Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 185 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 781 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 10:13am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
(TIẾP THEO)
 
TU LUYỆN THÂN THỂ

Có những phép tu luyện lung-gom, chủ yếu là nhảy từ thế ngồi hai chân tréo, nhưng không dùng tay. Trước khi nhảy, hành giả lung-gompa hít không khí đầy ngực. Cứ áp dụng phương pháp này hàng ngày th́ hành giả nhảy được ngày càng cao và thân thể ngày càng nhẹ dần.

Quan trọng nhất là hít thở thật sâu, phối hợp với kỷ luật thuộc thân. Tôi chưa tập phép này bao giờ và cũng không nhớ có ai nhắc đến nó tại Nyang-to Kyi-phug hay không. Thế nhưng theo bà Alexandra David-Neel th́ phép này được xem là một cách thử nghiệm cho lung-gom.

“Người ta đào một cái hố, chiều sâu khoảng bằng chiều cao của thí sinh. Trên hố có một cái ṿm với chiều cao cũng khoảng như thế. Trên đỉnh ṿm có một cái lỗ. Như thế khoảng cách giữa đáy hố và đỉnh ṿm khoảng chừng gấp đôi chiều cao cơ thể của thí sinh.

Thí sinh phải ngồi xếp bàn tṛn, nhảy dựng lên và lọt qua lỗ trên đỉnh ṿm. Tôi được nghe người Khampa kể trong xứ họ phải đạt được như thế, nhưng chưa bao giờ thấy tận mắt (26).

Như đă nói, tôi không nghe tại Nyang-to Kyi-phug xác nhận điều này, lạ một điều là có sự trùng hợp với mô tả của John Blofeld về nhà huyễn thuật Meng Goong tại làng Miao ở bắc Thái Lan.

Nhà huyễn thuật này ngồi trước bàn thờ tổ tiên “… trên cái ghế cao khoảng một mét, tay đập trống và giọng của ông khỏe mạnh nhưng đáng sợ, nghe không phải tiếng người, vang lên trong buổi lễ. Thỉnh thoảng xảy ra những điều phi thường, có thực và khiếp đảm.

Với một tiếng rống ghê gớm ông bắn ḿnh lên cao một mét hay mét rưỡi và rơi thịch xuống băng ghế làm nó rung rinh muốn găy. Vận động này của một người, hai chân vẫn khoanh tṛn không hề duỗi ra, đối với tôi đáng sợ đến mức toát mồ hôi lạnh (27).

Sự mô tả của một tác giả tiếng tăm và đáng tin cậy chứng minh hai điều: thứ nhất, phép tu của người Tây Tạng không phải là hoang tưởng nhưng nhiều độc giả có thể nghĩ; thứ hai, không phải chỉ có sức mạnh cơ bắp trong chuyện này.

Nơi đây người Tây Tạng thấy có sự hiện diện của phép bay bổng (28) dù ngắn ngủi nhưng được sinh ra bởi cái nhẹ nhàng phi thường và sức mạnh tâm linh của một nhà Lung-gompa.

Dù ǵ đi nữa, những thuật tương tự như thế được thực hành ở đông Tây Tạng và bắc Thái Lan đă xác nhận cảm giác đầu tiên của tôi là tại Tây Tạng, phép nhảy đó không phải của riêng mà cũng chẳng là điều chủ yếu, nó được một truyền thống khác bổ túc vào.

Gốc gác đích thực là phép Long-gum, như đă nói, là phép niệm hơi thở pranayana của Ấn Độ cổ(cũng là phần chủ yếu của phép tu du già của Ấn Độ giáo và Phật giáo), trong đó phép luyện thân thể không hề có vai tṛ ǵ. thế nên ta cũng không thể nói kẻ luyện lung-gom là những người chịu “chôn sống” hay nguyện “vĩnh viễn sống trong bóng tối”.

Trong thế gian không có ǵ mà không chịu sự biến đổi hay chuyển hóa; ư muốn và ước vọng, tư tưởng và cảm xúc con người lại càng không. ngay cả thệ nguyện sống đời tu sĩ cũng không hề “vĩnh viễn” hay không được xét lại.

Những ai tự thấy đời tu sĩ không hợp với ḿnh hay không mang lại tiến bộ tâm linh đều có quyền quay trở lại cuộc sống b́nh thường. Đời sống trong tu viện, trong cảnh độc cư hay nhập thất cách ly hoàn toàn chỉ là phương tiện đưa đến mục đích, tự nó không phải là cứu cánh.

Thời gian mà một những nhập thất phải sống cách ly tùy thuộc phép tu (29) và tŕnh độ tu luyện. Người đó không bao giờ bị ép phải tiếp tục tu luyện nếu sức khỏe hay năng lực giảm sút. Tại Nyang-to Kyiu-phug th́ các thời kỳ nhập thất được tính toán kỹ lưỡng và hiển nhiên là không ai tu tập mà không được thầy của ḿnh chuẩn bị chu đáo.

Thời gian ngắn nhất kéo dài khoảng một tới ba tháng, thời gian trung b́nh từ một tới ba năm và thời gian dài nhất là chín năm. Thời gian dài nhất đó xem như để hoàn tất phép lung-gom, hành giả có thể tăng lên mười hai năm như truyền thống để lại.

Để tránh chuyện khai dối thời gian tu luyện, thường th́ uy tín của hành giả lung-gom dựa trên thời gian đó, cửa vào thất được niêm phong bởi các cơ quan tôn giáo hay thế tục, thí dụ của tu viện trưởng hay chức sắc Nhà nước, v́ Tây Tạng là một xứ sở của tăng lữ, các công việc thế tục và tinh thần không tách rời hẳn.

Bảng niêm phong nếu không được phép của các vị chức sắc th́ không được mở ra. V́ chỉ có sức mạnh ư chí và ḷng thiết tha cao độ mới chịu nổi sự cách ly tuyệt đối trong một thời gian dài mà không bị nguy hại, nên thời gian đó được coi trọng. Nó được xem là thử nghiệm của sự kiên tŕ và tính chất mạnh mẽ của hành giả.

Trong thời gian tôi nghiên cứu tại đó th́ có sáu người nhập thất ở Nyang-to Kyi-phug. Một trong số đó đă ba năm tịnh khẩu và thiền định, và người ta đoán là ông sẽ không ra khỏi thất trước sáu năm tới đây.

Không ai được phép nói chuyện với một hành giả Lung-gom, cũng như không được nh́n thấy thân thể, dù chỉ chút ít. Quy luật đó là để bồ đề tính chất vô ngă ẩn danh.

V́ lư do mà tay của hàng giả được vải che kín khi ông tḥ ra lấy thức ăn nơi khe cửa, không cho thấy h́nh dạng đặc biệt của tay ḿnh, như có vết sẹo hay xăm tay, cho nên không ai biết được người đó là ai. Khe hở đó, tôi đo là 22,5x25cm, cũng chính là nơi mà hành giả lung-gom chui qua sau chín năm tu luyện.

Người ta nói rằng, sau thời gian đó th́ thân hành giả nhẹ và mềm dẽo tới mức có thể chui lọt lỗ đó, lỗ không to hơn bao nhiều một bàn tay của một người b́nh thường và hành giả có thể chạy nhanh như ngựa phi nước đại, chân hầu như không đụng đất. Nhờ khả năng đó mà hành giả có thể đến các thánh thất tại trung Tây Tạng (U-Tsang) trong một thời gian không thể tin được.

Và người Tây Tạng cũng tin rằng sau khi thực hiện xong sứ mạng trên th́ hành giả lung-gom t́m một chỗ độc cư theo ư thích, trong một hang động hay một thất tự ḿnh xây hay tín đồ xây tặng; trong đó ông ta sẽ thiền định và giáo hóa chúng sinh cho đến cuối đời bằng cách thực hành những trách nhiệm tinh thần, phù hợp với phép tu của ḿnh, tùy theo yêu cầu của tha nhân và đệ tử.

Đối với những ai t́m tới ḿnh, ông sẽ chia sẻ ân phước, cứu chữa kẻ ốm đau, giúp người hoạn nạn. Thời gian tu kuyện đă cho ông những sức mạnh tâm linh để chữa bệnh, có khi chỉ cần rờ tay đến hay qua những nghi lễ đặc biệt như sử dụng dược thảo hoặc thuốc men đă được ban phép.

Các thứ này đóng một vai tṛ quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng. Các năng lực thiêng liêng này đều nhờ những hoạt động tâm linh mà có, người Tây Tạng tin rằng ai càng đi xa trên con đường đạo th́ càng có nhiều năng lực cứu giúp cho kẻ khác, càng có thể ấn chứng vật thể bằng năng lực mang lại phước lành của ḿnh.

 

KHẢ NĂNG CHỮA BỆNH

 


Ḷng tin nơi khả năng chữa bệnh của những người đă thành thánh nhân nhờ suốt đời đă theo hạnh xả bỏ và tu luyện tinh thần, ḷng tin đó không phải chỉ ở Tây Tạng mới có, mà nó là một kinh nghiệm chung.

Mối liên hệ giữa niềm tin và sức chữa bệnh có tác dụng qua lại. Niềm tin là khả năng tự mở ḷng ḿnh, khả năng tiếp nhận; c̣n sức mạnh tâm linh, thể hiện trong sức chữa lành bệnh, là khả năng đối thoại, tỏa sáng, sự tuôn trào cái giàu có nội tại của ḿnh cho bên ngoài và là sự đơm hoa kết trái của một tâm hồn già dặn trong an tĩnh muốn được chia sẻ với người khác.

Khả năng chữa bệnh và ḷng tin v́ thế mà như hai cực âm dương của một sức mạnh duy nhất, và ở đây có cái trước th́ ở đó có cái sau. Thế nhưng, cũng có chiều ngược lại: Ḷng tin cũng có thể thành sức mạnh, trong đó ḷng tin như một thứ chân không hút hết các lực nằm xung quanh và chiếu lại như vật thể hay con người nó hướng tới.

Các vị lănh đạo tôn giáo thường tùy thuộc nơi ḷng tin của đệ tử, cũng như đệ tử lại cần niềm xác tín toát ra từ vị thầy. Một khi quá tŕnh này bắt đầu rố th́ nó mau chóng lớn mạnh.

Ḷng tin khi đă tập trung lên một vị lănh đạo tinh thần hay một đạo sư, vị trí này thường được quyết định bởi phẩm hạnh cá nhân của người đó, nó sẽ biến người này thành một trung tâm gồm những năng lực, chúng vượt xa hơn hẳn bản thân người đó, và làm người đó có những năng lực phi thường.

Thế nhưng khi những người đó bị mất đi môi trường tự nhiên của ḿnh cũng như hậu thuẫn tinh thần và truyền thống, như trường hợp các vị lạt ma Tây Tạng sống trong một thế giới hoàn toàn xa lạ, trong một t́nh trạng hư vô về tinh thần th́ người ta không thể chờ đợi các vị đó có những năng lực siêu nhân nữa.

Khi chưa hiểu mối liên hệ hỗ tương giữa ḷng tin và sức mạnh tinh thần, th́ khả năng chữa bệnh của một thánh nhân hay một con người đă tu tập, người đă t́m ra một cái trung tâm nội tại của ḿnh, sẽ bị xem như một pháp thuật hoặc một sự nhảm nhí.

Điều mà đối với ta, phép thuật chẳng qua chỉ là sự thu ngắn của nhiều năng lực tự nhiên, tức là sự tác động trực tiếp của tâm lên tâm, không thông qua giác quan hoặc các bộ phận cơ thể vật lư. Ḷng tin sinh ra một cái như chất xúc tác hay cây thang nối tâm với nhau.

Cũng như điện luôn luôn có đó nhưng phải cần dây dẫn điện mới tác động được, th́ năng lực tinh thần phải cần ḷng tin và sự tham gia tự nguyện mới phát huy được.

Thế nhưng khi ta tin rằng, tâm thức không phải chỉ là sản phẩm của các chức năng vật lư hay phản ứng hoá học, mà là yếu tố cơ bản xây dựng nên đời sống, là người sáng tạo và tŕnh bày ra cơ thể, chứ không phải kể nô lệ cho nó th́ chúng ta không thể có kết luận nào khác hơn rằng.

Có sức khoẻ là nhờ có một tâm thức thăng bằng, ḥa hợp; và bệnh tật hẳn phải đi từ một tâm thức rối loạn, mất cân đối. Ngay các kinh sách nguyên thủy của Phật giáo đă xem thức là yếu tố đi trước mọi thứ và là điều kiện tiên quyết của mọi tồn tại.

Người Tây Tạng, thay v́ chống lại các hiện tượng thể chất, họ t́m cách giải quyết tận gốc rễ bằng cách chữa cho tâm thức. Điều này có thể xảy ra bằng ảnh hưởng trực tiếp của một vị thánh nhân hay nhờ niềm tin tưởng tha thiết không qua vật dụng cúng dường, biểu tượng, lễ nghi… chúng có thể uốn nắn lại tâm.

Dù ta có tin hay không nơi khả năng tâm lư của vật chất, tức là khả năng tác động của nó về mặt tâm lư khi chủ động tập trung lên nó, th́ sự thật là luôn luôn có một mối hỗ tương giữa tâm và vật, thậm chí giữa các dạng vật chất với nhau; v́ cuối cùng chúng cũng chỉ là tác trạng thái năng lượng đă ổn định, đă tụ hội.

V́ thế ư niệm chuyển hoá chất liệu không phải chỉ Nhà thờ Cơ Đốc giáo mới có, mà của tất cả mọi nghi lễ đều có, trong đó một số chất liệu chịu sự điều động của năng lực do sự tập trung sinh ra, khi th́ do những hành động huyền bí, khi th́ nhờ thiền định tịnh khẩu của nhiều năm mà người Tây Tạng theo phép tu lung-gom thực hành.

Tất cả những điều này trở nên dễ hiểu khi Tomo Gésché Rimpotsché, sau mười hai năm dài thiền định, tịnh khẩu, ông đă trở lại với thế gian. Ông có một sức chữa bệnh tới mức mà các hạt tễ do ông bào chế qua lễ nghi và phát rộng cho mọi người đến xin phước lành nơi ông, chúng được quư trọng khắp mọi nơi tại Tây Tạng, quí hơn cả những hạt trai quư nhất.

Khi tôi nhận được ba hạt này sau lễ điểm đạo th́ bạn Géché Tubden Scherab, người có mặt trong buổi lễ, xin tôi hăy chia sẻ cho ông. Ông kể tôi nghe chúng cứu ông như thế nào trong những lúc đau nặng hết thuốc chữa, chúng có một sức chữa lành ngay tức khắc.

V́ hồi đó chưa hiểu hết ư nghĩa sâu xa quà tặng của vị đạo sư và xem đó chỉ là thuốc men thông thường mà ḿnh không mấy khi dùng đó là không kể tôi tin thuốc tây hơn tôi tặng hai viên cho người bạn đó. Tiếc thay về sau tôi cũng không nhớ để xin thầy cho thêm, cho nên ngày hôm nay tôi chỉ c̣n một viên duy nhất. Chỉ nhiều năm sau tôi mới biết giá trị của nó.

Câu chuyện sau đây có thể làm sáng tỏ ư nghĩa của viên thuốc. Vào năm 1949, lúc tôi cùng Li Gotami trên đường về từ tây Tây Tạng, chúng tôi thấy tại Rampur thủ phủ của bang Baschar do một vương tước theo Ấn Độ giáo trị v́, một đền thờ Tây Tạng với đầy đủ các thứ, gồm tam tạng kinh điển, các thứ pháp khí và một bánh xe cầu nguyện khổng lồ, v́ dân chúng Rampur hoàn toàn theo Ấn Độ giáo.

Chúng tôi lấy làm lạ tự hỏi ai đă xây thánh thất này, vai giữ ǵn quét tước và sau đó khám phá ra đó là nhờ vị tiểu vương tại Rampur, vị này chính là người cho xây và coi sóc ngôi đền này.

Nguyên vị tiểu vương suốt bao năm không có con và v́ vậy không có ai nối ngôi. Mặc dù vị này đă nhờ các vị Bà-la-môn cố vấn và tổ chức nhiều giới đàn cầu tự, nhưng mong ước của ông không thành. Ngày nọ có một vị lạt ma tôn quí cùng đoàn tùy tùng đi ngang qua Rampur, trên đường đi thăm thánh địa Ngân Sơn(30); và v́ tên tuổi của ông quá lớn nên hàng ngàn người, nhất là những người thuộc vùng phía bắc, t́m đến lễ bái và xin ông ban phước.

Vị tiểu vương không bở lỡ cơ hội, mời lạt ma vào cung điện và than thở số phận của ḿnh. Vị tiểu vương hứa với lạt ma sẽ cho xây một đền thờ Phật giáo với đầy đủ kinh điển, nếu lạt ma ban phước cho ông sinh được người kế vị.

Vị lạt ma hứa giúp nhưng đ̣i nhà vua phải cho ông một chỗ không ai quấy rầy để thiền quán và để thực hành nghi lễ, nơi ông sẽ bào chế thuốc cho vua và hoàng hậu uống. Vị tiểu vương liền cho xây một toà nhà đặc biệt ngay trên nền cung điện và cấm không cho ai lại gần có thể làm phiền lạt ma.

Thế nhưng có một tôi tớ của nhà vua không kiềm chế được sự ṭ ṃ, lợi dụng đêm tối lẻn vào toà nhà xem vị lạt ma làm v́. Chắc hẳn anh ta đă nghe về bí mật của các viên thuốc và t́m biết cách bào chế, v́ nghe đâu cần nhiều chất liệu khó kiếm, người thường không thể có được.

Khi anh ta nh́n được vào bên trong th́ thấy vị lạt ma, xung quanh là một số nhân trạng kỳ dị, thiên nhân có, ma quỉ có, anh sợ quá ngất xỉu. Ngày hôm sau người ta thấy anh nằm trước bậc cầu thang vào nhà. Khi tỉnh dậy anh ta nói như người bị lên cơn sảng về những ǵ ḿnh đă thấy một cách đầy sợ hăi. Vài giờ sau anh ta chết.

Sau câu chuyện này không ai dám lai văng đến đó nữa, c̣n vị lạt ma th́ ch́m sâu trong thiền định. Người ta chỉ nghe tiếng chuông trống, lần với tiếng tụng niệm rù ŕ của vị lạt ma.

Tới ngày đă định, vị lạt ma rời nhà, ban phước cho vị tiểu vương và hoàng hậu và chỉ đưa cho họ các viên thuốc và chưa đầy một năm sau th́ một hoàng nam ra chào đời. Để cảm tạ vị lạt ma này, nhà vua giữ lời nguyện và cho xây đền. Ông gửi một phái đoàn đến Tây Tạng để in lại kinh sách được cất giữ tại Narthang và thỉnh các pháp khí cần thiết cho một ngôi đền.

Sau khi chiêm bái đền xong, chúng tôi đến cung điện để xin xem toà nhà mà vị lạt ma đă ở. Trong dịp này chúng tôi hỏi người giữ nhà tên của vị lạt ma. Câu trả lời là: "Tomo Géché Rimpotsche".

Khắp nơi trên đường từ Tây Tạng đi Rampur chúng tôi đều nghe những câu chuyện kỳ diệu về chuyến hành hương của Tomo Géché Rimpotsché, đó là một biến cố đă cho hàng ngàn người niềm tin và hy vọng mới mẻ.

Bất cứ chỗ nào dừng lại, ông đều giảng pháp Phật, chữa bệnh cho kẻ ốm đau, nâng đỡ người hoạn nạn đă t́m đến với ông. Tại làng Poo, biên giới Tây Tạng, người ta khiêng một bé gái gần chết lại cho ông. Bé đă ốm từ lâu và t́nh trạng vô vọng đến nỗi thân nhân ngại đem lại cho ông v́ sợ đi giữa đường cô bé sẽ chết.

Thế nhưng người trong làng tin vào sức mạnh kỳ diệu của Tomo Géché Rimpotsché, nên họ thuyết phục cha mẹ bé hăy liều đi. Khi bé đến nơi ở của vị lạt ma, hầu như cả làng đều có mặt. Trước sự chứng kiến của đám đông. Tomo Géché ra lệnh cho cố bé hăy vươn người đứng dậy. Mọi người kinh ngạc thấy bé mở mắt ra đứng dậy, và sau khi nhận phước lành của lạt ma, bé đi ra khỏi nhà, như chưa hề bao giờ đau ốm.

Lúc chúng tôi đến Poo th́ cô bé này c̣n sống và nhiều người chứng kiến bảo đăm đây là sự thực. Chúng tôi không có lư do ǵ nghi ngờ điều này cho dù Tomo Géché không phải là thầy của chúng tôi cũng thế, v́ hầu như không có nơi nào ông đi qua mà mọi người không nhắc ông bởi cặp mắt ngời sáng và ḷng tôn kính sâu xa, dù nhiều năm đă trôi qua và bậc đạo sư đă rủ bỏ tấm thân ḿnh rồi.

Mặc dù sức tưởng tượng của nhân gian đă khoác một tấm màn huyền thoại lên những chuyện thực nhưng vẫn rơ ra một điều là Tomo Géché Rimpotsché phải có năng lực chữa bệnh phi thường và nhân cách của ông đẫ để lại nơi người gặp một ấn tượng không thể xoá mờ.

Điều này qua nhiều câu chuyện đă chứng thực. Sinh tiền, cuộc đời của ông đă là một huyền thoại. Tất cả những ai biết đến ông đều rơ là huyền thoại bao quanh một thánh nhân thường chứa đựng nhiều sự thực, chứ không như đầu óc hay nghi ngờ của trí thức phán đoán và ngay trong thời đại khô cằn này của chúng ta vẫn có thánh nhân xuất hiện trên trái đất như trong những ngày của Phật Thích-Ca hay Chúa Jesus, của Mohammed hay vị thánh Franz von Assisi.

H́nh ảnh của Tomo Géché Rimpotsché cho thấy một cách thuyết phục, là ngay những kẻ đă tu phép du già nghiêm khắc và sống nhiều năm trong t́nh trạng hoàn toàn độc cư, vẫn không mất mối liên hệ nội tại với người đời, mà càng sẵn sàng phụng sự cao độ cho xă hội loài người.

Trong đời sống tâm linh của người Tây Tạng, lạt ma đóng một vai tṛ lớn hơn, có ảnh hưởng sâu sắc hơn trong dân chúng so với các nhà thông thái chỉ biết lo dạy học hay nghiên cứu kinh điển.

Chức năng của một vị thầy tâm linh, tức là một đạo sư, theo quan điểm Tây Tạng không nhằm việc đưa ra một đạo lư ǵ đặc biệt hay giảng giải những nguyên lư cơ bản của đạo Phật truyền thống, mà là một sự bày tỏ họ đă chứng thực được mục đích cao nhất và con đường họ đi là thể thực hành được.

Ngay một hành giả giữ tịnh khẩu, như một ngọn đèn, cũng có thể phát ra được những tia sáng tri kiến soi màn vô minh và ảo giác. Chỉ cần sự có mặt của họ, chỉ cần họ hiện hữu trong ánh sáng của giác ngộ là đủ để cho người lạc lối trong bóng tối lấy lại được niềm tin và tinh tấn.

Đối với người b́nh thường th́ tù biệt giam là h́nh phạt nặng nhất. Một tâm thức chưa tập luyện sẽ tan vỡ dưới sức ép của sự cách ly mọi tiếp xúc của con người. Những ai đă qua khỏi thử thách đó mà không thiệt hại ǵ, chứng tỏ rằng họ có một tiềm năng phi thường.

Thế nhưng năng lực đó không phải là vấn đề của sức mạnh thể chất hay tâm lư, mà là tính tự tại và tri túc của tâm, nó đ̣i hỏi một nội tâm giàu có, một tư duy độc lập và kỷ luật ư chí, mà những thứ đó chỉ đạt được thông qua một phép tu học lâu dài và chu đáo.

Thế nên người Tây Tạng có lư khi họ kính trọng và tin tưởng ở đạo sư, người có sức mạnh đạo đức và tâm linh đă đạt được trong sự cô độc thiền định và tu tập, hơn xa những kẻ nói năng lưu loát, có đầu óc khôn khéo.

Chỉ những ai đă đến với báu vật của thế giới nội tại, kẻ đó mới bỏ được của cải thế giới bên ngoài. Muốn làm được như thế, họ phải có ch́a khoá mở được kho tàng bên trong. Ch́a khóa không khác ǵ hơn là các phép tu (nghi quĩ) mà hành giả phải tu học đưới sự hướng dẫn của một vị thầy.

Thông qua thần chú của thầy cho mà hành giả liên hệ được với thầy và các bạn đồng môn tâm linh đi trước ḿnh. Nhờ vào nghi quĩ mà hành giả liên hệ được với thế giới nội tại.

Và dần dần, thế giới này sẽ phát huy và sẽ trở nên thực tại ngày càng lớn, cho đến lúc nó phủ kín hành giả như một man-đa-la thánh thiện mà tại trung tâm của nó, hành giả cảm nhận một niềm an lạc, vượt xa mọi vui thú thế gian mà họ đă bỏ lại bên ngoài cái thất của ḿnh.

Hành giả sẽ không c̣n chút thời gian nhàn rỗi. Ngày tháng của họ sẽ tràn ngập việc làm họ sẽ không thụ động ngồi chờ cái chết hay bất cứ linh ảnh ǵ, mà dùng sự sáng tạo để xây dựng nên một thế giới mới, thâm nhập vào nó, làm nó vững chắc, đó là thế giới dựng nên từ những yếu tố cơ sở luôn luôn hiện hữu của một thực tại sâu xa và bao trùm.

Trong quá tŕnh sáng tạo này, hành giả tự giải thoát ra khỏi những dấu vết cuối cùng của sự tham chấp hay vướng mắc nơi bất cứ sắc thể ǵ, v́ bây giờ toàn bộ dàn nhạc của sự sáng tạo đă thuộc về người đó.

Và như một nhạc trưởng (31) lớn không bao giờ vướng mắc nơi nhịp sáng tạo của chính ḿnh v́ bây giờ họ đă là chủ và bất cứ lúc nào cũng dùng ư chí cho chúng sống lại cả họ tự thấy ḿnh tự tại và làm chủ tất cả mọi sắc thể, và đồng thời thấy ḿnh là trung tâm thầm lặng của vũ trụ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 782 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 10:27am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG

VỊ ẨN TU TẠI LATSCHEN


Từ những điều đă thấy, tôi nghĩ rằng suối nguồn của mọi cảm hứng không phải là những tu viện to lớn, khối tăng lữ đồ sộ hay đại học tôn giáo, như Sera, Drepung và Ganden, các cơ sở tri thức lớn nhất của Tây Tạng.

Mà những cuộc sống độc cư thầm lặng, trong khe thác hay rẻo sâu vào các dăy núi đầy uy lực hay trong thung lũng xa vắng, hoặc đỉnh cao không mấy người lui tới như đỉnh chim ưng trên mỏm đá, hay trên các cao nguyên vắng người bên cạnh bờ hồ yên tĩnh, xa hẳn đường đi các đoàn lữ hành, xa chợ búa đầy tiếng ồn ào mua bán.

Từ những chốn độc cư và những nhóm nhỏ người tập hợp chung quanh một vị đạo sư để tu tập thiền quán mà sinh ra những thánh nhân và những nhà minh triết Tây Tạng, trong các vị đó người ta t́m thấy niềm cảm hứng và những nơi chốn thầm lặng này chính là nơi mà ai muốn t́m sự minh triết và giải thoát cần luôn luôn quay lại.

V́ lư do này mà các đại tu viện cũng có một số những thất thiền định, cũng như nhiều chỗ độc cư nằm cao hơn hơn hẳn, trong những dăy núi gần đó. Người độc cư vĩ đại nhất Tây Tạng là một nhà thơ, thánh nhân và du già sư Milarepa 1052-1135 sau Công Nguyên.

Người sống gần hết đời ḿnh trong hang động và trong các dăy núi không leo tới được. Theo gương ông, đệ tử của phái kargyutpa đến ngày hôm nay vẫn coi trọng việc tịnh khẩu và thiền quán hơn kiến thức sách vở và các cuộc thảo luận hàn lâm.

Đời của ông phải là mẫu mực về ảnh hưởng của một con người lên thế gian, dù người đó có sống cách ly bao nhiêu. Đóng góp của ông cho nền văn hóa và đời sống tâm linh Tây Tạng mang tính cách trực tiếp và độc đáo, thật là vô song trong cái đẹp nên thơ và ḷng thiết tha quên ḿnh.

Một thí dụ đáng chú ư của một tu sĩ trong thế kỷ này của chúng ta là sư trưởng tại Latschen, người ẩn tu tại Latschen và thất độc cư của ông nằm tại biên giới của bắc Sikkim và Tây Tạng. Hầu tước Roinldshay về sau là Marquis of Zetland, ngày trước là thống đốc Bengal, viết những ḍng sau đây về ông:

"Suốt hai mươi sáu năm, thói quen của ông là thỉnh thoảng rút lui khỏi thế gian, để sống một cuộc sống thiền định thầm lặng trong một hang đá hẻo lánh nằm trên một núi đá cao khó tới, trên những dăy núi như phi thực, cao hơn hẳn trên đường ṃn đi Thangu. Một trong những thời gian rút lui đó kéo dài đến năm năm, lúc này ông không gặp một bóng người nào và giữ cho thân tâm tồn tại bằng thực phẩm tối thiểu".

Hầu tước Ronaldshay viết những ḍng này cách đây ba mươi năm trong tác phẩm Lands of the Thunderbolt (Xứ sở của sấm sét), trong đó ông kể lại những câu chuyện với các tu sĩ mà ông có cảm giác rằng các vị này đă thực chứng t́nh trạng giải thoát.

Ông nói thêm: "Điều chắc chắn là lư do làm các vị đó xa lánh người đời và bất cần thể xác yếu đuối để sống hàng năm trong sự cô quạnh hoàn toàn, lư do đó phải mạnh mẽ phi thường. Hiển nhiên là một cuộc sống như thế đáng được khâm phục và tôn trọng".

Ta có thể tự hỏi, liệu một sự nỗ lực và thành quả như thế phải chăng có ích cho thế gian hơn, nếu người độc cư đó trở về với xă hội để mang lại lợi ích cho con người bằng sự minh triết đạt được. Điều này cũng phù hợp với cách làm của các vị chuyển pháp khác. Thế nhưng vị sư trưởng ẩn cư chọn một con đường khác.

Một ngày nọ có một phụ nữ châu âu t́m đến động của ông và xin làm học tṛ. Vị tu sĩ chỉ vào một cái động, không xa động của ḿnh bao nhiều và trả lời: "Nếu bà chịu ở trong đó ba năm, không đ̣i về". Người phụ nữ chấp nhận điều kiện và ở lại ba năm thực, bà kiên tŕ sự cách ly hoàn toàn và cái lạnh của ba mùa thu đông Himalaya với nhiệt độ bắc cực.

Người phụ nữ đó, về sau trở thành đệ tử của vị tu sĩ, không ai khác hơn là nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp và nhà Đông phương học Alexandra David-Neel, mà sách của bà được sự quan tâm lạ thường của người đọc nên được dịch ra tất cả các thứ tiếng.

Kiến thức sâu xa toát ra từ những sách do đă cho phương Tây lần đầu tiên có một cái nh́n khách quan về các phép tu tâm linh lâu nay mà người ta chưa biết tới và trạng thái tâm thức của các bậc thầy thiền định Tây Tạng cũng như học tṛ của họ.

Kiến thức đó chính là kết quả của ba năm học tập và thiền định dưới sự hướng dẫn của tu sĩ vĩ đại tại Latschen, người không hề rời thất của ḿnh giữa đỉnh núi tuyết Himalaya mà t́m được một cách chắc chắn phương tiện thích hợp nhằm để lại cho thế giới gia sản tâm linh của ḿnh.

Với từ "gia sản", tôi không nói về sự nhắn gửi có tính chất riêng tư hay việc truyền bá một giáo pháp, mà là thông điệp để mở ra cho thế giới thấy kho tàng cất giấu nền văn hóa tâm linh của Tây Tạng và kinh nghiệm tôn giáo của ḿnh.

Nếu trong những điều đạt được của những năm cô quạnh đó được bà kể lại với những lời nhiều ư nghĩa: "Tâm thức và cảm quan tinh tế vượt hẳn qua một cuộc sống chỉ chuyên quán tưởng, gồm quán sát và phản ánh liên tục. Nếu không trở thành một bậc thấu thị th́ ít nhất người ta cũng biết rằng bấy lâu nay ḿnh là kẻ mù".

Đó là đích thực là hạt nhân của vấn đề: vị tu sĩ chuyên quán tưởng không hề nhắm mắt và quay lưng với thế gian mà mở mắt ra và trở nên tỉnh giác cao độ; thay v́ làm cùn lụt giác quan th́ nơi họ phát sinh ra một khả năng cảm nhận cao hơn và tri kiến sâu hơn về tự tính đích thực của thế giới và chính ḿnh.

Và điều này cho họ thấy, cũng điên rồ như nhau, những ai muốn bỏ trốn thế giới hay chạy theo nó: cả hai thái cực này đều có chung một gốc rễ, đó là ảo giác cho rằng thế giới là một cái ǵ tách hẳn khỏi chúng ta. Đây là ảo một giáo lư mà tu sĩ Tây Tạng thường dạy học tṛ, một giáo lư đặt nền tảng trên triết lư đạo Phật về tính Không, đó là cái Không bao trùm mọi vật, kể cả tư tưởng.

Đó là giáo lư mà vị ẩn cư chỉ cho tôi thấy một cách đầy ấn tượng khi tôi viếng ông trong thất trên vùng Thangu, trên một độ cao khoảng 4000 mét. Vị tiểu vương Sikkim mà tôi là khách của ông năm 1937, khi nghe tôi sẽ viếng, người tu sĩ ở Thangu đă sẵn ḷng cho tôi người và ngựa, lương thực cũng như giấy phép trên đường đi, tôi muốn ở đâu th́ ở, trong nhà khách hay tu viện.

Từ lâu tôi đă có ư muốn thăm vị tu sĩ này và v́ ông dă trên bảy mươi, đây hẳn là dịp duy nhất và cuối cùng để được gặp tận mặt người này, người đă có một ảnh hưởng sâu xa lên đời sống tâm linh trong xứ sở của ông. V́ thế tôi vui ḷng làm một chuyến du hành hai tuần trên lưng ngựa qua những ngọn núi cao nhất thế giới, Sikkim có nhiều núi cao hơn 7000 mét, nhiều hơn bất cứ nước nào khác có cùng diện tích.

Thậm chí chấp nhận cả khả năng thoái thoát của ông đóng cửa, không tiếp khách khi phải thiền định dài ngày cũng chẳng làm tôi ngại. Một điều đáng lạ khác mà tôi phải chịu là mùa đông sắp tới và quả nhiên hầu như chúng tôi phải kẹt trong tuyết, đúng vào ngày của chặng đường cuối chuyến đi th́ tuyết đă đóng đầy đường.

Người ta đă khuyên chúng tôi hăy đợi người đưa trâu đến dọn tuyết, chứ ngựa không đi qua nổi. Thế nhưng tôi không đợi được nữa v́ nghĩ bây giờ mà không xong th́ sẽ không bao giờ và ai dám nói là ngày hôm sau tuyết không đổ dày hơn? V́ thế mà tôi không để ai ngăn và cuối cùng mặc dù gặp trở ngại, tôi vẫn tới được Thangu.

Tôi t́m được một nhà nghỉ lạnh ngắt, nằm chơ vơ trên vùng cao nguyên. Thất của vị tu sĩ nằm cao hơn trên triền núi sau nhà nghỉ. V́ quá lạnh và đă trễ để làm được cái ǵ, tôi đi ngủ sớm, hy vọng hôm sau thăm được vị ẩn cư.

Trước khi di vào giấc ngủ, một chuyện lạ xảy ra cho tôi: Tôi có cảm giác có ai đó nắm giữ ư thức của ḿnh và không những chỉ ư thức mà cả thân thể lẫn ư định. tôi không điều khiển được tư tưởng của ḿnh nữa, hầu như ai nghĩ ngợi giùm tôi, như có ai quyết định thay tôi, nên dần dần tôi như mất cái riêng tư của chính ḿnh, khuất phục trước một uy lực khác lạ.

Năng lực này, như chút ư thức cuối cùng của tôi mách bảo, không ai khác hơn là vị tu sĩ, người đang hướng sự chú ư về tôi có lẽ hoàn toàn không cố ư và chiếm lấy thân tôi, nhờ sự tập trung cao độ của ông cũng như sự tự nguyện của tôi trong t́nh trạng nửa ngủ nửa thức.

Tôi cảm nhận sự hiện diện này của vị tu sĩ không có ǵ là thù nghịch hay là ác ư mà ngược lại nó cho tôi một cảm giác yên ḷng và kỳ diệu để ḿnh cứ giữ yên trong sự thu hút của năng lực càng lúc càng mạnh này.

Tôi thấy ḿnh như một mảnh tinh cầu bị hút vào trong quĩ dạo của một thiên thể cho tới lúc tôi phải buông, phải "rơi", để chịu sự tan vỡ hoàn toàn. Đột nhiên tôi đâm ra sợ hăi không sao nói được, ḿnh sẽ đánh mất tự tính của ḿnh thôi, ḿnh sẽ bị tống cổ ra khỏi thân thể và rơi vào một cơi hư vô không tên tuổi, không có đường trở lui.

Với sức mạnh cuối cùng và sự liều lĩnh trong tuyệt vọng, tôi nhảy bật ra khỏi giường, t́m cách chống lại thế lực này, nó xem ra cũng t́m cách giữ tôi lại. Tôi thắp một ngọn nến, lấy giá vẽ và một miếng than (những thứ tôi luôn luôn mang theo).

Nhằm chắc chắn ḿnh c̣n là ḿnh, tôi hối hả tự vẽ chân dung ḿnh, nhờ vào miếng gương cạo râu. Cùng với công việc đó th́ uy lực nọ cũng rời bỏ tôi và khi bức ảnh xong th́ tôi lấy lại được sự kiểm soát chính ḿnh.

Sau khi ăn sáng, tôi leo lên thất và được vị ẩn tu chào đón rất thân thiện. Sau khi nói vài lời xă giao và uống trà nóng, trà mà vị ẩn tu rót từ cái b́nh rất cũ, để trên một ḷ đất có than hồng vào chén gỗ của tôi (ở Tây Tạng người ta luôn luôn mang theo chén gỗ này), tôi bày tỏ ḷng mến mộ của ḿnh đối với các tác phẩm của bà David-Neel và ḷng khâm phục làm sao bà có thể chịu nổi đời sống độc cư qua nhiều năm như thế.

Toát ra một niềm vui khi nghe nhắc đến tên bà, ông lôi ra từ trong một thùng để bên cạnh ghế một mẩu báo cũ với ảnh của bà Alexandra David-Neel. Trong lúc đó tôi nh́n h́nh đó th́ ông nhắc lại thời gian bà học đạo với ông và khen sự kiên tŕ và cá tính mạnh mẽ của bà.

Ông hỏi thầy tôi là ai và sau khi biết là Tomo Géché Rimpotsché (lúc đó đă mất) th́ ông lấy từ tay tôi tượng Phật được thầy cho và từ đó luôn mang theo ḿnh, để lên đỉnh đầu một cách kính trọng. "Ngài là một vị đại lạt ma" ông vừa nói vừa nh́n tượng, "một vị lạt ma vĩ đại".

Khi nghe tôi kể thời gian tu học tại Sri-Lanka, ông cười và chỉ cái bím tóc của ḿnh và hỏi Phật tử ở đó nghĩ ǵ khi biết đến ông, kẻ không bao giờ cạo đầu và lại là người có vợ con. Vợ ông đă chết từ nhiều năm trước.

Tôi nói, đồng t́nh với nụ cười của ông, "Bản thân Phật cũng có vợ có con trong đời này. Nhưng phần lớn người đời lại phụ thuộc nơi bề ngoài. Họ không biết rằng không phải chiếc áo hay đầu không tóc làm nên vị thánh nhân, mà là sự chiến thắng những ham muốn và ưa thích vị kỷ".

"Và tri kiến là cái sinh ra từ sự chứng thực của thực tại cao nhất trong thiền quán", nhà ẩn tu nói thêm. "Đạo lư và thiện mỹ đơn thuần mà không có trí huệ cũng vô ích, như sự hiểu biết mà vắng mặt ḷng tốt".

Điều này dẫn dắt chúng tôi qua đề tài thiền quán và cá phương pháp khác nhau cũng như kinh nghiệm về nó; và tôi kể lại chuyện đêm qua. Thế nhưng v́ hỗ thẹn không dám thú nhận đă sợ hăi như thế nào khi đứng trước cái Không vô đáy, tôi để dịp này đi qua và thay vào đó xin nhà ẩn tu hăy viết vài chữ trong cuốn sổ thiền định của tôi để kỷ niệm lần gặp gỡ và động viên cho những lần thiền định về sau.

Lúc đầu ông ta chần chừ và nói tuổi già sợ tay không viết không c̣n trơn tru được nữa, thế nhưng bỗng nhiên ông cầm bút tre chấm vào muội đèn và viết một trang vào cuốn sổ tay của tôi bằng chữ Tây Tạng.

"Đây", ông nói, "đây là đề tài thiền quán cho anh: Mười tám dạng của tính Không!"

Th́ ra ông đă biết điều ǵ xảy ra cho tôi tối hôm qua và tôi đă t́m cách giấu giếm. Tôi xúc động tột độ. Khi chia tay và khi hai tay của vị ẩn tu để trên đầu ban phước lành, tôi biết ḿnh đă gặp ông không phải bằng da bằng thịt mà trong tâm thức một cách đă cho thấy uy lực của sự tập trung và ḷng nhân hậu của ông.

Tôi không bao giờ gặp ông nữa v́ sau đó không lâu ông theo chân thầy tôi. Thế nhưng cứ mỗi lần thấy bức h́nh tự họa khó quên trong đêm nọ, tôi biết, bức h́nh không những chi diễn tả chính ḿnh mà cả vị ẩn tu vĩ đại đó mặc dù nó chứa đựng nét mặt của tôi, nhưng tôi đă nh́n ḿnh bằng cặp mắt của một người đă thực chứng tính Không to lớn.

Nhờ thế mà chuyến đi không phải vô bổ và tôi trở về với đầy sự biết ơn trong tim biết ơn vị ẩn tu cũng như vị tiểu vương đă giúp tôi thực hiện được chuyến du hành, qua đó mà ông cũng có dịp bày tỏ ḷng hâm mộ và kính trọng đối với vị tu sĩ.

Tôi sẽ không bao giờ quên cái an tịnh của không khí ẩn cư giữa dăy núi tuyết cũng như lời giáo hóa của ông cho tôi; đó là chúng ta sẽ không thể đối diện với cái Không to lớn một khi ta chưa đủ sức mạnh và kích thước để làm đầy nó với chính tự tính của ḿnh.

V́ tính Không phải là sự phủ nhận về cá thể hạn chế chúng ta, mà là cái bao trùm toàn thể, không thể dùng giác quan để nắm bắt, nó như bà mẹ vô tận của không gian, người sinh ra mọi sắc h́nh, nuôi dưỡng và bao bọc lại trong ḿnh, trong đó ánh sáng vĩnh viễn tuôn trào không bao giờ tắt.

 

SỰ GIẢI CỨU HUYỀN DIỆU



Trước khi trở về Gangtok, tôi đến thăm lại đền của vị tiểu vương ở Podang. Vị sư trưởng, người có một khuôn mặt đặc biệt đẹp và trí tuệ, nhắc đến tên bà Alexandra David-Neel lúc bà mới đến đây. Tôi ở ngay trong pḥng ngày xưa bà đă ở, trong đó th́ thầm một giọng nói đáng sợ của chàng tiểu vương trẻ tuổi (tiền bối của vị tiểu vương ngày nay Taschi Namgial mà tôi là khách) cảnh cáo sự chết sắp tới và sự thất bại của công cuộc cải cách tôn giáo của ḿnh.

Như những chàng thanh niên với đầu óc Âu tây, chàng tiểu vương nọ thấy ḿnh phải giải thoát nước ḿnh ra khỏi cái nhà mà chàng cho là ḷng tin nhảm nhí: chàng không biết rằng làm như thế chỉ mang lại sự sụp đổ mọi giá trị truyền thống.

Thế nhưng chúng ta vẫn c̣n sinh động, mặc dù có thể bị chôn vùi dưới cỏ dại của sự hiểu lầm nhân gian và lễ nghi (điều quá tự nhiên trong một đất nước chỉ toàn bộ lạc hoang sơ), điều đó hiện rơ với tôi khi tiếp xúc với nhà trí thức Bermiak Rimpotsché, anh của vị thư kư riêng cho nhà vua. Kasi Bermiak.

Vị Rimpotsché, cũng như người em (bạn của tôi nhiều năm) cho thấy rơ rằng, nếu một sự cải cách tôn giáo trong nước này có cần thiết chăng nữa th́ nó chỉ có thể sinh ra từ sự đánh giá lại những giá trị văn hóa truyền thống mà trên đó nền Phật giáo Tây Tạng được xây đắp, chứ không bao giờ có sự du nhập các cách tư duy xa lạ, dù cho cách tư duy có gần gũi với các nguồn gốc lịch sử của Phật giáo.

Những bằng cớ lịch sử hay lư luận không bao giờ đóng vai tṛ quyết định trong đời sống tôn giáo, v́ đời sống này chỉ tùy thuộc sự chứng thực và h́nh dung sáng tạo của tín đồ, chứ không tùy thuộc ǵ vào các "sự thực" trừu tượng và kết luận logic.

H́nh ảnh của Đức Phật xuất hiện trong tâm của nhà thơ và tín đồ, thậm chí h́nh vẽ của Ngài trong tranh tượng được hàng bao thế hệ nghệ nhân tạo nên từ thiền quán sâu xa, có ảnh hưởng lớn hơn hẳn trong sự phát triển, so với mọi lư thuyết triết học, chúng chỉ cố tŕnh bày kinh nghiệm trong ngôn ngữ của lư luận và trong dạng của qui luật và hệ thống.

Những tŕnh bày đó hiển nhiên không phải là giá trị; ngược lại chúng cũng là sự cần thiết của tâm, chức năng của chúng ta để tiếp thu và xếp đặt những ǵ đă chứng nghiệm.

Trên đường Podang, chuyến đi của tôi suưt bị hiểm nguy. Khi leo ngược lên tu viện, xuyên qua rừng già, tôi phải xuống ngựa, đó là một con bạch mă không chút bợn màu, mà anh giữ ngựa cho hay nó chính là con ngựa của vị tiểu vương. Tôi cho con bạch mă đi sau tôi, cùng với con ngựa kia của người giúp việc (người này vừa lo nấu ăn vừa làm đủ các chuyện khác), anh cũng nghe lời mà đi bộ.

Đường bị hẹp và dọc theo các hố sâu và khe núi. Bởi thế tôi nhắc anh nài ngựa rằng phải nối đuôi nhau mà đi, đừng đi song song, v́ ngựa có thói hích lẫn nhau khi đường chật hẹp. Tất cả đều tốt được một đoạn, tôi tha hồ ngắm cảnh rừng núi hoang vu toàn đá và rừng già. Thế nhưng khi đường quẹo lên một dốc đá ngược và tôi vừa định nhắc nhở th́ đă thấy hai con ngựa đi song song; và tôi chưa kịp mở miệng th́ con bạch mă đă trượt chân rơi xuống hố sâu.

Tôi lặng người v́ sợ và tiếng kêu của anh nài ngựa xác nhận nỗi lo của tôi: con ngựa đă bị rơi mất rồi. Tôi chạy lui chỗ ngựa rơi và lạnh người khi nghĩ đến thân thể tan tành nếu rơi xuống đáy vực. Vị tiểu vương sẽ nói ǵ đây và số phận của người nài ngựa sẽ thế nào mà v́ sự sơ sẩy của anh để cho chuyện này xảy ra?

Vừa khóc vừa kêu, anh ta đă ḅ một đoạn xuống vực, c̣n tôi vội ḅ theo. Cuối cùng th́ chúng tôi thấy thân con ngựa trắng dính trên một bụi tre trên đáy hố. Thân con ngựa không nhúc nhích. Nó c̣n có biết ǵ chăng, một chút động đậy đă xô nó xuống vực hay nó đă chết, chân cẳng găy rời?

Chúng tôi như bị hành hạ bởi nỗi lo cho đến lúc ḅ gần đến bụi tre và vui mừng khôn xiết khi thấy con ngựa vẫn sống, không hề hấn ǵ. Chúng tôi thấy có một phép lạ đă xảy ra nhưng cũng thêm phép lạ khác là chúng tôi đă đưa nó ra khỏi t́nh trạng nguy hiểm này, mà chỉ với một động tác sai là đủ để nó rơi vào cơi chết.

Trong lúc đó bản thân chúng tôi như không có một chỗ đứng chắc chắn dưới chân. Con ngựa dường như có giác quan thứ sáu và làm theo việc cứu giúp của chúng tôi, nó như hiểu tư tưởng và ư định của người, thậm chí làm trước.

Cuối cùng khi đứng được bốn vó, nó leo lên dốc một cách khéo léo, tới được đường đi. Ḷng thầm cám ơn sức mạnh nào đă giúp thoát nạn, chúng tôi lên đường đi tiếp Podang. Khi các tu sĩ tại đó nghe qua điều đă xảy ra, họ thán phục những hộ sĩ vô h́nh đă giúp chúng tôi thoát hiểm.

Trong lần trở lại Gangtok, tôi có dịp nghiên cứu các chi tiết quư giá của nghệ thuật và pháp khí Tây Tạng trong ngôi đền xinh đẹp gần điện của vị tiểu vương cũng như in lại một số kinh sách viết tay và ấn bản gỗ của đền Entsche Gompa để dùng về sau.

Các vị tu sĩ của cả hai ngôi đền đều rất thân thiện và sẵn ḷng giúp đỡ, nhất là không phải chỉ v́ nhờ vị tiểu vương gởi gấm mà chủ yếu nhờ Kasi, một người Sikkim rất đáng quí mà đền Entsche Gompa thuộc về gia sản của gia đ́nh ông.

Năm 1932 khi đến Gantok lần đầu để đi Tây Tạng, tôi là khách của nhà Entsche Kasi. Ông cũng như phu nhân tiếp tôi rất thân t́nh, xem như người trong nhà. Trong dịp này tôi mới được biết là lạt ma Yongden cũng từng ở trong nhà này lúc c̣n thiếu niên, xin giúp việc để kiếm tiền ăn học, v́ ông xuất thân từ gia đ́nh nghèo khó.

Hai ông bà Enstche Kasi hết sức ngạc nhiên nghe tôi kể Yongden về sau trở thành lạt ma, đi truyền giảng đạo pháp và tiếng tăm của ông khi viết sách cùng với Alexandra David-Neel. Ngay tại nhà này, họ đă làm quen với ông từ nhỏ và nhận làm con nuôi.

Quyết định đó đă mang lại kết quả lớn lao, nó đă thay đổi hẳn cuộc đời Yongden cũng như của hai ông bà và đă giúp cho hàng triệu độc giả trên thế giới biết thêm về Tây Tạng. Sau đó những biến cố chứng minh thêm, ngôi nhà của Entsche Kasi là nơi xảy ra nhiều điều trọng đại.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 783 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 10:42am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG

PHẦN BA

TỬ VONG VÀ TÁI SINH

ĐẠO SƯ TỪ TRẦN


Sau khi từ Gantok về, tôi rút lui sống trong pḥng riêng của Tomo Géché tại Ya-Gah Tscho-Ling một thời gian. Thời gian như ngưng lại trong căn pḥng nhỏ này. Kể từ ngày tôi được gặp vị thầy đến bây giờ, không có ǵ thay đổi.

Chỗ ngồi của ông, trên đó chiếc áo choàng dài được xếp cẩn thận, nh́n như ông vừa mới bước chân đi và trên bàn nhỏ trước chỗ ngồi là một b́nh trà bằng ngọc xanh nhật được để trên một đĩa bạc và bên cạnh là các pháp khí quen thuộc như kim cương chử, chuông và b́nh bát.

Chiếc đèn dầu bạc nằm trước bàn thờ có khắc hoa văn với tượng vàng Dolma cháy với một ngọn lửa đều đặn mà Katschenla, dù tuổi đă cao, vẫn chăm chút lo lắng với sự tươi vui không thay đổi.

Đối với ông th́ bậc dạo sư luôn luôn hiện diện và mỗi ngày ông sửa chỗ ngồi, phủi bụi chiếc áo choàng tế lễ và xếp lại đúng chỗ, rót trà trước khi uống chén trà của ḿnh, lau chùi và châm thêm cho chén nước, b́nh dầu, thắp nhang, tụng niệm kinh tán thán và qui y rồi ngồi thiền định yên lặng trước bàn thờ với tranh tượng khác nhau.

Ông làm như thế đúng theo trách nhiệm của một đời sống tôn giáo và của một đệ tử hết ḷng v́ thầy. Được phụng sự thầy, đối với ông là dạng cao nhất của “phụng sự thượng đế”, v́ điều này đồng nghĩa với phụng sự Phật.

Không một hạt bụi nào bán trên bàn thờ đă được trang trí khắc họa và dát vàng. Sàn nhà bóng như một tấm gương và các bức họa thanka cũng như khung tranh quí giá không hề mất một chút màu.

Các tấm thảm dệt bằng tay trên kệ hoặc treo tường, chiếc khăn nâu đậm căng dưới trần pḥng và bức tranh lụa vẽ bầu trời trên chỗ ngồi của bậc đạo sư và bàn thờ chính cho một cảm giác tôi đang ở trong lều của một bậc trưởng lăo người Nomade hay chúa tể xa xưa ở vùng Trung Á chứ không phải trong thế giới và thời đại ngày nay.

Căn pḥng này mang hơi thở truyền thống của hàng ngàn năm, tăng cường thêm bằng nhân cách của một người với sự hiện diện sinh động của người đó.

Tôi có một cảm giác tương tự như lúc gặp ông lần cuối tại Sarnath (32), khi vườn xoài của trú xứ thiêng liêng này biến thành khu vực cắm lều của người Tây Tạng và vô số đèn dầu sáng trong đêm dưới các tàng cây để cúng dường Tomo Géché Rimpotsché và đoàn đệ tử.

Ông ở trong một căn lều lớn ở giữa vườn xoài, dưới ánh sáng mờ nhạt của đèn dầu và lửa trại mà đám khói như tấm màng mỏng lơ lửng giữa cây cối và lều, lúc đó th́ khu vườn đối với tôi đă trở thành một ốc đảo nằm xa giữa ḷng châu Á, trong đó đoàn người ngựa hành hương sau một chuyến du hành nhọc nhằn có được chỗ nghỉ ngơi.

Thực tế th́ đó là một chặng cuối của chuyến du hành đời giác ngộ của vị đạo sư sự từ giă những thánh địa đánh dấu chuyến du hành trên trái đất này của Đức Phật.

Đó là chuyến hành hương cuối cùng của Tomo Géché Rimpotsché đi Ấn Độ trong mùa đông 1935-1936 với nhiều học tṛ theo. Khắp nơi, ông được đón tiếp nồng hậu, mặc dù ông xa lánh mọi sự tôn sùng cá nhân và các buổi tổ chức công cộng.

Trên đường ông về tại Yi-Gah-Tscho-Ling và Tây Tạng, qua Calcutta, báo chí tại đó đưa tin: “Một vị lạt ma nổi tiếng, được xem như đứng hàng thứ tư sau Đại lai lạt ma, hiện đang ở Calcutta.

Vị Géché Rimpotsché cao quí hiện trên đường về Tây Tạng, sau khi đă chấm dứt chuyến hành hương đến các thánh địa Phật giáo tại Bắc Ấn. Người ta cho rằng Ngài có nhiều thần thông. Phần lớn thời gian của Ngài dành để học tập kinh điển, giáo hóa học tṛ và thiền định.

Ngài tránh đám đông, không bao giờ ra khỏi pḥng và không bao giờ ngủ. Ngài được một đoàn gồm bốn mươi vị lạt ma hộ tống. Các vị đó thăm Sarnath, Gaya và Rajgir. Tại Sarnath các vị sống trong lều”.

Thông tin cho rằng Tomo Géché không bao giờ ngủ dựa trên thực tế là ông như đă nói không bao giờ nằm ngủ, mà luôn giữ thế ngồi thiền định suốt đêm, thế nên dù có ngủ ông cũng không mất sự điều khiển thân ḿnh.

V́ vậy ngay cả giấc ngủ, theo phép tu thiền định cao nhất, cũng chỉ là sự tiếp tục của một diệu pháp, nhưng ở trong một b́nh diện ư thức khác. Hiển nhiên là không ai nghi ngờ Tomo Géché có tŕnh độ tâm thức vượt hẳn so với người thường không tu tập, nhưng chắc ông sẽ không nhận từ “thần thông” và nhất là chống lại cách phổ biến như thế trong quần chúng.

Khi giới kư giả v́ ṭ ṃ đă t́m cách hỏi ông về các năng lực siêu nhiên và các lễ nghi huyền bí của Phật giáo Tây Tạng, ông chấm dứt câu chuyện và nói thêm những điều đó không có lợi ích ǵ cho việc hiểu giáo lư căn bản của Đức Phật.

Thế nên giới kư giả đành ghi chép những chuyện xảy ra bên lề của chuyến hành hương. Họ biết thêm rằng Sardar Bahadur Ladenla là trưởng đoàn. Ông là người phục vụ cho Đại lai lạt ma thứ 13 với nhiều cương vị khác nhau và được Ngài trao tặng hàm của một tướng lănh.

Họ c̣n viết thêm là Tomo Géché và Ladenla đă nạm vàng cho bức tượng Phật ở Sarnath và vị tiểu vương xứ Bhutan đă gửi theo tặng một tấm vải bạc cho bức tượng.

Tôi t́m thấy các mẫu báo này trong nhật kư và bá tước Veltheim-Ostrau, người được diện kiến Tomo Géché Rimpotsché tại Calcutta ngày 2.2.1936. V́ quá nhiều người đến viếng, ông không nói chuyện được với vị lạt ma.

“Giữa đám đông người đến rồi đi, lạt ma như cái trục của sự tĩnh lặng. Ông ngồi trên một tấm thảm, mỉm cười yên lặng. Vị này gây nên một ấn tượng vô cùng cao quí, già dặn tri thức, như người đă đạt đến t́nh trạng giải thoát”.

Và thực là như vậy; v́ đây là giai đoạn cuối cùng của đời Tomo Géché và nhất là sự chủ động bước qua một cuộc sống mới đă xảy ra trong năm sau, điều đó nói lên ư nghĩa chữ “giải thoát” ở trên, đó là sự chiến thắng thần chết.

Katschenla kể cho tôi nghe điều ǵ đă xảy ra trong những ngày cuối đời của vị đạo sư; và về sau trong một chuyến thăm tại Dungkar, tu viện của Tomo Géché tại thung lũng Tomo miền Nam Tây Tạng, tôi nghe thêm chi tiết về cái chết của ông từ chính các tu sĩ có mặt lúc đó.

Vị thầy biết đến lúc đă phải rời bỏ tấm thân nay đă trở thành gánh nặng. “Nhưng”, ông nói, “không có lư do để buồn phiền. Ta không rời các con, chẳng bỏ làm chuyện đạo pháp. Nhưng thay v́ kéo lê tấm thân già này, ta sẽ trở về thân mới. Ta hứa với các con sẽ trở lại. khoảng ba bốn năm nữa các con có thể t́m thấy ta”.

Không bao lâu sau khi nói những lời này ông rút vào pḥng thiền quán và không cho ai được quấy rầy, mặc dù vẫn ở trong pḥng thường ngày của ḿnh. Ông đi vào t́nh trạng nhập định sâu xa liên tục mấy ngày liền.

Sau mười ngày trôi qua và thấy ông vẫn bất động trên bồ đoàn, các tu sĩ chuyên lo lắng cho ông bắt đầu thấy ấy náy. Một vị cầm một tấm gương đưa trước mặt ông. Khi thấy gương không bị mờ, người ta biết hơi thở ông đă dứt. Vị đạo sư đă từ bỏ thân ḿnh ra đi trong lúc thiền định và chủ động bước qua ngưỡng cửa sinh tử hay đúng hơn: ngưỡng cửa của đời này và đời sau.

HÓA THÂN (33)
 



Sự tạo dựng một h́nh ảnh sáng tạo, chứa mầm mống của ư niệm cao đẹp nhất, đó là ư nghĩa đích thực của từ “Magie”, đó chính là lực tạo tác, nó có thể sinh thành hay chuyển hóa sắc thể.

V́ thế một ư niệm chỉ có tác dụng khi nó phải được xuất hiện bằng một biểu tượng, biểu tượng đó không chỉ là một dấu hiệu thông thường ẩn dụ văn thơ, mà là một biểu tượng có giá trị nhất định, sinh động, cơ bản, đủ khả năng gây cảm thọ trực kiến nội tâm và chứng nghiệm.

Đó là lư do tại sao Phật giáo Tây Tạng lại quan tâm nhiều đến linh ảnh và trực kiến về các biểu tượng của Phật quả - các biểu tượng đó cũng nhiều như các tính chất của một vị giác ngộ và sự quán chiếu các h́nh tượng thờ cúng, man-da-la (linh phù), thần chú và các thứ tương tự.

Tất cả những thứ này không phải là ngoại vật để họ tôn thờ mà chủ yếu là phương tiện để quán chiếu, qua đó mà hành giả trở thành đồng nhất với ư niệm của ḿnh, bằng cách tự chuyển hóa ḿnh trở thành chính niệm, biến ḿnh thành hiện thân của ư niệm.

Tại Tây Tạng, người ta biết đến một phép tu dành cho những người biết giáo lư Bardo Thodol (nói về thân trung ấm, tức là dạng ư thức giữa sống và chết hay giữa chết và sự tái sinh).

Mục đích của phép này là đi thẳng và trung tâm của tự tính chúng ta, đó là chỗ mà ư thức rút về khi cái chết của thân thể trờ tới, nơi ư thức chứng nghiệm sự chuyển đổi từ đời nay qua đời sau. Nơi đây không phải chỗ để soi xét lại quá khứ hay nh́n trước tương lai mà là nhận thức và tri kiến trọn vẹn những mầm mống đang hiện tiền của các khả năng sắp xảy ra.

Ai nhận tức được tự tính đích thực của chúng, người đó sẽ làm chủ những năng lượng tàng ẩn trong chúng và trong phút giây của sự chết có thể lèo lái chúng, để khi chúng được giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thân cũ, chủ dộng tiếp nối sức mạnh của chúng để đưa vào một thân mới.

Quá tŕnh này được Tây Tạng gọi là “chuyển thức” (hphoba). Đó là một hành động di chuyển ư thức, nó có thể xảy ra giữa hai cá nhân đă phát triển toàn vẹn hay sự chiếu rọi ư thức của một người lên một mầm sống vừa tượng h́nh trong ḷng mẹ.

Một sự tác động trực tiếp của ư thức lên ư thức hay sự tập hợp tinh lực tâm linh dồn lên một sinh cơ nhạy cảm, sẵn sàng cảm nhận mà bản thân nó chưa biết hoạt động chỉ thụ động nằm chờ; ngày nay dựa trên kiến thức của kỹ thuật radio, mối liên hệ giữa máy phát và máy nhận ta có thể hiểu được.

Nếu người b́nh thường hay chịu cái chết bất chợt và bị nó áp đảo th́ những kẻ đă kiểm soát được thân tâm đủ khả năng tự rút ra khỏi thân thể ḿnh, không phải chịu cái đau đớn vật vă chống lại cái chết và ngay lúc đó cũng vẫn không mất sự làm chủ về thân ḿnh.

Điều này được chứng tỏ trong cái chết của Tomo Géché với bằng cớ là thân ông vẫn bất động trong thế ngồi thiền định sau khi chết lâu cũng thế. Không ai biết rơ cái chết đến từ lúc nào. Có thể nhiều ngày đă trôi qua khi người ta đưa tấm gương trước mặt ông.

 Cả tuần sau thân ông vẫn yên thế, như H.E. Richardson, vị đặc mệnh người Anh tại Tây Tạng dă xác nhận. Vài tuần sau khi nghe Tomo Géché chết, ông đi qua lũng, nơi có tu viện Dungkar Gompa. Và v́ đă quen vị Rimpotsché lúc c̣n sống, ông dừng chân, đi ngựa lên tu viện nằm trên một đỉnh đá cheo leo giữa thung lũng ph́ nhiêu.

Vị sư trưởng chào ông trân trọng và Richardson chưa kịp nói lời chia buồn th́ vị ấy nói Rimpotsché vui mừng được tiếp ông. Hoàn toàn ngạc nhiên và nghĩ ḿnh nghe tin sai, khách liền theo chủ vào pḥng Rimpotsché. Ông ngạc nhiên xiết bao khi vào pḥng thấy Tomo Géché ngồi yên trên chỗ thường lệ. Nhưng ông biết ngay đây chỉ là cái xác ngồi trước mặt ḿnh.

Vị sư trưởng th́ hầu như nghĩ khác, v́ ông hành động y như vị Rimpotsché c̣n hiện tiền. Ông giới thiệu khách vào và mời ngồi. Rồi ông nói hầu như như lặp lại tiếng nói của Rimpotsché “Vị Ripotsché chào mừng ông và hỏi ông đi đường ra sao, có khỏe mạnh không?”

Với cách này mà câu chuyện diễn ra thực sự giữa Rimpotsché và Richardson, trong lúc đó th́ trà vẫn được dâng lên và tất cả mọi sự đều b́nh thường, đến nỗi người khách không tin vào giác quan của ḿnh nữa.

Thật là một chuyện kỳ lạ và nếu Li Gotami và tôi nghe chính Richardson nói, mà sau đó vài năm chúng tôi gặp lại ông tại Gyantse th́ chúng tôi ắt hẳn phải nghi ngờ.

Dĩ nhiên không phải vị sư trưởng cố ư đóng kịch làm trung gian để tiếp xúc với thần thức Tomo Géché, ông làm trong niềm tin tưởng rằng vị đạo sư đang hiện tiền. Bao lâu mà tấm thân thiêng liêng đă từng chứa thần thức của ông duy tŕ th́ bấy lâu vị sư trưởng c̣n đối xử một cách đầy kính trọng như thời vị đạo sư c̣n sống.

Đối với người phương Tây, thật khó mà hiểu tâm tư của một người Tây Tạng ngoan đạo và lại càng khó hiểu thái độ của những kẻ mà cái sống và chết không phải là hai thái cực mà chỉ là hai mặt của một thực tại độc nhất.

Từ thế đứng này, ta có thể hiểu được người Tây Tạng ít sợ chết hơn phần lớn người khác. Khía cạnh cúng tế thần chết của tôn giáo thời tiền sử cũng như di hưởng của nó trong truyền thống và lễ nghi của Phật giáo Tây Tạng trong đó biểu tượng của cái chết như sọ người, bộ xương, thây ma và mọi dạng của nát rữa, sự hoại diệt… được ư thức không phải phương tiện để xa lánh và quay lưng với cuộc sống mà là cách để chế ngự các thế lực đen tối chúng diễn tả mặt trái của đời sống.

Thân của lạt ma nổi tiếng (như Đại lai lạt ma và Ban thiền lạt ma) không được thiêu đốt hay hủy diệt mà được thờ như xá lợi, trong các đàn thờ dát vàng bạc mà ta gọi là Tschorten, được giữ lại cho hậu thế.

Một đàn thờ như thế được dành cho Tomo Géché và sự trang hoàng tuyệt đẹp của đàn không phải chỉ là biểu tượng của sự chứng thực cao tột của ông mà c̣n nói lên t́nh yêu thương và sự tôn quí của người Tây Tạng dành cho ông. Khi nghe ông mất, hàng ngàn người xa gần đều đến Dungkar Gompa để tỏ ḷng tôn kính lần cuối và mang theo phẩm vật như vàng bạc và đá quư để xây đàn.

Ngay cả những người nghèo khổ cũng nhất định góp phần ḿnh vào đó: nhiều người dâng tặng bông tai có gắn đá xanh, nhẫn hay ṿng đeo tay, kẻ khác dâng vật trang sức bằng san hô hay vật dụng bằng bạc. Họ không tiếc ǵ công của để xây dựng một cái đàn xứng đáng, để đời sau c̣n nhắc nhở đến vị đạo sư vĩ đại, để con cháu được hưởng sự hiện diện tâm linh của ông.

Ḷng thiết tha và dâng cúng của tín đồ thật không sao kể xiết. V́ tặng phẩm quá nhiều, ở dạng bảo vật, tiền bạc và đồ trang hoàng nên người ta phải làm một cái đàn bằng bạc cao hai tầng, khắc họa mọi h́nh tướng, dát vàng bạc, và đầy những thứ đá quư, san hô. Các thợ bạc khéo nhất được triệu đến để hoàn thành một công tŕnh mỹ thuật và hoàn hảo.

Phần dưới của đàn đủ lớn để tạo ra một không gian, nơi đó đặt xác ướp của Géché cùng với mọi pháp khí để trên bàn thờ trước thân ông, như lúc c̣n sống. C̣n đàn th́ được để trong một ṭa nhà lớn xây lên chỉ dành cho ông mà các vách tường xung quanh đều được tô vẽ bằng h́nh tượng Phật, Bồ-tát và các vị hộ pháp đầy uy lực cũng như một số thánh nhân khác, trong số đó có h́nh tượng của tám mươi bốn vị thành tựu giả (Siddha)

Trước khi thân ông được chính thức đưa vào an nghỉ trong đàn (34) th́ một bức tượng gần bằng người thật với thân người và nét mặt giống ông được hoàn thành bởi các nghệ nhân truyền thống.

Trong mỗi đền do Tomo Géché dựng lên và cai quản đều nhận được một bức tượng đúc lại từ đó và thờ bên cạnh tượng Di Lặc.

Tượng Tomo Géché được tŕnh bày với ấn giáo hóa, tay mặt đưa lên cao bàn tay ngửa ra ngoài, như ấn vô úy của Phật Bất Không Thành Tựu, nhưng khác ở chỗ là ngón tay cái và tay trỏ chạm nhau làm thành ṿng tṛn, ám chỉ sự giáo hóa của pháp phi thời gian, từ đó mà sinh ra tri kiến vô úy.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 784 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 11:03am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

     
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
SỰ TÁI SINH
 
 
Tomo Géché Rimpotsché hứa sẽ trở lại với tu viện và học tṛ, trong ṿng thời gian đă định, và ông giữ lời hứa.

Thế nhưng không bao giờ tôi ngờ sự tái sinh của ông rơi vào đúng ngôi nhà mà tôi là khách khi lần đầu đến Tây Tạng, đúng ngôi nhà mà tôi lại đến khi đi thăm vị ẩn tu ở Latschen: nhà của Entsche Kasi.
 
Từ chính miệng của Entsche Kasi tôi được nghe chi tiết về sự tái sinh của Tomo Géché Rimpotsché cũng như sự t́m kiếm và thừa nhận, với sự hỗ trợ qua cuộc đại vấn linh tại Netschung gần Lhasa.

Đối với tôi, Entsche Kasi là một người thành thật và sùng đạo sâu sắc, nên tôi có thể bảo đảm cho những ǵ ông kể lại, với sự có mặt của Li Gotami. Mặc dù rất hănh diện là cha của một vị tái sinh, nhưng những ǵ ông kể đầy sự đau buồn v́ sau khi sinh không bao lâu th́ vợ ông mất; và vài năm sau, sau khi rơ rằng đứa bé này không ai khác hơn là Tomo Géché th́ ông phải đưa đứa con trai độc nhất này cho người khác.
 
Chỉ v́ bằng cớ lớn lao của việc này và cũng v́ không muốn ngăn trở tương lai của đứa bé, chỉ muốn “trở lại tu viện”, ông dành phải nhượng bộ và cho phép trẻ về tại Dungkar cùng đi với các tu sĩ từ đó gửi đến.

Vị tiểu vương Sikkim cũng khuyên ông không nên can thiệp vào tương lai cậu bé mà dă được cuộc đại vấn linh tại Netschung thừa nhận và được chính những ǵ cậu nói cũng như toàn bộ hành động đă cho thấy.
 
Chính cậu nói ḿnh không phải là người Sakkim mà là người Tây Tạng và khi cha cậu gọi tên là “pu-tschung” (bé con) th́ cậu phản đối nói tên ḿnh là jigme (vô úy). Đây đúng thật là tên mà cuộc vấn linh đă nhắc đến. Tomo Géché sẽ tái sinh.

Việc một cuộc đại vấn linh chính thức được triệu tập chứng tỏ tầm quan trọng phải t́m ra hóa thân của Tomo Géché. Xem ra một cuộc vấn linh nhỏ tại Dungkar không đủ sức cho câu trả lời; v́ thế nên tăng lữ tại Lhasa thấy khỏi hỏi thêm tại Netschung.
 
Cuộc vấn linh tại đây không những chỉ cho thấy phương hướng phải t́m trẻ nơi đâu mà c̣n mô tả khá rơ trẻ sinh ở thành phố nào và cảnh vật gần đó ra sao. Nhờ những chi tiết đó mà không có nơi nào khác ngoài Gangtok là đúng.
 
Các thông tin khác cho biết thêm đứa trẻ sinh năm nào, tuổi tác của cha mẹ; thậm chí mô tả ngôi nhà họ sống cũng như cây cối mọc trong vườn. Hai cây ăn trái mọc trước nhà được nhắc tới như một dấu hiệu đặc biệt.

Một phái đoàn gồm các tu sĩ già dặn đáng tin cậy được cử đến Gangtok và nhờ những thông tin đó mà họ t́m ra đứa trẻ lúc đó đă lên bốn. Khi các tu sĩ vừa bước vào vườn, tới gần nhà th́ cậu bé đă gọi lớn “Ba ơi, người của con đă tới t́m con rồi, để đưa về tu viện”.
 
Và cậu chạy lại đoàn người, nhảy nhót vui mừng mà người cha th́ đau khổ không muốn mất con. Thế nhưng cậu bé van nài cha xin đi và khi các tu sĩ đưa ra các pháp khí khác nhau như hạt, kim cương chử, tách trà, b́nh bát gỗ để ăn uống, trống nhỏ và các vật dụng khác nhau của tu sĩ th́ cậu không chút chần chừ lựa ra những thứ của cậu trong đời trước, cũng như cương quyết từ chối các vật khác không phải của ḿnh mà người ta cố ư trộn lại với nhau để kiểm chứng cậu. Mặc dù nhiều thứ “giả” đẹp hơn nhiều nhưng cậu không để nhầm lẫn.

Người cha đă thấy tất cả mọi minh chứng này và nhớ lại nhiều dấu hiệu của sự thông minh khác thường cũng như những điều khó hiểu của con ḿnh, cuối cùng đă chấp thuận, mắc dù đau xót, cho cậu trở về tu viện Tây Tạng, cùng với đoàn tu sĩ.

Trên đường về Dungkar Gompa, đoàn gặp Amtschi, người thầy thuốc Tây Tạng dă chăm sóc Tomo Géché trong những năm cuối cùng của ông. Cậu bé nhận ra ông và gọi: Ô, Amtschi, ông không nhận ra tôi sao? Ông không nhớ đă săn sóc tôi khi tôi bị bệnh trong thân trước sao?”.

Tại Dungkar, cậu cũng nhận ra vài vị sư già và điều rất đặc biệt con chó nhỏ ngày trước cứ theo chân ông trong những năm cuối đă nhận ra cậu ngay và hết sức vui mừng được gặp chủ.

Như vậy là Tomo Géché đă giữ lời hứa và mọi người xa gần lại đổ về Dungkar Gompa để bày tỏ niềm kính trọng với vị đạo sư và xin phước lành. Ai gặp cậu bé cũng bị ấn tượng bởi thái độ vững vàng và cao quư của cậu, lúc cậu ngồi trên ṭa trong chính điện, hướng dẫn lễ nghi và tụng niệm trong các dịp cũng như tiếp khách hành hương và ban phép cho họ.
 
Trong lúc ở mọi phương diện khác th́ cậu cũng hồn nhiên như mọi đứa trẻ cùng tuổi khác. Thế nhưng trong hành động lễ nghi tôn giáo th́ cậu có khuôn mặt của một người đàn ông đầy minh triết già dặn, xuyên qua những nét trong sáng ngây thơ của trẻ con.
 
Và không bao lâu sau người ta rơ cậu không hề quên những kiến thức của ḿnh tập hợp trong đời trước. Sự giáo dục chỉ là ôn lại, đưa những ǵ đă biết vào trong trí nhớ. Cậu học nhanh đến nỗi mà các thầy giáo không biết dạy thêm ǵ nữa. V́ lư do này mà lúc lên bảy cậu được đưa về Sera, một trong những đại học tôn giáo gần Lhasa để học công tŕnh cao cấp và lấy bằng tiến sĩ (Géché).

Tất cả những điều này đối với đầu óc phê phán của phương Tây hẳn khó tin và tôi cũng phải thừa nhận rằng khó tin ngay đối với tôi nếu chưa từng gặp nhiều trường hợp tương tự đă làm tôi thấy rằng, ư niệm tái sinh không phải chỉ là một lư thuyết hay ḷng tin vô căn cứ.
 
Những trường hợp đó cũng là bằng cớ cho thấy ta có thể nhớ lại nhiều chi tiết và thành tựu trong đời quá khứ. Nhà khoa học, người chỉ tin nơi thuyết di truyền, xem ra không bao giờ hỏi, thực tế di truyền là cái ǵ. Đó chính là nguyên lư của sự bảo toàn và liên tục của những tính chất, nguyên lư do đúc kết lại trong khả năng nhớ và chủ động bày tỏ ư muốn và quyết định hướng đi của ḿnh, dưới sự chỉ đạo của ư thức và kinh nghiệm.
 
V́ thế, di truyền chỉ là một tên khác của kư cơ sở, đó là nguyên lư giữ được tính bảo toàn, sự thăng bằng, nó là lực chống lại sự hoại diệt, cái bấp bênh. Liệu ta gọi tên “kư ức” là một tính chất của tâm, của vật hay là một nguyên lư sinh vật, điều đó không quan trọng ǵ, v́ “vật chất”, hay “sinh vật” hay “tâm thức” chỉ là những tầng mức khác nhau mà nơi đó cái lực duy nhất này tác dụng và biểu hiện.
 
Điều quan trọng là nó cũng là lực sinh ra và giữ một h́nh tướng, nó là khâu nối kết giữa quá khứ và tương lai, nó hiện ra ngoài thông qua cách chứng nghiệm cái hiện tại và ư thức về sự hữu hiện của ḿnh.
 
Tính đồng thời giữa bảo toàn và sáng tạo được bảo đảm bừng một quá tŕnh của sự chuyển hóa liên tục, trong đó những yếu tố chủ yếu hay nguyên lư về sắc thể cũng được bảo toàn, nó như một hạt nhân, từ đó mà các dạng h́nh mới mẻ cứ hiển hiện, vừa tuân thủ qui luật nội tại của ḿnh, vừa chịu ảnh hưởng của bên ngoài.

Ngay cả khi ta xét tính di truyền sinh học, v́ cha mẹ cho con cái “chất liệu” để thành thân mới, th́ thân này cũng không có khả năng cản năng lực của ư thức nọ. Điều này càng được thấy rơ hơn khi năng lực ư thức đó cần phải ăn khớp với tính chất di truyền của cha mẹ và trong nhiều trường hợp đặc biệt nó tổng ḥa với nhau để sinh ra một đơn vị mới (như trong phút giây tượng h́nh).

Ư thức là một ḍng chảy sinh động, không chịu để ḿnh ép ḿnh trong b́nh chứa chật hẹp của một cái ngă, v́ tự tính của nó là vận động, là tuôn chảy; và sự tuôn chảy đồng nghĩa với sự liên tục và sự quy định, đó là mói liên hệ giữa hai trạng thái hay hai cực.
 
Không có tính đối cực này th́ không thể có đời sống, cảm thọ và không có sự liên tục th́ cũng chẳng có mối liên hệ. Hai cực này càng xa nhau, càng rộng mở th́ ḍng chảy càng mạnh mẽ cũng như sức tạo nên ḍng. Ư thức cao tột là sản phẩm của những kinh nghiệm rất khác nhau, của biên độ dao động rất lớn giữa tính vũ trụ và tính cá thể.

Thế nhưng ư thức thông thường hay chỉ được hạn chế trong ṿng vây nhỏ bé của ước mơ và mục đích có tính thời gian, thế nên ḍng chảy to lớn kia bị kiềm hăm, bị chuyển hướng và năng lượng của nó bị phí phạm với hậu quả là ánh sáng nhận thức toát ra từ đó bị mờ đục.
 
Thế nên khi cá thể đánh mất mói liên hệ đầy ư thức với trung tâm vạn năng của nó và lấy tính cách giới hạn của ḿnh làm trung tâm, bằng cách bám chặt sự hiện hữu nhất thời này, th́ điều đó sẽ sinh ra một ảo giác về một tự ngă độc lập, không thay đổi, cái đó sẽ đi ngược ḍng của đời sống và ư thức to lớn hơn và dẫn đến sự tŕ trệ tâm linh.
 
Phương thuốc chữa căn bệnh này không phải là sự đè nén cái cá thể (nếu thế là qua thái cực kia) mà là tri kiến nhận biết rằng, cái cá thể không phải là cái ngă (nói theo nghĩa trên) và rằng sự biến đổi là một điều kiện tự nhiên và cần thiết của mọi cuộc sống, nó không hề tùy tiện hay vô nghĩa, mà dựa trên một qui luật nội tại và có tính bao trùm, chính qui luật đó bồ đề sự liên tục và tính ổn định nội tại của vận động.

Cá thể không những là phần cần thiết và bổ túc của cái toàn thể mà chính là tiêu điểm, nơi đó cái toàn thể được chứng thực. Sự tiêu diệt cá thể, tức là phủ nhận giá trị của nó, một cách triết học hay đạo lư, chỉ dẫn đến một t́nh trạng vô phân biệt và hủy diệt, t́nh trạng tuy có thể giải thoát được cái khổ, nhưng chỉ là sự tự phủ nhận v́ nó tước đoạt khả năng phát triển cá thể sắp tới:
 
Đó là sự chứng nghiệm của giác ngộ hoàn toàn, của sự trở về nhất thể, của Phật quả mà trong đó cái toàn thể trong tự tính của ta sẽ được chứng nghiệm.

Khi nói “trở về với cái toàn thể, như giọt nước trong biển cả” mà không chứng thực cái toàn thể, th́ chẳng khác ǵ cách nói văn vẻ về sự hoại diệt hoàn toàn và tránh nế vấn đề của tính cá thể đặt cho ta.
 
Tại sao cái toàn thể lại sinh ra đời sống và ư thức cá thể, nếu những điều này không tương thích với tự tính sâu kín của cái toàn thể hay không chứa cái “thức tự nhiên”?
 
Cũng vẫn câu hỏi đó nếu ta nh́n vũ trụ bằng con mắt của nhà khoa học, xem nó như đối tượng khách quan toàn những năng lực vật lư, hay với con mắt của người theo đạo Phật, xem nó là hiện thân hay sự chiếu rọi của năng lực tâm thức, nó phải được chứng nghiệm một cách chủ quan là a-lại-da thức.
 
Chỉ riêng sự hiện hữu cá thể của chúng ta, đủ cho thấy nó phải có chỗ đứng đầy ư nghĩa trong vũ trụ chứ không phải là một t́nh cờ đáng tiếc hay một sự nhầm lẫn, một ảo giác cần phải bỏ qua một bên nếu nói thế người ta sẽ hỏi ảo giác của “ai”?
 


 
U KHANTI: NHÀ TIÊN TRI TRÊN NÚI MANDALAY




Lúc hành hương tại Myanmar năm 1929, tôi lưu lại một thời gian nơi Mandaya cùng với Thượng tọa Nyanatiloka Mahathera, vị trưởng môn của tu viện Polagsduwa ở Dodanduwa tại Sri-Lanka, nơi tôi nhập môn tu hành.

Sau khi tôi đến Rangoon khoảng hai tuần th́ Nyanatiloka Thera cũng đến, để cúng thầy của ông là U Kumara Mahathera, người vừa mất một thời gian ngắn trước đó trong một tu viện nhỏ tại Kyundaw Kyaung.

Nyanatiloka Thera là người trở thành tỉ kheo cách đó 26 năm trong chính tu viện này. Thân của thầy ông được đặt trong một quan tài bằng gỗ tếch, được bảo vệ bởi h́nh long vương chạm gỗ tinh vi.

Quan tài chứa đầy mật để giữ cho thân người chết được lâu cho đến lúc cử hành tang lễ thiêu xác. Theo truyền thống của Myanmar th́ thời gian chuẩn bị này có thể kéo dài hơn một năm, và v́ chúng tôi không thể đợi lâu như thế nên Nyanmar.

Sau hai tuần trên một thương thuyền (như một khu bán hàng trên biển) đi về phía Bắc và giữa đường có ghé thăm vùng Pagan cổ với hàng ngày đền thờ và chùa chiền, chúng tôi dừng chân ở Mandalay, từ đó đi thăm các thánh tích tôn giáo và lịch sử.

Thánh tích lớn nhất tại Mandalay là một ngọn núi đá, núi vọt lên cao từ b́nh nguyên gần đô thị. Núi này đầy những đền đài, chùa tháp, đàn tế và các ṭa nhà khác, chúng được nối với nhau bằng lối đi, bậc thang có mái che, kéo dài từ chân đến ngọn.

Khi ta đến gần chân núi, nổi bật nhất là hai cụm gồm hàng trăm ngôi chùa bé (kể chung khoảng một ngh́n rưỡi ngôi chùa), nằm quanh một ngôi chùa trung tâm.

Nguồn gốc của công tŕnh kiến tạo to lớn này là thời gian vua Mindon Min, trị v́ Myanmar từ 1835 đến 1878. Cảm kích từ một giấc mơ, ông bỏ kinh đô cũ Amarapura, xây dựng Mandalay với những cung điện xinh đẹp và các công tŕnh tôn giáo.

Là một Phật tử thuần thành, ông muốn đi theo con đường của vị vua trước, người cho khắc giáo pháp của Phật lên bảng vàng được cất giữ trong một ngôi đền đồ sộ. Thế nhưng điều này sinh ḷng ham muốn nơi người Trung Hoa, họ xâm chiếm xứ này và lấy theo các bảng đó.

V́ thế vua Mindon Min mới cho khắc họa kinh sách lên bảng đá, chúng không khêu gợi ḷng tham của ai, của quân lính ngoại xâm lẫn kẻ cướp thông thường, nhờ thế mà giữ được giáo pháp của Phật cho các đời sau.

Kinh sách đó cũng phải đến được với tất cả mọi người, không những chỉ cho học giả hay tu sĩ. V́ thế mỗi bảng đá được dựng trong một khám thờ riêng biệt, mở cửa, với dạng một chùa bé, trong đó tín đồ có thể đọc từng phần của kinh sách, không những bằng tiếng Pali mà cả bản dịch ra tiếng Myanmar.

Thế nên nhà vua cho xây chùa Kuthodawu với 799 ngôi chùa bé xung quanh, mỗi ngôi được kiến trúc hết sức tỉ mĩ, trong đó có một bia đá hai mặt, ghi lại các bài kinh thiêng liêng của đại tạng.

Lẽ ra phải có thêm một cụm toàn những chùa như thế được xây lên để ghi lại các bộ luận, nhưng nhà vua đă từ trần trước khi bắt tay vào việc. Người kế vị là vua Thibaw chỉ quan tâm đến một cuộc sống vương giả và hầu cận với nam nữ.

Cuối cùng ông bị người Anh loại bỏ, họ chiếm nước ông làm thuộc địa sau một cuộc chiến ngắn. Công tŕnh của vua Mindon Min bị rơi vào quên lăng và các đền tháp thiêng liêng cũng trở thành hoang phế. Chỉ một số ít người hành hương mới dám đến đây một nơi không c̣n an toàn v́ giặc cướp.

Nhưng một ngày nọ, có một người hành hương cô độc lên núi, mang đầy đạo tâm. Ông lấy làm tiếc trước cảnh hoang tàn của các thánh địa mà theo ḷng tin của người Myanmar th́ Đức Phật đă từng đến đây và quyết tâm lấy đời ḿnh ra để phụng sự núi này và sẽ không rời núi trước khi núi lấy lại danh tiếng như cũ.

Mặc dù người hành hương này không có ǵ hơn ngoài b́nh bát và chiếc áo đỏ đậm của một nhà tu khổ hạnh, ông có một niềm tin vô hạn nơi sức mạnh của tâm linh và không chút lo lắng rằng lấy đâu phương tiện để thực hiện mục đích của ḿnh.

Ông kiếm một chỗ ngồi trên đỉnh núi, dưới một thánh thất đổ nát và bắt đầu thiền định, không cần biết đến sự an toàn hay ăn ngủ của ḿnh. Không ai cướp bóc được ǵ của ông v́ ông không có ǵ để lấy. Ngược lại những người hành hương khác, khi thấy ông thiền định, họ lại chu cấp thực phẩm cho ông.

Khi không ai đến (thực tế là ít người dám đến) th́ ông nhịn đói; khi có thức ăn th́ ông ăn. Thế mà dần dần càng có nhiều người thêm can đảm leo lên núi, khi họ nghe có một vị độc cư sống trên núi, trong một đền thờ hoang phế.

Sự hiện diện của ông hầu như làm cho chốn hoang tàn này thiêng liêng trở lại và không bao lâu sau người ta bắt đầu sửa các đàn cũ, dựng đàn mới, kể cả các nơi lưu trú cho khách hành hương được thiền định và nghỉ ngơi. V́ thế qua thời gian, các đền đài, chùa chiền, tượng tháp, nhà cửa và các lối đi có mái che được xây dựng.

Công tŕnh càng ph́ nhiêu th́ phương tiện vào các tu sĩ độc cư càng lớn, họ thấy vật đó không phải là của ḿnh, thế nhưng hầu như tất cả của cải thế gian đă tụ lại cho ông. Sau khi lấy lại danh tiếng cho thánh địa của núi Mandalay, ông cũng chưa hài ḷng mà bắt đầu một công tŕnh lớn hơn nhiều, đó là công tŕnh dang dỡ của vua Mindon Min, ông muốn ghi lại các bộ luận lên đá trong một cụm chùa thứ hai lớn hơn nữa.

Sau khi U Khanti, người ẩn tu tại núi Mandalay, mà bây giờ trở thành Maha-Hathi, nhà đại tiên tri (rishi), đă thành tựu công tŕnh đó, ông tự nhủ như thế cũng chưa đủ khi khắc họa kinh sách trên tảng đá để trường tồn với thời gian và dành cho những ai đến viếng chùa đều được đọc, mà c̣n cần phải phổ biến kinh sách của Phật ra cho cả thế giới, bằng cách in lại toàn bộ đại tạng và các bộ luận quan trọng.

Đây là một công tŕnh đồ sộ mà không nhà in nào, nhà xuất bản nào đám chịu phí tổn và thi hành. Thế nhưng điều này cũng không làm nhà đại tiên tri ngán sợ. Sức mạnh của ông hầu như vô tận. Trong ṿng một thời gian ngắn đáng ngạc nhiên, ông xây nên một cơ sở in ấn ngay dưới chân núi với phương tiện hiện đại và t́m được một nhóm người hợp tác.

Lúc này Nyântiloka Thera và tôi tới núi Mandalay th́ phần lớn kinh sách đă được in xong và phổ biến rộng răi dưới dạng sách đóng gáy chắc chắn, đàng hoàng. Ngay tại Sri-Lanka là nơi sản xuất kinh sách khá tốt, nhiều bản kinh Pali quan trọng, nhất là các bản của A-t́ đạt-ma (Abhidhamma - Thắng luận) cũng không có được.

Khi nghe đến công tŕnh tốt đẹp của Ukhanti, chúng tôi không khỏi mong được làm quen với ông và một sáng nọ, chúng tôi t́m đường đến thăm ông tại núi Mandalay. V́ ở ngoài thành và khá xa ngọn núi thiêng đó, chúng tôi buộc phải đi xe ngựa.

Khi chúng tôi đến nơi, người ta báo sáng sớm nay ông đă rời núi, đến một nơi cách đó khoảng 20, 25 dặm để hướng dẫn công cuộc trùng tu một di tích cổ Phật giáo.

Chúng tôi hết sức thất vọng, không biết bao giờ mới được trở lại đây v́ có một chương tŕnh làm việc đầy ngập, mỗi ngày đầy những thăm viếng, thảo luận, diễn giảng, tiếp khách. Chúng tôi chần chừ lên xe và lúc xe chưa kịp quay đầu th́ một chiếc ô tô chạy lại, ngược chiều với chúng tôi và đậu trước hành lang để mái che dẫn lên núi.

Một dáng người cao lớn, mặc áo choàng đỏ bước ra khỏi xe. Nơi người đó toát ra một ấn tượng sâu đậm với một trong dáng đi ung dung quí phái, với phẩm cách tự nhiên của một nhà vua. Chúng tôi biết ngay người này phải là nhà đại tiên tri.

Chúng tôi liền dừng xe ngựa, nhảy xuống đi đến cửa và được nồng hậu cho hay rằng U Khanti đă bất ngờ trở lui và chúng tôi được dịp gặp ông. Chúng tôi được đưa vào một đại sảnh và được nhà tiên tri tiếp đón với một số tỷ kheo và cộng sự của ông.

Một lần nữa chúng tôi lại thấy nhân cách của ông vượt hẳn những người xung quanh, và mặc dù ông là thành viên của tăng già (Thượng tọa bộ) nhưng được các vị đó kính trọng, các người được xem là giữ ǵn ngôn từ của Đức Phật, ông được các vị đó xem tôn quí hơn trong hàng ngũ giáo hội.

Ông cười thân thiện thăm hỏi và cuối đầu lễ độ trước Nyanatiloka, vị thượng tọa của giáo hội và mời chúng tôi ngồi, cho mang trà và bánh vào. Có lúc ông phải trả lời vài câu hỏi của thư kư, họ mang các giấy tờ cho ông hoặc nghe các chỉ thị của ông.

Những điều này xảy ra một cách nhẹ nhàng thoải mái nên ông vẫn quan tâm đến chúng tôi, v́ thế câu chuyện cũng không bị đứt đoạn. Ông tỏ vẻ đặc biệt quan tâm về việc Tổng hội Phật giáo thế giới vừa được thành lập mà Chủ tịch chính là Nyanatiloka, c̣n tôi làm tổng thư kư.

Khi nói về kế hoạch của chúng tôi, biến “di tích Dodan-duwa” thành một trong tâm quốc tế cho văn hóa Phật giáo và sự cần thiết phải đưa kinh sách Phật giáo tới với con người th́ tôi định nhắc tới quan tâm đặc biệt của ḿnh về bộ luận A-t́-đạt-ma và cũng khó t́m ra kinh sách đó.

Người đó biến đi trong một căn nhà bên cạnh mà sau tôi biết đó là nhà in và đóng sách. Chỉ vài phút sau ông trở lại với một chồng sách trên tay. “Đây là quà cho các vị”, nhà tiên tri cười nói với chúng tôi và cho người hầu đặt sách trước mặt.

Làm sao chúng tôi mô tả được sự kinh ngạc của ḿnh? Đó chính là các cuốn mà chúng tôi thiếu trong tủ sách: một bộ luận hoàn chỉnh của A-t́ đạt-ma. Chúng tôi hết sức ngỡ ngàng và không nói nên lời về khả năng của ông đọc được ư nghĩ thầm kín của ḿnh và về ḷng tốt của ông khi tặng món quà quư báu này.

Khi thấy niềm vui này, ông sẵn sàng tặng thêm các bộ sách khác có trong nhà in, với gáy da, chữ mạ vàng. Thế nhưng số lượng sách quá lớn đến nỗi chúng tôi không chất lên xe ngựa nổi nên ngày hôm sau phải chất lên một chiếc xe khác.

Dựa trên báo chí nói về hoàn toàn của chúng tôi tại Mandalay th́ trị giá những sách mà chúng tôi nhận được từ vị đại tiên tri này lên đến 700 ru-pi mà ngày nay trị giá của chúng không dưới 3000 ru-pi Ấn Độ. Thật là một món quà vương giả, không làm sao chúng tôi nói hết sự xúc động của ḿnh.

Sau khi từ biệt ông, chúng tôi được một vài tỉ kheo hộ tống qua vô số đàn trường và đền thờ của ngọn núi thiêng này để có một ư niệm về cái vĩ đại của công tŕnh mới đây và nó cũng chỉ mới là một phần nhỏ công sức của con người lạ lùng này.

Trong câu chuyện với các tỉ kheo th́ một vị mới cho hay là sáng nay thật ra vị ẩn tu đă rời núi để đến xem xét một công tŕnh đang tu sửa. Thế nhưng đang kiểm tra công việc th́ ông bỗng dưng nói phải về lại ngay Mandalay v́ có khách phương xa đến thăm.

Và không chút chần chừ ông nhảy lên xe, bảo tài xế chạy về càng nhanh càng tốt. Và hầu như thấy hết trước mọi việc, ông đến chân núi Mandalay, th́ chúng tôi vừa định quay về.

Bây giờ chúng tôi rơ cuộc gặp gỡ này không hề là sự t́nh cờ và khi nghe chúng tôi thú thật ḿnh ngạc nhiên xiết bao khi vị tiên tri đọc được ư nghĩ của ḿnh về các tập sách th́ vị tỉ kheo nọ mới nói với giọng run run: “Các vị không biết ngài là ai sao? Ngài là tái sinh của vua Mindon Min”.

Tôi phải thú nhận là không có chút nghi nghờ ǵ về sự thật của câu nói này, v́ nó chỉ xác nhận lại cảm giác của ḿnh khi thấy điệu sang trọng của nhà tiên tri khi gặp ông lần đầu. Cách xuất hiện của ông có một cái ǵ vương tước, làm nảy sinh ḷng kính trọng.

Thái độ, hoạt động và nhân cách của ông đối với tôi là minh chứng lớn nhất cho một mối liên hệ chủ động với một tiền kiếp đáng kính, hơn mọi chứng minh có tính chất “bằng cớ” khác. Cuộc đời và hoạt động của ông cho thấy rơ rệt rằng ông có một năng lực phi thường về tâm linh.

Sự nhớ lại tiền kiếp và mục đích của đời sống cũ đă làm cho ông một sức mạnh, sức mạnh này đă làm cho đời sống  mới thêm ư nghĩa. Sự hiểu biết quá khứ của ḿnh đối với ông không là gánh nặng vô bổ mà là động cơ mạnh mẽ để hành động, nó răng cường thêm tinh thần trách nhiệm về một công tŕnh dang dở của đời sống cũ để lại.

Đó như sự hoàn thành ư nguyện của một vị Bồ-tát, người giữ được sự liên tục của ư thức siêu việt lên sống chết, dựa trên một mục đích dài hơn đời một con người (35). Mục đích cao cả của ta là tinh tấn vươn lên tự thắng ḿnh và đạt đích tối thượng là sự giác ngộ hoàn toàn.

Đó là điều làm ta bất tử chứ không phải là đời sống của một linh hồn đơn lẻ bất biến, mà cái đơn điệu của nó loại ta ra khỏi sự sống và tăng trưởng, không cho tâm hồn tham dự vào cuộc sống phiêu lưu bất tận, giam giữ ta trong tù ngục của giới hạn chính ḿnh.

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 785 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 11:20am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
 
MAUNG TUN KIAING


Sớm hơn dự định, tôi đến với một trong hợp khác về nhớ lại tiền kiếp, một trong hợp đặc biệt v́ ở đây có nhiều cách để kiểm chứng sự thật mặc dù bản thân tôi không mấy quan tâm.
 
Sự tái sinh có thể chứng minh được hay không? Ư niệm tái sinh đối với tôi tự nhiên và đáng tin hơn mọi lư luận, nó cho đời sống cá nhân một ư nghĩa sâu xa hơn va nó ăn khớp vào với quá tŕnh tiến hóa của sinh vật, như những phát hiện của sinh vật tâm lư học cho thấy.

Tại Maymyo, trong cung điện mùa hè của chính phủ Myanmar hồi đó ở các tiểu bang miền Bắc, nơi mà Nyanatiloka và tôi tránh cái nóng của xứ Mandalay chúng tôi nghe đến một cậu bé tên là Maung Tun Kyaing, cậu nhớ mọi chuyện của tiền kiếp, đến nỗi thống đốc Myanmar, Sir Henry Butler mời cậu về nơi ở của ḿnh tại Maymyo để biết cho rơ về hiện tượng lạ này.
 
Cậu gây một ấn tượng tốt đẹp lên vị thống đốc và tất cả những ai có mặt trong buổi phỏng vấn đáng nhớ này đều thừa nhận là tất cả đều khuyên cậu nên truyền khắp nơi thông điệp tốt đẹp này, kể cả đi thăm viếng các trại tù để mang lại ánh sáng và hy vọng cho những ai phải sống trong cảnh tối tăm.
 
Kể từ lúc đó cậu đi từ nơi này qua nơi khác và hàng ngh́n người ham thích lắng nghe những lời cậu nói.

Lúc đó th́ không ai biết cậu ở đây và tôi th́ đă quyết định đi ngược lên miền bắc, qua bắc Myanmar để đến Trung Quốc (Vân Nam), nên tôi từ giă Nyanatiloka khả kính, trở lại Mandalay và đi bằng tàu thủy chạy bằng hơi nước ngược lên Bhamo, nơi mà các đoàn người ngựa phát xuất đi Vân Nam.
 
Trong một tu viện nhỏ gần một ngôi chùa tôi t́m được chỗ nghỉ và nơi đó tôi căng chiếc giường dă chiến, ngủ trong chính điện.

Sau khi ở trên boong tàu đầy người, chúng tôi sống như trong một đại gia đ́nh th́ bây giờ có cảm giác thật kỳ lạ; bỗng nhiên ở một ḿnh trong một căn pḥng tối và rộng, trong đó có ba tượng Phật bằng đá trắng với miệng cười như nhau nh́n xuống tôi.
 
Trước khi đi ngủ tôi hỏi thăm giờ giấc v́ đồng hồ đă đứng do lên giây. Thế nhưng không một nhà sư nào biết nói tiếng Anh và xem ra trong điện chẳng có cái đồng hồ nào, nên không ai giúp tôi được.

Sáng hôm sau khi tôi ngủ dậy và thấy xung quanh toàn những người, tôi không biết ḿnh đă ngủ bao lâu. Vài người trong số đó mang theo thau đựng nước, khi tôi chưa hiểu ǵ cả th́ họ đă đi nhanh đến tượng Phật và tạt mạnh vào tượng.
 
Tưởng chừng như điện đang có đám cháy. Tôi không hiểu họ hành động kỳ lạ như thế với mục đích ǵ và cũng đang lo ḿnh sẽ cùng chung số phận bị tạt nước như Phật. Nhưng may thay họ biến mất, không chút ǵ để ư đến tôi.

Về sau tôi mới biết đó là ngày “lễ nước”, theo lệ th́ họ “tắm Phật” và ngoài đường người ta xịt nước lẫn nhau chỉ những người mang áo vàng mới được tha. Xem ra nhờ chiếc áo vàng mà tôi đỡ phải nước lạnh.
 
Thế nhưng tôi tự nhủ cần chuẩn bị những bất ngờ xảy ra. Điều bất ngờ quả nhiên đến với tôi: một người thợ đồng hồ, ông bảo đến để sửa đồng hồ cho tôi. Ông bảo phải đi từ phố đến cái đền xa xôi nay v́ được nghe là chiếc đồng hồ tôi bị hư.
 
Khi tôi bảo đó chỉ là sự hiểu lầm và chiếc đồng hồ chạy b́nh thường th́ ông cười vui vẻ và cho hay không tiếc công đi v́ nhờ đó mà ông có dịp làm quen với tôi. Tôi cũng nói với ông là tôi rất thích đă t́m ra người nói được tiếng Anh.

Qua tuần trà, chúng tôi nói chuyện vui vẻ, trong câu chuyện tôi có nhắc đến Maung Tun Kyaing và bày tỏ hy vọng một ngày nào đó sẽ gặp được cậu. “Không có ǵ dễ hơn”, người thợ đồng hồ nói, “Maung Tun Kyaing hiện đang ở Bhamo và hôm nay sẽ nói chuyện trong một tu viện, không xa đây bao nhiêu”.

“Thật là trùng hợp hy hữu’, tôi kêu lên, “hành tŕnh của tôi hôm nay dẫn tôi đến đây mà không hề biết Maung Tun Kyaing hiện đang ở vùng này. Hầu như tôi chỉ mong ước là đủ để thành sự thực”.

“Chắc rồi”, ông nói, “đó là sức mạnh của sự mong ước chính đáng, sức mạnh đó sẽ đưa ta đến đúng chỗ. Không có ǵ quá tŕnh xuất hiện trong đời một cách t́nh cờ cả. Tôi nghĩ rằng sự gặp gỡ của chúng ta, dù do hiểu lầm, cũng không phải t́nh cờ mà là một khâu cần thiết để thành tựu mong ước của ông”.

“Ông có lư”, tôi thừa nhận, “và tôi hết sức cám ơn ông đă đến đây và báo cho tôi tin này”.
Khi tôi đến tu viện nơi Maung Tun Kyaing đang lưu trú th́ cậu sắp diễn giảng trước một đám đông đứng chật sân viện. Thật là lạ khi thấy một cậu bé nói trước thính giả với sự ung dung và tự tin của một diễn giả chuyên trách.
 
Khuôn mặt cậu ngời sáng, giọng cậu trong trẻo và có âm điệu như tiếng chuông. Mặc dù không hiểu một chữ cậu nói, tôi cũng rất vui thích được nghe, giọng cậu như toát ra từ trái tim, nghe nhe tiếng chim hót. Sau buổi diễn giảng được mọi người chăm chú lắng nghe, người ta đưa tôi đến gặp cậu, cậu được người cha và một cậu em đi cùng.
 
Cả hai cậu bé đều mặc áo vàng, mặc dù số tuổi thiếu niên, cả hai cậu vẫn chưa gia nhập tăng đoàn. Nh́n bề ngoài th́ Maung Tun Kyaing xem ra chưa tới sáu tuổi, em cậu chắc khoảng năm tuổi. Người ta bảo với tôi rằng Maung Tun Kyaing lên tám và cậu em lên bảy. Thế nhưng giữa hai cậu khác nhau biết bao.
 
Cậu em nh́n giống như bất kỳ đứa trẻ nào khác cùng tuổi; Maung Tun Kyaing th́ ngược lại, có một vẻ đẹp khác thường. Ít khi tôi bắt gặp biểu hiện một sự thông minh và sinh động cao độ như thế, ḥa lẫn với sự thanh tịnh và sức tỏa sáng trên khuôn mặt con người.
 
Cậu không chút e dè khi tôi xem các dấu hiệu tốt đẹp trên người cậu mà người cha chỉ cho tôi thấy, thông qua một người thông dịch. Cậu trả lời mọi câu hỏi của tôi không chần chừ và với sự cởi mở tự nhiên.

Câu chuyện về đời cậu được người cha kể lại, một người đơn giản, cởi mở và được Maung Tun Kyaing cũng như những tu sĩ và cư sĩ có mặt công nhận. Câu chuyện này đối với tôi là bằng chứng thú vị nhất và quan trọng nhất cho ư niệm của sự tái sinh và khả năng nhớ lại tiền kiếp. Cũng may là tôi có sẵn giấy bút để ghi lại mọi điều của cuộc phỏng vấn, cách đây đă 34 năm. Câu chuyện như sau:

Maung Tun Kyaing là con một người đan chiếu nghèo, không biết đọc cũng không biết viết. Lúc lên bốn, người cha mang cậu và đứa em ra chợ phiên ở làng bên cạnh. Khi họ đến gần làng th́ gặp một người vai mang một bó mía, đem ra chợ bán.
 
Người đó thấy hai đứa trẻ, có lẽ anh nghĩ rằng người cha không mua được ǵ cho con nên tặng mỗi đứa trẻ một khúc mía. Trong lúc đứa em mừng rỡ vội ăn mía th́ Maung Tun Kyaing nhắc em trước khi ăn phải cám ơn người cho hoặc chúc lành người đó (Sukkhi hotu là cách nói theo tiếng Pali mà các tu sĩ hay nói).
 
Khi cậu nói với em điều đó th́ đường như cánh cửa của trí nhớ tiền kiếp bỗng mở toang và dưới ảnh hưởng của kư ức ào ạt, cậu nhờ cha nâng ḿnh lên vai và nói về hạnh bố thí (một trong những hạnh quá tŕnh của Phật giáo). Người cha vui ḷng mỉm cười làm theo, cho đó là chuyện trẻ con.
 
Thế nhưng trước sự ngạc nhiên của ông và mọi người chung quanh, cậu bắt đầu giảng về hạnh bố thí theo một cách mà không ai có thể làm hoàn hảo hơn. Càng lúc càng có nhiều người tụ tập để nghe người giảng pháp trẻ tuổi này, người cha bối rối không biết làm sao với sự thay đổi đột ngột của con ḿnh. Cậu bé th́ thản nhiên như không và nó với cha sau bài giảng:
 
“Thưa cha, ta hăy đến tu viện con”.

“Con nói ǵ, tu viện của con?”

“Đó tu viện đó, cha không biết sao?”

“Ta không nhớ là con từng đến đó”, người cha đáp,
 
“nhưng ta cứ đến đó xem sao”.

Khi họ đến tu viện th́ gặp một nhà sư già, đó chính là vị tu viện trưởng. Maung Tun Kyaing th́ hầu như lạc trong suy tư, nh́n vị sư già mà không biết làm lễ. Người cha nh́n cậu và nhắc “Con kính chào ḥa thượng đi chứ”.
 
Nghe xong cậu bé chào vị sư trưởng, nhưng theo kiểu ngang hàng chứ không theo cách thông thường là qú vái, trán đụng đất.

“Con không biết ta là ai sao?”, vị sư trưởng hỏi.

"Tất nhiên là con biết”, cậu bé trả lời không chút lúng túng. Và khi vị sư trưởng ngạc nhiên nh́n cậu, cậu nói tên vị ḥa thượng.

“Làm sao con biết? Có ai cho con nghe tên ta chăng?

“Không” cậu trả lời. “Thầy không nhớ sao, con là đạo sư của thầy, U Pandeissa”.

Vị sư trưởng ngạc nhiên tột độ, nhưng muốn chắc chắn, ông hỏi cậu: “Thế th́ con phải biết ta là ai, trước khi ta gia nhập tăng đoàn, Nếu con nhớ ra th́ hăy nói nhỏ vào tai ta” (36).

Và cậu bé làm theo lời yêu cầu. Và khi vị thượng tọa nghe đến tên tục ḿnh, mà không ai biết đến ngoài ông và vài người khác, những kẻ biết đến ông từ bé và lớn lên cùng thời với ông, th́ ông qú xuống chân cậu, trán đụng đất và kêu lên giọng đầy nước mắt:
 
“Tôi biết rồi, Ngài là thầy của tôi”.

Ông đưa cậu cùng người cha và đứa em vào tu viện, nơi đó Maung Tun Kyaing biết rơ từng chi tiết, đồng thời nhắc đến một cái pḥng nơi cánh đông, chỗ cậu từng ở và hay thiền định.
 
Nhắc lại tượng Phật mà cậu hay thờ cúng, mỗi ngày thắp nhang đèn và những điều khác mà vị thượng tọa cũng biết đến. Cũng chưa bao nhiêu năm trôi qua, kể từ ngày U Pandeissa, vị sư trưởng của tu viện Yungkyaung nhập diệt.

Thế nhưng điều trọng nhất là Maung Tun Kyaing không những chỉ nhớ đời sống tiền kiếp mà cậu c̣n giữ lại tri kiến xưa. Khi vị thượng tọa chỉ cậu vài đoạn kinh Pali cũ, cậu tỏ ra đọc và hiểu rơ, mặc dù chưa hề đi đến trường và lớn lên trong một gia đ́nh không ai biết đọc viết chứ đừng nói về kiến thức về ngôn ngữ Pali. Và nếu c̣n có nghi ngờ ǵ về việc nhớ lại tiền kiếp th́ đây là minh chứng.

Khi người cha và hai con chuẩn bị về nhà, ngôi nhà cũng nằm trên bờ sông như tu viện, th́ vị sư trưởng đề xuất lấy một trong những chiếc thuyền của tu viện mà đi. Mọi người đi xuống bờ, nơi đó có nhiều thuyền đỗ, vị sư hỏi Maung Tun Kyaing muốn lấy chiếc nào. không chút chần chừ Maung Tun Kyaing chỉ và một chiếc, đó là thuyền của ḿnh.

Thuyền của người Myanmar thường mang màu sức rực rỡ, đầu thuyền có vẽ hai mắt, trông chúng như những con vật sống động. Điều này phù hợp với niềm tin truyền thống cổ Myanmar, cho rằng mọi sự đều sống, mọi sự có một cuộc đời riêng v́ chúng có thần, gọi là nat.
 
Thế nhưng nếu ai biết hô triệu danh tánh và biết các điều liên hệ đến một nat th́ họ có quyền lực với chúng ta và v́ thế không ai nói danh tánh này cho người khác. Chỉ chủ nhân và những người bạn thân cận mới được biết.

V́ thế vị sư trưởng nói: “Ngài bảo thuyền này của Ngài, thế th́ Ngài có biết tên nó chăng?”. Cậu bé trả lời đúng tên.

Sau tất cả những bằng cớ này th́ không c̣n ai nghi ngờ việc Maung Tun Kyaing chính là U Pandeissa tái sinh, vị sư trưởng cũ của Yunkyaung và mọi người đều muốn nghe cậu giảng. Khắp nơi đều gửi cậu lời mời và cha mẹ cậu lo lắng cho sức khỏe con ḿnh không biết có kham nổi không.
 
Nhưng cậu phản đối những ưu tư và nói: “Đức Phật trải qua vô số kiếp, hành động quên ḿnh và hướng đến giác ngộ. V́ thế con cũng không ngại khổ để đạt Phật quả. Chỉ khi đạt được mục đích cao nhất con mới làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh.”

Các bài giảng của cậu gây ấn tượng đến nỗi hàng ngàn người đến thăm và nghe cậu. Thậm chí cả một tu viện v́ quá nhiều người chen chúc đă bị sập nhưng may không ai chết, v́ tu viện Myanmar được làm phần lớn bằng gỗ, xây trên các cột gỗ cao. Ṭa nhà v́ thế mà lụn từ từ. Đủ thời giờ cho mọi người chạy thoát.

Cuối cùng th́ danh tiếng của Maung Tung Kyaing đến tai vị thống đốc bang Myanmar, Sir Henry Butler, lúc đó ông đang ở cung điện mùa hè tại Maymyo. Để kiểm tra sự thực về những ǵ mọi người kể về cậu, ông cho người đưa cậu đến Maymuo.

Maung Tun Kyaing không những chỉ minh chứng về mọi mặt tiếng tăm của ḿnh, cậu c̣n tŕnh bày một cách thuyết phục giáo lư Phật giáo để cuối cùng Sir Henry tặng cậu rất nhiều kẹo bánh và thêm một tờ giấy bạc trăm ru-pi.
 
Maung Tun Kyaing cũng như cha cậu chưa bao giờ thấy một tờ giấy bạc lớn như thế, chưa hề sở hữu món tiền như thế bao giờ, thế nhưng cậu từ chối không nhận v́ theo lời cậu nói không thể đem pháp ra mà bán và theo quy định của tu sĩ là không nhận tiền bạc.
 
Thế nhưng cậu nói thêm là kẹo bánh th́ có thể nhận, lương tâm cho phép, v́ cậu được nhận thực phẩm biếu tặng. Mặc dù những qui định này chưa ràng buộc đến cậu nhưng Maung Tun Kyaing tự xem ḿnh là tỉ kheo, trong kiếp trước là thế, kiếp này cũng thế.

Maung Tun Kyaing cũng muốn tặng lại vị thống đốc một món quà nhưng v́ không có ǵ ngoài chuỗi hạt, cậu cởi nó ra từ ṿng tay và tặng vị thống đốc, vị này hết sức xúc động và tươi cười nhận lấy. Khi cám ơn cậu, ông nói:
 
“Thế th́ cậu phải chỉ cho tôi cách sử dụng chuỗi hạt như thế nào” và Maung Tung Kyaing trả lời: “Nó dùng để quán tưởng ba tính chất của đời sống, đó là vô thường, khổ và vô ngă". Sau đó cậu giải thích ngắn gọn ư nghĩa từ ba từ này trong giáo lư Phật giáo.

Vị thống đốc có ấn tượng sâu sắc khi nghe những sự thực thâm sâu đó từ miệng một đứa trẻ. Làm sao một đứa trẻ bốn tuổi mà đạt được sự minh triết của một cụ già? V́ đứa trẻ đó nói năng không phải như một đứa trẻ, chỉ lặp lại chữ nghĩa do ai dạy cho mà không hiểu được ư nghĩa.
 
Ngược lại, cậu nói chuyện đầy tính thuyết phục và ḷng thành tâm, nên Sir Henry không nghi ngờ v́ về sự thực này và yêu cầu cậu hăy mang thông điệp của ḿnh đến với toàn dân Myanmar:
 
“Hăy đi từ góc này đến góc kia của đất nước và giảng cho những người cao nhất đến những kẻ thấp nhất, cả những tù nhân trong trại giam. V́ không ai hơn cậu có thể làm rung động được trái tim của những tên đạo tặc chai ĺ nhất cũng phải mềm dịu trước niềm tin thành khẩn và tấm ḷng tốt đẹp”.

Thế nên khắp nơi trên Myanmar, không những trái tim mà cả những cánh cửa trại tù cũng mở ra cho người giảng pháp bé nhỏ này, người mà đi tới đâu cũng mang lại niềm vui và ḷng sùng tín nơi con người, cho họ một niềm tin mới.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 786 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 11:37am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
 
PHẦN THỨ TƯ

MIỀN NAM & TRUNG TÂY TẠNG


GIAI ĐOẠN MỚI: ADSCHO RIMPOTSCHÉ
 


Kể từ chuyến đi lên vùng cao nguyên miền tây Tây Tạng và Ladakh mà từ đó tôi mang về lại toàn thể h́nh ảnh của tám mươi bốn vị Thành tựu giả (Siddha) và một số lớn bản sao các bích họa trong các đền thờ th́ tôi quan tâm về đạo lộ huyền bí của các vị tất địa, về giáo pháp và cuộc đời của họ, có phần lịch sử, có phần huyền hoặc cũng như h́nh tượng của họ, mối quan tâm đó ngày càng lớn.

Với mối quan tâm đó, tôi quyết định đi thăm đền của vị Rintschen Sangpo tại vương quốc Guge ngày nay đă hoang phế, v́ tôi hy vọng sẽ t́m thấy những ǵ c̣n sót lại của truyền thống tâm linh cũ nhất và cũng hoàn hảo nhất của nghệ thuật tôn giáo Tây Tạng.

Kể từ ngày xuất hiện linh ảnh trong đến núi đá trên đường đi Tschang-Thang đến nay th́ sáu năm đă trôi qua đó là một biến cố đă mở mắt cho tôi về ư nghĩa phi thường của những linh ảnh đầy sáng tạo và vai tṛ của nghệ thuật trong tôn giáo, nó vượt lên giá trị thiện mỹ thông thường, nó ẩn chứa cái ch́a khóa mở ra cho chúng ta thấy các man-đa-la, mở ra các linh ảnh và cả toàn bộ phép tu thiền định cũng như mỗi song hành giữa thế giới nội tại của con người với vũ trụ xung quanh.

Tôi dùng sáu năm đó để nghiên cứu đời sống tâm linh và kinh sách Tây Tạng và để sưu tầm tất cả thông tin về hoạt động của Rintscheen Sangpo cũng như vài tṛ của ông trong việc thiết lập và củng cố Phật giáo tại miền tây Tây Tạng bị điêu tàn sau thời Langdarma. Thế nhưng lúc chuẩn bị chuyến viếng thăm lại tây Tây Tạng th́ chiến tránh thế giới lần thứ hai nổ ra và hủy tất cả hy vọng thực hiện kế hoạch của tôi.

Tsaparang trở nên một cái đích hầu như không thể đạt tới đối với tôi. Trong thời gian đó th́ tôi t́m được nơi Li Gotami người bạn đồng hành trong kế hoạch của ḿnh, người đàn bà quyết định cùng chia sẻ công việc và cuộc đời với tôi, trên cơ sở mục đích tâm linh và nghệ thuật chung cũng như quan tâm đặc biệt của Li về nghệ thuật Tây Tạng.

Chúng tôi làm quen với Rabindranath Tagore (37) trong viện đại học quốc tế Santinikentan tại Bengal, nơi tôi làm giảng viên cho lớp cao học và cũng là nơi Li Gotami trải qua mười hai năm nghiên cứu nghệ thuật Ấn Độ (lúc đầu với Nandal Bose và về sau với Rabindranath Tagore) và học được nghệ thuật làm bích họa cũng như tranh thanka của nghệ nhân Tây Tạng.

Tôi đưa Li vào các chi tiết của h́nh tượng cũng như thế giới quan Tây Tạng và cuối cùng Li cùng tôi thọ giới phái Kargyutpa, trở thành vợ tôi và là bạn đồng tu. H́nh như Tomo Géché Rimpotsché đă biết trước điều này v́ ông đă ban phép cho Li trong lần gặp cuối cùng tại Sarnath và khi nghe Li hỏi liệu có thành công lớn nếu dâng hiến đời cho phương pháp.

Lễ cưới tôn giáo của chúng tôi được chủ tŕ bởi Adscho Rimpotsché (38), ông là tu viện trưởng của Tsé-Tscholing. Một vị lạt ma thân thiết lâu năm với tôi khuyên tôi nên cầu thỉnh đến Adscho, lúc đó Adscho đă tám mươi bốn tuổi và là một đại sư trong phép tu thiền định.

Niềm tôn kính ông ở miền nam Tây Tạng cũng như tại Bhutan và Sikkim được thể hiện bằng một ngôi đền hai tầng tuyệt đẹp xây nên do sự cúng dường của tín đồ. Mặc dù trong tay ông là những số tiền khổng lồ cho ṭa nhà, tranh tượng cũng như mua thỉnh nhiều kinh sách và trang thanka quí giá, ông không có tài sản cá nhân nào cả và sống hết sức đạm bạc trong một căn nhà gỗ nhỏ dưới chân đền.

Cũng như các vị lạt ma tại Latchen và các vị tất địa trước ḿnh, ông là người có gia đ́nh. Vợ ông là một người Damema đích thực, một con người vị tha, như vợ của Marpa. Bà là mẹ của tất cả những ai nằm trong ṿng quen biết của bà và của chồng bà, nhất là đệ tử của ông.

Adscho Rimpotsché là hiện thân của vị tất địa Dombhi-Beruka vào thế kỷ thứ tám sau Công nguyên, người đă từ bỏ ngôi vua để sống cuộc đời thiền định trong sự cô tịch của rừng núi, nơi mà sau nhiều năm tinh tấn giác ngộ và trở thành một vị tất địa.

Sau khi chứng ngộ, ông trở lại với quần thần và trở thành vị nhà lănh đạo tâm linh, là tấm gương sinh động của sự chứng thực của con người và phụng sự cho chúng sinh. Được nhận phước lành của một người như thế va được ông khai thị cho các phép thiền định và ấn quán đặc biệt, đối với chúng tôi là một biến cố, thêm sức mạnh cho đời sống tâm linh của ḿnh.

Sau Tomo Géché Rimpotsché, không có sự tiếp nối nào hoàn hảo hơn, để có thể hướng dẫn và cảm khái chúng tôi. Thậm chí tôi thấy rằng, tất cả những lần quán đỉnh vào các phép thiền định và giáo pháp của Kim cương thừa mà chúng tôi nhận được trong hai năm sau đó từ những lần đi hành hương tại miền nam, trung và tây Tây Tạng.

Chúng không những chỉ có liên hệ với nhau, mà nằm trong một man-da-la hoàn hảo. Nằm trong một “ṿng tṛn huyền bí”, trong đó chứa đựng tất cả khía cạnh quan trọng của đời sống tâm linh Tây Tạng.

Điều kỳ lạ là trong thời gian ở Yiga Tscholing tôi được một người bạn gốc Sikkim tặng cho một bức tranh thanka vẽ một đồ h́nh man-đa-la:

Phật Thích-Ca Mâu-Ni ở giữa, phía trên là A-Di-Đà, hiện thân của Vô lượng quang, phía dưới là Liên Hoa Sinh, người giảng Tử Thư (Bardo Thodol) và giáo pháp huyền bí “đạo lộ trực tiếp”.

Hai góc phía trên một bên là Văn Thù, hiện thân của trí huệ siêu việt và góc kia là thần Tara, nữ thần giải thoát, hiện thân của t́nh thương từ mẫu, mặt bổ túc của trí huệ siêu việt của Văn Thù.

Hai góc kia, một bên là Quán Thế Âm, hiện thân của ḷng từ bi và tâm sẵn sàng cứu độ, c̣n góc kia là Kim cương thủ, người giữ Kim cương chử của sức mạnh tâm linh và của giáo lư bí truyền.

Ư nghĩa sâu kín của bức thanka được tŕnh bày qua vị trí của các h́nh. Nó là then chốt mở cánh cửa của đạo lộ thiền định mà man-đa-la chứa đựng. Không có nó th́ các h́nh ảnh chỉ là những biểu tượng chết cứng chứ không phải là bảng chỉ đường dẫn lối cho hoạt động tâm linh trên đường giác ngộ.

A-Di-Đà, Thích-Ca Mâu-Ni và Liên Hoa Sinh đại diện cho sự giáng hiện của nguyên lư tâm linh xuất hiện từ pháp thân thường trụ, biến thành dạng xuất hiện nhất thời của Ứng thân, trong dạng của Đức Phật lịch sử và người đại diện vĩ đại của Ngài, người đưa đạo Phật đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám.

Trục trung tâm của sự giáng hiện tâm linh và thứ tự thời gian nằm thẳng đứng trên b́nh diện phi thời gian (v́ luôn luôn hiện diện) của b́nh diện tâm linh. Từ nơi đây pháp thân tùy theo tính chất của Phật quả, tách ra:

Tương tự như một lăng kính trong đó một tia sáng tách ra nhiều màu khác nhau. Nơi đây là chỗ sinh ra các h́nh ảnh uyên nguyên của phép thiền định: nó tŕnh bày những thân khác nhau tùy theo tính chất của kẻ giác ngộ.

Báo thân chỉ là thân hữu sắc nhưng phi thời gian và phi vật chất, đó là thân nằm giữa pháp thân, vô sắc, phi thời gian và ứng thân, đó là thân vừa thân vật chất (thân người) vừa phi vật chất (một dạng xuất hiện thấy được của thiên nhân giáng thế).

Trong man-đa-la này của chúng ta th́ các báo thân chính là bốn góc của h́nh vuông (hay bốn cánh của một hoa sen), mà đường chéo của nó cắt nhau tại chỗ Thích-Ca Mâu-Ni, điều đó nói lên các tính chất của những báo thân đó hội tụ trong Ngài.

Nếu hai đường chéo của h́nh vuông nối hai h́nh lại với nhau trong một nguyên lư như nhau, th́ những đường ngang và dọc của h́nh vuông báo thân nối lại những h́nh mà chúng có tính chất đối lẫn nhau; v́ theo quan điểm Phật giáo th́ sự thăng bằng tâm linh là điều kiện tiên quyết của giác ngộ.

Nếu chỉ thuần trí huệ hay thuần từ bi cũng không dẫn đến giải thoát. Trí huệ thiếu từ bi sẽ dẫn đến sự khô cứng, từ bi thiếu trí huệ sẽ dẫn đến sự tan ră.

Chỉ nơi mà tim và óc hợp lại th́ mới có giải thoát đích thực. Trong thuật ngữ Phật giáo th́ Bát Nhă (prana, trí huệ, tri kiến) và phương tiện (upaya), phương cách để tỏ lộ những ǵ tri kiến như ḷng từ, ḷng bi, hai mặt đó phải thăng bằng với nhau.

Nói cách khác: sự thống nhất của nguyên lư nhận thức và nguyên lư cảm xúc, giữa Logos và Ethos, giữa tư duy và hành động, giữa tính chất lư trí và cảm xúc, giữa hiểu biết và hành động… là cần thiết để chứng thực cái cao nhất mà con người đủ sức đạt tới. Thế nên các đường nằm ngang phía trên thể hiện như sau;

- (trái) Văn Thù, nguyên lư nhận thức với kinh trí huệ siêu việt ở tay trái (thụ động), với lưỡi kiếm của trí huệ phân biệt ở tay phải (chủ động).

- (phải) Tara, ḷng cứu độ từ mẫu, người giải thoát hiểm nguy, nguyên lư cảm xúc.

Đường ngang phía dưới;

- (trái) Quán Thế Âm, thể hiện ḷng từ bi, nguyên lư dương - chủ động cảm xúc; và ngược là với Quán Thế Âm là

- (phải) Kim cương thủ, khía cạnh mạnh của Bát Nhă.

Sự đối cực tương tự được nhắc lại trong đường thẳng đứng của h́nh vuông báo thân:

- (trái) phía trên là Văn Thù, là khía cạnh trí huệ và Quán Thế Âm (dưới) là khía cạnh từ bi của Phật tính.

- (phải) phía trên là Tara, là khía cạnh cảm xúc và Kim cương thủ (dưới) là khía cạnh sức mạnh của nguyên lư nhận thức.

Tất cả những tính chất của h́nh vuông báo thân đều được biểu hiện trong dạng ứng thân của Phật Thích-Ca Mâu-Ni và cũng trong người kế vị là Liên Hoa Sinh.

 Thế nhưng nếu trong Thích-Ca Mâu-Ni, dạng trí huệ của Văn Thù và khía cạnh bổ sung là ḷng từ bi mẫu tử (như trong kinh Từ Bi thể hiện) được nhấn mạnh th́ với Liên Hoa Sinh, khí cạnh uy lực của nhận thức mật điển và ḷng từ bi cứu độ mọi loài của Quán Thế Âm Bồ-tát là chủ yếu.

Để bày tỏ mối liên hệ này, Văn Thù và Tara được để trên cao tả hữu của Thích-Ca Mâu-Ni, trong lúc Quán Thế Âm và Kim cương thủ nằm bên tả hữu của Liên Hoa Sinh.

Cũng như vị Phật Thích-Ca Mâu-Ni, người được xem là bổn sư của thời đại chúng ta, nằm trong trung tâm của thanka th́ vị đạo sư luôn luôn nằm trong tim của người tṛ, v́ giữa cá vị thầy đích thực không bao giờ có sự cạnh tranh cũng như không bao giờ có sự cạnh tranh giữa các khía cạnh của sự thực.

Mỗi vị thầy chỉ có thể đáp ứng những ǵ bản thân ông đă chứng thực, điều mà ông đă hiện thân nơi chính con người ḿnh. Không có vị thầy riêng lẻ nào có thể tận dụng hết mọi khía cạnh của thực tại; và dù điều này xảy ra th́ ông vẫn có con đường riêng của ḿnh đă đi đến đích cao nhất.

Thế nên, không những chỉ tùy thuộc nơi sự thành tựu của thầy mà c̣n tùy nơi cá tính và khả năng của tṛ, qua đó mà biết phương pháp nào là hiệu nghiệm nhất cho tṛ. V́ rằng mục đích cuối cùng của mọi phương pháp chỉ là một nên thực ra không có mâu thuẫn hay bất ḥa giữa chúng với nhau.

Thật là bất hạnh nếu cứ nhảy từ phương pháp này qua phương pháp khác mà không học được điều ǵ đáng kể trong mỗi thứ đó.

Lễ điểm đạo của một đạo sư đích thực không hề giống các giáo phái mê tín: đó là sự tỉnh thức để thấy chính tực tại nội tại của ḿnh, cái mà dù có ngắn ngủi nó phải được thấy, cái sẽ quyết định sự phát triển tiếp theo cũng như thái độ sống tích cực của chúng ta.

V́ thế, điểm đạo là món quà quư nhất của vị đạo sư, một món quà quí hơn vô số lần gia nhập tăng đoàn một cách h́nh thức (hay bất cứ một hội đoàn tôn giáo nào).

Điều này thường được diễn ra bất cứ lúc nào, không đ̣i hỏi chất lượng tâm linh của người chủ lễ hay người gia nhập chỉ cần lượng tâm linh của người chủ lễ hay người gia nhập chỉ cần người gia nhập chấp nhận các qui luật đă định và không bị những bất toàn về tâm linh, đạo lư hay vật lư của ứng viên.

Thế nên một vị thầy chỉ có thể cho những ǵ ông đă chứng đạt được và để trao truyền những ǵ đă chứng thực, ông phải đủ tŕnh độ động viên tất cả năng lực nơi ḿnh trước khi làm lễ điểm đạo.

V́ thế ông cần chuẩn bị kỹ lưỡng, không phải chỉ thuần lư như một vị thầy giáo trong trường trung hay đại học về bài giảng của ḿnh bừng cách thu nhặt tất cả những điểm chính yếu và tŕnh bày lại với một tŕnh tự có lư và thuyết phục.

Ngược lại, sự chuẩn bị của một đạo sư tâm linh là tự đưa ḿnh tiếp xúc với nguồn suối sâu xa nhất của năng lực tâm thức, để ông có thể tŕnh bày được cái năng lực và tính chất mà ông muốn trao truyền.

Một sự chuẩn bị như thế có thể kéo dài nhiều ngày hay nhiều tuần, tùy theo tự tính của năng lực đó hay tính chất của các biểu tượng tạo tác, chúng là thứ phải được đánh thức trong tâm của người tṛ và biến thành sinh động.

Người được ấn chứng v́ thế phải chuẩn bị bằng cách thanh lọc tâm thức và chú tâm lên các ư niệm và mục đích, họ sẽ thông qua lễ điểm đạo mà trở thành thực tại được chứng nghiệm.

Thế nhưng nước thánh của Vô Lượng Thọ có thể chuyển bằng lễ nghi nguyên thủy, trong đó lễ chuẩn bị cho học tṛ sự tham gia đầy ư thức và giảng rơ những hành động và biểu tượng của lễ.

Nếu được như thế th́ kẻ tiếp nhận có đủ khả năng hô triệu năng lực của Vô Lượng Thọ cho chính ḿnh và cho người khác, bằng cách người đó phải thực hành diệu pháp (sadhana) của Vô Lượng Thọ và phát huy được những tính chất hiện thân cho Vô Lượng Thọ trong các câu chú của Ngài, cho đến lúc hành giả trở thành chỗ dung chứa xứng đáng của những tính chất đó.

Chỉ khi nào đạt được mức này th́ hành giả mới có thể truyền những năng lực tâm linh lên người khác, những năng lực đă được tự ḿnh chứng ngộ. Adscho Rimpotsché là một trong những đạo sư hiếm hoi hoàn toàn ư thức về những điều này.

Ông không ngại bất cứ điều ǵ để chuẩn bị cho chính ḿnh và cho học tṛ buổi lễ điểm đạo đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Bàn thờ điểm đạo là một tác phẩm nghệ thuật, được dựng lên kỹ lưỡng và đúng nghi lễ của truyền thống tâm linh truyền thống mà cái đẹp được diễn tả một cách tự nhiên, hồn nhiên của ư nghĩa nội tại nằm trong nó, chứ không phải nhằm mục đích đạt tới một hiệu quả mỹ thuật nào.

Yếu tố hiệu ứng của loại nghệ thuật xa lạ, trống rỗng không hề có tại Tây Tạng. Bàn thờ tạo nên một man-đa-la hoàn hảo gồm nhiều biểu tượng và Adscho Rimpotsché giảng cho chúng tôi ư nghĩa và chức năng của chúng, nhờ đó mà chúng tôi hiểu vai tṛ của chúng trong buổi lễ.

Điều làm chúng tôi quí nhất là các khai thị của ông về các chi tiết trong nghệ thuật thiền định và phép tạo linh ảnh, mà lễ điểm đạo đă mở đường cho chúng tôi cũng như các câu chú được trao truyền mà chúng tôi cần tu tập hàng ngày.

Chỉ trên cơ sở của linh ảnh tạo tác (dhyana), chúng được kết tinh bởi sức mạnh sinh động của các âm nội tại (mantra) để thành thứ bậc toàn thể của một man-đa-la, chúng tôi mới hiểu được ư nghĩa của nghệ thuật tôn giáo Tây Tạng nhất là của các tranh thanka và các bích họa.


 

CÂU CHUYỆN TẠI DUNGKAR GOMPA

 



Kể từ ngày Tomo Géché Rimpotsché mất, tôi chưa có lại lần nào một cảm giác tâm linh tràn ngập mối liên hệ tinh thần sâu xa như thế, cái nói lên sợi dây giữa thầy và tṛ. Tuy thế Adscho Rimpotsché vẫn không hề làm lu mờ ấn tượng của vị thầy đầu tiên của tôi, mà ngược lại, ông trở thành một mắc xích tiếp theo, nối tôi với ông bằng cách tăng cường và bổ sung những ǵ tôi đă nhận được trong thời gian trước ở Yiga - Tscholing.

Trong mối liên hệ đó, tôi cảm động nhớ lại sự hỗ trợ mà tôi nhận được từ bạn đồng môn (guru-bkhai) viện trưởng Dangkar Gompa, người quản lư tu viện chính của Tomo Géché Rimpotsché khi ông vắng mặt hay khi ông tái sinh lại nhưng c̣n nhỏ tuổi và học tập tại Sera gần Lhasa.

Ḷng mến khách và sự sẵn sàng giúp đỡ của sư trưởng trong thời gian tôi lưu trú tại Dungkar Gompa thật là đáng xúc động và khuyến khích tôi, v́ nó cho thấy ḷng khoan dung cũng như ­ tôn trọng lẫn nhau luôn có giữa các chi phái khác nhau trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, trong đó tất cả những người nhập ḍng đều được đáng kính trọng, không kể trường phái nào.

Người ta cho chúng tôi một Lhakhang nhỏ rất đẹp để ở, đó là một pḥng cúng riêng thường được dành cho các vị lạt ma tái sinh hay các bậc trưởng thượng. Theo giới luật của phái Gelugpa (sống độc thân) th́ nữ nhân không được lưu trú ban đêm trong tu viện, nên người ta cho Li Gotami ở trong một pḥng nhỏ của ṭa nhà ngoài làm chỗ ngủ, đối diện với cửa ra vào.

Thế nhưng Anila (39) không có ǵ phải sợ khi ở một ḿnh, vị quản đốc viện nói thêm một cách tự nhiên: “Bà sẽ ngủ chung pḥng của vị lạt ma chủ pḥng”. Để cho rơ hơn, tôi liền nói cho quản đốc hay là chúng tôi sẽ ở với nhau trong pḥng đó ban đêm v́ nếu hành lư chia đôi thật là bất tiện.

Vị quản đốc nói điều đó thật ra không có hậu ư ǵ v́ tại Tây Tạng, pḥng nghỉ thật là khó kiếm và trời giá lạnh nên thường khách hay du hành hay hành hương hai phái nam nữ đều ngủ chung pḥng ban đêm và người ta không thấy có ǵ đáng phải băn khoăn.

Chúng tôi sớm có cơ hội để quan sát điều này. Pḥng chúng tôi ngủ đêm có một vách ngăn bằng gỗ, thế nhưng một đầu hở nên nó chỉ ngăn đôi vậy thôi, bên này có thể nh́n thấy bên kia. Vị lạt ma ngủ một bên của vách ngăn, c̣n chúng tôi ngủ bên kia. Ông là người rất thân thiện và ân cần, không làm phiền điều ǵ nên chúng tôi thấy góc riêng dành cho ḿnh như ở nhà vậy.

Trong những ngày lễ, rất nhiều khách từ lũng Tomo và Amotschu lên tu viện và những ai ở xa không thể về lại cùng ngày đều ngủ đêm tại Gompa, đàn ông th́ ngủ trong tu viện, đàn bà con gái nghỉ trong các ṭa nhà ngoài. Thế nên chúng tôi và vị chủ pḥng có khi phải ở chung với một số lớn các bà, họ không ngần ngại chia nhau nằm trên nền của hai bên vách gỗ và ngủ qua đêm với chúng tôi.

Trong những chuyến đi sau chúng tôi có dịp quan sát sự tự nhiên và ḷng hiếu khách vô cùng của người Tây Tạng. Họ không bao giờ câu nệ điều ǵ. Trong những ngày nóng nực có khi phụ nữ mùa gặt hái họ ở trần làm việc khi mặt trời trong lũng quá nóng.

Tất nhiên điều đó chỉ xảy ra ở vùng dân cư c̣n đơn giản chứ không c̣n ở các xă hội đă tinh tế như tại Lhasa, nơi mà chúng tôi tiếp xúc trong thời gian lưu trú tại Gyantsee. Nơi đó chúng tôi sống thời gian dài trong ṭa Yabschi Punkhang, điện của một gia đ́nh vương giả tại Lhasa, gia đ́nh này có quan hệ hôn nhân với hoàng gia Sikkim.

Nói chung th́ vị trí của phụ nữ tạ Tây Tạng rất cao. Họ đóng một vai tṛ hàng đầu trong cá nghề nghiệp, chỉ trừ chính trị, nhà nước hay lănh đạo tinh thần, các ngành này liên hệ với nhau trong một chế độ tăng lữ.

Mặc dù trong giới phụ nữ cũng có nhiều nữ tu uyên bác và sư trưởng đáng nể trọng nhưng phần lớn họ thiêng về đời sống thực tiễn, họ chuyên ngành buôn bán, quản lư tài sản gia đ́nh.

Họ là người thừa kế chính thức mọi bất động sản, chúng không được chia cho từng con cháu mà được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, thông qua người phụ nữ chủ chốt trong gia đ́nh để tránh chuyện xé lẻ và mất mát của đất đai canh tác vốn hạn chế, đất này thường được tưới tiêu theo phương pháp thủ công.

V́ điều kiện kinh tế này mà người Tây Tạng phải t́m cách giữ vững dân số của ḿnh theo khả năng cho phép. Điều này một phần đạt được nhờ tục đa phu - phần lớn ở trong các vùng sa mạc miền tây Tây Tạng hay vùng núi non phía bắc phần khác cũng v́ tục lệ, trong gia đ́nh ít nhất phải có một con trai, có khi cả một con gái, cống hiến đời ḿnh cho hoạt động tâm linh.

Cả tu sĩ nam lẫn nữ đều được trọng vọng, nhất là những ai uyên bác hoặc thiền định, hoặc thực hành nghi lễ. Đối với người Tây Tạng th́ tri kiến được trọng hầu như là sự thiêng liêng và thường hai mặt này đều thống nhất ở mức độ cao.

Giáo phái Delupa (giáo phái duy nhất tại Tây Tạng nghiêm khắc giữ đời sống độc thân, ngược với giáo phái khác cho phép tín đồ có vợ con hay tự giữ độc thân) coi trọng đặc biệt việc nghiên cứu kinh sách tôn giáo, kể cả nghiên cứu lịch sử, văn minh học, triết học, thơ văn, một phần y học và thiên văn học.

Ngược lại phái Kargyutpa xem trọng sự tu luyện tâm thức bằng phép thiền định hơn kiến thức sách vở và tài năng tranh luận.

Nếu tín đồ Gelugpa thường học tập lâu dài trong tu viện đại học (như Drepung, Ganden hay Sera) th́ minh chứng cao nhất đối với phái Kargyutpa là khả năng ẩn cư lâu dài trong hang cốc, trong các thất thiền định độc cư, nơi mà giáo pháp của thầy và truyền thống tâm linh được thực hành.

Việc học hỏi kinh sách không được coi trọng bằng phép tu thiền định, nó chỉ được dùng như phương tiện cho một số phép tu (sadhana) và dễ hiểu những nguyên lư căn bản của đạo pháp.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 787 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 7:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
HAI VỊ THÀNH TỰU GIẢ Ở TSE-TSCHOLING


Nhờ uy tín cao với tính cách là vị ẩn tu và đạo sư thiền định, với thời gian, Adscho Rimpotsché trở thành nhà lănh đạo tinh thần của Tse-Tschoking, cho nên cả vị tái sinh của sư trưởng chết cách đó nhiều năm (lúc thời gian chúng tôi ở đó th́ cậu vừa lên chín) cũng nh́n ông với cặp mắt kính phục và để cho ông dẫn dắt cho đến ngày lấy lại cái già giặn của ḿnh để nhận trách nhiệm tu viện trưởng.

Adscho Rimpotsché là một trong những “Repa”, người mặc áo trắng theo cách Milarepa. Đó là người không mặc áo choàng đỏ đậm của một vị tăng sĩ mà choàng một chiếc áo trắng có viền đỏ đậm của một vị tăng sĩ mà choàng một chiếc áo trắng có viền đỏ.

Và cũng như Milarepa, ông không cạo tóc mà đội một cái mũ dài trên đầu. Hai tai ông đeo ṿng làm bằng vỏ ṣ xoắn ốc màu trắng theo cách một du sĩ khổ hạnh, như các vị thành tựu giả ngày xưa hay đeo.

Và vị tái sinh trẻ tuổi tại Tse-Tscholing cũng là hiện thân của một vị tất địa từ quá khứ xa xôi, đó chính là Saraha, một trong những nhà thơ lớn huyền bí vào thời đó (thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên). Ngược với Adscho Rimpotsché, Saraha mang áo choàng tăng sĩ và vị gia sư dạy ông, người có ḷng tha thiết như một bà mẹ chăm sóc con nhỏ, là một tỳ kheo đă thọ giới.

Và vị phụ tá cho Adscho Rimpotsché trong buổi lễ điểm đạo chúng tôi cũng là một vị tỳ kheo, c̣n phần lớn các vị sống trong tu viện đều là người có gia đ́nh cả. Họ cũng mặc áo choàng đỏ của tăng sĩ, nhưng sống với gia đ́nh trong các cốc nhỏ riêng biệt nằm gần tu viện.

Trong các dịp lễ, tất cả mọi thành viên của tu viện tụ họp trong chánh điện, và trong những dịp đặc biệt th́ tái sinh của Saraha lên ngồi trên ṭa của ḿnh và dù c̣n nhỏ tuổi, cậu đă thực hiện vai tṛ của ḿnh một cách ung dung và vững chăi.

Thật kỳ lạ khi thấy sự ngây thơ trẻ con hợp nhất với cái minh triết già giặn trong cậu bé nhỏ này và đứa bé trong cậu trực tiếp đổi qua thái độ của một ông già như thế nào rồi trở lại sự hồn nhiên của một đứa trẻ sinh động.

Vị gia sư của cậu nói với chúng tôi, rằng cậu lấy lại tri kiến cũ hết sức nhanh chóng. Cậu có thể đọc thuộc ḷng cả cuốn kinh. Vị phụ tá sư trưởng cũng kể cho chúng tôi nghe người tái sinh trẻ tuổi này đă trở lại tu viện xưa của ḿnh như thế nào.

Cậu được sinh ra trong một làng nằm ngay dưới Dungkar Gompa và khi bắt đầu biết nói, cậu đă nhắc đến một tu viện nằm trên núi, nơi đó cậu đă từng là tăng sĩ. Khi cậu cứ nhắc hoài chuyện đó th́ tất nhiên dân chúng trong làng nghĩ đến Dungkar Gompa v́ người ta có thể thấy nó từ dưới lũng.

Thế nhưng cậu từ chối ư này một cách quyết liệt. T́nh cờ vị phụ tá Tse-Tscholing nghe tin này, lúc đó th́ cậu mới ba bốn tuổi; và là v́ lúc đó chưa t́m ra tái sinh của sư trưởng Tse-Tscholing nên ông cùng vài tăng sĩ già đến làng, nơi cậu ở. Họ nói chuyện được với cậu bé đang chơi gần nhà, nhưng không cho biết ư định.

V́ người Tây Tạng rất thích trẻ con nên không có ǵ lạ khi các du sĩ tỏ ra thích thú nói chuyện với trẻ khi nghỉ dọc đường. Vị phụ tá mang theo một cái bọc đựng pháp khí như các vị lạt ma hành cước thường mang và trong số đồ đạc đó có vài thứ của riêng của vị sư trưởng lúc sinh thời.

Vị phụ tá t́m cớ mở bọc cho cậu bé nh́n từng đồ đạc trong đó. Thấy cậu bé tỏ vẻ quan tâm nh́n các vật dụng đó, vị phụ tá hỏi cậu có muốn vài món trong đó không và thích cái ǵ. không chần chừ ǵ cả, cậu lấy một cái chuông đă bị hư hại đôi chút, mặc dù có các chuông khác không hư và đẹp hơn nhiều nằm bên cạnh.

“Tại sao con muốn cái chuông cũ này? Vị phụ tá hỏi, “Ở đây có nhiều chuông tốt hơn nhiều? Con không muốn lấy cái đẹp hơn sao?.

“Không” cậu bé trả lời: “con thích cái chuông cũ của con hơn”. “Nhưng làm sao con biết đó là cái chuông của con” vị phụ tá ngạc nhiên hỏi.

“V́ ngày nọ chuông bị rớt và bị bể một miếng nơi vành” cậu bé nói rồi ngửa chuông lên cao và vị phụ tá thấy một miếng mẻ nơi vành trong của chuông, điều mà trước đó ông không biết.

Chuyện này về sau được người hầu cận của vị sư trưởng ngày xưa xác nhận, ông nhớ lại chuyện xảy ra. Ông cũng khẳng định nhận xét của cậu là chuỗi tràng hạt mà cậu nói là của ḿnh, chuỗi đó thiếu một hạt đá xanh, hạt này là hạt cuối của 108 hạt gỗ. Mỗi một vật của vị sư trưởng ngày xưa đều được cậu nhận ra ngay, và từ chối các vật không phải của ông trước kia mặc dù những vật đó giống hệt nhau.

Chuyện đáng để ư nhất là lúc cậu được thừa nhận là tái sinh của vị sư trưởng ngày trước, cậu được đưa về lại Tse-Tscholing. Khi vào pḥng dành cho vị tu viện trưởng, cậu nói: “Đây không phải chỗ tôi từng ở, tôi nhớ là chỗ trên đỉnh núi”.

Cậu có lư: pḥng cậu từng ở nằm phía trên của tu viện, trên mỏm đá, nhưng nó đă bị cháy, vốn nó làm bằng đá ở nửa phần dưới, phần trên bằng gỗ. C̣n cái mái nhô ra được lát gỗ mỏng và được đá đè lên như các loại nhà nhỏ trên núi Alpes tại Thụy Sĩ hay Tirol.

Cũng như tại Dungkar Gompa, trong thời gian ở Tse-Tscholing, người ta cũng cho chúng tôi một pḥng thờ riêng rất đẹp. Nhưng theo tinh thần tự do của phái Kargyutpa, cho phép lạt ma độc thân lẫn có gia đ́nh lưu trú, người ta không đ̣i Li Gotami phải ở ngoài tu viện.

Nhờ thế mà chúng tôi ở trong pḥng thờ lớn này, trong đó tượng của Liên Hoa Sinh là quan trọng nhất, xung quanh có nhiều kinh sách giáo pháp mật điển của Liên Hoa Sinh và của các vị kế tục, cất giữ trong những kệ sách mạ vàng.

Những tác phẩm này được biết với tên Terma (báu vật), v́ chúng là vật báu phải chôn kín hay giấu trong hang động vào thời kỳ Phật giáo bị bức hại (như thời kỳ của nhà vua Langdarma), và theo truyền thống th́ khi thời gian chín muồi, chúng sẽ được các vị nối ḍng về sau khám phá.

Giáo pháp Tử Thư, một trong những tác phẩm quan trọng mang tầm kinh điển của toàn cầu với tên Luận văng sinh Tây Tạng thuộc về các báu vật đó.

Lư do mà Adscho Rimpotsché cho chúng tôi ở trong một pḥng thờ chính của tu viện không phải chỉ do ḷng hiếu khách và sự tin cậy: nó có nghĩa là ông không chỉ quí trọng chúng tôi mà đă chấp nhận chúng tôi là thành viên trong tăng đoàn của ḿnh.

Chúng tôi hết sức xúc động khi nghĩ rằng, trong lúc ông sống trong cḥi nghèo nàn, không chút trang trí th́ chúng tôi ở trong một pḥng với cột kèo trang trí sang trọng, xem ra để dành cho một vị vương tước chứ không phải cho người học tṛ đơn sơ.

Một bên của pḥng thờ gồm có một khung gỗ với nhiều tấm kính như ta thường thấy các vê-ran-đa kiểu xưa của Ấn Độ. Nhờ thế mà chúng tôi nh́n ra được khoảng sân rộng răi của tu viện và các ṭa nhà được xây như những bậc cấp tựa vào sườn núi; giữa các ṭa nhà đó là những cây thông cao, cờ cầu nguyện và các tháp.

Chúng tôi cũng thấy pḥng thờ và ở dành cho vị tái sinh trẻ tuổi, cậu ở trong pḥng với nhiều tranh thanka quí giá, bàn thờ khắc chạm và các bàn nhỏ; và chúng tôi cũng thấy nhà nhỏ của vị gia sư, nh́n qua giống như nhà cho búp-bê với kiến trúc bằng gỗ thanh nhă và được vẽ rất đẹp.

Mỗi buổi tối vị gia sư cùng cậu tái sinh đi ṿng quanh tháp và tu viện, chuỗi hạt trong tay và miệng tụng thần chú; vị gia sư long trọng đi trước và cậu bé vui vẻ hồn nhiên đi sau. Xem ra cậu để tâm đến chim chóc bay lượn xung quanh hay con chó nhỏ gặp trên đường đi mà cậu bế lên tay và vuốt ve nó, đến lúc vị gia sư nh́n lui và nhắc cậu hăy nhớ việc ḿnh làm.

Người ta có thể thấy vị gia sư thật ra cũng thông cảm trẻ con vẫn thích chơi với chim chóc hay chó con. Chúng tôi chưa hề thấy ông nghiêm với cậu mặc dù việc giáo dục cho một vị tái sinh thường nghiêm khắc hơn các tiểu tăng khác nhiều.

Vị tái sinh của Saraha là một cậu bé khác thường trong mọi phương diện. Giả như chúng tôi không biết cậu là hóa thân th́ chúng tôi cũng thấy cậu vượt hơn hẳn mọi trẻ cùng tuổi khác rồi, v́ khuôn mặt cậu hết sức thông minh. Cặp mắt cậu đầy sinh động và dáng đi có cái ung dung tự nhiên.

Trong buổi lễ khi ngồi trên ṭa trong điện, cậu rơ ràng là một Rimpotsché (đạo sư) rồi; và khi tiếp chúng tôi trong pḥng riêng, cậu có một sự ḥa lẫn duyên dáng giữa sự cao trọng và cái ṭ ṃ.

Khi Li Gotami vẽ chân dung trong pḥng cầu nguyện của cậu mà đằng sau là các tranh thanka quí giá và các pháp khí khác nhau dành cho vị trí tâm linh của cậu th́ cậu tỏ ra rất quan tâm đến việc này, cậu hết ngại ngùng và nói chuyện tự nhiên lúc nghỉ vẽ.

Rơ ràng là cậu thích thú cái mới của chuyện này. Đồng thời cậu cũng là người mẫu rất tốt, ngồi yên một chỗ trong lúc được vẽ, không tỏ ra có chút mệt nhọc hay thiếu kiên nhẫn.

Ngày nọ, sau một buổi tuyết rơi dữ dội, trong lúc thưởng thức phong cảnh nh́n qua cửa sổ, bỗng nhiên chúng tôi thấy nhiều thân thể trần truồng từ pḥng thờ đi ra và nhảy ṿng ṿng xung quanh tuyết trắng phau, sau đó lăn nhiều ṿng; c̣n chúng tôi th́ lạnh run ở trong pḥng sang trọng nhưng không được sưởi này.

Các thân thể đó không ai khác hơn là vị tái sinh trẻ tuổi và hai cậu khác cùng tuổi đang chơi đùa với nhau. Sau khi lăn lăn lại trên tuyết, họ kéo nhau lại vào pḥng, có lẽ để sưởi; nhưng ít lâu sau họ lại kéo ra, lặp lại tṛ chơi vài lần rồi mới chán.

Chúng tôi vui thích thấy rằng, dù học hành và chịu nhiều kỷ luật, sự rèn luyện thân thể và tṛ chơi đùa thiếu niên không thể bị giảm, mặc dù tính chất tâm linh cao độ của việc dạy dỗ, người ta vẫn không câu nệ.

Ắt hẳn tṛ chơi tuyết này có mục đích tập luyện cho thân thể cứng cỏi và chuẩn bị cho phép nội nhiệt về sau mà trong đó hành giả phải chứng minh đủ khả năng dùng nhiệt trong thân mà chống lại cái lạnh, qua sự chế ngự du già lên thân và tâm. Thế nhưng chúng tôi thấy không nên hỏi vị gia sư hay bất cứ ai khác về chuyện này để các cậu này khỏi bối rối, nếu đây chỉ là tṛ chơi trẻ con.

Ngoài chuyện tu tập hàng ngày, chúng tôi có chuyện làm để khỏi phí thời giờ. Có nhiều kinh sách để học hỏi, trích dẫn và ghi chép thêm, làm bản in gỗ và bản sao các bích họa. Trong pḥng thờ đối diện với pḥng ḿnh, chúng tôi vui mừng thấy các bích họa rất đẹp của tám mươi bốn vị thành tựu giả, chúng tôi cho tôi cơ hội họa lại để hoàn thiện công tŕnh tranh tượng của tôi, tiếp nối công việc lúc trước về đề tài có tính lịch sử quá tŕnh này.

Bên ngoài tu viện cũng có nhiều sự kiện để vẽ lại, chụp h́nh và v́ thế không có lúc nào chúng tôi được nghỉ. Ngoài ra chúng tôi có nhiều câu chuyện thú vị về những khía cạnh khác nhau của truyền thống tâm linh và phép tu thiền định với Adscho Rimpotsché, với vị phụ tá, gia sư của vị tái sinh và một vài người khác.

Trong những người đó th́ đặc biệt vị giữ điện chính, người mà mỗi ngày mang nước, đèn và thắp nhang cũng như chùi dọn các pháp khí và pḥng ốc sáng trưng. Ông làm những việc này không những một cách cẩn thận mà c̣n xem nó là phép tu và với ḷng tin tuyệt đối, nên nơi trán ông có một cục u thường xuyên; nó sinh ra do vô số lần lễ lạy mà mỗi ngày ông cúng dường các bậc giác ngộ và các hiện thân các vị hộ pháp cho trí huệ siêu việt.

Đó là những vị hộ pháp cho các ḍng truyền thừa, trong đó có Đại hắc (Mahakala), Kim cương thủ (Vajrabhairava), Thời luân (Kalacakra) Hô Kim cương (Hevajra), Đại cực (Mahasukha). Đại cực là một trong những vị hộ thần đặc biệt của ḍng Kargyutpa.

Vị này cũng được thờ cúng trong ḍng Gelugpa và các ḍng khác, được xem là biểu tượng chính của một hệ thống kinh thiền định sâu sắc mà bản thân tôi cũng nghiên cứu suốt một năm. V́ lư do đó mà cho vị này và man-đa-la liên hệ có một khám thờ riêng được trưng bày bên cạnh Liên Hoa Sinh.

Tại Dungkar Gompa, chúng tôi c̣n t́m thấy một bức h́nh nổi của man-đa-la này, được hoàn thành một cách chi li với 164 vị thần và các chi tiết khác. Rất tiếc h́nh này bây giờ nằm trong một góc tối của chính điện, bị bọc lại bởi một khung gỗ và phủ kín nên không thể nghiên cứu kỹ thêm những như không thể chụp h́nh.

CUỘC GẶP GỠ THOÁNG QUA VỚI TOMO GÉCHÉ RIMPOTSCHÉ



Tại Dungkar, chúng tôi hy vọng sẽ gặp vị tái sinh của Tomo Géché Rimpotsché, khi đó cậu cũng phải bằng tuổi tái sinh Saraha tại Tse-Tscholing.

Nhưng lúc chúng tôi đến Dungkar Gompa năm 1947 th́ cậu c̣n ở Sera, chỗ mà người ta gửi cậu đến để học hành thêm dù con bé, sau khi cậu học hết những ǵ thầy dạy tại Dungkar. Tất cả mọi chuyện học hành đối với cậu chỉ là sự nhớ lại những ǵ đă biết trong tiền kiếp.

Chúng tôi lo nghiên cứu về các đền và tu viện quan trọng tại Gyantse đặc biệt tại Kumbum, đền “Vạn Phật”, và tại Pal-Khorlo-Tschưde, đồng thời lo thủ tục xin hộ chiếu cũng như các phép tắc khác để được làm việc trong các đền của Rintschen-Sanpo, được họa lại các bức họa. Chúng tôi bận rộn đến nỗi không không quan tâm ǵ đến các biến cố chính trị.

Chúng tôi phải hứa với vị tùy viên chính trị tại Gangtok, sẽ không tiết lộ ǵ về các biến cố tại Tây Tạng và không tuyên bố điều ǵ về vụ Reting. Thế nhưng chúng tôi biết rơ một điều, đó là uy quyền chính trị và tôn giáo không thể lẫn lộn thêm được nữa và cái nguy của Tây Tạng nằm ở chỗ tu viện nào cũng hướng tới quyền lực.

Có hàng ngàn tu sĩ tụ hội với nhau, trong đó những yếu tố quí báu của một đời sống tôn giáo đích thực bị mất đi: sự an b́nh và tĩnh lặng của đời sống cô tịch cũng như con người thể nhập và tính tự do của cá thể.

Trong những tập hợp tu viện lớn tại Gyantse, được tách ra khỏi cuộc sống thế gian bởi những vách tường dài hàng cây số mà vẫn ngự trị trên tất cả, chúng tôi đă quan sát thấy đời sống tâm thức cạn dần đi, đó là điều khó tránh khỏi khi con người sống chung đụng với nhau.

Chúng tôi càng thấm thía cái minh triết của Milarepa và các vị kế tục khác của ông, họ là những người chọn chỗ ẩn tu, không ham thích các tập hợp tôn giáo, những nơi mà kiến thức sách vở được coi trọng hơn sự h́nh thành cá tính cũng như sự phát triển ḷng từ bi và trí huệ.

Trong quá khứ, ḍng Sakyapa (lấy tên từ tu viện Sa-Skya thành lập năm 1071 sau Công nguyên) là tổ chức tôn giáo có uy lực nhất. Trong thời đại huy hoàng đó, họ được xem là giới thống trị Tây Tạng. Nhưng cũng chính thế lực chính trị là nguyên nhân của sự suy tàn của họ, v́ thế lực chỉ sinh ra thế lực đối đầu.

Nền thống trị của họ sau đó bị ḍng Gelugpa thay thế, với sự thiết lập của vị Đại lai lạt ma, người nắm toàn bộ quyền lực chính trị và tinh thần tại Lhasa. Thời đó các tu viện trở thành đô thị, có nơi dung chứa cả vạn tu sĩ.

Các nơi này nhắc ta nhớ đến tu viện đại học tại Nanlada và Vikramasila (tại Bihar và Bengal), trong đó đời sống tôn giáo và văn hóa của đạo Phật tập trung tới mức trở thành mục đích dễ dàng cho quân Hồi giáo cực đoan.

Khi họ phá hủy những cơ sở này th́ đạo Phật tại Ấn Độ xem như bị tiêu vong; trong lúc Ấn Độ giáo, không tập trung, chẳng tổ chức theo kiểu tu viện, th́ sống c̣n được; v́ truyền thống của họ được tiếp xúc nuôi dưỡng trong những gia đ́nh các tu sĩ hoặc người ngoan đạo.

Hoặc thể hiện trong những con người độc lập như du sĩ khổ hạnh sống trong những nhóm nhỏ quanh một vị thầy, họ là người giữ sức mạnh tôn giáo không bao giờ tắt. Ngay cả việc hủy hoại đền đài cũng không phá hủy được niềm tin tôn giáo nằm trong mỗi bàn thờ gia đ́nh, trong đó ít nhất có một người giữ đạo.

Vài năm sau khi chúng tôi rời Tây Tạng th́ đạo Phật chỉ tồn tại ở xứ sở này trong các vùng độc cư vắng vẻ, xa phố phường, xa nơi chốn đi lại, hay chỉ c̣n trong những gia đ́nh, nơi mà đời sống tâm linh không phụ thuộc ǵ vào các định chế và tổ chức tu viện, mà chỉ sống nhờ vào ngọn lửa của niềm tin truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Điều này tôi được thấy nơi phái Nyingmapa, Kargyutpa và các bộ phái Phật giáo Tây Tạng nhỏ khác; họ quan tâm đến truyền thống giảng đạo của thầy tṛ hơn là cách giáo dục quảng đại quần chúng của các tu viện lớn.

Chúng tôi hầu như đă quên mọi biến cố đó và xem ra Sera đă trở lại với đời sống b́nh thường v́ không có tin ǵ từ đó cả. Ngoài ra cứ vào mỗi độ thu th́ từ vị Thủ tướng đến anh công chức thấp nhất, từ Đại lai lạt ma đến chú tiểu tăng.

Từ nhân sĩ tiếng tăm nhất đến kẻ cùng đinh, ai ai cũng tham gia các buổi lễ dành cho công chúng như các buổi làm phép tại tu viện, tŕnh diễn các sự tích (ví dụ tiền thân Đức Phật), được các nghệ sĩ chuyên nghiệp diễn trong các gia tộc lớn mà ai cũng được vào xem.

Các cuộc liên hoan ngoài trời với lều láng trang hoàng rất đẹp tại các vùng quê quanh các đô thị lớn hay các tu viện; và cả những cuộc tranh tài thể thao như đua ngựa, bắn cung với các điệu múa dân gian, trong đó kẻ nghèo người giàu đều vui thích. Người Tây Tạng là những người yêu đời và sùng tín, họ biết cách thống nhất hai tính chất và nhờ thế mà hưởng cái “đẹp nhất của hai thế giới”.

Thế nhưng cái lạnh mùa đông đă kề tới và chấm dứt mọi hoạt động ngoài trời. Bỗng nhiên mọi người ai cũng trùm mũ lông và mặc áo mùa đông, mặc dù mặt trời c̣n chói lọi và bầu trời xanh thẩm màu nhung. Nền đất và hồ nước đă đông kín, và những con sông nước chảy mạnh mà hai bên bờ cũng đă lác đác có băng.

Thời đó, chúng tôi nghe rằng cậu Tomo Géché đă rời Sera và trở về quê Dungkar. Người ta cho rằng cậu sẽ nghỉ vài ngày ở Gyantse. Thế nhưng loại tin đó chúng tôi nghe đă nhiều v́ thế không để ư ǵ lắm, nhất là sau khi ḥa b́nh trở lại với Sera.

Ngày nọ chúng tôi trên đường từ “Điện Vạn Phật”, nơi mà tôi sao chép kinh sách cũng như bích họa, c̣n Li Gotami th́ chụp lại các bức tượng đẹp. Một số trong đó được tŕnh bày lại trong tác phẩm Grundlagen tibetischer Mystik (Cơ sở mật tông Tây Tạng).

Đó là một ngày đặc biệt lạnh và nhiều gió; và cũng như mọi người, chúng tôi trùm áo ấm, mang khăn choàng theo kiểu Tây Tạng, mắt đeo kính đen chống cát. Khi đi ngang qua phố chính mà mỗi ngày chúng tôi đều đi để đến tu viện th́ có hai ba tu sĩ đi ngược lại rơ là họ trên đường đi đến đền chính của tu viện.

Một trong số họ cơng trên vai một cậu bé mặc áo choàng đỏ. Lẽ ra chúng tôi đi ngang họ mà không để ư điều ǵ, nếu thái độ cậu bé không có ǵ lạ làm chúng tôi phải để ư. Bỗng nhiên cậu rướn người lên, ngẫng cổ nh́n chúng tôi ngạc nhiên tột độ và tỏ vẻ quan tâm trong lúc những người đi cùng với cậu không để ư ǵ đến chúng tôi.

Chúng tôi cũng như những người Tây Tạng khác đi ngoài đường, nhất là khi màu mắt của chúng tôi khác với màu mắt của họ th́ đă bị cặp kính đen che mất. Ở đây, người ta mang nhiều loại kính đó, vừa để che mặt trời quá chói, vừa để chống bụi cát trong những ngày nhiều gió.

Khi chúng tôi đến gần nhóm tu sĩ th́ cậu bé xem ra bị kích động hơn; cậu xoay người lại, nh́n chúng tôi với sự chú tâm rơ rệt hầu như cậu muốn nhớ đến ai mà ḿnh đă từng quen biết nhưng lúc này không nhận ra. Và bây giờ đến phiên chúng tôi sửng sốt và như một tia chớp trong bầu trời xanh trong, ư nghĩ ập đến với chúng tôi là, đây phải chăng là tái sinh của Tomo Géché Rimpotsché.

Trong khoảng thời gian đó th́ hai nhóm người đă đi xa và mặc dù Li thúc tôi quay lại, chạy theo nhóm tu sĩ, tôi cảm nhận rằng, không phải chỉ v́ không nên chạy theo ai mà là đây không phải chỗ và lúc để có một cuộc gặp quan trọng và phi thường như thế.

Ngay giữa phố xá và lúc đó gió lạnh như cắt, xung quanh là đám người ṭ ṃ không, tôi không muốn gặp lại thầy ḿnh như thế dù ông có ở trong h́nh hài của một đứa trẻ.

Tôi ước mong được gặp lại ông trong sự tĩnh lặng để có thể nghe được nhịp đập trái tim ḿnh và phản ứng hồn nhiên của vị tái sinh trẻ tuổi. Không, tôi không để cho phút giây quư báu này bị mất đi v́ sự hiếu kỳ tầm thường và những câu xă giao trống rỗng.

V́ thế chúng tôi quyết định trước hết hăy xác nhận ḿnh không lầm lẫn và hỏi vị tái sinh này ở đâu để ngày mai đến t́m. Ư tưởng về cuộc hội ngộ làm tôi xúc động sâu xa và chúng tôi hồi hộp không biết cậu bé c̣n nhớ lại được quá khứ không để thiết lập lại liên hệ cũ v́ lúc đó cậu mới lên chín và ấn tượng của đời sống mới chắc đă thúc đẩy lùi mọi kư ức tiền kiếp.

Chúng tôi vội về nhà và nhanh chóng biết rằng đó quả thật là tái sinh của Tomo Géché, người mà chúng tôi đă gặp. Thế nhưng ngày hôm sau khi đến nơi th́ được biết cậu đă rời Gyantse trước khi mặt trời mọc.

Chúng tôi thất vọng vô cùng nhưng tự nhủ sẽ được gặp cậu tại Dungkar trên đường về và sẽ không những chỉ được nói chuyện trong sự yên tĩnh mà c̣n được ở lâu với cậu tại nơi mà chúng tôi đă từng quen thuộc và quí mến.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 788 of 2534: Đă gửi: 12 September 2008 lúc 8:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
CÁC CUỘC BIỂU DIỄN HUYỀN BÍ


Mọi sự xảy ra hoàn toàn ngoài tiên liệu. Vài tháng sau khi chúng tôi đến đền thờ “Vỏ ṣ trắng” th́ mới hay Tomo Géché Rimpotsché đă lên đường đi viếng một tu viện tại Darjeling.

Thế nhưng vài tháng sau nữa quay lại th́ chúng tôi được nghe từ cha ông lạ thay mà chúng tôi gặp ngay trong rừng, giữa đường Gangtok và Kalimpong (và sau đó không c̣n gặp lại nữa v́ không bao lâu sau ông chết), rằng con ông đă được trở lại Sera v́ người ta cho rằng nơi đó đă yên.

Có ai ngờ được số phận nào đă diễn ra cho tu viện và cả vùng này. Cũng như đau khổ không tả xiết cho vị tái sinh trẻ tuổi. Nhưng thôi, tôi chưa muốn nói quá sớm.

V́ nhiều lư do mà chúng tôi dừng chân nhiều tháng tại Gyantse hơn dự định; đây cũng là thời gian mang lại hiệu quả và kinh nghiệm quí báu. Nhờ dịp đó mà chúng tôi thăm được nhiều tu viện và cốc độc cư trên núi xung quanh vùng Gyantse, nhất là điện vàng “Vạn Phật”, biến nó thành nội dung nghiên cứu trong thời gian chúng tôi có được.

Khối lượng tranh tượng của ngôi đền chín tầng này với hàng trăm khán thờ riêng biệt mà mỗi nơi đều có những bích họa tuyệt đẹp đó là chưa nói vô số tranh tượng thật ra cả đời người cũng không nghiên cứu hết được.

Ngoài ra chúng tôi tham dự nhiều lễ nghi và sinh hoạt tôn giáo, kể cả những vũ điệu tâm linh nổi tiếng cũng như các cuộc tŕnh diễn huyền bí với màu sắc rực rỡ của áo choàng, các mặt nạ sinh động, những động tác huyền bí siêu h́nh với âm nhạc tôn giáo.

Tiếng nói của các lực lượng thiên nhân và ma quỉ hầu như đọ sức với nhau trong một đấu trường vĩ đại của một thứ kiến trúc to lớn, của những ngọn núi với tới trời.

Tôi đă từng thấy các cuộc biểu diễn tương tự tại Yiga-Tschưling, Hemis, Gangtok và tại một số tu viện nhỏ, nhưng ấn tượng nhất là tại Hemis (Ladakh), nơi mà các cuộc biểu diễn kéo dài ba ngày với hàng ngàn khán giả, nhiều người phải đi vài ngày đường để đến xem.

Phần lớn trong số họ phải cắm lều bên ngoài tu viện, viện này nằm trên một mỏm núi cheo leo tuyệt đẹp. Ở dây (khoảng đầu những năm ba mươi), người ta chưa liên lạc với thế giới bên ngoài, phần lớn chưa ai thấy một chiếc xe có bánh, nơi mà nhắc đến tàu hỏa hay tàu thủy chỉ gây nên cái mỉm cười nghi ngờ, c̣n máy bay th́ chưa nghe ai nói tới đây là nơi mà ta thấy rơ ấn tượng của các cuộc biểu diễn huyền bí lên các người ít học thức và tham gia cùng với cảm xúc trọn vẹn của họ.

Những cuộc biểu diễn huyền bí này không phải là tṛ diễn xuất cho đám đông hiếu kỳ mà ư nghĩa của nó là mở một thực tại cao hơn ở b́nh diện con người nhờ những lễ nghi huyền bí, trong đó phần của thế giới tâm linh được hô triệu, thể hiện thông qua những người chịu từ bỏ cá thể ḿnh trong một thời gian nhất định.

Sự từ bỏ cá thể đó được thực hiện bằng nhiều nghi lễ. Sau đó họ trở thành công cụ và b́nh chứa cho các năng lực siêu nhiên mà họ mang mặt nạ đại diện. Những mặt nạ này, dưới ánh mặt trời rực rỡ và với vũ điệu của những người mang, hầu như toát ra một sự sinh động siêu nhiên, không phải chỉ có tính cách của một thiện thần mà c̣n thể hiện khía cạnh đáng sợ mà các năng lực cao cấp hiện lên trong ngoại cảnh cũng như trong ḷng người.

Uy lực của thần chết và sự hủy hoại, cái đáng sợ của sự bất định, năng lực của sự phẫn nộ và ảo giác những bóng ma của sự nghi ngờ, chúng theo ta từ lúc sinh ra đến ngày chết, từ lúc chết đến ngày sinh, cho đến lúc ta học được bài học, biết xem sinh tử với một ḷng can đảm, ḷng này chỉ được sinh ra từ ḷng từ bi với mọi chúng sinh và từ tri kiến về tự tính đích thực của mọi dạng xuất hiện.

Bao lâu ta c̣n chưa hiểu rằng mọi dạng thức đáng sợ đó đều là hiện thân của chính tâm thức ta và là sự chuyển hóa của chính năng lực đưa ta đến giác ngộ, th́ bấy lâu ta vẫn c̣n phiêu bạt trong ṿng sinh tử, như Tử Thư viết.

V́ thế, các cuộc biểu diễn huyền bí của Tây Tạng nhằm thể hiện thế giới siêu nhiên nay, hay đúng hơn là thế giới siêu việt, nó phản ánh trong tâm con người và thể hiện ra, thế giới đó áp đảo tâm người, nếu tâm người không biết cách phát biểu đúng đắn.

Các lễ nghi của người Ai Cập cổ hay sự thờ cúng vị thần Dionysos (40) cũng có nguồn gốc đó. Và cũng như tại Hy Lạp, các màn kịch tôn giáo phát xuất từ vũ điệu thờ Dionysos th́ các màn biểu diễn huyền bí Tây Tạng bắt nguồn từ vũ điệu của nhà huyễn thuật, trong đó những động tác tượng trưng và sự ban phép được áp dụng để trừ tà và mang lại các năng lực tốt lành.

Cũng như với người Hy Lạp cổ, các vũ điệu mặt nạ Tây Tạng cũng được diễn ra ngay trong đám người xem. Ở đây không có bục tŕnh diễn phân cách khán giả mà các vũ điệu được thực hiện hiện ngay trong sân tu viện, xung quanh là hành lang hay các pḥng trưng bày, nơi mà khách quan trọng được mời ngồi, c̣n những người khác chen chúc nhau trong các pḥng c̣n lại, có người ngồi trên cả mái nhà.

Các kiến thức đầy ấn tượng của các pḥng, các hành lang trang hoàng rực rỡ cũng như khán giả đây màu sắc vui tươi tạo nên một khung cảnh tự nhiên đẹp mắt, nó không hề tách rời với các vũ công, như công tŕnh kiến trúc không xa phong cảnh, người xem không xa người diễn.

Người xem và người diễn ḥa lẫn với nhau trong một chứng thực chung, không c̣n biên giới nào giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa cái thế tục và thiêng liêng, nó làm cho người xem cũng là kể tác động, cho người xem tham dự vào một thực tại huyền bí, do tâm tạo, của một tầm ư thức cao hơn.

Sự chờ đợi, niềm tin kiên định, phản ứng và cảm xúc hồn nhiên của họ hầu như đă tạo nên một ư thức chung bao trùm, trong đó người diễn và người xem cùng sống, họ được cùng nâng lên trong một b́nh diện chứng thực tâm linh mà b́nh thường họ không đạt được.

Thật là khó quên khi thấy những h́nh ảnh siêu nhân của các vị thiên thần địa thần, các ma quỉ từ trong bóng tối của chính điện bước ra và uy nghi đi lên bậc tam cấp để vào sân của chính điện bước ra và uy nghi đi lên bậc tam cấp để vào sân điện, ḥa với hơi thổi của những chiếc kèn khổng lồ và nhịp đập chầm chậm nghiêm trang của xập xỏa.

Hàng ngàn con người trầm tư, đứng chen chúc trong sân, trên các hành lang, ban-công, mái nhà xung quanh, nín thở, hầu như mất hồn v́ sự huyền bí đầy uy lực. Dần dần các vị thần tôn kính xuất hiện: với dù lọng đầy màu sắc là vị chúa tể của năng lực siêu nhiên.

Liên Hoa Sinh, đi theo các hóa thân khác nhau của Ngài mà Ngài đă sử dụng trong nhiều lúc, nhiều đời sống để phụng sự người; là Phật Thích-Ca, là vua, là học giả, là tu sĩ du già, là tăng sĩ, cũng như trong t́nh trạng phẫn nộ, như người chiến thắng ma quỉ, như bậc hộ pháp, như người truyền dạy về một thực tại cuối cùng nằm ngoài mọi khái niệm.

Với những bước chậm răi của vũ điệu và động tác thần bí, các dáng h́nh này đi ṿng xung quanh cột mang cờ cầu nguyện giữa sân chính điện, trong lúc đó th́ nhạc điệu trầm bổng của một ban nhạc ḥa lẫn với tiếng tụng niệm, nó ban phép lành của chư Phật và các bậc thánh và ca tụng thiện duyên của hành động các Ngài.

Vầng mây hương tỏa lên bầu trời và không khí rung động với tiếng gồng, tiếng trống rất trầm, tiếng kèn, tiếng kim loại của xập xỏa.

Thế nhưng trong lúc các h́nh ảnh tôn kính đang đi ṿng quanh sân điện th́ không khí đang căng thẳng của khán giả bỗng nhiên bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của hai mặt nạ cười nhăn nhở, hai người mang mặt nạ bắt chước làm theo các động tác của các vị thánh và hầu như chế nhạo chư Phật và các vị hộ pháp.

Họ nhảy ra nhảy vào ṿng quanh các vị, nh́n chằm chằm khuôn mặt các vị, xem ra họ muốn chống lại năng lực của các vị này và muốn chọc tức họ. Thế nhưng các vị không quan tâm ǵ đến những kẻ phá hoại, vẫn điềm nhiên đi tiếp đường đi của ḿnh.

Kết quả thật lạ lùng: thay v́ phá hoại không khí thiêng liêng và kỳ diệu th́ sự đối diện của cái cao cả và cái đáng chê trách chỉ làm ư nghĩa của thực tại thêm phần sâu sắc; v́ thực tại bao gồm tất cả, trong đó cái cao nhất và cái thấp nhất đều có chỗ đứng và phụ thuộc lẫn nhau.

Chỉ nơi đây ta mới đạt được cái tự tính của thế giới và của đời sống của chính ta đúng trong kích thước và tầm nh́n của chúng. Nhờ sự chứng thực một lúc hai cực của thực tại mà tác dụng của nó được nâng cao.

Chúng giống như hai cực điểm của một bài ca: chúng mở rộng biên độ của khả năng cảm nhận của ta, trong đó nhờ khoảng cách tối đa của hai cực của sự cảm nhận đối kháng mà không gian nội tại được mở lớn.

Biên độ dao động càng lớn th́ cảm nhận của ta càng sâu sắc, càng ấn tượng. Sự nghiêm túc và óc hài hước không hề loại trừ nhau; ngược lại chúng tạo thành và minh chứng cho cái tràn đầy và toàn diện của sự thực chứng và khả năng nh́n mọi chuyện một cách tương đối, biết nh́n mọi “sự thực” nhất là tính tương đối của vị trí ḿnh và cái nh́n của riêng ḿnh từ đó mà phát sinh, từ đó mà có phân biệt tốt xấu, đúng sai.

Trong các cuộc tŕnh diễn huyền bí Tây Tạng, tất cả mọi dạng đời sống đều hiện diện: thế giới của thiên nhân và loài người, của sinh vật mang đầu thú, của loài quỷ đói, của thần chết và sự hủy diệt cũng như sự hiện thân mang nhân trạng hay phi nhân trạng, của ḷng từ bi mà nhờ đó mọi dạng hữu hiện được giải phóng khỏi hạn chế của ḿnh và thống nhất với một ḍng sống to lớn hơn, nó bao trùm tất cả.

Sự đấu tranh giữa năng lực của ánh sáng và tối tăm, giữa cái thiên tính và ma quái, giữa sự hủy diệt và khuynh hướng t́m về đời sống vĩnh cửu: sự đấu tranh đó được diễn tả trên b́nh diện lịch sử cũng như trong lĩnh vực phi thời gian của tâm hồn con người.

Liên Hoa Sinh đă đến và chiến thắng của Ngài chống lại hắc đạo và thống trị của loài quỉ dữ sống trên xương máu cúng dường của người và vật, đó là chủ đề chính của ngày đầu các cuộc biểu diễn trong các tu viện của trường phái cũ (Nzingma, Katgyüd và Sakya), trong lúc đó th́ phái Gelugpa diễn lại sự suy tàn của vua Langdarma, người giết anh ḿnh để đoạt ngôi và sau đó bị một tu sĩ cải trang làm người của hắc đạo, biểu diễn vũ điệu cung tên, bắn chết.

Thế nhưng quan trọng hơn các tuồng tích lịch sử là các tŕnh bày liên hệ tới Tử Thư, tác phẩm quan trọng của Liên Hoa Sinh. Cuốn sách này nêu rơ, mọi thánh thần ma quỉ, sức mạnh của ánh sáng hay bóng tối đều nằm ngay trong chính ta và những ai muốn chiến thắng thần chết phải đủ khả năng nh́n rơ tận mắt nó và thừa nhận nó ngay giữa đời sống này.

Sau đó th́ chính cái chết đă vén màn lên cho ta thấy cái huyền bí sâu xa nhất là đời sống, nó sẽ xuất hiện trong dạng thần chết đáng sợ; đầu ḅ, cùng với ma quỉ dữ tợn, chúng hô triệu cái tâm lo sợ sẵn có của con người, chúng sẽ giết chết con quỉ của bản ngă và sự ích kỷ và do chính là cái hy sinh cúng dường duy nhất mà Phật chấp nhận: hy sinh cái ta của ḿnh.

Thần chết không ai khác hơn là vị đại từ bi: Quán Thế Âm. Thế là những phẩm vật cúng dường đầy xương máu của quá khứ đen tối đă được thay bằng bản ngă nhỏ bé của chính ta cái ta, cái đă cầm tù ta từ vạn kiếp và ngày nay c̣n trói buộc ta trong ṿng sinh tử, cho đến ngày ta vượt khỏi cái ta bé nhỏ, vượt ra ṿng kiềm tỏa của nó.

Liên Hoa Sinh, một trong những vị thầy minh triết nhất của mọi thời kỳ, đă cho lễ nghi huyền bí này một ư nghĩa mới, lễ nghi vốn được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bởi tu sĩ đạo Bưn. Thay chỗ cho những phẩm vật đẫm máu mà con người dùng để khẩn cầu các thế lực tối tăm đang bị đe dọa là sự chiến thắng chính ḿnh.

Trái tim con người đă trở thành sân khấu của vũ trụ và sự chuyển ḿnh này được diễn tả trong buổi diễn như sau; thay chỗ cho con người hay vật c̣n sống là h́nh nộm một người làm bằng bột màu, h́nh đó được một con quỉ chỉ c̣n bộ xương vác vào sàn diễn và nhảy múa xung quanh, sau đó thần chết với đoàn tùy tùng đi vào và đuổi quỉ ra.

Cuối cùng là giai đoạn quan trọng và đầy kịch tính nhất của buổi hành lễ, cao điểm của vũ điệu trong ngày thứ hai của buổi diễn theo các trường phái cổ: Thần chết, được tượng trưng bởi một mặt nạ đầu ḅ xanh đậm, ba mắt, đeo đầu lâu, tay trái cầm sọ người đầy máu, tay phải cầm mă tấu nhảy múa với bước chân dồn dập, càng lúc càng say sưa quanh h́nh nộm nằm trên mặt đất, cho đến lúc h́nh ảnh chỉ c̣n màu sắc thấp thoáng và lưỡi kiếm gần như biến thành tia chớp.

Tiếng trống và xập xỏa tăng dần tiết điệu lên tới cao điểm nghe ầm ầm và trong phút giây này th́ lưỡi kiếm đâm h́nh nộm, chặt ra từng miếng và ném đi mọi hướng. Lúc đó loại quỉ tha ma ào tới giành nhau những miếng đó, nhai nuốt chúng, ném phần c̣n lại lên không và vào người xem, để họ cũng tham gia vào bữa tiệc tượng trưng này.

Thật là khó mô tả một ấn tượng về tác động vừa hiện thực vừa kỳ bí của sự trộn lẫn giữa cảnh tự nhiên và siêu nhiên này. Những mặt nạ lớn, với màu sắc và h́nh dạng đầy ấn tượng hầu như sống thực một cách đáng sợ và xem thật hơn cả những người mang chúng hay khán giả đắm ḿnh trong buổi diễn.

Họ chứng một t́nh trạng vượt lên sự hiện hữu đang có, cho họ một cái nh́n qua bên kia biên giới của sự chết, nơi mà tất cả cánh cửa mở ra cho mọi thế giới và mọi dạng của sự tái sinh, và nơi mà con đường dẫn ra khỏi những thứ đó hiển hiện trước mắt nội tại hay thể hiện thành niềm mong ước được giải thoát và giác ngộ.

Người xem và người diễn bây giờ đă trở thành một. Họ là những người tham dự tích cực của một buổi lễ thần kỳ, buổi lẽ đă đưa họ vào một trong những điều huyền bí cổ xưa nhất, trong đó mọi đời sống tôn giáo có chung một gốc rễ và nơi mà con người bắt đầu thức tỉnh.

 

BUỔI VẤN LINH CHÍNH THỐNG TẠI NETSCHUNG



Cái huyền bí của sự chết là một trong những thách thức lớn nhất của con người và là nôi sinh của tôn giáo. Chỉ với cái chết con người mới ư thức về cái sống. nhà sinh vật học người Pháp Lecomte de Noüy(41) đă nói:

“Sáng tạo lớn nhất của tự nhiên là sự chết”. Nói cách khác, ngay cả từ cách nh́n sinh vật học, cái chết không phải là sự phủ định đời sống mà là một phương tiện cho cái sống mở thêm không gian và tự nâng ḿnh lên một mức độ cao hơn.

Tính liên tục vật lư là đặc trưng của các sinh vật thấp bé, của những dạng sống thô sơ và chưa phát triển; v́ sự liên tục vật lư trói buộc sinh vật vào các định luật cứng nhắc của vật chất và vào quy định của những mẫu h́nh sẵn có, chúng chỉ biết lặp lại, ngăn cản mọi dạng thay đổi và trở thành chướng ngại lớn nhất trên đường phát triển.

Ngược lại, cái chết là một đặc tính riêng của đời sống cao cấp, chúng ǵn giữ được những tính chất và kinh nghiệm đă có bằng cách phát triển một đời sống mới, bây giờ không phải bằng gián phân tế bào, mà bằng một quá tŕnh hội nhập, nó không c̣n giữ tính liên tục vật lư nữa mà tính liên tục tâm lư một sự liên tục cho phép xây dựng nên một thể sống mới phù hợp với động lực riêng của ḿnh, nó không bị những ǵ xưa cũ cứng nhắc và ṃn mỏi chồng chất lên.

Cũng như sự chuyển biến từ thể liên tục vật lư qua thể sau là tính liên tục tâm lư, th́ bước sau đó chỉ được thực hiện bởi một cá thể đă phát triển cao nhất: đó là bước đi từ sự sống vô thức đến cuộc sống hoàn toàn ư thức (và cuối cùng là tâm thức quán chiếu) bằng phép chuyển htức (hpho-ba)

Nhưng trước khi con người h́nh dung được về bước di này th́ nó đă nhận ra ư nghĩa của cái chết như một ch́a khóa mở cánh cửa huyền diệu của một đời sống cao hơn. Từ nhận thức này mà sinh ra sự thờ cúng cái chết, một dạng thô sơ của tôn giáo.

Nó làm con người bắt đầu xây dựng những công tŕnh kỷ niệm trường cửu (khác hẳn với nhà cửa mỏng manh của người sống), đó là những công tŕnh không nhắm tới sự sử dụng đương thời mà xuất phát từ một động lực hướng về sự sử dụng đương thời mà xuất phát từ một động lực hướng về sự miên viễn, từ một tha thiết của tâm thức hướng về một thực tại nằm bên kia cuộc sống.

V́ thế nguồn gốc của tôn giáo không phải là sự sợ chết mà là thừa nhận cái chết như nhà đạo diễn lớn và kẻ dẫn đường vào tự tính đích thực và sau xa của con người. Sự sợ chết chỉ xuất hiện vào thời điểm khi mà tâm người đă tới một dạng cứng nhắc của tính cá thể, với ảo giác tưởng ḿnh có một tự ngă bất di bất dịch.

Có một linh hồn tự tại, có một cái ta thường hằng, phân cách người này với người khác, tưởng rằng hữu sinh khác vô sinh: với cách này nó đă vạch một đường ranh giữa sống và chết, đường này cuối cùng thành một biên giới chắc thật, thành một bức tường không vượt qua được, nơi mà mọi đời sống đụng đến đều bị tan vỡ.

Thế nhưng lúc con người chưa đánh mất mối liên hệ nội tại của nó với gốc rễ và thực tại quanh ḿnh, trong một thế giới mà con người c̣n tiếp xúc với những năng lực tinh tế của thiên nhiên, của linh hồn, của tổ tiên, của thánh thần và ma quỉ nói gọn là trong một thế giới mà không có ǵ được xem là chết.

Th́ cái chết không phải là đối thủ của cái sống mà là một giai đoạn trong vận động của con lắc đồng hồ, một bước ngoặt, như sự sinh nở. V́ con lắc dao động từ lúc sinh đến lúc chết và về lại từ lúc chết đến lúc sinh.

Sự dao động của con lắc đời sống không phải chỉ có một chiều, một b́nh diện; nó có thể dao động trên vô số b́nh diện, trên mọi b́nh diện của tâm thức, tuân thủ động lực tiên thiên của nó, hay phù hợp với những ǵ nó nhận được trong khoảnh khắc phi thời gian.

Đó là chỗ con lắc nằm giữa cái chết và đời sống mới, chỗ nằm giữa những đời sống. Trong khoảnh khắc phi thời gian này th́ những ai biết cách nh́n vào bên trong, ai có khả năng nội quán nhờ thiền định sadhana hay dhyana, người đó sẽ nhận thức được giai đoạn hiện hữu này, giai đoạn cho phép họ nắm lấy cơ hội tốt nhất để chứng mục đích cao nhất của ḿnh, như trong Tử Thư đă mô tả.

Ta cũng có thể tiếp xúc với những lĩnh vực của đời sống mà thường ta chỉ gặp lúc chết, giai đoạn bước ngoặt, nếu ta chủ động đưa ḿnh vào trong một t́nh trạng đặc biệt của sự tiết giảm cơi sinh, bằng cách tự ḿnh đi vào cơi chết, nếu ta biết chế ngự được thân và từ bỏ ư thức cá thể.

Đó là t́nh trạng đồng cốt, nó có thể sinh ra bằng sự tự thôi miên, bằng một số phép du già bay bằng lễ nghi nhiều uy lực, trong đó nội tâm ngoại thể tác động lên nhau để sinh ra năng lực siêu nhiên mà thường chúng chỉ nằm tận trong các tầng tâm thức sâu kín của con người mà ư chí không đạt tới.

Những lễ nghi này mà các nhà huyễn thuật, phù thủy và pháp sư ngày trước từng biết rơ những người có uy lực lên tâm người và ch́a khóa t́m đến các năng lực bí ẩn các lễ nghi này vẫn tồn tại sau khi đạo Phật đến Tây Tạng, mặc dù có thay đổi chút ít, chúng được đưa vào trong khung cảnh của ư niệm và truyền thống Phật giáo.

Liên Hoa Sinh, bản thân Ngài cũng là đại sư trong khoa học huyền bí này, sử dụng chúng một cách khôn khéo để dành chiến thắng chống lại các phù thủy đạo Bưn bằng chính vũ khí của họ, khi họ t́m cách chống các ảnh hưởng của đạo Phật.

Đồng thời Ngài cũng tôn trọng các vị địa thần tại đó và cho họ một vị trí đáng kính trọng trong hệ thống Phật giáo, xem họ là các vị hộ pháp, cũng như Phật Thích-Ca đă làm với các vị thần của Ấn Độ giáo.

Các vị hộ pháp này được thờ trong một ngôi đền riêng tại Samyé, đền cô nhất của Tây Tạng, do Liên Hoa Sinh xây dựng. Người ta nói rằng các vị tu sĩ cao cấp ở đền này luôn luôn được các vị hộ pháp nhập vào khi cử hành lễ nghi hô triệu họ.

Trong các dịp này các vị đó xuất thần, các vị hộ pháp thông qua các vị đó mà phát biểu và trả lời các câu vấn linh. V́ thế mà có các cuộc vấn linh tại Samyé.

Thường người ta cho rằng phái Gelugpa là phái lánh xa nhất với phái cổ truyền Nyingmapa, ít chịu ảnh hưởng nhất của các lễ nghi huyền bí. Lạ thay cũng chính Gelugpa không những là người giữ các cuộc vấn linh truyền thống tại Samyé mà c̣n xem nó là một công việc chính quy của quốc gia.

Điều này xảy ra với Đạt lai lạt ma thứ 5, lúc Gelugpa đạt tới đỉnh cao của quyền lực. Trong thời đó, vấn linh tại Netschung, trong tu viện nổi tiếng ở Drepung trở thành chính thống cho cả nước.

Cuộc vấn linh này được xem là có thẩm quyền cao nhất và người ta luôn luôn hỏi ư kiến mỗi khi gặp khó khăn trong việc đi t́m tái sinh của một lạt ma cao cấp (ví dụ Đạt lai lạt ma hay Tomo Géché Rimpotsché) hay trong các quyết định quan trọng.

Ngay các vị Đại lai lạt ma cũng nghe theo những phát biểu của cuộc vấn linh mà các tiên đoán thường chính xác đáng ngạc nhiên.

Không phải chỉ tại Netschung mới có vấn linh. Nhiều tu viện quan trọng của Gelugpa cũng có những cuộc vấn linh riêng, thông qua các tu sĩ có vị trí cao cấp trong hệ thống giáo hội. Tất cả các vị đó đều phải được cuộc vấn linh chính thống thừa nhận,sau khi đă trải qua huấn luyện nghiêm khắc và kiểm tra chặt chẽ.

Nhiều đền đặc biệt được chuyên sử dụng cho nghi thức vấn linh đó và tất cả mọi thứ liên quan đến lễ nghi đều hết sức rực rỡ nên những đền đó đều chứa dựng những bảo vật thiêng liêng nhất của Tây Tạng. Cũng như chính điện tại Lhasa, Dschokhang và tháp chuông của Đạt lai lạt ma, mái đền thờ Netschung đều được nạm vàng.

Từ Netschung có nguyên nghĩa là “làng nhỏ” và bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian. Có một nhà huyễn thuật nọ, sống trên thượng nguồn của sông Kyi-tschu sông chảy qua Lhasa ông bắt được một thần thức nhiều uy lực và giam giữ nó trong một cái hộp vứt xuống sông.

Khi chiếc hộp trôi qua tu viện ở Drepung, có một vị tu sĩ đang ở dưới lũng, ông ṭ ṃ vớt hộp lên và mở ra. Thức liền thoát ra khỏi hộp, mang dạng một con chim bồ câu bay đi, hạ cánh xuống một khu vườn. Để lấy ḷng thần thức và tránh tai ương, người ta cho xây nơi đây một ngôi đền và kể từ đó vị lạt ma giữ đền luôn luôn được thần nhập vào, cứ mỗi khi làm lễ hô triệu.

Thực tế là buổi vấn linh tại Netschung không phải được một vị mà đến sáu vị thần hộ pháp tham gia, đó là một dấu hiệu rơ ràng là nó bắt nguồn từ Samyé. Câu chuyện huyền thoại nói trên có lẽ nhằm che đậy thực tế đó, nhất là trong thời kỳ mà phái Gelugpa t́m cách đẩy lùi ảnh hưởng của các trường phái cổ.

Để củng cố hệ thống hóa và tập trung lực lượng tâm linh và chiếu cố đến các truyền thống cổ, v́ kiến thức cũng như khả năng của các truyền thống đó về các vấn đề tâm lư hay tế tự đă đi sâu vào ḷng quần chúng và chiếm được ḷng tin nơi họ.

V́ những lẽ đó mà có lẽ Đạt lai lạt ma thứ 5 đă chấp nhận cho phép vấn linh được trở lại với tầm quan trọng ban đầu và cho nó một chỗ danh dự trong giáo hội Gelugpa. Điều này tỏ rơ trong việc trang hoàng lộng lẫy đền vấn linh.

Để chiếm cảm t́nh của những lực lượng hung hăng và đen tối, ngôi đền thiêng liêng và tất cả pháp khí liên hệ đều được thiết kế bằng những vật liệu quí giá và được chế tạo theo quy định nghiêm nhặt của biểu tượng huyền bí rất cổ.

Tất cả các pháp khí đều được làm bằng vàng hay bạc, nạm đá quư. Các vách tường đều mang bích họa mà những h́nh ảnh ma quái với bảo vật cùng đồ cúng dường được phủ bằng nhũ vàng trên nền đen. Trong những viền vàng đó, màu sắc ít được sử dụng đến, nhưng nhờ nền đen nên nó hiện ra lung linh, hầu như được một thứ ánh sáng phosphor (42) chiếu rọi.

Dưới các bích họa là một băng dài chạy quanh đền với các câu chú chữ vàng, viết chữ Lantsa của thế kỷ thứ 10,11, trong đó hiện thân các năng lực thánh thần và ma quái. Chiếc ngai cho thầm vấn linh được đẽo gọt và thếp vàng được đặt tren bục cao giữa các cột sơn son và cẩn đá.

Tượng lớn bằng người thật của sáu vị thần, mang dáng như ma quái, vung vũ khí để bảo vệ đền. Các vũ khí đó cũng được để trước ngai của tu sĩ vấn linh, và lúc ông xuất thần bất chợt nắm vũ khí nào là dấu hiệu của một trong sáu vị thần hộ pháp nào đang nói chuyện; họ biến ông thành h́nh ảnh sinh động của vị thần đang nói qua miệng ông.

Ai chưa tận mắt thấy sự chuyển hóa này th́ không thể h́nh dung ra được ấn tượng lạ kỳ, thậm chí đáng sợ sinh ra, kể cả đối với những người khách quan nhất; v́ những ǵ xảy ra ở đây hầu như đi ngược lại mọi qui luật của suy luận.

Trước mắt ta, một người biến thành một sinh vật khác, có một nhân cách hoàn toàn khác, về thể xác cũng như linh hồn. Nét mặt người đó thay đổi liên tục, đầu trương to hơn b́nh thường, thân như cao lớn hơn và có một sức lực siêu nhân của năm sáu người hợp lại, năng lực đó chứa tràn trong thân người đang ngồi trên ngai.

Nếu có chuyện tâm thức mà biến thành vật chất ngay giữa ban ngày th́ nó chính là đây. Đó chính là sự vật chất hóa của những năng lực dù cho đầu óc suy luận của ta có muốn bác bỏ mà tất cả những người tham dự đều thấy và cảm được. Toàn bộ không khí trong đền hầu như tràn ngập một sức mạnh không sao cưỡng nổi, nó đến vơi tất cả những quan sát viên lạnh lùng.

Có thể có nhiều lư giải về hiện tượng này, thế nhưng đièu chắc chắn là ở đây không có sự lừa dối, sự đóng kịch (điều này sức người sẽ không chịu nổi) mà là một thực tại vật lư, là những cái c̣n sót lại của một truyền thống xa xưa của con người, trong đó vật lư và tâm lư, người và thần, thế giới nội tại và ngoại cảnh, chưa hề tách rời lẫn nhau.

Tây Tạng xem ra là vùng đất cuối cùng trên địa cầu, trong đó tri kiến về năng lực tâm lư không những chỉ được ǵn giữ mà c̣n được chế ngự và chuyển vào những kênh trục an toàn. Đây cũng là nhờ tri kiến sâu xa và sự hướng dăn khôn khéo của các thánh nhân Phật giáo.

Những người đă không kiềm hăm truyền thống lễ nghi mặc dù không liên hệ ǵ với Phật giáo chúng vốn đóng một vai tṛ sống động trong đời sống tâm linh của dân tộc Tây Tạng, mà c̣n cho nó một chỗ đứng hợp lẽ trong thế giới Mật tông và nhờ thế đă cứu chúng khỏi rơi vào trong thuyết ma quái vô phương kiểm soát.

Những vấn đề thuộc loại này không thể giải quyết bằng cách phủ định nó mà bằng sự chủ động đối mặt với nó.


 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 789 of 2534: Đă gửi: 13 September 2008 lúc 12:03pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
BUỔI VẤN LINH TẠI GOMPA



Trong lần thăm viếng đầu tiên tại Dungkar, Li Gotami và tôi từng trầm trồ vẻ đẹp của ngôi đền vấn linh với ngai mạ vàng, h́nh tượng ma quỉ và các bức bích họa tuyệt diệu.

Thế nhưng chúng tôi không được nghe sự giải thích nào về các chức năng của chúng, cũng không rơ vị tu sĩ vấn linh có ở trong đền hay không và dịp nào th́ ông mới làm lễ.

Chúng tôi có cảm giác rằng vị tu sĩ trẻ tuổi đưa đi xem đền không muốn nói tới những điều này và v́ hồi đó chúng tôi mới đến và ông cũng chưa biết rơ chúng tôi lắm, nên ông giữ im lặng, tuân thủ nội qui trong việc thờ cúng ma quỉ.

V́ có nhiều điều phải làm khác chiếm hết sự chú ư của ḿnh nên chúng tôi cũng không gấp. Chúng tôi được vị tu viện trưởng và các thành viên trong đền tiếp đón nồng hậu nên nghĩ rằng với thời gian, sẽ không có ǵ mà họ không chia sẻ cho chúng tôi. Vị sư trưởng vui thích v́ t́m thấy nơi tôi bạn đồng môn, ông cũng là một học tṛ của Tomo Géché Rimpotsché.

Ông muốn chúng tôi khi trở về từ trung Tây Tạng phải lưu lại một thời gian lâu tại Dungkar. Chúng tôi vui mừng nhận lời mời v́ thấy rằng tâm thức của Tomo Géché vẫn c̣n sống động nơi đây. Điều này hiện rơ trong sự ân cần của tu sĩ, sự thứ tự sạch sẽ trong khắp tu viện, tu sĩ sống kỷ luật mà không khắt khe, cũng như sự lễ độ của mọi người đối với nhau, không kể đẳng cấp hay tuổi tác.

Mọi trách nhiệm tôn giáo đều được thực hiện chu đáo, mỗi người ai cũng có công việc của ḿnh và trẻ con đến học nơi đây đều tỏ ra vui vẻ, tinh tấn, chứng tỏ chúng được đối xử tử tế. Thỉnh thoảng chúng tôi thấy Lobonla, tên của vị sư trưởng, chậm răi di dạo với chiếc dù trong tay; và khi thấy trẻ con đứa nào nhớ nhà, ông lại vỗ về an ủi chúng.

Riêng sức khỏe của Lobonla không mấy tốt và v́ bệnh phong thấp mà ông nhấc thân ḿnh nặng nề của ḿnh một cách khó khăn. V́ thế mà chúng tôi càng cảm động khi trở về được Lobonla và một nhóm những tăng sĩ lớn tuổi tiếp đón.

Mặc dù không có sức leo cầu thang, bậc thang ở Tây Tạng thường rất dốc, ông vẫn nhất định leo theo chúng tôi lên tới pḥng thờ riêng dành cho trên tầng trên và tiếp đăi chúng tôi với bánh và trà.

Đến lễ cầu nguyện lớn, mọi người từ các lũng lân cận tràn về tham dự, các tu sĩ lo chuẩn bị nghi lễ sẽ được cử hành buổi tối và suốt đêm. Buổi sáng các vị tu sĩ làm lễ pratimoksa (sám hối) trong chính điện, lễ này chỉ dành riêng cho một số người, chúng tôi ở lại trong pḥng thờ.

Khoảng giữa trưa chúng tôi nghe tiếng rền từ Tschukyong Lhakhang dội vào và thấy một đám đông người chen chúc trước cửa đền vấn linh. Rơ ràng là sắp có lễ lớn và v́ đoán thậm chí sắp có vấn linh, chúng tôi chạy nhanh xuống sân, chen chúc vào đám người.

Chúng tôi bị đẩy dần lên đền và cuối cùng thấy ḿnh trong chính điện đầy người và khói nhang. Không biết sao chúng tôi lại đứng ngay trước ngai của vị đại vấn linh.

Thật kỳ diệu và bất ngờ, nên chúng tôi nh́n như dán vào dáng h́nh sang trọng của người mặc áo lụa, ngồi trên ngai vàng trước mặt chúng tôi và mang trên đầu một vương miện vàng nạm ngọc. Trên ngực có một tấm gương kim loại sáng loang loáng, trên vành gương có khắc mẫu tự HRIH thiêng liêng.

Như h́nh ảnh của một vị đại đế thời xưa, một bậc đầy quyền uy, toát ra mọi dấu hiệu của uy lực, h́nh dạng người này xuất hiện đối với chúng tôi như một siêu nhân.

Bỗng dàn nhạc với chiêng trống xập xỏa lên tới đỉnh cao tột độ cùng với tiếng niệm chú ŕ rầm của dàn tu sĩ, hô triệu các vị hộ pháp, tiếng tụng kinh kèm theo tiếng chuông. Từng đám mây hương bốc lên từ những b́nh đựng trầm và khán giả đứng như trời trồng trong buổi lễ.

Tất cả các cặp mắt đều dán lên người ngồi trên ngai, người đó như một bức tượng nhắm mắt ngồi bất động, chân để trong hai chiếc giày cúng, nằm yên trên sàn. Đột nhiên người đó có một sự rung động từ dưới đất thoát lên, nó chiếm lấy hai chân, tăng cường sức lực, chiếm dần thân thể, rồi cuối cùng toàn thân rung lên như điện giật.

Hầu như có một ḍng diện ghê gớm đi từ ḷng đất, tràn ngập thân thể gần như muốn nổ tung người đó. Cuộc chiến đấu của một bên là thân người, bên kia là một uy lực bí ẩn muốn chiếm lấy nó và biến nó thành quỉ thần thật đáng sợ. Các nét trên khuôn mặt cũng thay đổi hoàn toàn, biến thành một con người khác, đúng hơn là thành một vị thần hung nộ.

Khi đó, một trong những tu sĩ lớn tuổi nhất, vị chủ lễ, lên bục đến gần ngai để tŕnh các câu hỏi nhờ vị thần trả lời. Các câu hỏi trước đó đă được viết lên giấy, xếp chặt lại. Vị chủ tŕ buổi lễ cầm giấy lắc qua lắc lại trước con mắt thần vấn linh, trong lúc một số tu sĩ khỏe mạnh khác đỡ và giữ thân theo đúng vị trí.

Thế nhưng vị chủ tŕ chưa kịp đi lui th́ thần vấn linh - như một người khổng lồ vừa tỉnh giấc nhảy dựng lên, đẩy đám tu sĩ đỡ ḿnh qua một bên, cầm lấy một thanh kiếm trên giá để trước mặt và múa với một vận tốc khủng khiếp, hầu như chiến đấu chống lại một địch thủ vô h́nh.

Thật là một cảnh tượng đáng sợ làm tất cả mọi người như bị buộc vào một vũ điệu thác loạn của sự tàn phá, của một sức mạnh ma quái, trong đó không ai ngại lưỡi kiếm có thể sút tay văng vào người. Những người đứng gần ngai đi lui vài bước, c̣n năm sáu tu sĩ mạnh mẽ được lựa chọn từ trước ra sức kéo thần vấn linh lui về ngai.

Vị tu sĩ vấn linh xem ra không để ư và xua đuổi các vị kia như một đám trẻ con cho tới lúc họ đưa được con người khổng lồ đó về lại ngai sau nhiều lần cố sức. Ông ngồi gục xuống, thở nặng nề, mồ hôi đầm đ́a trên mặt, miệng sùi bọt mép, phát ra tiếng ú ớ, dường như muốn nói điều ǵ.

Vị chủ lễ bước đến, tay cầm một tấm bảng, ông cúi xuống bên cạnh vị tu sĩ vấn linh và viết những ǵ nghe được lên bảng. Lúc diễn ra thông điệp của vấn linh cũng là lúc của sự im lặng trân trọng, chỉ có tiếng tụng kinh ŕ rầm vọng lên.

Mặc dù sức mạnh dữ dội của quỉ thần trong tu sĩ vấn linh đă giảm nhưng sự hiện diện của nó hầu như ngự trị toàn diện, chiếm lấy mọi suy tư cảm xúc của mọi người tham dự nên tất cả lại đến gần ngai, phủ phục xuống chân để tỏ ḷng kính mộ và xin phước lành.

Chúng tôi cũng có cảm giác như tâm ḿnh được nâng lên và bị chiếm lĩnh sâu xa, nên cũng qú lạy vị vấn linh, quên hết mọi chuyện, chỉ c̣n thấy thực tại của một năng lực nằm ngoài hiểu biết của ḿnh.

Vị tu sĩ chầm chậm đứng lên, các tu sĩ khác vội đỡ. Một tách trà được đưa đến, vị đó uống một ít. Tiếng tụng kinh vẫn ŕ rầm không dứt, tiếng chiêng trống chậm lại; đám đông đă bớt căng thẳng.

Không bao lâu sau tiết điệu nhạc lễ lại dồn dập, giọng tụng kinh khẩn thiết hơn, vị tu sĩ lại rơi vào trạng thái xuất thần. Ông bị một vị thần khác trong sáu vị thần chiếm lĩnh, được biết qua món vũ khí ông cầm lấy trong lúc xuất thần.

Tôi không nhớ rơ ḿnh đă tham dự bao nhiêu lần xuất thần cũng không biết bao nhiều lần đă xảy ra trước khi vào điện. Tôi chỉ biết tất cả sáu vị, vị này sau vị kia, đă chiếm lĩnh vị tu sĩ để rồi ông nằm dài như một thây ma và cuối cùng được khiêng ra khỏi điện.

Làm sao một thân người mà chịu nổi lực khủng khiếp trong nhiều giờ liền, với trạng thái xuất thần đầy áp lực, điều đó tôi không hiểu. Điều chắc chắn là không ai chịu nổi nếu không ở trong trạng thái xuất thần và không ai dám chịu hiểm nguy giao thân ḿnh cho một năng lực xa lạ nếu không tin nơi sự cần thiết và giá trị của hành động ḿnh.

 

CUỘC ĐỜI CỦA MỘT TU SĨ VẤN LINH




Người ta không thể h́nh dung sự trái ngược giữa không khí căng thẳng và uy lực của một buổi vấn linh trong đền Tscho-kyong, và buổi lễ trăng tṛn của ngày rằm tháng giêng, được cử hành ngay tối hôm rằm và kéo dài đến khuya.

Buổi lễ này tràn ngập tâm thức của Phật và trên mặt mọi người đều phản ánh niềm vui này. Từ buổi sáng người ta đă cho chuẩn bị chỉ riêng điều đó đă tạo nên sự vui thích, tương tự như chuẩn bị lễ Giáng sinh tại các nước phương Tây.

Sự giống nhau càng tăng lên ở chỗ buổi lễ được tổ chức vào một đêm đông tháng hai, dưới ánh sáng ấm áp thân t́nh của hàng ngàn ngọn đèn dầu bơ trong sân điện, mà bây giờ đă trở thành một pḥng lễ đồ sộ. Người ta căng lều bạt để ngăn chặn bớt tuyết vừa rơi chiều nay. Mặt tiền hai tầng của chính điện được phủ bởi một tấm tranh thanka bằng lụa nhiều màu vĩ đại.

Bức thanka được buộc lên mái điện và phủ dài gần tới đất. Trên tranh, h́nh tượng chính là Phật Thích-Ca Mâu-Ni từ bi nh́n xuống đám đông gồm tu sĩ và tín đồ nam nữ, họ mặt bộ quần áo đẹp nhất và mang trang sức truyền thống của ḿnh, đêm đến cho buổi lễ một h́nh ảnh đầy màu sắc.

Trước bức thanka là một bàn thờ trên đó có hàng trăm ngọn đèn chiếu sáng, hoa tươi, trái cây, h́nh tượng của thú, thiên nhân, thánh nhân và người cũng như mọi biểu tượng tôn giáo. Tất cả đều có h́nh tượng với chi tiết chính xác và những màu rất nhă làm ta tưởng chúng bằng sứ.

Thế nhưng chúng tôi ngạc nhiên biết rằng, ngoài các con rồng lớn phủ phục xung quanh, tất cả chúng được làm bằng bơ.

Các vị tu sĩ tụng niệm kinh Monlam, họ được chia ba nhóm đứng thành ba cạnh của h́nh chữ nhật quanh bàn thờ. Giữa những hàng tu sĩ là ṭa ngồi đặt trên cao của Tomo Géché để trống mà trên gối của ông là chiếc áo choàng xếp đứng. Bên cạnh đó là chiếc ghế của Lobonla, vị sư trưởng đương thời.

Nhưng vị tu sĩ vấn linh ở đâu? Chúng tôi nh́n lại hàng ghế tu sĩ vẫn không thấy ông đâu cả. Ngay sau khi tụng niệm xong, chúng tôi hỏi vài tu sĩ xem vị vấn linh có tham dự buổi lễ hay không th́ có người chỉ một vị vu sĩ đứng gần đó nói:

“Ông ấy đó, các vị không nhận ra sao”.

Không, chúng tôi thật sự không nhận ra và bây giờ cũng không thể tin vị tu sĩ b́nh thường đó lại là người cách đây vài tiếng ḿnh thấy ngồi trên ngai vàng.

Thế nhưng trong những tuần sau đó, chúng tôi làm quen lui tới với ông và thấy ông là một người tốt bụng và khiêm tốn. Chúng tôi làm bạn với ông và qua đó mà biết thêm về đời ông, về việc huấn luyện để trở thành người vấn linh cũng như quan niệm của ông về những hiện tượng đó, thông qua ông mà xuất hiện.

Trở lại chuyện đêm rằm th́ hôm đó chúng tôi chưa có thời giờ để chuyện tṛ với ông. Hôm đó chúng tôi tận hưởng “buổi lễ của ánh sáng” với lời cầu nguyện và chúc lành cho mội chúng sinh, về ư nghĩa thật giống với lễ Giáng sinh, với một tâm tư vui vẻ an lạc cho tất cả mọi người cũng như cùng họ tham gia tṛ chơi.

Các tṛ này đến nữa đêm mới bắt đầu, sau các lễ nghi tôn giáo và gồm có điệu múa kỵ mă, trong đó những chàng trai trẻ áo quần sặc sỡ cuỡi ngựa giả. Họ cưỡi với động tác khéo léo mà ta phải cố gắng mới khỏi lầm là ngựa thật, c̣n thân th́ bằng tre hay mây có bọc vải.

Thật vui thích khi nh́n tṛ chơi trẻ trung này và chắc Phật từ bức thanka vĩ đại cũng nh́n xuống vui theo tṛ chơi này. Đó là sự chấm dứt kỳ diệu của một ngày tuyệt hảo mà diễn biến của nó đă mang lại cho chúng tôi một loạt những cảm nhận hết sức con người.

Lượng người dần dần giảm đi. Trong đêm, phần lớn số người ở lại trong khuôn viên tu viện, c̣n đàn bà trẻ con th́ ở trong các nhà xung quanh. Hầu như mọi người thuộc về một gia đ́nh, giàu nghèo, tu sĩ, cư sĩ.

Tất cả đều được ràng buộc bởi một sợi dây của niềm tin nơi sức mạnh vô song của các bậc giác ngộ và bởi cái cùng chung của số phận con người. Niềm tin này nơi mục đích cao cả của con người là cái làm cho người Tây Tạng không sợ quyền lực của quỉ thần, không ngại hiểm nguy của một thế giới vô h́nh.

Thật là quư báu để có thể chuyện tṛ với tu sĩ vấn linh về những vấn đề đă làm cho chúng tôi suy nghĩ sau buổi lễ trong đền. Những ngày hôm sau, ông đă đến thăm chúng tôi trong pḥng thờ riêng. Ông vẫn c̣n chịu chút hậu quả của các lần xuất thần và thân đau khắp người.

Ông hỏi tôi có thuốc ǵ làm bớt đau và v́ thế chúng tôi đưa ông vài vài viên Aspirin. Đối với chúng tôi, điều bất ngờ là ông không chịu uống trà hay ăn bất cứ thứ ǵ với chúng tôi, v́ quy định không cho phép ăn uống những ǵ do người khác nấu.

Ông ăn chay nghiêm nhặt và phải tự tay ḿnh nấu nướng tất cả những thức ăn uống v́ phải hết sức cẩn thận để giữ thân ḿnh được thanh tịnh. Nếu chỉ vô ư trong chuyện ăn uống, tâm hay thân có chút ô nhiễm là có thể dẫn đến cái chết cho ông.

Chỉ một đời sống phạm hạnh, ḷng quên ḿnh và kỷ luật cao độ mới giúp ông tránh khỏi hiểm nguy mà những ai hiến ḿnh cho các vị quỉ chúa của cuộc đại vấn linh phải chịu.

Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là ông có nhớ những ǵ ông trả lời trong buổi đồng cốt. “Không”, ông nói, “tôi không hề biết những ǵ xảy ra trong lúc xuất thần. Thế nhưng khi trở về trạng thái b́nh thường, tôi đau khắp người và như kiệt sức. Thường tôi cần nhiều ngày mới lấy lại sức”.

“Nhưng điều ǵ làm ông nhận trách nhiệm vấn linh này, nếu nó nguy hiểm và đau nhức như vậy? Phải chăng ông có ư thích làm những việc tâm linh hay đồng cốt?”

“Không phải. Hồi đó tôi có vợ con và làm nghề chăn thú trên vùng rẻo giữa Sikkim và Lhasa. Tôi là người đơn giản, không ham thích ǵ nhiều. Bà con chê tôi v́ lúc nào cũng ăn mặc xuềnh xoàng, không bao giờ sạch sẽ. Đời sống của tôi thật hoang tàng nhưng tôi thấy vui thích.

Mặc dù nghèo không biết đọc biết viết. Tôi có một căn nhà nhỏ ở Phari, ở với vợ con. Ngày nọ tôi bị ốm, không ai cứu chữa ǵ được, người cứ yếu dần đến nỗi vợ tôi nghĩ tôi sắp chết. Bà gọi một vị lạt ma và xin cầu nguyện chuẩn bị cho cái chết.

Thế nhưng khi vị lạt ma tụng niệm và hô triệu các vị hộ thần, tôi bị các vị ấy chiếm giữ dù bản thân tôi không biết ǵ về các chuyện đó, các lời tụng niệm cũng không và khi tôi tỉnh lại th́ vị lạt ma nói tôi đă được giải cứu v́ chịu phụng sự cho các vị hộ thần, các vị đă lựa tôi làm phương tiện.

Thế nhưng tôi không chịu bỏ vợ con và nói thế với vị lạt ma, vị này trả lời tôi, nếu người chết th́ ngươi cũng xa vợ con thôi, nhưng nếu người chịu phụng sự các ngài th́ không những ngươi được sống mà vợ người cũng chẳng chết đói”.

“Vợ tôi nghe lời vị lạt ma v́ thế mà tôi chịu và hứa sẽ phụng sự đạo pháp, nhất là các vị hộ thần, các vị đă cứu tôi khỏi chết. Kể từ ngày tôi nguyện như thế th́ người tôi khỏe hơn và sau một thời gian ngắn th́ b́nh phục hoàn toàn. Sau đó cứ mỗi lần hô triệu các vị là tôi xuất thần và năng lực các vị chiếm lấy tôi”.

“Ông có phải chịu huấn luyện đặc biệt ǵ không trước khi trở thành tu sĩ vấn linh? Hay ông phải bị kiểm tra để được các vị chấp nhận?”

“Tất nhiên! Để chắc đây là người thật việc thật chứ không phải lừa bịp hay tự ḿnh bày tṛ, tôi được gửi đi Lhasa và được vấn linh chính thống tại Netschung kiểm tra.

Trong buổi hô triệu đó, hai người chúng tôi ngồi cạnh nhau và sau nhiều thử thách cũng như quan sát kỹ lưỡng mọi hiện tượng, tôi mới được làm ứng viên trở thành tu sĩ vấn linh.

Tôi phải phát nguyện sống đời độc thân và thực hành mọi nội quy của luật. Từ đó tôi được mặc áo tu sĩ, có thầy dạy riêng, dạy đọc dạy viết và cả kinh sách. Tôi phải tuân thủ quy luật thanh tịnh và chay tịnh hoàn toàn.

Đời tôi thay đổi toàn diện và có phép tắc hơn tu sĩ thông thường, v́ chỉ một chút sai phạm là tôi bị hiểm nguy, có thể bị các năng lực đó hủy diệt, các năng lực mà tôi đem thân tâm hiến dâng.

Sau một thời gian huấn luyện lâu dài tôi mới được chính thức thừa nhận là tu sĩ vấn linh. Và sau đó tôi được gửi đến Dungkar Gompa, nơi mà người ta cần một người và từ đó đến nay tôi ở đây”.

Ư nghĩ một con người thông minh, lễ độ và có văn hóa như người này mà trước đây chỉ là một kẻ chăn thú, đối với tôi thật khó tưởng tượng. Nhưng nhiều người biết ông từ trước xác nhận rằng ông không những chỉ là người chăn thú b́nh thường mà c̣n là người thô lỗ và dơ bẩn, thường bị thiên hạ chê cười.

Khi ông từ Netschung trở về, không ai nhận ra ông và ai biết ông từ trước đều không ngờ có thể có sự thay đổi như vậy.

Vài ngày sau chúng tôi được ông mời tới pḥng riêng uống trà. Ông là một người tiếp khách lịch sự và chúng tôi không những khâm phục động tác toàn hảo của ông mà cả sự sạch sẽ tuyệt đối cũng như sự ngăn nắp của căn pḥng, cái bếp nhỏ với các nồi đồng bóng loáng ông vẫn dùng để nấu nướng.

Càng tiếp xúc, chúng tôi càng quư ông. Ông không cao ngạo hay hẹp ḥi, luôn luôn giúp chúng tôi trong công việc nghiên cứu. Với công việc của chúng tôi, ông cởi mở hơn phần lớn các người Tây Tạng.

Thí dụ ông cho chép lại các câu chú trong đền vấn linh và đặc biệt nhất là ông cho Li Gotami được chụp h́nh ông, được ghi ông lại trong tranh với tất cả áo quần ngồi trên ngai một điều mà trước đây chưa ai được phép.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 790 of 2534: Đă gửi: 13 September 2008 lúc 8:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
HUYỄN THUẬT CỦA NGƯỜI TÂY TẠNG
 

Điều gây cho chúng tôi ấn tượng đặc biệt là thái độ khách quan và sự chính xác hầu như khoa học của người Tây Tạng khi họ hành xử các chuyện huyền bí và hiện tượng tâm linh.

Những điều mà phương Tây xem là sản phẩm của hoang tưởng, là sự ṭ ṃ vô bổ hay mê tín dị đoan, là chuyện đồng bóng chỉ dành cho kẻ bệnh thần kinh hay đàn bà khờ khạo mà sự cảm nhận bất thường của họ chỉ sinh ra những ảnh hưởng không tốt.

Ngược lại, người Tây Tạng hầu như tránh loại người quá nhạy cảm hay thần kinh không ổn, họ t́m những người hoàn toàn b́nh thường, có một cá tính vững vàng, những người không tự măn với khả năng nào đó về mặt tâm linh hay không có tham vọng riêng tư.

Hugh Richardson, vị lănh sự đă được nhắc đến tại Lhasa kể cho chúng tôi nghe về trường hợp đặc biệt của một người thuộc ḍng quí tộc ở Lhasa, có tiếng là người yêu đời, thực tế, ngày nọ bỗng nhiên trở thành tu sĩ vấn linh tại Netschung khiến mọi người ngạc nhiên.

Trước đó ông không quan tâm ǵ đến các vấn đề tâm linh cũng không có khả năng đặc biệt ǵ về đồng cốt. Ông đang ở trong độ tuổi đẹp nhất và yêu cuộc sống.

Thế nhưng đây là việc do cuộc vấn linh chính thống nêu ra nên không ai xem thường và ông không có cách nào khác hơn là nghe lời phán truyền. Ông bỏ công việc làm của ḿnh, nếu tôi nhớ đúng th́ trước đó ông là nhân viên trong chính phủ, rút về Netschung, nơi ông được quán đỉnh vào bí ẩn thiêng liêng của vấn linh.

Đúng trong ngày nhậm chức chính thức, ông xuất thần và các vị thần bảo hộ trong đền nhập vào ông. Ông Richardson, người biết ông từ nhiều năm cho chúng tôi hay sự thay đổi nơi ông thật phi thường, người ta không thể nhận ra lại con người cũ.

Không ai biết trong thời gian ấn chứng, điều ǵ đă xảy ra và sự thay đổi ghê gớm này sinh ra những ǵ. Rơ rệt là nơi đây có những năng lực ta đă không biết đến mà tác dụng của chúng chỉ những người trong cuộc mới hay; thông qua họ, một vài truyền thống cổ xưa của huyễn thuật c̣n truyền lại đến ngày nay.

Một trong những nét kỳ lạ của sự vấn linh là mỗi liên hệ của nó với hiện tượng và điều kiện của giới tự nhiên. Vấn linh không những chỉ liên hệ với các yếu tố bản xứ, trong đó h́nh như các sức mạnh đất đai địa h́nh tụ hội, mà chủ yếu xem ra nó csoah hay ít nhất có liên quan đến các biến chuyển về thời tiết trong trời đất.

V́ thế, lễ vấn linh thường được tổ chức trong thời điểm của các cuộc thiên tai như hạn hán, mất mùa, mưa đá, băo lụt. Mặc dù thật khó suy ra mối liên hệ giữa các hiện tượng tâm lư và thời tiết nhưng tôi không thể không thừa nhận là các tiên đoán thời tiết cũng như tác dụng của bùa phép h́nh như đúng thật hay ít nhất có quá nhiều trùng hợp kỳ lạ mà ta khó cho là sự t́nh cờ.

Tôi muốn lấy một thí dụ và nhắc đến lễ vấn linh tại Gadong, được cử hành trong một lũng bên cạnh Kyitschu, khoảng bốn giờ đi ngựa từ Lhasa. Người ta cho rằng lễ này gây nhiều uy lực lên thời tiết.

Nhà du hành cũng là nhà văn Amaury de Riencourt, trong thời gian ở Lhasa, ông là khách của đoàn truyền giáo Anh, Ấn, được phép tham gia buổi vấn linh tại Gadong. Để khỏi ai lưu ư, ông mặc áo tu sĩ trong dịp này.

Thời tiết lúc ấy khô kiệt trong nhiều tháng, ruộng đồng nứt nẻ và người dân bị đói kém. V́ t́nh h́nh đó người ta tổ chức vấn linh tại Gadong. Bài báo cáo của Riencourt được coi trọng v́ tính chất khách quan và sự chu đáo trong từng chi tiết.

Là người mới đến và không rành Phật giáo Tây Tạng, ông không quá quan tâm với mọi sự xảy ra. Thế nhưng những ǵ trông thấy, đă gây ấn tượng sâu sắc lên ông. Điều đầu tiên làm ông kinh ngạc là sự biến đổi của tu sĩ vấn linh:

“Dần dần máu huyết dường như rút khỏi khuôn mặt đă biến đổi sẵn của ông và thịt ông xem ra sắp tan ră. Trong tiếng chiêng trống và tiếng ồn của nhạc cụ, tôi thấy rơ xương xẩu của mặt ông ḷi ra, biến thành chiếc đầu lâu, chỉ c̣n cái sọ và da bọc xương.

Đó thật là một h́nh tượng hóa đá khó tin của bác sĩ Jekyll và ông Hyde… Tôi như tê dại và hoang mang v́ buổi lễ đáng sợ này, không phải v́ màu sắc huy hoàng của nó mà v́ ḷng tin không định nghĩa được, là ḿnh đă tận mắt chứng kiến một buổi lễ phù thủy”.

Thế nhưng sự ngạc nhiên lớn nhất xảy ra khi Riencourt đi ngủ sau buổi lễ:

“Mưa đổ như thác và cả lũng Lhasa chỉ toàn tiếng sấm rền”.

Ông chấm dứt bài kư sự với những ḍng:

“Tôi bắt đầu hiểu, sức mạnh tâm lư chứa chất nhiều hơn những ǵ ta thấy bằng mắt của người phương Tây. Những điều xảy ra trong lễ vấn linh đă mở mắt cho tôi thấy và mở ra một cánh cửa nh́n vào một thế giới kỳ diệu.

Nơi mà người Tây Tạng đă t́m hiểu kỹ một thế giới nằm giữa những sự nghiên cứu sâu xa về tôn giáo và sự hoạt động thường ngày của đời sống trần thế: thế giới bí ẩn của các sức mạnh tâm lư kỳ diệu, vũ trụ của du già và của những ǵ nằm bên kia sự chết”.

Như đă nói, thực ra mọi chuyện này không liên hệ ǵ với đạo Phật và người Tây Tạng cũng xem nó như một dạng của hiện tượng tự nhiên mà người ta có thể sử dụng như người phương Tây sử dụng điện, không pha lẫn sức mạnh bí ẩn này với h́nh dung về tôn giáo hay cho rằng có một vị thượng đế hay linh hồn vũ trụ nằm phía sau.

Mặc dù người Tây Tạng không phân biệt giữa thế giới tự nhiên và thế giới tâm thức, nhưng họ thừa nhận cái khác biệt giữa thế gian và siêu thế gian, hoạt động vật chất và hoạt độngtâm linh, tuy thế lại không phủ nhận mối quan hệ lẫn nhau của chúng xuất hiện trong lĩnh vực nằm giữa hai cực.

Tất cả đều tùy thuộc nơi mức độ, trong đó người ta biết đến mối quan hệ nội tại giữa những hiện tượng xem ra không liên quan ǵ đến nhau; ư thức đó có được là nhờ sự khám phá cái qui luật chung, qui luật sinh ra chức năng của chúng.

V́ thế đối với người Tây Tạng, một nhà huyễn thuật không nhất thiết phải là một người ngoan đạo sùng tín mà là người biết sử dụng cái quy luật diễn tả sự song hành giữa các hiện tượng vật lư và tâm lư.

Nếu ông là một con người sống thiên về tâm linh th́ sẽ sử dụng kiến thức của ḿnh để phục vụ cho mọi loài, nếu không th́ sẽ tận dụng nó cho cá nhân ḿnh.

Đây là cái phân biệt hắc đạo và chính đạo, mặc dù cả hai đều có một nguyên lư chung. Cũng như khoa học, sức mạnh huyễn thuật tự nó không tốt, không xấu; nó chỉ tùy nơi ta sử dụng nó như thế nào.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 791 of 2534: Đă gửi: 13 September 2008 lúc 9:09pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
PHẦN THỨ NĂM

TRỞ LẠI MIỀN TÂY TÂY TẠNG

NGỌN NÚI THIÊNG



Có những ngọn núi chỉ là núi, nhưng cũng có ngọn có tính cách riêng rơ rệt. Tính cách một ngọn núi không chỉ là h́nh dáng kỳ lạ khác với những ngọn khác cũng như khuôn mặt đặc biệt hay thái độ khác lạ của một người chưa nói lên nhân cách của người đó.

Nhân cách là một sức mạnh có tác động lên người khác mà nó không hề muốn; và uy lực này bắt nguồn từ sự vững vàng, sự dứt khoát và sự ḥa điệu của tính cách riêng.

Khi những tính chất này trong một con người đạt tới sự viện toàn th́ đó là một vị thầy xứng đáng của loài người và ta thấy nơi người đó là b́nh chứa của những năng lực thiêng liêng.

C̣n khi những tính chất đó lại nằm trong một ngọn núi th́ nó xuất hiện với ta như b́nh chứa của sức mạnh vũ trụ và ta cảm nhận đó là một ngọn núi thiêng.

Uy lực của một ngọn núi như thế quá lớn đồng thời quá tinh tế đến nỗi con người ở gần hay xa đều có cảm giác ḿnh bị thu hút, như bị hấp lực của một thanh nam châm vô h́nh, và chấp nhận mọi nhọc nhằn và kham nhẫn với một ham muốn không giải thích được để đến gần với uy lực tốt lành đó, để được tỏ ḷng kính trọng nó.

Không ai phong cho một ngọn núi như vậy một danh hiệu thiêng liêng nào, thế nhưng ai cũng thừa nhận nó. Sự thiêng liêng này không cần giải thích v́ không ai nghi ngờ ǵ cả; không ai phải tổ chức cúng tế v́ trước nó con người đă choáng ngợp và chỉ biết diễn tả nỗi cảm xúc của ḿnh bằng ḷng kính sợ.

Thái độ kính sợ và sùng tín đó không phải do những con số khoa học, như chiều cao của núi, cái mà con người văn minh ngày nay hay bị ấn tượng. Cũng như con người có tín ngưỡng cũng không hề có ư niệm “chinh phục” núi non.

Ngược lại, người đó để cho ngọn núi bao trùm lên ḿnh, để cho uy lực của nó ngập tràn trong ḿnh. Người đó mở ḷng để đón cái thần thức thiêng liêng cảm hứng và được tham dự vào tự tính của nó.

Nếu con người thời đại ngày nay do tham vọng và ḷng tự ngă quá lớn muốn chinh phục một ngọn núi bằng cách làm kẻ đầu tiên đầu tiên leo lên đỉnh tâm thức của chính ḿnh hơn việc dùng thân mà leo lên đỉnh.

Đối với người sùng tín, ngọn núi là một biểu tượng thiêng liêng và cũng như không ai đạp chân lên tranh tượng tôn thờ, th́ người đó cũng không nghĩ sẽ đặt chân lên đỉnh núi thiêng.

Muốn nhận rơ kích thước của một ngọn núi ta phải đứng xa nó; để thâu nhận dạng nó vào ḷng phải đi quanh nó; để hiểu vui buồn của nó ta phải biết quan sát nó trong mọi thời khắc của năm: lúc mặt trời mọc và lặn, giữa trưa và trong sự tĩnh lặng nửa đêm, trong những ngày mưa tối và dưới bầu trời xanh, trong tuyết mùa đông và giữa những cơn băo.

Ai hiểu ngọn núi theo kiểu này, người đó sẽ đến gần với tính chất của nó, nó có tự tính sống động và đa dạng như của con người.

Núi non có lớn dậy và có điêu tàn, chúng biết thở và mang đầy nhịp sống. Chúng qui tụ năng lực vô h́nh xung quanh: năng lực của khí, của nước, của điện và từ; từ chúng mà sinh ra mây và gió, mưa và băo, thác và sông.

Chúng cho môi trường xung quanh được ngập tràn đời sống và cho vô số sinh vật thực phẩm và chỗ ẩn náu. Trong những thứ đó, ta thấy kích thước của một ngọn núi.

Thế nhưng trong số những ngọn núi uy lực nhất th́ cũng chỉ có một số ít mang tính chất phi thường, ở vị trí của biểu tượng cao tột của nỗ lực con người như trong mọi nền văn minh và tôn giáo đă nói tới, và chỉ số ít này sẽ trở thành những mốc trên bước đường vô tận của con người hướng tới sự toàn hảo và thực chứng, chúng cũng là bản chỉ đường, qua những mục đích thế gian để vương tới cái vô cùng của vũ trụ.

Trong những lũng sâu đầy sương mù của đời sống hàng ngày, chúng ta đă quên mối liên hệ của ḿnh với trời sao và v́ thế ta cần sự hiện diện của những bảng chỉ và mốc đường mạnh mẽ này để đánh thức ḿnh ra khỏi sự tự măn bản thân.

Cũng không có bao nhiêu người nghe tiếng gọi đó, biết cảm nhận thôi thúc đó để tự giải phóng ḿnh ra khỏi cái vỏ nặng nề của ư thích nhỏ bé, khỏi sự say mê tiền bạc và thú vui; thế nhưng những ai mà tiếng gọi đă tới tai và ḷng ước ao về những ǵ cao đẹp vẫn c̣n sống động, những kẻ đó làm thành một ḍng người hành hương, nó giữ cho truyền thống và kiến thức của suối nguồn những niềm cảm hứng này được c̣n sống măi.

Cũng nhờ thế mà danh tiếng của Ngân Sơn (Dailas) tỏa rộng và vượt trội lên mọi ngọn núi thiêng khác trên thế giới. Từ thuở xa xưa, nó là đích hành hương của người sùng tín.

Không có núi nào có thể sánh với Ngân Sơn v́ nó là chỗ nối của hai nền văn minh lớn nhất và lâu đời nhất của loài người, mà truyền thống của chúng trải qua hàng ngàn năm để tồn tại tới ngày nay; Ấn Độ và Trung Quốc. Đối với Ấn Độ giáo và Phật giáo, Ngân Sơn là trung tâm của thế giới.

Theo truyền thống Sanskrit cổ nhất th́ trục của vũ trụ được gọi là núi Tu-di và đây không phải chỉ có ư nghĩa vật lư mà c̣n cả thế giới siêu h́nh. Và do thân thể tâm vật lư của ta là một h́nh ảnh thu nhỏ của vũ trụ nên Tu-di là trục của mọi lĩnh vực siêu thế. Và cũng như trong h́nh hảnh thu nhỏ tâm vật lư của con người.

Trung tâm của “hoa sen ngàn cánh” là chỗ tối cao th́ cũng như thế, Tu-di thể hiện ra trên b́nh diện địa cầu tại Ngân Sơn, nó là chỗ vươn cao của đền thờ vô h́nh của những năng lực siêu việt; đối với mỗi ai sùng tín th́ nó hiện ra như biểu tượng cao nhất.

Thế nên đối với Ấn Độ giáo th́ đó là trú xứ của thần Shiva, đối với Phật giáo nó là man-da-la vĩ đại của các vị Thiền Phật và Bồ-tát, như trong Demtschog Tantra, nó được mô tả là man-da-la của “an lạc cao quí nhất”.

Đây chưa phải là chỗ để nói đến những giáo pháp phức tạp về siêu h́nh và tâm lư học của Ấn Độ giáo và Mật tông Phật giáo. Thế nhưng câu hỏi mà ai cũng phải nêu lên là: Tại sao trong những ngọn núi hùng vĩ của dăy Himalaya th́ đỉnh này được chọn và được sự thừa nhận chung là trung tâm của thế giới?

Hăy nh́n lên tấm bản đồ chỉ vị trí của Ngân Sơn trong cao nguyên Tây Tạng và mối liên hệ của nó với hệ thống các sông của Ấn Độ và Tây Tạng, ta sẽ thấy lư do trực tiếp.

Ngân Sơn chính là điểm cao nhất của “mái nhà thế giới” (Roof of the World), từ mà người ta dành cho cao nguyên Tây Tạng và xuất phát từ trung tâm địa lư này là một số lớn những con sông chảy đi mọi hướng, có thể so sánh với những căm của một bánh xe, chúng gặp nhau nơi trục.

Những con sông này là Brahmaputra, Indus, Satlej và Karnali. Tất cả chúng đều phát nguồn từ khu vực Ngân Sơn - Manasarovar, đó là vùng cao nhất của cao nguyên Tây Tạng.

Trong các tài liệu cũ, các con sông này đều được xem như chảy ra từ hồ Manasarovar nằm dưới chân Ngân Sơn và người ta cho rằng nước chảy bảy ṿng quanh vùng thiêng này trước khi chảy về bốn phía và với cách này đă biểu lộ ḷng kính trọng ngai vàng của các vị thiên nhân, đúng như truyền thống đi nhiễu xung quanh (pradaksina).

Người Tây Tạng gọi tên con sông Brahmaputra xuất phát từ phía đông của vùng Ngân Sơn - Manasarovar, là Tántchog - Khambab, có nghĩa con sông “chảy từ hàm ngựa”. Sông Satlej, bắt nguồn phía tây được gọi tên là Langtschen-Khambab, có nghĩa “chảy từ miệng voi”.

Sông Indus, từ phía bắc, được gọi là Senge-Khambab “chảy từ miệng sư tử” và sông Karnali (mà tại b́nh nguyên có tênlà Gogra) được gọi là Magtcha-Khambab “chảy từ miệng chim công”. Các loài thú này là vật cưỡi hay ṭa sen của các vị Thiền Phật.

V́ thế tên của những con sông này nói lên chúng là một phần của một man-đa-la vĩ đại mà trung tâm là đỉnh Ngân Sơn thiêng liêng.

Mối liên hệ tôn giáo và văn hóa giữa Ấn Độ và Tây Tạng nhờ những ḍng sông này mà trở nên rơ nét. Chúng thể hiện rơ nhất ở con sông Indus và Brahmaputra, hai con sông đó hiện ra như hai cánh tay khổng lồ từ vùng Ngân Sơn Manasarovar, ôm lấy tổng thể của Himalaya và bán đảo Ấn Độ, trong đó sông Indus chảy ra vịnh Ai Cập ở phía tây và Brahnraputra chảy ra vịnh Bengal phía đông.

Tất cả những con sông này không phải phát nguồn từ sườn Ngân Sơn hay Manasarovar nhưng các lũng của chúng chạy trên cao nguyên của Ngân Sơn, thế nên ngọn núi này trở thành mốc dẫn đường của các con lộ xuyên núi quan trọng, chúng nối liền nam với bắc, tây với đông và gặp nhau dưới chân núi Ngân Sơn.

Nếu ta cắt đi vài trăm mét đỉnh Everest hay bất cứ một đỉnh tiếng tăm nào của Himalaya th́ chúng không c̣n ǵ làm cho ḿnh khác những ngọn núi khác; chúng sẽ ch́m trong bản đ̣ và ch́m vào trong một loạt những đỉnh núi vô danh không ai quan tâm đến.

Thế nhưng đối với Ngân Sơn th́ khác, dù chiều cao nó có ít đi chăng nữa, nó vẫn không mất tầm quan trọng của ḿnh, v́ h́nh dáng phi thường và vị thế trung tâm của nó trong những rặng núi và trong hệ thống những ḍng sông Ấn Độ Tây Tạng đă dành cho nó một vị trí đặc biệt.

Ngọn núi nằm hoàn toàn độc lập ngay trung tâm của dăy Bắc Himalaya (c̣n được gọi là dăy Sven - Hedin) đủ để có thể đi ṿng quanh núi trong hai ba ngày; dạng h́nh của nó đều đặn gần như là mái tṛn của một ngôi đền vĩ đại, đền nằm trên nền cũng có h́nh dạng kiến trúc của nhiều khối.

Và cũng như các ngôi đền Ấn Độ luôn luôn có hồ nước thiêng th́ phía nam Ngân Sơn cũng có hai hồ thiêng liêng. Manasarovar và Rakastal, trong hai cái th́ cái thứ nhất có h́nh mặt nhật, biểu tượng cho sức mạnh của ánh sáng, c̣n cái sau có h́nh trăng lưỡi liềm, biểu tượng cho sức mạnh ẩn tàng của bóng đêm, sức mạnh đó.

Nếu tự tính của nó không được nhận rơ và đưa vào vị thế đúng đắn sẽ hiện thành năng lực đen tối của ma quái. Những ư niệm này hiện rơ trong tên gọi của hai hồ: manas có nghĩa thức hay ư thức; đó là trú xứ của khả năng nhận thức, sức mạnh của ánh sáng giác ngộ; rakas hay raksara là ma quái, cho nên Rakastal được gọi là hồ ma quỉ.

Những biểu tượng nhật nguyệt của những hồ thiêng này được tŕnh bày theo cách Tây Tạng ở trang 268, trong đó mặt trời hiện trên cái hồ tṛn Manasarovar và mặt trăng trên hồ Rakastal h́nh lưỡi liềm.

Biểu tượng nhật nguyệt thường được vẽ trong các bức tranh Tây Tạng, trong đó chư Phật, thiên nhân và thánh nhân được tŕnh bày. Mặt trời mặt trăng biểu tượng hai nguồn năng lực tâm lư, chúng là hai ḍng chảy nằm bên phải và bên trái của cột sống.

Trong phép du già, hai ḍng năng lực đó được hợp nhất trong một nguồn lực trung tâm và vươn lên qua các trung khu hay mức độ nhận thức (luân xa), cuối cùng nó đạt mức độ cao nhất, bốn chiều của ư thức giác ngộ.

Tương tự, Ngân Sơn biểu tượng cột sống của thân người, nó cũng chính là trục của vũ trụ có ư thức, vũ trụ đó. Các mức độ của đời sống chính là các mặt cắt nằm ngang của ngọn núi, chúng nằm đều đặn và nổi bật như các tầng của một đền thờ Ấn Độ.

H́nh nói trên cũng vẽ hồ Manasarovar nằm cao hơn hồ Rakastal, điều đó đúng với địa h́nh thực sự cũng như phù hợp với biểu tượng tâm vật lư, theo đó th́ Manasarovar là luân xa cao nhất và Rakatal là luân xa thấp nhất. Luân xa thấp nhất là nguồn gốc của mọi chứng thực. Luân xa là chỗ ban đầu, luân xa đỉnh đầu là mục đích của hoạt động tâm linh.

Đây cũng là lư do tại sao mà đạo Phật gắn liền hoạt động của các vị Bồ-tát trong đời sống cuối cùng của các ngài trên mặt đất nhằm chứng mức giác ngộ cao nhất là Phật quả với Manasarovar.

Theo truyền thuyết th́ ngày nọ hoàng hậu Ma-Gia mơ thấy giường nằm của ḿnh được hộ thần của hồ Anotatta (tiếng Pali của hồ Manasarovar) mang nhúng vào nước hồ, nhờ đó mà mọi ô nhiễm và bất toàn của bà được rửa sạch để vị Phật tương lai trú được trong thân bà.

Phật xuất hiện trong giấc mơ của bà thành một con voi trắng, đến từ một đám mây trên núi Ngân Sơn và nhập vào ḿnh bà. Điều này cho thấy Ngân Sơn và Manasarovar cũng được Phật tử tôn thờ và các chốn đó đă được thờ cúng kể từ thời Vệ-đà, nếu không muốn nói từ thời phát sinh của văn minh nhân loại.

Theo kinh Vệ-đà th́ Brahma, chúa tể vũ trụ đă tạo dựng Manasarovar và cho cây Jambu thiêng liêng mọc giữa hồ, cây này mắt trần không thấy được. V́ thế thế giới này của chúng ta được gọi là Jambudvipa (Nam thiệm bộ châu), có nghĩa nhờ hoa trái của cây thiêng này mà nước hồ Manasarovar trở thành cam lồ cho đời sống.

Ngọn cây trong hồ của nhận thức cao tột ư nghĩa biết bao - gần gũi biết bao với cây ư thức trong vườn địa đàng! Tôi nghĩ trên trái đất khó có chỗ nào đáng được quí trọng và xứng đáng để xem là địa đàng như vùng Ngân Sơn Manasarovar, mà người Tây Tạng xem là trung tâm của Nam Thiệm bộ châu (thế giới loài người).

Tâm điểm của mọi xứ sở, mái nhà của thế giới và xem nó là “xứ sở của vàng ngọc, suối nguồn của bốn con sông lớn, đỉnh cao của chúng ta là đền pha lê của Ngân Sơn và mang tấm gương màu xanh huyền bí của Manasarovar”.

Nơi mà người hành hương bắt đầu đi ṿng quanh ngọn núi thiêng từ một hẻm núi, theo h́nh vẽ, bên trái Ngân Sơn, đó là cửa vào của “thung lũng phía tây A-Di-Đà”. Đường đi vào bên phải Ngân Sơn, được vẽ bằng một tháp đá (dưới mặt trời), là Dolma-La, con đường của Tara, đó cũng là điểm cao nhất (6000m) của đường hành hương.

H́nh tam giác màu đen dưới tháp là một chiếc hồ con, đường tín đồ Ấn Độ giáo gọi là Gaurikung và Phật tử Tây Tạng gọi là “hồ đại từ bi”. Ta sẽ trở lại trong phần thứ ba của chương này về lễ nghi đi quanh ngọn núi thiêng.

Bức h́nh nguyên thủy của Tây Tạng c̣n chứa đựng thêm một số chi tiết nhưng chúng ta phải bị bỏ qua để giữ rơ nét, v́ mục đích của bức vẽ này nhằm giúp độc giả có h́nh tượng chính xác về Ngân Sơn Manasarovar, như nó được nh́n từ ngă đường Gurla, đó là nơi mà khách hành hương thấy vùng đất thiêng lần đầu.

Đó là chỗ duy nhất mà ta thấy cả hai hồ lẫn Ngân Sơn một lúc. Kích thước trong h́nh dĩ nhiên là không giống như thật, nó chỉ ghi lại ấn tượng trong con mắt tâm linh. Thế nhưng mặc dù đă bị ấn tượng hóa, h́nh dạng cảnh vật vẫn rất gần sự thực, và dù một tấm h́nh chụp cũng không đem lại cho ta h́nh ảnh thật hơn được.

Thật đáng lạ lùng, cả vị trí địa lư của hai hồ cũng phù hợp với tính chất sáng tối, đêm ngày. Manasarovar nằm hướng đông, hướng mặt trời mọc, chỗ ngày bắt đầu, c̣n Rakastal nằm hướng tây, mặt trời lặn, nơi bắt đầu bóng đêm.

Người Tây Tạng gọi Manarasovar là tso-mapham, có nghĩa “hồ đại lực của chư Phật’, c̣n có nghĩa “người chiến thắng”, trong lúc Rakastal được gọi là Lhasa-nag-tso, “hồ ma quái”.

Phù hợp với ư nghĩa này, trên hồ tso-mapham có nhiều tu viện và thất độc cư, trong lúc hồ kia không có bóng người. Mặc dù cảnh đẹp nhưng hồ này có một không khí kỳ lạ, đáng sợ.

Thế nhưng dù bị xa lánh và kính sợ, hồ này vẫn thiêng liêng như chính hồ sinh đôi với ḿnh; v́ rằng những năng lực nếu đối với ta có đáng sợ và mang tính hủy hoại, nằm sâu trong bóng tối, th́ tự tính của chúng vẫn là thiêng liêng cũng như các năng lực mang ánh sáng và thiện mỹ.

Mối liên hệ lẫn nhau giữa các năng lực này nhật nguyệt, ư thức vô thức mà ta hay gắn liền với nguyên lư sáng tối, âm dương, chủ động thụ động, hành động nhận thức, sắc không; tất cả những điều này đều là phát hiện lớn của triết lư tantra.

Ai đă nghiệm ra được sự thật này, người đó xứng đáng được tôn thờ thần núi Ngân Sơn cao cả, bất kể thấy đó là dạng h́nh của Shiva, người phá hủy mọi ảo giác tà kiến, hay dạng của Demtschog, kẻ đă làm như Shiva mà xé miếng da voi của vô minh và mười hai cánh tay của nó là mười hai mắt xích của nhân duyên (thập nhị nhân duyên).

Chỉ ai thấy cái thiêng liêng trong dạng h́nh đáng sợ, kẻ đó mới dám nh́n sự thật tận mắt, không bị nó áp đảo và lung lạc chỉ người đó mới đủ sức chịu đựng sự tĩnh lặng ghê gớm hiểm nguy và khó nhọc mà người hành hương phải trả để đứng trước sự hiện diện thánh thần và vùng thiêng liêng nhất trên trái đất này.

Ai dám từ bỏ sự thoải mái và an toàn, âu lo cho cuộc sống riêng ḿnh người đó mới hưởng được biến cố vô song của niềm vui cao tột này. Khả năng tâm linh của người đó hầu như chuyển hóa, hầu như tăng lên gấp bội: khả năng nhận thức, sự cảm nhận tinh tế như mở rộng đến vô cùng, ư thức mở ra với những kích thước mới của thực tại.

Người đó sẽ nhận được những linh ảnh, những âm thanh kỳ lạ sẽ vang bên tai, những trạng thái hầu như xuất thần sẽ xuất hiện, trong đó những g̣ bó và trở ngại ngày trước sẽ tan đi như một tia chớp, nó chiếu rọi những ǵ mà đến nay c̣n nằm trong bóng tối.

Hầu như ư thức cá thể, vốn hay làm lệch và mờ đục cái nh́n lên sự vật, bỗng nhiên rút lui và nhường chỗ cho một ư thức toàn thể bao trùm lên vũ trụ.

 

XỨ SỞ CỦA THÁNH THẦN




Để hiểu hết ư nghĩa của Ngân Sơn là vùng đất phi thường quanh đó, chúng ta không những chỉ cần biết những yếu tố địa h́nh, văn hóa hay lịch sử mà cần t́m hiểu chúng từ cách nh́n của một người hành hương.

Muốn làm điều nay, trước hết phải cởi bỏ giới hạn chật hẹp của cá nhân ta, nhất là những thành kiến của trí thức phương Tây; v́ rằng những điều mà ta gặp nó sẽ quá to lớn và phi thời gian để có thể xếp chúng trong khung cảnh của kinh nghiệm và phản ứng cá thể.

Trên đường đến ngọn núi thiêng và nhất là lúc đi ṿng quanh núi Li Gotami và tôi cảm nhận rằng ḿnh chỉ là một khâu trong đoàn người vô thủy vô chung đi chiêm bái, đă từng ra đi từ kiếp xa xưa nào qua những con đường cô quạnh và hiểm nguy của Himalaya.

Đối với chúng tôi, điều quá tŕnh nhất là sự tham gia vào một chứng nghiệm siêu cá nhân, nó vượt xa lên mọi nhăn quan và cảm xúc riêng tư và ư thức ḿnh được nâng lên một tầng lớp cao hơn của cảm nhận và khả năng chứng nghiệm.

V́ thế hăy theo bước của khách chiêm bái vô danh và hăy tưởng tượng khách đă vượt qua hàng trăm dặm đường khó nhọc quanh đỉnh núi mà đường đèo bị mây mù che phủ; c̣n trong các lũng sâu th́ chịu sức nóng chói chang để kẻ hành hương thay nhau bị giày ṿ bởi cái lạnh cắt da và cái nóng ră người.

Đường đi sẽ bị cắt bởi những ḍng lũ mà vượt qua không khéo sẽ đồng nghĩa với cái chết và những rẻo núi sâu dưới là thác đổ chỉ cho phép người ta vượt qua bằng cầu treo lắc lư, nơi mà người hành hương đeo vào một miếng gỗ nhỏ để được kéo qua bờ kia.

Trong các khe núi th́ đá và thác đe dọa, chúng có thể từ trên cao vô t́nh đổ ập lên đầu. Những đường ṃn ngoằn ngoèo trên sườn núi dốc hay vách đá dựng, và đá lởm chởm sẵn sàng cắt chân người đi.

Cuối cùng khách đă đến đỉnh cao của ngọn đèo biên giới Lipulek, trong sương lạnh giá của mây mù luôn luôn phủ đỉnh đèo. Thế nhưng chỉ vừa qua khỏi đỉnh đèo th́ màn mây biến mất và trước cặp mắt kinh ngạc của khách, hiện ra một phong cảnh của đất trời, mà núi non của nó không c̣n có cái buồn bă và nặng nề Himalaya, ngược lại nó như được dệt bằng một thứ màu sắc thuần túy thanh tịnh, trong suốt.

Các màu vàng, cam, đỏ và tím nằm dưới một bầu trời xanh thẫm. Sự tương phản với những ǵ đă qua thật đáng kinh ngạc; làm cho khách không để ư đến đám mây đen c̣n đọng trên đầu ḿnh và đang thổi những hơi thở giá lạnh.

Không bao lâu sau, khách đă vào trong lũng, lũng như mở rộng ra theo hướng ḍng sông; và cũng bây giờ khách mới thấy hết cái khác biệt giữa thế giới ḿnh đă bỏ lại đằng sau với chốn ḿnh vừa bước vào: thung lũng mà ḿnh vừa bước qua được bọc xung quanh bởi những rừng thông xanh thẫm, mặt đất toàn cỏ xanh, rêu và loài thảo mộc, đầy những hoa trái.

Thấp thoáng có những đụn đá vươn người lên khỏi lũng xanh và biến mất trong những đám mây đen nhiệt đới, trong đó là cá đỉnh núi tuyết ẩn náu. C̣n nơi đây những màu sắc tươi đẹp, những tảng đá như có người tạc và đường nét nổi bật của núi non trong ánh sáng rực rỡ không chúg đời sống thảo mộc mở ra như trong ngày đầu tiên của sự sáng tạo, khi trời và đất c̣n trinh nguyên, thanh tịnh đứng bên nhau.

Xa xa dưới lũng, bên bờ của con sông chảy lặng lờ là những thảm cỏ xanh và cánh đồng lúa mạch vàng, nó tương phản lạ lùng với cảnh vật không có cây cối ở đây. H́nh như chúng tiếp giáp với một sự nhảy vọt thời gian, chúng cắt đi một khoảng cách sáng tạo của nhiều triệu năm sau mới có.

Cuối cùng th́ trú xứ của con người hiện ra, chúng cũng lạ lùng như cảnh vật: một sự trộn lẫn những h́nh khối, sau đó là thành đá vĩ đại và trong những vách đá đó là những hang động có người ở, trên sườn đá là tu viện và đền đài.

Tất cả hiện ra hầu như không thật, như trong cảnh mơ ảo. Phía sau là những đỉnh núi tuyết chói lọi của dăy Gurla-Mandhata. Ngược với những đỉnh lổm ngổm của Himalaya phía nam, dăy mandhata tạo nên một h́nh khối nh́n trên cao xuống thấy như một chữ vạn khổng lồ.

Phần trung tâm của dăy núi được phủ bởi một lớp băng tuyết vạn niên, dài khoảng ba mươi cây số, c̣n những cánh chữ vạn là những lớp băng keo dài xuống dưới.

V́ dăy núi dài này ngăn cách thung lũng và quận Purang với vùng Ngân Sơn Manasarovar nên người hành hương phải đi dọc theo sườn phía tây của rặng núi, leo dốc khoảng một ngày đường mới đến đỉnh đèo Gurla.

Từ đây là thiên nhiên không c̣n gây trở ngại nào nữa. Thế nhưng điều hay xảy ra là chỗ nào mà thiên nhiên ưu ái dịu hiền th́ chỗ đó con người hay tự gây khó.

Uy lực của vị tỉnh trưởng Purang không vươn được quá vùng dân cư của lũng. Khi khách hành hương ra khỏi vùng này th́ họ trở thành miếng mồi cho giặc cướp ŕnh rập cướp bóc những kẻ cô đơn, hay các đoàn người không có vũ khí.

Các chuyện cướp bóc đáng ngại đó đến tai người đi chiêm bái, họ cũng phải e dè và chỉ ai có niềm tin lớn hơn nỗi sợ mới lên đường đi, c̣n những kể khác ở lại đợi người đi cùng dành phải đi Purantal, cũng là một chốn hành hương khác gần biên giới Nepal.

Thế nhưng điều này không mấy khi xảy ra với tín đồ Ấn Độ giáo, lúc Tây Tạng c̣n có đường biên giới riêng, mỗi năm họ tổ chức lễ hành hương, một lễ thiêng liêng nhất trong mọi lễ và chịu tất cả mọi cực h́nh và hiểm nguy v́ niềm tin của ḿnh.

Có những người đủ sức để thuê ngựa trâu chuyên chở lều chơng, thực phẩm và chịu ngồi trên lưng ngựa để đi một đoạn đường dài, như thế là cũng khó nhọc lắm rồi. Thế nhưng những người mà không có ǵ khác hơn những ǵ họ mang vác trên lưng, họ lên đường mà không có ǵ bảo vệ chống lại mưa gió và không ngại cả chết đói hay chết cóng, những người đó đáng cho ta khâm phục.

Họ không ngại sống chết, cướp bóc hay đói khát v́ họ biết cách tự thể nhập ḿnh thống nhất với sức mạnh thần thánh của vũ trụ. Nhiều người hành hương như thế đă không bao giờ trả lại quê hương ḿnh; thế nhưng ai trở về, người đó đă là sự minh chứng ḷng nhiệt thành cao nhất và niềm tin kiên định nhất.

Họ trở về với ánh mắt long lanh, tâm hồn được làm giàu bằng một sự chứng thực mà suốt đời họ sẽ là nguồn năng lực và cảm khái, v́ họ đă đối diện với cái vô cùng và đă tận mắt nh́n xứ sở của thánh thần.

Ai đă từ đèo Gurla nh́n thấy vùng Ngân Sơn Manasarovar, người đó biết nói như thế là không hề quá đáng. Ngay từ chiều hôm trước, trước khi người hành hương đến được đèo này th́ họ đă được hưởng được một cảnh quang, nó tới bất ngờ trực tiếp làm khách ngơ ngác câm lặng.

V́ một hiện tượng hầu như không thực, v́ trước mắt lữ khách bỗng hiện ra mảnh trăng tṛn sáng nằm trên h́nh mềm mại của dăy núi và sau đó người ta mới biết ḿnh nh́n lầm và càng ngạc nhiên hơn v́ sự thực: đó là đỉnh tuyết sáng rực của Ngân Sơn, hiện lên trên bầu trời xanh thẫm.

Cảnh quang này thật tuyệt diệu, nó làm khách quên hết lo phiền và sợ hăi trước đây và chỉ c̣n trong ḷng một ao ước sớm lên đến đèo để thật sự thấy điều mầu nhiệm này. Thân họ bước đi như được chắp cánh và mệt mỏi tan biến.

Nhịp điệu cả thần chú sống dậy trong tim và trên môi nó trở thành khúc ca khải hoàn, c̣n thức của lữ khách th́ tràn ngập linh ảnh của ngọn núi thiêng Ngân Sơn mà giờ đây sắp trở thành sự thực. Giờ đây sức mạnh của cái ác không làm ǵ được nữa.

Không lực lượng nào của thế gian ngăn được sự chứng thực của một cái thấy. Khách bỗng nhiên tràn đầy tin tưởng và nội tâm có một niềm tin sắt đá hầu như được che chở bởi một sức mạnh thần diệu, mà không năng lực bên ngoài nào có thể hủy phá.

Trong tâm trạng này người hành hương đến chặng cuối trước khi lên đèo. Khách ngủ trong niềm vui đợi chờ, dưới chân một nhũ băng, từ dó mà h́nh thành một con suối nước trong như pha lê đang tưới cho thảm cỏ non xanh tươi gồm toàn hoa dại và cây con.

Đó là một trạm nghỉ thiên nhiên dành sẵn mà mọi du khách đều hoan hỉ: có nước trong để uống và đất mềm nằm giữa những tảng đá và sườn núi che chắn để nghỉ ngơi; nơi mà ngựa trâu t́m được thức ăn và có củi đốt cho chỗ nghĩ ấm áp.

Lúc trời tờ mờ sáng khách đă dậy, ăn nhanh để lấy sức leo đoạn cuối đèo. Khách vui mừng chào đón một ngày trọng đại, trong đó ḿnh sẽ bước qua ngưỡng cửa của đất thiêng và thực hiện nguyện ước lớn nhất đời ḿnh.

Thế nhưng khi đến đỉnh đèo và đứng trước ngưỡng cửa đó th́ tất cả mọi chờ đợi của khách đều bị vượt xa. Ai có thể diễn tả được cái vô cùng của không gian bằng ngôn từ? Ai có thể mô tả một cảnh vật mà bản thân nó tiêu biểu cho cái vô cùng và thở hít cái vô cùng?

Với những hồ nước xanh, những vùng cỏ lục và những ngọn đồi vàng bọc xung quanh, trên nền một dăy núi tuyết nằm xa xa, vọt lên ngay ở giữa là một ṿm trắng xóa của Ngân Sơn, viên ngọc trong tuyết, như người Tây Tạng đặt tên.

Ngọn núi sừng sững chế ngự cả một vùng không gian của cảnh vật mà giờ đây nó nằm như trải ra dưới chân của người chiêm bái. Khoảng trời trong vắt làm cho mắt nh́n xa được hàng trăm dặm, thấy từng dạng h́nh, từng màu sắc rất rơ nét hầu như mắt ḿnh có thêm khả năng hồng ngoại.

Không có ǵ để ngờ, đây là một trong những cái nh́n nâng ta lên tầm cao nhất mà người c̣n sinh tử có diễm phúc được hưởng. Nó tràn ngập trong ḷng người hành hương với sức mạnh làm quên mọi hiểm nguy, cái tôi tan biến đâu mất.

V́ như trong một giấc mơ, khách đă thành một với linh ảnh của ḿnh. Khách đă đạt tâm kiên cố của một con người, biết rằng không có ǵ có thể xảy ra cho ḿnh, ngoài những điều từ vô thủy đă thuộc về ḿnh.

Giờ đây khách không cần ai bảo vệ, v́ ḿnh vừa là rồng vừa là kẻ cưỡi rồng, là kẻ cúng tế vừa là vật tế lễ, là ma quái vừa là thượng đế. Và khi người hành hương cúi đầu cho trán đụng đất thiêng và ném vài viên đá vào những nơi mà người đi trước đă ném thành đống để nói lên ḷng biết ơn và niềm vui mừng, th́ niềm mơ ước của ḿnh nay đă thành sự thực.

Khách nhắc lại trong tâm như lời nguyện cầu: “Mong sao tôi đừng quên phút giây này. Mong sao nó hiện diện măi trong tôi”. Và trán khách cứ chạm đất nhiều lần, khách đi ṿng quanh tháp đá, trong đó mỗi viên là một lời cầu nguyện câm lặng và phước lành của những người đi trước mà khách hành hương đă nhập một ḍng huynh đệ với những người đó.

Trên thế giới này có nhiều loại giáo hội tăng đoàn: những định chế với phép tắc và qui luật, với lễ nghi và giáo điều, thệ nguyện và quán đảnh. Thế nhưng ḍng huynh đệ thuộc về những ai đă đến Ngân Sơn, người được thử thách, những người đă chịu khổ nhọc hiểm nguy, là người đă lănh được sự xác định cao quư nhất.

Mối dây vô h́nh nối những người đó lại với nhau không cần có thệ nguyện, giáo điều và lễ nghi. Nó gồm có một sự chứng nghiệm chung mà tác động của nó tồn tại lâu dài, mạnh hơn tất cả những qui định của con người đặt ra.

Dần dần người hành hương đi vào xứ sở của thánh thần. Khách không c̣n là cá nhân đơn độc và sợ hăi của những ngày trước. Khách biết rằng ḿnh đang cùng ở với số đông bạn đồng hành vô h́nh, của người anh em tâm linh, của vô số những người chiêm bái đi trước.

Và với nhiều ảnh hưởng tinh tế h́nh như đang bồng bềnh đâu đây trên cảnh vật, và theo nhiều truyền thống tôn giáo, được mô tả là sự hiện diện của thượng đế hay chư Phật, chư Bồ-tát.

Sự hồi hộp của những ấn tượng to lớn đầu tiên của người hành hương và khung cảnh xung quanh dần dần nhường chỗ cho một sự hân hoan thầm lặng. Khi Ngân Sơn, “viên ngọc trong tuyết” biến mất sau một đám mây mù đă dâng lên cùng vơi hơi ấm mặt trời th́ những vùng hồ thiêng trở thành đối tượng của người chiêm bái.

Người đó ngắm không biết chán màu xanh rực rỡ của hồ và tṛ chơi kỳ lạ của thiên nhiên với những biểu tượng của những truyền thống xưa; Phía sau là rặng núi h́nh chữ vạn (chữ vạn là biểu tượng của sự sáng tạo miên viễn), phía trước là hai cái hồ, bên trái là hồ Rakastal với h́nh lưỡi liềm mặt trăng, bên phải là hồ Manasarovar h́nh tṛn mặt trời và là trú xứ của thánh thần mang ánh sáng.

Ba biểu tượng này được hợp chung trong một dấu hiệu mang phước lành mà ta thấy khắp nơi tại Tây Tạng, trên cửa nhà hay cổng của các công tŕnh lớn. H́nh dáng của nó như sau:

Dấu chữ vạn c̣n được lặp lại ở phía nam của Ngân Sơn. Mới đầu ta thấy nó như một chữ thập khổng lồ chia đỉnh tuyết ra làm bốn phần. Khi đến gần ta mới thấy rơ các nhánh, nhất là các nhánh nằm ngang.

Vài giờ sau khi qua đèo Gurla, khách hành hương đến được bờ hồ Manasarovar và sống được cảnh đẹp của buổi hoàng hôn đầu tiên trên sóng. Gần bờ, màu xanh của hồ biến dần thành màu lục sáng, giữa hồ th́ thành màu xanh đậm.

Những đám mây chiều sáng lên như những ngọn lửa. Chúng nằm thấp trong bầu trời và đổi h́nh dạng nhanh chóng trên mặt hồ. Có khi chúng hầu như nổ tung như pháo hoa và xả thác nước màu vàng óng trên mặt hồ giờ đây toàn những sóng màu tím, cũng có lúc chúng vụt bắn lên cao rồi đổ xuống một trận mưa như có lửa.

Và trong khi khách hành hương say ngắm nh́n cảnh tượng này th́ thú vật từ đâu kéo tới, ngó nh́n người lạ. Chim chóc đến gần chân người không biết sợ, loài thỏ chui từ hang nào ra như chào người chiêm bái, chúng ngồi co hai chân. Cách đó không xa, từng đàn trâu gặm cỏ yên lành.

Nơi đây có một qui luật bất thành văn là không ai giết hại hay làm tổn thương sinh vật và không rơ thú vật có biết thế hay không, nhưng chúng sống như sống trong thiên đàng mà con người đă lăng quên từ lâu. Khách hành hương từ sáng đến bây giờ như trong mộng, bắt đầu hiểu rằng, nếu có một thiên đàng th́ chính là đây.

Theo niềm tin của người Tây Tạng và được phần lớn khách hành hương Ấn Độ chia sẻ, loại sói đỏ, nâu và vàng và một số cá trong hồ, những thứ đó có khả năng huyền bí để chữa bệnh.

Tất nhiên không ai nghĩ đến việc bắt cá hay loài vịt trời sống khá nhiều tại đó. Thế nhưng có nhiều trận băo mà sóng đánh mạnh vào bờ đến nỗi có một số cá bị ném vào bờ, chúng chết khô và được khách hành hương mang về như một loại thuốc chữa bệnh quí báu.

Các đồi và cao nguyên quanh hồ một phần được che phủ bởi những bụi cây thấp và loại cỏ cứng. Hàng ngàn trâu cũng như dê trừu của người Nomade t́m thấy nơi đây đồng cỏ yên lành.

Trong số thảo mộc ở đây cũng có nhiều cây thuốc và một số khác dùng để làm hương thắp. Tất cả những loại này được khách chiêm bái là lộc của thánh thần. Có nhiều loại lộc như thế, mỗi thứ có nơi chốn riêng.

Trong các loại sỏi của hồ Manasarovar có một loại đỏ đậm, sờ như lụa và được sóng nước mài ṃn và đánh bóng. Sỏi này không cứng, ta có thể dùng dao cạo ra từng lớp. Bột đá này được người Tây Tạng trộn chung với sữa và uống như thuốc tránh bệnh tật.

Phía đông của hồ, người ta t́m thấy cát quí, nó gồm “năm chất liệu quí”, tương truyền gồm chất turquis, san hô, pha lê, vàng và bạc. Dù nó thực sự gồm chất ǵ đi nữa th́ cát này thật đẹp, lóng lánh nhiều màu. Đặc biệt là ta chỉ thấy nó trong một đoạn ngắn của bờ hồ phía đông và nặng hơn cát thường nhiều, mặc dù ngược với mọi dự đoán, cát này chỉ là một lớp mỏng nằm phía trên.

Phía tây của hồ Manasarovar, đặc biệt tại thỏm đất hẹp giữa Manasarovar và Rakastal, có nhiều “cát vàng”. Nó có màu vàng cam và thực tế cũng có người t́m thấy vàng thật nơi đây. Khối vàng lớn nhất t́m được là một khối to lớn như một con chó và chỗ t́m được ngày nay c̣n có tên là serkyi (con chó vàng).

Người Tây Tạng nghĩ rằng cũng như người Inka cổ tại Peru mà giữa họ có nhiều điểm giống nhau nếu vàng t́m được ở chốn thiêng liêng này th́ đó là của thánh thần và không được sử dụng cho mục đích thế gian, không được thỏa măn ḷng tham lam của con người.

Thế nên khi t́m được khối vàng to bằng con chó, không ai dám nhận làm của và gửi về Lhasa cho Đại lai lạt ma. Khi ông biết rằng khối vàng này t́m thấy nơi xứ sở của thánh thần, ông liền cho trả lại và chôn tại chỗ đă t́m thấy. Để nhớ lại “con chó vàng”, người ta xây một cái đền tại đó và ngày nay chỉ c̣n là một ngọn đồi nhỏ.

Lộc của thiên nhiên cho con người một cách hào phóng là quí báu hơn vàng; v́ nếu không, chính quyền tại Lhasa đă cho đào vàng tại đó, và biến xứ sở này thành một sào huyệt của ham muốn và tội lỗi chết người.

Và ngay cả kẻ cướp ŕnh rập trên đường đi tại vùng đất thiêng liêng đó giả dạnh thành người chiêm bái hay du sĩ th́ họ cũng sẽ từ bỏ chuyện giết chóc, khi họ đối diện với những năng lực mà bản thân họ, dù không hiểu ngộ, cũng phải tôn trọng và kính nể.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 792 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 11:04am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
THÁCH THỨC LẦN CUỐI


Sau bao nhiêu tuần gian khổ vượt qua lũng sâu và hẽm núi, qua những đỉnh cao phủ đầy mây, khách hành hương như được giải thoát khi thấy mặt nước trải dài, xung quanh là đồng cỏ xanh ŕ và đồi con bao bọc, xa xa là các đỉnh núi tuyết sáng rực trong bầu trời xanh.
 
Khách tràn đầy một cảm giác an lạc không nói nên lời và sau khi nghỉ, lại lên đường đi tiếp. Khi thấy khát th́ nước hồ thiêng liêng của Manasarovar sẵn sàng phục hồi lại tinh thần và thể xác cho khách.

Nhờ các đồi che gió nên mặt trời chiếu rọi với một sức nóng mùa hạ mà người ta không ngờ nó có trên một độ cao 5000 mét. Chỉ trong bóng mát, khí trời mát lạnh mới làm ta để ư và cảnh cáo về khả năng xảy ra băo tuyết hay mưa đá, chúng có thể bất ngờ kéo qua từ các đỉnh tuyết của Himalaya.

Một cơn băo tiến đến dần cũng là một cảnh tượng vĩ đại, mà ngay của khách hành hương dù có bị phiền toái nhưng không thể không kinh khiếp trước vẻ đẹp uy nghi của sức mạnh thiên nhiên đang vùng dậy. Khoảng cách không gian như mất đi để những vật xa nhất cũng tưởng chừng như sờ nắm được, mặt khác cảm giác bao la vô tận vẫn cứ hiển hiện.

Một dăy núi cách xa hai mươi dặm bỗng biến thành sắc xanh và hiện ra trước mặt người như một làn sóng lớn đen ng̣m cách xa quá năm dặm. Màu xanh đậm của nước hồ Manasarovar bỗng có sắc đỏ, tiến gần bờ mới có màu lục.
 
Mây kéo nhau lướt trên mặt nước nổi sóng và chẳng bao lâu sau cả mặt hồ như một viên ngọc opal, trong đó các sắc màu giành nhau ngự trị. Mây tràn lên núi, bây giờ núi ẩn trong mây; h́nh dáng của núi đă tan trong bóng tối, c̣n mây hiện h́nh sắc nét và mang h́nh dáng siêu thực trong bầu trời.

Thế nhưng khách vẫn tiếp tục đi theo hướng đích của ḿnh; hướng Ngân Sơn giờ th́ đă khuất mắt một cách bí ẩn. Chỉ trong những giờ sáng và tối, đỉnh của nó mới thấy được, mới không bị mây che, và cứ mỗi sáng mỗi tối, khách hành hương lại cúi đầu trước đỉnh núi thiêng, miệng đọc chân ngôn, hô triệu ánh sáng tự thân nằm trong chân ngôn này.

Khi đi qua thỏm đất giữa hai hồ, khách nh́n lại lần cuối hồ Manasarovar đầy nắng và sau đó là đến bờ bắc của hồ Rakastal. Môt không khí kỳ lạ, bí ẩn hầu như đè nặng trên sóng nước màu xanh của hồ dài và hẹp, một không khí của sự cô đơn và buồn bă vô tận, điều mà ta không hề thấy có ở bờ Manasarovar.

Thật khó có lời giải thích về chuyện này v́ cảnh vật xung quanh Rakastal cũng không kém xinh đẹp: những ngọn đồi con thoai thoải màu đỏ nâu hai bên và đỉnh tuyết trắng đầy uy lực của Gurla-Mandhata cho cái hồ xanh đậm một khung cảnh đầy màu sắc và ấn tượng.
 
Thế nhưng có một điều ǵ u ám đè nặng lên nét xinh đẹp này và chính sự không giải thích được hiện tượng này mới đáng sợ. Những người khác chắc hẳn cũng thấy thế nên không ai xây tu viện, thất độc cư bên bờ hồ, như trường hợp của Manasarovar. Có những điều bí ẩn mà con người cần khám phá và có những điều khác con người cần tôn trọng để yên. Rakastal thuộc về loại sau.

Về Manasarovar th́ người ta đă nói nhiều nhưng hầu như không ai nói ǵ về Rakastal. Thế nhưng cũng chính Rakastal là hồ nhận nước trực tiếp từ Ngân Sơn; ngoài ra, hồ này cũng thông với nhau bởi một con kênh, nước của hồ Manasarovar nằm cao hơn khoảng 17m, khi dư, nước chảy qua Rakatal.
 
Người ta xem đó như một điềm tốt báo hiệu những điều lành cho thế giới; thế nhưng điều này đă không xảy ra từ nhiều năm nay. Con kênh đă hầu như khô cạn, khách hành hương có thể băng qua được. Điều này làm cho người Tây Tạng lo ngại mấy năm nay và những biến cố xảy ra trong thời gian qua đă minh chứng sự lo ngại đó.

Bây giờ khách đă đi qua khoảng b́nh nguyên rộng nằm giữa bờ bắc của Rakastal và dễ mến như một thảo nguyên mùahè, là nơi gặp gỡ của các con đường lữ hành, từ đông sang tây, từ bắc xuống nam và v́ thế là chỗ làm ăn quen thuộc của giặc cướp và chỗ đánh nhau của các bộ tộc người Nomade từ miền Tschang-Thang phía bắc.
 
Vùng thảo nguyên này cũng bị cắt bởi hàng chục con suối lớn, giữa những con suối đó là các vùng đầm lầy nguy hiểm, nơi mà khách có thể sa lầy nếu vội đi tắt, để hy vọng tránh các con đường bị cướp ŕnh rập.

Khách hành hương tập trung tâm trí và mắt nh́n lên “bảo ngọc của tuyết” mà đỉnh tuyết của nó giờ đây nằm ngay trước mặt, ngự trị một vùng cảnh vật. Sau khi vượt qua con suối cạn cuối cùng, khách bắt đầu leo dần lên cao nguyên Ngân Sơn, đỉnh núi tạm biến mất và những chấm trắng của những lều trại.

Trạm nghỉ của khách hành hương, thương nhân, hành khất và người Nomade đón chào khách lữ hành tại một nơi b́nh an. Thật là lạ khi th́nh ĺnh thấy lại xă hội con người và dễ chịu thay được chất thức ăn vào túi thực phẩm đang ít ỏi.
 
Thế nhưng ḷng của khách vẫn c̣n ở lại với sự cô tịch yên tĩnh của thiên đàng vừa rời xa bến bờ Manasarovar, c̣n đầu th́ hướng về cái sắp đến, được tham dự vào chốn ẩn mật của Ngân Sơn.

Khách sống lại sự chờ đợi đầy căng thẳng của đêm mà ngày hôm sau ḿnh được bước qua ngưỡng cửa của xứ sở thánh thần tại đèo Gurla. Đồng thời khách cũng biết những ngày tới đây là lúc thử thách dữ dội sức mạnh và ḷng kiên tŕ của ḿnh, thể chất cũng như tinh thần.

Không ai có thể đến gần ngai vàng của thánh thần, hay man-đa-la hay trú xứ của Shiva hay Demtschog dù tên gọi là ǵ của chốn ẩn mật của thực tại cuối cùng này mà không đem đời ḿnh ra để đánh đổi, thậm chí phải chấp nhận đầu óc ḿnh liệu sẽ c̣n b́nh thường hay không.
 
Ai đă thực hiện nghi thức đi ṿng quanh ngọn núi thiêng với ḷng tin tưởng hoàn toàn và tâm thức tập trung, người đó đă đi trọn một ṿng sống chết.

Khách tiến gần ngọn núi đầy những đụn cát vàng rực ở phía nam, đó là màu của đoạn đời trung niên, của sự tận hưởng và ư thức hoàn toàn rơ về sự sống. khách bước qua hướng tây màu đỏ.
 
Đến thung lũng A-Di-Đà trong ánh sáng dịu của mặt trời sắp lặn, đi qua cánh cửa của thần chết giữa lũng phía bắc tối đen và phía đông nhiều màu, tức là ngọn đèo của nữ thần Dolma, “nữ thần từ bi cứu độ”.
 
Và như người mới lần đầu mở mắt, khách đến thung lung màu lục của Bất động Như Lai, phía đông của Ngân Sơn, nơi mà nhà thơ và bậc thánh nổi tiếng Milarepa hát những bài ca của ḿnh và cũng từ đó mà khách hành hương đến tại thảo nguyên bát ngát, vùng đất đầy mặt trời của phía nam, thuộc về Thiền Phật Bảo Sinh mà màu của Ngài là một sắc vàng chói.

Khách hành hương, phát xuất từ những đụn cát vàng ở phía nam bây giờ đă ư thức rằng ḿnh đă đi suốt qua một man-đa-la vĩ đại, nó được thiên nhiên xây dựng nên như nhờ một phép lạ một man-đa-la nói với khách bằng h́nh ảnh và màu sắc trong ngôn ngữ biểu tượng của thiền định, thứ ngôn ngữ mà từ xưa con người đă truyền từ đời này qua đời khác.

Khi qua thung lũng hẹp phía tây của Ngân Sơn, phía của A-Di-Đà màu đỏ, khách thấy ḿnh nằm giữa vách đá đỏ rực mà cấu trúc của nó làm khách tưởng ḿnh như đi giữa những đền đài khổng lồ, với màn trướng, vách cột. Trên những cấu trúc đó đỉnh Ngân Sơn trắng xóa bỗng hiện rơ.

Dạng h́nh của đỉnh thật hết sức đều đặn, hầu như nó được đẽo ra từ một tảng băng vĩ đại. Phía tây của đỉnh là hai hố lơm vào như hai mắt của một chiếc đầu lâu trắng, nh́n kẻ hành hương phía dưới một cách bí ẩn và nhắc nhở họ nghĩ đến khía cạnh dữ tợn của Shiva và Demtschog, cả hai vị đều vốn được trang hoàng bằng đầu lâu và biểu thị cho trí huệ của tính Không và tính vô thường của mọi sự.

Tu sĩ Phật giáo và các vị ẩn cư thiền quán đă xây một tu viện nhở giữa những vách đá của ngọn núi thiêng này. Nó trông như một tổ chim treo giữa triền núi. Về hướng đông bắc, trước lũng là một vách đá cao cả ngàn mét. Dạng h́nh của nó giống như một con ḅ đực, linh vật của Shiva, đầu của nó hướng về đỉnh Ngân Sơn, dường như nh́n lại chủ ḿnh một cách tha thiết.

Khi khách hành hương đến mặt bắc của núi, sắc màu của đá cũng như cấu trúc địa h́nh bỗng nhiên thay đổi. Vùng cao nguyên nơi đây không c̣n có vẻ kiến tạo rơ nét nữa, thay vào đó khách sẽ được cái bất ngờ khác; các đồi đá con thường làm nền cho núi bỗng dạt qua một bên và khách hành hương đứng ngay sát trước đỉnh Ngân Sơn.
 
Nh́n lên núi lúc này thật ghê gớm. Theo kinh sách th́ đây là nơi cử hành nghi lễ và các phép thiền quán của những người đă được ấn khả nhập ḍng Mật tông để tán thán “man-đa-la của an lạc cao quí nhất”.

Ai đă từng thực hành lễ nghi đó th́ không những hưởng phước lành được đối diện với núi thiêng trong sự uy nghi và vẻ đẹp của một ngôi đền thiên tạo của sự đối xứng toàn diện mà c̣n nhận được linh ảnh và biểu tượng của vị hộ thần, dù có dạng Shiva và Parvaty hay Demtschog và Dorje-Phagmo, hay mọi hiện thân của Phật hay Bồ-tát khác, các vị được xem là liên hệ với cơi xứ và khí lực của vùng này.

Mây đen và băo tuyết thường che phủ ngọn núi thiêng và khách hành hương phải đợi cả ngày thiên nhiên phẫn nộ mới nguôi giận và bức màn của mây mù mới kéo nhau đi.
 
Rồi ngọn núi bỗng hiện h́nh trong một sự sáng rơ và thanh tịnh siêu nhiên, với đỉnh núi trắng xóa, với những tảng băng loáng màu xanh lục, những h́nh bóng màu xanh và vách đá đậm màu đỏ tím, ở những nơi mà băng tuyết không bám giữ được: một cảnh quang làm mọi ngôn từ đều im bặt.

Ngọn núi hiện ra gần tới mức mà khách tưởng có thể vươn tay tới được đồng thời khách lại có cảm giác đứng trước một hiện tượng thiện mỹ không thể với tơi, không sờ mó được, hầu như nó nằm bên kia của thế gian, bên kia của thực tại vật chất.
 
Mỗi ngôi đền thiên giới với đỉnh ṿm bằng pha lê hay kim cương. Và thực tế, cơi xứ tôn giáo này là một ngôi đền thiên giới, là trú xứ của thánh thần, là chỗ ngự trị và trung tâm của năng lực vũ trụ, là chỗ liên hệ ưu việt với chỗ ra vào của năng lực tâm linh của hành tinh chúng ta.

Những ǵ mà khách hành hương thấy bằng mắt trần chỉ là phần dưới hay một mặt của một cái ǵ to lớn vĩ đại hơn. Đối với người Tây Tạng th́ ngọn núi này là trú xứ của hàng ngàn vị Phật Bồ-tát, các vị tỏa ra phước lành và niềm an lạc và gieo rắc ánh sáng vào tim cho những ai ước ao được giải thoát khỏi bóng tối vô minh, của thù hận và tham ái.

Hai ḥn núi nhỏ mà ở giữa là viên ngọc trong tuyết được xem là trú xứ của Bồ-tát Kim Cương thủ và Văn Thù Sư Lợi. Vị trước là người cầm Kim Cương chử, thần của Mật tông, người chống lại lực lượng của hắc đạo và của sự hủy diệt (Kim cương chử là biểu hiện của sự bất hoại), vị sau là Bồ-tát của trí huệ siêu việt, người cầm bảo kiếm trí huệ cắt màn vô minh và thành kiến.

Bên cạnh đỉnh Văn Thù là trú xứ của Quán Thế Âm, vị thần bảo hộ Tây Tạng, c̣n bên cạnh là Kim cương thủ, phía đông bắc của Ngân Sơn là trú xứ của Dolma (vị được sinh ra từ nước mắt của Quán Thế Âm). Các đỉnh này đứng như hộ thần bảo vệ hai cạnh ngân sơn.

Khi khách hành hương, với cảm giác của sự hiện diện các sức mạnh giác ngộ đó, chuẩn bị rời đất thiêng th́ toàn bộ thân tâm ḿnh dường như nằm trong một trạng thái xuất thần và chuyển biến nội tại. Thế nhưng sự chuyển biến này không thể toàn triệt được, nếu bao lâu khách c̣n kéo lê cái ngă cố hữu của ḿnh.
 
Khách phải đi xuyên qua cổng của thần chết, trước khi đến lũng của Bất động Như Lai ở phía đông và phải được tái sinh trong một đời sống mới, có nghĩa hơn. Đó là thử thách cuối cùng.

Lúc khách leo lên đỉnh đèo Dolma, đó là nơi tách lũng bắc và đông, khách đến một nơi treo tấm gương của thần chết, trong đó mọi hành động trong quá khứ của khách sẽ hiện lên lại.
 
Tại nơi này khách nằm giữa hai phiến đá như một người chết. Khách nhắm mắt và chịu nghe phán quyết của Yanma, đó chính là phán quyết của chính lương tâm ḿnh đang giữ tấm gương trước mặt.
 
Và trong ư thức đó, khách nhớ lại tất cả những ai đă chết trước ḿnh và t́nh thương của họ đă dành cho ḿnh mà chưa đền đáp được; khách cầu nguyện cho họ được an lạc, dù nay họ đă được tái sinh trong dạng h́nh nào.
 
Thể hiện ḷng mong ước, khách để lại nơi đây biểu tượng hay di vật của cuộc đời thế gian của họ tại chốn linh thiêng này: một miếng vải, một nắm tóc, một ít tro thiêu xác hay bất cứ cái ǵ mà khách c̣n giữ lại được để đền đáp ḷng yêu thương đó.

Sau khi đền ơn đáp nghĩa lại quá khứ của ḿnh như thế và bước qua cổng của thần chết, khách đến ngưỡng cửa của hai đời sống mới, trên đèo phủ tuyết của vị Dolma) ngay giữa vách đá và băng tuyết. Người Tây Tạng gọi hồ này là “hồ đại từ bi”, trong lúc người Ấn Độ giáo gọi là Gaurikund. Nơi đây khách hành hương được thừa nhận là sinh vật mới.

Giờ đây khách đă trải qua thử thách cuối cùng, tất cả gian khổ và nhọc nhằn đă nằm lại đằng sau. Thế nhưng cũng có lắm khách bỏ mạng trên đường lên đèo Dolma, trên độ cao 6000 m, một trận băo tuyết trong vài phút có thể hủy một mạng người, nơi mà mỗi hơi thở được quí trọng như một giọt nước cam lồ.
 
Dù thế cái chết lúc đó cũng hết đau xót đối với người hành hương sùng tín nếu có chết trên đất thiêng, trước mặt thánh thần; v́ cái chết sẽ trùng với giây phút cao trọng nhất của đời khách và sẽ trở thành chứng thực niềm mơ ước lớn nhất.

B́nh nguyên hiền lành của vị Thiền Phật phía đông của Bất động Như Lai đón chào người hành hương với thảm cỏ xanh và suối nước lóng lánh bạc. Như nhắc nhở khách về cuộc thử thách vừa qua, một tảng đá đứng bên đường xuống núi, có dạng như một cái ŕu.
 
Đó là dấu hiệu của thần chết, cái ŕu của nghiệp lực. Đối với người sùng tín th́ ŕu đă mất sự đáng sợ trước ḷng từ bi của vị cứu độ Dolma, v́ từ bi mạnh hơn nghiệp chướng; nó rửa sạch những hành động cũ của chúng ta bằng nước mắt của ḷng từ bi biết thương xót mọi loài hữu t́nh đang đau khổ.
 
Khi tham dự vào đau khổ của kẻ khác th́ lúc đó không c̣n chỗ để đau khổ cho riêng ḿnh và cuối cùng nó dẫn đến chỗ là ta vượt cái bản ngă nhỏ bé của ḿnh.

Đó là điều mà Phật cũng như những vị kế thừa, nhất là vị thánh nhân và nhà thơ Tây Tạng Milarepa đă dạy, mà tại lũng phía tây này c̣n nhiều điều sống động về ông, nhất là trong động Dzundulphug. Trong động này ông đă ca và đă thiền định và người ta c̣n chỉ cho khách hành hương dấu tay trên nóc động, động này đă thành chỗ thiêng liêng bên cạnh một cái thất nhỏ.

Một chuyện khác kể về cuộc đọ sức giữa Milarepa và một giáo sĩ đạo Bưn, đó là một người theo hắc đạo trước khi Phật giáo du nhập Tây Tạng. Ông thách Milarepa bằng cách nói rằng ḿnh dùng thần thông mà leo lên đến đỉnh Ngân Sơn được. Milarepa trả lời ḿnh cũng làm được thế..

“Ta hăy xem”, nhà huyễn thuật chế nhạo, “ai lên đến đỉnh trước”, nói xong ông bắt đầu leo.

Khi đó mặt trời chưa mọc và Milarepa nói muốn ngủ thêm. Nhiều người ngả về phía Milarepa, chứng kiến cuộc đọ sức, sợ cho tiếng tăm của Milarepa và khuyên ông hăy chạy theo. Thế nhưng Milarepa không để ai hăm dọa, ông vẫn ngồi yên tại chỗ.

Nhà huyễn thuật đă leo gần tới đỉnh và chế nhạo Milarepa, v́ nghĩ rằng ḿnh đă thắng. Khi đó th́ những tia nắng đầu tiên vừa chiếu đến đỉnh núi. Đây là lúc mà Milarepa chờ đợi. Nhờ sức mạnh của thiền định, ông trở thành một với ánh sáng, h́nh của ông xuất hiện trên đỉnh Ngân Sơn.

“Ông ḱa”, ông gọi nhà huyễn thuật đang leo lên, “đừng cố gắng mất công”. Nhà huyễn thuật sợ mất hồn đánh rơi chiếc trống phép.

Chiếc trống lăn xuống núi và cứ mỗi lần va vào ṿm băng của Ngân Sơn, nó lại vang lên một tiếng và để lại vết cắt trên sườn núi. “Bum, bum, bum” trống vang lên trong tiếng cười của khán giả. Và đến ngày hôm nay các vết cắt có h́nh như bậc cầu thang đó vẫn c̣n. Chúng nằm trong trục thẳng đứng của chữ vạn trên sườn phía nam của Ngân Sơn.

Những câu chuyện đầy hài hước và mang ư nghĩa tâm linh đó đă vây quanh con người của Milarepa. Thế nhưng ông là một nhân vật lịch sử với sự duyên dáng hiếm có và thành tựu phi thường, người đă để lại kho tàng thơ phú lớn nhất Tây Tạng với “Mười vạn bài ca”.
 
Cuộc đời của ông phải là cuộc đời kỳ lạ nhất trong số các thánh nhân. Ông là người đă trải hết những thăng trầm cuộc đời làm người và sau những cuộc chiến đấu bi thương và đau khổ không kể xiết, ông đă đạt thành tựu viên măn.
 
Ông không những chỉ là người theo Phật, bản thân ông đă chứng Phật quả. Điều này thật là hệ trọng và phấn khởi v́ đời ông được minh chứng là có thật, dù xung quanh con người ông đầy những huyền thoại.

Ông may mắn có một học tṛ giỏi và thông thái, người đă chép lại những bài ca và viết tiểu sử của ông. Người đó tên là Ratschung. Do đó mà gia tài tâm linh của ông được ǵn giữ một cách sinh động và thông qua các vị tổ sư của phái Kargyutpa phái chủ trương truyền trực tiếp từ thầy qua tṛ, mà truyền cho đời sau.
 
Hai tu viện ở phía đông và tây của Ngân Sơn thuộc về phái này và là nơi chính thức giữ kỷ niệm cuộc đời của Milarepa.

Thế nên mới có chuyện lạ là tín đồ Ấn Độ giáo xem Milarepa là Shiva; có lẽ do hai vị bên ngoài có vẻ giống nhau v́ cả hai đều được tŕnh bày như người tu khổ hạnh: tóc dài, thân trắng và gầy c̣m.
 
Màu thân của Milarepa có khi có nét xanh v́ trong suốt thời gian độc cư ông chỉ ăn một loại rau gai, v́ thế da ông mang màu xanh lục. Ông thường nấu rau trong một nồi đất, nồi này là tài sản duy nhất của ông. Ngày nọ nồi bị vỡ, thay v́ ngồi tiếc cái nồi, ông hát bài ca;

Chiếc nồi cũng là thầy,

dạy quy luật vô thường.

Nhờ nó mà ta thoát,

dây liên hệ cuối cùng.


Ngày nay điều thú vị là loại rau có gai này được nhiều người nghèo ưa chuộng, nó mọc khá nhiều trong các lũng quanh Ngân Sơn.

Thế nên khách hành hương trên đường đi quanh núi cứ nhớ măi Milarepa, nhất là chỗ có rau gai mọc cao, đó là thứ thảo mộc được trong những vùng đầy đá. Và cũng có nhiều khách ca lại những bài ca quen thuộc của Milarepa; chúng ca ngợi sự cô tịch và cuộc đời ẩn, giáo pháp của Đức Phật và của nhà đại dịch thuật Marpa, người đă đưa Milarepa vào chốn ẩn mật nhất của Mật tông.

Người hành hương đến đoạn cuối của lũng phía đông, một vùng đất huyền thoại của sắc màu. Vài phiến đá đỏ như lửa, số khác xanh và lục đậm và lại số khác nữa nằm ngay bên cạnh mang màu da cam hay vàng sáng rực rỡ. Hầu như trước khi rời Ngân Sơn, khách được các loại đá đủ màu sắc mê hoặc chào giă từ lần cuối.

Giờ đây về lại b́nh nguyên và sau một thời gian ngắn, khách đến lại điểm xuất phát của chuyến đi ṿng quanh núi là tu viện Tartschen.

Khi đi dọc các bức tường đá được xây bởi hàng ngàn phiến đá theo câu OM MAI PADME HUM để ca ngợi Quán Thế Âm, người thể hiện thành viên ngọc sáng trong tâm mỗi người sùng tín.

Người hành hương lại cho vào thêm một viên đá, để cảm tạ tất cả những ǵ đă gặt được trong chuyến chiêm bái và để chúc lành cho những ai sau này sẽ đi bước đường đó:

Sukkhe bhavatu!

(Cầu cho tất cả đều an lạc)



MỘT TU VIỆN ĐẠO BON




Li và tôi ḷng c̣n tràn ngập h́nh ảnh của Ngân Sơn, sau một ngày đường đi về hướng tây th́ chúng tôi đến một nơi mà màu đỏ sậm của cảnh vật cho thấy dường như thiên nhiên muốn nói điều ǵ đặc biệt.

Thực tế th́ đây là một nơi chốn đặc biệt, chỗ một năm mới hồi sinh một lần, và là ngày trăng rằm của tháng sáu, đó là lúc mà cả Tây Tạng cử hành lễ Phật Thích-Ca Mâu-Ni giáng sinh.

Trong dịp này, khách hành hương từ bốn phương lũ lượt đến đây, v́ trong đêm này xảy ra một điều lạ trước mắt tất cả mọi người: trăng tṛn sẽ lên như một ṿm lửa treo trên đỉnh băng của Ngân Sơn và ánh trăng sẽ vẽ h́nh ngọn núi thiêng trên đó màu đỏ của sườn núi nằm nghiêng mà dưới chân sườn đó chính là chỗ mà khách hành hương tụ tập.

Trong phút này trời và đất giao hội, đó chính là lúc mà các thiên nhân sống trên trú xứ của thánh thần, theo một nguồn sáng giáng hạ xuống với thế giới con người.

Người ta cho rằng, đây là lúc mà các bậc giáo giác ngộ và tùy tùng lơ lửng trong ánh trăng, đi từ đỉnh Ngân Sơn xuống đất và tụ họp trên thảm đất màu đỏ để ban phước cho những người đang tụ hội bằng sự hiện diện rực rỡ của ḿnh.

Đó là dịp vui của sự gặp gỡ siêu việt, buổi lễ vũ trụ đích thực, trong đó ánh sáng là thân xác máu thịt của thánh thần hiện diện và tim người là b́nh chứa thiêng liêng để hứng và giữ nó.

Trái đất, chỗ của “phiên chợ’ này được cử hành, đă được ban phép và khi chúng tôi cắm lều ngủ ở đó một đêm th́ tâm tư lạ thường của ḿnh đă được thấm nhuần một cảm giác an b́nh sâu xa.

Ngày hôm sau trước khi rời nơi đó ra đi, mỗi người chúng tôi mang thêm một nắm đất đỏ để kỷ niệm nơi chốn thiêng liêng và xem nó như món quà cuối cùng của Ngân Sơn trao tặng.

Bốn ngày sau khi rời núi, chúng tôi đến một thung lũng thấp nằm giữa những vách đá dựng đứng. Mặt lũng phẳng, xanh và có một ḍng suối cạn, đó là đoạn đầu của sông Langtschen-Khambab uốn lượn quanh vùng đất nhiều bụi cây và cỏ xanh. Khoảng chiều tối, chúng tôi thấy một tu viện màu trắng, nổi bật trên nền vách đá đen lỗ chỗ những hang động.

Toàn bộ cảnh vật này nhắc tôi nhớ đến thung lũng của các nhà vua Theben tại Ai Cập, với những đền đài h́nh khối bên cạnh sông núi vắng bóng thảo mộc. Thế nhưng điều ngạc nhiên ở đây là các nhà cửa xem ra mới và sạch, sơn trắng viền đỏ, trông như một pháo đài của một thung lũng cô đơn không người ở.

Người hướng đạo của đoàn chúng tôi với tám con trâu, chúng tôi phải đem theo lương thực một trăm năm, v́ đi qua những vùng không người ở, khó mua dự trữ, cho biết tu viện này mới xây lại sau này, v́ cách đây vài năm đă bị cướp bóc và đốt rụi, khi giặc cướp từ Turkestan xâm chiếm.

Người trong tu viện lớp bị giết, lớp bị ngược đăi và ngay cả tu viện trưởng cũng bị cướp hết áo quần, đánh đập và bỏ mặc nằm lại không một mảnh vải che thân. Thế nhưng ông sống sót và trốn về lại các hang động trên núi trong các cốc thiền định cũ. Sau ngày xây dựng lại tu viện ông vẫn ở trong cốc.

Chúng tôi hy vọng kiếm được một chỗ nghỉ thoải mái trong một tu viện, nhưng thất vọng khi không thấy dấu hiệu nào của đời sống, cả khi đến gần. Thật là một hiện tượng hiếm thấy trong một xứ sở mà người ta hay ṭ ṃ và một đoàn người ngựa từ xa đến thường là một biến cố quan trọng.

Một tiếng chó sủa cũng không nghe thấy, điều đó chỉ có thể có nghĩa là ở đây không có người. Thế nên chúng tôi cắm lều ngoài khuôn viên tu viện và chuẩn bị nghỉ tối.

Ngày hôm sau, chúng tôi cho người hướng đạo lên gặp sư trưởng để xin đến thăm viếng. Sau khi được nhận lời, chúng tôi theo một ngơ hẹp đến chân vách đá, leo cầu thang ngược cho đến một chiếc cửa sập mà khi chúng tôi đến th́ nó được kéo lên cao.

Sau vài bậc thang nữa th́ chúng tôi ngồi trong một hang động sáng sủa, đối diện với vị sư trưởng. Ông ngồi trên cái ṭa bọc trong một khung gỗ trang hoàng cẩn thận. Ghế ngồi này làm ta nhớ đến khung ghế của các người bảo vệ có cửa sổ phía trước theo kiểu Bắc Phi.

Thật là một sự tương phản kỳ lạ với chỗ ở trong một hang đá! Vách động được đẽo láng kỹ lưỡng và tŕnh bày với những bích họa chi li, trên đó có vô số h́nh tượng Phật. Thế nhưng nh́n kỹ th́ bích họa đó chỉ là giấy in nhiều màu mà các tấm rời được dán sát với nhau để vách tường hầu như được dán bởi một tấm duy nhất.

Miếng giấy in này được dán nhiều chỗ, nhưng nhờ lặp lại nhiều lần nên nét trang trí được tăng lên và cũng gây ấn tượng của bích họa “Vạn Phật” truyền thống mà ta hay thấy trong các điện thờ, hang động.

Ánh sáng mờ nhạt xuyên qua cửa sổ của hang cũng làm cho màu sắc thêm ḥa hợp, làm chúng rất giống với các bích họa thật. Vị tu viện trưởng tuổi trung niên, ăn mặc giản dị, có khuôn mặt thông minh và thái độ trân trọng.

Sau khi chào xă giao và uống trà bơ, chúng tôi đi vào chủ đề chính, đó là việc cần thiết phải có một đoàn tùy tùng cho đoạn đường tới của chuyến hành tŕnh, v́ những người hiện đi với chúng tôi phải về Purang lại.

Chúng tôi đi gần suốt cả tháng với họ và họ không muốn đi quá những nơi đă biết. Khắp nơi đều như thế cả và ta buộc phải thuê từng nhóm người và vật cho từng đoạn hành tŕnh tức là một chỗ có người ở qua một chỗ khác.

Trong miền tây Tây Tạng thưa người th́ một đoạn như thế kéo dài vài ngày hay cả tuần, và khi tới nơi th́ người và vật đều rút về ngay, không cần biết người lữ hành có kiếm được phương tiện mới hay không.

Vị sư trưởng vui vẻ trả lời chúng tôi rằng ông không thể kiếm phương tiện chuyên chở và tùy tùng v́ mùa này không thể t́m ra người lẫn trâu. Đến khi chúng tôi lưu ư rằng ḿnh có lệnh của Lhasa được thuê người và mua thực phẩm với giá địa phương và cho ông xem giấy xác nhận, th́ ông cười chúng tôi như muốn nói: tất cả đều là tṛ đùa vô duyên.

Thái độ ông dường như đổi hẳn từ tử tế qua bất hợp tác. Rơ ràng ông cho chúng tôi thấy ông không chịu thi hành lệnh của Lhasa. Thái độ chống báng của ông đối với Lhasa làm chúng tôi bất ngờ v́ không thấy có lư do nào để ông chống đối cả.

Chúng tôi nghỉ tốt nhất là đừng vin vào điều lệnh giấy tờ ǵ mà hăy kêu gọi ḷng hảo tâm tôn giáo của ông giúp ḿnh trong cảnh khó khăn. Thế nhưng ông vẫn không mềm ḷng và cho hay vài người mà ông có thể điều động, kể cả trâu ḅ hiện đang phải thu hoạch vụ mùa trong các lũng xung quanh, nên không thay đổi được t́nh thế.

Chúng tôi biết rơ là không xin xỏ được ǵ nên chỉ c̣n biết tỏ ḷng khâm phục cá tác phẩm nghệ thuật trong động của ông. Nhân dịp này chúng tôi biết thêm là ông đă nhiều lần đi Ấn Độ và nhờ in vẽ lại một loạt những bức tranh tôn giáo của Tây Tạng chính là những bức chúng tôi thấy trên vách tường.

Trong các dịp này ông cho in một ít kinh điển quan trọng và cho tôi xem mẫu. Mặc dù tựa đề th́ tôi rơ nhưng trong bài có nhiều danh tánh và thần chú lạ kỳ, nó làm tôi nghi ngờ không biết có phải kinh sách đạo Phật hay không.

Thế nhưng v́ không kiểm tra thêm được nên tôi nghĩ hay hơn là cứ để như thế và thay vào đó là phát biểu ḷng cảm phục của tôi đối với sự cố gắng của ông phụng sự đạo pháp và chất lượng của các bản in. Rơ là ông phải chi nhiều tiền để nhờ làm những thứ này và tôi không hiểu ông sống trong hang động cô đơn này th́ lấy phương tiện đâu để vừa xây tu viện, vừa làm các công việc văn hóa và in kinh điển như thế.

Chỉ có người có danh tiếng, với ảnh hưởng rộng răi mới làm được điều đó. Nhưng ai là tín đồ, ai là học tṛ của ông người ta nói với tôi, ông có vài vị ni sống trong các hang động xung quanh, ngoài ra không thấy có ai khác. Thế nên chúng tôi xin phép được thăm tu viện và được chấp nhận. Ông hứa mở cửa và sẽ có người dẫn chúng tôi đi xem.

Chúng tôi từ giă ông và trở về lều trại, lúc mà người của chúng tôi cũng đă xếp dọn và chuẩn bị gấp rút để lên đường về hầu như họ sợ chúng tôi bắt phải làm thêm hay đổ trách nhiệm về an ninh của chúng tôi lên vai họ.

Dù cho được trả thêm tiền họ cũng không chịu ở nên cuối cùng chúng tôi ở lại một ḿnh giữa các vách đá và tu viện vắng người. T́nh cảnh này thật kỳ quái: một tu viện rộng răi, xây dựng vững chắc mà không có bóng người chỉ vị sư trưởng và vài ni cô chôn ḿnh trong động.

Khắp nơi chẳng ai có thể cho chúng tôi vài lời khuyên hay giúp đỡ điều ǵ! Và điều lạ hơn là, vị sư trưởng chẳng cho chúng tôi ở tạm trong một cái pḥng nào đó, mặc dù ông biết chúng tôi là khách hành hương Phật giáo hay chính đó là lư do mà chúng tôi không được ở?

Ngày hôm sau người bảo vệ tu viện đến lều kiếm chúng tôi và dù hơi ngại bỏ lều trống, cuối cùng chúng tôi cũng đi v́ nghĩ rằng trong vùng không người ở này chắc không ai trộm thực phẩm hay các thứ khác.

Khi đến gần tu viện, chúng tôi thấy trước khuôn viên một căn nhà thấp, dài, có nhiều pḥng nhỏ. Nếu theo vị trí, tức là trước mặt chính của viện, th́ đây phải là một chỗ thiêng liêng nằm ngoài khuôn viên, để đi ṿng tṛn theo nghi lễ, mà thường người ta xây thành một bức tường hay một tháp nhỏ.

Chúng tôi ngạc nhiên được nghe đó chỉ là nhà vệ sinh tắm rửa, dành cho những người hành hương ở xa đến trong các dịp lễ. Đây hiển nhiên là một cái ǵ đáng ca ngợi và cho thấy vị sư trưởng đánh giá cao sự vệ sinh thân thể. Thế nhưng chúng tôi vẫn không hiểu tại sao nhà này lại nằm trước cổng chính của tu viện. Hay nó là một biểu tượng để nói lên sự sạch sẽ cũng chính là sự thiêng liêng?

Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy người bảo vệ đưa chúng tôi đi quanh tu viện ngược chiều kim đồng hồ, điều mà tại cả Tây Tạng cũng không bao giờ có, nếu không muốn nói đó là sự nhục của một thánh địa.

V́ chỉ người theo đạo Bưn mới đi ṿng quanh đền, một kiến trúc tôn giáo hay một thánh địa (thí dụ Ngân Sơn) ngược chiều kim đồng hồ; chúng tôi càng nghỉ rằng, vị sư trưởng không phải là Phật tử mà là tín đồ đạo Bưn.

Khi vào chánh điện th́ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, v́ tất cả những ǵ thấy ở đây đều ngược lại hay sự bóp méo truyền thống đạo Phật. Thí dụ h́nh chữ vạn của đạo Bưn hướng về phía bên trái, trong lúc đạo Phật hướng về phía phải.

Mặt khác, tín đồ đạo Bưn h́nh như bắt chước mọi tính chất tiêu biểu của h́nh tượng đạo Phật. Họ có riêng các vị Phật và Bồ-tát, các vị hộ pháp riêng cũng với h́nh tượng phẫn nộ, các vị thiên thần, địa thần riêng, tên các vị đó khác với tên các vị trong đạo Phật, mặc dù h́nh dáng bên ngoài không khác bao nhiêu.

Điều đó cũng đúng cho kinh sách của đạo Bưn. Không nhiều th́ ít, các sách đó bắt chước kinh sách của đạo Phật và thậm chí có cùng tên (thí dụ kinh sách Bát Nhă), nhưng tín dồ đạo Bưn đề tên tác giả khác, cho nó có một khung cảnh hay nền tảng và thần chú khác; thí dụ thay v́ OM MANIPADME HUM th́ họ gọi là OM MATRI MUYSALEDU.

Gốc các vị thần chính của đạo Bưn là hiện thân của không gian, của ánh sáng, của sự vô tận và của sự thanh tịnh và v́ thế mà cũng dễ đồng hóa các vị ấy với h́nh ảnh cá vị Thiền Phật và Bồ-tát và dễ tiếp nhận toàn bộ các biểu tượng của truyền thống Phật giáo, như ṭa sen, vật cưỡi, ấn quyết, màu sắc của thân; các đàn tràng hay pháp khí như kim cương chử và chuông, lưỡi kiếm và đao trừ tà, cung tên, vũ khí, sọ người, và dao làm phép.

Ảnh hưởng của đạo Phật lên đạo Bưn thật to lớn, để đạo này chỉ tồn tại được nếu họ tiếp nhận phương pháp Phật giáo về phân loại và tŕnh bày cũng như cho giáo pháp Phật giáo về phần loại và tŕnh bày những như cho giáo pháp ḿnh một cái áo gồm những từ ngữ Phật giáo.

Cái c̣n lại của ngày hôm nay, Bưn chỉ là tiếng vang của đạo Phật hay một nhánh của lạt ma giáo. H́nh như đây cũng là suy nghĩ của người Tây Tạng chất phác, v́ như chúng tôi đă quan sát, thái độ của những bạn đồng hành, họ không hề để ư đây không phải là một tu viện Phật giáo.

Họ chỉ xem đây là một nhánh của Phật giáo, khác với trường phái quen thuộc chỉ ở bên ngoài. Đó cũng là một lư do ngăn cản chúng tôi lúc đầu không nghĩ đó là tu viện của Bưn, mặc dù nó nằm trong tỉnh Schang-Schung, là cái nôi của đạo Bưn.

Trước khi đi vào chánh điện, chúng tôi quan sát ṿng tử sinh quen thuộc đặt trong tiền sảnh, dưới các bích họa. Thế nhưng thay v́ mười hai h́nh thông thường vẽ mười hai khâu trong “thập nhị nhân duyên”, chúng tôi thấy mười ba h́nh. H́nh thứ mười ba vẽ t́nh trạng nhập định của một h́nh tượng Phật, h́nh này được chen vào giữa cảnh sinh và tái sinh.

Khi vào chính điện, chúng tôi nghĩ ḿnh sẽ thấy h́nh tượng thờ cúng quan trọng nhất. Nhưng trước mắt là một bức tường trống, ở giữa là ṭa của vị sư trưởng. Bức tường này không chiếm hết bề ngang của điện, để hai bên hai lối đi, dẫn đến một hành lang trên đó là các vị Thiền Phật.

Và những ấn quyết của các tượng này không phù hợp với màu sắc truyền thống và các linh vật tiêu biểu cũng không khớp với các ṭa sen cũng như các pháp khí. Thí dụ một h́nh tượng giống A-Di-Đà có thân trắng thay v́ thân đỏ; tượng ngồi trên voi thay v́ ṭa sen có h́nh con công và mang tên Shenlha Okar, “Thần Shen của ánh sáng".

Để nh́n tượng được rơ, chúng tôi phải nghiêng người ra sau v́ hành lang quá hẹp. Chúng tôi không rơ tại sao người ta lại tách những tượng này ra khỏi chính điện và nằm sau lưng ṭa của sư trưởng. Cũng c̣n nhiều điều khó hiểu khác mà chúng tôi không t́m hiểu thêm, trừ phi chúng tôi bị buộc phải ở lâu nơi đây, điều mà chúng tôi cũng không muốn.

Thế nhưng chúng tôi khâm phục sự sạch sẽ và kiên cố của điện, nó có tính chất vững chăi của một pháo đài và phản ảnh kế hoạch cũng như hành động của một đầu óc thông minh, rành mạch.

Động cơ nào đă thúc vị sư trưởng xây dựng lại tu viện này, trong lúc không có ai ở và bản thân ông cũng ở lại trong động? Ai là tín đồ hỗ trợ cho một tu viện nằm trong một lũng chơ vơ thế này? Trên đường trở lại lều, chúng tôi nghĩ măi về những điều này.

Vừa đến gần nơi th́ chúng tôi thấy một con chó từ lều nhảy ra. Thức ăn mà chúng tôi chuẩn bị cho cả ngày đă bị biến mất! Kể từ đó lúc nào chúng tôi cũng phải có người trông lều. Mặc dù điều này rất hạn chế v́ chúng tôi không c̣n đi chung với nhau được, nhưng cũng may vẫn t́m thấy gần lều nhiều cảnh vật để vẽ và chụp h́nh.

Chúng tôi bắt đầu lo ngại không biết ḿnh phải ở đây bao lâu, v́ không thể phí thời gian và thực phẩm quí báu được mà phải tới gần được mục đích chính của chuyến đi; cung điện hoang phế Tsaparang và đền của Rintschen-Sangpo.

Chúng tôi trải qua một năm tại miền trung Tây Tạng chỉ để xin cơ quan trung ương cho đi nghiên cứu đền và tu viện Rintschen-Sangpo của thế kỷ thứ 10, 11 (khoảng giữa năm 950 và 1050). Thật cần thiết phải làm được càng nhiều việc càng tốt trước mùa đông và nhất là trước mọi biến cố chính trị có thể đe dọa kế hoạch của chúng tôi.

Cuối cùng sự kiên nhẫn của chúng tôi được đáp, vị tu viện trưởng đến lều thăm chúng tôi. Chúng tôi vui mừng chào hỏi ông, c̣n ông bổng nhiên biến thành một con người khác. Sự dè dặt cao ngạo và nụ cười giễu cợt khi thấy quyết định của chính quyền và nghe yêu cầu của chúng tôi đă nhường chỗ cho một khuôn mặt thân thiện và sự chia sẻ khó khăn.

Chúng tôi nhấn mạnh lại lần nữa và phụ thuộc vào hảo tâm của ông và sẽ hết sức biết ơn những ǵ ông giúp. Chúng tôi không nhắc ǵ nữa về chính quyền Lhasa hay quyết định nọ và thay vào đó là lời khâm phục tu viện của ông.

Những lời của chúng tôi xem ra làm ông vui ḷng và đổi ư v́ bây giờ ông hứa sẽ t́m cho một ít trâu ḅ và người hướng dẫn đưa chúng tôi qua đoạn đường khó trước mặt. Dựa trên bản đồ, chúng tôi nghĩ cứ đi theo b́nh nguyên dọc sông Langtschen-Khambab, theo thảm có xanh mà đi là khỏe nhất như trong những ngày trước khi tới đây.

Thế nhưng vị sư trưởng giải thích, con sông chảy qua một khe núi sâu khó đi, nên nếu theo ḍng mà đi, chúng tôi phải vượt qua vô số hẽm núi sâu mà nước ở đó chỉ với một trận dông sẽ trở thành thác ngay. V́ thế ông khuyên chúng tôi nên đi dọc cao nguyên của dăy núi phía bắc, đó là núi cắt lũng Gartok khỏi lũng Langtschen-Khambab.

Vậy là chúng tôi phải bỏ kế hoạch thăm vài tu viện cổ ở Schang-Schung, điều đáng tiếc v́ hy vọng t́m thấy ở đó thêm thông tin về nguồn gốc đạo Bưn. Nhưng v́ sợ phải ở lâu và chần chờ thêm, chúng tôi bỏ ư định đó và nghe lời vị sư trưởng. Cách này cũng có thêm thuận lợi là chúng tôi sẽ bớt phải thay đổi đoàn tùy tùng.

Vị sư trưởng giữ lời và hôm sau hai người đàn ông đến, mang theo trâu và xin làm với chúng tôi. Hai người đó xem ra đă già yếu, cả hai đều đi cà nhắc. Họ cho hay những người trẻ đều bận gặt hái cả và bản thân họ lúc đầu cũng ngần ngừ nhưng cuối cùng nể lời vị tu sĩ mà đến.

Sau khi xem xét hành lư để biết cần bao nhiêu trâu, cuối cùng chúng tôi đồng ư giá cả, mặc dù cao hơn nhiều so với dự tính.

Ngày hôm sau công tác lên đường và mừng v́ lại được ra đi. Suốt ngày hôm đó chúng tôi đi ngược dốc đá, không có đường sá ǵ cả. Hai cụ già đi cà nhắc chậm chạp phía trước, thỉnh thoảng bàn tán ǵ với nhau; h́nh như họ không biết rơ phương hướng ǵ lắm.

Đến tối, chúng tôi tới một vùng cao nguyên mênh mông chập chùng, đây đó là những tảng đá rất lớn, hầu như những người khổng lồ đă dùng chúng để ném chọi lẫn nhau.

Nơi đây cảnh vật không có chỗ nào đặc biệt để có thể ghi nhận hay định hướng trong một vùng rộng mênh mông đơn điệu và sau đó chúng tôi mới biết là những người hướng dẫn đường cũng không biết tí ǵ.

Tất cả chúng tôi đều mệt lă người v́ leo quá cao và t́nh trạng này c̣n khó thêm v́ hiện đang ở độ cao 5000 m và sẽ không cắm lều trại ǵ được nếu không kiếm ra chỗ có nước. Nh́n quanh xem ra không có dấu hiệu của sông suối cả.

Sau đó một du sĩ và một cô bé ăn xin chừng 12 tuổi nhập bọn cùng chúng tôi. Cô tự nhận là một nữ tu nhưng h́nh như chỉ đến để có thức ăn và lửa trại ấm áp cùng chúng tôi.

Trời đă chuyển lạnh tê tái nhưng không có góc đá kín gió lẫn chút củi khô nào. Cổ họng chúng tôi khô kiệt sau khi leo núi trong mặt trời chói chang mà chỉ khi buổi sáng mới giảm sức nóng.

Về hướng đông chúng tôi c̣n cảm thấy lần cuối đỉnh tuyết trắng xóa của Ngân Sơn, phía nam lấp lánh các đỉnh tuyết của Himalaya. Ở giữa là đỉnh Kang-men, như một Ngân Sơn thứ hai, ngọn núi thiêng của Phật Menla, vị dược sư và người cứu độ. Thật là hũng vĩ được thấy cái đẹp làm ta choáng ngợp, nó cho tôi cảm giác được bơi lội trên biển cả chập chùng những đá.

Chúng tôi quá mệt mỏi để thưởng ngoạn cảnh quang này và cuối cùng khi kiếm ra một rănh nước dưới một đống dá ngổn ngang th́ hầu như hết sức mà dựng lều, nấu trà và ăn một ít lương khô mà tối hôm qua chuẩn bị sẵn. Li bị sốt không ăn được ǵ nhiều và đến khuya chúng tôi run lên v́ lạnh, dù đă mặc bao nhiêu lớp áo và đắp đủ thứ mền.

Nước mà chúng tôi lấy sẵn trong một cái bát cho ngày hôm sau bây giờ đă đóng băng cứng và b́nh nước chứa nước thiêng của hồ Manasarovar đă bị vỡ! Đây là mùi vị đầu tiên của mùa đông đang đợi chúng tôi, nếu chúng tôi không chịu gấp rút.

Các người tùy tùng, vị tu sĩ và cô bé ăn xin xem ra không khổ sở lắm v́ cái lạnh, mặc dù họ không có lều và mền ấm. Chúng tôi chỉ biết ngạc nhiên khâm phục. Khi mặt trời lên, vị tu sĩ cúng nước và đèn buổi sáng; song song, ông đọc lời nguyện cầu và chúc lành cho mọi sinh vật.

Khi tiếng chuông của ông vang lên trong gió lạnh buổi sớm và mặt trời huy hoàng vượt qua đỉnh núi th́ chúng tôi cũng quên cảnh khổ tối hôm trước và ḷng tràn đầy niềm vui của một ngày mới.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 793 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 11:48am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
 THUNG LŨNG DAWA-DSONG


Vài ngày sau khi từ vùng cao nguyên vắng người xuống được cổng đá của Kodschomor, chúng tôi thở phào nhẹ nhơm với ư nghĩ, được bỏ vùng hoang vu cô quạnh để đến b́nh nguyên ấm áp.
 
Nh́n xuống vùng lũng thấp uốn lượn nhẹ nhàng mà phía nam giáp với dăy núi tuyết Himalaya, công tác nghĩ bây giờ sẽ đi dọc được theo sông Langtschen mà không trở ngại ǵ. Tưởng đă đến lũng, nào ngờ chúng tôi thấy ḿnh đứng bên bờ một cao nguyên và nh́n thấy phía dưới chằng chịt những suối, chiều cao hẳn cũng cả ngàn mét.
 
Hầu như chúng tôi đến chỗ chân trời cuối đất và thấy không có cách nào hơn là phải quay trở lại; v́ làm sao chúng tôi có thể xuống núi với trâu và ngựa nặng nề, dốc núi gần như thẳng đứng và sâu tới mức không thấy đáy? Và làm sao chúng tôi vượt qua khỏi mê hồn trận này, chập chùng chân trời rồi lại chân trời, đi hàng ngày thậm chí hàng tuần không hết?

Chúng tôi vừa tự nhủ như thế th́ những con trâu đầu tiên cùng người hướng đạo đă biến mất sau một hẽm núi, như bị trái đất nuốt chửng. Đó là một con đường hẹp mà chỉ người lữ hành có kinh nghiệm mới biết, nó dẫn qua các khe đá để đi vào một thế giới riêng.
 
Thế nhưng cả con đường khó biết này cũng bổng biến sau đống đá vụn hay triền cát mà trên triền đó nguyên đoàn lữ hành kể cả trâu ngựa trượt dài xuống dưới với hy vọng sẽ dừng lại kịp thời trước khi một vách đá thẳng đứng xuất hiện.
 
Khổ thay cho những ai phải vượt qua vùng này mà không ccó người biết đường hướng dẫn! Ngay cả khi may mắn xuống tới được những gịng suối mà không mất mạng th́ mất hành lư hay bị găy tay găy chân, th́ việc đó ra khỏi lũng sâu đó c̣n khó nhiều hơn.

Tôi c̣n nhớ rơ ḿnh tính toán thế nào để ra khỏi lại hẻm núi ngày hôm sau khi lần đầu cắm lều trong một lũng sâu. Sau khi nghiên cứu địa h́nh, chúng tôi thấy chỉ có cách lội dọc theo một con suối cạn nhưng chảy mạnh, cho đến chỗ có phiến núi hay vách đá bên hông.
 
Thế nhưng ngày hôm sau chúng tôi leo ngược lên vách đá kể cả trâu và ngựa chính là đoạn gần như dựng ngược mà chúng tôi ngay từ đầu đă loại bỏ khả năng này! Tới ngày hôm nay chúng tôi cũng không hiểu sao ḿnh làm được kỳ công đó.
 
Có lẽ chúng tôi đă t́m được chỗ vịn thế nào đó rồi kéo những con vật lên để cuối cùng tới được một đường hẹp nhô ra từ một vách đá thẳng đứng. Có nhiều cát mà vừa đặt chân lên đă bị trượt ngay.

May thay chúng tôi sớm đến nền đất vững chắc. Sau vài tiếng đến được sông Langtschen-Khambab, chúng tôi đối diện với một chiếc cầu treo hẹp. Nó gồm có hai sợi dây cáp bằng thép treo song song, chúng mang những đoạn gỗ được cột một cách sơ sài. Không có ǵ để vịn, kể cả tay cầm hay dây và khi bước lên th́ không những cầu uốn ḿnh mà c̣n đu đưa qua lại.
 
Với t́nh cảnh này, chúng tôi không làm được ǵ khác hơn là tháo hành lư khỏi lưng trâu và đem từng món một qua chiếc cầu rung rinh, cách khoảng ba bốn chục mét trên ḍng suối reo chảy và lạnh như băng. Sau khi đem hết hành lư qua bên kia rồi, chúng tôi dắt trâu qua cầu, nhưng chúng cũng rất khôn, không chịu bước lên chiếc cầu đong đưa.
 
Chúng tôi hồi hộp không biết làm sao thoát khỏi t́nh cảnh này. Những người giúp chúng tôi rất khéo léo. Họ đem được trâu đi xuống suối, làm đủ cách cho chúng lội qua suối, kêu gào cũng có, chọi đá cũng có.
 
Giữa gịng nước chảy khá mạnh, chúng tôi sợ chúng bị cuốn theo; trong khi phía dưới suối th́ bờ rất cao, không làm sao cho chúng lên bờ lại. Nhưng nhờ chọi đá mà trâu nghe lời, an toàn qua được bờ bên kia. Cuối cùng tất cả đều qua được cầu, nhưng “hồi hộp gần như tắt thở”, như thành ngữ Anh nói đúng (to have may heart in may mouth).
 
Bây giờ chúng tôi biết rơ hơn bao giờ hết, tại sao mỗi đầu cầu Tây Tạng đều mang vô số cờ cầu nguyện! Người Tây Tạng tin tưởng sức mạnh cầu nguyện hơn sức mang của chiếc cầu và đối với họ th́ tốt hơn là tin nơi sức mạnh thiêng liêng và sẵn sàng chịu những điều xấu nhất.

Mặc mọi khó khăn và hiểm nguy, chúng tôi được đền bù bởi cảnh đẹp hoành tráng của vùng lũng hẹp dưới chân núi đá, chúng càng hiển lộ ra nếu ta càng đi sâu trong đó. Ở đây núi non không c̣n chỉ là cảnh vật mà là kiến trúc với nghĩa cao nhất.
 
Nó đă trở thành những đền đài khiến ta kính sợ, mà từ “đẹp” không đủ để diễn tả, v́ công tŕnh kiến trúc này quá đồ sộ và những h́nh tượng kỷ hà trừu tượng của chúng cứ lặp lại hàng triệu lần, chúng biến dần thành một nhịp điệu vĩ đại, thành một bản trường ca bằng đá, vô thủy vô chung.

Mới đầu người ta tưởng rằng đây hẳn là tác phẩm của năng lực mù quáng của thiên nhiên, đối với người ngắm có vẻ như thế; chứ không phải là nhạc phẩm của một nghệ nhân siêu việt, trong một khuôn khổ xa sức cảm nhận của đầu óc con người, làm ta choáng ngợp.
 
Thế nhưng điều đáng kinh ngạc không phải là cái muôn h́nh mà sự chính xác và tính qui luật của kiến trúc, nó được lặp lại trong một số h́nh tượng và nguyên lư tạo h́nh, cho thấy những sự nhất thể nằm trong một nhịp điệu càng lúc càng tăng, để đến cuối cùng, tất cả cảnh vật ghê gớm đó hầu như phát ra tiếng bằng một nhịp vận động duy nhất.

Cả một dăy núi biến thành một loạt những tu viện vĩ đại. Vài trong số đó có dạng như những ngôi đền Ấn Độ giáo theo mô h́nh Khajurao, Bhuvaneshvar hay Konarak; số khác theo kiểu Nam Ấn Gopuram, một số khác lại có h́nh giáo đường kiểu gô-tích hay như những lâu đài huyền thoại với vô số đỉnh, tháp, trường thành.

Nhờ không khí loăng trên độ cao này mà mọi chi tiết cảnh vật đều rơ nét, có thể nh́n được từ xa, đồng thời màu sắc có một sức sáng và tinh sạch mà trong các vùng thấp không bao giờ có.
 
Ngay cả bóng cảnh vật cũng hiện ra với một màu trong suốt và bầu trời dường như luôn luôn không mây của Tây Tạng tạo nên một nền xanh thẫm, trên đó màu đỏ vàng hay đồng của đá nổi lên rơ nét và lúc mặt trời lặn, chúng cho một vùng ngũ sắc.

Vùng đất đầy hẻm núi, lũng sâu kỳ diệu trải rộng hàng trăm cây số vuông này mà không ai biết đến; quả là một điều đáng kinh ngạc. Đồng thời lũng sâu nằm dưới đá núi này ngoài vẻ đẹp thiên nhiên, nó c̣n cho thấy báu vật của một quá khứ to lớn, nó mở cho khách thấy những bí ẩn của một thế giới huyền hoặc, trong đó ước mơ đă thành sự thực nhờ sức mạnh kỳ diệu của tâm linh.
 
Chúng đă ngự trị phần đất này suốt cả ngàn năm và h́nh như vẫn c̣n đan quyện với nó một cách tinh tế. Đây là những lâu đài cổ đang giữ lại tài sản của con người để nói lên ước vọng được giải thoát, những pháo đài núi của kỵ mă thời trung cổ, những thị trấn của người chuyên ở hang động cũng như chốn thiêng liêng trong hang sâu của những bàn thờ bí mật với tất cả những báu vật nghệ thuật và kinh điển.
 
Thế nhưng chúng không phải thuộc về quá khứ. Những thất của các vị sống ẩn cư sùng tín, chúng như những tổ chim én treo trên vách đá và cũng như tu viện và đền đài nằm kiêu sa trên các đỉnh núi hay ẩn trong các lũng kín đáo, chúng là nơi giữ cho ngọn lửa của ḷng tin và truyền thống được sống măi.

Mặt khác đây là một vùng đất chết, một vùng đất đang dần dần biến thành cát bụi, như những vùng Trung Á, cách đây ngàn năm là trung tâm văn hóa phồn vinh nay đă thành sa mạc, như sa mạc Gobi hay Takla-mankan.
 
Miền tây Tây Tạng và đặc biệt là vùng Ngari Kharsum, cách đây chưa đầy một ngàn năm là nơi nuôi sống nhiều dân tộc và sản sinh một nền văn minh đáng kể, ngày hôm nay hầu như không c̣n người ở, chi c̣n vài ốc đảo, nơi mà con người hết sức cố gắng tưới tiêu mới trồng được chút lúa ḿ, lúa mạch.

Sự khô cằn của miền tây Tây Tạng có lẽ có cùng chung nguồn gốc với các sa mạc Trung Á. Các nhà địa chất cho biết, dăy Himalaya ngày càng trồi cao cho nên ngày càng ít mây đen qua được bên kia núi, núi đă ngăn chúng lại.
 
Phía Tây Tạng của Himalaya ngày nay c̣n nhiều tảng băng sơn lớn nhưng theo các nhà địa chất th́ chúng là băng sót lại của thời kỳ xưa, v́ lượng tuyết rơi cả năm ngày nay không đủ để giải thích sự hiện diện của những băng sơn đó.

Thế nên có nhiều vùng lớn của Tây Tạng sống nhờ dự trữ băng của thời tiền sử, và khi những dự trữ này hết đi th́ đất sẽ trở thành sa mạc; v́ ngay bây giờ mà mưa hay tuyết cũng không đủ nước để trồng trọt. Người ta có thể ngạc nhiên tại sao đất Tây Tạng lại chóng bị xói ṃn trong lúc thật ra có ít mưa hay đổ tuyết.
 
Lư do là sự khác biệt nhiệt độ quá lớn giữa ngày và đêm; chúng quan trọng tới mức mà đá cũng phải vỡ và những tảng đá khổng lồ cũng có thể biến thành cát. Với điều kiện này th́ chỉ cần một vài trận mưa và nước từ băng sơn chảy ra, thêm vài trận băo thỉnh thoảng xảy ra là đủ để xói ṃn đất đai.

Muốn biết qui tŕnh khô cằn và sự h́nh thành sa mạc diễn ra nhanh như thế nào, ta nhớ chỉ cách đây khoảng 600-700 năm c̣n nhiều loại cây có lá mọc trong vùng, ngày nay chúng không c̣n như tại Bắc cực.
 
Hay khi ta nhớ đến các phế điện, các thị trấn chết, cách đây 500 năm chúng vẫn c̣n phồn vinh đầy sức sống, xung quanh là đất đai mầu mỡ, nhờ đó mà dân chúng sống dung tục.
 
Những thành thị này đều là xứ sở của vua chúa và học giả, quan quân và thương nhân, nghệ nhân có tài là thợ thủ công chăm chỉ, họ đem tài nghệ và khả năng của ḿnh ra để phụng sự cho đền đài tu viện, thư quán cũng như các tác phẩm tôn giáo.
 
Trong lịch sử Tây Tạng ta được nghe tới những tranh ảnh thờ phụng hay pháp khí bằng vàng bạc, và chúng ta không lư do để cho rằng đó chỉ là sự phóng đại, nếu chỉ cần nhớ lượng vàng cần để thếp các mái điện, h́nh tượng, bích họa, các phẩm vật trang trí và các pháp khí cúng dường.
 
Cả những bức tượng thật lớn làm bằng kim loại hay đất nén cũng được phủ một lớp vàng chắc chắn. Như trong thời kỳ Inka, trong đó vàng được xem là của riêng của thần Mặt trời th́ tại Tây Tạng người ta cũng xem vàng chỉ để trang hoàng cho các vị giác ngộ và giáo pháp của các vị đó.
 
Quả thật là giáo pháp này thường được viết bằng vàng hay bạc và được trang trí hay minh họa với h́nh tượng tí hon làm bằng vàng. Khó có thể tưởng tượng ḷng sùng tín của người dân Tây Tạng vào thời kỳ đó, cái đă làm cho con người biến một vùng sông suối khó khăn và núi rừng hoang vu để trở thành một thiên đường ḥa hợp, của biểu tượng văn minh.
 
Trong đó tâm linh được coi trọng hơn uy lực thế gian và sự giàu có, và có một nửa dân chúng dành thời giờ để thiền quán, để thực hiện những tác phẩm nghệ thuật và để sống cuộc sống tôn giáo, mà không phải chịu hy sinh ǵ lớn hay xao nhăng trách nhiệm xă hội.

Trong tác phẩm nổi tiếng The Lost horizon (Chân trời đă mất), khi James Hilton mô tả “thung lũng mặt trăng xanh”, ông không quá xa so với sự thực mà bản thân ông hay độc giả có thể nghĩ. Có một thời kỳ mà trong những vùng hẻo lánh của tây Tây Tạng có những lũng bí ẩn, phải đi qua những khe đá chật hẹp mà chỉ có dân trong vùng mới biết.
 
Trong những vùng sâu đó, cạnh những con suối, là vườn tược đầy hoa, bao quanh bởi cây xanh, ruộng lúa ḿ vàng rực và thảo nguyên nhờ những gịng nước trong như pha lê đổ từ núi xuống.
 
Trên những đỉnh núi đá gần đó là đền đài chùa tháp, trên sườn non là hàng ngàn hang động sạch sẽ, trong đó có người sống, không bị cái lạnh cái nóng xâm chiếm, họ sống một cuộc đời đơn giản nhưng đầy đủ, không chiếm đất đai mầu mỡ của vùng v́ việc xây dựng nhà cửa.
 
Họ sống trong ánh nắng vĩnh cửu của mặt trời, không ǵ phiền toái cho họ. Mưa tuyết lạnh giá của cao nguyên hay đời sống chạy theo quyền lực của một thế gian không biết nghỉ.

Trên đường về Tsaparang, chúng tôi may mắn bất ngờ được “lạc” vào trong một lũng như thế; nó có tên thích hợp là “lũng của lâu đài mặt trăng” (Dawa-Dsong). Đoàn người được thuê vừa đưa chúng tôi đến đây đă vội quay về, chẳng cần biết có t́m ra người đi tiếp hay không, để chúng tôi lại một ḿnh, xung quanh không bóng người.
 
Họ cũng nhất định không chịu ngủ nán thêm một đêm. Họ tháo hành lư của chúng tôi để bên cạnh một con sông cạn, chảy qua lũng rộng, quanh là chập chùng những núi mà ṿm và tháp giống như một pháo đài khổng lồ của một thế giới nào xa lạ lắm.

Khi chúng tôi lo cắm lều, chất lương khô vào lều và chuẩn bị ăn tối th́ mặt trời đă lặn và thế giới rút lại chỉ c̣n bốn phía của chiếc lều. Bóng tối bao xung quanh chúng tôi như một tấm màn bảo vệ. Ngày hôm sau khi ngủ dậy và nh́n xung quanh th́ ư nghĩ phải c̣n ở đây lâu không làm chúng tôi hăi sợ.
 
Ngược lại chúng tôi mừng vui thấy các chuyện tưởng là phiền, cuối cùng lại cho ḿnh cơ hội được nghiên cứu và vẽ lại một vùng đất không thể tưởng tượng được, hầu như là tranh minh họa của tác phẩm Reise nach dem Mond (Du hành mặt trăng) của Jules Verne chứ quang cảnh không thuộc trái đất này.

Những người khác chắc hẳn sẽ cảm thấy bất an v́ sự cô đơn và kỳ bí của vùng này. C̣n với chúng tôi nó là một thiên đường, một thế giới kỳ diệu với những tảng đá h́nh thù lạ lùng; chúng xếp nhau từng lớp biến thành tháp cao ngất và chĩa hàng trăm mét cao lên trời xanh, như một bức tường bảo vệ huyền bí cho ốc đảo xanh tươi này, nơi đây được nước nguồn và suối núi tưới tiêu.

Một số lớn những tháp thiên nhiên vừa nói được người sống cách đây hàng trăm năm biến thành thạch thất đó là những nhà chọc trời đích thực. Họ đă khéo léo khoét rỗng các tháp đó, biến nó thành một hệ thống những pḥng con, nối với nhau bằng cầu thang và có nhiều cửa sổ nh́n ra bên ngoài.
 
Nhóm các tảng nhỏ được làm như tổ ong và cứ mỗi tổ như thế là một chỗ ở. Một loạt những nhà h́nh khối đường như di tích của làng tu, mà chính điện được xây trên đỉnh một núi đá.

Đỉnh núi được trang hoàng bằng đền đài, tháp thờ, tu viện và phế tích của lâu đài cũ và cho một cái nh́n tuyệt vời xuống lũng, nơi được che chắn bởi những ngọn tháp đá nằm kế bên nhau như những cột của một cây đàn organ trong nhà thờ và bởi hàng trăm thạch thất với những cửa sổ của chúng.

Thế nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là chính điện, không những không hư hại, mà mái điện thếp vàng, trong cảnh hoang vu những đá và phế tích này nó lại chiếu sáng như một viên ngọc bỏ quên dấu tích và biểu hiện của thời huy hoàng cũ của một niềm tin sống động đă nở hoa nơi đây.
 
Khi lũng c̣n chứa hàng ngàn người và được các nhà vua anh minh cai trị. Phế tích của các bích họa cho thấy rằng đền này đă xây khoảng cuối thế kỷ thứ 10, tức là khoảng một ngàn năm trước. Chỉ trừ vài người chăn thú, họ cho dê cừu ăn cỏ trên thảo nguyên của lũng, có lẽ chúng tôi là những người duy nhất đi qua thành phố thạch thất bị bỏ quên này.

Một sự yên tĩnh đến nao ḷng! Một sự cô tịch xâm chiếm tâm can! Một sự yên tĩnh đầy tiếng nói của quá khứ; một sự cô tịch vẫn đầy sự hiện diện của vô số thế hệ đă sống, đă dựng xây thành thị và đă ở tại đây.
 
Nhiều thạch thất này đă là trú xứ và thiền pḥng của tu sĩ và ẩn sĩ, nên cả chốn này chứa đầy những tâm hồn hiến dâng và đời sống quán tưởng. Những tảng đá hầu như quên ḿnh vươn vút lên trời xanh.

Như một miếng sắt khi có từ tính th́ giữ sức hút trong một thời gian; tương tự thế, nơi đây có một không khí của sức mạnh tâm linh và sự tươi sáng c̣n giữ lại, nó làm ta quên lo ngại và sợ hăi, ḷng tràn đầy an b́nh và sáng sủa lạ lùng.

Chúng tôi cắm lều ở đây đă một tuần, nhưng thời gian dường như dừng lại trong lũng, đến nỗi chúng tôi không c̣n nhớ tới nữa. Người ta kể tôi nghe Dawa-Dsong là chỗ ở của một vị tỉnh trưởng. Thế như nhà (dsong) của ông không ǵ khác hơn là một căn nhà nhỏ, cây cối bao quanh, tại chân của cổ thành phế tích gần bờ tường thành, chỗ cắt lũng Dawa-Dsong với lũng chính.
 
Chúng tôi thất vọng khi nghe vị tỉnh trưởng đi thị sát và không ai biết bao giờ ông sẽ về, kể cả vợ ông cũng không biết ǵ; bà ở nhà một ḿnh với hai người hầu cận. Khi nghe tôi gặp khó khăn trong vấn đề di chuyển, bà hứa với tôi sẽ giúp.
 
Nhưng hiện nay trâu đang ăn cỏ trên cao nguyên và không có ai bắt nhốt chúng lại cả, v́ chồng bà đem theo tất cả nhân viên. Theo tập tục của Tây Tạng th́ tỉnh trưởng đi đâu cũng có cận vệ vũ trang đi cùng, không phải chỉ v́ vấn đề an ninh thôi, mà v́ uy tín cá nhân. Thế nên chúng tôi đành phải đợi điều mà chúng tôi không muốn làm.

Chiều nọ trên đường vẽ về, hôm đó Li phải canh lều, tôi gặp một vị lạt ma già từ một trong những ṭa nhà hư sập gần đền thờ có mái vàng đến. Ông chào hỏi thân thiện và xem ra cũng ngạc nhiên không kém tôi.

Sau khi thăm hỏi xă giao, chúng tôi đi ṿng quanh đền và quay bánh xe cầu nguyện để trên tường. Trong lỗ hổng sau bánh xe có bàn tay nào đă nhét vài tờ kinh vào đó, có lẽ chúng rơi từ trong đền hay tháp thờ nào, v́ tại Tây Tạng không ai xé bỏ kinh sách, dù mẩu giấy nhỏ nhất, cũng không để cho chúng bị người hay thú dẫm nát.

“Ông là lạt ma”, bất ngờ ông già nói với tôi, hầu như ông tiếp tục cuộc đối thoại nội tâm, “nhưng ông từ xứ khác đến. Vậy ông đọc tờ kinh được không?”

“Tất nhiên là được”.

“Thế th́ ông đọc cái ǵ đây”, và ông rút ra một tờ nằm trong hốc sau bánh xe.

Tôi đọc: “Con nguyện làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, vô lượng không gian; con nguyện đi trên con đường từ bi, nguyện cầu giác ngộ hoàn toàn”.

Khuôn mặt của ông già sáng lên, ông nh́n sâu vào mắt tôi và nắm lấy hai tay như t́m lại người anh em lâu ngày lưu lạc nói: “Chúng ta cùng đi trên một con đường”.

Không cần nói thêm ǵ nữa trong lúc đá hầu như cháy sáng lên trong ánh chiều tà, tôi vội trở về lều nằm sâu trong lũng.

Khi gần đến nơi th́ Li cho hay, trong lúc tôi vắng mặt có một người đến báo, rằng trâu mà chúng tôi chờ măi, nay đă được bắt lại và một hai ngày nữa sẽ đến với chúng tôi.

Thật là một tin vui. Thế nhưng ḷng buồn nghĩ, chúng tôi sẽ không bao giờ thấy lại mái vàng của ngôi đền thiêng liêng này, trong đó cả ngàn năm qua bao nhiêu tu sĩ đă đi theo đường giác ngộ và trong đó tôi t́m được một người bạn, người bạn vô danh và là kẻ đồng hành mà mắt nh́n long lanh của ông c̣n đọng măi trong tôi cùng với niềm an lạc và hạnh phúc sâu xa mà chúng tôi đă t́m thấy trong thung lũng kỳ diệu này.


 ĐẾN TSAPARANG



Sau thời gian ở tại “lũng lâu đài mặt trăng” và những ấn tượng to lớn của vùng khe sâu lũng hẹp dưới chân núi dá trên đường tới Tholing, chúng tôi ngại rằng Tsaparang sẽ gây thất vọng hay ít nhất nó không tranh được với những kỳ diệu thiên nhiên mà chúng tôi đă gặp.

Ngày cuối, khi từ một khe leo lên để tránh một mỏm núi, đột nhiên chúng tôi thấy một thành phố vươn lên, như đẽo từ đá, gồm toàn những đền dài và cung điện, thành phố của các nhà vua xưa, đó là đích của chúng tôi: Tsaparang. Sự bất ngờ của cảnh quang này làm chúng tôi nín thở và không dám tin những ǵ ḿnh thấy.

Như quyện trong ánh chiều thành phố nằm trên bầu trời tối, vây quanh là một chiếc cầu ṿng như ánh hào quang. Chúng tôi sợ tất cả sẽ sớm biến mất như một ảo giác trên sa mạc sau khi chúng đă hiện ra thế nhưng nó là sự thực không lay chuyển, như đá núi mà trên đó thành phố vươn cao.

Ngay cả cầu vồng một hiện tượng cực hiếm trong vùng đất hầu như không mưa này cũng nằm lâu trong bầu trời và bao bọc thành phố như hào quang của những báu vật bí ẩn của những tượng vàng và sắc màu rực rỡ, mà những linh ảnh và các nền minh triết của quá khứ vàng son đă tạo thành tác phẩm nghệ thuật.

Sau hai năm dài gian khổ của chuyến hành hương và sự bất định và sau hơn mười năm chuẩn bị, được thấy đích đến của ḿnh nằm trong một hào quang rực rỡ, ḷng chúng tôi không những tràn đầy xúc động mà c̣n thấy rằng đó là một điều kỳ diệu, nó xảy ra không hề do t́nh cờ.

Đối với chúng tôi, đó là dấu hiệu cho thấy trước những biến cố và khám phá có ư nghĩa trọng đại sự cảm nhận về trách nhiệm của ḿnh mà chúng tôi phải làm cho đến cuối đời.

Đó là sự tuyên bố rằng nổ lực của ḿnh sẽ đưa đến thành công cuối cùng, đồng thời nó cũng là sự xác minh ḷng tin tưởng của ḿnh về sự hiện diện của những năng lực là đúng, đó là những sức mạnh dẫn chúng tôi đến đây và cũng vượt qua bao nhiêu hiểm nghèo.

Chúng tôi đến thành phố bị quên lăng này lúc trời vừa tối và t́m được chỗ nghỉ trong một lều đá. Đó là phần trước của một hang động, từng là chỗ ở của những người đặc biệt trong kinh đô này của thời đại Guge.

Ngày nay cư ngụ ở đây là một người chăn cừu có vợ con. Ông cũng là người bảo vệ cho ba ngôi đền thoát được sự tàn phá của chiến tranh và thời gian. Tên của ông là Wangdu. Ông rất nghèo, đúng như tục ngữ thường nói “như một con chuột trong nhà thờ” và mừng vui kiếm được ít tiền từ việc đem lại cho chúng tôi nước, gạo và sữa.

Trong lều đá nhỏ xíu này, chúng tôi cố gắng sắp xếp tươm tất, mặc dù bên trong lởm chởm và tối đen, nó là hang động thiên nhiên hơn là chỗ ở cho người. Trong đêm đầu tiên đáng nhớ đó, đó là đêm 2.10.1948 tôi viết trong nhật kư:

“Mơ ước của đời tôi từ nhiều năm nay là viếng Tsaparang, được đưa ra ánh sáng những báu vật đă hoang tàn của nghệ thuật tôn giáo và truyền thống cổ xưa. Mười năm nay tôi hướng về mục đích này, mặc cho nhiều trở ngại và lời can ngăn của những người nghĩ rằng tôi đi t́m ngôi lầu xây trong không trung.

Nay giấc mơ đă thành sự thực và tôi bắt đầu hiểu một giấc mơ khác mà tôi đă có từ ba mươi năm nay. Trong giấc mơ đó tôi thấy một ngọn tháp gỗ nằm trên đỉnh núi. Đó là một ngọn tháp cũ, gió mưa đă làm tróc sơn. Tôi buồn rầu khi thấy cảnh này v́ nhớ rằng trong quá khứ, lúc c̣n nhỏ tôi đă từng đứng trong tháp ngắm cảnh vật xung quanh.

Bỗng nhiên tôi thấy Phật hiện đến với tôi, Ngài cầm trên tay thùng đựng sơn và cọ. Tôi chưa kịp nói lên sự ngạc nhiên của ḿnh th́ Ngài đưa thùng và cọ cho tôi rồi nói:

“Con hăy tiếp tục công việc này của ta và hăy nhận lấy”.

Ḷng tôi tràn một cảm giác vui sướng và đột nhiên hiểu rằng, tháp này là tháp của tri kiến, đó là biểu hiện của pháp, mà Phật đă xây nên cho những ai muốn vươn ra khỏi thế giới chật hẹp của ḿnh.

Vào thời đó, điều mà tôi chưa hiểu là, ḿnh là người được chỉ định phụng sự pháp bằng sơn và cọ; để thể hiện pháp qua một số dạng h́nh đẹp nhất của nó trong các tác phẩm nghệ thuật cao quí, đưa nó ra khỏi sự quên lăng”.

Và hồi đó tôi cũng không biết là ḿnh sẽ có một người giúp sức có tài và hăng say, đó là Li Gotami, cũng là người phụng sự các bậc giác ngộ như tôi và rất yêu thích các tác phẩm lớn của nghệ thuật văn hóa Phật giáo, mà biểu hiện cao quí và trọn vẹn nhất của chúng nằm tại Ajanta và Tsaparang.

Chỉ những người mà đời sống tâm linh quan trọng hơn tiện nghi vật chất và niềm ước ao học được pháp Phật lớn hơn tham vọng của cải và quyền lực thế gian mới hoàn thành được những tác phẩm đó, qua đó mà cả tính chất hoang dă của một vùng đá sỏi trở thành sự phát biểu của cái nh́n nội quán và vật chất trần trụi trở thành sự thể hiện của thực tại siêu việt.

Chúng tôi choáng ngợp trước uy lực của thực tại này, khi ngày hôm sau và chính điện của hai ngôi đền lớn, đền “trắng” và “đỏ”, màu của vách tường bên ngoài, chúng đă trường tồn, thoát mọi tàn phá.

Những bức tượng vàng to hơn người thật phát sáng giữa màu sắc ấm áp của các bích họa trên tường, và sinh động hơn tất cả những tượng chúng tôi từng thấy. Đúng, các bức bích họa đó là hiện thân cho cái thần của thành thị bị lăng quên này. Đó là những cái độc nhất mà thời gian không can thiệp được.

Thế nhưng chúng tôi cũng biết rằng cả những ǵ c̣n sót lại cuối cùng này của thời vàng son cũng sẽ bị tàn lụi, khi thấy những vết nứt trên vách và trần của hai điện. Một số bích họa bị nước mưa hay tuyết tan, thấm qua mái đă dột, làm hư nát, và vài bức tượng của đền thờ trắng vốn làm bằng đất thếp vàng, nay đă hư hại.

Những bức bích họa hẳn là toàn thiện nhất trong số những ǵ chúng tôi từng thấy trong hay ngoài Tây Tạng. Chúng che kín các vách tường, chỉ trừ đoạn dưới màu đỏ của vách (khoảng ba phần tư mét) lên đến trần. Chúng được thếp vàng không tiếc với sự chi li kỹ lưỡng nhất, ngay cả tại những góc tối tăm hay nằm hẳn trên cao không ai thấy tới, thậm chí mặt sau của những bức tượng.

Vài h́nh trong bích họa có kích thước khổng lồ. Giữa những h́nh đó là những h́nh vừa và nhỏ, có nhiều nơi là những h́nh nhỏ xíu, có cái lớn không quá móng tay. Thế nhưng những h́nh tí hon này vẫn đầy đủ chi tiết như lông mày, tóc tai, móng tay móng chân, trang sức, mặc dù phải cần kính lúp mới thấy chúng.

Chúng tôi sớm biết rằng các bức bích họa này là sự thể hiện ḷng phụng sự tôn giáo, không cần biết chúng có được trầm trồ nh́n đến hay không. Đó là lời cầu nguyện và hành động thiền định bằng màu và dạng, mỗi một nét vẽ là một hành động của tập trung cao độ.

Khi vẽ lại từng nét các bức bích họa, chúng tôi cảm nhận sự kỳ diệu của những đường nét, nơi đó c̣n nóng hổi nhịp tim và ḷng quên ḿnh sinh động của nghệ nhân, họ hiến ḿnh cho tác phẩm, không cần biết tên ḿnh ngày sau có c̣n ai nhắc tới.

Họ t́m nơi sáng tạo tác phẩm niềm cảm khái của ḿnh. Bản thân tác phẩm của họ đă là sự thờ phụng. việc vẽ lại những nét tinh tế này cũng cần sự chú tâm cao độ. Đó là một cảm giác kỳ lạ, được sống lại cảm nhận và xúc động của những người sống gần một ngàn năm trước.

Hầu như chúng tôi tiến lại thân thể và nhân cách của họ, tham gia vào suy tư và cảm xúc của họ và bị nội tâm của họ chiếm giữ. Điều đó cho thấy, xúc cảm không những được biểu hiện bằng động tác ra ngoài thí dụ như nét vẽ, vũ điệu, cử chỉ, ấn quyết mà cả sự lặp lại những động tác đó cũng sinh ra chứng thực và cảm xúc như nguyên thủy.

Với cách này, chúng tôi bị hút vào công việc, hầu như chúng tôi đă đánh mất tính chất riêng của con người ḿnh và nhận nhân cách của người khác làm của ḿnh, những người sống cách đây hàng trăm năm đă làm công việc tương tự. Biết đâu được chúng tôi chính là những nghệ nhân trong một đời sống trước và đó là lư do đă đưa chúng tôi về lại chốn sáng tạo cũ.

Trong ba tháng ở Tsapang, cứ mỗi ngày trước khi bắt đầu công việc, chúng tôi lại tụng kinh quy y và tán thán trước tượng vàng và cúng hương đèn cho vị giác ngộ, phẩm vật tượng trưng cho ánh sáng và đời sống.

Và mỗi ngày sự hiện diện của các vị càng rơ rệt và thúc bách hơn, để ḷng chúng tôi tràn ngập sự cảm hứng mà quên đi sự đói lạnh và mọi khắc nghiệt của t́nh trạng hiện tại, sống như trong sự xuất thần, từ lúc mặt trời mọc đến khi lặn, làm việc hầu như không nghỉ với một lượng thực phẩm tối thiểu.

Thế nhưng càng ngày trời càng lạnh, đặc biệt trong đền, chỗ mặt trời không bao giờ chiếu vào. Khi rót bảy chén nước để cúng buổi sáng th́ chưa rót chén cuối, chén đầu đă đông, dù chỉ cần chưa đầy năm giây để rót chén nước.

Vách tường của điện lạnh tới mức mà đụng lâu đến nó sẽ bị gây đau đớn và việc vẽ lại các chi tiết kỹ lưỡng là một sự cực h́nh. Li phải ủ chai mực tàu trong người để nó khỏi đông và chốc chốc Li phải hà hơi vào cọ nếu không, chỉ sau vài nét vẽ, mực đă bắt đầu cứng. Điều này thật khổ sở trong những ngày cuối của chúng tôi tại Tsaparang, lúc đó mỗi phút mỗi quí, và tôi nhớ là Li phải khóc v́ chiến đấu chống cái lạnh.

Tôi làm việc với các tượng lớn của các vị Thiền Phật và Bồ-tát nên phải dùng bút ch́, phấn vẽ trên một thứ giấy trong và nhám. Phần lớn h́nh ảnh của tôi nằm trên cao nên tôi phải đắp một chồng đá để leo lên, những viên đá lấy từ những ṭa nhà đổ nát.

Những chồng đá này làm lưng tôi đau nhức, mỗi ngày phải hạ xuống dựng lên vài ba lần, tùy theo công việc tới đâu và cũng tùy h́nh tượng. Thật đúng là công việc của Sisyphus.

Thế nhưng không bao lâu sau, chồng đá không c̣n đủ cao để vươn tới phần trên của bức bích họa. V́ thế tôi phải làm một cái thang gỗ đóng tạm dựng trên chồng đá và đu đưa đáng sợ trên bậc cao nhất của thang, mà nếu chỉ cần vô ư là ngă.

Ngoài ra chân tôi tê cóng v́ lạnh nên thỉnh thoảng tôi phải xuống thang cho máu điều ḥa lại và hưởng chút hơi ấm của mặt trời ngoài điện. Muốn làm tay bớt cóng, chúng tôi ủ nó trên nắm cửa sắt của điện để hưởng hơi nóng mặt trời.

Thêm một cái khó nữa là ánh sáng trong điện không đều. Các ngôi đền của Tây Tạng được xây sao cho ánh sáng chiếu vào bức tượng chính, xuyên qua một cửa sổ phía trên của vách đối diện hay qua một lỗ nhỏ của mái điện nằm phía trên tượng. Nhờ thế mà ánh sáng chiếu từ tượng vàng làm sáng đền để ta có thể ngắm nh́n các bích họa hay các vật khác trong đền.

Thế nhưng ánh sáng không đủ để có thể vẽ hay thực hiện các loại h́nh khác. Ngoài ra ánh sáng phản chiếu từ tượng không cố định mà thay đổi tùy vị trí của mặt trời nên các vùng sáng trong điện cũng khác nhau. V́ thế chúng tôi cũng phải đổi chỗ theo, hay có lúc phải dùng khăn trắng để chiếu thêm ánh sáng vào những góc quá tối hoặc những chỗ nằm sau cột đền.

Thường thường chúng tôi phải ngưng công việc đang làm chỉ v́ muốn tận dụng một chỗ khác có ánh sáng tốt hơn; và quá tŕnh này cứ diễn lại cho đến khi tất cả chi tiết của các bức bích họa được vẽ lại.

Việc chụp h́nh cũng rất khó khăn trong điều kiện này và ngay cả Li vốn là thành viên của Hội nhiếp ảnh Hoàng gia Anh cũng trải qua một thời gian căng thẳng để chụp h́nh trong điện; v́ chúng tôi không hề có bộ phận nháy sáng hay các phương tiện hiện đại khác.

Trong thời kỳ đó, các phương tiện chụp h́nh c̣n hết sức khó t́m tại Ấn Độ và chúng tôi phải mừng là kiếm được phim cho những chiếc máy h́nh, chúng đă phục vụ chúng tôi một hay hai thập niên. Li có một chiếc máy Kodak số 1, loại 3, bao da xưa, có một ống kính rất tốt nhưng lại đ̣i hỏi thời gian thu h́nh rất lâu.

Li không cần thiết bị đo mà vẫn có một cảm giác không bao giờ sai về thời gian thu h́nh. Những nét nổi của các bức tượng nhờ thế mà rơ hơn, nếu chụp với nháy sáng chưa chắc tốt. Thế nhưng nhiều bức họa v́ ánh sáng không đều nên h́nh không thể đẹp được.

Ngay cả các bức tượng của chỉ có thể chụp với các miếng phản chiếu ánh sáng đặt đúng và sau khi quan sát ánh sáng nhiều ngày. Những bức tranh này, không kể các bức bích họa sao lại, là những thành tích quí báu nhất của chuyến đi.

Trong số những bích họa tại Tsaparang th́ bức diễn tả đời sống Phật Thích-ca là đáng lưu ư và đẹp nhất. Đó là bức cổ nhất và hoàn thiện nhất về đời sống của Phật được biết cho đến nay.

Cả Ajanta, vốn được xem là đỉnh cao của nghệ thuật họa h́nh Phật giáo, cũng chỉ có những tranh nói về tiền kiếp của Phật và rất ít tranh diễn tả Đức Phật lịch sử. Thế nên chúng tôi rất vui mừng t́m thấy các bức bích họa tại Tsaparang c̣n khá nguyên vẹn như thế.

Ngay cả thời gian hàng trăm năm chưa xóa mờ các màu sắc đậm hay các đường nét tinh xảo. Các màu sắc c̣n như mới, hầu như chúng được vẽ trong thời đại của chúng ta, chứ không phải cách đây tám chín trăm năm.

Trong hai ngôi đền chính, đền nào cũng tŕnh bày cuộc đời Đức Phật. Ngôi đền trắng cổ hơn và có một tượng Phật lớn rất cũ của Thích-ca, làm bằng những miếng kim loại thếp vàng, chúng được hàn hoặc tán lại với nhau. Lơm khung đựng tượng này được trang hoàng với bích họa rất tinh vi tŕnh bày cuộc đời Đức Phật.

Những cảnh tượng trong bích họa này được vẽ sát chồng lên nhau, để ta thấy mọi diễn biến trong đời Ngài nằm chung trong một bức. Các bức họa đó nằm hai bên vách của khung nhưng đáng tiếc là bên trái đă bị nước mưa làm lu mờ.

C̣n trung tâm đền màu đỏ th́ gần như mọi bức bích họa đều nguyên vẹn, các bức bị phá hủy hay mờ nḥe th́ phía bên đền trắng lại c̣n. Đó thật là một sự t́nh cờ quư báu, nhờ thế mà chúng tôi giữ lại được toàn bộ h́nh ảnh truyền thống về cuộc đời Đức Phật.

Tôi không muốn đi sâu vào các bức bích họa này, v́ chúng sẽ là nội dung của một cuốn sách riêng, trong đó công tŕnh tái tạo kỹ lưỡng và trung thực của Li Gotami về các bức bích họa sẽ được tŕnh bày. Trong lúc Li lo việc tŕnh bày đời sống Đức Phật, tôi làm việc với các tượng lớn nằm trên bích họa, phải đổi chỗ liên tục v́ ánh sáng không đều.

Các tượng trong đền trắng gồm có hai loạt h́nh các vị Thiền Phật, mỗi Phật có quyến thuộc khoảng mười hai vị ấn quyết khác nhau nói lên những khía cạnh khác nhau về thiền định. Tổng cộng có khoảng 130 h́nh, trong đó có 65 h́nh với hoa lá, phần nửa c̣n lại được trang trí công phu xung quanh.

Trong đền đỏ, trên các bức tŕnh bày cuộc đời Đức Phật là những bức tượng to lớn hơn người thật. Những tượng này v́ quá khuôn sáo (có lẽ làm từ một khuôn, chỉ khác nhau ấn quyết và màu da) nên không hay lắm, chỉ có các ṭa sen lại rất đáng được chú ư.

Chúng được thực hiện một cách hết sức sáng tạo và trang trí công phu, trong đó các biểu tượng Phật giáo đan trộn vào nhau một cách mỹ thuật. Đối với những ṭa sen này xứng đáng được viết bằng cả một cuốn sách về hệ thống của biểu tượng Phật giáo.

Với tất cả những báu vật của nghệ thuật tôn giáo cao quí đó mà chúng tôi làm việc suốt ngày từ sáng tới tối, được thúc đẩy bởi mối lo: ḿnh là người cuối cùng có được vinh dự này, không những chỉ được nh́n, mà c̣n thu h́nh và tái tạo chúng, để một ngày kia, những tư liệu ḿnh thu thập được sẽ là nhân chứng duy nhất và cuối cùng của chúng.

Chúng tôi được thuận lợi đặc biệt, v́ có lẽ trong lịch sử Tây Tạng, trước ḿnh không có ai được phép chính thức tái tạo trực tiếp những h́nh ảnh thiêng liêng này.

Chúng tôi hết cố hết sức ḿnh, với sự chính xác cao độ, vẽ lại từng nét và tô lại từng màu. Về màu th́ các mảnh vụn rơi ra từ vách tường đă giúp chúng tôi làm mẫu và tái tạo các bức bích họa trong màu nguyên thủy của chúng.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 794 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 12:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
NHỮNG NGÀY KHÓ KHĂN



Chúng tôi cho rằng nếu may mắn th́ sẽ làm việc liên tục được một thời gian ít nhất ba bốn tháng, sau đó sẽ mang về công tŕnh tái tạo hoàn chỉnh và trung thực của tất cả các bức bích họa.

Đồng thời chúng tôi cũng biết và công việc của ḿnh không chóng th́ chầy sẽ gây sự nghi ngờ cho cơ quan địa phương hay những người đa nghi; v́ lư do là chúng tôi ở quá lâu và tính chất công việc của chúng tôi đối với họ chắc hẳn khó tin.

Có thể họ nghi chúng tôi là điệp viên của một thế lực ngoại bang hay đang thực hiện một điều ǵ đen tối, thậm chí họ có thể nghĩ chúng tôi đi t́m vàng bạc. Những chốn thiêng liêng của quá khứ Tây Tạng thường được xem là nơi chứa đựng những uy lực thần bí, quyết định sự thịnh vượng và an vui của đất nước.

Không ai lo sợ là các nơi đó sẽ rơi vào hoang tàn v́ dù sao đó cũng là hiện tượng tự nhiên miễn là các sức mạnh đó không bị quấy rầy hay bị lợi dụng không đúng chỗ.

Dấu hiệu đầu tiên của sự phiền toái bắt đầu với một nữ tu. Bà xuất hiện ngay trong tuần thứ hai của chúng tôi tại Tsaparang; và như chúng tôi sớm biết, bà làm việc cho vị tỉnh trưởng vùng đó. Ông này có nhà tại Schangscha, cách Tsaparang một ngày đường.

Tsaparang thật ra chỉ là chỗ ở trên giấy tờ của ông mà mỗi năm ông đến thị sát một hai lần. Đó là một ṭa nhà khiêm tốn, không xa lều chúng tôi bao nhiêu, là chỗ ông ở tạm trong thời gian lưu trú nơi đây. Người nữ tu đó sống trong ṭa nhà này và nhờ thế bà cũng có uy tín và quyền hành nhất định.

Bà tới bất ngờ lúc chúng tôi làm việc trong đền, đi theo là một tu sĩ, ông này là người coi sóc điện Tshanba-Lhakhang, là điện thờ Di Lặc phía dưới chân thị trấn. Bà bắt đầu hỏi chúng tôi vơi một giọng hách dịch làm chúng tôi ngờ rằng, người ta gửi bà đến đây để theo dơi chúng tôi và báo lại cho tỉnh trưởng.

Chúng tôi tŕnh bày tính chất công việc ḿnh làm; thế nhưng xem ra bà không hiểu mục đích công việc và cho hay nếu chúng tôi cứ tiếp tục th́ bà sẽ không cho nhận nước và chất đốt mà mỗi ngày Wangdu đem từ thung lũng lên. Nếu thế th́ thời hạn ở đây xem như chấm dứt!

Chúng tôi cho bà xem giấy phép của chính quyền Lhasa, theo đó chúng tôi được phép làm việc trong các đền và tu viện của Rintschen Sangpo trong một thời gian theo ư muốn, không ai được ngăn cản. Thế nhưng sự nghi ngờ của bà cũng không giảm. Chắc chắn bà tự hỏi làm sao chúng tôi nhận được giấy phép bất thường như thế. Và ai bảo đảm là giấy này không phải là giấy giả?

Trong phút khó khăn này, ư tưởng tôi hướng về Tomo Géché, v́ ai giúp được chúng tôi trong hoàn cảnh này ngoài vị đạo sư, người đă đưa tôi đi trên con đường này và tên của ông đă mở giúp tôi bao nhiêu cánh cửa và giải quyết bao nhiêu trở ngại.

Tôi cho bà hay ḿnh là học tṛ của Tomo Géché và đă xin được phép của chính quyền Lhasa để làm việc tại Tsaparang. Mặc dù không nghĩ một nữ tu đơn giản tại một vùng hẻo lánh này mà biết tới tên Tomo Géché, tôi cứ nhắc ông là thầy tôi và năm ngoái chúng tôi c̣n ở Dungkar Gompa.

Khi nghe điều này, bà liền đổi ngay thái độ và nói: “Bản thân tôi cũng đến từ Dungkar và Tomo Géché là thầy tôi! Tuyệt diệu thay!”.

Thế là tảng băng đă vỡ và khi nhắc đến các vị trong viện Dungkar mà bà cũng biết th́ mối thân thiết hai bên đă trọn vẹn. Chúng tôi mời bà đến thăm chỗ chúng tôi ở động của Wangdu và tại đó chúng tôi chỉ cho bà xem những tranh h́nh của Dungkar.

Bây giờ, sau khi đă tận mắt thấy sự thật những ǵ chúng tôi nói, bà đă hoàn toàn hết nghi ngại và khi tôi đưa bà xem tượng Phật nhỏ mà tôi nhận được từ chính tay Tomo Géché và với triện của vị đạo sư, bà nghiêng người kính cẩn để nhận phước lành.

Sự việc này là một lời cảnh cáo kịp thời cho chúng tôi, nó cho thấy hoàn cảnh khó khăn như thế nào. v́ thế chúng tôi càng gắng làm việc ḿnh cho xong sớm và có thêm biện pháp để giữ công việc của ḿnh làm sao để ít người biết đến.

Cũng may là có ít khách phương xa hay người chiêm bái đến Tsaparang v́ thị trấn này không nằm trên đường đi lại, vốn ở phía bên kia của sông langtschen-Khambab. Thế nhưng nếu có ai đến th́ chúng tôi nghe thấy họ trước khi leo lên tới đền; và cho chúng tôi kịp thời giờ dọn dẹp đồ đạc đồng thời có thể làm chuyện khác mà không gây chú ư.

Tại Gyantse chúng tôi cũng gặp khó khăn tương tự. Mặc dù vị thị trưởng nơi đó đă cho chúng tôi giấy phép nghiên cứu vẽ h́nh tại đền đài tu viện trong vùng ông quản lư, nhưng ông lại ngại sự phản đối của dân trong vùng.

Họ sẽ nghĩ rằng việc sao chép các bức bích họa là một hành động phạm thượng, v́ trong lúc làm những công việc đó thế nào ta cũng phải rờ hay che khuôn mặt các vị Phật hay h́nh tượng các vị thiêng liêng khác.

Việc thờ cúng Phật hay các vị giác ngộ khác thường được xem là bắt đầu khi người ta điểm nhăn, tưc là đặt vào tượng đồng tử của mắt, v́ hành động này xem như làm cho h́nh tượng bắt đầu sống và có hồn; nó là một hành động thần bí có thần chú yểm trợ.

Người Tây Tạng rất cẩn thận khi có chuyện liên quan đến tượng h́nh các vị hộ thần. Họ xem chuyện này trọng đại như các nước tiên tiến nh́n các nhà máy điện nguyên tử, đó là nơi an nguy của cả nước, những người vô phận sự không bao giờ được vào, không chỉ v́ an ninh của bản thân họ mà c̣n của cả đất nước.

Các chi tiết kỹ thuật của những công tŕnh đó v́ thế phải được giữ kín. Từ cái nh́n này, ta có thể hiểu tại sao đối với người Tây Tạng, nơi chốn của thần linh quá tŕnh đến thế nào và kẻ vô phận sự, tức là những người chưa được quán đỉnh hay không biết lễ nghi th́ không được bén mảng tới.

V́ những sức mạnh có thể hô triệu trong chốn đó cần đến phép tắc chính xác và những tu chứng liên quan. Nếu không rơ hay coi thường các việc này có thể dẫn đến tai ương; như người Tây Tạng vẫn tin tưởng.

Tôi muốn nêu lên đây một chuyện đă được chứng kiến ở Tholing. Đó là nơi có “đền vàng trên đảo”, đền lớn nhất và về mặt lịch sử là đến quá tŕnh nhất của Tây Tạng.

Đền được thành lập bởi Rintschen-Sangpo dưới triều Guge và năm 1050 là chỗ tập kết lớn của Phật giáo, lúc A-đề-sa, nhà thông thái người Bengal và cũng là người đổi mới đạo Phật được Rintschen-Sanpo 90 tuổi tiếp kiến.

Không xa tu viện Tholing, trên một ngọn đồi đá là phế tích các lâu đài của vua Guge, người đă triệu tập hội nghị. Ngày nay ngọn đồi c̣n gây một ấn tượng mạnh mẽ với tường thành bao quanh các cung điện, đền đài, nền tảng vững chắc mà phía sau là khối vĩ đại của ngọn núi.

Khi chúng tôi xin viếng chỗ này th́ vị sư trưởng Tholing nói nơi đó không c̣n ǵ để đáng xem, tất cả đền đài đều bị tiêu hủy cả rồi, chẳng c̣n bích họa lẫn tượng đài. Ông nói một cách gấp gáp làm chúng tôi không thể bỏ ư nghĩ chắc có lư do ǵ làm ông không muốn chúng tôi đến đó. Dù thế, chúng tôi vẫn bỏ ra một ngày để đi xem, có thể chỉ để vẽ hay chụp h́nh phong cảnh xung quanh.

Vị sư trưởng có lư v́ chúng tôi không thấy có bích họa nào trong phế tích. Nhưng ở chỗ cao nhất của vùng hoang phế này, chúng tôi thấy một ṭa nhà c̣n nguyên vẹn, cửa đóng kín mít. Tất nhiên chúng tôi ṭ ṃ muốn biết bên trong có ǵ và v́ sao vị sư trưởng bí mật không nhắc tới. Màu sơn đỏ sậm của ṭa nhà cho thấy đây là một ngôi đền. C̣n cửa đóng kín mít chứng tỏ nó c̣n được sử dụng, nhưng có thể không sử dụng cho công chúng.

Không có ǵ khó khăn để từ một bức tường bên cạnh leo lên mái điện và v́ cửa sổ của nó chỉ đóng bằng một thanh gỗ mở được từ bên ngoài, nên chúng tôi mở ra dễ dàng để nh́n vào trong.

Thế nhưng chúng tôi dội lại ngay v́ đụng đầu một con quái vật nhiều đầu, mà đầu thấp nhất có h́nh một con ḅ mộng dữ tợn. Hai bên đầu ḅ đó hiện ra những khuôn mặt hung ác và giữa những chiếc sừng, lúc đó nằm ngang tầm mắt chúng tôi, một khuôn mặt quỉ đỏ ngầu trợn mắt nh́n chúng tôi. Trên đỉnh chiếc tháp toàn những đầu này lại là nét mặt hiền từ của Văn Thù, vị Thiền Phật của trí huệ siêu việt.

H́nh tượng khổng lồ này là của hộ thần Yamataka đầy uy lực và đáng sợ, người chiến thắng cái chết. Ư nghĩa của h́nh tượng thần kỳ này rất sâu xa và đáng kính sợ. Thần chết (Yama) được tŕnh bày dưới dạng thần đầu ḅ.

Trong thực tế đó không phải ai khác hơn là vị Quán Thế Âm từ bi, người đóng vai phán quan (lương tâm) đưa lên: trước mắt người chết đang luân lạc tấm gương của sự thực, sau khi người đó biết sám hối tội lỗi, để dẫn về con đường giải thoát.

VănThù lại là hiện thân của trí huệ siêu việt, biết rằng cái chết thực ra chỉ là một ảo giác và những ai đă tự đồng hóa ḿnh với thực tại cao tột với Tĩnh Không, cái bao trùm vạn sự trong trời đất kẻ đó đă vượt lên cái chết và được giải thoát, không c̣n bị trói buộc trong luân hồi, trong sự tái sinh và sáu nẻo của si mê lầm lạc.

Một huyền thoại nhân gian kể lai rằng, có một vị ẩn tu nọ thiền định trọn đời ḿnh trong hang động và sắp sửa chứng được giải thoát hoàn toàn th́ bị một nhóm kẻ cướp vào, chúng vào trong hang với một con ḅ ăn trộm được. Chúng không để ư vị tu sĩ, rút dao chặt đầu ḅ.

Sau đó, chúng thấy vị tu sĩ và sợ rằng ông là nhân chứng cho hành động này nên chúng chặt đầu ông luôn. Thế nhưng chúng không ngờ vị này có thần thông sau một thời gian dài tu khổ hạnh. Đầu ông vừa rơi xuống đất ông liền đứng dậy ôm đầu ḅ đặt lên cổ ḿnh và biến thành dạng đáng sợ của tử thần Yama.

V́ bị ngăn cản không được đắc đạo, vị tu sĩ nổi trận lôi đ́nh, chặt đầu bọn cướp và treo đầu chúng như một ṿng hoa quanh cổ, trở thành quỉ dữ đi khắp thế gian cho tới ngày bị Văn Thù dưới dạng Yamantaka, “người chiến thắng cái chết” khuất phục.

Trong một cái nh́n sâu hơn. Yamantaka là tự tính hai mặt của con người, nó cũng như thú vật, có thân thể, có khao khát, bản năng và sự mê say; đồng thời nó lại có tính chất tâm linh, có cùng nguồn gốc với những năng lực tiêng liêng trong vũ trụ.

Với tính cách vật chất, nó là sinh vật chịu khổ của sự chết; với tính cách tâm linh, nó là bất tử. Nếu ư thức của nó đi cặp với tính chất thú vật, sức mạnh ma quỉ sẽ sinh ra; nhưng nếu ư thức đó qui phục tính chất tâm linh và nhờ đó mà trở thành một phương tiện của các lực lượng cao cấp th́ những đức hạnh cao quí sẽ h́nh thành.

Yamantaka tập hợp trong chính ḿnh thú vật, ma quỉ và thượng đế, sức mạnh uyên nguyên của đời sống trong khía cạnh của sự sáng tạo và sự hủy diệt, và khả năng nhận thức sau bao nhiêu đau khổ đă chín muồi tất cả sẽ được giải thoát.

Chúng tôi chưa bao giờ được thấy một bức tượng Yamantaka to lớn như thế, cũng chưa chụp được một tấm h́nh nào; v́ phần lớn các bức tranh của thần phẫn nộ này đều nằm trong những đền quá tối và cũng v́ phụ nữ thường không được vào. Thế nên Li lợi dụng ngay cơ hội chụp một tấm h́nh của Yhamantaka nằm nghiêng người ra trên mái dưới của điện, chỗ mà chúng tôi đang đứng.

“Tiếc là tôi không chụp hết người của bức tượng được”, Li nói khi chúng tôi leo xuống. “Chúng ta hăy vào xem trong đền đi”.

Li xem xét đền một lúc và kết luận là chỉ cần cố một chút nữa sẽ vào được đền. Tôi cố cản, nhưng chưa kịp nói th́ Li đă mở được cửa đền. Bước vào ngay vào và để trấn an tôi v́ thấy tôi chần chừ, Li nói: “Không ai thấy chúng ta cả. Chỗ ở của dân chúng cách đây cả dặm và không có ai trong chốn hoang phế này cả”.

Chúng tôi đứng yên một hồi đầy kính cẩn trước bức tượng khổng lồ màu đen của Yamantaka, màu đen của tượng là màu đen của thần chết và bảo vật của tượng đang được kích thích v́ cái sinh và cái chết luôn luôn gắn liền với nhau. Đó cũng là lư do tại sao Yama, tử thần lại ôm ṿng xe sinh tử trong tay. Khi nh́n sự tŕnh bày vĩ đại này về thực tại siêu nhân một thực tại nằm ngoài phạm vi đẹp hay xấu tôi vẫn có điều ǵ đó lo sợ trong ḷng.

“Chụp h́nh nhanh và ta đi ngay”, tôi giục. “Biết đâu có ai đến th́nh ĺnh. Có thể có người theo dơi chúng ta đó và tôi cũng không muốn nói cái ǵ sẽ xảy ra nếu người ta bắt gặp ḿnh ở đây”.

Li đồng ư và chụp gấp rút. Chúng tôi đi nhanh ra khỏi đền đóng cửa lại và trở xuống đường ṃn, con đường mà chúng tôi đă đi lên khi năy. Chúng tôi chỉ vừa mới cách đền một chút, định rẽ góc th́ gặp phải vị sư trưởng Tholing, ông h́nh như biết chúng tôi đă lên đây và ông đă đi theo, có một gia nhân đi cùng.

Chúng tôi chào ông với cái vui hơi quá đáng nhưng niềm vui chúng tôi là thực v́ biết rằng ḿnh thoát hiểm nguy trong đường tơ kẽ tóc! Nếu chúng tôi rời đền chỉ trễ một phút, tôi ngại rằng ḿnh đă không đến được Tsaparang.

Trở lại chuyện Tsaparang th́ sau khi vị nữ tu, chúng tôi làm việc tiếp hai tuần không trở ngại và thấy mừng v́ công chuyện trôi qua không phiền toái lắm. Thế nhưng niềm vui này không kéo dài được lâu và chấm dứt chiều hôm nọ, sau công việc định về nhà.

Từ dưới lũng vang lên tiếng trống càng lúc càng gần, h́nh như có một đoàn người kéo nhau lên núi. Chúng tôi đoán ngay là sắp có trở ngại mới và thời gian yên lành sẽ qua. Quả nhiên không bao lau sau xuất hiện một kỵ mă mang vũ khí dưới chân núi và Wangdu cho hay vị tỉnh trưởng Tsaparang đă tới.

Ngày hôm sau thay v́ tiếp tục làm việc, chúng tôi đến thăm vị tỉnh trưởng và tŕnh bày cho ông rơ mục đích thời gian lưu trú tại Tsaparang và tính chất công việc ḿnh. Ông nghe một cách lịch sự nhưng xem ra th́ ông cho biết không thể chịu trách nhiệm về việc làm của chúng tôi từ trong điện trừ phi nhận được một xác nhận chính thức của Lhasa nếu có cũng không thể sớm hơn bốn năm tháng được.

Nếu đến lúc đó th́ lương thực của chúng tôi chắc đă cạn; v́ ở đây chúng tôi không thể mua sắm ǵ, không kể một ít lúa ḿ mà chúng tôi mỗi ngày phải cán bằng cối đá rồi làm bánh. Thế nhưng tôi không nản chí và nói với vị tỉnh trưởng rằng ḿnh không ngại ǵ phải xin giấy xác nhận và sẵn ḷng tại Tsaparang cũng như trong thời gian đó xin được làm việc tiếp tục.

Sau đó ông lại nói, chúng tôi chỉ có giấy phép làm trong đền và tu viện của Rintschen Sangpo, c̣n đền tại Tsaparang không phải do ông xây dựng mà đền tại Tholing th́ có. V́ thế chúng tôi nên đi Tholing mà làm.

Khi đó th́ chúng tôi rơ ông đă t́m mọi cớ để chúng tôi đừng ở lại Tsaparang; và làm sao tôi chứng minh được đền ở đây cũng do Rintschen Sangpo thiết lập?

“Tôi đọc trong sách cổ Tây Tạng”, tôi phản đối, “đền này do Rintschen Sangpo xây dựng”.

“Thí dụ sách nào”, ông hỏi.

Tôi biết ông đang t́m cách bắt bí tôi; và tôi sẽ không thuyết phục được ông nếu không t́m nguồn thông tin đáng tin cậy và đủ tiếng tăm để ông biết tới. Thế nên tôi không nhắc tới cuốn “Lịch sử các vua Guge”, qua đó lần đầu tiên tôi được biết tới đền Tsaparang, mà nói với ḷng tin tưởng nơi sự may mắn của ḿnh: “Ông có thể xem tác phẩm của nhà sử học lớn nhất của ông là cuốn Lịch sử xanh”.

Câu trả lời này gây ấn tượng lên ông. Ông biết tôi cũng hiểu biết ít nhiều về sách vở Tây Tạng. Nhất là ông không thể căi lời tôi; và v́ phân vân, cuối cùng ông lờ câu chuyện và đổi lại quyết định của ḿnh.

Trước khi từ giă, tôi c̣n hỏi thêm có cách nào leo lên đỉnh núi đá của Tsaparang, trên đó là phế tích của các lâu đài vua chúa ngày xưa, v́ tới nay chúng tôi không t́m ra đường ṃn hay bậc thang leo lên đó. Vị tỉnh trưởng vội trả lời v́ đá sập nên hiện nay không thể lên được. Ngoài ra ông c̣n nói thêm những lâu đài đó không c̣n ǵ ngoài những vách tường trống rỗng.

Những chuyện của Tholing vẫn c̣n đậm nét trong tôi nên tôi chắc rằng ông muốn giấu sự thật. V́ thế tôi tỏ vẻ không quan tâm ǵ thêm và chỉ nói lơ là rằng từ trên đó nh́n xuống chắc cảnh vật đẹp lắm.

Chúng tôi giă từ ông và trở về lều một cách thất vọng v́ nghĩ chắc rằng vị tỉnh trưởng thế nào cũng ngăn cản ḿnh không được ở lâu hơn để tiếp tục công việc. Chỉ c̣n một phép lạ mới cứu chúng tôi. Chúng tôi không đủ khả năng làm ǵ khác, buổi tối không ngủ được. Tiền bạc và lương thực của chúng tôi chắc chắn không đủ để đợi xác nhận của Lhasa qua hết mùa đông.

Ngoài ra chúng tôi cũng phải tính là c̣n một chuyến đi dài khá nhọc nhằn qua một vùng chưa biết đến và khá khó khăn, rồi mới về lại Ấn Độ; và v́ thế phải hết sức tiện tặn. Chúng tôi thiền định nhiều giờ với cảm giác chỉ có sự cứu độ thiêng liêng mới giúp ḿnh được.

Và quả nhiên sự cứu độ tới thật phép lạ xảy ra! Thay v́ mời chúng tôi đi khỏi Tsaparang th́ vị tỉnh trưởng thân hành đến thăm, có hầu cận đi cùng mang thực phẩm làm quà! Ông cho hay vị nữ tu và chúng tôi gặp, đă nói chuyện lại với ông và quả quyết chúng tôi là người “đă quán đỉnh” và là học tṛ của Tomo Géché Rimpotsché, người mà ông xem là một trong những bậc đạo sư lớn nhất Tây Tạng và thầy dạy của ḿnh.

Ông lấy làm tiếc đă nghi ngờ chúng tôi và bây giờ chúng tôi là bạn đồng môn của ông, nên chúng tôi được phép tiếp tục công việc của ḿnh, miễn là trong ṿng một tháng phải xong. Ông cho hay chúng tôi phải kịp thời lên đường khi các ngọn đèo đi Ấn Độ c̣n mở cửa v́ ông không chịu trách nhiệm nếu chúng tôi phải ở suốt mùa đông dài khắc nghiệt nơi đây.

Mặc dù thấy khó hoàn thành công việc trong thời gian đó, chúng tôi hứa sẽ làm tốt nhất và thâm tâm hy vọng khái niệm thời gian mơ hồ của Tây Tạng cho phép chúng tôi “câu giờ” thêm.

Quan trọng nhất là phải làm sao cho vị tỉnh trưởng luôn luôn vui vẻ, mặc dù thực tế ông không có quyền hạn chế thời gian của chúng tôi. Nhưng chúng tôi tự nhủ thế nào ông cũng quên đi khi rời chỗ này và nếu không th́ cũng c̣n hy vọng xin dời ít ngày hay một tuần.

May thay hai ngày sau vị tỉnh trưởng ra đi sau khi cấp cho chúng  tôi giấy phép đi Ấn Độ. Khi chia tay, ông nói hy vọng gặp lại chúng tôi tại Shipki, một làng nằm dưới chân đèo Ấn Độ v́ cuối tháng sau ông đến đó. Chúng tôi chúc ông đi mạnh khỏe và phấn khởi trở về với công việc đă bị gián đoạn nhiều ngày.

 

VỊ LẠT MA TẠI PHIYANG



Chúng tôi vừa lại đền th́ tỉnh trưởng của Rudol tới, đi cùng là sư trưởng của tu viện ḍng Sakya tại Phiyang.

Họ đến Tsaparang đêm hôm trước và hôm sau lạt ma Phiyang lên đền màu đỏ, khi chúng tôi vừa tụng kinh buổi sáng xong và định bắt đầu công việc. Vị lạt ma già với khuôn mặt đầy râu trắng và vẻ thân thiện, tỏ ra cho chúng tôi một niềm tin ông là một người chân thành tốt bụng và nghiêm túc.

Sự giản dị, thái độ tự nhiên mà đáng kính và cách nói chuyện trầm tĩnh của ông cho chúng tôi thấy không phải ngại ngùng và những câu hỏi của ông xuất phát từ quan tâm tôn giáo chứ không phải để ḍ xét hay v́ đăi bôi.

Ông ngồi trước đền màu đỏ trong ánh nắng và nói chuyện tôn giáo ngay với tôi. Trước hết, ông hỏi tôi theo trường phái hay ḍng nào, c̣n ông tuy và sư trưởng của một tu viện ḍng Sakya nhưng thật ra thuộc ḍng Nyingma và Kargyut.

Tôi kể ông nghe về đạo sư Kargyut của ḿnh và về Tomo Géché Rimpotsché và ông trả lời: “Không quan trọng là ḍng tu nào. Chỉ có một điều quan trọng thật sự, đó là phép thiền định”. Sau đó ông nhắc lại một câu thơ nói lên ư này với những chữ: “Không có thiền định th́ không có pháp; chỗ nào có pháp, chỗ đó có thiền định”.

Tôi có cảm giác được nâng đỡ một cách lạ thường với sự có mặt của con người này, người cùng ngồi với tôi, đơn giản và tự nhiên trên mặt đất và trong chiếc áo cũ kỹ không có ǵ khác với một du sĩ đáng kính. Trong buổi nói chuyện, ông không chút ṭ ṃ, ông không hỏi ǵ về cá nhân chúng tôi từ đâu đến, chúng tôi định làm ǵ ở đây.

Câu chuyện của ông chỉ xoay quanh các vấn đề tâm linh và phép tu thiền định. Rơ ràng ông là người có tri kiến sâu xa nhưng ông đă bỏ tham vọng của sự thông thái đơn thuần và đă chứng thực những thông điệp của Phật trong đời ḿnh.

Lần đầu tiên, chúng tôi không thấy tiếc công việc ḿnh bị gián đoạn, v́ sau khi rời tu viện của thầy, chúng tôi về lại miền nam Tây Tạng, chúng tôi chưa gặp ai có khả năng cho chúng tôi cái cảm giác đă chứng ngộ như thế. V́ sự chứng ngộ như hương thơm tự nhiên của một đóa hoa, nó trực tiếp gây chú ư mà không có tính chất thôi thúc, nó lan tỏa xung quanh dù mọi người có để ư đến hay không.

Chúng tôi không giải thích được nhưng lạt ma Phiyang tỏa ra một niềm an b́nh làm mọi lo lắng của chúng tôi như tan đi. Cuộc chạy đua với thời gian làm cho chúng tôi luôn luôn bị căng thẳng bỗng nhiên chúng tôi cảm thấy vui ḷng và b́nh an, thấy thời gian như không c̣n hiện diện.

Với sự có mặt của lạt ma Phiyang, dường như tất cả vấn đề hết nặng nề và chúng tôi chỉ mong muốn là ông ở lại lâu hơn với ḿnh. Thế nhưng ông nói là trên đường đi Ấn Độ để thăm các thánh tích, ông đă nhận lời cùng đi với vị tỉnh trưởng Rudok bao lâu hai người c̣n đi cùng hướng.

Sau khi cùng với lạt ma Phiyang về lều đá, vị tỉnh trưởng Rudok cũng đến và tham gia câu chuyện. Tỉnh trưởng là một người sống động, dễ mến, cởi mở và muốn nghe tất cả mọi chuyện và ấn tượng của chuyến đi chúng tôi, nhất là sinh hoạt của xă hội tại Lhasa mà chúng tôi quen một số người.

Li đă chụp h́nh khá nhiều những người đó và nhân dịp này đem ra cho ông xem. Qua đó chúng tôi biết là có bạn quen chung với nhau. Đặc biệt nhất là vị tỉnh trưởng muốn có h́nh của vài cô mà Li nhất định đ̣i lại mới được, bằng cách nói là không thể đưa h́nh cho người khác nếu không có sự đồng ư của họ.

Vị lạt ma Phiyang có vẻ vui cười khi thấy sự nhiệt t́nh của vị tỉnh trưởng này về phái đẹp, thế nhưng ông cũng không phá bĩnh câu chuyện v́ thấy anh ta ham thích câu chuyện về người và vật, nhắc lại những kỷ niệm đẹp mà ngày nay với chức vụ tại Rudok ông bị mất mát nhiều.

Hai người đàn ông này khác nhau biết bao: một bên là một thanh niên yêu đời của nhân thế và bên kia là một người già minh triết! Thế nhưng xem ra hai người là bạn đường xa được; người thanh niên với sự vui tính tự nhiên và tính chất cởi mở, ông già với sự hiểu biết nhân hậu và ḷng hỉ xả vô biên.

Ngày hôm sau hai người đă lên đường và khi Phiyang Rimpotsché đến chào từ giă, chúng tôi buồn thật sự. Để chứng tỏ t́nh cảm, chúng tôi tặng ông một ấn bản của Đức Phật tại Lộc Uyển (tượng của thế kỷ thứ 6). Chúng tôi vốn mang theo ấn bản này để đi đường nếu cần, sẽ tặng một vị lạt ma cao trọng.

Dịp này đă đến. Nhưng rất đổi ngạc nhiên, vị lạt ma từ chối quà tặng một cách chân thành và chúng tôi hiểu ông rất thành tâm khi nói: “Cám ơn ông bà về t́nh cảm quí báu, nhưng tôi không cần h́nh ảnh bên ngoài của Đức Thế Tôn, v́ Phật luôn luôn hiện diện trong tim tôi”. Sau đó ông ban phước và từ giă chúng tôi.

Chúng tôi cảm thấy hết sức cô đơn, giống như có một người rất gần gũi trong đời bỗng nhiên đi xa. Nếu công việc c̣n dang dỡ không níu chân lại, có lẽ chúng tôi đă xin phép đi theo chuyến hành hương.

Thế nhưng ai có ngờ là ước mong đó lại được thực hiện, điều mà trong giấc mơ chúng tôi cũng không dám ước một sự thực hiện mà qua đó ấn tượng đầu tiên về người này đă được minh chứng rằng chúng tôi đă gặp một con người với tŕnh độ tâm linh phi thường, một người có khả năng và ư chí, chia sẻ những thành tựu của ḿnh cho kẻ khác.

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 795 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 1:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
  ĐẤU TRANH VỚI THỜI GIAN VÀ CHƯỚNG NGẠI
 

Vị lạt ma Phiyang vừa đi th́ thời gian trở thành có thực và cuộc chạy đua với nó bắt đầu. Chúng tôi đă rơ là kể từ nay không phải từng ngày mà từng phút là quư báu.
 
Chúng tôi thức dậy với tia sáng đầu tiên của mặt trời chiếu qua khe của vách gồm những tảng đá chất lộn xộn bên nhau và chúng tôi ra về khi trong đền đă quá tối và mặt trời đă lặn sau rặng đá. Chúng tôi không dám phí thời giờ v́ cả chuyện ăn trưa. V́ lư do đó mà chúng tôi nấu nướng và ăn uống sau khi mặt trời lặn.
 
Có khi chúng tôi làm việc thêm dưới ánh nến với những bản vẽ và ghi chú trước khi đi ngủ, cho đến khi ngón tay chúng tôi c̣n động đậy được nhờ hơi nóng của chén xúp. Nhiệt độ trong pḥng không bao giờ lên quá số không và điều này thường xảy ra là trà mới pha đôi lúc quên uống v́ tṛ chuyện, đă đóng thành khối băng trong tách gỗ.

Muốn rửa tay rửa mặt, chúng tôi phải đập băng trong thau, v́ nước đóng thành băng ngay sau khi Wangdu mang từ dưới lũng lên trong một b́nh gỗ và đổ thau cho chúng tôi.
 
Để có nước nấu ăn pha trà, b́nh gỗ phải để bên cạnh ḷ lửa trong động của Wangdu. V́ chất đốt, thường là trấu, có khi phân trâu, rất hiếm; phải mang từ lũng lên mới có, nên ông dùng chung để nấu ăn với cái ḷ đặt giữa chỗ ngủ của chúng tôi và cửa động.

Thức ăn chủ yếu của chúng tôi là bánh kèm ít bơ mà chúng tôi đă mua với giá cao tại Tholing Gompa; và buổi tối chúng tôi thêm một loại xúp đặc có sữa và bột. Cuối cùng khi bơ của Tholing hết, chúng tôi gửi một người của Tschamba-Lhakhang đi Tholing, nhưng tu viện ở đó cũng hết bơ nên phải t́m những người chăn trừu gốc Nomade ỏ Tschang-Thang.
 
Sau một tháng người đó về, cầm theo được hai thỏi bơ mỗi thỏi nặng một lạng, có mùi phó mát hơn mùi bơ. Nói thế nhưng tượng Phật và bích họa trong các đền làm chúng tôi hào hứng hơn nên chuyện ăn uống không đáng lưu ư.
 
Song song chúng tôi cũng không thể làm ngơ một điều là lương thực ngày càng ít đi với tốc độ đáng sợ. Cuối cùng chúng tôi khám phá sau bao đựng thực phẩm có một cái lỗ to. Chúng tôi thầm lặng bít lỗ và chất đồ ăn ở một chỗ an toàn hơn xa cánh tay đă tḥ vào lỗ.

Vài ngày sau th́ không có ǵ xảy ra nhưng sau đó đồ dự trữ lại hao hụt. Phải chăng ổ khóa mà chúng tôi khóa cửa gỗ mỗi sáng trước khi đi làm, đă bị mở ra trong lúc vắng mặt? Muốn chắc chắn, chúng tôi niêm phong ổ khóa mỗi sáng.
 
Nhưng ổ khóa không bị ai mở, cũng không có dấu hiệu ǵ nơi vách tường chứng tỏ có trộm. Vậy tại sao dự trữ lại hao hụt hơn chúng tôi sử dụng nhiều. Chúng tôi chắc kẻ trộm chỉ có thể Wangdu hay bè bạn bà con thỉnh thoảng tới thăm.
 
Nhưng lạ một điều là ai đó có thể vào được mà không mở cửa hay đục vách. Nhưng đục vách th́ không thể v́ phải tốn nhiều thời giờ và thế nào cũng để lại dấu vết, điều mà chúng tôi đă khám phá ra ngay nhờ từng có kinh nghiệm. Để đề pḥng, thỉnh thoảng hai chúng tôi có người bất ngờ về lều đá, như bỏ quên điều ǵ.

Wangdu có một người anh em rễ, thỉnh thoảng tới thay công việc, anh ta nói với chúng tôi là cũng có quyền được làm để kiếm ít tiền. Điều mà lúc đầu hai người vui vẻ thỏa thuận với nhau, dần dần trở thành một chuyện tranh chấp và tới ngày nọ th́ hai người tranh nhau dữ dội, người này muốn loại bỏ người kia ra ngoài.
 
Lần đó chúng tôi đang ở trong lều, khi chuyện tranh chấp bắt đầu. H́nh như có ai đạp người kia và không cho vào pḥng. Bỗng nhiên có tiếng đổ rầm cả hai người lẫn chiếc cửa sập đổ vào pḥng! Và chúng tôi hoảng hồn khi thấy cửa bật ra khỏi bản lề. Thế là câu trả lời đă rơ.

Hóa ra khi mỗi ngày khóa cửa và niêm phong ổ khóa để đi đến đền th́ kẻ trộm chỉ việc nâng cửa ra khỏi bản lề và tha hồ lấy đồ dự trữ của chúng tôi. Và sau đó họ chỉ việc cho cửa vào lại bản lề và buổi tối hay bất cứ lúc nào khi chúng tôi về th́ ổ khóa và niêm phong c̣n nguyên. Kể từ đó chúng tôi niêm phong luôn mặt kia của cửa và không c̣n bị mất trộm thức ăn nữa.

Trong thời gian đó th́ một tháng rưỡi đă trôi qua và vị tỉnh trưởng Tsaparang, có lẽ ông đă trên đường đến Shipki, không nhắn gửi ǵ chúng tôi cả. Có thể đến Shipki không thấy chúng tôi, ông sẽ gửi người đi Tsaparang xem ra sao.
 
Lúc đó có thể thêm một tháng trôi qua và phần lớn công việc của chúng tôi đă xong. Mặt khác cũng có thể lúc đó các ngọn đèo Himalaya đều bị tuyết phủ và lúc đó có bắt chúng tôi đi Ấn Độ cũng không được. Đối với chúng tôi th́ chuyện xảy ra cũng không sao, miễn là công việc có tiến triển.

Khoảng giữa tháng mười hai th́ có chuyện chẳng lành xảy ra. Một chiều nọ một vài người xem ra thô lỗ đến Tsaparang và ngủ tạm trong hang của Wangdu, cả đêm họ uống rượu và la ó.
 
Sáng hôm sau có một người đàn ông mặt mày tối om, mắt chột (về sau người ta kể gă bị mất một mắt trong một vụ bắn nhau ở Tschang-Thang) đến báo là vị tỉnh trưởng ra lệnh chúng tôi phải rời Tsaparang và ông có lệnh hộ tống chúng tôi đến đèo biên giới.

V́ các bản sao bích họa mới xong phân nữa, chúng tôi nói với ông là sẵn sàng đi, chỉ xin tỉnh trưởng cho thêm ít ngày để làm cho xong. Để tranh thủ thời giờ, tôi vội viết cho tỉnh trưởng một lá thư và nhờ một người trong bọn mang đi. T
 
ôi cũng không chờ đợi thư chấp thuận nhưng đoán là cả tuần sau th́ người đưa thư mới về lại. Vị tỉnh trưởng, theo lời các người trong bọn kể, đă từ Shipki về lại và hiện đang ở hành dinh chính tại Schangscha.

Đúng như tôi đoán. Sau một tuần người đưa thư về lại và nhờ đó mà chúng tôi hoàn thành được công việc. Li đă làm xong bản vẽ đời sống Đức Phật, c̣n tôi đă sao lại hầu hết tất cả các bích họa trong ngôi đền trắng cũng như phần lớn tượng trong đền đỏ.
 
Ngoài ra Li cũng làm được ấn bản của một loạt tranh các buổi lễ khánh thành đền, nhờ đó mà ta có h́nh dung rơ nét về những người đă xây dựng hai ngôi đền. Chỉ một ngày sau khi người đưa thư về, hai ngôi đền bị niêm phong theo lệnh của tỉnh trưởng.
 
Đó là một ngày buồn rầu cho chúng tôi, hôm đó chúng tôi cử hành rước lễ trước những bức tượng vàng của Phật, những tượng mà mỗi ngày đều gây cảm hứng suốt ba tháng nay và cúi nh́n chúng tôi mỉm cười từ bi. L
 
úc này, lúc phải từ giă tượng, chúng tôi thấy như xa người bạn quí nhất. Đối với chúng tôi, tượng là hiện thân sinh động của trí huệ và từ bi. Tượng khiến ḷng chúng tôi tràn ngập sự tinh tấn và phấn khởi, chúng tôi đă làm việc dưới sự bảo vệ của tượng.
 
Các tượng đó đă giảng pháp bằng tiếng nói không lời về cái đẹp bất hủ nằm trong tim chúng tôi, cái đẹp đó sẽ sống măi dưới dạng linh ảnh của thành tựu cao quư nhất. Chúng tôi rời các ngôi đền với ḷng biết ơn sâu xa. Chúng tôi đă làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh và không thế lực nào của thế gian có thể cướp đi những ǵ chúng tôi đạt được.

 

 KHÁM PHÁ ĐƯỜNG ĐÁ BÍ MẬT VÀ ĐỀN MAN-ĐA-LA



Sau khi các đền bị niêm phong, lần đầu tiên chúng tôi có thời giờ để đi xem phế tích và các vùng lân cận đồng thời có dịp vẽ và chụp h́nh. Không thiếu những cảnh hấp dẫn và xinh đẹp và v́ công việc chính đă hoàn thành, chúng tôi yên ḷng theo đuổi những ư thích sáng tạo riêng. Đó là cách hay nhất để quên nỗi buồn chia xa và bớt đi sự trống rỗng trong ḷng.

Trong lúc Li lo vẽ cảnh gần tháp thờ ở mặt sau vùng đá núi Tsaparang th́ tôi xem xét lại các phế tích nằm phía trên các ngôi đền, chạy dài gần đến chân đỉnh đá thẳng đứng mà trên đó ngày xưa là các lâu đài vua chúa đứng dựng trên bầu trời trông rất kiêu hănh và gần như không thể đạt tới.

Tôi cứ măi nghĩ đến một bí mật nào đó nằm trong các cung điện hoang tàn này và hẳn phải là lư do tại sao viên tỉnh trưởng không cho ḿnh ở đây lâu. Chắc ông lo ngại ngày nào đó chúng tôi sẽ t́m ra phương tiện và cách thức leo lên đến đỉnh núi đá hay con đường bí ẩn nào mà ông muốn giấu.

Ư tưởng này nằm trong đầu tôi khi đi quanh trong các con đường dọc ngang của ṭa nhà đổ nát cho tới lúc tôi đứng trước một vách tường đá và nghĩ là sẽ bỏ ư định t́m ṭi. Tôi vừa định quay về th́ để ư ba tảng đá nằm chồng lên nhau dưới chân núi và tôi bỗng thấy rằng chúng không thể t́nh cờ nằm chồng như thế, nó phải có bàn tay con người.

“Thế nhưng với mục đích ǵ?”, tôi tự hỏi. Phải chăng để làm dấu hay bảng chỉ đường hoặc có mục đích trực tiếp hơn: bậc thang cho một nơi nào đó khó tới. Tôi leo đứng lên các tảng đá và với tay lên trên th́ tay đụng một lơm núi mà đứng phía dưới không thấy được.

Và tôi níu tay leo lên, đạp chân lên đá, tay kia lại đụng một mỏm đá khác, cứ thế mà lần lượt tôi leo lên đến bờ của vách đá. Trên đây tôi thấy ḿnh dứng nơi phần dưới của một hẻm núi bị nước mưa xói ṃn và nhiều sỏi trơn trợt. Tôi trèo qua đống sỏi và đến một hẻm núi có bậc thang mà tôi tin chắc nó là đường dẫn lên các cung điện cũ của vua chúa.

Niềm vui của tôi kéo dài không lâu v́ bậc thang sớm biến mất trong cảnh hoang tàn nên tôi lạc lối trong phế tích. Cuối cùng lại thấy ḿnh ở cửa vào. Giải pháp duy nhất c̣n lại là cứ theo hẻm núi đầy sỏi và đá đổ mà đi.

Nhờ đó mà không lâu tôi thấy một hẻm núi có bậc nữa, c̣n nguyên vẹn hơn cái trước và dẫn đến một cao nguyên mà từ đây nền đá trung tâm của Tsaparang vọt thẳng lên cả trăm mét. Tôi t́m không thấy một chỗ nào có bậc thang. Thế là vị tỉnh trưởng có lư khi nói đường vào cung điện và đền đài đă bị phá hủy.

Khi đă đến đây rồi ít nhất tôi cũng t́m xem vài hang động nằm dưới chân đỉnh đá, với hy vọng c̣n dấu tích ǵ của bích họa, đồ gốm hay h́nh tượng ǵ, thường có trong động, nhưng cũng không thấy ǵ.

Thế nhưng tôi lại thấy cái ḿnh ít chờ đợi nhất; một trong những động chính là cửa vào của một đường hầm, sau một đường cong th́ nó ngoằn ngoèo dẫn đi ngược lên cao, có khi đi sát bờ tường có ánh sáng lọt vào.

Tôi theo đường hầm, tim đập th́nh thịch. Càng leo lên cao, tôi càng háo hức chờ đợi và đồng thời cũng càng lo ngại nếu phải lọt vào một đường cùng hay giờ cuối bị trở ngại th́ tất cả đều là toi công.

V́ thế nên tôi càng mừng lúc hết đường hầm ra lại thấy ánh sáng mặt trời và thấy ḿnh đang đứng trên đỉnh Tsaparang, chỗ mà suốt một thời gian chúng tôi nghĩ là không lên được. Cảnh quang nh́n từ đây ra là phần thưởng cho công khó leo lên.

Tôi thấy Tsaparang nằm trên đỉnh đá, đỉnh này được cắt khỏi rặng núi bởi hai lũng sâu và hai lũng này chảy dài tới sông Langtschen-Khambab. Mặt trên của sông là một vùng núi đá lởm chởm in đậm nét trong bầu trời xanh. Nó giống như một loạt những giáo đường kiểu gô-tích với tháp đá và đỉnh nhọn hoát. Phía sau lô nhô những đỉnh tuyết và mặt trời rực rỡ màu sắc hiện ra trong vắt.

Tôi hầu như đứng giữa một man-đa-la mênh mông gồm những dạng h́nh và màu sắc siêu nhiên; đó là trung tâm của những sắc h́nh có mối liên hệ mật thiết với nhau; hầu như nó là tiêu điểm của mọi sức mạnh của trời đất, sức mạnh đó đă tạo h́nh cho cảnh vật xung quanh.

Theo nguyên lư kỷ hà này mà mọi chốn thiêng liêng và trung tâm uy lực được xây dựng; trong đó yếu tố tâm linh luôn luôn đóng góp vai tṛ chủ đạo, phù hợp với quy luật thiên nhiên và ư niệm thiện mỹ của con người. Những lâu đài của vua chúa hoàng tộc chính là pháo đài của ḷng tin và chốn thiêng liêng của các thần bảo hộ, nơi mà công chúng không được vào, chỉ dành cho người đă được quán đỉnh, đă được huấn luyện chuẩn bị hàng năm trời.

Với ư thức đó, tôi đi quanh phế tích của đền đài cung điện, chúng là chứng nhân thầm lặng của một quá khứ lớn lao chiến thắng và thảm kịch, niềm say mê của con người và lư tưởng, tham vọng quyền lực và ḷng xả thân tôn giáo.

Một sự yên lặng hầu như đáng sợ ngự trị nơi đây, chỗ nằm giữa trời và đất và có lẽ tham dự vào cả hai nơi; vào cái niềm vui của cảm khái thiêng liêng và cái khổ tận cùng do tham vọng và quyền lực của con người gây ra.

Tôi đi như trong mơ, như dệt trong một thực tại bốn chiều của quá khứ và tương lai và bỗng nhiên đứng trước một cánh cửa khép hờ của một ṭa nhà c̣n nguyên vẹn hoàn toàn, nó được giữ lại như một phép lạ giữa cảnh hoang tàn.

Với một cảm giác kỳ lạ, tôi bước vào trong sự yên tĩnh của căn pḥng mờ mờ, trong đó như hiện diện cái bí ẩn của hàng trăm năm, số phận một quá khứ uẩn khúc hầu như muốn bày tỏ cho tôi. Khi mắt tôi dần quen với bóng tối th́ những ǵ ḿnh đoán đă thành sự thực.

Tôi đang đứng nơi chốn linh thiêng nhất của một ngôi đền bí ẩn, chỗ điểm đạo, đó là nơi mà man-đa-la của “niềm an lạc cao quí nhất” xuất hiện trước kẻ được quán đỉnh, chỗ thấy được báo thân các vị thiêng liêng và biểu tượng của vũ trụ.

Lần đầu tiên tôi được tới với thế giới ẩn mật này là lúc có mặt Tomo Géché Rimpotsché và dưới sự hướng dẫn của ông th́ đó là một sự chứng thực sinh động đối với tôi. Tôi dành một năm để học tập về man-đa-la này, trong thời gian đó nó là trung tâm của đời sống tâm linh của ḿnh.

Thế nhưng hồi đó tôi cũng biết ḿnh chưa mở được tấm màn che đậy phép tu ẩn mật nhất này của Mật tông. Trong thời Liên Hoa Sinh, nó đă đưa vào Tây Tạng và trở thành một trong những phép tu truyền thừa cổ và quan trọng nhất, được giữ ở mức cao cấp cho các trường phái của Phật giáo Tây Tạng, từ Nyingmapa cho đến Gelugpa.

Man-đa-la chứa đựng toàn bộ các bước h́nh thành thế giới tâm linh, xuất phát từ trung tâm sâu kín nhất của thức, sự phát triển thành sắc h́nh từ cái không vô tướng và vô tận thông qua những chủng âm của các năng lực của dạng h́nh.

Và nhờ sự kết tinh của các biểu hiện then chốt của chúng, mà màu sắc và h́nh dạng hiện lên trong một h́nh ảnh trung tâm của vũ trụ, h́nh đó cứ tiếp tục rung động thành ṿng tṛn lan măi để hiện thành thế giới vật chất.

Trung tâm đích thực và phi thời gian của thế giới đó được thể hiện bởi núi Tu-di, nó là trục tĩnh tại, là mặt cắt đầy đủ nhất của vũ trụ, trong đó h́nh ảnh của các cơi sinh tồn đều có mặt, từ các cơi thiên cho đến các thế giới khác, các cơi mà các tầng lớp ư thức càng lúc càng mạnh mẽ và trong suốt.

“Một thế giới của những cái nhỏ h́nh thành, ngập đầy những năng lực uyên nguyên, trong vũ trụ th́ tác động như năng lực vũ trụ, trong con người là sức mạnh thể chất và tinh thần.

Trong sự tŕnh bày chi tiết đó, phần lớn những kích thước đều lấy từ các giáo pháp tâm linh hay các huyền thoại. Vài kích thước đó đều chung nhất và rơ ràng đến mức người ngoài cuộc cũng có thể thấy được tính chất vĩ đại của những sự sáng tạo, cho họ cảm nhận được rằng, ḿnh đang tham dự vào một màn kịch tâm linh lớn, nó cho ta ḷng cảm khái cao nhất và quí nhất.

Lĩnh vực cao nhất của tầng lớp ư thức nói trên được biểu hiện bằng một ngôi đền thiêng làm bằng chất liệu thanh tịnh và quí báu và chứa man-đa-la của “niềm an lạc cao quí” và của sự chứng thực toàn vẹn nhất của tâm giác ngộ, trong đó nó chiếm vị trí trung tâm của bậc cấp.

Nơi trung tâm của man-đa-la thực tại cao nhất được diễn tả bằng sự giao ḥa nhất thể của thần Demtschog và dạng trí tuệ siêu việt của ngài được biểu diễn bởi nữ thần Dorje Phagmo.

Với mười hai tay chân của cặp nam nữ thần, đó là biểu hiện của “mười hai nhân duyên”, thần Démtchog xé tấm da voi của vô minh; với bốn khuôn mặt biểu hiện của tứ đại chiếu rọi trong bốn màu, thần thâm nhập và bao trùm bốn hướng của không gian với bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả.

Mỗi khuôn mặt có ba mắt, v́ cái nh́n của thần đi suốt ba cơi (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) và ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai). Thân của thần có sắc xanh, nó biểu hiện tính vô tận, thường c̣n và nhất thể của không gian bao trùm mọi sự; tức là nguyên lư của Tính Không bao trùm và hiện hữu thường hằng, là gốc của mọi thực tại.

Thân của Dorje Phagmo có sắc đỏ, biểu tượng ḷng quên ḿnh năng động v́ lợi ích của tất cả chúng sinh. Thần chỉ có một khuôn mặt, biểu thị sự vắng bóng mọi ảo giác che đậy. Hai vị thần ôm chặt lấy nhau, biểu hiện sự không tách ĺa của thân và tâm sự nhất thể của trí huệ và đại lạc.

Và tất cả những h́nh tượng thiên thần khác, nằm trên các bậc cấp khác, quanh vị nam thần nữ thần đại diện cho trí tuệ của ḿnh, các vị đó là phản ánh các cấp bực khác nhau của thực tại.

Tất cả chư vị đều quên ḿnh trong vũ điệu của vũ trụ, diễn tả cái an lạc cao quí nhất, xuất phát từ sự hợp nhất của Bát Nhă (prajna) và phương tiện (upaya), tức là của trí tuệ và sự chứng thực của nó thông qua h́nh động từ bi.

Mỗi một h́nh tượng này đều hiện thân cho một tính chất hay mức độ trên đường thành tựu, đạo lộ đó diễn tả các bước trong phép thiền quán sâu xa và bao trùm này.

“Ta phải làm ǵ để biến linh ảnh thiền định thành sự thực? Mỗi h́nh dung phải được sinh động bằng cách tiếp đầy sức sống và năng lực.

Mỗi vị thần phải sống thực, mỗi năng lực sử dụng trong thiền định phải trở thành khả năng cao nhất. Toàn thể cơ cấu của man-đa-la này phải rung lên đầy sức mạnh, đủ khả năng bắt liên hệ với các sức mạnh lớn lao trong vũ trụ, chúng vốn chỉ bị thu nhỏ lại trong mỗi kẻ thiền định đơn lẽ.

Đối với đầu óc tâm linh th́ vũ trụ chứa đầy tư tưởng của thần linh, đầy những sức mạnh của ư chí lớn, đầy những dạng h́nh mang thức, chúng miên viễn chiếu rọi trong không gian và chính là bản chất của thế giới.

“Thế giới chỉ là một tư tưởng trong đầu thượng đế. Người ta phải cần tu học hàng năm để đạt sức mạnh của cái thấy (của linh ảnh) và để cho thiền quán này sống lại với mọi chi tiết trong dạng một bản kịch nội tâm.

V́ mục đích này, nhiều mô h́nh của man-đa-la được xây dựng lên, trong đó vũ trụ tâm linh được tŕnh bày lại với đủ chi tiết. Người ta đă vẽ lại hàng trăm h́nh tượng thần thánh và ma quỉ, từ những ngôi đền trang hoàng đày vàng ngọc trên đỉnh Tu-di đến tám nơi thiêu xác, chỗ của thần chết và của quán đỉnh.

Trong đó du già sư và các vị tất địa đă tái sinh và chuyển hóa tâm linh; trong dó họ sống lại quá tŕnh chết và sự chiến thắng ảo giác của cái chết: v́ muốn tái sinh, người ta đă quán đỉnh phải qua ngưỡng cửa cái chết.

Trong lúc nghiệm lại những điều này, tôi đứng trên bậc cửa đền và hồi hộp nh́n vào phía trong tối đen. Nhưng điều ǵ đă xảy ra? Những h́nh tượng nhiều vô số của các thần thánh ngày xưa vốn nằm trên man-đa-la bây giờ nằm ngổn ngang quanh và trên bục.

Rơ ràng chốn thiêng liêng này đă bị một đội quân nào tàn phá khi Tsaparang thất thủ, sau sự sụp đổ của triều đại Guge. Thế nhưng lực lượng tàn bạo không hủy được không khí thiêng liêng của thánh địa này được.

Tôi mở thật rộng cánh cửa đền nhưng ánh sáng vẫn không đủ để có thể chụp h́nh các bích họa. Thế nhưng trong số những h́nh tượng nằm lăn lóc dưới khung man-đa-la là một tượng Heruka bốn tay (một dạng của thần Demtschog), được một không hành nữ (53) đầy trí huệ Khadoma ôm chặt, và h́nh tượng này diễn tả ḥa nhập trọn vẹn giữa từ bi và trí huệ để đạt tới đại lạc.

H́nh tượng này quá tuyệt diệu nên tôi mang nó trả lại cho các tượng khác của man-đa-la v́ tôi tin rằng với thời gian cả đền lẫn tượng không chóng th́ chầy sẽ bị tiêu hủy. Thế nhưng điều đáng mừng là ít nhất cũng ghi được một phần của vẻ đẹp vô thường lên phim, để làm kỷ niệm cho tôi và cũng làm chứng nhân cho hậu thế.

Trước khi đóng cửa đền, tôi nh́n lại lần cuối thánh địa và đọc thần chú, qua đó nội dung của man-đa-la được sống dậy và tái chứng nghiệm, chính là câu thần chú đă vang lên cách đây một ngàn năm tại chốn này, câu thần chú đă sinh ra linh ảnh để ngôi đền này được ra đời.

Ḷng chắc rằng những dấu vết cuối cùng của man-đa-la sẽ sớm mất đi, tôi cảm tạ ḿnh đă được nh́n thấy nó và có cơ hội được sống lại cái tinh thần đă xây dựng và ban phép trong đền. Tính thiêng liêng của các chốn này không phải nhờ tôn tạo bên ngoài mà có, mà nhờ hành động quên ḿnh nội tâm và sự tập hợp tâm thức mà chỉ qua đó, sức mạnh sáng tạo của thần chú mới biến thành hiện thực.

Tôi ra lại ngoài để thấy ánh sáng mặt trời, ḷng đầy niềm vui cảm tạ là niềm mơ ước cuối cùng tại Tsaparang đă được thực hiện và trách nhiệm phải làm nơi đây đă hoàn thành.

Trước khi trở về qua đường hầm đá, tôi nh́n lai một lần nữa phong cảnh khoáng đăng, phế tích của kinh đô cũ và các lũng sâu xung quanh. Sâu dưới chân, tôi thấy một bóng người đang cử động vfa đó là Li, đang vẽ cạnh tháp thờ dưới chân núi. Tôi gọi Li quên nghĩ tới cái nguy bị ai khám phá.

Li nh́n quanh ngạc nhiên không biết tiếng gọi từ đâu cho đến khi nh́n lên và thấy tôi đứng bên bờ núi đá. Li ra hiệu tôi đừng cho ai biết ḿnh trên đó và người của viên tỉnh trưởng có thể đang đi t́m chúng tôi. Hy vọng không ai nghe tiếng ḿnh, tôi biến mất vào đường hầm và đi nhanh xuống núi.

V́ Li cũng muốn xem Demtschog-Lhakhang nên ngày hôm sau tôi cùng Li leo lên lại và mặc dù tôi đă đánh lạc hướng các người của viên tỉnh trưởng bằng cách đi theo lối khác, nhưng họ đă nghi và gửi Wangdu đi kiếm chúng tôi.

Thế nên chúng tôi vừa ra khỏi Demtschog-Lhakhang sau khi Li vội chụp một số h́nh th́ Wangdu xuất hiện ở cuối đường hầm đá, nét mặt đầy bối rối. Rơ ràng là viên tỉnh trưởng đă cấm Wangdu không cho chúng tôi biết đường lên đỉnh và t́m mọi cách ngăn cản đến viếng những đền đài xưa.

Việc Wangdu nhiều lần phủ nhận có đường lên đỉnh Tsaparang là bằng chứng đầy đủ cho chuyện đó rồi. Thế nên chúng tôi nói với ông là tỉnh trưởng sẽ không biết chuyện này nếu ông không nói ǵ lại cho ai nghe.

Điều này rơ ràng làm ông yên ḷng và chiều hôm đó ông c̣n vui ḷng chỉ cho chúng tôi xem đền Yamantaka, chỗ mà chúng tôi cố tránh v́ đă hứa với vị tỉnh trưởng chỉ làm việc ở các đền chính có các vị thần “hiền lành”.

Sau kinh nghiệm tại Tholing, chúng tôi biết rơ nỗi sợ của viên tỉnh trưởng là sẽ bị thần phạt nếu cho người lạ vào chốn linh thiêng nằm ngay phía trên đền đỏ và nơi này luôn luôn đóng cửa.

Không những đây là trú xứ các vị hộ pháp đầy uy lực và đáng sợ, mà chỗ đó c̣n có những tượng bằng kim loại đem về từ những đền và tháp thờ hư hại khác của Tsaparang. Ngôi đền nhỏ đó thực chất là một kho báu gồm những đồ đồng tinh tế nhất mà chúng tôi từng thấy.

Nhất là các công tŕnh về các vị thần phẫn nộ nhiều tay với nhiều nữ nhân quấn quưt xung quanh cho thấy tŕnh độ toàn hảo trong việc tạo tác nghệ thuật trên kim loại mà ít nơi nào có được, nó xứng đáng đạt tŕnh độ cao cấp của nghệ thuật.

Thế nhưng những công tŕnh nghệ thuật đó, một số được mạ vàng kỹ lưỡng, lại bị vất trong những pḥng nhỏ và tối của điện nên Li chỉ chụp được một số ít. Dù vậy chúng tôi cũng mừng v́ đă nh́n thấy được một phần lớn vật này.

Bây giờ không c̣n ǵ phải làm hơn là xếp đồ đạc và chuẩn bị một chuyến đi dài ngày về hướng Ấn Độ. Thật khó từ giă nơi này nhưng nỗi buồn mà chúng tôi cũng giảm đi khi nghĩ rằng ḿnh đă làm tất cả trong khả năng cho phép và cố gắng đó đă được đền đáp.

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 796 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 6:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
SÁU NGÀY TRÊN SÔNG ĐÓNG BĂNG



Chuyến đi trên dăy Himachal Pradesh nằm phía tây Tây Tạng, mà ở giữa là những tiểu quốc Ấn Độ, là một chuyến đi nguy hiểm giữa mùa đông. Nó có thể chấm dứt bằng một tai họa nếu tôi không từ chối kế hoạch của ông bạn chột mắt của viên tỉnh trưởng đi theo đến biên giới.

V́ muốn làm xong việc càng sớm càng tốt, ông cố đi con đường ngắn nhất và đẩy chúng tôi vào vùng không người ở bên kia biên giới, mặc cho chúng tôi có thể nguy khốn v́ thiếu lương thực, chỗ ăn ở và thiếu phương tiện chuyên chở.

Ông lấy lư do là con đường thường đi đă bị tuyết phủ kín và không c̣n cách nào khác hơn cách đó để đi Ấn Độ. Cũng may là trước khi rời Ấn Độ chúng tôi có nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ biên giới Ấn-Tạng, thường không bán, chỉ dành cho cơ quan nhà nước, và chụp bản sao.

Nhờ thế mà tôi kịp thời khám phá ra mối nguy hiểm này. Tôi từ chối kế hoạch của ông và nhất định đi hướng của thương nhân thường đi và nếu cần, đợi hết tuyết mới qua đèo.

Nếu giữa tháng mười hai mà gọi Tsaparang là lạnh th́ chúng tôi sớm biết đây là ấm và dễ chịu so với cái lạnh tê cóng và ngọn gió cắt da khi phải đi trên vùng núi non. Cái lều bằng vải dù của chúng tôi vẫn được xem là chắc và kín gió bây giờ không che chắn ǵ được cả.

Chúng tôi không có nhiệt kế, nhưng hai mươi độ âm chắc phải đúng trong tối hôm đó. Vải dù bị cóng cứng lại tới mức mà hôm sau phải cố gắng hết sức mới cuốn xếp lại được. Ngoài ra tay chúng tôi cóng cả, mỗi cử động là đau nhức.

Ngay cả hành động dễ nhất như lấy máy ảnh ra khỏi túi da và vặn ống kính, cũng nhọc nhằn làm chúng tôi hầu như mất ư muốn chụp h́nh. Toàn bộ năng lực của chúng tôi chỉ dồn vào việc giữ được mạng sống và đi.

Ban đêm chúng tôi phải mang đôi ủng Tây Tạng nặng nề nếu không chân sẽ bị cóng và sáng hôm sau không thể xỏ chân vào ủng đă cứng v́ cóng. Chúng tôi ngủ với mũ che tai, đắp tất cả chăn chỉ chừa môt lỗ nhỏ ở mũi để thở. Sáng hôm sau hơi thở chúng tôi đă thành một thỏi băng trên chăn.

Cũng không thể dùng khăn tay hay giấy để chùi mũi được nữa. Râu tôi đă thành một tảng băng, thỉnh thoảng tôi lại phải bẽ băng nằm dưới mũi ḿnh làm việc đó cần một cái búa có lẽ hay hơn một chiếc khăn tay.

Người của viên tỉnh trưởng vừa là hướng đạo vừa giúp việc, được chúng tôi trả tiền hậu hĩ nên ông ta cứ đến lũng nào có người là đi đánh bạc và uống rượu một thói quen mà khi mới đến Tsaparang chúng tôi đă biết ông. Có lúc ông uống nhiều tới nỗi suốt cả ngày không thấy mặt mũi đâu cả và cuối cùng ông đi mất luôn và chúng tôi phải thuê người khác.

Một người tên Scherab trong những tháng tới đây; anh là người giúp việc trung thành và tư chất rất tốt; khiến anh thành bạn thật sự của chúng tôi. Anh lo lắng cho chúng tôi từng li từng tí, không ngại khó, miễn làm sao cho chúng tôi được dễ chịu và không bị trấn lột.

Anh không bao giờ nghĩ tới cái lợi của riêng ḿnh. Sau kinh nghiệm của chúng tôi với Wangdu và người của viên tỉnh trưởng, sự hiện diện của anh là một món quà trời cho. Nhất là lúc phải ở lại cả tháng trời tai một làng Tây Tạng nhỏ trước biên giới v́ tuyết đổ, chúng tôi rất quí sự có mặt của anh.

Sự lưu trú bất ngờ này thực tế là một phước lành v́ lũng này mà xung quanh là núi tuyết bao bọc, thật như một thiên đường giữa hai thế giới, trong dó chúng tôi sống ba tháng với niềm hạnh phúc không chút mờ tối, giữa những người đơn giản và dễ thương và dưới chân của vị thầy Tây Tạng cuối cùng của ḿnh.

Trước khi đến ốc đảo b́nh an này, chúng tôi phải trải qua một chuyến hành tŕnh nửa tháng. Khi đến gần tuyến đường chính th́ chúng tôi đă nghe nói nó bị đóng cửa rồi. Chưa có cơ hội kiểm tra tin này thực hư thế nào th́ dân làng, kẻ mang tin đó lại, cho hay họ sẵn sàng đưa chúng tôi qua hẽm núi của sông Langtschen Khambab đă đóng băng và mang hành lư cho.

Chỉ có mùa đông mới có thể đi trong hẻm này được, nó rất hẹp và sâu và dễ bị đá đổ, không có đường đi giữa gịng thác chảy mạnh và vách núi hai bên. Thế nên ta có thể đi thông qua nó khi gịng nước bị đông cứng, mà lúc đó cũng không thể cho trâu hay ngựa theo được.

Sau đó chúng tôi biết nguyên do; ở đây không có đường ṃn nào dẫn xuống lũng ngoài con đường bên thác với mực nước cao trên hai ngàn mét.

Ngoài ra không có thú vật nào có thể đi trên băng v́ nước chảy mạnh, và khi đóng băng nó không cho một mặt bằng phẳng mà gợn sóng, có nơi lổm ngổm những tảng băng. V́ thế chúng tôi buộc phải thuê khoảng hai mươi người trong lũng để mang hành lư, nơi mà chúng tôi ở lại hai ngày qua.

Gần làng này có một tu viện nằm ở một vị trí tuyệt diệu, trên đỉnh của một chỏm núi bơ vơ, nh́n qua tưởng như có một sức mạnh khủng khiếp, nó lôi núi lên từ trạng thái lỏng và sau đó nó hóa thành đá. Tên của tu viện là Pekar Gompa. Pekar là tên một vị thần trước khi Phật giáo du nhập, được xem là hộ pháp trong vùng và được Phật giáo giữ lại.

Người của viên tỉnh trưởng sau khi biến mất vài ngày bây giờ đă xuất hiện lại, xem ra không muốn liều ḿnh trong hẽm núi của Langtschen-Khambab và chắc cũng sợ không về nhà kịp trước cuối đông nếu tuyết đổ ập th́nh ĺnh, nên từ giả chúng tôi với nước mắt lưng tṛng.

Có thể trong bụng ông nghĩ là chúng tôi cũng không qua khỏi hiểm nguy, cũng có thể v́ hôm đó ông uống rượu nhiều quá chăng. Dù ǵ đi nữa, chúng tôi cũng mừng thoát khỏi ông và tiếp tục ra đi với số người khác vui vẻ và thân thiện mà chúng tôi cảm giác yên ḷng hơn với họ mặc dù không biết ngày mai sẽ ra sao.

Hiểm nguy của thiên nhiên đối với chúng tôi không đáng sợ bằng sự bất ổn của thói lưu linh. Khi cách làng vài dặm nằm cạnh lũng sâu, chúng tôi trượt xuống một hố cát, đáy tới lũng, thấp hơn cả ngàn mét so với chỗ phát xuất.

Tới đây th́ chúng tôi mới rơ ḿnh đă làm một điều là không thể đi lui được nữa. Không thể nào từ đáy lũng mà leo ngược lên cồn cát dựng đứng đó là chưa kể mang theo hành lư.

Tôi không biết ḿnh phải làm thế nào, giả sử con suối không đủ đông cứng để chịu sức nặng hành lư và sự va chạm khi người khuân vác ngă lên trên. Dù không mang vác cũng đă khó giữ thăng bằng trên băng rồi nên người ta chỉ đi vài bước lại té ngă.

Nên chúng tôi không đi được nhiều và buổi tối chúng tôi dựng lều bên một bờ có nhiều sỏi. Trong đêm này lần đầu tiên chúng tôi thấy hơi ấm dễ chịu, nhờ chỗ không cao và kín gió, một phần nhờ trời đang chuyển; trên cao trời đang kéo mây.

Chúng tôi tận hưởng cảnh mặt trời lặn rất đẹp và xung quanh lều láng chúng tôi là một thứ cỏ vàng, tắm ḿnh trong một ánh sáng ấm dễ chịu, nó làm quên khó nhọc đă qua và sự bất định sắp tới. Ḷng chúng tôi đầy một cảm giác hạnh phúc không giải thích được, như trong mơ, quá khứ và tương lai như tan biến đi và chỉ c̣n lại ư thức về cảnh đẹp vây quanh là có thật.

Như trong lũng “lâu đài mặt trăng”, chúng tôi cảm nhận một sự ḥa hứng cao độ, trong thế giới quen thuộc của chúng ta hầu như không tồn tại nữa, để ta có cảm giác giải phóng khỏi những ǵ đă qua và những cái sắp tới mà không c̣n quyết định cũng như trách nhiệm với chúng.

Và nhờ thế mà tận hưởng cái hiện tiền: thế giới nằm quanh đây, trong đó chúng tôi tự ḿnh quyết định lấy ḿnh, như ḿnh là người duy nhất trong vũ trụ. Sự kỳ diệu của một chuyến du hành gồm những điều cảm nhận khó lư giải và tính huống bất ngờ như thế, hơn xa hẳn những con số cụ thể và kết quả vật chất mang lại.

V́ thế chỗ nghỉ trại này đọng lại trong kư ức như một “trại hè” mà chúng tôi đặt tên cho nó trước khi đi ngủ, dù ngay giữa mùa đông. Sáng hôm sau chúng tôi ngạc nhiên xiết  bao khi thức dậy thấy xung quanh tuyết rơi đầy, đúng là cảnh vật mùa đông.

Chúng tôi dụi mắt, dần dần tỉnh dậy từ giấc mơ mùa hè, cố gắng thích nghi với thời tiết mới. Liệu có tiếp tục được chuyến đi hay không, nếu không th́ sao? Thế nhưng những người đi cùng xem ra không chút bận tâm. H́nh như họ ngủ trên tuyết cũng say và sung sướng như chúng tôi ngủ trong lều.

Chúng tôi phải khâm phục sự cường tráng và cách nhận chịu vui vẻ mọi t́nh huống của họ và thấy họ như vậy, ta yên ḷng hơn nhiều. Dù tuyết rơi, không khí vẫn dễ chịu. Điều này cho thấy một lần nữa, tại Tây Tạng khi trời rất lạnh th́ tuyết ít rơi và khi tuyết rơi th́ đó là dấu hiệu của thời tiết dịu, đáng mừng.

Trong cái lạnh khắc nghiệt của non cao, trong đó tất cả đều đông cứng mà lại vắng bóng tuyết, chúng tôi ngạc nhiên thấy trong vùng nhiều tuyết này mà lại ít lạnh hơn. Thường thường khi thấy cảnh vật mùa đông này th́ chúng tôi lại lạnh thấu xương sống Li sinh tại Bombay gần biển và lớn lên tại đó, c̣n tôi phần lớn đời ḿnh sống vùng nhiệt đới.

Các bạn Tây Tạng của tôi vẫn hưởng tuyết vui vẻ suốt thời gian đi trong lũng sâu. Khi chúng tôi đến một nơi có ít cây mọc mà dân Tây Tạng vùng rẻo cao không bao giờ thấy, họ trầm trồ rằng nơi đây có nhiều gỗ và dừng lại đốt một đống lửa to, hát ḥ nhảy múa suốt đêm. Chúng tôi cũng vui theo và nướng bánh thật nhiều trong đêm đó.

Tất cả đều trở thành một gia đ́nh hạnh phúc. Cảnh vật thật tuyệt vời: lửa cháy bập bùng ngay giữa tuyết, quần áo nhiều màu của mọi người chen giữa màu đá dwis những cành cây tuyết đọng, tất cả diẽn ra trong cảnh hoang vu của núi rừng mà uy lực và vẻ đẹp hoang sơ của nó tương phản trực tiếp với cái vui bé nhỏ của con người.

Đó là nhóm người vui vẻ nhất trong chuyến hành tŕnh của chúng tôi và các phụ nữ trẻ tuổi xem ra cũng không biết mệt như cánh đàn ông, dù suốt ngày họ mang vác nặng nề đi trên băng hay sỏi.

Tất cả họ đều ngủ trên tuyết tự nhiên như trên giường nệm, chỉ đắp hai miếng lông trừu, mặt lông lật vào phía trong. Giữa miếng lông đó, họ ngủ hoàn toàn trần truồng, quần áo được bó lại thành gối, đó là một tục mà chúng tôi thấy nhiều nơi khác ở Tây Tạng. Có lẽ họ thấy chúng tôi ngủ mà mặc áo quần cũng kỳ quái lắm.

Tuyết mà ngày đầu chúng tôi nghĩ là trở ngại lớn bây giờ ngược lại là cái thuận lợi và dễ đi hơn trên băng nhiều, không hay bị té ngă, nhưng mặt khác chúng tôi cũng phải cẩn thận hơn để tránh những khe nứt nằm ẩn trong tuyết.

Xuống sâu thêm th́ gịng suối đă lỡ băng, có lẽ v́ nước chảy mạnh hơn và ai đă bước lên đó th́ hết phương giải cứu v́ nước sẽ cuốn trôi đi. May là không ai trong chúng tôi bị ǵ và sau sáu ngày đi trên gịng sông đóng băng, chúng tôi đến làng Tyak mà gần đó là nơi sinh của Rintschen Sangpo. Ra khỏi khe núi, phải nói chúng tôi rất buồn v́ đă chấm dứt chuyến phiêu lưu và nhất là phải xa những người bạn đồng hành.

Chỉ Sherab là ở lại với chúng tôi để lo liệu kiếm thêm người và trâu. Bây giờ chúng tôi ở trên trục đường chính nên không c̣n ǵ để ngại nữa. Tại Shipki, chúng tôi không thấy bóng dáng của viên tỉnh trưởng Tsaparang đâu cả mặc dù đă cố tính cắm lều gần nhà khách của ông, một ṭa nhà khiêm tốn mà công chức Tây Tạng làm chỗ ở tạm thời.

Chúng tôi vượt qua đèo Shipki không chút khó khăn mặc dù c̣n nhiều tuyết và xuống đến b́nh nguyên Poo hạnh phúc, một thiên đường bé nhỏ; bấy giờ vào khoảng cuối tháng giêng.

 

THUNG LŨNG HẠNH PHÚC




Poo cũng như mọi làng khác của Tây Tạng và con người ở đây cũng như người Ấn phía bên kia đèo Shipki, chỉ biên giới chính trị giữa hai nước Ấn Độ - Tây Tạng là chạy trên đỉnh đèo. Biên giới này không quan trọng ǵ đối với dân ở hai phía, họ nói cùng thứ tiếng, cùng một tôn giáo, lui tới với nhau không trở ngại, trong lúc hầu như họ không liên lạc ǵ với dân chúng phía Ấn Độ của dăy Himalaya, cách Poo năm ngày đường.

Chúng tôi hy vọng t́m nơi đây một trạm bưu điện, nhưng được nghe ở đây mỗi tháng mới có nhân viên bưu điện người Ấn đi qua một lần. Và khi hỏi bao giờ th́ ông ta đến, chúng tôi được nghe trả lời: “Đầu năm khi đèo Himalaya mở lại”. “Khi nào mới mở’, chúng tôi lo ngại hỏi. “Ô, khoảng ba tháng nữa!”.

Điều đó có nghĩa phải bốn tháng sau chúng tôi mới đến được b́nh nguyên Ấn hay một thành phố lớn; v́ từ đây mà đi Simla cần phải một tháng mới tới. Điều này thật ra cũng chẳng sao, nếu tiền bạc và lương thực của chúng tôi chưa cạn.

Làm sao sống trong những tháng này? Thế nhưng điều này không thành vấn đề đối với một ông già tốt bụng, ông là người quản lư cho một nhà khách dành cho công chức của Sở lao động, họ là người có trách nhiệm tu bổ con đường xuyên đèo Shipki.

Ông già tự lấy quyền cho chúng tôi được ở trong nhà khách này v́ chúng tôi không liên hệ được với Sở. “Và nếu ông bà cạn tiền", ông nói thêm, “tôi đưa cho ông bà thêm. Ông bà trả lại cho tôi lúc bưu điện đến hay bao giờ cũng được”.

“Nhưng chúng tôi là người lạ và không có chứng minh ǵ”, chúng tôi nói và nghe ông trả lời: “Trách nhiệm của tôi là giúp ông bà, ngoài ra tôi tin ông bà”.

Tên ông là Namgyal và dù bên ngoài không khác ǵ dân trong làng ông mặc chiếc áo thô, bện tay bằng sợi không nhuộm màu và đầu đội chiếc mũ tṛn nhỏ mà dân chúng vùng Himalaya thường đội nhưng ông được dân trong vùng kính trọng gọi là lạt ma Nyingma và là người sùng tín và hiểu biết sâu sắc.

Ông xem chúng tôi như người trong gia đ́nh “v́ tất cả chúng ta”, nhưng ông nói, “đều là Aryakula, thuộc về ḍng dơi cao quư của Phật”. Ông không bỏ một cơ hội nào để nói với chúng tôi và Scherab về các vấn đề đạo lư, thậm chí mang đến nhiều kinh sách thiêng liêng, tài sản quí báu nhất của ông, để chúng tôi được đọc.

Trong số đó có Tử Thư (Bardo Thodol), Mani Kahbum và những tác phẩm nói về thời kỳ đầu của Phật giáo Tây Tạng, nhất là trong thời kỳ của Liên Hoa Sinh va ba vị vua lớn Srongtsen Gampo, Tisong Desten và Ralpatschan. Ngoài ra ông kể nhiều mẫu chuyện dân gian, thường đọc cho chúng tôi nghe những đoạn trong sách mà sau đó ông giảng rất kỹ.

Cuốn Mani Kahbum gây ấn tượng sâu xa lên Scherab. Một buổi sáng nọ anh đến chúng tôi, nước mắt đầm đ́a; lư do là anh đọc về số phận của những người đă gây ác nghiệp về hại sinh vật. Anh thú nhận cũng làm ác như vậy v́ đă đặt bẫy chồn cáo.

Chúng tôi an ủi anh, nói rằng không tội nghiệp nào mà không hóa giải đi khi trái tim đă chuyển. Anh hứa sẽ không bao giờ làm chuyện đó nữa và xúc động nghe Namgyal nó về ḷng đại từ bi của Phật và những hành động vị tha trên đường chứng ngộ Phật quả.

Ngày nọ Namgyal mời chúng tôi về nhà và chỉ cho thấy pḥng thiền định, bàn thờ với nhiều tượng và tranh thanka, và ṭa lạt ma dưới một ṿm lụa ngũ sắc. Vợ ông là một người đàn bà nhỏ thó với một khuôn mặt tinh tế có thần. Bà hát cho chúng tôi nghe những bài ca tôn giáo với một giọng hay và dịu dàng khiến ta quên tuổi của bà.

Cũng như chồng, bà là người thờ cúng Liên Hoa Sinh không ai khác hơn là Thích-Ca Mâu-Ni trong dạng mới và trong những hiện thân khác, hiền từ hay phẫn nộ, tùy theo suy nghĩ của con người. Ngài luôn luôn là người hộ tŕ và dẫn dắt, cứu độ khỏi tai nạn và gây cảm khái cho người thực hành thiền định.

Ngài cũng lấy dạng h́nh của chúng. Có lần ngay giữa mùa đông, cảnh vật đầy tuyết, chúng tôi bỗng nghe tiếng chim hót, Namgyal nói giọng nghiêm túc: “Ngài đó”.

Người ta nói rằng cứ ngày mồng mười mỗi tháng theo lịch Tây Tạng, Liên Hoa Sinh giáng hạ trong thế gian và đệ tử của Ngài sẵn sàng tiếp nhận Ngài trong tâm thức của ḿnh dù Ngài có xuất hiện dưới dạng nào.

Vô số mẫu chuyện về Ngài được truyền miệng và được kể lại với sự sinh động như mới xảy ra gần đây. Không ai hiểu Liên Hoa Sinh là người của quá khứ xa xôi, hay người mới rời lũng này ra đi và bất cứ lúc nào cũng có thể về lại. Lần đầu tiên chúng tôi ư thức tác đông ghê gớm mà Liên Hoa Sinh đă để lại cho dân Tây Tạng.

Ngài hẳn phải là một trong những người có nhân cách mạnh mẽ nhất của lịch sử Phật giáo. Những chuyện thần kỳ quanh Ngài chỉ là kết quả của ḷng tôn thờ vô biên của học tṛ và dân chúng đối với Ngài.

Đối với chúng tôi trong thời gian tại Poo, Liên Hoa Sinh sinh động hơn lúc nào cả, kư ức c̣n mới như ngày hôm qua Ngài c̣n nơi đây.

Nhiều vị lạt ma lớn thường qua đây, hoặc đi từ Tây Tạng đến các thánh tích tại Ấn hay từ Ấn về tại Ngân Sơn. Một trong những vị đó là Tomo Géché Rimpotsché mà Namgyal nhắc tới với ḷng ngưỡng mộ.

Hiển nhiên là người Tây Tạng nhạy cảm đối với các vấn đề tâm linh hơn so với người phương Tây. Họ chưa mất khả năng chuyện tṛ với những sức mạnh từ vô thức của ḿnh, hay nghe hiểu tiếng nói của chúng được hiện ra trong giấc mơ hay các hiện tượng khác.

Ngày nọ Nymgyal tới và cho hay nằm mơ thấy cầu vồng hiện trên nhà khách của chúng tôi và đây chỉ có thể là một dấu hiệu tốt đẹp, thí dụ có vị đạo cao đức trọng nào đến thăm. Quả nhiên này hôm sau có một lạt ma đến và trọ tại nhà nhỏ bên ngoài nhà chúng tôi.

Chúng tôi thấy ông từ xa lúc ông xuống ngựa; cả người và ngựa xem ra như đến từ một chuyến đi dài, mệt nhọc. Áo của vị lạt ma đă cũ, bạc màu, con ngựa chậm chạp ngơ ngác. Người ta cho hay vị lạt ma mới đi hành hương xa về và phải ở đây cho đến khi đèo mở lại.

Trời lạnh và nhiều mây nên chúng tôi không ra khỏi nhà. Ngày hôm sau, vị lạt mà và Namgyal đến thăm chúng tôi. Chúng tôi vui mừng và ngạc nhiên xiết bao khi nhận ra đó là vị sư trưởng tại Phiyang mà chúng tôi đă xúc động giă từ tại Tsaparang và nghĩ không bao giờ gặp lại.

Lần đó chúng tôi rất buồn v́ nghĩ rằng lẽ ra ḿnh học được nhiều nơi người này, nhất là về phép tu thiền định. Chúng tôi thấy số ḿnh thật xui, khi vừa nghĩ tới điều này th́ ông cũng vừa ra đi.

Không rơ lạt ma Phiyang có biết sẽ gặp lại chúng tôi hay không, nhưng điều chắc chắn là lần đó ông đă đọc được ư nghĩ của chúng tôi; v́ bây giờ, trước khi chúng tôi nói lên ước muốn của ḿnh, ông tự nguyện đề nghị sẽ dạy cho chúng tôi phép tu Mật tông sadhana và phép du già liên quan.

V́ pḥng ở chúng tôi lớn hơn chỗ ở của ông và nhờ Scherab đốt ḷ sưởi ấm nên hàng ngày ông cùng Namgyal (bây giờ trở thành bạn đồng môn của chúng tôi) đến chỉ dạy các phép thiền định và chỉ giáo về các vấn đề. Đó thật là một thời gian hữu hiệu; v́ thầy của chúng tôi hết sức t́m cách chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của ḿnh.

 Vị đạo sư mới đă tiếp tục và hoàn thiện công tŕnh của Tomo Géché Rimpotsché và Adscho Rimpotsché. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Và ḷng biết ơn này bao trùm cả bạn đồng môn Namgyal cũng như Scherab trung thành, người đă lo cho tôi như lo cho một đứa con trai để theo đuổi chuyện tu học mà không gặp trở ngại.

Khi tin lạt ma Phiyang đến và ở lâu tại Poo tới tai dân chúng, nhiều người t́m đến và xin ông ban phước lành; và cuối cùng nhân dân trong làng xin ông cử hành một buổi lễ tséwang. Buổi lễ này được tổ chức ngay trong sân giữa pḥng ở của ông và nhà khách của chúng tôi.

Vài ngày trước buổi lễ ông rút về pḥng riêng làm chúng tôi tiếc là không được gặp hàng ngày như trước nhưng chúng tôi cũng hiểu là ông cần một thời gian hoàn toàn tĩnh lặng và tập trung để hô triệu sức mạnh trong người ḿnh, sức mạnh mà ông muốn trao truyền cho người khác.

Sau một thời gian th́ h́nh như có một lạt ma khác đến với ông, chắc để giúp ông cử hành buổi lễ sắp tới; v́ chúng tôi nghe một tiếng nói trầm dài của giọng mới nhiều trong pḥng ông. Tiếng tụng kinh trầm dài của giọng mới thỉnh thoảng bị tiếng nói của lạt ma Phiyang cắt, nhưng ông lẫn vị lạt ma mới đến không hề ra khỏi pḥng.

Chúng tôi rất ṭ ṃ muốn biết vị mới đến là ai, nhưng không ai trả lời được cả. Một hai ngày sau lúc đi ngang qua cửa pḥng vị lạt ma Phiyang, chúng tôi lại nghe tiếng lạ đó và v́ cửa đang mở nên chúng tôi không nhịn được nh́n vào.

Thật là ngạc nhiên không thấy ai ngoài lạt ma Phiyang. H́nh như ông không để ư đến chúng tôi đang có mặt, và tiếng nói đó phát ra trầm và mạnh từ ông, như một người khác đă dùng ông mà nói.

Ngày lễ đến, người ta xây một cái ṭa trong sân giữa hai nhà. Ṭa này nằm trước một bức tường được trang hoàng cẩn thận, phần sân c̣n lại mang cờ đuôi nheo nhiều màu.

Lạt ma Phiyang với đầy đủ trang phục của một vị sư trưởng ngồi trên ṭa, đầu đội mũ cao màu đỏ như các vị chức sắc trong phái Nyingma và Kargyutpa. Không ai nhận lại ra ông là khách hành hương già mà ngày hôm trước có thể bị tưởng là một tu sĩ khất thực chứ không phải là một vị sư trưởng của một tu viện.

Người ngồi trên ṭa có dáng điệu và cử chỉ của một vị chúa tể và tiếng nói của một con sư tử. Nét mặt ông có vẻ như nét mặt của một nhà tiên tri đầy cảm khái và mỗi cử chỉ của ông đều bày tỏ cái uy lực và sự cao quí.

Ai có mặt nơi đây đều cảm nhận rằng không những ông đang hô triệu một uy lực vô h́nh mà chính ông là hiện thân của uy lực đó một uy lực mà ông tự xây dựng trong người ḿnh và tăng cường nó lên tột độ trong một trạng thái thiền định liên tục và sâu lắng, tự đồng hóa với một khía cạnh đặc biệt của một thực tại siêu việt.

Ông là hiện thân của vị Tsépamé, Phật vô lượng thọ. Những ǵ mà trong nội tâm ông đă chứng nghiệm bấy giờ đă thấy được, cảm được cho những ai tham gia buổi lễ, giữ họ trong mối liên hệ. Nhịp điệu của thần chú và những ấn quyết bí ẩn kèm theo hiện ra như những nút của một tấm lưới huyền bí, trong đó người nghe ḥa làm một thể thống nhất, bị cuốn hút trong một trung tâm vô h́nh.

Cảm giác của sự tham gia huyền bí lại được nâng cao hơn khi mỗi người được nhận phươc lành của Vô lượng thọ Phật được ấn khả trong nước phép và một loại bánh phép màu đỏ, được xem là “rượu và bánh của sự sống”.

Đó là buổi làm phép đẹp nhất mà chúng tôi từng được tham dự, v́ nó do một người cử hành, người đó đă quên đi bản thân con người ḿnh để biến nó thành b́nh chứa của năng lực siêu nhiên.

Chưa bao giờ mà ư nghĩa của việc tế lễ tâm linh (đặc biệt cho công chúng) đối với tôi sâu sắc như thế này. Một buổi lễ nếu được cử hành bởi một người đầy đủ khả năng nhờ tu học tâm linh và ḷng thành kính để hướng tới một mục đích cao quư.

Sẽ kêu gọi được trái tim cũng nhưng ư thức hiểu biết, đưa con người tiếp xúc trực tiếp với một đời sống phong phú và sâu xa, vượt trên lĩnh vực của lư luận, lĩnh vực của suy tư cá nhân và giáo điều tập thể

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 797 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 8:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
QUÁN ĐỈNH LẦN CUỐI


Sau buổi lễ tséwang, lạt ma Phiyang tiếp tục giảng giải hàng ngày cho chúng tôi và lần cuối cùng ông thực hiện hai buổi lễ điểm đạo Mật giáo.
 
Nó làm trọn vẹn các buổi điểm đạo trước của chúng tôi và mở ra nhiều khí cạnh khác của phép tu thiền định thuộc về trường phái cổ nhất của Phật giáo Tây Tạng là Nyingmapa. Nhờ vậy mà chúng tôi hiểu được các dạng xuất hiện hay các khía cạnh ẩn mật khác nhau của Liên Hoa Sinh.

Trong những cuộc điểm đạo này, tất cả các trung khu được động viên, một quá tŕnh mà tôi có mô tả một phần trong tác phẩm Cơ sở đạo học Tây Tạng. Những dạng xuất hiện khác nhau của Liên Hoa Sinh phụ thuộc nơi mức độ của tâm, từ đó Ngài được nh́n thấy hay chứng thực.

Tên Ngài “sinh từ đóa sen"đă chứng tỏ cái sinh thành tâm lư xuất phát từ hoa sen, tức là từ các trung khu, trong phút giây giác ngộ hay thực chứng về Ngài. Sự chứng ngộ này phải được mỗi đệ tử thực hiện lại, cho tất cả những ai đă được quán đỉnh v́ giáo pháp và con đường dẫn đến giải thoát của Ngài.

Thế nên lạt ma Phiyang không phải chỉ là người thầy Tây Tạng cuối cùng của chúng tôi mà ông c̣n cho cái dịp vô song là nắm được sự toàn thể và ḥa điệu của truyền thống Phật giáo Tây Tạng bằng chính kinh nghiệm của ḿnh một truyền thống với đặc trưng của bốn ḍng lớn Nyingmapa, Sakyapa, Kargyutpa và Gelugpa, mà mỗi ḍng sống Phật giáo đó đóng góp kinh nghiệm quí báu của ḿnh.

Dù cho có vài tu viện lớn tranh nhau về ảnh hưởng chính trị (một dấu hiệu khó tránh của uy quyền), th́ những giá trị có tính nguyên tắc của các ḍng đó vẫn được thừa nhận.

Các vị chủ trương đổi mới như A-đề-sa, Tsongkapa và các vị khác không hề phủ nhận các trường phái cũ mà chủ trương một sự tổng hợp các giáo phái và chỉ trích những sai trái của tu sĩ các ḍng, những người đă đánh mất tŕnh độ và lư tưởng của ḿnh. Các vị đổi mới đó chủ trương thiết lập tŕnh độ và lư tưởng của ḿnh.

Các vị đổi mới đó chủ trương thiết lập lại tŕnh độ tu chứng và sự ḥa ḿnh toàn diện của mỗi người vào trong đời sống tâm linh.

Trước khi lạt ma Phiyang ra đi, ông tổ chức một buổi lễ cúng lửa, lễ sám hối thanh lọc bằng lửa, trong một chừng mực nhất định nó ngược lại hay cũng có thể nói bổ túc cho tsewang là lễ thanh lọc bằng “nước thánh”.

Lễ này, được gọi là méwang, có hai điều đặc biệt: có sự tham dự bất ngờ của các địa thần và người tham dự đều nhúng ḿnh trong lửa nhưng không bị phỏng.

Lễ được cử hành đơn giản nhưng chính xác và gây ấn tượng. Trong lúc tụng đọc thần chú, lạt ma Phiyang cầm trên tay trái một b́nh đựng lửa và tay phải ném bột nhang (làm từ vỏ cây mọc trong vùng) xuyên qua lửa đang cháy. Bột nhang được ném cháy bùng lên về phía mọi người đang tụ tập, đưa mọi người vào trong lửa, nhưng nó tắt ngay không gây thiệt hại ǵ.

Quan trọng là phần đầu của buổi lễ và trong giai đoạn này th́ các vị địa thần xuất hiện. Lễ này nhằm chống lại và diệt các lực lượng tối tăm bằng lửa cúng dường, lửa được đốt trên man-đa-la của năm vị Thiền Phật.

Man-đa-la được tŕnh bày trong một đồ h́nh sáu cạnh, do hai tam giác đều lồng vào nhau, được bao lại bằng một h́nh vuông mà bốn góc được bảo vệ bởi đao trừ tà h́nh lưỡi liềm với chốt kim cương.

Gỗ được chất cẩn thận xung quanh man-đa-la. Tất cả đều nằm trên một ṭa cao trong sân của điện Mani, đó cũng là tâm điểm của làng. Ṭa của lạt ma nằm giữa điện và bàn thờ lửa, mọi người đứng thành ṿng tṛn quanh bàn thờ.

Trong phần đầu của buổi lễ, vị lạt ma vẫn ngồi yên trên ṭa, ông đọc thần chú hô triệu thần linh và vung đao trừ tà khắp mọi hướng. Sau đó ông xuống ṭa và đốt lửa, thỉnh thoảng rưới thêm dầu hay bơ vô lửa, nó cho một ngọn lửa trong không khói.

Ông vừa đi quanh đống lửa vừa đọc thần chú hô triệu với một nhịp điệu nghiêm trang. Dù tuổi đă cao và áo choàng nặng nề ông vẫn di chuyển với một dáng vẻ uyển chuyển, mỗi bước đi, mỗi cử động đều ḥa với nhịp điệu của thần chú.

Giọng tụng rất trầm của ông không bao giờ bị tán loạn, cử chỉ không bao giờ ngắt quăng, tất cả đều nằm trong một nhịp điệu đều đặn. Thân ông như có một sức mạnh nâng đỡ, nằm dưới một t́nh trạng tập trung không ǵ lay chuyển được.

Giữa vũ điệu thiêng liêng đó, bỗng nhiên trong giới người tham dự xuất hiện sự chuyển động, đó là những người ngồi dưới chân các miếu thờ nằm bên cạnh quăng trường. Bỗng một người cao lớn đứng dậy, tay chân run rẩy, mắt mở trừng trừng và đi như kẻ mất hồn.

Mọi người xung quanh có vẻ sợ sệt và chúng tôi cảm giác có điều ǵ bất thường không dự kiến trước xảy ra có lẽ có những lực lượng nào vô h́nh đang tranh đấu với nhau. Phải chăng sức mạnh tối tăm cảm thấy ḿnh bị thách thức và vùng dậy chống lại năng lực của ánh sáng?

Cử chỉ của người đó ngày càng hung tợn và có ai th́ thầm: “Ông bị thần ám rồi”. Rơ là ông đă bị ám và không ai dám cản khi ông tiến gần tối bàn thờ lửa, đứng trước mặt lạt ma một cách khiêu khích và giễu cợt, bắt chước làm theo cử động của vị lạt ma này. Nếu người này phá hỏng buổi lễ th́ hậu quả xấu sẽ xảy ra. Hầu như hai sức mạnh đang đối đầu, đọ sức với nhau. Sự căng thẳng tăng lên tới mức chịu không nổi.

Thế nhưng vị lạt ma không hề bước sai nhịp, không ngớt tụng niệm, vẫn đi trong nhịp điệu của ḿnh như không hề bị phá rối; và con người bị ám đó chỉ là một bóng ma không có thực chất. Bây giờ người này tăng thêm sức mạnh quấy phá và đưa cho lạt ma một ít vải vụn, giấy vụn mà ông giật từ miếu thờ, thứ mà nhiều người đem đến để cúng tế. Vị lạt ma tiếp nhận các thứ đó và cho từng miếng vào lửa.

Như con cọp sổ lồng, người bị ám quay về miếu và lấy hết sức ḿnh táng đầu vào nền đá miếu, máu vọt ra. Thật là một ấn tượng hăi hùng và chúng tôi lo ngại đầu óc người đó phải vỡ nát.

Các người đứng gần t́m cách ôm lại, không cho ông tự tử, c̣n các người khác chạy lui chạy tới, t́m rượu và vũ khí để xoa dịu vị thần linh, vị đă nhập vào ông. Vợ người đàn ông ̣a khóc. Tất cả mội chuyện h́nh như xảy ra ngoài sự kiềm tỏa của con người.

Lúc đó th́ vũ điệu cúng tế đă dứt và vị lạt ma giải thích lư do có sự quấy phá. Người ta cho hay các vị địa thần tại đó chống lại buổi lễ v́ từ xưa nay các vị đă ở quăng trường này rồi, trước cả khi Phật giáo du nhập. Vị lạt ma hiểu ngay vấn đề và đồng ư cho thần linh được nói qua miệng của người đàn ông nọ, người được xem là đồng cốt cho các vị, để họ nói ư kiến của ḿnh.

Sau đó th́ huy hiệu của các vị được mang tới, trong dạng những vũ khí khác nhau, người đàn ông được cho một ly rượu. Ông uống cạn ly, đâm thủng hai má bằng một que sắt và để hai thanh kiếm lên mặt đất, chĩa lên trời. Ông cho hai đầu kiếm đâm vào khóe trong của mắt ḿnh và tựa toàn thân lên gươm.

Chỉ một chút động đậy hay mất thăng bằng th́ hai mắt của ông sẽ bị chọc thủng và kiếm sẽ xuyên có ông. Thật là một cảnh biểu diễn rùng rợn! Nếu chưa từng thấy cảnh tương tự tại Aissaouas ở Bắc Phi th́ tôi chỉ có thể nói đây là tṛ ảo thuật.

Sau khi người đồng cốt đă thực hiện mọi sự thử thách để chứng minh niềm tin và ḷng thiết tha của ḿnh, xem ra thần linh đă vui ḷng sẵn sàng nói chuyện. Người đó ngồi xuống, tay chân c̣n run rẩy nhưng sau đó bắt đầu b́nh tĩnh, và thần linh bắt đầu nói.

Họ nói rằng, mặc dù đây là trú xứ chính thức của họ, nhưng không được hỏi ư hay mời đến tham dự buổi lễ. Nếu hỏi xin th́ họ đă vui ḷng cho phép, nhưng v́ không ai làm động tác lễ độ tối thiểu này nên họ giận dữ.

Lạt ma Phiyang, người bị chê trách, trả lời với sự tỉnh giác và b́nh tĩnh rằng ông không có chủ ư muốn loại bỏ ai ra ngoài buổi lễ, v́ mọi chúng sinh các cơi đều được mời đón. Thế nhưng nếu ông biết chỗ này đă có các vị thần ở th́ không những ông phải xin phép và được sự đồng ư các vị đó, mà c̣n mời các vị tham gia buổi lễ.

Ông xin các vị đó thứ lỗi cho sơ sót này và xin các vị đồng ư cho hoàn thành buổi lễ để giúp lợi ích của những người sống trong vùng. Các vị thần nhận lời xin lỗi, đồng ư cho tiếp tục buổi lễ và sau đó không c̣n trở ngại ǵ nữa.


NGƯỜI THỢ RÈN LÀM ĐỒNG CỐT




Sau buổi lễ cúng lửa, chúng tôi t́m hỏi về người bị thần linh nhập và người ta cho hay đó là một người thợ rèn, người được thần lựa làm đồng cốt sau khi người trước (cũng là thợ rèn) chết đi.

“Lựa như thế nào?” chúng tôi hỏi, “người đó phải rất sùng tín hay có khả năng tâm linh ǵ đặc biệt hay có xu hướng làm chuyện đó”. “Không, ông là một người b́nh thường. Một thời gian sau khi người kia chết, tự nhiên có ngày ông bị ám và từ đó ông trở thành người cho thần linh nói chuyện”.

Rơ ràng trong làng luôn luôn có một người để thần linh sử dụng và người đó phải nhận trách nhiệm này. Phần lớn những người này thuộc nghề thợ rèn. Phải chăng những ai hay dính đến lửa và kim loại là đặc biệt phù hợp để tiếp nhận ảnh hưởng của các năng lực tâm linh.

Hay đây chỉ là truyền thống thời tiền sử để lại, thời mà đồ sắt đồ đồng được h́nh thành từ đất đá để đưa con người qua một kỷ nguyên mới? Thời đó kim loại được xem là có ma lực và tính chất huyền bí hay những ai “giải thoát” kim loại ra khỏi tù ngục của đất đai, biến nó từ thể rắn thành thể lỏng và thay đổi h́nh dạng nó, phải là đạo sư của ngành huyền học.

Trong chuyện này Heinrich Zimmer nói về “thợ rèn huyền bí’, người đă giải thoát thế giới ra khỏi thời kỳ đồ đá: “Người anh hùng rút cây kiếm ra khỏi đá, không nhất thiết phải là một chiến sĩ lớn mà là nhà huyền học đầy uy lực, chúa tể của mọi sự tâm linh và vật chất.

Truyền thống thời tiền sử này h́nh như vẫn tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, châu Phi cũng như trong các bộ tộc Ấn Độ giáo vùng nam dăy Himalaya, nếu ta chỉ muốn nhắc tới hai thí dụ. Truyền thống này không liên hệ ǵ đến tôn giáo, chỉ tuân thủ quy luật tâm lư vốn xưa cũ hơn mọi tôn giáo mà trong đó mọi sức mạnh tiềm ẩn của thiên nhiên cũng như của tâm lư con giác ngộ phải được đánh thức.

Tôi t́m thấy hiện tượng lạ này nơi người Aissaouas, một bộ phái Hồi giáo huyền bí tại Bắc Phi, mà thành viên của họ (phần lớn làm nghề đồ sắt đồ đồng) mỗi ngày thứ tự tụ nhau trong một đền thờ đặc biệt dành riêng cho phép tu xuất thần.

Lúc c̣n trẻ, tôi sống một thời gian với họ, mặc áo quần truyền thống của người Ả rập và v́ thế có dịp tham dự các phép tu của họ. Họ không chống đối những người có tín ngưỡng khác, miễn là người ta cũng tôn trọng tôn giáo và tục lệ họ.

Mặc dù dạng xuất thần do tự họ tạo nên nhờ những phép hô triệu, với tiếng trống và xập xỏa cũng như cách uốn éo thân người chầm chậm kèm theo, tác dụng của nó cũng rất giống với phép cúng lửa mô tả ở trên với dạng xuất thần của người thợ rèn: khi t́nh trạng xuất thần đến th́ hầu như có một sức mạnh khác chen vào và thân người làm đồng cốt không có ǵ làm tổn thương được nữa.

Ta gọi sức mạnh này là ǵ, điều đó không quan trọng dù gọi là Allah hay khả năng đặc biệt của tâm thức bao trùm vũ trụ, nơi đó cốt tủy mọi sinh vật đều tham gia và chỗ mà con người khi bỏ được cái ngă nhỏ bé sẽ ḥa nhập vào mà điều hệ trọng duy nhất là tâm thức có sức mạnh lên vật chất, ngay cả trong dạng thô thiển, dạng mà sức mạnh này biểu lộ ra trên b́nh diện hoang sơ của con người.

Đối với người Aissaouas th́ những ai thường lặp lại tên thượng đế (Allah) không nghĩ ngợi đến điều ǵ khác, mà nhờ đó có sự hiện diện của Ngài, người đó sẽ không bao giờ bị bách hại. Điều đó làm niềm tin họ thêm sâu sắc và là sự xác nhận chung quyết cho sự giải thoát của họ.

Buổi lễ bắt đầu với lời cầu khẩn Allah ḥa theo nhịp trống. Trong lúc đó người tham dự chia làm hai hàng đứng đối diện nhau, lắc lư qua lại, những người trong một hàng choàng tay qua nhau nên cả hàng được xem như có một thân duy nhất.

Dần dần có người tách ra khỏi hàng, cởi bỏ áo ngoài và ở trần; và chủ lễ đưa cho ông một trong những món vũ khí treo sẵn trên tường. Phần lớn loại vũ khí này là những que sắt dài ngắn khác nhau, cán là một h́nh bán cầu bằng gỗ.

Mục đích của cán gỗ sẽ rơ khi ta thấy chủ lễ lấy búa gỗ đập lên cán đó để đóng những que sắt vào trong người của những đồng cốt, lần lượt từ người này đến người khác. Thật là hăi hùng khi thấy cảnh que sắt đóng dần dần vào da thịt những người này, nhưng xem ra họ không thấy đau và lạ nhất là không chảy một giọt máu nào cả.

Tôi đă có dịp đứng xem thật gần một người, lúc que sắt xiên qua má ông và lọt qua má bên kia mà không đổ một giọt máu. Về sau tôi nghe người ta nói, máu chỉ chảy lúc đồng cốt không đạt được mức bất khả xâm phạm và điều này cho thấy ḷng tin không sâu hay anh ta không tập trung đầy đủ lên thượng đế.

Có người c̣n để cho nhiều cây sắt đâm ngang và chúng nằm trên vai, ngực, lưng trong lúc người bị đâm tiếp tục nhảy múa xuất thần cho đến khi họ kiệt sức ngă gục. Họ gục xuống chỗ nào th́ nằm yên chỗ đó, chủ lễ ném một chiếc khăn trắng trên người họ. Theo tinh thần buổi lễ, họ đă chết và sau đó sẽ được chủ lễ gọi hồn sống lại, bằng một thần chú thiêng liêng th́ thầm vào tai.

Có nhiều dạng khác nhau của phép tưởng như tự hành xác đó, nó nói lên sức mạnh của ḷng tin và ḷng xả thân tuyệt đối v́ thượng đế; v́ ư niệm then chốt ở đây không phải là chịu cái đau mà là ḷng tin mạnh hơn cái đau đớn của thân thể. Tôi nhớ lại cảnh một người đàn ông cho toàn người ngă lên lưỡi kiếm, tưởng chừng như muốn mổ bụng, mà da ông không hề hấn ǵ cả.

Thế nhưng đáng sợ hơn những chuyện này là biến người thành thú như heo, chó, trừu. Tôi không muốn nói thân họ thành thú nhưng ư thức, cử động, toàn thể con người đă như con thú. Họ chạy bốn chân, và những ai biến thành trừu th́ ăn lá cây gai ngon lành, không bị thương tích. Kẻ khác ăn miểng chai, nuốt ḅ cạp sống… khiến người xem lợm giọng.

Cuối cùng toàn thể ngôi đền trở thành ma quái với những con người nhảy múa, kẻ ở trần bị xiên sắt đâm ngang, những con vật ḅ quanh và khắp nơi là những “xác chết”. Một trạng thái xuất thần điên loạn hầu như tóm lấy người xem và tăng cường tới mức mà ḿnh muốn giữ b́nh tĩnh cũng nguy.

V́ mỗi ai không tham gia vào sự xuất thần này được xem là một vật thể lạ, một chướng ngại, là người phủ nhận và chống lại t́nh trạng tâm thức xuất hồn đang ngự trị và đáng để cho đao kiếm của một kẻ cuồng tín đâm thủng. Chỉ vị chủ lễ là xem ra không bị t́nh trạng xuất thần xâm chiếm.

Cuối cùng khi tất cả, kể cả những kể giống như thú, kiệt sức gục trên sàn và được che bởi khăn liệm th́ ngôi đền như một băi chiến trường đầy xác người chết. Vị chủ lễ đi từ thân này qua thân khác, nói nhỏ vào tai họ vài câu thần chú và họ từ từ ngồi dậy, người này sau người kia, hầu như không có ǵ xảy ra. Và sau khi vị chủ lễ rút xiên sắt ra th́ một vết sẹo nhỏ cũng không có.

Về sau khi tôi hỏi, tại sao con người trong t́nh trạng xuất thần không vươn lên một mức độ ư thức cao thấp mà lại cam chịu làm thú, người ta giải thích đó là một hành động nhẫn nhục; v́ ta tự hạ ḿnh bao nhiêu th́ sự chứng ngộ Allah càng to lớn vĩ đại bấy nhiêu.

Tôi hiểu suy nghĩ này tới một mức nhất định nhưng không thể chia sẻ quan điểm này với họ. Như mỗi đức hạnh, th́ ḷng nhẫn nhục và tin tưởng sẽ hết là đức hạnh khi làm tới mức thái quá.

Lạt ma Phiyang đă cho thấy hành động đầy cảm thông và rộng lượng trong t́nh h́nh khẩn cấp của buổi lễ cúng lửa, ông là một đại biểu xứng đáng của con đường trung đạo và có tri kiến sâu xa trong tự tính của tâm thức con người.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 798 of 2534: Đă gửi: 14 September 2008 lúc 8:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 
 
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
 
GIĂ TỪ TÂY TẠNG


Khoảng cuối tháng tư chúng tôi được tin đèo đă mở và con đường thương nhân đi lại được đào ra từ tuyết vốn bị phủ kín suốt mùa đông. Thời điểm của chia tay đă gần kề và khi chúng tôi lo thu xếp đồ đạc để chuẩn bị lên đường về hẳn Ấn Độ th́ lạt ma Phiyang về lại tu viện của ông tại Tsaparang.

Trước khi chia tay, ông muốn chúng tôi ngày nào đó phải đến lại Tây Tạng và lưu lại một thời gian với ông. Ông cho chúng tôi một cuốn soldeb, cuốn sách cầu nguyện rất đẹp, xem như món quà cuối và chỉ dẫn thêm để tâm chúng tôi luôn luôn gần ông, mỗi lúc nhắc đến ông.

Sáng ngày ông đi, chúng tôi tiễn bằng cách đi theo vài dặm để tỏ ḷng biết ơn và thành kính. Thế nhưng ông cương quyết từ chối hành động này và nhất định chỉ đi một ḿnh. Chúng tôi nghe lời ông, cúi thấp ḿnh trước ông và nhận phước lành lần cuối.

Tất cả chúng tôi kể cả Scherab đều đầy nước mắt khi bóng ông từ từ khuất trên con đường hẹp: một khách hành hương cô đơn, nghèo hơn lúc đến v́ con ngựa đă chết cách đó vài tuần. Khi gặm cỏ trên sườn núi gần nhà, con ngựa chột này đă lăn xuống vực sâu.

Hành lư nghèo nàn của vị đạo sư, người đă cho làng rất nhiều bằng sự hiện diện của ḿnh và ḷng phụng sự quên ḿnh, bây giờ được vài người trong làng tự nguyện mang giúp đến chặng tới.

Khi dáng người cô đơn đă khuất, tôi về lại nhà và tụng đọc cuốn sách để bớt đau buồn. Và kỳ lạ thay, không biết tại sao, tiếng nói trầm của vị đạo sư thoát ra từ ngực tôi! Li và Scherab nghe thế ngạc nhiên chạy lại và tôi nghe họ gọi:

“Thầy về lại rồi à”. Thế nhưng họ chỉ thấy ḿnh tôi và tôi chỉ biết nói: “Chỉ tiếng nói thôi”. Kể từ đó tiếng nói của ông trở lại khi tôi nghĩ đến ông, vị lạt mà Phiyang yêu kính.

Sau nhiều chậm trễ, cuối cùng đoàn người chúng tôi đă xong và sẵn sàng lên đường. Chúng tôi yêu cầu Scherab đi theo, nhưng anh ngại xuống đồng bằng. Ngay trong mùa đông mà khi làm việc (ví dụ chẻ củi) anh luôn luôn ở trần. Anh cho Poo là ấm và độ cao 3000 m là thấp nhất với anh, không dám xuống sâu hơn.

Anh xem chúng tôi như cha mẹ và sẵn sàng phục vụ bất cứ cách nào; nhưng anh sẽ chết nếu xuống vùng thấp hay đi đồng bằng Ấn Độ, như nhiều người cùng xứ, đi rồi không bao giờ về.

Ngày chúng tôi ra đi, anh khắc trên một bản đá thần chú của Quán Thế Âm “OM MANI PADME HUM”. Chúng tôi cùng đi với anh đến bức tường mani, nơi anh đặt miếng đá và cầu nguyện mong trong kiếp sau được tái sinh cùng với chúng tôi để tiếp tục phục vụ.

Sau đó anh quay nhanh người, giấu nước mắt và đi không ngoảnh lại. Trước đó anh đă nói là sẽ đi rất nhanh, không quay lại v́ nếu không tim anh sẽ vỡ.
Người cuối cùng từ giă chúng tôi là bạn thân và đồng môn, Namgyal. Tôi ôm ông và chúng tôi cám ơn những ǵ ông dành cho.

Rồi chúng tôi rời thung lũng “thiên đường” và trở lại với thế gian, không hề biết rằng giờ định mệnh của Tây Tạng đă điểm và sẽ không bao giờ gặp lại… tất cả chỉ c̣n trong mơ. Thế nhưng chúng tôi biết rằng, thầy của chúng tôi, cả báu vật của kỷ niệm mà đất nước này đă tặng cho, sẽ lưu lại với chúng tôi đến cuối đời ḿnh.

Nếu chỉ trao truyền được một phần báu vật đó và giáo lư của các vị đạo sư cho thế gian th́ chắc chắn chúng tôi có được niềm vui là đă trang trải lại đôi chút ḷng biết ơn mà chúng tôi nợ Tây Tạng và các vị thầy tâm linh.

Đó chính là lư do mà tôi viết cuốn sách này; và chúng tôi quyết sẽ dùng phần c̣n lại của đời ḿnh để hoàn thành tác phẩm mà số phận đă trao cho chúng tôi tại Tsaparang: trao lại thế giới gia tài bất tử của Tây Tạng bằng h́nh ảnh và ngôn từ.


LỜI CUỐI

THẦY, TR̉ VÀ LỐI VỀ ÁNH SÁNG



V́ Tomo Géché Rimpotsché là người đă mở cho tôi cánh cửa Tây Tạng nên thật có lư khi tôi chấm dứt chuyến hành hương của ḿnh bằng vài lời nhắc nhở về vị hóa sinh trẻ tuổi Jihmé Ngawang Rimpotsché.

Sau cuộc gặp ngắn ngủ tại Gyantse cuối năm 1947, chúng tôi không t́m lại ông được nữa; v́ khi đến Ấn Độ th́ ông đă trên đường về Sera, chỗ mà ông tu học an toàn hơn. Ông ở đến đó năm 1959, tốt nghiệp bằng Géché (tiến sĩ) và lấy lại chọ vị cũ của ḿnh.

V́ tôi không c̣n khả năng đi xa từ chỗ ở hiện nay đến Yi-Gah-Tscho-Ling-Gah Tscho-Ling hay Kalimpong, các tu viện Tomo Géché hay lưu trú nên đành nhờ vị Sangharaksh*ta Sthavira, người sáng lập và giám đốc của Triyana Vardhana Vihara tại Kalimpong hỏi Rimpotsché liệu ông có nhớ tôi không, người học tṛ cũ.

Và phải chăng ông đă nhận ra tôi tại Gyantse. Câu trả lời của ông rơ và đơn giản: “Tôi biết Govinda”.

Chúng tôi sẽ gặp nhau, lúc nào t́nh h́nh cho phép. Giờ đây bản thân tôi đă già như thầy tôi hồi xưa, c̣n ông trong thân tái sinh th́ trẻ hơn hồi tôi gặp ông ở đời cũ. Thế nhưng dù già hay trẻ, mối liên hệ nội tại giữa thầy và tṛ vẫn tồn tại, dù cho bây giờ bên ngoài, vai tṛ có thể hoán chuyển.

Chúng tôi sẽ gặp nhau và lại gặp nhau đến ngày hai chúng tôi làm xong trách nhiệm tức là ngày chúng tôi ḥa thành một với thứ ánh sáng đó, đối với hai chúng tôi nó là cội nguồn mà cũng là mục đích, nó là cái gắn liền chúng tôi qua bao nhiêu sinh tử.

Con đường tâm linh của họ và gịng sông đă trở thành một và cũng trôi chảy về hướng mặt trời lặn, nơi đây h́nh nhưng là chỗ sông gặp biển.

Ánh của gịng nước đời sống chen lẫn với tia sáng của mặt trời giác ngộ, và hầu như ngọn núi đơn độc của sự giác ngộ cá nhân có sáng lên cũng là nhờ ánh sáng phản chiếu từ gịng sông, từ mặt trời lặn mà nó đang hướng vào.

 

 

 

 

 

 

 


 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 799 of 2534: Đă gửi: 17 September 2008 lúc 8:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

HÀNG NGÀN NGƯỜI SANG

CAMPUCHIA XEM RỒNG NỔI

 

Mấy ngày qua tại biên giới Tây Nam nhiều người dân đồn thổi ở bên Campuchia có hiện tượng “rồng nổi” hết sức kỳ lạ. Hàng ngàn người đă ùn ùn kéo sang nước bạn để tận mắt chứng kiến sự việc được xem là có một không hai. 
 
Qua biên giới, chúng tôi tiến về vùng núi Thâm Đưng và có mặt tại nhà ông Chau Nhum 56 tuổi ở phum Cà Na, xă Thâm Đưng, huyện Ki Ri Vông, tỉnh Tà Keo (Vương quốc Campuchia). Trong nhà của ông Nhum lúc này đă thấy nhiều người đứng xung quanh một khoanh đất có sống lươn chạy dài chừng 6,5 m được chia thành nhiều ngấn, bề mặt nổi lên, độn xuống trông giống h́nh một con rồng uốn lượn. 

Theo quan sát, người dân địa phương do sống tại vùng sâu vùng xa, kiến thức c̣n hạn chế hoặc chưa có đủ thông tin nên dẫn đến việc đổ xô đi xem, hương nhang cúng bái những ngày qua.

Bà Nô Met vợ ông Chau Nhum, kể lại:

- “Khoảng gần mười hai giờ đêm ngày 12-8, tôi nằm mộng thấy một con Rồng chui vào nhà ḿnh. Tôi ra bắt nó rồi tôi la lên để kêu chồng cùng ra bắt tiếp”.

Ông Chau Nhum tiếp lời vợ:

- “Tôi nghe tiếng la nên thức giấc th́ bỗng dưng thấy toàn bộ căn nhà rung lên dữ dội rồi tự dưng xuất hiện nhiều g̣ cao, thấp ở trước cửa cho đến tận phía trong nhà. Lúc đó gia đ́nh tôi đâu biết chuyện ǵ nên rất sợ và phải chạy qua nhà hàng xóm ngủ”.
 
Cho đến sáng sớm hôm sau ngày 13-8, gia đ́nh tôi trở lại nhà th́ thấy những h́nh dáng hết sức kỳ quái trông giống như những vẩy cuộn của con rồng.

Bà Nô Met th́ cho rằng cũng trong đêm đó bà nằm mộng có người nói phải cúng vái, khấn nguyện nếu không trong ṿng bảy ngày th́ ông nhà sẽ bị rồng bắt.
 
Sau khi bà Nô Met nói th́ cả gia đ́nh hoảng lên, liền phá vách buồng, giăng rào chung quanh khu vực “rồng nổi”, dựng lên nhiều bàn thờ khấn nguyện trước cửa căn nhà của gia đ́nh ông.
 
Ngay hôm 13-8, th́ tin đồn có hiện tượng “rồng nổi” đă lan ra cả vùng núi Thâm Đưng và c̣n lan cả những vùng biên, trong đó có vùng biên giới Tây Nam Việt Nam.
Nhiều người dân hiếu kỳ ở huyện Tịnh Biên và các huyện lân cận bắt đầu ùn ùn kéo sang nước bạn để xem hiện tượng này.

Chúng tôi có mặt tại cửa khẩu Tịnh Biên hôm 16-17 tháng tám, chứng kiến có rất nhiều người sang bên nước bạn. Dù lúc này chốt cửa khẩu đă đóng chặt cửa nhưng vẫn có nhiều người sang được bên kia biên giới tiến về vùng núi Thâm Đưng xem “rồng”.
 
Gặp một số người Việt Nam qua xem, chúng tôi hỏi th́ hầu hết đều nói là nghe tin th́ đi liền xem cho tận mắt việc kỳ lạ trên.

Một người dân ở xă An Nông, huyện Tịnh Biên cho biết là đă bỏ hết công việc để đi xem v́ tin này hấp dẫn và kỳ bí. Nhiều người khác th́ cho biết là từ trước tới giờ chưa thấy rồng nên quyết đi xem thử.
 
Theo ghi nhận của chúng tôi, không chỉ có nhà của ông Chau Nhum là có sự xuất hiện hiện tượng này. Trên địa bàn xă Thâm Đưng có đến ba nơi khác là: Cà Na, Ta Tưng và Tuôl Omrua có xuất hiện việc đồn lên hiện tượng “rồng nổi ”.

Mỗi nơi nổi lệch nhau một ngày, chỉ cách nhau vài trăm mét. Sự việc kỳ lạ này kéo theo nhiều dịch vụ khác ăn theo như nhang đèn, nước uống, chụp ảnh…với giá cũng rất trời ơi và c̣n có cả thùng đựng tiền cúng tế đặt cạnh đó.
 
Trao đổi với chúng tôi về vụ việc này, ông Ngô Hồng Yến Phó chủ tịch huyện Tịnh Biên, cho biết thời gian qua có nghe nhiều người nói đến vấn đề này, tuy nhiên việc xảy ra ở nước bạn nên rất khó cho chính quyền địa phương kiểm tra thực hư sự việc. Nhưng chúng tôi sẽ cử người xác minh làm rơ, sau đó sẽ  tuyên truyền để bà con được rơ.

 

                                                                      Theo DT

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 800 of 2534: Đă gửi: 17 September 2008 lúc 9:13am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ MẬT CỦA MỘT CÂU

KINH PHẬT

 

Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời c̣n đi học ở Việt Nam trước bảy mươi lăm, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm.

Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè th́ cũng chẳng có ǵ đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.

Chuyện hơi dài ḍng, xin bạn kiên nhẫn.

Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đ́nh người bạn tiếp đón rất thân t́nh. Ông ta c̣n gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.

Khi bữa cơm gia đ́nh đă măn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện tṛ sôi nổi, th́ ông bạn chủ nhà đổi đề tài: "Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982.

Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc c̣n ở Việt Nam, chị tôi dấu kín v́ sợ đến tai công an th́ sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có ǵ thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi".

Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong b́ đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.

- Gia đ́nh tôi, sau bảy lăm, chỉ c̣n đàn bà v́ đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi, chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được.

Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay.

Từ Sài G̣n chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài G̣n về ăn cưới th́ biết ngay, nhưng ŕnh bắt là công việc của công an.

Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở băi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy.

Tṛ nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xă ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết ǵ cả!

Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi ṿng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người.

Mặc dù đă được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn căi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau.

Chỗ băi đó toàn śnh, ngập đến đầu gối khiến ai nấy b́ bơm măi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.

Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi th́ bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:

- Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ.

Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn c̣n ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nh́n mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi.

Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán "Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ" càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đă dặn trước:

- Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới t́m cách ra lộ đón xe về.

Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát".

Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống th́ vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu h́nh như có người cùng chạy với tôi, quay lại th́ không thấy ai cả!

Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đă xa, vừa hoàn hồn th́ hai chân ră rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng.

Tôi nh́n quanh. Một bên là biển đen ś, ŕ rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi.

Tôi đoán, có lẽ công an ŕnh bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, v́ thế mọi người mới chạy thoát.

Từ lúc lên xe ở Sài G̣n đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết ḿnh đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi ḿnh sẽ làm ǵ, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc năy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập.

Tôi thầm ước cho công an đến bắt ḿnh, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao th́ ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn c̣n. Tôi t́m chai nước lạnh, uống mấy ngụm.

Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi c̣n giữ được cái xách?

Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây số. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi.

Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, v́ sợ người ta tắt đèn th́ không biết làm sao t́m đến.

Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn băo (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt), đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.

Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:

- Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với.

Có tiếng đàn ông nói lớn:

- Vào đi! Đừng sợ!

Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn băo và chiếc ghế vào.

Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:

- Ngồi đấy đi!

Tôi nói cám ơn, v́ áo quần dính śnh, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng b́nh thản như việc nầy đă từng xảy ra nhiều lần:

- Thế th́ đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xă tôi, thay tạm. Áo quần bẩn th́ giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài G̣n.

Nghe nói sáng mai đón xe về Sài G̣n, tôi mừng quưnh, không ngờ ḿnh may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm t́nh với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nh́n thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng ḿnh khiếp sợ.

Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai g̣ má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp.

Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như ḿnh là con chuột đă bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức.

Thấy tôi đứng bất động v́ sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:

- Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát th́ đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà.

Tôi đă cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng th́ có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn.

Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:

- Có cái pḥng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, c̣n bộ đồ bẩn th́ giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi.

Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy ra nhà sau.
Tôi tắm qua loa. C̣n nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, ṿ bộ đồ dính śnh rồi treo lên một sợi dây kẽm trong pḥng tắm. Khi tôi lên nhà trên th́ ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:

- Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong pḥng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm.

Tôi nói:

- Dạ. Cám ơn! Rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.

Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà.

Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển ŕ rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa.

Bấy giờ tôi mới thấy người ră rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngă. Suy nghĩ miên man, tôi ch́m vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Khi tôi tỉnh dậy th́ trời đă sáng. Vừa xếp mùng, mền xong th́ ông ta từ trong buồng bước ra.

- Ngủ có được không?

- Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng.

Tôi nói mà không dám nh́n ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.

- Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài G̣n. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận.

Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi "
Đừng quên cái xách tay".

Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta.

Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, c̣n biển th́ nằm bên trái căn nhà, cách một cây số.

Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là śnh lầy với cây đước, vẹt, sú ǵ đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt.

Tôi không hiểu v́ sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua.

Có chăng là mấy con cua c̣ng ǵ đó nằm trên mặt śnh dương mắt nh́n tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xă hội loài người.

Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa gịng sông.

Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu th́ xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều.

Thuyền ghé vào một bến đ̣, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách).

Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta th́ cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hăi. Ông ta không thèm nh́n ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói ǵ đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:

- Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ.

Ông ân nhân không để ư đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa gịng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang ṭ ṃ nh́n tôi với vẻ sợ hăi rồi th́ thầm với nhau ǵ đấy.

Ông xe lam nổ máy, chở một ḿnh tôi, ṿng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, th́ thầm với ông ta.

Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng c̣n nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.

- Anh Năm dặn rơ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận.

Chiều hôm đó, tôi về đến nhà. Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau.

Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đă bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đ́nh, gồm bốn người, không có tin tức.

Hai gia đ́nh nầy th́ tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đă bán nhà, v́ tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.

Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu. Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đă gửi đến.

Chị ta cầm lá thư đưa lên. Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đ́nh cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn c̣n giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:

"Gửi bà H. (là tên tôi). Bà c̣n nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?

Tôi cho bà rơ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lơng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến băi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là t́m đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi.

Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đă được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đ́nh vào thành phố, v́ chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.

Mỗi công an chúng tôi đă chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên t́m đến nhờ cứu giúp.

Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.

Thông thường, nếu nhiều người t́m đến th́ tôi bảo họ, có ǵ đem theo nên kê rơ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau.

Nếu chỉ một người th́ tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những ǵ đem theo. Tôi c̣n ŕnh nh́n lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những ǵ họ lận theo người?

Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ ǵ, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch.

Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt.

Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về.

Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, v́ chung quanh toàn śnh lầy, có bỏ chạy một quăng là ngập người dưới śnh, tôi chỉ rọi đèn pin, đi t́m và bắn họ rất dễ dàng.

Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi ǵ. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu.

Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố cũng không hết của.

Dĩ nhiên gia đ́nh tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.

Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành. Tính ra, tôi ở đó đă được bốn năm, cho đến cái đêm bà t́m đến nạp mạng cho tôi.

Như mọi khi, chờ lúc bà đi tắm tôi lén kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đă được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi ṭ ṃ.

Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ tŕ một ngôi chùa lớn, gần chợ.

Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lănh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà "thỉnh" những kinh đó th́ biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dơi.

V́ ṭ ṃ và v́ nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách t́nh cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh.

Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người v́ kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được .

Hiện nay tôi đă ra khỏi ngành công an. Tôi đă đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số.

Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi.

Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai băo lụt th́ đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lăo, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...

Tôi viết để bà rơ, nay tôi đă chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng c̣n các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...

Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm t́m được con đường giải thoát. Chúc bà sức khỏe".

Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:

- Thư chỉ viết thế thôi.

Chúng tôi hỏi:

- Chị có nhớ ḿnh mang theo quyển kinh Phật tên ǵ không?

- Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh "Quán Thế Âm Bồ Tát" trên bàn thờ, hễ hô "
đi!" là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường.

Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng "Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ tŕ cho chúng sinh tai qua nạn khỏi". Ba tôi, khi c̣n sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật.

Ngoài chữ Việt, ông cụ c̣n biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết ḿnh đă mang theo quyển kinh nào khi vượt biên.

Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đă cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hăy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm".

Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ.

Câu "buông đao thành Phật" quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ c̣n cách đi hỏi các nhà sư th́ họa may.

V́ bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ.

Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân t́nh. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy c̣n trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.

Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đăi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đă khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói: 

- Ông ta chẳng thù hận ǵ những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết ḅ. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng.

Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt ḿnh lại có câu "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước". Cha mẹ thương con cháu th́ ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm.

Đó là "Đạo Thờ Ông Bà". Ông công an nầy th́ làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của ḿnh, "quả báo nhăn tiền", con cháu sẽ lănh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng:

"Ḿnh giết người ta th́ con ḿnh bị người ta giết" nên ông ta sợ. "Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hăi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?"

"
Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ tŕ bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy th́ niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát" chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi.

Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đă mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có ǵ giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát.

Chính cái ư niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang ṃ mẫm trong bóng tối, đă bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi.

Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng c̣n le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là "ông đạo" chứ không phải là "ông sư".

V́ ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, săi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. "Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những ǵ cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?".

Nhà sư cười:

- Thoát được "tham, sân, si" là tự giải thoát rồi.

Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đă bỏ được chữ "tham"? Chữ "tham" đơn giản, thường t́nh thôi, không cần phải triết lư xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?

C̣n hai chữ "sân, si", bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng.

- Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đă khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?

Nhà sư lắc đầu:

- Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu

t́nh cờ, b́nh thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hăi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta t́m con đường giải thoát.

Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo.

- Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?

Nhà sư lắc đầu:

- Bị hỏi th́nh ĺnh, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều ǵ chăng?

Mục đích không phải t́m hiểu mà chỉ như tṛ chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ tŕnh độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy.

Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện tṛ vừa lang thang ngắm hoa cảnh.

Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...

Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:

- T́m được câu kinh nào chưa thầy?

Sư lắc đầu và cười:

- Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo th́ kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:

"Những việc ác mà ngươi đă phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một ḿnh ngươi đă phạm, và một ḿnh ngươi phải chịu quả báo".

Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:

"Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi"...

Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.

- Rất tiếc, v́ sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn c̣n là một bí ẩn. Xin lỗi đă làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đă cảm động đến đức Phật, và Ngài đă ra tay tế độ, đă khai ngộ cho ông ta.

Nhưng phải là người thật thành khẩn th́ đức Phật mới làm được việc đó.

 

                                                  Phạm Thành Châu

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 5.2734 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO