương vị việc là m. Tôi chưa bao giờ dính dáng tới những chuyện siêu linh. Vài năm trước đây. tại một thành phố gần đây, có một vụ giết người rất sôi nổi. Đủ loại giấy tờ. Họ đă mang các nhà siêu linh đến để giúp đỡ. Tôi tự nghĩ đó chỉ là lường gạt.
Bây giờ tôi không biết nghĩ sao. Với tôi h́nh như Elvis Presley lo âu cho con tôi nên Anh đă đến bằng giấc mộng để giúp đỡ tôi. Tôi không biết nghĩ ǵ hơn nữa."
Câu chuyện của Harold Welch là một câu chuyện khó khăn trở ngại nhất mà tôi gặp phải. Nếu những dữ kiện mà ông nhớ lại đúng như ông tŕnh bầy, câu chuyện như thách đố sự giải thích tầm thường. Harold là một người thành thực đáng tin cẩn, có lư trí, không phải loại người có khuynh hướng ngông cuồng.
Chính giấc mộng là động lực tâm lư quan trọng. Theo cách mà Harold mô tả Elvis trong giấc mộng, Elvis xuất hiện lo âu cho Tony cũng như Harold trong lúc nằm mộng là một sĩ quan cảnh sát lo âu cho nghề nghiệp của ḿnh. Sự khó khăn do Evis ám chỉ trong giấc mộng là làm sao báo cho Tony biết sự trở ngại của Harold trong việc liên lạc với con.
Tuy nhiên, điều huyền bí là chốn xảy ra trong giấc mộng đă biến thành sự thực ăn sâu vào trí nhớ của Harold. Giống như Harold, tôi cũng khó biết phải nghĩ ǵ!
-32-
HILDA WEAVER, NHÀ TÂM LƯ HỌC THẤY THẦN HỒN ELVIS PRESLEY
Tác Giả: Raymond A. Moody
Hilda Weaver là một nữ Bác Sĩ Tâm Lư Điều Dưỡng 30 tuổi, c̣n độc thân. Trong thị xă, Cô được mọi tầng lớp dân chúng và các đồng nghiệp quư trọng. Cô đă từng nói cô thuộc loại người "bảo thủ" và không mấy để ư đến các hiện tượng siêu nhiên cho đến khi cô đă tự ḿnh chứng nghiệm. Khi Elvis chết được gần 3 tháng, lúc đó cô 28 tuổi Elvis đến thăm cô, thuyết phục cô.
Sau đây là lời cô thuật lại:
"Khi tôi khoảng 10 hay 12 tuổi tôi có gặp Elvis một lần. Tôi nói "gặp" chứ đúng ra lúc ấy Anh đi bên cạnh tôi. Anh nh́n vào mặt tôi và nói: "Chào Em Cưng". Tôi nhớ tôi thật là cảm động. Một em bộ nít như tôi mà tự nhiên được một người đàn ông có cả nửa số phụ nữ trên thế giới ái mộ âu yếm nói chuyện. Ôi thật là cảm động biết chừng nào! Lẽ đương nhiên tôi nghĩ ngay đến việc lấy Anh. (Thật tức cười) Thật là một ư tưởng ngộ nghĩnh! Tôi nhớ măi tới mấy tháng sau đó và đúng ra cả năm sau không chừng. Có lẽ tôi đă hơi lập dị. Tôi nghĩ "Khi tôi lớn Elvis có thể cưới tôi, Anh có thể mang tôi theo Anh và chúng tôi sẽ sống bên nhau hạnh phúc suốt đời. (Thật tức cười) Cuộc hành tŕnh thú vị biết bao! Chuyện này đă làm cho tôi khúc khích cười thầm cho đến cả đến bây giờ mỗi lần tôi nhớ lại.
Tôi chỉ gặp Elvis một lần duy nhất đó. Thực thà mà nói, trước khi xảy ra việc trên tôi cũng chưa hẳn là người thực sự ái mộ Anh. Tôi chỉ mới xem 1, 2 cuốn phim Anh đóng. Tôi có vài dĩa hát của Anh - như Ông (Raymond A. Moody) thấy - chừng nửa tá tập nhạc của Anh. Tôi không bị Elvis ám ảnh như những người con gái đồng lứa tuổi. Tôi thuộc loại người đứng đắn, chỉ biết có học; Ông có thể hỏi bạn hữu của tôi. Họ sẽ cho Ông biết là tôi đứng đắn hay không. Đời tôi chỉ có học đường và sách vở.
Thế cho nên tôi vô cùng kinh ngạc khi Elvis đến thăm tôi. Bây giờ Ông thấy việc này như từ trên trời rơi xuống, tuyệt đối không có liên quan ǵ đến ma quỷ hay thần giao cách cảm. Không, bao giờ tôi cũng có thành kiến thiển cận về trí óc của con người. Tôi nghĩ rằng những chuyện như vậy là do tưởng tượng hay kỷ thị ám thị mà thôi. Đó là lư do khiến không bao giờ tôi kể lại chuyện đó cho các bạn đồng nghiệp nghe cũng như tôi không bao giờ muốn nói cả. Mọi người sẽ coi tôi giống như tôi coi các người khác - các bệnh nhân của tôi đă từng kể cho tôi nghe những loại chứng nghiệm tương tự như vậy.
Rồi việc xảy đến làm tôi cứng họng. Vào buổi chiều tôi đang làm việc trong pḥng, tôi viết bài cho một tờ báo chuyên môn. Bài đó cuối cùng đă được đăng. Tốt hơn tôi không cho ông biết bài ǵ và tờ báo nào bái v́ nếu mọi người t́m ra, họ sẽ sợ hăi và chống đối. Họ sẽ không ngạc nhiên khi biết điều ǵ xảy đến khi tôi đang viết bài này.
Bấy giờ, tôi đang trong pḥng làm việc, ngày 17 Tháng 11 Năm 1977. Tôi biết đúng là ngày đó v́ sau khi Elvis Presley ra về tôi lấy bút xanh ghi ngày vào cuốn lịch để bàn với chữ "EP (Elvis Presley) bất ngờ đến thăm" Hiện nay tôi vẫn c̣n giữ cuốn lịch đó.
Cắm cúi viết trong pḥng làm việc, ngẩng lên tôi chợt thấy Elvis Presley đang ngồi trước mặt tôi trên chiếc ghế bành da mà bệnh nhân của tôi thường ngồi. Thật là sửng sốt biết làm ǵ đây trong trường hợp này. Tôi nhận ra Anh và cảm thấy bầu không khí chung quanh tràn ngặp yêu thương, h́nh như Anh có ư nghĩ không mấy tốt đẹp về tôi. Thật là ngạc nhiên. Tôi nhớ lại lúc đó tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Là một nhà tâm lư giỏi, khôn ngoan, không ǵ ràng buộc lại giàu có và sống trên mảnh đất đẹp nhất của trái đất.
Bởi vậy tôi có thể nói rằng Elvis nhận thấy có cái ǵ không ổn trong đời sống của tôi, cái đó mà chính tôi cũng không biết nên Anh đang thử giúp đỡ tôi. Chúng tôi đến với nhau, tuy đột ngột nhưng đầy nhiệt t́nh. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó tôi thật vụng về. Thông thường với các bệnh nhân mới tới, tôi hay hỏi câu: "Tôi có thể giúp đỡ ǵ cho ông (hay bà) đây?" Nhưng khi đối diện với gương mặt đôn hậu, hào phóng của Elvis presley, tôi lại hỏi: "Anh có thể giúp đỡ ǵ cho tôi đây?"
Anh mỉm cười, hớn hí, và chắc chắn rất hài ḷng. Nh́n gần trông Anh rất trẻ chỉ trạc tuổi tôi vào lúc đó. Anh có vẻ sung sướng.
Đến lúc này th́ khả năng phê phán của tôi chợt đến và tôi ngưng ngay sự phân tích. Tôi nghĩ điều này: "Có thể xảy ra? Có thực điều này thật đang xảy ra sao?" Dù vậy khả năng phê phán của tôi chưa lén xén. Tôi vẫn dùng khả năng này từ hồi nào đến giờ rất hiệu quả. Nói đúng ra tôi biết có hơi lợi dụng. Thật điên rồ khi dùng khả năng phán xét để ngờ vực sự thực mà tôi đang nh́n thấy trước mắt. Tôi thực đang nh́n thấy mà. Tôi thấy Elvis Presley, Anh mặc bộ đồ mầu xanh với các tua rũ xuống trông hấp dẫn nhưng tôi không chú ư mấy về y phục. Điều tôi muốn nhấn mạnh là tôi đang nh́n thấy Anh, hơn nữa là đang cùng Anh ḥa hợp, đang cùng Anh tác động, và đang có với Anh một sự thân ái, một t́nh bằng hữu. Tôi cảm thấy tôi như một học sinh, một em gái, một người bạn, tất cả trong cùng một lúc.
Anh bắt đầu tṛ chuyện với tôi, Anh nói "Missy, Cô có hài ḷng với cuộc sống của Cô không?" Khi tôi c̣n nhỏ, một số người thân trong gia đ́nh gọi tôi là Missy, nhưng từ nhiều năm qua, từ khi tôi ra khỏi trường Đại Học, không c̣n ai gọi tôi bằng cái tên này nữa. Câu hỏi này giáng vào tôi theo tục ngữ như cả một tấn gạch nặng. Câu hỏi như vào thẳng tim tôi, tôi trả lời: "Anh là nhà tâm lư giỏi hơn tôi, tuy chẳng bao giờ Anh đến trường." Vừa nói xong, tôi cảm thấy bối rối và hổ thẹn v́ mới gặp Anh lại hạ Anh. Nhưng Anh mỉm cười và câu trả lời của Anh làm bầu không khí đang lúng túng trở thành ấm cúng và thuận ḥa ngay. Anh nói: "Tôi đă theo học một nhà trường tốt nhất ". Theo cách Anh nói, tôi nhận là Anh có lư. Sau cùng Anh đă chết để về nơi Thiên Cảnh! Cái ǵ đă làm tôi nghĩ tôi là người tài giỏi, phải chăng mảnh giấy treo trên tường kia? Tôi hiểu rằng cấp bằng Tiến Sĩ của tôi không c̣n nghĩa lư. Tôi không thể núp sau văn bằng đó nữa. Trước đây đối với bất cứ ai ngồi tại cái ghế này, th́ tôi là Tiến Sĩ, xử dụng văn bằng này để đối phó. Nhưng giờ đây với một người đă chết và người nay đang hỏi tôi điều ǵ đó trong ḷng tôi mà chính tôi không biết.
Tôi trả lời Elvis: "Hài ḷng với cuộc sống của tôi à? Ồ! Anh biết rơ về tôi, chính tôi không biết điều đó, tôi không biết đối phó phải không Anh?" Anh yên lặng làm thinh và hiền từ nh́n thẳng vào mật tôi.
Tôi bắt đầu thổn thức. Anh hiểu ngay và nói: "Hilda à, Cô phải mở rộng bối cảnh mà Cô đang làm trong đời sống của Cô". Rồi chúng tôi tṛ chuyện một lúc hết chuyện riêng tư lại đến những chuyện vớ vẩn mà từ trước tới nay tôi chưa hề hé môi cho ai biết cả. Sau khi chấm dứt câu chuyện tôi hiểu tầm đa hiệu của tư tưởng và trí tuệ con người nếu biết áp dụng, tôi sẽ đem lợi ích đến cho nhiều người khác; tôi phải hiểu tư tưởng và trí tuệ trong tôi và biết khai thác triệt để tối đa.
Khi tất cả mọi vấn đề đă ăn sâu vào tâm khảm tôi là lúc Anh phải ra đi, tôi biết là tôi không bao giờ gặp lại Anh nữa v́ tôi đang sống ở trần gian. Và tôi cũng chuẩn bị kỹ càng để tiễn Anh đi, điều mà tôi không làm trong khi Anh c̣n sống - đó là tự ḿnh cái mở nhiều hơn nữa cho chính ḿnh cũng như cho những người khác. Mặt khác tôi hăy c̣n chưa bộc lộ được hết ḷng thương yêu của tôi đối với Anh, và tôi không thể để Anh ra đi một ḿnh. Đến lúc này tôi nhớ đến một chuyện làm tôi bối rối. Vài ngay sau khi Elvis chết, tôi đọc trên một tờ báo có tin hai phụ nữ trẻ đến chia buồn, đang đứng quanh nhà Elvis, bị xe đụng chết. Tôi xúc động nhiều v́ cái chết của hai người đàn bà c̣n quá trẻ. Khi Elvis từ giă, tôi đem chuyện này nói với Anh và tôi cũng lo lắng phản ứng của Anh hay được Anh có buồn rầu không. Anh trả lời: "Tôi cũng rất buồn về chuyện này. Tôi có mặt ở đó để chào họ và sống với họ khi họ về Thiên Cảnh". Sau đó tôi hết lo lắng, thêm lần nữa Elvis đă làm cho tôi cảm động với sự hiền từ của Anh. Tôi liền cúi đầu, chắp hai tay như cầu nguyện.
Khi tôi ngẩng đầu lên th́ Anh không c̣n nữa. Từ đó tôi không bao giờ nh́n thấy Anh và cũng chẳng bao giờ nằm mơ thấy Anh cả.
Trên đây là chứng nghiệm của tôi. Không có thông điệp vũ trụ, không có sự thực uyên thâm, không có giấy tờ ghi lại. Tất cả đều riêng tư - rất đầm ấm và riêng tư. Từ đó tôi trở nên sung măn nghị lực. Tôi thương tất cả mọi người. Ông biết không dù đời có sao đi nữa th́ tất cả chúng ta vẫn cần hợp quần. Chúng tôi c̣n có rất nhiều thứ mà không có trong sách vở. Không một người bệnh nào hay một đồng nghiệp nào của tôi biết tôi có kinh nghiệm này với Elvis Presley. Mà cũng không ai có thể biết được - v́ là rất riêng tư như ông đă biết. Cái mà tôi hy vọng là họ nh́n thấy hậu quả nơi tôi. Hậu quả đă giúp tôi cởi mở, đă làm cho tôi có lại cuộc đời hoạt động. Việc này đă làm cho tôi có được các điều tốt đẹp đó. Sau khi Hilda mô tả chứng nghiệm của Cô, Tôi và Cô đă có một cuộc bàn luận khá lâu. Tôi bầy tỏ ư kiến riêng của tôi. Một số đặc tính đến với Cô rất phù hợp, chứng nghiệm đă thức tỉnh tư tưởng thầm kín của Cô, và thật là rơ ràng Cô cần có một số t́nh cảm thiết yếu mà từ lâu Cô không để ư tới. Đầu tiên, phần Cô, Cô đă không bộc lộ thương tiếc Elvis Presley. Đáng lẽ Cô cần bộc lộ t́nh cảm ngay từ khi Elvis chứng tỏ tŕu mến với Cô lúc Cô c̣n nhỏ. Chứng nghiệm với Elvis tại Văn Pḥng của Cô có thể giải thích là sự biểu lộ ḷng thương tiếc của Cô với Elvis.
Thứ nữa là Cô bầy tỏ ḷng tiếc thương và sự bối rối về thảm kịch của hai người đàn bà trẻ bị xe đụng chết tại Graceland. Sự xuất hiện của Elvis tại văn pḥng đă an ủi Cô phần nào.
Điều thứ ba Cô nhận xét là Cô giữ tâm tư thầm kín về mọi mặt của cuộc đời. Được biết với các nhà tâm linh học, một người chối bỏ trạng huống của chính ḿnh, giữ tâm tư thầm kín, th́ trạng huống đó ít nhiều cũng vẫn c̣n giữ trong tư tưởng của người ấy. Trạng huống đó có thể biến thành những giấc mơ như thật, cũng có thể là những h́nh thái của các sự khó khăn hoặc là những khuôn mẫu trong việc giao tế thí dụ như đàn ông cứng rắn lạnh lùng cưới phụ nữ sôi nổi nhậy cảm như để bổ khuyết cho nhau khiến cho đời sống được điều ḥa. Tôi nghĩ có lẽ Hilda đă nén tinh thần đau xót nổi dậy trong ảo ảnh của Elvis, người đă khen ngợi Cô nên hậu quả là làm Cô thức tỉnh cái quan niệm thiển cận của ḿnh.
Cuối cùng trước cái ngày định mệnh ấy, Hilda lúc nào cũng sống với sự suy nghĩ khắc khổ. Cô đă từ bỏ các lạc thú b́nh thường của cuộc đời, Cô rất ít khi vui. Ở mức độ nào đó Cô phải khao khát thú vui. Mặt khác Elvis Presley là một người nổi tiếng về ăn chơi, mê phim ảnh, trượt tuyết, cưỡi ngơạ và những tṛ chơi giả tưởng. Với một số người, Elvis Presley là h́nh ảnh của một người yêu đời. Thật là hợp lư,h́nh ảnh của Elvis nổi lên từ đầu óc khép kín của Hilda, để bầy tỏ cho Cô biết Cô cần có thú vui cho cuộc đời. Và như thế Cô bắt đầu cho phép ḿnh được hưởng các thú vui sau khi tṛ chuyện với Elvis.
Hilda ngồi b́nh tĩnh, mỉm cười hoan lạc trong khi tôi tóm tắt lại những sự giải thích có thể có được. Khi tôi nói xong, tôi nhận thấy - gần như tự động - Hilda thở ra một hơi dài nhẹ nhỏm. Từ từ rồi mọi sự như qua đi, H́nh như Cô đang đắm ḿnh trong t́nh trạng nghỉ ngơi thoải mái và nh́n thẳng và mắt tôi. Tôi có cảm nghĩ Cô đang xâm nhập tôi. Như thể Cô đang đặt Cô trong hoàn cảnh của tôi. Rồi Cô trở lại b́nh thường và nhận xét câu trả lời của tôi về câu chuyện. Lời phê phán của Cô thật là khôn ngoan, hiểu biết và lanh lợi, tôi xin ghi nguyên văn:"Raymond, Ông đă bỏ ra nhiều năm nghiên cứu các chứng nghiệm bất thường của một số người, nhưng chính Ông th́ chưa có. Đó là một thất bại. Hăy xem tôi. Tôi không bao giờ lưu ư đến việc đó mà nó lại đến với tôi. H́nh như Ông xem có vẻ thèm thuồng và giận tôi. Ông cần phải t́m kiếm chính nơi Ông để t́m được nguồn cội. Ông sợ hăi đề cập đến những chuyện đó theo qui ước thông thường v́ nghĩ rằng chuyện đó không thể xảy ra được. Ông cần phải cởi mở những phần khác của tư tưởng ông. Ông sẽ vui hơn khi làm như vậy."
Tôi ngạc nhiên và cảm động về nhận xét của Cô. Rơ ràng là Cô đă ḥa nhập vào lời nói và sắc diện của tôi mà chính tôi cũng không để ư đến. Dù ǵ khi Cô nhận xét về cảm nghĩ day dứt hay khao khát của tôi trong cuộc phỏng vấn với Cô là đúng.
Cuộc đàm thoại với Hilda cũng làm cho tôi lưu ư đến cái giới hạn trong phương pháp giải thích vấn đề siêu linh nếu đơn thuần dựa trên tính chất tâm lư của người có chứng nghiệm.Cũng có thể rằng trong một vài trường hợp chứng tỏ trạng huống của chứng nghiệm đă đưa đến sự đối nghịch không giải quyết được trong tư tưởng của người chứng nghiệm. Trong một vài trạng huống đem tâm lư mà giải thích của một chứng nghiệm bất thường có thể bắt nguồn từ những đối nghịch bất thường của tư tưởng người giải thích. V́ vậy nên nếu chối bỏ chứng nghiệm của một ngườ́ khác v́ cho rằng nó phản ảnh những bối rối về tâm linh, dường như người đó bắt buộc cũng chối bỏ dự định của ḿnh để giải thích chứng nghiệm nếu sự giải thích ấy phản ảnh bối rối tâm linh của chính ḿnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 509 of 2534: Đă gửi: 25 July 2008 lúc 9:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI
VII. TIẾN SĨ HANS HOLZER
Tiến Sĩ Hans Holzer là một trong những nhà tâm lư học nổi tiếng trên thế giới, chuyên khảo cứu và điều tra những vô siêu nhiên. Ông tốt nghiệp Đại Học Đường Columbia, Đại Học Đường Vienna, Đại Học London College of Applied Science (Anh). Ông là giáo sư đă dạy tám năm tại Viện Kỹ Thuật Nữu Uớc. Ông đă được liệt kê trong cuốn "Who's Who In America". Ông đă hướng dẫn độc giả qua các tác phẩm của Ông bằng những tài liệu dẫn chứng xác thực cho rằng chết chưa phải là hết mà đời sống c̣n tiếp tục qua một h́nh thức khác, đó là luân hồi.
Tiến Sĩ là tác giả của hơn 80 cuốn sách như Ghost Hunter, Where The Ghosts Are, Best True Stories, Life Beyong Life vân vân... Ông cũng thường xuyên viết các bài khảo luận đăng trên báo chí thế giới như National Examiner vân vân...
Chúng tôi xin trích dịch một câu chuyện luân hồi trong cuốn Life After Life của Ông do nhà Xuất Bản Parker Publishing Co phát hành Năm 1985.
-33-
PAMELA WOLLENBERG - MỘT THIẾU NỮ HOA KỲ LÀ HIỆN THÂN CỦA MỘT CÔ GÁI TÔ CÁCH LAN (ANH)
Tác giả: Hans Holzer
Sáng nay, một buổi sáng mát mẻ của Tháng 10 Năm 1967. trứêc đống thư mà độc giả trong và ngoài nước gửi tới đă mấy tuần qua (mỗi tuần tôi nhận 300 đến 400 bức) nhưng tôi chưa kịp đọc. Tôi cảm thấy cần giải quyết cho xong. Tôi cố lựa ra những thư nào khẩn cấp để trả lời ngay. Không biết sao tay tôi nhặt lá thư gửi từ Harvey Illinois. Lá thư này cũng giống như các lá thư khác không có ǵ đặc biệt nhưng tôi lại mở ra ngay đọc. Tôi đọc đến 3 lần rồi, tôi tự nḥ mănh lực nào đă thúc đẩy tôi bóc lá thư này trong khi hàng trăm thư khác c̣n nằm trên bàn giấy của tôi sáng hôm đó.
Lá thư như sau:"Kính gửi Ông Hans Holzer,
"Tôi viết cho Ông bức thư này về một kinh nghiệm bản thân của tôi, có thể kinh nghiệm này không có ư nghĩa ǵ. Tôi đă nh́n thấy cả thảy 3 lần một người con gái Tô Cách Lan đứng dưới chân giường tôi. Tôi không biết cô ta thực sự có nói chuyện với tôi không, nhưng sau khi nh́n cô tôi c̣n nhớ mọi những chữ sau "Castle","Perch" hay "Purth", Ruthvin", "Gowrye", "Sixteen" và "Towers", và một tiếng ǵ nữa như "Burn Night. Tôi chưa kể chuyện này với ai cả v́ có lẽ họ sẽ chẳng tin.
Nếu ông t́m thấy điều ǵ qua sự việc trên, ông vui ḷng cho tôi biết, tôi vô cùng cảm kích.
Chân Thành, Pamela Wollenberg
Bức thư ngắn gọn trên đă làm cho tôi bối rối v́ những chữ mà cô đề cập trong thư chẳng giúp tôi hiểu điều ǵ. Thư không giống như loại thư kể chuyện ma quỷ, tâm lư hay những chuyện lạ lùng xảy ra trong pḥng ốc. Nó cũng chẳng giống một giấc mơ b́nh thường, Cô Wollenberg lại cũng không nói rơ những danh từ đó có phải là địa danh hay không.
Bức thư quả đă gợi trí ṭ ṃ của tôi nên tôi viết thư trả lời cô ngay và đề nghị cô cho biết thêm chi tiết về cô gái, hoặc có ai là nhân chứng cho cái kinh nghiệm mà cô kể trong thư.
Cô trả lời tôi ngay như sau:"Tôi không có nhân chứng v́ ngoài tôi không ai thấy cô gái Tô Cách Lan này. Cô gái có mái tóc mầu đỏ, ăn mặc sang trọng, choàng chiếc áo dài trắng viền vàng. Đêm hôm nọ tôi lại thấy cô. H́nh như cô nói với tôi chữ "Handsel". Cô có vẻ bị lạc đường, cô vẫn nói chữ "Ruthven", "Gowrie", Sixteen hundred", "Two towers". Cô cũng nói "Glamis-Angus". Cô c̣n nói "Tôi nhảy". Tôi không tin là tôi có liên quan đến Tô Cách Lan, nhưng cũng có thể v́ phía bên mẹ tôi đều là người Anh cả, c̣n phía cha tôi là người Đức. Tôi không biết tôi có thần giao cách cảm hay không nhưng h́nh như tôi nh́n thấy vài việc trong quá khứ. Tôi hy vọng thư này sẽ giúp được ông.
Chân Thành, Pamela WollenbergSau khi nhận được bức thư thứ hai, tôi quyết định đi Tô Cách Lan để t́m hiểu vụ này. Tôi có quen vài sử gia Anh Quốc, tôi nghĩ là họ có thể làm sáng tỏ được các chữ bí ẩn của hai lá thư trên.
Sau lá thư thứ hai, tôi không c̣n liên lạc với cô cho đến khi tôi đến Tô Cách Lan vào mùa hè năm 1969. Tôi mang theo hai lá thư, mặc dù tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Một người bạn thân của tôi là nhà văn Elizabeth Byrd, tác giả cuốn Immortal Queen (Lịch Sử Hoàng Hậu Mary của Anh Quốc) đang cư ngụ tại Highlands. Tôi hy vọng Bà Elizabeth Byrd có thể giúp tôi, nhưng sau khi xem xong hai lá thư, Bà đă không giúp được ǵ cho tôi cả, tuy nhiên Bà có hứa sẽ lưu ư đến việc này. Chúng tôi được mời đến nhà của ông bà Maurice Simpson để dùng bửa cơm trưa. Đây là một ṭa lâu đài ở phía đông bắc Tô Cách Lan gọi là Muchalls. Ông Bà Simpson mời chúng tôi tới lâu đài có mục đích cho tôi thăm một căn pḥng có ma. Nhưng rút cục chẳng có pḥng nào có ma tại lâu đài này cả. Tuy nhiên ông bà Simpson là người khả ái và hiếu khách nên chúng tôi rất vui thích. T́nh ć tôi đưa Ông Bà xem hai lá thư của cô Pamela Wollenberg và hỏi họ xem có ư kiến ǵ về chuyện này không. Không ngờ ông Simpson tỏ vẻ chú ư đến câu chuyện và ông cho biết ông có được nghe một huyền thoại về "Cái Nhảy Của Một Trinh Nữ" xảy ra tại một lâu đài ở Tô Cách Lan.
"Quả thật có chuyện này sao?". Tôi tự hỏi và càng quan tâm hơn nữa. Số phận đă đưa đẩy chúng tôi tới Muchalls chẳng phải v́ căn pḥng có ma mà v́ ông bà Simpson là cây đuốc soi dẫn dắt chúng tôi t́m hiểu cái bí ẩn của hai lá thư từ Harvey Illinois.
Ông Simpson nói: "Tôi có cuốn sách nói về các toà lâu đài của Tô Cách Lan, để tôi đi t́m". Vài phút sau Ông hớn hở trở lại trong tay cầm cuốn sách nhỏ và mỏng. Cuốn sách có tựa đề "Huntingtower Castle" (Lâu Đài Huntingtower do ông J.S. Richardson viết). Ông Richardson là một cựu thanh tra về các lâu đài cổ của Tô Cách Lan, Lâu Đài Huntingtower lúc này được đặt dưới quyền giám sát của Bộ Công Chánh Xây Cất. Trong khi lật các trang của cuốn sách nhỏ này, tôi cảm thấy tôi có thể khám phá được giấc mộng kỳ lạ của cô Pamela Wollenberg.
Lâu đài Huntingtower chính là lâu đài Ruthven có, tên này được đặt từ đầu thế kỷ thứ 13. Nam Tước Ruthven III và IV đă dính líu vào vô ám sát Rizzio, một người được Hoàng Hậu Mary sủng ái. Sau đó, người cha là Nam Tước Ruthven III chết, c̣n người con là Nam Tước Ruthven IV bỏ trốn. Sau đó Hoàng Gia đă ân xá cho phép Nam Tước Ruthven IV được trở về. Nam Tước Ruthven IV tên là William được Vua James phong là Bá Tước Gowrie I vào năm 1581. V́ Vua James c̣n nhỏ nên các triều thần của Vua thực hiện việc phong tước.
Một năm sau đó vị Bá Tước mới này đă trả ơn bằng một lối đặc biệt. Ông đă cùng với mấy cộng sự viên bắt vị Vua trẻ, giam vào lâu đài Ruthven gần một năm. Lư do hoàn toàn có tính cách chính trị. Gowrie và các cộng sự của ông không đồng ư để Bá Tước Arran và Công Tước Lennox cầm đầu chính phủ ở Tô Cách Lan. Sau khi đă đoạt được uy quyền của hai nhà quư phái này, Bá Tước Gowrie cùng các cộng sự viên của ông đă uy hiếp vị Vua trẻ phải kư vào bản tuyên cáo kết tội chính phủ cũ. Nhưng vị Vua trẻ tuổi này phản kháng, Glamis, một trong những người giam bắt nhà Vua đă tuyên bố như sau: "Thà là để đứa trẻ khóc c̣n hơn là để người già phải khóc". Vua James không bao giờ quên được câu này.
Việc bắt giam Vua của Nam Tước Ruthven là một biến cố trọng đại trong lịch sử của Tô Cách Lan. Biến cố này rát là quan trọng đối với những nhà chuyên môn khảo sát về lịch sử Tô Cách Lan trong thời gian sôi động này.
Khi được trả tự do, Vua James lại trở về chịu ảnh hưởng của Bá Tước Arran cho nên việc bắt giam nhà Vua tại Lâu Đài Ruthven không thay đổi được Tô Cách Lan mà làm cho nhà Vua trở thành thù hận với người mà chính nhà Vua đă phong tước, đó là Bá Tước Gowrie I.
Ban đầu, nhà Vua đă tỏ ra một thái độ khoan dung, tha thứ cho tất cả những ai dă dính líu đến việc bắt giam nhà Vua và đă ra một tuyên cáo ân xá tất cả những người này. Nhưng hai năm sau, Bá Tước Gowrie được lệnh phải rời khỏi xứ. Trong khi nghỉ ngơi tại Dundee, Bá Tước Gowrie đă bị bắt bởi William Stewart, đầy ra đảo Leith rồi bị giam tại Biệt Điện Hoàng Gia tại Holyrood. Ở đây, Bá Tước Gowrie bị Ṭa Án kết tội v́ âm mưu chiếm lâu đài Stirling và bị chém đầu tại Stirling vào Ngày 4 Tháng 5 Năm 1585. Lâu đài của Bá Tước Gowrie bị Hoàng Gia tịch thu.
Một năm sau, lâu đài và chức tước của Bá Tước Gowrie I được trao lại cho người con là James; Bá Tước James chết ít lâu sau đó và người em tên John là người kế vị thứ Ba và cũng là người cuối cùng ḍng dơi Bá Tước Gowrie. Những người thuộc ḍng dơi Bá Tước Gowrie, trong lúc đương thời, được nổi tiếng về gọi hồn và ma thuật.
Đương nhiên Vua James đâu đă chịu ngưng báo thù, Bá Tước Gowrie cuối cùng, cùng với người em là Alexander Ruthven đă bị nhà Vua ra lệnh giết chết tại căn nhà của họ tại Thành Phố Perth vào năm 1600. Lư do là họ có ư định tạo phản nhà Vua, nhưng thực ra vụ này không có bằng cớ. Không có chi tiết nào được nói đến trong vô "Bá Tước Gowrie Tạo Phản", tuy nhiên các báo cáo đương thời nói rằng trong giây lưng của viên Bá Tước, người ta t́m thấy có vài tờ giấy ghi những câu thần chú mà chỉ người tinh thông về ma thuật mới có thể đọc nổi.
Xác chết của hai anh em ḍng dơi Gowrie được mang về Edinburgh và bản cáo trạng về tội tạo phản đă được phổ biến trước công chúng.
Chưa hài ḷng với cuộc hành h́nh hai người cuối cùng của gịng họ Ruthven, Vua c̣n ra lệnh đem hai xác chết ra treo trước công chúng, rồi đem d́m xuống nước, và đem phanh thây ra từng mảnh bỏ rải rác tại nhiều nơi. Theo tín ngưỡng thời bấy giờ hành hạ người chết như vậy là cốt để cho linh hồn tội nhân không được yên ổn.
Đầu thế kỷ thứ 17 là một giai đoạn khó khăn trong Lịch Sử Tô Cách Lan. Mọi người nghi kÿ lẫn nhau, t́nh h́nh chính trị thật sôi báng. Sự chia rẽ về tôn giáo không được giải quyết, Tô Cách Lan bị hai Giáo Phái Tin Lành và Cơ Đốc xâu xé. Nhà Vua vẫn c̣n bực bội v́ hận thù. Nghị Viện năm 1600 đă hủy bỏ danh tánh Ruthven, lâu đài Gowrie đổi tên là Huntingtower và thuộc về Hoàng Gia Anh. Cuối cùng đến năm 1643, lâu đài Huntingtower được chuyển cho William Murray, từ đó người ta chỉ c̣n biết đến lâu đài Huntingtower mà thôi.
Muốn hiểu rơ lâu đài Ruthven và mối tương quan của các danh tánh Ruthven, Gowrie, cần phải có một kiến thức sâu rộng, một khả năng đặc biệt của sử gia Tô Cách Lan. Thế nhưng một thiếu nữ chưa bao giờ rời khỏi Illinois (Hoa Kỳ) chỉ trong một thoáng đă có thể nói đến nào Ruthven, nào Gowrie, nào năm 1600 và nào hai tháp canh. Cô c̣n nói đến Glamis (vị chủ mưu trong việc giam nhà Vua) và Angus không ngờ có mối quan hệ giữa Glamis ở quận Angus với gia đ́nh Gowrie. Sao cô có thể biết thành phố Perth mà cô đề cập đến trong lá thư đầu chính là nơi Bá Tước Gowrie bị giết?
Cô Pamela Wollenberg c̣n viết: "Tôi Nhảy". Cuốn lâu đài Huntingtower đă cho tôi hiểu được về câu nói bí mật này:
"Một ái nữ của Bá Tước Gowrie đang yêu một thanh niên thuộc giai cấp thấp hơn nên không đuọc gia đ́nh chấp thuận. Khi thanh niên đến thăm cô, anh phải ở trong một tháp canh khác biệt lập hẳn với tháp canh của cô. Một đêm nọ cô lén sang thăm người yêu trước khi các cửa nẻo bị đóng. Một con hầu báo cho Bá Tước phu nhân biết chuyện này, nó thiển nghĩ nếu Bà đột nhập, bắt gặp sẽ làm họ kinh ngạc và cắt đứt mối t́nh ngang trái. Thiếu nữ rất thính tai, nghe bước chân Mẹ đă chạy lên bờ thành tháp canh, nhảy qua cái hào rộng 9 feet 4 inches (3 mét), sâu 60 feet (18 mét) và may mắn sang được tháp bên kia; cô lẻn lên giường nằm. Thấy cô ở đó mẹ cô rất kinh ngạc, Bà xin lỗi đă ngờ vực cô. Cô con gái trinh trắng không tái diễn tṛ này nữa nhưng đêm hôm sau, cô trốn theo người yêu. Cái thành tích hiếm có này được gọi là "Cái Nhảy Của Người Trinh Nữ"; cô đă nhảy qua khoảng cách giữa hai tháp canh cách biệt hẳn nhau".
Đọc xong cuốn sách, chúng tôi đều im lặng, cảm thấy tin tức trong cuốn sách thật là quan trọng. Vấn đề c̣n lại là t́m hiểu âm mưu tạo phản của gịng họ Gowrie cũng như tên người con gái. Vậy cần phải có một cuộc điều tra mới. Tôi nghĩ đến cô Pamela Wollenberg v́ chính cô đă cho những bằng chứng cụ thể lúc sơ khởi và rất có thể qua cô tôi t́m được câu trả lời. Tôi quyết định không kể cho Pamela Wollenberg biết cuộc điều tra của tôi và tôi thu xếp gặp cô sớm để thực hiện cuộc thí nghiệm bằng thôi miên. Tôi không biết tí nào về Pamela Wollenberg, cô bao nhiêu tuổi và t́nh trạng gia đ́nh ra sao nhưng tôi hy vọng cô không có lư do từ chối lời đề nghị của tôi.
Tại Muchalls bửa cơm tối hôm ấy có sự hiện diện của Ông Bà Alastair Knight. Bà Alanna Knight là một nhà tâm linh học uyên bác. Bà đă viết nhiều truyện về lịch sử. Bà hứa sẽ giúp tôi t́m hiểu trường hợp khác thường này. Thêm vào đó Bà Elizabeth Byrd c̣n giành được sự t́nh nguyện trợ giúp của Sử Gia Carson Ritchie. Sử Gia Ritchie cho biết muốn t́m tên những người con gái thời đó rất khó v́ người ta không khai sanh cho con gái chỉ trừ có hoàng tộc mà thôi.
Được sự giúp đỡ của cả một đội quân hùng hậu trên đây, tôi tin chắc có thể t́m ra bí mật về giấc mơ của cô Pamela Wollenberg. Ông Bà Knight quyết định sẽ đến lâu đài Gowrie.
C̣n 2 từ ngữ trong ảo mộng của Cô Pamela Wollenberg chưa cắt nghĩa được. Trước tiên là chữ "Burn night", chữ thứ hai là "Handsel"; từ ngữ này hoàn toàn xa lạ với tôi. Làm sao tôi có thể t́m được nghĩa của cái chữ lạ hoắc này?
Mấy năm trước đây Bà Elizabeth Byrd có giới thiệu tôi với Bà Margaret Widdemer. Bà này là người đọc rộng, có một tủ sách quư. Bà Elizabeth Byrd khuyên tôi nên hỏi ư kiến của Bà Widdemer.
Bà Widemer viết cho tôi: "Theo tự điển Tô Cách Lan, tôi có thể giải nghĩa chữ "Handsel" có nghĩa là quà mừng nhân dịp khai trương, một tặng vật, ngày thứ hai, một đồng tiền để trong túi áo choàng mới hay Tương tự. "Handsel" có nghĩa là khánh thành, khai mạc, quà mừng. Tôi cảm thấy hân hoan khi hiểu nghĩa chữ "Handsel". Theo Bà Widdemer: "Với tôi chữ này có nghĩa món tiền kiếm được hoặc một vật ǵ đó được ngă giá, tiền hay không phải tiền. Có thể cô gái tóc đỏ mà ông nói đó đă hứa theo người yêu nếu như cô nhảy thoát". Nghĩa chữ "Handsel" là như vậy.
Mặc dầu tôi chưa gặp mặt Pamela Wollenberg nhưng các mảnh của tṛ chơi ghép h́nh đă được sắp đúng chỗ. Ông Bà Knight sắp sẵn đi thăm lâu đài Gowrie. Ông Knight là một nhà Địa Dơ Học. Ngày 6 tháng 8, họ bắt đầu lên đường xem chuyến đi như một công tác thường lệ của ông Knight. Ông Bà dự định đến thăm lâu đài Scone nhưng không t́m ra đường đành đi thăm một người bà con ở Dundee. Ông Bà tính đi đường tắt nhưng bị lạc. C̣n đang lúng túng th́ Ông Bà nh́n thấy tấm bảng: "Lâu Đài Huntingtower 2 dậm". Ông Bà Knight đă sẵn có ư định đến thăm lâu đài Gowrie nhân ngày kỷ niệm 2 vị Bá Tước cuối cùng của gịng họ Gowrie bị hành quyết.
Mặc dầu tôi đă từng mục kích Bà Knight dùng giác quan thứ 6 có kết quả nhưng bây giờ Bà lại không cần đến khả năng siêu linh. H́nh như Bà có thể nh́n thấu màn thời gian, làm sống lại các biến cố đă qua. Đến lâu đài, Bà có cảm giác quen thuộc lạ thường. Vừa đặt chân vào lâu đài Huntingtower, Bà đă cam đoan là trước đây Bà đă từng ở. Chồng Bà xác nhận ông bà chưa bao giờ ở trong lâu đài này, thế mà Bà Knight biết được lối vào.
"Đây là pḥng ngủ, giường ngủ ở đằng kia". Bà vừa nói vừa chỉ. Bà đi hết pḥng này sang pḥng khác vừa đi vừa hát nho nhỏ. Cậu con trai Christopher hỏi Bà: "Mẹ đang hát bài ǵ vậy?" Bà không trả lời con nhưng bài đó có nhịp điệu giống bài ca do tôi sáng tác với nhan đề: "Nàng Trinh Nữ Trên Đồng Cỏ". Bà chưa bao giờ được nghe hay thấy bản nhạc này. Bà chỉ biết là tôi có sáng tác bài hát liên quan đến Tô Cách Lan mà thôi. Lúc đi ngang qua người quản thủ lâu đài, Bà Knight đă hỏi ngay về cánh đồng Ruthven làm như có được ghi trên bản đồ. Theo lời chỉ dẫn của người quản thủ, đi dọc theo vài con đường đẹp quanh co h́nh như rất quen thuộc với Bà, Bà đă tới băi cỏ dễ dàng. Những cảm giác khi trước mờ ảo lúc này trở nên rơ ràng với Bà.
Khi sắp sửa soạn rời khỏi lâu đài, ông Knight lo lắng sợ bị lạc nữa, nhưng Bà Knight đă khẳng định: "Đi thêm khoảng 20 thước, có cái cầu đá có ở bên phải dẫn đến con đường cái". Quả đúng như vậy, trên đường về Bà Knight không quên được những biến chuyển trong giờ phút cuối cùng.
Vừa tới lâu đài, Bà Knight vội vàng bà lên bờ thành dốc. Bà ngồi đó, trên bờ thành, cách mặt đất khoảng 60 feet (18 thước) Hai ngọn tháp cổ đă tùng cách biệt hẳn nhau ngày xưa th́ bây giờ được nối với nhau bởi phần giữa. Ỏ đầu thế kỷ thứ 17, giữa hai tháp canh có một hào sâu 9 feet (3 mét). Muốn nhảy từ ngọn tháp bên phải cao hơn tháp bên trái một tầng, phải nhảy qua một cái hào. Thành tháp 2 bên đều có ǵ, có trụ nhô ra, gối lên nhau, nhảy qua không phải dễ dàng và có thể ngă xuống mái nhà. Quả là dóng cảm phi thường mới dám nhảy qua. Sau cùng Bà Alanna Knight rời tháp canh và trở vào bên trong lâu đài.
Trong pḥng ngủ, Bà có cảm tưởng như nh́n thấy cô gái tóc đỏ vàng, da xanh xao hơn là ngăm ngăm và mặt lốm đốm tàn nhang. Nói theo lối mới, Bà Alanna Knight nhận xét - Cô có vẻ tinh nghịch, lém lỉnh hơn là hiền lành, "một loại con gái dám làm bất cứ chuyện ǵ". Bà cảm thấy cô là "người lănh đạo đàn ông chứ không phải một nhi nữ tầm thường". Bà nói: "Tôi nghĩ cô là người vui vẻ, cười nhiều, bị chống đối bởi gia đ́nh. Tôi cảm thấy thế kỷ thứ 16 không thích hợp với cô - cô đă sanh nhầm thế kỷ - cô sẽ hạnh phúc hơn ở thời đại này v́ cô khao khát b́nh đẳng với nam giới, thèm muốn ra xă hội đấu tranh. Có thể tên cô là Margaret hay Isabelle, hay cả hai đấy, những tên rất Tô Cách Lan. Sự thực cảm nghĩ này không lấy ǵ làm hứng thú lắm. Tôi hy vọng sẽ có ngày nào đó ông biết được câu trả lời".
Tôi hỏi Bà Alanna Knight bài hát "Cô Trinh Nữ Trên Đồng Cỏ" (The Maid Of The Meadow) mà Bà nhớ và cảm nghĩ đối với bản nhạc này. Bà cho biết Bà không phải là nhạc sĩ nên đă nhờ một người bạn tên Ann Brand ghi lại cho Bà. Tôi thích thú xem bản nhạc. Thật là lạ, có bốn nhịp giống như hệt trong bản trường canh do tôi sáng tác năm 1953 mà Bà Knight cũng như người bạn của Bà không biết. Chắc chắn đó không phải một bà hát toàn vẹn chỉ đơn thuần có một đoạn nhưng sự giống nhau th́ nổi bật.
Bà Knight cho biết thêm "Tiến Sĩ Ritchie đă t́m được lai lịch của một cô gái ḍng dơi Ruthven trong cuốn lịch sử Tô Cách Lan của Robertson xuất bản năm 1759. Theo ông Bá Tước Gowrie có người con gái tên là Beatrix. Lẽ dĩ nhiên Bá Tước có thể có nhiều chị hay con gái nhưng cuốn lịch sử chỉ ghi tên Beatrix mà thôi. Trong lúc này Bà Elizabeth Byrd cũng hứa cố gắng cho tôi biết tin tức thâu lượm được ở Edinburgh."
Trong khi mọi hoạt động đang ráo riết sôi nổi bên kia bờ Đại Dương th́ tôi đi Chicago để gặp Pamela Wollenberg. Cô Pamela Wollenberg đồng ư đến khách sạn Knickerbocker gặp tôi và cũng bằng ḷng cho tôi thực hiện thôi miên để thí nghiệm. Tôi cho cô biết tôi đă t́m thấy vài bằng chứng về giấc mộng của cô nhưng không nói ǵ thêm.
Ngày 17 Tháng 10 Năm 1969 Cô Pamela Wollenberg đến khách sạn. Cô vừa bước vào pḥng, tôi có hơi ngạc nhiên v́ cô không giống như tôi tưởng. Thay v́ một người bất b́nh thường, lăng mạn, tuổi tác khó đoán, tôi thấy cô rất trẻ khoảng 20, 21, hoạt bát, thực tế có vẻ không thích khoa học huyền bí. Tôi muốn được phỏng vấn cô trước khi thôi miên. Cô đồng ư. Tôi tiến hành ngay.
"Pamela" - Tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn -"Cô sanh tại đâu?"
"Tại Chicago Heights"
"Cha cô làm ǵ?"
"Cha tôi đă chết. Hồi c̣n sống ông làm trong xưởng chế tạo đầu máy xe lửa c̣n mẹ tôi là một công nhân trong bệnh viện kiểm soát sự dinh dưỡng".
"Gốc gác của cô thế nào?"
"Gia đ́nh bên cha tôi là người Black Forest, Đức Quốc, c̣n gia đ́nh bên mẹ tôi là người Anh Quốc".
"Mẹ cô sanh tại đây phải không?"
"Phải".
"Tổ tiên cô có ai là người Tô Cách Lan không?"
"Theo tôi biết th́ không".
"Cô có bao nhiêu anh chị em?"
"Tôi có hai chị và một người anh, những người này cùng mẹ khác cha".
"Gia đ́nh cô theo đạo ǵ?"
"Cha tôi theo Lutheran, mẹ tôi theo Baptist".
"C̣n cô?"
"Tôi theo đạo Mormon".
"Cô đă 21 tuổi, vậy cô đi làm chưa?"
"Tôi đă đi làm tại bệnh viện, đă đi học y tá, và bây giờ công việc của tôi là trông nom một người đàn bà; bà ta bị bệnh. Khi nào có đủ tiền tôi muốn đi học lại".
"Trường học của cô ra sao, cô học trường công?"
"Tôi học ở Glenwood, ngoại ô Chicago Heights c̣n sau th́ ở Harvey, nơi tôi đang cư ngụ".
"Cô có bao giờ mường tượng đến hay có các ảo giác về những nơi cô bao giờ thăm viếng không?"
"Tôi đă nh́n thấy người, tôi thề là tôi đă nh́n thấy trước đây ở một nơi nào đó và không thể nào có chuyện đó dược".
"Cô có ở Âu Châu bao giờ chưa?"
"Chưa".
"Cô có bao giờ ao ước đi Âu Châu không?"
"Ồ, có tôi thích Âu Châu. Tôi muốn xem các lâu đài".
"Lần đầu tiên ư nghĩ này đến với cô vào lúc nào?"
"Khoảng 3 năm nay, lúc tôi 18 tuổi.."Tôi vẫn nhớ tôi có một lâu đài, lâu đài lớn sơn mầu trắng và có các tháp canh".
"Có bao nhiêu tháp canh?"
"Lối 2 hay 3 cái, giống như một tảng đá như quả núi hoặc cái ǵ đó".
"Cô thường đọc sách ǵ?"
"Tôi thích loại sách bí ẩn".
"Cô có đọc truyện về lịch sử không?"
"Sách về lịch sử tôi không thích mấy, chỉ có một lần, tôi đọc lịch sử Waterloo".
"Cô thích loại âm nhạc nào?"
"Nhạc cổ điển và dân ca, không phải những bản dân ca ông nghe bây giờ. Tôi muốn nói dân ca Âu Châu như Anh Quốc".
"Có bao giờ cô thấy bản nhạc đặc biệt trong trí nhớ của cô không?"
"Thỉnh thoảng tôi có nghe thấy tiếng kèn của mục sư Tô Cách lan ".
"Và lúc nào cô nghe thấy?"
"Thường thường vào ban đêm, khi tôi sắp sửa ngủ".
"Đă bao lâu cô nghe tiếng kèn này?"
"Có thể nói là một năm rưỡi hay hai năm".
"Có bao giờ cô thấy lạ lắm ở chung quanh cô không?"
"Tôi có thể nói như vầy: Tôi nghĩ là tôi không thuộc về hiện tại, chung quanh đây".
"Cô có thể cho tôi biết cô cảm thấy như thế bắt đầu từ khi nào?"
"Chừng độ 3 năm vừa qua, thực sự tôi cảm thấy tôi không quen người nào ở đây mà h́nh như tôi quen một số người ở những nơi khác trên thế giới".
"Ở đâu?"
"Tôi nghĩ rằng quần đảo Anh Quốc quyến rũ tôi hơn là Âu Châu. Đúng quần đảo Anh Quốc đă quyến rũ tôi".
"Có bao giờ cô cảm thấy có lẽ lúc cô bị mệt mỏi khi nh́n vào trong gương, hay khi đi tản bộ, cô tự nhận thấy cô khác với cô trong hiện tại, có cái ǵ đă làm thay đổi trong cô, thay đổi cá tính, tính nết hay bộ mặt?"
"Đúng, có một lần tôi nhớ rất rơ ràng v́ lần đó tôi đă giựt ḿnh. Người con gái mà tôi nói trong giấc mơ với mái tóc đỏ, một hôm nh́n vào gương, tôi không hiểu tại sao như chính tôi là cô gái đó hay là tôi đă nh́n thấy cô ta ở đó".
"Cô thấy hồi nào?"
"Độ chín tháng nay".
"Chỉ có một lần duy nhất cô cảm thấy như thế à?"
"Tôi cảm thấy như có người nào đó ở trong tôi".
"Cô cảm thấy như vậy từ bao lâu?"
""Cách đây hai hay ba năm".
"Có cái ǵ làm cho cô sợ hăi không?"
"Không. Tôi không thấy thế".
"Nào bây giờ chúng ta nói chuyện về những giấc mơ nhé!"
"Giấc mơ đầu tiên tôi thấy cách đây hai năm. Những giấc mơ này thỉnh thoảng lại đến với tôi. Tôi nh́n thấy thiếu nữ với mái tóc đỏ. Cô mặc một cái áo choàng dài trắng, có viền vàng. Cô ta đang đi nhưng có vẻ rụt rè.Cũng ở trong giấc mộng đó, tôi nh́n thấy hai tháp canh và tôi nghe thấy cô ta nói "Handsel", rồi Glamis, Angus, Ruthven, Gowrie và một lần cô nói "Tôi nhảy". Có lần trông cô rất b́nh thản, nhưng cũng có lần trông cô rất giận dữ".
"Cô thiếu nữ đó chúng bao nhiêu tuổi?"
"Chừng độ 20 tuổi".
"Thấp hay cao?"
"Thấp và hơi nhỏ".
"Đẹp hay xấu, có ǵ đặc biệt không?"
"Không có ǵ đặc biệt cả, nhưng làn tóc đỏ của cô rất là đẹp".
"Tóc dài hay tóc ngắn?"
"Tóc dài, rất nhiều".
"Giấc mơ đến không chừng hay vào giờ nhất định?"
"Tôi có thể nói hầu hết đều cùng một giờ, ngoại trừ những lần cô ta giận dữ".
"Cô nằm mơ như vậy cả thảy bao nhiêu lần?"
"Năm hay sáu lần".
"Lần cuối cùng vào bao giờ?"
"Lần cuối cùng tôi nghĩ vào tháng 7".
"Năm nay?"
"Vâng".
"Lúc cô ta đang tức giận?"
"Rất tức giận".
"Những giấc mơ như vậy kéo dài suốt đêm, hay chỉ trong chốc lát?"
"Rất là nhanh, tôi muốn nói: khi tôi vừa thấy cô, cô muốn nói điều ǵ rồi đi ngay".
"Tại sao cô nhớ rơ ràng giấc mơ này như vậy, Cô nhớ được tất cả các giấc mộng này sao?"
"Về thiếu nữ đó tôi nhớ rất rơ ràng, ông có thể cho tôi là nằm mơ, nhưng thực ra tôi chưa ngủ".
"Việc xảy ra đầu hôm, giữa đêm hay cuối đêm?
"Lối chừng 11 giờ rưỡi, hoặc trước 2 hay 2 giờ rưỡi khuya".
"Ngoài các giấc mơ như vậy cô có cảm giác như có ai chung quanh cô không? Tôi muốn nói khi cô tỉnh dậy".
"Tôi không biết có phải thiếu nữ ấy không, nhưng tôi cảm thấy như có ai ở cạnh tôi khi có ḿnh tôi ở nhà".
"Khi cô liên lạc với tôi, cô có nghĩ rằng đă có ai đó thúc đẩy cô làm chuyện này không?"
"Tôi cảm thấy tôi phải viết thư cho ông trong khi không có lư do".
"Đối với riêng cô, việc này có ư nghĩa ǵ không?"
"Chỉ có một điều tôi hằng nghĩ đến là chữ "Handsel cho tôi". Tôi nghĩ rằng "cho tôi" phải có nghĩa là vật ǵ đó. Có thể "Handsel" nghĩa là đến với tôi nhưng sao cô ta lại muốn tôi đến với cô ấy?"
"Có ǵ đặc biệt, chẳng hạn như quần áo, vật dụng, âm nhạc, thói quen, câu nói, hay bất cứ thứ ǵ khác hẳn với bản tính của cô, nhất là từ khi cô 18 tuổi tới nay, cô hăy cho tôi biết?"
"Tôi thích nấu bất cứ món nào đến từ quần đảo Anh Quốc. Tôi có 3 cuốn sách dạy cách nấu những món ăn Anh. C̣n về quần áo tôi thích mặc theo kiểu cổ hơn".
"Cô có bạn trai nào gốc Anh Cát Lợi hoặc Tô Cách Lan không? Tôi muốn nói quê hương của họ."
"Không".
"Có khi nào cô đọc sách nói về Anh Quốc trong phạm vi lịch sử, quá tŕnh, hay địa dư không?"
"Có một lần tôi đọc sách nói đến tháp canh ở Luân Đôn và nói về hoàng gia, chỉ có vậy thôi".
"Theo nhận xét của cô, cô có thấy những hiện tượng đă xảy ra trong đời cô có nghĩa lư ǵ không?"
"Tôi không rơ, trừ khi có người nào nói cho tôi biết. Tôi cảm thấy tôi quen thiếu nữ đó. Tôi không biết tại sao tôi lại quen cô ta nhưng tôi cảm thấy tôi quen cô ấy"
"Giấc mơ đầu chỉ là cảnh thoát khỏi sự buồn chán, không nói lên điều ǵ phải không?"
"Lần thứ nhất tôi không quan tâm mấy, cho là mộng mị, nhưng giấc mơ cứ tái diễn, và mỗi lần như vậy tôi cảm thấy thân thiết với cô ta hơn".
"Bây giờ cô đă sẵn sàng để tôi thôi miên chưa?"
"Tôi đă sẵn sàng".
Vài phút sau, Pamela đă ở trong t́nh trạng hôn mê thư giăn, và phục tùng mệnh lệnh của tôi.
"Cô hăy quay về 100 năm, 200 năm, 300 năm cho đến khi nào cô nh́n thấy cô gái có mái tóc đỏ".
Một lúc sau Pamela bắt đầu nói:
"Ruthven", giọng nói của cô thật b́nh thản.
Tôi bắt đầu hỏi:
"Cô sống trong đó phải không?"
"Tôi sống ở đó".
"Cha cô là ai?"
"Cha tôi không có ở đó".
"Có người nào ở đó với cô không?"
"Có mẹ tôi".
"Tên mẹ cô là ǵ?"
"Tôi không biết, tôi không nói".
"Tại sao?"
"Bởi v́ họ đang âm mưu chống lại chúng tôi nên tôi không thể nói ra được."
"Cô đang ở năm nào?"
"Năm 1600"
"Năm 1600 nào?"
"Đúng là năm 1600".
"Quê hương cô ở đâu?"
"Tô Cách Lan".
"Tại sao cô lại có vẻ lo sợ?"
"Chúng tôi sắp sửa phải rời nơi đây".
"Tại sao?"
"Họ sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi không đi khỏi chỗ này".
"Ai định giết cô?"
"Tôi không biết, cha tôi chỉ cho biết 'các người ấy'".
"Cô phải làm ǵ?"
"Tôi không biết, mẹ tôi đang sửa soạn hành lư".
"Cô đi đâu?"
"Đi Glamis".
"Tại sao lại đến đó?"
"Có Hoàng Gia ở đó".
"Họ sẽ giúp cô sao?"
"Tôi không biết".
"Cô hăy tả căn nhà của cô đi!".
"Nhà làm bằng đá".
"Gọi là ǵ?"
"Breasten".
"Nhà được kiến trúc như thế nào?"
"Có hai tháp canh, có vườn hoa".
"Cô có lên tháp canh chơi không?"
"Tôi thường chơi trên đó".
"Cô chơi ǵ?
"Tôi hay chơi với những chiếc chén kiểu nhỏ Trung Hoa".
"Lúc bấy giờ cô bao nhiêu tuổi?"
"Bốn hay năm tuổi".
"Bây giờ cô bao nhiêu tuổi?"
"Bây giờ tôi 22 tuổi".
"Cô c̣n độc thân hay đă lập gia đ́nh?"
"C̣n độc thân".
"Cô có quen biết người đàn ông nào mà cô định lấy làm chồng không?"
"Có".
"Tên anh ta là ǵ?"
"Tôi không nói".
"Tại sao?"
"Coi như tôi không gặp anh ta".
"Tại sao?"
"Gia đ́nh tôi không cho phép".
"Tên anh ta là ǵ?"
"Mẹ tôi bảo nếu tôi nói, tôi sẽ bị trừng phạt"
"Vậy cô phải làm ǵ? Sau này cô có gặp anh ta không?"
"Có".
"Ở đâu?"
"Ở Loch Catherine".
"Có xa không?"
"Không xa lắm".
"Anh có khi nào đến lâu đài không?"
"Có".
"Ở đâu, chỗ nào của lâu đài?"
"Trong dẫy hành lang chính".
"Không bao giờ ở trên lầu?"
"Chỉ có một lần thôi, v́ không được phép."
"Anh ta có lên tháp canh lần nào không?"
"Chỉ có một lần v́ mẹ tôi không biết".
"Cô làm ǵ?"
"Chúng tôi nói chuyện".
"Sau đó cô lấy anh ta không?"
"Không thể"'
"V́ sao?"
"Vi gia đ́nh cấm tôi lấy anh ta và bắt tôi phải lấy người khác''
"Tại sao gia đ́nh lại muốn cô lấy người khác?"
"V́ ông này giàu có".
"Người yêu của cô không giàu có à?"
"Phải, không được giàu"
"Tại sao cô phải nói chuyện theo cách này? Cô có liên hệ thế nào với cô ta (Pamela)? Cô là cô ta, hay cô nói qua cô ta?"
"Tôi là cô ta."
"Vậy th́ trong thời gian chưa phải là cô ta (Pamela), cô ở đâu? cô có là người nào khác không?
"Không, tôi bị gió cuốn".
"Cô chết ra làm sao?"
"Tôi nhảy từ tháp canh".
"Có phải cô bị chết trong khi nhảy?"
"Đúng, tôi chết sau đó".
"Cô định nhảy đi đâu?"
"Tôi định nhảy qua một tháp canh khác".
"Có được không?"
"Không".
"Cô bị ngă xuống đâu?"
"Ngay trước cửa".
"Có phải đây là lần đầu cô nhảy từ tháp canh này qua tháp canh kia không?"
"Không".
"Cô đă có nhảy rồi à?"
"Phải".
"Thế cô nhảy được à?"
"Phải".
"Và lần này cô nhảy qua không được nên bị chết phải không? Cô bao nhiêu tuổi lúc ấy?"
"22 tuổi".
"Đó là tai nạn hay là cô muốn nhảy?"
"Tôi muốn".
"Có phải cô không được vui không?"
"Đúng".
"Khi cô chết sự việc tiếp diễn như thế nào?"
"Chẳng thấy ǵ cả".
"Sau khi cô ngă, chuyện ǵ xảy đến với cô? cô nh́n thấy ǵ?"
"Tôi ở trong gió".
"Cô tự nh́n thấy ḿnh sao?"
"Phải".
"Rồi cô đi đâu?"
"Không đi đâu cả".
"Thế cô có nh́n thấy ai không?"
"Không".
"Thế cô ở ngoài hay cô trở vào lâu đài?"
"Tôi có trở về lâu đài một lần".
"Cô có nh́n thấy ai không?"
"Không".
"Rồi tiếp tục chuyện ǵ xảy ra cho cô? Cô sống ở đâu?"
"Tôi lại bị cuốn lần nữa".
"Sau đó rồi cô nhớ ǵ nữa?"
"Tôi nh́n thấy người".
"Các người nào?"
"Những người ngộ nghĩnh đang đi ṿng quanh".
"Họ cũng chết rồi phải không?"
"Không".
"Rồi cô ở đâu?"
"Tôi ở trong một thành phố".
"Cô nhập vào một người nào khác phải không?"
"Không".
"Cô vẫn là cô à?"
"Phải".
"Cô nói thành phố nào?"
"Tôi không biết".
"Có phải những người đó ăn mặc giống như thời mà cô biết phải không?"
"Không".
"C̣n cô, cô vẫn mặc theo thời của cô phải không?"
"Phải, tôi có thể nh́n thấy cái áo choàng của tôi".
"Những người nh́n tức cười đó có thấy cô không?"
"Không, họ đi bên cạnh tôi".
"Rồi tiếp tục cô nhớ những ǵ nữa?"
"Tôi muốn người nào đó đưa tôi trở về".
"Vè đâu?"
"Về Ruthven".
"Cô có t́m được ai không?"
"Có, Pamela".
"Làm sao Pamela có thể đem cô trở về được?"
"Cô ấy sẽ mang tôi trở về".
"Tại sao cô lại nhập vào Pamela, chính cô chọn Pamela à?"
"Vâng, dường như cô ấy có thể trở về".
"Ai là người nói với cô về Pamela, bằng cách nào cô đă t́m ra Pamela?"
"Tôi t́m thấy cô ta khi tôi vào nhà".
"Nhà nào?"
"Nhà của cô ấy".
"Điều ǵ khiến cho cô tin là Pamela có thể làm được?"
"Cô ta sẽ cảm thấy hối hận và đưa tôi trở về".
"Có phải cô đă ở trong cô ấy phải không? Ở trong thân h́nh cô ấy phải không?"
"Phải, tôi cùng cô ấy trở về".
"Ai gửi cô đến với cô ta?"
"Không có ai cả".
"Rồi tại sao cô t́m ra cô ta (Pamela)?"
"Tôi cũng không biết nữa".
"Cô có nói chuyện với người nào không? Và có nhờ người ta giúp đỡ không?"
"Không ai có thể nghe tôi được mặc dầu họ vẫn đi bên cạnh tôi".
"Có ai nói rằng: "Cô phải trở về dương thế " hay tương tự như vậy không?"
"Không".
"Cô có nhớ cô tái sanh như một đứa nhỏ không?"
"Không".
"Cô có thấy cô nghĩ ǵ sau khi cô thấy Pamela không?"
"Cô ta cũng giống như mọi người khác".
"Giống ai, giống cô phải không?"
"Không".
"Vậy th́ th́ theo cô, Pamela giống ai?"
"Cô ấy trông giống một người trong bọn Mc Gibbon"
"Giống ai trong bọn Mc Gibbon?"
"Cô ta giống Catherine".
"Catherine của bọn Mc Gibbon, vậy theo cô, Catherine là ai?"
"Tôi không biết rành về Catherine, tôi chỉ gặp Catherine ở Angus thôi".
"Tại sao cô đi Angus?"
"V́ chúng tôi phải đi Glamis".
"Cô có đi ngang Angus không?"
"Không v́ Glamis nằm trong Angus".
"Catherine làm ǵ ở Glamis?"
"Cô ấy sống ở đó".
"Cô ấy làm ǵ ở đó?"
"Cô ấy là một tỳ nữ".
"Nữ tỳ của ai?"
"Nữ tỳ trong lâu đài của Hoàng Gia".
"Pamela gợi cho cô nhớ lại cô ấy phải không?"
"Đúng".
"Có phải định mệnh đă trói buộc cô vào Pamela không?"
"Vâng, tôi phải trở về".
"Để làm ǵ?"
"Tôi cần kiếm một vật".
"Kiếm cái ǵ?"
"Cái nhẫn".
"Ai là người cho cô cái nhẫn?"
"Tôi không nói".
"Cái nhẫn đó thế nào?"
"Cái nhẫn đó tṛn bằng cẩm thạch".
"Có khắc ǵ trên chiếc nhẫn đó không?"
"Không".
"Tại sao việc kiếm cái nhẫn lại quan trọng như thế?"
"V́ là cái nhẫn người đó cho tôi".
"Người đó là ai?"
"Tôi sẽ bị trừng phạt nếu tôi nói ra".
"Cô không bị trừng phạt đâu, tôi lấy danh dự mà nói như vậy, cho tôi biết tên người đó đi, rồi tôi sẽ giúp cô được".
"Tôi không thể t́m được người đó. Tôi chỉ muốn lấy lại cái nhẫn mà thôi".
"Cô hăy gọi tên anh ta đi, anh ta sẽ đến với cô".
"Tôi sẽ bị trừng phạt. Tôi sẽ ra đi"
"Cô đi đâu?"
"Đến Loch Catherine, tôi cảm thấy hạnh phúc ở đó".
"Với ai?"
"Anh ấy muốn đưa tôi tới đó. Chúng tôi sẽ tính đến chuyện ra đi".
"Cô dự định đi đâu nếu có thể đi được?"
"Đi khỏi Perth".
"Đi khỏi Perth rồi về đâu?"
"Anh ấy thích đến Luân Đôn".
"Anh ta làm nghề ǵ?'
"Anh muốn trở thành một kiến-trúc-sư".
"Anh ta có đi học chưa?"
"Có học sơ sơ thôi v́ không được phép".
"Anh ta không thuộc ḍng dơi quư tộc?"
"Anh cũng thuộc ḍng dơi quư tộc nhưng cha anh không muốn anh làm nghề đó".
"Tại sao cô chỉ nhập vào Pamela lúc 18 tuổi, tại sao cô không nhập vào sớm hơn?"
"V́ ở tuổi này cô ấy mới trưởng thành và có thể ra đi".
"Cô có thể giúp cô ta tới đó không? Tại sao cô phải t́m đến tôi?"
"V́ có thể ông giúp cô ấy được".
"Cô muốn tôi phải làm ǵ?'
"Tôi muốn trở về".
"Nếu tôi hứa giúp cô trở về, cô sẽ cho tôi biết tên người bạn trai của cô nhé!"
"Tôi có thể trở về à?"
"Tôi sẽ cố gắng t́m cách để cô trở về, phải tôi đă có liên lạc với nơi đó và biết cô nói thật".
"Pamela sẽ đưa tôi về à?"
"Tôi sẽ cố gắng để Pamela đua cô trở về trong ṿng một năm".
"Tôi phải đợi lâu quá".
"Cô đă đợi bao lâu rồi?"
"Cả hàng trăm năm rồi"
"Vậy cô cố gắng chờ thêm một năm nữa đi, thời gian đă trôi qua, có lẽ cái nhẫn cũng không c̣n ở chỗ có nữa rồi làm sao đây?"
"Tôi sẽ t́m và t́m cho bằng thấy".
""Bây giờ cô có sung sướng được nhập trong thể xác của Pamela không? Cô có được Pamela ưng thuận không? Cô có thích là cô ấy không?"
"Chỉ với mục đích được trở về mà thôi".
"Tôi hăy c̣n ṭ ṃ muốn biết tại sao lại như thế, và bằng cách nào cô đă t́m ra cô ấy (Pamela) ở đây. Cô có biết cô đang ở nuớc nào không?"
"Không".
"Cô nghĩ rằng cô đang ở đâu? Cô có biết tên của nước mà cô đang ở không? Không phải là Tô Cách Lan đâu".
"Tôi không phải ở trong quần đảo đâu".
"Không, cô có biết từ khi cô c̣n sống cho đến nay, một thời gian dài đă trôi qua, cô có bao nhiêu lâu rồi không?"
"Hàng trăm năm".
"Cô có thể cho tôi biết tên người trẻ tuổi ấy không?"
"Tôi không t́m thấy anh ấy, ông cũng không thể mang anh ấy trở lại đượcc".
"Cô hăy kể cho tôi biết cái âm mưu đă làm cô sợ hăi? Ai đă nhúng tay vào vụ này?"
"Cha tôi chỉ cho biết họ là những người chống lại cha tôi".
"Ai?"
"Tôi chỉ biết cha tôi là Gowrie thôi".
""Cha cô ở cấp bậc nào?"
"Tôi không rơ, khi họ đến tôi phải vào tháp canh".
"Và khi gọi cô, họ gọi thế nào?"
"Tôi muốn cha tôi trở lại".
"Tôi sẽ giúp cô. Cô có thể nói cho tôi biết tên cô được không, tên thật của cô đó?"
"Tôi phải t́m trong cuốn Thánh Kinh".
"Cô đi t́m trong cuốn Thánh Kinh đi và nói cho tôi biết Thánh Kinh viết ǵ?"
"Không, tôi phải đi gặp ông ta ".
"Cô sẽ gặp ông ta, nếu như ông ta bằng ḷng để cô gặp ông ta"
"Không, tôi muốn gặp Peter".
"Peter, ông hăy đến với cô đi. Nếu ông đă tái sanh, nói cho cô ấy biết, hiện giờ ông ở đâu để rồi cô ấy có thể đến với ông được. Ông hăy nói như thế này: Tôi, nói tên ông, muốn gặp cô. Rồi ông đó sẽ đến với cô."
"Chúng tôi không thể nói cho ai biết được ".
"Chỉ có tôi và cô là hai người biết mà thôi".
"Không, khi chúng tôi rời lâu đài, mẹ tôi nói "không" ".
"Nói tên cô đi?"
"Không, tôi sẽ bị đánh".
"Những người hầu gọi tên cô thế nào?"
"Họ thường gọi tên tôi là Ruthven".
"Nhưng khi cô có mặt tại đây, họ gọi cô thế nào?"
"Họ thường chỉ gọi tôi bằng chữ 'Thưa Cô' ".
"Cô nào? Tên thánh của cô là ǵ?"
"Tôi không thể nói được".
"Nhưng cô biết phải không?"
"Phải".
"Chữ đầu tiên của tên cô là ǵ? Cô hăy đánh vần chữ đầu tiên tên cô đi?"
"Tôi sẽ bị trừng phạt".
"Cô đâu có bị trừng phạt khi nói tên của ḿnh. "Cô muốn t́m cái nhẫn phải không? C̣n t́m cái ǵ nữa không?"
"Không".
"Nếu tôi hỏi cô một câu, cô có hứa là trả lời tôi thành thực không?"
"Được".
"Cô có phải là Beatrix không?"
"Tôi không nói được".
"Cô phải nói phải hay không phải".
"Tôi sẽ bị trừng phạt".
"Cô sẽ không bị trừng phạt v́ cô có nói tên cho tôi biết đâu? Cô chỉ trả lời đúng hay sai mà thôi. Nếu cô nói là đúng, đó là sự thật, mà nếu cô nói là sai th́ cũng là sự thật vậy, c̣n như nếu cô không nói sự thực th́ chính cô đă bội thệ và cô sẽ bị đọa xuống địa ngục. Cho nên tốt hơn là cô nên nói sự thực. Lần này là lần thứ ba cũng là lần cuối cùng tôi hỏi có phải cô là Beatrix không?"
"Phải".
"Bây giờ tôi để cô đi và tôi sẽ để ư đến chuyện đó càng sớm càng tốt để cô có thể trở về nh́n thấy nơi mà cô ưa thích"
"Vâng".
"Chúc cô lên đường b́nh an".
Sau khi Pamela tỉnh dậy, Pamela không nhớ một tư ǵ về cuộc thôi miên này. Tôi hỏi Pamela v́ đâu mà lại đặt tên là Pamela.
"Mẹ tôi không muốn tôi có một tên trùng với bất cứ người nào trong gia đ́nh. Mẹ tôi xem báo, thấy có một cô gái tên là Pamela sắp thành hôn, nên mẹ tôi đă lấy tên này để đặt cho tôi".
"Bây giờ tôi đọc vài cái tên phụ nữ, cái tên nào thấy quen quen hoặc cần chú ư, th́ Pamela cho tôi biết".
""Dorothy hay Dorothea?"
""Bà ngoại của tôi tên là Dorothy".
"Cô có thích tên này không?"
"Cũng được".
"Thế nào về tên Barbara?"
"Không".
"Thế nào về Beatrix?"
"Tên này rất dẹp, tôi thích tên này".
"Cô thích tên này hơn tất cả tên khác phải không?"
"Phải, nếu mọi người tôi là Bea, tôi cũng không cần để ư đến cách gọi này."
Những ǵ tôi thâu lượm được qua cuộc thôi miên thật là kỳ thú. Bây giờ tôi hiểu chữ "Handsel" là cái nhẫn. Với thiếu nữ, cái nhẫn này rất quư v́ là của người yêu tặng cho cô. Tôi biết rằng cô ta không chịu nói tên, nên cách tốt nhất là nêu một vài tên. Mặc dầu tôi không coi việc t́m tên như là kết quả của một bằng chứng, nhưng qua nội dung của cuộc điều tra, cô ấy đă tỏ ra phản ứng với cái tên Beatrix hơn là các tên khác trong khi tôi nói với cùng một âm điệu.
Một lúc sau, Pamela ngồi dậy và cùng uống cà phê với tôi. Đến đây tôi liền bóc cái thư mới nhất của Bà Elizabeth Byrd, nhận được ngày hôm qua ở Nữu Uớc. Kèm theo bản tin của nhà Quư Tộc Lyon Of Scotland chuyên phụ trách các đơn đ̣i tiền bồi hoàn các vũ khí của các gia đ́nh quư tộc. Bản tin như sau:"Người con gái có mệnh danh "Cái Nhảy Của Người Trinh Nù" tại Huntingtower tên là Dorothea. Cô này lấy ông John Vemyss ngày 8 tháng 6 năm 1609 tại Pittencrieff. Dorothea là người con thứ 13 song chưa phải là con Út, c̣n về tin tức của Barbara, người con thứ 14 là đứa con út trong gia đ́nh có thể t́m thấy tại trang 266 và 267 trong cuốn "Four Of the Scots Peerage".
Báo cáo của Nhà Quư Tộc Lyon of Scotland đương nhiên là không đầy đủ chi tiết về những cô con gái của Bá Tước Gowrie. Một ư nghĩ thoáng qua trong đầu. Theo như "Cô" Gowrie nói đến cái nhảy của thiếu nữ có phải chính Pamela là thiếu nữ đă nhảy cái nhảy nổi tiếng đó không? Cũng có thể là một người con gái khác đă bị suy nhược và bị rớt trong khi đó có một thiếu nữ khác nữa đă nhảy thành công.
Sau khi kiểm soát lại các dữ kiện mà người con gái gịng họ Gowrie nói cho tôi tại Chicago th́ là người đă bị ngă chết tại bờ thành lâu đài Gowrie không phải là cô gái đă nhảy thành công để đi t́m t́nh yêu, cho nên bằng chứng ở chỗ này có phần không rơ ràng. Trong cuốn The Fortified House In Scotland (Những Thành Quách của Tô Cách Lan) của Nigel Tranter có nói đến những bức tường thành, đến những lâu đài mà không nói đến huyền thoại về cái nhảy của một thiếu nữ; do đó tôi nghĩ rằng "Cái Nhảy của Người Trinh Nù" đă không được mấy phổ thông.
Trước khi chia tay Pamela, tôi nói cô hăy lưu ư đến tất cả các việc xảy ra sau cuộc thí nghiệm thôi miên và yêu cầu cô cố gắng ghi nhớ sau này sợ rằng có thể cuộc thôi miên có hậu quả làm trí nhớ bị kích động.
Bốn ngày sau tôi có nhận được một lá thư của Pamela. Bấy giờ tôi có nói cho cô biết là những kư ức của cô về Tô Cách Lan đă được các nhà chuyên viên xác nhận là đúng, và kiếp trước cô là một trong những người con gái của Bá Tước Gowrie. V́ vậy những sự cô đă biết không c̣n giá trị thực tiễn nữa. Thư của cô như sau:"Tôi không biết sự việc này có giá trị hay không, nhưng tôi cảm thấy cần phải cho ông biết. Vào khoảng 2 giờ 30 sáng, tôi tỉnh dậy v́ một giấc mơ, giấc mơ như thật đối với tôi. Trong giấc mơ tôi thấy tôi đang cuỡi ngựa đi đến một nơi mà tôi không biết nhưng cảm thấy quen quen. Cho ngựa chạy chừng 40 dậm, tôi dừng lại buộc ngựa vào một cái cây. Tôi bắt đầu đi bộ, h́nh như đây là một thung lũng nhưng có nhiều cây. Tôi nh́n thấy núi bao quanh. Trong lúc tôi đi bộ, có nhiều gai hay cái ǵ đó nhọn đă đâm vào chân tôi. Tôi lại gần một con sông và bắt đầu chạy. Rồi tôi thấy tôi nằm trên giường. Điều làm tôi sợ là chân tôi hầu như bị báng rất đau đớn. Sau đó tôi tỉnh dậy v́ những tiếng kêu than khủng khiếp mà tôi nghĩ là các tiếng động này có thể làm cho cả lối xóm thức dậy.
Có hai chữ đă in sâu vào tâm trí tôi. Một chữ là Dab hay là Daba. Tôi không biết chữ này từ đâu đến, nhưng h́nh như chữ này làm cho tôi khó chịu. C̣n chữ thứ hai là "Beitris", chữ này tôi thấy rất rơ trên trần nhà đêm qua khi các đèn trong pḥng đă tắt cả. Tôi không hiểu các việc trên có nghĩa ǵ không, song tôi cứ viết thư cho ông"Tôi cũng không hiểu những chữ trên đây nên tôi đă nhờ Bà Elizabeth Byrd t́m hộ trong cuốn tự điển Jamison's English-Scottish. Dadown có nghĩa là rơi xuống rất mạnh với tiếng dộng. Có thể là ám chỉ cái ngă tàn khốc của người con gái nhảy từ bờ tường lâu đài Gowrie nhưng cũng có chữ Dablet có nghĩa là con quỷ hay con yêu tinh nhỏ. Không biết có phải là Bà Alanna Knight đă mô tả người thiếu nữ này khi Bà nh́n thấy trong ảo giác không?
Đầu tháng 11, Pamela lại thấy một giấc mơ khác nữa. H́nh ảnh trong giấc mơ thấy hai lần đă in sâu vào trí nhớ của cô và cô hơi lo lắng về lời dặn ḍ như sau:
"Ngươi sẽ bị chết bởi Newa Vleen", cô gái nói trong giấc mơ. Pamela tự hỏi ai sẽ chết - cô gái có mái tóc đỏ hay là chính cô - và Newa Vleen có nghĩa ǵ?
Ngày 30 Tháng 4 Năm 1972, tôi nhận được một lá thư của Bà A. McDougall, Bà này sống tại Perth, Tô Cách Lan đă soi sáng cho những lời khai của Pamela:
"Người ái nữ đề cập chính là ái nữ của Bá Tước Ruthven IV được phong hiệu Bá Tước Gowrie sau khi ông cùng với Nam Tước Lindsay tháp tùng Hoàng Hậu Mary tới Loch Leven và đă lấy danh nghĩa của Hoàng Hậu thành lập một uỷ ban để lật đổ chính phủ.
Người thiếu nữ trẻ tuổi đă làm bước nhảy nổi tiếng thời ấy, bỏ gia đ́nh, đi theo người yêu là Địa Chủ James Vemyss tại Pittencrieff là nơi tiếp cận với Loch Katrine ở Trossachs.
Chữ Newavleen có nguồn gốc từ chữ Jacobite mà bây giờ gọi là Gaelic. Tôi đă tra cứu trong sách vở và đi đến kết luận là Tô Cách Lan không có địa danh Newav. Nieve rất có thể đọc là Newav ở Tô Cách Lan có nghĩa là nắm tay. Linn nghĩa là chỗ thắt lại của gịng nước lỡ hay một thác nước và được đọc là Leen. Đó là nghĩa chữ Newavleen.
C̣n về câu trích dẫn "Thà là để trẻ khóc c̣n hơn là để người già phải khóc", đó là câu tuyên bố của một lănh chúa ở Glamis trước mặt Vua James VI, câu này nổi tiếng trong Lịch Sử Tô Cách Lan v́ Nam Tước Ruthven nổi lên tấn công bất ngờ.Bá Tước Gowrie cùng một số hầu tước đă sắp xếp một kế hoạch để giải thoát Vua James VI - khi nhà Vua c̣n nhỏ tuổi - ra khỏi đám cận thần vô dụng. Sau cuộc đi săn ở Athol trên đường về, nhà Vua bị bắt đưa về lâu đài Ruthven. Lúc sắp sửa khởi hành, nhà Vua bị những nhà Quư tộc chận đường tŕnh lên một bản kiến nghị bầy tỏ ḷng phẫn uất của họ. Nhà Vua đă cố tự ḿnh giải thoát khỏi sự câu thúc của họ rồi bật khóc. Vị lănh chúa Glamis (cầm đầu cuộc bắt giữ nhà Vua) đă nhận xét là "Thà để trẻ con khóc c̣n hơn là để người già phải khóc". Các nhà quư phái đă mang nhà Vua đi nhưng nhà Vua trốn thoát và lại t́m về với Bá Tước Arran. Mặc dầu nhà Vua có thông qua một đạo luật ân xá cho những nhà quư phái dính líu đến việc bắt giam nhà Vua, nhưng sau đó trong một phiên ṭa trá h́nh tại Stirling, Vua đă kết tội âm mưu làm phản, đă lên án tử h́nh Bá Tước Gowrie.
Ngày 21 Tháng Ba Năm 1970, Pamela báo cáo một "bộc phát bất ngờ" về cô gái Tô Cách Lan.Cô thiếu nữ này lại nói nữa. Tôi muốn cho ông biết vài tên mà tôi không biết là chính cô thiếu nữ ấy nói ra hay tự tôi đă tưởng tượng.
Những tên này là: Lord Patrick, Bá Tước William, Bá Tước Hom. Rồi Saint John's Stone và Black Pike có nghĩa ǵ không? Và thiếu nữ đó cũng nói về làm một cái ǵ vinh danh cho Hoàng Hậu.Với Pamela cho đến nay, tôi chưa hề cho cô biết về tiền thân của cô ngoại trừ các việc có liên quan đến Tô Cách Lan mà thôi, cho nên tôi rất thích thú với tin tức này. Tôi đă liên lạc với các bạn tôi ở Aberdeen để sưu tra.
Sử Gia C.I.A. Ritchie, trong một bức thư đề ngày 14 Tháng 4 năm 1970 đă báo cho Bà Elizabeth như sau:
Bá Tước William có lẽ là Bá Tước William of Douglas bị Vua James giết chết. Bá Tước Hom là Bá Tước Hume hay Home. Bá Tước đầu tiên gịng họ Home 1566-1619. Nam Tước Patrick tức Nam Tước Gowrie III là phụ thân của Bá Tước Gowrie. Saint John's Stone tức St Johnstone, địa danh của Perth.
Alanna Knight và chồng Bà đă khám phá ra tên Thị Xă của Perth là St John's Town, thị xă này cách xa Hintingtower 2 dậm. Qua Tiến Sĩ Margaret Steward, nhà khảo cổ sống tại Perth, Ông Bà Knight cũng khám phá ra chữ "Black Pike" có thể là chữ "Black Park", một miếng đất có ṭa lâu đài cổ ở cách Huntingtower chừng 4 dậm về phía bắc.
Không phải để nhấn mạnh quan điểm của tôi, nhưng làm sao một người con gái 20 tuổi với tŕnh độ học vấn trung học, một công nhân bệnh viện ở Illinois, Hoa Kỳ lại có thể biết được rơ ràng từng chi tiết của một nơi hẻo lánh nhỏ bé tại Tô Cách Lan trừ phi chính cô đă sống tại đó trước kia?
Tỳ kheo Thích Tâm Quang
trích dịch
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 510 of 2534: Đă gửi: 26 July 2008 lúc 10:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN THOẠI NHỮNG
NGÔI MIẾU VEN ĐƯỜNG
Trước khi đọc bài này bạn phải cân nhắc kỹ. V́ muốn chuyển tải những thông điệp cảnh báo về tai nạn giao thông có hiệu quả, tác giả buộc ḷng phải kể những chi tiết tương đối nhạy cảm. Mặc dù có gia giảm mức độ mang tính kinh dị nhưng sẽ ảnh hưởng đối với những người dễ xúc động.
XUẤT XỨ RÙNG RỢN
Hầu như dọc các tuyến đường bộ, đường trên khắp đất nước, nơi nào cũng có những ngôi miếu nhỏ. B́nh thường ít ai chú ư đến những ngôi miếu nhỏ xíu, cất đơn sơ nằm khiêm tốn bên vệ đường hoặc bờ sông mép rạch. Thế nhưng thử hỏi thăm lai lịch những ngôi miếu ấy, khi nghe kể xong chắc chắc ai cũng phải rùng ḿnh.
Ngoại trừ một số tín đồ tôn giáo xây miếu trước cửa nhà đề thờ thổ thần, c̣n lại hầu hết những nơi khác, người ta cất miếu để nhang khói cho những người chết oan, chết thảm khốc giữa đường. V́ vậy những ngôi miếu ấy được gọi lả "miếu oan hồn", "miếu cô hồn" hoặc "miếu vong hồn".
Những cái chết rùng rợn, chết oan giữa đường chiếm số ít là do ngă bệnh đột quị, số đông c̣n lại thuộc về tai nạn giao thông. Mà đă chết tại chỗ do tai nạn giao thông th́ hiếm có cái chết "hiền". Chuyện nạn nhân bị phanh thây, tay một nơi đầu một nẻo đă ám ảnh tâm trí những cư dân sống ven quốc lộ thường xuyên. Có lẽ do chứng kiến và bị ám ảnh những cái chết thảm khốc ấy, người ta thường thấy ma quỉ.
Và khi có người bị ma nhát quỉ ghẹo, những nơi ấy người ta lập ngay miếu thờ. Về mặt tâm linh người ta cho rằng những ngôi miếu ấy sẽ giúp vong hồn người chết sẽ được siêu thoát, không quấy rầy người sống. Về mặt xă hội những cái miếu ấy xem như "biển báo" cho những người điều khiển xe trên đường biết rằng, "nơi đây thường xảy ra tai nạn chết người rùng rợn".
Tại cây số thứ 25 Bàu Cỏ xă Tân Hung, huyện Tân Châu,Tây Ninh có một ngôi miếu nhỏ. Theo lời người dân nơi đây kể lại, cái chết đầu tiên xảy ra nơi đây vào năm 75 là một cô gái. Thời điểm đó con đường này chưa tráng nhựa nhà cửa thưa thớt. Đó là con đường của cánh xe "be" tải gỗ đại thụ, nặng hàng chục tấn từ rừng già Campuchia về. Hàng đêm từng đoàn xe "be" chạy rung rinh mặt đất cho đến sáng. Để trốn thuế kiểm lâm đặt chốt tại Tân Trung, mỗi đoàn xe chỉ mở đèn chiếc đầu tiên và chiếc cuối cùng. Những chiếc chạy giữa chỉ mở đèn gầm.
Một buổi sáng sớm, người dân địa phương rúng động khi phát hiện xác chết của một cô gái nát bấy nằm giữa đường. Có lẽ tai nạn xảy ra từ lúc nửa đêm và từng chiếc xe nặng hàng chục tấn cứ liên tiếp nghiền xác cô gái cho đến khi phát hiện. Người dân địa phương phải nhặt từng mẩu xương và chút thịt vương văi lẫn với đất cát để mai táng. Không hiểu v́ sao cái đầu cô gái c̣n nguyên vẹn, nằm lăn lốc trong một vạt cỏ hôi cao quá đầu người.
Bẳng một thời gian đêm nọ, bà Hai là người mẹ chiến sỹ đă từng bám trụ vùng đất cách mạng từ thuở kháng chiến đến lúc đất nước thống nhất, có chuyện cần phải đi ngang qua nơi xảy ra tai nạn vào ban đêm. Bỗng nhiên bà trông thấy một mái tóc đen, dài xơa xuống từ ngọn cây xay xuống đến mặt đường. Bà không thuộc loại yếu bóng vía nên b́nh tĩnh bước đến gần để xem đó là chuyện ǵ.
Qua ánh sáng nhập nhoạng của ánh trăng non bà trông thấy một cái đầu không có thân h́nh. Cái đầu mang gương mặt đầy máu đang lơ lửng trên cành cây xay đang nhe răng cười. Bà quét lia ánh đèn b́nh ac quy soi vào thẳng gương mặt kia. Ngay lập tức gương mặt biến mất. Không tin dị đoan bà quay trở về nhà báo với Chính quyền rồi xách súng AR15 huy động mấy đứa con đang là du kích xă ra bao vây khu vực đó.
Bà nghĩ một phần tử nào đó đang mượn chuyện ma quỉ nhát bà với mục đích quấy rối trị an. Thế nhưng lùng sục suốt đêm vẫn chẳng thấy dấu vết ǵ. Ngày hôm sau, chính anh con trai út của bà đi ngang chổ cây xay lại bị "ai đó" nắm tóc giật. Anh ngước nh́n lên và trông thấy những ǵ hôm qua mẹ anh trông thấy.
Một tháng sau, người con rể thứ năm của bà Hai sử dụng chiếc xe hon da 67 đi công việc. Khoảng 12 giờ trưa, anh về đến ngỏ nhưng không quẹo vào mà đâm thẳng vào gốc cây xay chấn thương sọ. Khi người nhà chạy ra sơ cứu, mặc cho mồm khóe mắt lẫn lỗ tai ứa máu, anh vẫn cố thều thào nói đứt quăng: "Nó ở trên cây xay…". Chỉ nói có vậy anh tắt thở.
Sau này rất nhiều người dân đi ngang qua đó vào ban đêm hoặc trưa vắng, thỉnh thoảng lại thấy cái đầu có mái tóc dài lơ lửng trên ngọn cây xay. Sự việc được báo cáo về Công an huyện. Lúc đó ông Sáu M. là trưởng Công an huyện đă ghi nhận sự việc vào sổ tay để đặc biệt quan tâm theo dơi hiện tượng nhưng không có kết luận.
Người dân đă tự nguyện đem cây, lá đến gốc cây xay lẳng lặng cất ngôi miểu nhỏ đốt nhang khấn vái, cầu xin cô gái đừng quấy phá để họ yên tâm đi thăm đồng khuya sớm. Từ đó cái đầu không c̣n thấy xuất hiện nữa. Cho đến tận bây giờ, khi con đường đă được tráng nhựa khang trang rộng răi thoáng đăng, nhưng thỉnh thoảng nơi đó vẫn xảy ra tai nạn giao thông.
Ven quốc lộ I A đoạn B́nh Thuận có ngôi miếu được người dân cho là thờ Hồng Hài Nhi. Cánh tài xế Bắc Nam truyền miệng nhau rằng, đó là ngôi miếu linh thiêng nhất tuyến đường vạn lư này. Và bất cứ tài xế nào đi ngang qua đều phải nhấn c̣i chào "cậu". Họ kể rằng cách nay khoảng 20 năm, mẹ con người ăn xin đi bộ dọc từ miền Trung hướng về Sài G̣n, khi đến đoạn đường này th́ quá nửa đêm. Hai mẹ con chui vào sau một tảng đá ngủ chờ sáng đi tiếp.
Gần sáng khi mẹ c̣n ngủ, đứa bé chỉ mới 5 tuổi đi ra đường và bị một chiếc xe tải cán chết. Sáng dậy, bà mẹ vùi tạm xác đứa con sau tảng đá rồi tiếp tục hành tŕnh. Từ đó cánh tài xế đi đêm ngang đoạn đường này thường trông thấy bất ngờ, một đứa bé đứng giữa đường ngay trước mũi xe. Phăn xạ tự nhiên họ thắng thật gấp thế là xe lật nghiêng.
Hầu hết những vụ tai nạn giao thông xảy ra nơi đây, khi tài xế thoát chết đều khẳng định đă lâm vào t́nh huống y như vậy. Ông Chiêu cư ngụ ở xă Khánh Hậu Long An, có thâm niên 40 năm lái xe nay đă giải nghệ kể, chính ông đă từng "vướng tay lái" một lần tại đoạn miếu "cậu Hồng Hài Nhi". Lần đó ông chở trái cây từ Tiền Giang ra cửa khẩu Móng Cái. Trên xe ngoài ông c̣n một lái phụ và bà chủ hàng. Xe đang ngon trớn với tốc độ khoảng 80 km/giờ. Chợt lái phụ hét: "Có đứa con nít nhà ai đứng đón xe ḱa".
Ông nh́n theo ánh đèn pha dài ra phía trước nhưng chẳng thấy ǵ cả. Đột nhiên ngay trước đầu xe khoảng 5 mét, ông chợt thấy một đứa bé trần truồng đứng giữa đường. Bà chủ hàng thét hoảng: "Coi chừng con nít!". Ông đạp thắng sát sàn xe. Chiếc xe bị thắng đột ngột quay ngang rồi lộn hai ṿng.
Giây phút kinh hoàng trôi qua, ông chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm để quan sát xem đứa bé có bị chiếc xe cán trúng không. Không có đứa bé nào cả. Bà chủ lẫn anh phụ xế cũng thoát chết nhưng bị xây xát, máu me đầy người đă cùng ông dùng đèn pin rọi nát mặt đất, vẫn không thấy đứa bé nào cả.
Qua cánh tài xế dừng xe chia buồn, ông mới hay đoạn đường này có ngôi miếu của "cậu". Đến sáng bà chủ hàng kinh sợ bỏ tiền, nhờ người xây sửa ngôi miếu bằng cây đă mục thành ngôi miếu xi măng. Từ đó ông bắt chước cánh tài xế khác, cứ đến đoạn đường này là bóp c̣i "chào". Những chuyến hàng đi ngang miếu "cậu" nhằm ngày mùng 1 hoặc 15 âm lịch, ông đều dừng xe đốt nén nhang van vái "cậu" độ tŕ tay lái.
Đoạn đường kinh hoàng thứ hai đối với cánh tài xế Nam Bắc là cung đường cũ qua đèo Hải Vân. Cung đường dài 25 km này có hơn 42 ngôi miếu. Theo anh Dũng cư dân địa phương cho biết: "Con số 42 là bề nỗi. Nếu tính luôn những ngôi miếu đă mục nát tự hủy th́ có hơn 60 cái. Một số miếu không c̣n tồn tại nhưng người ta vẫn cứ thắp nhang dưới các gốc cây ven đường".
Mỗi ngôi miếu ở đây đều gắn liền đến "sự tích" của ít nhất 10 vụ tai nạn giao thông thảm khốc. Ngôi miếu ở cung đường cuối trước đi lên đỉnh đèo, là nơi xảy ra vụ đổ xe vận tải hành khách, làm chết 50 người vào năm 1998. Chiếc xe chở hành khách từ thành phố đi Hà Nội đang rặn ga ḅ chậm răi lên đỉnh đèo. Bất ngờ từ phía ngược chiều nơi đầu khúc cua, một chiếc xe tải xuất hiện lao nhanh xuống. Chiếc xe tải đă mất thắng.
Ông Hải tài xế xe khách, cư ngụ ở phường I. quận 8. thành phố, chỉ c̣n biết nép xe ven mép thung lũng sâu hun hút, nhắm mắt chờ đợi thảm họa. Bị chiếc xe tải lao thẳng vào, chiếc xe khách văng ra khỏi thanh chắn bảo vệ và lao vụt xuống thung lũng. Không ai c̣n sống, chỉ mỗi người tài xế vướng người vào một nhánh cây nhô ra lưng chừng thung lũng.
Người tài xế ôm nhánh cây chịu trận suốt một ngày mới được những người cứu hộ t́m thấy. Người tài xế bị khủng hoảnh tinh thần, suốt ngày lơ ngơ như người đă mất hồn. Hơn mười năm sau ông mới quên được thảm họa, và trở lại b́nh thường nhưng vẫn chưa đủ can đảm đặt tay vào vô lăng.
Vụ tai nạn giao thông thảm khốc của đoàn từ thiện một phường thuộc quận Phú Nhuận, đi cứu trợ Nha Trang đă tạo cú sốc đối với dư luận cả nước vài tháng sau đó. Những người chứng kiến vụ tai nạn vẫn cứ bị ám ảnh măi. Sau này đoạn đường đó cứ liên tiếp xảy ra những vụ tai nạn chết người. Một số thân nhân của đoàn từ thiện bị tử vong, đă thuê thầy cúng đến hiện trường "trục hồn" người chết về thành phố, cho con cháu đốt nhang.
Chị N.Th. A. có mặt trong nhóm cúng trục hồn kể, khi đang cúng, một bà đi cùng đột nhiên ngă lăn ra đất, sùi bọt mép mắt trợn ngược. Sau đó bà ta ngồi dậy quơ chân múa tay, cho biết bà là một trong những vong hồn của đoàn từ thiện, bị chết oan đang nhập xác. Thầy cúng đọc kinh, chú liên tục để "mời" vong hồn theo lá phướn về thành phố. gần gũi gia đ́nh để được nhang khói. Vong hồn trong xác bà cốt trả lời: "Không về ở lại đây.. xô xe vui hơn".
Một số tài xế đường dài c̣n truyền miệng nhau nhiều chuyện ly kỳ, huyền bí xảy ra ở cung đường đó. Bây giờ ngay nơi xảy ra tai nạn, một ngôi miếu nhỏ mọc lên nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra tai nạn giao đến nỗi địa phương phải cắm một biển báo: "Nơi đây thường xảy ra tai nạn giao thông".
Ven đường xuyên Á, từ cầu vượt An Sương đến Củ Chi có 25 cái miếu mọc ven đường. Từ B́nh Chánh đến thị xă Tân An Long An có 16 cái miếu. Miếu ven đường nhiều nhất có lẽ thuộc đoạn đường từ Ngă ba Trung Lương đến Vĩnh Long. Cứ vài km là có một ngôi miếu. Khi giải tỏa mở rộng đường một số ngôi miếu đă bị phá bỏ dẹp đi, nhưng sau đó xảy ra liên tiếp những vụ tai nạn giao thông, thế là người ta lại xây mới.
Thông thường một ngôi miếu oan hồn "cất" theo kiểu nhà ngói ba gian, có diện tích khoảng 160 cm vuông. Nhưng tại Bến Lức có một ngôi miếu lớn hơn gấp 10 lần ngôi miếu thông thường. Một người dân sống lâu năm gần đó nhẩm tính theo trí nhớ cho biết, từ khoảng năm 75 trở lại đây có hơn 100 vụ tai nạn giao thông xảy tại nơi đây, trong đó có ít nhất 30 người tử vong.
Đặc biệt có vụ tai nạn xảy ra rất thảm khốc. Một người phụ nữ dắt ḅ đi trên đường. Do con ḅ thấy xe thường nhảy hoảng, bà ngoáy dây mũi ḅ vào bàn tay để tránh tuột tay khi ḅ nhảy. Bất ngờ một chiếc xe tải chạy ngang qua bóp kèn. Con ḅ hoảng hốt lồng lên chạy băng qua đường. Sợi dây mũi xiết chặt bàn tay người phụ nữ, kéo bà ngă xoăi xuống đất rồi lê ra giữa đường vào ngay đầu xe tải.
Tài xế bị bất ngờ đă đạp xiết thắng. Bánh xe bị thắng bắt dừng quay, nhưng quán tính đẩy toàn thân chiếc xe lao tới. V́ vậy thân h́nh người phụ nữ bị bánh xe nghiến dài dưới mặt đường hơn 10 mét. Từ đó cứ đến đoạn đường này, những tài xế hành nghề lâu năm đều giảm tốc độ, chạy xe hết sức thận trọng và không quên bóp ba tiếng c̣i "xin" oan hồn đừng xô tay lái. Tuy vậy thỉnh thoảng một vài chiếc xe gắn máy vẫn cứ đâm vào nhau.
Ngôi miếu này được xem là một trong những ngôi miếu xảy ra nhiều chuyện kỳ bí. V́ vậy rất nhiều người đến đây cúng vái, cầu xin mua may bán đắt lẫn xin…số đề. Nhiều người ở nhiều tín ngưỡng khác nhau đến cúng vái, riết rồi ngôi miếu trở thành nơi thờ đủ loại thần như Quan Công, Bà Chúa Ngũ hành, Thổ địa, Thần tài…chứ không c̣n thờ oan hồn như lúc ban đầu. Dần dà ngôi miếu này sắp được "nâng cấp" lên thành miểu.
CHUYỆN KỂ DỰNG TÓC GÁY
Nếu đề cập đến những ngôi miếu oan hồn, mà không đề cập đến những câu chuyện huyền hoặc gắn liền với ngôi miếu, xem như chưa biết ǵ về miếu. Bởi không có những mẫu chuyện mang tính tâm linh, th́ chẳng ai cất công xây miếu.
Bà Đặng Thị Mười 70 tuổi, cư ngụ ấp Long Ḥa, phường Thới Long, quận Ô Môn thành phố Cần Thơ kể: "Quốc lộ 91B, đoạn gần Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long thuộc quận Ô Môn, có một cái miếu oan hồn. Nhiều người đă từng bị những oan hồn này trêu ghẹo. Tôi cũng bị một lần". Rất nhiều ông lăo sống tại nơi đây, đều xác nhận những câu chuyện kể của bà Mười.
Họ cho biết cách nay khoảng 50 năm, một chiếc xe lam ba bánh chở khách đi chợ khuya, bị vướng trái nổ khiến 14 người trên xe đầu chết tan xác. Trong đó có hai người phụ nữ mang thai. Một tuần lễ sau những người đi bộ ra chợ khuya, ngang qua chỗ ấy thường bị ai đó xô té ngă trặc chân. Chính bà Mười trông thấy tận mắt hai lần, một người phụ nữ mặc đồ trắng tóc xơa dài, tay bế một đứa trẻ bay là là trên ngọn gió theo hướng gió thổi.
Bà Mười không sợ ma nên đứng quan sát rất lâu, cho đến khi bóng ma khuất sau ngọn cây. Bà Thế cùng chứng kiến vụ việc với bà Mười đă xác nhận: "Tôi vừa trông thấy đă hoảng hốt bỏ chạy thục mạng về nhà. Riêng bà Mười vẫn đứng lại xem".
Người ta đă hùn tiền cất cho 14 oan hồn người lớn và hai oan hồn sơ sinh, một ngôi miếu ven đường sơ sài để hồn ma không quấy nhiễu nữa. Bẵng một thời gian dài, cách nay ba năm một cô gái trẻ chạy xe đạp đến nơi đó bị một chiếc xe tải cán… đứt đầu. Gia đ́nh cô gái nhờ người lên đồng nhập xác. Cô gái nhập xác bà đồng cho biết, có lần cô và đám bạn gái đi ngang miếu, bảo với nhau rằng, chuyện ngôi miếu linh thiêng là chuyện tầm phơ tầm phào.
V́ vậy ma "mẹ bồng con" cư ngụ ngôi miếu, bắt cô phải thế chỗ. Cô phải bắt đủ chín người cà nam lẫn nữ mới được siêu thoát. Không biết chuyện lên đồng là có thật hay mê tín dị đoan, mà vài tháng sau một cô gái trẻ khác chạy xe đạp đến nơi đó, lại bị xe tải cán đứt hai người.
Liên tục trong 5 năm, tại nơi này xảy ra hàng chục vụ tai nạn, làm cả chục người bị thương và đă có tám người tử vong thảm khốc. Ông Lê Th. C. cư ngụ gần ngôi miếu khẳng định: "C̣n một mạng người nữa mới đủ số chín. Tôi luôn dặn ḍ con cháu, khi đi đến đoạn đường đó phải thận trọng hết mức. Nhiều người cho là chuyện dị đoan, mê tín nhưng hầu hết những người sống quanh khu vực này đều tin chuyện đó có thật".
Ông kể thêm rằng, mẹ cô gái bị đứt người làm hai khẳng định, đêm trước tai nạn cô gái có kể cho bà biết rằng, cô nằm mơ gặp cô gái đứt đầu rủ đi xô xe chơi. Nghe xong giấc mơ bà mẹ rầy con gái rằng, đó là chuyện nhảm nhí. V́ vậy ngay sau khi cô con gái bị tai nạn, bà đă thuê ngay thầy cùng "trục" vong linh nhưng thất bại.
Bà Cẩm H. 42 tuổi cư ngụ gần ngôi miếu khẳng định: "Tôi chạy xe trước con nhỏ bị cán đứt hai. Trước khi xảy ra tai nạn vài giây, tôi nghe thoảng trong gió tiếng một người phụ nữ hét: Xô nó té đi! Tôi ngoănh lại để xem ai nói, nhờ vậy tôi chứng kiến trọn vẹn cảnh tai nạn. Ngay khi đó tôi mất hồn mất vía phải xuống xe, ngồi xuống vạt cỏ một hồi lâu mới tỉnh hồn".
Ở ngay cung đường này, đă từng xảy ra một vụ tai nạn làm chết tại chỗ ba học sinh cấp 3, nhưng cách ngôi miếu khoảng một km, nên người dân không tính tai nạn đó là do các oan hồn ngôi miếu xô đấy. Ba cô cậu học sinh đi học ngoại khóa môn thể dục. Tan học cả ba gồm hai cậu một cô, chất nhau lên một chiếc xe dream chạy thật nhanh.
Họ vừa chạy vừa cười giỡn. Họ đâm thẳng vào bánh trái chiếc xe vận tải hành khách, chạy ngược chiều từ hướng Cần Thơ về Ngă ba Lộ Tẻ. Chiếc xe dream bị cuốn vào bánh xe vận tải hành khách. Cả ba cô cậu đập mặt vào ca pô xe khách, rồi cũng bị cuốn vào bánh xe. Mỗi thi thể bị ném văng xa cách nhau hơn mười mét. Tất cả đều biến dạng trông rất gớm ghiếc.
Các cơ quan chức năng điều tra đều nhận định chung về các vụ tai nạn xảy ra tại cung đường này: Đường hẹp do mép lề ven sông bị sạt lở, các nạn nhân hoặc người gây tai nạn phóng nhanh vượt ẩu, vi phạm luật giao thông. Để hạn chế tai nạn một biển báo "đoạn đường thường xảy ra tai nạn", được UB an toàn giao thông địa phương cắm ven đường. Tuy vậy thỉnh thoảng một vài người tham gia giao thông, vẫn cứ tạo điều kiện cho ngôi miếu oan hồn có thêm… "uy tín".
Chuyện hồn xô đẩy dẫn đến tai nạn giao thông chết người, có thể là chuyện hoang đường do một số người chứng kiến tai nạn bị ám ảnh. Tuy nhiên nếu tham gia giao thông đến đoạn đường có cất miếu oan hồn ven đường, bạn cần tin rằng nơi ấy đă từng xảy ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc.
Nếu không tin vào những chuyện huyền bí hoang đường, bạn cũng nên tin rằng đoạn đường ấy có vấn đề về độ an toàn như: Tán cây che khuất tầm nh́n, mặt đường có ổ gà, chiều ngang đường bị hẹp, mặt đường trơn… Đó là môi trường tạo nên những vụ tai nạn giao thông chết người. Hăy cẩn thận tay lái và giảm tốc độ khi trông thấy miếu oan hồn.
Một vài UB an toàn giao thông của vài địa phương, đă từng đặt những tấm bảng in h́nh ảnh, những thi thể kinh dị biến dạng v́ tai nạn giao thông, để nhắc nhở mọi người cẩn thận khi tham gia giao thông, ở những cung đường nguy hiểm thường xày ra tai nạn.
Tuy nhiên vẫn không hiệu quả bằng những ngôi miếu ven đường. Điều này tất cả những tay lái loại xe tải đường dài đều thuộc nằm ḷng.
Hồ Xuân Dung
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 511 of 2534: Đă gửi: 26 July 2008 lúc 11:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
SAU KHI CHẾT
Tác giả: Léon Denis Société Théosophique Adyar, 4 Square Rapp. Paris 7e
Từ lâu người ta đă nhận thấy rằng thế giới càng tiến trên đường vật chất th́ càng xa tôn giáo, tín ngưỡng càng giảm, và ḷng hoài nghi. Chủ nghĩa duy vật càng tăng, cho rằng đời người đến chết là hết, không biết c̣n đi tới đâu, tương lai mù mịt.
Theo lời tác giả th́ nhiều nhà học giả đă cố công t́m hiểu, và với một phương pháp mới "mà họ cũng gọi là khoa học, v́ căn cứ vào những sự có thực" là khoa thôi miên (magnétisme, hypnotisme), họ đă đi sâu vào bên kia cửa tử và biết được bí mật của Tạo Hóa, những luật thiên nhiên, mà họ gọi là giáo lư huyền bí (la doctrine secréte)
Những điều họ đă nhận thấy được tóm tắt như sau đây:
Đời sống chỉ là sự tiến triển, trong thời gian và không gian, c̣n tâm linh (esprit), nó là sự thật vĩnh cửu duy nhất. Như thế tôn giáo đích thực tức là đúng nghĩa tôn giáo, phải đứng trên và bao gồm tất cả các tính ngưỡng, v́ sự thật là cao hơn hết.
Thượng Đế là cha chung tất cả, chính là cái nguồn của sự sống. Thượng Đế là vô cùng tận mà không thể tượng h́nh, nghĩa là coi như tách ra khỏi thế giới, đứng riêng biệt ra ngoài. Điều tai hại của tín ngưỡng là tạo ra quan niệm một Thượng Đế có h́nh dáng như người, và đứng ngoài thế giới hữu h́nh. Theo quan niệm mới cao hơn, th́ Thượng Đế tự tại khắp nơi, hiện hữu trong tất cả mọi vật, là một đại thể bao gồm tất cả các thể vật.
Đại thể tối thượng không đứng ra ngoài thế giới, mà cũng không ở trong thế giới. Đó là trung tâm duy nhất ban bố và điều ḥa tất cả các mối tương quan, là nguyên tắc sự liên hệ và t́nh thương huynh đệ của tất cả vạn vật.
Vũ trụ không phải đột nhiên từ hư không tạo thành, theo như các tôn giáo, mà là một cơ thể vĩ đại và vĩnh viễn, vô thủy vô chung, bao giờ cũng có. Trong vũ trụ có nguyên tắc mảnh lực và động lực, lại có mục đích. Mọi vật biến hóa và tiến triển cho ṿng sinh tử bất tận, nhưng không có ǵ tiêu diệt.
Trong khi trên trời có những mặt trời tối đi và tắt, những thế giới già cỗi tan biến, th́ ở nơi khác có những hệ thống mới được tạo thành, với những ngôi sao sáng rực, những thế giới nẩy sinh.
Công cuộc vĩ đại diển tiến qua thời gian vô tận và không gian vô biên, do sự chung sức của vạn vật liên hệ với nhau và lợi ích cho nhau. Một nguyên tắc bất di bất dịch ngự trị trên công cuộc đó, là sự duy nhất của Vũ trụ, nó bao gồm và điều ḥa tất cả các hoạt động riêng rẽ, nhưng cùng một mục đích là sự toàn thiện.
Linh hồn không bao giờ tiêu diệt. Nó là nguyên tắc của đời sống nguyên do của cảm giác. Nó là một sức mạnh vô h́nh, ngự trị trên phủ tạng chúng ta và điều ḥa tất cả bộ phận trong người.
Mỗi đời sống của chúng ta trên thế gian là một giai đoạn của đời sống vĩnh cửu. Luật luân hồi đă được chứng minh trong giấc ngủ thôi miên, những người bị thôi miên đă nói ra những sự việc ghi sâu trong tiềm thức họ trong những đời đă qua, mà trí nhớ của con người lúc tỉnh không đạt tới được.
Mục đích tối cao là sự toàn thiện, con đường đi tới đó là sự tiến hóa. Số phận mỗi người trong chúng ta điều như nhau, không có người hơn kẻ kém, duy có con đường đi là khác nhau, người đi nhanh kẻ đi chậm. Do đó những linh hồn chỉ khác nhau về tŕnh độ tiến hóa.
Không có thiên đường cũng không có địa ngục. Không có quan ṭa nào buộc tội chúng ta, ngoài chính lương tri của ta. Khi lương tri thoát ly khỏi xác thân vật chất th́ trở thành sáng suốt, và luật nhân quả là tuyệt đối bất di bất dịch. Đời sống hiện tại là cái kết quả của những đời trước, khi linh hồn chuyển sang một xác thân khác, th́ đem theo hậu quả của cái hành vi tốt hay xấu đă làm qua.
Nhưng linh hồn không phải là bị trói buộc măi măi vào trái đất tối tăm này. Khi đă tiến hóa sẽ thăng lên những thế giới sáng hơn, rồi cứ như thế tiến măi để đi đến ḥa đồng với vũ trụ và thực hiện ư muốn của Thượng Đế.
Mỗi linh hồn là một tàn lửa của ḷ Tạo Hóa, nó mang trong ḿnh nó tất cả luật của thiên nhiên. Nó là một thế giới riêng biệt có đủ các tiềm năng. Nó càng tiến tới trong sạch th́ tiềm năng càng xuất hiện, rồi dần dần đạt tới mức độ tối cao.
Trong bước tiến linh hồn phải phấn đấu, phải hy sinh phải gian khổ. Gian khổ là cần thiết cho tiến hóa. Nó dạy cho chúng ta hiểu biết hơn, cho chúng ta biết đè nén những tham vọng, cho chúng ta biết yêu thương người khác. Tất cả đau khổ trên đời chung sức lại để đưa chúng ta đến chổ toàn thiện.
Xem đấy th́ cái chết không đáng sợ, nó chỉ là một sự chuyển tiếp một sự đổi mới, v́ thực ra không có ai chết, mà là một sự thay đổi h́nh thức bên ngoài, mà nguyên tắc của sự sống là linh hồn vẫn tồn tại măi măi, không bao giờ mất. Nó giữ được tất cả bản năng của nó, và tất cả những đức tính nó đă bồi đắp được trải qua nhiều đời liên tiếp. Đó là kho tàng quư giá mà chúng ta có thể đem theo để hữu ích cho ta trong đời sắp tới.
Trên đây là tóm lược những điều mà các học giả đă nhận thấy nhờ phương pháp thôi miên.
Các học giả bắt đầu để ư t́m hiểu các hiện tượng huyền bí từ hơn trăm năm: Hoa kỳ 1848, Anh 1869, Pháp 1887, rồi Ư, Tây Ban Nha. Đại hội tâm linh thế giới năm 1889 và 1900 đă đồng thanh xác định sự tin tưởng vào những nguyên tắc và sự việc như sau.
- Có Thượng Đế là sự sáng suốt tối thượng, là nguyên nhân của vạn vật.
- Trên nhiều thế giới có đời sống.
- Linh hồn bất diệt, những đời sống của xác thân nối tiếp nhau trên địa cầu, và nhiều tinh cầu khác trong không gian.
- Sự giao tiếp bằng thôi miên qua trung gian của con đồng (médium) với các tâm linh đă chứng tỏ rằng hồn người ta vẫn c̣n tồn tại.
- T́nh trạng sướng hay khổ của đời sống thế gian, tùy thuộc vào những hành vi quá khứ, đức tính và tŕnh độ tiến hóa của linh hồn.
- Linh hồn tiến hóa vô cùng.
- Sự liên hệ và t́nh huynh đệ có luôn luôn trong vũ trụ.
Những con đồng làm trung gian để tiếp xúc với các tâm linh trong thế giới vô h́nh, là những người nhậy cảm, dễ cảm ứng với cơi vô h́nh.
Thầy thôi miên dùng quyền lực khiến cho hồn vía con đồng thoát ra khỏi xác, như thế một tâm linh là một linh hồn đă thoát xác, có thể điều khiển cơ thể con đồng và nhờ đó tiếp xúc được với trần gian.
Có khi con đồng chỉ bị cánh tay dường như tê đi và bị một sức mạnh vô h́nh đưa đẩy, viết ra thành chữ như tại Việt Nam xưa kia vẫn có, là những người phụ bút Thánh, cầm bút bằng gỗ viết chữ lên mâm đồng.
Huyền bí học bắt buộc phải có nhiều khôn ngoan và kiên nhẫn. Trong đám đông vô h́nh vây quanh chúng ta, những linh hồn cao thượng th́ ít, họ thường ở những nơi thanh nhẹ, chỉ xuất hiện khi nào cần giúp đở cho sự tăng tiến của chúng ta và chỉ giao tiếp với những người có tâm ư trong sạch.
C̣n đại đa số cũng như ở cỏi trần là những linh hồn thấp kém, c̣n thiết tha đến vật chất, nên quanh quẩn gần đám người trong đời sống thể xác. Họ ảnh hưởng đến những người tâm hồn yếu ớt, có khi thúc đẩy người nầy làm những sự dại dột. Cho nên cần phải rất dè dặt trong việc tiếp xúc với thế giới vô h́nh.
Các nhà học giả đă nhận thấy rằng mỗi người chúng ta đều có ba phần:
1- Xác thân: là cái vỏ vật chất tạm thời, bỏ lại khi chết như một cái áo cũ rách.
2- Vía: (périsprit) là cái vỏ dịch thể, mắt phàm không thấy được, nó theo linh hồn trên đường tiến hóa và cũng thanh lọc như hồn. Nó là một thể thanh nhẹ như éther, có h́nh dáng của thể xác bao bọc lấy linh hồn, nó như là sợi dây liên lạc giữa xác với hồn.
Thể xác của ta theo Phật học là thân tứ đại: đất, nước, lửa, gió luôn luôn đổi mới, do các chất đem vào cơ thể và bài tiết ra. Nhờ có vía ta mới giữ được tính chất vững bền, từ trẻ đến già xác thân có thay đổi mà ta vẫn là ta, nó tựa như cái khuôn mà thể xác đóng vào.
3- Linh hồn: là tính chất thông minh, trung tâm sức mạnh nguồn gốc của lương tri và bản tính.
Ba phần ấy: vật chất, dịch thể và thông minh hợp lại thành đời sống, là căn bản tạo nên vũ trụ. Mỗi người là một tiểu vũ trụ, cũng đủ khả năng và định luật của đại vũ trụ.
Vậy nếu chúng ta hiểu hoàn toàn được chính ḿnh, th́ cũng hiểu được những luật cao cả của vũ trụ. Những nhà học giả đă cố t́m hiểu, nhưng vẫn chưa hiểu được hoàn toàn con người. Linh hồn thoát ra khỏi thể xác vật chất và khoác cái vỏ thanh nhẹ, đó là tâm linh (esprit), tính chất dịch thể, h́nh dáng người nhưng không lệ thuộc vào những sự câu thúc trần gian, không trông thấy được, không đụng chạm được.
Tâm linh là một người đă ĺa khỏi xác thịt và đi vào không gian, rồi sẽ lại sinh ra ở một đời vật chất khác, bắt đầu lại cuộc tranh đấu để sinh tồn, cuộc tranh đấu cần thiết cho sự tiến hóa. Những điều tŕnh bày, theo lời tác giả, không phải là do sự tưởng tượng hoặc suy luận hoặc đoán phỏng, mà chính là do những phiên tiếp xúc rất nhiều với các tâm linh.
Sau đây là những trạng thái từ khi bước qua cửa tử.
Những cảm giác trước và ngay sau khi tắt nghỉ rất là phức tạp, và tùy theo tính t́nh đức hạnh và tŕnh độ của tâm linh. Cảm giác càng nặng nề và sự ĺa bỏ càng dai dẳng, khi những sợi dây ràng buộc vía với xác thân càng mạnh và càng nhiều.
Tức là những người c̣n luyến tiếc đời nhiều, từ trước chỉ biết hưởng thụ vật chất, và những người tội lỗi thấm nhuần nhiều trược khí. Nhiều người c̣n tưởng vẫn tiếp tục đời sống xác thân rất lâu sau khi chết, vẫn giữ thói quen cũ và cảm giác như khi c̣n sống.
Cũng có những tâm linh thấp kém, thấy ḿnh ở trong đêm tối dày đặc, hoàn toàn cô đơn sợ hăi vô cùng. Những tội phạm luôn luôn bị dày ṿ bởi h́nh ảnh những nạn nhân của họ.
Những người thiếu đức tin cho rằng chết là hết, đến giờ lâm chung rất là sợ hăi, cố bám một cách tuyệt vọng vào sự sống nó ĺa xa dần, họ tưởng như là bị rơi vào vực thẳm.
C̣n những người đă làm xong phận sự, đă phấn đấu và gian khổ nhiều, ḷng không c̣n tha thiết đến trần tục và tin tưởng ở tương lai, th́ cái chết là giải thoát, sự ĺa bỏ rất nhanh chóng nhẹ nhàng như một giấc ngủ êm ái, tiếp theo là bừng tỉnh khoan khoái.
Dần dần một ánh sáng tràn ngập, không chói như ánh sáng mặt trời, mà là ánh sáng dịu dàng tràn lan khắp cả, thắm nhuần vào tâm linh khiến cho có cảm giác vui mừng sung sướng.
Rồi tách ra khỏi những người khóc lóc quanh xác chết, thấy ḿnh bay bổng lên cao, gặp những người thân thuộc xưa kia đến chào đón. Từ đấy tâm linh sẽ bay lên những tầng trên tùy theo tŕnh độ thanh khiết. Lo âu đă hết hoan lạc bắt đầu.
Đa số là những người không có tội nặng nhưng cũng không có đức cao, lúc đầu ở trong t́nh trạng sợ hăi, lại vẫn c̣n đau khổ và khóc lóc với những người thân trong đời đă qua. Lâu dần những tâm linh khác đến khuyên nhủ, khiến cho trút bỏ những dây ràng buộc với trần gian và thăng lên nơi sáng sủa hơn.
Thường thường hồn ĺa xác bớt đau khổ hơn sau một thời gian dài bệnh hoạn. Những cái chết đột ngột, mạnh bạo, xẩy ra trong khi cơ thể đương đầy sinh lực, làm cho hồn đau đớn như bị xé ra và ở trong t́nh trạng động loạn kéo dài.
Những người tự sát có những cảm giác khủng khiếp, trong nhiều năm họ c̣n cảm thấy nỗi thống khổ trong giờ chót, và thất vọng sợ hăi khi nhận ra rằng họ chỉ đổi khổ năo nọ, lấy khổ năo kia gay gắt hơn nhiều.
Những linh hồn được xếp đặt trong không gian, theo một định luật rất đơn giản. Vía càng thanh nhẹ th́ khi ĺa khỏi xác thân càng nhanh chóng, và sẽ bay lên tầng càng cao, nơi có những vía khác cũng thanh nhẹ như ḿnh..
Có thể so sánh những tâm linh trên các tầng trời, như những quả bóng thổi phồng bằng chất khí nặng nhẹ khác nhau, bay lên độ cao khác nhau. Tâm linh không phải ở yên một chỗ, tự do di chuyển và có thể tiến cao hơn được.
C̣n những tâm linh nặng trược th́ phải ở những tầng thấp kém. Như thế mỗi tâm linh tự xét thưởng phạt lấy ḿnh, là quan ṭa của chính ḿnh. Khi đă ĺa khỏi cái vỏ vật chất, th́ tự nhiên sáng suốt, kiểm điểm lại hành vi của ḿnh, cân nhắc việc thiện việc ác, đó là giờ phút cực kỳ đau khổ.
Tŕnh độ thanh khiết vị trí trong không gian, là kết quả những tiến bộ và quyết định phẩm giá của tâm linh. Đó là bản án không thể sai lầm không thể cưỡng lại. Không có ṭa án không có xét xử, chỉ là cái luật bất di bất dịch tự động thi hành.
Tất cả những hành vi và ư nghĩ đều phản chiếu vào một tấm gương, và tự động ghi khắc vào cái vơ dịch thể của chúng ta như là một cuốn sổ. Trong thời sống th́ cuốn sổ ấy đóng v́ thân xác vật chất nặng trược, nhưng khi chết th́ sổ ấy dần dần mở ra.
Vậy nên tâm linh khi thoát xác, mang trong ḿnh nó thiên đường hoặc địa ngục. Kẻ làm điều ác tưởng rằng không ai biết việc ḿnh làm, nhưng lúc nầy bao nhiêu điều ác đều bày lộ ra.
Người sống c̣n có việc làm, việc học, giấc ngủ, làm cho khuây khỏa, người chết không c̣n những ưu điểm ấy nữa, h́nh ảnh quá khứ luôn luôn bày ra trước mặt. Ḷng ăn năn cay đắng không ngừng khiến cho những tâm linh ấy mong sớm trở lại thế gian, để chịu đau khổ để chuộc lại quá khứ.
Tâm linh tiến hóa cao có một đời sống rất hoạt động, song không mệt nhọc. Không có vấn đề không gian, ư muốn đến đâu là đến tức th́. Những tâm linh ấy rất thanh nhẹ, đến độ những tâm linh thấp kém không thể trông thấy. Trông, nghe, cảm không c̣n phải bằng bộ phận vật chất như chúng ta, nhưng trực tiếp v́ thế họ sáng suốt hơn chúng ta nhiều.
Tâm linh tiến hóa cao không c̣n nhu cầu vật chất, cũng không c̣n phiền năo. Trái lại tâm linh thấp vẫn c̣n mang theo những thói quen, nhu cầu, vẫn thiết tha vật chất, v́ không lên cao được, họ chia xẻ cuộc đời với người sống, lẫn lộn vào công việc và thú vui của những người này. Những tham vọng luôn luôn thức tỉnh, càng bị kích thích v́ tiếp xúc với người sống, mà không thỏa măn được đau khổ càng nhiều.
Linh hồn đạo đức sau khi đă thắng được tham vọng, đă ĺa bỏ xác thân tàn phế, cái xác thân đă từng quá đau khổ lẫn vinh quang, nay bay lên không gian vô tận. Do một sức mạnh vô h́nh thúc đẩy, nó bay qua những vùng mà mọi vật đều ḥa dịu và rực rỡ, có cảm giác nhẹ nhàng sung sướng, trần gian không có lời nào tả được. Không c̣n là cái thân nặng nề như ngục tù tối tăm, nay là cái thân dịch thể hoàn toàn tự do không ǵ trở ngại.
Tuy nhiên những tâm linh này cũng sẽ đầu thai trở lại thân h́nh xác thịt, hoặc ở thế giới này hoặc ở thế giới khác để tiến, tiến măi. Trên những thế giới cao hơn, đời sống sẽ lâu dài hơn và sung sướng hơn, không có những nhu cầu vật chất như ở đây.
Đến khi tâm linh đă trăi qua đời sống trên các tầng cao, th́ sẽ thoát khỏi luân hồi, bấy giờ là đời sống yên tỉnh trong sạch, vĩnh cửu đoạn tuyệt phiền năo. Rồi tiến lên măi, lên măi đến thượng đỉnh. Chỉ có những tâm linh tiến hóa cao tột bực mới chịu nổi ánh sáng mănh liệt của Thượng Đế.
Muốn được thăng lên những tầng cao, th́ trước hết phải ĺa bỏ những tham vọng thèm thuồng, phải đạt được những đức tính dịu dàng nhẫn nại, tin tưởng, phải chịu khổ không phàn nàn, khóc trong thầm lặng, coi nhẹ của cải và lạc thú giả tạm của thế gian, đặt hết tâm tư vào việc thiện.
Phải chịu đau đớn thiếu thốn, nhục nhằn cô đơn phiền muộn, phải chịu ngậm đắng nuốt cay. V́ chỉ có cái khổ nó mới làm nẩy nở sức mạnh hùng dũng của linh hồn, nó rèn đúc linh hồn để phấn đấu để được thanh khiết, để thăng tiến lên đời sống cực lạc.
Hăy trả lại trái đất tất cả những ǵ thuộc trái đất, hăy hướng lên những kho tàng vĩnh cửu, hăy làm tṛn phận sự, dù có phải hy sinh phải chết. Hăy ban ra t́nh thương, t́nh thương vô cùng tận. Đó là gieo mầm cho lạc thú tương lai.
Hết
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 512 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 12:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
Tác Giả : Bác Sĩ Brian L. Weiss.
Dịch Giả: Thích Tâm Quang.
Câu Chuyện Thật Của Một Bác Sĩ Chuyên Khoa Tâm Thần, Một Bệnh Nhân Trẻ Của Ông, và Cách Chữa Trị Tiền Kiếp Đă Thay Đổi hẳn Đời Sống của Cả Hai.
Lời người dịch: Thời đại ngày nay là thời đại khoa học, nhưng có thể nói chính xác hơn là thời đại khoa học vật chất, c̣n khoa học tinh thần th́ có lẽ mới chỉ là những bước đi chập chững. Từ thượng cổ người ta đă suy nghĩ và t́m hiểu xem có tiền kiếp và luân hồi không, nhưng cho tới nay hầu như chưa có câu trả lời "khoa học".
Những ư niệm, khái niệm, ư tưởng về điều đó vẫn là một vấn đề nhức nhối gây bán tín bán nghị Th́ đây, tác phẩm này đích thực là một công tŕnh khoa học dưới dạng thức văn học về tiền kiếp và luân hồi, một vấn đề xuyên suốt quá tŕnh triết học, tôn giáo trong lịch sử loài người.
Đúng như tác giả, Bác Sĩ Brian L. Weiss viết "loài người đă chống lại những thay đổi và không chấp nhận những ư tưởng mới". Quả thật là như vậỵ V́ đây là những vấn đề hết sức khó chứng minh một cách khoa học nhưng lại thật đơn giản trong khoa học tôn giáo đích thực. Bạn đọc hoàn toàn có thể tự do so sánh đối chiếu để t́m ra chân lư.
Bạn có thể tin rằng có nhiều tiền kiếp và nhiều lần luân hồi hay không, điều đó cũng chẳng khác câu chuyện của Galileo xưa kia. Dù sao trái đất vẫn cứ quay. V́ đây là chuyện khoa học nên nó được viết rất chân thật, giản dị, trong sáng song rất hấp dẫn v́ xen lẫn hiện tại, quá khứ, những suy tư quí báu của tác giả.
Tin chắc rằng bạn đọc sẽ rút ra được những kết luận bổ ích cho cuộc sống, và biết đâu nó cũng thay đổi hẳn cuộc sống của ḿnh. Tự biết khả năng c̣n nhiều hạn chế, nhưng với tấm ḷng nhiệt thành chúng tôi cố gắng hoàn thành dịch phẩm này, mong mang được ít nhiều lợi lạc cho người đọc.
LỜI TỰA:
Tôi biết mọi chuyện đều có lư dọ Có lẽ vào lúc một sự việc nào đó xẩy ra chúng ta không thấu hiểu hay biết nh́n xa trông rộng để nhận thức thấu đáo lư do đó, nhưng với thời gian và kiên nhẫn, nguyên nhân này sẽ được đưa ra ánh sáng.
Cũng như vậy với Catherine. Tôi gặp cô lần đầu vào năm 1980 khi cô hai mươi bẩy tuổi. Cô đến văn pḥng tôi để chữa bệnh trầm cảm, lên cơn sợ hăi, và ám ảnh sợ. Tuy cô đă có những triệu chứng này từ hồi c̣n thơ ấu, nhưng gần đây t́nh trạng càng ngày càng tồi tệ hơn. Hàng ngày cô cảm thấy tinh thần bị tê liệt và hoạt động kém. Cô sợ hăi và bị suy nhược.
Trái với sự chao đảo xẩy ra trong đời sống của cô vào lúc đó, đời sống của tôi trôi chẩy suôn sẻ. Tôi có gia đ́nh khá vững vàng, hai con nhỏ, và một sự nghiệp đang phát triển. Từ lúc đầu, đời sống của tôi dường như luôn luôn thăng tiến. Tôi lớn lên trong một gia đ́nh yêu thương. Thành công ở đại học đến với tôi dễ dàng, và ngay vào năm đại học.
Thứ hai tôi đă có quyết tâm trở thành một bác sĩ tâm thần học. Tôi được cấp bằng Phi Beta Kappa, Cấp II (Magna Cum Laude) tại Trường Đại Học Columbia ở Nữu Ước năm 1966. Rồi tôi vào Trường Đại Học Y Khoa Yale và nhận bằng Bác Sĩ Y khoa năm 1970.
Sau khi thực tập nội trú tại Trung Tâm Đại Học Y Khoa Nữu Ước Bellevue, tôi trở lại Đại Học Yale để hoàn tất chương tŕnh thực tập nội trú. Sau khi hoàn tất, tôi nhận một chức vụ của khoa tại Đại Học Pittsburg. Hai năm sau, tôi tham gia giảng dạy y khoa tại đại học Miami, trưởng ban dược lư trị liệu. Nơi đây tôi được nhà nước công nhận trong lănh vực tâm thần sinh học và lạm dụng vật chất.
Sau bốn năm ở trường Đại học tôi được đề bạt làm Trợ Lư Giáo Sư ngành Tâm thần tại trường Y khoa, và được bổ nhiệm làm Trưởng Khoa Tâm Thần tại một bênh viện lớn đă sát nhập với Trường Đại Học Miami.
Vào lúc này tôi đă công bố ba mươi bẩy tham luận khoa học và sách đề tài trong lĩnh vực của tôi. Nhiều năm nghiên cứu khắt khe đă rèn luyện tâm trí tôi suy nghĩ với tư cách khoa học gia và thầy thuốc, hướng tôi đi theo con đường bảo thủ hẹp ḥi trong nghề nghiệp của tôi.
Tôi không tin vào cái ǵ nếu không thể chứng minh được bằng phương pháp khoa học truyền thống. Tôi có ư thức về một số nghiên cứu trong khoa cận tâm lư được thực hiện tại các đại học lớn trong nước, nhưng những nghiên cứu này cũng không làm cho tôi chú ư.
Tất cả điều đó dường như quá cường điệu đối với tôi. Rồi tôi gặp Catherine. Trong mười tám tháng tôi đă sử dụng phương pháp trị liệu thông thường để giúp cô khắc phục những triệu chứng của cô. Khi thấy không có ǵ hiệu quả, tôi thử thôi miên.
Trong trạng thái mơ màng từng đợt, Catherine nhớ lại tiền kiếp chứng minh những nhân tố đă gây ra những triệu chứng cho cô. Cô cũng có thể hành động như cáp thông tin từ " thực thể tinh thần" tiến hóa cao và qua họ, cô đă cho thấy nhiều bí mật về đời sống và cái chết. Chỉ vài tháng ngắn ngủi, những triệu chứng của cô biến mất, và cô đă tiếp tục cuộc sống, hạnh phúc và an lạc hơn trước nhiều.
Không có ǵ trong học vấn và kinh nghiệm của tôi đă sửa soạn cho tôi về việc này. Tôi tuyệt đối ngỡ ngàng khi những biến chuyển này bộc lộ. Tôi không có lời giải thích khoa học nào về điều đă xẩy ra.
Tâm trí con người có quá nhiều cái vượt khỏi tầm nhận thức của chúng ta. Có lẽ do thôi miên, Catherine đă có thể tập trung vào phần tiềm thức chứa những kư ức thực sự về tiền kiếp hay có thể cô đă kết nối vào cái mà nhà phân tâm học Carl Jung gọi là tập hợp vô thức, nguồn gốc của năng lượng bao quanh chúng ta và chứa đựng những kư ức về toàn thể loài người.
Các khoa học gia đang bắt đầu t́m kiếm câu trả lời ấỵ Chúng ta, là một xă hội, đạt được nhiều cái do khám phá ra những bí mật của tâm trí, linh hồn và sự tiếp tục sau khi chết, và ảnh hưởng của những kinh nghiệm của tiền kiếp đối với cách ứng xử hiện tại của chúng ta. Rơ ràng, những sự phân nhánh là vô hạn, đặc biệt trong lĩnh vực y học, tâm thần học , thần học, và triết học.
Tuy nhiên sự nghiên cứu khoa học mạnh mẽ trong lĩnh vực này chỉ ở trong trứng nước. Đă có những tiến bộ lớn trong việc khám phá ra kiến thức này, nhưng tiến tŕnh lại chậm và vấp phải sự phản kháng của các khoa học gia cũng như của dân chúng.
Suốt ḍng lịch sử, loài người luôn chống lại sự thay đổi và không chấp nhận những ư kiến mới. Toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết lịch sử đầy những thí dụ. Khi Galileo khám phá ra những vệ tinh của Mộc Tinh, những nhà thiên văn học lúc đó đă từ chối, không chấp nhận và thâm chí không xem xét những vệ tinh này v́ sự hiện hữu của các vệ tinh này mâu thuẫn với niềm tin đă được chấp thuận của họ.
Vậy nên ngày nay các nhà tâm thần học và các bác sĩ chuyên khoa khác cũng từ chối xem xét và đánh giá chứng tích được thâu thập về sự sống sót sau khi thân xác chết và về những kư ức về tiền kiếp. Họ đă nhắm mắt.
Tác phẩm này là sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi vào tiến tŕnh nghiên cứu trong lĩnh vực cận tâm lư, nhất là ngành nghiên cứu những kinh nghiệm trước khi sinh và sau khi chết. Mỗi lời nói mà bạn đọc là sự thật. Tôi không thêm ǵ cả, và tôi chỉ bỏ những phần lặp đi lặp lạị Tôi đă thay đổi chút ít nhận dạng của Catherine để bảo đảm sự bảo mật.
Tôi đă mất bốn năm để viết về cái đă xẩy ra, bốn năm để có can đảm liều lĩnh trong nghề nghiệp tiết lộ những tin tức không truyền thống này. Đột nhiên một đêm trong khi tôi đang tắm, tôi cảm thấy như bị ép buộc phải viết ra những ǵ đă kinh qua. Tôi có một cảm giác mạnh là đă đến lúc tôi không nên giữ tin tức này lâu hơn nữa.
Những bài học mà tôi biết phải được chia sẻ với những người khác và không nên giữ riêng cho ḿnh. Kiến thức phát ra qua Catherine và nay phát qua tôị Tôi biết rằng không có hậu quả nào có thể xảy ra nếu tôi phải đương đầu có thể chứng tỏ là tàn phá bằng việc không chia sẻ kiến thức mà tôi có được về sự bất tử và ư nghĩa thực sự của cuộc sống.
Tôi vội vàng ra khỏi pḥng tắm, ngồi vào bàn với chồng băng thâu trong những buổi làm việc với Catherine. Vào lúc gần sáng, tôi nghĩ đến ông nội, người Hung ga ri của tôi đă chết khi tôi hăy c̣n là một thiếu niên. Bất cứ khi nào tôi nói với ông là tôi sợ liều lĩnh, ông cũng khuyến khích tôi một cách thương yêu bằng cách nhắc lại câu thành ngữ tiếng Anh ưa thích của ông : "địa ngục ǵ mà sợ", ông sẽ nóị "địa ngục ǵ mà sợ".
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 513 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 1:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG MỘT
Lần đầu tôi gặp Catherine, cô mặc một bộ đồ đỏ tươi và bồn chồn dở trang tạp chí để tại pḥng đợi của tôi. Rơ ràng là cô thở hỗn hển. Hai mươi phút trước đó, cô đi tới đi lui trong hành lang bên ngoài Khoa Tâm Thần, cố gắng thuyết phục ḿnh giữ đúng hẹn gặp tôi mà không bỏ đi.
Tôi ra pḥng đợi và chào cô, và chúng tôi bắt tay nhau. Tôi nhận thấy tay cô lạnh và ẩm ướt, xác nhận có sự lo âu. Thực ra sau hai tháng trời thu thập can đảm để làm hẹn gặp tôi mặc dù hai thầy thuốc tư vấn mà cô tin tưởng khuyên cô t́m sự giúp đỡ nơi tôi. Cuối cùng cô đă ở đây.
Catherine là một phụ nữ quyến rũ lạ thường, với mái tóc vàng hoe dài vừa phải và cặp mắt mầu nâu nhạt. Lúc đó, cô là một chuyên viên pḥng thí nghiệm tại bệnh viện mà tôi là Trưởng Khoa Tâm Thần, và cô kiếm thêm tiền bằng cách làm nghề mặc áo tắm.
Tôi bảo cô vào pḥng tôi, đi qua chiếc đi văng tới chiếc ghế da lớn. Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cái bàn bán nguyệt của tôi ngăn cách chúng tôi. Catherine ngả lưng trên ghế, im lặng không biết bắt đầu từ đâu. Tôi chờ đợi, muốn để cho cô khởi đầu, nhưng sau vài phút, tôi bắt đầu hỏi về quá khứ của cô.
Trong lần khám bệnh đầu, chúng tôi bắt đầu làm sáng tỏ cô là ai và tại sao cô đến t́m gặp tôi. Trả lời câu hỏi của tôi, Catherine cho biết câu chuyện về đời sống của cô. Cô là một đứa trẻ trung b́nh, sinh ra trong một gia đ́nh Cơ Đốc Giáo ôn ḥa tại một thành phố nhỏ ở Massachussetts. Người anh cô, sinh ra trước cô ba năm, rất khỏe mạnh, được hoàn toàn tự do mà cô th́ không được phép.
Em gái của cô là đứa con được cưng chiều nhất của cả bố me.. Khi cô bắt đầu nói về những triệu chứng của cô, cô trở nên căng thẳng và giao động nhiềụ Cô nói thật nhanh và ngả người về phía trước, tựa khuỷu tay lên bàn. Đời cô luôn luôn bị đè nặng bởi sợ hăi. Cô sợ nước, sợ bị nghẹn đến mức không thể nuốt nổi viên thuốc, sợ máy bay, sợ bóng tối, và cô rất hăi hùng về cái chết.
Trong thời gian vừa qua, sự sợ hăi của cô bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Để cảm thấy an toàn, cô thường ở pḥng nhỏ có lối đi trong căn hộ của cô. Cô phải mất hai hay ba giờ mới ngủ được. Khi ngủ, cô ngủ chập chờn không ngon giấc, chốc chốc lại thức. Những cơn ác mộng và những t́nh tiết mộng du gây tệ hại cho cô lúc c̣n nhỏ bắt đầu trở lại.
Khi sợ hăi và những triệu chứng ngày càng làm cô tê liệt, cô càng trở nên phiền muộn. Trong khi Catherine nói chuyện, tôi có thể cảm thấy cô đau khổ sâu xa đến nhường nào. Nhiều năm qua tôi đă giúp nhiều bệnh nhân như Catherine thoát khỏi những thống khổ của sợ hăi, và tôi cảm thấy tin tưởng cũng có thể giúp cô.
Chúng tôi quyết định đào sâu thời ấu thơ của cô t́m ra căn nguyên phát sinh các khó khăn của cô. Thường thường kiểu nh́n vào bên trong giúp làm nhẹ đi lo âu. Nếu cần thiết, và nếu cô có thể uống thuốc, tôi sẽ cho cô một số thuốc chống lo âu loại nhẹ để cô được thoải mái hơn.
Đó là cách chữa trị theo tiêu chuẩn sách vở cho các triệu chứng của Catherine, và tôi không bao giờ ngần ngại dùng thuốc an thần, hay thuốc chống suy nhược thần kinh, để chữa trị những chứng sợ hăi và lo âu nghiêm trọng và kinh niên. Bây giờ tôi ít khi dùng những thứ thuốc đó và chỉ dùng chúng tạm thời hay là không dùng nữa.
Không có thứ thuốc nào có thể trừ được tuyệt căn những triệu chứng ấy. Những kinh nghiệm của tôi với Catherine và với những người khác như cô đă chứng minh điều đó với tôi. Bây giờ tôi biết có thể có những phương thuốc không chỉ ngăn chặn hay bao trùm những triệu chứng.
Trong buổi chữa bệnh đầu tiên, tôi cố gắng đánh nhẹ vào thời thơ ấu của cô. V́ lạ lùng là Catherine chỉ nhớ được một số ít biến cố hồi thơ ấu, để tiến nhanh đến việc khắc phục sự ức chế này, tôi đă để tâm xem xét đến cách chữa trị bằng thôi miên.
Cô không thể nhớ tí ǵ đến những lần chấn thương đặc biệt nào trong lúc thơ ấu có thể giải thích được sự sợ hăi lan tràn trong đời cô. V́ cô gắng sức căng tâm trí ra để mà nhớ lại, những mảng kư ức riêng biệt đă xuất hiện.
Khi cô năm tuổi, cô đă kinh sợ khi một người nào đó đẩy cô từ cái cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô nói là ngay cả đến trước khi việc xẩy ra này, cô không bao giờ thấy thoải mái ở dưới nước. Khi Catherine mười một tuổi, mẹ cô bị suy nhược trầm trọng. Mẹ cô bỏ nhà một cách kỳ cục, đ̣i hỏi phải được khám bệnh bởi một bác sĩ tâm thần với sự điều trị bằng sốc điện.
Cuộc điều trị này đă khiến cho mẹ cô rất khó nhớ lại các sự việc. Kinh qua việc này với mẹ cô làm Catherine sợ hăi, nhưng, v́ mẹ cô đă đỡ nhiều và trở lại như xưa, Catherine nói, những nỗi sợ hăi của cô tiêu tan. Cha cô là một người rượu chè và đôi khi người anh Catherine phải t́m đến quán rượu địa phương để đưa ông về.
Cha cô càng ngày càng uống nhiều rượu dẫn đến đánh lộn thường xuyên. Mẹ cô, bà trở nên ủ rũ và thu ḿnh lại. Tuy nhiên Catherine thấy đó là mẫu h́nh gia đ́nh đă được chấp nhận. Mọi sự tốt hơn bên ngoài gia đ́nh. Cô có ḥ hẹn ở trường trung học và ḥa đồng dễ dàng với bạn bè, đa số bạn cô, cô biết họ đă nhiều năm. Tuy nhiên cô thấy thật khó mà tin người, nhất là những người ở ngoài nhóm bè bạn nhỏ nhoi của cô. Tôn giáo của cô th́ b́nh dị và không có vấn đề ǵ. Cô được nuôi dưỡng để tin vào hệ tư tưởng cách tu tập của Cơ Đốc Giáo truyền thống, và thực sự là chẳng bao giờ cô hoài nghi về tính đứng đắn và giá trị của Cơ Đốc Giáo. Cô tin rằng nếu bạn là một người Cơ Đốc ngoan đạo và sống đúng bằng cách tuân theo niềm tin và nghi thức, sẽ được lên thiên đàng, nếu không bạn sẽ phải chuộc tội hay địa ngục.
Thượng Đế Cha và Con Ngài ban ra những quyết định cuối cùng. Sau này tôi được biết Catherine không tin luân hồi; thật ra cô biết rất ít về khái niệm này, tuy thỉnh thoảng cô có đọc về những người Ấn Giáo. Luân hồi là một ư niệm trái ngược với sự dạy dỗ và hiểu biết của cô. Cô không bao giờ đọc sách về siêu h́nh hay huyền bí, v́ chẳng bao giờ để ư đến chuyện ấy.
Cô vững tin vào tín ngưỡng của ḿnh. Sau trung học, cô hoàn tất hai năm kỹ thuật, trở thành một chuyên viên pḥng thí nghiệm. Có một nghề nghiệp và được khuyến khích bởi người anh, cô chuyển về Tampa, giành được chỗ làm ở Miami tại một bệnh viện huấn nghiệp lớn liên kết với Trường Đại Học Y Khoa Miami.
Cô dọn về Miami vào mùa xuân năm 1974 lúc 21 tuổi. Hóa ra là đời sống của Catherine ở Miami lại khó khăn hơn ở một thành phố nhỏ, tuy nhiên cô thấy sung sướng là đă thoát khỏi những vấn đề gia đ́nh.
Trong năm đầu tại Miami, Catherine gặp Stuart. Là người Do Thái hai con, Stuart khác hẳn với những người mà cô từng ḥ hẹn. Anh là một thầy thuốc thành công, mạnh mẽ và năng động. Có một quá tŕnh bí mật không cưỡng nổi giữa hai người, nhưng cuộc ngoại t́nh của họ không vững chắc và đầy băo tố. Một cái ǵ đó ở anh đă lôi cuốn t́nh cảm mạnh mẽ của cô và đă tỉnh thức cô, như thể cô bị anh mê hoặc.
Vào lúc Catherine bắt đầu chữa bệnh, cuộc t́nh với Stuart đă được sáu năm, vẫn c̣n rất mặn nồng nếu không phải là sâu đậm. Catherine không thể cưỡng lại nổi Stuart tuy anh đối xử với cô không đẹp, và cô tức giận về những dối trá, không giữ lời hứa và những mánh khóe của anh.
Một vài tháng trước khi gặp tôi để khám bệnh, Catherine cần phải giải phẫu dây thanh v́ một khối u lành. Cô đă rất lo lắng trước khi giải phẫu và hết sức kinh hoàng lúc tỉnh lại tại pḥng hồi sức. Phải mất nhiều giờ ban trợ y mới làm cho cô b́nh tĩnh lại được.
Sau khi b́nh phục ở bệnh viện, cô bèn t́m đến Bác Sĩ Edward Poolẹ Bác sĩ Edward là một bác sĩ nhi khoa rất tốt bụng mà Catherine đă gặp trong khi làm việc tại bệnh viện. Hai người đều cảm thấy có ngay mối quan hệ và nảy nở t́nh bạn hữu thân thiết. Catherine bầy tỏ hết với Bác sĩ Edward, cho biết về những sợ hăi, quan hệ với Stuart, và cô cảm thấy mất tự chủ trong cuộc sống.
Bác Sĩ Edward khăng khăng bảo cô gặp tôi, chỉ tôi chứ không bác sĩ tâm thần đồng nghiệp nào khác để chữa bệnh. Khi Edward điện thoại cho tôi để giới thiệu, ông giải thích, v́ lư do nào đó, ông nghĩ rằng chỉ có tôi mới có thể hiểu tường tận Catherine, dù cho các bác sĩ tâm thần khác cũng rất có tín nhiệm và là những bác sĩ chuyên khoa lành nghề.
Tuy nhiên Catherine không gọi tôi. Tám tuần lễ trôi qua. Là Viện Trưởng Khoa tâm thần, tôi rất bận với công việc nên đă quên bẵng cuộc điện đàm với Bác sĩ Edward. Sợ hăi và ám ảnh sợ hăi của Catherine trở nên tồi tệ. Bác Sĩ Frank Acker, trưởng Khu phẫu thuật, t́nh cờ biết Catherine từ nhiều năm, thường đùa vui với Catherine khi ông đến thăm pḥng thí nghiệm nơi Catherine làm việc.
Ông cảm thấy cô không vui và bị căng thẳng. Mấy lần ông muốn nói với cô song lại lưỡng lự. Một buổi chiều, Frank lái xe trên một con đường nhỏ để ra khỏi bệnh viện để tới nơi thuyết tŕnh. Trên đường đi, ông thấy Catherine lái xe về nhà ở gần bệnh viện, ông vội vẫy cô vào lề đường, rồi nói to với Catherine, " Tôi muốn Catherine gặp ngay Bác Sĩ Weiss", ông la lên qua kính xe "Không được chậm trễ".
Mặc dầu các bác sĩ giải phẫu thường thôi thúc hành động, nhưng ngay cả Frank cũng ngạc nhiên là làm sao ông đă nhấn mạnh đến nhường nào.
Những cơn sợ hăi và lo âu ngày càng hay xảy ra và kéo dài. Cô bắt đầu bị hai cơn ác mộng tái phát. Một ác mộng về một cây cầu sập khi cô đang lái xe qua cầu. Xe cô đâm xuống nước, cô bị mắc kẹt và chết đuối. Trong ác mộng thứ hai, cô bị kẹt ở trong căn pḥng quét hắc ín đen, trượt chân và vấp vào mọi thứ, không thể t́m thấy lối ra.
Cuối cùng cô đă đến gặp tôi. Lần chữa trị đầu tiên, tôi không h́nh dung là cuộc sống của tôi sắp đảo ngược mà người thiếu nữ sợ sệt bối rối ngồi bên kia bàn tôi, là chất xúc tác, và tôi không bao giờ c̣n như trước nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 514 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 2:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG HAI
Mười tám tháng tâm lư liệu pháp trôi qua, Catherine đến gặp tôi một hay hai lần một tuần. Cô là một bệnh nhân tốt, bộc lộ, có khả năng hiểu thấu, và muốn hồi phục nhanh chóng.
Trong thời gian này, chúng tôi khảo sát tỉ mỉ cảm nghĩ, tư tưởng và những giấc mộng của cô. Công nhận kiểu ứng xử hay tái diễn giúp cô có sự sáng suốt và hiểu biết. Cô đă nhớ được nhiều chi tiết có ư nghĩa về quá khứ của cô, chẳng hạn như cha cô buôn bán đường biển thường vắng nhà và thỉnh thoảng rất hung tợn sau khi uống nhiều rượu.
Cô hiểu nhiều hơn về sự quan hệ của cô với Stuart, và cô bộc lộ cơn giận một cách thích đáng. Tôi cảm thấy lẽ ra cô khá hơn nhiều. Bệnh nhân hầu như thường khá hơn khi họ nhớ lại được những ảnh hưởng không mấy vui trong quá khứ, khi họ biết công nhận và sửa chữa kiểu ứng xử vụng dại và khi họ phát triển sự sáng suốt và xem những trở ngại của họ bằng cách nh́n rộng răi hơn và khách quan hơn.
Nhưng Catherine không mấy khá lên. Lo âu và kinh sợ vẫn hành hạ cô. Cơn ác mộng mạnh tái diễn tiếp tục và cô vẫn sợ bóng tối, sợ nước, và sợ bị vây. Giấc ngủ của cô vẫn chập chờn và không khoan khoái. Tim cô hồi hộp. Cô tiếp tục từ chối bất cứ thuốc ǵ, sợ bị nghẹn khi uống các viên thuốc.
Tôi cảm thấy như thể tôi tiến tới trước một bức tường, và dù tôi đă làm ǵ đi nữa, bức tường ấy vẫn quá cao và chẳng ai trong chúng tôi có thể vượt qua được bức tường ấy. Mặc dầu cảm nghĩ thất vọng, một cảm giác quyết tâm đến với tôi. Dù thế nào, tôi vẫn giúp Catherine.
Và rồi một sự việc lạ lùng xẩy ra. Mặc dù cô rất sợ hăi phải đi máy bay và phải trấn an ḿnh bằng vài ly rượu trong khi đi máy bay, nhưng Catherine đă cùng Stuart đi dự một cuộc hội thảo y khoa vào mùa xuân năm 1982. Tại đây, cô thúc Stuart đi xem cuộc triển lăm Ai Cập tại viện bảo tàng nghệ thuật ở Chicago, nơi đây cô và Stuart đi theo một đoàn du khách.
Catherine luôn luôn quan tâm đến những đồ tạo tác cổ của Ai Cập và những phiên bản di vật ở thời kỳ đó. Cô không phải là một học giả và cũng chưa bao giờ nghiên cứu lịch sử thời kỳ ấy, nhưng không biết làm sao những vật ấy dường như rất quen thuộc với cô.
Khi người hướng dẫn miêu tả một số đồ tạo tác trong cuộc triển lăm, cô thấy người này nói sai, và cô đă sửa lại cho đúng, và cô nói đúng ! Người hướng dẫn ngạc nhiên và Catherine cũng ngỡ ngàng. Làm sao cô đă biết những thứ như vậy. Tại sao cô cảm thấy ḿnh rất đúng, chắc chắn và đến nỗi sửa sai cho người hướng dẫn trước công chúng?
Có lẽ những kư ức bị lăng quên từ khi c̣n thơ ấu được nhớ lại. Vào lần khám bệnh kế tiếp, cô kể cho tôi nghe điều đă xẩy ra. Mấy tháng trước đây, tôi có đề nghị dùng thôi miên, nhưng Catherine sợ hăi và từ chối. V́ việc xảy ra tại cuộc triển lăm Ai Cập, bây giờ cô miễn cưỡng đồng ư.
Thôi miên là một công cụ tuyệt hảo để giúp bệnh nhân nhớ lại những việc xẩy ra đă bị quên lăng từ lâụ Không có ǵ là huyền bí cả về việc này. Đó chỉ là một trạng thái yhái tập trung. Theo chỉ dẫn của một nhà thôi miên thành thạo, cơ thể bệnh nhân thư giăn, làm cho kư ức nhậy bén.
Tôi đă thôi miên cả trăm bệnh nhân và thấy rằng thôi miên giúp giảm bớt lo âu, loại bỏ được chứng sợ hăi, thay đổi được thói quen xấu, và giúp nhớ được dữ kiện bị kiềm nén. Có dịp tôi đă thành công trong việc giúp bệnh nhân hồi nhớ lại thời kỳ thơ ấu, thậm chí lúc họ mới hai hay ba tuổi, do đó gợi lại được những kư ức về những chấn thương bị lăng quên từ lâu đă ngăn trở cuộc sống của họ.
Tôi tin thôi miên có thể giúp Catherine. Tôi bảo Catherine nằm trên giường khám bệnh, mắt nhắm hờ và đầu nằm trên một gối nhỏ. Đầu tiên chúng tôi tập trung vào hơi thở của cô. Với mỗi lần thở ra cô giải thoát sự căng thẳng và lo âu chất chứa và mỗi lần hít thở cô thư giăn nhiều hơn nữa.
Sau ít phút như vậy tôi bảo cô hăy tưởng tượng là cơ bắp từ từ thư giăn, bắt đầu từ cơ bắp mặt và hàm, rồi đến cổ và vai, cánh tay, lưng, cơ bắp bụng, và sau cùng là chân. Cô cảm thấy toàn ngày càng ch́m sâu vào giường khám bệnh.
Rồi tôi bảo cô hăy mường tượng một ánh sáng trắng chói lọi ở đỉnh đầu cô, trong thân thể cô. Sau đó khi tôi đem ánh sáng lan tỏa xuống cơ thễ cô, nó hoàn toàn làm giăn mọi cơ bắp, mọi dây thần kinh, mọi cơ quan tất cả thân thể, đưa cô vào một trạng thái thư giăn sâu xa và an b́nh.
Cô cảm thấy ngày càng buồn ngủ hơn, an ổn và b́nh tĩnh càng nhiều hơn. Cuối cùng theo chỉ dẫn của tôi, ánh sáng tràn ngập cơ thể cô cũng như bao quanh cô. Tôi đếm ngược chậm răi từ số mười đến số một. Với mỗi số, cô tiến sâu vào mức độ thư giăn. Cô ch́m vào trạng thái hôn mê.
Cô có thể tập trung vào giọng nói của tôi và loại trừ tất cả những tiếng ồn ào chung quanh. Khi đếm tới số một, cô đă ở t́nh trạng bị thôi miên trung b́nh. Toàn bộ tiến tŕnh mất khoảng hai mươi phút. Sau một lúc tôi bắt đầu hướng cô về quá khứ, yêu cầu cô nhớ lại những kư ức về thời thơ ấu. Cô có thể nói chuyện và trả lời câu hỏi của tôi trong khi duy tŕ ở mức độ thôi miên sâu.
Cô nhớ lại sự việc khó chịu tại pḥng nha sĩ khi cô sáu tuổi. Cô nhớ lại rơ ràng sự việc hăi hùng lúc 5 tuổi khị cô bị đẩy từ cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô bị tắc và nghẹn, bị uống nước, và trong khi nói chuyện về việc này, cô bắt đầu như nghẹn tại pḥng khám của tôi.
Tôi nói với cô việc này đă qua rồi, và cô đă ra khỏi nước. Ngừng tắc nghẹn và cô thở lại b́nh thường. Cô vẫn ở trong trạng thái hôn mê sâu. Trong loạt sự việc khi phát hiện cô có kư ức bị kiềm chế sâu và đau đớn, tôi đă quên hẳn không xem xét đến việc cô có thể có liên quan tới kiến thức về đồ tạo tác Ai Cập.
Nhưng ít nhất cô đă hiểu thêm về quá khứ của ḿnh. Cô đă nhớ được vài biến cố kinh hoàng, và tôi trông đợi một sự cải thiện đáng kể về những triệu chứng của cô. Bất chấp sự hiểu biết này, tuần lễ sau đó cô thông báo là, những triệu chứng vẫn như cũ và có phần nặng hơn. Tôi rất ngạc nhiên. Tôi không thể hiểu nổi có điều ǵ không đúng. Chúng tôi đă phát hiện quá đủ những lư do về sự sợ hăi bị nghẹn, sợ nước, sợ bóng tối, và sợ mắc bẫy, vậy mà sự sợ hăi nhức nhối và các triêu chứng, sự lo âu bất trị soát vẫn hoành hành lúc cô thức.
Những cơn ác mộng vẫn khủng khiếp như trước. Tôi quyết định đưa cô về quá khứ xa hơn nữa. Trong khi thôi miên, Catherine đă th́ thầm nói chậm và thong thả. Do đó tôi đă có thể viết xuống từng lời cô và đă trích dẫn trực tiếp những lời cô nói. Hiện tượng thiếu mạch lạc rơ ràng những lúc nghỉ trong câu nói, không phải là xóa bỏ hay là sự biên tập của tôị Tuy nhiên một số dữ kiện lặp đi lặp lại không được bao gồm ở đây.
Từ từ, tôi đưa Catherine quay về lúc hai tuổi, nhưng cô không nhớ được những kư ức có ư nghĩa. Tôi chỉ dẫn minh bạch và dứt khoát:" Hăy quay về lúc các triệu chứng phát sinh". Tôi hoàn toàn không chuẩn bị ǵ cho việc sắp xẩy ra.
"Tôi nh́n thấy những bậc thềm mầu trắng dẫn đến một ṭa nhà, một ṭa nhà trắng lớn với những cột nhà to, phía trước trống trảị Không có ô cửa nào. Tôi mặc y phục dài...cái áo choàng làm bằng vật liệu thô sơ. Tóc tôi bện lại, mớ tóc màu vàng hoe dài"
Tôi bối rối. Tôi không biết chắc điều đang xẩy ra. Tôi hỏi cô, đó là năm nào và tên là ǵ.
"Aronda... tôi mười tám tuổi. Tôi thấy một cái chợ trước ṭa nhà. Có những cái thúng..họ mang những cái thúng trên vai. Chúng tôi sống ở một thung lũng Không có nước. Năm 1863 trước Công Nguyên. Vùng này trơ trụi, nóng và có cát. Có một cái giếng không có sông. Nước từ núi chảy vào thung lũng".
Sau khi kể lại nhiều chi tiết về địa h́nh, tôi bảo cô hăy đi tới một vài năm xa hơn và nói cho tôi biết cô thấy ǵ.
"Có cây cối và một con đường đá. Tôi thấy bếp lửa để nấu nướng. Tóc tôi màu vàng hoe. Tôi đang mặc y phục dài màu nâu sồng và đi dép. Tôi 25 tuổi. Tôi có một đứa con gái, tên nó là Cleatra... Cleatra là Rachel (Rachel hiện là cháu của cô, cô và Rachel quan hệ với nhau rất mật thiết). Trời rất nóng."
Tôi giật ḿnh. Dạ dày tôi thắt lại, và căn pḥng lạnh lẽo. Những tưởng tượng và hồi tưởng của cô dường như quá rơ ràng. Cô không một chút do dự ǵ. Tên, ngày tháng, quần áo, cây cối, tất cả được thấy một cách sống động ! Cái ǵ đă diễn ra nơi đấy Làm sao một đứa con của cô có bây giờ lại là cháu cô?
Tôi bối rối hơn. Tôi đă khám nghiệm cả ngàn người bệnh tâm thần, rất nhiều người bằng thôi miên, nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này ngay cả trong mơ. Tôi chỉ dẫn cho cô đi xa hơn lúc cô chết.
Tôi không biết chắc cách phỏng vấn người nào đó đang ở trong một hiện tượng kỳ quặc rơ ràng ( hay kư ức) , nhưng tôi đang t́m kiếm những biến cố gây chấn thương có thể nằm dưới những sợ hăi và triệu chứng hiện nay. Những biến cố lúc gần chết có thể đặc biệt gây chấn thương. H́nh như, lũ lụt hay sóng thủy triều đang tàn phá làng này.
"Có những cơn sóng lớn quật đổ cây cối. Không có chỗ nào mà chạy đến. Trời lạnh; nước lạnh. Tôi phải cứu con tôi, nhưng tôi không thể .. chỉ ôm con thật chặt. Tôi chết đuối. Nước làm tôi bị nghẹt. Tôi không thể thở được, không thể nuốt được... nước mặn. Con tôi bị giằng ra khỏi tay tôi".
Catherine hổn hển và khó thở. Đột nhiên cơ thể của cô thư giăn hoàn toàn, và hơi thở của cô trở nên sâu và điều ḥa.
"Tôi nh́n thấy những đám mây.. Con tôi nay với tôị Và những người khác trong làng tôi. Tôi thấy anh tôi"
Cô đang nghỉ ngơi; cuộc sống này đă chấm dứt. Cô vẫn ở trong hôn mê sâu. Tôi ngỡ ngàng! Những kiếp trước? Luân hồỉ. Năng lực trí lực trị liệu bảo tôi rằng cô không bịa đặt ra chuyện này, cô không dựng chuyện. Tư tưởng, cách tŕnh bày của cô, sự chú ư đến những chi tiết đặc biệt, tất cả đều khác với trạng thái có ư thức của cô.
Toàn bộ cung bậc khả năng chẩn bệnh tâm thần lóe lên trong tâm trí tôi, nhưng trạng thái tâm thần và cấu trúc cá tính của cô không giải thích nổi những khám phá này. Loạn tinh thần? Không, cô chưa bao giờ có chứng cớ nào bị rối loạn suy nghĩ hay nhận thức. Cô chưa bao giờ mắc chứng ảo giác về việc nghe tiếng, về thị giác hay ảo ảnh khi thức, hay bất cứ loại nào khác trong các giai đoạn thần kinh.
Cô không ảo tưởng cũng chẳng xa rời thực tế. Cô không có nhiều cá tính hay chứng tâm thần phân lập. Chỉ có một Catherine, và tâm thức của cô hoàn toàn biết việc này. Cô không mỵ dân và không có khuynh hướng xa lánh hay chống xă hội. Cô cũng không phải là một nữ tài tử. Cô không dùng ma túy và cũng không ăn các chất gây ảo giác. Cô rất ít uống rượu. Cô không có bệnh thần kinh hay tâm lư có thể giải thích kinh nghiệm trực tiếp rơ ràng này trong khi thôi miên.
Có những kư ức nào đó nhưng từ đâu. Phản ứng chính của tôi là tôi đă vấp phải cái ǵ đó mà tôi biết rất ít luân hồi và những kư ức tiền kiếp. Tôi nhủ thầm không phải là tâm trí được đào tạo một cách khoa học của tôi chống lại việc đó. Nhưng ở đây nó đang xẩy ra ngay trước mắt tôi. Tôi không thể giải thích nổi, mà cũng không thể phủ nhận sự thật của nó.
Tôi nói, "tiếp tục", một chút nản ḷng nhưng bị quyến rũ về cái đang xẩy ra.
"Cô c̣n nhớ ǵ nữa không?"
Cô nhớ lại một vài phần của hai kiếp khác.
"Tôi mặc y phục dài có dải áo đen, có một dải đen trên đầu tôi. Mái tóc đen của tôi đă ngả muối tiêu. Đó là năm 1756 sau công nguyên. Tôi là người Tây Ban Nha. Tên tôi là Louisa và tôi 56 tuổi. Tôi đang khiêu vũ, và những người khác cũng đang khiêu vũ. (ngừng lại lâu) Tôi bị ốm. tôi bị sốt, cảm lạnh. Rất nhiều người bị bệnh; nhiều người đang bị chết.. Các bác sĩ không biết là do nước."
Tôi bảo cô nói về thời gian sau đó.
"Tôi b́nh phục, nhưng đầu tôi vẫn đau; mắt tôi và đầu tôi vẫn đau do sốt , do nước... Nhiều người chết.
V́ Catherine công nhận cháu gái của cô trong một tiền kiếp, tôi bốc đồng hỏi cô có bao giờ tôi hiện diện trong kiếp sống nào của cô không. Tôi ṭ ṃ về vai tṛ của tôi nếu có trong những kư ức của cô. Cô trả lời ngay, trái với sự chậm răi và thong thả trước đây.
"Ông là thầy giáo của tôi, ngồi trên bục giảng. Ông dạy chúng tôi từ những cuốn sách. Ông già và tóc muối tiêu. Ông mặc áo dài có viền vàng...Tên ông là Diogenes. Ông dạy chúng tôi kư hiệu, tam giác. Ông rất khôn ngoan, nhưng tôi không hiểu. Đó là năm 1568 trước Công nguyên. (Xấp xỉ một ngh́n hai trăm năm trước nhà triết học khuyến nho nổi tiếng Diogenes. Tên này không phải là một cái tên khác thường)
Buổi đầu tiên kết thúc. Những buổi lạ lùng hơn c̣n tiếp theo. Sau khi Catherine đi khỏi, và tiếp theo vài ngày sau đó, tôi cân nhắc những chi tiết về thôi miên lùi về dĩ văng. Cân nhắc là điều tự nhiên với tôi. Có ngay cả đến trong việc điều trị "b́nh thường" ít chi tiết xuất hiện thoát khỏi sự phân tích tinh thần ám ảnh của tôi, và buổi điều trị này hầu như không "b́nh thường".
Hơn nữa, tôi rất hoài nghi về đời sống sau khi chết, luân hồi, xuất hồn, và những hiện tượng liên quan. Tóm lại, phần lo gic của tôi suy gẫm đây có thể là sự tưởng tượng của cô tạ Thực tế là tôi không thể chứng minh bất cứ những khẳng định hay sự mường tượng của cô ta. Nhưng tôi cũng nhận thức một tư tưởng ít nhiều xúc động hơn và sâu xa hơn tuy không mấy rơ ràng.
Giữ tâm trí mở rộng, tư tưởng nói, khoa học thực sự bắt đầu bằng khảo sát. "Những kư ức" của cô có thể không phải là quái dị hay tưởng tượng. Có thể là một thứ ǵ đó nhiều hơn được trông thấy hay bất cứ giác quan nào khác. Hăy giữ tâm mở rộng. Hăy t́m nhiều dữ kiện hơn.
Tôi có một tư tưởng dai dẳng khác. Có nên để Catherine bắt đầu lo âu và sợ hăi, bị quá kinh hoàng lại trải qua thôi miên nữa không? Tôi quyết định không gọi cô. Hăy để cho cô hiểu thấu kinh nghiệm này đi đă. Tôi sẽ đợi cô đến tuần lễ tới.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 515 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 3:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG BA
Một tuần lễ sau, Catherine nhún nhẩy đến pḥng mạch tôi cho buổi thôi miên kế tiếp. Mở đầu rất đẹp, cô trông rạng rỡ hơn bao giờ hết. Cô sung sướng báo rằng nỗi sợ suốt đời bị chết đuối đă biến mất. Nỗi sợ bị nghẹn cũng được giảm bớt một chút. Giấc ngủ của cô không c̣n bị gián đoạn bởi ác mộng về cầu gẫy.
Mặc dù cô nhớ những chi tiết về tiền kiếp, nhưng cô chưa thực sự thâm nhập vào thực chất.Quan niệm về tiền kiếp và luân hồi xa lạ với vũ trụ học của cô, và tuy những kư ức quá sống động, quang cảnh, âm thanh và mùi vị quá rơ ràng, sự nhận biết rằng cô đă ở đấy quá mạnh và trực tiếp, cô cảm thấy hẳn là cô đă thực sự ở đấy. Cô không nghi ngờ ǵ cả; việc xẩy ra quá mạnh. Tuy cô quan tâm đến việc làm sao điều đó lại thích hợp với sự nuôi nấng và niềm tin của cô.
Trong tuần đó tôi có xem lại sách giáo khoa từ một khóa dạy về sự so sánh các tôn giáo trong năm đại học đầu tiên của tôi tại Columbia. Quả thật có nhắc đến luân hồi trong Cựu và Tân Ước. Vào năm 325 sau Công nguyên, Hoàng Đế La Mă Constantine Đại Đế, cùng với người mẹ, Hellena, đă hủy bỏ những trang đề cập đến luân hồi ghi trong Tân Ước.
Đại Hội Đồng Đệ Nhị tại Constantinople họp vào năm 553 sau Công nguyên, xác nhận việc làm này, và tuyên bố quan niệm luân hồi là một dị giáo. Hiển nhiên, họ nghĩ quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của Giáo Hội bởi nó cho con người quá nhiều thời gian để t́m sự cứu rỗi. Tuy vậy những dẫn chứng gốc đă là điểm đó, các cha cố trong Giáo Hội cổ đă chấp nhận quan niệm về luân hồi.
Những người Ngộ Đạo thời cổ. Clement ở Alexandria, Origen, Saint Jerome, và nhiều khác nữa tin rằng họ đă sống trước đó và sẽ sống lại nữa.
Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào luân hồi. Thực tế là tôi chưa bao giờ bỏ nhiều th́ giờ suy nghĩ về việc này. Mặc dù việc dạy dỗ về tôn giáo trước đây của tôi có dạy tôi một loại hiện hữu mập mờ nào đó về "linh hồn" sau khi chết, nhưng quan niệm ấy không thuyết phục được tôi.
Tôi là anh cả của bốn anh em, tất cả cách nhau ba tuổi. Chúng tôi là thành viên của Giáo đường bảo thủ Do Thái ở Red Bank, một thành phố nhỏ gần bờ biển ở New Jersey. Tôi là người ḥa giải và chính khách trong gia đ́nh. Cha chúng tôi dính líu vào tôn giáo nhiều hơn tất cả chúng tôi. Ông theo tôn giáo rất nghiêm túc, ông theo tôn giáo suốt cả đời. Thành tích học hành của các con là niềm vui lớn lao nhất trong đời ông.
Ông dễ bị bối rối trước sự bất ḥa trong gia đ́nh và rút lui để tôi ḥa giải. Mặc dầu hóa ra điều đó là sự rèn luyện tuyệt vời cho một sự nghiệp trong tâm thần học, nhưng hồi tưởng lại thời thơ ấu của tôi nặng nề hơn và trách nhiệm nhiều hơn tôi muốn. Tôi nổi bật từ đó là một thanh niên nghiêm nghị, là người quen chịu nhiều trách nhiệm.
Mẹ tôi luôn luôn biểu lộ ḷng thương yêu của bà. Không có giới hạn nào ngăn cản bà. Một người b́nh dị hơn cha tôi, bà lợi dụng tội lỗi, nỗi thống khổ, sự bối rối cùng cực, và sự đồng cảm chung với các con làm công cụ lôi kéo, hoàn toàn không đắn đo. Tuy nhiên bà ít khi buồn rầu, và lúc nào chúng tôi cũng có thể tin chắc vào t́nh yêu và sự hỗ trợ của bà.
Cha tôi có một công việc tốt, nhiếp ảnh công nghệ, và tuy chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm, nhưng tiền bạc rất eo hẹp. Người em út của tôi, Peter, sinh ra năm tôi 9 tuổi. Sáu người gia đ́nh chúng tôi chia nhau trong hai căn pḥng ngủ nhỏ. Sinh hoạt trong căn pḥng nhỏ này thật là bề bộn và ồn ào, và tôi t́m nơi nương tựa ở sách vở.
Tôi không ngừng đọc sách khi không chơi bóng chày hay bóng rổ, những đam mê khác ở thời thơ ấu của tôi. Tôi biết học hành là con đường ra khỏi thành phổ nhỏ này, yên tâm với ư nghĩ đó, tôi luôn luôn đứng thứ nhất nh́ trong lớp học.
Vào lúc tôi được học bổng toàn phần của trường Đại Học Columbia, tôi là một thanh niên đứng đắn và chăm chỉ. Thành công đại học đến với tôi dễ dàng. Tôi theo ngành hóa học và tốt nghiệp với bằng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sĩ tâm thần v́ lĩnh vực này gồm cả sự quan tâm đến khoa học và thích thú của tôi với nhiều công việc về tâm con người.
Hơn nữa, nghề y khoa sẽ cho phép tôi bày tỏ sự quan tâm và ḷng trắc ẩn với người khác. Trong lúc đó tôi gặp Carole trong kỳ nghỉ hè tại khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi đang là hầu bàn phụ và Carole là chiêu đăi viên. Chúng tôi thư từ, hẹn ḥ, yêu nhau, đính hôn vào năm tôi ở năm thứ hai trường Đại Học Columbia. Nàng vừa thông minh vừa đẹp. Mọi sự dường như rơi vào đúng chỗ.
Một số ít có người trẻ tuổi lo về đời sống và cái chết và đời sống sau cái chết, nhất là khi mọi thứ trôi chẩy êm đềm, và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi đang trở thành một khoa học gia, và đang học cách suy nghĩ theo kiểu cách lô gic, vô tư, "chứng minh đúng".
Hơn nữa, trường y khoa và khu nội trú ở Đại Học Yale đă kết tinh phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về năo bộ hóa chất và vai tṛ của thần kinh truyền tin là những thông tin hóa chất trong mô năo.
Tôi theo ngành mới về tâm sinh lư, ngành hợp nhất những lư thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống mới về hóa chất bộ năo. Tôi viết nhiều bài về khoa học, thuyết giảng tại các hội nghị địa phương và toàn quốc, và trở thành một người năng động thành công trong lĩnh vực của tôi.
Tôi hơi bị ám ảnh, sôi nổi và cứng rắn, nhưng đó là những điểm hữu ích cho một thầy thuốc. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để chữa trị cho bất cứ ai bước vào pḥng mạch tôi để chữa bệnh.
Rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1863 trước Công nguyên. Hay đó là một cách nào khác? Và nơi đây tôi chứng kiến cô lại vui vẻ hơn bao giờ hết. Tôi lại lo là Catherine sẽ tiếp tục sợ hăi. Tuy nhiên, cô nhiệt t́nh sửa soạn cho buổi thôi miên và đắm ch́m ngay.
"Tôi đang ném những ṿng hoa xuống nước. Đó là một nghi lễ. Tóc tôi vàng hoe và được tết lại. Tôi mặc một bộ nâu viền vàng, và mang dép. Một người nào đó chết, một người nào đó trong Hoàng gia...người mẹ. Tôi là một người hầu trong Hoàng Gia, và tôi giúp làm đồ ăn. Chúng tôi để thi hài vào trong nước muối ba mươi ngày. Người ta làm khô và các bộ phận được lấy đi. Tôi có thể ngửi thấy, mùi của các xác."
Tự nhiên cô quay về kiếp sống Aronda, nhưng ở một giai đoạn khác, vào lúc nhiệm vụ của Aronda là phải sửa soạn các xác sau khi họ chết. Catherine tiếp tục,
"trong một ṭa nhà riêng biệt, tôi có thể nh́n thấy những xác chết. Chúng tôi bọc những xác ấy lại. Linh hồn đi qua. Hăy mang theo đồ đạc và hăy sửa soạn cho kiếp tới, một kiếp vĩ đại hơn".
Cô đang bầy tỏ cái dường như giống quan niệm về cái chết và kiếp mới sau khi chết của một người Ai Cập, khác hẳn bất cứ niềm tin nào của chúng ta. Theo tôn giáo đó, bạn có thể mang theo đồ đạc. Cô rời bỏ kiếp sống này và yên nghỉ. Cô ngưng lại vài phút trước khi đi vào thời cổ đại.
"Tôi thấy đá đóng băng, lủng lẳng trong hầm ... vách đá.... " Cô mơ hồ miêu tả một chỗ tối tăm khổ sở, và trông cô lúc này rất khó chịu. Sau này cô đă miêu tả cô nh́n thấy chính cô.
"Tôi rất xấu xí, bẩn thỉu và hôi hám".
Cô rời bỏ đi vào một thời gian khác.
"Có một số ṭa nhà và một cái xe ngựa có bánh xe bằng đá. Tóc tôi nâu hoe với một cái nơ trên tóc. Xe ngựa chất đầy rơm. Tôi rất sung sướng. Cha tôi ở đấy.. Ông ôm hôn tôi. Đó là...đó là Edward (bác sĩ khoa nhi nài nỉ cô đến gặp tôi). Ông ấy là cha tôi. Chúng tôi sống trong một thung lũng có nhiều cây. Có những cây ô liu và cây vả trong sân.
Người ta viết trên giấy. Có những dấu vết buồn cười trên giấy, giống như chữ. Người ta viết cả ngày, làm thành một thư viện. Đó là năm 1536 trước Công nguyên. Đất đai cằn cỗi. Cha tôi tên là Perseus."
Năm không đúng lắm, nhưng tôi chắc chắn cô ở trong cùng một kiếp mà cô đă thuật lại trong buổi thôi miên tuần trước. Tôi bảo cô giữ kiếp này nhưng đi ngược thời gian.
"Cha tôi biết ông (nghĩa là tôi). Ông và cha tôi nói về mùa màng, luật lệ, và chính phủ. Cha tôi nói ông rất thông minh và tôi phải nghe lời ông".
Tôi đưa cô đi xa hơn nữa.
"Ông nằm trong một pḥng tối. Ông già và ốm đau. Trời lạnh .. Tôi cảm thấy trống rỗng ".
Cô tiếp tục đến lúc chết.
"Bây giờ tôi già và yếu đuối. Con gái tôi ở đấy, gần giường tôi. Chồng tôi đă chết. Chồng con gái tôi cũng ở đấy cùng với các con của chúng. Có nhiều người chung quanh".
Lần này cái chết của cô an b́nh. Cô đang trôi nổi. Trôi nổi? Việc này khiến tôi nhớ đến những sự nghiên cứu của Bác Sĩ Raymond Moody về kinh nghiệm của những người sắp chết. Những đối tượng của ông cũng nhớ đến sự trôi nổi, rồi lại nhập vào xác thân.
Trước đây mấy năm tôi đă có đọc cuốn sách của ông và bây giờ tôi quyết tâm sẽ đọc lại nữa. Tôi không biết Catherine có thể nhớ ǵ nữa sau khi chết, nhưng cô chỉ nói:
"Tôi đang bay lơ lửng"
Tôi đánh thức cô và chấm dứt buổi thôi miên. Với niềm mong muốn khát khao t́m bất cứ tài liệu khoa học nào đă được xuất bản về luân hồi, tôi bèn đi lùng tại những thư viện y khoa. Tôi đă nghiên cứu công tŕnh của Bác Sĩ Ian Stevenson, một vị giáo sư được kính nể về tâm thần học của Đại Học Virginia, người đă xuất bản nhiều tài liệu tâm thần học.
Bác Sĩ Ian Stevenson đă thu thập hơn hai ngàn trường hợp về trẻ em có những kư ức và kinh nghiệm kiểu luân hồi. Nhiều trường hợp biểu lộ ngoại ngữ, khả năng nói tiếng ngoại quốc mà chúng chưa bao giờ bộc lộ. Những báo cáo về các trường hợp của ông được hoàn tất rất cẩn thận, được nghiên cứu kỹ, và rất xuất sắc.
Tôi đă đọc bài cái nh́n khái quát khoa học tuyệt vời của Edhar Mitchell. Với sự quan tâm lớn lao, tôi khảo sát dữ kiện ESP (tri giác ngoại cảm) của Trường Đại Học Duke, và những bài viết của Giáo sư C.J. Ducasse tại Đại Học Brown, và tôi đă phân tích kỹ lưỡng những công tŕnh nghiên cứu của Bác Sĩ Martin Ebon, Bác sĩ Helen Wambach, Bác sĩ Gertrude Schmeidler, Bác sĩ Frederick Lenz, và Bác sĩ Edith Fiore. Càng đọc tôi càng muốn đọc thêm.
Tôi bắt đầu hiểu rằng dù cho tôi đă coi ḿnh là có học vấn về mọi phương diện của tâm trí, vốn học hành của tôi c̣n rất hạn chế. Nhiều thư viện tràn đầy những nghiên cứu t́m hiểu và tài liệu nhưng ít người biết đến nó. Nhiều các cuộc nghiên cứu đă được tiến hành, kiểm tra và tái tạo bởi những nhà trị liệu và khoa học tiếng tăm.
Liệu tất cả những người đó có bị lầm lẫn hay bị lừa gạt không? Bằng chứng dường như hỗ trợ quá mạnh, tuy tôi vẫn nghi ngờ. Quá mạnh hay không, tôi thấy rất khó tin.
Catherine và tôi cả hai, bằng những con đường riêng, đă bị ảnh hưởng sâu xa bởi thí nghiệm này. Catherine đang khá hơn về cảm tính, và tôi đang mở rộng tầm nhận thức của tôi. Catherine đă bị hành hạ nhiều năm bởi sợ hăi, và cuối cùng đang cảm thấy đỡ. Dù đó là những kư ức có thật hay những tưởng tượng sống động, tôi đă t́m ra được cách để giúp cô, và bây giờ tôi sẽ không ngưng lại.
Trong một lúc ngắn ngủi, tôi nghĩ về tất cả điều đó khi Catherine trôi dạt vào hôn mê lúc bắt đầu buổi thôi miên tiếp theo. Trước khi đi vào thôi miên, cô có nói đến một giấc mơ về một tṛ chơi trên những bậc thềm đá cổ, một tṛ chơi với một bàn cờ có lỗ. Giấc mơ dường như thật sống động nơi cô.
Bấy giờ tôi bảo cô hăy quay trở về vượt qua giới hạn không gian và thời gian và xem có phải giấc mơ có nguồn gốc ở một hiện thân trước không.
"Tôi nh́n thấy những bậc thềm dẫn đến một tháp canh .. trông ra núi và biển. Tôi là một đứa con trai ... Tóc tôi vàng hoe ... mái tóc lạ. Quần áo của tôi ngắn ngủn, màu nâu và trắng, làm bằng da thú. Một số người đứng trên đỉnh tháp, đang nh́n ra.. những lính gác. Họ rất bẩn thỉu. Họ chơi tṛ chơi giống như chơi cờ, nhưng không phải. Bàn cờ tṛn không phải vuông. Họ chơi bằng những con cờ giống như dao găm sắc cắm vào lỗ. Những con cờ này có đầu thú. Địa hạt Kirustan (đánh vần theo âm) Địa hạt? Từ Ḥa Lan, vào khoảng 1473.
Tôi hỏi tên chỗ cô ở và liệu cô có thể đến xem hay nghe một năm.
"Bây giờ tôi đang ở một hải cảng đất trải dài tới biển. Có một pháo đài .. và nước. Tôi thấy một cài cḥi .. mẹ tôi đang nấu ăn trong cái nồi bằng đất sét. Tên tôi là Johan".
Cô tiến tới cái chết của cô. Vào lúc này trong buổi thôi miên, tôi vẫn t́m kiếm một biến cố chấn thương mạnh có thể gây ra hay giải thích những triệu chứng trong đời sống hiện tại của cô. Dù cho những tưởng tượng rơ ràng là khác thường này, và tôi không chắc chắn về điều đó, cái mà cô tin hay nghĩ ngợi vẫn có thể nằm dưới những triệu chứng.
Tóm lại, tôi đă thấy nhiều người bị chấn thương bởi những giấc mơ của họ. Một số người không thể nhớ được liệu một chấn thương hồi thơ ấu thực sự đă xẩy ra hay xuất hiện trong giấc mơ, tuy kư ức về chấn thương này vẫn ám ảnh đời sống họ lúc trưởng thành. Điều mà tôi chưa hoàn toàn cảm nhận là những ảnh hưởng gây tác hại hoành hành ngày lại ngày, cũng như những lời công kích cay nghiệt của cha mẹ, có thể gây chấn thương tâm lư nhiều hơn chỉ một biến cố chấn thương. Những ảnh hưởng tai hại này là do chúng pha trộn vào bối cảnh sống hàng ngày của chúng ta, rất khó để nhớ lại và xua đuổi chúng.
Một đứa trẻ luôn luôn bị chỉ trích có thể mất nhiều ḷng tin tưởng và ḷng tự trọng như một người nhớ lại bị làm nhục vào một ngày đặc biệt hăi hùng nào đó. Một đứa trẻ ở trong một gia đ́nh nghèo khổ chỉ có ít thực phẩm cho mỗi ngày có thể bị cùng những vấn đề tâm lư như một đứa trẻ đă trải qua nhiều ngày gần bị chết đói.
Tôi hiểu ngay rằng những ảnh hưởng tiêu cực hoành hành ngày lại ngày phải được nh́n nhận và phải được giải quyết bằng nhiều lưu ư như đối với một biến cố chấn thương nặng. Catherine bắt đầu nói.
"Có những chiếc thuyền, giống như ca nô, sơn sáng chói. Vùng Providence. Chúng tôi có súng ống, giáo, ná bắn đá, cung và tên, nhưng lớn hơn. Có những mái chèo lớn lạ lùng trên những con thuyền...ai cũng phải chèo thuyền. Chúng tôi có thể bị lạc, trời tối. Không có đèn đuốc. Tôi sợ hăi. Có những con thuyền khác cũng như chúng tôi (h́nh như của phe tấn công). Tôi sợ những con thú. Chúng tôi ngủ trên bộ da thú bẩn thỉu. Chúng tôi đang đi thám sát.
Giầy của tôi trông thật ngộ nghĩnh, giống như bao tải.. buộc dây ở mắt cá ...bằng da thú. (ngừng lâu) Mặt tôi nóng lên v́ lửa. Người của tôi đang giết những người kia, nhưng tôi không. Tôi không muốn giết. Con dao ở trong tay tôi"
Đột nhiên cô bắt đầu nói ríu rít và thở hỗn hển. Cô thuật lại là một kẻ địch đă chộp được cô từ phía sau cô, nắm lấy cổ và cắt họng cô bằng con dao của nó. Cô nh́n thấy mặt kẻ thù trước khi chết. Đó là Stuart (Bác sĩ, người t́nh nhân Do Thái của cô). Trông nó khác nhưng cô biết là chính nó. Johan chết vào lúc 21 tuổi.
Tiếp đến cô thấy cô bay lơ lửng trên xác chết của ḿnh, quan sát quang cảnh phía dưới. Cô dạt lên tận mây, cảm thấy lúng túng và bối rối. Một lúc sau cô cảm thấy bị kéo vào một không gian "nhỏ bé ấm áp". Cô sắp sửa được sinh ra.
Tiếp đến cô thấy cô bay lơ lửng trên xác chết của ḿnh, quan sát quang cảnh phía dưới. Cô dạt lên tận mây, cảm thấy lúng túng và bối rối. Một lúc sau cô cảm thấy bị kéo vào một không gian "nhỏ bé ấm áp". Cô sắp sửa được sinh ra.
"Người nào đó đang ẵm tôi", cô th́ thầm nhè nhẹ và mơ màng, "người nào đó giúp tôi ra đời. Bà đang mặc bộ đồ xanh với một cái tạp dề trắng. Bà đội một cái mũ trắng, gấp lại ở các góc. Căn pḥng có những cửa sổ ngộ nghĩnh, nhiều ngăn. Ṭa nhà bằng đá. Mẹ tôi có mớ tóc đen dài. Bà muốn ẵm tôi. Bà mặc một cái áo ngủ vải thô thật nực cười... Áo đó sẽ bị hư khi chà sát lên nó. Thật dễ chịu ở dưới ánh mặt trời và lại được ấm áp ... Đúng là ... đúng là cùng người mẹ của tôi hiện nay!".
Trong những buổi thôi miên trước, tôi bảo cô quan sát kỹ những người đáng chú ư trong những kiếp sống ấy để xem liệu cô có thể nhận ra họ là những người đáng chú ư trong kiếp sống hiện nay của Catherine không. Theo đa số các tác giả, các nhóm linh hồn hay cùng nhau luân hồn lại nhiều lần, giải quyết nghiệp của họ (thiếu nợ người khác và của chính ḿnh, những bài học phải học) trên khoảng thời gian của nhiều kiếp sống.
Trong hoài băo muốn hiểu biết màn kịch ngoạn mục lạ lùng đang được trải ra chưa được biết đến đối với phần c̣n lại của thế giới, trong pḥng mạch lặng lẽ với ánh sáng lờ mờ, tôi muốn kiểm tra lại kiến thức này. Tôi cảm thấy cần phải áp dụng phương pháp khoa học mà tôi đă sử dụng mạnh mẽ trên 15 năm qua trong việc nghiên cứu của tôi để đánh giá thông tin hết sức bất thường này nảy sinh từ miệng Catherine.
Trong những buổi thôi miên chính Catherine càng ngày càng trở nên tâm linh. Cô có trực giác về con người và các sự kiện đă chứng minh là đúng. Trong lúc thôi miên, cô bắt đầu đoán trước được những câu hỏi của tôi trước khi tôi có dịp hỏi những câu hỏi. Nhiều giấc mơ của cô có xu hướng biết trước hay tiên đoán.
Có lần, khi cha mẹ cô đến thăm cô, cha của cô đă bầy tỏ sự nghi ngờ khủng khiếp về việc đang xẩy ra. Để chứng minh cho ông đó là sự thực, cô đưa ông đến trường đua ngựa. Ở đó ngay trước mắt ông, cô đă đoán trúng ngựa nào thắng trong mỗi cuộc đua. Ông hết sức ngỡ ngàng.
Một lần cô biết chắc là đă chứng minh được điểm đó, cô đă đem tất cả tiền thắng trong cuộc đua cho người vô gia cư khổ sở đầu tiên cô gặp trên đường lúc ra khỏi trường đua. Cô trực giác cảm thấy quyền năng mới mà cô vừa đạt được không nên dùng để kiếm tiền. Đối với cô, những quyền năng này có ư nghĩa cao cả hơn nhiều. Cô nói với tôi kinh nghiệm này làm cho cô hơi sợ hăi, nhưng cô rất vui với tiến bộ cô đạt được và cô mong muốn tiếp tục lùi về dĩ văng.
Tôi vừa bị choáng váng vừa bị cuốn hút trước khả năng tâm linh của cô, nhất là t́nh tiết ở trường đua ngựa. Đó là chứng cớ hiển nhiên. Cô đă có vé trúng ở mỗi cuộc đua. Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào. Điều ǵ đó kỳ quặc đă xẩy ra trong mấy tuần lễ vừa qua, và tôi đă vật lộn để bảo vệ cách nh́n của tôi. Tôi không thể phủ nhận khả năng tâm linh của cô. Và nếu những khả năng này là thật và có thể đưa ra những chứng cớ hiển nhiên, th́ việc đọc lại những sự kiện ở tiền kiếp của cô cũng có thể là thật không?
Bây giờ cô trở lại về kiếp sống mà cô mới vừa sinh ra. Hóa thân này dường như gần đây hơn nhưng cô không nhận ra được năm nào. Tên cô là Elizabeth.
"Bây giờ tôi lớn hơn, có một anh và hai chị gái. Tôi nh́n thấy cái bàn ăn.. Cha tôi ở đấy...Ông là Edward (bác sĩ nhi khoa một lần nữa trở lại làm cha). Mẹ tôi và cha tôi lại đánh nhau. Thức ăn là khoai tây và đậu. Cha tôi giận dữ v́ đồ ăn nguội. Họ đánh nhau nhiều. Ông lúc nào cũng uống rượu... Ông đánh mẹ tôi (Giọng của Catherine sợ hăi và cô run lên rơ ràng). Ông đẩy những đứa con. Ông không giống ông như trước đây, không phải cùng một người. Tôi không thích ông. Tôi muốn ông đi đi" Cô nói như một đứa trẻ nói.
Câu hỏi của tôi trong buổi này khác hẳn câu mà tôi thường dùng trong việc trị liệu tâm lư thông thường. Tôi hành động như một hướng dẫn viên cho Catherine, cố gắng xem lại toàn bộ một kiếp sống trong một hay hai tiếng, t́m kiếm những sự kiện gây chấn thương và những loại có hại có thể giải thích những triệu chứng hiện tại của cô.
Trị liệu thông thường được tiến hành với nhịp độ thong thả và chi tiết hơn. Mỗi lời nói do bệnh nhân lựa chọn đều được phân tích về sắc thái và nghĩa bóng. Mỗi nét mặt, mỗi cử chỉ, mỗi biến đổi giọng nói đều được xem xét và đánh giá. Mỗi phản ứng của cảm xúc đều được xem xét tỷ mỷ.
Các kiểu ứng xử được cẩn thận lắp ráp vào với nhau. Tuy nhiên với Catherine, những năm tháng qua đi vù vù trong một phút. Các buổi thôi miên của Catherine giống như lái xe trong cuộc đua xe hơi Indy 500 dậm đạp hết ga...cố gắng nhận ra các bộ mặt trong đám đông khán giả.
Tôi chuyển sự chú ư tới Catherine và yêu cầu cô hăy tiến xa hơn nữa.
"Bây giờ tôi có chồng. Nhà tôi có một pḥng lớn. Chồng tôi có tóc vàng hoe. Tôi không biết anh (tức là chồng không xuất hiện trong hiện kiếp của Catherine). Chúng tôi chưa có con. Anh rất tử tế với tôi. Chúng tôi yêu nhau và rất hạnh phúc".
Hiển nhiên cô đă thoát khỏi sự áp chế ở nhà cha mẹ. Tôi hỏi liệu cô có thể nhận ra khu vực mà cô đă ở không.
"Brennington"
Catherine ngập ngừng th́ thầm.
" Tôi nh́n thấy những cuốn sách có những b́a cũ ngộ nghĩnh. Cuốn to nhất đóng lại bằng một cái dây. Đó là cuốn Kinh Thánh. Có những chữ to lạ lùng...tiếng Gaelic" (tiếng Xen tơ).
Cô nói ở đây một số tiếng cô không nhận ra được. Không biết có phải là tiếng Gaelic hay không, tôi không biết.
"Chúng tôi sống trong vùng nội địa không gần biển. Xứ đó...Brennington? Tôi thấy một nông trại có lợn và cừu. Đó là trại của chúng tôi".
Cuối cùng cô tiếp tục.
"Chúng tôi có hai con trai... Đứa lớn đă lấy vợ. Tôi có thể nh́n thấy gác chuông nhà thờ...một ṭa nhà bằng đá rất cổ."
Đột nhiên cô đau đầu, và Catherine trong cơn đau đớn, ôm lấy thái dương bên trái. Cô kể là bị ngă trên bậc thềm đá, nhưng đă b́nh phục. Cô chết lúc tuổi già trên giường ở nhà với gia đ́nh xung quanh.
Cô lại lơ lửng ra khỏi xác thân sau khi chết, nhưng lần nay cô không hoang mang hay bối rối.
"Tôi nhận thấy một ánh sáng chói lọi. Thật là tuyệt vời bạn có năng lượng từ ánh sáng ấy."
Cô đang nghỉ ngơi, sau khi chết giữa những kiếp sống. Ít phút trôi qua lặng lẽ. Đột nhiên cô nói, không phải nói th́ thầm chậm răi như thường lệ trước đó, bây giờ cô nói to và khàn, không chút ngập ngừng.
"Nhiệm vụ của chúng tôi là học để trở thành như thần thánh qua kiến thức. Chúng tôi biết quá ít. Ông ở đây làm thầy tôi. Tôi phải học nhiều. Bằng kiến thức chúng ta gần Thượng Đế, và rồi chúng ta có thể nghỉ ngơi. Rồi chúng ta trở lại dạy và giúp đỡ người khác".
Tôi không nói được lời nào. Đây là một bài học từ sau cái chết của cô, từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Nguồn gốc của tài liệu này là ǵ? Nó không giống của Catherine chút nào. Cô không bao giờ nói như thế, dùng những lời như thế , câu cú như thế. Cả đến giọng nói của cô cũng hoàn toàn khác hẳn.
Vào lúc đó tôi không hiểu được rằng mặc dù Catherine thốt ra những lời như vậy, cô đă không tạo ra những suy nghĩ ấy. Cô đang truyền điều đang được nói với cô. Sau này cô nhận diện ra là các bậc Thầy, những linh hồn tiến hóa cao không hiện diện nơi thân thể, là nguồn gốc.
Họ có thể nói với tôi qua cô. Không chỉ Catherine có thể lùi về các tiền kiếp, mà bây giờ cô c̣n có thể truyền kiến thức từ thế giới bên kia. Kiến thức đẹp đẽ. Tôi phấn đấu để giữ tính cách khách quan.
Một phương chiều mới đă được mở ra. Catherine chưa bao giờ đọc những công tŕnh nghiên cứu của Bác Sĩ Elisabeth Kubler Ross hay Bác Sĩ Raymond Moody, cả hai bác sĩ này đă viết về những kinh nghiệm lúc cận tử.
Cô cũng chưa bao giờ nghe nói về cuốn sách của người Tây Tạng về Người Chết. Thế mà cô đang kể ra những kinh nghiệm tương tự với những kinh nghiệm được miêu tả trong những bài viết này. Âu cũng là là một bằng chứng.
Giá mà có nhiều sự việc hơn, nhiều chi tiết rơ ràng hơn, tôi có thể xác minh. Sự hoài nghi của tôi thay đổi bất thường tuy vẫn c̣n. Có thể là cô đă đọc chuyện nghiên cứu về cận tử trong một tạp chí hay đă xem một cuộc phỏng vấn trên chương tŕnh truyền h́nh.
Mặc dù cô phủ nhận bất cứ một kư ức nào về bài báo hay chương tŕnh truyền h́nh như thế, nhưng có lẽ cô đă giữ kư ức trong tiềm thức. Nhưng cô đă vượt qua những bài viết trước đây và truyền tin tức từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Giá mà tôi có nhiều sự việc có thật hơn.
Sau khi tỉnh lại, Catherine nhớ những chi tiết về tiền kiếp, vẫn như thường lệ. Tuy nhiên cô không thể nhớ những ǵ xẩy ra sau khi chết lúc là Elizabeth. Trong tương lai cô sẽ không bao giờ nhớ được chi tiết nào trong trạng thái nửa nọ nửa kia. Cô chỉ nhớ được những kiếp sống.
"Bằng kiến thức, chúng ta gần Thượng Đế". Chúng ta đang ở trên con đường của chúng ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 516 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 3:30pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG BỐN
Tôi nh́n thấy một ngôi nhà trắng h́nh vuông với một con đường cát ở mặt tiền. Những người cưỡi ngựa đi tới đi lui". Catherine đang nói vói giọng nói th́ thầm mơ màng như thường lệ. " Có nhiều cây cối.. một đồn điền, một ngôi nhà lớn với một dăy nhà nhỏ, giống như nhà nô lệ. Trời rất nóng. Đó là miền Nam.. Virginia?" Cô nghĩ là năm 1873. Cô là một đứa trẻ nhỏ.
"Có nhiều ngựa và nhiều vụ mùa ..ngô, cây thuốc lá". Cô và những người hầu hạ khác ăn trong bếp của ngôi nhà lớn. Cô là người da đen và tên là Abby. Cô cảm thấy có linh tính và thân thể cô căng thẳng. Cái nhà chính đang cháy, và cô đang thấy nó cháy rụi. Tôi dịch chuyển 15 năm của cô đến năm 1888.
"Tôi mặc một bộ đồ cổ, đang lau tấm gương ở tầng thứ hai, một ngôi nhà gạch có cửa sổ...có nhiều ô. Tấm gương bị gợn, không phẳng, và có các quả đấm ở đầu mút. Người chủ ngôi nhà này có tên là James Manson. Ông ta có một cái áo choàng ngộ nghĩnh có ba khuy và một cổ áo đen lớn.
Ông có râu...Tôi không nhận ra ông (là ai trong hiện kiếp của Catherine). Ông đối xử tốt với tôi. Tôi sống trong một ngôi thuộc cơ ngơi này. Tôi dọn dẹp pḥng ốc. Có một trường học trong cơ ngơi này nhưng tôi không được phép đi học. Tôi cũng làm bơ!
Catherine nói th́ thầm chậm răi, dùng những từ đơn giản và để ư nhiều vào chi tiết. Trên năm phút tiếp theo, tôi học cách làm bơ. Hiểu biết về khuấy bơ của Abby cũng thật mới lạ với Catherine. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa.
"Tôi đang cùng ở với một người nào đó, nhưng tôi không nghĩ là chúng tôi đă cưới nhau. Chúng tôi ngủ cùng nhau...nhưng chúng tôi không luôn luôn sống cùng nhau. Tôi cảm thấy vừa ḷng với anh ta, nhưng không có ǵ đặc biệt cả. Tôi không thấy đứa bé nào. Có những cây táo và những con vịt. Những người khác ở cách xa.
Tôi đang hái những trái táo. Có thứ ǵ đó làm mắt tôi cay. Catherine nhăn mặt trong khi nhắm mắt. Gió thổi phía này...khói từ gỗ cháy. Họ đang đốt các thùng gỗ". Bây giờ cô đang bị ho. "Điều đó luôn luôn xẩy ra. Họ đang quét bên trong các thùng bằng hắc ín...để nước không thấm vào".
Sau phần sôi nổi ở buổi thôi miên tuần trước, tôi rất mong nuốn lại tiến tới trạng thái nửa nọ nửa kia. Chúng tôi đă mất 90 phút để thăm ḍ kiếp sống làm người đầy tớ của cô. Tôi đă học được về cách trải giường, làm bơ và thùng; tôi mong muốn có một bài học tinh thần. Không c̣n kiên nhẫn, tôi bảo cô tiến tới lúc chết.
"Rất khó thở, ngực tôi đau lắm". Catherine đang thở hỗn hển, trong cơn đau đớn rơ ràng. " Tim tôi đau, nó đập nhanh. Tôi lạnh quá...thân thể tôi run lên". Catherine bắt đầu rùng ḿnh. "Người ta ở trong pḥng, cho tôi uống trà. Mùi nó là lạ. Họ đang xoa dầu trên ngực tôi. Sốt...nhưng tôi cảm thấy rất lạnh". Cô chết lặng lẽ.
Lơ lửng trên trần nhà, cô có thể nh́n thấy xác thân trên giường, một bà già nhỏ thó héo hon vào khoảng sáu mươi tuổi. Cô vừa mới lơ lửng đang đợi chờ người nào đó đến giúp. Cô trở nên ư thức về ánh sáng, cảm thấy bị lôi cuốn đến đó. Ánh sáng trở nên rực rỡ hơn, và chói lọi hơn. Chúng tôi chờ đợi trong im lặng và giây phút từ từ qua đi. Đột nhiên cô lại ở vào một kiếp khác, hàng ngàn năm trước Abby.
Catherine đang nhẹ nhàng th́ thào, "Tôi nh́n thấy rất nhiều tỏi, treo trong một cái pḥng bỏ trống. Tôi ngửi thấy mùi tỏi. Người ta tin tỏi được dùng để giết ma quỷ trong máu và tẩy sạch thân thể, nhưng bạn phải dùng nó hàng ngày. Tỏi cũng có ở ngoài, ở phía trên cái vườn. Có những cây dược thảo...cây vả, cây chà là và các cây rau dược thảo khác.
Những cây này có ích cho bạn. Mẹ tôi mua tỏi và các cây dược thảo khác. Trong nhà có người bị bệnh. Đây là những rễ cây lạ. Đôi khi bạn ngậm những rễ cây ấy trong miệng, để trong tai hay những chỗ mở ra. Bạn chỉ cần giữ chúng.
"Tôi nh́n thấy một ông già có bộ râu. Ông là một trong những thầy lang trong làng. Người này nói cho bạn biết phải làm ǵ. Có một loại bệnh dịch ǵ đó đang giết dân chúng. Họ không ướp xác v́ sợ bệnh này. Họ được đem chôn. Người ta không vui về việc ấy.
Họ cảm thấy linh hồn không đi tiếp được bằng cách ấy (trái ngược với tường thuật sau khi chết của Catherine) . Nhưng có quá nhiều người chết. Trâu ḅ cũng đang chết. Nước...lụt...người ta bị bệnh v́ lụt (Cô hiển nhiên mới nhận thức được một chút về dịch tễ học).
Tôi cũng mắc một vài chứng bệnh do nước. Nó làm tôi đau dạ dày. Bệnh về ruột và dạ dày. Thân thể bạn mất nhiều nước. Tôi ở bên cạnh nước, để mang về nhiều hơn, nhưng đó là cái giết chúng tôi. Tôi mang nước trở lại. Tôi thấy mẹ tôi và các anh tôi. Cha tôi đă chết. Các anh tôi rất ốm yếu. "
Tôi tạm ngưng lại trước khi phát hiện về thời gian. Tôi say mê bởi cách có quan niệm về cái chết và kiếp sống sau thay đổi quá nhiều hết kiếp này đến kiếp khác. Tuy nhiên kinh nghiệm về chính cái chết rất đồng nhất, rất giống nhau, ở mỗi lần.
Phần thức của cô rời khỏi xác vào lúc chết bay lơ lửng rồi bị cuốn vào một ánh sáng năng lượng tuyệt vời. Cô phải đợi người nào đó đến để giúp cô. Linh hồn tự động đi tiếp. Ướp xác, lễ chôn cất hay bất cứ cách thức nào khác sau khi chết không liên quan ǵ đến nó. Linh hồn tự động, không cần chuẩn bị, giống như đi qua cái cửa mở.
"Đất trơ trụi và khô cằn.. Tôi không thấy có núi non quanh đây, chỉ có đất, rất phẳng và khô. Một trong các anh tôi chết. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng vẫn c̣n đau đớn" Tuy nhiên cô không sống lâu hơn. "Tôi nằm dài trên một ổ rơm có cái ǵ đó bao bọc."
Cô bệnh nặng và không có lượng tỏi hay dược thảo nào có thể cứu cô khỏi chết. Ngay sau khi cô bay lơ lửng trên xác, cô bị cuốn vào một ánh sáng quen thuộc. Cô đang kiên nhẫn chờ một người nào đó đến với cô.
Đầu cô bắt đầu ngó ngoáy hết bên này đến bên kia như thể cô đang lướt xem cảnh tượng nào đó. Giọng cô lại khỏe lên và rơ ràng.
"Họ nói với tôi có nhiều thượng đế, Thượng Đế ở trong mỗi chúng ta"
Tôi nhận ra giọng nói từ trạng thái ở giữa nửa nọ nửa kia bởi sự khàn khàn của nó cũng như giọng nói đầy tinh thần trong lời nhắn nhủ. Những ǵ cô nói khiến tôi không thể thở được, như kéo hết không khí trong buồng phổi của tôi.
"Cha ông ở đây, và con ông là một đứa bé. Cha ông nói ông sẽ biết ông ấy v́ tên của ông là Avrom, và con gái của ông được đặt tên theo cha ông. Và cái chết của cha ông là do bệnh tim. T́nh cảm của con ông cũng rất quan trọng, v́ nó rụt rè, như con gà chết.
Nó đă hy sinh mạng sống cho ông v́ ḷng yêu thương của nó. Linh hồn của nó rất cao cả... Nó chết để trả những nợ nần cho cha mẹ. Nó cũng muốn cho ông thấy thứ thuốc đó chỉ có thể hữu hiệu đến thế v́ phạm vi của nó rất hạn chế."
Catherine ngưng nói, tôi ngồi trong sự im lặng dễ sợ và tâm trí tê cóng của tôi cố gắng lọc lơi các sự việc. Căn pḥng như đông lạnh.
Catherine biết rất ít về đời tư của tôi. Trên bàn làm việc của tôi có một tấm h́nh nhỏ của con gái tôi, nhe răng cười với hai cái răng ở hàm dưới trong cái miệng trống rỗng. Tấm h́nh đứa con trai tôi ở bên cạnh. Mặt khác, Catherine không biết ǵ về gia đ́nh tôi hay tiểu sử của tôi.
Tôi đă được học cẩn thận về phương pháp chữa bệnh truyền thống. Bác sĩ chuyên khoa có nhiệm vụ làm cái phông trắng để người bệnh có thể chiếu lên đó tất cả những cảm nghĩ riêng tư, tư tưởng và thái độ. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phân tích chúng, mở rộng phạm vi hoạt động của tâm trí bệnh nhân.
Tôi đă giữ khoảng cách chữa bệnh này với Catherine. Cô thật sự chỉ biết tôi là một bác sĩ tâm thần, không biết ǵ về quá khứ cũng như cuộc sống riêng tư của tôi. Thậm chí tôi cũng chưa bao giờ treo các bằng cấp của tôi ở pḥng mạch.
Thảm kịch lớn nhất trong đời tôi là cái chết bất ngờ của đứa con trai đầu, Adam, nó mới sinh được 23 ngày th́ chết, vào khoảng đầu năm 1971. Vào khoảng mười ngày sau, chúng tôi mang nó về nhà từ bệnh viện, nó khó thở và nôn mửa. Việc chẩn bệnh cực kỳ khó khăn.
"Toàn bộ dẫn lưu tĩnh mạch phổi di tật vách ngăn tim", chúng tôi được biết là như thế. "Điều đó chỉ xẩy ra một lần trong mười triệu ca sinh đẻ". Mạch máu của phổi phải mang máu đă ô xy hóa về tim, bị chuyển sai vào tim bằng phía sai. Dường như là tim của con tôi hoạt động ngược. Cực kỳ, hy hữu hiếm xẩy ra.
Giải phẫu mở tim dị thường cũng không thể cứu nổi Adam, nó đă chết ít hôm sau. Chúng tôi đă thương tiếc nó nhiều tháng trời, hy vọng và giấc mơ của chúng tôi tiêu tan. Con chúng tôi, Jordan, sinh ra một năm sau, một niềm an ủi to lớn cho vết thương của chúng tôi.
Vào lúc Adam chết, tôi đang lưỡng lự về việc chọn lựa ban đầu của tôi về ngành tâm thần. Tôi đang là bác sĩ thực tập nội trú về nội khoa, và tôi đă được đề nghị một chức vụ nội trú nội khoa. Sau khi Adam chết, tôi quyết tâm làm nghề chữa bệnh tâm thần. Tôi đau ḷng thấy y khoa hiện đại với tất cả kỹ năng và kỹ thuật tiên tiến không cứu nổi con tôi, một đứa trẻ nhỏ bé b́nh thường.
Cha tôi, sức khỏe rất tốt cho đến khi ông bị cơn đau tim nặng vào đầu năm 1979, vào lúc ông 61 tuổi. Ông qưa khỏi cơn đau tim đầu tiên, nhưng thành tim ông đă bị hư hại không thể phục hồi được nên ông qua đời ba ngày sau đó. Việc này xẩy ra vào khoảng chín tháng trước lần khám bệnh thứ nhất của Catherine.
Cha tôi là một người mộ đạo, nặng về nghi lễ hơn tinh thần. Tên Do Thái của ông là Avrom. thích hợp với ông hơn là tên bằng tiếng anh, Alvin. Bốn tháng sau khi ông chết, đứa con gái tôi, Amy sinh ra đời và được đặt tên theo tên ông.
Nơi đây, năm 1982, trong pḥng mạch tịch mịch không mấy sáng của tôi, một ḍng thác nước ầm vang về những sự thật bí mật, ẩn dấu được rót vào trong tôi. Tôi đang bơi trong một biển tinh thần, và tôi rất thích nước. Cánh tay tôi nổi gai ốc.
Catherine không thể nào biết được những tin tức này. Không thể có chỗ nào để t́m ra được. Tên Do Thái của cha tôi, đứa con trai của tôi chết yểu v́ dị tật ở tim với tỷ lệ một phần mười triệu, sự nghiền ngẫm của tôi về y khoa, cái chết của cha tôi, và tên đặt cho đứa con gái tôi thật quá nhiều, quá đặc biệt, quá thực sự.
Người chuyên viên pḥng thí nghiệm ngay thật này là một ống dẫn đến kiến thức tiên nghiệm. Và nếu quả cô đă khám phá ra được những sự thật, phải có cái ǵ nữa ở đấy? Tôi cần biết nhiều hơn nữa.
"Ai", tôi lẫm bẩm, "Ai ở đấy, Ai nói với cô những sự việc này?"
"Các Bậc Thầy" cô th́ thào, "Các Bậc Thầy Thần Linh nói với tôi. Các Ngài đă nói với tôi, tôi đă có tám mươi sáu kiếp sống là con người."
Catherine hít thở nhẹ nhàng, đầu không c̣n trăn trở nữa. Cô đang nghỉ ngơi. Tôi muốn tiếp tục, nhưng sự gợi ư của cô về điều cô nói đang làm tôi rối trí. Có thực là cô đă có 86 tiền kiếp?
Và các Bậc Thầy là ǵ? Cái đó là ǵ? Có thể nào những kiếp sống của chúng ta được hướng dẫn bởi các thần linh là người không có thân h́nh nhưng dường như có kiến thức lớn lao. Phải chăng có những bước đi tiến tới Thượng Đế?
Điều đó có thực không? Tôi thấy khó mà nghi ngờ, v́ điều mà cô vừa tiết lộ, tuy nhiên tôi vẫn phải vật lộn đề tin được. Nhiều năm tôi đă vượt qua những chương tŕnh lựa chọn. Nhưng trong đầu, trong tâm tôi và sự quyết tâm của tôi, tôi biết cô đúng. Cô đang tiết lộ sự thật.
Về cha tôi và con tôi th́ thế nào? Trong một ư nghĩa nào đó, họ vẫn c̣n sống, họ không bao giờ thực sự chết cả. Họ đang nói chuyện với tôi, nhiều năm sau khi được chôn cất, và chứng minh bằng cách cung cấp tin tức rất bí mật và rơ ràng.
Và v́ tất cả đều đúng, phải chăng con tôi đă tiến bộ về tinh thần như Catherine đă nói? Phải chăng nó đồng ư để chúng tôi sinh ra nó rồi nó chết 23 ngày sau để giúp tôi trả nợ nghiệp của chúng tôi, hơn nữa dạy tôi về y khoa và nhân loại, thúc đẩy tôi quay về với nghề nghiệp chữa bệnh tâm thần?
Tôi rất phấn khởi bởi những tư tưởng ấy. Nằm dưới sự lạnh lùng, tôi cảm thấy ḷng thương yêu mănh liệt đang khuấy động, một cảm nghĩ mạnh mẽ về sự đồng nhất và liên hệ với thiên đường và trái đất. Tôi nhớ cha tôi và con tôi. Thật là tốt lại nhận được tin của họ.
Cuộc đời của tôi sẽ không bao giờ giống như thế nữa. Có một bàn tay nào đó đă tham gia và đă biến đổi không thể đảo ngược lại ḍng đời của tôi. Tất cả sự hiểu biết của tôi đă được thực thi cẩn thận cùng với lối suy nghĩ có tính chất hoài nghi, bắt đầu có ư nghĩa.
Những kư ức và thông điệp của Catherine đều rất đúng. Trực giác của tôi về tính đứng đắn trong các sự việc của Catherine là đúng. Tôi có những sự việc có thật. Tôi có bằng chứng.
Tuy nhiên, ngay cả trong lúc vui sướng và sự hiểu biết đó, cả lúc trải nghiệm huyền bí, phần tâm trí ngờ vực và lo gic cũ kỹ của tôi đă chứa đựng sự phản đối. Có lẽ đó là ESP (tri giác ngoại cảm) hay khả năng tâm linh nào đó. Cứ cho là như vậy, đó đúng là một khả năng, nhưng nó không chứng minh luân hồi hay các Bậc Thần Linh Bậc Thầy.
Nhưng lần này tôi hiểu biết hơn. Cả ngàn trường hợp được ghi trong tài liệu khoa học, nhất là những trẻ em nói tiếng ngoại quốc mà các em chưa bao giờ ở đó, có những vết chàm ở chỗ những vết tử thương trước đây, về những trẻ em biết chỗ những đồ vật quư giá được chôn dấu ở xa hàng ngàn dậm và hàng thập kỷ hay ở thế kỷ trước đó, tất cả vang vọng trong lời truyền lại của Catherine.
Tôi biết cá tính của Catherine và tâm trí cô. Tôi biết rơ cô như ḷng bàn tay. Không, tâm trí tôi không thể đánh lừa tôi lúc này. Chứng cớ quá rơ ràng và tràn đầy. Đó là sự thực. Cô sẽ xác minh ngày càng nhiều khi các buổi thôi miên tiến triển.
Đôi khi trong những tuần lễ liên tiếp tôi có thể quên đi sức mạnh và tính cấp thiết của buổi thôi miên này. Đôi khi tôi rơi trở lại lối ṃn của ḍng đời thường nhật, lo lắng về mọi sự việc b́nh thường. Nghi ngờ lại nổi lên. Dường như thể tâm tôi khi không tập trung, có khuynh hướng trở về với những mô h́nh, niềm tin, và hoài nghi cũ.
Nhưng lúc ấy tôi tự nhắc nhở điều này đă thực sự xẩy ra ! Tôi hiểu thật khó khăn làm sao để tin vào những khái niệm ấy khi không có những kinh nghiệm cá nhân. Kinh nghiệm rất cần để thêm niềm tin t́nh cảm vào sự hiểu biết tinh thần. Nhưng tác động của kinh nghiệm bao giờ cũng mờ nhạt tới mức độ nào đó.
Trước nhất, tôi không ư thức được tại sao tôi thay đổi quá nhiều. Tôi biết tôi b́nh tĩnh và kiên nhẫn hơn, và những người khác nói trông tôi thật an b́nh, tôi dường như thoải mái và hạnh phúc hơn. Tôi cảm thấy hy vọng hơn, niềm vui hơn, quả quyết hơn, và thỏa măn hơn trong cuộc sống.
Tôi thấy rơ ràng là tôi không c̣n sợ chết. Tôi không c̣n sợ chết hay sự không tồn tại. Tôi ít sợ mất những người khác mặc dù chắc chắn là tôi sẽ mất họ. Sợ chết mạnh xiết bao. Người ta đă làm tất cả những ǵ để tránh sợ hăi : khủng hoảng giữa cuộc đời, yêu đương người trẻ tuổi, giải phẫu thẩm mỹ, tự kỷ ám thị, tích lũy của cải vật chất, sinh ra để tiếp tục có danh tiếng, tranh đấu để ngày càng trẻ và vân vân...
Chúng ta hết sức lo lắng về cái chết của chính chúng ta, đôi khi quá lo lắng đến nỗi quên cả mục đích thực sự của cuộc đời.
Tôi cũng trở nên ít bị ám ảnh hơn. Tôi không cần lúc nào cũng phải canh chừng. Mặc dầu tôi đang cố gắng trở nên ít nghiêm nghị, nhưng sự thay đổi này thật khó đối với tôi. Tôi vẫn c̣n phải học nhiều.
Quả thực tâm trí tôi giờ đây sẵn sàng tiếp nhận khả năng này, thâm chí khả năng xảy ra mà những lời nói của Catherine là thực. Những sự thật không thể tin được về cha tôi và con tôi, không thể nào đạt được bằng giác quan thông thường. Kiến thức và khả năng của cô chứng minh chắc chắn một khả tâm linh nổi bật.
Thật khôn ngoan để tin cô, nhưng tôi vẫn giữ cẩn trọng và hoài nghi về cái tôi đọc trong tài liệu phổ cập. Ai là những người thuật lại hiện tượng tâm linh, đời sống sau khi chết, và những biến cố huyền bí lạ lùng? Họ có được huấn luyện theo phương pháp quan sát khoa học và đánh giá không?
Mặc dầu có kinh nghiệm tràn đầy và tuyệt vời với Catherine, tôi biết tâm trí phê phán tự nhiên chống đối của tôi vẫn tiếp tục xem xét kỹ lưỡng mỗi dữ kiện mới, từng mẩu tin tức.
Tôi phải kiểm tra để xem nó có phù hợp với khuôn khổ được xây dựng với mỗi buổi thôi miên không. Tôi sẽ xem xét nó dưới một góc độ, với một kính hiển vi của nhà khoa học. Và tuy nhiên tôi không c̣n phủ nhận khuôn khổ làm việc đă có rồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 517 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 3:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG NĂM
Chúng tôi vẫn ở giữa buổi thôi miên. Catherine đă nghỉ ngơi xong và bắt đầu nói về những bức tượng xanh ở đằng trước một ngôi đền. Tôi khích động ḿnh và lắng nghe. Cô đang ở vào một kiếp sống xa xưa, một nơi nào đó ở Á Đông, nhưng tôi vẫn ở với các Bậc Thầy. Không thể tưởng được, tôi thầm nghĩ.
Cô đang nói về tiền kiếp, về luân hồi, và c̣n so sánh với những lời phán truyền nghe được từ những Bậc Thầy, nó có cảm giác hạ xuống từ cực điểm. Tuy nhiên tôi đă nhận ra rằng cô phải đi qua một kiếp sống trước khi có thể rời bỏ xác thân để tiến tới trạng thái ở nửa nọ nửa kia. Cô không thể đi thẳng tới trạng thái này được. Và chỉ ở đấy cô mới gặp được các Bậc Thầy.
"Những bức tượng xanh ở trước một ngôi đền lớn", cô th́ thầm dịu dàng, một ṭa nhà có những chóp nhọn và quả cầu nâu. Có mười bẩy bậc ở phía trước, và có một cái pḥng sau khi đă trèo hết các bậc. Hương đang cháy. Không ai có giầy cả. Đầu của họ đều cạo nhẵn. Mặt họ tṛn và mắt đen. Da họ sẫm. Tôi ở đấy. Tôi bị đau chân và đă đến đấy để xin được giúp đỡ. Chân tôi bị sưng lên; Tôi không thể bước đi được.
Có cái ǵ đó vướng ở chân tôi. Họ đắp lá vào chân tôi... những cái lá lạ lùng... Tannis (Tannin hay a xít tannic, phát sinh tự nhiên từ rễ cây, gỗ, vỏ cây, lá, và trái của nhiều cây, được dùng làm thuốc từ thời thượng cổ v́ tính cầm máu và làm se lại). Trước nhất, chân tôi được rửa sạch.
Đó là một nghi thức trước các vị thần. Chân tôi bị nhiễm độc. Tôi đă dẫm phải một cái ǵ đó. Đầu gối tôi sưng lên. Chân tôi dầy đặc các vết (nhiễm độc máu). Họ khoét một cái lỗ ở chân tôi và nhét một thứ ǵ rất nóng vào trong đó."
Catherine đang quặn đau. Cô bị nghẹn v́ loại độc dược đắng ghê gớm nào đó mà cô được cho uống. Độc dược làm bằng lá cây màu vàng. Cô lành bệnh nhưng xương bàn chân và chân không c̣n giống như trước nữa. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa. Cô chỉ thấy cuộc sống trống trải và nghèo khổ.
Cô sống với gia đ́nh trong một cái cḥi không có bàn. Họ ăn một loại gạo nào đó, giống như ngũ cốc, nhưng họ luôn luôn bị đói. Cô già đi rất nhanh, và chưa bao giờ thoát khỏi cảnh nghèo khó và đói, và rồi cô chết. Tôi chờ đợi và tôi có thể nh́n thấy Catherine kiệt sức. Trước khi tôi có thể đánh thức cô, nhưng cô bảo tôi là Robert Jarrod cần tôi giúp đỡ. Tôi không biết Robert Jarrod là ai, hay làm sao tôi có thể giúp được. Không có ǵ thêm nữa.
Sau khi đánh thức cô dậy từ hôn mê, Catherine nhớ lại nhiều chi tiết về việc nhớ lại tiền kiếp của ḿnh. Cô không nhớ tư ǵ về kinh nghiệm sau khi chết, không nhớ ǵ về trạng thái nửa nọ nửa kia, không nhớ ǵ về các Bậc Thầy, hay kiến thức không thể tin được nổi mà cô đă khám phá ra. Tôi hỏi cô :
"Catherine, từ "Bậc Thầy" có nghĩa ǵ với cô?". Cô nghĩ rằng đó là một cuộc đấu gôn. Bây giờ cô đă tiến bộ rất nhanh, nhưng cô vẫn c̣n khó khăn trong việc hợp nhất khái niệm về luân hồi vào thần học của cô. Cho nên tôi quyết định chưa nói với cô về các Bậc Thầy.
Ngoài ra tôi không chắc chắn là cách bạn báo tin cho một người nào đó rằng cô là bà đồng tài giỏi không thể tưởng có thể truyền dẫn kiến thức tuyệt vời siêu việt từ những Thần Linh Bậc Thầy.
Catherine đồng ư cho vợ tôi tham dự buổi thôi miên tới. Carole, vợ tôi là một nhân viên công tác tâm lư xă hội có kỹ năng và được huấn luyện kỹ lưỡng và tôi muốn có ư kiến của vợ tôi về những sự việc xẩy ra không thể tưởng tượng được này.
Sau khi kể cho vợ tôi nghe những ǵ Catherine đă nói về cha tôi và con chúng tôi, Adam, th́ vợ tôi nóng ḷng muốn giúp đỡ. Tôi không có khó khăn nào trong việc ghi lại mọi lời nói từ những kiếp sống khi Catherine th́ thào rất chậm, nhưng các Bậc Thầy lại nói nhanh hơn nhiều, nên tôi quyết định thâu băng mọi thứ.
Một tuần lễ sau, Catherine đến cho buổi thôi miên tiếp. Cô tiếp tục khả quan hơn, sợ hăi và lo âu giảm thiểu. Bệnh t́nh của cô được cải thiện rơ ràng, nhưng tôi vẫn không chắc chắn tại sao cô lại khá hơn nhiều như thế.
Cô đă nhớ việc bị chết đuối khi là Aronda, cô bị cắt họng khi là Johan, là một nạn nhân bệnh dịch lây lan do nước khi là Louisa, và những biến cố chấn thương kinh hoàng khác. Cô cũng đă trải nghiệm hay tái trải nghiệm những tiền kiếp khổ sở, làm nô lệ và bị hành hạ trong gia đ́nh.
Bị hành hạ là những thí dụ về những chấn thương nhỏ hàng ngày bắt đầu đi vào tâm linh của chúng tôi. Nhớ lại cả hai loại kiếp sống có thể góp phần vào sự cải thiện bệnh t́nh cô. Nhưng cũng có một khả năng khác.
Phải chăng kinh nghiệm tinh thần tự nó có ích? Có thể hiểu cái chết không phải là cái xuất hiện để góp phần vào cảm giác về hạnh phúc, giảm thiểu nỗi sợ hăi không? Có thể toàn bộ tiến tŕnh, không phải chỉ là chính kư ức, có phải là một phần của sự chữa bệnh không?
Khả năng về tâm linh của Catherine ngày càng tăng, thậm chí cô trở nên trực giác hơn. Cô vẫn c̣n có khó khăn với Stuart, nhưng cô cảm thấy có thể đối phó với ông ta hữu hiệu hơn. Mắt cô sáng ra và da cô hồng hào. Cô báo cô có một giấc mơ lạ trong tuần nhưng chỉ nhớ được một phần. Cô mơ thấy một cái vây đỏ của một con cá ấn vào trong tay cô.
Cô đắm ḿnh nhanh chóng dễ dàng tới mức độ thôi miên sâu trong vài phút.
"Tôi thấy một loại vách đá nào đó. Tôi đang đứng trên vách đá và nh́n xuống. Tôi đang t́m kiếm thuyền bè đó là việc tôi phải làm...Tôi mặc cái ǵ đó xanh, kiểu quần quần xanh...quần ngắn với những chiếc giầy lạ.. giầy đen và chúng được thắt lại. Những chiếc giầy này có khóa, trông thật ngộ nghĩnh...tôi nh́n ra phía chân trời không có tàu bè nào cả". Catherine đang th́ thầm. Tôi bảo cô hăy tiến xa hơn nữa đến một biến cố có ư nghĩa trong đời cô.
"Chúng tôi đang uống bia, bia đen nặng. Trời tối đen. Cốc vại rất dày. Chúng rất cổ, chúng được làm thành với kim khí cho bền bỉ. Nơi đây mùi nồng nặc, và có nhiều người ở đấy. Rất là ồn ào. Ai cũng nói chuyện, rất là náo nhiệt".
Tôi hỏi cô có nghe thấy ai gọi tên cô không.
"Christian.. Christian là tên tôi". Cô nay lại là đàn ông. " Chúng tôi vừa ăn một thứ thịt nào đó và uống bia. Trời tối và bia rất đắng. Họ bỏ muối vào".
Cô không biết năm tháng. "Họ đang nói chuyện về chiến tranh và về những con tàu phong tỏa các hải cảng! Nhưng tôi không nghe biết ở đâu. Nếu họ im lặng, tôi có thể nghe thấy, nhưng ai cũng nói chuyện và ồn ào."
Tôi hỏi cô ở đâu. "Hamstead... Hamstead (Đánh vần theo âm) Đó là một cái cảng, một hải cảng ở Wales. Họ đang nói về Anh Quốc." Cuối cùng cô đă tiến xa tới lúc Christian ở trên tàu của anh. "Tôi ngửi thấy mùi ǵ đó, mùi ǵ đang cháy.
Mùi thật là kinh tởm. Gỗ cháy, những thứ khác nữa. Nóng bỏng mũi... Một cái ǵ đó ở đàng xa đang cháy, một loại thuyền bè nào đó, thuyền buồm. Chúng tôi đang chất hàng ! Chúng tôi đang chất thứ ǵ đó với thuốc súng". Catherine trở nên bối rối trông thấy.
"Có cái ǵ đó với thuốc súng, rất đen. Nó dính vào tay. Phải di chuyển nhanh. Con tàu có lá cờ xanh . Lá cờ sẫm ... Đó là một lá cờ xanh vàng. Có một loại vương miện nào đó với ba điểm trên đó".
Đột nhiên Catherine nhăn nhó v́ đau. Cô đang đau đớn cực độ. " Úi chà!" , cô càu nhàu, đau ở tay tôi, đau ở tay tôi ! Có thứ kim khí ǵ đó, kim khí nóng trong tay tôi. Nó làm tôi chết bỏng ! Ối ! Ối !.
Tôi nhớ lại một đoạn trong giấc mộng và bây giờ hiểu rằng cái vây cá đỏ ấn vào trong tay cô. Tôi chặn cơn đau, nhưng cô vẫn rên rỉ.
"Những mảnh vụn là kim loại ... Con tàu của chúng tôi bị phá hủy ... bên hải cảng. Họ đă ngăn chặn được ngọn lửa. Nhiều người bị giết ... rất nhiều người. Tôi sống sót, chỉ đau tay thôi, nhưng nó sẽ lành với thời gian". Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa và để cô chọn ra biến cố có ư nghĩa.
"Tôi nh́n thấy một loại nhà in, in cái ǵ đó bằng bản khắc và mực. Họ đang in và đóng sách ... Sách có b́a da và những chỉ được dùng để đóng sách, dây da. Tôi thấy một cuốn sách đỏ ... Sách lịch sử. Tôi không nh́n thấy tựa đề; họ chưa in xong. Những cuốn sách rất tuyệt vời. B́a sách rất mềm mại, b́a da. những cuốn sách rất tuyệt vời sách dạy bạn đấy".
Rơ ràng Christian vui sướng nh́n thấy sách và đang sờ vào sách, và anh lờ mờ nhận thức được tiềm năng học bằng cách ấy. Tuy vậy anh dường như không được học hành nhiều. Tôi bảo anh tiến tới ngày cuối cùng của đời anh.
"Tôi nh́n thấy cây cầu trên sông. Tôi là một ông già... rất già. Đi lại khó khăn. Tôi đang bước đi trên cầu ... để sang bên kia ... Tôi cảm thấy tức ngực, tức kinh khủng, làm đau trong lồng ngực ! Ối ! " Catherine đang phát ra tiếng ùng ục, cho thấy cơn đau tim trong khi Christian đi trên cầu.
Hơi thở của cô rất nhanh và nông, mặt và cổ đầy mồ hôi, cô bắt đầu ho và thở hổn hển. Tôi lo lắng. Lại kinh qua cơn đau tim ở tiền kiếp có nguy hiểm không? Đó là biên giới mới; không ai biết câu trả lời. Cuối cùng Christian chết. Bây giờ Catherine nằm dài an b́nh trên giường khám bệnh, thở sâu và điều ḥa. Tôi trút tiếng thở dài khoan khoái.
"Tôi cảm thấy tự do...tự do", Catherine th́ thầm. Tôi đúng là đang lơ lửng trong bóng tối... đúng là đang lơ lửng. Có một nguồn sáng đâu đó ... và các thần linh, những người khác".
Tôi hỏi liệu cô có ư nghĩ nào về kiếp sống vừa chấm dứt, kiếp sống là Christian không".
"Tôi lẽ ra nên tha thứ nhiều hơn nữa, nhưng tôi lại không. Tôi không tha thứ những sai trái người ta đă gây ra cho tôi, và tôi lẽ ra nên tha thứ. Tôi đă không tha thứ những sai trái. Tôi giữ trong ḷng và tôi đă chất chứa chúng trong nhiều năm... .Tôi nh́n thấy những cặp mắt ... những cặp mắt".
"Những cặp mắt" tôi kêu lên, cảm thấy sự tiếp xúc. "Loại mắt ǵ?"
"Những cặp mắt của các Thần Linh Bậc Thầy", Catherine th́ thào, "nhưng tôi phải chờ. Tôi có những việc phải suy nghĩ". Ít phút trôi qua trong sự im lặng căng thẳng.
Phá tan sự im lặng dài, tôi cất tiếng mong đợi, "Làm sao cô có thể biết được khi nào họ sẵn sàng."
Cô trả lời, "Họ sẽ gọi tôi". Nhiều phút nữa qua đi. Rồi, đột nhiên đầu cô cứ lăn hết bên này sang bên kia, và giọng cô ồ ồ và quyết liệt, báo hiệu có sự thay đổi.
"Có nhiều linh hồn trong phương chiều này. Tôi không phải là người duy nhất. Chúng ta phải kiên nhẫn. Có cái ǵ đó là điều mà tôi chưa từng biết ... Có nhiều phương chiều..." Tôi hỏi cô phải chăng cô đă ở đây trước kia, phải chăng cô đă luân hồi nhiều lần.
"Tôi đă ở vào những b́nh diện khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Mỗi lần là một mức độ của thức cao hơn. B́nh diện nào chúng ta đi lệ thuộc vào chúng ta đă tiến bộ thế nào ..." Cô lại im lặng. Tôi hỏi cô phải học bài học nào cô đă học được để tiến hành. Cô trả lời ngay.
"Đó là việc chúng ta phải chia sẻ kiến thức của chúng ta với người khác. Đó là tất cả chúng ta có khả năng vượt qua rất xa cái mà chúng ta thường sử dụng. Một số trong chúng ta t́m thấy điều này nhanh hơn người khác. Đó là việc phải xét những tật xấu của ḿnh trước khi đi tới điểm này.
Nếu không, ông sẽ phải mang theo chúng vào kiếp khác. Chỉ khi chúng ta có thể tự gột bỏ được những thói quen xấu mà chúng ta tích lũy khi chúng ta ở trạng thái thể chất. Những Thần Linh Bậc Thầy không thể làm điều đó cho chúng ta.
Nếu ông chọn cách chiến đấu và không tự gột bỏ các tính xấu, ông sẽ mang chúng vào kiếp khác. Và chỉ khi ông quyết định là ông đă đủ mạnh để làm chủ những vấn đề bên ngoài, th́ ông sẽ không phải mang chúng vào kiếp sau.
"Chúng ta cũng phải học hỏi không chỉ đi đến chỗ những người có cùng xung động như chúng ta. Cảm thấy bị lôi kéo tới chỗ ai đó cùng một mức độ với ḿnh là điều b́nh thường. Nhưng điều này sai. Ông phải tới chỗ những người có xung động sai... với xung động của ông. Điều này có tầm quan trọng... trong việc giúp ... những người này".
"Chúng ta được trao các khả năng trực giác, chúng ta phải theo và không được cố gắng chống lại. Những kẻ chống lại sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta không được trở lại mỗi b́nh diện với khả năng đồng đều. Một số trong chúng ta có khả năng hơn những người khác, v́ họ đă tích lũy được ở những thời điểm khác.
Bởi vậy con người không phải được tạo ra đều b́nh đẳng. Nhưng cuối cùng, chúng ta sẽ tiến tới điểm chỗ mà chúng ta đều b́nh đẳng".
Catherine ngưng lại. Tôi biết những tư tưởng này không phải của cô. Cô không có kiến thức về vật lư hay siêu h́nh học, cô không biết ǵ về b́nh diện, phương chiều và xung động. Vượt lên trên cái đó, vẻ đẹp của lời nói và tư tưởng, ngụ ư triết lư trong những lời thốt ra này những cái ấy đều vượt quá khả năng của Catherine.
Cô không bao giờ nói một cách rơ ràng và văn chương như vậy. Tôi có thể cảm thấy một sức mạnh khác cao hơn vật lộn với tâm trí và dây âm thanh của cô để chuyển đạt những tư tưởng ấy thành lời, do đó mà tôi có thể hiểu. Không, đó không phải là Catherine.
Giọng cô là một giọng mơ màng.
"Những người hôn mê ....ở trong trạng thái lơ lửng. Họ chưa sẵn sàng để vượt vào b́nh diện khác ... cho đến khi họ quyết định liệu họ có muốn vượt qua hay không. Chỉ khi họ có thể quyết định điều đó. Nếu họ cảm thấy họ không c̣n ǵ học hỏi ... trong trạng thái thể chất... th́ họ được phép vượt qua. Nhưng nếu họ c̣n phải học nhiều hơn nữa, th́ họ phải trở lại, dù rằng họ không muốn thế. Đó là giai đoạn nghỉ ngơi cho họ, một thời điểm khi những sức mạnh tinh thần của họ có thể nghỉ ngơi".
Cho nên những người bị hôn mê có thể quyết định trở về hay không trở về, tùy theo việc họ c̣n phải học hỏi bao nhiêu để hoàn tất được ở trạng thái thể chất. Nếu họ cảm thấy không c̣n ǵ nữa để học hỏi, họ có thể đi ngay vào trạng thái tinh thần, bất kể y khoa hiện đại.
Thông tin này phù hợp với công cuộc nghiên cứu được phổ biến về kinh nghiệm cận tử, và lư do tại sao một số người muốn quay trở về. Những người khác không được quyền lựa chọn, họ phải quay trở về v́ họ c̣n phải học hỏi nữa. Dĩ nhiên, tất cả những người được phỏng vấn về kinh nghiệm cận tử của họ đă trở về với xác thân.
Có một sự tương đồng sâu sắc trong những câu chuyện của họ. Họ rời khỏi xác thân và "quan sát" những cố gắng hồi sinh từ một điểm bên trên thân thể của họ. Cuối cùng họ nhận thấy một ánh sáng chói lọi hay một bóng dáng "thần linh" rực sáng ở xa, đôi khi ở cuối đường hầm. Họ không cảm thấy đau đớn.
Khi họ nhận thức được nhiệm vụ trên thế gian chưa hoàn tất, và họ phải quay về với xác thân, họ hợp nhất ngay lại với xác thân và lại ư thức đau đớn và những cảm giác thể xác khác.
Tôi có một vài bệnh nhân có kinh nghiệm lúc cận tử. Câu chuyện hứng thú nhất là câu chuyện của một thương gia Nam Mỹ khá giả được tôi khám bệnh trong một số buổi tâm lư trị liệu thông thường khoảng hai năm sau khi việc điều trị cho Catherine chấm dứt.
Jacob bị một người đi mô tô đâm phải không c̣n biết ǵ ở Ḥa Lan năm 1975 khi ông ta mới ngoài 30 tuổi. Ông nhớ là bay lơ lửng trên xác thân và nh́n xuống xem quang cảnh chỗ tai nạn, chú ư đến xe cứu thương, bác sĩ chăm sóc vết thương, và đám đông người xúm lại xem.
Ông nhận thấy ánh sáng vàng ở đằng xa, và ông tiến lại gần ánh sáng ấy, ông thấy một nhà sư mặc bộ y nâu. Nhà sư này bảo Jacob chưa phải là lúc Jacob phải chết, ông ta phải quay về với xác thân. Jacob nh́n thấy sự thông thái và tài năng của nhà sư, nhà sư này cũng nêu lên một vài biến cố tương lai trong cuộc đời của Jacob, tất cả những biến cố này sau này đều xẩy ra. Jacob nhập lại vào xác thân, nay ở bệnh viện, tỉnh lại, và lần đầu tiên nhận thấy đang bị hành ha bởi đau đớn.
Năm 1980 Jacob là người Do Thái trong khi đi du lịch tại Do Thái, ông ta có đến thăm Hang động của các Giáo Trưởng ở Hebron, thánh địa của cả người Do Thái Giáo lẫn Hồi Giáo. Sau kinh nghiệm tại Ḥa Lan, ông đă trở nên mộ đạo nhiều hơn và đă bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn.
Ông ta thấy một nhà thờ Hồi Giáo gần đấy và ngồi xuống cầu nguyện cùng người Hồi giáo. Một lúc sau, ông đứng dậy đi. Một người Hồi Giáo già tiến lại gặp ông và nói rằng, "Ông thật khác với những người khác. Họ ít khi ngồi xuống cùng cầu nguyện với chúng tôi."
Cụ già ngừng một chút, nh́n kỹ Jacob trước khi tiếp tục, " Ông đă gặp một nhà sư, đừng quên những ǵ nhà sư đă nói với ông." Năm năm sau tai nạn xẩy ra và cách xa hàng ngàn dậm, một cụ già biết cuộc gặp gỡ giữa nhà sư và Jacob, cuộc gặp gỡ xẩy ra trong khi Jacob bất tỉnh.
Ở pḥng mạch, cân nhắc những tiết lộ mới nhất của Catherine, tôi băn khoăn điều mà những người viết Hiến Pháp và Đạo Quyền của Mỹ có lẽ đă nghĩ về một tuyên bố rằng tất cả con người không được sinh ra b́nh đẳng. Người ta sinh ra với tài trí, khả năng, và sức mạnh từ những kiếp khác. "Nhưng cuối cùng chúng ta tiến đến một điểm nơi mà tất cả chúng ta sẽ b́nh đẳng". Tôi nghi ngờ điểm này cách nhau nhiều, nhiều kiếp sống.
Tôi nghĩ đến thần đồng Mozart và tài năng không thể tưởng được lúc thiếu thời. Phải chăng đó cũng là một sự chuyển những khả năng cũ trước đây từ kiếp trước? Dường như chúng ta mang theo những khả năng cũng như những nợ nần.
Tôi đă nghĩ về chuyện làm sao mà con người hay tụ họp lại thành những nhóm thuần nhất, hay tránh xa và thường làm người ngoài sợ hăi. Đó là cái gốc của thành kiến và hận thù nhóm. " Chúng ta phải học hỏi không chỉ đi tới những người có cùng xung động như chúng ta." Để giúp đỡ những người khác này, tôi có thể cảm thấy chân lư tinh thần trong những lời này của cô.
Catherine tiếp tục, "Tôi phải trở lại", "Tôi phải trở lại". Tôi muốn được nghe nhiều nữa. Tôi hỏi cô ai là Robert Jarrod. Cô đă nói ra tên này trong buổi thôi miên kỳ trước, nói rằng người này cần sự giúp đỡ của tôi.
"Tôi không biết...Có thể ông ta ở một b́nh diện khác, không phải b́nh diện này. Dường như cô không thể t́m ra ông ta. "Chỉ khi nào ông ta muốn, giá mà ông ta quyết định đến với tôi", cô th́ thào, "ông ta sẽ nhắn tin cho tôi. Ông ta cần sự giúp đỡ của ông".
Tôi vẫn không thể hiểu làm sao tôi có thể giúp được.
"Tôi không biết", Catherine trả lời. "Nhưng ông là người được học hành, chứ không phải là tôi."
Điều này thật là thú vị. Điều này có thật quan trọng đối với tôi không? Hay tôi phải giúp Robert Jarrod v́ được học hành? Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói ǵ về ông ta cả.
Cô nhắc lại, "Tôi phải trở về". "Tôi phải đi đến chỗ ánh sáng trước nhất."
Đột nhiên cô lo sợ. "Ối Ối, Tôi do dự quá lâu ... V́ tôi do dự, nên tôi lại phải chờ." Trong khi cô chờ đợi tôi hỏi cô đang nh́n thấy ǵ và cảm nghĩ thế nào.
"Đúng là những thần linh khác, những linh hồn khác. Họ cũng đang chờ đợi." Tôi hỏi cô liệu có cái ǵ để dạy chúng tôi trong khi cô chờ đợi. Tôi hỏi, "Cô có thể cho chúng tôi biết điều ǵ chúng tôi phải biết không?"
"Họ không ở đây để nói với tôi", cô trả lời. Thật hấp dẫn. Nếu các Thần Linh Bậc Thầy không có ở đấy để cho cô nghe, Catherine không thể tự ḿnh cung cấp kiến thức.
"Tôi rất bồn chồn khi ở đây. Tôi rất muốn đi ... Khi nào đúng lúc, tôi sẽ đi". Một lần nữa, ít phút im lặng trôi qua. Cuối cùng hẳn là đă đúng lúc. Cô lại rơi vào một kiếp sống khác.
"Tôi nh́n thấy những cây táo và một ngôi nhà, ngôi nhà trắng. Tôi sống trong nhà đó. Những trái táo bị sâu ăn ...không tốt để ăn. Có một cái đu, một cái đu dưới ṿm cây".
Tôi bảo cô hăy nh́n vào chính ḿnh.
"Tôi có tóc mịn màng, vàng hoe; tôi năm tuổi, Tên tôi là Catherine." Tôi rất ngạc nhiên. Cô đă vào hiện kiếp; cô là Catherine năm tuổi. Nhưng cô phải ở đấy v́ một lư do nào đó. "Có điều ǵ đang xẩy ra ở đó Catherine?"
"Cha tôi giận dữ với chúng tôi..nguyên nhân là chúng tôi không được phép ra ngoài. Ông..ông đánh tôi bằng một cái gậy. Cái gây này rất nặng nó làm tôi đau..Tôi sợ hăi lắm".
Cô đang rên rỉ và nói như một đứa trẻ. "Cha tôi không ngưng đánh cho đến khi ông đă làm cho chúng tôi đau. Tại làm sao ông có thể làm như vậy với chúng tôi? Tại sao ông lại hèn hạ thế? Tôi yêu cầu cô hăy nh́n đời cô bằng một cái nh́n cao hơn và trả lời những câu hỏi của chính cô.
Tôi vừa mới đọc sách nói về những người có thể làm như thế. Một số nhà văn gọi cái nh́n này là cái Ngă Cao Cả hay hay Cái Ta Cao Thượng. Tôi rất ṭ ṃ muốn biết liệu Catherine có thể tiến tới trạng thái này không, nếu nó hiện hữu.
Nếu cô có thể, đây sẽ là một kỹ thuật chữa bệnh mạnh, con đường tắt vào nhận thức đúng bản chất và hiểu biết. "Ông không bao giờ muốn chúng tôi", cô th́ thào rất nhẹ. Ông cảm thấy chúng tôi là sự xâm phạm vào đời ông... Ông không muốn có chúng tôi".
Tôi hỏi: "Cả Anh cô nữa sao?"
"Vâng anh tôi c̣n tệ hơn nữa. Họ chưa bao giờ định có anh tôi. Họ chưa lấy nhau khi bà đă có thai với ông". Việc này chứng tỏ tin tức mới làm cho Catherine sửng sốt. Cô chưa bao giờ biết về việc mẹ cô mang thai trước khi cưới. Sau này, mẹ cô xác nhận khám phá của Catherine là đúng.
Mặc dầu cô kể lại hiện kiếp, nhưng lúc này Catherine cho thấy sự khôn ngoan và một nhăn quan về đời sống của ḿnh trước đây đă bị giới hạn trong trạng thái nửa nọ nửa kia, hay trạng thái tinh thần. Dù sao có một phần "cao hơn trong tâm trí cô, hồ như siêu thức.
Có lẽ đây là cái Ngă Cao mà những người khác đă mô tả. Mặc dầu không tiếp xúc với các Thần Linh Bậc Thầy và những kiến thức kỳ lạ của các Ngài, tuy nhiên trong trạng thái siêu thức của cô, cô có một nhận thức đúng bản chất và tin tức sâu sắc, cũng như về sự thụ thai của người anh cô.
Cái thức của Catherine khi tỉnh giấc, lo lắng và giới hạn nhiều hơn, tầm thường và nông cạn hơn nhiều. Cô không thể kết nối vào trạng thái siêu thức. Tôi không biết các nhà tiên tri và những nhà hiền triết của các tôn giáo Phương Đông và Tây, những người gọi là " hiện thực", có thể dùng trạng thái siêu thức để đạt trí tuệ và kiến thức không.
Nếu như vậy th́ tất cả chúng ta đều có khả năng làm như thế v́ chúng ta phải có cái siêu thức này. Nhà phân tích tâm lư Carl Jung nhận thấy có nhiều mức độ thức khác nhau. Ông viết về cái vô thức chung, một trạng thái tương tự như siêu thức của Catherine.
Tôi ngày càng nản ḷng bởi hố sâu ngăn cách không vượt qua được giữa cái thức của Catherine, cái trí tuệ lúc thức và cái tâm trí siêu thức lúc hôn mê. Trong khi cô bị thôi miên, tôi có những cuộc đối thoại triết học say mê với cô ở mức siêu thức.
Tuy nhiên khi tỉnh dạy, Catherine không quan tâm ǵ đến triết lư hay những vấn đề đă nêu. Cô sống trong một thế giới của những điều vụn vặt hàng ngày, quên lăng một thiên tài ở nơi cô.
Trong khi đó cha cô hành hạ cô, và những lư do trở nên rơ ràng. "Ông có nhiều bài học phải học", tôi nói một cách ngờ vực.
" Vâng.. ông phải học".
Tôi hỏi cô liệu ông phải học ǵ.
"Kiến thức này không được tiết lộ cho tôi". Giọng nói của cô rời rạc xa xăm. "Điều ǵ được tiết lộ cho tôi là điều quan trọng với tôi, điều liên quan đến tôi. Mỗi người phải tự quan tâm đến ḿnh..tự ḿnh làm ... toàn bộ.
Chúng ta có những bài học để học...mỗi một người trong chúng ta. Những bài học này phải được học một lần vào một lúc nào đó... có thứ tự. Chỉ khi đó chúng ta mới biết điều mà người kế tiếp cần, điều mà anh ấy hay chị ấy thiếu, hay chúng ta thiếu, để làm thành toàn bộ"
Cô nói trong giọng th́ thào, tiếng th́ thầm của cô truyền đạt một cảm giác về sự suy xét độc lập đáng mến. Khi Catherine lại nói, giọng trẻ nít của cô trở lại. "Ông ta làm cho tôi bệnh. Ông bắt tôi ăn những món ăn tôi không thích. Một số món như rau diếp, hành, món ăn tôi ghét. Ông ta bắt tôi ăn thứ đó tôi sẽ bị bệnh. Nhưng ông không cần.
Catherine bắt đầu hổn hển. Cô đang hít không khí. Tôi lại gợi ư cô nh́n quang cảnh từ một nhăn quan cao hơn, cô cần hiểu rằng tại sao cha cô hành động như vậy. Catherine nói bằng giọng tha thứ. " Phải làm đầy cái trống trải nơi ông. Ông ghét tôi v́ điều ông đă làm. Ông ghét tôi v́ điều đó, và chính ông ghét ông". cô th́ thào nhẹ nhàng. "Tôi biết ông trước đây, nhưng bây giờ không thể dùng được tin tức này. "Tôi phải trở lại thời gian đó".
Mặc dù một vài giờ đă qua đi, tôi muốn quay về với những quan hệ trước đây của họ. Tôi cho cô chỉ dẫn với chi tiết.
"Cô đang ở trang trạng thái hôn mê sâu. Vào lúc tôi sắp sửa đếm ngược trở lại ba đến một ngày. Cô sẽ ở trong trạng thái sâu hơn và cô sẽ cảm thấy hoàn toàn an toàn. Tâm trí cô sẽ tự do lang thang về thời gian trước đây, thời gian liên quan đến cha cô trong cuộc sống hiện tại của cô bắt đầu, trở về thời gian có ư nghĩa nhất về việc xẩy ra lúc thơ ấu giữa cha cô và cô.
Khi tôi nói "một", cô sẽ quay trở về kiếp sống đó và hăy nhớ lấy. Việc này rất quan trong cho việc chữa bệnh của cô. Cô có thể làm được việc đó . Ba... hai... một. " Im lặng một hồi lâu.
"Tôi không nh́n thấy ông... nhưng tôi nh́n thấy người ta bị giết. Giọng của cô trở thành ầm ĩ và khàn khàn. Chúng ta không có quyền ngăn chặn đời sống của người khác, trước khi họ đă sống sót ngoài nghiệp của họ. Và chúng ta đang làm việc này. Chúng ta không có quyền. Họ sẽ bị quả báo nếu chúng ta để họ sống.
Khi họ chết họ sẽ đi vào phương chiều kế tiếp, họ sẽ khổ sở tại đấy. Họ sẽ bị đưa vào một trang thái rất buồn bực. Họ sẽ không có yên ổn. Họ sẽ bị gửi trở lại, và đời sống của họ sẽ rất khó khăn. Họ sẽ phải đền bù những người mà họ gây đau đớn v́ bất công, những người họ đă chống lại. Họ đă ngăn chận đời sống của những người này, và họ không có quyền làm thế.
Chỉ có Thượng Đế mới trừng phạt được những người ấy thôi, chứ không phải là chúng ta. Họ sẽ bị trừng phạt. Một phút im lặng trôi qua. Cô th́ thầm "Họ đi rồi". Hôm nay các vị Thần Linh Bậc Thầy đă cho chúng ta một lời phán truyền nữa, mạnh mẽ và rơ ràng. Chúng ta không được giết, dù trong hoàn cảnh nào. Chỉ có Thượng Đế mới có thể trừng phạt.
Catherine mệt lử. Tôi quyết định dời lại việc truy cứu về sự liên hệ ở tiền kiếp với cha cô, và tôi đưa cô ra khỏi hôn mê. Cô không nhớ ǵ cả ngoại trừ hóa thân là Christian và Catherine c̣n nhỏ.
Cô mệt mỏi, nhưng an lạc và thư giăn như thể trút được một gánh nặng đă được nhấc đi từ cô. Mắt tôi bắt gặp mắt Carole, Chúng tôi đều mệt lừ. Chúng tôi đă run rẩy và đă đổ mồ hôi, chú tâm vào mỗi lời nói. Chúng tôi cùng chia sẻ một kinh nghiệm không thể tưởng tượng được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 518 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 4:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG SÁU
Bây giờ tôi ấn định các buổi thôi miên hàng tuần cho Catherine vào cuối ngày v́ các buổi này phải mất chừng vài tiếng. Cô vẫn có bề ngoài thanh thản khi cô đến vào tuần kế tiếp. Cô đă nói chuyện bằng điện thoại với cha cô. Không cho cha cô biết chi tiết nào, cô đă tha thứ cho ông theo cách của cô.
Tôi chưa bao giờ thấy cô thanh thản như thế. Tôi kinh ngạc về sự tiến bộ nhanh chóng của cô. Rất hiếm có một bệnh nhân với nỗi lo âu kinh niên và sợ hăi thâm chí thâm căn cố đế chuyển biến quá đột ngột như vậy. Mặt khác, dĩ nhiên Catherine không phải là một bệnh nhân thường, và tiến tŕnh chữa trị cho cô là duy nhất.
"Tôi nh́n thấy một con búp bê sứ để trên mặt loại ḷ sưởi nào đó." Cô đă rơi nhanh vào hôn mê sâu. "Có những cuốn sách ở cả hai bên gần ḷ sưởi. Đó là một căn pḥng trong một ngôi nhà nào đó. Có những cây đèn nến gần con búp bê và một bức tranh chân dung ... một bộ mặt, mặt của một người đàn ông... Đó là ông ta..." Cô đang quan sát căn pḥng. Tôi hỏi cô, cô nh́n thấy ǵ.
"Một loại thảm phủ sàn nhà. Nó xù xù giống như ... đó là da thú... phải một loại da thú phủ sàn nhà. Bên phải có hai cửa kính... dẫn ra ngoài hành lang. Có bốn bậc những cái cột ở mặt tiền. Có bốn bậc thềm đi xuống. Những bậc này dẫn ra một con đường. Nhiều cây to bao chung quanh... Có một vài con ngựa bên ngoài. Những con ngựa được buộc vào .... mấy cái cọc ở phía trước".
Tôi hỏi , "Cô có biết chỗ ấy ở đâu không?" Catherine hít một hơi dài.
"Cô th́ thào, "Tôi không biết địa điểm", "nhưng năm, năm phải ở đâu đây. Đó là thế kỷ thứ mười tám, nhưng tôi không biết ... có cây cối và hoa vàng, những bông hoa vàng rất đẹp". Cô bị xao lăng bởi những bông hoa này.
"Mùi hoa tuyệt vời; ngọt ngào, những bông hoa... những bông hoa kỳ lạ, những bông hoa to lớn... những bông hoa vàng nhị đen ở giữa hoa". Cô tạm ngừng, vẫn c̣n ở giữa những bông hoa. Tôi nhớ đến những cánh đồng hoa hướng dương ở miền nam nước Pháp. Tôi hỏi cô về khí hậu tại đấy.
"Rất ôn ḥa, không gió nhiều. Không nóng mà cũng chẳng lạnh". Chúng tôi không đạt được sự tiến triển nào trong việc nhận dạng ra nơi nào. Tôi đưa cô trở lại ngôi nhà, xa rời những đóa hoa vàng quyến rũ, và tôi hỏi cô chân dung để trên ḷ sưởi.
"Tôi không thể ...Tôi vẫn nghe Aaron... tên ông đó là Aaron." Tôi hỏi liệu ông ta là chủ nhà không. "Không, con ông ta mới là chủ nhà. Tôi làm việc ở đấy". Lại một lần nữa cô được phân vai là người hầu. Cô chưa bao giờ được đến gần tượng của Cleopatra hay Napoleon.
Những người nghi ngờ về đầu thai luân hồi, kể cả bản thân tôi được huấn luyện khoa học cho đến tận hai tháng vừa qua, thường trông đợi vào t́nh trạng hay xảy ra về hóa thân hơn của những người nổi tiếng rất nhiều. Bây giờ tôi thấy ḿnh đang ở một vị thế bất thường nhất v́ đă chứng minh được luân hồi bằng khoa học ngay tại văn pḥng của Khoa Tâm Thần. Và hơn thế nữa, luân hồi đang được khám phá.
"Cẳng tôi rất ..." Catherine tiếp tục, "rất nặng. Nó bị đau. Hầu như là nó không ở đấy... Chân tôi đau. Ngựa đá tôi". Tôi bảo cô hăy nh́n vào chính ḿnh.
"Tôi có tóc mầu nâu, tóc nâu xoắn. Tôi mang một loại mũ bê rê, một loại mũ bê rê trắng ... một bộ đồ xanh với một loại tạp dề bên ngoài ... tạp dề. Tôi trẻ nhưng không phải là đứa trẻ con. Nhưng chân tôi đau. Việc mới xẩy ra, tôi bị đau kinh khủng".
Trông cô thấy rơ là rất đau. " Móng ngựa... móng ngựa. Nó đá tôi bằng móng của nó. Con ngựa này thật hắc búa". Giọng cô trở nên dịu hơn v́ cuối cùng cơn đau đă giảm. "Tôi có thể ngửi thấy mùi cỏ khô, cỏ khô trong chuồng. Có người đang làm việc trong khu chuồng ngựa". Tôi hỏi về nhiệm vụ của cô.
"Tôi có bổn phận hầu hạ ... hầu hạ trên nhà lớn. Tôi cũng phải làm việc vắt sữa ḅ". Tôi muốn biết nhiều hơn về những người chủ.
"Người vợ khá tṛn trĩnh, trông rất vụng về. Có hai đứa con gái... Tôi không biết chúng". Cô nói thêm, đoán trước câu hỏi tiếp theo của tôi là liệu có người nào đă hiện thân trong đời sống hiện tại của Catherine không. Tôi hỏi về gia đ́nh cô ở thế kỷ thứ mười tám.
"Tôi không biết, Tôi không nh́n thấy họ, Tôi không thấy ai ở với tôi. Tôi hỏi có phải cô sống ở đấy không. "Vâng tôi sống ở đấy, nhưng không phải ở ṭa nhà chính. Một cái nhà rất nhỏ ... họ cho chúng tôi. Có những con gà. Chúng tôi nhặt trứng. Trứng gà màu nâu. Nhà tôi rất nhỏ ... và trắng... một pḥng. Tôi thấy một người đàn ông. Tôi sống với người này. Anh ta có bộ tóc xoắn và mắt xanh". Tôi hỏi phải chăng họ là vợ chồng.
"Không phải trong nghĩa vợ chồng, không." Có phải cô sinh ra ở đấy không? Không, Tôi được mang về vùng này khi tôi c̣n rất trẻ. Gia đ́nh tôi rất nghèo". Người đàn ông của cô dường như không thân thuộc. Tôi bảo cô đi xa hơn nữa trong đời sống này để t́m ra biến cố có ư nghĩa hơn.
"Tôi nh́n thấy cái ǵ đó trắng... trắng với nhiều dải trên đó. Phải là một cái mũ. Một loại mũ bê rê, với những lông vũ và dải trắng."
"Ai đội mũ ấy. Có phải - Cô ngắt lời tôi.
"Bà chủ ngôi nhà này, dĩ nhiên". Tôi cảm thấy hơi ngớ ngẩn. Đó là đám cưới của một trong hai người con gái. Toàn bộ cơ ngơi này tham gia lễ cưới." Tôi hỏi cô báo chí có nói ǵ về đám cưới này không. Nếu có tôi muốn cô nh́n vào ngày tháng.
"Không, tôi không tin là có báo chí tại đấy. Tôi không thấy cái ǵ như thế. Khó mà t́m được tài liệu để chứng minh ở kiếp sống này". " Cô có thấy cô trong đám cưới này không?" Tôi hỏi. Cô to tiếng trả lời nhanh chóng.
"Chúng tôi không dự đám cưới. Chúng tôi chỉ nh́n thấy người ta ra vào. Những người đầy tớ không được phép".
"Cảm nghĩ của cô thế nào?"
"Ghét".
"Tại sao? Họ đối xử với cô không tốt ư?"
Cô trả lời dịu dàng, "V́ chúng tôi nghèo, và chúng tôi bị ràng buộc với họ. Chúng tôi không thể sánh với những ǵ họ có".
"Cô có bao giờ ra khỏi cơ ngơi này không? Hay cô ở đấy suốt đời?"
Cô trả lời có vẻ đăm chiêu. "Tôi ở đấy suốt đời". Tôi cảm thấy nỗi buồn của cô. Cuộc đời của cô vừa khó khăn vừa vô vọng. Tôi bảo cô tiến tới ngày chết.
"Tôi thấy một ngôi nhà. Tôi thức dậy muộn, đang nằm dài trên giường. Họ cho tôi uống một thứ ǵ đó, một thứ ǵ ấm. Có mùi bạc hà. Lồng ngực tôi rất nặng nề. Rất khó thở ... Tôi đau nơi ngực và lưng... Đó là một nỗi đau tồi tệ ... rất khó diễn đạt". Cô thở nhanh và thở hắt ra, trong nỗi đau ghê gớm. Sau ít phút hấp hối, mặt cô dịu lại và thân thể cô giăn ra. Hơi thở của cô trở lại b́nh thường.
"Tôi đă rời khỏi thân xác". Giọng cô to và khàn khàn. "Tôi nh́n thấy một ánh sáng tuyệt vời ... Có người lại với tôi. Họ đến để giúp tôi. Những người tuyệt vời. Họ không sợ hăi... Tôi cảm thấy rất nhẹ nhàng..." Ngưng khá lâu.
"Cô có suy nghĩ nào về kiếp sống mà cô vừa bỏ đi không?"
"Đó là sau này. Bây giờ, tôi cảm thấy an b́nh. Đây là lúc an ủi. Người tham dự phải được giải khuây. Linh hồn ... linh hồn t́m thấy an b́nh nơi đây. Bạn để lại tất cả đau đớn thể xác sau bạn. Linh hồn của bạn an lạc và thanh thản. Đó là một cảm giác tuyệt vời... . tuyệt vời, như thể mặt trời luôn luôn chiếu sáng vào bạn.
Ánh sáng thật rực rỡ ! Mọi thứ xuất phát từ ánh sáng ! Năng lượng xuất phát từ ánh sáng. Linh hồn của chúng ta đi ngay đến đó. Nó hầu như giống một lực từ trường lôi cuốn chúng ta vào. Thật là tuyệt vời. Nó giống như nguồn sức mạnh. Nó biết cách chữa lành."
"Nó có mầu sắc không?"
"Nó nhiều mầu sắc." Cô ngưng lại và nghỉ ngơi trong ánh sáng này.
Tôi đánh bạo hỏi, "Thế cô đang kinh qua cái ǵ?"
"Không có ǵ cả... chỉ là sự an b́nh mà thôi. Bạn đang ở giữa đám bạn bè. Họ đều ở đây. Tôi nh́n thấy rất nhiều người. Một số người rất quen, một số người không quen. Nhưng chúng tôi ở đấy, chờ đợi". Cô tiếp tục đợi và ít phút chậm chạp trôi qua. Tôi quyết định đẩy nhanh nhịp độ.
"Tôi có câu hỏi"
"Về ai" Catherine hỏi.
"Một người nào đó - cô hay các Bậc Thầy", Tôi quanh co, " Tôi nghĩ rằng hiểu biết điều này sẽ giúp chúng tôi. Câu hỏi như thế này : Chúng ta chọn thời điểm và cách sinh ra, cách chết không? Chúng ta có thể chọn t́nh thế không? Có thể chúng ta chọn thời điểm né tránh nữa không? Tôi nghĩ hiểu được việc đó th́ sẽ giảm nhiều sợ hăi.
Có người nào ở đấy có thể trả lời câu hỏi này không?" Căn pḥng h́nh như lạnh lẽo. Khi Catherine nói lại, giọng cô sâu hơn và âm vang hơn. Đó là một giọng nói mà tôi chưa từng nghe trước đây. Đó là giọng nói của một thi nhân.
"Vâng, chúng ta chọn khi chúng ta nhập vào trạng thái thể chất của chúng ta, và khi chúng ta rời bỏ. Chúng ta biết khi chúng ta đă hoàn thành cái mà chúng ta được gửi xuống nơi này để hoàn tất. Chúng ta biết khi nào thời điểm đến, và bạn sẽ phải chấp nhận cái chết của bạn.
V́ bạn biết là bạn chẳng kiếm được ǵ nữa ngoài kiếp sống này. Khi bạn có thời gian, khi bạn đă có thời gian để nghỉ ngơi và tiếp sinh lực lần nữa cho linh hồn của bạn, bạn được phép tái nhập lại trạng thái vật chất. Những người do dự, những người không chắc chắn quay về nơi đây, họ có thể mất cơ may cho họ, cơ may để chu toàn điều họ phải làm khi họ ở trong trạng thái vật chất".
Tôi hoàn toàn biết ngay đó không phải là Catherine nói. "Ai là người đang nói với tôi," tôi cầu khẩn; "Ai đang nói"
Catherine trả lời với giọng th́ thào quen thuộc . "Tôi không biết. Giọng nói của một người nào đó ... . chính người kiểm soát sự việc, nhưng tôi không biết là ai. Tôi chỉ có thể nghe tiếng người ấy và cố gắng nói cho ông biết người ấy nói ǵ."
Cô cũng biết kiến thức này không bắt nguồn từ nơi cô, không phải từ tiềm thức, cũng không phải từ vô thức. Thậm chí không phải từ cái ngă siêu thức của cô. Bằng cách này cách khác cô đă nghe được và truyền đạt cho tôi, những lời nói và tư tưởng của một người nào đó rất đặc biệt, một người nào đó "kiểm soát sự việc."
Bởi vậy một Bậc Thầy khác đă xuất hiện, khác hẳn vị thầy hay một số thầy từ những lời phán truyền đầy thông thái trước đây. Đó là một thần linh mới, với một giọng nói và kiểu cách tiêu biểu, rất nên thơ và thanh thản. Đó là Bậc Thầy nói về cái chết không chút lưỡng lự, tuy giọng nói và tư tưởng thấm đượm t́nh thương yêu.
T́nh thương yêu dường như nồng ấm và thiết thực, tuy vô tư và phổ quát. T́nh thương đó dường như hạnh phúc tột đỉnh, nhưng không che giấu, hay xúc động hay trói buộc. Nó tiếp sức cho cảm nghĩ về t́nh thương vô tư, hay ḷng tŕu mến vô tư và nó h́nh như thân thuộc xa xôi.
Giọng th́ thào của Catherine trở nên lớn hơn."Tôi không có niềm tin vào những người này."
"Không có niềm tin vào những người nào" Tôi chất vấn.
"Vào những Bậc Thầy."
"Không có niềm tin?"
"Không, tôi không có niềm tin. Đó là lư do tại sao đời tôi quá khó khăn. Tôi đă không có niềm tin ở trong kiếp sống đó." Cô b́nh tĩnh đánh giá cuộc sống của cô ở thế kỷ thứ mười tám. Tôi hỏi cô đă học hỏi được ǵ trong kiếp sống đó.
"Tôi biết nóng giận và hận thù, biết nuôi dưỡng cảm nghĩ của tôi đối với người ta. Tôi cũng biết là tôi đă không kiểm soát được đời tôi. Tôi muốn kiểm soát nhưng tôi không có ǵ. Tôi phải có niềm tin ở các Bậc Thầy. Các Thầy sẽ hướng dẫn tôi thông suốt. Nhưng tôi lại không có niềm tin.
Tôi cảm thấy như thể là bị thất bại ngày từ lúc đầu. Tôi không bao giờ nh́n vào sự việc một cách vui vẻ. Chúng ta phải có niềm tin ... chúng ta phải có niềm tin. Nhưng tôi lại nghi ngờ. Tôi chọn nghi ngờ thay v́ tin tưởng". Cô ngưng lại.
"Cô nên làm ǵ, và Tôi làm ǵ để làm cho chúng ta tốt hơn? Phải chăng con đường của chúng ta vẫn như thế?" Tôi hỏi. Câu trả lời của Bậc Thầy tuần trước đă nói về sức mạnh trực giác và sự trở về từ hôn mê bất tỉnh. Giọng nói, kiểu nói, âm thanh, tất cả đều khác với Catherine lẫn vị Thầy phái nam, thi nhân vừa mới nói.
"Con đường của mỗi người trên cơ bản là giống nhau. Tất cả chúng ta phải học hỏi một số thái độ trong khi chúng ta ở trong trạng thái vật chất. Một số người trong chúng ta chấp nhận chúng nhanh hơn những người khác. Ḷng nhân từ, hy vọng, niềm tin, t́nh thương ... tất cả chúng ta phải biết và biết rơ những điều này.
Không phải chỉ có một hy vọng, một niềm tin, và một t́nh thương - có nhiều thứ nuôi dưỡng một trong những thứ này. Có rất nhiều cách để diễn tả chúng. Và tuy vậy chúng ta chỉ mới kết nối một chút vào mỗi một...
"Người của những đoàn thể tôn giáo đă tới gần hơn bất kỳ ai ở trong số chúng ta v́ họ đă có những lời nguyện và sự tuân theo. Họ nhượng bộ nhiều mà không đ̣i hỏi ǵ trở lại.
Phần c̣n lại của chúng ta tiếp tục đ̣i hỏi ân huệ giải thưởng và sự liên hệ cho cách ứng xử của chúng ta ... khi không có giải thưởng mà chúng ta muốn. Giải thưởng nằm trong việc làm, nhưng việc làm mà không trông đợi ǵ, làm một cách không vị kỷ.
Catherine thêm bằng một giọng th́ thầm dịu dàng, "Tôi đă không biết điều đó."
Tôi bối rối một lần bởi từ "trong trắng" nhưng tôi nhớ nghĩa gốc của nó là "thanh khiết" nói đến ở một trạng thái rất khác với trinh tiết.
Cô tiếp tục. "Không phải là ham mê thái quá, điều ǵ làm quá nhiều... quá nhiều Bạn sẽ hiểu. Bạn sẽ thực sự hiểu". Cô lại ngừng.
Tôi thêm,"Tôi đang cố gắng". Rồi tôi quyết định tập trung vào Catherine. Có lẽ các Bậc Thầy chưa rời đi. " Tôi có thể làm ǵ tốt nhất để giúp Catherine vượt qua sợ hăi và lo âu? Và học hỏi được những bài học của cô? Đó có phải là cách tốt nhất không, hay tôi phải thay đổi cái đó? Hay phải đi vào một nơi đặc biệt? Làm sao tôi có thể giúp cô tốt nhất? "
Câu trả lời đến từ một giọng sâu của Bậc Thầy thi nhân. Từ trên ghế tôi nhoài người về phía trước.
"Ông đang làm điều đúng. Nhưng điều đó cho ông chứ không phải cho cô ấy. Một lần nữa, lời nhắn nhủ nói là v́ lợi ích của tôi nhiều hơn là cho Catherine.
"Cho tôi?"
"Đúng. Cái mà chúng tôi nói là cho ông." Không những ông đang đề cập đến Catherine ở ngôi thứ ba mà ông c̣n nói "chúng tôi". Quả thực có một vài Thần Linh Bậc Thầy có mặt.
"Có thể cho tôi biết tên của các Ngài được không?" Tôi lập tức cau mày v́ bản chất trần tục của câu hỏi. "Tôi cần sự hướng dẫn. Tôi có quá nhiều điều muốn biết."
Câu trả lời là một bài thơ về t́nh thương, một bài thơ về đời tôi và cái chết của tôi. Giọng nói dịu dàng và êm ái, và tôi cảm thấy một t́nh yêu vô tư của một thần linh hoàn vũ. Tôi nghe trong ḷng kinh sợ.
"Ông sẽ được hướng dẫn vào đúng lúc. Ông sẽ được hướng dẫn ... đúng lúc. Khi ông hoàn thành điều mà ông đă được phái đến đây để hoàn tất, rồi đời ông sẽ chấm dứt. Nhưng không phải trước lúc ấy. Ông có nhiều th́ giờ ở tương lai... rất nhiều th́ giờ."
Tôi vừa lo vừa thoát cơn sợ hăi. Tôi vui ông không nói ǵ đặc biệt nữa. Catherine trở nên bồn chồn. Cô th́ thào.
" Tôi đang rơi, rơi xuống ... cố t́m ra đời tôi... rơi xuống. Cô thở dài và tôi cũng thở dài. Các Bậc Thầy đă đi khỏi. Tôi trầm ngâm với lời giáo huấn huyền diệu, những lời nhắn gửi rất cá tính từ các nguồn gốc rất thần linh.
Ngụ ư tràn đầy. Ánh sáng sau khi chết và đời sống sau khi chết; sự chọn lựa của chúng ta khi chúng ta sinh ra và khi chúng ta sẽ chết; sự hướng dẫn chính xác và không sai lầm của các Bậc Thầy; các kiếp sống được đo lường trong các bài học được học và trong các nhiệm vụ đă được thực hiện không phải trong những năm tháng.
Về ḷng nhân từ, hy vọng, niềm tin, và t́nh thương yêu; làm mà không mong đợi được đền đáp kiến thức này là cho tôi. Nhưng cho mục đích ǵ? Tôi được gửi đến đây để hoàn thành cái ǵ?
Những lời nhắn gây ấn tượng mạnh và những biến cố đổ như thác đổ vào tôi trong pḥng mạch phản ảnh những thay đổi sâu xa trong đời sống cá nhân và gia đ́nh tôi. Sự thay đổi từ từ len lỏi vào nhận thức của tôi.
Thí dụ, tôi đang lái xe đưa con trai tôi đi tới xem trận đấu bóng chày của trường đại học khi chúng tôi bị kẹt xe. Tôi lúc nào cũng rất khó chịu khi bị kẹt xe và bây giờ chúng tôi sẽ mất lượt chơi đầu hay lượt chơi thứ hai của trận đấu. Tôi thấy không khó chịu. Tôi không c̣n trách cứ người lái xe kém cỏi nào đó. Cơ bắp cổ tôi và vai tôi thấy thoải mái.
Tôi không cáu kỉnh với con tôi, và chúng tôi vượt qua thời gian trong khi nói chuyện với nhau. Tôi nhận thấy rằng chỉ muốn có một buổi chiều vui vẻ với Jordan để xem trận đấu mà cả hai cha con tôi đều vui vẻ. Mục đích của buổi chiều hôm đó là được ở cùng nhau. Nếu tôi khó chịu và giận dữ, cuộc đi chơi có lẽ đă bị hỏng.
Tôi nh́n vào các con tôi và vợ tôi và băn khoăn không biết chúng tôi có ở với nhau từ trước không. Phải chăng chúng tôi đă lựa chọn để cùng nhau chia sẻ những thử thách và những thảm kịch và những niềm vui của đời sống này? Phải chăng chúng tôi trẻ măi không già?
Tôi cảm thấy ḷng thương yêu và tŕu mến to lớn đối với vợ con tôi. Tôi hiểu rằng những thiếu sót và sai lầm của họ đều rất nhỏ nhoi. Những điều đó thực sự không quan trọng. T́nh thương yêu mới quan trọng.
Thậm chí tôi thấy ḿnh bỏ qua những thiếu sót của chính tôi v́ cùng một lư do. Tôi không cần phải cố gắng để được hoàn hảo hay lúc nào cũng biết kiềm chế. Thực sự không cần gây ấn tượng cho ai.
Tôi rất sung sướng được chia sẻ kinh nghiệm này với Carole. Chúng tôi nói chuyện với nhau sau bữa cơm chiều và đưa ra những cảm nghĩ và phản ứng của tôi về những buổi thôi miên với Catherine. Carole có bộ óc phân tích và có kiến thức vững vàng.
Carole biết tôi vất vả xiết bao theo đuổi các công việc với Catherine bằng một cách thận trọng và khoa học, và Carole vờ phản đối để giúp tôi nh́n vào tin tức một cách khách quan. V́ những bằng chứng có tính quyết định chồng chất cho thấy quả thực Catherine đang bộc lộ những sự thật tuyệt vời, Carole tin và chia sẻ sự lĩnh hội và niềm vui của tôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 519 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 4:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG BẢY
Khi Catherine đến cho kỳ hẹn kế tiếp một tuần sau đó, tôi đă sẵn sàng nghe lại băng thâu về cuộc đối thoại không thể tưởng tượng nổi ở kỳ trước. Tóm lại cô đă cung cấp cho tôi thi ca thiên giới cùng với kư ức tiền kiếp.
Tôi bảo cô là cô đă kể lại tin tức về những kinh nghiệm sau cái chết, dù rằng cô không nhớ ǵ ở về trạng thái nửa nọ nửa kia hay tinh thần. Cô miễn cưỡng lắng nghe. Đă đỡ rất nhiều và hạnh phúc hơn, cô không cần phải nghe tài liệu này. Ngoài ra, nó hơi hơi "kỳ quái".
Tôi thuyết phục cô nên nghe. Cái đó rất tuyệt vời, đẹp đẽ, hướng thượng và nó đến do cô. Tôi muốn chia sẻ nó với cô. Cô nghe giọng dịu dàng của cô trong cuốn băng chỉ vài phút, rồi cô bảo tôi tắt đi. Cô nói rằng thật là kỳ dị và làm cho cô không thoải mái. Lặng lẽ, tôi nhớ lại "việc này cho ông chứ không phải cho cô ấy".
Tôi băn khoăn không biết những buổi thôi miên này kéo dài bao lâu nữa v́ mỗi tuần cô thấy khá lên. Nay chỉ c̣n một ít gợn sóng trong cái hồ đă từng nổi sóng. Cô vẫn c̣n sợ ở những nơi kín mít và sự quan hệ với Stuart vẫn c̣n không chắc chắn. Mặt khác, sự tiến bộ của cô thật đáng chú ư.
Chúng tôi không c̣n những buổi tâm lư trị liệu thông thường nhiều tháng nay. Không c̣n cần thiết nữa. Chúng tôi chuyện gẫu ít phút để biết đến những sự việc trong tuần rồi chuyển nhanh vào thôi miên dĩ văng. Phải chăng những kư ức thực tế về những chấn thương nặng hay những chấn thường nhỏ hàng ngày, hay tiến tŕnh làm sống lại những kinh nghiệm mà Catherine thực sự được chữa khỏi.
Những cơn ám ảnh và kinh hoàng gần như biến hẳn. Cô không c̣n sợ hăi về cái chết hay sắp chết. Cô không c̣n sợ mất tự chủ. Các bác sĩ tâm thần học ngày nay dùng thuốc an thần và chống phiền muộn liều cao để điều trị bệnh nhân có triệu chứng như của Catherine.
Ngoài thuốc men ra, bệnh nhân được chữa trị trong những khóa tâm lư trị liệu mạnh hay tham dự các buổi điều trị cho nhóm bị ám ảnh sợ hăi. Nhiều bác sĩ tâm thần học tin là những triệu chứng như của Catherine có cơ sở sinh học, bởi có những sự thiếu hụt trong một hay nhiều chất hóa học trong bộ năo.
V́ tôi dùng thôi miên Catherine ở mức hôn mê cao, tôi nghĩ điều đó mới đáng chú ư và tuyệt vời làm sao v́ chỉ trong có ít tuần lễ không dùng thuốc men, cách trị liệu thông thường, hay nhóm để chữa trị, thế mà cô gần như khỏi hẳn.
Việc này không chỉ là loại bỏ những triệu chứng, cũng chẳng phải nghiến răng chịu đựng, hay sống với triệu chứng đó, một cuộc đời bị hành hạ bởi sợ hăi. Đó là cách chữa trị, không có các triệu chứng. Và cô thật rạng rỡ, thanh thản và hạnh phúc vượt quá những cao vọng nhất của tôi.
Giọng cô lại th́ thào dịu dàng. "Tôi ở trong một ṭa nhà, một loại trần có ṿm. Trần xanh và vàng. Có những người khác ở đó với tôi. Họ mặc ... trong những bộ đồ cổ ... một loại áo dài, rất cổ và bẩn. Tôi không biết làm sao chúng tôi lại đến đây. Có nhiều bóng người trong pḥng.
Cũng có một số phụ nữ, những phụ nữ này đứng trên một kiến trúc bằng đá nào đó. Có một bóng vàng lớn ở cuối pḥng. Nó xuất hiện... Nó rất lớn có cánh. Nó thật xấu . Trong pḥng rất nóng, rất nóng ... Rất nóng v́ không có khe hở nào. Chúng tôi phải ở xa làng. Có cái ǵ đó không ổn với chúng tôi."
"Cô bị bệnh phải không?"
"Phải, tất cả chúng tôi đều bệnh. Tôi không biết là bệnh ǵ nhưng da chúng tôi chết. Da trở nên rất đen. Tôi cảm thấy rất lạnh. Không khí rất khô, rất oi ả. Chúng tôi không thể trở về làng. Chúng tôi phải xa làng. Một số bộ mặt bị dị dạng."
Bệnh này thật ghê gớm giống như bệnh hủi. Nếu cô đă một lần có một kiếp sống đẹp quyến rũ, th́ chúng tôi chưa t́nh cờ gặp nó. "Cô phải ở đấy bao lâu?"
Cô trả lời buồn rầu, "Măi măi, cho đến khi chết. Không thể chữa được căn bệnh này."
"Cô có biết tên căn bệnh đó không? Gọi là bệnh ǵ?"
"Không. Da bị khô và co lại. Tôi đă ở đây nhiều năm. Có những người khác mới đến. Không có cách nào trở về được. Chúng tôi bị đuổi đi... để chết."
Cô đă chịu một cuộc sống khốn khổ, sống trong hang.
"Chúng tôi phải đi săn để có đồ ăn. Tôi thấy một vài loại dă thú mà chúng tôi săn bằng sừng. Thú này mầu nâu có sừng, sừng lớn."
"Có ai đến thăm cô không?"
"Không, họ không thể đến gần được hay nếu đến họ sẽ bị tai họa. Chúng tôi luôn khổ sở ... v́ tội lỗi nào đó chúng tôi đă làm. Và đó là h́nh phạt của chúng tôi." Những hạt cát thần học của cô liên miên chảy vào đồng hồ cát chứa các kiếp sống của cô. Chỉ sau khi chết, trong trạng thái tinh thần, mới có sự bất biến đáng mừng và chắc chắn.
"Cô có biết là năm nào không?"
"Chúng tôi đă mất dấu vết của thời gian. Chúng tôi bệnh. Chúng tôi chỉ c̣n chờ đợi cái chết đến mà thôi."
"Có niềm hy vọng nào không?" Tôi cảm thấy bị thất vọng lây.
"Không có tia hy vọng nào cả. Tất cả chúng tôi sẽ chết. Tay tôi đau nhiều. Toàn thân tôi ốm yếu.Tôi già rồi. Tôi cử động rất khó khăn."
"Cái ǵ sẽ xẩy đến nếu không thể cử động được nữa?
"Bạn sẽ phải chuyển sang một cái hang khác, và bạn sẽ bị bỏ tại đó cho đến lúc chết."
"Họ làm ǵ với người chết?"
"Họ bịt kín lối vào hang."
"Có bao giờ họ bịt hang trước khi người đó chết không?"
Tôi đang t́m kiếm manh mối về sự sợ hăi của cô về những chỗ bị quây kín.
"Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ ở đấy. Tôi ở trong pḥng với những người khác. Trời rất nóng. Tôi dựa vào bức tường, nằm ngay tại đấy."
"Cái pḥng đó để làm ǵ?"
"Để lễ bái nhiều thần. Ở đây rất nóng."
Tôi bảo cô đi xa hơn nữa. "Tôi nh́n thấy cái ǵ đó trắng. Tôi nh́n thấy cái ǵ đó trắng, một loại màn. Họ đang di chuyển người nào đó."
"Có phải là cô không?"
"Tôi không biết. Tôi sẽ đón chào cái chết. Thân thể của tôi đau nhiều quá rồi. Môi của Catherine mím chặt v́ đau đớn, và cô đang hổn hển v́ cái nóng trong hang. Tôi đưa cô tới ngày cô chết. Cô vẫn hổn hển.
"Rất khó thở phải không?" Tôi hỏi.
"Vâng, ở đây quá nóng cảm thấy.. rất nóng, rất tối. Tôi không nh́n thấy... và không thể di chuyển. Cô đang sắp chết, tê liệt và cô đơn, trong cái hang tối tăm và nóng bức. Miệng hang đă bị bịt kín. Cô sợ hăi và khổ sở. Hơi thở của cô càng dập dồn và đứt quăng, Cô đă chết một cách đáng thương, chấm dứt cuộc đời buồn thảm.
"Tôi thấy rất nhẹ.. giống như tôi đang trôi lơ lửng. Trời rất sáng. Thật là tuyệt vời !"
"Cô c̣n đau không?"
"Không", Cô ngưng và tôi đợi các bậc Thầy. Thay v́ vút đi, "tôi rơi xuống rất nhanh . Tôi trở về vào một thân xác". Cô dường như rất ngạc nhiên cũng như tôi.
"Tôi nh́n thấy những ṭa nhà, có những cột tṛn. Có rất nhiều ṭa nhà. Chúng tôi ở ngoài trời. Có nhiều cây ô liu chung quanh. Trời rất đẹp. chúng tôi đang theo dơi một cái ǵ đó.. Người ta đeo những cái mặt nạ rất ngộ nghĩnh, những mặt nạ che mặt họ. Đó là lễ hội. Họ mặc áo choàng dài, và có mặt nạ che kín mặt. Họ giả đ̣ là họ không phải là cái đó. Họ ở trên một cái bục...trên nơi chúng tôi ngồi."
" Có phải cô đang xem một màn kịch không?"
"Đúng"
"Trông cô như thế nào? Hăy nh́n vào chính cô."
"Tôi có mớ tóc nâu. Tóc tôi được tết lại. Cô ngưng lại. Sư miêu tả về chính cô và sự hiện diện của các cây ô liu khiến tôi nghĩ đến kiếp sống ở Hy Lạp của Catherine mười lăm năm trước Jesus Christ, khi tôi là thầy giáo của cô, Diogenes. Tôi quyết định điều tra.
"Cô biết ngày tháng không?
"Không"
"Có những người mà cô biết không?"
"Có, chồng tôi ngồi cạnh tôi. Tôi không biết anh (trong hiện kiếp)"
"Cô có con không?"
"Tôi đang ở với con tôi". Cô dùng những từ rất thú vị, một loại cổ điển, và không giống phong cách có ư thức của Catherine chút nào.
"Cha cô có đấy không?"
"Tôi không nh́n thấy ông ta. Ông cũng ở đấy, ở một nơi nào đó nhưng không phải với tôi." Cho nên tôi đúng. Chúng tôi quay trở lại ba mươi lăm thế kỷ.
"Tôi làm ǵ ở đấy?"
"Ông đang quan sát, nhưng ông dạy. Ông dạy... chúng tôi đang học ông... h́nh vuông và ṿng tṛn, những thứ thật ngộ nghĩnh. Diogenes, ông ở đấy."
"Cô có biết ǵ khác về tôi nữa không?"
" Ông già rồi. Chúng ta có liên hệ .. ông là anh của mẹ tôi."
"Cô có biết những người khác trong gia đ́nh tôi không?"
"Tôi biết vợ ông...và các con ông. Ông có những đứa con trai. Hai đứa lớn hơn tôi. Mẹ tôi chết rồi; bà chết lúc rất trẻ."
"Cha cô nuôi nấng cô phải không?"
"Phải, nhưng nay tôi đă có chồng"
"Cô đang mong có con phải không?"
"Phải. Tôi sợ hăi. Tôi không muốn chết trong khi đứa con được sinh ra."
"Đây có phải là đứa con đầu tiên của cô phải không?"
"Phải, tôi sợ lắm. Tôi mong muốn sinh sớm. Tôi rất to lớn. Tôi rất khó chịu khi di chuyển... Trời lạnh." Cô đă tự động tiến xa hơn. Đứa trẻ sắp được sinh. Catherine chưa bao giờ có con, và tôi cũng chưa bao giờ đỡ đẻ trong mười bốn năm dù có khi luân chuyển đến sản khoa của trường y.
Tôi hỏi: "Cô bây giờ ở đâu?"
"Tôi đang nằm trên đá, Trời rất lạnh. Tôi đau đớn... Ai đó phải giúp tôi. Người nào đó phải giúp tôi?" Tôi bảo cô phải thở sâu; đứa bé sẽ sinh ra không đau đớn. Đồng thời cô đang hổn hển và rên rỉ. Cơn đau của cô lâu chừng vài phút thống khổ, rồi đứa bé được sinh ra. Cô có đứa con gái.
"Bây giờ cô cảm thấy khá hơn chưa?"
"Rất yếu ...
"Cô có biết cô đặt tên con bé là ǵ không?
‘Không, tôi quá mệt... Tôi muốn đứa con tôi."
"Con cô đây." Tôi cương thêm, "bé gái"
‘Vâng, chồng tôi rất hài ḷng." Cô kiệt sức. Tôi bảo cô hăy ngủ đi một giấc ngủ ngắn và khi tỉnh dậy sẽ khoan khoái. Sau một hay hai phút, tôi đánh thức cô dạy.
"Bây giờ cô cảm thấy khá hơn không?"
"Vâng... tôi nh́n thấy thú vật. Những con thú này mang cái ǵ đó trên lưng. Có những cái thúng ở trên. Có rất nhiều thứ trong thúng. . đồ ăn ... một số trái cây chín..."
"Đó là vùng đất tốt phải không?"
"Vâng, có nhiều thực phẩm."
"Cô có biết tên của mảnh đất này không? Cô gọi nó là ǵ khi một người lạ hỏi cô tên của cái làng ấy?"
"Cathenia... Cathenia"
"Có vẻ như một thành phố Hy Lạp", Tôi nhắc lại.
"Tôi không biết thành phố đó. Ông biết thành phố đó à? Ông đă đi khỏi làng và đă trở về. Tôi th́ không." Đó là một khúc quanh. Trong kiếp ấy, v́ tôi là cậu cô, nhiều tuổi và khôn ngoan hơn, cô hỏi liệu tôi có biết câu trả lời cho câu hỏi của tôi. Không may, tôi không đi vào được thông tin đó.
Tôi hỏi, " Có phải cô đă sống suốt đời trong làng này?"
"Vâng", cô th́ thào, "nhưng ông đi nhiều nên ông biết điều ông dạy. Ông đi để học, để biết đất nước... những con đường buôn bán khác nhau cho nên ông có thể ghi lại và làm các bản đồ... Ông già rồi. Ông đi với những người trẻ v́ ông hiểu bản đồ. Ông rất khôn ngoan."
"Ư cô nói bản đồ nào?" Bản đồ các v́ sao?"
"Ông, ông hiểu các kư hiệu. Ông có thể giúp họ làm... giúp họ làm bản đồ"
"Cô có nhận được những người khác trong làng không?"
"Tôi không biết họ... nhưng tôi biết ông."
"Được rồi. Quan hệ của chúng ta thế nào?"
"Rất tốt. Ông rất tử tế. Tôi thích ngồi cạnh ông , rất thoải mái...Ông đă giúp chúng tôi. Ông đă giúp các chị em tôi..."
"Dù đă đến lúc, nhưng tôi phải xa ông, v́ tôi già."
"Không" Cô chưa sẵn sàng nói về cái chết của tôi. " Tôi nh́n thấy bánh ḿ, bánh dẹt, rất dẹt và mỏng."
"Người ta đang ăn bánh phải không?
"Phải, cha tôi và chồng tôi và tôi. Và những người khác trong làng."
"Dịp nào thế?"
"Đó là một số...một lễ hội nào đó". "Cha cô ở đấy à?"
"Vâng"
"Con cô có ở đấy không?"
"Vâng, nhưng nó không đi với tôi. Nó ở với chị tôi."
"Hăy nh́n kỹ chị cô", tôi đề nghị, hăy nh́n kỹ để có thể nhận ra người nào đó trong hiện kiếp của Catherine.
"Vâng, tôi không biết chị ấy"
"Cô có nhận được cha cô không?"
"Có. . có... Edward. Có những quả sung, quả sung và ô liu, một vài con cừu. Họ đang thui con cừu." Nghỉ hồi lâu. "Tôi thấy thứ ǵ trắng..."Cô đă tiến xa hơn về thời gian. Nó trắng..đó là một cái ḥm vuông. Đó là chỗ mà người ta đặt người vào khi chết."
"Lúc ấy có người nào chết không?"
"Có ..cha tôi. Tôi không thích nh́n vào ông. Tôi không muốn nh́n thấy ông."
"Cô phải nh́n à?’
"Phải, họ sẽ mang ông đi và chôn ông. Tôi cảm thấy rất buồn."
‘Vâng, tôi biết. Thế cô có bao nhiêu con?" Người phóng viên trong tôi không để cho cô buồn thảm.
"Tôi có ba con, hai trai một gái." Sau khi trả lời tôi theo bổn phận cô trở lại buồn thảm. "Họ đă để xác ông dưới một cái ǵ đó, dưới một thứ vải phủ . ." Cô dường như rất buồn.
"Tôi cũng chết vào lúc đó à?"
"Không. Chúng ta đang uống nước nho, nước nho trong một cái cốc."
"Bây giờ trông tôi thế nào?"
"Ông rất già, rất già"
"Cô cảm thấy khá hơn chưa?"
"Không!, Khi ông chết tôi sẽ cô đơn."
"Cô có sống với các con cô không? Chúng sẽ săn sóc cô."
Nhưng ông biết rất nhiều. Cô nói giống như một bé gái.
Tôi an tâm cô, "Cô sẽ qua. Cô biết rất nhiều, Cô sẽ an toàn. Và thấy cô có vẻ đang nghỉ ngơi một cách thanh thản.
"Cô có thanh thản hơn không? Bây giờ cô ở đâu?"
"Tôi không biết." Dường như cô đă vượt qua trạng thái tinh thần dù rằng cô không kinh qua cái chết của cô trong kiếp sống ấy. Tuần lễ này chúng tôi đă đi qua hai kiếp sống với các chi tiết đáng kể. Tôi chờ đợi các Bậc Thầy, nhưng Catherine tiếp tục nghỉ ngơi. Sau một vài phút chờ đợi, tôi hỏi liệu cô có thể nói chuyện với những Thần Linh Bậc Thầy không.
Cô giải thích, "Tôi chưa đến được b́nh diện đó. "Tôi không thể nói được cho đến khi tôi đến."
Cô chưa bao giờ tới được b́nh diện đó. Sau một lúc chờ đợi, tôi đưa cô ra khỏi trạng thái hôn mê.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 520 of 2534: Đă gửi: 27 July 2008 lúc 4:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG TÁM
Ba tuần lễ trôi qua trước buổi thôi miên kế tiếp. Vào kỳ nghỉ hè của tôi, nằm dài ở một băi biền miền nhiệt đới, tôi có th́ giờ và khoảng cách để ngẫm nghĩ những ǵ đă diễn ra với Catherine: đi ngược lại tiền kiếp bằng thôi miên lùi với những quan sát chi tiết và giải thích các vật thể, các tiến tŕnh, và những dữ kiện mà cô không có kiến thức trong trạng thái b́nh thường lúc tỉnh.
Giảm bớt những triệu chúng của cô qua những buổi thôi miên lùi về dĩ văng; không thuyên giảm chút nào đợt trị bệnh thông thường trong mười tám tháng bằng tâm lư trị liệu; những tiết lộ chính xác khủng khiếp từ trạng thái tinh thần sau cái chết, chuyển tải kiến thức mà cô không được phép biết đến.
Chất thẩm mỹ tinh thần, và những bài học về những phương chiều không gian sau khi chết, về sự sống và cái chết, sinh và tái sinh, từ các Thần Linh Bậc Thầy nói bằng trí tuệ và một kiểu cách rất hay vượt xa khả năng của Catherine. Quả thật có rất nhiều cái để suy ngẫm.
Qua nhiều năm tôi đă trị bệnh cho hàng trăm có lẽ hàng ngàn những bệnh nhân tâm thần, và họ đă phản ảnh toàn bộ phạm vi rối loạn xúc cảm. Tôi đă quản lư các pḥng bệnh nhân nội trú ở bốn trường y khoa lớn. Tôi đă làm nhiều năm trong các pḥng cấp cứu tâm thần, những bệnh xá bệnh nhân ngoại trú, và nhiều cơ sở khác đánh giá và điều trị bệnh nhân ngoại trú.
Tôi hoàn toàn biết về những ảo giác của thính và thị giác và những ảo giác của bệnh loạn tinh thần. Tôi đă điều trị nhiều bệnh nhân có những triệu chứng gần như điên và những rối loạn có tính cuồng loạn, kể cả những người mắc chứng tâm thần phân lập hay đa lập. Tôi đă là một giáo viên chuyên nghiệp trong việc bài trừ Ma túy và Rượu chè, được tài trợ bởi Viện Quốc Gia Bài Trừ Ma Túy, và tôi rất quen thuộc với toàn bộ tác động của ma túy lên bộ năo.
Catherine không có một trong những triệu chứng hay hội chứng ấy. Điều đă xẩy ra không phải là biểu lộ của bệnh tâm thần. Cô không bị loạn tinh thần hay không va chạm với thực tế, và cô cũng chưa bao giờ bị ảo giác (Nh́n hay nghe những thứ thực ra không ở đó hay ảo tưởng (niềm tin sai).
Cô không dùng ma túy và cũng không có những nét hành sử bất thường. Cô không có cá tính cuồng loạn, và cô không có khuynh hướng chia rẽ. Tức là, cô thường nhận thức được cái cô đang làm và suy nghĩ và không hành động theo một "hướng tự động" chưa bao giờ có cá tính bị tâm thần phân lập hay đa lập.
Những việc cô đưa ra thường vượt quá khả năng ư thức của cô cả về kiểu cách lẫn nội dung. Một số trong đó đặc biệt tâm linh, như việc nhắc đến những biến cố rơ ràng và những dữ kiện về quá khứ của tôi, tức là biết về cha tôi và con tôi.
Cũng như về chính cô. Cô có kiến thức mà cô chưa bao giờ được biết, hay tích lũy, trong hiện kiếp. Kiến thức này, cũng như toàn bộ kinh nghiệm, xa lạ với văn hóa và giáo dục của cô và trái ngược với nhiều niềm tin của cô.
Catherine là một người khá đơn giản và thật thà. Cô không phải là một học giả, và cô không thể tạo ra các dữ kiện, chi tiết, những biến cố lịch sử, mô tả và chất thơ phát ra qua cô. Là một bác sĩ tâm thần, một nhà khoa học gia, tôi chắc chắn là sự việc này có gốc từ một phần của cái tâm vô thức của cô. Điều đó là thật, vượt qua bất cứ nghi kỵ nào. Dù cho Catherine là một diễn viên giỏi, cô không thể nào tái tạo được những cái xẩy ra ấy. Sự am hiểu quá chính xác, và quá rơ ràng, vượt qua khả năng của cô.
Tôi cân nhắc mục đích trị liệu trong việc khảo sát quá khứ của Catherine. Một khi chúng tôi đă bước chân vào lĩnh vực mới này, bệnh t́nh của cô thuyên giảm hết sức nhanh chóng, mà không dùng thứ thuốc nào. Có một sức mạnh trị bệnh nào đó trong lĩnh vực này, một sức mạnh dường như hiệu quả nhiều hơn cách chữa trị thông thường hay y khoa hiện đại.
Sức mạnh này gồm cả việc nhớ lại và sống lại không chỉ trong những biến cố chấn thương ngắn ngủi mà c̣n là các chấn thương hàng ngày tác động đến thân thể, tâm trí và cái ngă của chúng ta. Trong những câu hỏi của tôi, khi chúng tôi khảo sát các kiếp sống, tôi đang t́m kiếm nét điển h́nh cho những chấn thương này, kiểu như xúc cảm kinh niên hay bị lạm dụng thể chất, nghèo khổ và chết đói, bệnh và tàn tật, bị ngược đăi liên miên và thành kiến, những thất bại liên tiếp và vân vân...
Tôi cũng chú ư đến những thảm kịch bi thương, như lâm vào t́nh trạng thập tử nhất sinh, hiếp dâm, thảm họa hàng loạt, hoặc bất cứ biến cố hăi hùng nào để lại vết hằn lâu dài. Kỹ thuật này cũng tương tự như xem lại thời thơ ấu trong cách trị liệu thông thường, ngoại trừ khung thời gian là vài ngàn năm, đúng hơn là mười, mười lăm năm theo thường lệ.
Cho nên câu hỏi của tôi trực tiếp hơn, và dẫn dắt nhiều hơn cách trị liệu thông thường. Nhưng sự thành công trong khảo sát không chính thống của chúng tôi th́ không thể nghi ngờ được. Cô ấy (và những người khác sau này, được trị liệu bằng thôi miên lùi về dĩ văng) đang được chữa lành nhanh chóng lạ thường.
Nhưng có thể có cách giải thích nào khác cho những kư ức tiền kiếp của Catherine không? Có thể nào những kư ức này được mang theo trong gen của cô? Khả năng này là mơ hồ về mặt khoa học. Kư ức di truyền đ̣i hỏi truyền liên tục vật chất di truyền từ thế hệ này đến thệ hệ kia.
Catherine đă sống trên khắp trái đất, và tuyến di truyền của cô bị ngắt quăng nhiều lần. Cô bị chết trong cơn lụt với con cái, hay không có con, hay chết lúc c̣n trẻ. Vốn liếng di truyền của cô đă chấm dứt và không được truyền lại.
Và sự sống sót sau khi chết và t́nh trạng nửa nợ nửa kia là ǵ? Không có xác thân và chắc chắn là không có vật chất di truyền, thế mà những kư ức của cô đă tiếp tục. Không, sự giải thích về di truyền phải được loại bỏ.
Ư kiến của Jung về vô thức tập thể, nơi qui tụ tất cả kư ức và kinh nghiệm của con người có thể bằng cách nào đó được kết nối vào là thế nào? Những nền văn hóa khác nhau thường có những kư hiệu tương tự, ngay cả trong giấc mơ. Theo Jung, cái vô thức tập thể không phải là do cá nhân đạt được mà được "thừa kế" một cách nào trong cấu trúc năo bộ.
Nó gồm có động cơ và h́nh ảnh nảy sinh lại từ đầu trong mọi văn hóa, không dựa vào truyền thống lịch sử hay sự phổ biến. Tôi nghĩ rằng những kư ức của Catherine quá rơ ràng để có thể giải thích bằng quan niệm của Jung.
Cô không tiết lộ những biểu tượng, h́nh ảnh hay động cơ chung. Cô tả lại chi tiết về người và nơi chốn riêng biệt. Ư kiến của Jung dường như quá mơ hồ. Và lại c̣n có t́nh trạng nửa nọ nửa kia phải được xét đến. Nói chung, luân hồi có ư nghĩa nhất.
Hiểu biết của Catherine không chỉ chi tiết và rơ ràng, mà c̣n vượt quá khả năng có ư thức của cô. Cô biết những sự việc không thể là do lượm lặt từ sách vở và rồi tạm thời bị quên đi. Hiêu biết của cô có lẽ không thể có được trong thời thơ ấu và rồi cũng bị giữ kín hay bị kiềm chế tách khỏi thức.
Và về các Bậc Thầy và những thông điệp của các Ngài th́ sao? Việc này đến qua Catherine chứ không phải về các kư ức của Catherine. Và sự thông thái của các Ngài cũng được phản ảnh trong kư ức của Catherine trong những tiền kiếp. Tôi biết rằng tin tức này và những thông điệp này là không thật.
Tôi biết không chỉ sau nhiều năm nghiên cứu cẩn trọng về con người, tâm trí, bộ óc và cá tính của họ, mà tôi c̣n biết điều này bằng trực giác, thâm chí trước cả cuộc thăm viếng của cha và con tôi. Bộ óc tôi với nhiều năm rèn luyện cẩn thận về khoa học biết điều này, và xương tủy tôi cũng biết.
"Tôi nh́n thấy những cái hũ có một loại dầu nào trong đó" Mặc dù ba tuần gián đoạn, Catherine đă nhanh chóng rơi vào hôn mê sâu. Cô nhập vào một xác thân khác ở một thời gian khác. "Có nhiều loại dầu khác nhau trong các hũ. Dường như ở trong một loại nhà kho hay chỗ để chứa các thứ.
Những các hũ mầu đỏ... đỏ, làm bằng loại đất đỏ nào đó. Có những dải xanh chung quanh, dải xanh ở chung quanh cổ hũ. Tôi nh́n thấy có những người ở đấy... có những người ở trong hang. Họ di chuyển những cái vại và hũ chung quanh, chất lên nhau và đặt chúng ở một chỗ nào đó. Đầu họ trọc ... Họ không có tóc trên đầu. Da họ nâu... da nâu."
"Cô có ở đấy không?"
"Vâng... Tôi đang niêm phong những cái vại ... bằng một loại sáp... niêm kín nắp vại bằng sáp."
"Cô có biết dầu để làm ǵ không?"
"Tôi không biết"
"Cô có nh́n thấy chính cô không? Hăy nh́n vào chính cô. Cho tôi biết trông cô như thế nào." Cô ngưng lại và quan sát chính ḿnh.
"Tôi có một cái bím tóc. Có một cái bím trên tóc tôi. Tôi có một loại dài ... một loại áo dài. Nó có viền vàng chung quanh bên ngoài."
"Cô có làm việc cho những thầy tu này - hay những người trọc đầu này không?"
" Công việc của tôi là niêm kín những cái vại bằng sáp. Đó là công việc của tôi."
"Nhưng cô không biết những cái vại này dùng làm ǵ à?"
"H́nh như những thứ này để dùng trong nghi lễ tôn giáo. Nhưng tôi không chắc chắn... cái đó là ǵ. Có việc xức dầu nào đó, trên đầu... thứ ǵ đó trên đầu ông, trên tay ông. Tôi nh́n thấy một con chim, một con chim vàng, nó quanh quẩn ở cổ tôi. Nó dẹt. Nó có cái đuôi dẹt, một cái đuôi rất dẹt, và đầu nó chĩa xuống ... chân tôi.
"Chân cô?"
"Vâng, đó là cách phải mặc. Có một chất... một chất bầy nhầy đen. Tôi không biết nó là ǵ"
"Chất đó ở đâu?"
"Nó được đựng trong một cái b́nh cẩm thạch. Họ dùng cái đó, tôi không biết cái đó để làm ǵ."
"Có cái ǵ ở trong hang để cô đọc, do đó cô có thể nói cho tôi biết tên của xứ này - chỗ này - nơi mà cô ở, hay ngày tháng?"
"Không có ǵ ở trên tường, tường trống trơn. Tôi không biết tên". Tôi bảo cô tiếp tục đi xa hơn.
"Tôi thấy cái vại trắng, một loại vại trắng. Cái tay cầm ở phần trên bằng vàng , một loại vàng dát trên nó."
"Cái ǵ trong vại đó?"
"Một loại dầu xức. Một cái ǵ đó ǵ đó để qua bên kia thế giới."
"Cô có phải là người đang đi sang bây giờ phải không?"
"Không. Không ai cả theo tôi biết."
"Phải chăng đây là công việc của cô?" "Sửa soạn cho người ta để đi qua".
"Không. Thầy tu làm việc đó, chứ không phải là tôi. Chúng tôi chỉ là người tiếp dầu sức, hương cho họ... "
"Bây giờ cô khoảng bao nhiêu tuổi?"
"Mười sáu tuổi."
"Cô đang sống với cha mẹ phải không?"
"Phải, ở một cái nhà bằng đá, một loại nhà ở bằng đá. Nó không thật lớn. Ngôi nhà nóng và khô. Khí hậu rất nóng."
"Hăy đi vào trong nhà"
"Tôi ở đấy"
"Cô có nh́n thấy người khác trong gia đ́nh cô ở quanh đó không?"
"Tôi thấy một người anh, và mẹ tôi cũng ở đấy, và một em bé, một đứa bé của người nào đó."
"Có phải đứa bé của cô không?"
"Không"
"Cái ǵ có ư nghĩa bây giờ? Hăy đi tới cái ǵ có ư nghĩa giải thích những triệu chứng của cô trong hiện kiếp. Chúng ta cần phải hiểu. Thận trọng để đi qua điều đó. Hăy đi tới những biến cố."
Cô trả lời bằng giọng th́ thào rất dịu dàng. "Mọi thứ đều đúng lúc... . Tôi thấy người ta đang chết."
"Người ta đang chết"
"Phải... họ không biết đó là ǵ."
"Một chứng bệnh". Đột nhiên lóe lên trong tôi là cô lại va chạm vào một kiếp sống thời cổ, một kiếp sống mà trước đây cô đă lùi về. Trong kiếp sống đó, một bệnh truyền nhiễm do nước đă giết chết cha Catherine và một người anh của cô. Catherine cũng bị ngă bệnh nhưng không chết v́ bệnh đó. Dân chúng dùng tỏi và dược thảo để tránh bệnh truyền nhiễm này. Catherine đang buồn rầu v́ người chết không được ướp đúng cách.
Nhưng bây giờ chúng tôi lại tiếp cận với kiếp sống này từ ở một góc độ khác. Tôi hỏi "Có cái ǵ cần đến nước phải không?"
"Họ cũng tin như vậy, Nhiều người đang chết." Tôi đă biết chung cuộc.
"Nhưng cô không chết , không chết v́ việc đó"
"Không, tôi không chết."
"Nhưng cô bị bệnh, Cô trở nên đau yếu."
"Phải, tôi bị lạnh,... rất lạnh. Tôi cần nước... nước. Họ nghĩ rằng bệnh đến do nước ... thứ ǵ đó đen ... người nào đó bị chết.
"Ai chết?"
"Cha tôi chết, và một người anh tôi chết. Mẹ tôi không sao, bà b́nh phục lại. Bà rất yếu. Họ phải chôn những người này. Họ phải chôn những người đó, và người ta buồn v́ việc này ngược với tập tục tôn giáo. "
"Tập tục đó là ǵ?" Tôi ngạc nhiên trước sự nhất quán trong việc nhớ lại, từng sự việc một, đúng như cô đă kể kiếp sống này vài tháng trước đây. Thêm nữa, sự thay đổi tập tục chôn cất khiến cô buồn nhiều.
"Người được bỏ trong hang. Các thi hài được giữ trong các hang. Nhưng trước tiên, xác được các thầy tu sửa soạn. Xác phải được quấn lại và sức dầu. Xác chết được giữ trong hang, nhưng đất đang bị lụt ... Họ nói nước bẩn, Đừng uống nước."
"Có cách nào để chữa bệnh không? Có thứ ǵ có thể chữa được không?"
"Chúng tôi được uống dược thảo, dược thảo khác nhau. Mùi ... dược thảo và ...ngửi thấy mùi đó. Tôi có thể ngửi thấy mùi đó!"
Cô có nhận ra mùi đó không?"
"Nó trắng. Họ treo nó trên trần nhà."
"Nó giống tỏi không?"
"Nó được treo chung quanh ... Nó có đặc tính tương tự, phải. Đặc tính của nó ... ông để nó vào miệng, vào tai, vào mũi, khắp mọi nơi. Mùi nó rất mạnh. Người ta tin là nó ngăn chận ma quỷ xâm nhập vào cơ thể. Màu tím... trái cây hay thứ ǵ đó tṛn có vỏ mầu tím, vỏ mầu tím trên nó ..."
"Cô có nhận ra nền văn hóa mà cô sống không? Văn hóa ấy có quen thuộc không?"
"Tôi không biết"
"Mầu tím đó là trái cây loại ǵ đó?"
"Tannis"
"Thứ này có giúp ích cô không? Có phải để chữa bệnh không?"
"Để chữa bệnh vào thời đó."
"Tannis", tôi nhắc lại , một lần tôi xem có phải cô đang nói về cái mà chúng ta nói đến là chất ta nanh hay axít tanic. "Có phải đó là cái mà họ gọi là Tannis?"
"Tôi chỉ... Tôi chỉ nghe thấy "Tannis"
"Cái ǵ trong kiếp sống đó ẩn ḿnh trong hiện kiếp này? Tại sao cô cứ muốn trở về nơi đây? Cái ǵ khó chịu quá thế?"
"Tôn giáo", Catherine th́ thào nhanh chóng, "tôn giáo vào thời đó. Đó là tôn giáo của sợ hăi... sợ hăi. Có quá nhiều thứ để sợ... và quá nhiều thần."
"Cô có thể nhớ tên của vị thần nào không?"
"Tôi nh́n thấy mắt. Tôi nh́n thấy một loại ǵ đó đen... một loại ... nó giống như chó rừng. Nó ở trong bức tượng. Nó là kiểu người canh gác nào đó ... Tôi nh́n thấy một người đàn bà, một nữ thần với một loại mũ sắt trên đầu."
"Cô có biết tên vị nữ thần?"
"Osiris ... Sirus ... đại loại như vậy. Tôi nh́n thấy một con mắt ... con mắt, chỉ một con mắt, một con mắt trên một xâu chuỗi. Chuỗi này bằng vàng."
"Một con mắt?"
" Phải ... Ai là Hathor?"
"Cái ǵ?" "Hathor ! Ai đó !
Tôi chưa bao giờ nghe thấy Hathor, mặc dù tôi biết đó là Osiris, nếu phát âm này là đúng, là anh chồng của Isis, một vị thần lớn Ai Cập. Sau này tôi biết Hathor là nữ thần Ai Cập của t́nh yêu, hạnh phúc và niềm vui. Tôi hỏi, "Có phải đó là một trong các vị thần không?"
"Hathor! Hathor!. Ngưng lại hồi lâu. "Con chim ... Nó th́ dẹt... dẹt, con phượng hoàng..." Cô ta lại im lặng.
"Bây giờ hăy tiến tới ngày cuối cùng trong kiếp này. Hăy đi tới ngày cuối cùng, nhưng trước khi chết. Hăy nói cho tôi biết cô nh́n thấy ǵ."
Cô trả lời bằng một giọng th́ thào dịu dàng . "Tôi nh́n thấy người và các ṭa nhà. Tôi nh́n thấy dép, dép. Có vải thô, loại vải thô."
"Cái ǵ xẩy ra? Bây giờ hăy tiến tới lúc sắp chết. Cái ǵ đă xẩy ra cho cô? Cô có thể thấy mà ."
"Tôi không thấy ... Tôi không nh́n thấy tôi nữa."
"Bây giờ cô ở đâu? Cô nh́n thấy ǵ?"
"Không thấy ǵ. . chỉ tối om ... Tôi nh́n thấy ánh sáng, một ánh sáng ấm áp". Cô đă chết rồi, đă chết và đi vào trạng thái tinh thần. Hiển nhiên, cô không cần phải trải nghiệm cái chết thực sự của cô nữa.
Tôi hỏi, "Cô có thể đến với ánh sáng chứ?"
"Tôi đang tới đây" Cô đang nghỉ ngơi thanh thản lại chờ đợi.
"Cô có thể nh́n lại về những bài học trong kiếp sống đó không? Cô có ư thức được những bài học này không?"
Cô th́ thào, "Không". Cô tiếp tục chờ đợi. Đột nhiên, cô dường như tỉnh táo tuy mắt cô vẫn nhắm như thường lệ khi đi vào trạng thái hôn mê thôi miên. Đầu cô trăn trở bên này bên kia.
"Bây giờ cô nh́n thấy ǵ? Cái ǵ đang xẩy ra?"
Giọng cô to lên. "Tôi cảm thấy ... người nào đó nói với tôi!"
"Họ nói ǵ?"
"Nói về kiên nhẫn. Người ta phải có kiên nhẫn..."
"Vâng, tiếp tục"
Câu trả lời từ nơi Bậc Thầy thi nhân. "Kiên nhẫn và đúng lúc ...mọi thứ sẽ đến khi nó phải đến. Đời sống không thể vội vàng, không thể hoạt động dựa vào thời khóa biểu như mọi người mong muốn. Chúng ta phải chấp nhận những ǵ đến với chúng ta vào lúc nhất định, và đừng đ̣i hỏi ǵ thêm nữa.
Nhưng đời sống là vô tận, cho nên chúng ta không bao giờ chết, chúng ta chưa bao giờ thực sự được sinh ra. Chúng ta chỉ đi qua những giai đoạn khác nhau. Không có chung cuộc. Con người có nhiều phương chiều. Nhưng thời gian không phải như chúng ta thấy, mà đúng hơn là trong những bài học được học."
Ngừng lại khá lâu. Bậc Thầy thi nhân tiếp tục.
"Mọi việc sẽ sáng tỏ đúng lúc đối với bạn. Nhưng bạn phải có may mắn để hấp thụ kiến thức mà chúng tôi đă cho bạn." Catherine im lặng.
Tôi hỏi, "Có ǵ hơn nữa mà tôi phải học không?
Cô th́ thào dịu dàng, "Họ đi rồi, tôi không nghe thấy ai nữa."
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|