| Tác giả |
|
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 801 of 2534: Đă gửi: 18 September 2008 lúc 4:30am | Đă lưu IP
|
|
|
VÀNG VÀ MÁU
Kể từ châu Kao Lâm ở phía đông và miền bản Slay ở phía tây mà đến, từ mạn bản Pắc đi xuống, và từ bản Hạ trở lên, cách non mười dặm chung quanh chỉ có quả núi đá Văn Dú là cao lớn nhất.
Sừng sững giữa trời, bao quát đồi cây g̣ đất, núi ấy trông đường bệ hách dịch như đứng làm chúa tể cho cả một vùng phong cảnh hoang vu. Dân Thổ ở các làng gần đó, ngày nào cũng trông thấy ngọn núi mù mù lam tím, nhô lên trên những hàng rừng xanh chi chít um tùm.
Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía cũng như các ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với một vẻ riêng oai linh và mầu nhiệm. Đối với ngọn núi lớn, người Thổ không chỉ có tấm ḷng kính cẩn phảng phất đối với mọi cảnh bát ngát cao cả, họ c̣n sợ hăi Văn Dú như một vật có tri giác, có quyền phép làm hại người.
Ở những miền quanh đó và trong thời bấy giờ, ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ. Họ chỉ gọi đến tên quả núi trong những khi tức giận nhau mà chửi rủa hay những khi thề bồi.
Một người say rượu lớn tiếng xúc phạm đến Văn Dú cũng đủ làm cho khắp cả một châu biết đến tên ḿnh; họ thuật lại những lời nói và cử chỉ của anh ta một cách e dè, nhưng đó là thứ chuyện họ ưa nghe ưa kể nhất.
Núi Văn Dú có một cái hang lớn. Đó là nơi chứa những tai hoạ ghê gớm cho giống người Thổ và là cái nguồn những sự khủng khiếp và những chuyện kinh hoàng. Người ta gọi hang là hang Thần, v́ đó là chỗ thần núi ở.
Thần núi Văn Dú linh thiêng lắm, lại rất độc ác và hay nghi ngờ. Người nào hoặc vô t́nh, hoặc cả gan đến gần thần núi là bị thần hang bắt vào giết đi. Cho nên từ Văn Dú trở ra chừng hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng xác, đất hoang; người Thổ không dám đến khai phá để cày cấy.
Trong một năm có nhiều khi trời đất đang yên bỗng đùng đùng một cơn sấm sét. Trên không gió vù, chớp loáng như gươm thiêng vung tít; cây cối vật vă tan nát, người vật lo sợ mất hồn. Khắp mọi nhà đều khua gơ inh ỏi cùng với các bà then thầy pháp kêu khấn cho đến khi nguôi cơn. Nhưng thế mới đỡ tai hoạ.
Lại nhiều khi, sau một hồi giông tố dữ dội, mây đen biến hết, ánh nắng lại soi xuống; bấy giờ trên đỉnh núi chập chờn một tầng khói phủ dần dần bay đi. Trong đám hơi trắng mà người ta bảo là nộ khí của thần hang, có người nói rằng thường trông thấy những h́nh bóng kỳ dị.
Trong trí tưởng tượng của người Thổ th́ cửa hang Thần trông như mồm con yêu hay hổ quái gở. Cái mồm ấy phun ra những hơi độc làm thành dịch tễ, gió băo để phá huỷ các làng.
Trước cửa hang Thần, người th́ bảo có toàn đầu lâu, người th́ bảo có đủ các rắn rết. Lại có người khoe đă nằm mơ vào tận trong hang xem. Qua khỏi những chỗ nguy hiểm rồi th́ đến nơi ruộng nương tươi tốt, suối chảy thong dong, cây lá rườm rà, ḅ lợn từng đàn ăn trên những băi cỏ xanh non, lại có các nàng tiên nhởn nhơ chăn dắt.
Song cái tấm ảnh đào nguyên kia, người tả cũng cho là một cảnh mai mỉa không thể làm dịu được vẻ độc ác của núi Văn Dú gây nên bởi những truyện phao truyền từ trước đến giờ.
Những người già cả trong làng th́ cho rằng hang Thần hoá thiêng là v́ trong đó chôn cất không biết bao nhiêu thây của quân giặc Khách. Bọn giặc này sang tàn phá nước Nam khi trước bị quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào Văn Dú rồi bị hăm chết đói trong hang.
Đứa nào cũng mang theo rất nhiều vàng đă cướp của dân lành. Nay những của ấy hăy c̣n, nhưng chúng thành thần để giữ lấy.
Về đời ông cha họ th́ dân cư vẫn thường cấy cầy được ở gần hang Văn Dú; bấy giờ những tai hoạ chưa có mấy, nhưng mỗi khi sụt sùi mưa gió lại văng vẳng như có tiếng khóc thảm thiết lẫn với tiếng cười gằn; chốc chốc một cơn gió là là mặt đất chạy qua, cửa hang bỗng gầm rít lên một cách giận dữ.
Gần làng kia thuộc châu Kao Lâm có một cái suối chảy đến. Suốt phát nguyên từ Văn Dú và chạy ngang mặt đông bắc quả núi, là phía hang Thần trông ra.
Như thế là một sự nguy khốn cho làng ấy. Đă có một hồi, muốn pḥng những tai nạn, người ta đặt ra lệ tế thần Văn Dú hàng năm. Vật hy sinh là một người con gái đẹp. Tiếng oán khóc của các cha mẹ những người gái bị giết quăng xuống suối nghe bi thảm đầy trời đất, nhưng không hề cảm được ḷng những dân làng độc ác v́ ngu dại kia.
May sao được mấy năm sau, có một ông quan trấn người Kinh nghiêm cấm không cho giết người như thế nữa. Về sau họ thấy trong châu động dữ và đă mấy phen toan giữ lại lệ xưa nhưng đều không thành.
Song cái tục vô đạo này tuy mất đi, cái linh thiêng của tà thần Văn Dú mỗi ngày một lớn, ḷng mê muội và khiếp sợ của người miền ấy ngày một tăng thêm. Một buổi chiều mùa đông, trời rét căm căm, mưa phùn bay mù mịt.
Từ miền bản Đông thuộc châu Kao Lâm đến mạn Văn Dú, có hai người đàn ông Thổ đang rảo bước đi. Hai người mặc quần áo vải chàm; áo cộc thắt lưng chẽn ngoài quần ngắn và chít ống.
Một người trạc ngoại bốn mươi, nét mặt già dặn, mắt sâu, miệng nhỏ, thở hơi ra như khói, cái quai nón mắc xuống cằm đè lấy bộ râu lưa thưa c̣n lấp lánh những giọt nước mưa. Thỉnh thoảng ông ta ngoảnh bảo người đi sau mấy lời.
Người này không nói ǵ cứ ra chân bước. Hắn c̣n trẻ; trông rắn rỏi và khoẻ mạnh không kém người trước; hai môi dẩu, trán nhô và cao; đầu quấn một cái khăn lớn. Một tay hắn thủ vào trong áo, c̣n tay kia th́ nắm một cái lao dài.
Hai người cứ trông thẳng phía núi đá mà tiến lên, lúc xéo lên những lối rậm rạp bên đồi, lúc giẫm gẫy những nấm rạ cụt ở ruộng lúa. Qua hết đồi này lại đến những g̣ khác; những bụi cây xanh mưa ám mỗi ngày một rậm, đồng ruộng ngày một thưa; ngọn núi đá mờ mờ trong đám sương mù cũng ngày một rơ.
Gió bấc thổi bên tai vù vù từng trận. Trước mấy rặng rừng hay trước những khóm cây nặng nề ướt át, những làn mưa bụi trắng từng lớp bay qua.
Chân tay mặt mũi hai người tái cứng đi. Giá cấu chắc không biết đau, có lẽ cũng không biết rét nữa. Quần áo phía trước, mưa hắt nhiều nên ướt đẫm. Từ đầu gối trở xuống toàn những đất đỏ với bùn; mỗi lúc qua một đám cây thấp nào th́ cành lá gột sạch gần hết.
Đi tới miền đồi núi và bụi cây chen chúc nhau, không c̣n dấu vết cày cấy nữa, hai người Thổ trông thấy quả núi Văn Dú đứng chắn trước mặt, h́nh vóc cao lớn như ngăn đôi phần đất, đỉnh núi như chạm bầu trời.
Họ dừng chân ở cạnh một cái suối ḷng sâu như vực. Nước suối xanh đặc như rêu thẫm, đang lừ lừ đi vào một cái hốc to dưới mấy cụm cây lá xoè ra và phủ xuống như cánh tàn. Họ cởi đôi hài xảo chùi xuống cỏ ướt rồi nhét vào trong nải.
Rồi họ đứng thẳng dậy, ngoảnh trông lại quăng đường họ vừa đi qua. Bấy giờ vào khoảng cuối giờ Thân (bốn giờ chiều), mưa đă gần tạnh. Bao nhiêu rừng núi đằng xa đều tan thành hơi trong đám sương dày đặc trắng đục. Chân trời một màu xám như bạc cũ, làm nổi bật những bụi rậm ở gần bên.
Trông sang mạn bờ suối bên kia, th́ Văn Dú như sát lại cạnh ḿnh. Quả núi lồng lộng đen ś làm át cả những đống g̣ nhỏ mọn. Một vài bụi cây xơ xác chen lách dưới những tảng đá lớn mốc rêu. Về phía trong cùng, một rặng rừng thấp và lưa thưa như không dám xanh tốt.
Hai người lẳng lặng t́m một chỗ đỡ trơn và hẹp nhất, lần lần bám víu lấy cành lá rễ cây mà xuống rồi lại chậm chạp khó nhọc như thế mà leo lên bờ suối bên kia. Từ bờ suối bên kia là địa phận của sự ghê gớm. Sang tới nơi, họ lại xỏ chân vào đôi giày rơm, rồi cùng nhau đi đến chân núi.
Lần này, người tuổi trẻ phải cầm lao đi trước. Họ bước đi rón rén, cẩn thận, bốn mắt liếc đây liếc đó. Hơi có tiếng lạ cũng dừng lại bởi v́ họ yên trí rằng họ đă đi vào nơi hoang dă có lẽ chưa bao giờ có vết chân người.
Mưa đă tạnh hẳn rồi. Gió cũng đă ngớt. Chim chóc bắt đầu lên tiếng ở trên mấy ngọn cây cao hay trong ngách đá. Thỉnh thoảng một vài con quạ vừa bay ngang núi vừa kêu. Đường đất cũng không đến nỗi khó đi quá như họ tưởng. Nhưng họ cũng không dám bước bạo.
Đi khỏi một cái đồi, qua mấy tảng đá nằm nghiêng trên đám cỏ lau đến một tụm cây họp lại thành gần như một cái miếu. Thấp thoáng trong đám lá xanh um, thấy như có dấu vết một bức tường đổ nát. Hai người không đứng lại. Dấn lên mươi bước nữa, đi về phía chân núi, qua khỏi cái miếu nhỏ, th́ hang Thần hiện ra.
Hang Thần trông cũng không to: bề cao bằng nửa cây gạo già mọc trước cửa. Miệng hang loe ra như cái miệng hũ. Phía trên toác ra như cái môi rách, phía dưới có hai tảng đá dài và nhọn đâm lên ở hai bên mép như hai cái nanh.
Trông vào trong hang càng xa càng rộng, càng đen tối thêm thăm thẳm sâu vô cùng tận. Trên cửa hang chi chít các giống thảo mộc kỳ dị lấp lánh v́ nước mưa phùn mới rửa. Từ trong kẽ đá, ḅ ra những khúc cây tṛn và mốc, bám chặt vào miệng hang.
Những dây những rễ; những lá đỏ, lá xanh, lớn bé lẫn lộn, mọc đầy mép hang; những cụm trúc rất nhỏ với những đám cỏ xác xơ chen nhau ở bên những khóm si con và những vừng tóc tiên xanh tốt.
Tiếng hạt nước đọng trên cao vẫn rơi xuống lộp độp lẹt đẹt không dứt, nghe mạnh hơn tiếng chim kêu ríu rít ở những ngọn cây nào. Bỗng chốc cơn gió thổi qua, một loạt nước đổ ào xuống như muôn ngh́n quả chín rụng.
Hai người Thổ cùng nín tiếng, hai mắt mở lớn, người th́ đưa nh́n tả, người liếc hữu, rồi lại trông vào cái lỗ hang đen tối âm thầm. Họ đă chực lẳng lặng đi vào. Nhưng lại cùng nhau dấn bước qua, đi sang phía hữu hang Thần đến bên lớp dứa ông xúm quanh chân mấy cây dại h́nh thù kỳ quặc
Những cây này đang uốn éo sát chân núi; cây th́ chui ra khỏi một tảng đá vỡ, cây th́ để cho dây leo quấ chằng chịt, nhiều cây đă đổ, găy, bật hẳn rễ, mà vẫn c̣n sống như thường.
Đang tha thẩn nh́n, không có mục đích, hai người bỗng trông thấy một vật ǵ màu lam ở dưới một cụm dứa. Nh́n kỹ th́ h́nh như một bọc vải, một cái khăn gói màu lam, nằm trong đám lá dại với cỏ cao trên mặt đất.
Nhưng không ai dám nói ǵ hết: nhiều vật tương tự như nhau có thể làm cho ḿnh trông lầm được. Họ bèn bước lại gần để xem sao.
Th́ ra một cái khăn gói thực. Một cái khăn gói đă mở, ướt như mới lấy dưới nước lên bên cạnh cái khăn gói ấy c̣n thấy một con dao rừng và một cái gậy lớn.
Hai người Thổ cùng kinh ngạc như nhau, mỗi người toan kêu lên: "Có ai tới đây rồi!" nhưng không thể nào dám thốt ra miệng một điều quái lạ như thế.
Ông già ngập ngừng một chút, rồi cúi xuống giở cái bọc ra xem: một cái áo chàm vải thô, gói lấy hai nén bạc c̣n nguyên, với lại...
Bỗng một tiếng khiếp sợ rú lên ở bên cạnh. Ông già đứng phắt dậy, nh́n, th́ thấy người con trai mặt tái mét, hai mắt mở to lạ, vừa chỉ về cái miếu trước mặt vừa lớn tiếng nói:
-Ḳi ka! Ḳi ka! (Ḱa trông! Ḱa trông!)
Vang núi cũng đáp lại hai tiếng "Ḳi ka!" nghe như lời quát tháo.
Ông già trông theo ngón tay trỏ th́ thấy trong đám miếu nhỏ, một người chết treo dưới một cây bàng trụi lá, mọc bên một bức tường đổ nát và mốc rêu:
Người chết h́nh vóc to lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng. Chiếc dây chăo thơng xuống thắt nút ở gáy và lằn vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn bộ quần áo chàm ướt, cúi gằm xuống mà nh́n người ta bằng con mắt không có tṛng đen. Hai bàn tay buông thơng, để cho nước mưa ở năm đầu ngón rỏ xuống như giọt tranh. Hai bàn chân đen ś kiễng trên không, như muốn với lấy đám lá sắc cỏ nhọn mọc ở mặt đất.
Các nhánh cây cao chung quanh thỉnh thoảng lại đưa đẩy. Một đàn quạ đen sợ người không dám xuống, gọi nhau bằng những tiếng thê thảm lạnh lùng.
Hai bác Thổ nắm chặt lấy tay nhau, không dám tiến, không dám lùi: quanh ḿnh chỗ nào cũng thấy toàn sự chết.
Họ liếc nh́n vào chỗ tường đổ, trên mặt những gạch c̣n lại rêu non và những lá nhỏ bám xanh lè. Ở quăng giữa những mảnh tường, tự do mọc lên những cây lá lạ kỳ, rậm rạp. Dây b́m nửa tươi nửa chết ḅ leo ra tới mấy cây ở gần và rủ xuống phất phơ bên cạnh đùi cái thây ma in lẳn trong hai ống quần đẫm nước.
Một trận gió lạnh buốt ào ào chạy đến làm rung động cả một phía rừng cây. Người Thổ già rùng ḿnh một cái, c̣n người con trai th́ bắt đầu run. Anh ta lẩm nhẩm trong mồm những câu ǵ mà người kia đứng bên cũng không nghe rơ. Dần dần ông già như đă định trí, bèn dắt người con trai quay lại, toan cùng đi tới cửa hang. Song anh chàng càng đi càng run thêm, phải níu lấy ông già, van đừng tiến lên nữa.
Người Thổ già đứng lại, ngẫm nghĩ một lát, rồi lẩm bẩm mấy tiếng, trong lúc ấy người con trai một tay nắm chặt lấy lao chống xuống đất, c̣n một tay nhất định không chịu buông ông già.
Yên lặng hồi lâu.
Trời đất h́nh như chỉ riêng u ám ở chỗ hoang dại ấy. Mặt ông già không c̣n nét kinh hăi nữa. Ông ta đang cúi đầu nghĩ, bỗng ngẩng lên, rồi nói:
- Bây giờ đi vào trong hang.
Anh con trai mở mắt rơ to:
- Hử? Đi vào hang à?
- Chứ ǵ!
- Không! Tôi sợ lắm!
Ông già cau mặt:
- Sợ ǵ mà sợ! Đằng nào cũng phải vào trong ấy xem đă, rồi c̣n đi về nữa kia mà?
- Không! Không! Đi về thôi! Không vào! Vào th́ chết!
Ông già lấy trong ḿnh ra một mảnh giấy. Trên đó có mấy hàng chữ nhỏ mà ông ta không đọc, chỉ để mắt tới những h́nh vẽ ng̣ng ngoèo như h́nh sông núi của bức địa đồ. Ông ta ngẩng nh́n thân quả núi cao, trông vào cái hang cách độ mươi bước và lănh đạm nh́n cái xác treo lủng lẳng kia.
Rồi ông ta thản nhiên nói:
- Nào! Ta đi vào đi.
Người con trai lắc đầu không thôi:
- Không có vào! Vào th́ chết! Vào chết đấy!
Ông già cứ trông kia th́ biết. (Hắn vừa nói vừa chỉ vào thây người Khách). Người ta nói không sai đâu.
- Mày không vào th́ tao vào một ḿnh. Đừng có nói lôi thôi. Rồi về đừng kể công đấy... Đi vào không?
- Không... vào th́ chết thôi! Vào th́ chết!
Người Thổ già thấy vậy bực ḿnh để mặc người trẻ tuổi đấy, xăm xăm bước lại cửa hang.
Đến nơi, ông ta lấy trong bọc ra mấy thanh củi thông, một ít bùi nhùi với một ḥn đá lửa.
Lúc bó đuốc thông đă cháy, ông già một tay cầm bó đuốc giơ lên ngang trán, một tay cầm thanh đao to bản, quay lại mắng người con trai là nhát, rồi bước thẳng vào hang Thần. Người con trai cuống cuồng chạy vôi lại cửa hang, cất tiếng gọi.
Nhưng ông già đă lẩn vào trong bóng tối. Ngọn lửa đỏ ngùn ngụt cũng dần dần bé, rồi biến hẳn đi.
Ở ngoài này, anh ta lắng nghe c̣n thấy đằng hắng một vài lần và thỉnh thoảng có tiếng chân thong thả khua trong một vũng nước.
Anh con trai chợt nghĩ đến những chuyện ma quỷ ám ảnh người chết mà dẫn vào chỗ chết. Anh ta thốt nhiên hối hận rằng không nhẩy xổ vào mà kéo ông già lại. Chắc hẳn ông già này lại bị thần núi bắt vào hang. Anh chàng cố nín hơi nghe tiếng chân dần dần bước c̣n thấy đưa ra là ông già vẫn c̣n sống...
Gió bên ngoài thổi qua không buốt bằng hơi lạnh ở hang đá. Anh ta run cầm cập, hai hàm răng va nhau ngày một mạnh. Bước chân đă thấy im từ lâu.
Chốc chốc lại có tiếng kêu "chít chít" nhỏ, với tiếng th́ thầm lớn, tưởng như lời mỉa mai độc ác của yêu quái, ngồi xổm đang vừa ngáp vừa bàn nhau. Thỉnh thoảng h́nh như cả cái hang thở dài. Rồi, im lặng. Không thể nào đoán được những việc xảy ra trong cái miệng tối bí mật ấy.
Anh Thổ nghe thấy tiếng lạ th́ sợ. Anh ta thấy yên lặng lại càng sợ già.
Anh ta muốn hắng giọng lên, hay nói đùa một câu ǵ để phá cái tịch mịch nặng nề kia; nhưng không dám. Anh ta cũng không dám nh́n về phía cái xác chết; lại tưởng người thắt cổ sắp đứng xuống đất, sắp đi lại gần ḿnh. Anh ta rợn người lên, khẽ ngảnh đầu nh́n lại.
Những bụi cây rậm rịt chung quanh như vây chắn lấy ḿnh: chưa bao giờ anh ta thấy có cái cảm giác vắng vẻ biệt tịch bằng lúc ấy!
Thế mà có một người đi cùng, th́ lại vào trong hang mất, lại vào đấy sau khi gặp người thắt cổ! Chẳng hiểu bụng dạ ông thế nào. Mà sao măi không thấy ông ta ra? Măi không thấy tiếng ǵ hết! Hay lạc mất lối? Hay bị mê mẩn sợ hăi quá? Hay gặp ma quỷ? Chết rồi cũng không biết chừng!
Trong ḷng người con trai nôn nao như điên dại.
Anh ta nghĩ: hay là gọi thực to lên cho lăo già đáng giận kia nghe thấy. Nhưng anh ta lẳng lặng trông xuống dưới chân.
Bên những cái màng đeo những hạt sương sáng đẹp như thuỷ tinh, anh Thổ trông thấy những ḥn đá sỏi lăn dưới cỏ. Chợt nẩy ra một ư kiến. Anh ta nh́n vào trong đám tối: cúi xuống nhặt ba bốn ḥn to nhất, nghĩ ngợi một lát, rồi đánh liều vứt mạnh vào hang. Ḥn sỏi h́nh như bị rơi xuống chỗ có nước, v́ nghe đánh "bơm" một cái. Anh ta lại ném ḥn đá nữa, lần này ném thẳng không rụt rè.
Tức th́ trong hang có tiếng rên hừ hừ đưa ra. Anh này chưa hiểu sao, bỗng lại nghe thấy tiếng bịch bịch rất mạnh và rất nhanh, rồi như có muôn vàn đá sỏi đổ mưa xuống một cái vũng nước không trông thấy.
Ngay lúc đó, ông già ở trong đám tối hiện ra, nét mặt ông đổi hẳn đi; hai mắt kinh sợ mở đến rách kẽ; nón lật ra đằng sau, khăn buột xuống quanh vai, tóc xoă ra rũ rượi.
Người trai Thổ chưa kịp kêu hỏi th́ ông già đă loạng choạng bước vội đến bám lấy hắn, vừa rên, vừa thở hồng hộc, lưỡi líu lại không nói được nên lời nào. Anh chàng điên cuồng vội quăng cái lao đang cầm đi, rồi vực ông già ngồi xuống một bên, một cánh tay đỡ lấy sau vai, tay kia rờ lên trán ông già th́ thấy toát ra một thứ mồ hôi lạnh và dính nhơm nhớp.
Anh ta rối rít gọi ông già tiếng kêu vang động cả quả núi; nhưng ông ta đă rũ xuống, chỉ lắc đầu không thưa. Ngực ông ưỡn lên, hơi thở càng ngắn càng tức tối. Hai mắt ông trợn ngược nh́n về phía cửa hang là phía ông quay đầu vào. Mồm th́ há cứng đờ, thỉnh thoảng như muốn hớp lại.
Một ḍng máu từ mũi chảy ra, đen và loăng, lẫn vào bọt dăi ở hai bên mép, rồi cùng chảy xuống cái cổ xanh xám, đầu ngoặt ra đằng sau. Người trai thổ vừa run run kéo vạt áo lau cho ông già, bỗng trông thấy trong cái tay co quắp của ông ta một mẩu giấy nhỏ. Ông già lúc ấy không thở được nữa.
Anh ta không thể nào biết được v́ sao mà ông ta đến thế, thấy mẩu giấy lạ, bèn cậy tay ông già ra xem: đó là một mảnh giấy khổ vuông, to bằng hai bàn tay màu hung hung vàng, dầy và dai lắm.
Trên mặt giấy, về phía tả, có vẽ một người quỳ, cầm một tờ giấy lớn giơ lên ngang mặt; ở phía hữu vẽ một bó đuốc đang cháy; nét vẽ rất ngây dại. ở hai h́nh vẽ có mấy hàng chữ Hán, nghĩa như sau:
Miệng có hai răng Ba chân bốn tay Mày vào trăm chân Mày lên ba tay Tên mày là đá Đá sinh trứng đá Trứng đá giữ của Mày có sức mang Mày giầu mày chết.
Về mạn tây nam, sau lưng Văn Dú, là châu Nga Lộc cách xa ḥn núi đá chừng ngót một phần tư ngày đường.
Nhà Quan Châu nằm trên một cái đồi, mái lợp tranh, tường đất lèn, thấp và vững chăi. Chung quanh cây tre bụi rậm vây kín. Dưới chân đồi là xóm làng. Quan Châu Nga Lộc năm ấy chừng ngoại bốn mươi tuổi; người khoẻ mạnh và tinh anh.
Trong nhà lên đèn đă lâu. Ông xếp gọn các đơn từ đă phê xong, lấy cái nghiên mực lớn chận lên, và gạt nhỏ ngọn đèn dầu lạc để trên một cái giá cao trên án sách. Ông tụt giầy, kéo cái chăn dệt ngũ sắc lên tận vai, đặt cái gối xếp lại cho chỉnh, rồi vừa ngả lưng lên bộ ván gỗ quư, vừa thở dài một cách khoan khoái nhẹ nhàng.
Rồi ông quay đầu về nhà bên, cất tiếng se sẽ gọi:
- Tô Nang à! Tô Nang à!
Tô Nang là người thiếp thứ năm của ông Châu Nga Lộc. Một lát tiếng chân ở ngoài đi tới; ông lim dim mắt nh́n lên đ́nh cái màn chưa buông, nằm vuốt râu có ư đợi. Cửa khẽ cọt kẹt mở, rồi tiếng một người đầy tớ vào thưa:
- Quan Châu à!
- Hả?
- Có một thằng trông mặt sợ hăi lắm, ở đâu hồng hộc chạy vào đây. Nó c̣n ở ngoài sân đấy.
- Nó vào làm ǵ?
- Không biết, nó không nói được, nó cuống quưt bám lấy Nọng, chỉ một tí nữa th́ bị chó cắn chết.
- Mà sao lại để cho nó vào mới được chứ? Đuổi nó ra.
Quan Châu càu nhàu quay lưng vào. Rồi lại gọi:
- Tô Nang à, đi đóng cửa nhé!
Một lát, cửa lại thấy mở hé:
- Quan Châu à!
Quan Châu ra dáng bực ḿnh:
- Cái ǵ?
- Cái người lúc năy...
- Mặc kệ người lúc năy! ầy... à!
Rồi ông ta lại gắt:
- Mà làm sao cho nó vào mới được chứ?
- Cổng sắp đóng, nó chạy nhanh quá, đâm bổ vào, không ai giữ được. Bây giờ nó không chịu ra nữa.
- Nhưng mà nó vào làm ǵ?
- Nó đă nói được rồi, nó bảo, nó cần thưa với quan Châu một chuyện ghê gớm lắm.
Ông Châu bực tức vô cùng. Ông chống tay chực dậy, nhưng c̣n mong bảo cái thằng Thổ quấy rầy kia một lần nữa rằng: Việc quan trọng đến thế nào cũng phải để đến mai.
Người đầy tới tŕnh:
- Nó bảo nó thấy một việc ghê gớm lắm: Một người thắt cổ, với một người chết. Mà nó ở hang Văn Dú ra.
- Ở đâu ra?
- Hang Văn Dú!
- Hang Văn Dú?
- Phải rồi.
Ông Châu ngồi hẳn dậy, bảo:
- Gọi nó vào đây.
Rồi ông tung chăn ra, khêu to ngọn đèn lên, sốt sắng muốn nghe câu chuyện lạ.
Một người trần gian dám vào hang Thần là một việc ghê gớm vô cùng. Song đối với Quan Châu th́ lại là một điều lạ thường hơn là quái gở. V́ ông là một người thổ vào hạng trí thức, đọc quá nhiều sách chữ Hán, biết rất nhiều chuyện cũ.
Những điều ly kỳ mà dân ông mê tín, như những việc bí hiểm trong hang Thần, ông vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc cả. Ông cho rằng đó chỉ là điều phao truyền vô lư của những người bày chuyện, hoặc là những mưu kế của kẻ nào có vàng bạc giấu ở trong hang.
Nhiều lần ông muốn vào tận hang xem, ông lại hy vọng sẽ t́m thấy của cải trong ấy nữa. Song những điều dị đoan truyền lại lâu ngày vẫn có cái vẻ hiển nhiên rất vững chăi, thường khiến những người cứng cỏi nhất cũng sờn ḷng. Ông chắc hang Thần không làm hại được ḿnh. Thế mà biết bao lần ông hăm hở định vào thám hiểm trong hang, rồi lại thôi không dám quyết.
Người Thổ lúc năy đến tưới dầu vào ngọn lửa can đảm chỉ chực những tắt trong ḷng ông Châu. Hai người đày tớ dẫn anh ta vào, như dẫn một người tù. Ông Châu bảo họ lui ra và đóng cửa lại.
Người lạ mặt đứng trong bóng tối, cách Quan Châu chừng năm bước, vẫn yên lặng chưa nói ǵ. Ông Châu quắc mắt nh́n khắp người anh ta. Bộ mặt anh ta rơ rệt in h́nh ảnh sự kinh ngạc. Anh lấm lét vừa nh́n xung quanh, vừa thở, môi mấp máy không nói được lời nào.
Một lúc, ông Châu quát to:
- Mày vào đây làm ǵ?
Anh thổ choàng người lên, rồi nh́n thẳng vào mặt ông Châu, nuốt nước bọt nói:
- Tôi tŕnh quan Châu... rằng ở cửa hang Văn Dú... có một người thắt cổ.
Khi nói đến tiếng Văn Dú, anh ta tái mặt đi. Bỗng thấy ông Châu nh́n ra phía cửa gắt mắng ầm lên:
- Ai cho chúng mày nghe trộm? Có cút đi không chết cả bây giờ?
Người lạ mắt luống cuống.
Ông Châu bảo:
- Tao mắng người nhà, mày không việc ǵ.
Rồi ông lại hỏi:
- Nhưng mày đến Văn Dú hay sao mà biết?
-Tôi ở Văn Dú về đây... Tôi đi với một người tên là Nùng Khai...
- Nó đâu?
- Chết rồi!
- Nó chết rồi à?
- Phải!
- Chúng mày là người ở đâu? Đến đây làm ǵ? Đầu đuôi thế nào, kể ra.
Người con trai chưa kịp trả lời, ông Châu lại hỏi:
Mày không biết Văn Dú là chỗ ghê gớm sao?
- Có chứ!
- Thế sao c̣n đến, đến làm ǵ... nói mau?
Người con trai thưa:
- Tôi là người Châu Kao Lâm, làm bộ hạ cho Quan Châu tôi. Tôi với Nùng Khai đến Văn Dú v́ có việc riêng, Quan Châu tôi sai làm. Chúng tôi đến nơi thấy có mọt người thắt cổ treo trên cây, mà là một người Khách, nên không dám vào nữa, tôi chắc người Khách chết v́ hang Thần. Nùng Khai không thèm nghe, vào đấy một ḿnh nên quả nhiên cũng bị chết.
Người lạ mặt bèn thuật lại việc từ lúc ông già thổ đi vào trong hang tối, lúc anh ta đứng một ḿnh chờ đợi nghe ngóng măi, rồi ném ḥn đá sỏi thứ hai và nghe thấy tiếng chân ông già chạy ra, cho đến lúc ông già chết cứng trong tay ḿnh mà không nói được một lời nào hết.
Chốc chốc quan thổ lại chặn hỏi cặn kẽ, nhưng người này, ngoài những cái hắn trông thấy, chừng cũng chẳng biết ǵ hơn nữa. Câu trả lời của hắn, bởi thế, không được vừa ư ông Châu.
Nhưng khi hắn nói t́m thấy mảnh giấy rướm máu ở tay ông già, và đưa ra để ông Châu xem th́ ông ra chiều vừa ư lắm. Ông hăm hở cầm lấy, h́nh như đă nắm được đầu mối của sự dị thường này.
Trong lúc ông Châu giở tờ giấy ẩm ra xem th́ người thổ Kao Lâm nhớ lại bước nguy hiểm sợ hăi đă qua. Anh ta không ngờ một người yếu bóng vía như ḿnh lại thoát được khỏi tay thần Văn Dú.
Anh ta nhớ rằng chính lúc sợ hăi ở bên cái xác nằm cứng đờ của Nùng Khai th́ trong trí vẫn tỉnh. Bây giờ trời mỗi khắc một u ám, người anh ta thấy lạnh lẽo, tưởng chừng như bị cái tử khí ngấm dần vào.
Nghĩ đến người Khách chết treo, nghĩ đến cái hoảng hốt của người thổ già lúc chạy ra khỏi hang, nghĩ đến cái hang ḿnh ngồi trước cửa cùng với một người bị nó làm hại; lại nghĩ đến những điều nguy khốn độc ác nó sẽ lừ lừ vây quanh ḿnh như đêm tối ám mù cảnh vật; anh ta liền vùng dậy, buông cái xác ông già xuống đất, như thêm táo tợn v́ quá khiếp sợ, khoa thanh lao sáng lên trước mặt rồi hết sức nhanh chạy về đường Kao Lâm.
Đang chạy, sực nhớ ra trước mặt ḿnh có cái suối sâu khó ḷng qua được; anh ta vội rẽ sang tay phải; chạy được một độ, th́ lại gặp khúc suối nữa chắn ngang. Anh ta thét lên một tiếng to, rồi bán sống bán chết chạy về phía châu Nga Lộc.
Anh chàng thở không ra hơi mà vẫn cứ luôn mồm gọi tên các chư vị "sằn slin" đến cứu. Lúc nào sau lưng cũng ồn ào như có ai đuổi bắt; mà càng chạy càng thấy chậm, bước đuổi càng thấy mau. Những đồi núi rừng rậm như thêm nhiều măi ra. Đường lối gồ ghề, vừa dính vừa trơn làm cho anh ta cứ chúi vấp hoài, trượt ngă hoài; trăm lần tưởng chết!
Đến lúc trông thấy những nhà cửa dưới chân đồi và cái cổng lớn ở châu Nga Lộc th́ trời đă tối. Anh ta chạy vụt ngay vào cổng. Những tiếng ḥ hét của bọn tôi tớ lại khiến anh ta thêm hoảng, v́ anh tưởng đó là những tiếng ma quỷ ở trong chỗ nhà cửa biến hiện ra.
Nhưng anh ta đă qua một cái sân rộng và phẳng; đă ngửi thấy mùi thóc vựa và ngựa chuồng là những mùi quen thuộc, rồi lại nghe thấy những câu hỏi giận dữ của mấy người nắm ḿnh lại; lúc ấy anh ta mới dám chắc là ḿnh thực c̣n ở dương gian.
Các người nhà ông châu Nga Lộc xôn xao nháo nhác lên v́ nghe thấy anh ta bảo ở Văn Dú đến. Nhưng chính ông Châu th́ không tỏ vẻ sợ hăi ǵ. Bấy giờ người thổ Kao Lâm thấy ông ta t́ trán vào ḷng bàn tay, lẳng lặng không nói câu nào và ra chiều suy nghĩ một cách điềm tĩnh.
Cái vẻ ấm áp trong gian pḥng sáng bởi ngọn đèn cao này đă làm cho anh ta tỉnh hẳn người lại. Anh ta x́ mũi vắt xuống đất, liếm môi một cái rồi khẽ cất thứ giọng kín đáo của người hiến mưu kế mà nói với ông châu những thần những thánh, những thầy mo, bà then, đến những phương cầu cúng để cho thần Văn Dú nguôi cơn lôi đ́nh.
V́ hắn cho cái chết của người Khách và Nùng Khai là do sự tức giận của thần núi. Cái ḷng mê tín của dân thổ lại thấy biểu lộ ra một lần nữa. Ông Châu trí thức kia liệu có sờn ḷng v́ những điều mắt thấy của tên thổ này chăng?
Người thổ Kao Lâm cứ lải nhải hoài. Ông Châu th́ vẫn trầm ngâm nh́n xuống mảnh giấy dày đặt trên án. Có lẽ ông ta đang nghĩ ngợi đâu đâu chớ không để ư đến những lời anh Thổ nói: v́ bỗng nhiên ông ta đọc: Miệng có hai răng
Mày vào trăm chân
Mày lên ba tay
Tên mày là đá...
Rồi ông hỏi:
- Mày có biết chữ đấy?
Anh ta chưng hửng một lát rồi thưa:
- Có biết.
Ông Châu cau mày, lại hỏi:
- Mà mày hiểu những câu này chứ?
- Hiểu à? Không!
Ông Châu thở dài:
- Thực mày không hiểu nghĩa ǵ à?
- Không, mà hiểu làm sao được.
- Mày lấy mảnh giấy này ở tay Nùng Khai à?
Người Thổ Kao Lâm thưa:
- Nó ở hang ra tôi mới thấy có. Tôi hỏi, nó không nói được, tôi bảo ra hiệu cho tôi hiểu ư, th́ nó chết mất rồi.
Ông Châu vừa nh́n vào tờ giấy, vừa hỏi:
- Nùng Khai là người như thế nào?
- Là người ông Châu Kao Lâm sai đi đến Văn Dú với tôi.
- Nó là người tin cẩn của ông Châu Kao Lâm phải không?
- Phải, cũng như tôi.
Ông Châu khẽ gật đầu. Ông đặt mảnh giấy xuống bàn ngẩng đầu lên nh́n người thổ Kao Lâm rồi dịu lời bảo hắn:
- Bây giờ, mày không được giấu tao một điều ǵ, th́ tao mới xét được rơ việc này. Người Khách kia chết, người Thổ Nùng Khai chết, mà mày không chết; mày cũng đến Văn Dú; mày biết rằng ai giết nó. Thế ngộ bảo mày giết th́ sao...?
Người trẻ tuổi vội nói:
- Không! Không phải! Không phải tôi...
Ông Châu liền chặn lại:
- Ừ, tao cũng biết. Nhưng người ta muốn buộc tội cho mày cũng được. Tao lại biết chúng mày định vào hang Văn Dú làm ǵ nữa kia... Lúc năy mày bảo quan châu Kao Lâm sai đi có việc riêng, tao đoán biết ngay. Đây là tao hỏi cho rơ thêm, mày không được giấu nữa...
Rồi ông Châu nh́n thẳng vào mặt người trai Thổ hỏi một cách dơng dạc:
- Tại sao quan châu Kao Lâm lại biết được trong hang Thần có của chôn?
Người thổ Kao Lâm giật nẩy ḿnh lên, không giấu được cái kinh ngạc. Trong lúc hốt hoảng, hắn đă trót nói với quan châu rằng: Nùng Khai và hắn đi tới Văn Dú theo lệnh ông quan châu Kao Lâm sai đi.
Sau hắn nghĩ lại, định bịa đặt ra một câu chuyện nào đó: như đi t́m người nhà lạc, hay đi qua Văn Dú tự dưng bị dủn dủi vào hang, hay là chuyện huyền hoặc nào khác đợi ông Châu hỏi th́ han sẽ đem ra mà trả lời.
Không ngờ câu hỏi của ông Châu đường đột quá, lại trúng ngay vào sự thực mà hắn muốn giữ kín. Hắn không dám nh́n đôi mắt soi mói của ông Châu Nga Lộc nữa, và đứng lặng thinh.
Ông Châu lại lấy lời nói thực dịu dàng bảo hắn:
- Mày đứng lại gần đây. Đừng sợ mà cũng đừng ngại ǵ hết. Mày phải nói rành mạch đầu đuôi công việc mày định làm cho tao nghe.
Người thổ Kao Lâm vẫn không thưa. Ông quan thổ nói tiếp:
- Tao có đủ quyền thế để bênh vực mày, cũng có đủ quyền buộc tội mày nữa, mà tao muốn cho mày ở đây hay đuổi mày ra khỏi châu cũng được, ở châu tao không nhà nào dám chứa một người ở hang Thần về.
Ông châu Nga Lộc trông thấy rơ cái sợ hăi trên mặt người trai Thổ: Hắn nh́n ông ta ra ư van lớn.
Ông ta lại dỗ:
- Thế nào? Mày nói đi. Nói thực mọi điều cho tao nghe. Mày đă vào đây, đă khỏi chết v́ ông thần Văn Dú rồi, th́ mày nói đi, giấu tao làm ǵ nữa? Mày giấu tao, rồi tao cũng biết được kia mà?
Anh chàng nuốt nước bọt, liếm môi hai ba lần; mặt nhăn nhó ra vẻ khổ sở, tuyệt vọng. Nhưng hắn biết lời của ông quan này chắc chắn như dây sắt ràng buộc, nên phải khai rằng:
- Cách đây ngót mười hôm, một người lư trưởng bản Đong thuộc châu Kao Lâm đến nhà quan châu tôi để đưa một bản địa đồ vẽ đường lối đi vào Văn Dú và biên mấy câu thần chú để khi vào được hang ấy mày đọc th́ t́m thấy vàng.
- Nhưng câu thần chú ấy chép trong mảnh giấy này phải không?
- Phải rồi. Nhưng mảnh giấy này lại khác. Chắc Nùng Khai lấy ở trong hang ra: chỉ thấy những chữ chớ không có địa đồ.
- Thế nghĩa là việc này có người khác biết chứ ǵ?... Có lẽ là thằng Khách?... mà sao nó lại chết, có người nào ở trong hang nữa không?
- Tôi không biết. Tôi biết thế nào được.
- Ừ, phải kể nốt đi.
Anh ta kể tiếp:
- Bản địa đồ ấy nguyên là của một ông già bản Đong tên là Hoàng An Lài, lúc gần chết trao lại cho người lư trưởng ở gần đấy, nói rằng đó là bản sao lại bức địa đồ của một người Tầu đời nhà Minh sang làm quan bên này; viên quan tàu có của để ở Văn Dú...
- Thế nào? Một người quan Tàu, đời nhà Minh?...
- Phải, bấy giờ là hồi quan nhà Minh sang cai trị...
Viên quan Tàu kia tích được rất nhiều của trong hang Văn Dú một cách rất kín, rất khéo, không ai biết được, định sau này sẽ mang dần về Tầu; không ngờ trong nước người Kinh nổi lên đánh đuổi quân Minh, viên quan kia phải chạy ẩn vào nhà ông tổ ba đời nhà An Lài, rồi v́ già yếu và lo nghĩ quá nên chết ở nhà ấy.
Lúc hấp hối, người ấy có để lại cho nhà họ Hoàng rất nhiều tiền bạc, và đưa ra một bức địa đồ chỉ nơi giấu của, nhờ đưa sang cho con cháu bên Tầu.
- Thế người quan Tầu không có bộ hạ sao?
- Nghe như có. Song người nhà họ Hoàng thông thuộc đường lối và trong khi loạn lạc, họ có cách trốn được ra ngoài. Người quan Tầu bắt nhà họ Hoàng thề nguyền rất độc, không bao giờ được lộ việc ấy ra cho ai biết, mà nhất là không được t́m cách vào hang Thần.
Viên quan ấy lại cho biết rằng y đă yểm vào các của giấu ở trong núi và nhờ thần núi giữ của trong ấy nữa, của cải chỉ có con cháu người quan Tầu mới dùng được, mà ai cả gan hay vô t́nh vào hang Văn Dú sẽ bị thần vật chết ngay.
Nhà họ Hoàng không tin. Người Tầu chết rồi, họ liền đem sao lại bức địa đồ và chép lấy những lời "thần chú" biên lên một mảnh giấy khác.
Ông châu Nga Lộc hỏi:
- Thế th́ có lẽ chính là mảnh giấy này.
- Tôi không biết chắc. Người nhà họ Hoàng đưa những giấy tờ của viên quan nhà Minh cùng với hai bản giấy kia sang Tầu, rồi không thấy ai trở lại cả. Để ư ḍ xét ba bốn mươi năm trời, sau lúc người Kinh đă b́nh định, và lúc mấy thầy địa lư Tầu đă qua lại được nước Nam, mà vẫn không thấy tăm hơi nhà họ Hoàng, cũng không thấy bóng người Tầu nào sang t́m của hết.
"Về sau con cháu họ Hoàng học thuộc chú và đánh liều đi kiếm của trong hang thần. Nhưng người nào đi cũng không thấy trở lại nữa. Có hai lần người ta đi t́m th́ thấy một đứa nằm chết ở gần suối Văn Dú, c̣n những đứa khác người ta chắc chết ở trong hang, nhưng không ai dám vào.
Việc ấy đồn ra và từ đấy bắt đầu có những chuyện ghê gớm gây nên bởi thần Văn Dú. Ở làng gần suối lớn đă phải lập ra tục tế thần núi bằng các người con gái đẹp mới được b́nh yên. Nhà họ Hoàng không bao giờ dám lộ chuyện kín về sự yểm của ra v́ sợ người ta đổ cho cái hoạ lớn kia gây nên tại nhà ḿnh...
Ông Châu chặn lại hỏi:
- Ừ, thế sao họ Hoàng không huỷ cái giấy kia đi?
- H́nh như họ muốn giữ lại để sau này con cháu người quan Tầu có ai sang t́m của, họ sẽ đem giấy ra làm chứng, mong người Tầu đền ơn. Song đến đời An Lài th́ ông ta vẫn giữ kín không cho các con biết, sợ chúng v́ tham mà mang hoạ... Hoàng có ư đưa cho lư trưởng bản Đong để hắn tŕnh cho quan châu Kao Lâm biết đến nguồn gốc những cái hoạ bí hiểm của hang Thần.
Quan châu Kao Lâm tôi lại không sợ những điều ghê gớm kia, bàn với tôi cái kế t́m vàng trong Văn Dú, và có ư sai tôi đi ḍ xét trước. Tôi mới nghe cũng đủ khiếp, nhưng Quan Châu tôi nhất định bắt tôi phải vâng theo.
Trong mấy ngày ông ấy giảng dụ các lẽ cho tôi nghe, cắt nghĩa cho tôi không sợ những chuyện người ta đồn về hang Thần, lại hứa cho tôi rất nhiều tiền, lại cho tôi được làm chánh tổng nữa... Nhà tôi mấy đời nhờ vả nhà Quan Châu tôi, mà bây giờ cũng nghèo. Tôi biết chắc nếu việc thành th́ sung sướng một đời nên mới vâng lệnh ông Châu tôi...
- Thế c̣n Nùng Khai?
- À, phải cũng tại Nùng Khai nữa, nên Quan Châu tôi càng muốn t́m cho được của trong Văn Dú, mà tôi được vững ḷng thêm. Nùng Khai là một tên cướp rất táo tợn, nó vẫn chửi rủa Văn Dú mà không việc ǵ. Nó lại bảo rằng nếu nó biết trước Văn Dú có vàng th́ nó lấy đă lâu rồi, không phải đi cướp đâu nữa.
- Sao Quan Châu Kao Lâm lại giao việc cho một tên cướp?
- V́ nó có họ với một người thiếp của Quan Châu tôi. Nó bị bắt đáng nhẽ bị chết chém, nhưng Quan Châu tôi lấy quyền thế giảm tội cho nó. Bởi thế, lúc cho gọi nó lên, nói đi t́m của th́ nó thề sống thề chết sẽ trung thành.
Nó quả quyết sẽ đi vào hang Thần, sẽ t́m cho được của trong hang Thần. Ông Châu tôi liền giao cho nó bản địa đồ kia, lại cho tôi đi theo, vừa để coi chừng, vừa để giúp đỡ nó. Tôi thấy nó nói mạnh bạo và khôn khéo lắm, nên quên cả sợ.
Nhưng đến lúc gần thấy hang núi, tôi đă lo ngại; lúc qua suối lớn, tôi đă ghê rợn; sau lại thấy thằng Khách thắt cổ... Rồi lại thấy Nùng Khai hốt hoảng ở trong hang chạy ra...
Ông châu vừa nghe người Thổ Kao Lâm vừa lấy que đẩy cho ngọn đèn dầu cháy to lên. Trên mặt ông hiện ra cái vẻ chăm chú của một người thu hết cả tâm trí vào một công việc: Lông mày nhíu lại, đôi mắt trong sáng lạnh lùng nh́n ngọn lửa mà hơi thở của ông làm cho run run.
Ông khẽ nói:
- Ai giết tên Khách kia? Trong hang c̣n có người nào không? Có vật ǵ không? Yêu quái ư? Sao Nùng Khai lại chết?
Mấy câu đó nói nhanh, nhưng chẳng bảo ai, như lời tự vấn; và người con trai Thổ cũng không biết đáp thế nào được nên ngậm tăm.
Ông quay lại nh́n hắn và hỏi to lên:
- Thế trong ḿnh Nùng Khai không thấy có vết tích ǵ chứ? Mày có thấy dấu máu nào không?
Người thổ Kao Lâm ngẫm nghĩ một hồi:
- Không thấy ǵ cả... Hay là không thấy vết thương nào nặng đến nỗi làm chết được người.
- Nhưng không có một tí dấu vết ǵ sao?
- À có! Mà nhỏ lắm: chỉ lấm tấm rớm máu như chỗ da kỳ mạnh hay bị xước mà thôi...
- Thế à? Ở chân phải không? Nó hẳn bị cái ǵ quấn chặt ở chân...
- Không! Ở tay, ở hai bàn tay, nhiều nhất là ở các ngón.
Ông Châu lẩm bẩm:
- Thế th́ quái lạ, quái lạ lắm!
Ông vừa nói vừa nh́n mảnh giấy vuông mà ông lật hết mặt nọ đến mặt kia.
- Vết máu trên tờ giấy này (lời người trai thổ) là ở tay Nùng Khai dính ra đấy. Nó nắm chặt quá, tôi gỡ măi mới lấy ra được.
Ông Châu tưởng chừng như không để ư đến câu vừa rồi, chỉ hỏi:
- Thế c̣n bản địa đồ kia?
- Bản địa đồ kia Nùng Khai giắt trong ḿnh nó, tôi không dám lấy. Bản địa đồ ấy chỉ vẽ lỗi đi Văn Dú chứ không vẽ đường lối trong hang.
Ông Châu gật gù:
- Ừ, được rồi, tao hiểu rồi. Bây giờ mày hăy lui xuống nhà nghỉ đi. Rồi ở đây với tao, tao sẽ liệu. Chúng nó có hỏi th́ không được kể điều ǵ về hang Văn Dú hết, nói rằng Quan Châu bắt phải im.
- Mà Quan Châu có bảo thầy mo...
- Được rồi. Có. Thôi xuống đi. Nọng à! Lên dẫn nó xuống cho nó thay quần áo, cho nó sưởi, rồi bảo nó ngủ đi.
Lúc theo tên Nọng xuống dưới nhà, người thổ Kao Lâm c̣n dặn với:
- Quan Châu bảo thầy mo nhé... Quan Châu à.
- Được, được!
Quan châu Nga Lộc chẳng bảo thầy mo nào hết. Cánh cửa vừa khép lại, ông ta liền thắp lên một ngọn đèn nữa, hăm hở kéo tờ giấy gần lại, suy tư nghĩ ngợi.
Mặt ông Châu hồng lên và lộ vẻ mừng rỡ. Ông ta bắt đầu xét lại mảnh giấy của người thổ Kao Lâm rất cẩn thận, v́ ông biết rằng hiểu được ư tứ của những câu chữ Hán viết trên đó, ấy là phá được cái tường bí mật của thần giữ của và cắt nghĩa rành mạch được các điều kỳ dị xảy ra.
Những h́nh vẽ ngây dại và mấy hàng chữ viết rất tốt, tuy bị nước thấm ố hoen, song vẫn rơ ràng lắm: Nét mực cũ đă ăn sâu xuống mặt tờ giấy ướt và dầy. H́nh bên trái vẽ một người áo cộc quỳ lên, hai tay cầm một tờ giấy giơ thẳng ngang mặt như người đọc sớ.
Ông Châu đoán có lẽ nó muốn chỉ bảo phải trân trọng giữ lấy và theo những lời mầu nhiệm của mấy hàng chữ Hán kia. Bó đuốc, vẽ ở bên trái, ngọn lửa cháy và bốc khói lên, chắc hẳn chỉ về sự tối tăm, hiểm hóc trong hàng thần; hoặc ư bảo phải t́m xét cho hiểu thấu những nghĩa ẩn trong mấy câu kia, mấy câu mà người thổ Kao Lâm gọi là những lời thần chú.
Ông đọc qua một lần mấy hàng chữ nho. Rồi ông đọc lại lần thứ hai và thứ ba; làm như cứ nhắc lại như thế th́ sẽ thấy cái nghĩa ẩn trong đó:
Miệng có hai răng;
Ba chân bốn tay;
Mày vào trăm chân;
Mày lên ba tay;
Tên mày là đá;
Đá sinh trứng đá;
Trứng đá giữ của;
Mày có sức mang;
Mày giàu, mày chết.
Những câu kỳ lạ đến nỗi làm cho ông ngờ là lời thần chú thực. Nhưng không có lẽ; nếu phải lời thần chú th́ tên Nùng Khai đă học thuộc tất nhiên không đến nỗi chết, ngay sau khi ở hang thần chạy ra... Quyết nhiên đó là những bí mật, có nghĩa hẳn hoi, nhưng cái nghĩa ấy phải dùng hết tâm lực và trí sáng suốt mà t́m th́ mới thấy được.
"Hừ! (ông lẩm bẩm nói để tiếp theo những ư tưởng vừa rồi). Bọn quan Tầu họ quỷ quyệt lắm! Cũng là một thứ lời di lại, mà một đằng th́ là những câu dặn ḍ để t́m ra của, c̣n một đằng th́ lừa cho người ta mắc phải những cái nạn gớm ghê...
Nhưng ta, ta không mắc lừa đâu. Ta không nông nổi, u mê như bọn con cháu nhà họ Hoàng, tưởng đây chỉ là những câu có quyền phép mầu nhiệm. Không. TA biết. Rồi ta sẽ t́m cho ra nghĩa kín, ta sẽ khám phá cho kỳ được".
Ông lại hơi mỉm cười và nghĩ đến cái độc kế mấy trăm năm nay sẽ bị ông huỷ đi mất, mà cái kho của kia tất sẽ về tay ông.
"Miệng có hai răng... ba chân bốn tay"... có lẽ đó là mô tả h́nh dáng thần giữ của chắc? Không phải. Ta không được tin đến thần giữ của cũng như không được tưởng những câu này là thần chú. V́ nếu thế th́ không bao giờ t́m được đầu mối.
"Miệng có hai răng... ba chân bốn tay..." Lạ! "Mày vào trăm chân, mày lên ba tay". Hừ! Quái! Ai vào? Ai lên? Sao lại trăm chân, sao lại ba tay? "Tên mày là đá, đá sinh trứng". Đá sinh trứng đá? Trứng đá giữ của. Có lẽ họ để của ở dưới hang đá chắc? mà sao lại gọi là trứng đá? Trứng đá giữ của. Mày có sức mang... mày giầu mày chết".
Ông càng đọc càng nghĩ càng thấy mờ ám thêm. Chợt có một ư kiến thoảng qua, ông bèn xoay tờ giấy vuông đủ bốn chiều đọc từ trên xuống dưới, rồi đọc từ dưới lên trên; lại đọc ngang từ phải qua trái và từ trái sang phải. Nhưng cũng vô ích. Mấy hàng chữ vẫn trơ trơ giữ cái bí mật cùng với hai cái h́nh vẽ lạ lùng.
Ông Châu thử ôn lại các bộ truyện cổ mà ông đă xem, nhớ lại những sự tích chép ở trong ấy; bao nhiêu án ly kỳ ra đời trước cùng với bao nhiêu phương pháp cổ nhân dùng để tra, ông đều đem ráp vào việc cắt nghĩa tờ giấy này. Ông thấy từ cổ chí kim không bao giờ có những cái khó hiểu hơn, mà đến những việc tương tự như thế cũng vậy.
Hai ngọn đèn dầu thi nhau sáng, cùng nhau như nín lặng để xem ông Châu nghĩ ngợi trầm ngâm.
Ông ta ngồi trên giường gỗ, trên án thư, khuỷu tay chống bên cạnh một cái đế đèn, nắm tay th́ ấn vào mồm, đăm đăm như đang t́m gỡ một nước cờ bí. Lông mày nhíu lại một cách dữ tợn, hai mắt nh́n muốn thủng tờ giấy để trên bàn.
Lúc ấy vào đầu trống canh hai. Nhưng có lẽ ông châu quên cả thời khắc. Trong cái pḥng ấy ngoài ông ra lại c̣n Tô Nang là cô thiếp yêu quư. Cô chưa hề thấy quan Châu chăm chỉ miệt mài với việc quan như thế bao giờ. Cô ngồi ghé một chỗ lặng thinh, nghe tiếng quan Châu lẩm bẩm rồi lại im, nghe các tiếng buồn tẻ trong lúc canh khuya rồi cô dựa vào vách mà thiu thiu ngủ. Chốc chốc, ngọn đèn lại nhô cao lên, rồi khẽ co thấp xuống và nhẩy chập chờn.
Ông quan thổ không nói qua một lời ǵ nhưng h́nh như ông nghe thấy tiếng suy nghĩ của ḿnh rơ rệt nói trong giữa khoảng tĩnh mịch sâu xa của đêm tối. Bỗng chốc đồng hồ trên tường gơ một tiếng lạnh lùng vào giữa thời gian, cùng một lúc móng tay ông châu vô t́nh cạo xuống cạnh án thư nghe như tiếng con mọt gặm.
Có lúc ông ngáp lên một cái, nói khẽ mấy câu nghĩ ngợi trong trí, rồi lại trầm ngâm đắm đuối t́m những nghĩa ẩn nó chưa chịu hiện h́nh.
Dưới chân tường, tiếng chuột rúc rích chạy qua làm vểnh tai con mèo yên lặng. Ngoài sân, mấy con ngựa buộc trong chuồng tối đập chân xuống đất xôn xao. Một trận gió làm cót két cành tre; văng vẳng sau thềm, tiếng lá reo và tiếng sâu dế ŕ ŕ trong bụi rậm.
... Mày tên là đá
Đá sinh trứng đá
Trứng đá giữ của...
Cái đầu mối, ông mong gỡ được, càng t́m càng thấy bối rối thêm. Đă hơn một trống canh rồi mà những chữ này cùng với thằng người quỳ và bó đuốc vẫn cứ nhảy nhót hoài trong tâm trí ông quan Thổ. Lúc ấy cô thiếp của ông ngồi dựa ở bên tường kia đang há mồm ra ngủ kỹ. Đầu vẫn chưa bỏ cái khăn vuông chàm, trên mặt hiện ra vẻ ngây ngô và b́nh tĩnh.
Trái lại trên mặt quan ông đầy vẻ lo nghĩ lẫn với vẻ bực ḿnh. Bao nhiêu tâm lực ông đem ra hết mà vẫn không t́m ra được mối manh ǵ. Ông đọc lại những câu kỳ dị:
Mồm có hai răng...
Ba chân bốn tay...
Mày giầu mày chết...
Không biết đến mấy trăm lần rồi. Nhưng cái trí sáng suốt của ông h́nh như không đủ lực trước cái đêm tối vô cùng của bí mật. Cái cằm vuông của ông nổi cả xương và gân lên, hai má và hai tai ông đỏ như bị nướng vào ngọn lửa đèn gần đó.
Lần này ông không đọc bằng mắt nữa; ông lẩm bẩm như người làm tính: "Đá sinh trứng đá, trứng đá giữ của, mày chết... mày chết mày giàu, mồm có hai răng... mồm có hai răng... mồm có hai...".
Tiếng ngáy bên tường cứ rờn rờn hoạ theo, cô vợ trẻ của ông quan già đang vẩn vơ trong giấc mộng... Bỗng một tiếng bẳn gắt theo một nắm tay đập mạnh lên bàn:
- Mệ thảu mư!
Ông Châu vứt giấy quay lại đằng sau, Tô Nang tỉnh dậy.
Ông Châu thấy cô ta th́ ngạc nhiên hỏi:
- Ô ḱa, thế ra Nang không đi nằm à?
Ông Châu lại bên án để tắt bớt đèn đi. Chợt thấy chén nước uống thừa đổ ướt cả tờ giấy. Ông vội cầm lên thấm vào tập hoá từ cho ráo rồi hơ lên ngọn đèn cho khô.
Hàng chữ Hán và hai h́nh vẽ bên càng nổi rơ ở trên ngọn lửa tạt đi tạt lại. Bỗng nhiên ông Châu kêu lên một tiếng, rồi giáp cả hai ngọn đèn lại mà hơ tờ giấy lên. Ở giữa mảnh giấy hồng hồng, ông thấy một khoảng tối hơn. Một tia sáng vừa soi qua trí ông, ông nghĩ ngay đến một câu chuyện cũ.
- Phải, phải! (ông lẩm bẩm nói). Cũng giống như truyện tờ di chúc trong bức tranh... Phải rồi!... Cầm giấy giơ trước mặt mà đọc... mà bó đuốc lửa cháy ở sau tờ giấy... nó bảo ḿnh đốt lửa mà soi... mà ḿnh cũng như anh huyện quan kia... Ḿnh ngốc thật!
Thế rồi ông không hỏi ǵ đến cô thiếp nữa. Cô ta chẳng hiểu ǵ cả, đứng giương mắt thực to mà nh́n. Ông Châu ngồi xổm trên giường, hai tay vừa run vừa dấp nước trên bàn vào mảnh giấy, rồi cẩn thận bóc chẻ nó ra làm đôi.
Một miếng giấy vuông sắc trắng hơn, dán áp vào nửa giấy thứ hai và bong ra gần hết. Ông Châu cầm soi lên ngọn lửa th́ thấy chi chít những nét chữ nhỏ nằm hỗn độn. Ông xem kỹ th́ biết mảnh đó là một tờ giấy rộng gấp làm tư. Ông phải hết sức cẩn thận mới lấy móng tay bóc mở ra được, v́ tuy nó cũng dai, nhưng theo với hai mảnh ngoài bị nhầu và thủng rách lỗ chỗ.
Trong tờ giấy mới này viết chữ dầy gần hết. Nét chữ cũng tốt và rơ như ở tờ áp ngoài. Ông Châu đọc thấy những lời này:
Hang Văn Dú trông như cái mồm có hai răng. Ba thước nói là chân, bốn thước nói là tay. Mày đo từ cửa hang vào trăm chân, rồi mày đo trở lên ba tay, th́ sẽ thấy chữ tên của mày là Thạch. Đào từ chữ thạch xuống sẽ thấy một cái hang nữa mang những ḥn đá h́nh nhẵn như trứng. Đá này giữ kho của đó. Nhưng không được lấy sức mà mang v́ mày t́m thấy vàng nhưng mày chết.
Bên cạnh những ḍng chữ này, c̣n một đoạn chữ nhỏ hơn và viết đá thảo:
Phải dán giấy này như cũ, mang theo trong ḿnh cho đến khi vận hết của trong Văn Dú. Nếu trong hang không có dấu vết t́m đào th́ về sau t́m đến nhà con cháu họ Hoàng mà thưởng cho họ năm ngh́n vàng. Nếu thấy có người chết vào chỗ đá lở th́ phải cẩn thận mà hết sức tránh sự báo thù của họ Hoàng.
Sáng hôm sau ông Châu Nga Lộc xuống nhà sớm, người thổ Kao Lâm c̣n ngủ li b́ trên một chiếc cói.
Mấy đầy tớ thức dậy thưa rằng hắn cứ mê man nói đến những hang, những núi, những người chết, với những người thắt cổ suốt đêm, nên không ai ngủ được yên v́ ai cũng sợ.
Ông quan thổ gật đầu bảo cứ để cho hắn nằm đó, rồi quay lại dặn bốn năm người đàn ông ở ngoài sân đi vào:
- Chúng mày ăn cơm thực nhanh rồi sắp sửa đi theo tao có việc cần. Cầm đuốc, cầm dao, cầm dây, mang xẻng cuốc, với đóng sáu con ngựa.
Mọi người biết là có việc quan hệ lắm, v́ không mấy khi quan Châu dậy sớm như thế, mà lại ăn mặc gọn ghẽ hẳn hoi. Ḿnh ông vận áo bông chàm thắt ở ngang lưng, chân đi giầy, đôi bít tất xanh kéo lên bó lấy ống quần, ngoài cùng lại quấn thêm một lần nịt vải.
Bấy giờ ông đang chít lại cái khăn nhiễu lớn và đứng đợi xem người ta đóng ngựa.
Ngoài sân, mới lù mù sáng.
Mấy con vật thấy người vào chuồng th́ đập chân xuống đất và ph́ thở rất mạnh.
Ông Châu bảo họ hẵng lấy cỏ cho ngựa ăn.
Dưới bếp lửa cháy to, chiếu lên mặt sân một dải ánh sáng mập mờ và lay động. Ông Châu giục người dưới bếp thổi cơm mau lên, những người c̣n xùm xụp đắp chiếu ngủ trong xó hiên nghe tiếng ông nói to lục đục trỗi dậy. Rồi người th́ đi mở cổng, người th́ vào bếp, người th́ ra đằng sau. Làm náo động cả cái cảnh lạnh lùng buổi sáng.
Lúc ông quan thổ cơm nước đoạn, từ nhà trên lại đi xuống th́ thấy người bộ hạ cũng đă ăn uống xong và đứng nai nít ở bên sáu con ngựa yên cương cẩn thận.
Trong này kín gió mà c̣n thấy giá lạnh, th́ ở bên ngoài tất rét hơn nhiều. Ông Châu lấy một cái khăn vải chàm to bịt kín lấy hai tai và thắt xuống cằm. Ông đeo một thanh gươm lớn mà ông vẫn mang theo trong lúc đi xa và đội một cái nón đan to vành đă cũ.
Ông đứng trước khung cửa, giữa khoảng ánh sáng đo đỏ của ngọn đèn yếu đuối bên trong, và dặn người nhà phải giữ người thổ Kao Lâm lại cho đến lúc ông trở về. Rồi ông bước ra, lên yên ngựa từ trong sân để cho mấy người hầu dắt ngựa ra khỏi cổng.
Trời mới tang tảng sáng. Sương xuống dầy quá đến nỗi không thấy được nhà cửa ở dưới chân đồi. Người ta bị cái thứ không khí ẩm thấp, lạnh lùng bọc lấy, và thấy ḿnh cách biệt với người đi bên cạnh. Ông Châu quay lại bảo hai tên bộ hạ đi lên trước, c̣n ba tên kia đi sau. Sáu người cưỡi ngựa đi hàng một như ngồi trên mây, cứ thuộc ḷng lần qua con đường nhỏ hẹp mà ra khỏi Châu Nga Lộc.
Người đi đầu không biết nên rẽ lối nào, dừng lại hỏi.
Ông Châu bèn truyền ra một cách dơng dạc:
- Cứ thẳng mạn Văn Dú mà tiến lên!
Ông có ư định xem họ cử động ra sao. Nhưng mọi người đều im lặng, lại không ra dáng lấy làm kinh lạ. Cái lệnh ông Châu mới truyền xuống, nhưng họ đă đợi nghe từ lúc mới bước chân ra. Vả lại họ là những người can đảm và rất trung thành.
Tuy họ cũng tin và sợ những cái ghê gớm của hang thần, nhưng họ lại tin và sợ cái oai của quan Châu chẳng kém. Giá thử bị sai phái đi vào những nơi nguy hiểm như thế th́ họ c̣n sẵn ḷng ngần ngại, nhưng bây giờ lại có cả quan Châu cùng đi.
Không ai nói một câu nào. Sáu cái đầu cùng chăm chú cúi trông xuống khoảng đất phía trước vó ngựa. Chung quanh đều mờ mịt không trông rơ vật ǵ.
Đi khỏi những tầng ruộng rạ cụt gần xóm làng th́ những đồi đất chen nhau ở trong đám sương mù lần lượt hiện ra rồi lại lần lượt biến mất. Sáu người càng tiến th́ trời càng thêm sáng.
Sương đặc cũng dần dần loăng thêm. Đường lối trông đă rơ. Người thứ nhất ngoảnh lại đă thấy mặt người sau cùng. Họ bèn bảo nhau thúc ngựa chạy nhanh, cho chóng tới nơi và cho quên rét
Được già nửa đường th́ núi Văn Dú mới thấy hơi lờ mờ ở sau cái màn hơi trắng đục. Đường lối đi rất khó v́ họ chọn toàn nẻo tắt, phải đi qua hai ba rặng rừng cây thấp xơ xác, và lên xuống năm sáu dăy đồi đất liền nhau.
Bọn đầy tớ quan Châu chưa một lần nào dám hỏi ông ta xem đến Văn Dú làm ǵ. Nhưng ông ta cũng cắt nghĩa cho họ biết rằng đến Văn Dú trước hết để khám phá những chuyện bí mật, sau để tra xét án mạng xảy ra ở đấy. Nhưng cái cớ chính, mà ông không nói đến là đi t́m vàng.
Lúc bọn ông Châu đến chân núi Văn Dú th́ đă vào khoảng giờ th́n (tám giờ sáng), đỉnh núi vẫn như bị sương ăn, mà thân núi cả ngang, trông lù lù đen có vẻ hầm hầm tức giận.
Quan Châu ngửng lên trông, rồi đưa mắt từ bên phải qua bên trái, chú ư nh́n từng cái kẽ núi lá cây chen chúc, cho đến những gân trắng rất lớn vạch theo chiều thớ núi, nổi lên trên mặt đá màu xám xanh.
Ông quan thổ xuống yên cùng năm người bộ hạ dắt ngựa đi từ sau lưng ra trước mặt núi, rồi buộc dây cương vào bốn gốc cây mọc gần nhau. Đoạn ông tuốt gươm ra, cẩn thận từng bước đi lên, và bảo trước cho mấy người kia biết có người Khách chết treo, để họ khỏi sửng sốt.
Ông Châu trông thấy người thắt cổ trước nhất. Nó ẩn hiện trong cành lá nhỏ và thẫm ăn màu với bộ quần áo chàm. Đến gần xem th́ mặt và bàn chân, bàn tay của người Khách đă xám x́ lại nhợt nhạt, v́ bị mưa dầm sương đượm đă lâu. Đằng sau đám cây miếu với bức tường vỡ là cái hang Thần mà ta đă biết.
Ông Châu nh́n người thổ già nằm ở một phía nhưng không chú ư bằng nh́n hai ḥn đá cao mọc trước cửa hang, ông nhớ đến câu: "Cửa hang Văn Dú trông như cái mồm có hai răng" và nghĩ trước đến cách vào hang xem xét. Nhưng ông quay lại để khám người Khách đă.
Ông lấy gươm bảo mấy người đứng đằng sau ông tiến lên rẽ đám cây lá dưới đất. Rồi ông bước đến bên cây bàng trụi lá. Ông đă tưởng cái thây sẽ xông nặc lên những mùi ghê tởm, nhưng lúc ấy ông chỉ ngửi thấy mùi ẩm mục của muôn ngh́n cây lá cao ngất và xanh um.
Nh́n kỹ th́ phía mặt bên kia của người Khách cùng với phía sau gáy và vai bị rỉa be bét, màu thịt đỏ nhợt như ruột củ nâu non. Ông Châu đưa gươm lên cắt cái dây thừng, th́ một vài con quạ vùng lên bay mất. Lưỡi gươm sắc vừa mới cứa, cái thây nặng nề liền rơi trên mặt cỏ, hai gối gấp lại trước nhất rồi gục đầu xuống cạnh chân bức tường. ông Châu sai người lật ngửa cái thây ra; đất, cỏ úa và lá ướt dính vào má, vào mồm và đuôi một con mắt đă trắng dă.
Người chết trông mặt dầy, vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi tuổi. Cặp môi trên râu lún phún, miệng hé mở, hai hàm răng trắng cắn chặt lấy nhau.
Ông Châu xem ra th́ biết người ấy bị giết chứ không phải quyên sinh: cái dây thừng ở cổ chặt thít vào như có ai bám lấy chân người khách mà lôi xuống. Ở phía dưới cổ, gần xương đ̣n gánh, lại có vết đâm, rộng và sâu. Ông Châu toan bảo cởi hàng cúc áo của người Khách ra, nhưng sau lấy mũi gươm rạch xuôi xuống.
Ba bốn lượt áo đă phanh mở mà trông như vẫn c̣n áo trong: v́ bụng người ngực người Khách đă đen xám như chàm. ở hai bên sườn người này, bọn ông Châu lại t́m ra được vết bốn nhát dao đâm nữa. Những vết đâm ấy cũng như vết trên cổ, sâu và rộng bằng ba đốt tay: h́nh như người Khách bị giết bằng một thứ đoản kiếm.
Hơn một phút đồng hồ, ông Châu đứng lặng, cúi đầu trên cái thây ma ngẫm nghĩ, trước năm bộ mặt sợ hăi của người theo hầu.
Cái cảnh tượng kỳ quái đến nỗi khiến họ không nói được lời nào; và có lẽ trong bụng họ không kịp nghĩ và không kịp hiểu chi hết. Mấy người tự nhiên đứng sát vào nhau như cùng thấy cần phải đồng tâm hiệp lực. Họ nh́n ông quan thổ như có ư hỏi, nhưng ông ta lặng thinh.
Gió thổi rung cành cây làm rụng lác đác những giọt sương trên lá. Bỗng chốc lại thấy giọng thê thảm của mấy con quạ núi quen thuộc nơi hoang vắng bay ngang trời vừa kêu.
- Thôi! Để nó ở đây, bây giờ đến hang núi!
Tiếng ông Châu nói hơi run run và hơi khà. Ông hắng giọng một cái, rồi nói to hơn:
- Thôi! đi ra!
Tiếng vang ở quả núi đáp lại một cách rất dị thường và khiến cho cả người nói lẫn người nghe cùng có những cảm giác lạ. Ông Châu vừa bước ra vừa truyền:
- Thằng Nọng, thằng Lường theo tao đến Nùng Khai. C̣n ba đứa kia sắp sửa cuốc, dao, dây để vào Văn Dú.
Bọn năm người thấy quan Châu lúc bấy giờ oai nghiêm như cái gươm ông cầm trên tay. Một tiếng ông nói ra ở chốn này họ đều coi như lời thần thánh. Trong lúc ba người chia nhau mấy bó đuốc và mấy cuộn dây dài th́ ông Châu với hai người kia đi lại bên cái xác khô của ông già thổ.
Xác Nùng Khai nằm hơi nghiêng, đầu trở vào phía hang, cánh tay trái đè dưới ḿnh, cánh tay phải khuỳnh vào đưa lên trên không, cứng như que củi gẫy; ngón tay và chân đều rút quặp lại; chân trên duỗi thẳng; chân dưới hơi co lên. Bộ mặt xám nhăn nhó trông rất xấu; mi mắt nhắm không liền, miệng há cứng ra, lưỡi thụt vào trong họng.
Ông quan thổ xem kỹ hai tay hắn th́ quả như lời người thổ Kao Lâm thuật, khắp bàn tay rớm những vết máu rất nhỏ, bấy giờ đă hoá thâm. Ông sai người cởi áo người chết xem c̣n thương tích ǵ khác nữa không. Nhưng ngoài những vết sẹo to ở cánh tay và gần vú - sẹo của những vết thương khỏi đă lâu lắm - th́ không c̣n thấy ǵ.
Ông lần trong túi áo trong của Nùng Khai th́ lấy ra được mảnh giấy cũ và nhàu, trên giấy vẽ đường lối đi đến Văn Dú và biên những câu giống in như mấy câu ở mảnh giấy hôm trước. Hai cái h́nh vẽ phóng ở hai bên trông vụng dại hơn h́nh mẫu. Ông cầm lấy soi lên ánh sáng th́ không thấy ǵ lạ. Ông lẩm bẩm một ḿnh:
- Th́ ra chúng nó không ngờ ǵ... nên chúng nó tưởng rằng cứ chép lại những chữ trên mặt giấy kia là đủ... Chúng nó chết là phải lắm. Đến ta, là người trí thức, mà nếu không v́ sự ngẫu nhiên th́ đời nào hiểu cái mưu ghê gớm của người Tàu... Huống hồ, chúng nó lại chỉ học thuộc ḷng những chữ vô lư ấy mà dám xông pha vào đây...
Ông c̣n đang gật gù như nhận ra một lẽ ǵ mới nghĩ, th́ ba người bộ hạ đưa ông xem một bọc quần áo mà họ đoán là của người Khách chết treo, cùng với bức địa đồ đă gần nát. Ông cầm lấy xem, rũ những áo ướt trong bọc, rồi đứng lẳng lặng. Bọn người theo hầu trông thấy cái suy nghĩ sâu xa ở cả trên những răn trán, trong hai con mắt dưới lông mày, và cái miệng măm mắm của ông Châu. Rồi ông lại gật gù:
- Phải rồi! Ta đoán không sai. Người này quyết là con cháu của viên quan tầu. Nhưng sao bây giờ mới sang đây? Ta có thể ngờ là mảnh giấy "di chúc" kia khi đem sang Tàu th́ đă phải thất lạc nhiều lần, hoặc bị tay kẻ khác chiếm đoạt đến nay mới lại t́m thấy...
"Nhưng cái đó cũng không căn cứ vào đâu. Chỉ phải xét xem ai đến đây mà giết người kia? Mà kẻ giết người ấy sao lại giết hắn một cách lạ lùng như thế? Cái chết của người Khách với của Nùng Khai này cùng bí mật như nhau, nhưng mỗi người chết một cách ghê gớm khác.
Ta đọc tờ giấy hôm qua th́ có thể đồ rằng Nùng Khai chết v́ những ḥn đá giết người. Những ḥn đá này v́ đâu mà giết được người, ta cần ḍ xét cẩn thận mới biết được. Rồi ông móc túi lấy ra tờ giấy mỏng ông t́m được ở trong mảnh giấy vuông của người thổ Kao lâm. Ông không đọc một chữ nào v́ ông đă thuộc hết. Ông chỉ tự hỏi:
- Người Khách chết ở kia, vậy ai đem mảnh giấy vuông vào trong hang? Trong hang có những ai? Mà Nùng Khai làm thế nào lại lấy được ra rồi chết?
Ông quan thổ nói câu sau cùng to lên và mắt ông vô t́nh nh́n vào mắt một người trong bộ hạ. Họ không biết nói ǵ, chỉ giương mắt to nh́n nhau.
Ông Châu bèn đứng sững người lại, vứt cái áo của Nùng Khai lên cái xác nằm trơ đó. Rồi ông bảo đốt đuốc, và sắp dây, sắp xẻng cuốc để vào hang thần.
Trước khi bước chân lên, ông đứng sững lại một lát cố thả tầm mắt soi vào khoảng đen tối trong hang, mặt ông hơi có dáng lo ngại và nghi ngờ. Ông biết rằng ông sắp dấn thân vào trong những sự quái lạ phi thường. Nhưng ông cũng trấn tĩnh lại ngay được.
Sau bó đuốc đă cháy lên bùng bùng, ông cầm lấy một bó nh́n năm người bộ hạ, rồi truyền:
- Bây giờ đi vào hang!
Năm người này thực là những người có can đảm bằng thép, rèn bởi cái oai quyền và cái trí cương quyết của quan Châu.
Họ cầm đuốc giơ cao lên, hai người đi trước, ba người đi sau, b́nh tĩnh cùng với ông Châu bước vào hang Văn Dú. Bóng lửa khuất vào trong đám tối đen không cùng.
Ngoài cửa hang, cây cối lại vẫn giữ cái vẻ hoạt động vô t́nh và lạnh lẽo như hôm trước, như lúc hai người thổ Kao Lâm mới bước tới, duy có khác một điều là thây người Khách đă thôi lủng lẳng ở dưới cây bàng, và trước hang thần, thêm một người nằm chết.
Ánh lửa đuốc chiếu sáng được một khoảng dài khiến cho ông Châu trông thấy trước những chỗ rẽ sắp bước tới và làm cho bớt cái hơi lạnh trong hang.
Hang rộng chừng mười bộ, càng vào càng thấy cao thêm. Dưới chân, đường đá rắn và trơn, nhiều quăng phẳng dễ đi như đă sửa sang từ trước.
Lối hang khúc khuỷu, đi chưa được mấy, ngoảnh lại đă không thấy cửa hang đâu. Ông quan thổ kỹ lưỡng xem xét hai bên, thấy cái mỏm đá, hốc đá nào cũng chú ư đến. Trên mặt vách đá màu rêu mốc đủ các sắc, ông Châu mỗi chốc lại tưởng như sắp thấy những dấu hiệu dị thường.
Nhưng không, chẳng có ǵ là ghê gớm, ly kỳ; cũng không thấy có vẻ ǵ là giết người hết. Từ cửa hang trở vào, thỉnh thoảng lại có một vũng nước hoặc ở giữa, hoặc ở cạnh lối đi hợp với hai cái lạch chỗ nhỏ, chỗ to theo chân vách đá.
Nước ở lạch trong hơn nước suối, ánh lửa đỏ soi xuống tận đáy thấy một lớp sỏi nhỏ và trắng tinh. Nhiều lúc cả bọn cùng dừng chân, không ai nói một lời nào, th́ thấy trong hang yên lặng, chỉ nghe có tiếng giọt nước trên cao rỏ xuống, với những tiếng dơi bám vào trong khe tối bị mất giấc ngủ v́ có ánh lửa và có người vào.
Năm bộ hạ càng vững ḷng, th́ ông Châu càng lo ngại. Cái yên lặng và dáng tầm thường của hang đá này như có vẻ lừa dối nham hiểm. Ông nghĩ đến những câu trong tờ di chúc bí mật: những lời trong giấy này biết đâu chẳng là những câu gạt ḿnh để làm hại ḿnh ở đây?
Ông có ư hối hận v́ không thử y lời dặn trong giấy là đo từ cửa hang vào cho biết chừng đă sắp đến nơi chưa. Nhưng theo như ông ước đoán th́ đến chỗ đó chưa được nửa đường, vả ông c̣n muốn xem xét một lượt đă.
Ông không để cho bọn theo hầu trông thấy cái lo ngại của ḿnh. Mà họ cũng không đủ sáng suốt để trông thấy được. Họ chỉ biết tôn trọng cái vẻ trầm ngâm của chủ họ trong lúc ấy và hết sức vâng theo lời ông.
Giữa nơi kín đáo như thế, trong ruột một quả núi chứa chất những điều bí hiểm, ông Châu thấy như cách biệt hẳn với thế giới. Ông lấy làm lạ rằng ḷng can đảm của ḿnh bị lay động quá đến thế. Ông tĩnh tâm lại để xem ḿnh nghĩ ǵ.
Ông ngờ rằng trong hang núi có một sức mạnh làm tâm trí ông mê mẩn. Ông nh́n thứ ánh sáng đỏ bập bùng của mấy bó đuốc chiếu vào bốn phía đá, rồi ông lại nh́n bọn đầy tớ, họ nh́n lại ông.
- Vô lư thực, ḿnh lại nạt ḿnh chứ có ai đâu.
Ông nghĩ bụng thế, rồi ông truyền cho họ tiến lên.
- Tắt bớt đuốc đi, khói xông lên nhiều quá; để bốn bó cũng đủ rồi.
Họ nghe theo lời ông và đi mươi bước nữa th́ đến một vũng nước lớn lan khắp bề ngang đường hang núi. Giơ đuốc lên soi th́ thấy đến chỗ rẽ mà vẫn chưa hết. Đá chỗ ấy trơn lắm. Nước trên những thạch nhũ sèo sẹt rỏ xuống mấy ngọn lửa và mau như giọt tranh sau trận mưa rào.
Ông Châu sai hai người cầm đuốc tiến lên:
- Hai thằng hăy đi xem chỗ nước này đến đâu th́ hết. Hai người tức khắc vâng lệnh rồi nhanh chân giẫm lên lớp đă cuội trắng ở dưới đáy mà đi vào. Hai ngọn đuốc lảo đảo soi dần vào quăng đường tối đen rồi khuất hẳn.
Được một lát, tiếng chân khoa nước thấy dứt. Rồi hai người thổ nói vang lên, giọng vui mừng như lấy làm lạ:
- Quan Châu à! Chỗ này hết nước rồi! Mà đàng kia lại sáng lắm. có lẽ chỗ này ăn ra một cửa hang khác cũng không biết chừng!
Ông Châu liền tiến lên cùng ba người bộ hạ. Ông để cả giầy lội xuống nước nhưng vội lùi lại ngay; nước lạnh buốt như làm rụng mất chân. Ông chịu rét không quen nên bảo hai người cầm đuốc cho ông và cho một người bộ hạ thứ ba, để hắn cơng ông qua cái vũng nước ấy.
Tiếng hai người đi trước vẫn nói lớn, họ bàn nhau tắt đuốc để dành đến lúc ra.
Bọn sau đi được già nửa đường, sắp tối chỗ rẽ. Bỗng nhiên hai tiếng kinh ngạc cùng kêu lên một lúc.
Ông châu lớn tiếng hỏi. Hai người không đáp chỉ gọi:
- Quan Châu à! C̣n trong hang chứ?
Giọng họ run run và réo vội lên như người sợ quá ngắn hơi thở.
- Quan Châu à! Lạ lắm! Đi mau lên! Đi mau lên!
Ông Châu giục người cơng bước thực mau. Những lời nói vừa rồi vang ầm lên cùng với tiếng nước reo dưới những bước chân khua động.
Khỏi chỗ vũng nước th́ thấy ánh sáng mà hai người kia báo trước. Ông Châu ở trên lưng người cơng nhảy xuống, vội chạy đến sau hai người kia xem. Ông cũng sửng sốt như họ, đứng lặng không nói được ǵ. Ba người sau tới nơi cũng đứng đực người ra như thế.
Trước mặt họ, cách độ hai chục bước, trong một khoảng rộng và cao như một cái động nhỏ, hiện ra một cảnh tượng quái gở kinh hoàng:
Một bọn năm, sáu người đàn ông nằm ngồi hỗn độn bên những tảng đá cuội cực to, gần sát chân vách đá. Một thứ ánh sáng trắng và yên lặng như vun ở ban ngày lạnh lẽo bên ngoài mà dội xuống bởi một cái lỗ ăn thông lên đỉnh núi; nhưng đứng chỗ ấy, ông Châu chưa trông thấy trời.
Ông bảo bọn theo hầu tắt hết đuốc đi, chỉ để lại một bó nhỏ. Rồi một ḿnh ông tiến lên trước, thanh gươm sáng lăm lăm trong tay. Ông quay lại truyền:
- Năm đứa bước theo tao! Nhưng nếu tao không bảo th́ không được làm ǵ đấy. (Ông lại chỉ những ḥn đá cuội lớn). Mà phải cẩn thận, không đứa nào được chạm đến những tảng đá ấy. Nó nguy hiểm lắm đó: nó làm chết Nùng Khai và những thằng này.
Bọn theo hầu c̣n đang kinh khiếp sẽ th́ thào nói như chính ḿnh lại sợ tiếng ḿnh, th́ ông châu bỗng chú ư ngay đến một khoảng tối đen ở trên một phía vách đá, cách mặt đất độ năm sáu thước, và to gần bằng một cái nong. Nh́n kỹ th́ đó là cửa một cái hang con bị lấp đầy những ḥn đá cuội to cùng màu và h́nh như cùng hạng với những tảng đá lăn lóc dưới đất.
Ông Châu bước lại gần, ngẩng lên nh́n một hồi lâu rồi nghĩ thầm:
- Th́ ra chúng nó cũng biết đây là lối vào nơi để của và cũng đoán được cái câu: "Mày vào trăm chân, mày lên ba tay" ở trong bài di chúc vắn tắt. Mà có lẽ bọn con cháu họ Hoàng đă t́m thấy nghĩa câu ấy từ trước và bắt đầu phá cái hang nhỏ này rồi. Nhưng chúng đoán ra, đào ra để t́m thấy cái chết chứ không t́m thấy của.
Rồi ông lẩm bẩm trong mồm, nửa như nói một ḿnh, như bảo lũ bộ hạ:
- Hừ khôn khéo, khôn khéo mà ghê gớm lắm!
Mấy trăm năm trời nay, những ḥn đá kia giết đă bao nhiêu nhân mạng? Viên quan Tầu kia giữ của bằng cách gieo những cái khủng khiếp, chắc tưởng rằng phi con cháu nó th́ chả có ai là người lấy được của trong này ra; chớ có ngờ đâu đến lượt ta... ta quyết phá cho tuyệt cái kế thâm độc ấy!
Nói đoạn ông quay lại dặn bọn người nhà lần nữa:
- Không được đứa nào động đến những ḥn đá này đó. Hăy lôi xác những thằng này để ra một nơi cho tao xét xem.
Năm người kia vẫn đứng yên, chưa hiểu ra sao, ông châu lại quát:
- Mau lên chứ! Lôi chúng nó ra cả một bên!
Bọn chúng có sáu người, gần hết trông to béo lực lưỡng, họ ăn mặc đều một loại áo vải dầy màu chàm. Da mặt và tay họ đều xám đen như da Nùng Khai. Họ cùng đi một thứ giầy vải, ngoài quấn những dây nịt khiến cho lá cỏ cành lau giắt đầy chung quanh chân. Coi mặt mũi và y phục th́ biết họ là người Tầu, nhưng không thể đoán được là người ở bậc nào v́ tất nhiên họ phải thay đổi h́nh dạng.
Người thứ nhất bấy giờ đă lôi ra để một chỗ là người c̣n trẻ, mặt mũi nhăn nhó như người đau đớn gớm ghê. Người thứ hai và người thứ ba ngồi dựa lưng vào vách đá, một người ngửa cổ lên, c̣n một người ngả đầu xuống vai người nọ; lúc mấy tên bộ hạ thổ xốc nách kéo hai cái xác đi lùi lại, th́ đầu hai người chết vẫn ngửa; miệng th́ xếch lên như cười một cách đần độn.
Người thứ tư là một ông già, mặt xương xương, mép và quai hàm lởm chởm những râu, mắt to, mở trừng trừng, đang nằm nghiêng ôm lấy một ḥn đá cuội. Bọn người thổ phải khó nhọc mới kéo được ông già ấy khỏi chỗ cũ, v́ chân ông ta bị đè dưới bụng một người to béo người này đâm chúi đầu xuống, miệng hôn đất, tay quắp lại, mười ngón quào sâu vào đùi ông già.
C̣n người sau cùng mở mắt nhưng ḷng đen chạy lên mí trên, mồm cứng và hé mở, môi dưới trề ra; hắn ngồi g̣ ruột ở một bên, vai so lên, cằm sát ngực. Bằng ấy cái xác cứng đờ như tượng gỗ, họ đều kéo lại cho nằm kềnh càng ở một chỗ sáng nhất, trên mặt đất hang rắn và ẩm, ḿnh đè lên những cái côn sắt lớn và nhọn, những thanh gươm ngắn và trần, những bọc vải xanh đựng cơm và bánh khô với những bó đuốc đă tắt lửa.
Tuy có đông người trong hang và tuy đă hơi dạn với cái bí hiểm, ông quan thổ cũng phải gắng sức mới b́nh tĩnh được tâm thần. Trước cái cảnh tượng quái gở mà ông thấy đó, ông sẽ lắc đầu mà tưởng đến cái ghê sợ của một người vào đây một ḿnh. Ông tự nghĩ:
- Thế mà ta chực không cho đứa nào theo đấy!
Cũng may mà ta nghĩ lại... Nếu không th́ những lúc này liệu c̣n can đảm không?
Rồi ông nghĩ đến Nùng Khai và đến lúc hắn trông thấy bọn người chết. Ông chắc rằng khi Nùng Khai vào Văn Dú th́ đă thấy bọn Khách ở đây mà lúc ấy họ cũng đă chết rồi.
Nùng Khai có lẽ chết v́ khiếp sợ quá? (Ông nghĩ thế, nhưng lại lắc đầu). Khiếp sợ mà đă chết ghê gớm như thế này được ư? Mà Nùng Khai có khiếp sợ không? Không chắc, mắt tên cướp kia đă quen thấy máu đổ, quen thấy những cảnh tàn sát nhiều lần rồi; mà cái ḷng hung bạo ấy lại nhờ có sự ham chiếm được của làm cho táo tợn thêm... Vả nếu nó biết sợ đă không dám vào đây ngay từ lúc thấy xác người Khách thắt cổ.
Lúc ấy ông Châu từ từ đưa mắt nh́n khắp động từ trên xuống dưới, từ trái sang phải; nhưng không chú ư đến vật ǵ. Ông c̣n đang đoán tưởng lại những cử chỉ của tên thổ già từ lúc vào đây đến lúc chạy ra cửa hang mà chết, th́ bỗng trông thấy một con dao rừng với một bó đuốc bằng sam mộc nằm ở bên một tảng đá cuội.
Con dao ấy tất nhiên không phải của bọn Khách, v́ đó là thứ dao rừng chỉ riêng người thổ quen mang. Mà bó đuốc kia chắc cũng là của Nùng Khai, theo như người trai thổ Kao Lâm thuật lại.
- À thế th́ chắc Nùng Khai t́m thấy tờ di chúc kia ở chính chỗ này đây. Rồi tất nó phải chạm đến những tảng đá này mới chết được... Có lẽ nó tưởng trong đá cuội có vàng ngọc nên mới lấy tay vần xem...
Nhưng nó ngu ngốc đến đâu cũng phải nghi ngờ chứ... Bọn Khách kia chết cứng đờ ra đó, mà những ḥn đá này th́ lăn lóc ở bên...
Ông quan thổ cau đôi mày lại, nh́n trừng trừng xuống đất, một ngón tay chập chạp găi sau mang tai. Rồi ông ta se sẽ một tiếng thở dài.
- Hay là tờ giấy kia bị một ḥn đá đè lên? Nùng Khai muốn cầm giấy xem nên mới mang bỏ ḥn đá sang bên cạnh? Ừ có lẽ thực thế, v́ tờ giấy ta thấy thủng rách lỗ chỗ mà ở hai mặt giấy ta c̣n thấy màu đất bám và phảng phất màu rêu xanh. Nhưng dẫu sao, ta hẵng cứ biết rằng Nùng Khai cũng như bọn Khách kia, bị chết v́ đă phạm tới những ḥn đá cuội ấy.
Những tảng đá này trông nhẵn và cũng khá tṛn, tự cái lỗ đang đào dở lăn ra, và nhiều tảng lăn tản mát tận đằng xa và khuất trong đám tối.
Ông châu đến bên một tảng, cúi xuống xem xét một hồi rất lâu, nét mặt khó khăn, chăm chú và tỏ ra chiều rất cẩn trọng.
Ông lẩm bẩm nói:
- Cái thần giữ của của nó mới hiểm ác chứ! Có ai ngờ đâu những vật ghê gớm này lại là những tảng đá tầm thường.
Rồi ông đứng sững lên, lại gần mấy cái tử thi người tầu, khạc một cái nhổ xuống đất và gọi bảo lũ bộ hạ:
- Trên mặt bàn tay lũ này cũng như trên mặt bàn tay của Nùng Khai, có những vết máu lấm tấm đen, dấu vết của những ḥn đá giết người đó. Đứa nào phạm đến những vật ấy th́ cũng phải chết như những tên vô phúc kia. Chúng mày phải coi chừng đấy.
Lúc ấy, ông đang lom khom cúi xuống xem cái xác người Khách già nhất. Người này trông vẻ hung ác, hai mắt nh́n thẳng vào chân ông Châu.
Bên cạnh cái bao gươm to bản và ngắn đeo vào cái đai vải thắt ngang lưng hắn, ông c̣n thấy giắt một cái hộp thiếc mà ông không thấy ở thắt lưng bọn kia. Hộp này dài hơn hơn một gang, ngang bằng ba đốt tay và dầy hai đốt.
Ông châu liền cầm ngay lên, rút nắp lấy ra được hai tờ giấy cuộn tṛn lại. Tờ thứ nhất là một cái giấy thông hành của quan tổng đốc Quảng Đông cấp. Tên người mang giấy đó là Thạch Dụng, ba mươi tư tuổi, làm thầy địa lư, quán ở B́nh Giang. Cứ tuổi trong tờ giấy này th́ ông già kia không phải là Thạch Dụng, mà người mang nó có lẽ là người Khách bị giết ở gần cửa hang.
Ông Châu xem đến tờ thứ hai. Tờ giấy này dầy như b́a, mầu vàng bẩn. Ông quan thổ vừa thoạt giở ra đă thấy kinh lạ: chữ trong giấy viết bằng máu, nét găy cứng như vạch bằng que. Lời trong giấy như sau:
"Bọn dũng sĩ chúng ta là Đô Bá Kỳ, Tần Du, Điền Nhị Giang, Lư Thất và Lư Nhạc, năm mănh hổ ở vùng Mê Sơn, xông pha hiểm trở, theo vết chân Thạch Dụng đến đây để chiếm lấy kho vàng của y. Năm chúng ta cùng tra khảo y, cùng lấy được mảnh giấy chỉ cách đào lấy của, rồi cùng giết chết y.
Vậy chúng ta thề nguyền với nhau rằng, của cùng t́m được chia đều, và phải giữ việc này cho kín. Nếu trong bọn ta, có kẻ nào manh tâm muốn chiếm lấy phần lớn, hoặc t́m cách giữ cả cho riêng ḿnh, th́ kẻ ấy sẽ bị chết treo trên cây v́ tay chúng ta, bị năm nhát dao trên ḿnh, y như số mạng của Thạch Dụng.
Chúng ta lấy máu của y để viết tờ giấy này, lại cùng chích máu ḿnh biên tên và in dấu ngón tay vào đây kư kết".
Năm ngón tay cái in thành một hàng máu đỏ nhoè nhoẹt ở sau những câu ghê gớm ấy. Ông Châu lặng yên, không nói ǵ. Một lát ông quay lại nh́n bọn người tầu, thấy mặt mũi họ càng thêm vẻ độc ác. Nhưng bọn giết Thạch Dụng chỉ có năm đứa, vậy đứa thứ sáu là ai? Có lẽ là đứa trẻ nhất, và có lẽ là người đi theo Thạch Dụng đến đây làm chân trong cho chúng.
Một lát ông Châu lại nghĩ:
- Th́ ra quả nhiên tên Khách chết treo là con cháu người quan tầu thực. Nhưng tại sao măi bây giờ mới sang đây? Mà bọn cường bạo kia ḍ xét làm sao lại biết được y sang t́m của. Cái đó toàn là một thiên bí mật khó ḷng mà khám phá được ra.
Ta chỉ phục viên quan tầu thực là người sâu sắc! Câu dặn con cháu phải gắn lại tờ di chúc, ta tưởng là vô lư, nhưng đến nay mới rơ cái ư khôn ngoan.
Viên quan tầu có lẽ muốn pḥng hai điều, một là bảo con cháu giữ lại đừng huỷ tờ giấy đi, để sau có khi phải đem ra chứng nhận cái quyền được hưởng của trong hang Văn Dú; hai là hoặc trong khi đi t́m của, có kẻ theo mà tra khảo th́ tờ giấy kia với những câu kỳ dị viết trên đó sẽ lừa gạt kẻ chiếm được nó và báo thù cho con cháu ḿnh.
Viên quan tầu muốn cho của trong hang Văn Dú nếu không về tay ḍng dơi nhà y, th́ không về tay ai hết. Mà của cải với nơi chứa nó sẽ là tai hoạ ngh́n năm cho những kẻ muốn t́m ṭi... Ta cũng là kẻ t́m ṭi đây... Nhưng cái mưu kế lập ra từ mấy trăm năm kia đối với ta không có giá trị ǵ nữa!
Ông quan thổ gấp cả hai tờ giấy tra vào cái hộp thiếc như cũ và giắt vào thắt lưng ḿnh, rồi ông sai bọn theo hầu đem cuốc xẻng và dao trường đến phá nốt cái lỗ hang ở trong phía tối.
Họ vâng lời, tức khắc lấy xẻng và dao nậy những ḥn đá từ dưới trở lên. Cứ mỗi ḥn đá rơn ra họ phải nhẩy lùi lại. Cái khó trong việc đào phá chỉ là phải tránh những ḥn đá cuội đó. Ông Châu đứng một bên, trên một tảng đá xanh, cao và khá phẳng.
Ông vừa bảo ban vừa thôi thúc họ; trong động vang lên những tiếng cuốc xẻng, những tiếng ông Châu quát, với những tiếng đá cuội lăn ra. Lỗ hang, sau đó một hồi lâu đă thấy mở ra được non nửa về phía dưới. Lúc ông Châu toan bảo một người đốt đuốc lên, th́ ông chợt thất kinh kêu lên một câu dữ dội:
- Này chết! Lùi ra mau!
Vừa lúc bọn đầy tớ hốt hoảng nhẩy lại đằng sau, th́ rầm một cái như sét nổ trời, cả phần trên lớp đá cửa hang cùng lở xuống.Bọn thổ chạy tán loạn nhảy như lũ vượn, để tránh những ḥn đá tṛn đuổi theo. Đá cuội cứ lăn ra tứ tung và chiếm gần nửa chỗ trong động. Cũng may không ai việc ǵ. Nhưng họ mất sắc đi v́ khiếp sợ.
Lúc họ đă dám quay lại nh́n th́ cái cửa hang nhỏ đă rộng mở. Hang này cách đất độ bốn, năm thước, cửa hang to bằng một cái nong. Không thể biết hang nông hay sâu: trông vào th́ chỉ thấy mù mịt đen và phảng phất như có khói.
Ông Châu bảo họ lấy dây thừng và dây mây làm thành những thứ quang sơ sài để tải những ḥn đá kia ra một chỗ. Ông đến xem mấy ḥn đá gần nhất th́ thấy cũng là một thứ đá cuội như những ḥn lăn ra trước, nhưng nhỏ và nhẵn nhụi hơn.
Ông lại nh́n kỹ những ḥn phía gần cửa hang, là những ḥn đá rơn xuống trước tiên th́ lại thấy chung quanh đá bong ra những mảnh cát to hạt và sắc cạnh mà ông không dám động tới. Ông gật đầu mấy cái rồi nói:
- Chỉ có lượt đá ngoài cùng là nguy hiểm thôi.
Tuy thế song cũng bảo bọn kia phải cẩn thận mà khiêng từng ḥn một. Họ lẳng lặng theo lời ông như một bọn người máy.
Khi đá cuội ở bên những cái xác chết đă xếp thành một đống to và khi đă có lối đi tới cửa hang ông Châu mới bảo đầy tớ đem cái bó đuốc gần tàn lại để nối. Ông th́ cầm bó đuốc sam mộc của tên Nùng Khai. Thấy một tên bộ hạ không đi hài xảo, ông liền bắt hắn cởi giầy của một người chết để xỏ chân vào. Rồi ông nói:
- Bây giờ chúng mày đem những tảng đá kia chồng thành bậc để lên. Những đá rơi ra sau th́ không đáng sợ lắm.
Mấy ḥn đá xếp thành một thứ bậc thang cũng khá tiện. Ông châu đem đuốc lại nhóm, chỉ để lại hài bó dành đến lúc ra.
Rồi ông nh́n lại một lượt chung quanh ḿnh, cảnh tượng trong này thực kỳ dị. Đám người chết co quắp nằm nghẹo đầu giơ chân ở chỗ ánh sáng ban ngày soi xuống, cùng với những ḥn đá cuội chất đống, màu đất ẩm khác với màu xanh xám của vách hang.
Cách đó không xa, bọn người thổ xúm lại với nhau đứng trong bóng tối. Họ sửa giầy rơm, đai lưng, hay đốt thêm thuốc. Ánh lửa đỏ bập bùng chiếu một bên mặt tai tái của họ và chiếu lên mặt hang đá làm rơ rệt thêm cái lạnh lẽo của thứ ánh sáng ngoài trời soi xuống.
Bó đuốc của ông châu và ba bó đuốc của bọn đầy tớ đă cháy to, nổ lách tách. Hai người giụi tàn lửa lên đá rồi theo lời ông châu, chui vào cửa hang. Ông cùng lên với người thứ ba để cho hai người sau cầm đuốc đi tập hậu. Cái cửa hang nhỏ lúc ấy trông như miệng một cái hoả ḷ đang cháy, mỗi lúc một tối dần. Không bao lâu, cả lửa đuốc lẫn người cũng bị cái miệng đá ấy nuốt chửng.
Thoạt mới vào, đường đi rất khó. Họ phải lom khom cúi; trên đầu họ, trần đá thấp như muốn đè măi họ xuống, mà dưới chân có nhiều chỗ hơm hốc, lại thêm đá cuội bên ngoài lăn vào làm cho họ phải hết sức dè giữ mới dám bước lên. Họ không giơ được ngọn đuốc lên cao. Ánh lửa trước mặt làm cho chói quá, phải đưa cánh tay lên che ngang mắt mới trông được rơ lối đi.
Nhưng hang càng vào sâu càng rộng, và dễ đi hơn. Vào chừng hơn mười bộ th́ đuốc đă giơ lên được quá trán; trần đá cũng cao dần và đỡ thấy nặng nề. Họ càng vào sâu th́ khí lạnh càng thấm thía. Một thứ gió lan đi rất chậm, từ chỗ đen tối cùng cực đưa ra. Họ phảng phất ngửi thấy những mùi hôi tanh và ẩm mốc.
Đứng lại độ nửa phút, ông châu lẳng lặng nhổ bọt, rồi lại tiến lên. Lối đá rêu cũng khá rộng. Ông châu cho hai người đi quá ông một bước, c̣n ông đi giữa họ, hơi lùi về đằng sau. Bỗng nhiên ông châu dừng chân, nói một cách kỳ lạ:
- Ồ! Đứng lại, đứng lại xem đă! ồ!... Ḱa!
Họ trừng mắt trông lên.
Trong khoảng giữa tối om, thấy phảng phất h́nh một người trăng trắng. Ánh lửa cử động khi mờ khi chói, nên cái h́nh ảnh vừa rồi lúc biến lúc hiện rất mơ hồ.
- Cứ đi lên xem, chỗ ấy cách đây xa quá nên không rơ.
Họ tiến lên mới được mươi bước nữa th́ cái h́nh lúc này thành ra một bộ xương người. Bộ xương này ngồi ngoảnh mặt ra, ở trên một cái bệ gạch rất lớn.
Cái đầu lâu, hai mắt rỗng đen thao láo, ngả về phía trán ở giữa hai cánh tay giao nhau. Hai tay này để trên một cái cột, cao lên tới ngực. Hai ống cẳng đă rời, dựa vào cái bệ như hai thanh củi: phía trên bàn chân có những xích sắt con han gỉ, chằng buộc hai ba ṿng.
Màu xương th́ xanh đen, mốc rêu, cũng như màu cái cột đá. Hàng xương sống vẫn thấy liền khớp, vẫn thấy chống giữ bộ xương ngực. Trên bả vai, lúc soi đuốc lại gần, thấy một thứ mùn nát thành bụi lẫn lộn với một ṿng tóc xam xám và dài.
Ông Châu nghĩ ngay đến lối yểm vàng của bọn người tàu. Ông nghĩ đến cái nỗi tuyệt vọng của người mà họ dùng làm thần giữ của; nghĩ đến cái ḷng thâm độc của kẻ tin những điều vô lư mà hại người. Sau khi t́m được những ḥn đá cuội, ông không nhận là có thần thánh ǵ nữa.
Nhưng ông lại nghĩ:
- Viên quan tầu kia đă có những tảng đá để lấp cửa hang trong, hắn đă có phép giấu vàng kỳ bí hiểm rồi; hà tất phải nhờ đến thần thánh nào khác để giữ của cho hắn. Ta cần phải biết rơ điều ấy. V́ biết đâu rằng, sau bộ xương vô giác kia, không c̣n ẩn những mưu kế ǵ lừa gạt ḿnh nữa...
Ông đứng yên một lát, trí suy nghĩ, tay vân vê xoắn suưt bộ râu cằm. Sau, ông cứ gật gù hoài, miệng mím vào như muốn cười, mặt lộ ra vẻ khoan khoái:
- Phải, phải, chỉ có hai lẽ ấy; chứ viên quan tầu kia giết người vô ích làm ǵ? Một là người tầu nghĩ đến cách yểm vàng từ trước, từ khi mới để của ở đây... rồi dần dần mới tính ra, mới dùng cách xây dựng cửa hang bằng thứ đá cuội nguy hiểm.
Hai là bộ xương kia chẳng qua chỉ là xương của một kẻ bộ hạ theo vào giúp việc trong này. Mà người giúp việc ấy cũng như những kẻ tải gạch đá vào xây nên cái bệ này đă trông thấy của cải trong này, nên phải giết đi, để triệt những tấm ḷng tham và làm câm những cái miệng không kín đáo.
Thế rồi một ư kiến nảy ra, viên quan tầu đem người bị giết đặt lên bệ sau cái cột đá ấy để làm một thứ bù nh́n. Kẻ nào không phải là người có quyền lấy của, chẳng hạn như ta đây, mà ḷng mê tín vẫn c̣n th́ sẽ bị cái bù nh́n kia làm cho kinh hoàng, có khi c̣n ám ảnh suốt đời nữa.
Cái bệ mà có bộ xương người ngồi ở một bề thoại trông, ông Châu đă biết ngay là chỗ đựng của. Bệ này h́nh chữ nhật, rộng gần bằng dài, và xây bằng gạch, trông chắc chắn nhưng rất vụng về.
Ông quan thổ lây mắt ước lượng th́ mỗi bề ngang dọc vào khoảng bốn và năm thước và về cao th́ vừa bằng cái ống cẳng bộ xương. Mặt bệ cũng khá phẳng, gạch xây toàn là những phiến rất lớn và xem ra rất dầy. Mầu gạch một vài chỗ nâu sẫm như da sành, nhiều khoảng rêu cáu vừa xanh vừa đen, nhiều chỗ long lở như đất khô hay mốc bám.
Ở hai bên c̣n chừa ra hai lối nhỏ đi ra phía sau bệ, đến chỗ cùng hang. Ông Châu cầm đuốc bước vào. Trần đá càng ở xa càng thấp.
Ông đứng sau bệ ngoảnh vào, thả tầm mắt nh́n cái khoảng tối đen mà lửa đuốc không soi tới. Ông đi vào mấy bước th́ phải cúi thấp măi xuống. Ông thấy cái cảm giác như bị đè nén măi ở dưới cái trần đá nặng và dày. Ông thử nghĩ xem chỗ ông đang đứng ở phía nào trong ḥn núi đá. Nhưng không đoán ra.
Khi mắt đă quen tối, ông chợt thấy h́nh ba bốn bộ xương người nữa. Ông gọi đầy tớ lại và bảo cho chúng biết là họ bị hại bởi tay người tàu... Nhưng xét kỹ th́ h́nh như họ bị thuốc độc chứ không phải bị chém bất th́nh ĺnh như ông thoạt tưởng: bộ xương nào cũng c̣n nguyên, mà cổ vẫn liền với đầu.
- Vả lại, ông Châu nói tiếp viên quan tầu ngoài cách đầu độc họ th́ không dám giở ngón ǵ ra. V́ tất nhiên y vào đây có một ḿnh, với bọn kia... nếu họ hơi thấy viên quan có ư phản trắc tất họ không để cho y sống.
Nói đoạn ông quay trở lại, đưa bó đuốc cho một người đứng bên. Ông đứng sau cái bệ lớn, yên lặng một hồi lâu, tay cầm gươm, vô t́nh vạch lên mặt bệ những nét nhằng nhịt. Lần này là lần thứ năm, thứ sáu, ông ngẫm lại những cảm giác và những điều ông suy tính trong ḷng.
Lúc ấy ông thấy ḷng xôn xao. Ông dịu lời bảo đầy tớ nổi thêm đuốc lên, th́ thấy giọng nói của ḿnh hơi khác. Quả tim ông đập nhanh và mạnh lắm. Có lẽ đó là v́ mừng. V́ ông biết rằng trong cái bệ lớn kia, có một kho của lớn mà chính ông, ông sắp được hưởng...
Viên quan Châu nhỏ mọn, danh phận mờ tối ở trong bóng những rừng hoang, nay chỉ c̣n phải lật có một lần tường mỏng nữa là được trông thấy cái phú quư to nhất trong nước... Ông sẽ làm nên tiếng tăm, ông sẽ t́m cách cùng một đồng liêu người Kinh, làm quan trong bộ. Ông sẽ mở một con đường mới cho người cùng giống. Người ta có của là người ta có quyền.
Ông hắng giọng cho lời nói mạnh lên. Bọn theo hầu đă đốt thêm đuốc.
Ông sai giắt hai bó lên kẽ đá, bảo ba người khác cầm năm bó, c̣n ông và hai người mạnh khoẻ nhất th́ lấy xẻng, cuốc để bổ vỡ cái mặt bệ ra. Cuốc vừa mới giáng được một nhát, bộ xương người bỗng đổ rơi xuống, xếp lại thành một đống hỗn độn trên mặt bệ , cái đầu lăn ra một bên. Ông châu bắt họ không được ngừng tay. Họ đang ra sức bổ nữa th́ ông Châu ngăn họ lại.
Rồi một tay cầm lấy một con dao c̣n tay kia ông rờ vào chỗ kẽ vừa mới nứt ra ở một góc bệ. Ông lấy mũi dao cắm mạnh vào đó, bảo một người nữa cùng làm thế, rồi hai người lấy hết sức bẩy lên. Một phiến gạch dầy ước nửa gang tay, to bằng nửa cái án thư bật lên, để lộ ra một lớp gạch nữa mới hơn ở dưới một lần vữa mỏng. Lớp gạch phủ trên đá phá hết. Lớp gạch dưới mới nậy được ba viên.
Ông châu vội bảo họ ngừng tay: ông đă trông thấy những h́nh nén, h́nh thoi in nhấp nhô ở dưới một lần vải phủ trên. Mảnh vải ấy cách lần gạch độ ba đốt: ông quan thổ cầm lấy mép vải rồi nhanh tay lôi lên, mảnh vải mủn rách bung ra; ông châu mở mắt cực lớn.
Những thoi vàng dài, màu xanh xanh, nằm hỗn độn bên những xâu ṿng trắng muốt, đó là những vật ông trông thấy trước nhất, bọc trong những mảnh lụa hay giấy mỏng ḷi ra. C̣n ở dưới th́ toàn những bọc c̣n nguyên, có lẽ cũng là bọc vàng, ánh lửa soi vào làm hơi lấp lánh ở những chỗ rách.
Ông quan thổ, mười ngón tay run lẩy bẩy, đưa cả chực bốc; ngập ngừng một lát, rồi với lấy mấy cái bọc đưa lên tận mắt để xem.
- Chính phải rồi. Chính vàng! Vàng! Vàng với những ṿng ngọc. Vàng ngọc cao gần ngập bệ, lại c̣n khuất ở dưới những phiến gạch kia!
Bỗng nhiên ông nín lặng. Ông liếc mắt nh́n bọn tôi tớ. Chúng nó đứng mê đi như những pho tượng cầm đuốc, chống xẻng. Ông thấy cái ghê rợn chạy khắp người.
- Nhưng mà không! (Ông nghĩ thầm) không hề ǵ! chúng nó là người trung thành lắm. Ta phải b́nh tĩnh mới được... ừ không sợ ǵ!
Tuy thế ông vẫn đề ư đến cử chỉ của họ và nh́n lại cái gươm sáng của ông dựng ở một bên đùi. Ông kéo hai, ba gói nữa lên th́ thấy toàn là những chuỗi ngọc kim cương và bạch ngọc. Lúc ông để cả xuống th́ chú ư đến một tập giấy nhô ra ở trong bóng tối của phiến gạch dày. Ông cầm giở ra xem th́ đó là một quyển sổ mỏng.
Giở tờ thứ nhất, thấy mấy ḍng viết rất tốt;
"Thạch điền quang. Minh triều đại thần, xung Nam bang đô đốc chi bảo"
Trang thứ hai kê những đồ đĩa ngọc, chén ngọc b́nh vàng và bạc rồi đến trang kê các thứ ngọc: ngọc thạch, ngọc trai, kim cương... Trang thứ tư và thứ năm, các đồ bằng ngà voi, bằng san hô; ngà voi nguyên, sừng tê... Trang cuối cùng kê toàn là vàng, vàng thoi, vàng nén, vàng diệp các hạng.
Trừ những người bộ hạ của quan Châu nga Lộc th́ không ai biết đến chuyện ông t́m thấy của. Cả ông châu kao Lâm cũng vậy: ông quan này tưởng cả hai tên bộ hạ ông sai đi đều bỏ xác ở hang Thần.
Người thổ Kao Lâm từ khi gặp những điều kinh khủng trước cửa hang đá th́ ở lại châu Nga Lộc, mấy tháng ṛng ră không dám bước chân ra ngoài.
Rồi một ngày kia, người thổ ấy tự nhiên đi đâu măi không về nữa. Người ta đổ đi t́m các ngả cũng không thấy. Sau cùng, một người lách vào một bụi rậm gần đấy th́ thấy hắn chết treo ở dưới cây ổi lớn bên nhà ông Châu. Bọn bộ hạ theo ông Châu hồi xưa lấy làm kinh ngạc vô cùng.
Họ ngờ là ông ta lập mưu giết nó. Nhưng phần nhiều là đoán nó tự tử, v́ họ thấy nó bị cái hối hận và khiếp sợ cắt rứt ám ảnh không thôi. Và bọn người theo ông châu sau này vẫn được sung sướng, giàu sang một cách b́nh tĩnh. C̣n ông Châu th́ bận bịu về của cải nhiều lắm. Ông cưới thêm hai người thiếp nữa, và thôi tưởng đến sự làm quan trong Kinh.
Những tảng đá giết người trong hang thần th́ ngay sau khi vận hết của về nhà, ông châu đă sai đem bỏ vào một cái hang thứ hai là hang giấu của và sai xây thêm một lần đá bên ngoài lấp kín miệng hang ấy đi. Tuy vậy, ông vẫn giữ lại một tảng nhỏ nhất làm kỷ niệm.
Ông vẫn có ư giữ kín không nói ra v́ sao mà những tảng đá kia lại hại người một cách ghê gớm như thế. Nhưng một hôm, nhân chuyện với mấy tên người nhà tâm phúc, ông tưởg cũng không cần phải giấu măi sự thực làm ǵ.
Ông bèn cẩn trọng đem tảng đá ra, lấy dao cạo mạnh lên, th́ thấy lở xuống, nhỏ và mỏng, những mảng cát to hạt. Đó là một thứ cát sắc cạnh màu vàng trong lẫn màu nâu cháy, dính lại với nhau như luyện keo. Ông nói:
- Đây là cái oai quyền của "thần giữ của" đây, cái linh thiêng của Văn Dú cũng cả đây, thực là ghê gớm mà khôn khéo. Bao nhiêu tai họa, bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu điều khiếp sợ của người ta trong mấy trăm năm trời đều do những vật vô tri vô giác này gây nên.
Nhưng chẳng qua chỉ là cái kỳ mưu của viên quan tầu nhà Minh, chứ không có thần thánh ǵ hết. Chung quanh tảng đá này, có một sức mạnh giết người mau chóng hơn cả thần thánh nữa; đó là nhựa của một thứ cây độc tên là May Nôm, thứ cây mà bọn Mán đi săn với quân giặc ở những núi hiểm gọi là Công đia đèng.
Nhựa cây này, ngâm tên th́ tên hoa độc: bắn, không cứ phải chỗ hiểm, chỉ cần làm trầy da rướm máu cũng đủ làm cho kẻ bị thương chết không thể cứu được. Nhưng nếu chế luyện theo phép của một vài giống rợ bên Trung Quốc th́ giống bôi thuốc độc vào móng tay để cào cấu kẻ thù th́ nhựa cây đó trở nên rất mạnh và giết người một cách ghê gớm mau chóng hơn, Viên quan tầu kia hẳn biết cách chế luyện nó.
Rồi ông Châu gắp đưa cho mấy người bộ hạ xem những mảng cát bám trên tảng đá cuội. Ông bảo rằng đó là một thứ cát làm bằng những mảnh sứ hoặc thuỷ tinh băm nhỏ, luyện keo lại với thứ thuốc độc mà ông nói.
Thứ keo riêng ấy, đem trát lên các ḥn đá xây lấp cửa hang, là thành một thứ quân canh gác chắn chắn không ǵ bằng. Cho nên những kẻ đi t́m vàng trước ông Châu, như bọn con cháu họ Hoàng, bọn Cướp Khách với tên Nùng khai, đều v́ phạm đến vật nguy hiểm kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên đá đâm vào da mà bỏ mạng.
Ông Châu tuy đem cái bí mật của hang thần mà giải nghĩa cho những người bộ hạ trung hậu đă theo ông đi lấy của khi xưa được biết, nhưng ông vẫn để cho dân trong Châu tin là ông có oai át được cả thần quyền. Văn Dú mất thiêng là v́ ông. Dân ông rất lấy làm cảm cái ơn trừ tai phá hoạ ấy.
Từ đó, dần dần họ đă dám khai khẩn và cày cấy ở gần quả núi đá. Lại có lần người ta rủ nhau vào tận hang xem. Núi Văn dú trông vẫn ngất ngưởng cao lớn nhưng người ta chỉ coi là một ngọn núi cao lớn thường.
Đến nỗi cái tên đă làm khiếp đảm mấy châu huyện ngót ba trăm năm trời, họ cũng quên dần đi. Bây giờ th́ không mấy ai biết đến nữa.
Thế Lữ
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 802 of 2534: Đă gửi: 18 September 2008 lúc 10:19am | Đă lưu IP
|
|
|
NGHỀ GIẢ CHẾT
Chỉ cần chui vào quan tài nằm im giả chết từ khuya tới sáng là có tiền từ 50.000 đồng đến 150.000 đồng một lần, tuỳ theo chủ trại ḥm lớn hay nhỏ, “sộp” hay “keo”. Nếu chủ trại ḥm bán được nhiều quan tài, người giả chết sẽ được thưởng thêm v́ có nhiều người chết thật!
KIẾM TIỀN TRONG QUAN TÀI
Đang lai rai mấy chai bia, tán gẫu cùng ba người bạn là Vinh, Hiển và Linh trong một quán cóc trên đường Trường Chinh quận Tân B́nh. Tư mừng rỡ khi nhận được điện thoại của một chủ trại ḥm ở gần khu nghĩa trang B́nh Hưng Hoà.
Nói chuyện xong, Tư hớn hở khoe:
- Đêm nay tao lại được ngủ trong chiếc quan tài “xịn” nữa rồi. Tội nghiệp vợ chồng anh chị Tám chủ trại ḥm, vừa xuất xưởng mấy chiếc nhưng bị ế nên nhờ tao “mở hàng”. Tao mà ra tay th́ linh lắm, chắc chắn sẽ bán ào ào”. Cả nhóm cùng nâng ly chúc Tư ngủ ngon và có giấc mơ đẹp trong... quan tài.
Tại Thành Phố hcm có một bộ phận người dân chuyên kiếm sống bằng những nghề đ̣i hỏi phải có “thần kinh thép”. Đó là nghề nhặt xác chết vô danh, nghề canh nhà xác, nghề trang điểm làm đẹp người chết trước khi cho vào quan tài, “tạo h́nh” cho người chết không nguyên vẹn do tai nạn, tắm rửa, gói xác, tẩn liệm, châm lửa đốt xác trong các ḷ thiêu, canh giữ mộ tại các nghĩa địa... Những công việc này tuy khá “đặc biệt” nhưng tính chất và mức độ “kỳ lạ” chắc hẳn không bằng công việc của Tư.
Tuy "thâm niên" chưa cao nhưng với hơn năm năm kể từ khi theo "sư phụ" thử việc, Tư đă có hàng trăm lần chui vào... quan tài nằm từ mười một giờ đêm đến sáng hôm sau.
Tư tâm sự:
- Công việc mới nghe qua rất đơn giản, nhưng khi làm th́ hoàn toàn không dễ chút nào. Những ngày đầu tập tễnh vào “nghề”, mỗi lần chui vào quan tài tôi lại cảm thấy buốt lạnh cả xương sống, suốt đêm không sao chợp mắt được. Đầu óc nghĩ ngợi bao nhiêu chuyện rùng rợn, kinh hoàng dẫn đến sợ... đủ thứ.
Cũng theo lời Tư:
- Để tránh suy nghĩ miên man, hễ đêm nào có “mối”, tôi sương sương nửa lít hay ba xị đế cho say bí tỉ rồi chui vào quan tài đánh một giấc tới sáng. Hôm nào mệt nốc rượu không nổi, tôi lại nhờ đến mấy viên thuốc an thần... Mọi chuyện làm riết rồi cũng quen, sự sợ sệt, nỗi ám ảnh dần tan đi.
Giờ đây, tôi xem ngủ trong quan tài hay trên giường cũng gần như nhau. Thậm chí lâu lâu không được “chết”, tôi lại cảm thấy... nhơ nhớ.
Nói mạnh bạo vậy chứ Tư vẫn c̣n sợ mỗi khi được chủ trại ḥm X trên đường Tân Kỳ Tân Quư thuê. Tư kể:
- "Chẳng biết nghe được ở đâu mà theo chủ trại ḥm này, cứ nửa đêm đúng vào lúc không giờ, dùng búa gơ mạnh vào chiếc ḥm ba cái sẽ bán được “hàng" ?
Ông ta nói nếu gơ vào quan tài tôi đang “chết” th́ càng linh hơn. Nằm trong quan tài nghe tiếng gơ tôi muốn thót tim. Liền sau đó là lời khấn vái của ông chủ đến rợn người. Thêm vào đó là mùi nhang do ông chủ đốt phải ngửi suốt gần nửa giờ, giống như cúng người chết thật càng làm tôi thêm hoảng.
Tuy bị “tra tấn” nhưng bù lại chủ trại ḥm này rất “sộp”, trước đây trả từ 100.000 đến 150.000 đồng cho một lần “chết”; nay do vật giá leo thang, ông ta tăng thêm 50.000 đồng mọt lần. Nếu trong tuần bán được nhiều quan tài, tôi được thưởng thêm hai ba trăm ngh́n".
V́ sao chủ trại ḥm thuê người chui vào quan tài giả chết? Thắc mắc của chúng tôi được Tư giải đáp ngay:
- Có ǵ đâu do “hàng” bị ế nên một chủ trại ḥm mới bày ra tṛ này vừa “xả xui” vừa hy vọng bán được nhiều quan tài. Thường chỉ một số ít chủ trại ḥm làm, c̣n đa số cho rằng bất nhân thất đức, thậm chí c̣n là điều kiêng kỵ v́ trù ẻo nhiều người chết. Tôi th́ chẳng quan tâm ai thuê th́ tôi “chết” trong vài giờ, sáng ra sống lại nhận ngay tiền công..
CHẾT GIẢ THÀNH CHẾT THẬT
Tin thằng bạn tên Lư ra đi ở tuổi ba mươi lăm khiến Tư vừa buồn vừa sợ. Lư không chỉ là bạn chí cốt mà c̣n cùng làm công việc chết giả như Tư. Cả hai luôn hỗ trợ nhau rất nhiệt t́nh. Hôm nào có “mối” nếu ai bận không làm được th́ người kia sẵn sàng “chết” thay. Sau khi nhận tiền th́ “chia sẻ” với bạn bằng ly cà phê điếu thuốc thơm.
Nhớ bạn Tư không cầm được nước mắt:
- "Hai anh em sinh ra và lớn lên gần “thành phố buồn” B́nh Hưng Hoà, ngày qua ngày chứng kiến cảnh người sống tiễn đưa người chết về thế giới bên kia. Tụi tôi đă quen với cảnh sinh ly tử biệt như cơm bữa.
Có lẽ v́ thế nên không ngần ngại khi làm cái việc chết giả này. Thằng Lư hay nói vui, người ta th́ chết thật cũng trở nên b́nh thường, c̣n ḿnh chỉ chết giả có ǵ mà sợ. Nhưng không ngờ nó đă chết thật rồi thương nó quá!”.
Đám tang của Lư được làm đơn sơ. Chiếc quan tài hạng b́nh dân cùng toàn bộ chi phí mai táng cho Lư được chủ một trại ḥm từng thuê Lư chết giả trước đây, lấy giá vốn năm triệu đồng.
Cũng như Tư, công việc chính của Lư là thổi kèn cho các đám tang. Tư cho biết:
- "Công việc này bấp bênh lắm, có ngày vài ba đám, có hôm nằm chèo queo ở nhà chẳng biết làm ǵ. Đó là lư do khiến tôi và Lư rủ nhau làm thêm việc chết giả để tăng thu nhập.
Nay nó theo “chầu ông bà” do bệnh nan y, không liên quan ǵ đến việc chết giả, vậy mà mấy đứa bạn cứ đùa tôi coi chừng có “huông” chết thật theo bạn chí cốt. Đôi lúc cũng cảm thấy lo lo nhưng tôi vẫn tiếp tục chết giả nếu có người thuê, khi nào chết thật như Lư hẵn hay”.
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 803 of 2534: Đă gửi: 18 September 2008 lúc 6:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
"THẠCH ANH" VIÊN ĐÁ CỦA
CÁC NHÀ TIÊN TRI
Từ thời xa xưa, thạch anh đă được coi là thứ đá màu nhiệm. Các nhà trường sinh học cho rằng nó giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp biết quá khứ và tương lai.
Thạch anh được gọi là băng tinh, không tan thành nước, trông trong suốt như pha lê, có một đặc tính đáng chú ư: Nó bao giờ cũng mát lạnh khi ta cầm lên tay. Bởi vậy từ xưa, để kiểm tra xem là đồ thật hay đồ giả, thợ kim hoàn thường áp nó vào má xem có lạnh không.
Ngoài ra, các nhà trường sinh học c̣n cho rằng thạch anh là một thứ đá trực cảm và cực nhạy, có khả năng giúp con người giao tiếp với vũ trụ, với thế giới siêu nhiên. Những viên đá thạch anh tuyệt đẹp cho phép nh́n thấy cái vô h́nh, biết được cái chưa biết, thực hiện cuộc du hành lư thú vào quá khứ và tương lai...
Hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, việc dùng viên đá thạch anh để bói đă trở thành cái “mốt” thực thụ ở nước Anh. Đối với một số người nhiệt t́nh, việc bói này đă mang lại kết quả mỹ măn và do đó đă trở thành một nghề ăn nên làm ra.
Trong số các thày bói lừng danh có một người Anh tên là Fon Burg. Một loạt vụ việc rắc rối mà Fon Burg khám phá ra nhờ viên đá thạch anh đă làm cho tên ông ta nổi như cồn.
NHÀ TIÊN TRI NỔI TIẾNG
Vào những năm 1940 ở Mỹ xuất hiện một nhà nữ tiên tri nổi tiếng tên là Jane Dickson (nguyên họ là Pinkert). Ngay từ lúc mới năm tuổi, Jane đă biểu diễn cho người thân xem khả năng siêu phàm của ḿnh: Tiên đoán những sự kiện tương lai, các món quà mà khách đem đến, cái chết của những người thân thích...
Năm lên tám tuổi, Jane đă nhận được một món quà có tính chất định đoạt số phận sau này của em. Sự kiện đáng nhớ này xảy ra trong ngôi nhà của một bà thầy bói người Digan nổi tiếng mà mẹ Jane dẫn cô bé đến để “tư vấn”. Bà Digan xem bàn tay Jane rồi phán: “Cô con gái của bà sẽ trở thành một nhà tiên tri vĩ đại”.
Sau đó, bà ta đưa cho cô bé viên đá thạch anh: “Cháu nh́n thấy ǵ trong viên đá này?”. Jane chăm chú nh́n vào giữa viên đá và bắt đầu miêu tả một địa điểm chưa hề quen biết: Một dải bờ hoang dă lởm chởm đá, sóng biển nhấp nhô. “Đấy là quê hương của ta. Ta tặng cháu viên đá này”, bà thầy bói Digan nói.
Jane đă tư vấn ít nhất hai lần cho tổng thống Mỹ Roosevelt. Trong cuộc gặp lần thứ nhất vào tháng 11-1944, Roosevelt bị liệt hai chân phải ngồi trong xe đẩy hỏi:
- Xin cô hăy nói thẳng cho tôi biết liệu tôi c̣n sống được bao lâu nữa để kết thúc công việc đă bắt đầu?
Jane không thể né tránh câu trả lời:
- Nửa năm nữa thưa ngài tổng thống, mà thậm chí có thể ít hơn.
Sau cuộc gặp đó được năm tháng, Roosevelt qua đời.
Cuối năm 1956, Jane đă tiên đoán rằng sau chừng bảy năm nữa, người kế nhiệm thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru sẽ có họ bắt đầu bằng chữ “S”.
Lần này viên đá thạch anh cũng bộc lộ khả năng màu nhiệm của nó: Tháng 6-1964 sau khi Nehru qua đời, Lal Bahadur Shatri đă trở thành thủ tướng Ấn Độ.
Jane cũng nói trước về việc John Kenedy sẽ trở thành tổng thống Mỹ năm năm trước khi việc đó xảy ra. Bà không chỉ miêu tả cho một nhà báo Mỹ thấy ngoại h́nh của vị tổng thống tương lai, mái tóc dày màu hạt dẻ và đôi mắt xanh, mà c̣n nói rằng kẻ giết ông ta là một người có cái tên bắt đầu bằng chữ “O” hoặc chữ “Q”.
Tháng 12-1966, Jane báo cho vợ của người phụ trách bộ phận điều khiển các chuyến bay vũ trụ có người lái biết rằng, cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ chuẩn bị bay lên mặt trăng:
- Trên sàn quả tên lửa có một cái ǵ đó rất lạ, nó mỏng trông giống như lá kim loại. Nếu có một dụng cụ nào đó rơi vào nó hoặc có ai đó lấy gót giày giẫm lên th́ ắt sẽ xảy ra tai họa. Ở phía dưới sàn tôi nh́n thấy một cuộn dây điện rối tung. Cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ. Tôi cảm thấy rằng linh hồn của họ đang ĺa khỏi xác nóng hổi trong những cuộn khói..
Một tháng sau khi tập luyện trong con tàu vũ trụ “Apollon - 1” ba nhà du hành vũ trụ Mỹ đă bị thiêu sống.
Jane Dickson đă nhiều lần nói rằng sự tiên đoán đến với bà bằng những con đường khác nhau, đôi khi là do tiếp xúc với một đồ vật mà người nào đó chạm vào, đôi khi do nguồn tin “từ trên cao”.
Nhưng đặc biệt Jane rất coi trọng việc nh́n vào viên đá thạch anh của ḿnh. Bà cho rằng bằng cách khác th́ khó mà có được một “bức tranh” chi tiết. Jane Dickson mất năm 1997 và đă mang theo sang thế giới bên kia sự bí ẩn đối với các nhà khoa học.
Sự quan tâm đến những h́nh ảnh hiện ra trên viên đá thạch anh vào những năm gần đây lại dấy lên mạnh mẽ. Một loạt thí nghiệm do các nhà khoa học và bác sĩ tâm lư nổi tiếng của Mỹ tiến hành cho thấy, những h́nh ảnh hiện lên trên viên đá thạch anh là có thật chứ không là phải là bịa đặt.
Những sự việc, hiện tượng thu nhận được trong các cuộc thí nghiệm với con người cụ thể càng củng cố quan điểm cho rằng, thạch anh có một số tính năng thông tin đặc biệt mà khoa học rồi đây sẽ phải khám phá.
S K-Đ S
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 804 of 2534: Đă gửi: 18 September 2008 lúc 6:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
T̀M THẤY BÓNG MA
CỦA VŨ TRỤ?
Một cô giáo trẻ người Hà Lan có tên Hanny Van Arkel, t́nh nguyện viên tham gia dự án Galaxy Zoo, vừa mới khám phá ra một vật thể bí ẩn có một không hai mà nhiều người tin rằng đó có thể là một “bóng ma” của vũ trụ.
Galaxy Zoo là một dự án nghiên cứu thiên văn học trực tuyến với một kho dữ liệu mở gồm hàng triệu các bức ảnh chụp vũ trụ, cho phép các cộng tác viên là những người đam mê thiên văn học truy cập để t́m ra những điểm khác lạ đáng phải lưu tâm trong đống hỗn độn những bức ảnh chụp được.
Trong khi phân loại các bức ảnh vũ trụ trên trang web của Galazy Zoo, Van Arkel t́nh cờ nh́n thấy bức ảnh của một vật thể kỳ lạ dạng khí với lỗ đen ở trung tâm.
Ngay sau khi bức ảnh đó được công bố trên diễn đàn Galaxy Zoo, nó nhanh chóng được gọi với cái tên “Hanny’s Voorwerp” (tiếng Hà Lan “Voorwerp” có nghĩa là “vật thể”). Các nhà thiên văn học lập tức t́m hiểu và cho rằng Van Arkel có thể đă phát hiện ra một nhóm vật thể thiên văn hoàn toàn mới.
Hanny’s Voorwerp được coi là một bí ẩn lớn với lỗ đen trung tâm khổng lồ mà theo ước tính của các nhà khoa học, phải mất 16.000 năm ánh sáng mới có thể băng qua nó. Các nhà thiên văn học cũng đang đau đầu để t́m ra nguồn gốc của vật thể này.
Kevin Schawinski nhà vật lư học thiên thể đến từ trường đại học Yale, đồng sáng lập dự án Galaxy Zoo cho biết: “Thật sự, chúng tôi không có bất kỳ một khái niệm nào dù nhỏ nhất về nguồn gốc của thiên thể này.
Nó có thể thuộc hệ mặt trời của chúng ta, nhưng cũng có thể nó lại nằm ở ŕa vũ trụ”. Schawinski nói thêm: “Những ǵ chúng ta nh́n thấy thực sự là một bí ẩn. Hanny’s Voorwerp không hề có bất kỳ ngôi sao nào”.
Để giải mă cho bí ẩn này, Kevin Schawinski cùng các cộng sự của ḿnh ở đại học Oxford đă gửi đi thông báo về phát hiện lư thú này tới các nhà thiên văn học khác. Từ đó, tất cả kính thiên văn trên toàn thế giới cùng với vệ tinh trên vũ trụ sẽ được huy động để quan sát kỹ lưỡng hơn vật thể bí ẩn mà Van Arkel đă t́m ra.
Các nhà thiên văn học cho biết, Hanny’s Voorwerp được tạo thành hoàn toàn từ khí nóng với nhiệt độ lên tới 10.000º C. Nó phải nhờ vào một thứ ǵ đó rất mạnh để có thể phát sáng và họ sẽ sớm sử dụng kính thiên văn vũ trụ Hubble để quan sát tỉ mỉ hơn.
Hiện tại, các nhóm nghiên cứu vẫn chưa t́m thấy nguồn phát sáng cực mạnh ẩn bên trong “bóng ma” này. Khi quan sát các nguồn phát sáng xung quanh Hanny’s Voorwerp, họ liền chú ư tới thiên hà IC 2497 gần đó.
Schawinski giải thích: “Chúng tôi cho rằng trong quá khứ gần đây thiên hà IC 2497 có một chuẩn tinh cực sáng (giống một ngôi sao, là nguồn phát ra một bức xạ điện từ rất mạnh).
Chính khoảng cách cực lớn giữa thiên hà và thiên thể này, cho nên ánh sáng từ quá khứ đó vẫn thắp sáng được Hanny’s Voorwerp ở gần đó mặc dù chuẩn tinh đă lụi tắt từ khoảng 100.000 năm trước, c̣n lỗ đen của thiên hà cũng đi vào câm lặng”.
“Nh́n từ góc độ của Voorwerp, thiên hà IC 2497 vẫn sáng rực rỡ như trước khi lỗ đen tàn lụi, chính tàn dư ánh sáng đă bị đóng băng kịp lúc cho phép chúng ta có thể quan sát được”.
Chris Lintott đến từ đại học Oxford, đồng đồng sáng lập dự án Galaxy Zoo nói.
- Nó giống như việc điều tra một vụ án, mặc dù chúng ta đă biết hung thủ đang lẩn khuất đâu đó trong bóng tối nhưng lại không thể nh́n thấy hắn ở đâu.
Người ta đă quan sát được ánh sáng tàn dư lan xa quanh các siêu tân tinh đă nổ từ nhiều thập kỷ, thậm chí là nhiều thế kỷ trước đây.
Chuẩn tinh là các vật thể sáng khác thường, được các lỗ đen cực lớn cung cấp năng lượng và đều nằm ở rất xa. “Hanny’s Voorwerp dường như là ví dụ gần nhất về một chuẩn tinh phát sáng”.
C. Megan Urry, giáo sư vật lư và thiên văn học thuộc Israel Munson kiêm trưởng khoa Vật lư tại Yale, nhận định.
Nhà thiên văn học Schawinski cho biết thêm:
-Thiên hà IC 2497 ở rất gần, v́ thế nếu chuẩn tinh vẫn phát sáng cho đến ngày nay, th́ vào một đêm đẹp trời, chúng ta hoàn toàn có thể quan sát nó chỉ bằng một chiếc kính viễn loại vọng nhỏ. Chuẩn tinh gần nhất vẫn c̣n sáng là 3C 273 chỉ nằm cách đó 1,7 tỉ năm ánh sáng”.
Chị Hanny van Arkel, người đă t́m ra “bóng ma” của vũ trụ thổ lộ:
- Thật khó tin khi vật thể kỳ lạ này lại tồn tại trong kho dữ liệu lưu trữ trong hàng thập kỷ và những t́nh nguyện viên nghiệp dư như tôi lại có thể giúp t́m ra những vật thể như thế này ngay trên internet.
Có thể nói đây là món quà tuyệt vời nhất dành cho ngày sinh nhật lần thứ 25 của tôi. Chúng ta vẫn có thời gian quan sát với kính viễn vọng vũ trụ Hubble để tiếp tục phát triển khám phá lư thú này.
Physorg
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 805 of 2534: Đă gửi: 18 September 2008 lúc 6:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON NGƯỜI CÓ THỰC
SỰ PHÁT SÁNG?
Các nhà cận tâm lư cho rằng, mọi người và vật đều có khả năng phát hào quang, tuy nhiên có nhiều mức độ khác nhau và không phải ai cũng nhận ra điều đó.
Trong các họa phẩm cổ xưa đă xuất hiện người và vật có những vầng hào quang. Các vị thánh trong Thiên chúa giáo, Phật giáo, và các đạo giáo khác đều được mô tả có hào quang tỏa sáng trên đầu. Đức chúa ba ngôi lấp lánh hào quang, các vị Bồ tát đều phát quang minh, những đại tăng tu luyện lâu năm cũng tỏa sáng.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu theo trường phái cận tâm lư cho rằng, mọi người và vật đều có khả năng phát hào quang. Đó là một quầng sáng nhiều màu sắc bao bọc xung quanh cơ thể người hoặc vật, thể hiện một trạng thái năng lượng đặc biệt. Hiện tượng này có thể nh́n được bằng mắt thường, thông qua luyện tập, nhưng khả năng nh́n thay đổi theo tuổi tác.
Người ta chia hào quang ra thành Linh quang, Chính quang và bảy cấp năng lượng khác nhau. Hào quang có nhiều màu sắc. Khi tức giận, nó có màu đen hoặc đỏ thẫm. Người tu hành phát ra hào quang màu da cam. Màu sắc và cường độ của hào quang có liên quan đến sức khỏe.
Cũng theo các nhà cận tâm lư, thực vật phát ra các hào quang dưới dạng trường năng lượng, mạnh yếu tùy khả năng chịu đựng của chúng. Ví dụ như cỏ cây hoang dại có trường hào quang mạnh hơn những loài hoa trồng trong nhà, v́ chúng có sức sống mănh liệt hơn.
MÁY CHỤP HÀO QUANG
Các nhà cận tâm lư cho rằng có rất nhiều các trường năng lượng khác nhau trong vũ trụ và trên thế giới. Trong khi đó, con người nếu không có sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật th́ sẽ bị giới hạn bởi năm giác quan thông thường.
V́ thế, có nhiều hiện tượng tồn tại mà chúng ta không nhận ra, ví dụ như những bức xạ vũ trụ, bức xạ điện từ trường trái đất, các bức xạ nhân tạo như laser. Như thế, việc con người không nhận ra hào quang của vạn vật cũng là chuyện b́nh thường.
Vào năm 1939, một kỹ sư điện người Nga đă vô t́nh khám phá ra hiệu ứng về sau mang tên ông: Hiệu ứng Kirlian. Ông là thợ điện làm việc trong một bệnh viện. Một lần trong khi sửa chữa máy điện cao tần, Kirlian bị phóng điện nhưng không hề hấn ǵ.
Ông đă t́m cách chụp h́nh một vật đặt trong điện trường cao áp và thu được kết quả là h́nh ảnh của vật đó trên phim có quầng hào quang xung quanh. Quầng sáng đó có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào từng loại vật chất.
Khi bệnh viện được trang bị một máy điện mới, Kirlian được phép dùng chiếc máy cũ để làm thí nghiệm. Ông đă t́m cách chụp nhiều loại vật chất khác nhau và làm cho h́nh ảnh hào quang của chúng ngày càng rơ nét, có hệ thống.
Công việc t́m ṭi của ông và các cộng sự đă gây được sự chú ư của nhà nước. Vào năm 1950, ông được cấp kinh phí để xây dựng pḥng thí nghiệm hiện đại hơn. Những kết quả nghiên cứu của Kirlian đă gây được sự chú ư của giới khoa học trong và ngoài nước.
Cùng phát triển theo hướng của Kirlian, vào năm 1970, George Hadjo (Anh) đă phát minh ra máy chụp hào quang sinh học. Ông là một thợ chụp ảnh và thay v́ gắn một điện cực lên tấm phim theo phương pháp của Krilian, ông đă gắn nhiều điện cực khác nhau lên vùng nào đó của cơ thể và chụp hào quang của hầu hết các bộ phận.
Các nhà khoa học tự nhiên cũng đă lư giải về hiện tượng những bức ảnh hào quang của người, động, thực vật và đồ vật được ghi lại qua các phương pháp chụp khác nhau.
Họ cho rằng, khi đặt một vật chất trong một điện trường cao áp th́ sẽ xảy ra hiện tượng hấp thụ, tán xạ điện trường trên bề mặt của vật chất. Điều này dẫn đến thay đổi cường độ điện trường (gần giống trường hợp ánh sáng khi va chạm vào đồ vật cũng bị hấp thụ và tán xạ).
H́nh ảnh của điện trường chụp được trên phim chỉ phản ánh hiện tượng đó, và như thế không có nghĩa vật chất phát ra hào quang. Nhưng mặt khác, các nhà khoa học tự nhiên đă không thể khẳng định được liệu có hay không hiện tượng các vật chất phát ra những trường năng lượng sinh học đặc biệt.
Trong khi đó, những người ủng hộ trường phái "hào quang" đă tiếp tục phát triển các máy chụp hào quang thế hệ khác nhau, thậm chí bán đại trà ra công chúng. Họ tập hợp các bức ảnh hào quang một cách hệ thống và liên hệ nó với những ứng dụng y học, tâm lư học.
Đó cũng là cơ sở cho sự ra đời môn khám bệnh qua chụp h́nh hào quang, dựa vào sự phân bổ "năng lượng" trên các bức h́nh để đánh giá t́nh trạng sức khỏe. Đại khái như, bệnh nhân nhiễm độc có h́nh ảnh vành năng lượng tách ra thể hiện sự suy thoái, bệnh nhân ung thư có vành năng lượng màu đen như than.
Ở bệnh nhân tự kỷ, stress, sang chấn tâm lư, h́nh ảnh hào quang ở ngón tay đeo nhẫn sẽ rối loạn, phân tán, mù mờ màu đỏ.
Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng, chưa có bằng chứng nào cho thấy hiệu quả của việc khám, trị bệnh theo hiệu ứng Kirlian, nếu không muốn nói rằng đó là một phương pháp mơ hồ và chịu thiệt tḥi vẫn là người bệnh.
Cuộc giải mă hào quang của loài người đă trải qua hàng ngàn năm và vẫn đang tiếp diễn.
SK-ĐS
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 806 of 2534: Đă gửi: 18 September 2008 lúc 6:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ NGÀY THỨ
SÁU ĐEN TỐI
Thứ sáu ngày 13 một sự kết hợp giữa ngày được coi là thiếu may mắn nhất trong tuần (thứ sáu) và ngày xấu nhất trong tháng (ngày 13). Mê tín dị đoan? Không hẳn vậy, bởi theo khảo sát của một câu lạc bộ lái xe tại Đức, số vụ tai nạn giao thông trong ngày này tăng tới 60% so với thông thường.
Ở các nước phương Tây, từ xa xưa thứ sáu được coi là ngày thiếu may mắn nhất trong tuần. C̣n hiện nay th́ sao? Có nhiều bằng chứng cho thấy, đây là ngày thường xảy ra những chuyện rủi ro.
Các chuyên gia của nhiều công ty bảo hiểm, nơi lưu giữ các số liệu về những vụ tai nạn, quả quyết rằng thứ sáu chính là ngày xảy ra nhiều thảm kịch nhất trong tuần.
Và không chỉ người Cơ đốc mà cả các tín đồ Hồi giáo cũng tin vào sự kém may mắn của ngày thứ sáu, do vậy phần lớn họ không thích làm việc ǵ quan trọng vào ngày này.
Trong khi đó, số 13 được nhiều người coi là số xấu nhất. Các nước phương Tây th́ tránh sử dụng con số "xui xẻo" này khi đặt tên cho đường phố hay ṭa nhà.
Bạn cũng không thể t́m thấy chỗ ngồi số 13 trên máy bay hay cabin số 13 trên tàu thủy. Và nếu thứ sáu trùng với ngày 13, người ta gọi đó là "ngày thứ sáu đen tối". Khi đó, nguy cơ tai họa sẽ tăng gấp bội.
.. đến hiện thực.
Thật không may, đó không hẳn là chuyện đùa hay ḷng tin mù quáng. Các bác sĩ phẫu thuật cố không thực hiện bất kỳ một ca mổ quan trọng nào vào thứ sáu ngày 13. Họ cho rằng, sự rủi ro trong phẫu thuật tăng gấp đôi vào ngày này.
Thứ sáu ngày 13 cũng là ngày vô cùng xui xẻo cho rất nhiều nhân vật nổi tiếng. Tay gangster Mỹ nổi tiếng Al Capone bị bắt và bị kết án tù vào thứ sáu ngày 13. Ca sĩ nhạc rap Tupac Shakur bị bắn ở Las Vegas và ĺa đời sáu ngày sau đó, vào đúng thứ sáu ngày 13...
Hai năm trước, một câu lạc bộ lái xe của Đức đă công bố những số liệu về các vụ tai nạn xe hơi. Kết quả nghiên cứu qua nhiều năm quan sát cho thấy số vụ tai nạn tăng lên tới 60% vào "ngày thứ sáu đen tối".
Đó có lẽ là lư do để các tín đồ Hồi giáo coi ngày thứ sáu là ngày xuất hành tồi tệ nhất.
Phần lớn các công ty lữ hành của phương Tây tôn trọng nguyên tắc không tổ chức những chuyến du lịch bắt đầu vào ngày thứ sáu.
Các nhân viên cảnh sát cho biết, các vụ cướp bóc giết người và nhiều loại tội phạm khác xảy ra thường xuyên hơn vào ngày thứ sáu so với bất kỳ ngày nào khác trong tuần.
Trong khi đó, vào "ngày thứ sáu đen tối" một số người b́nh thường lại có hành vi hết sức bất thường. Chẳng hạn một nhóm người giàu có ở Philadelphia Mỹ, quyết định thành lập một câu lạc bộ có tên gọi "Thứ sáu ngày 13" và chỉ gặp nhau vào "ngày thứ sáu đen tối".
Lúc đầu, họ có một bữa ăn tối hoành tráng, sau đó họ đập tan những chiếc gương lớn thành từng mảnh, văi ra khắp nơi, rồi giương những chiếc ô trong pḥng, thả mèo đen ra và hành động như những kẻ hóa rồ.
Giải thích cho hiện tượng này, một số chuyên gia nghiên cứu các hiện tượng dị thường cho biết, con người luôn có cảm giác hoảng sợ đối với một số ngày nhất định.
Theo họ, lịch phản ánh ḍng chảy của thời gian và chứa đựng thông tin về chu tŕnh của cường độ năng lượng vũ trụ vốn có mối quan hệ chặt chẽ với trái đất.
Mỗi nền văn minh đều có thể tạo ra lịch của riêng ḿnh sau khi đạt đến một tŕnh độ phát triển nhất định. Trải qua nhiều thế kỷ, con người đă học được kinh nghiệm phải đặc biệt thận trọng trong thời điểm năng lượng vũ trụ đạt được cường độ cao nhất.
Theo quy luật, chúng mang tới năng lượng âm và thường gây ra tai nạn máy bay, chết chóc, t́nh trạng rối loạn v.v...
Sưu Tầm
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 807 of 2534: Đă gửi: 19 September 2008 lúc 1:38am | Đă lưu IP
|
|
|
CẦU VỒNG LỘN NGƯỢC
Cầu vồng lộn ngược, một hiện tượng thiên nhiên hiếm gặp, đă xuất hiện trên bầu trời thành phố Cambridge của nước Anh hồi cuối tuần qua.
Nhà thiên văn hoạc Jacqueline Mitton tại Cambridge đă chụp được h́nh ảnh tuyệt đẹp vào khoảng 4h45 giờ địa phương hôm chủ nhật, 14-9. Một h́nh ṿng cung, trông giống cầu vồng lộn ngược, đă “lộ diện” trên bầu trời thành phố.
“Năm nay đă 60 tuổi nhưng trước đây tôi chưa bao giờ nh́n thấy hiện tượng tương tự. Đó là sự kết hợp thú vị của các nhân tố xảy ra cùng một thời điểm”, bà Mitton nói.
Cầu vồng là hiện tượng tán sắc của các ánh sáng từ mặt trời khi khúc xạ và phản xạ qua các giọt nước mưa. Nhưng cầu vồng lộn ngược xuất hiện khi ánh sáng mặt trời bị khúc xạ qua các tinh thể nước đá trên mây ở tầng cao. Hiện tượng này thường chỉ xảy ra ở các khu vực lạnh.
Nhà thiên văn Mitton nói: “Điều kiện để xảy ra cầu vồng lộn ngược là: phải có các tinh thể nước đá và bầu trời thật trong xanh”.
“Thật ngạc nhiên khi hiện tượng đó lại "tŕnh làng" tại một nơi như Cambridge, v́ thông thường nó chỉ xảy ra ở các khu vực lạnh”.
Metro
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 808 of 2534: Đă gửi: 19 September 2008 lúc 4:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUỶ GROSSLOR
QUÁI VẬT ĂN LINH HỒN
Câu chuyện này đă xảy ra mười chín năm về trước nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...
Đó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh b́nh minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul người bạn thân nhất, sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.
Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri Hoa Kỳ, không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Địa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn.
Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến v́ nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Đế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi t́m thấy một cái cḥi cũ đổ nát.
Cái cḥi này bề ngang khoảng sáu thước và bề dài không hơn tám thước, nó chỉ c̣n lại ba bức tường, mái nhà th́ đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quư vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước, nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên mười hai tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...
Nh́n từ những phương hướng khác nhau th́ nó giống như một cái lều hoặc cái cḥi, được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường, hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư, v́ nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau, được ghép lại bằng một lớp bùn khô.
Bên trong cḥi ngoài dấu vết của một cái ḷ củi và một cái đầu giường làm bằng tay, hầu như bị che khuất nằm ở một góc, c̣n mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi ḍ xét thêm.
Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, v́ đă lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đă tàn phai theo năm tháng.
Xem không thấy ǵ đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đă mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào, v́ vậy chúng tôi đành rời cái cḥi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp.
Khi rời căn nhà cḥi chúng tôi đi ṿng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự ǵ.
Nh́n thật kỹ th́ quư vị vẫn có thể thấy được vài h́nh vẽ như cái khuôn được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán h́nh học, những h́nh không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi th́ giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra th́ cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không c̣n nhớ rơ để vẽ ra làm thí dụ.
Chúng tôi ḍ thám xa hơn th́ thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà cḥi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, h́nh như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn.
Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ ǵ. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh b́a miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh h́nh như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đă làm.
- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.
Paul vội tiếp lời:
- Chúng ta thử xem.
Nói xong bạn ấy liền đứng dậy t́m những cục đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu, rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa, làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động.
Chúng tôi rụt rè tḥ cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng, đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được.
Vui mừng v́ sự thám hiểm t́m kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này, nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ, và đem theo một mớ đồ ăn trưa.
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó, th́ không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:
- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một ḿnh đâu, nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.
Tôi gật đầu đồng ư.
Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng v́ đang cuối hè.
Về đến nơi, thay v́ đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ư ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết, may thay không có ai thấy sau đó, chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.
Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng ba mươi lăm thước, và một b́nh nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu.
V́ vị trí căn cḥi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nh́n thấy cái cḥi đổ nát và miệng của hang động.
Lần này chúng tôi có cảm giác bất an, h́nh như có ǵ đó không được b́nh thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.
Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái ǵ, hoặc có ư nghĩa ǵ.
Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của ḿnh cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.
Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước, c̣n đầu kia th́ bỏ xuống lỗ hang, v́ là người đă t́m được nhiều hang động trong vùng hơn tôi, nên Paul dành đi trước để rọi đường.
Paul ḅ đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ ḅ vào hang động. Vừa ḅ bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này c̣n đi xuống sâu nữa để rồi ch́m khuất trong bóng tối.
Đứng trên miệng hang dơi mắt nh́n theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy ba mươi giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hăi của Paul theo sau là một tiếng “bụp”.
- Chuyện ǵ? Tôi la lớn.
- Ồ, không có ǵ. Tao nghĩ đi xuống tí nữa th́ sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng một thước. Bạn ấy trả lời.
- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.
Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Đến hết sợi dây tôi từ từ thả ḿnh nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nh́n lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng mười ba thước, mà chúng tôi vừa chui vào.
Sau đó tôi nh́n ở phía trước con đường hầm của hang động, giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá. Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng hai thước và chiều ngang gần ba thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó c̣n đi xuống sâu hơn nữa.
Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự h́nh thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Đường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm.
Càng đi xuống sâu vào ḷng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật. Cho dù trong hang động nhỏ, quư vị vẫn có thể t́m thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện nhưng trong hang động này th́ hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào.
C̣n một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ư đến là càng đi xuống sâu hơn, th́ nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay v́ càng ngày càng lạnh hơn. Quư vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới ḷng đất, th́ nhiệt độ cũng đă xuống thấp khoảng mười đến mười lăm độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hăm và nặng nề.
Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc, không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào, th́ bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ư nhiều hơn.
Tại điểm này chúng tôi đă ở dưới ḷng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này c̣n hang động khác để thám hiểm thêm. “Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm” tôi nghĩ như vậy.
Sau mười lăm phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đă đến đáy của đường hầm xoắn ốc, đến tận cùng rồi. Đó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng ½ thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi đút cái đầu vào.
- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Để tao thử xem.
Bạn ấy chui vào cái lỗ, thân ḿnh trườn tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy th́ tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đă qua được.
Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có ǵ khác thường hết.
Trần thành hốc cao ít nhất mười thước, và riêng cái pḥng ốc này đường kính có lẽ rộng từ mười hai đến mười lăm thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm.
Người ta có thể đoán cái pḥng ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong ḷng đất, nhưng vẫn giữ khô ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường t́m kiếm đến khi tôi ra ư kiến hăy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu, đó là một sự thích thú để làm trong hang động, v́ không có bóng tối nào có thể so sánh được.
Quư vị có thể tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn mà vẫn có thể thấy mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không?
Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ pḥng ốc lại tỏa sáng một màu đỏ. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc ngủ ngàn năm.
Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh pḥng để t́m ra manh mối v́ sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy. Xa trong một góc pḥng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng rùng rợn.
Tôi thấy cái ǵ đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới, nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương vụn nhưng nhỏ hơn.
Trong đống này tôi thấy cái ǵ đó như miếng vải len viền áo, của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ư đến những ǵ mà tôi đang chăm chú nh́n mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần hơn để nh́n cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận xương tủy.
Tôi rơ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm th́ trong tai.
- Đi ra!
Tiếp theo tiếng nói như thúc giục.
- Chạy đi!
Tôi sợ quá nh́n Paul và bạn ấy cũng đă nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần đến lỗ ra của pḥng ốc.
Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả pḥng ốc. Tôi quá kinh hăi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái pḥng ốc này sẽ sập xuống chôn vùi chúng tôi.
Tôi đă chạy đến lỗ ra của pḥng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân ḿnh cố gắng đẩy về phía trước.
Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul. Bạn ấy gắng sức trườn tới, nhưng cũng không thể chui qua nhanh được. Nếu không hiểu biết, tôi c̣n tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi nữa.
Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy.
- Ouch!
Bạn ấy la lớn.
Tôi nghĩ có lẽ ḿnh kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nh́n tôi với cặp mắt sợ hăi với giọng nói run run:
- Có ǵ đó nắm chân của tao! Có ǵ đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên. Bạn ấy hét.
Dồn hết sức tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ th́ tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đă liệng dưới đất có dấu giống như dấu tay, một bàn tay mà không giống một bàn tay, in trên bắp đùi của bạn ấy.
Nó có h́nh thù lồi lơm của một bàn tay quá cỡ hoặc là bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng trong suốt. Đó là tất cả những ǵ mà tôi trông thấy bởi v́ khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.
Tại v́ Paul vẫn c̣n đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hăy chờ tôi với, nghe tôi kêu bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp.
Chỉ trong chốc lát tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái pḥng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một mùi hôi bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn chết nghẹt luôn.
Chúng tôi té lên té xuống ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn ốc của đường hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi.
Nếu Paul không bị té hay đụng đầu th́ tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô tận. Chúng tôi đă quẹo và trèo lên nhiều lần, thay v́ cái ánh sáng từ bên dưới phải rời xa ở đằng sau chúng tôi, nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn sáng hơn, chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu.
Cuối cùng chúng tôi đă đến đường hầm dài và thẳng hơn, cũng là nơi dẫn đến ŕa dốc cuối của lối ra hang động. Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi, nhưng tiếng vo ve vẫn càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng c̣i hụ của đoàn tàu xe lửa.
Paul và tôi đến ŕa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng v́ không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều ch́m trong bóng tối. Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài vẫn c̣n là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào.
Paul rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đă chui vào làm chúng tôi sợ run cả người... sợi dây đă biến mất và miệng hang đă bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà trước đây đă đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía cửa hang.
Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước th́ chúng tôi lại bị tuột xuống ¼ thước, v́ vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn c̣n ở mức độ cao. Chúng tôi cuối cùng đă đến cửa hang và bắt đầu t́m cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.
Không c̣n cách nào khác chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới h́nh như đă đến cái dốc cuối và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp.
Chúng tôi vừa bịt mắt lại v́ ánh sáng chói ḷa vừa la thật lớn muốn bể phổi. Tự nhiên tức th́ ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối, giống như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn và mùi hôi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ c̣n lại tiếng thở nặng nề của hai đứa chúng tôi mà thôi.
- Cái .. ǵ... vậy...?
Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đă mất v́ sợ hăi.
- Tao không biết. Hăy t́m cách ra khỏi đây đi.
Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn bin ṿng quanh b́a cái nắp gỗ, để t́m xem có ǵ để chúng tôi có thể dùng làm một điểm bắt đầu không. Sau đó hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ.
Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới, theo sau là một tiếng mà đă đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn người đang dâng lên đường hầm như vũ băo.
Đèn bin của Paul chợt tắt và chúng tôi bị ch́m vào trong bóng tối hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là ḿnh đă dựa sát vào tường đá toàn thân đơ cứng v́ sợ hăi.
Tôi không thể nói không thể cựa quậy không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu chuyển thành như một tiếng hú, khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ.
Không khí bừng nóng cùng với một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của một đứa con gái ngay trong tai tôi. Trong lúc tôi như muốn xỉu v́ quá sợ, th́ cảm thấy có ǵ đó hơi cứng lao nhanh qua chúng tôi, rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô h́nh.
Những mảnh gỗ bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rơ khuôn mặt sợ sệt của chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính quần áo.
Không biết là nên chạy hay ngă quỵ, chúng tôi nh́n nhau đợi chờ xem ai hành động trước, th́ một người đàn ông mặc áo len đi ṿng ra từ cửa trước căn cḥi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cỗi của ông có nhiều nếp nhăn ngang dọc.
Đôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có ǵ đó về người đàn ông này đă làm chúng tôi ở lại, cái ǵ đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ hang động bay vút ra ngoài, lượn một ṿng chung quanh những thân cây ở gần đó để trở lại thanh toán chúng tôi.
Chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răn rắt trong khoảng cách như là nó đang ủi tất cả những ǵ cản đường nó. Một lần nữa chúng tôi lại đứng chết trân trong sợ hăi, yếu sức để ngăn chận cái ǵ đó đang bay nhanh về hướng ḿnh.
Lúc này người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện, bây giờ đă biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ ǵ đó mà chúng tôi không thể nhận ra hay hiểu được.
Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ để kết thành một khối đặc. Nó bay xuống đồi làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp.
Ông già hốc hác liền bước tới chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con sói. Quái vật dường như chậm lại và nếu có chân, nó đang lùi bước.
Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là màu đỏ như máu chúng tôi đă thấy khi trong hang động, mà là một ánh sáng màu trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nh́n thẳng vào nó được. H́nh như quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này nhưng thất bại, nó đă bị lôi xuống lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tai để kháng cự.
Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong ḷng đất sâu. Tiếng la rên rỉ đă lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng với tù nhân của nó rất nhanh cũng như khi xuất hiện.
Bàng hoàng với những ǵ không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết đứng nh́n chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái th́ tấm gỗ đậy bị bể lại một lần nữa thành nguyên vẹn.
Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm vụ, ông già mới chú ư đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không. Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra chúng tôi chỉ bị dơ quần áo v́ đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, v́ vậy chúng tôi chỉ gật đầu mà không nói ǵ.
- Hai đứa đă gần tiêu tại đây rồi.
Ông già nói.
- Ai?... Ư tôi là... Cái ǵ đó?
Paul nói lắp bắp.
- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ.
Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp:
- Nó là cả hai mà không phải cả hai.
Ông ta nói với một giọng trầm xuống.
- Điều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.
Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi bước về hướng căn cḥi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động. Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại xuất hiện, nh́n rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi ṿng ra đằng trước cḥi rồi biến mất.
Paul và tôi nh́n nhau không nói một lời nào, rồi cùng chạy theo ông già ṿng ra đằng trước căn cḥi sụp, để hỏi ông già thêm vài thông tin. Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không t́m thấy dấu vết ǵ cả, chỉ vài giây thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong cḥi để ẩn núp.
Chúng tôi gọi lớn chạy ṿng quanh căn cḥi, chạy cả lên trên đồi để nh́n xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu hết. Lạ thật sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông ấy đă biến mất như làn khói mỏng manh.
Bây giờ với t́nh trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn cḥi để xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà bị sụp đổ để t́m kiếm và chúng tôi đă t́m được...
Một cái xác cứng đơ gần như mục ră hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đă giúp chúng tôi chỉ vài phút trước đây. Trong ḷng bàn tay của xác chết, chúng tôi thấy có một tấm h́nh trắng đen cũ rích, nằm trong một cái khung bể sậm màu.
Paul nhẹ nhàng lấy tấm h́nh đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng rọi vào. Trong h́nh là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là h́nh dáng của ông ta lúc c̣n trẻ đă cùng với người vợ và đứa con gái, đứng chụp trước một nông trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc.
Paul để tấm h́nh lại chỗ cũ. Lúc đó chúng tôi để ư thấy cái ǵ đó nằm gần chân giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật kư.
- Tao chắc rằng ḿnh sẽ t́m được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa kẹp nó vào nách. Thôi chúng ta hăy rời khỏi chỗ này ngay đi.
- Tao cũng nghĩ vậy!
Paul nói.
Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi rời khỏi căn nhà cḥi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng tôi hai đứa không nói một câu ǵ trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước luợng những sự việc vừa mới trải qua.
Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái ṿi nước ở sau vườn rồi chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng không có đứa nào đem bi đong đựng nước về. Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết việc ǵ đă xảy ra, cho những b́nh nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường t́m cách thoát thân.
Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật kư cũ gần rách nát đem lên một căn pḥng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu hết những sự việc trong quyển nhật kư này đều nói về hang động và ǵ đó ở dưới ḷng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó.
Những trang sách đều ghi đầy những ư nghĩ rối loạn và vắn tắt, c̣n chữ viết th́ khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần th́ tôi mới có thể hiểu được một chút ít về sự việc đă xảy ra chung quanh hang động.
Từ đó tôi mới biết rằng:
Vào cuối năm 1890 ông cùng vợ và đứa con gái đă dọn đến vùng đồi núi xây một căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh đất mà họ làm chủ.
Có một ngày đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh nhà... Đây chỉ là một cuộc thám hiểm b́nh thường thôi bởi v́ theo ông ta ghi chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để thám hiểm, nếu không đi hướng này th́ con gái của ông cũng đi hướng kia, chứ không chịu ở nhà.
Từ khi bị té trật chân không tự một ḿnh về nhà đă làm mọi người lo lắng đổ xô đi t́m, mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó th́ ba mẹ cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng th́ phải rủ thêm một người nữa cùng đi, nếu không th́ cô không thể vào rừng được.
Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một người bạn gái đă vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa.
Tối hôm đó ông ta và vợ cùng với gia đ́nh người bạn gái t́m kiếm khắp khu rừng; cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi t́m, và những gia đ́nh hàng xóm cũng góp tay trong việc t́m kiếm. Mặc dù tất cả mọi người kiếm t́m khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích.
Hai tuần trôi qua không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con đường ṃn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc t́m kiếm, họ đă khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đă khám ra cái hang động này nên họ quyết định đi vào để xem.
Vào hang động được hơn một thước, người mẹ t́m được sợi vải cột tóc thường ngày của đứa con gái dính đầy máu khô. Điên cuồng và mất trí với nỗi đau thương, người mẹ bắt đầu chạy xuống sâu hơn nữa. Người đàn ông từ từ đi khập khễng v́ bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, v́ vậy mà khó có thể thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta.
Ông ta khuyên răn người vợ nên trở về nhà để kéo thêm người đến giúp. Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hăy trở lại, nhưng người vợ v́ quá nóng ḷng t́m con nên bà ta cứ cấm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa gào thét tên đứa con gái của bà.
Biết rằng chân ḿnh bị trật không thể nào vào sâu trong hang động được, nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang để chờ đợi và lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những ǵ mà bà ta t́m được. Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của ḿnh c̣n sống.
Ông ta nghe được tiếng vợ ḿnh kêu tên của đứa con gái Emily, lập đi lập lại nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi không một dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên một tiếng kinh hoàng.
Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông đă t́m thấy thân xác nhỏ bé của con gái ḿnh nên ông gọi vọng vào, nhưng không một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những ǵ mà tôi và Paul đă chịu đựng.
Những ǵ ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những ǵ chúng tôi đă kinh nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hăy trở lên v́ sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó có thể là dă thú nên ông cố gắng ḅ ra ngoài. Ông vội vă rời xa hang động đến núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó.
Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất th́ một cái bóng đen phóng ra khỏi hang như một viên pháo đại bác.
Cái bóng đen bay lên không khoảng hai mươi thước rồi quay trở về, h́nh như nó đang cầm ǵ đó. Khi nó đáp xuống đất ông ta thấy cánh tay đă bị xé ra, máu loang miếng vải màu xanh rách nát từ chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn....
Ông ta viết rằng, khi quái vật dính đầy máu th́ nó trở nên cứng rắn hơn. Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ ḿnh và cả đứa con gái cùng người bạn, ông nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân ḿnh sưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào khẩu súng rồi lên đạn.
Để trả thù ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận ḅ từ từ đến nơi xảy ra cảnh hăi hùng gần cửa hang. Đau ḷng tận cùng ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ta đứng dậy giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài.
Ông la lớn xuống hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con quái vật xuất hiện.Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn chắc hơn.
Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như cục than đen đang cháy bị dội nước lăn long lóc xuống đồi. Cặp mắt của nó màu đỏ như hai cái dùi nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc như dao lưỡi liềm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc.
Ông b́nh tĩnh cầm súng nhắm và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc đó ông mới bóp c̣. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen nhưng thân dưới của nó vẫn c̣n tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất. Nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như đống tro tàn.
Cuối cùng ông đă có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nh́n chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông. Ông gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ tiến về phía hang động.
Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đă bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành vách của lối vào hang động. Nó không c̣n cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám mây đen. Ông chạy đến cửa hang nh́n xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễnh về nhà.
Dựa trên nhật kư, ông có đến thăm viếng gia đ́nh cha mẹ người bạn của đứa con gái và đă giải thích cặn kẽ những sự việc đă xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết, bỏ đầy xuống lỗ để ngăn chặn bất cứ "cái ǵ" muốn xuống hoặc ra ngoài hang, cho đến khi một công tŕnh xây cất chắc chắn hơn được dựng lên.
Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái ǵ đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và v́ sao không một ai tin ông về con quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xă đều nghĩ rằng ông ta bị mất trí v́ thấy vợ chết một cách hăi hùng, cũng v́ vậy ông đă lẫn tránh những người chung quanh và xa lánh cả xă hội.
Nhưng ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra xem "cái ǵ" ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xă, xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại, nhưng ông không t́m thấy được một chút ǵ diễn tả giống như ông đă nh́n thấy và kinh nghiệm được.
Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau, khi ông ta nghe có người gơ cửa đó là lúc ông t́m được câu trả lời.
Nhật kư của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đă ở lại đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người da đỏ tại Oklahoma, đă nghe được câu chuyện của ông.
Ông này đă xác nhận và biết về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đă sống chung quanh trên vùng đất này cả ngàn năm.
Họ gọi con quái vật đó là Grosslor nghĩa là con ăn linh hồn: con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm ĺ dưới hang qua nhiều thập niên và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người sau đó lại trở về một giấc ngủ dài.
Những người gọi là Shamans đă giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian khá lâu để kiềm chế con ăn linh hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm.
Không may việc dời đi của bộ lạc Arapaho đă làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con gái của ông và người bạn khi chui vào hang động.
Với sự hiểu biết trong tay ông đi đến tiểu bang Oklahoma hy vọng có thể bàn thảo với những người vẫn c̣n biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache-hi là một người không những có thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh hồn mà c̣n biết được những câu thần chú đă truyền xuống từ ông nội của ông ta.
Hiển nhiên, người dùng những bùa phép này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau.
Linh hồn của người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống động trên cơi giới hiện hữu này; v́ không có sự duy tŕ th́ linh hồn sẽ từ từ tan biến và qua bên cơi giới khác, lúc đó không c̣n ǵ tồn tại để kiềm chế con ăn linh hồn.
Gia đ́nh của ông đă đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu chuyện ông kể, v́ vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đă một lần cùng vợ con sinh sống hạnh phúc để một ḿnh đi vào rừng và dựng lên một căn cḥi thô sơ gần cửa hang của con quái vật.
Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc đời của ḿnh để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa.
V́ không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông ĺa đời nên ông đă khắc những dấu hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang, và trên vách tường sau căn cḥi đối diện cửa hang, ông hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.
Mặc dù tôi và Paul đă phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đă khắc trên đó, nhưng vẫn c̣n đủ năng lực để ông trở lại cơi giới hiện hữu này để kiềm chế con quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rơ ràng hơn...
Sau khi đọc nhật kư và hiểu rơ nguồn gốc của những sự việc đă xảy ra, tôi và Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đă t́m thấy cách căn cḥi không xa, có hai tấm bia đá không tên, có lẽ đó là hai tấm bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông, nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó là căn nhà hạnh phúc ,mà ông già đă ở giờ đây chỉ c̣n trơ trọi lại mấy cái chân nền.
Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, v́ ai mà tin chúng tôi chứ?
Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con ác quỷ, một người ngoại tinh, hay là một con quái vật thời tiền sử?
Tại sao con quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già?
Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn c̣n nhiều thứ để cho chúng ta khám phá và t́m hiểu. Có phải thể xác th́ vô thường c̣n linh hồn mới là trường tồn không?
Jeff Gibbs USA
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 809 of 2534: Đă gửi: 19 September 2008 lúc 8:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
MỘT SỐ ĐỊA ĐIỂM CÓ MA
BÍ ẨN Ở SAIGON
Nơi đầu tiên tôi nói đến là nghe những lời kể của một số người làm trong khu này, đó là khách sạn công đoàn ngoài Thanh Đa quận B́nh Thạnh, và khi tôi mới xuống thi Đại Học đó là vào năm 2001, cũng ở chính trong khu dăy nhà này nh́n cũ kỹ và hoang tàn lắm, dù phía trước có cả một Hotel mới xây, nhưng phía trong chổ chúng tôi ở th́ hoàn toàn trái ngược.
Đó là dăy nhà xây trước năm 1975, căn nào cũng cũ kỹ cả nên bọn chúng tôi chọn ngay một căn lầu một đối diện sân Tenis phía trước gần ngay sửa sổ pḥng khách là những tán lá cây của cây Lekima.
V́ cả đám mới xuống Thành Phố nên chưa rành rọt đi thuê pḥng mà đi theo sự hướng dẫn và sắp đặt của Mẹ thằng bạn trong đám của chúng tôi v́ Mẹ nó đi xuống học Đại Học tại chức...
Căn nhà chứ tôi không dám nói là căn hộ đâu v́ quá cũ, nó gồm có ba pḥng ngũ và một pḥng khách, bọn chúng tôi có bốn người, nhưng thằng bạn tôi nó ở chung pḥng với Mẹ nó rồi, nên c̣n lại là ba thằng tôi ngủ một pḥng và một pḥng th́ bỏ trống.
V́ đứa nào cũng mới xuống và đi học nên sáng rạng mắt ra th́ đi học có khi chiều mới về mà thôi, v́ xa quá xa nơi tụi tôi đi học, mà có về th́ cũng không dám lên pḥng một ḿnh nữa, hic! v́ sự ẩm ướt lành lạnh rùng rợn của khu dăy nhà đó, phía trước mở cửa sổ ra th́ thoáng mát quang đăng nh́n khách vào chơi Tenis.
Nhưng phía sau th́ đối diện với một khu nhà khác, cũ kỹ và hoang vắng không ai ở cả, nên ít khi nào tụi tôi mở cửa sổ ra, sự việc đối với bọn tôi th́ cũng b́nh thường, vẫn tiếp tục diễn ra hàng ngày đi học rồi về.
Tuy nhiên có người đă chứng kiến và gặp điều không b́nh thường liên tục, đó là Mẹ thằng bạn chúng tôi dù chỉ ở mới có hơn một tháng, tôi th́ ở nơi này đúng ba tháng.
Chúng tôi hay gọi Mẹ nó là cô Út nên cho tôi thay tên từ người kể. Cô Út lúc đầu không nói ǵ nhưng vẻ mặt của cô hàng ngày không c̣n vui như b́nh thường khi chúng tôi xuống ở chung, làm cho chúng nghi ngại không biết có phải chúng tôi ăn ở không vừa ḷng hay là chúng tôi làm ǵ đó mích ḷng cô?
Nên chúng tôi mới gặng hỏi thằng bạn tôi là sao cứ thấy Mẹ mày không c̣n vui như mới khi xuống ở vậy? Và tụi tôi nhờ nó ráng hỏi thử xem là có vấn đề ǵ, nhưng cuối cùng cô Út cũng không nói ǵ hết, và cho măi đến gần tháng thứ ba là khi tôi chuẩn bị dọn đi, th́ cô Út mới kể ra những điều lạ lùng mà cô Út đă chứng kiến cho cả bọn tôi nghe, sự thể như sau:
Cô Út kể với vẻ mặt nghiêm trọng nên chúng tôi im lặng nghe lời kể của cô. Cô Út nói khi cả nhà dọn vào ở khoảng một tuần th́ Cô bắt đầu gặp những điều bí ẩn. Cô nói bọn tôi đi học cả ngày c̣n Cô th́ học sát bên, nên hay về nhà nghĩ ngơi buổi trưa, v́ thế liên tiếp Cô thấy những điều kỳ dị.
Khi đang nằm ngủ th́ thấy một người đàn ông đi từ cây Lekima đi thẳng qua lan can và vào pḥng Cô, đây là lầu một mà đi kiểu này là bay rồi hic! Ông ta vào và cố giữ chặt tay cô và gh́m xuống, cô càng chống cự lại th́ càng bị nặng hơn giống như một sức mạnh vô h́nh vậy.
Cô nói mồ hôi cô đổ ra giống như là mới tập thể dục xong vậy đó và sự việc kết thúc khi vô t́nh thằng bạn tôi về đi ăn cơm chung với cô Út, sự việc liên tục xảy ra đối với cô Út dù vậy Cô không dám nói với bọn tôi v́ sợ chúng tôi lo lắng, Cô kể thêm không những ban ngày cứ mỗi lần ngă lưng ra nghĩ là bị, mà cả ban đêm có chúng tôi ở nhà cũng thế.
Hèn chi chúng tôi thấy Cô nói chú Bảo vệ cho bẻ nhánh xương rồng về treo trước cửa pḥng, là tôi đă nghi rồi nhưng tôi không dám hỏi thêm ǵ, v́ tôi cũng đă biết chuyện thường nhà nào treo xương rồng là để khắc ma quỷ đến quấy phá.
Cô nói thêm có lần ngồi ăn cơm chung với chúng tôi lúc đó mới chỉ sáu giờ chiều hơn, chúng tôi ngồi xoay lưng vào trong, c̣n cô th́ ngồi đối diện với cửa sổ có nhánh Lekima đưa vào lan can, th́ Cô thấy một bóng người đen thui đi từ nhánh cây đó vào thẳng lan can và rẽ vào pḥng Cô.
Cô kinh hoảng mà không dám la lên, nên bọn tôi không biết, giờ Cô kể tụi tôi mới biết. Cô đă chứng kiến những điều khác thường đó nhiều đến nổi có lần Cô đă đổ bệnh, chúng tôi cứ nghĩ Cô bị bệnh cảm thường, hèn chi thỉnh thoảng một vài đêm khi chúng tôi ngủ, nghe tiếng gơ cửa pḥng nhưng không ai lên tiếng mà chỉ nghe tiếng gơ cửa khô khốc thôi.
Thường bọn tôi ngủ là thằng nào cũng làm biếng cả, nếu mấy chú Bảo Vệ có lên t́m việc ǵ đó, th́ mấy chú sẽ lên tiếng, hoặc bạn bè có đến ngủ ké th́ tụi nó cũng la ầm ầm, với lại đối diện pḥng tôi ở chỉ có một gia đ́nh thường chẳng có nói hay giao tiếp ǵ với nhau, trên lầu toàn nhà trống không, do đó giờ tụi tôi mới biết căn nhà chúng tôi ở đă bị ma phá.
Dù có treo nhánh xương rồng trước nhà nhưng hồn ma này không theo lối đó hiện về, mà theo hướng từ cây Lekima ngay lan can lầu một của pḥng cô Út nên cô Út đă chứng kiến và thấy hết...
Khi biết hết tất cả và do điều kiện đi học khác nhau địa điểm không tiện, nên chúng tôi phải chia ra ở chứ không ở chung nữa, trước khi đi chúng tôi ghé pḥng Bảo Vệ chào và kể cho mấy người ở đó nghe, th́ thấy mấy ổng b́nh thường và im re, nhưng có chú kia lên tiếng nói:
- Tụi bây chưa gặp đó chứ tao th́ thấy hoài à! tao hay thấy hồn ma đó lăng văng khu cầu thang và ngay cây Lekima, chính căn nhà tụi bây ở đó.
Tụi tôi nghe xong điếng luôn v́ có những đêm tôi đi chơi về khuya và lên pḥng th́ đi ngang cây Lekima và lên cầu thang đó mới ghê chứ, ổng c̣n nói thêm hồn ma đó chính là người coi và quản lư các khâu xây dựng trong tất cả các khu nhà đó.
Hôm đó không biết ổng lên lầu đứng coi công nhân xây dựng thế nào mà trợt chân té xuống đất chết ngay tại chổ, nên giờ đây ổng hay hiện về đi loanh quanh tất cả khu nhà giống như người ta đi kiểm tra vậy đó.
Thế mà chúng tôi ở ngay chổ đó, mà trong pḥng không bao giờ thắp được cây nhang, nên ổng cứ vào phá hoài...
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật không thêm không bớt bất cứ điều ǵ, là người trong cuộc và cũng chính ở nơi này trong thời ngắn, những điều xảy ra thật là huyền bí, với tôi những ǵ mà tôi đă nghe và chứng kiến đều thuộc về Tâm Linh..
Nơi kế tiếp cũng qua lời kể của mọi người đó là:Trong khu Bắc Hải có căn nhà nhỏ nhưng vẫn sống b́nh thường dưới lầu, c̣n nguyên căn lầu trên th́ không ai có thể sống được.
Chủ nhà đă nhiều lần cho sinh viên thuê ở trọ nhưng không người nào ở quá một ngày một đêm, cho đến thời điểm đó vẫn không ai dám mướn và chủ nhà vẫn sinh hoạt b́nh thường dưới nhà, c̣n căn lầu trên coi như dành cho người cơi âm.
V́ mọi người xung quanh nói lầu trên có cô gái trẻ treo cổ tự tử nhưng vong hồn không được siêu thoát nên ở luôn trong đó, nghe mà hăi quá.
anhnokia
Lúc trước ḿnh có sống tại 81 CT Cư Xá Bẳc Hải và trong nhà ḿnh có ma thật đó. Hiện tại nhà này hai bác ḿnh ở và cho sinh viên thuê ở nhà sau.
Lúc đó ḿnh c̣n nhỏ lắm và có thấy bóng người đi trong nhà nhiều lần lắm, trong nhà ḿnh có một người anh hay bị ma đè lắm. Có lần bốn người đánh không lại anh ta.
Ḿnh qua Mỹ hai mươi năm rồi và năm 1999, hai bác ḿnh đưa anh ḿnh đi lên chùa trên Đồng Nai để trừ ma.
Năm 2000 ḿnh có về Việt Nam và thấy anh ḿnh hết bệnh, nhưng trong nhà vẫn c̣n khí ma.
Jdang
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 810 of 2534: Đă gửi: 19 September 2008 lúc 9:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGÔI MỘ ĐỨNG TRONG
CĂN NHÀ HOANG
Câu chuyện của tôi bắt đầu cách đây khoảng hai mươi năm, khi đó tôi được khoảng năm, sáu tuổi. Xóm tôi sống nằm gần chợ Ḥa Hưng, tại đó có một ngôi nhà xưa cũ cách nhà tôi ba căn.
Ngôi nhà h́nh như được xây dựng cách đây mấy chục năm, ông chủ nhà cũng đă chết khi tôi c̣n ẳm ngửa. Đó là vào khoảng năm 1983. Từ đó căn nhà bỏ hoang, lâu lâu th́ vợ con ông ấy cũng có về quét dọn chứ họ không ở v́ đă có căn nhà khác.
Chuyện sẽ không có ǵ đáng nói nếu như ở cái sân trước nhà ấy, được xây bằng những cột bê tông cách nhau hơn một mét, nối nhau bằng mấy ống nhựa tṛn nh́n như cầu thang.
Cái sân ấy khoảng tám mét vuông, có một ngôi mộ mà là mộ đứng. Nghĩa là người chết không được chôn sâu xuống ba tấc đất như b́nh thường, quan tài dựng đứng rồi xây mộ nh́n như cây bút ch́ thật to vậy.
Ngôi mộ này có từ thời Pháp thuộc, người chôn trong đó tôi được nghe kể là lính chết trận.
Ngày đó bọn trẻ con xóm tôi chiều chiều hay ra bên hông nhà ấy để chơi, cũng có khi buổi trưa nắng, có đám c̣n vào tận sân nhà ấy để chơi nhà cḥi. Tôi lúc ấy thằng nhóc sáu tuổi, cũng cảm thấy ngôi mộ ấy b́nh thường thôi.
Nhưng buổi tối nọ khoảng tám giờ tối, khi người nhà sai đi mua nước đá về uống, lúc về ngang qua nhà ấy tôi đi gần lại, cạ cánh tay phải lên những thanh nhựa nằm ngang ấy cho mát tay. Đến khi sắp rút tay ra th́ hỡi ôi…Tôi không tài nào rút tay ḿnh ra được!
Lúc ấy tôi thoáng nghĩ tay ḿnh đâu có bị kẹt, làm sao mà lại cứng đớ thế này? Nhưng khi định thần lại th́ tôi cảm thấy rằng cổ tay đang bị nắm chặt lại, rất chặt.
Nhưng nh́n chẳng thấy bàn tay nào nắm cả? Hiểu rằng bị “người” nắm, theo quán tính tôi ngước nh́n lên th́ bắt găp..một khuôn mặt đang nh́n tôi chăm chăm rất dữ tợn.
Dù dùng hết sức nhưng vẫn không thể nào đẫy ra được, tôi la lớn gọi bố, th́ mẹ tôi trong nhà kêu:
”Ơi!” một tiếng, tức th́ không c̣n bị nắm nữa, khiến tôi mất thăng bằng ngả ngửa ra, cục nước đá trong ca rớt ra ngoài luôn. Lồm cồm ngồi dậy cầm cục nước đá chạy nhanh về nhà.
Căn nhà đó sau này đă được đổi chủ, xây thành ngôi nhà bề thế, c̣n cái mộ đứng chắc cũng đă được cải táng rồi.
C̣n khuôn mặt mà tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ, các bạn hăy tưởng tượng như khi đem cái hộp sọ người chụp h́nh, rồi bạn cầm phim đen lên xem…Vâng, tôi thấy như thế đấy các bạn ạ.
Người ta có câu:
"Trăm nghe không bằng một thấy".
Đây là câu chuyện của chính tôi và từ ngày đó, tôi tin chết không phải là hết!
Sưu Tầm
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 811 of 2534: Đă gửi: 20 September 2008 lúc 1:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
T̀M HIỂU VỀ LUYỆN
ÂM BINH
Đối với những vị thầy xưa, âm binh là phương tiện nhanh chóng và đắc lực nhất để thực hiện cô ng việc. V́ vậy không thầy nào hạ sơn mà lại không có một bàn thờ binh trước sân nhà.
Âm binh làm việc theo lệnh của thầy, giúp đỡ, phá phách người dương và chống cả người âm. Sau khi ḥan thành nhiệm vụ, binh được cúng lễ đàng hoàng như lính được tướng khao thưởng ngày xưa.
Lễ vật cúng binh từ đơn giản là muối gạo, nổ, cháo hoa cho đến long trọng với đủ thịt cá trái cây rau quả...
Bàn thờ âm binh không bao giờ được để trong nhà, các thầy phù thủy thường gọi là "Tĩnh". Trong Tĩnh, ngoài sắc lịnh triệu binh, có khi các thầy c̣n thờ cả tướng trời như :Triệu Công Minh, Tề Thiên Đại Thánh, Na Tra... ( chỉ có ở các thầy pháp). Có lẽ các thầy muốn dựa vào oai các vị này mà khiển binh cho dễ.
Binh gia có rất nhiều loại. Tùy theo khả năng tu luyện và phương tiện sử dụng mà thầy chiêu mộ loại âm binh nào. Phổ biến nhất vẫn là binh Đại càn, binh chiến sĩ, binh ngũ hổ ... ghê gớm hơn th́ có binh rừng, binh tà A-rặc...
Mỗi loại binh có câu chú luyện riêng. Trước khi thỉnh âm binh, bàn thờ phải có đủ nhang đèn, trầu, rượu, nước, thuốc lá..
Muốn luyện âm binh phải đi t́m những nơi nghĩa địa, chiến trường xưa, vùng đất từng bị ôn dịch chết nhiều... nơi đó mới có nhiều vong lang thang dễ cho thầy chiêu mộ.
Đây là một trong các bài chú gọi binh đơn giản dành cho việc cúng binh Đại Càn:
"Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vái ông Chánh Soái Đại Càn Phó Soái Đại Càn.
Quốc gia Nam Hải.
Chư vị âm binh.
Binh thiên binh địa binh tổ binh thầy binh.
Mấy anh chiến sĩ, đạo lộ đường xá.
Anh chị phụ nữ.
Kẻ xiêu mồ người lạc mă.
Về đây cảm ứng chứng minh theo thầy .....( làm công việc ǵ đó) ...
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát"
Đối với thầy pháp, việc chiêu mộ âm binh phức tạp hơn nhiều, trong tiếng trống chiêng, tiêu khánh, các thầy đọc bài văn chiêu dụ:
Hồn hỡi hồn Cô đơn cơi chết Không người thân thích Không có cơm ăn Đêm tối lang thang Bụng thèm miệng khát Áo cơ quần rách Vất vưởng về đâu? Hồn hăy mau mau Theo thầy chịu lệnh Không c̣n nhang lạnh Thầy cúng áo quần thầy cúng cơm canh thầy cho vàng bạc.... Hồn hỡi hồn! Về nơi thầy không c̣n vất vưởng Về với thầy có bạn âm binh!
Có những bài văn thầy đọc hàng giờ mới hết. Chủ yếu là kêu gọi, kể hoàn cảnh đáng thương của hồn rồi chiêu dụ.
Khi vong chịu theo tự nguyện, bao giờ thầy khiển binh cũng dễ dàng hơn là dùng lịnh trục về. Y như cơi dương vậy thôi, đắc nhơn tâm là chính. Các thầy dùng âm binh vào rất nhiều việc khác nhau.
Trong chữa trị bệnh tà ma, âm binh giúp thầy bắt tà, khảo tà, có khi thầy trục âm binh vào xác bệnh nhân để đánh nhau với con tà bên trong xác, vậy là thể xác thành chiến trường, người bệnh gào thét không dứt... Nhà cửa bất ổn, buôn bán ế ẩm, thầy cho âm binh đến giữ nhà, kêu gọi khách giúp chủ nhà buôn may bán đắt.
Ngày xưa, âm binh được thầy luyện tài đến mức có thể dời nhà cửa, tát ruộng, phơi lúa... làm nhiêu việc như người sống.
Dĩ nhiên là làm ban đêm rồi. Thầy Thím ở B́nh Thuận Hàm Tân thuở xưa dời đ́nh làng trong đêm cũng bằng binh gia chứ làm sao mà sức người làm nổi trong một đêm.
Khi có đụng chạm, âm binh được trục liên tục để bảo vệ thầy, đánh kẻ khắc đạo, làm thám thính. Có những trận trời long đất lở, âm binh hai thầy đánh nhau trong đêm, người trong vùng nghe như băo tố mưa giông, tiếng la hét, gươm giáo khua loảng xỏang, thoảng trong gió có cả mùi tanh hôi.
Đó là chuyện xưa, c̣n bây giờ các thầy lo cơm áo gạo tiền, sức tu luyện và đạo pháp cũng không bằng tiền bối, đôi khi luyện âm binh cũng chỉ nhằm phục vụ cho nồi cơm của thầy ( xin lỗi các vị thầy giữ đạo hạnh).
Một thời gian dài không có khách khứa, nhiều thầy cà chớn c̣n cho âm binh đi phá làng phá xóm để có người bệnh đến t́m. Nhưng thường là phá phách làng khác, phá trong làng ḿnh ở th́ có nước bỏ xứ mà đi.
Có nhiều chuyện truyền miệng về việc thầy dùng âm binh trêu ghẹo thiên hạ. Một bà đi chợ mua chiếc đầu heo về dọc đường gặp thầy, thầy chỉ vào đầu heo tỏ vẻ sợ hăi. Bà ta nh́n lại tay ḿnh th́ trời đất ơi, một chiếc đầu người trọc lóc nằm gọn trong giỏ, bà ta sợ quá quăng cả giỏ mà chạy...
Thầy ung dung lấy cả giỏ đồ ăn đem về. Ở B́nh Chánh Sài G̣n trước đây có thầy Ba chuyên chữa bệnh và nuôi con nít. Mỗi ngày đi chợ thầy xài đúng một quan tiền. Sáng hôm sau mở ngăn kéo, quan tiền đă nằm trong ngăn từ đời nào, tất cả đều nhờ mấy vị binh gia làm hộ đó.
Tuy nhiên tu luyện binh gia là đang sử dụng con dao hai lưỡi, không biết lúc nào bị đứt tay. Thông thường sau khi sử dụng một thời gian, chủ yếu là làm công đức, các thầy làm phép cầu siêu cho chư vị để họ đi đầu thai hoặc về cơi khác tốt hơn.
Các thầy lạm dụng âm binh nhiều, đến một ngày nào đó không c̣n đủ sức khiển hoặc đă hết thời, âm binh quay lại vật chết hoặc hành xác điên khùng, muốn sống chẳng được, muốn chết không xong.
Thầy Tư Bổn nổi tiếng bắt tà ở Cai Lậy Tiền Giang, đến khi về già, đang nằm ngủ trên vơng, âm binh áp vào vật ông xuống mà đánh. Sau khi vùng dậy được, ông chụp roi ấn trên bàn thờ đánh gió túi bụi cả buổi mới thắng. Xong rồi ông cũng muốn đứt hơi luôn. Kiểu này sau khi ông chết đi ắt là trong nhà có loạn.
Sư Ông chùa Linh Hiển Thủ Đức tài phép thần thông dời đá phá mây, đến ngày sắp tịch đệ tử quây quần tụng kinh ba ngày liên tục mà ông cứ lấy hơi lên không chết.
Tui cùng người bạn đến thăm thấy ông bị binh gia vây kín, mủi ḷng bước đến chắp tay chú nguyện cho mấy vị giăn ra. Chưa kịp nói ǵ th́ các thầy là đệ tử của sư ông nóng mặt, sợ ḿnh dành mất công siêu độ nên đuổi về.
Vậy là Sư ông đành nằm lấy hơi lên thêm một ngày rưỡi nữa... các bạn có tin không? Nhưng dù tin hay không, bạn cũng đừng luyện thử nhé! Chẳng có ai chịu trách nhiệm đâu. Vài hàng kể cho chư huynh đệ đọc chơi.
Hungisu
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 812 of 2534: Đă gửi: 20 September 2008 lúc 5:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
POLTERGEIST - HIỆN
TƯỢNG ĐẦY BÍ ẨN
Thuận ngữ "poltergeist" có nghĩa là "linh hồn nhiễu loạn". Có lẽ đây là một trong những hiện tượng bí ẩn của thế giới tâm linh, đă được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm theo dơi, t́m hiểu và có nhiều giả thiết giải thích nhưng chưa thật sự thỏa đáng.
Thứ bảy ngày 13 tháng 10 năm 1990, trong chương tŕnh truyền h́nh “120 phút” hàng triệu khán giả Nga đă nh́n thấy trên màn ảnh nhỏ một cảnh tượng lạ lùng:
Ở một căn hộ tại Moskva, một ngọn nến đang cháy bỗng tự nhấc khỏi mặt bàn và bay qua căn pḥng. Một tṛ ảo thuật chăng? Không phải. Đó là một chi tiết của hiện tượng poltergeist mà một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu đă quay được. Các hiện tượng dị thường đă coi tự phát sau đây thuộc poltergerist:
Tiếng gơ vào cửa pḥng và cửa sổ, sàn và trần nhà; tiếng cưa, tiếng đi lại, tiếng nhảy múa, đôi khi theo nhịp điệu của một bản nhạc phát ra. Tiếng rên rỉ và tiếng kêu. Bàn ghế lật đổ, đồ vật bay bổng, chai lọ thuỷ tinh vỡ vụn như bị nổ.
Các đồ vật nặng bị nhấc bổng, người bị nhấc bổng lên và đặt xuống trên hai chân. Lấy ra các vật từ túi hay ngăn bàn, biến mất các đồ vật ngay trước mắt người chứng kiến và xuất hiện ở một chỗ khác hoặc hoàn toàn mất hẳn.
Các đồ vật đi xuyên tường mà không bị phá hỏng hoặc hư hại, xuất hiện nước không rơ từ đâu, kể cả khi pḥng ở không có nguồn nước. Các đồ vật tự biến dạng.Tắt các dụng cụ điện và cháy vải, giấy khi có mặt mọi người.
Xuất hiện trên tường các ḍng chữ có nội dung đáng sợ đôi khi thấy như có bút ch́ đang viết, tác động lên người các lực không rơ nguyên nhân như cù, điện giật.
Tŕnh diễn các h́nh ảnh đồ họa đáng sợ, thường có biểu hiện di động và có tiếng nói mà chỉ một số người thấy và tự do đi qua chúng.
Điều rất đáng chú ư là ngay trước mặt cảnh sát, các nhà khoa học và các giới xă hội khác, poltergeist thường phô diễn các hành vi xấc xược, đến nỗi làm cho các nhà nghiên cứu, với các học vị bác học cao phải rất lúng túng, không thể nào hiểu được bản chất thực sự của hiện tượng đó là ǵ.
Dưới đây là một trong số các trường hợp poltergeist đă được nghiên cứu cẩn thận, tại thành phố Tomsk xảy ra trong tháng tư và tháng 5 năm 1989. Tại một căn hộ hai pḥng b́nh thường ở gác bốn, thuộc một ngôi nhà tấm lớn có chủ nhà đă ngoài bảy mươi tuổi.
Hôm đó hai vợ chồng họ đang sơn keo màu cho sàn nhà. Trên phần sàn nhà chưa sơn tự nhiên xuất hiện vũng nước h́nh tṛn. Vũng nước đă được chủ nhà lau sạch. Một lát sau lại xuất hiện một vũng nước khác. Hiện tượng đó đă lặp lại mấy lần cho đến khi quét sơn hết sàn nhà.
Một con mèo tỏ vẻ sợ hăi cái ǵ đó và lo ngại nh́n về phía góc pḥng, nơi chẳng thấy ǵ cả. Sau đó bắt đầu sự chuyển động bát đĩa, chúng bay lên rơi xuống sàn nhà và bị vỡ.
Tiếp theo là sự tự dịch chuyển đồ đạc bằng gỗ. Ngay trước mặt những người nghiên cứu và chủ nhà, đă diễn ra sự rung động phía dưới tấm thảm nặng treo trên tường, làm nó bật khỏi đinh và rơi xuống.
Khi chủ nhà đi đâu đó trở về th́ cửa nhà bị chống đỡ từ phía trong bởi một máy khâu có bàn đạp. Tranh ảnh treo tường cũng bị rách. Lọ đựng nước hoa và đôi dép đă được gác lên bộ đèn chùm.
Yêu cầu về hiện rơ chân tướng của động lực vô h́nh đă được đáp lại bởi sự lắc lư bông hoa. Trên nhiều ảnh chụp do các nhà nghiên cứu thực hiện thấy rơ các “vết đen”, các tạo h́nh không lớn lắm, dạng tṛn và tối.
Bằng định vị sinh học cho thấy rằng, trong căn hộ có sự hiện diện những vùng đặc biệt mà ở đó đôi khi bà chủ nhà bị ngất. Các trường hợp tương tự đă được biết rất nhiều. Trên cơ sở các sự cố đă tích luỹ được, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Poltergeist sử dụng thông tin của các cá nhân có mặt khi xảy ra hiện tượng dị thường;
- Poltergeist theo dơi linh hoạt hành động và suy nghĩ của những người hiện diện tại nơi có sự cố;
- Tiếng nói tự phát có thể phô bày tất cả uẩn khúc của người hiện diện, tức là diễn ra sự liệt kê từ trí nhớ của con người.
Poltergeist có đe doạ sức khỏe và làm hại con người hay không? Việc phân tích có hệ thống cho thấy rằng, poltergeist thường chỉ làm cho con người lo sợ, ít gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Thí dụ, nếu đồ vật bay với vận tốc lớn th́ chúng ít va vào mọi người hoặc dừng đột ngột và rơi xuống ngay trước mặt con người. Nếu trên quần áo của người đang mặc bị cháy th́ không để lại vết bỏng, các đồ vật quư nhất trong nhà không bị phá hỏng.
Tuy nhiên với chúng ta th́ hiện tượng poltergeist vượt khỏi phạm vi hiểu biết lành mạnh, nên những người được chứng kiến hiện tượng đó thường ở trong trạng thái căng thẳng tột độ.
Một trong số các giả thiết về sự phát sinh hiện tượng poltergeist cho rằng: Trí tuệ ngoài Trái đất muốn thử thách con người bằng các phương pháp của ḿnh. Có thể poltergeist là sự tác động tương hỗ giữa cấu trúc tích cực của thế giới không nh́n thấy, với tri giác người chứng kiến và môi trường xung quanh.
Tính bất nhă của sự thể hiện poltergeist dẫn đến ư nghĩ rằng: Phản ứng và mức độ tri giác của con người dễ dàng bị phân tích bởi các sinh thể không nh́n thấy và có trí tuệ. Rất có thể hiện tượng poltergeist được tạo ra chỉ với mục đích làm cho con người khiếp sợ, để thoả măn một cái ǵ đó thuộc thế giới tâm linh.
Lê Hải
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 813 of 2534: Đă gửi: 20 September 2008 lúc 6:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
MA DA BÀU CÁT
Đầu thập niên chín mươi thời kinh tế mở cửa, Sài G̣n có nhiều thay đổi. Đâu đâu cũng thấy người ta đào đường xây dựng quy hoạch đô thị. Khu vực dân cư quanh nhà tôi cũng có khá nhiều thay đổi. Nào việc mở đường cộng ḥa thuộc khu lính dù, Hoàng Hoa Thám trước 75, chạy từ Bến Xe Tây Ninh tới Lăng Cha Cả, rồi các khu quy hoạch như mới Bàu Cát, Tân Kỳ, Tân Quư...
Bàu Cát thuộc quận Tân B́nh, là khu quy hoạch mới xây dựng với nhiều dăy nhà cao tầng khang trang. Nh́n những dăy phố mới khang trang nơi đây, có lẽ ít ai c̣n nhớ nơi đây vào những năm đầu thập niên tam mươi, c̣n là những cánh đồng hoang vu mênh mông chạy dài tới nghĩa trang B́nh Hưng Ḥa trên Bà Quẹo.
Bọn con nít trong xóm tôi dạo đó, rănh rỗi thường hay ra khu này vui chơi, mùa nắng bắn bi thả diều, mùa mưa th́ tắm mưa bắt dế. Một nơi quen thuộc với bọn nhỏ chúng tôi là hồ Cát, một hồ nước khá rộng bao bọc bởi những thửa ruộng trồng rau, và những cánh đồng cỏ mênh mông cao ngập đầu.
Không biết hồ do nông dân đào để lấy nước tưới cho mấy thửa ruộng trồng rau quanh đó, hay là hồ do thiên nhiên tạo nên, hay như truyền thuyết là hố bom Mỹ ngày xưa để lại. Nhưng điều đó không làm bọn nhỏ chúng tôi quan tâm.
Cái mà bọn nhỏ như tôi với đầu óc ṭ ṃ hiếu kỳ thích nghe là, hàng năm đều nghe có người chết đuối tại đây, và người ta đồn rằng có ma bắt gị. Riêng tôi cũng không tin chuyện đó, tuy rằng cũng thấy rờn rợn mỗi khi dạo chơi quanh đó một ḿnh.
Cho đến một ngày kia cái tin thằng Tư Đen ở xóm kế bên bị chết đuối, khi đang câu cá tại hồ Cát làm mọi người trong xóm xôn xao, nhất là bọn nhỏ chúng tôi. Nghe người ta kể lại là chiều hôm đó, thằng Tư Đen với anh nó cùng một đám nhỏ ra hồ Cát câu cá.
Câu được một lúc th́ trời nhá nhem tối, nhưng bọn chúng chưa chịu về. Bỗng cái phao của thằng Tư Đen bị vật ǵ kéo tuột xuống nước, nó hí hửng tưởng cá mắc câu nên vội giật cái cần trúc lên. Nhưng ngoài sức tưởng tượng của nó, cái lưỡi câu như móc phải vật ǵ nặng, làm nó không những không thể nhấc lên khỏi mặt nước, mà c̣n bị mất thăng bằng trượt chân rơi tỏm xuống hồ nước.
Thằng Tư Đen vùng vẫy hai tay quơ quào cố ngoi đầu lên khỏi măt nước, nhưng có cái ǵ đó trơn tuột như dây mây níu chân nó lại. Bản năng cầu sanh trỗi dậy nó cḥi đạp cố sức bức ra khỏi cái vật quỷ quái đó, nhưng dường như càng vùng vẫy càng bị vật đó bám chặt lại.
Nó cảm thấy đuối sức dần, miệng hớp mấy ngụm nước làm nó ho sặc sụa mắt nó hoa lên. Trên bờ anh nó cùng mấy đứa kia nghe la hét vội chạy ngay lại, hè nhau cố kéo thằng Tư Đen lên, nhưng bờ hồ dốc lại trơn tuột, không có chỗ bám nên tụi nó loay hoay măi mà vẫn không làm sao kéo Tư Đen lên được.
Hai đứa trong bọn vội chạy thục mạng ra ngoài con lộ đất đỏ, kêu cứu với mấy nhà xung quanh đó. Có mấy người lớn nghe kêu cứu vội vàng chạy lại xem chuyện ǵ xảy ra. Sau một hồi gắng sức Tư Đen cũng được đưa lên khỏi mặt bờ, bụng truơng lên v́ hớp nước mặt nó xanh mét và không c̣n hơi thở nữa.
Mọi người t́m đũ cách cứu nó nhưng vô hiệu. Thằng Tư Đen đă qua đời trong nổi bàng hoàng của thằng anh và mấy đứa nhỏ cùng xóm. Bẵng đi một thời gian câu chuyện đă ch́m dần vào quên lăng, nhất là đối với đầu óc mau quên lại ham vui của bọn nhỏ như tôi.
Thấm thoát đă vào hè, những cơn mưa đầu mùa không nhiều nhưng cũng đủ làm dịu đi cái nóng oi bức. Đất trời cây cỏ cũng xanh tươi hơn và con người cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Được nghỉ hè và có nhiều thời gian vui chơi, nên lại bắt đầu mùa hào hứng của lũ con trai.
Bắt dế đá. Những thửa ruộng và cánh đồng cỏ mênh mông quanh hồ Cát là nơi lư tưởng cho bọn côn trùng và nhất đám dế sinh sôi nảy nở. Khu tôi ở cách cũng khá xa, tuy mùa này vào chập tối cũng có thể bắt được mấy con dế bay lạc tới, vừa thụ động mà lượng lại ít làm bọn nhỏ chúng tôi không thỏa măn. Nhưng đó chỉ là một lư do phụ so với lư do chính là ham vui, chen một chút óc mạo hiểm.
Cơn mưa lớn chiều hôm đó là thời điểm lư tưởng để hành quân bắt dế. Bọn nhỏ xóm chúng tôi háo hức hẹn tối nay tám giờ tối đi bắt dế, địa điểm là hồ Cát. Tôi, Minh, Toàn, Vũ và mấy đứa trạc tuổi, cùng đi c̣n có mấy anh lớn hơn như anh Nhật, anh Hào, anh Hải....cả thảy cỡ chục mạng, trang bị tận răng với nào ống lon, keo, lọ, bao nilông...
Tôi hí hửng hối mẹ dọn cơm sớm, ăn vội vàng rồi lo chuẩn bị đồ nghề, và xin phép ba mẹ xong vội vàng ra điểm tập kết là trước sân nhà ông Hùng đầu ngơ. Trời mới dứt cơn mưa nhưng mây đen vẫn giăng đầy, ánh trăng bị che khuất chỉ c̣n ánh đèn le lói từ mấy cây cột điện bên đường, chiếu những tia vàng vọt xuống con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, dẫn thẳng vào khu hồ Cát.
Đường trơn ướt không gian vắng lặng, chỉ văng vẳng tiếng côn trùng hoà tấu một bản nhạc bi thương năo ruột nào đó. Gió lành lạnh từng cơn xào xạc len lỏi qua hàng cây ven đường, những tàn lá rung rinh in bóng xuống mặt đường loang loáng nước, mơ hồ rờn rợn như những h́nh nhân ma quái nhảy múa giữa đêm tối trời.
Chẳng mấy chốc cả bọn đă đặt chân bên hồ Cát. Trời đă tối hẳn không gian lờ mờ sáng tối mặt hồ đen kịt, hơi lạnh bốc lên lẫn trong tiếng gió hú đâu đây vọng lại làm tôi không khỏi thoáng rùng ḿnh. Cả bọn chia nhau bốn phương tám hướng, len lỏi vào đám cỏ rậm rạp quanh hồ t́m kiếm, lắng tai nghe ngóng tiếng dế gáy để nhanh chân nhanh tay chộp bắt.
Đám cỏ ướt nước mưa thấm vào áo, chạm vào người càng làm cái lạnh tăng thêm, nhưng cả bọn vẫn hăng say như quên mọi diễn biến chung quanh chỉ lo chú tâm vào việc t́m bắt. Chẳng mấy chốc đă gần nữa khuya, tui và Út Lớn hai đứa cùng nhóm thu hoạch cũng khá bộn, mặt đứa nào cũng hí hửng khoái chí.
Đứa nào cũng ham nên thấy vẫn chưa đủ, Út Lớn và tôi tách bọn, vạch lối đi sâu vào đám cỏ cao ngập đầu trước mặt. Lắng tai nghe ngóng tiếng gáy, hai đứa tôi nhẹ nhàng bước tới vài bước, trời không sáng nhưng cũng đủ chúng tôi thấy lờ mờ một con dế to tướng đậu trên nhánh cỏ cách đó khoảng hai thước.
Bốn con mắt tập trung vào nó, chân nhẹ nhàng từng bước tiếp cận mục tiêu, tay thủ thế sẵn sàng ra tay. Bất th́nh ĺnh từ đằng sau có bóng đen nhỏ, từ đám cỏ rậm trước mặt nhanh nhẹn nhào ra bất ngờ, chộp ngay con dế rồi quay mặt lại đứng nh́n bọn tôi như chọc tức.
Nghĩ là đứa lạ nào tranh bắt Út Lớn và tôi vội sấn tới trước tính dành lại. Thốt nhiên ánh sáng trăng len qua đám mây đen đang bay nhanh ngang trời, nhưng cũng đủ soi rơ mặt đứa nhỏ truớc mặt.
- Ahhhh....
Không hẹn mà hai đứa tôi cùng kêu lên thảng thốt loạng choạng bật lùi lại mấy bước, rồi đứng chết trân mặt mày bàng hoàng, th́ ra...th́ ra là thằng Tư đen đang đứng đó...mặt nó xanh mét ánh mắt vô hồn, quần áo ước đẫm chân tay ḷng tḥng những sợi ǵ như những sợi dây đang quấn quanh.
Nó nh́n bọn tôi miệng hé mở như cười, nhưng trông ma quái và rùng rợn khó tả, rồi đột nhiên khuất bóng sau đám cỏ dày đặc.
Sự việc diễn ra trong tích tắc, nhưng măi tới khi thằng Tư đen biến mất khá lâu, hai đứa tôi mới giật ḿnh tỉnh giấc, ùa té chạy thục mạng về phía đám đông miệng không ngớt la hoảng:
- Có ma... có ma....
Nhưng tiếng la của hai đứa tôi chưa dứt th́ đă bị át bằng tiếng la thất thanh vọng lại từ mé hồ nước. Cả bọn c̣n lại hoảng hốt chạy vội lại đó xem xảy ra chuyện ǵ ?
Cả đám giật ḿnh khi thấy thằng Toàn đang chới với ngụp lặn trong nước, nó ngoi lên cố bám vào mép bờ, mặt Toàn nhăn nhó xanh xao xen lẫn nét kinh hoàng. Nó ra sức vùng vẫy chân cḥi đạp trong nước, tay run run cố bám chặt mấy bụi cỏ ven bờ.
Nhưng bờ nước trơn tuột sau cơn mưa mấy bụi cỏ trong tay đă bật gốc mà thủy chung thằng Toàn không sao leo lên được. Hốt nhiên nó thấy người ḿnh như nhủn đi tim như ngừng đập, miệng cố la lên cầu cứu nhưng không làm sao mở miệng nổi.
Vật ǵ đó sâu duới nước như những cánh tay người đang từ từ bám chặt lấy chân nó trơn tuột lạnh tanh. Hoảng hốt như điên dại thằng Toàn cào cấu đám đất cỏ ven hồ trong tuyệt vọng, cảm giác như tê dại nhưng nó vẫn mơ hồ thấy như những cánh tay ma quái từng chút...từng chút một...xiết chặt lại.
Kéo rị chân nó xuống..từ..từ..tận đáy hồ sâu thẳm kia. Bất chợt tay nó nắm được một nhánh cây vừa bật lên từ dưới bụi cỏ ven bờ. Như kẻ sắp chết đuối bắt đuợc phao, nó cố với tay bám chặt lấy khúc cây ra sức dằng co, cố thoát khỏi cái vật ma quái đang bám chặt kia.
Mượn sức từ nhánh cây kia nó may mắn thoát ra được, tai nó nghe những tiếng la thất thanh của cả bọn và mấy cánh tay tḥ ra truớc mặt, túm lấy nó ráng hết sức kéo lên. Lên tới bờ th́ nó đă mệt nhoài thở không ra hơi nhưng nó cũng đă hoàn hồn phần nào.
Bỏ ngoài tai những tiếng ồn ào tíu tít mừng rở của các bạn, nó run run quay lại nh́n xuống hồ nước mà ḷng không khỏi run sợ. Chợt nhớ ra tay ḿnh c̣n nắm khúc cây "cứu sinh" nó từ từ đưa lên nh́n dưới ánh sáng trăng.
- Ahhhh.......
Mắt nó tối sầm miệng bật tiếng kêu thảng thốt và cố hết sức liệng ngay xuống hồ rồi lịm đi, th́ ra khúc cây trong tay nó là một khúc xương trắng khô queo lấm lem bùn đất..
Sưu Tầm
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 814 of 2534: Đă gửi: 20 September 2008 lúc 7:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
MA Ở VŨNG TÀU
Năm lên lớp năm ở trường Lê Lợi lớp tôi được Thầy Tiến làm chủ nhiệm. Thầy Tiến đă gần năm mươi tuổi và nổi tiếng là khó. Có lần cả lớp bị thầy đánh v́ tội ham chơi.
Một ngày gần cuối năm học vào mùa mưa, trời mưa ơi là mưa. Mưa không dứt đến năm giờ chiều rồi mà cơn mưa chẳng ngừng. Bên ngoài trời bắt đầu tối... bỗng dưng trời nổi gió lên làm tất cả chúng tôi giật ḿnh.
Lúc này Thầy nói:
- Trong khi chờ mưa tạnh thầy sẽ kể chuyện ma cho các con nghe các con chịu không?
Cả lớp đồng thanh:
- Chịu!
Thầy bắt đầu kể:
- Tuy thầy là người Thiên chúa giáo không tin là có ma, nhưng chuyện này chính thầy thấy được và từ dó thầy tin là có ma và cúng cô hồn.
Chuyện xảy ra hai mươi năm về trước, lúc đó thầy mới đặt chân đến đất Vũng Tàu. Từ ngoài Cấp nơi thầy ở đi đường trường ở Bến Đ́nh phải lấy đường Lê Lợi. Con đường này đi ngang qua một cái nghĩa dịa rất lớn.
Vào thời đó thầy thường đi đến trường khoảng chừng 5:30 AM, lúc đó ngoài đường chưa có nhiều xe và trời c̣n mù sương, nhưng không phải sương mù như ở Đàlạt phong cảnh cũng lăng mạn lắm.
Bất chợt một hôm Thầy để ư đến một cô học sinh mặc áo dài trắng đứng tựa cổng nghĩa địa. Thầy nghĩ tại sao cô học sinh này đi học sớm quá vậy? Xong không nghĩ ngợi nhiều thầy tiếp tục đạp xe ṿng ṿng mấy con đường có lá me bay.
Qua hôm sau thầy lại thấy cô học sinh đó, nhưng lần này cô khóc... cứ như vậy đúng một tuần. Thầy thấy lạ quá nên quyết định đến hỏi thăm cô học sinh đó. Thầy hỏi cô chờ ai và tại sao khóc. Th́ cô ta mới trả lời là cô có hẹn với bạn trai cô. Anh kia kêu cô chờ anh đón đi, nhưng sao cô chờ hoài mà không thấy anh đến.
Thầy mới khuyên cô đừng buồn chắc người cô chờ sẽ không đến đâu v́ cô đă chờ hết cả tuần rồi! Cô trả lời tiếp một tuần có sao đâu, cô đă chờ hết mười năm rồi.
Thầy mới nh́n lại gương mặt cô chừng 16, 17 tuổi sao cô lại nói đă chờ mười năm rồỉ? Xong cô c̣n hỏi thầy có thể chở cô đến trường được không? V́ thấy câu chuyện hơi lạ thầy nghĩ cô gái này bị bịnh thần kinh, thầy hoàn toàn không nghĩ đến chuyện ma quái, thầy từ chối không chở cô ta.
Sau tan học buổi trưa trên đường về Thầy thấy một ông lớn tuổi đang quét sân nhà đối diện nghĩa địa, thầy dừng xe hỏi ông lăo có quen cô gái đó không, tại sao gia đ́nh cô không đưa cô vô bịnh viện.
Ông lăo nghe xong hỏi liền:
- Nó có kêu cậu chở nó đi học không? đừng có chở nhe, ai chở nó đều bị đụng xe mà chết .
Thầy lúc đó không hiểu ǵ hết ngơ ngẩn nh́n ông lăo. Ông lăo dẫn thầy vào nghĩa địa, đến một ngôi mộ chỉ và bia mộ kêu thầy nh́n kỷ.
Trời ơi trên bia là tấm h́nh cô gái thầy gặp, cô mất đúng mười năm. Ông lăo kể cô gái này v́ tuyệt vọng cho mối t́nh đầu nên tự tử. Chắc v́ chết mà chưa tới số nên vong hồn cứ lẩn quẩn ở đây.
ST
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 815 of 2534: Đă gửi: 20 September 2008 lúc 7:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN MA Ở VŨNG TÀU
(2)
Tôi sống và lớn lên ở Vũng tàu từ nhỏ. Sau này khoảng năm 1990-1991 tôi mới lên Sài g̣n ở cho đến nay.
Lúc tôi c̣n nhỏ, Vũng tàu c̣n vắng vẻ lắm. Cây cối th́ nhiều, phi lao, dừa, cây bàng...
Má tôi có một cái quán sát Băi trước. Nơi đây trước kia có những cây bàng lớn và lâu năm. Má tôi kể nhiều chuyện có liên quan đến nơi này, sau đây tôi sẽ kể cho các bạn nghe:
Câu chuyện thứ nhất:
Thường mỗi tối sau khi quán đóng cửa, má tôi tính xong sổ sách rồi mới về. Có một lần khi về má tôi thấy có một người bộ dạng ăn xin, ngồi che nón lụp xụp ở cây bàng bên cạnh quán.
Má tôi thấy vậy mới nói: Này ông hăy vào bên hiên quán tôi mà nằm cho đỡ lạnh. Vừa nói má tôi vừa bước đi. Mà cũng chỉ bước đi có vài bước, má tôi ngờ ngợ quay lại th́ người ăn xin biến đâu mất rồi.
Má tôi nh́n quanh chẳng thấy ai. Hôm sau má tôi kêu người mỗi tối thắp nhang và rắc gạo muối.
Câu chuyện thứ hai:
Do có một số chuyện xảy ra giữa lính Mỹ và lính Việt Nam nên chính phủ bấy giờ cấm không cho các quán ở Băi trước bán cho lính Mỹ nữa. Từ đó th́ t́nh trạng buôn bán của các quán trở nên thưa thớt. Quán má tôi cũng vậy, lúc đó má tôi xây lớn lớn và dọn cả nhà ra quán ở luôn trên gác.
Sau đó có người đến xin thuê phần sau để làm quán ăn, quán ăn đó cũng có tiếng ở băi trước một thời. Sau thời gian buôn bán thuận lợi, một hôm người thuê quán xin má tôi cho chặt cái cây bàng bên hông quán để cho đẹp không gian, má tôi không đồng ư v́ bà biết cái cây đó là nơi đi về của người âm.
Nhưng ông ta vẫn nài nỉ để cho chặt, cuối cùng th́ má tôi nói muốn chặt th́ chặt nhưng phải cúng kiến và làm am thờ để người ta có chỗ ở. Ông ta vâng dạ nhưng không thực hiện.
Khi mấy người thợ do ông thuê đến đốn cây, bập lưỡi búa vào cây th́ nhựa cây bàng tứa ra đỏ như máu. Cái này tôi xác nhận v́ lúc đó có tôi.
Thế rồi tối hôm đó có chuyện xảy ra. Bà vú nuôi của tôi đang nằm trên gác chợt nghe tiếng chó hực. Nhà tôi ở trên gác, dưới có nuôi một con chó. Phần dưới nhà th́ cho người làm của ông thuê quán ở.
Bà vú nuôi tôi mở mắt th́ thấy có một bóng trắng lẻn vào và khuất sau cái tủ áo, bà tưởng ăn trộm ngồi dậy đến tủ áo nh́n th́ chẳng thấy ǵ. Chỉ sau đó vài phút, ở pḥng dưới chỗ người làm của quán ăn nhộn nhạo lên:
- Có ai đó ở dưới đó bị ma nhập!
Th́ ra đó là chị Hai làm bếp của quán. Mắt nhắm nghiền miệng th́ cứ rên lạnh quá. Hai chai dầu nóng, mấy cái mền trùm vào vẫn kêu lạnh.
Bà vú tôi kêu lên:
- Ai có cái nón lá rách nào không đem ra đốt.
T́m kiếm một lúc rồi cũng t́m ra được một cái nón rách và nó được đốt lên, hơ hơ trên người chị Hai. Một lúc sau th́ chị im không rên nữa và thiếp đi.
Sáng hôm sau chị tỉnh dậy hỏi ǵ chị cũng không nhớ, mặt chị tái mét thất thần mấy ngày sau. Sau đó chị xin nghỉ làm luôn.
Kể từ hôm đó quán ăn trở nên vắng hẳn, rồi cũng dẹp bỏ hẳn. Quán đó sau này má tôi bán lại cho người khác.
C̣n nhiều chuyện nữa để từ từ tôi kể lại cho các bạn nghe. Có thể chuyện không rùng rợn, nhưng theo tôi đó là chuyện có thật. Tin hay không tùy các bạn.
ST
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 816 of 2534: Đă gửi: 20 September 2008 lúc 11:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGHĨA ĐỊA HOÀN SANH
CHUYỆN CÓ THẬT 100/100
Câu chuyện này do một người bạn thân kể lại về một khu nghĩa địa gọi là “Nghĩa Địa Hoàn Sanh” có nghĩa là “sống dậy”.
Trong nghĩa địa này có một ngôi mộ của Damien ở vùng Pittsburgh mà ai cũng đều biết đến. Mặc dù tôi không có lên trên đó lần nào nhưng tôi có thể là người chứng cho những vụ đụng xe lạ kỳ của những người lên trên nghĩa địa, để sau khi trở về th́ gặp phải tai nạn.
Nghĩa Địa Hoàn Sanh nằm trên một ngọn đồi trọc trong sa mạc thuộc tỉnh Pittsburgh, Pennsylvania. Mặc dù nó nằm ngay xa lộ, nhưng con đường chính để đi đến nghĩa địa rất là rùng rợn với những cây thông cao ngất trời dọc theo hai bên đường, đă làm con đường nhỏ dẫn lên nghĩa địa này trở nên âm u và ma quái.
Theo truyền thuyết người ta kể rằng:
Ở nghĩa địa Hoàn Sanh, trên bia đá của một ngôi mộ nằm một ḿnh ở góc cuối cùng của nghĩa địa có khắc đơn sơ hàng chữ “D A M I E N” và ở bên dưới c̣n đề thêm:
“Không phải vĩnh biệt, mà chỉ tạm thời chia tay”.
Tôi nghe người ta đồn rằng nếu ai đến ngôi mộ này quấy nhiễu như đạp lên ngôi mộ, lấy chân đá lên bia đá, hay làm bất cứ chuyện ǵ với ngôi mộ này khi trở về sẽ gặp tai nạn xe cộ ngay.
Thật sự mà nói, lần đầu tiên nghe người ta kể tôi không có tin chút nào, nhưng bây giờ tôi đă biết đó là sự thật. Trong năm học lớp mười một, một nhóm bốn người, rủ nhau lên nghĩa địa Hoàn Sanh để t́m hiểu xem truyền thuyết của ngôi mộ mà người ta đă kể có thật không.
Đợi trời vừa lờ mờ tối bốn người thanh niên ra xe đi về hướng nghĩa địa. Con đường dẫn đến nghĩa địa lặng yên như tờ, mở cửa xe chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù. Nh́n hai hàng cây rậm rạp um tùm hai bên đường giống như những con rắn khổng lồ đen thui dài hun hút, muốn đè bẹp bọn họ lúc nào cũng được.
Khoảng ba mươi lăm phút sau họ đến nghĩa địa trời cũng vừa tối, ánh trăng rằm tṛn to cũng vừa mới nhô khỏi những ngọn cây thông làm cảnh vật chung quanh nghĩa địa càng thêm huyền bí.
Họ đậu vào parking ở phía ngoài nghĩa địa rồi đi bộ vào trong và t́m đến ngôi mộ có tên là Damien. Ngôi mộ Damien nằm một ḿnh trên một ngọn đồi nhỏ ở tận cùng nghĩa địa, nh́n nó cũng giống như những ngôi mộ khác với tấm bia được khắc tên và bên dưới như người ta đă kể có khắc:
"Không phải tạm biệt, mà chỉ tạm thời chia tay".
Sau khi t́m được ngôi mộ này, ba người trong đám đă thay phiên dẫm đạp lên ngôi mộ... v́ họ muốn thử xem ngôi mộ này có quỷ quái như người ta đă kể không. Không những vậy họ c̣n la um sùm và làm đủ thứ tṛ, chỉ có một người trong bọn hơi nhát gan một chút không dám làm ǵ, mà chỉ đứng đó coi đám bạn ḿnh dở tṛ.
Sau khi họ đá họ đạp... lên ngôi mộ xong th́ cả đám hí hửng bỏ về. Lúc đó có lẽ họ nghĩ rằng người chết không thể sống lại để hại người sống được, và cái tên Hoàn Sanh chỉ do người ta bịa đặt mà thôi.
Nhưng khi vừa lái xe ra khỏi nghĩa địa chưa đầy hai cây số th́ họ bị một chiếc xe đang chạy với vận tốc sáu chục miles một giờ, ngược chiều đâm thẳng vào xe của họ. Ba người đánh phá ngôi mộ chết liền ngay tại chỗ, c̣n người nhát gan đứng xem th́ chỉ bị trầy trụa sơ sài mà thôi...
ST
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 817 of 2534: Đă gửi: 21 September 2008 lúc 11:27am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒN MA CÔ GÁI
HIẾU THẢO
Có một ông bác sĩ nổi tiếng là chữa bệnh giỏi. Tiếng đồn gần xa ai cũng biết đến.
Một đêm nọ ông nằm vắt tay lên trán trằn trọc không sao ngủ được. Ông linh cảm có một bệnh nhân sắp đến t́m ḿnh. Đến nửa đêm ông cảm nhận thấy có tiếng bước chân đang tiến về nhà ḿnh.
Tiếng chân mỗi lúc một gần và thậm chí ông cảm nhận được hơi thở của người nào đó sắp gơ cửa ngôi nhà ông. Quả nhiên có tiếng gơ cửa.
Vị khách là cô gái trẻ chừng mười tám tuổi, mặc chiếc áo choàng màu đỏ. Trời tối cô lại chùm mũ áo kín đầu nên vị bác sĩ không nh́n rơ mặt cô gái đó. Cô gái nói với giọng nhỏ nhẹ nhưng rất gấp gáp:
- Chào bác sĩ! Mẹ tôi đang cơn nguy kịch mong bác sĩ nhanh lên cho.
Vị bác sĩ vội vă vơ mấy món dụng cụ cần thiết. Khi ông ra đến cửa nhà th́ cô gái kia đă đi được một quăng. Ông nhanh chân bước theo bóng áo đỏ của cô gái trẻ. Ông đi măi, đi măi và vài lần đă cất tiếng hỏi cô gái sắp đến chưa. Mỗi lần như thế cô gái đều trả lời là sắp đến rồi.
Cuối cùng ông băng qua một cánh rừng, ông thấy một ngôi nhà nhỏ c̣n cô gái th́ không thấy ở phía trước nữa. Ông bước vào căn nhà nhỏ đó và thấy một người đàn bà khoảng bốn mươi tuổi, đang nằm rên lên hừ hừ v́ bị bệnh.
Lập tức ông bác sĩ bắt tay vào công việc cứu người. Được chừng vài giờ th́ người đàn bà hồi tỉnh. Bà ta rối rít cảm ơn bác sĩ:
- Ông thực sự là ân nhân của tôi. Nếu không có ông th́ chắc tôi không qua được đêm nay. Đội ơn ông nhiều lắm.
- Không có chi bà nên cảm ơn con gái bà. Nếu không có cô bé báo tin tôi không thể đến kịp thời như vậy.
Người đàn bà không khỏi ngạc nhiên:
- Con gái? Tôi đâu có con gái.
Ông bác sĩ lúc này cũng vô cùng ngạc nhiên:
- Rơ ràng là có mà. Đó là một cô gái chừng mười tám tuổi, khoác áo khoác màu đỏ, trùm mũ áo đỏ. Bà đừng giấu tôi.
Lúc này bà ta mới nức nở:
- Đúng là trước đây tôi có một đứa con gái nhưng cháu nó không may chết yểu. Nếu c̣n sống th́ nó vừa tṛn mười tám. Cháu nó cũng có một chiếc áo đỏ có mũ trùm như thế, nhưng bao lâu nay tôi cất nó trong tủ mà.
Vừa nói bà ta vừa mở tủ ra. Hai người không khỏi sững sờ khi đằng sau cánh tủ là một chiếc áo đỏ c̣n ướt đẫm hơi sương.
ST
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 818 of 2534: Đă gửi: 21 September 2008 lúc 11:42am | Đă lưu IP
|
|
|
|
VỤ TRỪ QUỶ TẠI
PIACENZA (BẮC Ư)
Một buổi chiều đầu tháng 5 năm 1920, Cha Pier-Paolo Veronesi, Linh Mục ḍng Phanxicô, đang thu dọn pḥng thánh nhà thờ Santa Maria di Campagna th́ một phụ nữ trẻ tuổi bước vào.
Bà xin Cha ban phép lành. Cha mau mắn nhận lời. Nhưng Cha ngạc nhiên khi bà tỏ ư muốn nói chuyện với Cha. Bà mang nét mặt buồn ảo năo. Bà thổ lộ:
- Nhiều lúc một sức mạnh vô h́nh xâm chiếm con, khiến toàn thân con bị rúng động kích thích. Con múa nhảy hàng giờ hoặc hát những bản Opéra con chưa từng nghe và chưa từng hát.
Hoặc con lớn tiếng giảng thuyết cho một cử tọa vô h́nh. Con múa, hát và nói cho đến khi kiệt sức th́ ngă quỵ.
Đôi lúc con muốn dùng răng cắn xé tan tành tất cả vật dụng áo quần con thấy trước mắt. Ngoài ra con có thể tiết lộ những chuyện xảy ra rất xa xôi trong quá khứ và không ai biết ..
Quả thật cuộc sống con trở thành hỏa ngục. Con có hai con nhỏ nhưng con chỉ mong chết, bởi v́ chết tức là được giải thoát khỏi sức mạnh vô h́nh đang xâm chiếm thân xác con.
Với tư cách Linh Mục tuyên úy bệnh viện tâm thần, Cha Pier-Paolo nghĩ ngay: người đứng trước mặt ḿnh mắc chứng ‘‘loạn thần kinh”.
Đó cũng là điều các bác sĩ nói với bà. Nhưng không ai có thể chữa bà khỏi chứng bệnh khủng khiếp. Thất vọng trước các khả năng khoa học, bà t́m đến với Thiên Chúa.
Bà năng cầu nguyện nơi các nhà thờ, mặc dầu tận thâm tâm rất ghê sợ và xin các Linh Mục ban phép lành. Sau mỗi lần lănh phép lành bà có thể sống yên hàn trong vài ngày.
Cha Pier-Paolo hiền từ nói với bà:
- Bà cứ đến mỗi khi bà muốn. Nếu tôi vắng mặt vẫn có Linh Mục thường trực tại đây.
Được khích lệ bà trở lại xin Cha Pier-Paolo ban phép lành mấy ngày sau đó. Đang lúc Cha ban phép lành cho bà nơi bàn thờ dâng kính Đức Mẹ, bà bỗng lên cơn.
Bà thay đổi dáng điệu và khuôn mặt trở nên xấu xí ghê sợ. Bà cất cao giọng hát một bài hát nổi tiếng. Giọng bà mạnh mẽ vang xa đến nỗi lũ trẻ đang chơi ngoài nhà thờ vội kéo vào nghe bà hát.
Hát xong bà lại nói một thứ ngôn ngữ xa lạ với giọng thật đanh thép. Tiếng hát và tiếng nói của bà lôi kéo sự chú ư của Cha Apollinaire, Linh Mục cùng ḍng Phanxicô.
Cha Apollinaire thấy ngay phụ nữ này bị quỷ ám. Chiều đến Cha đem nhận xét nói với bạn. Dĩ nhiên Cha Pier-Paolo kịch liệt phản đối.
Nhưng v́ không an tâm Cha đem câu chuyện tŕnh bày với Đức Giám Mục giáo phận: Đức Cha Pellizzari. Sau khi nghe Đức Cha nói ngay:
- Xin Cha làm phép trừ quỷ.
Cha Pier-Paolo hoảng hốt từ chối:
- Xin Đức Cha chỉ định Linh Mục khác. V́ con nghe nói trong các vụ trừ tà, ma quỷ thường chống lại vị Linh Mục và tuyên bố đủ điều hầu làm sỉ nhục ngài.
Đức Giám Mục mỉm cười đáp:
- Cha an tâm, đâu có ai thèm tin lời quỷ nói. Cha không biết ma quỷ là thần dối trá hay sao?
V́ không thể trốn tránh Cha Pier-Paolo đành vâng lời. Cha bắt đầu cầu nguyện và sống chay tịnh. Cha đoán trước cuộc chiến chống lại quỷ dữ sẽ rất cam go.
Buổi trừ quỷ đầu tiên diễn ra lúc hai giờ chiều ngày 21-5-1920.Tên quỷ sau khi bị ép buộc xưng thú danh tánh đă nói rơ lư do tại sao nó ám vào người đàn bà.
Nhưng quỷ không chịu rời bà. Tên quỷ nhập vào bà là do ông phù thủy yểm bà, bằng cách cho bà ăn một miếng thịt heo muối, ướp trong ly rượu trắng, cách đó bảy năm: ngày 23-4-1913.
Sau buổi trừ quỷ đầu tiên c̣n thêm mười hai buổi trừ quỷ khác nữa. Trận chiến quyết liệt cuối cùng diễn ra vào ngày 23-6.
Sau hơn một tháng áp dụng các nghi thức trừ quỷ của Giáo Hội Công Giáo Roma. Tên quỷ ra khỏi phụ nữ khi bà nôn ra không biết bao đồ dơ nhớp, trong đó có miếng thịt heo muối to bằng viên kẹo với bảy cái sừng.
Người đàn bà được giải thoát khỏi sự ám hại của ma quỷ, nhờ quyền lực của THIÊN CHÚA và nhất là nhờ quyền lực của Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, qua trung gian vị Linh Mục và nghi thức trừ quỷ của Giáo Hội Công Giáo Roma.
(Mons. Cristiani, ‘‘Présence de Satan dans le monde moderne”, Éditions du Parvis 1992, trang 164-187). |
| |
|
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 819 of 2534: Đă gửi: 21 September 2008 lúc 2:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
OAN HỒN CHỊ NHÀNH
Chuyện kể hoàn toàn có thật 100/100.
Các bạn có biết trái gùi không? là một loại trái cây mọc ở trong rừng, có nhiều nhất là vùng B́nh Long, Lộc Ninh. Trái gùi vào mùa mưa bà con người Việt cũng như người Thượng họ hái đem ra chợ bán, trái gùi chín ăn rất ngọt trẻ con người lớn đều ưa thích.
Mời các bạn nghe câu chuyện của chị Nhành qua xâu gùi bến cát, mà trước đây đă được nhạc sỉ Viển Châu soạn thành sáu câu vọng cổ nói về "Xâu Gùi Bến Cát" câu chuyện xẩy ra vào năm 1960 tại làng An Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh B́nh Dương.
Chị Nhành mới sáng tinh mơ trời lạnh buốt mà chị đă kẻo kẹt trên vai quang gánh hai đầu gánh nặng trĩu nồi niêu, chén dĩa. Mua từ ḷ gốm Lái Thiêu đem bán ở hướng Quản B́nh Long, chị ra đi lúc trời c̣n tối trên đường làng quanh co để cho kịp chuyến xe lửa tốc hành về B́nh Long lúc bốn giờ sáng. Sau khi bán xong hàng chị lại đáp chuyến xe trở về từ ga Bầu Bàng.
Vào lúc ba giờ chiều cùng ngày, khi xe ngừng lại ga Bầu Bàng, chị Nhành sợ trể xe vội vả chạy mua xâu gùi về làm quà cho con, xe đang lăn bánh chị cố bám leo lên, nhưng tay chị c̣n cầm xâu gùi, v́ trật tay chị té xuống đường khiến xe lửa cán chị chết ngay, trên tay vẩn nắm chặt xâu gùi.
Chị đả chết rồi nhưng hồn chị rất linh, chị thường hiện về thăm chồng con và luôn báo mộng cho anh Nhành. Chuyện bà hàng xóm kể:
- Bà Tư nhà bên cạnh thấy anh Nhành cô đơn lại quá nghèo, vợ mới chết vài tháng lại có con nhỏ nên bà thương cho hoàn cảnh của anh, bà nhận trông nom đứa bé mổi ngày cho anh đi làm phụ hồ để kiếm sống qua ngày. Nhà của bà cách căn cḥi của anh Nhành không đầy một trăm mét, khoảng cách là một hàng chuối nên bà nh́n sang cũng rỏ lắm.
Hôm nay bà nh́n thấy có một người đàn bà từ sau nhà lom khom múc nước rửa chân ngay sàn nước sau nhà, khiến bà sinh nghi là ăn trộm, nhưng chợt nghĩ nhà anh Nhành nghèo quá có cái ǵ đâu mà trộm chứ.
Môt lát sau bà nh́n thấy người đàn bà đó cầm cây chổi quét sân nhà phía sau, bà liền nói thầm:
- Quỷ quái cái thằng này vợ mới chết lại rước người khác vào nhà mà chẳng nói với ḿnh một tiếng, nó có vợ mới rồi tội ǵ mà trông con cho nó chứ, chờ chiều nó đi làm về ḿnh chửi cho nó một trận.
Tuy nói vậy chứ bà rất thương anh Nhành, khi anh về vội đến nhà bà bế con về, th́ bà mắng anh ta:
- Thằng khỉ này mày lấy vợ hồi nào mà không cho tao hay biết vậy chứ, mai mày đừng mang con qua gởi tao nửa tao không nhận đâu.
Anh Nhành ngẩn ngơ không hiểu chuyện ǵ:
- Ủa con có lấy vợ hồi nào đâu bà Tư.
Bà nói:
Vậy ai quét sân cho mày hồi trưa, tao thấy rơ ràng không có nói oan cho mày đâu.
Anh Nhành cười ngất:
- Bà ơi tha cho con đi, nghèo khổ quá cơm c̣n chưa có đủ ăn, ai chịu lấy con mà bà nói vậy chứ! Không tin bà lại nhà xem coi có ai không?
Bà Tư tức quá nói:
- Được được.. xem mày c̣n chối nửa hay không đi với tao về nhà rồi biết, cả hai cùng về nhà anh Nhành, th́ thấy vắng lạnh chỉ có con gà mái đang nằm ổ trong bếp, thấy có người nó hoảng hốt bay vù ra sân làm tro bụi bay mịt mù.
Hai người nh́n chung quanh bốn bề yên lặng lạnh lẻo đến nổi da gà, trên bàn thờ chị Nhành cũng chẳng có đèn nhang ǵ, khiến khung cảnh càng thêm tiêu điều đến nổi bà Tư cũng rởn tóc gáy bà lẩm nhẩm:
- Lạ thật tao thấy rơ ràng mà, có con nhỏ nào nó lom khom quét sân hồi trưa mà. Tao không thấy mặt nó chỉ thấy phía sau lưng nó lom khom thôi, bậy thật lúc đó tao quên lửng sao không chạy qua nh́n mặt nó chứ. Không lẽ là ma?
Bà vừa nói vừa nghĩ.
- A.. không lẻ.. không lẻ là là..
Bà dừng ngay chổ này và ngó lên bàn thờ chị Nhành, khiến anh Nhành nh́n theo bà mà cũng thấy ơn ớn sợ, cái ǵ đó c̣n bí mật mà bà Tư không nói hết lời.
Chiều mai là đúng một trăm ngày cúng giổ chị Nhành, vào rạng sáng anh sẻ mua cái ǵ đó cúng cơm cho chị, anh phân vân không biết định liệu lẽ nào, làm sao cũng phải rước một ông thầy chùa, tụng cho chị một xấp kinh cầu siêu cho phải t́nh phải nghĩa.
Ngặt nổi anh làm phụ hồ lương quá ít ỏi cha con sống lây lất qua ngày, lại nhầm mùa mưa nên công việc xây cất nhà cửa không có thường khiến anh thất nghiệp liên miên. Anh để con nằm ngủ trong mùng trên cái chơng tre, anh ra cái vơng giăng ngang cây cột nhà nằm suy nghĩ miên man.
Dưới ánh đèn dầu nhỏ leo lét treo trong buồng ngủ, không đủ ánh sáng lọt ra ngoài, anh thấy lờ mờ một bóng người lom khom kéo cái mền đắp cho đứa bé, anh bật ngồi dậy chạy vào th́ thấy chẳng có ai, đứa bé vẫn đắp cái mền lên tới ngực nằm ngủ b́nh thường.
Anh ngó bốn bề đều ch́m trong yên lặng, không một tiếng động nào càng làm cho anh nổi gai ốc, anh vội đi ra bàn thờ chị Nhành t́m nhang đốt nhưng chẳng c̣n cây nào, anh Nhành lấy một cây nhang cùn, c̣n có tí xíu đốt đở cho vợ rồi khẩn vái.
- Em có linh thiêng th́ phù hộ anh mạnh khoẻ nuôi con, nếu em có về thăm con đừng làm cho con nó thấy nó sợ, anh Nhành khẩn vái xong rồi lại vơng nằm, trời đă về khuya anh cũng thiếp đi vào giấc ngủ mệt mỏi.
Đứa bé ch́a xấp vé số trước mặt anh Nhành mời mọc:
- Chú ơi mua dùm con tờ vé số đi chú.
Từ xưa tới nay anh Nhành không ưa mua vé số, một mặt là không có tiền, nhưng hôm nay sao anh thấy thương hại đứa bé đen đúa c̣i cọc ốm tong, đội cái nón rách, anh định sẻ mua dùm nó một tấm vé số.
Th́ đứa bé nói:
- Chú mua giúp cháu đi thế nào chú củng trúng mà.
Anh Nhành cười:
- Thiệt hông đó mậy? biết trúng sao không để lảnh tiền mà bán cho tao.
Đứa bé nói:
- Phần của chú là chú trúng con làm sao lảnh được.
Anh cười xoa đầu đứa bé:
- Thằng khôn thật ha, buôn bán củng biết mánh dữ đó chứ...
Bỗng anh giựt ḿnh tỉnh giấc.. th́ ra anh nằm mơ.
Sáng nay là ngày kỵ cơm một trăm ngày cho chị Nhành, anh ẳm thằng con sang gởi bà Tư, anh kiểm lại số tiền cũng có thể mua một con gà và một ít bánh trái cúng giổ cho vợ, số tiền đó anh bỏ vào cái bịch nylong cẩn thận, c̣n dư số tiền lẽ anh ghé quán uống ly cafe cho ấm bụng và có thể mua một gói thuốc lá.
Bỗng anh nh́n thấy đứa bé bán vé số y như hồi hôm nằm mộng, nó củng ốm nhom đầu đội cái nón vải rách tả tơi ngoài vành, và đưa xấp vé số mời mọi người.
- Vé số đây.. độc đắc một triệu đồng.. chiều xổ đây.. mua dùm con một tờ đi chú thế nào ông bà cũng cho chú trúng, đứa bé ch́a ngay cọc vé vào anh, anh nh́n thấy nó là anh đả rợn gai ốc cả người, không khác nào giấc mộng hồi hôm.
Anh liền nói:
- Thôi cháu cứ rút đại cho chú một tấm đi tấm nào củng được, thằng bé liền xoè cả xấp vé ra rồi rút một tờ đưa cho chú rồi nói:
- Chú có trúng th́ thưởng cho con nha.
Anh Nhành bảo:
- Được rồi chú trúng th́ khỏi nói chú sẻ cho cháu mua quần áo, xe đạp để cháu đi bán vé số nha.
Anh Nhành đang ngồi sau nhà rửa chén bát sau tiệc cúng cơm cho vợ lúc ban trưa, th́ đứa bé chạy vào la lên:
- Chú ơi chú trúng rồi con t́m nhà chú quá trời, lại quán cafe hỏi họ chỉ con vô đây, chú trúng một trăm ngàn lô thứ nh́.
Anh Nhành đứng lặng người nghe nổi cả gai ốc khi thằng bé báo tin:
- Cháu có gạt chú không đây?
- Thiệt mà ai gạt chú làm ǵ.
Rồi nó đưa tờ ḍ số cho anh, anh nh́n vào hàng số trúng mà hoa cả mắt, anh không ngờ giấc mộng lại linh như vậy. Sau khi lănh tiền trúng vé số, nhớ lời hứa anh sắm cho đứa bé chiếc xe đạp, mua áo quần mới cho nó và cho thêm mấy ngàn làm vốn.
C̣n phần anh th́ sửa sang làm lại cái nhà cho khang trang một tí, anh củng sắm được chiếc xe gắn máy để đi làm mổi ngày, tuy số tiền không lớn lắm, nhưng so với anh suốt cả cuộc đời chưa chắc anh t́m được, v́ một ngày công phụ hồ chỉ có ba chục đồng, một tháng chưa chắc anh làm đựơc tới ba trăm đồng, th́ số tiền một trăm ngàn đối với anh quả thật là lớn lao.
Câu chuyện được loan truyền hết người này đến người nọ, về hồn linh của chị Nhành báo mộng cho anh trúng số thấu tai các nhà báo, họ vội vả mở cuộc phỏng vấn anh và đăng tin hồn chị Nhành báo mộng rầm rộ cả mấy ngày.
Ông soạn giả Viển Châu cũng viết một bài ca vọng cổ thời đó cho ca sĩ Út Trà Ôn hát trên dỉa hát bán chạy như tôm tươi, soạn giă Viển Châu hốt bạc lúc bây giờ quá mạng. Sau đây xin trích một đoạn về bài ca đó cho các bạn cùng thưởng thức
...Nghe vẻ nghe ve về t́nh Mẫu Tử. Ai đi xe lửa Sài G̣n Lộc Ninh. Đến vùng Bến Cát nghe con trẻ hát. Mẹ đi..... chợ chớ ở lâu. Khi về mẹ nhớ mua xâu trái gùi. Con chờ xe lửa thúc c̣i. Ra ga đón mẹ lấy gùi ăn chơi...ḥ...
Đó là câu vè đầu bài ca vọng cổ, về xâu gùi bến cát cống hiến các bạn, đến đây tạm dừng chúc các bạn vui vẻ khi đọc bài này.
Sưu Tầm
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
hiendde Hội viên


Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
| Msg 820 of 2534: Đă gửi: 22 September 2008 lúc 11:54am | Đă lưu IP
|
|
|
CON SỐ MƯỜI BA
Trong số các thị trấn của Jutland, Viborg có vị trí quan trọng. Nó là nơi có toà giám mục, một nhà thờ hầu như mới xây nhưng rất đẹp, một khu vườn duyên dáng, một cái hồ tuyệt vời với rất nhiều cỏ.
Gần đó là Maild, một trong những vùng đẹp nhất Đan Mạch, xa hơn chút nữa là Finderup, nơi Marsk Stig ám sát vua Erik Gripping vào ngày thánh Ceilia năm 1286. năm mươi sáu vết chày đầu sắt h́nh vuông được t́m thấy trên sọ Erik, khi mộ ông được khai quật vào thế kỷ mười bảy. Nhưng thôi, tôi có viết sách hướng dẫn du lịch đâu nhỉ.
Viborg có nhiều khách sạn khá, Preislers và Phượng Hoàng là hai nơi ở được. Nhưng ông anh họ tôi qua kinh nghiệm mà tôi sẽ kể cho các bạn nghe sau đây, lần đầu tiên đến thăm Viborg, lại ở khách sạn Sư Tử Vàng. Suốt từ đó đến nay ông không trở lại đó lần nào nữa, lư do v́ sao th́ những trang sau đây sẽ cho các bạn biết.
Sư Tử Vàng là một trong số ít ngôi nhà không bị thiêu huỷ do hoả hoạn năm 1726, một trận hoả hoạn thiêu trụi cả nhà thờ, nhà Sognekirke, nhà Raadhuus và nhiều nhà cổ rất hay.
Khách sạn là một toà nhà gạch có nghĩa mặt trước bằng gạch, đầu hồi có những bậc tam cấp h́nh con quạ, trên cửa ra vào có viết cả một bài văn, tuy nhiên cái sân nơi xe buưt nhỏ đi vào th́ đen và trắng, như một cái lồng bằng gỗ và thạch cao.
Mặt trời đang lặn khi anh tôi tới cửa khách sạn, ánh sáng chiếu thẳng vào mặt tiền bề thế của ngôi nhà. Anh tôi thích thú cái vẻ cổ kính của nơi này lắm, tự hứa sẽ sống qua một thời gian thật hài ḷng và thú vị trong ngôi quán đặc trưng của Jutland này.
Công việc đưa ông Anderson đến Viborg không phải công việc theo nghĩa thông thường. Ông đang nghiên cứu về lịch sử Nhà thờ Đan Mạch, ông được biết tại Rigsarkir ở Viborg có nhiều giấy tờ thoát khỏi nạn cháy, trong có nói đến những ngày cuối cùng của Thiên Chúa giáo La mă ở nước này.
V́ vậy ông định ở đây một thời gian tương đối lâu hai hoặc ba tuần để xem và sao chụp các giấy tờ đó. Ông hy vọng quán Sư Tử Vàng có thể cho ông một buồng khá rộng vừa làm pḥng ngủ, vừa làm pḥng làm việc. Ông giải thích yêu cầu này cho chủ quán, ông này nghĩ một lát rồi đề nghị tốt nhất khách nên tự đi xem, vừa ư pḥng rộng nào trên gác th́ chọn lấy.
Tầng trên th́ phải leo gác nhiều sau một ngày làm việc, tầng ba không có pḥng rộng như yêu cầu, nhưng tầng hai có thể chọn một trong hai hoặc ba pḥng có kích thước phù hợp.
Ông chủ quán giới thiệu pḥng 17 nhưng ông Anderson thấy cửa sổ nh́n ra bức tường trơ trụi của nhà bên cạnh, buổi tối sẽ rất tối.
Pḥng 12 hay 14 th́ hơn v́ cả hai trông xuống đường phố, ánh đèn rực rỡ buổi tối và quang cảnh bên ngoài sẽ bù đắp lại cho ông sự ồn ào của phố phường.
Cuối cùng ông chọn số 12. Giống các buồng bên nó có ba cửa sổ, tất cả hướng ra một phía, buồng khá cao và lạnh một cách bất thường, dĩ nhiên không có ḷ sưởi nhưng có một cái ḷ than khá cổ kính rất đẹp mắt, bằng sắt chạm trổ. Trong pḥng chẳng có ǵ đáng chú ư ngoài một bức tranh in cổ kính, miêu tả cảnh thị trấn năm 1820.
Giờ ăn tối đă đến, Anderson vừa tắm rửa mát mẻ, ông xuống cầu thang trước khi chuông gọi. Ông tranh thủ xem bảng danh sách các khách cùng ở trọ. Thường ở Đan Mạch tên khách được kẻ trên một cái bảng to, chia từng cột, từng hàng, mỗi hàng ở đầu là số pḥng. Danh sách chẳng có ǵ hấp dẫn. Một luật sư người Đức, một người đi chào hàng từ Copenhagen.
Chỉ có mỗi một điểm duy nhất khiến người ta phải nghĩ ngợi đôi chút là trong liệt kê các pḥng không có số 13.
Anderson đă để ư trong nhiều khách sạn khác ở Đan Mạch cũng vậy. Ông không hiểu tại sao cái con số đặc biệt ấy b́nh thường như thế, mà lại có sức mạnh lan rộng khiến người ta bỏ không dám đánh số, ông quyết định sẽ hỏi ông chủ, xem các chủ quán giống như ông ta và bản thân ông ta, đă bao giờ gặp khách hàng không chịu ở pḥng 13 hay chưa.
Ông anh chẳng có ǵ để kể với tôi về buổi ăn tối hôm ấy (tôi kể ở đây là theo những ǵ ông ấy kể cho tôi nghe) cũng như lúc về buồng thu xếp quần áo, đồ đạc, giấy tờ. Tới mười một giờ ông quyết định đi ngủ, nhưng ông cũng như nhiều người khác, thời nay trước khi đi ngủ phải đọc vài trang sách, ông nhớ ra quyển sách đang đọc dở trên xe lửa, mà ông đặc biệt thích đọc lúc này, lại ở trong túi áo khoác treo bên ngoài pḥng ăn dưới nhà.
Chạy xuống lấy lên mất một lúc, hành lang th́ tối, thành ra t́m đến cửa pḥng ḿnh không dễ dàng ǵ. Nhưng rồi đến nơi quay quả đấm th́ cửa không mở và nghe tiếng động vội vă đi tới cánh cửa từ bên trong. Ông mở nhầm cửa rồi! vậy là pḥng ông ở bên phải hay bên trái cánh cửa này.
Nh́n lên trên: pḥng 13. Pḥng ông ở bên trái, quả vậy. Vào giường ít phút và đọc được vài trang sách rồi tắt đèn đi ngủ, ông mới sực nhớ ra tên chiếc bảng đen của khách sạn làm ǵ có pḥng 13 ? ấy thế nhưng vẫn có pḥng 13 trong khách sạn.
Ông rất tiếc đă không chọn pḥng này, làm như vậy có khi giúp cho ông chủ để ông ta sau này kể lại rằng đă có một quư khách người Anh ở đó ba tuần và rất thích nó. Nhưng có lẽ pḥng này đă dùng cho đầy tớ hoặc đại loại như vậy. Sau cùng th́ chắc ǵ nó đă rộng và đẹp như pḥng ông hiện giờ ? Ông đưa cặp mắt buồn ngủ nh́n lại pḥng ḿnh được chiếu sáng mờ mờ dưới ánh đèn đường.
Lạ quá, ông nghĩ. Thường trong bóng tối các pḥng bao giờ cũng có vẻ rộng hơn nhưng pḥng này lại có vẻ ngắn lại và cao hơn lên. Thôi! Thôi! Ngủ đi c̣n hơn là những nghĩ ngợi vớ vẩn ấy và thế là ông ngủ mất.
Đến Viborg được một ngày, hôm sau Anderson đến ngay Rigsarkiv của Viborg. Ông được tiếp đón ân cần Đan Mạch vẫn vậy và vào chỗ nào cũng vậy cả. Tài liệu ở đây nhiều và hay hơn ông h́nh dung nhiều.
Ngoài sách và giấy tờ chính thức, c̣n có một đống thư từ liên quan đến giám mục Jorgen Friis theo Thiên Chúa giáo La Mă, người cai quản cuối cùng của toà giám mục, trong đó nhiều thư từ thú vị liên quan đến đời tư và tính cách cá nhân ông ta.
Có thể nói về một căn nhà, tự do giám mục sở hữu trong thị trấn, ông ta không ở đó mà là người khác. Người này đă gây x́ căng đan trong khu và làm vướng chân cho phe cải cách rất nhiều, người ta phải viết lên thành phố v́ hắn ta là một nỗi nhục cho họ, bởi đă thực hành những công nghệ xấu xa bí ẩn, và bán linh hồn cho kẻ thù.
Lại c̣n có một đoạn thư chê trách nhà thờ Babylon này, đă tham nhũng và mê tín cho nên giám mục mới dung túng và cho trú ngụ tên nham hiểm hút máu người Troldmand ấy.
Vị giám mục trước những trách cứ này tỏ thái độ rất ngoan cường, ông nói bản thân ông cũng ghê tởm những cái người ta gọi là công việc bí ẩn, ông yêu cầu những kẻ chống đối ḿnh đưa vấn đề ra Toà, dĩ nhiên là Toà án tôn giáo, để giải quyết việc này cho xong hắn.
Không ai sẵn sàng và thích thú hơn ông, trong việc kết tội Mag Nicolas Francken, nếu như có bằng chứng về lỗi lầm và tội ác mà người ta đă kết cho hắn một cách không chính thức.
Anderson không có nhiều th́ giờ v́ kho lưu trữ hồ sơ sắp đóng cửa, nên chỉ liếc qua lá thư tiếp theo của ông Rasmus Nielsen đứng đầu giáo phái Tin Lành.
Tuy thế cũng nắm được ư chung của lá thư, là những người theo đạo Thiên Chúa bây giờ, không c̣n bị phụ thuộc vào quyết định của các Đức giám mục ở Rome nữa, và toà án của giám mục không phải là một nơi xét xử thích đáng cho một ca nặng nề quan trọng như vậy.
Anderson ra về, người chủ tŕ cơ quan lưu giữ tài liệu đi cùng đường, dĩ nhiên câu chuyện xoay quanh mấy lá thư tôi vừa nói đến. Herr Scavenius, phụ trách kho lưu trữ của Viborg, mặc dù được thông tin tỉ mỉ về t́nh h́nh chung, liên quan đến những giấy tờ ḿnh cất giữ.
Không phải là người chuyên nghiên cứu về thời kỳ cải cách, do đó ông rất quan tâm đến những ǵ Anderson kể, ông rất mong được đọc bài mà Anderson sắp viết, nhằm thể hiện các tài liệu trong kho của ông.
Ông nói thêm:
- Tôi rất lấy làm lạ không hiểu căn nhà của giám mục Friis ở đâu. Tôi đă xem kỹ bản đồ địa h́nh Viborg cổ xưa, thật không may, sơ đồ đất đai của Giám mục được lặp lại năm 1560, và phần lớn là ở Arkiv, hiện giờ nhưng mảnh có danh mục bất động sản của thị trấn th́ bị thiếu. Không sao! Rồi một ngày nào đó tôi sẽ t́m ra thôi.
Sau vài động tác thể dục nào đó tôi quên như thế nào và ở đâu. Anderson về quán Sư Tử Vàng ăn cơm tối, chơi tṛ chờ đợi, rồi vào giường. Trên đường về pḥng ông nhớ ra quên chưa nói với chủ quán, về việc bỏ con số 13 trong việc đánh số pḥng khách sạn, ông cũng cần phải đoán chắc pḥng số 13 có tồn tại trong khách sạn không đă, rồi mới nói chuyện với ông chủ quán được.
Việc này không khó khăn ǵ. Cánh cửa pḥng vẫn đó, số pḥng rơ rành rành, và rơ ràng có ai làm việc trong đó, tiến lại gần cửa, ông nghe có tiếng chân đi lại và tiếng nói ở bên trong. Mất vài giây khẳng định con số, trong lúc đó tiếng chân dừng có vẻ như rất gần cánh cửa, rồi lại có tiếng thở nhanh như của một người đang cơn kích động mạnh.
Ông về pḥng ḿnh ngạc nhiên thấy nó nhỏ hẳn lại so với lúc ông chọn khiến ông hơi bất b́nh, nhưng thôi, bởi nếu nó không đủ rộng ông có thể đề nghị đổi pḥng khác dễ dàng. Tự nhiên lúc đó ông muốn có cái ǵ đó trong túi áo măng tô, tôi nhớ là chiếc khăn tay th́ phải, mà áo lại treo ở cái mắc đặt xa tít cuối pḥng.
Lạ quá, không thấy cái giá áo đâu cả, hẳn bọn đầy tớ đă đem đi chỗ khác, mở tủ áo ra cũng không thấy mới kỳ chứ. Ăn cắp th́ không rồi. Những chuyện như thế ít khi xảy ra ở Đan Mạch, nhưng có chuyện ngu ngốc nào rồi (một chuyện ngu ngốc th́ không phải bất thường) cô hầu pḥng nào đó phải bị khiển trách nặng.
Dù sao th́ thứ ông cần không có ngay cũng không sao, để đến sáng mai cũng được, khỏi rung chuông gọi đầy tớ làm phiền họ. Ông tới bên cửa sổ bên tay phải nh́n ra đường phố vắng lặng. trước mặt là một toà nhà cao, nhiều bức tường để trống, không thấy khách bộ hành qua lại, đêm tối đen chẳng nh́n thấy ǵ.
Ánh sáng ở phía sau ông, ông nh́n rơ bóng ḿnh in trên bức tường trước mặt. Có cả bóng ông có râu ở pḥng 11 bên trái, ông này mặc áo không tay đi qua đi lại một vài lần, lúc đầu ông ta chải tóc, sau đó choàng chiếc áo ngủ vào.
Có cả bóng ông khách pḥng bên phải số 13 xem rất khá hay ho. Số 13, giống ông, đang t́ tay trên bậu cửa sổ nh́n ra đường phố. Có vẻ ông này cao gầy hay là đàn bà chăng ? Ít nhất th́ ông hay bà ta có cái khăn vải trùm trên đầu tựa như mũ đi ngủ, và h́nh như ông này có một cái chụp đèn màu đỏ, và cái đèn rung rinh tợn, v́ trên tường trước cửa ánh đỏ chạy lên chạy xuống rất rơ.
Ông vươn cổ sang nh́n xem có thấy ǵ rơ hơn không nhưng ngoài một chùm ánh sáng ở bậu cửa sổ có vẻ như màu trắng, c̣n th́ không c̣n nh́n thấy ǵ khác. Lúc này có tiếng chân dưới đường nhắc số 13 lộ ḿnh ra quá nhiều, thành ra ông này bỗng nhẹ nhàng lướt vào trong, ánh đèn đỏ cũng tắt.
Anderson đang hút dở điếu thuốc, bỏ lại trên bậu cửa sổ vào giường đi ngủ. Sáng hôm sau hầu pḥng đánh thức ông dậy và đem nước nóng vào. Ông bèn nhỏm dậy, cố nhớ đúng mấy từ Đan Mạch để hỏi:
- Cô mang cái áo măng tô đi chỗ khác hả ? Mang đi đâu vậy ?
Cô hầu pḥng thấy lạ chỉ cười và trở ra không nói lời nào. Anderson bực ḿnh ngồi thẳng dậy trên giường, định gọi cô ta lại th́ ông sững người ra, nh́n trân trân trước mặt.
Cái mắc áo vẫn treo trên giá đúng như lúc ông mới đến. Ông quá sốc v́ xưa nay vẫn được coi là người có những nhận xét chính xác. Làm sao mà tối qua ông không thấy nay lại sờ sờ ra vậy?
Ánh sáng ban ngày không những làm tỏ tường cái mắc áo treo áo măng tô, mà c̣n làm lộ tỷ lệ thích đáng của gian pḥng với ba cửa sổ, làm cho người đă chọn nó phải thoả măn. Mặc quần áo xong ông ra cửa sổ giữa xem thời tiết thế nào. Lại thêm một cú sốc nữa.
Đêm qua nhận xét nào của ông cũng kỳ quặc. Ông sẵn sàng thề mười lần rằng, đêm qua ông hút thuốc lá ở cửa sổ bên phải trước khi vào giường, nay th́ đầu mẩu thuốc lá c̣n lại trên bậu cửa sổ giữa!
Ông xuống ăn sáng. Khá muộn. nhưng số 13 c̣n muộn hơn: đôi bốt vẫn để trước cửa bốt của đàn ông, vậy số 13 là đàn ông chứ không phải đàn bà. Ông bèn nh́n lên số của cánh cửa: số 14. Ông cứ nghĩ ḿnh đă đi qua pḥng 13 mà không chú ư.
Ba lỗi lầm ngớ ngẩn trong có 12 giờ đồng hồ là quá nhiều cho một con người xưa nay vẫn có đầu óc chính xác, và làm việc một cách có phương pháp, do đó ông quay lại xem cho chắc chắn. Bên cạnh số 14 là 12, buồng của ông. Hoàn toàn không có số 13.
Sau ít phút nghĩ thật cẩn thận xem ḿnh đă ăn và uống những ǵ hai mười bốn giờ qua, Anderson bỏ qua vấn đề này. Nếu như thị giác cũng như trí óc của ông kiệt quệ do sức khoẻ, th́ có thể xác định dễ dàng bằng nhiều cách, c̣n nếu không, ông đang trải nghiệm một chuyện rất thích thú, mà những diễn biến của nó cũng đáng để dơi theo.
Suốt ngày ông tiếp tục xem xét những lá thư tôi đă tóm lược ở trên. Ông thất vọng thấy chúng không đầy đủ. Chỉ có một lá thư nhắc đến người tên là Mag Nicolas Francken. Đó là thư của giám mục Jorgen Friis viết cho Rasmus Nielsen, trong đó nói:
- Mặc dù chúng tôi không hề có ư định đồng t́nh với ông về cách đánh giá toà án của chúng tôi, và chúng tôi đă chuẩn bị tinh thần nếu cần sẽ chống lại ông đến cùng, ấy thế nhưng Mag Nicolas Francken, người chúng tôi tin tưởng và yêu thương, và bị ông dám buộc cho một số tội tệ hại không hề có, đă đột ngột rời xa chỗ chúng tôi rồi, do đó vấn đề này không đặt ra nữa.
Nhưng c̣n việc ông đánh giá Thánh Tông Đồ, cũng là người viết Kinh Phúc Âm St John đă viết trong sách Khải huyền, mô tả nhà thờ La Mă thần thánh dưới h́nh thức cải trang, và tượng trưng cho người đàn bà th́ xin ông biết cho rằng…v..v..
T́m măi Anderson cũng không thấy lá thư nào tiếp tục chuyện này, thành ra không thể hiểu nổi "rời bỏ" trong trường hợp này nghĩa là thế nào, chỉ có thể giả thiết Francken đă chết đột ngột.
Giữa lá thư cuối cùng của Francken, mà rơ ràng là lúc ấy Francken c̣n sống, với lá thư của giám mục chỉ cách nhau hai ngày, do đó suy ra cái chết đă đến bất ngờ. Buổi chiều ông ghé thăm Hald, uống trà tại Burkcdund, mặc dù hơi băn khoăn nhưng ông không nh́n thấy dấu hiệu nào của chứng suy thị giác, hoặc suy năo như ông sợ.
Bữa cơm tối ông ngồi cạnh chủ quán. Chuyện tào lao một lát, ông hỏi:
- Tại sao đa số khách sạn nước này không có pḥng số 13 hả ông ? Khách sạn này cũng không có.
Chủ quán vui vui:
- Th́ ra chuyện đó đă làm ông để ư! Nói thật ra tôi cũng đă nghĩ măi. Tôi tự bảo, Người có học ai mê tín bao giờ! Tôi đă học Cao đẳng ở Viborg, thầy giáo tôi là người chống dị đoan. Ông chết đă nhiều năm nay rồi một con người tinh tế, đàng hoàng, sẵn sàng sử dụng cả bàn tay lẫn khối óc. Tôi c̣n nhớ bọn học tṛ chúng tôi, vào một ngày tuyết rơi…
Ông đăm chiêu nghĩ ngợi.
- Thế ông không phản đối có pḥng 13 trong khách sạn ?
Anderson hỏi.
- À! Nhất định rồi. Ông biết đấy, cha tôi hướng dẫn tôi đi vào nghề nghiệp này. Tội nghiệp cụ, cụ có một khách sạn ở Aarhuus, sau khi sinh chúng tôi, cụ chuyển tới Viborg nay vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của cụ, cụ sở hữu khách sạn Phượng Hoàng cho đến khi mất. Đó là năm 1876. Tôi, khởi nghiệp ở Silkeborg, từ năm kia tôi mới về đây.
Sau đó ông chủ kể thêm các chi tiết của ngôi nhà và việc làm ăn khi ông mới tiếp quản nó.
- Thế khi ông tới đây, khách sạn có pḥng 13 không ?
- Không, không. Để tôi kể cho ông nghe. Ông thấy đấy. Một nơi như thế này, các doanh nhân qua lại, đa số là dân thương mại mà. Chẳng lẽ để họ ở pḥng 13 ? Chẳng thà họ ra đường ở c̣n hơn! Riêng về phần tôi th́ số pḥng chẳng liên quan ǵ, tôi bảo họ vậy, nhưng họ cứ nhất định cho là nó sẽ đem lại sự không may.
Hàng đống chuyện đă xảy ra với khách ở pḥng số 13 nên họ không ở đó nữa, hoặc nếu cứ để sẽ mất những khách hàng tốt nhất, hoặc chẳng chuyện này th́ chuyện khác.
Ông chủ quán nghĩ một chút rồi minh hoạ cho sinh động thêm.
- Vậy thế pḥng 13 ở khách sạn, ông dùng làm ǵ ?
Anderson hỏi, ư thức được là câu hỏi của ḿnh mang vẻ ǵ đó không tương xứng với sự quan trọng của vấn đề.
- Số 13 ở khách sạn tôi ấy ư ? Làm ǵ có! Tôi tưởng ông biết. Nếu có, nó đă ở bên cạnh pḥng ông.
- Vâng, chỉ có điều là đêm qua khi qua hành lang, tôi nh́n thấy có cửa pḥng mang số 13 mà, và thực ra tôi dám chắc tôi nói đúng, đêm qua tôi nh́n thấy mà.
Dĩ nhiên ông Kristensen chỉ buồn cười như Anderson chờ đợi, ông ta c̣n nhấn mạnh và lặp đi lặp lại không hề có pḥng 13 ở trong khách sạn, ngay cả trước khi ông ta đến đây.
Anderson nhẹ người thấy ông ta khẳng định như vậy, tuy nhiên vẫn c̣n hoang mang và nghĩ chỉ có cách mời chủ quán tới pḥng ḿnh đêm nay, hút x́ gà để xem thử việc đó là có thực hay là do ḿnh ảo tưởng.
Anderson có mang theo ảnh chụp một vài thị trấn nước Anh, mà ông coi là đủ lư do để mời ông chủ quán đến. Ông Kristensen được mời th́ thích lắm, vui vẻ mhận lời, mười giờ đêm ông ta sẽ đến.
Anderson xin kiếu ngay về pḥng viết vài lá thư, và tự đỏ mặt với bản thân khi thú nhận quá bồn chồn, chỉ dám đi theo đường qua pḥng 11 về pḥng ḿnh, sau đó vội vàng liếc nh́n chính pḥng ḿnh với vẻ nghi ngờ, nhưng không thấy ǵ hết ngoài việc nó vẫn có vẻ nhỏ đi.
Không c̣n vấn đề về cái áo mắc măng tô nữa, v́ Anderson đă cất tất cả chỗ quần áo treo trên giá đi, cái giá thi nhét xuống gầm giường. Ông cố gắng quên đi con số 13, ngồi xuống viết thư.
Láng giềng hai bên yên lặng. Thỉnh thoảng có tiếng mở cửa trong hành lang, vài đôi bốt được vứt ra ngoài, có lúc một người chào hàng nào đó đi qua ư ử hát, bên ngoài th́ thỉnh thoảng tiếng xe ngựa lóc cóc trên mặt đường lát đá, hoặc có tiếng chân bước vội bên lề đường.
Anderson viết xong bức thư, gọi Whisky sô đa rồi ra cửa sổ nghiên cứu bức tường trống phía trước mặt và những cái bóng in trên đó. Như ông nhớ th́ pḥng 14 có một luật sư ở, ông này là người điềm đạm, ít nói, trong bữa ăn chỉ mải nh́n vào một đống giấy tờ đặt bên cạnh đĩa ăn.
Ấy thế nhưng xem ra ông ta lại có vẻ như có thói quen làm, cho hả cái tính sôi nổi yêu đời của ḿnh khi có một ḿnh. Tại sao ông ta lại cứ khiêu vũ một ḿnh kia chứ ? Cái bóng in trên tường thể hiện điều đó, bóng ông ta lướt qua lướt lại cửa sổ, tay vẫy vẫy, một ống chân khẳng khiu đá lên đá xuống, nhanh nhẹn khác thường.
Có lẽ ông ta đi chân không, sàn nhà trải thảm dầy nên không gây tiếng động nào. Sagofer Herr Anders Jensen, khiêu vũ lúc mười giờ đêm trong một pḥng ngủ của một khách sạn, thật là một đề tài khá hợp cho một bức tranh lịch sử hoành tráng.
Những suy nghĩ của Anderson, giống như của Emily trong Bí mật của Udolpho, có thể được sắp xếp thành những ḍng thơ sau đây:
"Khi tôi trở về khách sạn Vào mười giờ đêm, Hầu bàn nghĩ tôi mệt, Tôi chẳng kể ǵ đến họ Nhưng sau khi khoá cửa pḥng ngủ Và vứt đôi bốt ra ngoài Tôi khiêu vũ cả đêm trên sàn nhà Dẫu khách pḥng bên có kêu ca Tôi chỉ càng nhảy hăng hơn Bởi tôi đă quen với pháp luật Tha hồ cho họ lải nhải dài ḍng Tôi càng chế giễu phản ứng của họ".
Giả sử lúc này mà ông chủ quán không gơ cửa, chắc hẳn độc giả sẽ được đọc những vần thơ dài hơn. Cứ nh́n cái vẻ ngạc nhiên trên bộ mặt ông Kristensen, th́ thấy ông ta có vẻ sốc khi đứng trong pḥng, nhưng Anderson không nhận xét ǵ.
Mấy bức ảnh của Anderson làm cho ông ta thích thú lắm, ông nói ra nhiều chuyện phần lớn là tự truyện. Chưa biết câu chuyện lư thú về con số 13 được đề cập như thế nào, th́ ông luật sư bên cạnh bắt đầu hát, hát một cách hăng hái đến nỗi ai cũng phải cho là ông ta quá say hoặc hoá điên.
Giọng hát nhỏ thôi nhưng cao vút, nghe nó khê như ít khi được sử dụng. Lời và điệu th́ không thành vấn đề. Dần dần nó càng lên cao hơn sau đó trầm hẳn xuống như một lời than văn tuyệt vọng, như gió đêm đông thổi trên ống khói ḷ sưởi, hay một cây đàn organ không thể lên cao được nữa, nó trở thành một tiếng kêu kinh hoàng.
Giá Anderson có một ḿnh ắt phải chạy trốn sang pḥng nào đó, pḥng người chào hàng chẳng hạn.
Ông chủ quán ngồi há hốc miệng.
- Tôi chẳng hiểu ra làm sao nữa.
Cuối cùng ông ta lau mồ hôi trán và bảo:
- Nghe sao mà khiếp thế, tôi đă từng có lần nghe thấy, cứ tưởng là tiếng mèo kêu.
- Hay là ông ta điên ? Anderson hỏi.
- Hẳn vậy và đáng buồn thay! Một khách hàng tốt như thế, thành công trong công việc và theo như người ta nói, có một gia đ́nh rất trẻ trung cần nuôi nấng.
Đúng lúc đó có tiếng gơ cửa, người gơ xồng xộc vào không đợi trả lời. Đó chính là ông luật sư mặc quần áo ngủ, tóc tai rối bời trông có vẻ vô cùng giận dữ.
- Xin lỗi ông.
Ông ta nói:
- xin rất cảm ơn nếu ông ngừng cho…
Đến đây ông ta im. Rơ ràng cả hai người trước mặt ông ta không có vẻ ǵ gây rối loạn cả, sau một lúc im th́ tiếng động càng to hơn trước.
- Ồ, thế này nghĩa là thế nào?
Ông luật sư hỏi.
- Nó ở đâu tới ? Ai ở đó ? Tôi mất trí chăng ?
- Ngài Jensen, tữ bên buồng ông cạnh đây chứ đâu ? Hay là có con mèo nào bị kẹt trong ḷ sưởi ?
Andeson chỉ có thể nói vậy mặc dù ông biết lời nói của ông chẳng đem lại tác dụng ǵ, tốt hơn là cứ đứng mà nghe cái giọng khủng khiếp đó, và nh́n vào bộ mặt trắng nhợt của ông chủ quán, ông này đang vă mồ hôi và run lập cập, phải nắm vào hai tay cái ghế bành ông ngồi.
- Không thể được! ông luật sư nói :
- Không thể! Làm ǵ có ḷ sưởi! sở dĩ tôi sang đây là tưởng tiếng động xuất phát từ bên này. Rơ ràng là từ pḥng bên cạnh tôi mà.
- Có cửa thông giữa pḥng ông và pḥng tôi không nhỉ ?
Anderson hăm hở hỏi.
- Không, thưa ông.
Herr Jensen trả lời.
- Ít nhất là trong buổi sáng nay.
- À ra thế!
Anderson nói
- Đêm nay th́ sao?
- Tôi không dám chắc.
Ông luật sư ngập ngừng.
Bỗng nhiên tiếng nói hoặc tiếng hát bên pḥng bên im hẳn, người hát đang cười một ḿnh, kiểu cười nhỏ ngâm nga khiến cả ba bên này lạnh gáy. Rồi im bặt.
- Này, thưa ông Kristensen thế này là thế nào ạ ?
Ông luật sư hỏi.
- Trời đất ơi!
Kristensen kêu lên.
- Tôi biết nói thế nào ? Tôi cũng chẳng hơn ǵ quư vị. Tôi chỉ cầu Trời không phải nghe cái tiếng kêu ấy lần nào nữa!
- Tôi cũng thế.
Ông Jensen nói.
Rồi ông khẽ nói thêm cái ǵ đó mà Anderson nghĩ là mấy lời cuối cùng trong sách Phúc âm "Omnis spiritus laudet Dominium, tất cả mọi linh hồn cảm tạ chủ nhân" tuy nhiên ông không dám chắc.
Anderson nói:
- Nhưng ta phải làm một cái ǵ chứ ? Cả ba chúng ta sang pḥng bên cạnh xem nào.
- Nhưng đó là pḥng ông Jensen đây rồi c̣n ǵ.
Ông chủ quán than thở.
- Vô ích, chính ông ấy đă sang đây.
- Tôi không dám chắc.
Jensen bảo.
- Tôi nghĩ vị quư tộc này nói đúng. Ta phải sang xem thôi.
Vũ khí tự vệ lúc ấy có được là một cái gậy và một cái can. Đoàn thám hiểm ra hành lang không khỏi run lên bần bật. Bên ngoài yên lặng như tờ, nhưng có ánh sáng le lói từ dưới chân cửa pḥng bên cạnh.
Anderson và Jensen lại gần, Jensen quay quả đấm và đẩy mạnh, vô ích, cửa vững nguyên.
- Ông Kristensen.
Jensen nói:
- Ông t́m đầy tớ khoẻ mạnh nhất lên đây. Ta phải mở cánh cửa này ra.
Ông chủ quán gật đầu chạy đi, sung sướng thoát khỏi hiện trường. Jensen và Anderson đứng lại nh́n vào cánh cửa.
- Ủa, con số 13 này!
Anderson nói.
- Phải, cửa pḥng của ông ở đàng kia, c̣n cửa pḥng tôi ở ḱa!
Jensen nói.
- Ban ngày pḥng tôi có ba cửa sổ.
Anderson nói, cổ ông phát ra một tiếng cười bồn chồn.
- Lạy Thánh George, pḥng tôi cũng vậy!
Ông luật sư nói, quay lại nh́n Anderson, lưng quay về phía cánh cửa.
Đúng lúc này cửa pḥng bật mở, một cánh tay tḥ ra quắp lấy vai ông luật sư. Cánh tay đó phủ vải rách đă vàng khè, chỗ da lộ ra th́ đầy lông lá bạc trắng.
Anderson vừa kịp lôi Jensen ra và kêu lên một tiếng kinh hăi th́ cửa sập ngay lại và có tiếng cười gằn.
Jensen không kịp nh́n thấy ǵ, nhưng Anderson vội bảo ông ta mối nguy ngập ông vừa thoát khỏi, ông này hoảng hốt cả người, đề nghị ai rút về pḥng nấy và khóa cửa lại.
Tuy nhiên vừa vặn ông chủ quán và hai đầy tớ lực lưỡng lên tới nơi, trông cả ba nghiêm trang và sợ sệt. Jensen gặp họ giải thích, định làm họ thoái chí không phá cửa nữa.
Hai người kia bỏ xà beng đem theo xuống, nói là tội ǵ tḥ đầu vào hang quỷ. Ông chủ bối rối không biết quyết định thế nào, ư thức được là nếu gặp nguy hiểm th́ khách sạn ông sẽ tai hại, thành ra bản thân cũng sợ đối mặt với sự việc.
May thay Anderson có cách làm mấy kẻ mất tinh thần này vững tâm lên.
- Chẳng lẽ đây là dũng khí của người Đan Mạch mà tôi vẫn nghe danh ? Không có người Đức trong đó đâu, mà nếu có chúng ta có năm người chống lại một, sợ ǵ ?
Thế là hai người đầy tớ và Jensen lao vào đẩy cánh cửa.
- Hăy ngừng lại đă.
Anderson nói.
- Đừng có làm vội như thế. Ông chủ, xin ông đứng ngoài cầm đèn, một trong hai anh đây phá cửa, cửa mở ra đừng có xông vào ngay.
Hai người đàn ông gật đầu, người trẻ bước lên, dùng xà beng bổ mạnh vào phần trên cánh cửa. Kết quả không ai lường trước được! không phải tiếng gỗ bị xẻ ra chỉ có tiếng đùng đục tựa như một bức tường bị đập ra.
Người đàn ông vứt xà beng hét lên, tay xoa khuỷu tay, nghe tiếng kêu mọi người nh́n ngay vào anh ta đă, sau đó Anderson mới nh́n vào cánh cửa. Chẳng c̣n thấy cánh cửa đâu, chỉ là bức tường hành lang bị đập vỡ ra, một khoảng khá lớn do bị xà beng bổ vào.
Số 13 hoàn toàn không tồn tại. Trong một lúc mọi người đứng sững sờ nh́n vào bức tường trống trơn. Một con gà sống dưới sân gáy lên, Anderson nh́n ra phía có tiếng gà gáy, qua cánh cửa sổ ở cuối hành lang, bầu trời phía Đông bắt đầu rạng.
- Có lẽ...
Ông chủ ngập ngừng nói.
- Hai vị muốn sang pḥng nào đó ngủ tạm đêm nay, một pḥng hai giường nào đó ?
Cả Anderson lẫn Jensen không ai phản đối. Sau những ǵ họ trải qua, họ có vẻ không muốn rời nhau nữa. Thế là mỗi người về pḥng ḿnh nhặt nhạnh các thứ cần thiết trong đêm.
Một người cầm cây nến soi đường, họ thấy rơ cả pḥng 12 lẫn pḥng 14 đều có 3 cửa sổ. Sáng sớm hôm sau cả hội tụ tập ở pḥng 12. Chủ quán dĩ nhiên không muốn nhờ bên ngoài giúp đỡ, nhưng nhất thiết bí mật về khu vực này của khách sạn phải được làm sáng tỏ.
Hai đầy tớ tự làm thợ mộc. Đồ đạc được dọn ra, phần sàn ngay bên cạnh pḥng 14 được moi ra, không tránh khỏi tổn thất nhất định, do việc các tấm ván sàn được lật lên.
Hẳn các bạn cho rằng sẽ t́m thấy một bộ xương của Mag Nicolas Francken ? Không! Họ t́m được giữa các dầm đỡ sàn nhà một hộp nhỏ bằng đồng, trong có tài liệu gấp gọn ghẽ độ hai mươi trang viết tay trên giấy da ḅ.
Cả Anderson lẫn Jensen (ông này hóa ra thông tỏ môn chữ cổ) rất kích động về vụ khám phá này, họ hứa sẽ t́m ra ch́a khoá cho hiện tượng kỳ lạ trên đây. Tôi có một bản sao chụp của một tài liệu thiên văn mà tôi chưa bao giờ đọc. Trang đầu là tranh khắc gỗ của Hans Sebald Beham, tả cảnh một số học giả ngồi quanh một cái bàn.
Chi tiết này đă giúp cho những người sành sỏi phân định được quyển sách. Tôi không nhớ tên quyển sách là ǵ, mà lúc này cũng không có điều kiện xem lại quyển sách ấy, nhưng những trang rời khác th́ toàn là chữ viết, suốt thời gian mười năm sở hữu quyển sách đó, tôi cũng không biết đọc nó thế nào, và chữ viết trong đó là ngôn ngữ ǵ.
Giống hệt hoàn cảnh của Anderson và Jensen sau một thời gian xem xét khá lâu, đành quy phục mớ tài liệu trong cái hộp đồng. Hai ngày săm soi măi, Jensen, người mạnh dạn hơn trong hai người, liều cho rằng đó là chữ Latinh hoặc Đan Mạch cổ.
Anderson th́ chẳng phỏng đoán ǵ cả, đưa cái hộp và những tờ giấy da cho hội sử học Viborg, đặt vào viện bảo tàng của họ.
Vài tháng sau ông anh rể tôi kể chuyện này cho tôi, khi chúng tôi ngồi trong một khu rừng gần Upsala, nơi mà chúng tôi nói, đúng hơn là tôi đă phá lên cười về bản hợp đồng mà Daniel Salthenius (về sau là giáo sư tiếng Do thái ở Konigsberg) đă bán ḿnh cho quỷ Sa tăng.
Anderson không thực sự thấy thích thú ǵ.
- Thằng cha khờ khạo!
Ông anh tôi nói
- Ám chỉ Salthenius, người mà khi dại dột hở bí mật này ra, mới chỉ là một cậu sinh viên chưa tốt nghiệp.
- Làm sao hắn biết ḿnh đang đi lại với quỷ kia chứ ?
Và khi tôi đề nghị cứ xem xét trường hợp một cách thông thường, th́ ông chỉ lầm bầm. Ngay chiều hôm đó ông kể cho tôi nghe câu chuyện các bạn vừa đọc, nhưng nhất định không chịu đưa ra suy luận nào, cũng tuyệt nhiên không tán đồng, bất cứ suy luận nào tôi đưa ra.
Sưu Tầm
|
| Quay trở về đầu |
|
| |
|
|