Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 200 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 761 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 10:35am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde


CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 

NGUYÊN TÁC: DER WEG DER WEISSEN WOLKEN


LỜI NGƯỜI DỊCH

Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người t́m hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.

Cả hai vị này đă từng sống nhiều năm tại Tây Tạng, từng tu tập thiền định và đi khắp nơi trong xứ sở huyền bí này hơn bất cứ người nước ngoài nào khác. Có thể nói họ hiểu Tây Tạng với bất tất cả những khía cạnh tâm linh, tâm lư, địa lư nhiều hơn cả phần đông người Tây Tạng.

Hai vị này đều đă qua đời nhưng họ đă để lại cho thế giới vô số sách vở về kinh nghiệm suy niệm của họ tại Tây Tạng ngày nay vẫn c̣n được đánh giá cao nhất và hậu thế có lẽ cũng sẽ khó có ai vượt qua được tầm nh́n và kinh nghiệm nội tâm của họ.

Điều này thật ra không phải đáng ngạc nhiên, nếu ta biết rằng hai vị này không phải là khách hành hương b́nh thường, mà họ đă thực sự độc cư tu tập trên các vùng núi non hẻo lánh của Himalaya.

V́ lẽ đó mà những ǵ họ viết ra không phải chỉ là những nhận xét bằng con mắt thường t́nh của một lữ khách, mà là những khám phá và sáng tạo tâm linh ở xứ sở gió tuyết này.

Trong khoảng hơn mười cuốn sách của họ th́ cuốn Der weg der weissen wolken (Con đường mây trắng) của Govinda là nổi tiếng hơn cả. Nó là cuốn sách được nhắc nhở, được tham cứu, được t́m đọc nhiều nhất khi nói về Tây Tạng dưới ng̣i bút của một người phương Tây.

Govinda người Bolivia gốc Đức, nhưng sách ông viết thường bằng Anh ngữ. Đặc biệt cuốn sách này được ông viết thành hai bản Anh ngữ và Đức ngữ. Bản Đức ngữ là bản cuối cùng, được sửa chữa và v́ thế qui mô, đầy đủ và chính xác hơn bản Anh ngữ.

Ai đă từng đọc Govinda đều biết văn của ông hùng biện súc tích, nhiều h́nh ảnh, nhiều tầng lớp và v́ thế người dịch thường gặp nhiều khó khăn để hiểu hết ư ông

Là một người phương Tây với tính sắc sảo của óc lư luận phân tích sẵn có, pha lẫn sự huyền bí của một quá tŕnh chứng thực tâm linh bằng trực giác, Govinda là một con người kỳ lạ và điều đó phản ánh rơ nét trong cuốn sách này.

V́ những lẽ đó, đọc cuốn sách này, phần nào ta cảm nhận được sự tổng hợp giữa hai cực lư luận và trực giác trong tâm thức con người phương Đông.

Mặc dù người dịch đă cố gắng hết sức trong khả năng của ḿnh, nhưng chắc chắn bản dịch này không thể tránh khỏi thiếu sót. Người dịch mong nhận được sự góp ư chỉ dẫn của tất cả mọi người đọc để bản dịch được hoàn chỉnh hơn.

                                                    Nguyễn Tường Bách

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 762 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 10:55am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 

 

TÁC GIẢ LAMA ANGARIKA GOVINDA







Lama Anagarika Govinda là tu sĩ Phật giáo, học giả, giáo sư Phật học, và họa sĩ người Đức. Thế danh của ông là Ernst Hoffman. Ông sinh năm 1898 ở Waldheim Đức và mất 1985 ở California Mỹ.
 
Ông tu theo đạo Phật lúc mười tám tuổi. Năm ba mươi tuổi ông sang Tích Lan và Miến Điện học đạo, rồi sau đó thực hành Mật giáo Tây tạng. Ông sống ở Darjeeling, dưới chân dăy núi Hy Mă Lạp Sơn trong nhiều năm.
 
Dạy ở Đại học Patna và Shantiniketan, vùng Tây Bengal, Ấn Độ (Đại học do văn hào Ấn Độ Rabindranath Tagore thành lập) dạy Phật học tại nhiều đại học ở châu Âu, Á, Phi, và Mỹ, và thành lập đạo tràng Arya Maitreya Mandala tại Ấn Độ, Đức và Mỹ.
 
Ông sang Mỹ hành đạo từ năm 1967. Ông được xem như một trong những người có công lớn đưa Phật giáo vào phương Tây và là nhịp cầu hiện đại nối liền văn hóa Đông Tây. Ông để lại nhiều tác phẩm Phật học có giá trị và đựơc dịch ra nhiều thứ tiếng. Tác phẩm chính của ông là:
 
- Nền tảng Mật giáo Tây Tạng (Foundations of Tibetan Mysticism, NXB Samuel Weiser, Mỹ 1969).
 
- Thái độ tâm lư trong triết học Phật giáo nguyên thủy (The Psychological Attitude of Early Buddhist Pholosophy, NXB Rider, Anh 1969).
 
- Con đường mây trắng (The Way of the White Clouds, NXB Shambala, Mỹ 1988) được Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt 1999.
 
- Cấu trúc nội tại của Kinh Dịch (The Inner Structure of The I Ching, NXB Weatherhill, Mỹ 1981).
 
- Biểu tượng tâm lư và vũ trụ của các bảo tháp Phật giáo (Psycho-cosmic Symbolism of the Buddhist Stupa, NXB Dharma, Mỹ1976).
 
- Thiền định sáng tạo và tâm thức đa diện (Creative Meditation and Multi-Dimensional Consciousness, NXB Quest, Mỹ 1979).
 
- Suy tưởng Phật giáo (Buddhist Reflections, NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1991).
 
- Đạo Phật đi vào cuộc sống phương Tây (Living Buddhism for the West, NXB Shambala, Mỹ 1990).
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 763 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 11:48am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 

(PHẦN MỘT)


NHỮNG LINH ẢNH

LINH ẢNH TẠI ĐỀN TSAPARANG

Mặc chiếc áo hữu hiện,

Chân Như bị hạn chế.

Lấy dạng h́nh thi ca,

Vận động nhẹ như bông.

(Rabindranath Tagore)

Đó là một đêm đầy giông băo trên cổ điện hoang tàn tại Tsaparang, ngày xưa là thủ phủ của một vương quốc hùng hậu của miền tây Tây Tạng. Mây kéo nhau qua dầy đặc trên bầu trời, làm vầng trăng tṛn khi chiếu rọi khi biến mất, để cho ánh trăng, như phát ra từ một chiếc đèn ma quái, nhảy múa trên một sân khấu khổng lồ, diễn lại lịch sử của một bi kịch bất tử.

Tôi nói “bất tử” v́ đó là bi kịch miên viễn của sự hoại diệt, của sự phục hưng trong tṛ chơi kỳ diệu của sức mạnh và thiện mỹ, của vẻ rực rỡ thế gian và của thành tựu tâm linh.

Sức mạnh đă suy tàn nhưng vẻ đẹp vẫn c̣n vương trên cung điện hoang phế, c̣n nằm yên trong những tác phẩm nghệ thuật, chúng đă được tạo thành bằng sự kiên tŕ và nhẫn nhục, trong bóng tối của một thời thịnh trị.

Cái rực rỡ và hùng mạnh đă trở thành cát bụi, cái thần của văn hóa và niềm xác tín tôn giáo đă rút lui trong sự độc cư xa lánh cuộc đời, chúng c̣n hiện diện trong ngôn ngữ từ hay tác phẩm của thánh nhân, thi sĩ hay đạo sư và qua đó mà khẳng định lại lời của Lăo Tử, rằng cái mềm yếu mới sống c̣n, cái cứng mạnh chỉ thuộc về cơi chết.

Số phận của Tsaparang đă an bài. Công tŕnh của con người và tạo tác của thiên nhiên hầu như không c̣n phân biệt được nữa. Cổ điện đă biến thành cát đá và cát đá vươn lên như cung điện uy nghi.

Toàn bộ ngọn núi hùng vĩ hiện ra như một tảng đá cẩm thạch vĩ đại, trong đó khắc họa một thành quách hoang đường: với lâu đài và cung điện, với tháp với vách, cao như muốn đụng đến mây, dựng đứng trên vách đá thẳng cheo leo, như một tổ ong với hàng trăm hàng ngàn ngăn hộc.

Ánh trăng mờ tỏ chiếu rọi làm cảnh vật hầu như vô thực và thêm đáng sợ, trong đó mọi sự đột nhiên biến mất, nhanh như chúng đă xuất hiện.

Ngôi đền màu đỏ thờ Phật Thích-Ca Mâu-Ni ch́m trong bóng tối tĩnh lặng. Chỉ riêng khuôn mặt bức tượng vàng to lớn Thích-Ca Mâu-Ni hầu như tỏa ra một thứ ánh sáng êm dịu, ánh sáng này được tiếp nhận và phản chiếu bởi tượng của các vị Thiền Phật ở bên cạnh tả hữu của Ngài.

Bỗng nhiên tường vách của ngôi đền bắt đầu rung động và tiếng ầm ầm đáng sợ của đá đổ vang lên. Hộp gỗ đựng đèn thờ Phật Thích-Ca bỗng vỡ tung và khuôn mặt tượng Phật rực sáng ánh trăng, cả ngôi đền được chiếu sáng rực.

Cả không gian bỗng đầy tiếng than thở, hầu như cả ngôi đền rên rĩ dưới sức nặng của bao thế kỷ.

Một kẽ nứt to lớn hiện ra trên bức tượng bên cạnh bức họa nữ thần sắc trắng Tara và gần đụng một cánh hoa nằm cạnh ṭa sen của thần.

Thần thức sống trong cánh hoa hoảng sợ nhảy ra khỏi trú xứ của ḿnh, hai tay chắp lại hướng về thần Tara:

“Hỡi thần, kẻ cứu độ mọi loài sinh linh, hăy cứu chúng con và ngôi đền thiêng liêng này, đừng để bị hoại diệt!”

Với cặp mắt từ bi, Tara nh́n chỗ phát tiếng nói và hỏi: “Ngươi là ai, thần thức nhỏ bé kia?”

“Con là thần thức của cái đẹp, trú trong cánh hoa bên cạnh Ngài”.

Tara nở một nụ cười đẹp như người mẹ và chỉ vào một góc khác của ngôi đền: “Trong các lời giáo hóa quí báu hiện được cất chứa trong các bộ kinh có một kinh mang tên Bát-Nhă Ba-la-mật. Trong đó có lời dạy sau đây của Đức Thế Tôn.

Cần phải quán như sau:

như đám mây trôi nổi,

như sao sớm bầu trời,

như ánh lửa vô thường,

như sóng nước suy tàn,

như bóng ma, ảo ảnh,

như giấc mộng chóng tan”.

Thần thức cánh hoa nước mắt đầy tṛng: “Ôi, những lời này chân thực biết bao, hết sức chân thực, hết sức thiện mỹ! Và nơi đâu có vẻ đẹp, dù cho chỉ một lần để ánh mắt ngời sáng, là ở đó có một dây đàn bất tử dă rung lên trong ta.

Vâng, chúng ta đều ở trong cơn đại mộng, và ta hy vọng cuối cùng sẽ thức tỉnh, như Như Lai, Đức Thế Tôn, v́ ḷng từ bi đă xuất hiện trong “dạng mộng” của Ngài để đưa chúng ta đến giác ngộ”.

Khi nói như thế, thần thức của cái đẹp nghiêng ḿnh hướng về Thích-Ca Mâu-Ni, mà tượng Ngài cũng như tất cả mọi h́nh tượng khác của ngôi đền, trong phút giây kỳ diệu này đă trở thành sống động.

“Không phải v́ con thôi”, thần thức nói tiếp, “mà con xin Ngài cứu độ. Con biết tất cả mọi sắc thể đáng sống nơi đây sẽ hoại diệt, cũng như những lời dạy của Đức Như Lai chứa trong các kinh bản bám bụi đă nói. Điều con mong cầu là: đừng để cho các kinh điển đó mất đi trước khi chúng ta truyền được thông điệp vĩ đại đă ghi trong đó.

Con lạy Ngài, hỡi mẹ của tất cả sinh linh, của tất cả các vị Phật, hăy có ḷng từ bi với tất cả mọi người chỉ vướng ít bụi trong mắt, những người có thể thấy và hiểu được, chỉ cần chúng ta ở lâu thêm một chút trong dạng đại mộng của ḿnh, để cho thông điệp của chúng ta đến được với họ, hay trao được cho những người có thể phổ biến thêm ra, v́ ích lợi của mọi loài hữu t́nh.

Đạo sư của chúng ta là Thích-Ca Mâu-Ni ngày xưa cũng được các thiên nhân khẩn cầu, khoan hăy nhập Đại Niết bàn khi Ngài đạt giác ngộ vô thượng. Hăy cho con được cầu khẩn Ngài với lư do như thế, xin được quy y với Ngài và với vô số dạng h́nh của Ngài”.

Thần thức lại cúi ḿnh, hai tay chắp trước trán, trước h́nh tượng uy nghi sáng rực của Phật Thích-Ca Mâu-Ni và tất cả chư Phật và Bồ-tát tề tựu xung quanh.

Thần Tara nhắc tay bắt ấn cứu độ và khuôn mặt sáng rực của Thích-Ca Mâu-Ni mỉm cười đồng ư. “Thần thức của cái đẹp đă nói lên sự thực, tâm của thần thức đầy ḷng thành khẩn. V́ làm sao khác được? Không phải cái đẹp là kẻ chuyên chở và phụng sự cho Chân như sao?

Cái đẹp là nơi thể hiện của sự ḥa điệu mọi dạng h́nh, dù đó là sắc thấy được hay âm nghe được, dù đó là vật chất hay phi vật chất. Dù mọi dạng h́nh là vô thường nhưng sự ḥa điệu, điều mà các dạng đó tŕnh bày và thể hiện, thuộc về vương quốc bất tử của tâm, thuộc về quy luật sâu kín nhất của Chân như mà ta gọi là Pháp.

Nếu ta không diễn đạt Pháp vĩnh cửu đó bằng sự ḥa điệu hoàn hảo trong ngôn từ và tư tưởng, th́ ta cũng đă không thông qua thần thức của vẻ đẹp mà kêu gọi loài người, giáo pháp của ta đă không rung động tim óc họ, giáo pháp đó đă không sống nổi một thế hệ.

Ngôi đền này sẽ sụp đổ cũng như các kinh sách nằm trong các góc nọ sẽ tàn tạ, đó là những kinh sách mà các đệ tử của ta đă chép lại, với sự nghiêm túc và nhiệt thành vô lượng. Nhưng những người khác cũng đă chép lại, từng chữ một, cho nên dù các văn bản này có thể bị hủy hoại, giáo pháp vẫn tiếp tục được truyền bá.

Cũng như thế, mong sao các công tŕnh khác của nghệ sĩ hay thánh nhân, các vị đă làm nên ngôi đền thiêng liêng này, sẽ được bảo toàn cho những thế hệ sau.

Hỡi thần thức cái đẹp, mong ước của ngươi sẽ được toại nguyện. Dạng h́nh của ngươi cũng như tất cả các dạng h́nh sống trong đền này sẽ không bị hủy hoại, bao lâu thông điệp cả các ngươi chưa đến với thế gian, th́ bấy lâu mục đích thánh thiện của các ngươi chưa được toàn vẹn”.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 764 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 12:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
 
LINH ẢNH CỦA ĐẠO SƯ

Trên hàng ngàn ngọn núi,

Nơi đỉnh cao cô quạnh,

Một mái lều xa vắng,

Nửa lều, chỗ sư ở,

Nửa kia dành cho mây.

Nửa đêm dông bảo tới,

Thỏi đám mây đi xa.

Có bao giờ mây hỏi,

Ḿnh ở lâu nơi nào?!

Ryowan

Lạt ma Ngawang Kalsang sống độc cư mười hai năm trong hang động cheo leo, tu tập thiền định. không ai biết ông là ai, không ai nghe nói ǵ về ông. Ông là một trong hàng ngàn tu sĩ vô danh đă được tu học tại một trong những tu viện lớn nhất (Garden) gần Lhasa.

Mặc dù đạt được học vị Gésché (tiến sĩ khoa học nhân văn) nhưng ông nhận thức rằng, muốn thực hiện những ǵ đă học, ḿnh cần phải sống trong sự cô tịch và độc cư trong thiên nhiên, xa rời mọi tiếng ồn ào của chợ búa cũng như đời sống thường nhật của một tu sĩ, trong các tu viện lớn hay trong không khí trí thức của các đại học tôn giáo.

Thế gian đă quên ông cũng như ông đă quên thế gian, không phải ông thờ ơ với thế gian mà ngược lại, ông đă không c̣n thấy giữa ḿnh và thế giới có cái ǵ khác biệt. Điều mà ông thức sự quên không phải là thế gian mà là chính bản thân ḿnh, v́ “thế giới”chỉ có thật trong quan hệ với cái “tôi”.

Dă thú hay đến hang động thăm ông và trở thành bạn với ông. Tâm ông rộng mở với tất cả mọi sinh vật, với mọi loài biết đau xót trong sự thông hiểu sâu xa. V́ lư do đó mà ông không hề cảm thấy bị quên lăng trong cuộc sống độc cư và hưởng sự an lạc trong niềm vui tự tại, sự an lạc xuất phát từ tri kiến cao quí do thiền định mang lại.

Ngày nọ có một người chăn cừu, khi đi t́m thảo nguyên mới cho đàn cừu của ḿnh, đă lạc trên núi cao, nghe tiếng chuông damaru đánh nhịp nhàng, đó là tiếng chuông mà các vị lạt ma và du sĩ khổ hạnh thường đánh lên trong lúc tụng niệm, lẫn với tiếng khánh bạc.

Lúc đầu ông tưởng ḿnh nghe lầm v́ ông cho rằng không người nào có thể sống trong cảnh cô quạnh thế này được. Đến khi nge rơ tiếng chuông, ông bắt đầu thấy sợ; v́ nếu chuông không phải do người đánh lên th́ chắc hẳn do một sức mạnh huyền bí.

Bị cuốn hút giữa sợ hăi và ṭ ṃ, cuối cùng ông đi theo tiếng chuông, như có một lực nam châm nào không thể cưỡng lại kéo ḿnh đi và không bao lâu sau ông thấy h́nh dáng của một vị độc cư ngồi thiền định sâu lắng trước hang động.

Thân người đó gầy nhưng không khô héo, khuôn mặt hầu như chứa đầy sự b́nh an tươi sáng, sáng rực một thứ lửa của sự toàn tâm nội tại. Người chăn cừu liền hết sợ hăi và sau khi vị độc cư chấm dứt thiền quán, ông đến gần, đầy ḷng kính trọng và xin ban phước.

Khi vị độc cư rờ tay trên đầu th́ ông thấy thân ḿnh dường như có một luồng khí lực chạy qua, và một niềm an lạc không thể tả được đến nỗi ông quên hết những ǵ ḿnh muốn hỏi, và vội vă chạy về b́nh nguyên để loan truyền cho mọi người biết sự khám phá quí báu của ḿnh.

Lúc đầu mọi người không ai tin chuyện này, nhưng khi ông đưa họ lên động của vị độc cư th́ tất cả đều ngạc nhiên tột độ. Làm sao con người có thể sống trong cảnh hoang dă này được? Ông lấy thực phẩm ở đâu, không ai biết đến ông?

Làm sao ông qua nổi giá lạnh của mùa đông, khi núi rừng đầy ngập băng tuyết, dù cho có chút chất đốt ít ỏi như rễ cây cũng không đủ, chứ đừng nói đến có thức ăn hay không. Điều chắc chắn là chỉ một tu sĩ khổ hạnh với năng lực siêu nhân mới có thể sống trong môi trường này được.

Mọi người qú xuống chân ông và khi ông ban phước, họ thấy ḿnh như được chuyển hóa, như thấy chính bản thân ḿnh là b́nh chứa cho một niềm an lạc siêu thế và một hạnh phúc chưa từng có.

Ông đă cho họ nếm vị của cái mà mỗi người đều có thể đạt đến, khi mà ta ư thức được năng lực tiềm tàng trong ánh sáng, như năng lực của hạt giống nằm sâu trong tự thân. Với phước lành, vị lạt ma độc cư chia sẻ cho mọi người sự chứng thực của chính ḿnh, để khuyến khích họ đồng hành với ḿnh.

Tin tức về vị độc cư kỳ diệu đó loan truyền dưới lũng như một mồi lửa. Thế nhưng chỉ thanh niên khỏe mạnh mới dám xông pha leo lên hang động xa xôi đó; c̣n những người khác v́ già yếu không thể đi được, nhưng cũng cần đến khai thị tâm linh, họ cầu khẩn xin vị độc cư hăy xuống b́nh nguyên để ban phước cho những ai cần đến.

Dười b́nh nguyên chỉ có một ngôi đền nhỏ, xơ xác với vài tu sĩ, có tên là “Đền ṣ trắng” (Dungkar Gompa). Nó nằm trên một đỉnh đồi đá, giữa một vùng b́nh nguyên mầu mỡ lúa ḿ, v́ thế có tên là Tomo, có nghĩa là “đồng lúa ḿ”. Ngôi đền này bây giờ được trao cho vị lạt ma độc cư, vị này từ nay mang tên là Tomo Géshé Rimposché, có nghĩa là “Bảo ngọc của tri kiến tại đồng lúa ḿ”.

Không bao lâu sau nhiều tu sĩ và cư sĩ xa gần đều kéo đến Dunkar, để học hỏi dưới chân Tomo Géshé và chỉ sau một thời gian ngắn th́ đền Ṣ trắng trở thành một nơi tu học tâm linh và là trung tâm tôn giáo quan trọng, với đền đài xinh đẹp và pḥng ốc rộng răi.

Trong pḥng lớn của chính điện Tomo Géshé cho dựng một bức tượng vàng Di Lặc rất lớn, vị Phật tương lai, vị Từ Thị, là biểu tượng của tâm linh tương lai và của sự tái sinh chính pháp bất diệt, chính pháp đó thể hiện trong mọi kẻ giác ngộ và phải được t́m thấy lại trong trái tim của mỗi con người.

Tuy thế Tomo Géshé chưa hài ḷng với thành quả của ḿnh tại Dungkar. Ông cho dựng tượng Di Lặc ở nhiều nơi khác, để nhắc nhở người theo Phật rằng không nên yên nghỉ trong sự huy hoàng của quá khứ mà c̣n phải chủ động tham gia xây dựng tương lai, trong tinh thần đạt tới sự thành tựu cuối cùng mà ai cũng có, là chuẩn bị cho sự xuất hiện của vị Phật sắp đến.

Thế nhưng một biến cố xảy ra, nó cũng bất ngờ và kỳ lạ như việc khám phá và trở lại thế gian của vị lạt ma độc cư, biến cố này đă gián đoạn công tŕnh đang được thực hiện của ông.

Nguyên do của biến cố này là một lời tiên tri cao cấp tại Lhasa, đ̣i Tomo Géshé phải đi hành hương tại Tschorten Nyima, một nơi chốn trở nên thiêng liêng nhờ Liên Hoa Sinh [1].

Liên Hoa Sinh là người đầu tiên đem đạo Phật đến Tây Tạng, cho đạo Phật một nền tảng vững chắc hằng cách thiết lập tu viện đầu tiên (Samyé) và đưa kinh sách Phật giáo vào ngôn từ Tây Tạng. Công tŕnh này được tiếp tục bởi nhà phiên dịch Rintschen Sangpo, vị này sẽ được nhắc đến về sau.

Những điều này đặc biệt quan trọng đối với chúng ta v́ chúng nêu rơ rằng, một trong những biến cố quan trọng trong đời của Tomo Géshé là liên hệ với thời kỳ thành lập của Phật giáo Tây Tạng, và tại miền tây Tây Tạng, nhất là tại Tsaparang, nó đóng một vai tṛ quan trọng.

Tschorten Nyima nằm ở một trong những vùng cao nhất của cao nguyên Tây Tạng, gần biên giới Bắc Sikkim, trên một vùng cao nguyên khoáng đăng, uốn lượn nhẹ nhàng, tiếp cận với phía Nam của những đỉnh tuyết Hymalaya, những đỉnh này hầu như xuyên thủng bầu trời xanh đậm tiêu biểu ở đây.

Đây là nơi mà Trời và Đất gặp nhau trong một mức độ vĩ đại và đáng kính sợ như nhau: nơi mà cảnh vật của Đất có cái vô tận và nhịp điệu của đại dương và Trời có chiều sâu của không gian. Đó là nơi mà con người thấy ḿnh gần hơn với các thiên thể, nơi mà mặt trời mặt trăng là láng giềng và ngàn sao là bạn.

Và cũng nơi đây đă xảy ra điều đó, các vị Phật và Bồ-tát quả nhiên đă gây cảm hứng cho cá nghệ nhân Tsaparang, để dưới tay họ xuất hiện những dạng h́nh thấy được, báo thân các vị đó đă xuất hiện ra trước mắt của Tomo Géshé.

Trong màu xanh đậm của bầu trời, các vị đă xuất hiện ở dạng như kết nên bằng ánh sáng, rực rỡ trong mọi sắc của cầu vồng, di chuyển chầm chậm trong bầu trời, từ chân trời phía đông qua phía tây.

Sự xuất hiện này lúc đầu chỉ thấy được với Tomo Géshé. Nhưng, như một nghệ sĩ lớn biết làm cho người khác thấy được linh ảnh của ḿnh, bằng cách vẽ lại những h́nh ảnh xuất hiện trong nội tâm trên giấy mực, th́ cũng thế mà vị đạo sư nhờ sự sáng tạo của tâm ḿnh, mà làm cho linh ảnh này trở nên thấy được với mọi người hiện diện.

Không phải tất cả ai cũng cảm nhận linh ảnh được như nhau trong các chi tiết, v́ mực độ cảm thọ mỗi người một khác. Đối với ai không chứng được điều này, thậm chí cả với người đă tự ḿnh chứng thực, thật không thể mô tả vẻ đẹp của linh ẩn này bằng lời hay nói lên được ấn tượng sâu sắc c̣n lại trong tâm người thấy.

Trong kinh Lăng Nghiêm [2] có đoạn mô tả một biến cố tương tự, nơi đây được ghi lại để độc giả có thể h́nh dung về những ǵ mà Tomo Géshé và các người đi cùng đă thấy.

“Phật Thích-Ca Mâu-Ni ngự giữa chư Phật và Bồ-tát của mười phương thế giới và chiếu tỏa hào quang siêu thế của Ngài trên toàn thể chư vị. Từ tứ chí cũng như báo thân Ngài toát ra ánh sáng mầu nhiệm, đọng lại trên đỉnh đầu của chư vị Phật và Bồ-tát.

Và cũng thế, hào quang phát ra từ tứ chí và báo thân của chư Phật và Bồ-tát của mười phương thế giới đọng lại trên đỉnh đầu của Phật Thích-Ca Mâu-Ni, cũng như trên đỉnh đầu của mọi vị Phật, Bồ-tát và thánh nhân khác đang hiện diện.

Đồng thời sóng nước của muôn vàn nguồn suối vang lên bài ca chính pháp, và vô số những ánh hào quang siêu thế đó diệt nên một tấm lưới ngọc, trùm khắp thế gian.

Con mắt trần thế chưa ai được nh́n thấy một cảnh quang tuyệt diệu như thế, cảnh quan giữ mọi người hiện diện trong sự im lặng kính sợ. Và trước khi mọi người hiểu ngộ điều ǵ đang xảy ra th́ họ đă được đưa vào trạng thái an lạc của đại định.

một cảm giác hỉ lạc của sự giải thoát và an b́nh thấm nhuần tất cả mọi người như một cơn mưa hoa ngũ sắc, hầu như chúng phản ánh sắc màu óng ánh của không gian rộng mở trong thân ḿnh.

Tất cả các dạng h́nh khác biệt của núi sông, của hoa của đá, cẻ vạn sự tan chảy ḥa chung làm một và biến mất, để chỉ c̣n một sự chứng thực cái nhất thể uyên nguyên.

Nó không phải là sự cứng nhắc đơn điệu mà chứa đầy sự rung động của sức sống và ánh sáng, đầy tiết điệu hoàn hảo, đầy âm thanh của thành hoại, chứa dựng lẫn nhau, dung thông cho nhau và cuối cùng tan ḥa trong thể tịch tịnh vĩ đại”.

Ḍng tâm thức an tịnh,

tràn ngập niềm an lạc.

Rỗng dang và trong suốt,

xuyên suốt cả không gian.

Đợt sóng ṿng tṛn nọ,

không c̣n nhấp nhô nữa.

Như tiết điệu cuối cùng,

buổi ḥa âm thiên nhạc.

Âm thanh đă ngưng bặt,

tĩnh lặng thành âm nhạc.

Ánh sáng chiếu rực rỡ,

bóng tối đă biến mất [3]


Những biến cố này tuy hiếm có nhưng không phải duy nhất và có lẽ tuân theo một qui luật nội tại nào đó, dường như chứa đựng yếu tố giống nhau.

Thế nhưng linh ảnh tại Tschorten Nyima là một trường hợp lạ lùng trong lịch sử các biến cố tâm lư, trong đó linh ảnh này không phải chỉ là một sự chứng thực chủ quan của một cá nhân, và v́ thế không kiểm chứng được mà được một số lớn nhân chứng xác nhận và ghi vào sách vở [4]

Điều này đă xảy ra sau khi những người hành hương Tschorten Nying về lại, trong đó mỗi người kể lại những ǵ ḿnh nghe thấy, theo mô tả của nhân chứng và được sự chấp nhận của vị đạo sư (sau khi học tṛ yêu cầu đă đồng ư) th́ những cảnh tượng này đă được một nghệ nhân có tài tại Tschorten Nyima vẽ lại trong một bích họa lớn tại tu viện ở Dungkar.

Một trong những nhân chứng của biến cố đáng ghi nhớ này là vị sư trưởng cuối cùng của Dungkar Gompa, ông là người lănh đạo tu viện này cho tới khi Tomo Géshé Rimpotsché tái sinh. Không những cho chụp h́nh bức họa quí báu này, ông giải thích mọi chi tiết của bức tranh, cũng như kể lại mọi biến cố trong lần đi hành hương đó.

Ông mô tả ḿnh dă tận mắt thấy như thế nào cũng như kể những điều mà ông không đủ sức thấy được, chỉ nghe người khác kể lại. Ông nhắc lại sự thực hiếm có là một linh ảnh mà thấy được nhiều giờ để cho ai đă thấy đều ghi nhớ sâu xa được, và để cho mọi người trao đổi và chỉ dẫn cho nhau.

Tôi xin nhắc thêm là người Tây Tạng không xem linh ảnh là sự bày tỏ thiêng liêng của thực tại cuối cùng mà biết đến tính tương đối và nguồn gốc tâm lư của những linh ảnh đó.

Trong Đại Thừa Khởi tín luận, ta thấy: “Khi người học đạo thấy linh ảnh của thiên thần, Bồ-tát và Như Lai, xung quanh là ánh sáng rực rỡ th́ họ nên nghĩ rằng, đó cũng là do tâm tạo và không có thực tính”.

Nhưng bao lâu nó c̣n là sự thực tương đối do tâm tạo tác th́ bấy lâu sự sáng tạo đó là “thực”, tức là có một năng lực thực. Chúng sinh thành và hoại diệt như mỗi một tác phẩm nghệ thuật, chúng được sinh ra từ chứng thực cao nhất của tâm và dù chúng không có thực tính, không chứa thực tại tự thân th́ chúng vẫn chứa những biểu tượng, mà dạng của những biểu tượng đó cứ luôn trở lại để chỉ đường, để nhắc nhở ta đến cái thành tựu cao tột, đến sự giác ngộ.

V́ thế trong các kinh sách (nhất là kinh sách Mật tông Tantra) luôn luôn ta được nhắc nhở phải tránh hai cực đoan, một bên cho linh ảnh của những tầng lớp ư thức cao là thực tại cuối cùng nếu bị như thế ta sẽ vướng nơi chúng và kẹt giữa đường, c̣n bên kia phủ nhận mọi tính cách có thực của chúng, cho chúng chỉ hoàn toàn do tâm tạo.

Nếu thế chúng ta sẽ nhận thức sai về vai tṛ quyết định của tâm thức cũng như khả năng tiềm tàng cẻ nó và đánh mất một phương tiện quí báu của sự tiến bộ.

Tomo Géshé rất ư thức về hai cực đoan này của tư tưởng con người cho nên khi học tṛ xin vẽ lại những linh ảnh tại Tschorten Nyima để truyền lại cho đời sau th́ ông đồng ư nhưng không quên nhắc đến sai lầm khả dĩ là, tưởng một dạng xuất hiện nào đó là thực thể cuối cùng.

Những linh ảnh này đă có ảnh hưởng lớn lao đến Tomo Géshé và học tṛ của ông. Những linh ảnh đó cho ông một thẩm quyền mà tại Tây Tạng, các vị tái sinh (Tulku) mới có, đó là những vị chứa tâm Bồ-tát, có thệ nguyện kiên định là lấy hiện thân làm sinh vật, các vị đó có quyền năng chủ động tái sinh trong tương lại, có đầy đủ điều kiện cần thiết, để mang lại lợi ích cho con người.

Kết quả trực tiếp của linh ảnh tại Tschorten Nyima, là Tomo Géshé cảm thấy ḿnh không chỉ có trách nhiệm với dân tộc và đất nước ḿnh, trong việc trao truyền pháp giác ngộ mà cả thế giới bên ngoài, không phân biệt chủng tộc, giai cấp hay tôn giáo.

V́ thế mà ông bỏ b́nh nguyên yên tĩnh của ḿnh để đi đến các nước quanh vùng Himalaya. Và bất cứ nơi đâu đặt chân đến, ông gieo trồng niềm tin và hy vọng trong ḷng mọi người.
 
Ông cứu giúp kể bệnh tật chỉ bằng cách rờ đến họ và bằng sức mạnh tâm ư ḿnh, ông giảng đạo pháp thiêng liêng, làm cho họ “vui thích lúc đầu, vui thích lúc giữa, vui thích lúc cuối” [5]
 
Ông khai thị cho những ai sẵn sàng đón nhận sự thực của Pháp, và có khi phải bỏ lại đồ đệ của ḿnh để lên đường mang chính pháp đi truyền bá, cũng như đă v́ thế mà ông đă bỏ thung lũng hiền ḥa của ḿnh ra đi.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 765 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 1:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
TU VIỆN YI-GAH TSCHOLING

Để hiểu ư nghĩa của đời sống chúng ta, để nhận rơ những mối dây và h́nh ảnh kỳ lạ đan chằng chịt trong số phận của ḿnh (theo quan điểm Phật giáo, đó là kết quả của Nghiệp, tất cả tạo tác của ta trong quá khứ), thỉnh thoảng ta phải nh́n lui để thấy những mối dây của mạng lưới này, cái mà ta gọi là cuộc đời, xuất phát từ đâu, chạy như thế nào.

Một cái nh́n, vài tiếng nói vô bổ, vài tiết điệu rời rạc vang lên trong một đêm hè yên lặng; một cuốn sách t́nh cờ đến tay ta, một bài thơ, một mùi hương gọi nhớ tất cả những ấn tượng dường như t́nh cờ đó có thể sinh ra năng lực làm thay đổi và quyết định cả cuộc đời tương lai của ta hay là ch́a khóa mở ra cho thấy những bí ẩn sâu xa nằm trong quá khứ.

Khi viết những ḍng này, xung quanh tôi là mùi hương dầu của loại nhang Tây Tạng và gợi cho tôi nhớ lại nơi chốn mà lần đầu tôi ngửi đến nó. Tôi thấy ḿnh ngồi trong điện của một tu viện Tây Tạng, được chiếu sáng bằng đèn dầu, xung quanh ḿnh là một loạt những h́nh tượng lạ lùng, một số th́ hiền ḥa an lạc, số khác th́ dữ tợn phẫn nộ và số khác nữa th́ xem ra kỳ dị và bí ẩn.

Như xuất phát từ cơi không gian nào đầy bóng tối, các h́nh tượng đó chiếm đầy nội thất của ngôi đền. Nh́n tổng thể, hầu như các tượng đó có một sự sinh động, một sự ḥa điệu giữa màu sắc và tiết điệu, chúng phản ánh cái đa diện phong phú của một nhất thể bao trùm.

Tôi đă vào trú ẩn tại tu viện này trong một ngày dông băo dữ dội, nó cắt đứt tất cả mọi liên lạc với bên ngoài và chôn vùi cảnh vạt mùa hè dưới băng tuyết.

Sự bất ngờ và năng lực của trận băo đầy tuyết và mưa đá thật lạ lùng, đến nỗi cả người già cả ở vùng này cũng chưa hề thấy lần nào tương tự trong đời ḿnh và đối với tôi là kể vừa đến từ Sri-Lanka, mang y vàng của một tu sĩ Thượng tọa bộ, choàng chiếc khăn nhẹ, chân mang dép mỏng, th́ tất cả hiện ra có vẻ ma quái hay một cơn mơ kỳ dị.

C̣n tu viện nằm trên cao dăy Darjeeling, xung quanh là thung lũng trên chỏm núi chơ vơ, như một trái bóng để các đám mây đang gầm thét xô đẩy, chúng xuất phát từ chiều sâu nào mà mang theo hàng ngàn tia chớp và sau đó là một loạt mây từ những đỉnh cao băng tuyết Himalaya đổ xuống, sự hỗ độn đến như thế là cùng.

Tiếng sấm động vang lên không ngừng, tiếng đổ như trống dọi của mưa đá trên nóc điện và tiếng gầm rú của dông băo tộn lẫn nhau như bản ḥa tấu của địa ngục.

V́ sẽ nhiều ngày nên tôi không rời tu viện được, vị sư trưởng vui vẻ mời tôi ở cùng pḥng với ông. Ông mang cho tôi chăn ấm và cố hết sức để tôi được thoải mái. Căn pḥng nhỏ v́ thế mà quá nóng và đầy khói nhang cũng như mùi củi khô mà thỉnh thoảng vị sư trưởng ném vào ḷ sưởi lúc tụng niệm làm tôi hầu như ngạt thở và không ngủ được.

May thay ngày hôm sau, ông cho tôi về ở góc của tu viện lớn này, mà nơi đó có thể băng qua sân tu viện, nó cách ly ngôi đền và ṭa nhà chính của điện.

Tại sao tôi lại rời bỏ cuộc sống yên lành tại Sri-Lanka, một thiên đường ấm áp để đi vào một vùng ma quái đầy dông băo của Himalaya và không khí kỳ lạ của một tu viện Tây Tạng? Chưa bao giờ Tây Tạng đóng vài tṛ ǵ trong kế hoạch của tôi và có sức thu hút tôi.

Đối với tôi, Sri-Lanka đă thỏa măn tất cả sự mơ ước và v́ tôi đă nghĩ rằng ḿnh sẽ sống tại đó đến cuối đời nên đă xây dựng ngay giữa đảo một cái cốc, nằm giữa đường từ Kandy và Nuwara Eliya, trong một vùng sơn cước yên lành với mùa xuân trường cửu, không bị ánh nắng màu hè và sức lạnh mùa đông xâm phạm, cây cối đâm chồi nở lộc quanh năm.

Thế nhưng một ngày nọ tôi nhận được thư mời tham dự một hội nghị quốc tế về Phật giáo tại Darjeeling với tính cách là đại biểu của Sri-Lanka và làm chủ tọa điều khiển tiểu ban kinh sách của hội nghị. Mới đầu chần chừ, cuối cùng tôi nhận lời tham gia. Tôi được động viên bởi ư nghĩ, đây chính là dịp để tŕnh bày giáo pháp thuần túy của Phật đă được Sri-Lanka ǵn giữ, tại một nơi mà ngôn từ của Phật đă bị một hệ thống thờ quỉ thần và niềm tin sai lạc bóp méo.

Và bây giờ tôi ở đây, trong xứ sở kỳ dị của Lạt ma giáo, không nói được thứ tiếng của họ, không có chút hiểu biết nào về ư nghĩa của vô số h́nh ảnh và biểu tượng, chúng nằm đầy trên các bích họa cũng như tượng h́nh quanh tôi. Chỉ các tượng Phật và Bồ-tát là tôi quen.

Nhưng khi ngay đó đến, ngày mà bầu tời xanh lại và người ta có thể liên lạc với bên ngoài, và không có ǵ ngăn cản tôi rời Darjeeling trở về với Sri-Lanka thoải mái th́ tôi không c̣n muốn đi nữa.

Hầu như có một sức mạnh không cản nổi giữ tôi lại và càng ở lâu trong thế giới huyền hoặc này mà tôi đă chứng kiến hàng loạt những chuyện kỳ lạ, tôi càng cảm giác ḿnh đang được vén màn cho thấy một dạng thực tại mới mẻ và ḿnh đứng bên bờ một cuộc sống mới.

Lần này là lần đầu trong đời tôi hiểu được thế nào là sự liên hệ phi ngôn ngữ với con người và sự vật, sự liên hệ này lúc đầu sở dĩ có chỉ v́ tôi không nói được tiếng nói địa phương, thế nhưng nó lại sinh ra một khả năng nhận cảm sâu xa và một chứng thực trực tiếp, mà thường những chứng nghiệm đó bị dập tắt ngay v́ nói năng diễn đạt quá nhiều mà phần lớn con người đă quen.

Chỉ tại phương Đông, người ta mới biết một dạng trao đổi trong sự lặng yên giữa người với người, nó được gọi là darshan. Darshan có nguyên nghĩa là “quán sát”, vừa mang nghĩa vật lư tâm linh (thế giới quan).

Theo nghĩa vật lư th́ đó là sự tham dự im lặng vào một con người, chỉ việc nh́n và ư thức về một người, không thấy cần phải chuyện tṛ ǵ, v́ câu chuyện sẽ chỉ làm mất tính cách trực tiếp của ấn tượng đầu tiên, hay mất mối liên hệ nội tại giữa hai bên, hay của sự tham gia trực giác.

Thế nên các vị đạo sư tôn giáo, hay các vị khác tuy không thuyết giảng, nhưng làm gương cho người khác, hay sử dụng darshan đối với học tṛ tâm đạo.

 Nơi đây cần nhắc lại một thí dụ xứng đáng là bậc thánh nhân Ramana Maharschi tại Nam Ấn Độ, là người mà hàng ngàn kẻ tầm đạo từ mọi phần đất Ấn Độ và thế giới t́m gặp, chỉ xin được ngôi im lặng bên cạnh ông; v́ chỉ riêng sự hiện diện của một thánh là đă mang phước và thành quả sâu xa hơn hẳn một cuộc thảo luận trí thức hay một buổi thuyết giảng nhiều lời.

Nhiều người đă đến t́m ông, mang theo nhiều câu hỏi, cuối cùng nhận ra rằng với sự có mặt của ông th́ vấn đề đă tiêu tan, hay ông đă trả lời trước khi họ đặt câu hỏi. Nhưng đó là chuyện xa, bản thân tôi cũng đă có dịp thực chứng điều tương tự.

Như đă nói, tôi ở trong một góc của đền. Đền này gồm một chính điện h́nh vuông, ngự trị bởi một bức tượng Di Lặc vĩ đại. Đầu của bức tượng được ánh sáng từ một cửa sổ đối diện chiếu vào; nếu không, nó sẽ mất hút trong bóng tối của đoạn mái cao của chính điện.

Cửa sổ này nằm giữa đoạn mái thấp của phần trước và đoạn giữa của đền, trên đoạn này là một mái nhà thứ ba, che chính điện h́nh vuông có cột. Trên đoạn h́nh vuông này là tầng một thờ mười phương chư Phật.

Tầng nằm trên bốn cột cao, sơn son, mang nhiều h́nh chạm trổ. Buổi tối khuôn mặt vàng của Di Lặc phản chiếu ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn vĩnh cửu, ngọn đèn nằm giữa chính điện trước bàn thờ đá, trên đó là các phẩm vật cúng đường như chén nước, đèn dầu, bánh cúng h́nh nón (torma), nhang cắm trong những chén cơm.

Hai bên phải trái của bàn thờ đá này là các chỗ ngồi thấp, nệm cứng và các bàn nhỏ để trà (tschotse). Chỗ ngồi cho tu sĩ tụng niệm này mà trong các dịp lễ lớn phải thêm vài hàng, nằm từ cổng vào cho đến vách sau của điện.

Tượng Di Lặc chiếm trung tâm của tấm vách đó, hai bên là các tượng nhỏ của các vị Phật và Bồ-tát khác, kể cả tượng của Đạt lai lạt ma thứ 13 và người sáng lập ngôi đền. Phần c̣n lại của vách sau và một phần quan trọng của hai vách hai bên gồm toàn hàng trăm bộ kinh sách thiêng liêng (Kandschur và Tanschur), chúng nằm trong các hộc nhỏ.

Sách Tây Tạng gồm những tờ giấp hẹp bề ngang, làm bằng tay, để rời, in theo kiểu nằm ngang hoặc viết tay, chúng thường được để giữa hai miếng gỗ trang trí đẹp, cuốn trong vải đỏ hay vàng và bề ngang tờ giấy có một miếng vải ghi số hay dấu cuốn sách.

Miếng vải này được gọi là “đầu” cuốn sách nằm ḷi ra khỏi hộc, cho thấy một sự trang trí hài ḥa của một cấu trúc bằng gỗ to rộng, sơn son, có khắc họa, có khi dát vàng.

Vách tường nếu không bị tượng hay sách vở che mất th́ thường mang đầy bích họa, diễn tả sinh vật sống ở những dạng khác nhau: con người và phi nhân, thánh thần và ma quỉ, những dạng h́nh hiền ḥa và phẫn nộ, từ bi và dữ tợn. Loài phi nhân nhiều tay ôm nhau, xung quanh là khói và lửa và ngay bên cạnh đó là thánh thần ngồi yên trên ṭa sen, hào quang chiếu sáng, dưới chân là đồ đệ phủ phục.

Rồi các nàng tiên nữ với sắc đẹp dịu hiền và thiên nhân trong điệu múa xuất thần, trang sức với sọ người và chuỗi hạt đầy những đầu lâu, song song là tu sĩ khổ hạnh thiền định trong hang động hay dưới gốc cây và các nhà thông thái thuyết giảng cho học tṛ.

Giữa những cảnh đó là đồi xanh và thác nước, phía sau là núi tuyết và mây bay, phía trên là không gian đầy sắc xanh thẩm với thiên thể và những biểu hiện bí ẩn. Thấp nhất là nguồn suối của biển sinh tử với ngọc ngà châu báu, cùng thần rắn giữ cửa cũng như sinh linh dưới đáy biển

Toàn bộ vũ trụ hầu như tập hợp lại trong đền này và những bức vách mở ra một chiều sâu chưa hề biết. Giữa hàng ngàn h́nh dạng của vũ trụ đầy những đời sống và vô số mức độ ư thức khác nhau, tôi sống trong một trạng thái của sự kỳ diệu; tiếp nhận muôn h́nh vạn trạng của cảm thọ, nhưng không hề t́m cách giải thích hay lư luận về chúng, cũng không “nắm bắt” chúng theo cách tư duy.

Tôi chấp nhận nó cũng như người ta đứng trước cảnh vật một vùng đất lạ, nơi ta đến lần đầu, thâu nhận nó và tâm thức của ḿnh. Nếu lúc đó có người giảng cho tôi nghe về những chi tiết của cảnh vật, th́ có  lẽ sự chú ư của tôi sẽ bị hướng về h́nh tượng và lịch sử; và cách tiếp nhận lư luận đó, đă làm tôi đánh mất tính trực tiếp của những cảm thọ ban đầu, về sự hồn nhiên của phản ứng nội tâm của tôi khi gặp thế giới mới.

Nơi đây không phải tôi gặp trí tưởng tượng của chỉ một con người đơn lẻ, mà linh ảnh của vô số thế hệ những con người thiền định, linh ảnh của họ xuất phát từ chứng thực nội tâm, trên một thực tại tâm linh, mà ở thực tại đó, lư luận tư duy của tôi không vươn tới, không thể đánh giá hết.

Và dần dần thực tại đó chiếm hẳn tôi. Thực tại đó xuyên suốt qua h́nh dung và thang giá trị của tôi về thế giới vật chất, tra vấn, tạo nên một sự chuyển hóa về thái độ và ư thức của tôi.

Tôi nhận ra rằng, các thực tại tôn giáo và đời sống tâm linh, là một bước đi vượt ra ngoài biên giới của ư thức b́nh thường, chứ không phải chỉ là sự thay đổi ư kiến hay quan niệm, không phải chỉ là thêm thuyết phục bằng những luận cứ tri thức, hay lư luận tổng hợp.

Những điều vừa kể này không bao giờ mang ta ra khỏi ṿng vây của khái niệm đă biết, mà với những khái niệm đó, ta xây dựng nên “thực tại vật chất” và “lư luận phải trái” của con người.

Thế giới của những điều “hiển nhiên” đó từ xưa đến nay là chướng ngại lớn nhất ngăn cản cái nh́n sáng tạo, và sự t́m kiếm những tầng mức khác của ư thức hay những chiều sâu khác của thực tại. Đời sống tâm linh dựa trên khả năng cảm thọ và chứng thực nội tại.

Nó không cần đến tư duy, v́ tư duy là lư luận chỉ là một tiến tŕnh tâm linh của tiêu hóa và hấp thụ, chúng đi sau khả năng nói trên chứ không đi trước.

 

 

 

 

 

 

 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 766 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 7:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
 
KATSCHELA, NGƯỜI BẠN VONG NIÊN VÀ NGƯỜI
 
HƯỚNG ĐẠO.

Biết nhiều không phải hay,

cái Biết che cái Thấy.

Chân nhân nghe tiếng gọi,

và biết tin lời Người.


Thỉnh thoảng nửa đêm tôi tỉnh dậy và nh́n nét mặt từ bi của khuôn mặt Di Lặc chập chờn trong những dạng h́nh khác đầy bóng tối, chúng bao phủ hết ngôi đền trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn vĩnh cửu. Và trong khuôn mặt bằng vàng, sáng một cách dịu dàng th́ cặp mắt to xanh đậm của Ngài hầu như đầy sự sống và tôi cảm thấy cái nh́n của cặp mắt đọng lại trên tôi, vô cùng êm ái.

Cũng có lúc nữa đêm tôi tỉnh dậy và nghe tiếng nuốt nước miếng kỳ lạ cùng với nhịp thở nặng nề. V́ đêm rất lạnh và vùi ḿnh trong chăn nên một lúc sau tôi mới quyết định dậy nổi và nh́n xung quanh xem có ǵ. Tôi ṭ ṃ v́ thực tế là ban đêm đền khóa cửa và nghĩ chỉ có ḿnh tôi trong đền, ngoài tôi ra không có một sinh vật nào khác.

Tôi đứng dậy dụi mắt và thấy bóng một ông già cử động chậm chạp trước bàn thờ. Ông chắp hai tay lại trên đầu, qú xuống và nằm dài trên mặt đất, tay duỗi về phía trước. Sau đó ông lại đứng lên và lặp lại hành động cúi lạy này, lần nữa rồi lần nữa, cho đến khi thở hổn hển v́ mệt.

Sau khi cúi lạy vô số lần trước tượng Di Lặc, ông đi dọc theo vách tường ngôi đền, nghiêng đầu trước mọi bức tượng và kính trọng dùng trán sờ đến các hàng dưới cùng xếp kinh sách vào chân Di Lặc. Ông đi ṿng theo chiều từ trái qua phải, tức là chiều mặt trời quay theo cách cổ Phật giáo; và khi qua vách tường bên phải, đến góc của tôi th́ tôi nhận ra ông là vị tu sĩ già khả kính, ở trong một pḥng nhờ bên cạnh cửa vào đền.

Tôi nhận ra ông với cái lưng hơi c̣ng và nhờ bộ râu mà người Tây Tạng ít có. Ông là tu sĩ già nhất trong viện, quê ở Schigatse, nơi sống của lạt ma Taschi tức là Ban thiền lạt ma, là người mà hồi c̣n trẻ ông đă phụng sự rất thân cận. Bây giờ ông c̣n được một món tiền hưu ít ỏi mà về sau tôi biết rằng ông dùng phần lớn để sửa chữa hay trang hoàng cho ngôi đền.

Trong lúc bản thân ông th́ sống trước cổng như kẻ nghèo, và ít ai để ư nhất và không sở hữu cái ǵ ngoài miếng thảm để ngồi và quần áo ông mặc. Ông c̣ng lưng không phải v́ tuổi tác mà v́ năm này qua năm khác ngồi thiền định trên tấm thảm. Đời của ông quả thật là một cuộc đời cống hiến cho tôn giáo.

Thế nhưng điều này không ngăn cản Katschenla thỉnh thoảng chơi với trẻ con, chúng hay tụ tập trong sân tu viện, có khi vào hẳn trong đền để chọc ghẹo ông.

Ông vui đùa với chúng và giả vờ đuổi chúng ra khỏi đền bằng cách rượt bắt chúng giữa những hàng ghế. Thế nhưng cặp mắt của ông ánh lên vui tươi, nên thái độ đe dọa của ông mất hết hiệu lực và cả đứa con nít nhỏ nhất, nghịch ngợm kéo áo ông cũng gập người lại mà cười khi ông t́m cách chụp chúng.

Dù tuổi đă cao nhưng không khi nào Katschenla ngồi yên, khi th́ ông dùng hai miếng vải chùi lui chùi tới cho nền bóng lên, khi th́ chùi hàng trăm cây đèn dầu và chén đựng nước hay các b́nh khác trên bàn thờ rồi sắp xếp lại ngay ngắn, khi th́ đọc kinh sách hay tụng niệm cầu an lạc cho mọi người hay cử hành lễ lạc để cầu an cầu phước, luôn luôn ông sống phụng sự cho đền hay tu tập tâm linh.

Trong nhiều dịp đặc biệt ông nắn nhiều h́nh tượng bằng đất sét rất đẹp, diễn tả các vị Phật, Bồ-tát hay hộ pháp được nhiều người tôn thờ. Được xem ông làm thật thích, từ lúc trộn, bóp đất sét, ép trong khuôn rỗng bằng kim loại rồi sửa chữa các chi tiết, phơi khô và nung ở nhiệt độ đều trong một cái ḷ than nhỏ và sau đó là vẽ màu hay dát vàng.

Mỗi một khâu công việc đều có chân ngôn [6] và cầu nguyện kèm theo, cầu phước của chư vị đă giác ngộ cũng như tất cả năng lực trong vũ trụ, năng lực đó hiện diện trong đất và khí, trong lửa và nước, trong tất cả mọi yếu tố làm nên đời sống chúng ta và sự thành tựu tác phẩm.

Cho nên cả công việc thủ công cũng là một nghi lễ với ư nghĩa sâu xa, và là một hành động hiến ḿnh và thiền định. Ông làm những vật thể vật chất trở thành nơi chuyên chở những năng lực, mà tác động của chúng đă đóng vai tṛ quan trọng lúc h́nh thành những vật thể đó.

Đối với người Tây Tạng th́ thế giới không tách làm hai thành vật chất và tinh thần, mà vật chất chỉ là tâm thức đă trở thành thấy được sờ được, tức là năng lực của vũ trụ đă mang dạng h́nh và nhận cảm quan trong tâm thức con người.

Cũng như tâm đă kết tinh thành ngôn từ, như tư tưởng đă biến thành câu chữ, th́ sự chứng thực đă kết tinh thành h́nh tượng thờ cúng, dù nó là tượng hay h́nh tô màu, không màu; và cả hai, ngôn từ hay h́nh tượng trở thành biểu tượng tích cực, và vật chuyên chở các năng lực siêu nhiên cho những ai sẵn sàng mở ḷng v́ những năng lực đó.

Mỗi một hành động sáng tạo đều kết thành một thực tại tâm linh. V́ thế mà hành động sáng tạo một tác phẩm tôn giáo quan trọng hơn sản phẩm của nó. Hành động đó cho tác phẩm của ḿnh một sức mạnh và ư nghĩa huyền bí, chúng tiếp tục tác động.

Đó là ư nghĩa sâu kín của “Vạn Phật Điện” thường có trong các ngôi đền tại Tây Tạng và Viễn Đông. Cũng một lời cầu nguyện hoặc chân ngôn được nhắc hoài không ngưng, v́ hành động của tâm thức tụng niệm quan trọng hơn việc hiểu ư nghĩa hay nội dung của chúng, nên tŕnh bày ngàn lần một tượng Phật duy nhất không phải chỉ nói lên tính vũ trụ của Phật quả, thời nào hay ở đâu cũng hiển hiện được, mà diễn tả hành động sáng tạo ngàn lần.

Tôi không thể nói hết những điều mà Katschenla đă dạy tôi một cách giản đơn và kiên nhẫn. Ḷng phụng sự quên ḿnh, sự sẵn sàng giúp đỡ và nhất là sự cố gắng thành tâm nhằm đưa tôi vào thế giới tâm linh của ông, đă chuẩn bị nội tâm cho cuộc gặp gỡ với vị đạo sư của tôi.

Thực tế là, ông chính là một phần sinh động của vị đạo sư, vị luôn luôn hiện diện trong tâm ông, không bao giờ ĺa xa, chbo nên khi nói đến ḷng biếtg ơn và kính trọng của tôi đối với đạo sư th́ cũng đồng thời nói đến ông.

Ông lo lắng cho tôi được thoải mái như cho chính con ruột ông. Ông dạy cho tôi những từ Tây Tạng đầu tiên bằng cách chỉ những vật thể khác nhau và nói tên của chúng. Mỗi buổi sáng ông mang nước nóng cho tôi, một sự xa xỉ mà ông cũng như các tu sĩ khác không dám có, và ân cần ngồi xuống bên tôi, ông nói: “tschu tsawo” (nước nóng).

Ông chia cho tôi loại trà bơ mà ông ưa thích, được giữ ấm suốt ngày bằng cách để trên ḷ than sau chỗ ngồi. Ngay từ đầu, tôi thích uống loại trà kỳ lạ này, trộn lẫn loại trà tàu, thêm chút bơ, muối và sôđa, mà phần lớn người không phải Tây Tạng thấy khó uống, có lẽ là nhờ t́nh cảm lớn lao của Katschenla, v́ không bao giờ tôi nghĩ có thể từ chối một món quà ân cần như vậy.

Về sau tôi mới biết ḿnh quen được với trà này là rất quan trọng, v́ đó là một thức uống không ǵ thay thế được và rất bổ đưỡng trong những chuyến du hành trên cao nguyên Tây Tạng lạnh giá.

Trước khi thưởng thức chén trà buổi sáng, Katschenla thường lấy một nhúm hạt giống màu đen, để trong ḷng bàn tay ra dạng một con ḅ cạp, vừa đọc chú trừ tà vừa ném vào lửa. Khi khác ông cầm nhang hoa lên trước cửa sổ, vẽ những ấn quyết kỳ lạ, xem là phẩm vật tượng trưng dâng lên cho các bậc giác ngộ, miệng tụng kinh tán thán.

Điều này diễn ra với những cử động mềm mại, đầy ấn tượng làm tôi hầu như thấy những phẩm vật đó hiện ra trước mắt, rơ như ḷng thành khẩn trong sự dâng cúng.

Thế nhưng, những cử động này không hề có tính chất biểu diễn mà chúng hiện ra như một cách diễn tả của một con người nội tại, như sự nhịp nhàng của hơi thở, như nhịp đập của các bậc giác ngộ, trước mặt vô số quỉ thần, cũng nhẹ nhàng tự nhiên như giữa người và thú, bằng cách ông tỏ ḷng kính trọng và ân cần với mỗi đối tượng.

Buổi tối thường Katschenla tay mang đèn dầu đến với góc đền yên lặng của tôi, ngồi trước mặt và ra hiệu cho tôi lấy giấy bút. Với ḷng kiên nhẫn vô bờ, ông nhắc đi nhắc lại cho tôi nghe kinh cầu nguyện, kinh tán thán, bắt tôi lập lại cho đến lúc tôi phát âm và nhấn chỗ thật đúng.

Ông không quan tâm khi mới đầu tôi không hiểu chữ ǵ, thế nhưng nhờ ông chỉ, tôi thấy h́nh tượng các vị Phật và Bồ-tát cũng như các vị hộ pháp, quan trọng liên hệ với các lời cầu nguyện và hô triệu thế nào, mà tôi được hướng dẫn thực sự, hiểu mối liên hệ của ngôn từ và h́nh ảnh nhất định.

Đối với ông th́ những ǵ ông chỉ cho tôi có giá trị tột cùng, không cần biết tôi có hiểu hay không. Và tôi cũng phải nói thật là ḿnh cũng cảm nhận sự đoán chắc chắc đó và ḷng vui sướng, v́ tôi tin rằng một món quà được trao trong t́nh thương và sự chân thành như thế, tự nó đă có giá trị rồi.

Tôi cảm nhận có cái ǵ từ nơi cụ già tốt bụng này chảy tràn trong tôi, cho tôi một cảm giác an lạc mà không thể giải thích được. Đây là lần đầu tôi chứng được sức mạnh của thần chú, phải bỏ mọi khái niệm lư luận mới hiểu được, trong đó âm thanh của tâm thức nằm ẩn trong tim đă được chuyển hóa và được nghe thấy.

Và v́ đó là “âm thanh của tim” chứ không phải của đầu óc nên tai không nghe thấy và óc không nắm được. Chỉ về sau tôi mới hiểu được nội dung và ư nghĩa của những lời cầu nguyện này.

Nhưng sự hiểu biết này không làm quên những thành quả đầu tiên, v́ sau này tôi đă biết, quan trọng hơn xa sự hiểu biết là trạng thái lúc trao truyền những ngôn từ đó, là ḷng thanh tịnh và sự thành tâm của người trao truyền.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 767 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 7:59pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
TU HỌC VÀ CÁC NGHI LỄ


Dưới sự dẫn dắt tốt bụng của Katschenla tôi sớm ư thức nhiều điều nhỏ bé, mà ngày trước tôi không mấy quan tâm hay cho chúng có ư nghĩa ǵ, những điều rất hữu ích để nâng tâm thức lên một mức độ cao hơn, nhờ đưa những hành động và thái độ thường nhật nhất vào trong sự tu học và thiền định.

Tôi học cách cầm một cuốn kinh, kính trọng đưa lên trán trước khi mở bọc lấy ra, cần nhớ rằng trong đó là ngôn từ của các bậc giác ngộ, làm sao cho các tờ kinh không bị lộn xộn [7] và mỗi một âm phải được xem là một chú nên một tờ kinh hư hỏng, không đọc được hay vô ích cũng không được vứt bừa băi, để cho người hay thú có thể đạp lên. V́ lư do này mà phía ngoài đền thường có một bệ thờ để cất chứa những tờ kinh hư hỏng hay dư thừa và các đồ vật cúng dường hết dùng tới.

Tôi học cách đi đứng trong tu viện, trước hết là hướng đi, đó là hướng của thiên thể quay xung quanh mặt trời, điều đó có nghĩa luôn luôn ta phải thấy đức Phật hiện diện, Ngài là mặt trời tâm linh và kẻ giác ngộ của nhân loại, được cung kính bằng cách đi ṿng quanh theo chiều kim đồng hồ.

Ngay cả khi qua sân trước đền để đến ṭa nhà chính nằm bên trái, tôi cũng phải đi toàn ṿng bên mặt của đền. Như thế tôi đi qua một dọc những bánh xe đồng, trên đó có khắc sáu âm thần chú OM MANI PADME HUM và bên trong chứa những cuộn làm bằng giấy Tây Tạng rất bền, trên đó câu thần chú này được chép hàng trăm ngàn lần.

Cũng như đă nhắc khi nói về các h́nh tượng đất sét th́ sự h́nh thành các cuộn giấy này là một nghi lễ thiêng liêng, trong đó năng lực tâm linh được tập hợp và vận động, chúng sẽ mang lại lợi ích cho những ai có tâm sẵn sàng đón lấy.

Khi đi ngang, chỉ cần đụng nhẹ th́ bánh xe đă quay, tôi nhắc lại trong tâm câu thần chú mà Katschenla đă chỉ; v́ không có người Tây Tạng nào thực sự quan tâm đến tôn giáo của ḿnh, và có chút hiểu biết sâu sắc lại có thể ngây thơ tin rằng, một hành động hoàn toàn cơ giới có thể mang lại lợi ích tâm linh cho họ hay cho ai khác, hay nghĩ rằng quay bánh xe một cái là hàng ngàn lời cầu nguyện lên tới trời xanh.

Người Tây Tạng không có ư muốn “đánh lừa thần thánh” bằng cách cầu nguyện để kéo các Ngài về phía ḿnh; cũng như họ không muốn trốn tránh khổ nhọc hay trách nhiệm về việc làm của ḿnh.

Khi một nông dân Tây Tạng đem bánh xe cầu nguyện (mani-tschor-khor) đến một suối nước hay kinh lạch tưới tiêu cho ruộng đồng ḿnh, là muốn ban phép cho nước và cho những ai ăn thực phẩm của ḿnh làm ra. Thế nhưng, thêm một điều là âm thanh tiếng chuông khi quay bánh xe đó sinh ra, sẽ đánh thức thần chú đầy phước hạnh nằm sẵn trong tâm người.

Nguồn gốc của mani-tschor-khor là ǵ? “Quay bánh xe pháp” (chuyển pháp luân) là một ẩn dụ mà bất cứ Phật tử nào cũng biết và có nghĩa là “đưa vào vận hành các sức mạnh của qui luật vũ trụ và đạo lư”.

Khi đưa tschor-khor vào vận hành, anh ta lập lại hành động tâm linh của Phật cách đây 2500 năm, đă “quay bánh xe Pháp”. Hành động này do một vị giác ngộ làm chưa đủ, mỗi ai muốn giác ngộ cũng phải tự ḿnh làm một cách sáng tạo và thực hiện trong thâm tâm ḿnh.

Ta có thể hiểu ư nghĩa sâu xa và sự song hành trong vũ trụ của biểu hiện này, khi nhớ rằng toàn bộ vũ trụ được xây dựng trên vận động quay: các v́ sao và hành tinh quay quanh trục của chính ḿnh, các thiên thể quay xung quanh mặt trời, hay các điện tử quay quanh hạt nhân nguyên tử.

Nếu một đy-na-mô quay quanh mà phát ra điện lực[8] và khi sự quay của tâm con người quanh một đối tượng, ư thức hay một vấn đề sinh ra một t́nh trạng chú tâm, t́nh trạng đó có thể phát minh những điên đảo lộn thế giới.

Hay dẫn đến một mức độ ư thức cao hơn, thâm chí đến sự giác ngộ hoàn toàn th́ có ǵ đáng ngạc nhiên khi người Tây Tạng tin rằng các năng lực cao đẹp được tập trung lên trong lúc h́nh thành một mani-tschor-khor sẽ bám giữ trong thể vật chất của vật đó, theo một cách nào đó, được động viên và trao truyền lại cho ai quay nó?

Tất cả những ư nghĩ đó tràn ngập tâm tôi khi hàng ngày tôi đi ṿng quanh đền và tu viện. Mặc dù tu viện cách nhà dân vùng Ghoom không hơn một dặm, nhưng ở đây dường như thuộc về một thế giới khác.

Giữa làng và tu viện là một ngọn đồi dốc có nhiều cột cúng dường sơn trắng và một vườn cây với nhiều phướn trắng bao quanh. Một cột phướn mang cờ trắng cao khoảng tám mét, mang trên đỉnh biểu hiện của mặt trời, mặt trăng, lửa, có khi là h́nh kiếm trí tuệ hay chĩa ba.

Những lá cờ trắng mang chú nguyện hay dấu hiệu phúc lạc dài khoảng ba phần tư mét, nằm suốt dọc cột cờ, chỉ trừ một mét rưỡi cuối cột là không. Mỗi một lá cờ này do một cá nhân cúng dường hay một gia đ́nh qui y với tu viện. Cờ biểu hiện ân phước cũng như nhắc nhớ chính pháp cho người từ xa đến tu viện hay những người sống quanh đó.

Trong mùa mưa th́ đỉnh núi cao khoảng hai ngàn năm trăm mét, mà trên đó tu viện này được xây dựng, hầu như suốt ngày bị một đám mây khổng lồ bao phủ, nên buổi trưa mà vẫn phải thắp đèn trong điện, bên ngoài th́ sương mù che kín. Toàn bộ khu vực dường như trôi bềnh bồng trong mây, bị gió thổi qua vô số lá cờ trắng xung quanh điện và quanh các tháp trên núi.

Thế nhưng toàn thể không gian và ngay cả các vật thể ch́m đắm trong sương mù không hề tạo ra cảm giác tuyệt vọng mà chỉ tăng thêm phần bí ẩn của khu vực và cho một cảm giác an tâm, vững tin và yên lành, một tâm thức an lạc, sống xa rời tất cả cái hối hả tất bật của thế nhân.

Khi đi ṿng quanh ngọn núi kỳ diệu đầy mây mù này, tôi thường thấy đường như các ṭa nhà vừa mới hiện thân trước mắt và chúng không có thực tính như tư tưởng luôn đổi thay của tôi; c̣n bản thân tôi th́ h́nh như vô h́nh với người khác, như một thần thức đă thoát khỏi thân.

Xung quanh tôi h́nh như có một cơi sống siêu nhiên và khung cảnh tĩnh lặng chỉ làm tăng lên những tiếng động kỳ lạ, nó vang trong không khí, khi lên khi xuống. Chưa bao giờ tôi nghe tiếng động này: nó sinh ra từ những ngọn phướn dài và mỏng rung trong chiều gió thổi lên liên tục từ b́nh nguyên Ấn Độ. (Đó chính là luồng khí ấm và ẩm dâng lên, gặp luồng gió lạnh từ Himalaya mà sinh ra mây mù liên miên trên đỉnh núi này).

Trộn lẫn với tiếng động kỳ lạ này là tiếng chuông bạc của mani-khor-lo nằm trong một ṭa nhà nhỏ bên cạnh ngôi đền chính, do một ông già mù quay, ông vừa quay vừa lầm bầm đọc thần chú.

Cao hơn một chút có một cái đền nhỏ, cứ theo giờ nhất định trong ngày, nó lại phát ra một thứ tiếng rất trầm ngâm của lễ nghi tụng niệm. Bị tiết điệu lôi kéo mà thỉnh htoảng có nghe tiếng kim loại chạm nhau, tôi leo lên đến đền và nghe tiếng tụng của một tu sĩ, rơ là ông đang tụng niệm hàng ngày.

Sau đó v́ sợ phiền tôi vội rút lui. Mấy ngày sau tôi mới có dịp xin ông được thăm nơi chốn thiêng liêng này, nơi này khác với ngôi đền chính là mọi người không được bước vào.

Tôi thấy ngay lư do. Ngôi đền nhỏ này chứa đầy các vị thần dữ tợn, hiện thân của năng lượng hoại diệt và thay đổi, các vị này hiện ra đáng sợ cho những ai bám víu vào vật thể thế gian và danh sắc của chúng, c̣n đối với ai đă hiểu tự tính của sự vật th́ đó là năng lượng của giải thoát khỏi ngục tù, đại diện cho sự chiến thắng của tự thân.

Đó là sự chuyển hóa thoát khỏi cái vô minh tối tăm và ṿng vây của cái Ngă. Các vị đó là hiện thân của tri kiến cao tột, nó như một tia chớp hủy diệt tất cả những ǵ đă ngăn cản ta chứng nghiệm một thực tại vượt trên tư duy khái niệm, như đă xảy ra một kẻ tầm đạo ở Sais, người v́ ṭ ṃ đă lột khăn che mặt của một pho tượng Isis: “Sự phẫn nộ sâu xa đă chôn vùi y dưới hố sâu”.

Đây là lư do tại sao nhiều pho tượng của các vị thần phẫn nộ (một dạng của thực tại) trong các đền riêng biệt lại che mặt và chỉ những kẻ đă quán đỉnh rồi mới được vào; v́ chỉ với họ th́ lực lượng này hay dạng này của thực tại cũng chính là biểu hiện của giác ngộ như những hiện thân từ bi khác của Phật và Bồ-tát - trong tự tính sâu xa nhất.

Th́ hai dạng này quả là một. Qui luật của vũ trụ (Pháp) th́ hiền ḥa và hỗ trợ cho những ai chấp nhận nó, nhưng lại dữ tợn cho những ai đi ngược lại và phủ nhận nó.

Sức mạnh của ánh sáng hay của giải thoát, sức mạnh đưa ta đến giác ngộ, hiện ra với kẻ chống lại ánh sáng và thực tại trong dạng đáng sợ: và v́ thế mà những dạng này được gọi là “hộ pháp” và được người đă quán đỉnh, người đă hiểu ư nghĩa ẩn mật của chúng, gọi là “thần bảo hộ” (yidam).

Thêm một điều bí ẩn nữa cho tôi phải t́m hiểu. Đó là một ṭa nhà có dạng như một ngôi đền, lớn hơn ngôi đền của các thần bảo hộ nhưng lại nhỏ hơn mọi căn nhà khác của tu viện. Nó có h́nh vuông, mái sơn vàng con lên theo kiểu Trung Hoa và có một mái hiên đóng kín, cột che kín, thành ra không thể nh́n vào được. Cửa vào duy nhất là cửa sau nhưng luôn luôn khóa chặt.

Điều làm tôi ṭ ṃ và thấy kỳ diệu là căn nhà này lại thông với ngôi đền chính nằm thấp hơn bằng một tràng hoa của những hạt giống gần như trong suốt, trắng bạc của một giống cây mà tôi không biết đến. Khi hỏi Katschenla, ông trả lời tôi bằng một giọng đầy kính sợ và bí ẩn rằng nơi đó có vị “Đại Lạt ma”, người đó là một vị Phật rồi, đang thiền định.

Ông nói giọng th́ thào ra chiều như đang ở gần vị “Đại lạt ma” đó và mặc dầu không hỏi được vị đó là ai và tất cả mọi chuyện thế nào nhưng tôi bắt đầu suy nghĩ: phải chăng không khí đầy năng lượng này của tu viện và sự chuyển hóa tâm thức trong tôi mà tôi đă thấy, phải chăng những điều đó có mối liên hệ ǵ với sự hiện diện của vị lạt ma này?

Sự thực là Katschenla mà ḷng tốt và sự thành thật của ông đă gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đă nói về vị này một cách kính cẩn, làm tôi ao ước trở thành đệ tử của vị đó. Khi nói với Katschenla điều đó, ông đồng ư ngay và hứa sẽ báo cho sư trưởng điều này để sư trưởng tùy cơ mà báo lại cho vị lạt ma.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 768 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 10:40pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
VỊ ĐẠO SƯ XUẤT HIỆN

Một hai tuần trôi qua. Tôi không rơ vị sư trưởng có báo ǵ cho vị lạt ma không. Thế nhưng ngày nọ khi thiền định trở về từ một hang động phía bên kia đỉnh núi, dưới Tschorten th́ tại chỗ của tôi trong đền có một quả xoài thuộc giống ngon và quí, giống này chỉ mọc ở b́nh nguyên Ấn Độ và mùa này bắt đầu chín.

Tôi không tin mắt ḿnh khi nh́n thứ trái cây sang trọng này và càng không thể hiểu làm sao nó đă đến được đây. Katschenla đến thăm tôi, mặt hớn hở, chỉ tay hướng nhà thiền định nọ và nói đó là tặng vật của vị Đại lạt ma. Chưa bao giờ trong đời tôi nhận được quà tặng quí báu như thế, v́ nó báo cho tôi rằng mong ước của tôi được chấp nhận và tôi trở thành học tṛ (Tschela) do vị đạo sư tâm linh vĩ đại này đích thân dạy dỗ.

Katschenla chung vui toàn vẹn với tôi và tôi quyết chí đợi vị đạo sư, dù kéo dài bao lâu cũng mặc, cho đến khi ông chấm dứt thiền định mà tôi nghe nói có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Nhưng tôi tin tưởng đáng công đợi, dù cho đời suốt đời để t́m ra được vị thầy đích thực, tức là người không phải chỉ truyền cho ta tri kiến suy luận mà là người thầy, dựa trên chính sự chứng thực của ḿnh mà đánh thức được sức mạnh tâm linh của tṛ và dẫn tṛ đến sự viên măn.

Từ “Guru” thường được thầy dịch là “thầy”, nhưng trong thực tế không có từ nào tương đương trong các ngôn ngữ châu Âu; v́ “Guru” cao hơn hẳn “thầy” trong nghĩa rộng của từ này. Một vị thầy cho kiến thức, c̣n một Guru cho hẳn con người ḿnh.

Giáo pháp sâu nhất của một Guru không phải là chữ nghĩa của ông mà là điều không nói ra được, v́ ông vượt lên phạm vi của ngôn ngữ. Vị Đạo Sư [9] là niềm cảm hứng, nói theo nghĩa đen, có nghĩa ông là con người đă cho ta tâm thức sinh động của bản thân ḿnh.

Tương tự như thế th́ từ “Tschela” có nghĩa là cao hơn “tṛ” trong nghĩa thông thường, tức là người chỉ học một khóa học. Đó là người đệ tử, nó có một mối liên hệ tâm linh sâu kín với đạo sư của ḿnh, một mối liên hệ được thiết lập bằng lễ điểm đạo, trong dó một sự trao truyền sức mạnh tâm linh sẽ diễn ra. Sự trao truyền đó hiện thân bằng một câu thần chú và người đệ tử bất cứ lúc nào cũng được gọi đến, nhờ thế mà họ giữ được một mối liên hệ thường xuyên với đạo sư của ḿnh.

Sức mạnh tâm linh nói ở đây không phải là lực lượng vượt trên ư thức của tṛ, mà là khả năng của đạo sư cho phép tṛ chia sẻ chứng thực của ḿnh, sự chứng thực chỉ có trong một t́nh trạng ư thức và chứng ngộ cao hơn thông thường.

Nhờ thế mà tṛ được trải qua hoặc có được một tri kiến chớp nhoáng về tự tính của mục đích muốn tới, để cho tṛ không chỉ hướng đến một ư niệm mơ hồ mà một thực tại đă thấy và đă chứng thực.

Một khả năng như thế chỉ đạt được sau một đời chuyên tâm thiền định và cứ sau mỗi thời kỳ hoàn toàn độc cư và đại định th́ khả năng đó lại tăng trưởng lên, như nước dồn lại trong hồ sẽ tích thêm năng lượng.

Điều này rất rơ đối với tôi trong ngày mà vị Đại lạt ma, hồi đó tên của ông chưa mang ư nghĩa ǵ với tôi, nhưng ông không ai khác hơn là Tomo Gésché Rimpotsché, lần đầu rời ngôi đền sau nhiều tuần thiền định. Từ sáng sớm tôi đă thấy hoạt động bất thường của tu viện, hầu như số người tăng gấp đôi gấp ba.

Thật là bí ẩn khi nhiều tu sĩ từ đâu lại, nhưng xem ra họ thuộc về tu viện mà không sống trong các bức tường tại đây. Ngay cả những người tôi biết trước nhưng hôm nay xem ra thay đổi, không phải chỉ v́ họ mặc áo quần đẹp nhất, mà v́ họ hết sức sạch sẽ, tắm rửa nghiêm túc.

Mọi người ngồi kín các hàng ghế dài trong đền, dù đă mang thêm ghế vào. Các nồi nấu trà và xúp sôi sùng sục trong bếp bên cạnh đền, chuẩn bị được đưa vào trong lúc nghỉ. Chính điện được chiếu sáng bằng hàng ngàn ngọn đèn dầu và từng bó nhang cháy bốc lên từng đám mây thơm lừng và cho một đám khí xanh trên đầu các bức tượng.

Th́nh ĺnh có âm thanh tù và trầm như tiếng sấm xen lẫn với tiếng xạp xỏa và tiếng trống chậm răi. Hai cánh cửa đền mở rộng và Tomo Géché Rimpotsché bước vào, hai bên là hai lạt ma áo quần trang nghiêm, đầu đội mũ cao. Thân choàng một khăn lụa vàng (áo choàng truyền thống của tu sĩ Phật giáo), người ta trải dưới chân ông một tấm nệm cầu nguyện.

Ông chắp hai tay cao hẳn trên đầu để cúi chào các bậc giác ngộ, qú xuống nệm, trán chạm đất. Ông lặp lại nghi lễ này ba lần trong lúc toàn bộ các tu sĩ tụng niệm. Tiếng tụng niệm ngân nga trầm lắng tạo nên âm thanh đều đặn lẫn trong những tiếng xập xỏa thúc giục và xuyên khắp qua hai cửa vang vọng từ bên ngoài vào.

Sau khi vị đạo sư tế lễ xong, người ta đội cho ông một cái mũ vàng, đầu nhọn, tượng trưng cho đạo vị cao thấp. Rồi ông đi giữa những hàng ghế vào ngồi lên ṭa, cao hơn một chút so với vị sư trưởng, người đại diện cho ông khi ông vắng mặt. Khi ông đi giữa điện, một sự yên lặng sâu xa ngự trị trong tất cả mọi người.

Tất cả ngồi bất động và hầu như bị tê dại bởi sự có mặt huyền bí của một con người, người đă truyền cho cả ngôi đền một sức mạnh tập trung của tâm thức thanh tịnh sau nhiều tuần nhập định. Tôi bắt đầu hiểu ngộ điều Katschenla nói, rằng vị Đại lạt ma là một với các vị giác ngộ, chư Phật.

Khi vị đạo sư ngồi trên ṭa th́ vị sư trưởng bắt đầu tụng niệm với một giọng rất trầm, trầm đến nỗi ta phải hỏi đây là tiếng từ lồng ngực con người hay từ tầng sâu của trái đất. Sau dó là tiếng tụng của tu sĩ và các tiểu tăng; tiếng cao của người trẻ, tiếng thấp của người già và tiếng rất trầm xuyên suốt của vị sư trưởng làm thành một tiết điệu hoàn hảo.

Sau đó âm thanh tụng niệm ngày càng cao, điểm thêm tiếng trống, cao dần rồi ngưng bặt để chỉ c̣n nghe thấy tiếng của sư trưởng. Sau đó toàn bộ tu sĩ lại tụng niệm, âm thanh đạt tới một đỉnh cao khác, lẫn với tiếng kim khí lao xao và tiếng trống trầm ấm, lại dứt hẳn để chỉ nghe tiếng của sư trưởng.

Tiết điệu thay đổi lên xuống này, khi th́ im lặng sâu lắng, khi th́ dồn dập cao tột, trong đó cái im lặng mở đường cho cái dồn dập, cái vô thanh là tổng số mọi âm thanh, làm cho người có mặt liên tục bị một áp lực sống động, ở trong một trạng thái của tâm linh và xả bỏ. Thế nên sau đó bài giảng và phép lành của Tomo Gésché Rimpotsché hầu như gặp một vùng đất tốt.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 769 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 11:00pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
NHẠC LỄ TÂY TẠNG


Loại nhạc lễ sâu lắng, đầy tác dụng tâm linh của Tây Tạng, là âm thanh nền của các buổi giảng đạo, không được xây dựng nên bởi tiết tấu mà chủ yếu là nhịp điệu và tác dụng của các chủng âm, tôi dám nói là của các chủng âm nguyên thủy [10] mà mỗi âm đó được một nhạc cụ chuyên biệt tŕnh bày.

Các nhạc cụ đó không hề bắt chước các biến hiện của giọng hát hay xúc cảm của con người, mà đại diện cho cách diễn tả trọn vẹn của những hiện tượng cơ bản của tự nhiên, trong đó th́ giọng người chỉ là một trong nhiều loại dao động, các dao động đó làm nên những bản ḥa ca tạo thành âm điệu của vũ trụ.

Bản ḥa ca này không tuân thủ qui luật của phép ḥa ca theo nhạc lư phương Tây, thế nhưng nó mang lại một hiệu ứng tổng thể, hiệu ứng này không phải không có nhịp điệu, v́ cái tất cả thực ra cũng có phép tắc nhất định và cho thấy một sự song song giữa các yếu tố âm thanh ở các mức độ khác nhau.

Mặc dù bị âm nhạc tác động sâu sắc, nhưng tôi không đủ tŕnh độ để có một phân tích chuyên môn hay một mô tả khách quan về kỹ thuật cả âm nhạc Tây Tạng.

Thế nên tôi chỉ có thể nói về quan sát và phản ứng cảm tính của ḿnh bằng những câu đơn giản. Điều đáng nói là tính cách sơ lược của các tường tŕnh ngắn ngủi về nhạc Tây Tạng mà tôi đọc thấy trong các sách chỉ dẫn du lịch làm tôi tin rằng, hoặc là ngôn ngữ âm nhạc phương Tây không phù hợp để diễn tả tính cách độc đáo của nhạc Tây Tạng, hoặc là những người muốn tŕnh bày nó không đủ sức nắm lấy cái thần của nó.

Muốn làm được điều này, người ta phải quen với thực tế tôn giáo và tự nhiên tại nơi mà nền âm nhạc này lớn lên. Người ta phải sống lâu tại đây, phải tham dự vào cuộc sống tinh thần và cảm xúc, mà âm nhạc là cách diễn tả trực tiếp.

Phật giáo Tây Tạng xem con người không phải là một thể sống riêng lẻ, mà nằm trong mối liên hệ với cái nền vũ trụ. Thế nên, âm nhạc tế lễ của Tây Tạng không nói đến những cảm xúc nhất thời của một cá thể mà thể tính vô thủy vô chung, miên viễn của đời sống vũ trụ, trong đó cái vui buồn riêng tư của ta không đóng vai tṛ ǵ.

Với thể tính đó, ta gặp lại suối nguồn của thực tại trong tự tính sâu kín nhất của ta. Đây không phải chỉ là cái cốt yếu của thiền định Phật giáo mà cũng là của âm nhạc tế lễ Tây Tạng, nó xây dựng trên sự rung động sâu xa nhất mà một nhạc cụ hay giọng người đủ sức diễn tả: những âm thanh hầu như tiếng sấm động, chủng âm thiêng liêng của tự nhiên, mà sự dao động của nó đại diện cho nguồn sống của hết thảy mọi vật trong vũ trụ.

Chúng tạo ra cái nền móng mà trên đó âm thanh cao hơn hay những tiếng đập của nhạc cụ bằng gỗ mới trổi dậy, như dạng h́nh của loài hữu t́nh xuất hiện từ các năng lực cơ bản của tự nhiên, người ta ư thức những năng lực đó không nơi đâu mạnh bằng các dăy núi hùng vĩ và các cao nguyên ngút ngàn và cô tịch ở Tây Tạng.

Như giọng trầm của người chỉ huy đă cho đoàn nhạc công nền móng và mở đầu bài giảng, rồi cuối mỗi đoạn lại trở về với giọng trầm; th́ tương tự thế, chiếc kèn tù-và bằng đồng dài bốn mét là gốc gác, là điểm xuất phát của dàn giao hưởng. Loại kèn luôn luôn được thổi từng cặp, để cho chiếc này vừa dứt th́ chiếc kia thổi lên.

Và như thế mà ta luôn luôn có một tiếng kèn liên tục, có lên có xuống, trong sức mạnh và chiều sâu của nó nghe như một đại dương của âm thanh tràn trong không gian. Và trên mặt đại dương đó mà chủng âm của nó là OM, gốc của mọi âm thiêng liêng, th́ gió đă tạo ra đời sống cá thể bằng cách làm thành vô số những sóng lớn sóng nhỏ, như những âm thanh của nhạc cụ gỗ, chúng sinh động và đầy tiết điệu.

Giọng trầm mà vị sư trưởng bắt đầu và làm nền cho buổi lễ không ǵ khác hơn chính là sự nhắc lại của chủng âm thần chú này, v́ buổi giảng đạo chủ yếu (dù không phải mọi lúc) có tính cách chú nguyện, nhất là trong phần đầu và phần cuối của mỗi đoạn. Tất cả những câu chú nguyện quan trọng của phần tụng niệm được sự tham gia của chuông và trống nhỏ.

Ngược với tiếng kèn không nhiều th́ ít có tính tĩnh tại th́ tiếng đập và tiếng xập xỏa đại diện cho yếu tố động của dàn nhạc. Tiết điệu dĩ nhiên phải thay đổi theo từng đoạn tụng niệm, nhưng đây là điều quan trọng về tính chất âm nhạc và cảm xúc, v́ là một cảm giác của sự giải thoát sinh ra từ áp lực, lúc đầu c̣n chậm về sau nhanh dần, đến đoạn cuối cùng của buổi lễ th́ tiết điệu nhạc nhanh dần lên, đến lúc nó trổ vào đoạn chung cuộc.

Nơi đó th́ tiếng xập xỏa mang lại một âm thanh kim loại, quay cuồng, thắng lợi, vươn cao hơn tất cả tiếng đập chạy ầm ầm phía dưới và chấm dứt bằng một tiếng xập xỏa vang dội. Sau đó lại bắt đầu một chu tŕnh mới, chậm răi của một đoạn tế lễ khác.

Khi tiếng kèn hay giọng trầm của con người bắt chước chủng âm vũ trụ, trong đó ta chứng cái vô cùng của không gian th́ tiếng trống đại biểu cho tính hữu hạn của cuộc sống và vận động, chúng tuân thủ nguyên lư cao nhất của mọi sinh cơ, tuân thủ chu tŕnh nội tại của chúng, đó là chu tŕnh sáng tạo và phân hủy, phân tích và tổng hợp, hóa hiện và thu hồi, sinh thành và hoại diệt; chúng đạt đỉnh cao trong hữu hiện và giải thoát.

Nếu tiết điệu trong lễ nhạc Tây Tạng đóng vai tṛ quan trọng của âm hưởng vô thường trong đời sống cá thể th́ nhịp điệu của âm nhạc lại nói lên cơ cấu và ư nghĩa đích thực của nó.

Với tiếng trống hay tiếng đập, người Tây Tạng, hẳn là cả người phương Đông nói chung, nói lên cảm xúc hoàn toàn khác với ở phương Tây, là nơi không thấy đó là một nhạc cụ cơ bản hay độc lập.

Trong thời đầu của văn hóa Ấn Độ, ư nghĩa của tiếng trống có thể được thấy qua một ẩn dụ quan trong của Phật, trong đó Ngài so sánh qui luật trường cửu của vũ trụ như nhịp điệu của tiếng trống, đó là lời đầu tiên sau khi giác ngộ, Ngài noí về “tiếng trống bất tử” (amata dundubhin) vang lên cho toàn thế giới.

Chính v́ không theo dơi được hết tất cả chi tiết của buổi tế lễ dưới sự hướng dẫn của Tomo Géshé Rimpotsché, nên sáng hôm đó tôi tập trung nghe tiếng ca nhạc và lưu ư tác động của buổi lễ đó làm tôi có khả năng cảm thụ lớn nhất.

Trong những tuần trước dù đă tham gia nhiều buổi lễ nhưng chưa bao giờ tôi được sống trong một t́nh trạng hoàn hảo và ḥa điệu như thế. Tất cả những người tham dự ngày hôm đó hầu như tràn đầy sự hiện diện của một tâm thức cao hơn.

Như tôi cảm nhận, là thống nhất trong ư thức bao trùm tất cả của một vị đạo sư, để cho tất cả hành động của họ đều ḥa hợp với nhau, tụng kinh hay niệm chú, hầu như tất cả đă tan chảy, ḥa chung vào một thân duy nhất.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 770 of 2534: Đă gửi: 09 September 2008 lúc 11:17pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
GẶP GỠ ĐẠO SƯ

Tôi vui mừng biết bao khi được gặp hiện thân của ư niệm xa vời đó thật sự ở ngay trước mắt ḿnh: một con người, mà bất cứ những ai được tiếp xúc đều được học hỏi, chỉ sự hiện diện của ông đă gây ấn tượng và đúng như kinh sách thường nói, hăy chứng thực ngay tại đây và bây giờ như trong những ngày Phật c̣n tại thế.

Số phận đă dành cho tôi một cơ hội lớn lao được gặp một người như thế, được tiếp xúc sống động với cái tâm thức đă tạo nên tâm chư Phật và các vị thánh nhân trong quá khứ cũng như sẽ tạo nên tâm các vị khác trong tương lai.

Tôi được gặp vị đạo sư sớm hơn ḿnh chờ đợi. Lần gặp đó diễn ra trong một pḥng thờ nhỏ tại lầu trên của Labrang (ṭa nhà chính của tu viện), nơi ở của vị đạo sư mỗi khi ông lưu lại Yi-Gah Tschor-Ling; và những lúc ông vắng mặt, nơi đó vẫn được xem là chốn thiêng liêng không ai được ngồi, dù chỉ rất ngắn và lúc ông vắng mặt th́ được thay đổi bởi bộ áo lễ dựng đứng, biểu hiện sự hiện diện tâm linh của ông.

V́ nơi đây là chỗ ông hằng ngày quán tưởng và trải qua vô số giờ thiền định. Ngay ban đêm ông cũng ngồi thiền định trong thế liên hoa. Chỗ ngồi này không cho phép ông nằm hay duỗi chân. Đó là một khung h́nh vuông, trong đó có nhiều gối cứng.

Phía dưới chỗ ngồi có đường viền che ba phía, phía thứ tư là lưng dựa có trang trí bằng bánh xe chính pháp và các biểu tượng khác. Phía trên chỗ ngồi là h́nh bầu trời với bảy màu, tượng trưng cho hào quang của Phật.

Toàn bộ gian pḥng này toát ra không khí của an b́nh và vẻ đẹp, là hơi thở của một nhân cách, của sự ḥa hợp không những về mặt thiện mỹ mà sự bày tỏ tự nhiên của một cuộc sống hoàn toàn hướng về tâm linh.

Ngoài ra các bức tranh tôn giáo đẹp chi li kỹ lưỡng, ḷng trong khuôn đem từ Trung Quốc qua, ḥa hợp với màu sắc thanh nhă của loại thảm Tây tạng bọc các ghế ngồi xung quanh bàn nhỏ uống trà. Phía kia của gian pḥng là các bức tượng thếp vàng với tŕnh độ thủ công xuất sắc để trong các lồng kính, xung quanh khắc họa h́nh rồng và các h́nh nổi khác.

Phần dưới của bệ thờ gồm có nhiều cửa, nhô ra một chút để có thể đặt trên đó chén đựng nước và đèn dầu, tất cả đều bằng bạc. Trong pḥng không có một vật ǵ mà không mang biểu tượng hay chức năng của một đời sống tâm linh, và cũng không có ǵ gọi là của riêng của bậc đạo sư [11].

Sau khi ông đă rời bỏ thân người lần này, theo chỉ thị của ông, người ta cho tôi đặc quyền vô song là được ở trong pḥng này và tôi thấy lại tất cả những ǵ như hồi ông c̣n hiện diện. Ngay cả một tách trà bằng ngọc để trên một đĩa bạc mà mỗi ngày người ta c̣n rót trà nóng, cũng như các pháp khí khác như kim cương sứ, chuông, b́nh bát và các thứ khác cũng c̣n nằm tại chỗ cũ, trước chỗ ngồi của ông.

Nhưng tất cả chi tiết này đều ḥa nhập trong một ấn tượng chung của an b́nh và ḥa hợp của ngày đầu tiên đó. Tôi cúi ḿnh trước đạo sư và ông đặt hai tay trên đầu tôi: hai bàn tay mà chỉ cần đặt nhẹ lên đầu là đă có môt luồng điện của sự an lạc chạy khắp người và phủ khắp tôi, để tất cả những ǵ tôi định nói hay hỏi ông bỗng biến mất khỏi tâm ḿnh như sương mù dưới ánh mặt trời.

Chỉ riêng sự có mặt của con người này đă đủ để phá tan mọi sự thể, biến nó thành không như bóng đêm gặp ánh sáng. Khi ông ngồi trước mắt tôi, dưới h́nh vẽ bầu trời, trong bộ áo đơn giản đỏ sậm của một tu sĩ Tây Tạng, thật khó đoán tuổi ông, dù lúc đó chắc ông không dưới tuổi 65.

Tóc cạo ngắn của ông vẫn c̣n đen và thân ông khỏe mạnh, thẳng người. Khuôn mặt ông cho thấy một tính cách mạnh mẽ, nhưng cái nh́n thân thiện và khóe miệng hướng lên hầu như sắp mỉm cười làm tôi thấy tin tưởng.

Điều đáng lạ lùng là không ai chụp h́nh được Tomo Géché Rimpotsché, mặc dù trong thời gian ông đi hành hương tại các thánh địa Ấn Độ, nhiều người đă lén chụp h́nh v́ biết ông không đồng ư. Kết quả luôn luôn như nhau: hoặc là người ta thấy phim không ảnh hay h́nh mờ hẳn đi, hay là có điều ǵ xảy ra.

Dù nguyên nhân thế nào th́ khuôn mặt của vị đạo sư không thể ghi lại trên phim. Ông từ chối mọi sự thần thánh hóa và không muốn con người ḿnh là đối tượng của một sự tôn thờ.

Trong ngày nhận tôi làm đệ tử, ông nói: “Nếu con muốn ta là thầy th́ hăy đừng nh́n vào cá nhân ta, v́ mỗi một cá nhân đều có hạn cuộc, và bao lâu ta c̣n quan sát thấy sự thiếu trọn vẹn ở một người khác, th́ bấy lâu ta c̣n tự đánh mất khả năng học hỏi từ người đó.

Hăy nhớ rằng, mỗi loài đều mang trong ḿnh tia sáng của Phật quả, thế nhưng khi ta chú ư đến sai trái của người khác, th́ ta tự đánh mất ánh sáng toát ra từ người đó, thông qua người đó mà đến với ta, dù cường độ của nó có khác nhau giữa người này người kia.

Hiển nhiên khi t́m một vị đạo sư ta phải t́m người đáng tin cậy; nhưng khi đă t́m ra người đó, ta phải xem tất cả những ǵ mà thầy dạy cho ta đều là ơn phước của Phật cả. Ta không xem lời nói của thầy từ thầy mà ra, mà là tiếng của Phật, đáng được tôn quí.

Khi con cúi đầu trước thầy, không phải con tôn thờ xác thân có hạn mà thờ Phật, tôn quí vị đạo sư vĩnh cửu, người đă truyền chánh pháp thông qua ngôn từ của một người thầy mang nhân trạng, đó là một đơn vị sinh động trong một chuỗi những vị nhập ḍng, người truyền pháp từ thầy qua tṛ, từ thuở của Thích-Ca Mâu-Ni cho đến ngày hôm nay.

Những người truyền giáo pháp chính là b́nh chứa và nếu họ thông hiểu và tự chứng thực th́ họ chính là hiện thân của pháp. Cái làm nên vị đạo sư không phải là tŕnh độ tâm linh, chẳng phải thân thể, chẳng phải ngôn từ mà chính là thực tại, cái tuệ giác, thứ ánh sáng nằm trong người đó.

Người đó càng chứa nhiều thứ đó, khi thứ đó càng sinh động, th́ h́nh dạng lẫn hành động người đó càng phù hợp với nó, người học tṛ càng dễ nhận ra vị Phật trong thầy ḿnh. V́ thế mà học tṛ hết sức cẩn trọng trong việc lựa đạo sư cho ḿnh; cũng như thế, mà thầy lựa tṛ cho ḿnh.

Thế nhưng ta không bao giờ quên rằng, trong mỗi con người có một tâm bồ đề luôn luôn hiện diện (v́ thế mà tôi hay gọi “tia chớp” của tâm giác ngộ thay v́ gọi tư tưởng giác ngộ, tia chớp đó sinh ra khi tiềm năng này trở thành ư thức) và chỉ sự mù quáng của chính ta ngăn trở ḿnh nhận rra nó.

Ta càng bất toàn th́ càng có khuynh hướng thấy sai trái nơi người khác, trong lúc những người đă đạt tri kiến sâu xa th́ lại thông qua những sai trái đó mà thấy tự tính của mọi loài khác. Thế nên những người vĩ đại nhất cũng là người thấy cái linh thể nơi người khác, là người luôn luôn tôn kính cả những người tầm thường nhất.

Bao lâu ta coi khinh mọi người, xem người là thấp kém, bấy lâu ta không có tiến bộ. V́ thế khi ta hiểu rằng, ḿnh sống đúng trong thế giới xứng đáng cho ḿnh, ta sẽ cảm nhận sai trái của mọi người là của chính ḿnh, dù nó có xuất hiện không trực tiếp từ nơi ta mà ra.

Đó chính là nghiệp của ḿnh phải sống trong thế giới bất toàn này, nói cho cùng th́ thế giới này là do ta tự tạo. Chỉ có thái độ đó mới giúp ta vượt được khó khăn của ḿnh, v́ nó thay sự phủ định vô bổ bằng một năng lực tích cực để tới sự hoàn thiện, nó không những làm cho ta xứng đáng với một thế giới tốt đẹp hơn, mà c̣n đưa ta trở thành người tạo tác cho sự sáng tạo đó”.

Sau đó vị đạo sư tiếp tục giải thích các điều kiện tâm linh tiên quyết và các phép thiền định để tạo nên được thái độ tích cực và sáng tạo đó. Ḷng từ bi thương người, không phải chỉ biết đau khổ theo người mà cũng biết vui sướng cùng người, đối với tất cả loài hữu t́nh, theo ông là sự chuẩn bị đầu tiên cho phép thiền định v́ nó sẽ loại bỏ những giới hạn thuộc về cảm tính và tư duy do ta tự tạo.

Muốn được thái độ này ta phải biết xem mọi loài là mẹ đẻ hay con ruột của chính ḿnh, trong vũ trụ này không có sinh vật nào mà không từng là bà con ruột thịt với ta trong vô lượng kiếp. Để biết quư từng khoảnh khắc của đời sống, ta cần luôn tâm niệm rằng, mỗi một chớp mắt có thể là giây phút cuối của đời ḿnh, không dễ ǵ có lại.

Ngoài ra ông chỉ thêm rằng, những ǵ ta biết về thiền định qua sách vở không hề so sánh được với sự chứng thực trực tiếp và với tác dụng tâm linh của đạo sư, miễn là ta biết thành tâm rộng mở tấm ḷng với ông.

V́ thế mà trong Bồ Đề hành kinh [12] có đoạn: “Khi tư tưởng giác ngộ đă bắt rễ th́ kẻ khổ đau bị trói buộc trong tù ngục của đời sống trở thành con đẻ của sự giác ngộ, được trời và người tôn kính.

Khi tư tưởng này đă chiếm thân bất tịnh của người đó th́ nó sẽ biến thân đó thành viên ngọc cao quư của một vị Phật. V́ thế hăy tới với thứ nước cam lồ đó, nó có thể chuyển hóa tuyệt diệu và mang tên là tâm bồ đề.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 771 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 7:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
ĐIỂM ĐẠO

Thật may mắn cho tôi không những được chuẩn bị bởi sự dạy dỗ kiên tŕ của Katschenla mà c̣n được một người bạn là một vị lạt ma Mông Cổ biết Anh ngữ, đă giúp tôi học hỏi kinh sách Tây Tạng, bù lại tôi chỉ cho ông tiếng Pali và thêm Anh văn.
 
Ông đă học tập hai mươi năm trong một tu viện đại học gần Lhasa, đạt được học vị Géché và về sau cùng làm việc với nhà Đông phương học Stael-Holstein tại Bắc Kinh. Tên ông là Tubden Scherab, nhưng thường ông được gọi là “Géchéla”.

Nhờ ông làm thông dịch mà tôi không gặp khó khăn ǵ để hiểu giáo pháp của đạo sư và trao đổi riêng với ông, mặc dù tôi sớm biết vị đạo sư không cần đến thông dịch viên v́ ông đọc tư tưởng của tôi như đọc một cuốn sách đang mở.
 
V́ biết tôi đă dành phần lớn thời gian trưởng thành của ḿnh để nghiên cứu Phật giáo, ông không phí giờ mà giảng cho tôi những giáo lư tổng quát nữa mà đến ngay với đề tài của phép tu thiền định, điều đối với ông hệ trọng hơn mọi ư kiến thức lư thuyết. Đối với tôi, điều này từ xưa đến nay chính là khía cạnh chủ yếu của đạo Phật cũng như đời sống tôn giáo.

Tới nay th́ tôi dựa vào trực giác của riêng ḿnh và các khai thị trong hệ Pali về việc hành tŕ thiền định, nhất là kinh Tứ Niệm Xứ [13] thời đó được phổ biến không phải theo phương pháp mới mà theo cách đơn điệu của trường phái Mynamar. V́ thế mà tôi hết sức quan tâm được đưa vào các phương pháp truyền thống, từng bước đi sâu vào sự chứng thực thiền định.

Trong ngày mà Tomo Géché Rimpotsché chính thức nhận tôi làm đệ tử và quán đỉnh cho tôi bằng một buổi lễ điểm đạo, trong đó tôi nhận được thần chú đầu tiên của ḿnh, th́ một điều quan trọng trở nên rơ ràng, điều mà tôi chưa có trong cuộc đời tôn giáo của ḿnh.
 
Đó là một biến cố tâm linh, nó không cần bất cứ triết lư hay lư luận phải trái ǵ v́ nó không hề dựa trên sự hiểu biết lư thuyết mà là những sự thực xảy ra và sự chứng nghiệm trực tiếp và nhờ đó mà tôi chắc rằng, mục đích ḿnh theo đuổi không phải là một ư niệm trừu tượng do đầu óc hư cấu ra, mà là t́nh trạng ư thức có thể đạt tới thực, một thực tại có thể nắm bắt.

Thế nhưng biến cố đă cho thấy thực tại có thể nắm bắt này lại quá tinh tế, vượt qua mọi so sánh, nên sự mô tả quá tŕnh điểm đạo và những biến cố trong đó sẽ hết sức thiếu sót như ta t́m cách mô tả cảm thụ âm nhạc bằng ngôn từ.
 
Đúng là sự mô tả chi tiết kỹ thuật và những cái gọi là “khách quan” sẽ hủy hoại cái chủ yếu, tính chất xúc cảm và nội dung đích thực của sự cảm thụ, v́ sự “cảm xúc” trong nghĩa đích thực chính là cái làm tâm ta lay động, đào sâu, đánh thức nó, đưa lên một đời sống cao hơn, tới một khả năng nhận biết rộng hơn.
 
Biểu hiện cao nhất của điều này là sự giác ngộ, sự chứng thực tự tính ánh sáng của ta, đồng thời đưa tới sự vận động tự tại, vô ngại, thanh tịnh nhưng lại bất động của tâm là vô minh dù chúng ta do loại tư tưởng khái niệm, tham muốn hay bám giữ tạo ra.
 
Sự bất động lại không đồng nghĩa với cái dừng chết, không có nghĩa kiềm lại tư tưởng mà là ḍng tâm thức không bị cản trở bởi những khái niệm tự tạo và ước muốn ích kỷ hay ḍng chảy tự nhiên của nó bị chia cắt ra từng phần với hy vọng phân tích t́m hiểu nó.
 
Điều này không có nghĩa là ta phải từ bỏ mọi tư duy khái niệm đó là điều bất khả mà đừng lạc lối trong đó để trở thành nô lệ của nó.

Cũng như từng âm thanh của một tiết điệu tự nó không mang ư nghĩa ǵ, nó chỉ có nghĩa trong mối liên hệ với những âm trước nó và sau nó, chúng là thời khắc của một sự vận động đầy ư nghĩa sinh động, không bị ngăn chận, những âm thanh đó cũng như bản thân tiết điệu không bị phá hủy.
 
Cũng tương tự như thế mà ta không thể tách những khái niệm hay biến cố đơn lẻ ra khỏi khung cảnh hay ḍng chảy của tư tưởng hay cảm xúc được biến cố của lễ điểm đạo, t́m cách hiểu nó bằng khái niệm và suy luận th́ ta chỉ có những phần tử chết trong tay chứ không phải “sợi dây tâm thức”, cái làm cho chúng có sức sống.
 
“Sợi dây tâm thức’ này được người Tây Tạng gọi là dam-ts'hig. Đó là mối liên hệ nội tại giữa thầy với tṛ cũng như mối liên hệ giữa những cái thiêng liêng và con người dù nó xuất hiện dưới bất kỳ dạng nào, biểu thị sự vận động nội tại và chứng thực mà trên đó mối liên hệ được xây dựng.

Quá tŕnh của lễ điểm đạo không chứa đựng điều ǵ bí ẩn, nhưng nó không thể trao truyền v́ mỗi người phải tự nếm trải. Khi cố tŕnh bày những điều vượt quá ngôn từ, ta chỉ kéo những điều thiêng liêng hạ xuống mức tầm thường, đánh mất cái “sợi dây” đó và không lợi ǵ cho ai. Với lời nói, ta chỉ hủy phá cái nhiệm mầu, cái thanh tịnh và sự hồn nhiên của tâm tư nội tại ḿnh cũng như làm mất ḷng kính sợ vốn là ch́a khóa cổng đền cho sự mở hiện.
 
Như bí ẩn của t́nh yêu chỉ có thể nẩy nở khi vắng bóng đám đông cũng như những kẻ yêu nhau không ai thảo luận t́nh yêu với người ngoài cuộc; th́ cũng như thế, sự kỳ diệu của chuyển hóa nội tâm chỉ xảy ra khi những năng lực bí ẩn của nó nằm ngoài mắt nh́n tầm thường và phiếm luận vô bổ của thiên hạ.

Điều có thể trao truyền được chỉ là kinh nghiệm thuộc về lĩnh vực của ư thức thông thường; và ngoài ra là kết quả và kết luận của những kinh nghiệm đó hay là những giáo pháp tập hợp những chứng thực qua nhiều thế hệ hay qua các vị thầy.
 
Trong một tác phẩm trước đây [14] tôi đă cố gắng nói đến điều này và trong tập sách này tôi cũng sẽ nói đến về những ấn tượng cũng như những ǵ trải qua về các con người tạo ảnh hưởng quyết định lên đời sống tâm linh của ḿnh.

Trong những con người đó th́ Tomo Géché Rimpotsché là vĩ đại nhất. Mối dây liên hệ sinh ra trong lễ điểm đạo lần đầu và cũng là lần quan trọng nhất đối với tôi chính là nguồn suối của năng lực và sự cảm hứng.
 
Vị đạo sư này đă giúp tôi bằng sự hiện diện của ông, ngay cả sau khi ông mất; hồi đó tôi không biết rơ sự giúp đỡ này cũng như không biết rằng ông là một trong những vị đạo sư Tây Tạng vĩ đại và được trọng vọng nhất và đối với hàng triệu người, tên ông đồng nghĩa với sự thực chứng cao nhất của Phật đạo.

Trong chừng mức nhất định th́ cái không biết này lại thuận lợi cho tôi v́ nó cho phép tôi, thông qua kinh nghiệm củachính ḿnh mà quan sát tính cách phi thường của vị đạo sư một cách tự nhiên và không bị ư kiến của người khác chi phối; và tự ḿnh biết rằng ông có thần thông như các vị thánh nhân trong quá khứ thường có.

Lần nọ, hoàn toàn t́nh cờ tôi cùng với người bạn Mông Cổ ở bên ông và đang nói chuyện về một số khía cạnh của thiền định. những câu hỏi của chúng tôi xoay quanh về các vấn đề nảy sinh trong các phép tu hằng ngày. Trong câu chuyện, v́ người bạn tôi nói về các vấn đề riêng tư và v́ không tham gia câu chuyện, tôi nghĩ ngợi về các điều khác.
 
Lúc đó trong tâm nổi lên sự tiếc nuối là ngày ra đi của vị đạo sư không c̣n xa nữa, ông phải trở về tu viện chính, bên kia biên giới Tây Tạng và có thể nhiều năm sẽ trôi qua trước khi tôi có dịp ngồi lại dưới chân ông.
 
Như theo một sức mạnh vô h́nh, tâm tôi nói thầm: “Hăy cho con một dấu hiệu rơ rệt của sợi dây nối con với thầy, cho con cái ǵ vượt lên mọi lời, nhắc nhở con nhớ đến mục đích cao cả va đức hạnh của thầy: dù đó là một tượng Phật nhỏ được thầy ban phước hay bất cứ cái ǵ…”. Chưa nói thầm hết ư th́ vị đạo sư đă bất ngờ cắt câu chuyện, quay về phía tôi nói: “Trước khi chia tay, ta sẽ cho con một tượng Phật nhỏ làm kỷ niệm”.

Tôi choáng người, không dủ sức nói lời cảm ơn phần v́ vui mừng, phần v́ xấu hổ ḿnh đă ngắt câu chuyện của vị đạo sư chỉ v́ ư nghĩ khẩn cầu và hầu như có tính chất thử thách. Nếu biết ông có thể nghe tư tưởng của tôi như lời nói b́nh thường, tôi đă không bao giờ dám ngắt câu chuyện của thầy, không hề muốn dùng ư nói chuyện với ông.

Ngay cả lúc đang bận chuyện khác, ông vẫn phản ứng về tư tưởng của tôi, điều đó làm tôi nghĩ rằng không những ông học được ư tưởng người khác mà có cái khả năng mà kinh sách Phật giáo gọi là “thiên nhĩ”, tức là nghe tất cả những tư tưởng của người khác hướng về ḿnh.
 
Và ngoài ra, tôi nói thầm những lời đó không bằng tiếng Tây Tạng, tôi nghĩ bằng ngôn ngữ của tôi, thế nên không phải ngôn ngữ mà ư nghĩa của ngôn ngữ, đó là điều mà vị đạo sư nghe thấy.

Trong ngày chia tay, dĩ nhiên là tôi rất hồi hộp. Từ lần đó đến nay, nhiều tuần đă trôi qua mà đạo sư không nhắc nhở ǵ lại điều ḿnh hứa và tất nhiên tôi không dám hỏi ǵ về điều đó và tin rằng ông cũng nhớ đến như ḿnh. Có thể ông thử ḷng kiên nhẫn và tin tưởng của ḿnh chăng. Điều này làm tôi càng nín lặng.

Nhưng khi vị đạo sư bị vô số người cần đến trong những ngày cuối cùng của ông tại Yi-Gah-Tscho-Ling, những kẻ đi từ xa đến xin gặp để được ban phước th́ tôi không bỏ được lo ngại liệu lời xin của ḿnh đă bị quên lăng đi không, có ǵ làm trở ngại không.

V́ thế mà tôi ngạc nhiên và vui sướng xiết bao khi phút chia tay ông trao cho tôi, trước khi tôi kịp nói điều ǵ, một tượng Phật Thích-Ca Mâu-Ni nhỏ nạm vàng, trang trí đẹp, làm bằng đát và cho tôi hay rằng, ông đă giữ nó trong tay lúc thiền định hàng ngày.

Tới bây giờ tôi mới ư thức được sự cao quư của tặng vật đó và lư do tại sao bây giờ tôi mới biết; và khi nhận nó trong tay, tôi phải dằn ḷng lắm mới giữ được nước mắt. Không nói ǵ được tôi nghiêng ḿnh lặng thinh, tôi thấy tay ông nằm yên trong tay tôi, năng lực của ông tràn khắp người tôi và cho tôi ḷng tin chắc chắn không bao giờ xa ông, dù hàng ngàn dặm cách ly.

Kể từ ngày đó, tượng Phật trở thành bạn đồng hành thường xuyên của tôi, nó theo tôi suốt vô số lần trèo đèo tuyết phủ trên Himalaya và vùng nội địa Tây Tạng; nó cùng đi với tôi trên những cao nguyên cô độc vùng Tschang Thang và những b́nh nguyên mầu mỡ ở miền nam và trung Tây Tạng.
 
Nó đă cứu tôi trong những năm sau (1948) ra khỏi t́nh huống khó khăn tại miền tây Tây Tạng, triện son của nó là bằng cớ tôi là học tṛ của Tomo Géché Rimpotsché chứ không phải là điệp viên nước ngoài.
 
Và trong dịp khác, nó làm dịu các người Momade vũ trang dữ tợn, họ bao vây khách lữ hành chúng tôi và chỉ chịu tha cho khi thấy phước lành của đạo sư, sau đó lại quay lui cho thêm sữa và bơ với yêu cầu hăy ban phước cho vợ con và đàn thú của họ.

C̣n một điều nữa làm bức tượng nhỏ này thêm quí báu, đó là nó không phải do ai khác làm ra mà là từ bàn tay của Katschenla, người hết ḷng phụng sự vị đạo sư và là người nối kết tôi với ông.

Trong những năm trước ngày vị đạo sư trở lại Yi-Gah-Tscho-Ling th́ Katschenla không phải chỉ là người bạn mà c̣n là người đồng môn với tôi và cứ mỗi khi tôi trở về Yi-Gah-Tscho-Ling để trú ngụ tại tu viện hay gần nơi đó, tôi lại được ông tiếp đón và lo lắng như một người cha.

Điều này lại càng đặc biệt hơn khi vài năm sau, một vị tăng trẻ khác được giao nhiệm vụ giữ đền chính, c̣n Katschenla lo cho pḥng riêng của vị đạo sư và mỗi ngày cúng tế trong bàn thờ tại đó, c̣n tôi, như đạo sư muốn, được ở trong pḥng riêng thiêng liêng của ông, th́ lại được Katschenla tốt bụng chăm sóc, lại càng cho thêm cảm giác là đạo sư vẫn c̣n ở đây, như trong ngày đầu gặp gỡ.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 772 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 8:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
 
TRÊN ĐƯỜNG MÂY TRẮNG

“Từ đỉnh tuyết phía đông,

mây trắng vụt lên trời.

Như đám mây đỉnh núi,

h́nh như đạo sư vươn dậy,

từ trái tim sâu xa.

Quán tưởng ḷng từ bi,

sinh niềm tin sâu lắng”

Trước khi định hẳn tại Ghoom, nơi tôi sống trong những năm sau trong một vườn tre gần tu viện, th́ mong ước được theo đạo sư ḿnh đến những nơi phủ đầy tuyết trắng, trong vùng cấm địa đằng sau chân trời nọ quá to lớn, nên tôi lên đường, theo đường của thương nhân mà đi, t́m đến quê hương của ông.

Mặc dù cũng khá gần cuối năm và biết ḿnh không đi được xa trong mùa này (đó là thu 1932) v́ người ta chỉ cho một thời gian lưu trú có hạn; và v́ vậy không thể trở lui kịp qua những ngọn đèo trong mùa đông, tôi cũng không từ chối dịp lên đường.

Mặc dù ngắn ngày, nhưng ấn tượng của tôi về Tây Tạng trong chuyến du hành thật có ư nghĩa lớn lao: nó như “một tiếng sét ái t́nh”. Từ phút đó trở đi, Tây Tạng là một vùng đất của sự ngưỡng mộ và dù tôi trở lại nơi đây lắm lần nhưng ấn tượng của lần đầu không bao giờ quên, là kỷ niệm đẹp nhất đời tôi.

Chuyến đi thật có nhiều điều kỳ lạ như trong mộng. Mưa, sương và mây đă biến rừng sâu, ghềnh núi, vực thẳm, núi đá thành một thế giới đầy những dạng h́nh hư ảo, kỳ bí. Những ngọn thác đổ nước từ những đỉnh cao vô h́nh xuống vực sâu không ḍ tới đáy.

Mây phủ trên cao lẫn dưới chân những đường ṃn ngoằn ngoèo, từ đáy sâu tăm tối vọt lên cao rồi lại ch́m sâu, nơi này nơi kia hiện lên những cảnh tượng kỳ vĩ đến choáng ngợp rồi lại biến mất ngay như không hề có thực.

Các cây cổ thụ với kích thước vĩ đại hiện ra như những người khổng lồ nhiều tay, râu dài xanh mướt, với cây dại mọc đầy xung quanh, với những tràng hoa xanh nhạt đu đưa giữa những cành cây. Trong những vùng thấp, có nhiều loại lan muôn sắc nở hoa từ thân cành, dưới chân là một vùng cỏ hoa che kín.

Mây, đá, cây và thác nước tạo nên một vùng đất hoang đường, nó như được vẽ từ ngọn bút thủy mạc của một họa sĩ Trung Hoa, trong đó đoàn người và ngựa di động như h́nh nhân tí hon của một bức tranh cuộn tṛn dài vô tận.

Rừng sâu rậm rạp, ẩm ướt, nóng hầm hập, đầy vắt và muỗi, trong đó cây dại mọc thành cổ thụ và rừng tre như nổ thành đám pháo hoa xanh mướt, lại rừng đó dần dần nhường chỗ cho miền rừng ôn đới dễ thương, trong đó các loại cây như lấy lại tính cách riêng biệt của ḿnh và hoa tranh nhau với những chùm cây dại trong rừng thưa, để cuối cùng hoa thắng thế, sáng lên một tấm thảm màu xanh vàng, cam hay tím dưới chân các loại thông giỏi chịu mưa gió.

Không bao lâu sau th́ cảnh vật này cũng ở lại đàng sau, chúng tôi đi vào một vùng chỉ c̣n các loại cây thông thấp bé, bên cạnh cỏ dại và rêu, đầy những núi đá khổng lồ, đỉnh phủ tuyết và những hồ xanh ngắt một màu, nằm giữa những đám mây thấp, thỉnh thoảng ánh sáng mặt trời lọt qua cho thấy một cảnh tượng đổi thay giữa ánh sáng và bóng tối.

Cảnh vật tưởng chừng trong một trạng thái đổi thay liên tục, hầu như cứ mỗi giây phút nó được tạo thành cảnh mới. Có những cái mà phút trước c̣n đó, phút sau biến mất và được cái khác thay chỗ.

Và rồi điều kỳ diệu xảy ra, điều này chiếm lấy tôi mỗi khi tôi qua biên giới Tây Tạng: trên đỉnh cao nhất của đèo, nơi mà mây đen cứ tụ hội th́ bầu trời lại mở ra như một cảnh ảo thuật, mây tan đi và thế giới hiện ra dưới một bầu trời xanh thẳm trước ánh mắt sửng sốt, trong lúc đó th́ mặt trời rực rỡ chiếu sáng sườn núi đầy tuyết làm mắt ta phải hoa lên.

Sau một quang cảnh đầy sương mù và mây đen của vùng Sikkim th́ hầu như sức người không đủ thu nhận quá nhiều màu sắc và ánh sáng như thế. Ngay cả bóng mát đậm nhất cũng có một cường độ màu sắc và vài đám mây trắng rải rác trên bầu trời xanh ngắt đang trôi về phía các đỉnh xa chỉ tăng cường thêm cảm giác vô tận và sâu xa của không gian và sức sáng của màu sắc.

Chính trong phút này đó là lần đầu thấy trọn vùng đất thiêng liêng Tây Tạng, tôi mới rơ kể từ đây ḿnh sẽ đi trên con đường mây trắng này của miền đất kỳ diệu của đạo sư ḿnh, để học thêm sự minh triết của thầy, t́m cảm khái trong sự an b́nh và vẻ đẹp của vùng này. Tôi biết, kể từ đây ḿnh sẽ luôn luôn được miền đất này của ánh sáng và màu sắc lôi cuốn và sẽ cống hiến đời ḿnh để t́m hiểu tài sản tâm linh của nó.

Như các vị hành hương tiền bối, tôi đi ṿng quanh các tháp đá thờ phượng, được trang trí bằng cờ cầu nguyện, được dựng lên tại điểm cao nhất của đèo và cũng là biên giới Tây Tạng, vừa đi vừa thầm đọc các câu thần chú của thầy trao cho, cho thêm một viên đá và đụn đá để tỏ ḷng biết ơn số phận đă đưa ḿnh đến đây.

Để hứa rằng sẽ tiếp tục đi trên con đường đă chọn, và cũng để chúc lành cho những ai sau ḿnh sẽ đến nơi đây. Sau đó tôi bỗng nhớ những ḍng chữ khắc họa Trung Hoa, được xem là của vị Phật tương lai Di Lặc, người đă từng là du sĩ đi khắp bốn phương trời: “Ngàn dặm ta đi khắp, T́m ra đường mây trắng”.

Trên đường xuống lại b́nh nguyên Tschumbi, ḷng tôi đầy niềm an lạc không tả xiết. Chẳng bao lâu th́ tuyết trên đèo đă nhường chỗ cho thảm hoa đầy màu và rừng thông vươn lên, trong đó bướm rừng dập d́u tren cánh hoa và chim reo hót tưng bừng.

Trong không khí rực sáng của núi rừng, tôi thấy ḿnh nhẹ như chim và không sao kiềm hăm niềm vui mặc dù tôi biết ḿnh sắp qua lại phía bên kia của đèo, sắp xuống đến rừng rậm hừng hực thở khói.

Thế nhưng tôi chắc rằng, không sớm th́ muộn ḿnh sẽ theo con đường của mây trắng vượt qua mọi chân trời, qua đỉnh nhọn thiêng liêng của ngọn Tschomolhari, trú xứ của nữ thần Dorje Phagmo hầu như đang réo gọi.

Và thật thế, vượt qua bao nhiêu khó khăn không thể tin được, mà khi nh́n lại tôi không thể tin ǵ khác hơn là tác động của một năng lực đo số mệnh an bài, đổi dời cho tôi, nó đă bày tỏ trong tôi cũng như trong những người khác giúp tôi giải trừ mọi trở ngại, tôi lại lên đường theo đoàn người ngựa để đến những vùng chưa hề biết bên kia rặng Himalaya.

Lần này th́ tôi nhắm hướng tây bắc Tây Tạng và đầu năm 1933, trong đoạn đầu của chuyến đi, tôi gia nhập đoàn người, đi từ Yarkand Sarai tại Sriunagar, thủ đô Kashmir để đi Kargil tại Baltistan.

Nhà thông thái Ấn Độ Rahula Sankriyayana và là người chuyên nghiên cứu Tây Tạng cùng đi với tôi đến Leh, thủ đô của Tiểu Tây Tạng, ngày xưa gọi là Ladakh, thuộc tiểu quốc Guge của tây bắc Tây Tạng.

Tại Leh, chúng tôi chia tay; tôi tiếp tục đi với sự hỗ trợ của hai người Tây Tạng khác mà ngựa của họ mang giúp tôi các hành lư nhỏ nhoi cũng như lương thực cho chuyến đi dài ngày.

Chuyến đi Leh kéo dài cả một tháng trời. Nó tạo cơ hội cho tôi làm quen với khí hậu và tập luyện thân thể bằng cách bắt chước Rahula, tôi ngủ đêm dưới bầu trời không cần che lều. Vật che mưa tuyết của tôi chỉ vỏn vẹn một cái mền dạ, tương đối ít thấm nước mà tôi chỉ cần trải trên loại giường xếp là xong.

Rahula (hồi ấy c̣n là tu sĩ Phật giáo và c̣n chiến đấu giữ lại một các vô vọng các điều luật không quan trọng lắm của giáo hội Sri-Lanka, cho đến một ngày ông thấy các trách nhiệm khác quan trọng hơn trong đời ḿnh) lúc đó c̣n xem cái giường xếp này là ít nhiều xa xỉ, cho đến khi chúng tôi phải vượt qua ngọn đèo đầu tiên của dăy Himalaya và rơi đúng vào một cơn băo, lúc đầu chỉ là mưa tuyết và tiếp theo là tuyết đổ mạnh.

Sáng hôm sau, khi tôi chui ra khỏi tấm dạ, nó đă nặng hẳn lên v́ một lớp tuyết dày, th́ không thấy bóng dáng người bạn đồng hành đâu cả; cho tới khi ông co ro, răng đánh lập cập, từ một đống tuyết ḅ ra. Đă thế, c̣n thêm từ trưa qua đến bây giờ theo qui định của giáo hội, ông không ăn uống ǵ cả, mặc dù tôi đă nhắc ông coi chừng rằng hôm nay sợ không có dịp ăn được ǵ, dù một miếng nhỏ.

Đúng, điều đó đă xảy ra v́ suốt hai ngày chúng tôi phải lội đường ngập tuyết. Kể từ đó, ông thừa nhận rằng những qui định này dành cho khí hậu ấm áp không thể giữ măi trong vùng lạnh lẽo hay trong những điều kiện sống khác, và ta, đúng theo tinh thần Phật giáo, không nên chấp vào qui luật và lễ nghi.

Chẳng phải chính Phật cũng đă giải phóng đệ tử ḿnh ra khỏi mọi g̣ bó của qui luật thứ yếu trước khi Người nhập diệt và để cho đệ tử ḿnh tự giữ lương tâm và tri kiến đó ư?

May thay thời tiết tại Himalaya phần lớn khô ráo và nhiều nắng; phải nói là mặt trời nơi đó c̣n gắt hơn cả mặt trời ở Ấn Độ, và v́ gió lạnh nên người ta ít thấy nóng, cho dù có kem chóng nắng, da vẫn bị lột, môi vẫn sưng và ăn không được, lúc ấy ta mới nhận ra.

Thế nhưng những khó khăn của tuần đầu tiên rồi cũng qua đi. Tôi đă quen với khí hậu và mang một lớp da mới, nâu đen, chịu mưa nắng khi tới Tschang-thang, đất của những hồ màu xanh, của núi màu đồng, của b́nh nguyên màu lục, của những nương rẫy trải dài mà người Nomade miền bắc sống với đàn trâu, đàn cừu trong những túp lều đen làm bằng lông trâu.

Sau khi nghỉ ngơi trong tu viện tại Ladakh tôi ham đi t́m hiểu những vùng nằm bên kia dăy núi tuyết, hồi đó chưa mấy ai khám phá, vùng nằm giữa núi Idus và Karakorum. Một ngọn đèo cao trên 6000 mét nằm trước mặt chúng tôi. Chúng tôi men theo một thung lủng rộng, đi lên cao dần.

Mặt trời từ những tuần này đốt cháy không thương tiếc cả một vùng nương rẫy, mà từ sáng nay nó đă núp sau những đám mây đen nặng nề và những giọt mưa nhẹ va lạnh quất vào mặt. Bỗng nhiên tất cả đều mang một bộ mặt bí ẩn tối tăm và thung lũng dẫn vào bóng tối của các đám mây mà hai bên là đá núi nhe răng, hiện ra với tôi như cổ họng của một con quái vật.

Đàn ngựa gơ vó đều đều như chấp nhận số phận, không ai nói một tiếng nào và tôi lo ngại cho đêm sắp tới, liệu sáng hôm sau có qua khỏi ngọn đèo đáng sợ này chăng. Trên cao thế này th́ một trận băo tuyết sẽ chấm dứt chuyến du hành.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 773 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 8:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 

TU VIỆN ĐÁ

Chiều tối, chúng tôi đến đầu một hẻm núi, nơi đây chính là chỗ phải bắt đầu leo lên đèo. Tại chân một nhóm đồi đá dựng đứng, đá xếp ngổn ngang, có một số lều nghèo nàn mà dạng vuông vuông của chúng không khác bao nhiêu so với những tảng đá đổ.

Ngược lại với cảnh đó là vô số những tháp sơn trắng, có gốc là những Tumlti hay Stupa Ấn Độ, đó là nơi giữ xá lợi của Phật hay các đệ tử của Ngài. Phần dưới của tháp h́nh khối vuông, giữa là h́nh ṿm tṛn hay có đạng b́nh hoa và bên trên là đỉnh nhọn h́nh nón, gồm mười ba đĩa tṛn chồng lên nhau làm bằng đất đỏ, chúng được che bằng dạng chiếc dù, mang biểu tượng mặt trời, mặt trăng và lửa.

Hàng triệu tháp như thế nằm rải khắp Tây Tạng. Nơi đâu có người ở hay đă từng ở là có nó và cũng ở những ngọn đèp hẻo lánh hoặc đường dẫn đến cầu treo thường nguy hiểm, hoặc nơi có những tảng đá h́nh thù kỳ dị trên đường khách lữ hành qua lại.

Số lớn những tháp hiện ra đối với chúng tôi nơi đây như có phép thần cắt ra từ đá, một phần xem như phố xá điêu tàn của những người tí hon, chúng làm ta đoán gần đây hẳn phải có tu viện hay thánh địa ǵ đó.

V́ đă từng nghe nói về một tu viện đá rất cổ nằm trong hẻm núi này, được xây từ thời Liên Hoa Sinh thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên, nên tôi cứ theo tháp dẫn đường, qua ngơ ngách của những tảng đá to như những căn nhà hoặc giữa những vách tường dựng đứng mà đi.

Đường đi bắt đầu lên dốc nên chúng tôi đành bỏ ngựa lại. Nhưng cũng kể từ đây đă thấy có vách cổ và từ những vách đá mọc ra những nhóm nhà h́nh khối có ban công gỗ. Hầu như không phân biệt được đâu là đúi, đâu là người xây, v́ chúng thông với nhau, tựa do thiên nhiên làm ra.

Với hy vọng t́m chỗ ngủ đêm nay, tôi leo suốt ngơ ngách vách đá nhưng càng đi, hy vọng của tôi càng giảm. Không nơi nào có dấu vết sinh vật. Cả loài chó giữ nhà Tây Tạng đáng sợ cũng không, nó luôn luôn sủa người lạ từ xa đến làng, dù nhà, tu viện hay lều người Nomade, ở đâu cũng thấy chúng. Tuy vậy vẫn không nên vào trong các ṭa nhà xem ra đă hoang vắng này.

Cứ mỗi bên cạnh cổng vào tôi thấy một tháp đá, trên đỉnh có một đĩa đá phẳng, trong đó có một viên đá tṛn. Tôi vừa định hỏi người đi theo tôi, người kia ở lại phía dưới với ngựa, ư nghĩa của những tháp đá này th́ người đó đă cầm viên đá tṛn lên và thả xuống đĩa.

Một âm thanh cao như thủy tinh vỡ vang lên. Th́ ra đó là chuông gơ cửa! Một sáng tạo thiên tài! Lại một lần nữa tôi phải khâm phục tài năng tuyệt diệu của người Tây Tạng, họ đă làm được những dụng cụ từ những vật liệu đơn giản nhất.

Chúng tôi cho vang lên nhiều tiếng đá nữa nhưng vô ích! Thế nên chúng tôi leo lên tiếp lên cao và vào đến một cái sân nhỏ nằm bên cạnh một đường đi bằng gỗ có mái che, phía trước với mặt tiền của một đền thờ xây trên đá, c̣n phía kia là một ṭa nhà hai tầng với bao lơn mở.

Trên đó là h́nh thù kỳ dị của chóp đá, c̣n phía kia là một ṭa nhà hai tầng với bao lơn mở, trên đó là h́nh thù kỳ dị của chóp đá chĩa lên trời. Giữa sân có một cột cờ cao, sơn trắng. Th́ ra chúng tôi đang ở giữa sân một tu viện. Thế nhưng lại không có một bóng người.

Dù thế, tôi có cảm giác chắc chắn ḿnh đang ở đúng chỗ và ngồi xuống đường gỗ, để b́nh tâm xem mọi sự xảy ra thế nào và nếu cần sẽ ngủ đêm tại đây. Trần phía trên đầu tôi hơi hư hỏng, nhưng sàn tương đối khô và mưa sắp dứt.

Th́nh ĺnh có tiếng chó sủa từ phía chúng tôi đă vào. Bản năng làm tôi đưa mắt t́m kiếm một ngơ ra khác nhưng không có. Như thế là chúng tôi nằm trong rọ rồi! nhưng chúng tôi lại gặp may.

Con chó không phải loại nguy hiểm như tôi hay sợ, ai đă từng đi Tây Tạng dều biết rơ loại chó Mastif nguy hiểm hơn chó sói nhiều, và sau chân nó là một vị lạt ma già, ông kính cẩn chào tôi.

Tôi nói với ông ḿnh là kẻ hành hương từ phương xa, đi thăm các thánh địa Tây Tạng. Nh́n quần áo, ông biết tôi thuộc về một ḍng tu Tây Tạng, v́ vậy mà không chút chần chừ, ông mở cánh cửa nặng nề của đền và ra hiệu cho tôi đi theo.

Ông dẫn tôi qua những bậc cầu thang tối và dốc, lên một hang rộng và các vách tường phẳng h́nh như mang đầy những bức họa rất cổ. Trong ánh sáng lờ mờ của một ngọn đèn thờ hiện ra bàn thờ cao với dĩa cúng và b́nh nước, trên đó có tượng Liên Hoa Sinh, người tiên phong Phật giáo và nhà sáng lập ḍng tu cổ nhất Tây Tạng (Nyingmapa) mà tu viện này thuộc về đó.

Tả hữu hai bên là tượng hai vị Bồ-tát và dưới chân là các tượng nhỏ của các đại đệ tử của Liên Hoa Sinh, như công chúa Ấn Độ Mandarava và vị nữ thánh Tây Tạng Yésché Tshogyal, là người mà các tác giả phương Tây hay lầm gọi là vợ của Liên Hoa Sinh mặc dù trong tiểu sử của Ngài đă ghi rất rơ.

Sau khi chấm dứt nghi lễ chào hỏi, tôi được đưa lên một pḥng nằm cao hơn trong đền. Theo các tranh bích họa th́ đền này mới được sửa sang lại gần đây. pḥng này dùng để thờ Thích-Ca Mâu-Ni, vị Phật lịch sử.

Tượng của Ngài có hai vị đại đệ tử Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên theo hầu, bên cạnh đó là tượng của vị Phật của thời kiếp trước Nhiên Đăng, và của vị lai Di Lặc Phật.

Khi ra lại sân th́ đă có nhiều vị lạt ma tại đó và sau khi trả lời câu hỏi từ đâu đến, đi về đâu th́ người ta đưa tôi vào một pḥng lớn, hoàn toàn trống và cho hay chưa có ai từng ở trong này cả. Pḥng này nối với sân bằng một cầu thang dốc và có một cửa sổ nh́n xuống b́nh nguyên.

Vách tường đối diện với cửa sổ bị một mỏm đá lớn xuyên thủng, nó nhắc tôi nhớ đến tính chất lạ lùng nơi đây, nơi sinh ra từ sự giao ḥa giữa con người và thiên nhiên.

Trong lúc tôi nói chuyện với các vị lạt ma th́ người đồng hành theo tôi dă mang hành lư vào và khi bắt đầu mở cái giường xếp cũng như gắn bộ đồ bếp lại với nhau, các lạt ma ngồi một ṿng bán nguyệt quanh tôi nh́n tṛ chơi hiếm có này.

Và cửa pḥng bây giờ cũng đă đầy người, có lẽ họ chạy từ dưới làng lên tu tiện xem một vị lạt ma lạ mặt, người bất ngờ đến t́m nơi hẻo lánh của họ. V́ pḥng bây giờ đă hết chỗ, họ đành đứng bên ngoài xem bên trong có ǵ.

Chiếc giường xếp được dựng lên với sự thích thú theo dơi đến sững sờ của họ. thế nhưng khi b́nh nấu bếp được gắn lại và lửa sẽ cháy lên với một thứ nước kỳ lạ th́ sự căng thẳng của đám đông lên tới cao độ, họ nh́n từng cử động của tôi. Sự im lặng kính cẩn bao trùm tôi và tôi ư thức cái giây phút đầy hồi hộp này khi quẹt cây diêm châm vào chất lỏng để bùng lên một ngọn lửa trong xanh.

Một tiếng “ồ” của sự ngạc nhiên vang lên từ những người xem, họ lắc đầu ngạc nhiên, nửa tin nửa ngờ cái hiện tượng mà đời họ chưa bao giờ thấy. H́nh như họ cho rằng ngọn lửa xanh cháy với rượu cồn chỉ là ảo giác không có thật; v́ làm sao lửa có thể sinh ra từ “nước” được.

Vị lạt ma lạ mặt này hẳn là một nhà ảo thuật. Để họ tin đây là lửa thật, tôi nói họ cứ giơ tay lên lửa xem sao; và chỉ khi họ vội rút tay về phía trước tiếng cười ầm và nghe kể lại lửa nóng thế nào th́ mọi người mới chịu tin.

Thế nhưng tṛ ảo diệu này vẫn chưa hết, v́ khi cháy hết cồn rồi đột nhiên ngọn lửa tắt ngúm, thay vào đó là những đóm lửa li ti xanh lục kêu xèo xèo; sự ngạc nhiên của khán giả vẫn không dứt.

Nếu bây giờ mà tôi ngồi khoanh chân bay lên trời được th́ chấm dứt như thế mới xứng đáng và có lẽ lúc đó khán giả cũng không c̣n kinh ngạc ǵ lắm. Thế nhưng ở đây tôi b́nh thản lấy một cái nồi tầm thường để trên cái ḷ kỳ diệu này, mọi người thấy vậy mỉm cười bớt căng thẳng và xem ra hiểu chuyện.

Trong lúc tôi nấu nướng th́ mọi thức ăn gia vị đều được xem xét kỹ lưỡng và cả khi tôi ăn, mọi cặp mắt đều nh́n tôi. Theo lệ thường, tôi ăn cơm bằng đũa nên họ nghĩ rôi hẳn là người Trung Quốc và tôi biết rằng đối với họ thế giới ngoài châu Á không c̣n ǵ khác. Sau bữa ăn, xem ra vẫn không ai muốn đi, nên tôi leo lên giường xếp, quay mặt vào vách, giả ngủ.

Vài phút sau, mở mắt ra, chỉ c̣n ḿnh tôi.

Mặt trời chưa lặn, đi ngủ th́ quá sớm, mà tôi lại không chút buồn ngủ. V́ thế, thật dễ chịu sau một ngày dài được nằm duỗi chân nghỉ ngơi. Tôi nằm yên và nh́n kỹ vách tường đối diện mới đắp, mà bề mặt chỗ cao chỗ thấp của nó lại cho tôi một ấn tượng sinh động đặc biệt.

Tôi nhận ra rằng căn pḥng này tự nó có một cái ǵ dễ mến mặc dù tôi không coi rơ được là cái ǵ. Thật ra th́ thời tiết ảm đạm trong những ngày sau này khó có thể làm tôi vui vẻ lên. Thế nhưng kể từ khi bước vào pḥng này, tôi cảm nhận một sự an lạc và sáng sủa nội tâm.

Phải đây là không khí chung thoải mái của tu viện cổ kính này, được lớn lên từ hang động của một vị độc cư thánh thiện, đă chứng kiến nhiều đời tu sĩ chuyên phụng sự và quán tưởng? Hay đây chỉ là không khí đặc biệt của pḥng này mà dưới ảnh hưởng của nó, nội tâm tôi đang thay đổi? Tôi không biết và không giải thích được.

Tôi chỉ cảm thấy rằng có cái ǵ trên vách tường thu hứt sự chủ ư của ḿnh, lôi ḿnh theo như bị một phong cảnh kỳ lạ cuốn hút. Điều lạ là nó lại không gợi ǵ đến cảnh vật. Những h́nh dạng như t́nh cờ được nối kết với nhau một cách bí ẩn và càng chú ư đến chúng, chúng càng rơ nét và càng liên hệ lẫn nhau.

Chúng kết với nhau thành dạng h́nh rơ rệt và hiện rơ lên trên mặt vách. Nó giống như sự kết tinh hay sự lớn dậy của một thể sống; và biến h́nh của bức vách đối với tôi tự nhiên và có thật hầu như đang xem một nhà điêu khắc vô h́nh đang tạo tác một bức tranh nổi sống động. Điều khác biệt duy nhất là người nghệ sĩ không phải làm việc từ bên ngoài mà xuất phát từ bên trong bức họa và càng lúc trong mọi chỗ của nó.

Cảnh vật ch́m đắm trong ánh sáng mờ nhạt cuối ngày. Trên thảm cỏ xanh dưới b́nh nguyên, vươn lên những đỉnh núi đá màu đỏ hay màu đồn thau sáng loáng, đằng sau lấp lánh màu tuyết trắng, sáng rực lên nền tím đen của những khối mây, thỉnh thoảng c̣n vài tia chớp. Có tiếng sấm động xa xa cho thấy bên kia của núi Vajrapani hẳn c̣n vung kim cương chử, chiến đấu chống lực lượng của sự đen tối.

Dưới xa thung lũng, tôi thấy ngựa của ḿnh đang gặm cỏ, trông nhỏ như món đồ chơi, gần đó có khói xanh bốc lên, hẳn người quen của tôi đang nấu cơm chiều.

Từ ngôi đền trên cao này cứ cách nhịp lại vang lên một thứ tiếng rung rất trầm của tiếng đập, nghe như tiếng của tự ḷng đất, tiếng gọi của chiều sâu vươn đến ánh sáng thứ ánh sáng đă xóa tan tất cả sợ hăi và đen tối của vực thẳm.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 774 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 10:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
 
TỈNH GIẤC NH̀N TƯƠNG LAI

Sáng hôm sau tôi dậy trong ánh mặt trời rực rỡ. Tối hôm trước tôi đă thu xếp hành lư để có thể lên đường ngay. Trong ánh dương hôm nay hầu như mọi sự đă biến đổi. Tôi định gặp và cám ơn vị lạt ma già đă cho tôi lưu trú và xin chào ông, nhưng xung quanh không có một bóng người.

Tôi định đợi một lúc và dùng th́ giờ để vẽ một bức tranh của sân và các ṭa nhà trong tu viện. Thế nhưng vẽ xong rồi vẫn chưa thấy ai. Hầu như tu viện nằm trong ảo thuật là không hề thay đổi ǵ qua ngàn năm, mọi cái sống đều ngưng bặt, c̣n thiên nhiên xung quanh lại theo con đường đi của ḿnh, nó để cho đá mọc ra những h́nh thù kỳ dị, xuyên thủng qua những ǵ con người đă gầy dựng.

Phải chăng tôi đang ở một nơi kỳ bí, nơi mà quá khứ đă ch́m sâu thỉnh thoảng lại vươn lên, nơi mà kẻ du hành cô đơn nghe thấy những điều, mà điều đó lại biến mất như một ảo giác? “Dù sao?  tôi nghĩ “tu viện” vẫn c̣n đó và nếu nó đột nhiên biến mất ta vẫn c̣n bản vẽ đây”.

Chầm chậm đi xuống theo lối hẹp giữa đá và vách, tôi ngẫm lại những ǵ ḿnh đă nghe thấy nơi đây. Người nài ngựa đă tới để đỡ hành lư, nh́n khuôn mặt suy tư của tôi và nói:

- Vị Kuscho Rimtposché không vui ḷng với chỗ ngủ à ?

- Có chứ.

Tôi nói:

- không có chỗ nào hơn chỗ này.

- Đâu có ǵ lạ.

Anh nói:

- Nếu được ở trong pḥng đă được ban phép.

- Anh nói ǵ thế ?

Tôi hỏi và nghĩ ḿnh nghe sai.

- Ông không nhớ sao, Kuschog, vị lạt ma dẫn ông vào pḥng đă nói pḥng nầy chưa có ai ở.

- Nhớ chứ tất nhiên rồi.

- Xin nói ông biết. Lúc ông ở trong đền th́ các vị lạt ma bàn với nhau có nên để ông ở trong đó không, trong pḥng đă được cúng hiến cho Tschamba, cho Phật Di Lặc.

Đột nhiên tôi có ư nghĩ kỳ lạ.

- Sao họ lại có ư nghĩ vị Phật Di Lặc mà phải xây cả một căn pḥng riêng.

Tôi hỏi.

- Ông không biết là cả Tây Tạng, nhiều bảo tháp được xây dựng để thờ vị Phật tương lai, nhờ uy lực của một vị đại uy lực của một vị đại lạt ma miền nam sao ?

- Anh biết tên vị lạt ma đó không ?

Tôi hỏi cố giấu sự hồi hộp.

- Tôi không biết tên Ngài nhưng mọi người gọi là Tomo Géché.

- Đó là thầy tôi mà.

Tôi kêu lên.

- Tôi chưa nói với anh về Ngài hay sao ?

Và tôi sực nhớ anh có lần đă hỏi ai là “Tsawai-Lama” của ḿnh, tôi trả lời mà không coi trọng lắm câu hỏi quá thường này tại Tây Tạng

- Thầy tôi sống cách đây ngàn dặm, chắc anh không biết tên Ngài đâu.

Thế nhưng bây giờ th́ cảnh tượng đêm hôm qua đă có một ư nghĩa mới, và đột nhiên vấn đề rơ ra với tôi: đó chính là lần quán đỉnh thứ hai của ḿnh.

Liệu đó là ảnh hưởng trực tiếp của thầy tôi, như trường hợp tại Tschorten Nyima, hay các lần tương tự mà về sau tôi mới biết, hay là kết quả của chủng tử được thầy gieo đă chính trong tôi, tôi không chắc nhưng điều chắc chắn là những ǵ tôi trông thấy không phải là sự ngẫu nhiên.

Hơn bao giờ hết, tôi thấy ḿnh gần đạo sư và tự thấy nội tâm ḿnh được nâng lên, đến nỗi nhờ sự cố gắng leo lên đỉnh đèo nọ lần nỗi lo sợ ngày hôm qua mà bây giờ nó trở thành chuyện tầm thường. Tâm tư tôi trôi chảy triền miên và hầu như có một lời nội tâm ngỏ với tôi, dần dần hé cho thấy những giải pháp của nhiều vấn đề đă từng làm tôi phân vân.

Giờ tôi đă hiểu điều mà tôi chỉ thấy lờ mờ trong thời gian tại Yigah Tscholing, là những h́nh tượng xung quanh tôi hồi đó không phải chỉ là những tác phẩm trang trí nghệ thuật.

Đó là sự tŕnh bày của một thực tại cao hơn, sinh ra từ sự quán sát nội tâm. Ngôn ngữ của những h́nh ảnh này chính xác như một tấm bản đồ hay một công thức khoa học, đồng thời tác động của nó lại tự nhiên và trực tiếp, như vẻ đẹp của một cánh hoa hay cảnh mặt trời lặn.

Phải chăng ngôn ngữ của h́nh ảnh này, chính nó mở cánh cửa vào chốn ẩn mật của tâm thức, và những năng lực tiềm ẩn của con người, là thứ ngôn ngữ mà ai cũng hiểu được, cho tất cả những ai thành tâm gơ lên cánh cửa sâu kín nhất, miễn là họ được chút hướng dẫn ?

Phải chăng v́ vị chân sư đă mở mắt cho tôi thấy sự huyền bí này, mà tôi không nên cho người khác hay biết những ǵ ḿnh đă cảm nhận ?

Thật thế, bây giờ tôi thấy rơ thông điệp mà qua những linh ảnh đạo sư nhắn nhủ ḿnh. Và cũng từ mong ước được trao truyền những ǵ ḿnh đă chứng nghiệm cho người khác, một ư niệm chín dần trong tôi, theo gương vị lạt ma nọ trong quá khứ, để lại cho đời một cách trung thực bằng màu sắc và khôn tượng, bằng chữ nghĩa và h́nh vẽ, như chúng đă được giữ lại trong tu viện và nguyện đường của Tây Tạng.

Cũng từ chuyến đi này mà tôi đem về được những nét vẽ đơn giản khắc họa trên đá của Tám mươi bốn vị Tất địa (15) của thời Trung cổ Phật giáo. Những bức tranh này về sau được giữ ở bảo tàng viện của Allahabad trong một gian pḥng đặc biệt.

Và như được một bàn tay vô h́nh hướng dẫn để đạt thành tựu ước mong đó, trong chuyến du hành, tôi gặp được một ngôi đền do vị Rintschen-Sangpo ngày xưa gây dựng nên; trong đó lần đầu tiên, tôi được thấy những bức bích họa vô song của thế kỷ thứ mười một.

Tôi xúc động được một bàn tay vô h́nh hướng dẫn để đạt thành tựu ước mong đó, trong chuyến du hành, tôi được gặp được một ngôi đền do vị Rintschen-Sangpo là một trong những nhà tiên phong lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng: vừa là nhà học giả lớn, vừa là người sáng lập nhiều tu viện đền đài, vừa là ngệ nhân và thánh nhân.

Một phần đáng kể của kinh sách Tây Tạng là do ông cùng với các học giả Ấn Độ dịch từ văn hệ Sanskrit ra, một công tŕnh đă tôn ông lên hàng Lotsasa (nhà dịch thuật). Song song với việc truyền bá Pháp Phật bằng kinh sách, ông cho xây dựng đền đài, tu viện bảo tháp và trang hoàng bằng những tác phẩm chọn lọc nhất về h́nh tượng và khắc họa mà về sau không có thời kỳ nào vượt ngang được.

Vùng hoạt động chủ yếu của ông là ở Tholing và Tsaparang. Thonling là tu viện quan trọng nhất và là trung tâm của đời sống tâm linh ở tây Tây Tạng. Ngược lại Tsaparang th́ đă hoang tàn cả trăm năm trước đây.

Những điều này kích thích sự quan tâm của tôi v́ với một thời tiết như ở Tây Tạng, tôi nghĩ có thể t́m lại được một phần quan trọng của nghệ thuật cổ xưa bị chôn vùi, và chính sự hẻo lánh và cô độc của vùng này làm tôi tin có thể nghiên cứu và hơn thế nữa.

Có khả năng giữ lại cho hậu thế vài nét hoằng kim của quá khứ. Thế nên trong tôi nẩy sinh ư định đi Tsaparang, mặc dù phải nhiều năm sau tôi mới thực hiện được ước mơ này.


CHÚ THÍCH.

[1] Padmasambhava, đại sư Ấn Độ, sống khoảng thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Sư là người đưa Phật giáo vào Tây Tạng và sáng lập tông phái Nyigmapa. Sư thường sử dụng thần thông, nhiếp phục ma quái, được xem là vị Phật thứ hai sau Thích-Ca Mâu-Ni.

[2] Suragama Sutra.

[3] Bài thơ trích từ Madala, Meditations gedichte und Betrachtungen của Lama Anagarika Govinda. Những ḍng thơ này sinh ra từ một buổi thiền định, được viết lúc tác giả chưa biết đoạn kinh Lăng Nghiêm ở trên.

[4] Điều này làm ta nhớ đến phép lạ Madonna Fatima xảy ra gần đây, được một số lớn người ghi nhận, trong đó có sự xuất hiện của ánh sáng kỳ diệu tương tự. 

[5] Đây là một đoạn hay được ghi lại trong kinh sách của văn hệ Pali, đặc trưng của tinh thần hỉ lạc trong Phật giáo, từ chối mọi dạng ép buộc. 

[6] Mantra.

[7] Đó là điều dễ xảy ra v́ các tờ không đóng lại thành tập và v́ những trang theo nhau của một tờ được in hay viết ngược lại, nên qua mỗi trang, người ta phải quay ngược tờ giấy.

[8] Một hiện tượng không lư giải được cũng như bản chất của điện, hầu như không phải chỉ là một hiện tượng vật lư mà đường như một năng lực sống động, đóng một vai tṛ quan trọng trong các thể hữu cơ và vận hành của trí nào.

[9] Tiếng Hindu có nghĩa là đáng kính. Từ đây Guru được dịch là đạo sư.

[10] Archetypische Lautelemente.

[11] Khi rời tu viện đi nơi khác thường ông chỉ mang theo một số thật ít đồ dùng. Đối với ông, hang động cũng tốt như lâu đài, lâu đài cũng như hang động. Giàu sang và tiện nghi vô nghĩa đối với ông, thế nhưng nếu cần ông cũng không ngại sử dụng. Ông không bám giữ vào tiện nghi lẫn đời sống khổ hạnh v́ biết rơ, danh hiệu của khổ hạnh cũng chướng ngại như danh hiệu của của cải. Khi nhận được tặng phẩm của nhiều người, thường ông tặng lại kẻ cần thiết hay dùng để sửa đền thờ, tu viện, thư viện.

[12] Bohicaryavatara, tác phẩm của Tịch Thiên (Santideva), người sống khoảng thế kỷ thứ 7, 8 sau Công nguyên. Tác phẩm này rất phổ biến trong Phật giáo Tây Tạng.

[13] Satipatthana-Sutra.

[14] Govida, Grundlagen tibetischer Mystik (Cơ sở đạo học Tây Tạng), Rascher Zurich 1966.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 775 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 10:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 

(PHẦN HAI)

 
CUỘC ĐỜI HÀNH HƯƠNG

TRÊN CAO NGUYÊN

Chúng tôi đă vượt qua ngọn đèo đáng sợ cao sáu ngàn mét, dưới một bầu trời không mây một cách dễ dàng. Lúc leo lên vách phía nam của đèo, mặt trời nóng tới mức mà tôi phải cởi hết áo quần ấm, cất vào hành lư.
 
Thế nhưng vừa qua vách bắc của đèo, nằm trong bóng râm th́ trời bỗng lạnh như băng, làm tôi phải tiếc v́ đă không cầm sẵn áo ấm trong tay. Trời lạnh tới mức mà ai cũng phải vận động liên tục để giữ hơi ấm. V́ vậy mà tôi không dám bảo đoàn người dừng lại để mở hành lư lấy áo ấm ra.

Tây Tạng là xứ sở mà người ta phải luôn tính đến chuyện gặp những cảnh bất ngờ. Ngay cả quy luật tự nhiên tưởng như quen thuộc cũng hầu như mất giá trị. Nhiệt độ sôi của nước thấp đến nỗi nếu vô ư nhúng tay vào nước sôi, người ta cũng hầu như không hay và không bị thương tích ǵ.
 
V́ thế mà trên độ cao này không thể nấu cơm được v́ thời gian nấu chín quá lâu đến nỗi cơm biến thành nước cháo hay hạt c̣n cứng bên trong. Thế nhưng cái khác biệt giữa bên mặt trời chiếu và bên bóng râm th́ to lớn tới mức mà nếu ta đứng giữa hai bên, th́ thân bên ánh sáng sẽ bị phỏng v́ nắng và bên kia phải pḥng lên v́ khí lạnh như băng.
 
Không khí quá loăng không hấp thụ nhiệt độ được để truyền nhiệt cho phía bóng râm cũng như không thể che chở cái nóng và các tia cực tím của mặt trời. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ánh nắng và bóng râm, như nhiều quan sát viên ghi nhận, có thể lên tới 100 độ Fahrenheit (38 độ C).
 
Tôi không hề nghi ngờ điều đó v́ khi cỡi ngựa th́ chân tôi tuy mang ủng, nhưng giá lạnh tới mức không c̣n cảm giác, c̣n tay cầm cương ngựa th́ bị phồng lên v́ nóng. Tưởng như bị phỏng nước sôi. Tệ hại nhất là da mặt của tôi bóc ra từng mảng trước khi quen được với khí hậu này.
 
Mặc dù có bôi kem nhưng môi tôi sưng phồng lên, ăn uống rất khó chịu. May thay chỉ sau khoảng ba bốn tuần th́ da tôi đă quen chịu đựng và sau đó trong chuyến hành tŕnh không c̣n gặp trở ngại ǵ nữa.

Ngay cả người Tây Tạng, trừ những người liên tục sống ngoài trời như người chăn thú, nông dân hay thương nhân, cũng luôn luôn che mặt khi đi xa để tránh nắng mặt trời và gió lạnh thường thổi trên cao nguyên trong các mùa nhất định. Loại gió nầy mang theo cát, châm chích và chui lọt vào cả áo dày.
 
Rồi khi gặp một đoàn người bịt mặt và vũ trang trong cảnh hoang vu không ai ở lại, là một nỗi lo sợ không biết sau mặt nạ che đó là người dân b́nh thường hay kẻ cướp. Kẻ cướp cũng nhiều, nhất là trong thời kỳ bất ổn chính trị hay chiến tranh, khiến những vùng mà thương nhân hay qua lại thêm nguy hiểm.

Nhưng tôi cũng không quá sợ, mặc dù hồi đó đă biết vùng Turkentan đă có dân nổi loạn, v́ sau khi rời biên giới Ladakh, tôi bỏ tuyến thương nhân đến “chỗ không người”, nằm giữa vùng đại hồi Panggong và Yak-Tso đến cao nguyên Aksai-Tschin. Biên giới giữa Ladakh và miền Tây Tạng do Lhasa cai quản hồi đố chưa rơ ràng, v́ không ai quan tâm đến chỗ không người này.
 
Trên thế giới, nó thuộc về những nơi ít ỏi mà con người và thiên nhiên cứ bị để mặc, không bộ máy hành chính nào ngó ngàng tới. V́ thế ḷng tôi đầy một niềm sung sướng kỳ lạ và sự tôn quí, cảm thấy ḿnh hoàn toàn thuộc về ḿnh, đứng một ḿnh giữa thiên nhiên vô tận, giữa trời đất bao la, như ngày mà con người chưa được dựng.

Hai người Ladakh trung thành và người ngựa là những sinh vật duy nhất c̣n liên hệ với tôi; và trong cảnh bao la của thiên nhiên này, tôi thấy họ gần gũi và thân thuộc với ḿnh xiết bao. Không nhiều th́ ít, chính những con ngựa quyết định chúng tôi phải dừng chân chỗ nào, v́ chỉ nghỉ ngơi nơi nào có cỏ và nước cho chúng.

Dù cảm giác nhỏ nhoi trước cảnh hùng vĩ của vùng núi non, dù biết cái giới hạn và sự phụ thuộc của con người trước nắng mưa, với nước cỏ, với thức ăn, chất đốt và các điều kiện vật chất khác, thế nhưng tôi chưa từng có một cảm giác về tự do và độc lập lớn hơn thế này. Chưa bao giờ tôi rơ cái mà ta gọi là đời sống văn minh lại chật hẹp và hạn chế như thế và để có một đời sống an toàn, ta phải trả một giá cao thế nào về tự do và độc lập thật sự trong tư tưởng và hành động.

Một khi mỗi chi tiết đời sống đă được tính toán và qui định, mỗi khoảnh thời gian ngắn nhất đă được định trước phải làm ǵ, th́ những dấu vết cuối cùng của tự tính vốn phi thời gian và vô tận của ta cũng biến mất; mà từ tự tính đó tự do được sinh ra.
 
Tự do không phải là muốn làm ǵ th́ làm, nó không phải là tự tùy tiện, bỏ mặc, chẳng phải là sự phiêu lưu, mà tự do là khả năng có thể chấp nhận được cái bất ngờ, thu liễm và chuyển hóa nó; tức là nới tâm mở rộng đối diện với mọi t́nh huống bất ngờ của đời sống tốt cũng như xấu.
 
Đó là khả năng có thể phù hợp được với muôn h́nh vạn trạng của điều kiện sống, mà không đánh mất niềm tin nơi các mối liên hệ sâu xa giữa thế giới bên trong và bên ngoài. Đó là niềm xác tín, không bị thời gian lẫn không gian hạn chế, khả năng chứng thực cả hai mà không chấp trước vào một khía cạnh nào, không t́m cách chiếm đoạt chúng bằng cách chia chẻ chúng ra từng mảnh.

Thời gian bị chia chẻ một cách cơ giới và giả tạo của con người hiện đại, đă không làm con người thành chủ của nó mà ngược lại là nô lệ; càng muốn tranh thủ thời gian, ta lại càng mất nó. Điều đó giống như ta bắt ḍng sông ép vào trong một cái chậu mà quên rằng chính sự trôi chảy, chính sự tương tục của vận động mới làm ra ḍng sông.
 
Điều này cũng đúng cho thời gian: chỉ ai chấp nhận nó trong toàn bộ kích thước, trong nhịp điệu vô tận và sáng tạo đời sống, cái làm nên tính tương tục của nó, th́ kẻ đó mới làm chủ được nó, biến nó thành của ḿnh được.
 
Khi ta chấp nhận thời gian như thế, sẵn sàng thu liễm vào trong ta mà không ngăn chận ḍng chảy của nó th́ nó sẽ mất uy lực đối với ta. Chúng ta sẽ như được nó chuyên chở trên đỉnh cao, không bị nuốt trọn, không bị kéo xuống vực và nhờ thế mà không mất tầm nh́n về những cái phi thời gian.

Không nơi nào mà tôi cảm nhận được điều này sâu xa hơn bằng giữa bầu trời Tây Tạng, trong sự trầm lắng sâu thẳm, sự trong suốt của bầu không khí, cái rực rỡ của màu sắc và cái thanh tịnh hầu như trừu tượng của dáng núi.
 
Cuộc sống hữu cơ đă thu lại thật nhỏ nơi đây, không có vai tṛ ǵ trong cảnh quang chung, bản thân cảnh quang lại là biểu trưng của sự sống, của những sức mạnh uyên nguyên từ trời đất.
 
Núi đá vắng cây cho thấy một cách trọn vẹn qui luật của trọng trường có đôi chút thay đôỉ th́ cũng chỉ v́ tác động của mưa gió và của cấu trúc địa chất và tính cách của đất đá, biểu hiện bằng màu sắc và h́nh dáng.

Trời và đất đă đổi vai cho nhau. Nếu bầu trời thường sáng hơn cảnh vật dưới chân ḿnh th́ ở đây bầu trời thường tối và sâu; trong lúc đó, cảnh vật nổi bật trên bầu trời bằng sắc màu rực rỡ, hầu như chúng là nguồn sáng. Sắc đỏ và vàng bập bùng như lửa cháy trước bức màn xanh đen của trời.

Thế nhưng khi chiều buông th́ màn đêm ập đến, cho một cái nh́n vào chiều sâu của vũ trụ. Ngàn sao sáng rực và gần gũi hầu như chúng là một phần của cảnh vật. Ta thấy chúng như từ trên cao sa xuống chân trời lóe lên một cái rồi biến mất, như một người cầm đèn biến mất sau cánh cửa.
 
Vũ trụ không c̣n chỉ là một cái ǵ trừu tượng mơ hồ mà một thực tại có thể thấy rơ và v́ thế ở đây không ai nghĩ về “thời gian” mà không nhớ đến mặt trời, mặt trăng và những v́ sao, các thiên thể chế ngự nhịp điệu của đời sống; nhờ thế mà thời gian mất khía cạnh tiêu cực của nó, nó trở thành một kinh nghiệm cụ thể của một sự vận hành miên viễn, qui hoàn sáng tạo, là tự tính của muôn vật.
 
V́ bầu trời hầu như không bao giờ bị mây che phủ hoàn toàn, con người luôn luôn thấy được tiếp xúc với các thiên thể và chiều sâu xa của không gian. Cả ban đêm cũng không bao giờ tối hoàn toàn. một thứ ánh sáng lờ mờ kỳ lạ chiếu cảnh vật trong những đêm không trăng, một thứ ánh sáng tỏa ra từ các v́ sao. Trong thứ ánh sáng đó mọi vật và cảnh quang hiện ra tương đối rơ nét không màu không bóng.

Mực nước trong sông suối cũng dâng hạ với nhịp vận hành của thiên thể, v́ trong mười hai giờ của ngày hè th́ tuyết trên núi bắt đầu tan khi mặt trời rọi, tối đến th́ đông cứng lại. Thế rồi nước lại cần khoảng mười hai giờ để chảy từ núi xuống suối, nên khoảng chiều tối nước suối dâng cao và sáng hôm sau lại hạ xuống.
 
Các ḍng suối nhỏ thường khô kiệt trong các giờ ban ngày, ban đêm lại trở thành ḍng thác chảy xiết. V́ thế nếu ai cắm lều bên cạnh một ḍng suối tưởng khô ráo có thể ban đêm bị nước cuốn, điều này đă xảy ra cho tôi, nhưng rất may giờ cuối đă cứu được cả người lẫn hành lư.

Nhịp điệu lớn lao của thiên nhiên xuyên suốt mọi thứ và con người đan kết với nó về vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả trí tưởng tượng hay sự cảm xúc cũng ít tùy thuộc vào lĩnh vực của cá thể mà nó tùy thuộc vào cảnh vật.
 
Trong đó nhịp điệu của vũ trụ tinh đọng thành một tiết điệu với sức thu hút không cưỡng lại được. Nơi đây trí tưởng tượng chính là biểu hiện của thực tại trên b́nh diện ư thức con người và ư thức này dường như nối mọi cá thể với nhau và cho cả vùng một không khí tâm linh.

Dưới ảnh hưởng của miền đất lạ lùng này, trong đó lũng c̣n cao hơn những đỉnh núi tại châu Âu, và núi non vươn đến những không gian siêu nhân thế; nơi đây đă xảy ra một sự du hành tâm linh kỳ lạ. Điều này dường như một tảng đá nặng đă được xuất hiện tự nhiên và nhẹ nhàng, nhưng không mất đi mối liên hệ và phương hướng của chúng.
 
Một sự chú tâm và sáng sủa cao độ được đạt đến, không chút cố gắng và một niềm vui cao cả giữ tâm trong trạng thái sẵn sàng sáng tạo. Tâm thức như được nâng lên bậc cao hơn, nơi đó các chướng ngại quấy nhiễu của đời sống b́nh thường không c̣n hiện diện hay chỉ hiện ra như những kư ức lờ mờ, không c̣n quan trọng hay thu hút ǵ nữa.
 
Đồng thời người ta ư thức về những dạng mới của thực tại, thấy nhạy cảm, mở rộng hơn với nó. Khả năng trực giác được đánh thức và kích thích: nói ngắn gọn, đă h́nh thành tất cả các điều kiện để chứng được đại định (dhyana) cũng như các dạng thiền quán cao hơn
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 776 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 10:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG

 

NGÔN NGỮ SỐNG ĐỘNG CỦA MÀU SẮC

Sự chuyển hóa ư thức mà tôi thấy ở đây cũng như những lần trở lại Tây Tạng, có một sự tương tự nhất định với sự chuyển hóa mà tôi đă có ở Yi-Gah Tscholing khi đến đó lần đầu.

Mặc dù lần này có qui mô lớn hơn v́ nơi đây tất cả mối liên hệ với thế giới quen thuộc đă bị cắt đứt và ảnh hưởng của các hang động, của không khí loăng, của thời tiết và của điều kiện sống đều tham gia vào sự biến đổi tâm lư đó.

Mặt khác, sự chuyển hóa tâm linh không v́ những yếu tố vật lư đó mà giảm ư nghĩa. Cả những phép tu du già cũng là một sự phối hợp các yếu tố vật lư, tâm thức và tinh thần, thí dụ tác động của phép làm chủ hơi thở (pranayama) và thái độ của thân cùng với sự tỉnh giác, quán chiếu của tâm, ḥa trong sự an tĩnh của cảm xúc nội tại.

Không khí cực loăng có một tác dụng như một số phép luyện hơi thở v́ nó buộc ta phải điều chỉnh hơi thở một cách nhất định, nhất là khi phải leo cao hay đi đường xa. V́ thiếu dưỡng khí, nên ta phải hít một khối lượng không khí gấp hai ba lần so với độ cao mặt biển và trái tim cũng phải làm việc nhiều hơn hẳn.

Mặt khác, trọng lượng của thân thể giảm đi nên cơ bắp hầu như có thể nhấc bổng nó và khi leo cao ta có cảm giác như chắp cánh. Thế nhưng đây chính là chỗ nguy hiểm v́ ta không trực tiếp thấy được tim và phổi đang chịu thiệt. Chỉ khi thấy ḿnh hụt hơi và tim đập loạn xạ, ta mới sực nhớ tự nhủ phải kiểm soát từng cử động của ḿnh.

Người Tây Tạng thường đi những bước dài chậm răi và lồng hơi thở của ḿnh trong bước đi. Thế nên việc đi bộ cũng trở thành phép kiểm soát hơi thở, tương tự như phép tu Hatha-Yoga của Ấn Độ, và đều này càng rơ hơn khi mỗi bước đi lồng hơi thở c̣n kèm theo việc đọc thần chú một cách nhịp nhàng, như người Tây Tạng thường làm. Xuất phát từ kinh nghiệm chính ḿnh, tôi có thể khẳng định rằng điều này mang lại an b́nh và có tác dụng tăng năng lực rất nhiều.

Kể từ đó, điều làm tôi rơ hơn hẳn là ảnh hưởng to lớn của màu sắc lên tâm thức con người. Không kể sự thưởng ngoạn nghệ thuật về cái đẹp mà màu sắc, tạo nên cho ta điều làm tôi thích họa là để cố giữ lại cái đẹp, cũng như trao truyền cho người khác tôi c̣n nhận ra một cái ǵ sâu xa và tinh tế do màu sắc tạo nên, có lẽ nhiều hơn bất cứ yếu tố nào khác trong các chứng thực thiền quán Tây Tạng.

Màu sắc là ngôn ngữ sống động của ánh sáng, của sự bày tỏ một thực tại có ư thức. Ư nghĩa tâm linh của màu sắc xem như biểu tượng và thuộc tính của thực tại cao cấp được nhận biết bằng cách chứng những màu sắc với mức độ khác nhau. Chúng hiện ra thành những màu rực rỡ, thuần khiết và có điều thú vị là một nhà tư tưởng hiện đại và nghiêm túc như Aldous Huxley đă kết luận là màu sắc là “bằng cớ của thực tại”.

Theo tôi th́ những sự trừu tượng hóa đầy đủ khái niệm, những biểu hiện và h́nh dung do suy luận mà thành, tất cả những cái đó đều vô sắc, trong lúc thực tại, dù nó thuộc dạng ấn tượng cảm quan của thế giới ngoại cảnh hay thuộc biểu tượng uyên nguyên của nội tâm trực tiếp th́ nó cũng đầy màu sắc.

Hơn thế nữa, cái thứ hai (ấn tượng nội tâm) nói như Huxley, “có màu sắc đậm đà hơn hẳn h́nh ảnh ngoại giới. Thế nhưng ta cứ t́m cách trừu tượng hóa sự vật theo cách dễ hiểu cho ta. Làm như thế, ta chỉ đánh mất tự tính của sự vật. Với kia của tâm th́ ít nhiều ta không c̣n cần đến ngôn ngữ và nó nằm ngoài hệ thống của suy luận khái niệm.

Thế th́ những cảm thọ h́nh ảnh của ta mang đầy sự tươi trẻ và cái sung sức trần trụi của ấn tượng, chúng không cần diễn đạt bằng ngôn từ, không cần sự trừu tượng khô cứng. Màu sắc của chúng (đặc trưng của sự vật) tỏa rực bằng một thứ ánh sáng, đối với ta là siêu nhiên.

Nhưng kỳ thực là hoàn toàn tự nhiên trong nghĩa chúng không bị tri thức hóa qua ngôn ngữ hay qua những h́nh dung khoa học, triết lư hay thực dụng; mà v́ những h́nh dung đó mà ta cho chúng xuất hiện lại trong thế giới này bằng những h́nh ảnh mù mờ của nhân thế chúng ta”(16)

Cảnh vật Tây Tạng có rất nhiều cái “sung sức trần trụi” này của h́nh dạng và màu sắc, nối liền ta với một linh ảnh siêu nhiên hay một giấc mơ tiên tri, giấc mơ này thường ở chỗ sự sáng láng và sinh động của màu sắc.

Trong một giấc mơ loại đó, lần đầu tiên tôi thấy màu sắc rực rỡ và thuần tịnh như thế, trong dạng một đỉnh núi trồi lên từ dưới biển xanh ngắt. Ḷng tôi tràn ngập niềm vui sướng và tự nghĩ: đây phải chăng là quần đảo thiên đường Nam Hải, nơi tôi đă nghe nhiều. Thế nhưng về sau khi đến những đảo phủ đầy dừa của miền biển nhiệt đới, tôi không c̣n thấy những màu sắc đă làm ḿnh vui thích đó nữa.

Thế mà tôi lại thấy những màu sắc này tại Tây Tạng và niềm vui sướng khi nh́n thấy màu sắc trở lại với tôi như trong giấc mơ đó. Nhưng tại sao tôi laị thấy đỉnh núi nọ trồi lên từ nước biển xanh ngắt?

Câu hỏi này nằm hoài trong trí tôi đến một ngày nọ chúng tôi đến một hẻm núi hẹp và nóng, xung quanh là đá màu vàng vây đầy, qua đó không những ánh sáng c̣n thêm chói chang mà hơi nóng cũng tăng lên tới mức người ta trong ḿnh ở vùng Sahara chứ không phải ở độ cao 4500 m của miền Trung Á.

Nóng tới mức mà khi nghỉ trưa tại một con suối nhỏ, tôi đă không cưỡng lại được, cởi áo xuống tắm và bơi một đoạn trước sự ngạc nhiên của các người Ladakh. Tôi thấy ḿnh hết sức sảng khoái, nhưng không tắm được lâu v́ hẻm núi càng lúc càng nóng.

Và con suối cũng cạn dần do nó đổ vào một cái hồ cạn màu vàng; nó tỏa ra một màu xanh cực mạnh như được chiếu từ bên trong. Thật là một cảnh quang bất ngờ, trực tiếp, khác hẳn với những ǵ đă xảy ra từ trước đến giờ. Tôi kinh ngạc không biết giải thích ra sao. Sợ rằng ḿnh có ảo giác, tôi gọi các người cùng đi:

- Xem ḱa cái ǵ thế ?

- Tso! Tso! Panggong Tso.

Họ đồng thanh gọi và ném mũ lên trời vui mừng, hầu như vừa qua được một đỉnh đèo. Thật ra chúng tôi mới tới một Lhasa-tse (tháp đá), đỉnh đèo nào cũng có nhưng đây là chốn quí báu, nơi mà đại hồ Panggong có thể thấy được đầu tiên. Và chúng tôi cũng lấy đá ném vào chỗ đó, ḷng thầm biết ơn có ai đă giúp ḿnh thoát được hẻm núi. Thế nhưng tôi vẫn không tin nơi mắt ḿnh. Không thể được! Nó như một loại nước nào tự sáng, không có trên trần gian.

Không bao lâu sau chúng tôi thoát khỏi hẻm núi đầy sức nóng và trước mắt chúng tôi, hồ trải dài như mặt của loại đá qúi Lapislazuli sắc xanh đă tan chảy; nh́n xa xa thấy như màu xanh đậm nước biển và gần bờ có màu cobalt xanh sáng. Tại các bờ cát trắng sáng, nước lấp lánh màu lục.

Những ngọn núi nằm sau làm nền cho cảnh tượng màu sắc khó tin này là một bản ḥa ca của những màu vàng óng, đất cháy và đỏ tươi với bóng ngă sắc tím. Đúng đây là cảnh vật sáng rực của giấc mơ xưa, cảnh vật vươn từ một ḍng nước xanh đầy ánh nắng lên bầu trời sâu thẳm không gợn mây.

Núi bên trái có h́nh dạng sắc sảo, phía đối diện lại thoai thoải một dăy, quanh năm tuyết phủ. Chúng chạy song song với các hồ Panggong-Tso và Nyak-Tso, hay hồ này tạo nên một vùng nước gần như liên tục dài hơn 160 km. Ngày xưa hai hồ là một thung lũng dài ngập nước. Về sau v́ núi lở, chúng bị chia đôi ra làm hai hồ riêng biệt.

Khi đến trạm dừng dưới chân dăy núi tuyết, cao hơn bờ hồ đôi chút, tôi đă bị mê hoặc bởi màu sắc của hồ và núi và của một nhịp điệu kinh khủng đang lan tỏa nơi đây; đến nỗi quên cả đói và mệt, tôi trở lại ngay chỗ cũ, nơi mà lần đầu tôi chiêm ngưỡng hồ và núi tuyết.

Thế nên tôi lại đi với giá vẽ, giấy, màu và vài miếng Kulchas (17) đỡ ḷng, qua vài cây số để trở lại chỗ tôi đă lưu ư nhưng không dám ngừng lâu v́ lúc đó không biế bao lâu mới đến chỗ nghỉ. Tôi làm việc với ḷng hứng thú, nên chỉ sau thời gian ngắn mà vẽ được hai ba tấm h́nh. Mặt khác tôi vẫn nhớ là trễ lắm lúc mặt trời lặn ḿnh phải có mặt tại trại.

Dù thế, chuyến đi ngắn của tôi suưt bị nguy; v́ bận về th́nh ĺnh tôi gặp một ḍng nước chảy xiết mà bận đi không có. Khi đi, v́ nóng ruột muốn đến, tôi quên không để ư đến nhiều ḍng suối cạn nước. Nước tan trên núi đă chảy xuống muốn cắt đường đi của tôi.

V́ biết không c̣n nhiều thời giờ, tôi đành phải lội nước lạnh ngắt và sau khi lội qua hai ba ḍng suối mới về tới nơi, gần lả người. Dù bao mệt nhọc, ngày hôm đó tôi rất vui sướng đă tận hưởng được vẻ đẹp và sự trực nhận không thể nào quên về cái hồ này.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 777 of 2534: Đă gửi: 10 September 2008 lúc 11:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
NHỮNG GIẤC MƠ VÀ KƯ ỨC BÊN HỒ XANH


Trong những ngày sau chúng tôi đi theo bờ hồ dưới chân núi tuyết, mà triền núi chạy thoai thoải ra xa biến thành đất bằng, thành một vùng đất cao nằm trên hồ, thỉnh thoảng lơm xuống từng ḍng. Thế nhưng những ḍng này ít khi có nước nên đồng cỏ cũng hiếm.

Thành thử tuy gần hồ nhưng ban ngày hầu như người ta thiếu nước. Thứ nhất, là bờ hồ rất khó xuống v́ cao nguyên nằm cạnh hồ gần như có vách dựng đứng, chỉ trừ những nơi bị trũng mới có nước chảy xuống. Dọc theo các ḍng này là đến những đoạn có cát sỏi. Thứ hai, vùng này thiếu nước uống v́ một lư do bất ngờ: nếu có tới bờ hồ th́ nước cũng chẳng uống được v́ trong nước chứa quá nhiều chất magnesium.

Đó là lư do sinh ra độ trong và màu sắc nhưng nó làm cho nước không thể chứa sinh vật, dù thực vật hay động vật rất nhỏ cũng không. Thế nên nước trong vắt, trong những ngày lặng gió không sóng, đứng sát bờ, ta không phân biệt được đâu là nước đâu là bờ.

Tôi vẫn nhớ rơ cái hoảng sợ trong ngày ḿnh đến gần bờ và chân đạp vào nước lạnh ngắt lúc nào không hay. Những viên sỏi nọ với màu sắc đáng yêu, không khác ǵ những viên nằm trên bờ, vậy mà chúng lại nằm trong nước. Nước trong không màu hệt như không khí. Chỉ nơi nào khá sâu th́ nó mới mang một màu xanh lục, sâu hơn th́ chỉ c̣n một màu xanh ngắt, chính màu xanh biến hồ thành một sự kỳ diệu.

Màu của hồ và vùng xung quanh nó không ngưng cuốn hút tôi. Buổi tối, khi nước do tuyết tan chảy vào hồ, chúng làm thành một dải sáng bạc trên màu xanh đậm của hồ; trong lúc xung quanh các đỉnh núi rực màu cam, đỏ và tím, và bầu trời chuyển dần với sắc màu của một cầu vồng.

Thời tiết bỗng nhiên trở nên dễ chịu, như Điạ Trung Hải gặp gió ấm và ngày nọ chúng tôi đi qua một vùng cát trắng thỉnh hoảng xen lẫn vài đám sỏi, nóng bỏng, trải dài cả cây số giữa các triền núi tuyết và hồ.

Mặc dù ngay giữa tháng bảy tôi cũng không ngờ trên cao nguyên Tây Tạng lộng gió mà có cái nóng thế này. Nhưng như đă nói, Tây Tạng là một vùng đất của bất ngờ và đối nghịch: trong một ngày người ta có thể chết cóng và qua ngày hôm sau bị phơi nắng hay phải đương đầu với băo cát.

Không bao lâu sau khi vượt qua sa mạc cháy bỏng, chúng tôi đến một vùng dễ chịu với nhiều bụi hoa và đồng cỏ, được một ḍng sông con tưới nước. Đây là một vùng bằng phẳng nằm giữa hồ và núi đă rút lui.

Những cánh hoa ở đây khá giống với loài hoa đồng nội về màu sắc và h́nh dáng, nhưng thân của chúng lại khỏe nên giúp chúng tôi không có gỗ, thay vào đó là phân trâu mà chúng tôi nhặt nhạnh mỗi ngày, cũng có khi là rễ cây hay bụi gai t́m thấy bên cạnh bờ suối hay ḷng sông đă cạn.

Kể từ ngày rời lối ṃn của lữ hành th́ phân trâu cũng hiếm. Ngay trên đường đi của họ th́ phân trâu hay phân ngựa cũng đáng quí, không ai đi ngang mà không nhặt lên cho vào túi trước bụng để dành khi đêm đến đốt lửa. Trong không khí cực khô của vùng này th́ phân trâu ngựa nơi đây đều cứng như gỗ và cũng không có mùi hôi.

Ai chưa ở Tây Tạng hay những vùng không có gỗ ở Trung Á th́ khó có thể h́nh dung về giá trị của phân trâu. Nó là chất đốt quan trọng nhất của cả nước, nó cháy với một ngọn lửa hầu như không khói, nóng và đều. V́ chỉ có dầu trong trường hợp thật cần thiết, như trong đền đá lần đó tại Tschang-La.

Kể từ ngày đó, chúng tôi không bao giờ ở trong nhà, ngay cả những lúc có nhiều người tại Tankse, chúng tôi thích cắm lều ngoài trời hơn. Sau Tankse th́ với vài ngoại lệ xuất hiện vài túp lều ở chân dăy Panggong gần nơi có canh tác lúa ḿ, chúng tôi không c̣n thấy làng mạc nào nữa.

V́ thế, chất đốt và vấn đề chính và quan trọng như nước cho người hay cỏ cho ngựa. Cũng thế, thật đáng vui khi chỗ không người ở này lại có tất cả những ǵ cần cho sự sống c̣n. Chúng tôi hạ lều thoải mái nơi kín gió cạnh bờ suối. Thật là một chỗ nên thơ, một phía th́ được ngắm nh́n núi tuyết, phía bên kia là hồ.

Tôi cảm thấy sung sướng và vô tư tới mức quyết định cắm trại ở lại đây vài ba ngày để t́m hiểu các nơi xung quanh, dùng thời giờ để vẽ và thiền định. Trong sự thanh tịnh của thiên nhiên hoang sơ, xa lánh mọi mưu toan thế gian, dưới bầu trời cao rộng, bao bọc bởi một phong cảnh chỉ có trong mơ mà màu sắc như núi bằng đá quư của một thiên đường huyền hoặc, tôi thấy ḿnh thật an tịnh với chính ḿnh và thế giới.

Điều lạ là tôi không có cảm giác “cô đơn” trong sự yên tĩnh vĩ đại của thiên nhiên và cũng không thấy có nhu cầu phải trao đổi với ai. Hầu như ư thức của tôi đă rộng mở để bao gồm luôn thế giới ngoại cảnh phong cảnh, bầu trời và con người những cái liên hệ với tôi, hiện tại cũng như quá khứ.

Hơn thế nữa, quá khứ hầu như choàng lên hiện tại xuyên qua hiện tại. Tôi đă thấy hiện tượng này rồi trong những dịp khác, đặc biệt ở những nơi có độ ẩm cao, hay lúc mây kéo đầy bầu trời hoặc lúc không khí hầm hập nặng nề.

Ngay cả trước đây tôi đă thấy lúc nào có dấu hiệu thay đổi thời tiết th́ giấc mơ của tôi cũng bị ảnh hưởng theo; cho nên hồi đó tôi đă có thể tiên đoán lúc nào thời tiết sẽ thay đổi bất ngờ. Tôi nhớ người ta nói lúc nào mơ thấy người chết là trời sắp mưa.

V́ không thấy mối liên hệ giữa việc mơ thấy người chết và mưa nên tôi cho đó là nhảm nhí. Nhưng gần đây tôi thấy, bất cứ lúc nào nằm mơ thấy người thân lúc ḿnh c̣n nhỏ và chết đă lâu rồi th́ trong vùng vài ngày sẽ có mưa to, có khi dông hay băo tuyết.

Thường th́ những cơn mơ đó xảy ra khi không có một đám mây nào trong bầu trời, chẳng có dấu hiệu nhỏ nào trời sắp chuyển như nóng bức hay độ ẩm cao. V́ cao nguyên Tây Tạng ít mưa nên tôi dễ nhận ra hiện tượng này và từ đó xem nó như kinh nghiệm. Trong những chuyến du hành sau đi Tây Tạng tôi đều lưu ư giấc mơ của ḿnh và dựa trên đó mà vạch kế hoạch.

Cách giải thích của tôi về hiện tượng đó là, ư thức của ta phản ứng lại với sự thay đổi khí tượng, và với áp suất lớn th́ tiềm thức nơi lưu giữ kỷ niệm của thời quá khứ lan động đến ư thức. Áp suất càng lớn th́ ta càng dễ nhớ về quá khứ và điều này biểu hiện qua giấc mơ, trong đó những người liên hệ gần gũi với ta thời xa xưa hiện về, những người đó phần lớn đă không c̣n nữa.

Trong những vùng cao của Tây Tạng th́ ta không những nhạy cảm thêm với điều đó mà c̣n nhớ rơ hơn các giấc mơ đă bị chúng gây ấn tượng. Bản thân người Tây Tạng càng tin vào ư thức trong các giấc mộng và ít khi sai lầm khi suy đoán ư nghĩa của chúng.

Ngoài việc suy đoán giấc mộng, họ c̣n nhiều cách để tiếp xúc với vô thức: Thiền định, xuất thần, đồng cốt và những dấu hiệu tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tất cả những điều này khắp nơi trên thế giới đều có, cả trong các nền văn hóa khác nhau; và kết quả của chúng dường như đủ để làm con người tin theo.

Người Tây Tạng sẽ ngạc nhiên nếu ta nghi ngờ những điều này, đối với họ tất cả đều là kinh nghiệm cụ thể, không liên quan ǵ đến ḷng tin hay lư thuyết. Đối với họ th́ những thí nghiệm của nền tâm lư hiện đại, dùng khoa học để “chứng minh” các hiện tượng thuộc tâm như thần giao cách cảm, chúng thật là ngớ ngẩn buồn cười, như ta “chứng minh” các hiện tượng thuộc tâm như thần giao cách cảm, chúng thật là ngớ ngẩn và buồn cười, như ta chứng minh sự hiện diện của ánh sáng vốn ai cũng thấy chỉ trừ người khiếm thị.

Chính những cách làm phiền toái của các thí nghiệm dó mới là trở ngại lớn nhất cho thành công của chúng. Khi đi t́m cái “khách quan”, họ đă loại bỏ sứ mạng then chốt của sự cảm xúc và tính tâm linh của con người, không có chúng th́ không có cách nào đi sâu hay tập trung được. Thái độ nghi ngờ, cách làm cơ giới và phương pháp thống kê (chỉ t́m số lượng và bỏ qua chất lượng) và khung cảnh sơ sài của các thí nghiệm, tất cả những cái đó đă đóng lại cánh cửa của “cảm thọ tâm lư”.

Tại Tây Tạng, khả năng tập trung và tự quán sát, nhất là sự nhạy cảm tâm linh được nhân lên hàng trăm lần nhờ cái to rộng, sự an tĩnh và đơn độc của thiên nhiên, nó có tác dụng như một tấm gương lơm, không những chỉ phóng lớn những cảm xúc rung động riêng tư nhất của ta lên mà c̣n tụ hội chúng trong một tiêu điểm: tại ư thức của chính chúng ta.

Nơi đây không c̣n ǵ làm tâm ta tán loạn, cả cái vĩ đại của thiên nhiên cũng không; v́ thiên nhiên không bao giờ gây phiền nhiễu mà ngược lại, nó kích thích ta tăng cường hoạt động tâm linh. Tâm thức và thiên nhiên là hai yếu tố đồng minh không phải đối thủ.

Tính vĩ đại và cao rộng của thiên nhiên và tiết điệu phi thời gian của nó phản ánh đúng ánh sáng đúng tính chất của các tầng tâm thức sâu kín của ta. Nh́n chung th́ hoạt động tâm linh của những người khác có tác động gây nhiễu ư thức và cắt đứt hay làm lạc ḍng chảy yên lành của nội tâm, tư tưởng và cảm xúc, sự chú tâm tự do mở rộng, không bị ngăn ngại.

Sự nhạy cảm của nó không c̣n bị tâm thức lạ liên tục tác động nữa hoặc để cho phiếm luận vô bổ và tiếng ồn vô nghĩa của đời sống văn minh làm cùn nhụt; và nhờ thế nó có thể tiếp cận với vô thức của chính ḿnh và với tất cả những người có cùng mức độ, họ được kết nối với nhau bằng t́nh cảm hay bằng chứng nghiệm giống nhau.

Điều này giải thích các hiện tượng thần giao cách cảm thường thấy tại dân Tây Tạng và không chỉ ở những người có tŕnh độ tâm linh cao mà cả với người dân dă, người chăn thú hay nhà nông, thương nhân hay thợ thuyền, người Nomade hay lữ khách, những người phải đi trong vùng hẻo lánh từ năm này qua năm khác.

Sven Hedin kể lại trong kư sự của ḿnh một trường hợp điển h́nh: Trên đường đi nội Tây Tạng, ông đồng hành với một đoàn vào một nơi hẻo lánh, hoàn toàn không có một người ở. Khi ông dự định đi sâu t́m hiểu vùng này th́ gặp một đoàn người Nomade, họ đưa một đàn thú từ vùng đó lại mà không biết rất rơ nơi đó.

Cố gắng lắm, ông mới thuyết phục được một người trong đó làm hướng đạo cho đoàn. Đó là một người c̣n trẻ, rất nhút nhát, anh thú thật là không quen sống ở chỗ đông người và chỉ chấp nhận hướng đạo cho đoàn nếu để anh ta đi trước một ḿnh, nếu không, anh không thể nhận biết dấu hiệu và phương hướng đường đi.

Sven Hedin chấp nhận yêu cầu đó và đoàn cứ đi theo sau anh một quăng xa, cho tới một ngày nọ anh bị bệnh và chết. Sven Hendin không c̣n cách nào khác hơn là cùng với đoàn đi lui lại, cứ theo đường cũ mà đi.

Nhưng khi đoàn c̣n cách chỗ đến vài ngày đường th́ người em của anh đó đang đi ngược chiều và trong đoàn chưa ai kịp giải thích về chuyện đă qua th́ người em ngay lập tức khóc lóc than văn về cái chết của anh ḿnh. Trước câu hỏi ngạc nhiên của nhiều người, người em kể ra nơi chốn và nguyên do cái chết của anh ḿnh một cách chính xác. Anh ta đă nh́n thấy bằng con mắt tâm linh.

Sự đơn độc xem ra có một tác dụng tương tự như vài phép thiền quán hay phép tu du già. Nó tự động loại bỏ sự lung lạc do các yếu tố bên ngoài và nhờ đó mà tạo ra một trạng thái an tĩnh nội tâm, một trạng thái chú tâm tự nhiên. Đối tượng nào của tư tưởng xuất hiện trong tâm cũng có một mức độ thực tại lớn hơn, rơ nét hơn và nhờ đó mà giữ được lâu hơn.

Được quán sát chăm chú hơn. Cái đă qua đọng lại thành cái hiện tại và cái hiện tại hiện ra không c̣n là đường cách ly giữa cái đă qua với tương lai, mà là một khía cạnh nhất thể của thân thể đang tồn tại song song và liên tục trong một sự chứng nghiệm bốn chiều.

Nhờ hạnh xả bỏ xảy ra trong sự đơn độc mà tôi thấy rơ rằng, đời sống chúng ta phụ thuộc rất ít vào những quyết định do đầu óc đạo diễn và lại dựa rất nhiều trên những biến cố, ấn tượng tưởng chứng như không quan trọng; chúng đột nhiên hé mở cho thấy phương hướng chủ yếu của tự tính đích thực của chúng ta.

Chúng ta cho những biến cố hay ấn tượng này là t́nh cờ v́ đường như chúng xảy ra mà không có nguyên nhân ǵ nơi ta, nhưng ta quên rằng sở dĩ có ư nghĩa v́ chúng ta cho phép những năng lực được bộc phát, thứ năng lực vốn nằm sẵn trong ta nhưng ta không biết đến chúng, chỉ v́ những kế hoạch do đầu óc ta nghĩ ra đă che lấp ḍng chảy liên tục của đời sống nột tâm và sức mạnh tâm linh của ḿnh.

Những giấc mơ thời thơ ấu của tôi đan quyện với những đỉnh núi tuyết Andes và sự cô đơn độc kiêu kỳ của vùng cao nguyên Bolivia, nơi sinh của mẹ tôi và cũng là nơi diễn ra nhiều chuyến đi phiêu lưu làm bà tôi rất vui ḷng, chúng cũng đưa tôi vào một thế giới hoang dă xa lạ, trong đó những đoàn lừa ngựa kéo nhau đi trong núi rừng hoang vắng.

Đồng thời các câu chuyện những người trong nhà vây bọc lấy tôi, họ nói về các mỏ bismut(18) trong núi Quechila, những chuyện thời xưa của ông tôi tại Cochabamba hay những chiến tích của ông cố tôi mà ngày xưa đă từng là một tướng lănh trong cuộc chiến tranh giải phóng và là đồng chí của Bolivar, ông đă mang lại một chiến thắng quyết định và nhận được vinh dự của quân hàm cao nhất của tổng tư lệnh tại Montenegro.

Điều gây ấn tượng cho tôi hơn cả là cái vĩ đại của những ngọn núi trọc, rơ nét của cao nguyên Bolivia và những bí ẩn nằm sâu trong đó; một thế giới toàn vàng bạc được chôn giấu, Bismut và các thứ kim loại khác. Tôi đă từng thấy những kim loại quí này và bị vẻ đẹp của nó thu hút hơn trị giá, hồi đó tôi cũng chẳng biết ǵ về trị giá của nó.

Nhất là loại bismut, đó là một dạng kết tinh nh́n như những lâu đài bằng vàng, gây nơi tôi một sự mê hoặc khó tả. Để t́m hiểu thế giới bí ẩn này trong ḷng đất và để được sống vĩnh viễn trong ánh sáng mặt trời và được nh́n hoài chân trời của miền cao nguyên hùng vĩ này, tôi quyết sẽ đi theo nghề làm mỏ núi, tiếp tục truyền thống của gia đ́nh.

Thế nhưng khi lớn lên, nhận ra ḿnh không ham thích chiều sâu của trái đất bằng chiều sâu của tâm thức và v́ thế tôi bỏ khoa học tự nhiên để đến với nghiên cứu triết học. Và v́ triết học đối với tôi là việc đi t́m sự thực nên tôi không mấy ham các hệ thống triết học, đó là những định nghĩa có tính hàn lâm các tư tưởng triết học, mà hướng về những dạng phát biểu có tính tôn giáo của thực tại và cách thực chứng được nó.

Tôi bị gây ấn tượng sâu xa bởi các bài đối thoại của Plato (19), chúng hấp dẫn tôi nhờ vẻ đẹp văn chương và tính tôn giáo. Trong các triết gia cận đại th́ Schopenhauer (20) gây ảnh hưởng mạnh lên tôi, và sự nghiên cứu tác phẩm của ông dẫn tôi đến các nhà thần học Thiên Chúa giáo cũng như đến Áo Nghĩa thư(21) và Phật giáo.

Khoảng năm mười tám tuổi th́ tôi bắt đầu viết một công tŕnh so sánh ba tôn giáo lớn của thế giới là Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo để bản thân tôi được rơ và để quyết định luôn tôn giáo mà ḿnh theo là tôn giáo nào; v́ thôi thấy vô nghĩa nếu chỉ chấp nhận một tôn giáo nào chỉ v́ cha mẹ ḿnh theo nó, nếu chỉ v́ xă hội ḿnh đang sống chấp nhận nó.

Đối với tôi, tôn giáo là một chuyện có tính chất thuyết phục, dứt khoát chứ không phải chỉ là sự tin trong đơn thuần hay qui ước chung chung; và muốn được thuyết phục, tôi phải biết rơ. Để t́m sự thực nơi ba tôn giáo này, tôn giáo nào thuyết phục ḿnh nhất, tôi bắt đầu đi sâu học hỏi.

Chẳng bao lâu sau tôi thấy Hồi giáo không chứa đựng ư niệm nào mới so với truyền thống chung của Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo nên nó sớm bị loại, chỉ c̣n Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Lúc đầu học hỏi, tôi thấy Thiên Chúa giáo ít nhiều thuyết phục tôi hơn (dù nhà thờ không làm tôi tin tưởng).

Thế nhưng càng đi sâu, tôi càng thấy ḿnh có nhiều tương đồng với Phật giáo và cuối cùng tôi rơ, Phật giáo là tôn giáo duy nhất thuyết phục tôi trọn vẹn. Thế nên cuốn sách chỉ dành cho giáo lư Đức Phật và bản thân tôi là người đầu tiên được chính cuốn này đưa về với Phật giáo.

Mặc dù các chương sách này c̣n non nớt nhưng nó cũng được phổ biến tại Đức, tại Nhật mà về sau khi đến Sri-Lanka, tôi khám phá ra nó, tám năm sau khi nó ra đời.

Điều làm tôi đi Sri-Lanka là nghĩ rằng ḿnh t́m nơi đó truyền thống thuần túy nhất của Phật giáo và nhất là cơ hội để chứng nghiệm thiền định và tiếp tục học ngôn ngữ mà tôi đă học tại Capri (22) và đại học Napoli. Đại học này có một bộ kinh viết bằng văn hệ Pali do vua Chulalongkorn của Thái Lan tặng.

Về điểm này th́ ở Sri-Lanka thật nhiều thành quả và dưới sự hướng dẫn của Nyanatiloka Mahathera, nhà sáng lập và viện trưởng của tu viện trên đảo Pogasduwa, một trong những nhà thông thái Pali bấy giờ, tôi có nhiều cơ hội học tập và thu thập kinh nghiệm, trong đời sống tu sĩ cũng như trong giáo lư của Thượng tọa bộ của Nam tông Phật giáo.

Ḷng thân ái của dân tộc Sri-Lanka cũng như tính kỷ luật và tŕnh độ giáo lư của các sư đă gây ấn tượng mạnh mẽ lên tôi. Nhưng tôi thấy thiếu cái ǵ nơi đây - điều ǵ th́ về sau tôi mới khám phá ra, lúc ngụ lại tại Yi-Gah-Tscho-Ling-Gah Tscholing, nơi đă đột nhiên mở ra chân trời mới của chứng nghiệm tôn giáo và khi vị đạo sư xuất hiện trong đời tôi.

Bây giờ tôi mới thấy cuộc đời quanh co và những gốc rễ sâu kín của ḿnh. Tôi nghiệm ra rằng, chuyến hành hương về chốn bất định lại chính là chuyến trở về nơi tôi đă mộng thấy và các giấc mơ lại chứa nhiều thực tại hơn các kế hoạch của đầu óc, miễn là những giấc mơ đó phản ảnh niềm tha thiết sâu xa nhất của tâm hồn chứ không phải là những ước muốn, tham vọng nông cạn nằm sau những tính toán thiệt hơn. Thật đúng thay những lời của Santayana (23)

Minh triết đâu phải là,

chỉ biết khôn ngoan thôi,

nhắm mắt không chịu thấy,

ảnh trong tâm xuất hiện.

Minh triết đích thực là,

biết tin nghe trái tim.



Nơi đây bây giờ, tôi ngồi trong vùng đất của “hồ xanh núi đỏ” dưới những bụi cây nở hoa của một ốc đảo xa cách thế gian, cùng với hai người đàn ông lạ hoắc, ngoài tôi ra th́ họ là con người duy nhất trong cái vô tận của vùng đất không người ở này, bên cạnh đống lửa, trong lúc ngựa gặm cỏ và tiếng chuông quen thuộc của chúng vang lên trong đêm.

Khi trăng lên, tôi rời đống lửa, rút về giữa hai bụi cây, đủ xa để bớt tiếng động và sự chú ư. Tôi để bàn thờ nhỏ với tượng Phật của Tomo Géché mà tôi luôn luôn mang theo lên một chỗ hơi cao và ngồi ch́m sâu trong cuộc trao đổi với thầy ḿnh.

Nếu trong những ngày qua tư tưởng của tôi luôn ch́m trong quá khứ th́ bây giờ nó hướng hoàn toàn vào con đường nội tâm đang nằm trước mặt tôi, mà chính Tomo Géché, người đă chỉ cho tôi con đường đó. Tôi không rơ ḿnh đă ở bao lâu trong trạng thái hạnh phúc của quán tưởng và đối thoại không lời đó.

Bỗng nhiên mây kéo trên dăy tuyết và tôi quay về lửa trại. Ngày hôm sau, một đám mưa nhẹ rơi trên đầu chúng tôi. Bầu trời đă gửi cho chúng tôi phước lành.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 778 of 2534: Đă gửi: 11 September 2008 lúc 1:10am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
SƯỜN NÚI TRƠN VÀ BÍ MẬT CỦA NHỮNG CHIẾC MÓNG NGỰA

Sau một ngày nghỉ thỏa thích bên lửa trại, nhờ lửa mà dù trời mưa chúng tôi vẫn khô ráo và ấm áp, mặt trời hiện lớn ra gần như gấp đôi nên tôi quyết định hôm nay sẽ đi về phía đông của hồ, càng xa càng tốt. Sau một ngày vắng bóng, hôm nay mặt trời nóng rực và bầu trời không mây mang màu sắc xanh như chưa hề có một ngày tuyệt diệu để vẽ.

Chỉ mặc áo nhẹ và không mang ǵ hơn ngoài bộ đồ vẽ, tôi lên đường. Tôi cố ăn sáng đầy đủ để khỏi cần mang theo lương thực và v́ đôi ủng Tây Tạng đă rách và đang được bạn đồng hành vá nên tôi chỉ mang xăng-đan, chẳng có vớ.

Thật là một cảm giác tuyệt vời được thơ thới đi trong cảnh đẹp và đầy nắng và khí trời dịu mát, trong vùng hoàn toàn không có người ở, với những màu sắc tưởng như không hề có trên trái đất này đang trải rộng trước mắt; đối với người họa sĩ thật là một ngày hội.

Sự kỳ diệu của cái hồ vẫn thôi miên tôi như ngày đầu màu xanh đậm rực rỡ mà nh́n mấy tôi cũng không biết chán v́ thế tôi càng muốn đi dọc theo bờ hồ để có cái nh́n toàn thể lên hồ và thấy được các ngọn núi tuyết phía nam mà những ngày qua chúng tôi đă đi dọc theo chân của nó.

Khi đến đầu một ngọn đồi nhô ra phía hồ th́ tôi gặp một đàn Kyang, một loại ngựa hoang chúng rất sợ người, không sao tới gần được chúng chạy chung một đàn nai. Đây là lần đầu tiên tôi được thấy chúng.

Chúng hơi giống ngựa vằn ở độ lớn và h́nh dáng, nhưng khác màu. Đầu của chúng to hơn đầu ngựa thường, lông màu nâu sáng như hươu nai nhưng bụng trắng. Chúng là con đẻ của môi trường hoang dă, nếu bị giam hăm chúng sẽ không chịu ăn uống và sẽ chết v́ không chịu nổi tù đày.

V́ lư do này mà không ai t́m cách bắt hay thuần hóa chúng, cũng không ai săn bắn ăn thịt v́ giết hại thú vật là đi ngược lại chủ trương của đạo Phật.

Tại Tây Tạng, săn bắn không phải là môn thể thao mà là một tội ác và ngay cả khi cần giết thú vật để ăn thịt v́ thiếu thức ăn trong mùa đông th́ người nuôi thú cũng cầu xin thú vật tha thứ cho ḿnh và cầu cho chúng được tái sinh trong hoàn cảnh hạnh phúc hơn.

Việc giết hại những sinh vật vô nghĩa nhất cũng được xem là xấu và nên tránh, dù điều kiện sống khó khăn tại Tây Tạng, nơi mà trái cây rau quả hầu như không có, nó chỉ sống được trong những vùng thấp có tưới tiêu, v́ thế mà Tsampa (bột lúa ḿ rang) thành thực phẩm chính.

Đánh cá và bẫy chim càng bị lên án hơn v́ phải cần giết hại nhiều sinh linh loại này mới đủ cho một bữa ăn. V́ thế cho nên chim thỏ và các loài vật khác rất dạn dĩ với người. Tôi nhớ tới một con thỏ nằm yên trong hang cho tới khi tôi rờ tới. Chim vào lều tôi rất thường và loại chột đồng thường chui từ hang ra để ṭ ṃ xem chúng tôi làm ǵ trong lănh địa của chúng.

C̣n loại ngựa hoang th́ luôn luôn giữ khoảng cách xa với loài người, không phải chỉ v́ chúng nhát mà có lẽ chỉ riêng việc thấy người cưỡi người đă làm chúng sợ. V́ thế tôi khá bất ngờ khi được thấy chúng và núp sau một tảng đá, quan sát một lúc rồi mới lên đường.

Trong đồng cỏ quanh hồ Manasarrovar và vùng thảo nguyên Tschang-Thang, ta có thể gặp từng đàn hàng trăm con. Thật thú vị khi nh́n thấy chúng phi trên những cánh đồng uốn lượn của vùng cao nguyên này.

Sau khi đi ṿng qua ngọn đồi, tôi xuống đến một vùng đất bằng phẳng, vùng này được phủ bởi một lớp magnesium kết tinh trắng xóa, dưới đó là đầm lầy. Vùng đất này làm tôi nhớ đến những hồ muối nguy hiểm của sa mạc Sahara, trên đó ta có thể đi lại, rồi khi gần đến mặt nước th́ bỗng nhiên mặt hồ muối bổng nứt ra và nuốt trọn con người, đây là chỗ đă làm nhiều người mất mạng.

V́ thế tôi né bằng cách đi ṿng quanh đầm và leo qua vài ngọn đồi nhở để đến bờ hồ. Bờ dựng đứng từ hồ lên và tận trên cao mới có một bờ đá hẹp, rồi trên bờ đá này là núi đá dựng. Các tảng đá xếp sát với nhau tới mức không thể đi ṿng, phải nhảy từ tảng này qua tảng khác, nếu không sẽ bị kẹp ở giữa. Nhưng tôi c̣n khỏe, c̣n ham thích, nên không bao lâu sau tôi đă đi được xa và càng tới gần, cảnh quang càng tuyệt diệu.

Cuối cùng th́ đá tảng cũng hết, nhường chỗ cho một dốc khoảng 45 độ, nằm sát với vách dựng đứng. Hy vọng sẽ vượt qua được đoạn khó nhất, tôi xuống dốc nhưng chỉ vừa đặt chân xuống th́ cả con dốc đă chuyển động và kéo tôi xuống bờ.

Th́ ra cát sỏi trộn rời rạc với nhau, một khi có ai đụng tới là nó tràn xuống vực. Tôi không c̣n thời gian để suy nghĩ. Nếu rơi vào nước lạnh giá hẳn tôi sẽ chết cóng trước khi bơi được vào bờ, đó là chưa kể bờ là vách đá làm sao bám vào được.

Tôi không có cách nào khác hơn là cứ nhảy chồm về phía trước để tránh khối cát sỏi bắt đầu lăn. Như một con quỉ rừng theo sát chân tôi. Khối cát lăn ào xuống vực. Tôi nhảy chéo, hơi hướng lên cao và cuối cùng giữ được độ cao, tới được chỗ đất cứng.

Bây giờ dưới chân là đá tảng đủ thứ h́nh thù, nó là cái thay đổi đáng mừng cho tôi. Nơi đây tôi có thể đi lại không nguy hiểm, không tất bật và với tâm trạng an toàn, tôi ngồi nghỉ chốc lát. Ngồi trên một tảng đá, khi nh́n quanh, tôi khám phá ra một điều kỳ lạ: xung quanh là vô số móng ngựa, nằm giữa những tảng đá hay lẫn với sỏi cát, trong số đó không có một móng nào nằm ngược.

Nh́n chúng, ta tưởng như một đàn ngựa bị gió thổi lên trời và để lại những móng. Nhưng làm sao lại như thế được? Hay một cơn tuyết lở đă sinh ra? Nhưng không, nơi đây chẳng phải là sườn núi tuyết, chẳng có dốc núi nào đủ dựng để tuyết có thể lở v́ vùng này là vùng tuyết của Tây Tạng cũng như ít mưa trong trong các mùa khác.

Dù cho một cơn băo tuyết khủng khiếp có thể giết chết một đàn ngựa và thổi dạt xác chúng đi th́ ít nhất cũng c̣n thấy xương của chúng trong nước hồ trong, mà ở xa vẫn c̣n thấy những hạt sỏi dưới đáy.

Thế nhưng không hề thấy một miếng xương nào, trong nước cũng như giữa các tảng đá. Dù cho chó sói hay chim ưng ăn xác th́ chắc chắn cũng c̣n dấu vết để lại, ít nhất sọ hay răng ngựa cũng phải c̣n.

Và tại sao mà mọi móng ngựa lại đứng ngay và bị găy ngay đốt xương dường như đàn ngựa sợ hăi điều ǵ đứng sựng lại và chết? Sức mạnh đáng sợ nào đă có thể tiêu diệt đàn ngựa nhanh chân một cách bí ẩn như thế?

Dù nguyên nhân ǵ chăng nữa th́ tôi cũng không c̣n thời gian mà suy nghĩ về nó. Tôi đi t́m một chỗ thích hợp, từ đó có thể ngắm nh́n hồ với dăy núi tuyết đằng sau. Với mục đích này tôi đi tiếp, gặp một vịnh nhỏ dễ thương gần như h́nh tṛn, xung quanh là cát trắng tinh mà nước nơi đó mang một màu xanh lục rực rỡ.

Đối diện với vịnh này là một mỏm đá nhô ra mặt hồ, đó phải là chỗ tôi cần để ngắm cảnh. Nhưng như nhiều lần tại Tây Tạng, tôi lại nhắm sai khoảng cách, v́ không khí quá trong và màu sắc quá sáng, cho nên mặc dù đi nhanh trên bờ cát, tôi vẫn phải mất nhiều thời giờ mới đến được bờ bên kia. Lúc tôi c̣n mê vẽ th́ những bóng mây đen đă kéo lên trên đỉnh núi tuyết phía nam. Nhưng v́ ham công việc quá nên tôi chẳng để ư ǵ cả, chỉ biết đây là cơ hội quí giá cho sáng tác.

Tới lúc bức tranh vẽ xong th́ mặt trời bị mây đen che kín và cảnh vật ngày càng tối không phải chỉ v́ bị mây che mà v́ mặt trời cũng sắp lặn. Tôi vội lên đường đi về; nhưng khi tới bờ bên kia th́ trời kịp tối và các tia chớp làm sáng bầu trời, sấm rền ngay trên đầu tôi. Không khí bỗng lạnh như băng.

Tôi bỗng nhớ đá núi chập chùng và đàn ngựa chết một cách bí hiểm gần đó và biết ḿnh đang lâm nguy. Chắc chúng đang phi th́ bị đá đổ ngăn chận lại, hay đêm đến ngăn đường về và bị chết cóng. Hay nơi đây có những mối hiểm nguy, chúng đáng sợ hơn cái lạnh và băo táp mà tôi không biết.

Bộ xương và sọ ngựa đều biến mất không thể giải thích được bằng sự hiện diện của thú dữ, v́ ngay cả chó sói cũng không nuốt hết mọi thứ chúng cũng không cần v́ đây là thịt của một đàn ngựa.

Vùng đất khó đi này cũng đă cho tôi thấy, trước khi núi đổ th́ đây cũng không thể là đường đi của khách lữ hành. Ngoài ra có rất nhiều những móng ngựa nhỏ, điều đó cho thấy không thể là do đoàn lữ hành nào v́ không ai mang theo ngựa con nhiều như thế cả.

Tôi không sao giải thích được và bây giờ cũng không c̣n thời giờ để nghĩ tới. Mỗi phút giây đều quí báu! Tôi phải vượt qua triền núi trơn trước khi trời tối hẳn.

May thay các đám mây đen bỗng tan đi, đột ngột như lúc chúng kéo đến. Bầu trời vẫn c̣n mây nhưng không mưa và thảm mây mỏng loăng dần đi. Với chút ánh sáng cuối cùng trong ngày, tôi nhớ lại chỗ bị ngă và mặc dù không c̣n thấy rơ bao nhiêu, gắng hết sức, tôi qua được sườn núi đá lở.

Thở hổn hển, tôi đến được bờ bên kia, ngồi xuống nghỉ lấy sức; thế nhưng h́nh ảnh chó sói và các mối hiểm nguy khác không cho tôi yên, mà mối nguy ngủ gục và chết cóng là đáng sợ nhất. Khi hơi lạnh đă thấm vào cơ thể th́ khó mà lấy lại hơi ấm, nhất là tôi không có khăn choàng lẫn áo ấm và chỉ nhờ vận động mà giữ được hơi nóng. Thế nên tôi lại đứng dậy, biết mạng sống của ḿnh đang bị đe dọa.

Từ sáng đến giờ tôi không ăn, không có giọt nước nào từ lúc rời trại và bây giờ th́ cái đói khát đang bắt đầu lên tiếng, nhất là khát. Số phận mỉa mai thay, dưới chân tôi là nước trong vắt từ dặm này qua dặm kia mà tôi không có giọt nước nào cho đỡ khát.

Tôi nghĩ hay ḿnh tạm trú chân trong một hang động trên đường về, nhưng lại sợ chó sói ŕnh rập đâu đó, và v́ không có diêm hay bật lửa mang theo nên tôi bỏ ngay ư định. Nhưng cái thèm nhất vẫn là được ngồi xuống nghỉ ngơi. Tôi biết ḿnh đă ngồi th́ sẽ không đứng dậy nổi, v́ thế tôi quyết định đi tiếp cho tới lúc nào quị th́ thôi.

Bây giờ th́ trời đă tối hẳn, không c̣n phân biệt được đâu là những tảng đá lót đường. Nhưng tôi ngạc nhiên thấy ḿnh vững bước nhảy từ tảng này qua tảng đá kia, không hụt chân hay mất thăng bằng lần nào cả mặc dù chỉ mang đôi dép có ṿng da cột nơi ngón cái.

Đột nhiên tôi biết ḿnh đang mang theo một năng lực kỳ lạ, có một ư thức không do mắt hay năo ḿnh chỉ huy, mà do một “thức” mà tôi chưa biết tới. Tay chân tôi cử động như trong t́nh trạng xuất thần, hầu như chúng liên hệ với một cái biết nằm trong tôi, nhưng độc lập với tôi.

Tôi quan sát mọi sự này tựa hồ trong mộng. Thân ḿnh thấy như xa xa, không thuộc hẳn về ḿnh, tách rời với đầu óc ḿnh. Tôi có cảm giác ḿnh như một mũi tên chạy theo một đường bay đă có. Đồng thời tôi tin rằng ḿnh không được phép ngăn bắt cái năng lực đă chiếm lấy ḿnh.

Về sau tôi mới biết điều ǵ đă xảy ra. Trong điều kiện lúc đó và bên cạnh một mối nguy hiểm, tôi đă rơi vào t́nh trạng của một Lung-Gompa, người chạy xuất thần, mà không hể biết, là kẻ chỉ biết chạy tới đích và bỏ qua mọi chướng ngại một cách vô thức, chân như không chạm đất, đối với một người đứng ngoài th́ thấy như bay trong không, lơ lửng sát mặt đất.

Nếu chỉ nhảy sai hay trượt chân khỏi đá là đủ găy chân, nhưng tôi không trượt lần nào. Tôi đi vững chắc như người mộng du nhưng lại không hề ngủ. Tôi không biết ḿnh đă chạy bao nhiêu dặm trong vùng đất sát hồ khó đi này; chỉ biết cuối cùng ḿnh đă tới đỉnh của ngọn đồi tháp và trước mắt vùng đầm lầy với chất magnesiim.

Căn cứ duy nhất cả tôi là một v́ sao nằm về hướng núi tuyết, giúp tôi nhắm hướng. Tôi không dám tách lạc hướng và v́ c̣n ở trong trạng thái xuất thần nên tôi đi luôn trên đầm trắng bạc, nhưng lại không hề bị lún lần nào.

Nhưng trại ở đây? Chắc không c̣n xa và cách hai dặm phải thấy được trại rồi. Tôi lên một ngọn đồi có cây và nh́n quanh nhưng khắp nơi không có chỗ nào có ánh lửa. Chắc chắn họ không bao giờ rời trại, để tôi chết trong hoang vu, không thực phẩm, không áo ấm, dù không có ai xét xử họ c̣n tôi th́ chỉ rời trại có một ngày mà chưa về.

Tôi xấu hổ v́ đă có ư nghĩ này, nhưng trong t́nh trạng gần như kiệt sức, tôi không sao chế ngự nổi sợ. Có lẽ tôi lầm hướng rồi chăng và tốt nhất là tiếp tục đi, cho đến bờ sông rồi đi ngược ḍng th́ phải tới trại.

May thay được đi thật ra đúng hướng và khi tôi bắt đầu bỏ hy vọng t́m lại trại th́ đột nhiên thấy ánh lửa trong một khoảng đất thấp. Tôi cố gọi nhưng cổ đă khô, không ai nghe thấy tiếng của tôi ở khoảng cách này.

Nhưng ḷng tin đủ mạnh cho tôi thêm sức, rồi vài phút sau tôi đă đến trại và quỵ xuống bên đống lửa; trong lúc bạn đồng hành vui mừng thấy tôi không hề hấn ǵ, họ cho tôi ăn uống. Tôi thấy ḿnh như kẻ lạc loài trở về chưa bao giờ mà lửa trại và ṿng tay con người lại mang đến niềm vui lớn như buổi tối khó quên đó.

Tới hôm nay tôi vẫn chưa giải thích được sự bí ẩn của những chiếc móng ngựa, mặc dù đă thảo luận với nhiều người với hy vọng có câu trả lời thích đáng. Nhưng những điều khác liên quan trực tiếp đến tôi trong ngày hôm đó th́ đă được lư giải đầy đủ về t́nh trạng xuất thần mà tôi đă nhập vào, khi biết thêm về hiện tượng tâm lư của lugn-gom.

Trong một cuốn sách của Alexadra David-Neel (24) lần đầu tôi đọc, có mô tả chuyện này và nhiều năm sau tôi được thấy tận mắt trong tu viện nổi tiếng Nyang-to Kyi-phug, ở một lũng của sông Nyang-Tschu, không xa Schigatse, một trong những trung tâm giáo huấn du già nổi tiếng, vào năm 1947 lúc cùng đi với Li Gotami.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 779 of 2534: Đă gửi: 11 September 2008 lúc 1:22am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG 
 
 
PHI HÀNH XUẤT THẦN VÀ PHÉP LUNG-GOM

Ghi chép của chứng nhân đầu tiên về phép phi hành xuất thần mà phương Tây được biết, cũng là mô tả ấn tượng nhất, là bà Alexandra David-Neel trong tác phẩm nổi tiếng Mystiques et magiciens du Tibet (Đạo học và các nhà huyễn thuật Tây Tạng).

Một ngày nọ, lúc du hành trên cao nguyên Tây Tạng, bà thấy từ xa xa một bóng đen chuyển động làm bà chú ư. Vùng bà đi bấy giờ là một vùng hoàn toàn không người ở, suốt hai tuần bà không gặp người nào. Qua ống nḥm bà thấy đó là một người, “đi một cách kỳ lạ và với một tốc độ phi thường”.

Khi người đó tới gần, bà thấy “rơ ràng khuôn mặt hoàn toàn an tĩnh, xa vắng và hai mắt mở to, h́nh như một cái ǵ xa xôi, vô h́nh, ở trên cao. Người đó gần như có cái đàn hồi của một trái banh cao su và cứ mỗi lần đụng đất lại dội lên. Những bước của người đó có cái đều đặn của một quả lắc”.

Vài năm sau biến cố xảy ra đă mô tả trong chương trước, khi đọc những ḍng này tôi liền nhớ lại chuyện bên bờ hồ Panggong. Sự mô tả này đúng hoàn toàn với kinh nghiệm của tôi. Những người tập phép lung-gom thường được khuyên là không những chỉ nên tập trung tâm thức ḿnh về một linh ảnh, mà ban đêm c̣n nên hướng mắt nh́n một v́ sao nhất định, v́ thế có lúc sinh ra một tác dụng như bị thôi miên.

Về khía cạnh này, tôi cũng làm đúng như vậy mà không biết và đă tới với một t́nh trạng như không c̣n trọng lực và đôi chân dường như có một ư thức hay bản năng riêng; chúng tự tránh mọi chướng ngại, tự t́m chỗ dựa cho ḿnh mà trong đêm tối với tốc độ đó chỉ có nhà tiên tri mới thấy được được.

Bà Alexandra David-Neel cho rằng phải có một sự gây mê nào đó mới làm người ta khỏi đau khi đụng phải đá hay chướng ngại vật. Tôi thấy điều này không phải, v́ nếu thế th́ người phi thân này phải bị sưng chân hay bị thương tích, điều này bản thân tôi không bị.

Tôi cũng thấy không đúng khi cho rằng việc tránh chướng ngại vật là nhờ phần c̣n lại của thức thông thường. Ngược lại, chính nhờ thức thông thường không can thiệp mà kẻ mộng du không bị hề hấn ǵ mà lại có sự an toàn nhờ bản năng.

Đối với kẻ mộng du th́ không có ǵ đáng sợ hơn nếu thức thông thường đột nhiên thức dậy. Đó là lư do mà người đi xuất thần phải tránh nói năng hay nh́n ngó v́ chỉ một chút phân tâm là đủ để cắt đứt trạng thái xuất thần thậm chí mất hẳn.

Ư nghĩa sâu xa của lung-gom là, vật chất có thể bị tinh thần chế ngự. Điều này được chỉ rơ trong các phép tập luyện phần lớn có tính chất tâm linh. Các phép tu tập đó thường được thực hành hết sức cẩn mật và nhằm tập trung lên một số năng lực cơ bản nhất định cũng như các biểu tượng thiêng liêng của chúng, song song với tŕ niệm mật chú, nhờ đó mà các trung khu tâm lực (cakra) của thân thể được đánh thức và vận hành, biến thành sức mạnh siêu nhiên.

Cũng như trong phép tum-mo phép sinh nội hỏa, hành giả tập trung lên yếu tố lửa qua một trung khu nhất định, đồng thời ư thức mọi hiện tượng và bản chất liên hệ với lửa; hành giả lung-gom phải ư thức mọi hiện tượng, khía cạnh và chức năng của năng lực gió, hướng tâm về đó.

Gom vừa có nghĩa thiền định, tập trung, quán tưởng tất cả năng lực tâm thức lên một đối tượng nhất định, đồng thời nó con mang ư nghĩa dần dần từ bỏ sự phân biệt chủ thể khách thể, đến mức chủ và khách thể trở thành đồng nhất với nhau.

Lung là yếu tố “gió”, nó ám chỉ sức sống tinh tế và năng lực tâm lư. Cũng như từ Hy Lạp pneuma vừa là không khí vừa là tinh thần, th́ về mặt thể chất lung là khí, đó là mặt vật chất của nguyên lư sống của chúng ta, thí dụ bộ phận hô hấp và khả năng di động và mặt kia là những luồng năng lực tâm lư mà qua đó những trạng thái ư thức được sinh ra hay biến mất.

Với gom th́ từ lung chỉ có nghĩa prana (khí) trong du già Ấn Độ, nó liên hệ với các phép tu nhằm điều khiển khí lực của thân người thông qua năng lực tinh tế của tâm thức. Nói cách khác: Lung-Gompa không phải là người có khả năng bay trong không (do có nhiều người hiểu sai từ lung) mà là người biết cách chế ngự khí lực của ḿnh bằng phép du già pranayanma.

Phép này bắt đầu bằng cách kiểm soát hơi thở và dùng nó làm khởi điểm của một sự chứng thực tâm linh, nó chuyển biến toàn bộ cơ chế tâm vật lư và toàn bộ tính cách của con người hành giả. Năng lực và sức mạnh nằm sẵn trong mỗi con người sẽ được tập hợp, tăng cường và đưa vào đúng hướng.

V́ thế mà lung-gom có thể được đinh nghĩa chính xác là “tập trung lên nguyên lư động”. Nó chứa tính cách động của cơ chế vật lư và tất cả hoạt động của thân, nhưng không gói gọn trong nghĩa nội tại mà là tác động hỗ tương của nhiều tiến tŕnh và nhất là phụ thuộc vào những sức mạnh uyên nguyên và tính chất bao trùm của tâm thức.

Thế nên nó có thể có ảnh hưởng trực tiếp lên các bộ phận của thân và chức năng để tạo thành một sự ḥa nhịp tâm vật lư: một sự song hành giữa tư tưởng và cử động, một sự ḥa nhịp mà tất cả năng lực của hành giả tham gia vào.

Khi ta đến điểm đó rồi, khi mà một lực hay một dạng vật chất có thể chuyển hóa qua một dạng khác th́ có nhiều điều tưởng chừng như siêu nhiên có thể thực hiện được, ví dụ dùng ư chí mà vận động khối lượng (một sự kỳ diệu mà thật ra chúng ta thường làm trong phạm vi nhỏ mà không hề hay biết) hay sự chuyển hóa vật chất thành năng lượng, làm giảm thiểu sức nặng hầu như loại bỏ được cả lực trọng lượng.

Trong các kinh sách cổ của phép thiền định đạo Phật th́ việc đạt các thần thông được xem là sản phẩm phụ, chúng gây nên hiểm nguy chứ không ích lợi ǵ trong sự giác ngộ. Việc biểu diễn thần thông là đáng chê trách từ thời xa xưa.

Thế nhưng trong một số trường hợp, v́ những điều kiện đặc biệt của Tây Tạng, cần thiết phải sử dụng thần thông này, nhất là khi phải vượt qua những chướng ngại tự nhiên, nếu chúng có lợi cho việc chứng thực tâm linh và phục vụ con người.

Thế nên tum-mo là phương tiện tiến bộ tâm linh và là cách chống lại cái lạnh của mùa đông Tây Tạng mà các tu sĩ du già phải chịu trong hang đá hay khi nhập thất, thất này nằm cao trong dăy núi, v́ các vị đó không mấy người kiếm được củi lửa.

Thế nhưng cần tránh cách suy nghĩ ngây thơ là tum-mo có mục đích sinh nhiệt; mà đó là chính là phép tu ḥa nhập tâm linh, dẫn đến giác ngộ và chứng thực.

Tương tự, lung-gom chỉ là một trong nhiều cách đưa đến giải thoát, trong nhiều trường hợp nó giúp hành giả di chuyển với tốc độ cao mà trong một xứ với phương tiện đi lại và truyền thông sơ khai, đó là điều quan trọng.

Cũng có thể óc nhiều người mới đầu chỉ có tham vọng muốn có năng lực siêu nhiên đặc biệt. Thế nhưng sự khổ công để đạt được điều đó lại cũng rất lớn, nên những kẻ dám tu tập phép đó cũng chính là những người có tính cách mạnh mẽ và phẩm chất tinh thần cao.

Và những ai chịu khó tuân thủ các phép tu tập này một cách nghiêm túc th́ đó lại là người sớm bỏ cái tự hào hay tham vọng ban đầu, v́ toàn bộ phép tu là một sự tự chiến thắng không hề làm tăng trưởng cái ngă, nguồn gốc của sự tự phụ.

Điều này được minh họa bằng nhiều truyện nhân gian, như truyện Tám mươi bốn vị Thánh tựu giả(Siddhas), sống trong khoảng thế kỷ thứ 7 đến 10 của kỷ nguyên chúng ta. Nhiều người trong số đó bắt đầu với mục đích đạt những thần thông siêu nhiên v́ lợi ích của riêng ḿnh.

Trong lúc họ hướng tới mục đích đó và nhất là sau khi đă đạt được th́ họ lại đánh mất mọi quan tâm về thế gian, v́ trong quá tŕnh tu tập họ đă vượt lên cái tự ngă, nguyên nhân của mục đích vị kỷ ban đầu.

Ta có thể kể thí dụ của vị Khadgapa. Ban đầu ông ta là một tên cướp, ông gặp một vị du già sư và hỏi làm thế nào để trở thành nhà vô địch. Vị du già sư đáp: “Có một bảo tháp không xa thành Benares. Hăy đến đó và đi ṿng quanh thánh thất ba tuần, nơi đó có một tượng Quán Thế Âm, vừa đi vừa niệm chú và thiền định theo phép ta dạy ngươi.

Nếu ngươi thành khẩn và liên tục tập trung, không để tâm tán loạn th́ cuối tuần thứ ba sẽ có một con rắn độc sắc đen từ tháp ḅ ra. Ngươi phải chụp đầu rắn ngay, nếu không nó sẽ cắn ngươi. Nếu ngươi thực hành đúng phép thiền định th́ con rắn không làm ǵ được ngươi và sẽ đạt được sức mạnh của nhà vô địch”.

Tên cướp cám ơn vị du già sư và làm theo lời dạy. Ông hết ḷng hết dạ làm điều căn dặn và khi con rắn ḅ ra khỏi tháp, ông chụp nó ngay và nh́n lại th́ chính là lưỡi kiếm tuệ giác vô địch.

Ông không cần dùng đến năng lực siêu nhiên này nữa v́ ông đă trở thành một thánh. Từ ngày đó ông được gọi là Thành tựu giả Khadgapa, “bậc thánh với lưỡi kiếm”.



 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 780 of 2534: Đă gửi: 11 September 2008 lúc 1:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG

 

NYANG-TO KYI-PHUG TU VIỆN CỦA NGƯỜI NHẬP THẤT

Tất cả những ǵ mà tôi nghe thấy ở trung tâm tu phép Lung-gom tại Nyang-to Kyi-phug (hang động phước lại tại Nyang) xác định ḷng tin của tôi là, mục đích của lung-gom, như phép thần túc thông hay bay bổng lên không, vượt xa tham vọng đạt thần thông, và trung tâm này không phải là nơi tụ họp của những kẻ tham vọng hay ích kỷ, v́ cái đầu tiên đ̣i hỏi một người học phép lung-gom là hoàn toàn ẩn danh.

Khi nhập thất th́ người đó đă chết đối với thế gian: không ai được biết tên tuổi, quyến thuộc hay quê hương người đó. Người đó đă bỏ luôn cái quá khứ của ḿnh và sau nhiều năm khi ra khỏi động th́ không c̣n ǵ của ngày xưa tồn tại với ḿnh nữa, không ai biết người đó là ai.

Đó là một người như mới sinh ra kẻ không những quá khứ đă chết, mà là người đă chủ động đi qua cánh cửa của thần chết và tái sinh lại, sống cuộc đời xả bỏ mọi tham chấp riêng tư. Con người mới đó sẵn ḷng v́ lợi ích của sự giác ngộ của mọi người mà c̣n giúp họ thoát ṿng vô minh.

Điều này c̣n được ḷng tin của quần chúng xác nhận rằng gốc của lung-gom là mong ước của một vị thánh nhân, muốn vượt lên cái chết bằng cách từ bỏ chính tự ngă ḿnh. Vị này là nhà sử học danh tiếng Buston, sinh năm 1289 gần Schigaste và là tu viện trưởng của Schalu.

Nơi đó là trung tâm khổ luyện phép lung-gom. Cách đó không xa có một nhà đại huyễn thuật tên Yung-ton Dorje Pal, trong một buổi lễ đặc biệt đă khẩn cầu thần chết, đừng bắt ai phải chết trong một thời gian mười hai năm.

Thần chết đồng ư nhưng với điều kiện là phải có ai hy sinh thân ḿnh để đổi mạng (ư này dễ chấp nhận v́ một cái chết để cúng dường có giá trị bằng hàng ngàn mạng người chết v́ phải chết). Trong buổi lễ đó không ai dám chịu cả chỉ trừ Buston.

Cũng v́ thế mà nhà huyễn thuật phải thừa nhận vị thánh nhân này là người duy nhất có thể cử hành buổi lễ, nên thay v́ nhận sự hy sinh của Buston, ông trao cho Buston các đệ tử trách nhiệm cứ mười hai năm cử hành buổi lễ một lần.

Trong buổi lễ v́ phải mời các vị phẫn nộ thần của các chính điện tại trung tâm Tây Tạng và chỉ có sứ giả không biết sợ và có tài đi nhanh đến các thánh thất đó trong ṿng hai mươi bốn tiếng mới thực hiện được sứ mạng, nên người ta thiết lập trung tâm đào tạo Lung-Gom tại Samding và Nyang-to Kyi-phug, từ đó mà các sứ giả được gửi đi, cứ mười hai năm thay đổi lẫn nhau.

Câu chuyện này tôi được nghe tại Kyi-phug cũng được Alexandra David-Neel kể lại trong cuốn sách của bà. Tôi không có dịp thăm Samding nhưng cách đây vài năm tôi đọc một bài của Sven Hedin, trong đó ông nói về một cái hang “nằm cao hơn Linga và Pesu”, trong hang đó có một vị lạt ma nhập thất bít kín cửa.

Ông thăm chỗ này vào một ngày mùa đông. Hang động này nằm dưới chân một vách đá cao, mang tên Samde-phug. Hang động có cửa sổ, cửa lớn; nhưng có một nguồn suối phun nước từ trong ra, dưới vách tường bít kín cửa ra vào.

“Khi vị lạt ma Rimpotsché bí ẩn này đến liga cách đâyba năm, ông nguyện với các sư trong viện sẽ sống vĩnh viễn trong bóng tối. Qua nghiên cứu kinh sách, người ta xác định ngày tốt sẽ bít cửa. Đến ngày đó th́ tất cả các sư tề tựu đông đủ để tiễn ông vào mồ.

Câm lặng và chậm răi như trong một đám tang, các sư từ b́nh nguyên tụ về cao nguyên, đi từng bước, gần như muốn kéo dài phút giây cuối cùng để cho vị này c̣n được thấy mặt trời, ánh sáng và màu sắc. Ông biết rằng ḿnh sẽ rời thế gian này vĩnh viễn, không bao giờ được thấy các ngọn núi đứng canh mồ ḿnh. Ông biết ḿnh sẽ chết trong hang, không c̣n ai nhớ tới.

Sau khi hang được bịt kín, ánh sáng sẽ tắt măi măi với ông. Ông sẽ cô đơn, không bao giờ nghe được tiếng người, chỉ c̣n vang vọng giọng nói của chính ḿnh. khi ông cầu nguyện không c̣n ai nghe thấy ông, khi ông gọi không c̣n ai thưa đáp. Đối với bạn đồng môn đă chôn sống ông th́ ông đă chết. Họ im lặng xuống tu viện và làm công việc hàng ngày của ḿnh.

Mối dây duy nhất giữa họ và người trong động chi là trách nhiệm mỗi ngày phải mang cơm nước cho ông. Một chén nhỏ gồm có tsampa, trà và bơ được chuồi vào khe nhỏ dưới vách, nhưng khe này nhỏ tới mức mà tiếng động, ánh sáng khó vào được với ông.

Cách duy nhất để biết ông c̣n sống hay không là xem ông có ăn uống không. Khi thức ăn suốt sáu ngày liền không được đụng đến th́ người ta phá cửa. Nhiều nhà sư kể lại đă có nhiều trường hợp xảy ra: “Cách đây ba năm có vị lạt ma chết sau khi ở trong thất mười hai năm, trước đây mười lăm năm có vị chết, vị này vào thất lúc hai mươi tuổi và sống trong bóng tối bốn mươi năm”.

Sven Hedin cố tưởng tượng những năm tháng vô tận mà kẻ nhập thất phải chịu đựng trong bóng tối: “Người đó không thể đếm ngày nhưng cứ tới mùa hè th́ biết một năm đă trôi qua. Về sau chắc người đó không c̣n nhớ ḿnh đă ở bao nhiêu năm. Cái duy nhất mà người đó đếm được là những hạt của tràng hạt và các lời cầu nguyện…

Cuối cùng, sau những năm dài đằng đẵng có ai gơ cửa hang, người đó duỗi tay để đón bạn. Đó là cái chết đă đến ngưỡng cửa. Người tu hành đui mù này suốt chục năm ch́m trong bóng tối, đột nhiên thấy ánh sáng rực rỡ… Người đó đă thoát khỏi cảnh luân hồi và đi vào ánh sáng của ân phước vĩnh viễn”.

Câu chuyện xúc động này theo đuổi bên tôi măi, làm tôi thán phục liệu có ai và làm sao được, suốt một đời sống trong bóng tối, không có khí trời trong lành, thiếu vận động mà chịu nổi đó là chưa nói tới sự cùn lụt tâm trí bắt buộc không có khi không tiếp xúc với người.

Có thể tin được chăng, khi loại bỏ ánh sáng mặt trời người ta t́m được ánh sáng tự thân hay thậm chí sự giác ngộ? Không phải chính Đức Phật cũng lên án cách tu hành khổ hạnh ép xác cũng như sự hưởng thụ dục lạc thế gian?

Sự tự hủy diệt tâm lư không bao giờ được đạo Phật xem là phương tiện thay đức hạnh. Và người Tây Tạng, dù họ tin nơi sức mạnh siêu nhiên và năng lực chuyển hóa, nhưng từ xưa đến nay trong cuộc sống thường ngày cũng như trong phương pháp tu hành, luôn luôn là người có đầu óc tỉnh táo. Tính chất của họ là thực tiễn và quan niệm tôn giáo của họ không hề hắc ám hay tách rời cuộc sống.

Điều này th́ khi đến tại Nyang-to Kyi-phug, tôi hoàn toàn rơ, dù nơi đây có lỷ luật cao độ và tu hành nghiêm túc, tất cả những ǵ hiện diện nơi đó đều ngược lại với ư niệm cho rằng lung-gom phải tu trong bóng tối (điều mà bà David-Neel h́nh như cũng tin) và trong điều kiện thiếu vệ sinh không xứng hợp với con người.

Ngược lại! Tôi vui mừng thấy các thất thiền định nằm trên dốc núi cao hơn các tu viện hay đền đài, được chăm sóc kỹ lưỡng, chúng được xây dựng hết sức thích hợp để bảo toàn cho sức khỏe vật lư cũng như tâm lư của hành giả, tạo cho họ một sự an tĩnh tuyệt đối, không bị quấy rầy. Nơi đây đúng là”tinh thần minh mẫn trong thân tráng kiện”.

Mỗi một thất đều xây sao cho không khí, nước và mặt trời đều vào được và người ở trong đó phải được vận động. Dù cách ly với thế giới bên ngoài, hành giả vẫn liên hệ được với không gian rộng lớn và có thể theo dơi vận động của trời mây và thiên thể cũng như quang cảnh của bốn mùa.

Thất không phải là nơi hành xác hay hay chịu tội mà là chốn của an vui và đi sâu vào quán tưởng. Hoàn toàn không phải là một nấm mồ, thất đưa con người đến tâm an lạc, cũng như gọi tên của Kyi-phug (hang động an lạc). Ấn tượng chung đó làm tôi cũng ước muốn một ngày kia sẽ thiền định và quán tưởng không bị quấy rầy trong một cái thất như thế, trong một thời gian dài.

Kẻ nhập thất có thể mang theo sách vở, h́nh tượng, tranh thanka, tùy theo phép tu của họ, cũng như vật dụng để cử hành nghi lễ hàng ngày như kim cơnưg chử, chuông, đèn, b́nh đựng, kể cả tschoktse một loại bàn thấp để bày biện các thứ.

Từ những điều đó ta biết rơ, thời giờ của hành giả được chia rất cẩn thận, gồm học hỏi kinh sách, lễ nghi cầu nguyện và thiền địnhh, chỉ bị gián đoạn bởi sự tập luyện thân thể và các công việc cần thiết như nấu nướng, giữ ǵn thân thể và áo quần sạch sẽ, lau chùi các vật dụng tế tự.

Với tŕnh độ ngày càng cao th́ những hành động đó cũng trở thành các bước thiền quán, rồi cuối cùng toàn bộ cuộc sống của hành giả chỉ là hoạt động đơn thuần của thiền định.

Các thất này thường có một bếp nhỏ với vài cái nồi chảo để nấu trà bơ, đó là phần không thể thiếu được trong thực phẩm Tây Tạng (v́ hầu như không thể nuốt tsampa khô rốc xuống họng được) và các món đơn giản khác. Các cứ sĩ đến thăm tu viện thường chỉ cúng dường các thứ chưa nấu và một ít thực phẩm khác, chuồi dưới khe bên cạnh cửa đă niêm phong. Bên cạnh bếp thường có một khoảng nhỏ, dưới dó là một con lạch tách từ một ḍng suối chảy qua, dùng cho mọi nhu cầu quan trọng, kể cả vệ sinh cá nhân.

Chỗ thiền định thật sự th́ rộng và thoáng nhờ một khoảng trần trống h́nh vuông nên thành một cái sân nhỏ, xung quanh có mái. Mái che xung quanh một bên rộng, ba bên kia hẹp. Dưới mái rộng là chỗ ở chính của hành giả. Nơi đó gồm có một cái bệ hơi cao bằng đá và đất, dùng làm chỗ ngồi và nằm, trải trên đó là một tấm chiếu mỏng.

Đối diện với chỗ ngồi là bàn thờ với tranh tượng, đèn, chén nước và các vật dụng khác. Vách tường đối diện, dưới mái che hẹp là nơi dùng để chứa chất đốt, vật dụng quan trọng trong thời tiết lạnh lẽo của Tây Tạng mà trà nóng hầu như là phương tiện duy nhất để giữ ấm. Tại Tây Tạng chất đốt quá quí, không ai dùng để sưởi pḥng, mà trong trường hợp này lại càng không thể, v́ trần mở phía trên.

Chất đốt sử dụng trong các thất không phải là phân trâu thông thường v́ trong đó hay có sâu bọ v́ thế không phù hợp cho kẻ tu hành có ḷng từ bi thương mọi chúng sinh mà thường là tro trấu hay một loại thảo có h́nh nấm, có xơ gỗ, giống như một loại rêu cứng mọc trên các triền núi. Người ta cho rằng trong chất đốt này không có loại động vật nào cả.

Từ sân nhỏ có thang lên mái xung quanh và mỗi ngày hành giả có thể lên đó mà không ai thấy; nhờ có vách tường cao che kín có thể lên đó mà không ai thấy; nhờ có vách tường cao che kín nên có thể thiền hành mà không bị quấy rầy. Nhờ thế, hành giả có thể đi cả dặm mỗi ngày tùy thích mà không phải rời thất.

Cách đi này được gọi là “kinh hành” của thời Phật giáo nguyên thủy, ngày nay c̣n được thực hành trong các nước theo Thượng tọa bộ. Khi đi kinh hành các vị sư nhẩm đọc kinh sách. C̣n các hành giả lung-gom th́ đi trên mái nhằm giữ sức khỏe thân thể, v́ đối với người nhập thất suốt cả tháng cả năm th́ đó là cách duy nhất được vận động trong khí trời và ánh sáng.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.5547 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO