Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 207 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 821 of 2534: Đă gửi: 25 September 2008 lúc 4:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 

HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI

BÊN KIA CÁI CHẾT

 

DẨN NHẬP

Khi c̣n là một đứa bé ở Tây Tạng, thỉnh thoảng tôi t́m thấy mẹ tôi, Delog Dawa Drolma, được vây quanh bởi những thính giả đang lắng nghe hết sức chăm chú khi bà nói về những cuộc du hành của ḿnh tới các cơi giới khác.

Khuôn mặt bà sáng ngời khi đề cập tới các bổn tôn trong các cơi thanh tịnh; những giọt nước mắt tuôn rơi khi bà tả lại những khốn khổ của chúng sinh trong địa ngục và các ngạ quỷ (preta), hay các sinh linh đau khổ.

Bà nói về sự gặp gỡ những thân quyến đă chết của những người nào đó, và bà tiếp âm từ người chết tới người sống những mối bận tâm về những công việc không ngừng dứt (có thể là những đồng tiền hay châu báu được chôn giấu mà không thể xác định vị trí) hoặc những van nài khẩn thiết xin được cầu nguyện hoặc cử hành các buổi lễ.

Bà cũng đem về lời dạy tâm linh của những đạo sư (lama) cao cấp đă ra đi từ thế giới này và các đạo sư ở bờ bên đây của cái chết đă đáp lại nó bằng sự cung kính sâu xa.

Mẹ tôi được tôn kính trên khắp đất nước Tây Tạng bởi các năng lực siêu phàm như một đạo sư, nhưng bà nổi tiếng hơn v́ là một delog (phiên âm theo Anh ngữ là Day-loak), người đă vượt qua ngưỡng cửa của sự chết và trở về kể lại chuyện đó.

Điều bà thuật lại không phải là một kinh nghiệm cận tử hăo huyền hay nhất thời. Suốt năm ngày, bà nằm lạnh ngắt, ngưng thở và không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống, trong khi tâm thức bà di chuyển tự do tới các cơi giới khác, luôn luôn được vị thiên nữ trí huệ Tara Trắng hộ tống.

Bà thực hiện cuộc du hành của ḿnh như một delog phù hợp với các giáo huấn đă nhận từ Đức Tara trong các linh kiến, nhưng đi nghịch lại ước muốn của các đạo sư của bà, các ngài nài xin bà đừng làm một việc mạo hiểm như thế.

Đặc biệt là bà, một thiếu nữ mười sáu tuổi, có nhiều xác quyết trong sự thiền định khiến bà trổi vượt hơn các vị đạo sư hết sức uyên thâm và lớn tuổi hơn bà. Tuy thế, bản thân bà được công nhận là một hóa thân của Đức Tara Trắng, một năng lực mạnh mẽ của tâm giác ngộ v́ sự trường thọ và giải thoát của chúng sinh.

Suốt thời thơ ấu, Dawa Drolma đă biểu lộ một ḷng bi mẫn sâu xa. Không có người hành khất nào tới lều của chúng tôi mà phải ra đi không có quà tặng trên tay, gia đ́nh tôi phải cất giấu những món quư giá kẻo bà đem cho mất.

Căn lều bằng nỉ đen của gia đ́nh chúng tôi có thể chứa bốn trăm người trong suốt những buổi lễ lớn. Dawa Drolma được tôn kính khi được mời ngồi trên một cái ngai cùng với các lạt ma cao cấp khác, gồm cả bốn người chú của bà là những vị nổi tiếng khắp miền đông Tây Tạng.

Bản thân bà là người cầu toàn trong việc cử hành nghi lễ. Vài năm trước tôi đă gặp một nhà sư, ông nhớ lại sự giận dữ của bà khi ông thổi quá tệ chiếc kangling (kèn lễ) của ḿnh. Sự hiện diện của bà đem lại sự cẩn trọng trong từng bước nỗ lực thực hành lẫn sự nhận ra rằng bản tánh nền tảng của những bước này là giác tánh không cần dụng công.

Những giấc mơ và linh kiến của bà là những khám phá của sự chứng ngộ và chúng giúp cho kinh nghiệm delog của bà được rơ ràng đáng tin cậy trong các giáo huấn. Những e ngại của các đạo sư khẩn nài bà đừng thực hiện một cuộc du hành như thế, nhưng đúng ra là ăn chay, dùng thuốc và cử hành các buổi lễ không phải là không có căn cứ.

Tuy nhiên sau khi bà mất và đi tới cơi thuần tịnh của Đức Padmasambhava, bà gặp người chú quá cố của bà là đạo sư tôn kính Khakyod Wangpo, Ngài cảnh báo là bà sẽ gặp nguy hiểm khi ở lại và bảo bà nên trở về cơi người để làm lợi ích chúng sinh.

Sau này, khi bà du hành qua bardo, hay trạng thái trung gian giữa các chết và sự tái sinh, và tới các cơi địa ngụ và ngạ quỷ, một hóa thân của nữ bổn tôn Vajravarahi  tỏ vẻ nghi ngờ việc Dawa Drolma có thể đem lại nhiều lợi lạc.

“Con gái của ta, có thể con cần trở về cơi người. Nhưng… khi đă tái sinh làm một phụ nữ, con sẽ có chút uy quyền… Sẽ khó làm cho chúng sinh trong thời đại suy hoại này tin rằng những tường thuật của con là chân thực”.

Đức Tara Trắng không đồng ư với tuyên bố này, Ngài nói: “Cô ta là một nữ anh hùng với tâm hồn dũng cảm” và nói thêm rằng bà đừng nên nghe lời những ai cố gắng gây trở ngại cho bà.

“Nếu cô ta trở về thế giới con người, cô ấy có thể nói rơ những chọn lựa đạo đức trong việc chấp nhận những thiện hạnh và từ bỏ các ác hạnh. Cô ấy có thể xoay chuyển tâm thức của chúng sinh hữu t́nh”.

Quả thực, kinh nghiệm trực tiếp về những cơi khác đă khiến cho mẹ tôi có một quyền lực âm linh vĩ đại khi bà giảng về hành vi đúng đắn và nhân quả nghiệp báo. Không ai nghi ngờ điều bà nói, không chỉ v́ những đại đạo sư như Tromge Trungpa đă chứng kiến tử thi của bà trở lại cuộc đời.

 Mà cũng bởi bà đă biết chỗ cất giấu những đồng tiền và những hành động của người đă khuất trước khi họ chết, là những sự việc mà bà không thể biết nếu không được trực tiếp cho biết, bởi những người bà gặp khi là một delog.

Sau này trong đời bà, một trong những người cộng tác nhiệt thành nhất của những công tŕnh của bà là một thương gia Tây Tạng, ông ta từng là một phi hành giả cứng đầu trong vùng cho tới khi mẹ tôi gởi tới ông thông tin về số tiền chôn giấu của người chị quá cố của ông.

Ở đây, tường thuật của Dewa Drolma th́ sống động như tường thuật của một du khách miêu tả một đất nước mà người ấy đă viếng thăm, tuy thế tường thuật của bà thực sự là một hành tŕnh của tâm thức xuyên qua những sự phô diễn thanh tịnh và bất tịnh của tâm.

Nó bắt đầu khi như Đức Tara chỉ dạy, “Tôi để tâm tôi an trụ trong một tâm thái khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái hoàn toàn trong sáng… Tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất thông thường của nó. Bởi giác tánh đó không bị ngăn che, tôi như thể nghe được tất cả những âm thanh và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận”.

Khi sự tham luyến, sân hận và si mê thông thường của sự nhị nguyên đối tượng chủ thể hoàn toàn biến mất, ta kinh nghiệm giác tánh không bị tạo tác, trần trụi tuyệt đối, không hai, siêu vượt ư niệm, tánh Không tràn đầy mọi phẩm tính thuần tịnh và năng lực để hiển lộ như h́nh tướng bất khả phân với tánh Không. Đây là Phật tánh, bị ngăn che và không được nhận ra trong tâm chúng sinh, nhưng hoàn toàn được hiển lộ nơi những bậc giác ngộ.

Để làm lợi ích chúng sinh, các bậc giác ngộ hóa hiện một cách tự nhiên các cơi của sự xuất hiện thuần tịnh, chẳng hạn như Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ của Đức Padmasambhava, Núi Potala (Phổ Đà) của Đức Avalokiteshvara và Yulokod của Đức Tara.

Những hành giả đă tịnh hóa ḍng tâm thức và những người đă tích tập công đức rộng lớn qua thiện hạnh của họ có thể kinh nghiệm các cơi thuần tịnh trong các linh kiến, trong các giấc mơ hoặc như mẹ tôi đă làm, như một delog.

Tường thuật của bà hết sức đặc biệt trong khoa địa lư vũ trụ của nó và đầy đủ chi tiết trong sự diễn tả, tuy thế chắc chắn là những cơi giới mà bà thăm viếng là sự phô diễn tṛn đầy của bản tánh tâm, được kinh nghiệm khi sự thiền định xuyên thủng những giới hạn của tri giác b́nh phàm.

Các cơi thuần t́nh là sự phô diễn của tâm, nhưng v́ thế nó cũng là trạng trái bardo và sáu nơi đến của sự tái sinh. Sự khác biệt nằm ở chỗ các cơi thuần tịnh là sự phô diễn của giác tánh, trong khi sáu cơi và bardo là sự phô diễn của mê lầm và sự phóng chiếu của những độc chất của tâm.

Cơi địa ngục là một phóng chiếu của sự thù ghét, sân hận và ác hạnh sát sinh; cơi ngạ quỷ, là một phóng chiếu của sự tham lam và thèm muốn; cơi súc sinh là một phóng chiếu của sự ngu si; cơi bán thần là phóng chiếu của đức hạnh bị ô nhiễm bởi sự ganh tị; cơi trời là một phóng chiếu của đức hạnh bị hư hỏng bởi sự kiêu ngạo; cơi người là một phóng chiếu của một sự ḥa trộn tất cả năm độc kết hợp với đức hạnh tối thiểu để ngăn chặn việc tái sinh nơi các cơi thấp.

Sự tái sinh làm người may mắn được đặt nền trên một số lượng đức hạnh rộng lớn và giúp cho ta thực hành một con đường tâm linh. Mẹ tôi thường nói: “Cho dù cuộc sống làm người của con có khó khăn tới đâu, nhưng những khó khăn ở đây không thể so sánh với những khốn khổ trong các cơi thấp”.

Loài người và súc sinh cùng sống trong thế giới này và cùng có khuynh hướng nh́n mọi sự như cái ǵ hết sức vững chắc, thật có. Khi cái chết chia cách tâm và thân, và lột trần sự kiên cố tương đối của sắc tướng, tâm thức trần trụi đi vào trạng thái bardo sau cái chết.

Nếu không sớm đạt được giải thoát suốt trong sự phô diễn thuần tịnh của cái gọi là bardo chân tánh của thực tại, th́ tâm thức của ta bị đẩy vào bardo trở thành, sau giai đoạn này nó sẽ tái sinh ở một trong sáu cơi của sự kinh nghiệm phù hợp với nghiệp của ta.

Như thể trong một giấc mơ hay ảo giác, chúng sinh trôi lềnh bềnh trong và ngoài tri giác của Dawa Drolma như những bông tuyết. Trong chốc lát bà gặp gỡ một người quen đang chịu đựng những đau khổ ghê gớm nhất của địa ngục hay ngạ quỷ trải qua những thống khổ của sự mất mát cực độ.

 Giây lát kế tiếp bà gặp một người đức hạnh trên đường đi tới một cơi thuần tịnh hay một chúng sinh trong cơi trời. Thỉnh thoảng, bà thấy toàn bộ đoàn người trong địa ngục hay chúng sinh trong bardo đi tới các cơi thuần tịnh, được dẫn dắt bởi một đạo sư hay hành giả vĩ đại là những người bằng năng lực của những ước nguyện vị tha của ḿnh đă tới cứu giúp chúng sinh.

Điều này thực sự có ư nghĩa khi ta cầu nguyện “xin hăy lưới vét tận đáy sâu của ṿng luân hồi sinh tử và giải thoát chúng sinh”.

Dawa Drolma đối mặt với Yama Dharmaraja, Thần Chết và cùng với Đức Tara, bà đă tán thán ông ta bằng một bài ca chứng ngộ:

Nếu nhận ra được, th́ chính là đây bổn tâm của ta.

Nếu không nhận ra, đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.

Thực ra, đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Phổ Hiền (Samantabhadra):

Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.

Mặc dầu sự thật là, trong ư nghĩa tuyệt đối th́ các cơi luân hồi sinh tử có bản tánh trống không, chỉ là những phóng chiếu của những mê lầm của tâm thức, nhưng trên b́nh diện tương đối, nỗi khổ mà chúng sinh phải chịu đựng th́ không thể phủ nhận được.

Khi Dharmaraja cùng các thuộc hạ của ông liên tục đưa ra nhiều bằng chứng th́ không có sự nói dối hay giả đ̣ nào làm giảm bớt được nghiệp quả của ta.

 Cuộc đời của ta trôi qua trước mắt với từng hành vi tốt và xấu được vạch rơ; những nghiệp quả phát sinh một cách tương ứng. Những mô tả ớn lạnh của Dawa Drolma về những hậu quả khủng khiếp của việc sát sinh và hăm hại người khác cảnh báo thật rơ ràng để ta tránh làm những hành động như thế.

Mặt khác, những mô tả quyến rũ của bà về những cơi thuần tịnh gây hứng khởi cho ta để thực hành thiền định bổn tôn và để chứng ngộ bản tánh thuần tịnh của những phẩm tính của tâm.

Sau cái chết, ngay cả khi năng lực của nghiệp quả xô đẩy tâm thức ta tái sanh trong ṿng luân hồi, nhưng nếu ta đă từng thực hành đủ tốt đẹp trước đó để có sự tỉnh giác trong việc khẩn cầu bổn tôn thiền định của ta với đức tin, th́ ta tức thời tái sinh trong cơi thuần tịnh của vị bổn tôn đó.

Sau kinh nghiệm delog của ḿnh, Dewa Drolma làm một cuộc hành hương tới Lhasa, ở đó với phối ngẫu của bà là một lạt ma cao cấp, bà mang thai tôi. Bà sống với ông bà tôi cho tới khi tôi lên bốn, sau đó di chuyển tới Tanp’hel Gonpa, một tu viện xa khoảng một tuần trên lưng ngựa.

Một ngôi nhà với quang cảnh đẹp đẽ được xây cao trên sườn núi và bà sống ở đó, được kính trọng như một đạo sư và một dakini, một hiện thân nữ của trí tuệ và hoạt động giác ngộ. Sau đó, bà sanh em gái tôi, T’hrinlay Wangmo, một đứa trẻ phi thường mà cuối cùng được công nhận là hóa thân của một yogini trí tuệ.

Em tôi và tôi, cả hai đều hoang dă và ngang ngạnh, và đôi khi tôi vẫn c̣n cảm thấy hối tiếc về những rắc rối mà tôi đă gây nên cho mẹ tôi. Bà không kiềm chế việc sử dụng kỷ luật nghiêm khắc với tôi, nhưng bà cũng quả quyết rằng nếu tôi thực hành Pháp mạnh mẽ và với động cơ thanh tịnh th́ tôi sẽ đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Những lời khuyên dạy của bà gia hộ sâu xa cho con đường của tôi.

Bà mất năm 1941, không lâu sau khi sanh một bé trai, nó cũng chết hai năm sau. Khi mất, mẹ tôi khoảng giữa tuổi ba mươi, c̣n tôi th́ mười một. Xác bà vẫn ở tư thế thiền định trong vài ngày, sau đó gục xuống, cho thấy tâm thức đă thoát đi. Bà được hỏa táng trên mái nhà bà.

Các cầu vồng xuất hiện và năm con kên kên, mà trong Phật Giáo Kim Cương thừa là những con vật tượng trưng cho nhăn kiến siêu việt rằng bà đă trở về những cơi thuần tịnh, nhưng tôi cũng không nghi ngờ là bà cũng đă trở lại các cơi địa ngục và ngạ quỷ để cứu thoát bất kỳ ai có liên hệ với bà. Với ḷng bi mẫn, bà tuyệt đối không sợ hăi.

Tôi rời Tây Tạng năm 1959, ngay trước cuộc củng cố xâm lược tàn bạo của Trung Quốc. Năm 1982, sau gần ba thập kỷ không có tin tức của gia đ́nh, bất ngờ tôi nhận được một lá thư ngắn của người em gái, trong đó kể rằng cô có một bản sao duy nhất tường thuật delog của mẹ tôi.

Điều này giống như một cái móc từ Tây Tạng thả xuống California, tuy thế tôi không thể chụp được nó măi cho tới năm năm sau khi lập trường chính trị của Trung Quốc đă có phần mềm dẻo hơn. Sau cùng khi tôi về thăm T’hrinlay Wangmo, cô bảo tôi rằng bản văn đă từng bị tịch thu nhưng cô biết được ai lưu giữ nó.

Trong những năm tháng khủng khiếp của cuộc Cách Mạng Văn Hóa, khi những kinh điển bị người Trung Quốc dùng làm giấy vệ sinh, cô chẳng thể làm được ǵ, nhưng ngay khi cảm thấy an toàn, cô đă biếu một số tiền rất lớn để có được bản tường thuật. Chỉ có vài trang bị mất.

Tôi không muốn giữ bản gốc của em tôi, nhưng người Trung Quốc ở Szechuan thủ phủ của Chengdu không cho phép tôi sao chụp nó. Hiểu rằng tôi phải lén đưa nó ra ngoài, tôi có đem sách Tây Tạng từ Hoa Kỳ về và đă liệt kê chúng trong tờ khai quan thuế.

Tôi ghi thêm bản tường thuật delog vào danh mục sách của tôi không bị phiền nhiễu khi quá cảnh ở phi trường. Vài năm sau, tôi trở về Tây Tạng để cho em gái tôi một bản sao. Tôi vẫn c̣n giữ bản gốc, giờ đây nó đă hơn sáu mươi tuổi, được một người sao chép ghi lại bằng chữ viết tay thật đẹp khi Dawa Drolma thuật lại tiểu sử của bà.

Có những tường thuật delog khác một trong số đó là tường thuật khá nổi tiếng của nữ hành giả Delog Ling Zha Chhodron. Thư viện tác phẩm và văn khố Tây Tạng ở Dharamsala có ít nhất là một tá cuốn.

Các delog th́ thường là phụ nữ; một số xuất hiện như những cư sĩ b́nh thường, nhưng chính kinh nghiệm là một dấu hiệu của sự chứng ngộ thiền định vĩ đại, v́ thế thực ra các ngài không thể là những người b́nh thường. Những tường thuật của các ngài làm tăng thêm ḷng tin của mọi người nơi giáo lư của các đạo sư về các cơi hiện hữu vô h́nh.

Tôi không rơ có những tường thuật nào khác từng được dịch ra các ngôn ngữ Tây phương không. Tôi thật may mắn có mối liên hệ với dịch giả tuyệt hảo Richard Barron (Chokyi Nyima) và chủ bút rất có năng lực Mary Racine, họ đă cho ra đời bản dịch Anh ngữ tường thuật của Dawa Drolma.

Richard Barron chịu trách nhiệm về các chú thích cuối mỗi chương. Mặc dù các chương được viết với  ba cơi thuần tịnh ở phần đầu rồi tới cơi bất tịnh nằm trong chương thứ tư, nhưng nội dung của bản văn dường như chỉ ra rằng cuộc du hành không được biểu lộ ra theo thứ tự khi xuất bản ở đây: Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ, các cơi bất tịnh, núi Potal và yulokod.

 Chương cuối cùng, được con trai tôi là Jigme Tromge Rinpoche đem từ miền đông Tây Tạng tới Hoa Kỳ năm 1994, là một tóm lược mà chính yếu là những kinh nghiệm của Dawa Drolma trong các cơi bất tịnh.

Để bản Anh ngữ dễ đọc, hơn là một bản dịch sát nghĩa và chính xác, bản văn là một dịch phẩm bằng văn xuôi có phần uyển chuyển của nguyên bản Tây Tạng được viết bằng thể thơ. Sự phiên âm ngữ âm học của cấu trúc ngôn ngữ Tây Tạng được dựa trên một hệ thống mà nhà xuất bản Padma sử dụng.

Kinh nghiệm delog th́ phi thường, kỳ diệu, ngay cả trong phạm vi bí truyền của các phái Kim Cương thừa của Phật Giáo Tây Tạng. Tuy thế, tường thuật của Delog Dawa Drolma có năng lực và sự gần gũi của kinh nghiệm trực tiếp và tôi tin rằng những ai đọc nó sẽ nhận ra rằng các hiện tượng của các cơi giới th́ tương ứng với những khía cạnh kinh nghiệm của bổn tâm họ.

Cầu mong những nhắn gửi của bà truyền cảm hứng cho sự thành tựu tâm linh tối cao; cầu mong những nhắn nhủ ấy đưa dẫn bất kỳ ai đọc chúng tới những tịnh thổ của các Đấng Chiến Thắng. 

 

CHAGDUD TULKU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 822 of 2534: Đă gửi: 25 September 2008 lúc 5:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 

HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI

BÊN KIA CÁI CHẾT

 

1-NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG-ĐỎ CƠI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA

Con đường mà tôi để cập tới là một lối đi hẹp, khó khăn và đóng kín.

V́ thế những ai khao khát giải thoát có thể đi vào con đường dẫn tới giải thoát đó.

Tôi sẽ rộng mở chút ít trên ṿng hoa lời dạy chữa lành này liên quan tới động lực cao cả hơn .

Những tường thuật được kể lại ở đây liên quan tới tôi, Dawa Drolma, con gái của Jigmed T’hrogyal thuộc bộ tộc Tromge, một đạo sư sống trong vùng Washul T’hron. Từ khi c̣n là một đức trẻ, tôi được phú bẩm một bản tánh bi mẫn, đức tin không định kiến và thị kiến thanh tịnh. T́nh thương của tôi thật mănh liệt đối với mọi hành khất và những người kém may mắn hơn tôi và tôi hiến thân ḿnh để cúng dường và bố thí.

Tôi thực hiện nhiều cuộc nhập thất tŕ tụng mănh liệt, đă hoàn tất chẳng hạn như hàng trăm ngàn lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng. Sau này tôi được cảm hứng bởi Dakini Dorje Yudron và những bổn tôn khác của giác tánh nguyên sơ, cũng như bởi một Bồ Tát (bodhisattva) đệ bát địa, Ngài mang thân tướng của một vị trời địa phương, đại nyen siêu phàm ở phương bắc. Mặc dù các Ngài không hoàn toàn thuật lại quá khứ, hiện tại và tương lai cho tôi nghe, dù sao th́ tôi cũng đă nhận một số lượng phi thường những tiên tri liên quan tới thời đại của chúng ta.

Có một dịp, ba vị tulku, cũng như ngài Jatrul và những vị khác du hành xuống thung lũng để tham dự một nghi lễ trọng thể, một sự kiện hàng năm được tổ chức trong một cái lều lớn bằng nỉ. Vào buổi chiều tối, trước khi các ngài giải tán, tôi có một linh kiến mà nửa là một kinh nghiệm thiền định, nửa là một giấc mộng.

Trong linh kiến này, ba yêu ma có tên là “các chị em găy bể samaya” từ hướng cao nguyên Lashar tới, lấy cắp sinh lực của chúng sinh trên ba mức độ thuộc sự hiện hữu có điều kiện.

Bà Chị chính cầm một lá cờ bằng lụa đen và một sợi tḥng lọng; mặc dù nhiều lần bà ta cố cột chúng vào eo lưng tôi, nhưng vị bổn tôn nghiệp của tôi là Đức Tara tôn quư đă xuất hiện trong một biểu lộ trẻ trung, thân màu trắng chói lọi và đặt tôi trong một chiếc lều được bảo vệ chặt chẽ khiến sợi tḥng lọng không thể đụng tới tôi được].

Sau này, tôi có một thị kiến về người nào đó lại gần và đánh vào xương vai tôi bằng một cuộn len màu có kích thước cỡ một ḥn đá nhỏ, sau đó biến mất. Đây là một kinh nghiệm hết sức xấu, nhưng một lần nữa, Đức Tara lại can thiệp và nói:

“Bởi sự việc này, ta phải đi Ấn Độ để lấy một ít thuốc kanadava từ kho tàng bí mật của các dakini ở Orgyan. Ta sẽ không trở về trong bốn ngày. Trong thời gian này, con nên mặc y phục của người nào đó như anh Palchhen của con mà thân anh ta được các vị trời bảo vệ che chở và hăy giữ ǵn đừng để tâm con lang thang vơ vẩn.

Vào tối thứ tư, hăy dâng cúng tám mươi torma để giải trừ các chướng ngại. Sau đó, như một dấu hiệu là ta đă lấy được thuốc, ta sẽ đến như mặt trời chói lọi, không bị mây che hay một cơn gió hung tợn vây bủa”.

Trong bốn ngày này, tôi đau đớn ghê gớm; cơn đau dữ dội đến nỗi tôi không thể buộc khăn quanh người. Vào tối ngày thứ tư, vị đạo sư hóa thân Tromge Trungpa cử hành một nghi lễ cúng dường tám mươi torma, và ba chị em cắt đứt sinh lực hài ḷng với các vật cúng dường, đă quay về trụ xứ riêng của họ.

Một mùi hương dễ chịu ngập đầy căn lều bằng nỉ, từ đỉnh lều tới đáy, cho thấy là thuốc đă về tới. Tôi đă có thể thưởng thức một chất dị thường có hương vị rất tuyệt vời, và ngay lập tức, cơn đau của tôi tan biến. Tôi thực sự kinh nghiệm sự kiện kỳ diệu này, là điều mà bất kỳ ai cũng có thể tự ḿnh chứng thực.

Một lúc khác, bất ngờ tôi bị đánh gục như thể giờ chết của tôi chắc chắn đă tới. Đạo sư gốc quư báu[13] và chỗ nương tựa duy nhất của tôi, bậc quyền uy từ bi là kho tàng của ḷng bi mẫn, đă cử hành một buổi lễ tràn đầy oai lực để triệu hồi sinh lực trường thọ của tôi.

Các vị đạo sư của ḍng Sakya lừng lẫy cử hành những sự cầu nguyện, những nghi lễ ban sự che chở, lễ quy y của Đức Hevajra vinh quang và những buổi lễ khác. Sau cùng, những cơn đau mạnh mẽ suy giảm và những cơn đau vi tế hơn nguôi dịu thành một kinh nghiệm về đại lạc tánh Không.

Sau đó, ngài Khakyod Wangpo, đấng thống lĩnh của một trăm bộ Phật, kho tàng vô song và duy nhất của ḷng bi mẫn, Đức Vajrasattva  toàn thiện vĩ đại trong thực tế, đă dẫn dắt tôi trong một linh kiến với sắc tướng huyễn mộng của giác tánh nguyên sơ của Ngài.

Như một người nói chuyện với người khác, tôi đă tṛ chuyện cùng các dakini của giác tánh nguyên sơ không có thân thể vật lư và đáp lại những câu hỏi của tôi, họ cho tôi những câu trả lời rơ ràng, khiến cho những chướng ngại đối với thọ mạng của cô gái[17] này được giải trừ và tôi đă có thể làm lợi cho chúng sinh theo khả năng của riêng tôi.

Tôi đă được tiên tri rằng tôi phải thực hiện các cuộc nhập thất tŕ tụng về ba vị bổn tôn Amitayus, Samyak và Vajrakilaya để viếng thăm nhiều cơi thuần tịnh Hóa thân.

Đức Tromge Kundun Rinpoche đă cử hành các lễ quán đảnh về ba bổn tôn này từ các giáo lư của đại terton Laykyi Dorje. Những cách nh́n quen thuộc của tôi về các sự việc được nhẹ nhàng quét sạch và tôi được đưa dẫn trực tiếp vào bản tánh tinh túy vô điều kiện của giác tánh nội tại, không chút lầm lạc.

 Tôi đốn nhập vào giác tánh nội tại trong toàn bộ sự trần trụi của nó, rồi th́ những ngôn từ kim cương bí mật tuôn ra không ngưng nghỉ. Thiên nữ tôn kính, Đức Tara Trắng cao quư, ban cho tôi một linh kiến và nhiều kinh nghiệm thiền định của sự hợp nhất không thể nghĩ bàn của đại lạc và tánh Không đă ló rạng trong ḍng tâm thức tôi.

Đó là năm đầu tiên của chu kỳ sáu mươi năm cũ, năm Giáp Tư 1924. Trong tuần trăng khuyết tháng tám, vào ngày hai mươi ba âm lịch xảy ra một sự kiện quan trọng kỷ niệm sự tụ hội của các dakini, một thời gian tốt lành cho sự truyền bá được cách-tân giáo lư quư báu của con đường mật chú.

Vào ngày này, chúng tôi lại thăm Chhogtrul Rinpoche. Cô gái này nằng nặc hỏi Ngài về những giấc mơ và kinh nghiệm thiền định trong đời trước của cô, cũng như những kinh nghiệm gần đây và mới vừa xảy ra. Ngài có vẻ hân hoan đến độ đáng kinh ngạc và hết sức hài ḷng bởi những tường thuật này.

Tôi nói với Ngài: “Theo một tiên tri mà Đức Tara Trắng nói về cô gái này, con sẽ trải qua khoảng sáu hay bảy ngày trong một trạng thái kiên cố thiền định sâu xa, như thể ở trong một sự hôn mê hay một trạng thái giống như chết”.

Trên thực tế, Chohogtrul Rinpoche và Tromge Trungpa đều bảo tôi: “Tuyệt đối không cần tới loại đồn đại này. Sau khi trải qua tối đa một ngày trong nghi lễ chay nyungnay, con cảm thấy đói và khát. Không tốt hơn sao khi ở trong một lều thiền định tĩnh lặng tự nhiên, không suy nghĩ nhiều, nghỉ ngơi thoải mái trong những điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu và hoàn tất một ít sự tŕ tụng thần chú?”

“Nhưng”, tôi trả lời “an trụ bảy ngày trong một t́nh trạng như thế là một điều lợi lạc và rất cần thiết cho việc chữa trị bệnh tật của con”. Tôi cứ quấy rầy các ngài măi khi hỏi:

“Con có nên ở trong pḥng khóa cửa, không dùng chút thực phẩm và nước uống nào không?”

Tromge Kundun Rinpoche nói: “Hoàn toàn không nên làm ǵ cả! nếu muốn bớt bệnh, con nên cử hành những nghi thức và lễ trường thọ rộng lớn và hăy nhận những lễ quán đảnh Vajrakilaya cùng nghi lễ tắm gội của bổn tôn Bhurkakuta. Con cũng nên chuộc mạng những con vật sắp bị làm thịt.

Nếu con ước muốn hoàn thiện hạnh phúc của chúng sinh, hăy thực hành một nghi thức chẳng hạn như nghi thức dẫn dắt chúng sinh ở sáu cơi được t́m thấy trong giáo khóa Sự Giải thoát Tự nhiên của Ư hướng Giác ngộ của các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ[cùng khẩn cầu nguyên lư của ḷng bi mẫn siêu việt bằng cách tŕ tụng thần chú mani cùng với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện”.

Trước phương cách này và nhiều cách khác mà Ngài buộc tôi phải làm, và mặc dù rất tốt khi tuân theo lời khuyên của Ngài, tôi lặp lại rằng theo ư kiến của tôi th́ không có ǵ để làm ngoài những ǵ tôi đă mô tả, và tôi quyết định thực hiện phù hợp, không thể tŕ hoăn thêm nữa.

Vào ngày hai mươi lăm âm lịch, tôi báo cho mọi người xung quanh về t́nh trạng của tôi. Vào buổi tối, thời điểm của năng lực , khi các dakini tụ hội, bảy lạt ma và tulku khá đặc biệt (lạt ma toàn trí Tromge Kundun Ringpoche là vị lỗi lạc nhất trong số họ) được nhiều đệ tử và các thị giả tháp tùng.

Cô gái này cũng nhập vào đám đông. Khi tôi ở đó, tâm tôi trở nên minh mẫn hơn bao giờ hết và những kinh nghiệm thiền định và các trạng thái chứng ngộ hết sức đặc biệt xuất hiện trong ḍng tâm thức của tôi.

Trong tầm nghe của Tromge Kundun Rinpoche tôi tụng đọc những bản văn nghi lễ theo thứ tự thích hợp của chúng mà tôi chưa bao giờ học, Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu, cũng như sự dâng cúng tiệc và nghi thức thực hiện. Tâm tôi cực kỳ hỉ lạc và tôi cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc như đêm ấy.

Sau khi đám đông giải tán, tôi ở lại một lúc trong sự hiện diện của đạo sư quư báu của tôi. Sử dụng nhiều phương tiện cả nhẹ nhàng đến phẫn nộ, Rinpoche lập đi lập lại: “Con gái ta, ta xin con đừng tiến hành kế hoạch này”.

Tuy nhiên, yêu cầu đó không ích lợi ǵ và v́ thế sau cùng Ngài nói” “Bởi con đă quyết định làm thế, hăy giữ những lời này trong tâm và đừng quên chúng. Từ nay trở về sau, đừng ô nhiễm nẻo đường mê muội, bất tịnh và tăm tối như con đă làm trong quá khứ.

Hăy an trụ mà không dùng phương tiện hay nỗ lực nào trong bản tánh chân thật của tâm con, đúng như nó xuất hiện và tự nó xuất hiện. Càng nhiều càng tốt trong mức độ có thể, hăy phát triển ḷng tin và cái nh́n thanh tịnh về các đạo sư và bổn tôn được chọn lựa của con, cũng như ḷng từ bi đối với mọi chúng sinh, họ đă từng là những bậc cha và mẹ của con” [31]

Cùng với lời nói đó, Ngài tỏ vẻ cung kính tôi bằng cách đích thân cho tôi một đĩa đầy những khẩu phần đặc biệt của tiệc cúng dường. Ngài ngâm tụng: “Cầu mong con được đặt dưới sự bảo trợ của các đạo sư, Tam Bảo và Đức Orgyan vĩ đại. Cho tới khi con thành tựu sự Giác ngộ, cầu mong mọi chướng ngại và nghịch duyên được làm yên dịu.

Cầu mong ư hướng giác ngộ không bị tạo tác của hai phương diện của Bồ Đề tâm, bản tánh nền tảng của thực tại được nảy sinh trong ḍng tâm thức của con. Cầu mong con được thiên nữ tôn kính, Đức Tara cao quư dẫn dắt trên con đường và nhờ đó hăy thành tựu lợi ích không thể nghĩ bàn cho chúng sinh”.

Khi Ngài nói những lời này, ḷng tin của tôi phát triển thật mănh liệt khiến tôi có cảm tưởng như thể ḿnh bật khóc. Tôi thực hiện ba lễ lạy và quay trở về ẩn thất của ḿnh.

Sau đó tôi nói với Tulku Tromge Trungpa: “Con sẽ như thể thực sự chết trong khoảng năm ngày. Trong thời gian đó không ai trong những nhà sư hay đệ tử được ra vào pḥng con hoặc đi lại nhiều ngoài cửa; họ không nên nói luôn miệng hay gây những tiếng động kinh suất, quấy rối.

Xin dọn dẹp mọi thực phẩm ở trước mặt con, đừng để lại nhiều hơn bảy hạt lúa mạch. Để tịnh hóa những khuynh hướng quen thuộc, sự che chướng thai tạn và những ô nhiểm của thân thể con, xin rửa sạch con bằng nước nghệ đă được hiến cúng qua thực hành Vijay.

Vào lúc đó, để cung cấp một điều kiện tốt lành đặc biệt, phải có sự hiện diện của một cô gái tên là Drolma”. (Nhưng cuối cùng mọi việc hóa ra tự nhiên suôn sẻ bởi một người đàn bà đức hạnh có giới nguyện samaya trong sạch tên là Tsult’hrim Drolma đă trở thành bạn đồng hành của tôi).

Tôi nói tiếp: “Để xác định rơ ràng con thuộc loại bộ Phật nào và để giải trừ các chướng ngại, xin quấn một miếng vài màu xanh da trời quanh đầu con. Cho tới khi con trở lại cuộc đời, Kuzhab Rinpoche sẽ cử hành sự cúng dường bánh cho năm chị ở Lhaman Tsering.

Tromge Trungpa sẽ cử hành một trăm tiệc cúng dường của Nữ Hoàng Cực Lạc trong giáo khóa Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu. Để giải trừ những chướng ngại cho các linh kiến của con, các đệ tử và thị giả nên tŕ tụng càng nhiều càng tốt Lời khẩn nguyện Bảy-Ḍng, bài cầu nguyện Giải trừ Chướng ngại trên Con Đường và các thần chú vajra guru (Kim Cương Đạo sư) và Tara.

Để bảo vệ con, hăy cài chốt cửa pḥng con bằng một khóa móc và có người mặc đồ xanh dương. Và để ngăn chặn và trấn áp thế lực của loài quỷ khát máu, xin niêm phong miếng vải với sáp ong được đóng dấu bằng dấu triện ngược đầu.

“Bây giờ cần một bộ quần áo sạch để thay đổi, nó không làm bằng da thú vật hay da sống. Nếu con không chết thực mà quay trở lại cơi đời, con sẽ phải súc miệng, v́ thế, con sẽ phải cần tới một cái b́nh đựng đầy nước mưa sạch hứng từ một trận mưa thuốc của các nhà thấu thị, nó xảy ra nhờ năng lực của những sự ban phước và đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Bhaishajyaguru.

“Nếu bất kỳ ai hỏi Dawa Drolma đang làm ǵ khi hành động như này, th́ đừng nói điều ǵ đặc biệt, tốt hay xấu; chỉ cho biết chắc chắn con không sống cũng không chết. Trong năm ngày, xin hăy mời anh Palchhen của con, anh ấy đang sống với gia đ́nh con và những người bà con dưới thung lũng và nói với anh ấy rằng:

“Em gái anh đang ở trong một trạng thái không sống cũng không chết. Hăy đích thân tới thăm cô ấy”. Mặc dù đ̣i hỏi chút ít nhọc nhằn nhưng mọi sự con vừa sắp xếp th́ hết sức quan trọng, v́ thế xin Ngài tiến hành cho”.

Tulku Tromge Trungpa và các thị giả của Ngài hứa sẽ tôn trọng bức thư hướng dẫn mà tôi đă đưa và trung thành với lời cam kết của họ, và như thế tôi nằm xuống giường để nghỉ ngơi.

Cô gái này nói: “Hăy để tâm mi an trụ trong trạng thái tự nhiên nơi đó nó phát triển một cách nội tại, không bị bất kỳ niệm tưởng lan man nào làm gián đoạn”.

Phù hợp với yêu cầu này, tôi để tâm tôi an trụ. Trong một tâm trạng khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái hoàn toàn trong sáng. Đây không phải là trạng thái tiềm ẩn kunzhi, là sự vắng mặt đơn thuần các niệm tưởng lan man.

Cũng không phải là việc tôi hoàn toàn mê đắm trong những cảm xúc của lạc, sự trong sáng và sự tỉnh giác vô niệm. Và tôi không đơn thuần rơi vào một cuộc nô đùa vô tận của sự vô minh.

Đúng hơn, tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất thông thường của nó được tất cả âm thanh và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận.

Vào sáng ngày hai mươi sáu âm lịch, khi mặt trời nhú lên ở chân trời, tôi nh́n thấy Đức Tôn kính và cao quư Tara thực sự hiện diện trước mặt tôi giữa một khối ánh sáng cầu vồng, thân Ngài có sắc trắng như một b́nh pha lê. Bà cầm một mũi tên có trang trí những giải ruy băng mà bà dùng để ban phước cho tôi.

Từ hướng núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, một cầu vồng gồm năm dải ánh sáng màu song song rọi vào thiền pḥng của tôi. Dọc theo con đường này xuất hiện một toán hộ tống gồm bốn phụ nữ trẻ mặc y phục bằng lụa và tô điểm các đồ trang sức bằng xương.

Vị dakini ở phương đông, Thiên nữ có Năng lực trên sự Trường thọ, sắc trắng sáng ngời và cầm một mũi tên trang trí dải ruy băng lụa và một cái b́nh. Dakini ở phương nam là Akyang Tara, dakini ở phương tây là Tara Rồng màu Lam Ngọc, và dakini ở phương bắc là Thiên nữ phương Bắc.

Các ngài đặt tôi trong một ổ rơm có trải lụa sặc sỡ trang trí hoa văn đỏ và trắng. Ngay lập tức, các dakini ở bốn tầng cấp và tôi cùng nhau hát tụng Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng và lớn tiếng tŕ tụng liên tục các thần chú vajra guru và mani.

Tâm tôi trải rộng rộng tới một trạng thái cực kỳ hỉ lạc, bản tánh cốt tủy của sự hoàn toàn trong sáng trong đó tôi không thể bám níu vào bất kỳ điều ǵ dù tốt hay xấu theo nghĩa thông thường, giống như pháp giới vô sanh không có ǵ trong nó và của chính nó, nhưng với một sự chói lọi tự nhiên tuyệt đối không bị ngăn che.

Kinh nghiệm thiền định hài ḥa và tự phát này xuất hiện như sự phô diễn không thể nghĩ bàn của một đám mây mạn đà la, phạm vi hoàn toàn rộng lớn của kinh nghiệm thuần tịnh.

Sau đó tôi cảm giác leo lên càng lúc càng cao tới một khoảng không gian khá rơ ràng, c̣n nhanh hơn một con chim kên kên đuôi trắng hoang dă bay vút lên không trung. Khi kinh nghiệm bi tráng này mở trải ra như một ảo ảnh biến dịch, bất ngờ tôi thấy ḿnh ở một nơi mà tôi không nhận ra là ở đâu.

Giữa một cánh đồng rộng lớn, bao la và siêu phàm đến nỗi dường như bầu trời đổ sập xuống trái đất, một tảng đá có bề mặt lớn đứng sừng sững có h́nh dạng như một trái tim. Ở mọi phương và những rặng núi trông như những vũ khí chĩa lên bầu trời và đỏ như thể có lấm tấm máu.

 Trên bầu trời xuất hiện một ṿm ánh sáng cầu vồng năm màu. Những chim công trống, chim hét và chim cu cu vút lên, bay chuyền thật vui thích. Không gian tràn ngập mùi hương ngọt ngào có năng lực chuyển hóa những tri giác của ta. Khắp mặt đất phủ đầy các loài hoa gồm năm màu thật đáng yêu trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. Tôi kinh nghiệm cảnh giới này như một nơi chốn thực sự.

Tôi cũng nh́n thất một ngọn núi rất đẹp, xanh thẳm như một viên ngọc bích. Tâm tôi tràn đầy đức tin và thị kiến thanh tịnh không tưởng tượng nổi. Tôi lớn tiếng lập đi lập lại những lời cầu nguyện của pháp guru yoga, Lời Khẩn Nguyện Bảy-Ḍng và một lời khẩn cầu mà trước đây chính Đức Tara đă nói với tôi và tôi thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường mạn đà la.

Nơi đây là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara. Khoảng nửa đường lên tới mặt tảng đá, trên một vùng bằng phẳng rộng lớn bao la là lâu đài Liên Hoa Quang rộng mênh mông đứng sừng sững [51].

Cung điện, một hóa thân của giác tánh của Đức Padmasambhava, được làm bằng năm loại châu báu, một mạn đà la thành tựu tự-sinh và tự nhiên. Từ ngoài vào, bên trong sáng sủa rực rỡ và từ trong nh́n ra, ta có thể thấy rất tường tận.

Được kết bằng những cầu vồng, lâu đài có bốn mặt, bốn cổng và các sân, trong đó có hơn một ngàn cung điện khác. Trong những cung điện này là tập hội các vidyadhara cũng như những daka và dakini.

Cô gái này tới cổng phía đông. Ở đó tôi gặp bốn người đàn bà, họ mặc cho tôi một áo choàng lụa sặc sỡ, chiếu sáng như một cầu vồng. Rồi họ ra đi, nhưng tôi không rơ họ đi đâu.

Người đàn bà gác cổng phía đông thách thức tôi: “Cô là ai?”

Tôi trả lời: “Tôi là Dawa Drolma, một con gái của bộ tộc Tromge trong thế giới con người”.

“V́ sao cô tới cơi này?”

Tôi trả lời khiêm tốn: “Nhằm mục đích bảo đảm hạnh phúc của chúng sinh, tôi xin được hội kiến Đức Orgyan Tsokey Dorje và nhiều vidyadhava, daka và dakini trên Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trong tiểu lục địa Chamar”.

Vị dakini trả lời:

Cầu mong cô được Đức Vajravarahi ban phước.

Cầu mong các nghịch cảnh và chướng ngại cho sự trường thọ của cô được giải trừ.

Cầu mong cô đạt được quán đảnh kim cương bất diệt.

Và cầu mong cô bảo đảm được hạnh phúc của vô lượng chúng sinh.

Sau đó tôi nh́n thấy cảnh tượng phi thường của cổng phía đông kỳ diệu, một cửa làm bằng pha lê. Trên đó, trong h́nh chạm khắc lờ mờ là h́nh ảnh của một tathagata và những chữ đi kèm đem lại sự giải thoát nhờ cái thấy. Bên trái và phải cửa là những báu vật có h́nh những con rồng màu lam ngọc uốn ḿnh h́nh xoắn ốc theo chiều kim đồng hồ và ngậm nhiều viên ngọc.

Th́nh ĺnh vị dakini mở cửa bằng một ch́a khóa pha lê thạch anh trắng, có bề dài khoảng một bàn tay và đánh dấu bằng những chữ tượng trưng tự-tạo h́nh, kỳ diệu và huyền bí. Tôi đi bộ vào trong và t́m thấy một cầu thang dài làm bằng châu báu.

Tôi trèo lên và trong một căn pḥng rộng mênh mông, tôi t́m thấy ngài Jampa Migyur ngồi trên một cái ngai nhỏ . Ngài mặc một áo choàng không tay bằng lụa trắng và tô điểm với nhiều vật trang sức quư báu, tóc Ngài kết lại thành một cái búi.

Tay trái Ngài đang lần một mala bằng pha lê trắng, mỗi một trong 108 hột có kích thước khoảng ngón tay cái của ta. Quanh Ngài là đoàn tùy tùng gồm vài trăm dakin ni mặc áo choàng lụa trắng, đang cử hành một buổi tiệc vui vẻ. Các thiên nữ kim cương thuộc sự hoạt động mặc áo choàng xanh dương cúng dường những phần đặc biệt của bữa tiệc trong bốn phương chính trên bầu trời.

Từ hàng sau của tập hội, cô gái này thực hiện ba lễ lạy và cầu nguyện với những ước nguyện cao quư khi xuất hiện trong tâm. Đến gần vị lạt ma, tôi dâng lời sám hối, tự tịnh hóa bằng cách tụng thần chú một trăm âm và cử hành mạn đà la vũ trụ ba mươi bảy điểm.

Một dakini ở bên phải vị lạt ma là điều tra kỹ lưỡng quá khứ của tôi. Để trả lời bà, tôi nói năng thẳng thắn nhưng khiêm tốn. Vị lạt ma có vẻ hết sức hài ḷng. Tôi tham dự vào buổi lễ tiệc.

Rồi tôi được một bà mặc y phục xanh dương đưa ra ngoài và dẫn tới lâu đài rộng mênh mông khác. Một người có mặt ở đây đang tắm cho một dakini của mộ bộ tộc thuộc thảo nguyên thấp ở miền đông Tây Tạng.

Tôi cũng nhận một nghi lễ tắm rửa. Ngự trên một chiếc ngai cao ngất ở giữa chúng tôi, trên một tấm nệm cao bằng lụa đỏ trông thật đặc biệt là ngọn đèn soi sáng các sutra và tantra, vương miện của mười triệu vidyadhara, đạo sư vô song, bậc thông thái và thành tựu, bậc toàn trí Jamyang Khyentsei Wangpo.

Thân tướng chói ngời của Ngài trông thật lôi cuối và trẻ trung; dường như khoảng mười sáu tuổi. Ngài mặc ba chiếc y nghi lễ và đầu đội chiến nón tượng trưng cho ba sự tích tập kinh điển. Tay Ngài cầm chày kim cương và chuông. Ngài được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng hơn một trăm daka và yogini.

Như trước đó, tôi đảnh lễ, cúng dường và cử hành lễ dâng cúng mạn đà la vũ trụ. Tôi dâng lên Ngài một đoạn khăn lụa trắng toàn mỹ để xin được diện kiến và thực hiện những sự khẩn cầu ước nguyện khi tôi có thể. Vị lạt ma dường như có một tánh khí rất khó khăn và cứng cỏi; Ngài không nói một tiếng nào và cố ư tránh nh́n tôi.

Tôi ra đi và tới lâu đài rộng mênh mông khác. Người gác cửa là một cô gái không thể quá mười lăm tuổi. Mặc dù tôi không nhận ra cô, cô ta tỏ ra rất vui thích đối với tôi như cha mẹ bộc lộ khi gặp con cái họ.

 Bên trong lâu đài, ngồi trên một cái ghế thấp chất đầy những đệm lót bằng lụa xanh là một người đàn bà tên là Yul-lha, một dakini vùng Derge, là một hóa thân của bổn tôn Vajravarah. Tóc bà được búi lên bằng sáu dải ruy băng màu xanh da trời, bà cầm một bản văn giáo huấn tâm linh nhỏ.

Bà đang tụng những vần kệ gốc của Trạng thái Trung ấm sau Cái Chết. Có khoảng mười sáu dakini trong đoàn tùy tùng của bà. Tôi đảnh lễ và cúng dường hương trầm được pha chế từ gỗ đàn hương trắng Ấn Độ. Tôi được ban thức ăn khô với các gia vị làm từ năm thứ cam lồ.

Sau cùng tôi nói về các sự kiện trong cơi người. Bà tiếp tục: “Con sẽ t́m thấy bốn cầu thang trong một sảnh đường, ở giữa vùng này. Đừng dùng cầu thang màu đen, bởi ở đó ẩn dấu nguy hiểm do rắn độc và những quỷ ma khát máu. Thay vào đó, hăy lên cầu thang màu xanh lá cây”.

Với sự chỉ dạy ấy tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh. Trong lâu đài rộng mệnh mông khác, tôi đi ngang qua một người đàn bà có vẻ rất già, tóc ngả màu xám hơi vàng, có khoảng hai trăm dakini vây quanh.

Các dakini đang đọc các bản văn từ giáo khóa của ngài Karma Lingpa trên mạn đà la các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ và Tantra Sám hối Bất Nhiễm. Người đàn bà chính cầm giữ hơi thở trong thực tập thở-cái b́nh. Khi bà thở hết ra, bà trục xuất nhiều sinh vật sống trong nước như rắn nước, ếch và cá; từ thây chúng nổi lên những cầu vồng trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, trong khi tâm thức chúng được kéo lên các cơi thuần tịnh,

Thực ra vị dakini này tên là Wangmo. Sau khi đảnh lễ và cúng dường, tôi tới  gần bà. Bà đặt một chuỗi xương sọ lên đầu tôi và cười thật dễ thương, trong một lát bà hỏi tôi là ai.

Trong lâu đài mênh mông khác, bất chợt tôi gặp một thiên nữ áo trắng, một dakini có năng lực an b́nh, ngồi trên một tấm nệm phủ lụa và mặc áo choàng thêu kim tuyến linh thánh, có đoàn tùy tùng gồm bảy dakini vây quanh.

Tôi đảnh lễ và cúng dường bà. Các dakini đang hát thật ngọt ngào một bài cầu nguyện sùng mộ để khẩn cầu năng lực của Đức Avalokiteshvara và một bài nguyện ước hợp nhất với thần chú mani sáu âm. Nhưng ở đây tôi sợ trở thành quá dài ḍng và sẽ không viết dài hơn nữa.

Đức Yeshe Tsogyal xuất hiện trong một ṭa lâu đài rộng mênh mông rất đẹp có cửa nh́n về hướng đông. Bà phục sức đẹp đẽ với những áo choàng lụa và trang điểm nhiều vật trang sức bằng châu báu và bằng xương, mái tóc Bà đen, dày và rực rỡ. Sắc thân mỹ lệ không tả xiết của Bà đem lại niềm hỉ lạc cho người chiêm ngưỡng.

Bà được một đoàn tùy tùng gồm một ngàn dakini vây quanh. Họ đang làm lễ tiệc cúng dường cội gốc đạo sư (guru), Sự Hội tập các Đạo sư Tŕ giữ-Giác Tánh; cội gốc bổn tôn, Sự Hội tập các Đấng Vĩ đại và Vinh quang; và cội gốc dakini, Nữ Hoàng Cực Lạc.

Tôi nhập vào những người tham dự tiệc cúng dường, đảnh lễ và cúng dường Đức Yeshe Tsogyal, điều ấy làm Bà hài ḷng. Tôi khiêm tốn kể cho Bà về tiểu sử của ḿnh thật rơ ràng và chi tiết.

“Hăy tiếp tục đi lên” Bà nói “và ta sẽ cho người dẫn co tới gặp chú của con. Sẽ khó mà vượt mà vượt qua, bởi con sẽ gặp một người gác cổng rất nghiêm khắc”.

Tôi đi tới một nơi khủng khiếp, quả là cảnh tượng làm tôi rùng ḿnh khiếp sợ. Những mái ṿm làm làm bằng da người được treo bằng những sợi thừng là những con rắn. Những đầu lâu khô, những đầu người c̣n mới và những đầu héo khô c̣n dính tóc treo khắp nơi. Những màn cửa và rèm tường làm bằng da trăn màu đen.

Giữa tất cả những thứ đó, ngồi trênmột cái ngai màu đen tuyền là một yogi tên là Pawo Namkha Odsal mặc y phục đen pha lẫn đỏ tía. Tóc Ngài kết lại thành búi quanh một chày kim cương, trên đỉnh của nó là một miếng ngọc lam nhỏ. Tai Ngài đeo những chiếc ṿng bằng vỏ ốc xà cừ.

Ngài mặc một áo choàng trắng và cầm một trống tay lớn và chiếc kèn làm bằng xương đùi người. Trông Ngài thật lôi cuốn khó cưỡng nổi. Một đoàn tùy tùng vây quanh Ngài gồm sáu nhân vật mặc áo choàng không tay màu đen. Họ cực kỳ hung nộ, với mái tóc đen xơa xuống và những biểu lộ nham hiểm, giận dữ. Tôi đảnh lễ và cúng dường các ngài, cũng như dâng những lời ước nguyện.

Tiếp theo, tôi gặp một người gác cửa, một người đàn bà da trắng mặc quần áo lụa và những vật trang sức bằng xương. Tên bà là Nordzin Dronma và bà có mối liên hệ với tôi trong nhiều đời.

Giữa một lâu đài màu cam rộng mênh mông có bản chất ánh sáng, ngự trên một cái ngai rất cao bằng pha lê đỏ và những tấm đệm bằng lụa nhiều màu là vị phối ngẫu linh thánh Mandarava [72], có sắc đỏ sậm.

Trong tay phải, bà cầm một mũi tên cột những dải ruy băng và tay trái cầm một b́nh trường thọ. Bà mặc một hạ y lụa ngắn, xếp li và đeo những vật trang sức quư báu. Được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm một trăm dakini giác tánh nguyên sơ, bà hát một bài ca du dương về âm nhạc kim cương bất hoại.

 Tôi đảnh lễ và cúng dường như đă làm trước đây và được Đức Tara thúc giục, tôi tụng một bài sùng mộ với bà. Một cảm thức của đức tin phát khởi không thể tưởng tượng nổi trong tôi.

Tôi đứng lên khi hội kiến và tới gần bà. Vị phối ngẫu linh thánh đặt bàn tay phải có cầm mũi tên cột dải ruy băng lên đầu tôi và hát:

Hung Ở biên giới tây bắc xứ Orgyan…

Con khẩn cầu Ngài tới ban cho những ân phước.

Khi đă ban phước cho con nơi chốn tuyệt hảo này,

xin ban bốn quán đảnh cho hành giả ưu tú này.

Xin giải trừ những chướng ngại bởi cái chết không đúng lúc.

Xin ban cho thành tựu của sự bất tử.

Đi xa hơn nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rất đẹp, duyên dáng. Mười hai người đàn bà gác cữa đông, mười  hai người gác cửa nam, mười hai người gác cửa tây, mười hai người gác cửa bắc. Ở phía đông, cửa và những người gác cửa toàn bằng pha lê, mặt phía nam bằng vàng, phía tây bằng hồng ngọc và mặt phía bắc bằng lam ngọc.

Ở hướng đông là mười hai thiên nữ có mục đích dẫn dắt chúng sinh, ở phương nam là mười hai thiên nữ có nhiệm vụ chỉ ra con đường đi tới giải thoát. Ở phương tây tôi nh́n thấy mười hai thiên nữ thuộc yếu tố lửa chói sáng và phương bắc mười hai thiên nữ là những bậc chiến thắng những mara. Tất cả các ngài mặc áo choàng theo màu phù hợp với các hướng tương ứng.

Ổ khóa trên cổng ngoài có chiều dài khoảng cánh ta và bằng vàng. Một trong những dakini mở cổng và cho tôi vào. Rồi cửa bắc mở ra và tôi đi vào ṭa nhà. Trong ṭa lâu đài có 180 cây cột chống, 180 dakini mặc y phục bằng lụa và đeo những đồ trang sức bằng xương, nhảy múa ca hát với nhạc đệm một bài hát tên là “Sự Giải thoát Tự nhiên khỏi những Cơi Thấp”:

Hri Trạng thái không chỉnh sửa thoát khỏi sự tạo tác ư niệm là đạo sư Pháp Thân.

Cực Lạc là đạo sư Báo Thân, chúa tể của Pháp.

Sinh ra từ một hoa sen là đạo sư của Hóa thân.

Chúng con đảnh lễ và tán thán bậc Kim Cương tŕ của ba thân.

Thân giác ngộ của Ngài th́ bất biến, là thân tướng của Đức Samantabhadra (Phổ Hiền)

Ngữ giác ngộ của Ngài th́ không lây động và siêu vượt ngôn ngữ, sự tưởng tượng, cùng sự biểu lộ.

Chúng con tán thán Ngài. Ôi vua Hoa Sen, bậc được phú bẩm thân, ngữ và tam giác ngộ.

Đại học giả của xứ Ấn Độ cao quư, xin thương xót xứ sở Tây Tạng.

Đức Kim Cương Sanh trong Hồ thoát khỏi sinh, lăo, bệnh, tử.

Chuyển hóa đám quỷ ma hiểm độc khát máu hướng về Pháp.

Chúng con tán thán Ngài, Ôi Đức Padma T’hod T’hreng Tzal.

Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.

Maha guru padma t’hod t’hreng tzal la namo hung.

Khi họ hát, tôi kinh nghiệm vô lượng đức tin và sự hỉ lạc.

Ở một nơi khác, th́nh ĺnh tôi nh́n thấy một người đàn bà có nước da trắng mặc một cái khăn choàng và hạ y thêu kim tuyến trắng và cầm một sợi chuỗi bằng pha lê đỏ. Bà chính là ni cô Kunga Monlam mà cũng được biết là dakini Laykyi Wangmochhe.

Bà biểu lộ niềm vui chân thành đối với tôi. Vén một tấm rèm có đính những h́nh trang trí bằng lụa, bà dẫn tôi tới giữa cung điện. Ở đó tôi thấy đoàn tùy tùng của bà gồm bảy dakini, họ đặt một chiếc nệm trắng để tôi ngồi. Chính Laykyi Wangmochhe đặt một mũi tên trường thọ lên đỉnh đầu tôi và ngâm:

Om Sự trường thọ nguyên sơ không lầm lỗi.

Ta triệu mời điều này trong sự vinh quang cao cả nhất của sự nối kết mặt trời và mặt trăng.

Sự trường thọ của đại lạc không biến đổi,

Ta triệu thỉnh điều này trong sự vinh quang của cốt tủy vi tế của thân ánh sáng.

Sự trường thọ lâu dài không có sự đến và đi b́nh phàm.

Ta triệu thỉnh điều này giữa Pháp giới bao la bất hoại, vĩnh cửu và kiên cố.

Sự trường thọ là cái bị đánh cắp, cướp đoạt, găy bể, hoặc suy sụp bởi niệm tưởng lan man,

Ta triệu thỉnh điều này trong bản tánh nền tảng vô điều kiện của giác tánh nguyên sơ vô niệm

Sự trường thọ đặt nền trên sự vô minh về các sự xuất hiện của samsara, nirvana và con đường tâm linh.

Ta triệu thỉnh điều này trong trạng thái tự nhiên của các sự việc bởi chúng th́ phi thời gian và nguyên sơ.

Nếu không có sự ngừng dứt, th́ không có ǵ già đi,

và v́ thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ, nó không có ngừng dứt và già đi.

Nếu không có sanh, th́ không có chết đi,

và v́ thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ là cái không sanh và không diệt.

Ah ah ah.

Bà tiếp tục: “Thật là may mắn bởi con đă tới cơi thuần tịnh này từ thế giới b́nh phàm của con người. Con làm ta xúc động biết bao” và bà khóc. Rồi bà gọi một cô gái tên là Apal đi cùng với tôi và tôi được dẫn ra ngoài.

Đức tôn quư Tara Trắng nói với tôi: “Dawa Drolma, con gái ta, chính ta là người đă sắp xếp cho con rời cơi người b́nh phàm và là người dẫn dắt con tới cơi thuần tịnh này. Nhưng bây giờ chưa tới lúc để con và ta ở lại núi Huy Hoàng này.

“Có một cơi thuần tịnh cao hơn cơi này, được phú cho năm điều chắc chắn, nó là phạm vi chứng nghiệm của những bậc an trụ trong địa thứ mười của sự chứng ngộ. Ở đó Báo thân của Đấng Bi Mẫn Siêu việt được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm vô số  các Bồ Tát nam và nữ, đang giảng dạy Tantra Chúa công của sự Nhảy múa Hoa Sen Binh mẫn Siêu phàm.

“Trên đó là cơi thuần tịnh Pháp Thân, thoát khỏi sự tạo tác ư niệm. Ở đó Đức Guru Padma an trụ, không ǵ khác hơn là sự xuất hiện tự-hiển lộ tự nhiên của Đấng bảo trợ nguyên sơ.

 Ban những giáo lư tâm linh cho một tập hội trong đó ư hướng giác ngộ của vị thầy và của quyến thuộc th́ không thể phân ly, tŕnh bày những giáo huấn truyền dạy trực tiếp vượt lên những biểu tượng, ngôn ngữ và niệm tưởng b́nh phàm tantra Đại Viên Măn của sự bí mật tối hậu, có tên là Giác Tánh Nội tại Tự-sinh.

“Thời đại ngày nay thiếu một sự may mắn cần thiết để tiếp xúc trực tiếp với những cấp độ này. V́ thế hăy liên tục biểu lộ ước nguyện thực hiện điều này vào một lúc nào đó. Đừng đề cập tới việc con đă đi tới cơi thuần tịnh này”.

Cơ sự đă như thế này, tôi đau khổ đến nỗi tim tôi tưởng chừng tan vỡ, buồn tủi đến độ tôi tưởng như ḿnh có thể mất trí, hoàn toàn lạc hướng khiến tôi không thể nhớ lại bất kỳ điều ǵ đă từng suy nghĩ vào thời gian đó; tri giác của tôi bị mê lầm và lạc lối. Nước mắt tuôn rơi như thể mắt tôi rơi ra ngoài.

Tôi tự nghĩ: “Mặc dù giờ đây tôi có thể hội kiến Đức Padmasambhava, tôi không vật cúng dường chính thức nào để dâng lên Ngài, không có vàng bạc, không lễ cúng dường mạn đà la, ngay cả một khăn quàng lụa cũng chẳng có”.

Ngay lập tức, Đức Tara ban cho tôi một dải ruy băng tinh khiết bằng lụa trắng rất dài lấy từ mũi tên có trang trí ruy băng của Ngài. Bởi quá nhiều hồ nghi, tôi nghĩ rằng hành động này sẽ làm mũi tên giảm giá trị, nhưng Đức Tara nói: “Nó không bao giờ bị suy giảm, v́ thế đừng quá keo kiệt”.

Ngài nói thêm: “Đây không phải là chỗ để bắt đầu kêu khóc. Hăy đi tới Đức Guru và thỉnh cầu Ngài bất kỳ điều ǵ con ước muốn. Bất luận Ngài ban cho con điều ǵ, dù là vàng, bạc hay ngọc quư, đừng mang chúng đi với con. Thay vào đó hăy cầu xin Ngài ban cho con một khăn quàng lụa màu xanh dương có điểm những h́nh ảnh của năm Hóa Thân.

Cũng hăy cầu xin để những mối liên hệ nghiệp của con với Ngài từ những đời trước được thức giấc, những hành động làm lợi lạc chúng sinh của con sẽ không có định kiến hay phân biệt, cầu xin cho con có năng lực để trực nhận ra chúng sinh trong cơi thấp và để đem lại hứng khởi cho họ trong việc trau dồi đức hạnh và cầu xin bất kỳ ước nguyện nào của con cũng được thành tựu”.

Rồi tôi nh́n thấy cung điện khác, làm bằng pha lê đỏ với hai cánh cung điển dính liền, giống như những tay áo màu san hô trên bộ quần áo. Không cần ch́a khóa để vào cung điện; thay vào đó là một chữ biểu tượng màu đỏ trên cử.

Một người đàn bà đứng nơi cửa, bà có mái tóc trắng và nước da trắng như một vỏ ốc xà cừ. Bà có hàm răng đầy và được gọi là Thiên nữ có Năng lực đối với Trường thọ. Bà ban cho tôi một nghi thức để thỉnh cầu trường thọ và cho tôi một miếng pha lê có sáu mặt.

Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng rơ ràng là tôi không nên nhận miếng pha lê, và v́ thế tôi đặt nó trên đỉnh một đĩa mạn đà la chất đầy gạo được sắp đặt theo kiểu mẫu làm ta nhớ lại những chủ đề Ấn Độ.

Đi xa nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rộng lớn mênh mông và cao sừng sững đến nỗi kích thước của nó vượt quá tiêu chuẩn xác đáng. Đỉnh mai có trang trí những viên ngọc. Ở bên trong, tôi nh́n thấy hàng trăm chiếc dù bằng lông công.

Những cờ chiến thắng bóng mượt, những tấm rèm treo tường bằng sa tanh, những màn trướng thêu kim tuyến, những cái móc và dây bằng ngọc trai, những dăy vật cúng dường không thể tưởng tượng nổi và những của cải của một buổi tiệc cúng dường vĩ đại chất cao như núi, đổ sụp xuống giống như những con đê vỡ nát và cuộn tṛn như một đại dương cam lồ.

Trong mạn đà la này, nó giống như những đám mây không ǵ sánh được gồm những vật cúng dường của Đức Phổ Hiền, là một của cải gồm những chất thể samaya linh thánh vượt xa của cải của những vị trời vĩ đại ở cơi trời Nirmanarati.

Những tia sáng phóng ra muôn phương không bờ mé từ một cái ngai khổng lồ mà kích thước khó có thể đo lường, cao hơn cả một ṭa nhà ba tầng. Mặt ngai có ba tấm nệm chồng lên nhau bọc lụa đủ màu, trang trí những hoa sen ngàn cánh.

Ngự trên ngai là tinh túy, suối nguồn của sự quy y và sự hợp nhất của tất cả các Đấng Chiến Thắng, vị thống lănh tràn đầy năng lực của tâm giác ngộ của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Sự hợp nhất trong một thân tướng duy nhất của ba phẩm tính trí tuệ, ḷng bi mẫn và năng lực của tất cả các Đấng Chiến Thắng khắp mười phương, bổn tôn được chọn lựa duy nhất của Xứ Tuyết, vương quốc Tây Tạng: Đức Guru xứ Orgyan, Padma T’hod T’hreng Tzal, chính là Đức Kim Cương Sanh-trong-Hồ bất tử.

Thân Ngài sắc trắng hơi pha đỏ. Ngài cầm một chày kim cương trong tay phải, tay trái cầm một b́nh trường thọ trong một chén sọ người đựng đầy chất cam lồ. Trong chỗ gập của khuỷu tay trái, Ngài mang chĩa ba bí mật kim cương.

Hai chân Ngài chéo nhau lơi lỏng trong tư thế du hí vương giả. Ngài mặc một áo choàng ngắn tay bằng lụa màu hạt dẻ như sa tanh, một hạ y bằng lụa đỏ, một đại y màu đỏ trang trí bằng chỉ vàng và một quần áo bên trong bằng lụa trắng của các vị trời. Trên đầu Ngài là vương miện hoa sen đem lại sự giải thoát nhờ cái thấy.

Khi cô gái này trông thấy mạn đà la hài ḥa viên măn của khuôn mặt Đức Orgyan vĩ đại, tôi mê mải ngắm nh́n Ngài. Mọi tri giác lờ mờ thường tục của tôi tự nhiên ngừng dứt và tôi kinh nghiệm một trạng thái không thể nghĩ bàn, không thể diễn tả được, giống như một người câm đang nếm đường mía[. Tôi an trụ một lát trong tâm thái này, vừa vui lại vừa buồn.

Ở bốn phương chính quanh Đức Orgyan vĩ đại là bốn dakini giác tánh nguyên sơ ban hỉ lạc, mặc áo choàng lụa nhiều màu, thân huyễn mộng của họ giống như những khối ánh sáng. Họ vung vẩy những mũi tên trường thọ và những b́nh trường thọ trong bốn phương khi hát bài ca tán thán.

Ở bên kia chiếc ngai, trên một ngai khác là bậc đạo sư tôn kính của ḷng bi mẫn, bậc Kim Cương Tŕ ba nhánh vĩ đại, bậc dẫn dắt siêu phàm Dechhen Dorje (cũng được biết là Drimed Khakyod Wangpo).

 Ngài là hiện thể đầy năng lực gần đây nhất của một loạt những hóa thân linh thánh trải qua nhiều đời, gồm cả Srongtzan Gampo (thân tướng mà Đức Avalokiteshvara đă hóa hiện làm một vị vua tâm linh để che chở miền bắc Tây Tạng, Xứ Tuyết), cũng như Nub Namnying và Dagpo Daod.

Thân tướng của Dechhen Dorje th́ c̣n gây xúc động hơn trước đây, rực rỡ với “cờ chiến thắng” là những chiếc y nhà sư màu nghệ. Ngài đội chiếc nón của học giả, nhọn đầu với những miếng vải che tai dài, cầm một cái trống tay và một cái chuông. T

rong bốn hướng chính quanh Ngài, tôi thấy bốn dakini màu trắng cầm những mũi tên có đính những dải ruy băng lụa xanh dương. Trước mặt Ngài là một dakini màu xanh dương sậm có vẻ biểu hiện phẫn nộ, đeo một khăn choàng lụa nhiều màu và cầm một mũi tên có dải ruy băng lụa màu xanh dương.

Trên một chiếc ngai, bên trái ngai là bậc siêu vượt mọi hoạt động, đạo sư chứng ngộ Jigmed Pawo (cũng được biết là Dza Konchhog) là một tái sanh của Lhatsun Namkha Jigmed và là trưởng tử tâm huyết của Dzaga Chhogtrul Ringpoche. Ngài có nước da hơi xanh sậm, mặc một áo choàng lụa buông dài, đội một chiếc nón học giả, trong tay một cái b́nh.

Ngài là một vị vua trong số những bậc lăo luyện thành tựu, là bậc trong đời đă đạt tới sự chứng ngộ tột bực của bốn cái thấy về con đường bí mật hợp nhất sự thuần tịnh nguyên thủy và sự hiện diện tự nhiên, và là bậc tâm đă ngập ch́m trong trạng thái nơi những hiện tượng thường tục biến mất trong chân tánh của thực tại. Trong bốn phương chính quanh Ngài là bốn dakini đỏ mặc áo choàng đỏ và trước mặt Ngài là dakini khác.

Tôi cũng nh́n thấy một tập hội khoảng mười ngàn daka, những bậc tŕ giữ giác tánh nội tại, đội nón lông công. Không gian quanh họ tràn đầy hằng hà sa số hàng tỉ thiên nữ đang cúng dường từ nước uống, nước tắm cho tới hoa và thực phẩm.

Vài vị trong số đó cầm chày kim cương và chuông, một số cầm trống tay nhỏ, một số cầm xập xơa, một số cầm chiêng, một số cầm các vỏ ốc xà cừ và một số (ở bốn hướng chính) cầm các kèn trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây. Những chiếc kèn ở phương tây được làm bằng san hô và được hai dakini mặc áo choàng cam thổi.

Tôi được kể lại rằng họ đă thực hiện chứng năng đặc biệt là kéo chúng sinh tới con đường Kim Cương thừa. Những chiếc kèn trum pét xương đùi hoàn toàn được làm bằng xương đùi của con người, chứ không bằng đồng đỏ hay đồng thau.

Khoảng một trăm tù và bằng cây sậy cũng vang lên. Có khoảng một trăm người giữ lăng mộ trong những áo choàng vàng, vai trái của họ quấn một miếng lụa đủ màu truyền thống.

Tôi hỏi một trong những dakini: “Tập hội nghi lễ được thực hành cái ǵ ở đây?”

Bà trả lời: “Chúng tôi đang cử hành nghi thức và lễ cúng dường Tám Mệnh lệnh, sự Tập Hội của các Đấng đă Đạt tới Đại Lạc, nó là tinh yếu của giáo lư trong thời kỳ ban đầu của trường phái dịch thuật”.

Lúc này, nhiều thành viên của tập hội đứng lên. Cảm thấy bối rối và sợ hăi, tôi cũng đứng lên và lễ lạy liên tục. Tiến lại gần, tôi đặt bàn chân Đức Guru toàn trí vĩ đại lên đỉnh đầu. Tôi cúng dường Ngài một mạn đà la có h́nh dạng kim loại và đá quư và một khúc lụa trắng trinh nguyên. Sau đó Đức Orgyen vĩ đại đặt bàn tay lên đầu tôi, đọc Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng.

Chú tôi, Khakyod Wangpo bắt đầu: “Với năng lực đối với sự trường thọ, cuộc đời con sẽ vô hạn…” và, trong khi vung vẩy một mũi tên trường thọ ông tụng một nghi lễ triệu thỉnh những năng lực trường thọ.

Về phần ḿnh, Dza Konchhog hát:

Tri giác của giác tánh nguyên sơ th́ trong trẻo sống động.

Ngọn đèn cho sinh linh là ngọn đuốc của giác tánh nguyên sơ.

Lộng lẫy và tráng lệ tột bậc, chói ngời rực rỡ.

là bậc đạo sư tŕ giữ thần chú, vị vua của các thần chú của giác tánh.

A P’hat A P’hat A P’hat.

Tôi vẫn quỳ trên nệm bằng lụa trắng, kêu khóc không thôi. Những giọt nước mắt rơi xuống tụ lại giống như nước trên nền pha lê. Sau cùng, bởi tràn ngập đau buồn, tôi kêu lên: “Ôi chú tôn quư, chú đă bỏ rơi chúng sinh, nhất là lũ chúng con là những đệ tử và thị giả và là đối tượng của ḷng thương yêu của chú.

Trong khi chú đă đi tới một cơi thuần tịnh không để lại một dấu vết, th́ đứa cháu gái này cảm thấy c̣n đau đớn hơn là trái tim nó bị xé tung ra. Những đệ tử và thị giả khác của chú cũng cảm xúc như thế.

Chú ơi, con khẩn cầu chú từ đáy ḷng con. Chú chỉ phải quay trở lại thế giới loài người v́ lợi lạc của chúng sinh. Cho tới khi hiện thân giác ngộ của chú xuất hiện trở lại, đứa con gái này sẽ không đi đâu hết. Con tới đây với ư hướng chín chắn.

Con đă tới, con gặp được chú; và gặp chú rồi, con đưa ra lời thỉnh cầu. Xin hăy làm cho tất cả những ǵ con yêu cầu chú trở nên có ư nghĩa, con van xin chú!” Và tôi lại bắt đầu khóc, đôi mắt tôi đẫm lệ.

Drimed Khakyod Wangpo biểu lộ ḷng thương yêu của Ngài bằng cách trả lời: “Dadrol cháu ta, những ǵ con nói th́ hoàn toàn chân thực, tuy thế con không nên buồn rầu. Giữa ta và Đạo sư Orgyen vĩ đại không có chút khác biệt nào. Mặc dù những danh xưng theo quy ước ‘sinh’ và ‘chết’, đối với ta, trong ư nghĩa tối hậu, không có chút ư niệm nào về sinh hay tử.

“Mọi chúng sinh hữu t́nh đă từng có bất kỳ mối liện nào dù tích cực hay tiêu cực với ta, lăo già Dechhen Dorje này, đă được đưa dẫn tới núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, cơi thuần tịnh của các Đấng Chiến Thắng của ba thân, giống như một đàn chim bị giật ḿnh bởi một viên sỏi bắn ra từ một súng cao su.

Ngay cả bây giờ, ta ban cho con một lời hứa trang nghiêm rằng những đệ tử hay thị giả nào có thể cầu xin ta sẽ đồng thời trở thành những vị Phật”.

“Con là kẻ đau khổ v́ lời giải thích của ta, hăy thận trọng trong sự sùng mộ của con, hăy nh́n đạo sư như Pháp Thân của Phật Quả. Hăy chú tâm tới ḷng bi mẫn của con, hăy thấu hiểu rằng sáu loài chúng sinh là những cha mẹ của con.

Hăy thận trọng trong việc thực hành đức hạnh, đừng làm mờ tối bất kỳ điều ǵ con làm với những lợi lạc vị kỷ. Hăy thận trọng trong việc tŕ tụng các thần chú và những thực hành thiền định, đừng rơi vào tám ảnh hưởng thế tục, hăy thấu suốt duy nhất thần chú mani sáu-âm để làm đầy đủ thực hành của con.

Hăy thận trọng trong thực hành chính thức của con, hăy gộp chung mọi sự trong tâm chân thật của riêng con. Chớ phạm sai lầm! Chớ phạm sai lầm!”.

“Ngay khi con rời bỏ thân người này, ta sẽ dẫn tất cả các con tới cơi thuần tịnh này như một con ngỗng dẫn dắt đàn ngỗng con của nó. Hăy đơn giản nhận ra rằng không phải ta dẫn dắt, mà chính là Tam Bảo!

Khi con trở lại cơi người, hăy thuật lại tất cả những thông điệp này cho Tromge Kundun, cho những người chủ gia đ́nh trong vùng và cho các đệ tử thân thiết của ta. Hăy thực hiện điều ta nói, bởi ngay cả nếu họ có trực tiếp gặp ta, ta cũng không có ǵ hơn để nói với họ”.

Khi nói những lời này, Ngài ban cho tôi một phần hậu hĩnh thức ăn và nước uống của tiệc cúng dường. Tôi quỳ lạy ba lần nữa rồi từ giả Ngài.

Trong một lâu đài bằng pha lê với tám con rồng lam ngọc cầm những hạt ngọc trong móng vuốt của chúng và cặp đôi trong tám phương chính và phụ, tôi t́m thấy một cái giường dễ thương với những chiếc gối và gối ôm, và nằm xuống đó. Một dakini làm thị giả phục vụ tôi. Tôi có cảm tưởng là ḿnh đă ngủ một lúc, khi tôi được đánh thức bởi tiếng kêu của một chim công có màu xanh xanh: “A a u u e o a m!”

Tôi lập tức quay trở lại với Đức Guru linh thánh và được hội kiến Ngài như trước đó. Tôi thực hiện nhiều lễ lạy và cúng dường. Trước sự hiện diện của người chú linh thánh, tôi lại khóc. “Chú ơi, không phải chú chỉ bỏ chúng con, mà giờ đây chú c̣n bỏ lại phía sau cả Tromge Chhogtrul Rinpoche là nơi nương tựa duy nhất cho những người tràn đầy hy vọng.

Nếu công đức cho phép chúng con nương cậy Ngài đă cạn kiệt, th́ nỗi khổ của chúng con sẽ to lớn hơn nỗi khổ của một người mù thiếu sự dẫn dắt và ngă nhào nơi vách núi. Có thể làm được ǵ để bảo đảm rằng sẽ không có chướng ngại nào cho cuộc đời Rinpoche, để Ngài có thể hoàn toàn thực hiện được sứ mạng của Ngài là làm lợi ích chúng sinh và làm thỏa măn quyến thuộc và các đệ tử của Ngài?”

Chú Khakyod Wangpo có vẻ quan tâm: “Điều đó chắc chắn là một vấn đề có giá trị”, Ngài nói: “Tromge Chhogtrul sẽ sống mười một năm nữa. Nhưng bởi Ngài có thể đau đớn bởi vài bệnh tật nhẹ trước thời gian đó, nên nếu cử hành một nghi thức để mời gọi lại sự bảo hộ của các dakini tương ứng với số tuổi của Ngài, và cúng dường một h́nh nộm của Ngài theo hướng mặt trời mọc th́ sẽ có ích lợi. Sau đó chắc chắn Ngài sẽ sống thọ như thế”.

Tôi hỏi: “Khi nào Ngài quay trở lại?”

Ngài trả lời: “Hiện tại ta sẽ đi cơi thuần tịnh gọi là Mộ Địa Núi lửa Đang Phun để dạy Giọt Tâm Yếu của Chetzun cho những người tụ hội ở đó. Mặc dù rất có thể người ta nghe nói về cách thức mà hóa thân của ta sẽ được sanh ra sau đó, chớ ghi lại những điều này, bởi chúng cần một sự niêm phong bí mật.

C̣n bây giờ con gái ta sẽ nguy hiểm cho con khi ở lại cơi giới này và con không nên tới đây một lần nữa. Hăy quay về cơi người và làm lợi lạc các sinh loài. Trong ṿng ba năm tới, ta sẽ tái sanh ở đó một lần nữa”.

Mặc dù rất đau đớn khi phải chia ly với nơi nương tựa của tôi, tôi chuẩn bị để quay trở về. Tôi hát lớn ba lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng và cầu nguyện tha thiết nhiều lần với Đức Padmasambhava, với chú tôi và với Tam Bảo. Như một dấu hiệu là tôi đă viếng thăm núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, tôi được ban pháp danh là Khadro Sherab Chhodron (Dakini Bậc là Ngọn Đèn Trí huệ Tâm linh).

Nhiều hiện thể tập họp ở đó tấu nhạc và các dakini làm những người hộ tống cho tôi. Thân tôi bị để ư và tâm tôi th́ tràn đầy sự vướng mắc, nhưng không có ǵ để làm. Nước mắt tôi rơi như mưa trong khi thiết tha cầu nguyện thật nhiều.

Rồi chúng tôi tiến lên phía trước. Dakini Tsewang Barma lại gặp tôi lần nữa. Bà ban cho tôi bảy viên cam lồ và một hộp châu báu h́nh khối vuông của dakini làm bằng pha lê thạch anh. Bởi tôi không mang chúng theo ḿnh, bà đọc một bài cầu nguyện rất hay cho tôi:

Cầu mong giáo lư của chư Phật được truyền bá.

Cầu mong cuộc đời các đạo sư được vững chắc.

Cầu mong đại lạc và hạnh phúc đếnvới các sinh loài.

Cầu mong tất cả đạt được Phật Quả giác ngộ.

Tôi cũng gặp dakini Laykyi Wangmochhe một lần nữa. Bà ban cho tôi lụa trắng, gạo, những bó nhang và những thức khác và tôi ở với bà một lát, Bà nói:

Cầu mong đại lạc và hạnh phúc đến với cô gái này.

Cầu mong không có chướng ngại cho cô gái này.

Cầu mong sự che chở và nương tựa cho cô gái này.

Cầu mong cô gái này có thể làm lợi lạc các sinh loài.

Sau đó tôi gặp vị phối ngẫu linh thánh Mandarava một lần nữa. Một người đàn bà với vẻ mặt phẫn nộ rót một chất cam lồ trong giống như nước than từ b́nh bát của bà và đưa cho tôi. Đức Mandarava nói:

Cầu mong chúng sinh được phú tặng sự hạnh phúc.

Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ.

Cầu mong họ không bao giờ xa rời hạnh phúc.

Cầu mong họ chứng ngộ tánh b́nh đẳng của mọi hiện tượng.

Kế đó tôi gặp rapa Namkha Odsal, Ngài nói:

Bồ Đề tâm quư báu:

Nơi đâu nó không phát khởi, cầu mong nó phát khởi.

Nơi đâu nó đă phát khởi, cầu mong nó không bao giờ suy giảm.

Mà tăng trưởng thêm, thêm nữa!

Om mani padme hum.

Sau đó tôi gặp dakini Yeshe Tsogyal. Bà cho tôi một chất lỏng màu hơi trắng giống như nhựa cây. Mặc dù Bà hát một bài ca nối kết với thần chú bao gồm danh hiệu của Đức Padmasambhava, nhưng tôi không viết ra đây. Bà cho tôi bài cầu nguyện tha thiết sau:

Cho cô gái Dawa drolma này,

trong thế giới phàm tục của cơi người,

trong lănh vực của thị kiến bao gồm trong đôi mắt cô ta,

khi c̣n trong thân xác hữu h́nh:

Ở phương đông khi cô ta nh́n về phương đông,

cầu mong cô nh́n thấy một người gác cổng pha lê.

Khi cô nh́n về phương nam, hăy nh́n về phương nam,

cầu mong cô thấy một người gác cổng bằng vàng.

Khi cô nh́n về phương tây, hăy nh́n về phương tây,

cầu mong cô nh́n thấy một người gác cổng bằng san hô.

Khi cô nh́n về phương bắc, hăy nh́n về phương bắc,

cầu mong cô thấy một người gác cổng màu lam ngọc.

Khi cô ta hát một bài ca thần chú Kim Cương Đạo sư

cầu mong cô thấy Đức Padma Jungnay.

Khi tiệc cúng dường được cử hành ở đây

cầu mong cô gái tới viếng cơi giới này.

Cầu mong cô đưa dẫn những chúng sinh này, những kẻ có liên hệ với cô, trong phạm vi vật lư hay ngôn ngữ.

tới lục địa Chamara.

Bà bảo tôi: “Hăy tới đây vào những ngày âm lịch khi những kết quả của những hành động của chúng ta được nhân lên một trăm ngàn lần: những ngày mồng mười, mười lăm và những ngày mười lăm và mồng một”.

Bà nói thêm: “Hăy khởi hành ngày hôm nay và đừng khóc lóc”, nhưng khi Bà đi với tôi một trăm bước, Bà đă để mặc nước mắt tuôn rơi. Bà nhấn mạnh: “Trừ một quăng ngắn ta đă đi hôm nay, nhưng thực ra ta chưa bao giờ đi đâu hết”. Sau khi đi thêm 110 bước nữa, tôi nh́n lại Bà. Tôi đă quá quyến luyến, nhưng Bà gọi to: “Đừng buồn v́ điều này”.

Đi xa hơn nữa, tôi lại tới trú xứ của dakini Wangmo. Một trong những người gác cổng dẫn tôi tới gặp bà. Do bởi mối liên hệ chặt chẽ của chúng tôi, tôi khóc ̣a lên v́ sợ rằng chúng tôi sẽ phải chia ly và chính vị dakini cũng nhỏ ít ḍng lệ. Bà cho tôi một nhúm hạt.

Bà nói: “Ta không được tự do di hộ tống con, nhưng ta có một thông điệp cho con mang về. Không có lỗi lầm ǵ trong việc con kiên quyết cắt đứt những ràng buộc của con với cơi người và đi tới đây. Nếu con thấy ḿnh không thể thoát khỏi miệng một con cá sấu dữ tợn hay một con rắn độc hiểm , hăy ném hạt này và nói: “Hạt này ném ra từ tay dakini Wangmo”.

Tiếp tục đi xuống, tôi được gặp và hộ tống bởi tám dakini, gồm cả Yul-lha, vị dakini ở vùng Derge đă nói ở trên. Khi chúng tôi thảo luận về sự tường thuật của tôi về cơi thuần tịnh, tôi cứ khóc măi. “Bây giờ hăy nghỉ qua đêm” bà nói.

“Nếu ta có thể ban cho con một quán đảnh về ba bổn tôn-Amitayus, Samyak và Vajrakilaya th́ con, ôi dakini, đối với các tulku đặc biệt, các lạt ma, thiện tri thức và những terton hóa thân linh thánh đang ở trong cơi người b́nh phàm, con sẽ trở thành một dakini cao quư, bậc sẽ xua tan chướng ngại cho những cuộc đời trường thọ của các ngài”.

Nhưng tôi không có thời gian để nhận lănh quán đảnh này. Khi tôi tiếp tục, Đức Tara Trắng cảnh báo tôi chớ nói bất kỳ điều ǵ về các điềm xấu. Tôi lại tới hội kiến Đức Jamyang Khyentsei Wangpo.

Với vẻ khoan thai từ tốn, dường như Ngài vui hơn lần trước và hơi mỉm cười. Ngài chắp tay hướng về phía tôi và Đức Tara Trắng nói những lời như sau:

Dù Ngài có chắp tay hay không,

dù Ngài có tin hay không,

tái sanh này của Đức Tara Trắng tôn quư

sắp đi tới cơi người b́nh phàm.

Đi xuống nữa, vị nhiếp chính Jampa Migyur gởi một đội hộ tống gồm năm dakini tới gặp tôi. Để xua tan nỗi sợ của tôi đối với những cư dân ở trong địa ngục, Ngài ban cho tôi một sợi dây ban phước có một chày kim cương được khắc từ một miếng đá phiến và một cái nơ có h́nh dạng một con ḅ cạp khắc trên đá.

 Ngài tụng những lời ước nguyện chẳng hạn như bài bắt đầu bằng “Bồ Đề tâm quư báu…”

Khi tôi tiếp tục, Đức Tara Trắng nói: “Con đă không mang theo người hộp châu báu của dakini bằng pha lê mà hai chúng ta định đem về, v́ thế có ư nghĩa ǵ khi mang chiếc nơ đá này, là thứ không cần thiết?” và v́ thế tôi bỏ rơi nó trên mặt đất.

Rồi ở chỗ khuất gió của một mặt tảng đá, tôi nh́n thấy một cơi thuần tịnh sinhh ra từ đại nguyện, một cung điện rộng lớn bằng pha lê. Trên cổng phía đông là một cái khóa bằng pha lê có kích thước khoảng chiều dài tay áo tôi.

Bên phải và trái trên chiếc cổng là hai h́nh ảnh của Đức Phật Amitayus. Giữa hai tấm h́nh tôi nh́n thấy thần chú mani sáu-âm được viết trong ba loại chữ, chữ này trên chữ kia: Tây Tạng, Lantza và Wardhu.

Ở đó vị dakini Yul-lha (là vị tôi đă gặp trước kia) và tôi gặp một cô gái thuộc gia đ́nh Gya Chhagla tên là Adam. Cô ta và Yul-lha hết sức mừng rỡ, hôn và ôm nhau quanh cổ như những người trong thế giới phàm tục.

Trên một chiếc ngai cao trong cung điện là một lạt ma cao tuổi có bộ râu trắng. Ngồi nép một bên trên một cái ngai trước Ngài là Ashey Drolma, chị của cha tôi (Tromge Jigmed T’hrogyal).

Một người đàn bà với mái tóc cột túm lên trong một chiếc khăn xếp đang đặt nhiều câu hỏi cho cả hai vị về những vấn đề liên quan tới giáo lư đạo Phật. Có khoảng hai mươi ngàn người đàn bà khác ở đó, cả nữ cư sĩ lẫn ni cô; tất cả đều cầm những chiếc đèn bơ bằng kim loại và hát tụng những lời ước nguyện.

Khi tôi tiến lại gần hơn, Ashey Drolma nói: “Hăy mang thông điệp sau đây tới cho Jigmed T’hrogyal: ‘chị đă tái sanh trong cơi giới của đại nguyện này. Cha mẹ chúng ta đều đă tái sanh tại Zangri Kharmar[, nơi họ đang làm lợi ích cho chúng sinh như những hành giả Kim Cương thừa đầy năng lực.

Tên của em khi em c̣n nhỏ là Yudra Nyingpo; tên mà em được gọi bây giờ th́ không rơ ràng đối với chị, nhưng em đă mắc phạm những hành động đức hạnh lẫn ác hạnh trong đời này.

Trong khi không khó để thực hiện một sự pha trộn như thế gồm những hành động như một con người phàm tục trong ṿng luân hồi, điều quan trọng là em đă có được sự sinh ra làm người ít nhất là một lần. Đă tới lúc để chứng ngộ tiềm năng của đời người này, v́ thế hăy tŕ tụng thần chú sáu-âm và đừng quên thỉnh thoảng nhập thất.

Khi ấy, không c̣n nghi ngờ ǵ là em sẽ được tái sanh trên núi Huy Hoàng ở tiểu lục địa Charmara ngay tức khắc khi từ giă cuộc đời này”’.

Tôi cũng tụng những lời ước nguyện nhiệt thành.

Như thế, đây là linh kiến vắn tắt của tôi về núi Huy Hoàng. Tôi, một đứa con gái khiêm tốn của bộ tộc của Đạo sư Tromge, có tên là Dawa Drolma đă chết trong năm ngày và đă kinh nghiệm những linh kiến về núi Huy Hoàng, núi Potala và những cơi giới khác.

Những tường thuật này không được thêm thắt bằng những ngôn từ bác học, không được tô điểm bởi văn thuật của thi ca kinh điển mà cũng chẳng có những vần điệu du dương thích hợp. Nhưng tôi cũng không làm cho những ngôn từ huyền diệu của các dakini trở nên khó hiểu.

Đây là những câu chuyện dông dài, không đầu không đuôi khùng điên của chính cô gái này, được hóa thân Nyag Trulpa ghi chép ngay khi tôi thuật lại chúng trên đỉnh Đèo Mani Tashi trong vùng T’hrom.

 Tôi xin sám hối với tập hội chư vị dakini và Hộ Pháp bất kỳ lỗi lầm nào bao hàm trong những câu chuyện đó và cầu mong công đức này khiến cho những ai nghe tới ngay cả danh hiệu của tôi và những ai nhiệt thành quan tâm tới những kinh nghiệm thuần tịnh linh kiến này được tái sanh trong núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara.

May mắn, may mắn, may mắn!

Sarva mangalam cầu mong mọi sự tốt lành.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 823 of 2534: Đă gửi: 25 September 2008 lúc 6:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 

HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI

BÊN KIA CÁI CHẾT

 

2- NHỮNG QUÁN CHIẾU TRONG TẤM GƯƠNG PHA LÊ SÁU CƠI BẤT TỊNH

Xin đảnh lễ Đức Avalokiteshvara, đấng cao quư của thế giới

Ngàn cánh tay của Ngài là ngàn đại đế;

ngàn con mắt Ngài là ngàn vị Phật của thời đại may mắn này.

Ngài xuất hiện trong bất kỳ phương cách nào cần thiết để thuần hóa chúng sinh.

Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara cao quư và siêu phàm.

Con đảnh lễ Ngài, đấng che chở chúng con thoát khỏi tám nỗi sợ hăi.

Con đảnh lễ Ngài, đấng dẫn dắt chúng con trên con đường tới các cơi cao hơn.

Con đảnh lễ Ngài, đấng đưa dẫn chúng con tới sự giải thoát.

Con đảnh lễ Đức Tara, với Ngài mọi mối liên hệ đều có ư nghĩa.

Sắc thân vinh quang của các Ngài hợp nhất tất cả chư Phật.

Các Ngài là tinh túy đích thực của Đức Kim Cương Tŕ.

Các Ngài là cội gốc của Tam Bảo.

Con đảnh lễ các bậc đạo sư.

Bằng sự kính lễ, cúng dường, sám hối,

hoan hỉ trước công đức của người khác, khuyến thỉnh các bậc thầy giảng dạy và khẩn cầu chư Phật hiển lộ trong thế giới,

bất kỳ đức hạnh nhỏ bé nào con có thể tích tập

con hồi hướng cho sự giác ngộ siêu việt vô song.

Giờ đây Kundun Rinpoche, bậc có linh kiến về Phật Pháp,

hai tulku cực kỳ quư báu,

những bậc cha mẹ tốt lành đă sanh ra tôi, và những người khác

đă liên tục thúc giục tôi, cho tới khi tôi không thể phớt lờ họ,

và v́ thế tôi viết ra những điều chỉ là một giọt nước trong đại dương.

Tôi, cô gái khiêm tốn này là Dawa Drolma,

đă phát khởi động lực thanh tịnh và đi vào cửa Pháp,

Tôi đă từ bỏ cách hành xử xấu xa và những hành vi ác hại, vô đạo đức.

Tôi đă cúng dường Tam Bảo càng nhiều càng tốt

và bố thí cho hành khất bất kỳ thứ ǵ tôi có thể.

Tôi đă làm bất kỳ tinh tấn nào để thực hành đức hạnh.

Khi đă vứt bỏ những thái độ xấu, tôi chỉ nỗ lực trong những cách thế bi mẫn.

Một số người nói: “Đây là một sự tái sanh may mắn”,

và tự đặt ḿnh vào hàng ngũ những đệ tử trung thành và sùng mộ của tôi.

Những người khác nói: “Cô ta không phải là một vị trời cũng chẳng phải là một quỷ ma”.

Dù họ giải thích cho tôi, nhưng khó coi những ǵ họ nói là sự thật.

Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi là một cô gái ít ham muốn và nhu cầu.

Tôi không có những hy vọng được nổi tiếng.

Tôi không có sức mạnh để mang vác gánh nặng của một nữ anh hùng đang t́m kiếm một địa vị cao ngất.

Tôi không khao khát của cải hay kiếm t́m để có được ngay cả một sợi chỉ.

Tôi không ước muốn thuyết giảng, và thiếu hẳn một cái miệng lanh lợi và cái lưỡi dí dỏm.

Tuy nhiên, với tâm hoàn toàn thanh tịnh và vị tha

tôi có cảm tưởng rằng ḿnh có thể ảnh hưởng tâm thức của một ít chúng sinh,

và v́ thế tôi sẽ bày lộ một con đường cao quư, không thể sai lầm và thẳng tắp.

Nếu các bạn coi nó như cái ǵ chân thật, th́ đó sẽ là sự tốt lành vĩ đại nhất mà các bạn có thể làm cho chính ḿnh.

Bởi bằng những chọn lựa đạo đức, các bạn bảo đảm hạnh phúc của riêng ḿnh.

V́ thế, hăy chú tâm lắng nghe những lời này của tôi!

Đây là câu chuyện của tôi về sự chết và hành tŕnh đi tới địa ngục.

Các đạo sư tôn kính ở địa vị cao,

những nhà cai trị với quyền lực và ảnh hưởng vĩ đại, an tọa trên những chiếc ngai của họ,

và những nhà bảo trợ giàu có, là những người tạo nên hạnh phúc và kho lẫm của cải vật chất –

khi họ chết và đi tới các cơi địa ngục,

không có vô số nhà sư tề tựu trong sự lộng lẫy, tráng lệ,

không có những cuộc duyệt binh với kiếm đao và các loại vũ khí,

không có những kho thực phẩm hay của cải để thực hiện những cuộc hối lộ bí mật.

Địa vị cao ngất, sức mạnh và quyền lực tàn nhẫn,

của cải của người giàu, những thân xác yêu kiều đẹp đẽ,

sự hóm hĩnh tinh ranh và những lư lẽ thông minh

không thể làm khuây khỏa hay lừa gạt Thần Chết.

Có ai trong cơi người này sống măi mà không chết?

Có ai không phải chia ly gia đ́nh và bằng hữu?

Có sự thâu đạt của bất kỳ ai mà không bị bỏ lại đằng sau?

Có ai không rơi ngă từ một đỉnh cao tột vời?

Thật tốt cho tất cả các bạn nếu có những người như thế!

Mặc dù chúng ta nói về địa ngục như nơi nào xa xôi lắm, nhưng không phải thế.

Mặc dù chúng ta nói về bardo như nơi nào khác để đi, nhưng không phải thế.

Cái chết lảng vảng bên ḿnh như cái bóng của ta đi theo thân xác.

Nếu các bạn tỉnh giác về cái chết không thể tránh, các bạn là những người thông minh nhất trong tất cả.

Khi giờ chết đă tới, những bậc cha mẹ và con cái,

vợ chồng, thân quyến và bạn bè, của cải và tài sản đều như nhau

họ có hiến tặng cho các bạn lợi ích hay nơi nương tựa nhỏ bé nhất? Hăy nh́n và thấy đấy!

Họ điều làm ác độc to lớn nhất là gởi các bạn tới các cơi thấp.

Như thế, điều ǵ là lợi lạc? Chính là Tam Bảo không thể sai lầm.

Nếu các bạn duy tŕ một tâm thức cao quư, đức hạnh và tŕ tụng thần chú mani sáu-âm,

các bạn sẽ không đi vào con đường dẫn tới những tái sanh ở các cơi thấp trong ṿng luân hồi,

mà đạt tới trạng thái toàn giác không ǵ sánh.

Om mani padme hum hri.

Xin đừng thất bại trong việc ban cho chúng con sự nương tựa, Ôi các bậc đạo sư và Tam Bảo.

Xin đừng ẩn dấu ḷng bi mẫn của Ngài, hỡi Đức Avalokiteshvara cao quư.

Xin làm những đấng bảo trợ nương tựa cho chúng con, hỡi các thiên nữ trắng và xanh.

Xin chỉ cho chúng con con đường đi tới giải thoát, Ôi các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài.

Om mani padme hum hri.

Trong bầu trời trống rộng và mặt đất trống không của trạng thái bardo giữa cái chết và sự tái sanh,

ta không có cả cha lẫn mẹ để quay về nương cậy.

Trong chốn thê lương, xa lạ này,

chúng sinh phàm tục lang thang, tan nát trong tâm tưởng.

Om mani padme hum hri.

Giờ đây tôi sẽ nói về những kinh nghiệm linh kiến của tôi. Trong khi tôi, cô gái Dawa Drolma, đang vượt qua một hẻm núi xa lạ và khủng khiếp th́ gặp Sherab Dronma, con gái của gia đ́nh ông Raga Shag, một trong những bộ trưởng của chính phủ Lhasa.

Bởi bà là một hóa thân của Đức bổn tôn Vajravarahi nên tất cả những ai có quan hệ với bà qua việc chia sẻ hoặc thọ nhận những của cải hay thực phẩm từ bà sẽ được dẫn dắt tới cơi thuần tịnh ở tiểu lục địa Chamara.

V́ thế, bà xuất hiện trong các cơi thấp của sự tái sanh và đă đưa dẫn khoảng một trăm triệu chúng sinh theo bà thoát ra ngoài. Khi tôi gặp bà, bà đang tụng hát thần chú mani với một âm điệu cực kỳ du dương, khơi dậy ḷng tin đến nỗi những giọt lệ tuôn chảy trên đôi mắt tất cả những người hiện diện.

Thiên nữ cao quư Tara Trắng (vị bổn tôn mà với Ngài tôi đă có mối liên hệ nghiệp riêng và Ngài đă dẫn dắt tôi trong nhiều đời) và Sherab Dronma đều hiển lộ trong những h́nh tướng có vẻ b́nh thường. Các vị cư xử với nhau thật đằm thắm, giống như sự gặp gỡ giữa mẹ và con. Hơn nữa, Sherab Dronma c̣n xử sự với tôi trong cung cách có vẻ sùng mộ và tôn kính. Sau đó bà hát bài ca này:

Om mani padme hum hri.

Có năm con đường: trắng, đỏ, xanh dương, xanh lá cây và vàng.

Con, con gái, hăy biết rơ con đường nào để đi.

Đức Tara Trắng, xin dẫn dắt cô gái trên con đường đó!

Con đường màu trắng đi về phương tây dẫn tới Cơi Cực Lạc,

cơi thuần tịnh của Đức Phật Amitabha.

Con đường màu đỏ dẫn tới Chamara,

cơi thuần tịnh của Đức Padmasambhava.

Con đường màu xanh dương dẫn tới Núi Potala,

cơi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara cao quư.

Con đường màu xanh lá cây dẫn tới Yulokod,

cơi thuần tịnh của Đức Tara cao quư, tôn kính.

Con đường màu vàng dẫn tới Cơi Hoa thượng,

cơi thuần tịnh của vị nhiếp chính Jampa Gonpo.

Nếu con không thể quyết định theo con đường nào,

th́ thật ít ư nghĩa trong việc lang thang trong bardo sau cái chết.

Con, Dawa Drolma, hăy biết rơ nơi phải đi.

Cầu mong con đến được cơi mà con t́m kiếm.

Ta là một hóa thân của Vajravarahi.

Không có những tái sanh trong trạng thái thấp đối với những ai có liên hệ với ta qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.

Từ núi Huy Hoàng trong tiểu lục địa Chamara,

hăy đi tới thế giới của cơi người.

Cầu mong con được ban cho những sự ban phước để thực hiện con đường giải thoát.

Bà tiếp tục: “Con gái, con cần phải trở về cơi người. Nhưng chỉ mới mười sáu tuổi, năng lực tinh thần của con chưa phát triển đầy đủ, và khi đă tái sanh làm một người đàn bà, con sẽ có một chút uy quyền.

Bởi chúng sinh trong những thời đại suy hoại này sẽ khó tin rằng những tường thuật của con là chân thật, sự lợi lạc mà con có thể đem lại cho họ sẽ bị suy giảm”. Nước mắt bà rơi lă chă bởi ḷng trắc ẩn đối với tôi. Đức Tara Trắng, bậc đang dẫn dắt tôi trên con đường, có vẻ hơi phật ḷng v́ những lời này. Ngài trả lời:

Những cô gái thế tục b́nh thường và cô gái này th́ không giống nhau,

bởi cô ấy là một hóa thân của Tara Trắng.

Cô ấy là một cô gái có tâm hồn đức hạnh.

Cô ấy là cô gái có ḷng bi mẫn.

Cô ấy là một nữ anh hùng có tâm hồn can đảm.

Cô ấy là một dakini được chứng nhận trong tiên tri.

Cô ấy là cháu gái của bốn đạo sư.

Ngài Khakyod Wangpo bất nhiễm đă khởi hành tới Chamara trong một thời gian ngắn;

cô gái này đi tới cơi đó hy vọng gặp lại Ngài.

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với cha cô;

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với mẹ cô;

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với những vật sở hữu, thực phẩm hay tài sản;

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với bằng hữu hay các người phục vụ.

Không thể phân ly với bậc thống lĩnh Manjughosha,

bậc thống lĩnh bảo trợ, hóa thân hoạt động của một ngàn vị Phật,

là bậc thống lĩnh nương tựa, Đức Sakya Sodnam Tzemo vĩ đại.

Hóa thân của Ngài trong thân tướng của một thiện tri thức,

đạo sư Tromge Chhogtrul, nhập thể tuyệt hảo,

nỗ lực liên tục tŕ hoăn cô, Ngài nói: “Đừng đi!”

nhưng cô ấy không nghe và đi tới nơi này.

Cô ấy cũng gặp những cơi linh kiến thanh tịnh không thể suy lường.

Nếu cô ấy trở về thế giới con người,

cô có thể kể về những chọn lựa đạo đức trong việc chấp nhận những hành vi đức hạnh và từ bỏ những ác hạnh.

Cô ấy có thể chuyển tâm của chúng sanh.

Cô ấy có thể thành tựu vô số lợi ích cho họ.

Cô có thể nói về những linh kiến của cô trong những cơi này.

Cô có thể viếng thăm cơi giới này một lần nữa.

V́ thế không cần đối xử với cô ấy với ḷng trắc ẩn,

và bà không nên cảm thấy buồn đau trong ḷng.

Rồi chúng tôi tiến lên.

Trong cổng vào lối đi dài và ghê sợ của bardo là Đạo sư Gyajam, một đệ tử thân thiết của Tromge Kundun Rinpoche. Tóc Ngài bới lên thành một búi, và Ngài khoác một khăn choàng và mặc một hạ y bằng vải trắng.

Mặc dù tôi rất mong được gặp Ngài, nhưng chúng tôi không tiếp xúc và không bao lâu tôi tiếp tục đi. Tôi hỏi bà mẹ bi mẫn của Đấng Chiến Thắng: “Vị lạt ma đó của chúng ta, ngài Gyajam chứng ngộ - Ngài từ đâu tới, từ hướng nào? Và với mục đích ǵ?”

Các thiên nữ Tara Trắng và Tara Xanh trả lời:

Bậc chứng ngộ và hết sức cao quư đó được đặt tên theo Đức Manjughosha.

đă nương tựa một đạo sư nhân từ và cực kỳ bi mẫn.

Bởi mối liên hệ nghiệp của Ngài sâu đậm, Ngài đă phát triển sự chứng ngộ toàn hảo;

bởi sự tinh tấn của Ngài lớn lao, Ngài đă thực hành Pháp thật dũng mănh;

bởi ḷng bi mẫn của Ngài vĩ đại, Ngài đă tới giảng dạy Pháp trong bardo.

Om mani padme hum hri.

Lại thêm những điều để kể: Hàng năm chúng sinh bị cuốn lên giống như một trận băo tuyết; hàng ngàn chúng sinh nữa rớt xuống như một trận mưa tuyết dày đặc. Họ kêu khóc, tiếng kêu như âm thanh của một ngàn con rồng.

Nước mắt như một trận mưa rào dài một năm tuôn ra từ đôi mắt họ. Từ đỉnh đèo cát giữa sự sống và sự chết xuống tới những cánh đồng sắt nóng đỏ rộng lớn trong các địa ngục, chúng sinh nhiều vô số kể, như những hạt cát trong đại dương.

Họ không được nghỉ ngơi hay rảnh rỗi, giống như những cừu cái lẫn lộn với cừu non. Nỗi khổ của họ không thể đo lường được, giống như nỗi khổ của một con cá trên đất khô. Như người cố leo lên một đồi cát, họ không có cơ may để trốn thoát.

Như người bị ném vào ḷ lửa, họ không có phương tiện để chịu đựng. Như người có ảo giác nh́n thấy nước, họ kinh nghiệm những h́nh tướng lầm lạc theo nghiệp của họ. Các thiên nữ bi mẫn và cao quư, xin đưa dẫn những chúng sinh này là những người đang kinh nghiệm nghiệp quả thật hỗn loạn!

Om tare tuttare ture soha.

Trên một cánh đồng trống và rộng lớn trong bardo, Lozang Drolma, con gái của Tromge Kundun Dargyay, đang lang thang. Nỗi khổ của cô không quá lớn cũng không quá nhẹ nhàng. Cô trao cho tôi thông điệp sau đây để thuật lại:

Hăy nói lại điều này cho những người trong gia đ́nh tôi:

Nếu cha mẹ thực cảm nhận rằng con gái của mẹ đang đau khổ,

th́ một lần duy nhất tŕ tụng thần chú mani sẽ có lợi ích to lớn.

Nếu cha mẹ có thể thu xếp để tŕ tụng Kinh Giải Thoát,

càng nhiều càng tốt thần chú mani,

và Tantra Sám Hối Bất nhiễm,

th́ con có thể từ bỏ thân bardo này

và đạt được tái sanh như một con người với samaya trong sạch.

Với một tấm ḷng bi mẫn, tôi lớn tiếng tụng thần chú sáu-âm cho cô từ xa, và cô ấy ra đi, bị cuốn dạt như một chiếc lông chim trong gió.

Trên đèo cát rất cao giữa sự sống và sự chết, là một cánh đồng cực kỳ hoang vắng, thảo nguyên bao la xám xịt của sự chết. Con sông người chết có một màu nâu ngầu đục, không có chỗ cạn, chỉ có những con sóng tung cao thật dữ dội.

Chiếc cầu sáu-nhịp dễ sợ làm tôi ớn lạnh. Những sứ giả kinh khủng của Yama, Thần Chết, th́ cực kỳ hung dữ và phàm ăn. Không có tới một vị bảo trợ trong xứ sở của người chết, chúng sinh ở đó thật bơ vơ, không nơi nương tựa!

Om mani padme hum hri.

Aga, con dâu của gia đ́nh Gyaten xứ T’hromt’hog, ở trong con sông nâu không có chỗ cạn của người chết đó, phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi. Đây là hậu quả sau cùng của việc cô đă cúng dường trà bất tịnh cho tập hội nhiều nhà sư. Tôi hát thần chú mani và với một mũi tên có trang trí dải ruy băng, Đức Tara đă cứu thoát cô, kéo cô ra khỏi con sông nâu hung dữ.

Tôi tiếp tục đi xuống một nơi khủng khiếp. Không có ánh sáng, mà chỉ là bóng tối ảm đạm đến nỗi tôi chỉ có thể nh́n thấy khoảng một cánh tay trước mặt. Từ trên cao, một trận mưa đổ xuống. Mặt đất bị bao phủ bởi sắt nóng.

Kim loại nóng chảy tràn ngập mọi hướng và đủ loại vũ khí rải đầy khắp nơi. Xác chúng sinh chất cao khoảng một trăm sải (1 sải = 1,8m), da họ màu đen như mực. Họ kêu thét một âm thanh inh tai nhức óc không dứt, giống như trăm cừu mẹ gặp được trăm cừu con của chúng, “Trời ơi! Than ôi! Ôi khổ tôi chưa! Chao ôi! Ôi Cha ơi! Ôi Mẹ ơi! Cứu con! Ôi, nóng quá!”

Sự xuất hiện hỗn loạn và khủng khiếp này dường như rải rác ở một địa điểm nào đó.

Ở giữa một cánh đồng bao la khác sừng sững một cái ngai sắt màu đen có kích thước của một ṭa nhà ba tầng. Ngự trên đó là Dharmaraja[, Thần Chết. Thân tướng ông màu nâu pha đỏ tía đậm, trông thật khủng khiếp, hung nộ và dữ tợn. Đôi mắt ông sáng rực như mặt trời và mặt trăng, đỏ ngầu và lóe sáng như tia chớp.

Có những mụt cóc trên má và những chỗ khác trên mặt ông. Ở phần thân trên, ông khoác miếng da sống của một con voi, quanh thắt lưng là miếng da lột của một con người, quấn quanh phần thân dưới là hạ y bằng da cọp. Ông tô điểm bằng quần áo lụa cùng nhiều món trang sức bằng xương và châu báu.

 Trên đầu đội một vương miện làm bằng năm đầu lâu khô. Trong bàn tay phải, ông ôm một bảng định mệnh có vẽ các vạch chéo song song, trong bàn tay trái là tấm gương nghiệp quả. Ông ngồi trong tư thế xếp chéo chân. Vẻ rực rỡ phát ra từ thân ông làm chói mắt không thể chịu nổi.

Trước mặt Yama là Ác Ư, một thuộc hạ có đầu của một con rắn đang cầm một tấm gương. Bên phải Yama là Kiêu Ngạo với cái đầu sư tử, cầm cái trống ṭa án. Phía sau Yama là Định Mệnh với cái đầu khỉ, cầm một cái cân.

Bên trái Yama là Awa Đầu-Ḅ, cầm những cuộn giấy. Xung quanh họ có vô số hàng triệu thuộc hạ của Thần Chết hóa thân trong những h́nh dạng có đầu của vô số thú vật.

Đức Tara và tôi, cô gái, cùng thực hiện ba lễ lạy và dâng bài tụng ca tán thán sau đây:

Nếu nhận ra được, th́ chính là đây - bổn tâm của ta;

nếu không nhận ra, th́ đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.

Thực ra đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).

Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.

Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa);

Nếu không đó là Ác Ư với đầu của một con rắn.

Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự sân hận hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một tấm gương.

Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh);

nếu không, đó là Kiêu Ngạo với đầu sư tử.

Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự kiêu ngạo hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một cái trống ṭa án.

Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Amitabha (A Di Đà)

nếu không, đó là Định Mệnh với cái đầu khỉ.

Thực ra đây chính là giác ngộ, với sự tham luyến hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một cái cân.

Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu);

nếu không đó là Awa Đầu-Ḅ.

Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự ganh tị hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm những cuộn giấy.

Các ngài biết rơ đức hạnh hay điều xấu ác, những thuộc hạ phẫn nộ của sự chết này.

Cầu mong những chúng sinh đó, là những kẻ không hoàn tất điều ǵ, không tích tập nghiệp xấu.

không bị dẫn vào những con đường không lối thoát và không thể chịu đựng,

được tái sanh trong một cơi thuần tịnh không lỗi lầm và không sợ hăi.

Dharmaraja hơi mỉm cười và trả lời: “Cô con gái có biện tài từ cơi người, cô đă tích tập loại nghiệp tích cực, thiện lành nào? Cô đă tích tập loại nghiệp tiêu cực, xấu ác nào? Hăy nói thật trung thực, bởi nói dối sẽ không ích lợi ǵ!”

Đức Tara Trắng đứng lên, lạy Dharmaraja ba lạy và nói: “Thay mặt cô gái này, tôi có vài điều muốn nói”.

“Tốt lắm”, ông trả lời.

“Cô gái này là con gái của gia đ́nh Lạt ma Tromge” bà nói. “Về đức hạnh, cô ấy cúng dường bất cứ điều ǵ có thể cho Tam Bảo, coi Tam Bảo là bậc trưởng thượng của cô. Cô có ḷng đại bi và không coi thường những người xấu, những người hành khất như người dưới của cô.

Cô rất rộng lượng, thưa Ngài. Mặc dù bản thân cô không thực hành Phật Pháp nhiều, cô làm cho những người khác thực hành và khuyến khích họ sống đức hạnh. Cô luôn luôn có đức tin, ḷng sùng mộ và Bồ Đề tâm to lớn. Cô không bao giờ mắc phạm dù chỉ một hành vi ác hại hay phi-đạo đức, thưa Ngài”.

Khi bà tŕnh bày xong, Yama nói: “Tốt, nào! Thuộc hạ đầu-rắn sẽ nh́n vào tấm gương của ông xem điều này có đúng sự thật không”.

Thuộc hạ đầu-rắn chăm chú nh́n vào tấm gương và nói: “H́nh ảnh giống như mặt trời lộ ra từ sau đám mây”. Thuộc hạ đầu-sư tử đánh cái trống ṭa án và phát biểu: “Âm thanh thật du dương”. Thuộc hạ đầu-khỉ đặt các vấn đề lên bàn cân và tuyên bố:

“Đức hạnh của cô ta hoàn toàn trổi vượt; hầu như chỉ có hơn một hoặc hai hành động xấu”. Cuối cùng, thuộc hạ bảo vệ đầu-ḅ liếc nh́n những cuộn giấy và nói: “Một phút thôi! Cô có phạm vài hành động xấu, như đập vỡ trứng chim trên mặt đất hoặc tỏ lộ tánh khí quá ngang bướng, phải không?”

Nghe những điều này, Dharmaraja cười khúc khích và nói: “Ồ, thế à! Tốt, con gái ta, mặc dù con là một người đầy ḷng bi mẫn, nhưng lỗi lầm của những người xấu th́ thật nặng nề.

Nếu ta trừng phạt một số người và tha thứ những người khác, th́ với tư cách là một vị vua có quyền lực đối với những ác hạnh, ta sẽ phải chịu những hậu quả của sự sao lăng nhiệm vụ.

 V́ thế, bây giờ ta sẽ gởi con trở về cơi giới của con một lần nữa, nhưng con nên sám hối những hành vi xấu của con và cẩn thận giữ ǵn đức hạnh chừng nào con có thể.

Hăy giữ trong tâm những cảnh tượng của địa ngục, những thông điệp từ những người quá cố, và những lời khuyên này của Dharmaraja. Con cũng hăy thuật lại các điều này cho những người khác và khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh”.

Nh́n xung quanh, tôi thấy một cô gái tên là Bilima ở miền Zurpa. Một con rắn đen to mập như thân cây thông quấn quanh người cô từ đầu tới chân như thể cô đắp một cái mền.

Những thuộc hạ của Yama la hét và rống lên: “Ha, ha! Ồ, ồ!” tạo nên một âm thanh inh tai nhức óc. Nước mắt cô dầm dề như đại dương, và tôi nghe tiếng cô kêu khóc: “Ôi, Cha ơi, Mẹ ơi, cứu con!”

Vị thuộc hạ la lớn:

Ồ đứa con gái tội lỗi giết những con rắn,

Kêu réo cha mẹ mi th́ chẳng có ư nghĩa ǵ.

Đây là hậu quả của những hành động bản thân mi đă phạm.

Sẽ không thể thoát khỏi trong một ngàn kiếp!

Đây là kết quả sau cùng của việc cô giết một con rắn trong khi thu hoạch lúa mạch trong cánh đồng. Bà mẹ già của cô lo sợ những hậu quả của hành động này và nói với cô: “Con quỷ cái, đừng kêu la nữa hăy sám hối hành động này!” cô gái đă cười phá lên và sự tái sanh này kết quả.

Cũng có một cô gái tên là Palkyid ở quận Nyagrong. Những thuộc hạ của Yama đă đặt một cái rây bằng sắt trên đầu cô, qua đó họ đổ chất kim loại đỏ rực, nóng chảy và sôi sùng sục từ đầu tới chân cô. Với những âm thanh xèo xèo, xương thịt cô bị đóng dấu bằng sắt nung và bị thiêu đốt.

Cô thút thít, không thể khóc lớn tiếng. Những thuộc hạ la hét: “Ồ đứa con gái tội lỗi, trong thế giới con người phàm tục, mi đă la cà bên ngoài khu vực tu hành của một hội chúng tu sĩ, bắt đầu mỉm cười và tán tỉnh họ.

Gấu áo quần của mi làm tung bụi đất. Một nhà sư nói: “Đừng cư xử như vậy đừng tích tập nghiệp xấu!” Nhưng mi không nghe ông ấy và điều đang xảy ra cho mi bây giờ là hậu quả sau cùng của việc mi phá rối những thành viên này của tăng đoàn. Trong một ngàn kiếp, mi sẽ không có cơ may thoát khỏi”.

Bà mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng vung vẩy mũi tên có trang trí dải ruy băng lụa; tôi, cô gái, đă tụng thần chú mani du dương như một giai điệu. Thoát khỏi trạng thái thấp đó, Palkyid tái sanh trong cảnh giới mà cô cầu nguyện, nhưng dường như cô vẫn c̣n phải chịu một vài hậu quả do các hành động của ḿnh.

Om mani padme hum hri.

Sau đó tôi thấy một người đàn bà già ở miền Tro, tên là Anag. Khi kim loại nóng chảy sôi sục được đổ vào miệng bà, thân bà ta vỡ tung ra từng mảnh từ đầu tới chân. Bà chịu đựng loại đau khổ này liên tục không ngừng nghỉ. Tôi được cho biết hậu quả này là bởi bà đă đầu độc một vị lạt ma.

Dingla ở vùng Aso, Khargya và những người khác thực ra phần lớn những người ở vùng đó đang lang thang trong bardo. Rinchhen Dargyay cũng lang thang vơ vẩn ở đó.

Một người tên là Nyima Holeb bị tái sanh trong Địa ngục Sống lại. Cũng có khoảng mười người ở Aji. Một số đă bị tái sanh trong các cảnh giới địa ngục, một số th́ ở các cảnh giới preta.

Trong số họ có một người tên là Abo có một cái đầu to như một cái b́nh đất sét lớn và thân ḿnh bị biến dạng trông thật khủng khiếp. Miệng ông ta nhỏ như lỗ kim và thực quản bằng bề rộng của một sợi bờm ngựa, trong khi bao tử th́ lớn bằng cả một thành phố.

Móng tay ông đâm thủng các năm tay nắm chặt của ông ba lần. Ông không t́m được thức ǵ để ăn; những lưỡi lửa trào ra khỏi miệng. Ông ra đang phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi.

Tôi hỏi: “Hành động nào dẫn tới nỗi khổ của người này?” Tôi được kể lại rằng ông ta không bao giờ cúng dường Tam Bảo là những bậc trưởng thượng của ông, và đối xử thiếu nhân từ với chúng sinh ở các trạng thái thấp là những kẻ dưới ông. Ông luôn luôn cúng dường một số lượng nhỏ bé và do sợ cạn kiệt lương thực, ông ta chỉ dâng cúng sự tham lam.

Một người quen của tôi tên là Atar thuộc gia đ́nh Tampa xứ T’hromt’hog cũng ở đó. Thông điệp của ông ta gởi cho mẹ và thân quyến là: “Xin đừng từ bỏ những thực hành đức hạnh, sự tŕ tụng thần chú mani và nghi thức của Đức Phật Akshobhya], cùng sự quyên cúng cho tập hội đông đảo các nhà sư”.

Tashi Dondrub thuộc gia đ́nh Nag cũng tái sanh ở đó và trải qua nỗi khổ ghê gớm. Tôi hỏi bạn đồng hành của tôi là Đức Tara: “Người này đă phạm hành động nào mà phải chịu hậu quả này?”.

Ngài đáp: “Không giữ ǵn các hứa nguyện samaya của ḿnh, hành động với sự ích kỷ kiêu căng, nghĩ tưởng rằng: “Có phải ta sẽ được cái này?” và “Ta sẽ kiếm được cái kia chăng?”

Ông ta trao cho tôi thông điệp gởi về gia đ́nh: “V́ lợi ích của tôi xin hăy tŕ tụng bảy mươi triệu lần thần chú mani và Kinh Giải thoát, hăy sám hối những hành động có hại của quư vị, và hăy dâng những lời cầu nguyện hồi hướng trong tập hội đông đảo”.

Gyashod Atsang bị tái sanh trong một cơi ngạ quỷ (preta). Vô số không thể nghĩ bàn những người khác, những người tôi quen biết lẫn những người không quen cũng bị tái sanh ở đó. Cơi giới này th́ thật khủng khiếp.

Các chúng sinh hết sức tuyệt vọng bởi họ không sao t́m được thứ ǵ để ăn hay uống. Tóc họ dựng đứng lên, thân thể gầy ṃn, miệng giống như lỗ kim, cổ họng như những sợi bờm ngựa, bụng lớn như toàn thể xứ sở, và chân tay th́ như những cọng cỏ. Móng tay rất dài, đâm thủng bàn tay họ chín lần.

Phần lớn trong số đó, có trong bàn tay chút nước bọt mà Đức Jamyang Khyentsei Wangpo hồi hướng cho họ, nhưng họ phải trải qua hàng trăm hay hàng ngàn năm trước khi có thể mở miệng và liếm tí chút nước bọt ấy.

Họ không t́m thấy bất kỳ sự nhàn nhă nào ngoại trừ giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi này. Trong nỗi đau khổ của họ, họ đồng thanh kêu khóc: “Tôi sẽ ăn cái ǵ? Tôi sẽ uống cái ǵ? Tôi đói! Tôi khát! Trời ơi, trời ơi! Than ôi!”

Quân lính bảo vệ cơi preta bày ra nhiều loại món ăn và của cải, rồi cầm những lưỡi gươm sắc nhọn trong tay và nh́n trừng trừng trông thật hiểm ác. Bị dồn ép bởi đói khát, những preta tới ăn cắp thực phẩm và nước uống này, nhưng chỉ khiến cho thân xác họ bị những thanh gươm này đâm chém làm họ kêu khóc thật hoảng loạn.

Các bán thần phải trải qua nỗi khổ dữ dội trong cuộc chiến đấu với các vị trời trên những dốc núi Tu Di. Họ ganh tị không thể chịu đựng nổi trước sự tráng lệ và của cải trong các cơi trời cùng tṛ nô đùa ve văn của các thiên nữ đang ca hát và nhảy múa, nhưng họ chỉ gánh chịu sự đau khổ không tưởng tượng nổi bởi thất bại trước các vị trời.

Các vị trời ném đĩa có các đinh nhọn, cũng như các mũi tên và chĩa ba, và sử dụng những con voi say có những vũ khí h́nh bánh xe được trang bị ở cuối thân voi. Các bán thần trải qua những đau khổ không thể nghĩ bàn khi bị giết chết hay bị thương tích. Họ cũng chiến đấu ngay trong nội bộ của họ, với những âm thanh inh tai “Giết, giết!” và “Đánh, đánh!” vang dội như tiếng gầm của một ngàn con rồng.

Ngay cả bản thân tôi cũng kinh hoàng trước những ǵ được chứng kiến trong cảnh giới đó. Đối với việc ném mạnh một trái trứng chim trên mặt đất, tất nhiên là tôi phải kinh qua mọi loại khí giới; nhưng tôi đă nhất tâm khẩn cầu Bồ Tát của ḷng bi mẫn và vị thiên nữ tôn kính và hát tụng thần chú sáu-âm ba lần, và rồi dường như đối với tôi, những âm thanh dần dần trở nên dịu đi.

Khoảng năm ngàn người ở vùng Chamtring và một số không rơ những người Trung Quốc tái sanh trong cùng cảnh giới này. Dường như cũng có nhiều nhà quư tộc, nổi bật nhất trong số đó là Lozang Tendzin, một vị tướng miền Chamtring. Một số đông người không thể tính xuể bị tái sanh ở đó, trong đó có gia đ́nh Wanggyal và bộ tộc Dugtza, phần lớn họ đă chết v́ dao.

Đi xa hơn nữa, trong một công viên đầy hoa, tôi t́m thấy một vị trời hết sức già, không chịu đựng điều ǵ ngoài sự đau khổ. Vài người bạn tới gần, ném những ṿng hoa lên người ông và nói:

“Ngay khi ông rời bỏ thân xác, cầu mong ông được tái sanh trong cơi người, thực hành mười loại thiện hạnh, và một lần nữa được sanh vào cơi trời này”. Cùng với lời nói đó, họ tung rải những bông hoa. Ông đă phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, như thể trái tim ông vỡ tung ra và thân xác th́ tan thành cát bụi.

Sự trường thọ của đời một vị trời có thể được đo lường từ sự kiện là khoảng bảy ngàn năm của con người chúng ta chỉ bằng một tuần lễ đối với họ. Một tuần trước khi chết, họ trải qua những đau đớn mà mức độ dữ dội th́ vượt xa những đau khổ trong địa ngục khủng khiếp nhất của sự hành hạ không ngừng dứt.

Khi nghiệp của họ cạn kiệt, do các niệm tưởng bị hư hỏng bởi những cảm xúc như sự kêu ngạo, họ thực sự nh́n thấy nơi tái sanh trong tương lai của ḿnh ở một cơi thấp. Điều ấy làm họ đau khổ ghê gớm hơn việc tự vẫn bằng cách tự ném ḿnh vào hầm lửa lộ thiên.

Om mani padme hum hri.

Tôi tiếp tục đi và gặp Kardo thuộc bộ tộc Gestsay trong một cơi địa ngục. Ở đó, trong một căn nhà bằng sắt đồ sộ có kích thước to lớn, ông ta đang thâu thập đất, đá, cỏ và gỗ (mặc dù tôi nghi ngờ về sự cần thiết của những hành động của ông), và đặc biệt là lam ngọc, san hô, pha lê, đá lưu ly, vàng và bạc. R

ồi các thuộc hạ của Yama chất đống tất cả của cải cùng đất đá lên đầu ông. Ông kêu khóc trong đau đớn. Dù cố trốn thoát ở đâu, ông cũng bị chặn giữ lại. Sau đó, phải nh́n những viên đá và kim loại quư bị rải rắc như những lông chim trong gió, một lần nữa, ḷng ông đau khổ dữ dội.

Rồi lại như lần trước, ông thâu thập của cải và thực phẩm và lại bị chúng đè bẹp, và v́ thế ông phải chịu đựng trong từng giây phút những h́nh thức đau khổ luân phiên này.

Tôi hỏi: “Đây là hậu quả của hành động nào?”

Đức Tara nói với tôi: “Đây là hậu quả của việc ông ta thèm muốn tất những ǵ ông để mắt tới, hậu quả của việc ông có ác tâm với mọi người ông nghe nói, hậu quả của việc ông không có ǵ ngoài những tà kiến về mọi sự ông nghĩ tưởng tới.

Đây là hậu quả của việc không thực hành đức hạnh, mà dấn ḿnh vào những hành động phi đạo đức và có hại, kể cả việc đeo một mala (chuỗi hạt) trong khi bị phóng tâm bởi chuyện ngồi lê đôi mách và tṛ chuyện tầm phào không đâu”.

Kardo trao cho tôi thông điệp này để mang về: “Với Tsagdi, con dâu trong gia đ́nh tôi, tôi nói: ‘mặc dù con trang điểm bằng mă năo và san hô, điều này không tốt cho cha.

Con không thương xót cha sao? Con đă không thỉnh cầu một đạo sư duy nhất để tạo mối liên hệ với cha bằng cách hồi hướng tài sản của con nhân danh cha. Không ǵ lợi ích cho cha hơn nghi lễ tẩy tịnh của Đức Phật Akshobhya, bổn tôn trong cổng phía nam của mạn đà la của Đức Phật Vairocana”’.

Tôi tŕ tụng thần chú mani và trong chốc lát ít ra ông ta đă có thể nghỉ ngơi. Nhưng cũng như trước đó, ông bắt đầu phải chịu đựng những tri giác lầm lạc của ḿnh.

Thêm vào đó, có nhiều lạt ma (đạo sư) và nhiều sư trong một ngôi nhà trông-đẹp đẽ làm bằng sắt. Mặc dù thoạt đầu họ có vẻ khá ḥa nhă, bỗng nhiên tâm họ trở nên rối loạn và cùng lúc đó họ bắt đầu la hét một ngôn ngữ gớm ghiếc.

Trong sự hoài nghi, tôi tới gần và thấy lửa phun ra từ miệng họ, khói thoát ra từ lỗ mũi và những chiếc cưa sắt kêu ŕ rầm trên đỉnh đầu họ. Khi tôi hỏi họ hành động nào đă dẫn tới hậu quả này, họ trả lời là họ đă nói chuyện tầm phào trong các nghi lễ được cử hành cho tín đồ (cả người sống lẫn người chết).

 Trong khi kết giao với những hành giả đang hoàn thành những thực hành bổn tôn theo nghi thức và trong khi dự những nhóm hội trong đền thờ của họ. Họ đă làm gián đoạn việc thiền định của người khác bằng cách nói luôn miệng, căi cọ trong những tiệc cúng dường và tạo nên một âm thanh chói tai.

Một người hành hương du phương xuất hiện mặc quần áo rách rưới tả tơi và cầm một cây cờ cầu nguyện. Yama Dharmaraja hiện ra với thuộc hạ của ông, biểu lộ sự vui thích và nói: “Lợi lạc to lớn biết bao cho Phật Pháp! Và không có ǵ vĩ đại hơn Pháp cao quư của một lá cờ cầu nguyện.

Những lá cờ cầu nguyện là cội gốc của Pháp. Thần chú mani là tinh túy của Pháp. Thần chú siddhi đem lại sự giải thoát từ lối hẹp của bardo. Nghi lễ chay nyungnay là bậc thầy chỉ rơ con đường đi tới giải thoát. Những ḥn đá một trăm ngàn thần chú mani là ṿng hoa của Pháp.

Hành vi cứu giúp những sinh mạng là cỗ xe của con đường. Việc đúc các satsa là cách chặn đứng sự tái sanh trong các cơi thấp. Đi hành hương là cây chổi quét sạch những hậu quả của các ác hạnh. Bày tỏ sự tôn kính bằng những lễ lạy tiệt trừ các lỗi lầm.

Tara là nguồn mạch bên ngoài của sự nương tựa (quy y). Sự tích tập công đức và giác tánh nguyên sơ (trí tuệ) là lương thực dự trữ cho những đời sau. Ḷng bi mẫn là trục chính của Giáo Pháp. V́ thế, con ta, hăy vui vẻ đi tới Potala”.

Người hành hương đi qua, dẫn khoảng một ngàn chúng sinh có liên hệ với ông qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.

Om mani padme hum hri.

Đức tôn kính Tara nói với tôi:

Những kẻ không bỏ nón khi một vị lạt ma bước vào trước sự hiện diện của họ,

đă có một thời họ từng phải trải qua những địa ngục sẽ tái sanh làm con cừu hoang.

Những kẻ không đứng dậy và vẫn đứng khi các nhà sư bước vào trước sự hiện diện của họ,

đă có một thời họ từng phải trải qua những địa ngục sẽ tái sanh làm những người què.

Những kẻ không cúng dường đèn bơ tinh sạch sẽ tái sanh trong hầm lửa.

Những kẻ bước lên hay để quần áo trên ba biểu tượng của Châu báu.

sẽ tái sanh làm những người câm hoặc làm những con sâu dơ bẩn.

Những kẻ khạc nhổ hay hỉ mũi trong các chùa miếu

sẽ tái sanh trong địa ngục đầm lầy tử thi rữa nát.

Những kẻ ăn thịt từ một con vật bị giết trong cùng ngày mà không tịnh hóa hành động đó bằng sự sám hối,

sẽ tái sanh làm những quỷ ma khát máu.

Những kẻ ăn bám vô dụng biển thủ tài sản của Tam Bảo

sẽ tái sanh làm các preta (quỷ đói) hoặc những lính canh trong các cơi preta.

Những kẻ uống rượu không được hiến cúng

sẽ tái sanh trong Địa ngục Kêu khóc.

Những kẻ sử dụng những ghế ngồi của tăng đoàn xuất gia,

sẽ tái sanh trong các địa ngục nhất thời.

Sự lấy đi các lễ phục từ ba loại biểu tượng,

sự biển thủ phóng túng tài sản của tăng đoàn,

và đặc biệt là trộm cắp tài sản chung của tăng đoàn,

sự cướp đoạt hay đánh đập các hành giả trong ẩn thất cô tịch

những hành vi này đưa tới sự tái sanh trong tám địa ngục lạnh.

Những kẻ tích tập nghiệp bằng năng lực của sự sân hận

sẽ tái sanh làm các chúng sinh trong  địa ngục;

những kẻ tích tập nghiệp bằng sự tham lam, sẽ tái sanh làm các quỷ đói;

tích tập nghiệp bằng năng lực của sự ngu si, tái sanh làm súc sinh.

Cầu mong những chúng sinh trải qua ba cơi thấp

được tái sanh ở Núi Patala.

Om mani padme hum hri.

Cũng có nhiều người ở bộ tộc Gyashod. Ở giữa cây cầu sáu nhịp trên con sông màu nâu không có chỗ cạn của người chết. Gonpo Dargyay bị xích lại, không hy vọng được giải thoát. Khói xuất hiện trên da thịt ông khi bị đốt cháy và ông phải chịu nỗi đau khổ không tưởng tượng nổi.

Những thuộc hạ trong các địa ngục, với các đầu sư tử và nai đực, đang canh giữ ông. Ông nói rằng thần chú mani sẽ là một phưong tiện để tịnh hóa nỗi khổ và những lỗi lầm của ông và sẽ hết sức lợi lạc nếu có ai nhân danh ông sám hối những ác hạnh của ông.

Tôi hỏi Đức Tara là những hành động ǵ dẫn tới hậu quả này. Ngài trả lời: “Khi ông ta là một nhà cai trị trong vùng, ông đă không phân phát của cải và thực phẩm hoặc không xét xử đúng đắn, và ông hành xử với ác ư”.

Thợ săn nai Tsewang Gonpo đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông nói rằng ông sẽ được giải thoát nếu có ai khắc vào đá Kinh Giải Thoát, hành động đó tịnh hóa những hậu quả của ác hạnh. Tôi hỏi những hành động nào dẫn tới hậu quả này, Đức Tara đáp: “Bởi giết hươu nai vô tội”.

Tashi Wangkhyug đang đau khổ trong Địa ngục Sợi chỉ Đen. Ông giao cho tôi một thông điệp để mang trở về: Nếu nhân danh ông ta mà tŕ tụng một trăm triệu lần mỗi thần chú sau: thần chú một trăm âm của Đức Vajrasattva, thần chú mani và thần chú siddhi th́ ông sẽ được tái sanh làm người.

Tsewang Gonpo đang đau khổ trên đỉnh Núi Shangma. Ông nói rằng nếu một trăm hay một ngàn nghi lễ chay nyunnay được thực hành tích cực nhân danh ông, ông sẽ có một tái sanh làm người tuyệt hảo.

Trong số những người ở Gyashod, một số trong đó có tâm hồn đức hạnh các đạo sư, các nhà sư và các cư sĩ ở trong các cơi thuần tịnh, kể cả nhà sư già Padma Kalzang, Tsering Dondrub, Dontse, cũng như một người được gọi là Barchhung Dragho, người ta nói rằng ông ta đă được tái sanh trong một cơi thuần tịnh bởi ḷng bi mẫn của Ngài Drimed Khakyod Wangpo Rinpoche tôn quư.

Phần lớn những người ở bộ tộc Nat’har từng tinh tấn thực hành Pháp được tái sanh ở núi Potala, trong khi những người không có mối liên hệ với các bậc linh thánh, tiêu phí cuộc đời khi dấn ḿnh vào những ác hạnh, th́ phải chịu sự tái sanh sau khi tái sanh trong các cơi thấp.

Một nhà sư tên là Hulay Buchhung đang đau khổ trong bardo. Một người tên là Natar Alug Chhodzin có một tái sanh may mắn. Nhà sư Lodro Zangpo đang ở cơi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.

Lahai Yontan, mặc dù đă từng thực hành đức hạnh và từ bỏ các ác hạnh, đă nuôi dưỡng những tà kiến hết sức nặng nề và đă bị tái sanh trong một cơi, ở đó ông ta bị giam cầm trong một căn nhà có bốn người canh gác.

Khi tôi hỏi Yontan là tôi có nên thỉnh cầu nhân danh ông để đức hạnh đó được thực hành trong cơi người hay không, vị sư già trả lời rằng tôi nên để ông chịu đựng hậu quả những hành động của ông cho tới khi nghiệp của ông cạn kiệt. Ông nói rằng sau khi đau khổ như thế này trong ba năm, ông sẽ được tái sanh ở núi Potala.

Kunzang và Tendzin Wanggal được tái sanh ở núi Potala. Samyay Monlam thuộc gia đ́nh Khamtay đang ở trong cơi thuần tịnh này. Ông nói: “Tôi có một thông điệp gởi cho con trai út của tôi. Xin nói với nó: ‘Đừng giết hươu nai, cừu hoang hoặc linh dương.

 Đừng sống cuộc đời của một kẻ trộm cướp. Đừng nói dối hoặc thề thốt. Đừng lấy cắp của các anh con hay đánh nhau với chúng. Hăy thực hành đức hạnh nào mà con có thể cùng với thần chú mani và nghi lễ chay nyungnay!”’.

Một người đàn bà tên là Dronma đă tới Potala, khẩn cầu nhiều đạo sư. Một vị tulku ở làng Natar tên là Adam cũng ở núi Potala. Ông nói rằng mặc dù để làm lợi lạc cho chúng sinh, có lần ông đă tái sanh trong gia đ́nh Apal của các đạo sư trong quận Nyagrong, nhưng bởi những chứng ngại trong đời đó nên ông đă nhập Niết Bàn.

Petsa Gonpo Rinchhen cũng có mặt ở đó; ông nói rằng ông đă tái sanh trong cơi thuần tịnh đó nhờ ḷng bi mẫn của Tromge Kundun Rinpoche.

Ở một nơi cách xa cơi giới này tám mươi ngàn lư (1 lư bằng khoảng 4,8km), tôi đi tới một mặt vách đá khổng lồ và dễ sợ của một tảng đá màu đỏ sậm, có bề cao bằng thế giới-ba-ngàn-nhánh.

Ở giữa vô số các khí giới, cạnh một pháo đài đầy đầu lâu thật khủng khiếp là Thần Chết, Yama, đang hút đời sống và hơi thở trong tam giới, ném tất cả những chúng sinh đă chết không ngoại trừ ai vào máng ăn, chứa ba mức độ của sự sống trong bụng ông.

Với cái dạ dày súc vật teo tóp thèm thuồng, cái lưỡi cuộn tṛn giật giật, các răng nanh dài nhe ra sắc nhọn, đôi bàn tay ch́a ra để chộp bắt, ông ta trông thật khủng khiếp. Ông có thân thể của một người đàn ông với cái đầu của một con ḅ đỏ, những cái sừng sắc nhọn bằng sắt và đôi mắt nh́n cḥng chọc sáng như mặt trời và mặt trăng.

Những lưỡi lửa nóng bắn ra từ miệng ông. Ông có sự nhanh nhẹn, lẹ làng của gió, làm thiên đường và trái đất rung lên bằng những tiếng cười khiếp sợ như ḅ rống. Khi tôi thấy cái nh́n dữ dội phẫn nộ vô bờ này và nghe tiếng gầm điếc tai của ông, tôi cảm thấy như thể muốn ngất đi.

Ngậm lục địa phương nam của thế giới buồn khổ này trong miệng (một cái miệng dường như nuốt trọn thiên đường và trái đất), ông có thể làm thế giới run sợ bằng âm thanh của lưỡi đập vào ṿm miệng. Trong khi trước kia từng có một đại dương cuồn cuộn máu đỏ sẫm khi ông ta ngậm chặt miệng lại th́ trong năm này chỉ có ít giọt máu trông giống như sương.

 Đó là bởi ngài Khakyod thuộc gia đ́nh Tromge, ngài Dza Konchhog và những bậc linh thánh khác đă thị tịch, và v́ thế trong năm đó nhiều chúng sinh không phải chết. Mặc dù nhiều điều khủng khiếp xảy ra cho tôi, nhưng nhờ khẩn cầu các thiên nữ tôn kính, tôi đă có thể giữ một quan điểm vững vàng không sợ hăi.

Gonpo Samdrub ở Tangkya đang ở trong một cơi địa ngục. Khi tôi hỏi Đức Tara hành động nào dẫn tới hậu quả này, Ngài đáp: “Khi làm một thủ lănh, ông ra đă tham ô tài sản, coi thường phong tục đă được lập ra”.

Droje Dondrup, con trai của Zangli thuộc gia đ́nh Sadu, đang trải qua sự đau khổ không tưởng tượng nổi. Có nhiều nhà quư tộc ở vùng Hor miền viễn đông Tây Tạng. Và cũng có nhiều người tôi không nhận ra. Bởi một ḷng bi mẫn kỳ lạ phát khởi trong tâm thức tôi, tôi tŕ tụng thần chú mani theo giai điệu du dương.

Khi tôi, cô gái Dawa Drolma, tiếp tục cuộc hành tŕnh th́ một yogin mặc quần áo trắng với mái tóc dài chảy ḷa x̣a tiến lại gần, có một số daka và dakini vây quanh. Ông quay một bánh xe cầu nguyện với một cái bao thêu kim tuyến rất tỉ mỉ và bàn chân không chạm đất. Ông đi ngang qua mặt tôi trên đường đi tới cánh đồng địa ngục.

Khi tôi hỏi ông đi đâu, ông đáp: “Đi tới những cơi tái sanh thấp. Tôi sắp đi tới các cơi địa ngục để dẫn ra những người đă từng chia sẻ thực phẩm tôi. Tôi là Togdan Pawo, một đạo sư dẫn dắt chúng sinh. Tên này có ư nghĩa thực sự là ‘anh hùng của sự chứng ngộ tâm linh’”.

Khi ông hát thần chú mani ba lần theo giai điệu, các ngôi nhà sắt nóng trở thành những cung điện pha lê và tất cả chúng sinh được chuyển hóa thành các thân ánh sáng. Ông tiến lên, đưa họ lên núi Potala, cơi thuần tịnh siêu phàm, giống như một đàn chim giật ḿnh hoảng hốt bởi một viên đá từ ná bắn ra.

Bà mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng, Đức Tara tôn kính, chắp hai tay nơi ngực và nói:

Kỳ diệu thay bậc dẫn đường phi thường và linh thánh!

Vị hoa tiêu siêu phàm đưa dẫn tất cả những ai có liên hệ với Ngài:

Nếu không có mối liên hệ, Ngài không thể dẫn.

Đáng thất vọng biết bao, những người không tạo nên một mối liên hệ.

Om mani padme hum hri.

Trên đỉnh ngọn cây shalmali[, những con chim sắt đen đang móc mắt những chúng sinh trong địa ngục. Ở gốc cây là những người đàn bà dễ sợ đang ôm cổ những chúng sinh này và giựt đứt đầu họ. Trong cái nh́n của tôi, những chúng sinh ở địa ngục này không thể tránh đi tới chỗ đó, bởi nghĩ rằng bè bạn yêu quư đang kêu gọi họ.

Khi họ chạy trốn, các khí giới rơi vào người họ. Khi họ quay trở lại, khí giới nhảy lên đục khoét phổi, tim, gan và ruột họ. Khi họ chạy lên dốc, khí giới đâm xuống người họ. Thịt xương họ biến thành máu. Đó là nỗi nguy cơ trước mắt những lạt ma dâm đăng và những nhà sư, ni cô thế tục, họ đă hủy hoại những đứa con bất hợp pháp của ḿnh.

Có những người ở địa vị cao chót vót mà ngay cả tên của họ tôi cũng không dám đề cập tới, gồm cả nhiều lạt mà và các nhà sư. Một người là Nyikho thuộc gia đ́nh Sorgu, một nhà sư của bộ tộc Tromge bị găy bể giới nguyện. Mặc dù có lúc ông đă được tái sanh làm người, sau đó bởi nghiệp lực, ông tái sanh trong cơi địa ngục.

Dưới gốc cây shalmali bị vũ khí chồng chất nặng nề, ông trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi. Bà mẹ bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng cùng tôi hát tụng ba lần thần chú sáu-âm theo giai điệu.

Thoát khỏi gánh nặng của khối sắt, ông ra đi. Nếu sự tŕ tụng Tantra Sám hối Bất nhiễm và Kinh Sám hối những Thiếu sót được ủy thác từ một tập hội rộng lớn, nếu có thể tổ chức với nhiều sự bảo trợ và nhiều vật cúng dường trong mức độ có thể, và nếu những lời cầu nguyện cao quư của sự hồi hướng và ước nguyện được thực hiện nhân danh ông, th́ ông sẽ được tái sanh ở Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.

Một người tên là Atsul thuộc gia đ́nh Sogru này, nhờ ḷng bi mẫn của nhiều bậc xuất chúng và linh thánh, và nhờ con đường bí mật của chân lư siêu vượt nhân và quả, có lần đă được sanh ra làm người. Nhưng sau khi chết, ông bị rơi vào một cơi địa ngục.

Ông đang đau khổ dưới chân núi có cây shalmali. Bị lôi bừa đi bởi một ṿng sắt siết ngặt cổ, thân ông bị bọc trong một bộ y phục bằng sắt. Ba lính canh dữ tợn với đầu hươu đực đánh đập, đâm và xé ông bằng lưỡi dao cạo có cán bằng-hoa sen cho tới khi thịt ông bị lóc tới tận xương. Ông ta la hét dữ dội.

Khi tôi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết là ông đă dùng những quả cân sai trong việc mua bán với các lạt ma và nhà sư, nói xấu những thành viên của tăng đoàn, làm ra vẻ ḿnh là một bậc thầy của nghệ thuật nhảy múa tôn giáo, và v.v… Nỗi khổ này là hậu quả không thể tránh khỏi của những ác hạnh này. Với ḷng bi mẫn, tôi hát những thần chú sáu-âm từ xa.

Người quá cố Atsul trao cho tôi thông điệp sau đây để đem về:

Tôi chết sớm, một người đàn ông trẻ bị cái chết hủy hoại,

bị hủy hoại bởi sự chia ly cha mẹ và thân quyến của tôi.

Tôi để lại sau lưng lều bạt, bầy thú, và những vật sở hữu, v́ thế khó mà từ bỏ.

Tôi đau khổ bởi những hậu quả của những ác hạnh của chính tôi chúng chỉ chín mùi cho mỗi ḿnh tôi.

Để giải thoát tôi khỏi nỗi khổ không thể chịu nổi này,

mọi người có thể tŕ tụng thần chú mani một trăm triệu lần,

tụng đọc Kangyur, và khắc trên đá mười ngàn thần chú sáu-âm.

Khi ấy tôi sẽ không đau khổ trong chốn này, mà sẽ có được một thân người.

Đừng quên thông điệp này; xin mang nó về cho người bà con Chhung Lima của tôi.

Một đạo sư tên là Yengmed Dorje xuất hiện, Ngài là đệ tử thân tín của đạo sư Padma Duddul ở quận Nyagrong. Ngài có mang một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột cùng một nhóm năm đệ tử. Ngài ngâm:

Hri con khẩn cầu đạo sư, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu bổn tôn được chọn lựa, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu daka, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu bổn tôn bảo vệ, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu sự hợp nhất của chư vị này, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con nguyện cầu, xin đưa dẫn những chúng sinh đó là những người có mối liên hệ tốt hay xấu với con tới núi Potala.

Om mani padme hum hri.

Rồi Ngài dẫn khoảng một ngàn chúng sinh ra khỏi mười tám tầng địa ngục theo một con đường ánh sáng trắng.

Ani Bumo, một ni cô ở miền Zurpa cũng xuất hiện, tay cầm một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột màu vàng. Cô và một thị giả tụng thần chú mani từ xa tạo nên một giai điệu hết sức đẹp đẽ.

Sư cô này dẫn khoảng một ngàn người – tăng, ni, nam nữ cư sĩ, những người hành khất và những người mù là những người có liên hệ với cô qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi theo một con đường ánh sáng xanh dương tới cơi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.

Tsachhung, một phụ nữ già nua ở miền Tromge, bị nghiến nát trong Địa ngục Đè bẹp. Tiếng kêu thét của bà vang dội khắp các cơi trời. Khi tôi tụng một lần thần chú mani cho bà từ xa, một lính canh dễ sợ với sừng trên đầu la hét:

“Hừ, hừ! Chỉ một lần thần chú mani th́ khó có lợi ích ǵ”. Khi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết: “Khi ở trong thế giới con người, bà ta đă ăn cắp dê, cừu và giết hại chúng”.

Bà ta muốn nhắn gởi cho con trai là Chhot’har và con gái là Lukyid. Mặc dù thoạt tiên tôi từ chối mang bất kỳ thông điệp nào cho bà, Tsachhung cứ kêu khóc măi: “Cô phải mang! Cô không thể không mang về thông điệp của tôi!” Và v́ thế tôi hứa làm điều đó.

“Xin nói với chúng điều này”, bà nói. “Chớ ấp ủ hy vọng được trở nên giàu có. Chớ mê đắm trong sự sân hận và ganh ghét. Hăy bảo Lukyid đừng quyết ganh đua với những con rắn trong việc tạo ác nghiệp.

Hăy khắc thần chú mani trên đá. Hăy thỉnh cầu sự đọc tụng Kinh Giải thoát và Tantra Sám hối Bất nhiễm. Hăy tŕ tụng liên tục thần chú mani. Hăy hồi hướng đức hạnh theo một cách thế cao quư và sau khi chịu đựng nỗi khổ này trong một ngàn năm, tôi sẽ được tái sanh trong một cơi trời, vẫn phải chịu sự đọa lạc từ cảnh giới tráng lệ đó”.

Khi nói những điều đó, bà cứ khóc măi.

Om mani padme hum hri.

Sau đó, một phụ nữ trung niên thuộc gia đ́nh Lo ở Gualrong tiến lại gần. Lùa khoảng bốn ngàn con cừu phía trước, bà ta lao xuống một con đường ngập máu. Những cư dân ở địa ngục, như Awa Đầu-Ḅ, Định Mệnh Đầu-Khỉ và La Sát Đầu-Heo một số lượng không thể nghĩ bàn những thuộc hạ của Thần Chết  săn đuổi bà và la lớn:

“Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!”. Run rẩy như một chiếc lá, nước mắt tuôn rơi, người đàn bà già được dẫn tới trước Dharmaraja. Yama Dharmaraja bừng bừng giận dữ như ngọn lửa, cả khuôn mặt ông đen như than, đôi mắt th́ như những cái hồ cuồn cuộn máu.

Từ miệng ông phát ra một tiếng gầm khiếp sợ: “Mi, mụ già thế tục, hăy thận trọng lưỡi của mi, mi phạm vào loại hành động nào, tốt hay xấu? Đừng dấu diếm hay che đậy. Hăy nói thật trung thực!”

Ông dậm chân làm mặt đất rung chuyển như một trận động đất. Những cư dân địa ngục la hét: “Nói nhanh lên!” và cùng đi dậm chân huỳnh huỵch trong sự điên cuồng.

Người đàn bà tái mét và không thể nói được điều ǵ. Đập đầu xuống đất, đôi bàn tay bà xé tung bộ ngực. Giữa những vị này là hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp tốt đẹp và tối ám của bà.

Đứa trẻ tốt đẹp có vẻ không có ǵ để nói; vẻ mặt của nó chuyển sang màu đen như than. Sau một lát, nó nói: “Có lần bà ta cúng dường một con ngựa cho lănh địa của tulku (vị hóa thân) Tsamtrul ở tỉnh Dza, nhưng tới lúc giao con ngựa th́ bà ta lưỡng lự”.

Đứa trẻ tối ám múa may nhảy nhót và nói:

Người đàn bà hết sức xấu xa, kẻ tạo nên những ác nghiệp trong cơi người thế tục,

quỷ cái ăn thịt người tài ba, kẻ tổ chức cuộc tàn sát chúng sinh,

kẻ tham tàn xảo quyệt mi không nhớ những hành vi tối tăm khác ư?

Mi không chỉ mắc phạm một ác hạnh từng dự tính.

Dù điều này có là sự thật hay không, nó cũng sẽ được sáng tỏ trước tâm thức Dharmaraja;

nó đúng hay không, các thuộc hạ biết rơ.

Hăy đem mụ ta đi tới con đường không hy vọng được giải thoát.

Sau khi đứa trẻ nói, một thuộc hạ của Yama cân trường hợp của người đàn bà già trên cái cân nghiệp và ngay lập tức bàn cân nghiêng từ đầu này sang đầu kia. Lấy ra một bằng chứng trên tấm bảng định mệnh, Yama nói: “Hăy đưa mụ ta tới Địa ngục Đè Bẹp. Trong nhiều ngàn kiếp mụ sẽ không t́m được sự giải thoát”.

Một đội quân gồm các thuộc hạ của Thần Chết đang la hét: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó! Ha, ha! Hê, hê!” và ném vào người bà những mũi tên, các ngọn giáo và gươm đao. Ấn mặt bà xuống đất họ kéo bà ta đi.

Om mani padme hum hri.

Wangchan, một thủ lănh tầm thường  trong miền Derge là con trai của một người giàu có và nổi tiếng có tên là Drugdrag và một người đàn bà tên là Tseyang Drolma. Ông ta là một thủ lănh rất mạnh mẽ, là kẻ hưởng thụ của cải và thực phẩm của người khác, là kẻ lỗ măng, hung hăn, không có ḷng từ bi. Khi nghiệp lực duy tŕ thọ mạng của ông đă cạn kiệt, ông ta chết và lang thang vơ vẩn trong những cơi bardo.

Như thể bất thần nh́n thấy một kẻ thù căm ghét đă giết cha ông, Dharmaraja la lên: “Nhanh lên, các ngươi, tất cả thuộc hạ của Thần Chết, chạy mau, tất cả các ngươi! Đừng phí thời gian, dẫn ngay tên Wangchan lại đây cho ta!”.

Những thuộc hạ la hét “Ki!” và “Ha!” và lôi kéo ông ta. Những người cầm búa đánh đập ông, những người cầm kềm kéo giựt da thịt ông; những người cầm cưa cắt xẻ, những người cầm kiếm chặt chém, những người cầm giáo đâm; những người cầm ŕu chặt ông. Trước mặt Dharmaraja, đứa trẻ tối tăm kể câu chuyện sau đây:

Kẻ độc ác tên là Wangchan

tư tưởng và hành vi quay lưng lại Tam Bảo.

Ông ta móc mắt các lạt ma tốt lành,

phạm vô số ác hạnh, cắt môi và lưỡi

của nhiều nhà sư và ni cô, cư sĩ nam và nữ

Ông kết án nặng nề nhiều nhà sư thọ đại giới và giam cầm họ.

Ông gây ra nạn đói gần như giết hại dân chúng.

Ông khiến cho nhiều ngàn con cừu bị sát sanh.

Ông là một tập hợp của ác hạnh lớn như Núi Tu Di.

Ông ta xứng đáng loại trừng phạt nào, Dharmaraja biết rơ!

Nghe lời thỉnh cầu này, ngay lập tức Dharmaraja lôi một bằng chứng trên tấm bảng định mệnh của ông và nói: “Hăy đưa hắn tới Địa ngục Sống lại và rồi dừng lại ở tám địa ngục nóng, không được tự do trong thời gian mười ngàn kiếp”.

Những thuộc hạ la lớn: :Giết nó! Đánh nó! Đập nó!” Ấn mặt ông xuống đất, họ lôi ông ta đi.

Om mani padme hum hri.

Có một cô gái trẻ miền Derge mang một sợi những viên mă năo, mỗi viên lớn bằng một căn nhà, cột trên một sợi xích sắt quấn quanh cổ. Cô bị hành hạ bởi sức nặng và nỗi khổ khi không nâng nổi những tảng đá. Đây là hậu quả của việc cô đă trang điểm thân thể bằng những mă năo ăn cắp của người khác, dù ở vị trí cao hay thấp.

Om mani padme hum hri.

Tôi tiếp tục đi cho tới khi gặp một người thợ săn tên là Tsering ở miền Kat’hog bị bốn cư dân đầu hươu áp tải. Run rẩy như một chiếc lá, ông ta bị lôi tới trước mặt Yama Dharmaraja. Và ồ, hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp của ông phơi bày tất cả những ǵ ông đă làm, đức hạnh hay ác hại, tích cực hay tiêu cực.

Đức trẻ tươi đẹp nói: Ồ Yama, Dharmaraja cao quư, người này không thể chăm lo cái ăn cái mặc hay che chở cho gia đ́nh rộng lớn của ḿnh. Kẻ vô lại già nua tiêu phí cả đời hắn để theo đuổi những ác hạnh.

 Tuy nhiên, nếu Ngài gởi trả ông ta về để thử lại một lần nữa và ông thực hành đức hạnh hết sức thuần tịnh, ông ta sẽ trở thành một người không có ǵ để xấu hổ và sẽ trở lại trước sự hiện diện oai nghiêm của Ngài theo đúng nghĩa của nó”. Nói tới đây, đứa trẻ khóc.

Đứa trẻ tối tăm đưa ra thỉnh cầu:

He, he! Người đàn ông này đă giết ba loại chim – kên kên, diều hâu và chim ưng bay liệng trên không.

Hắn đă giết ba loại thú vật linh dương, hươu nai và cừu hoang sống trong vùng núi non.

Hắn đă giết các ma mốt vô tội trên những cánh đồng.

Hắn đă giết ba loại thú vật cá, rái cá và ếch sống trong nước.

Hắn đă bắt những con vật vô hại trong bẫy và lưới.

Hắn phạm những hành vi ác hại và phi-đạo đức.

Từ miệng của Yama Dharmaraja tuôn ra những lời sau:

Trong số những ác hạnh, không có ǵ nặng nề hơn việc cướp đi sinh mạng.

Trong trường hợp của tên thợ săn xấu xa này

hắn đă hứa với vị lạt ma thuộc bộ tộc Getze là không giết hại nữa,

nhưng sau đó phạm những hành vi hết sức độc ác vượt quá giới hạn của sự sám hối.

Bây giờ hăy đưa hắn tới Địa ngục Hoang vu.

Hắn sẽ chịu đau khổ không thoát ra được đời này sang đời khác.

Khi nói điều này, ông nêu ra một bằng chứng trên bảng nghiệp lực và ấn mặt người thợ săn xuống đất, những thuộc hạ kéo ông ta đi.

Có nhiều chúng sinh nữa mà mắt tôi không thể nh́n thấy hết được, số lượng của họ lưỡi tôi không hy vọng ǵ đề cập tới được, tư tưởng họ tâm tôi không thể bắt đầu thăm ḍ.

Những kẻ xấu ác bị kéo xuống, trong khi những người đức hạnh được đưa lên trên. Tất cả những việc xảy ra này bất chấp sự mô tả; những điều tôi vừa ghi lại th́ không hơn ǵ ư niệm thô thiển nhất.

Trước mặt Dharmaraja là một người đàn bà tên là Bochhungma sống trong miền thuộc gia đ́nh Dezhung. Khi hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp của bà ta, một tươi đẹp và một tối ám, đang phơi bày những thỉnh cầu của họ, đứa trẻ tươi đẹp nói: “Người đàn bà này có chút liên hệ với Dzaga Chhogtrul Rinpoche. Tâm bà ta hướng về sự đức hạnh”.

Rồi đứa trẻ tối ám nói:

Người đàn bà này phục vụ thực phẩm bất tịnh cho các đạo sư thông thái;

bà ta giết bê bằng cách bắt chúng nhịn đói tới chết;

bà phê b́nh các đạo sư và những vị đă thọ giới;

và v́ thế bà phạm nhiều hành vi ác hại qua miệng, đôi bàn tay và tâm bà.

Dharmaraja trả lời: “Khi đứa trẻ tươi đẹp nói, có vẻ nó đă nói sự thật. Nhưng khi đứa trẻ tối ám nói, dường như nó đang nói sự thật. Hăy cân trường hợp này trên bàn cân thiện hạnh và ác hạnh”.

Thuộc hạ đầu-khỉ cân nhắc những hành động của người đàn bà trên chiếc cân, và thế là những ác hạnh của bà làm nghiêng bàn cân từ đầu này sang đầu kia. Yama Dharmaraja nói:

Mỗi một ngàn ngày trong cơi người

bằng khoảng một ngày và đêm duy nhất trong các cơi địa ngục.

Trong mười hai năm dằng dặc này mi sẽ chịu đựng đau khổ

bằng cách uống kim loại nóng chảy sôi sục.

Rồi ngươi sẽ được dẫn đi nhờ năng lực của ḷng bi mẫn

và những nguyện lực của Dzaga Chhogtrul Rinpoche.

Khi ông nói xong, người đàn bà bị lôi vào một dinh thự bằng sắt.

Om mani padme hum hri.

Kế tiếp là Paltso, một người đàn bà du cư già có mái tóc xám ở cộng đồng Nyingshul. Bà cầm một bánh xe cầu nguyện và một mala màu vàng, bà đang lần tràng hạt. Vừa hát tụng thần chú mani thật rơ ràng theo một giai điệu, bà đi thẳng tới Dharmaraja.

 Yama Dharmaraja mà khuôn mặt th́ như mặt trăng chiếu rọi trên tuyết, nói thật lịch sự và vui vẻ: “Paltso, sau khi chết và đi tới cơi bardo, bà có mệt không? Đối với bất kỳ thiện hạnh và ác hạnh nào bà đă từng dính dáng tới, hăy phơi bày tại đây trước mặt ta”.

Bà cụ Paltso thỉnh cầu:

Tôi chú tâm nơi Tam Bảo như cứu cánh duy nhất của tôi.

Tôi gắn bó chặt chẽ chí hướng của tôi với Giáo Pháp tinh tuư.

Lời nói của tôi là sự thực hành đức hành, và ṿng quay tràng hạt của tôi th́ không ngừng dứt.

Tôi thiết lập những liên hệ với những bậc có khuynh hướng tâm linh tuyệt hảo.

Đặc biệt nhất là tôi có mối liên hệ với Dzaga Chhogtrul qua việc cúng dường Ngài một miếng hổ phách lớn.

Tôi đă tạo một mối liên hệ với Adzom Drugpa[ bằng cách cúng dường Ngài một cái kẹp dây lưng.

Trong số những người thắt một chiếc khăn vàng quanh ḿnh.

không ai mà với họ, tôi, người đàn bà này, không có mối liên hệ.

tôi đă rót khoảng hai mươi hoặc ba mươi ngàn ngọn đèn bơ;

đă tụng lớn tiếng một trăm triệu thần chú mani;

là một bà già có động lực cao quư,

tôi đă hồi hướng tất cả những điều này cho chúng sinh hữu t́nh.

Với sự hân hoan, đứa trẻ tươi đẹp đưa ra một thỉnh cầu tương tự. Đứa trẻ tối ám th́ hoàn toàn không nói ǵ hết. Bây giờ tấm gương, văn bản tường tŕnh và bàn cân là các chứng cứ của những thiện hạnh và ác hạnh của người đàn bà.

Những thuộc hạ la lên: “Nh́n những cái này xem!” Thuộc hạ đầu-sư tử chăm chú nh́n vào tấm gương, thuộc hạ-đầu khỉ cân nhắc những hành động của bà trên chiếc cân, và thuộc hạ đầu-ḅ đọc văn bản tường tŕnh về nghiệp của bà. Ba vị trong số những thuộc hạ khiêm tốn đệ tŕnh rằng tất cả những ǵ bà nói đều đúng sự thật, điều ấy làm Dharmaraja vô cùng hài ḷng. Ông nói:

Nếu những người đàn ông và đàn bà b́nh thường trong thế giới loài người thế tục

giống như người này, th́ sẽ tốt đẹp biết bao.

Nhưng cho dù hiểu biết những thiện hạnh và ác hạnh,

họ không từ bỏ một vài điều và áp dụng những thứ khác.

Họ ráng sức trong những hành động phi-đạo đức và ác hại.

họ bị dày ṿ biết bao bởi những cảm xúc muộn phiền.

không ai đi qua đời khác mà không gặp ta.

Nếu họ có Pháp, th́ ta là vua Pháp,

Nhưng nếu không có, th́ ta vị vua của những ác hạnh của họ.

Giờ đây, bà lăo tên là Paltso!

Hăy đi, nương tựa thiện nghiệp này.

Bà sẽ không rơi trở lại, v́ thế hăy đi tới Cơi Cực Lạc.

Khi nói xong, bà cụ đứng dậy và lạy ba lạy. Bà nói: “Tôi sẽ không đi một ḿnh”. Thay vào đó, bà dẫn khoảng một ngàn rưỡi chúng sinh có liên hệ với bà qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi chầm chậm tới Cơi Cực Lạc ở phương Tây, trong khi th́ thầm thần chú mani theo một giai điệu.

Om mani padme hum hri.

Một ông già tên là Dondrub ở vùng Gulong đang bị một sợi cáp sắt xuyên thủng tim và bị những thuộc hạ đầu-cọp, đầu-báo, đầu-gấu đen và nâu, đầu-cáo, và đầu-chó rừng lôi đi. Họ tung ông lên không trung rồi quăng ông xuống đất, la hét: “Ki, ki! Ồ, ồ!” khi dẫn ông ta đi.

Người đàn ông mặc bộ quần áo sờn rách bằng da mác mô. Khi nhận ra ḿnh đang đứng trước mặt Dharmaraja, mặt ông trở nên tái mét và ông la lớn: “Ahhh!” Sau một tường thuật ngắn về những thiện hạnh và ác hạnh của ông, Yama Dharmaraja nói:

Con người thế tục ác độc, kẻ giết những ma mốt!

Mi đă từng giết nhiều ngàn ma mốt

ăn thịt và uống máu họ,

mặc y phục làm bằng da sống –

ngươi đă giết ma mốt như thiên hướng của mi.

Vào mùa hạ mi giết ma mốt bằng cách đổ nước xuống hang của họ để đuổi họ ra ngoài;

Vào mùa đông mi đào hang để bắt những con lửng, và giết những ma mốt ngủ đông.

Những hành động xấu xa trầm trọng như thế rất khó mà sám hối,

bởi những ǵ mi đă làm không khác ǵ việc giết một nhà sư thọ cụ túc giới.

Mi sẽ không có cơ may được giải thoát trong một ngàn kiếp.

“Vậy th́” Dharmaraja nói, “hăy đem hắn tới những địa ngục nóng!” Ấn mặt ông xuống đất, những thuộc hạ lôi ông ta đi xuống.

Om mani padme hum hri.

Sau đó, khoảng mười hai nhà sư thụ cụ túc giới ở miền Sakya đi tới. Họ mặc ba chiếc y tu viện, cầm những bản văn Phật Pháp linh thánh và lớn tiếng tŕ tụng các thần chú siddhi và mani.

Trước mặt Dharmaraja, họ làm như thể lễ lạy như một nhóm, nhưng Ngài nói: “Xin đừng lạy!” Chính Dharmaraja đứng thẳng người tỏ vẻ kính trọng. Khi những thuộc hạ run rẩy kính sợ th́ các nhà sư tiến lên, dẫn khoảng mười hai ngàn chúng sinh đi tới cơi Cực Lạc ở phương tây.

Kế đó, một ni cô đức hạnh ở miền Minyag đi tới. Quay một bánh xe cầu nguyện và lần tràng hạt làm bằng vỏ ốc xà cừ, bà đứng thật cung kính trước mặt Dharmaraja.

Ngài hỏi: “Bà là ai?”

Bà trả lời: “Tôi được gọi là Zangmo. Tôi đă thâu thập một đại dương đức hạnh trong khi tích lũy hai sự tích tập”. Bằng một giọng nói ngọt ngào, bà dâng cúng Ngài bài hát sau:

Om mani padme hum hri.

Đấng mà sắc thân là nơi tụ hội của tất cả chư Phật

và là đấng bất khả phân với Đức Avalokiteshvara:

Trong sự hiện diện tôi kính của ngài Sodnam Rinchhen

con xin thỉnh cầu: Xin ban cho con những sự ban phước của Ngài.

Con không mắc phạm những ác hạnh lớn bằng hạt mè.

Con là một ni cô đă đạt được chút ít kiên cố trong tâm.

Trong sự hiện diện tôn kính của ngài Sodnam Rinchhen, con dâng lời cầu nguyện lên

bậc có ḷng bi mẫn đặc biệt đối với chúng sinh trong những thời đại suy hoại tâm linh này,

một chúa công của Pháp, là một hóa thân của các Bồ Tát trong ba bộ.

Xin ban những ân phước của Ngài khiến những ước nguyện của chúng con được thành tựu tự nhiên.

Xin ban những ân phước của Ngài để những nỗi khổ trong các cơi thấp được an dịu.

Xin ban những ân phước của Ngài để chúng con có thể đi vào con đường giải thoát.

Xin ban những ân phước của Ngài để chúng con có thể được sanh vào cơi Cực lạc.

Xin ban những ân phước của Ngài để hai loại lợi lạc có thể được thành tựu tự nhiên.

Tất cả những chúng sinh được nghe những lời này

không phải trải qua nỗi khổ của địa ngục khi chết;

họ không phải kinh nghiệm những xuất hiện lầm lạc của bardo.

Nếu họ lập lại những lời này mỗi ngày bất kể điều ǵ xảy ra,

chắc chắn là khi chết họ sẽ không đi tới địa ngục.

Họ sẽ được tái sanh trong Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.

Khi nói những lời này, bà hát tụng thần chú mani theo một giai điệu du dương, rồi bà tiếp tục đi, dẫn theo khoảng ba ngàn chúng sinh có liên hệ với bà bởi những nghiệp tốt và xấu tới Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.

Rồi Dharmaraja ra lệnh cho hai trong số các thuộc hạ của Ngài là Awa Đầu-Ḅ và Định Mệnh Đầu-Khỉ đưa vào một nhà sư đă thọ cụ túc giới, quê quán ở miền nam tỉnh Tsang, tên là Kunga Paldan.

Khi ông xuất hiện trước Dharmaraja, những thiện hạnh và ác hạnh của ông được phơi bày. Đứa trẻ tươi đẹp đệ tŕnh: “Nhà sư này không phạm những ác nghiệp” và cúi đầu đứng lặng yên.

Đứa trẻ tối ám trả lời: “Nhà sư này đă găy bể giới luật và thệ nguyện. Ông thọ các giới nguyện trong sự chứng minh của tu viện trưởng và giáo thọ của ông và đă đắp ba y tu viện, tuy nhiên ông ta phải chịu trách nhiệm về việc giết hại nhiều người và ngựa.

Ông ném những lời thóa mạ vào những người tiếp xúc với Giáo Pháp. Về mặt đạo đức, ông ta là một kẻ phá sản, đă ném những thệ nguyện samaya của ḿnh xuống sông”.

Bởi thỉnh cầu này, Dharmaraja nói: “Những câu chuyện mà hai đứa trẻ tươi đẹp và tối ám này kể không thể chân thật cả hai. Chúng ta hăy hỏi ư kiến tâm gương, văn bản tường tŕnh và chiếc cân”.

Nh́n vào những vật dụng này, những người thẩm tra kính cẩn đệ tŕnh lên Dharmaraja: “Những điều đứa trẻ tối ám tŕnh bày là sự thật”.

Đùng đùng nổi giận, Dharmaraja la lớn: “Đem kẻ suy đồi đạo đức này tới đỉnh núi có những cây shalmali”.

Những thuộc hạ dẫn nhà sư đi, họ la hét: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!”

Một người đàn bà tu hành tên là Dronchhung ở miền Minyag được dẫn vào. Khi những hành động của cô được phơi bày, đứa trẻ tươi đẹp nói: “Năm hai mươi mốt tuổi, người phụ nữ trẻ này xuống tóc, xuất gia làm ni cô và lên đường hành hương tới vùng Lhasa, trong khi đó liên tục tŕ tụng các thần chú một trăm-âm và mani”.

Đứa trẻ tối ám kiến nghị: “Ôi Yama Dharmaraja cao quư, chính con có thẩm quyền để nói về tiểu sử của người phụ nữ trẻ này. Cô ta là một con quỷ cái, một người có nghiệp xấu xa đă thực hiện những hành vi phi-đạo đức và ác hại.

Trong chuyến hành hương, cô ta đă giết hại một số sinh vật và việc đó chỉ là một biểu hiện trong vô số những ác hạnh mà cô ta đă phạm, thưa Ngài!”.

Bởi ư kiến này, Dharmaraja nói: “Hăy cân những kiến nghị này lên bàn cân”.

Khi chúng được cân nhắc xong, vấn đề được kính cẩn tŕnh lên Dharmaraja rằng đó là một pha trộn của những thiện hạnh và ác hạnh. Ngài nói: “Người phụ nữ này phải chịu đau khổ ở Địa ngục Sống lại trong thời gian một tháng ở cơi đó; sau đó, do sức mạnh của nguyện lực mà cô ta đă tạo nên trong chuyến hành hương, cô ta sẽ có một tái sanh làm người thuần tịnh”.

Một tướng lănh tên là Sanggi Adzam thuộc gia đ́nh Sa-ngon ở Jazi trong quận Nyagrong, bị tái sanh trong Địa ngục Đè bẹp và đang chịu nỗi thống khổ không thể đo lường được ở đó.

Ông nói với tôi: “Con dâu tôi tên là Lumotso. Bằng mọi giá cô phải tiếp âm thông điệp của tôi cho nó. Hăy nói với nó: ‘Con có thể làm lợi lạc cho cha bằng cách tạo một mối liên hệ với một vài đạo sư; nhân danh cha, hăy hiến cúng các đạo sư san hô và những đồ trang sức của cha mà con cất giấu.

Những giọt nước mắt mà con nhỏ xuống trở thành một trận mưa máu đổ xuống người cha. Bởi cha có một chút liên hệ với vị tulku ở Jazi, hăy cầu xin ư kiến và sự giúp đỡ của Ngài. V́ lợi ích của cha, hăy cúng dường trà cho các nhà sư ở tu viện Jazi và xin các ngài tŕ tụng thần chú mani và siddhi trong những nghi lễ tập thể”’.

Khi nói những điều đó ông ta bật khóc. Mặc dù bóng dáng ông đă mờ nhạt nhưng những tiếng kêu khóc ở ông vẫn tiếp tục ám ảnh tôi. V́ lợi lạc của ông, tôi dâng những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện, và tŕ tụng thần chú mani một lát, nhưng tôi không có liên hệ với ông và v́ thế hành động ấy không đem lại ích lợi.

Om mani padme hum hri.

Một sĩ quan quân đội tên là Arta ở quận Nyagrong Gangri đang ở trong Địa ngục Sợi Chỉ Đen. Hàng trăm và hàng ngàn những đường vạch đen được vẽ trên người ông. Bằng những cái cưa sắt đỏ rực lửa, ông ta bị cắt mỏng dọc theo những đường này đầu tới thắt lưng rồi th́ những bề mặt của đầu ông được nói lại với nhau.

Rồi ông ta bị cắt mỏng tới lui từ bụng trở xuống, với những mảnh thân thể bị chia ra thành từng phần và lại nối lại, khiến ông luân phiên chịu đựng những đau khổ này.

Khi tôi hỏi vị thiên nữ bi mẫn cao quư: “Những hành động nào dẫn tới hậu quả này?” bà trả lời:

Người này chỉ huy quân lính đánh phá các tu viện.

Ông đưa người tới phá hủy các lăng mộ và đài kỷ niệm,

thiêu rụi các sườn núi, đốt cháy ếch, nhái, rắn và các sinh vật khác,

gây xáo trộn trong xă hội, kích động sự chém giết tương tàn, xúi dục sự tranh chấp, hận thù.

Là thủ lĩnh, chỉ riêng ông đă giết mười tám người và những con ngựa.

Ông khó được giải thoát trong một ngàn kiếp.

Cầu mong nghiệp xấu và những ác hạnh của người này được tịnh hóa và cầu mong ông ta được tái sanh trong Cơi Cực Lạc.

Mặc dù bà nói trong chiều hướng này, ông ta không hưởng được lợi lạc ǵ nhiều.

Một người gốc gác ở Drured tên là Arkong bị các thuộc hạ dẫn tới trước Dharmaraja, bị đập bằng búa, bị kẹp bằng kềm và bị chém bằng các vũ khí. Mặc dù cả hai đứa trẻ tươi đẹp và tối ám đă nói nhưng không ích lợi ǵ bởi Dharmaraja trở nên giận dữ, dậm chân trên mặt đất cùng những nắm đấm mạnh mẽ và la lớn: “Để hắn giải thích, và nhanh lên!” Nhưng v́ quá khiếp sợ, ông ta không thể nói điều ǵ.

Thuộc hạ đầu rắn chăm chú nh́n tấm gương và nói: “Người này ôm giữ những tà kiến. Ông nói rằng thực hành các thiện hạnh th́ không ích lợi và không có ǵ lầm lỗi khi làm các ác hạnh.

Ông tuyên bố rằng Tam Bảo không có ân phước. Ông ta nói rằng chừng nào c̣n được sung sướng trong hiện tại th́ không cần phải quan tâm tới tương lai. Ông vui thú trong việc trộm cướp và áp bức”.

Sau khi cân nhắc những vấn đề trên bàn cân, thuộc hạ đầu-khỉ nói: “Nếu cùng một lúc xếp vào hũ những cặp sừng đầy máu của những con hươu đực, dược liệu xạ hương từ hươu nai, da sống và xương từ những con rái cá mà hắn đă giết, th́ chúng sẽ chất đầy một căn nhà nhỏ. Đây là kẻ mà bản thân đă từ chối sự may mắn được đeo đuổi Phật Pháp”.

Rồi thuộc hạ-đầu ḅ xem xét chứng cớ tốt đẹp trong báo cáo về nghiệp: “Người này giết hại những thú vật trong một tháng linh thiêng, trong tháng đó hậu quả những hành vi của hắn được khuyếch đại lên một trăm ngàn lần.

Cầm một cây súng đi loanh quanh, hắn bắn giết thật hung bạo nhiều sinh vật gấu đen và gấu mật, cáo, mèo rừng và ma mốt. Không con vật nào trong những loài này mà hắn không giết”.

Ngay sau đó Yama Dharmaraja ghi một chứng cớ trên bảng định mệnh. “Mặc dù thời kiếp có thể chấm dứt”, Ngài kêu lên “người đàn ông này sẽ không có cơ hội thoát khỏi. Hăy gởi hắn tới Địa ngục Hoang vu!”.

Với những tiếng la hét dễ sợ, thuộc hạ dẫn ông đi xuống, đầu ông ta gục xuống trong sự xấu hổ.

Om mani padme hum hri.

Chính Yama Dharmaraja nói những lời này:

Các ngươi đàn ông và đàn bà trong thế giới con người phàm tục!

Chớ giết bọ chét và chấy rận sống trên người các ngươi.

Chớ giết chúng, bởi việc sát hại ấy không đáp ứng mục đích ǵ.

Việc ấy không lợi lạc ǵ cho thực phẩm của các ngươi, không đáng giá một hạt mù tạc.

Việc ấy không ích lợi ǵ cho y phục trên lưng các ngươi, mà là một hành vi nghiêm trọng, ác hại.

Không nhất thiết phải giết chúng giữa răng và móng tay các ngươi,

bởi nó không khác ǵ giết chính con cháu của các ngươi.

Thay vào đó, nếu các ngươi thả chúng và để chúng sống, điều này sẽ có lợi ích to lớn.

Nếu giết chúng, các ngươi chỉ cần nh́n xem điều ǵ đă xảy ra cho những kẻ đọa lạc ở đó để hiểu rơ những ǵ sẽ là định mệnh của các ngươi.

Có nhiều ngàn người đă đau đớn v́ bị ép dẹp giữa hai ngọn núi. Ở đó có một người tên là Yado thuộc gia đ́nh T’hromt’hog. Thân xác một số người trong số đó bị lửa thiêu đốt; đó là hậu quả của việc đốt bọ chét. Một số bị rơi xuống nước và chết đuối; đây là hậu quả của việc ném bọ chét vào tuyết và mưa đá.

Dharmaraja nói: “V́ thế các ngươi hăy để yên bàn tay và hăy tŕ tụng thần chú mani”.

Om mani padme hum hri.

Rồi Yama Dharmaraja nói với tôi:

Các ngươi đàn ông và đàn bà trong thế giới con người phàm tục!

Chỉ trong lúc này mà các ngươi đă có được thân người.

Chỉ lúc này mà các ngươi đă được tái sanh trong Trái Đất.

Chỉ lúc này mà sự chọn lựa nơi các ngươi đi tới đang nằm trong ḷng bàn tay các ngươi.

Hăy cúng dường Tam Bảo ở trên các ngươi bất kỳ thứ ǵ các ngươi có thể.

Các ngươi sẽ không trở nên nghèo túng – tóm lại các ngươi sẽ giàu có hơn trong đời này,

và trong những đời sau các ngươi sẽ được tái sanh với một thân thể được phú bẩm hỉ lạc và cơ hội.

Hăy bố thí hào phóng cho những người hành khất, những người mù và chó ở dưới các ngươi.

Đứng nói với họ những lời thô lỗ, bởi họ đáng được hưởng ḷng bi mẫn.

Bố thí một nắm hạt lúa ḿ hay lúa mạch cho người hành khất,

th́ hơn là nuôi béo một trăm người giàu có trong một năm.

Trong hai thiện hạnh này, cái trước th́ đặc biệt hơn cái sau.

Những người giàu có sống sung túc, có nhiều của cải và đất đai,

họ giống như những người giữ kho tàng giữa đám quỷ đói với thức ăn và đồ uống, những người hầu, và của bố thí của họ,

lăng phí đời người, chẳng bao giờ có đủ thời gian và chẳng bao giờ thâu thập các sự tích tập.

Họ không có ngay cả một chốc lát để chậm răi và nghỉ ngơi.

Mặc dù đúng là có cả những núi của cải, tài sản và thực phẩm,

họ không thể đem theo duy nhất một cây kim tới trước mặt ta.

Những thành viên trong gia đ́nh không nghe ư kiến của người khác;

tranh căi vào buổi sáng, đánh nhau lúc sẩm tối như những bán thần.

Họ sẽ không thể sống chung lâu dài, mà sẽ đi theo con đường riêng lẻ của họ.

V́ thế hăy đối xử tốt với nhau trong gia đ́nh, và hăy tŕ tụng thần chú sáu-âm.

Người ta có vẻ giận dữ với cha mẹ tốt lành của họ,

sử dụng uy quyền với vợ hay chồng họ,

và coi những bậc trưởng thượng trong gia đ́nh như những tử thi cùi hủi.

Khi về già, người ta trở nên yếu tim và sa sút tinh thần,

v́ thế hăy đối xử với họ bằng ḷng kính trọng, giọng nói mềm mỏng, lời lẽ dịu dàng.

Giờ đây, không có h́nh thái tâm linh nào cao cả hơn điều đó.

Các ngươi sống trong thế giới con người thế tục là những kẻ đền đáp món nợ ḷng tốt cho cha mẹ các ngươi

th́ sẵn sàng và có thể đi tới Cơi Cực Lạc.

Những ai hầu hạ, trải dọn chỗ ngồi, cung cấp những nhu yếu của đời sống,

làm người hướng dẫn, nói năng với giọng dễ thương và lời lẽ dịu dàng

với những người già từ nơi xa tới trong chuyến hành hương

th́ giống như những người giao phó một viên ngọc như ư cho người khác.

Họ sẽ không bị khó khăn khi theo đuổi con đường đi tới giải thoát.

Có đức tin nơi các đạo sư và thiết lập mối quan hệ với các bậc trưởng thượng tâm linh –

th́ giống như việc giương cao ngọn đuốc trong một căn pḥng tối

và sẽ đưa dẫn các ngươi tới Cơi Cực Lạc mà không cần sự chuyển tiếp hay chuyển hóa.

Có ḷng bi mẫn đối với chúng sinh và hồi hướng công đức của các ngươi cho người khác –

th́ giống như một kho tàng châu báu bảo đảm mọi nhu cầu thiết yếu.

Trong mọi cuộc đời về sau các ngươi sẽ gặp gỡ rất nhiều bậc tôn quư.

Vị vua ngự trên ngai cao và kẻ hành khất chống gậy –

đối với hai vị này th́ “cao” và “thấp” không đáng giá một sợi tóc trước mắt ta,

v́ thế hăy đến với ta khi đă thực hành đức hạnh của Pháp.

Đừng quên thông điệp của ta, hỡi Dudjom Drolma.

Hăy làm lợi ích chúng sinh, dù cao hay thấp, bằng thông điệp này.

Om mani padma hum hri.

Tuy nhiên tại nơi ghê sợ khác có nhiều người là những kẻ ăn trộm ăn cướp, những thợ săn tàn ác, là những kẻ đặt bẫy bắt hươu xạ, lừa đảo người khác trong việc buôn bán, nói dối và báng bổ, là những kẻ trộm cắp của những người cao tuổi bơ vơ không nơi nương tựa, nói ác hay đánh đập các nhà sư, giết chó, ngựa và rắn một số đông người không kể xiết đă dấn ḿnh vào mười loại ác hạnh.

Trong số đó có một người hàng thịt tên là Atsog, ông ta khóc thổn thức khi bị dẫn tới trước Dharmaraja. Các thuộc hạ áp đảo ông, la hét dữ dội: “Giết, giết nó! Đánh, đánh nó!” Sau đó thuộc hạ đầu-ḅ, Awa Langgo nói với ông ta:

Khi mi ở trong thế giới con người thế tục,

mi cười phá lên khi phạm các ác hạnh là nguyên nhân của sự việc này.

Hậu quả là mi sẽ kêu khóc trong đau đớn khi chịu đựng một số phận thấp kém.

Giờ đây kêu khóc có lợi ích ǵ khi mi đang ở trong những cánh đồng địa ngục?

Họ đập đầu ông ta bằng một chiếc búa, xẻ lưng bằng một cái cưa, đâm một ngọn giáo ngắn vào ngực, và ném một loạt vũ khí lên người ông. Khi đă thẩm tra về những thiện hạnh và ác hạnh ông đă làm, họ lôi ông ta tới Địa ngục Nóng Dữ dội.

Om mani padme hum hri.

Một người tên là Chhungdron ở miền Gojo, cũng như Paldron Dal và con gái ông ta, đă bỏ thuốc độc một vị lạt ma, quyến rũ các nhà sư và vu khống các bậc trưởng thượng tâm linh của họ. Hậu quả sau cùng là lưng họ bị trĩu nặng bởi những tảng kim khí nóng chảy, lưỡi bị chẻ bằng gươm sắt cháy đỏ, và kim loại nóng chảy sôi sục đổ vào miệng họ.

Đức Tara nói:

Những ác hạnh của thân th́ giống như vùng cát lầy dơ bẩn:

Nó có vẻ mềm mịn, nhưng nó mà đau khổ phát sinh.

Những ác hạnh của ngữ th́ giống như những lưỡi lửa cháy rực:

Mặc dù tàn lửa bé nhỏ, nó có thể thiêu rụi những ngọn lửa công đức.

Những ác hạnh của tâm th́ giống như chất độc ghê gớm:

Mặc dù ngọt ngào trong miệng, chúng đem lại đau khổ to lớn trong những cơi thấp.

Đối với những kẻ đă thực hiện những ác hạnh thuộc thân, ngữ và tâm,

cầu mong những hậu quả được chế ngự giống như sương giá bị mặt trời quét sạch.

Om tara tam soha.

Một người tên là Argong ở miền Barong đă thuyết phục phối ngẫu của một đạo sư bỏ trốn theo ông ta, nhưng họ đă chết và đang lang thang trong xứ sở của Yama.

Tôi nh́n thấy Thần Chết, Yama Dharmaraja, giáng lên họ nhiều loại trừng phạt. Nhiều sinh linh ăn-thịt giằng xé thân xác họ; những đau đớn họ đang chịu đựng th́ vô bờ bến. Rồi một đạo sư mặc áo trắng có mái tóc dài đi tới. Ông hát tụng thần chú vara guru ba lần theo một giai điệu và tiến lên, dẫn vị phối ngẫu đi theo con đường ánh sáng trắng.

Om mani padme hum hri.

Có vô số đàn ông, đàn bà và trẻ em ở miền Barong. Tôi không có th́ giờ để thuật lại tất cả tên của họ, nhưng nếu các bạn muốn hỏi thêm nữa và thành thực quan tâm th́ tôi có nhiều điều có thể kể cho các bạn, miễn là các bạn không găy bể samaya với tôi hay dối gạt tôi theo cách nào đó.

Cũng có khoảng mười hai người thợ săn trộm ở miền Dartsedo], mà câu chuyện của họ được kể như sau:

Trong sự tàn ác và sân hận, họ đặt bẫy lấy lông ḅ yak làm nỉ.

Máu của những con vật bị họ giết cuồn cuộn như cái hồ.

Của cải họ cướp đoạt th́ chất cao như núi.

Họ lôi mọi sinh linh có quan hệ với họ tới những số phận xấu xa.

Nh́n vào dấu vết tinh tế, Awa Đầu-ḅ nói: “V́ lợi ích của gia đ́nh Gya Truglo, những người này đă dùng dao gây đổ máu trên khắp hai vùng rộng lớn. Họ là những kẻ đầu sỏ chịu trách nhiệm việc giết hại nhiều người.

Họ đă phạm quá nhiều ác hạnh khiến ngay cả việc kể hết ra cũng không thể làm được”. Với những tiếng gầm khủng khiếp: “Giết, giết chúng! Đánh, đánh chúng!” các thuộc hạ của Thần Chết dẫn họ tới Địa ngục Nóng Dữ dội, đầu họ gục xuống.

Om mani padme hum hri.

Có khoảng mười người đàn bà ở miền Sangen đă chế tạo chất độc. Karma T’harkhyin, Tsewang Dargyay, Gonpo Srung và những người khác, thân họ bị băm nhỏ, lưỡi bị nhổ ra và nhăn cầu bị chọc thủng.

Cũng thế, những kẻ ám sát các đạo sư và phá hủy các thánh tích bị ném vào một hầm lửa. Những thuộc hạ khủng khiếp của Thần Chết, cầm những chiếc búa có kích thước như những ṭa nhà, và bằng từng cú đập mạnh đă tung rải thịt xương họ.

Bởi họ chết đi sống lại liên tục và chỉ liên tục chịu đựng nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, nên những tiếng kêu khóc thất thanh của họ có thể làm nổ tung và tách rời núi non và thung lũng.

Mọi người kêu khóc gọi tôi: “Dudjom Drolma, xin tụng cho chúng tôi một thần chú mani!” về phần tôi, tôi cảm thấy một ḷng bi mẫn không thể nghĩ bàn và đă tụng hát thần chú mani theo một giai điệu.

Tôi tiếp tục đi cho tới khi đi ngang qua bốn người đàn ông, là những người hàng thịt ở Gamdzed trong miền Hor. Một người tên là Buchhung và người kia là Buja; tôi không nhớ rơ tên hai người kia.

Khi những thuộc hạ đầu ḅ lần lượt cắt cổ họ bằng những lưỡi gươm cháy đỏ, họ kêu khóc với tôi rằng họ phải chịu đựng hậu quả của việc giết những gia súc vô tội. Họ phải trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi của sự chết và sống lại liên tục.

Với ḷng bi mẫn, tôi hát tụng thần chú mani theo một giai điệu và thỉnh cầu thiên nữ cao quư và tôn kính Tara, v́ thế bốn người hàng thịt được giải thoát khỏi nỗi khổ của họ.

Họ nói với tôi: “Xin đưa chúng con ra khỏi chỗ này” Tôi thúc giục họ đi vào con đường ánh sáng trắng dẫn tới núi Potala, và trong tâm trạng vui mừng họ đi xa khuất tầm mắt.

Om mani padme hum hri.

Rồi vị thiên nữ cao quư bi mẫn nói những lời sau:

Đừng phục vụ chất độc cho các đạo sư thông tuệ.

Đừng trộm cắp thực phẩm của các hành giả Pháp dấn ḿnh vào thực hành mănh liệt.

Đừng thực hành Pháp đă bị ô nhiểm bởi những ác hạnh.

Đừng làm nhơ bẩn các b́nh chứa tượng trưng cho thân, ngữ và tâm của các Đấng Chiến Thắng.

Luôn luôn tránh xa các ác hạnh và hăy thực hành thiện hạnh.

Ô các cư sĩ và tu sĩ, thuộc giai cấp quư tộc hay giai cấp thấp của thế giới con người thế tục!

Chớ để tim quư vị bị trói buộc bởi xích xiềng lănh đạm.

Hăy bảo vệ nhân và quả của nghiệp như giữ ǵn đôi mắt quư vị.

Nhờ đức hạnh của Pháp, dù bằng một giạ hay chỉ một nhúm,

chắc chắn rằng không có ǵ khác hơn một định mệnh duy nhất,

v́ thế chớ nghi ngờ điều này là chân thật,

hăy liên tục cầu xin Tam Bảo.

Hăy thực hành theo giáo huấn của các đạo sư của quư vị;

hăy tuân thủ đức hạnh và từ bỏ những ác hạnh.

Không lợi ích ǵ khi cảm thấy hối tiếc và giờ chết của quư vị.

Ô các đạo sư và tulku, tăng và ni, những yogin chứng ngộ,

những hành giả mật thừa, những pháp sư, những học giả, thủ lănh,

những bộ trưởng chính phủ, những thần dân, từ trẻ em trở lên:

Hăy giữ thông điệp này giữa trái tim quư vị.

Tối hảo là hăy nuôi dưỡng sự xác tín siêu việt và hoan hỉ vào giở chết của quư vị.

Nếu không được như thế, đừng sợ hăi và không tự hổ thẹn.

Ít nhất là không có ǵ để hối tiếc.

Đừng sai phạm lỗi lầm! Đừng sai phạm lỗi lầm! Hăy thực hành đức hạnh!

Om tare tam soha.

Có nhiều ngàn thợ rèn ở thế giới con người. Thân họ bị bao phủ bởi những đống than lớn như núi Tu Di. Họ bị thêu đốt trong ngọn lửa, thịt họ không bị tách rời khỏi xương và bị nghiền nát bởi những chiếc búa có sắt, có kích thước như núi Tu Di.

Rồi họ bị những chiếc kẹp chụp bắt và bị thêu đốt như trước. Thân xác thêu cháy của họ biến thành màu sắt; chúng bị đập vỡ thành nhiều mảnh và bị đưa vào ḷ rèn. Rồi họ bị thêu đốt như trước, và lại tiếp tục. Thật là một cảnh tượng khủng khiếp làm tôi choáng váng.

Tôi hỏi những thuộc hạ: “Những hành động nào dẫn tới hậu quả cuối cùng này?”

“Ha, ha!” họ trả lời: “Những người này rèn súng ống và những khí cụ phá hoại khác dao và ŕu chiến đấu, những mũi tên và giáo dùng để tàn sát nhiều người và ngựa. Họ sửa chữa súng bắn không chính xác, kéo dài và làm thẳng ṇng súng và ống nhắm và trui rèn lưỡi kiếm và v.v…”.

Khi nói như thế, nhiều ngàn thuộc hạ giáng những nỗi đau đớn không ngừng nghỉ lên những người thợ rèn này.

Om mani padme hum hri.

Có nhiều người gây sự bất ḥa trong các ḍng tu, biển thủ tài sản của các đền chùa và tu viện, hoặc đầu tư kinh doanh bằng những vật cúng dường mà tăng đoàn thâu thập. Tôi không thể nhận biết tất cả họ. Có nhiều ngàn người trong số họ đang có mặt ở một khu vực. Than hồng nóng đỏ, rác rưởi và kim loại nóng chảy được rót vào miệng họ.

Họ kêu khóc: “Than ôi! Chúng tôi khổ biết bao! Ôi cha ơi, Ôi mẹ ơi! Nỗi khổ của chúng tôi to lớn biết bao! Chúng tôi thật khó thoát khỏi nỗi đau đớn và khốn khổ này! Khi chúng tôi sống trong cơi người, chúng tôi không nghĩ rằng có thể đau khổ ghê gớm như thế này.

Nhưng giờ đây chúng tôi nhận ra rằng thật nguy hiểm biết bao khi dính dáng vào tài sản của Tăng đoàn. Điều đó c̣n dễ hơn việc nuốt thuốc độc, bởi chỉ duy nhất cái chết là điều chắc chắn. Không có ǵ tệ hơn việc lạm dụng tài sản của những thành viên trong Tăng đoàn, bởi nó gây nên đau khổ to lớn như thế này. Than ôi!”.

Tôi được cho biết là dù được giải thoát khỏi trạng thái này, họ sẽ bị tái sanh làm ngạ quỷ với các che chướng ô uế nội tại. những kẻ gây nên sự bất ḥa và chia rẽ trong Tăng đoàn phải kinh qua Địa ngục Đau khổ Liên tục (Địa ngục Vô gián) thấp nhất mà không có bất kỳ sự ngưng nghỉ nào giữa những đời trước và đời sau của họ.

Om mani padme hum hri.

Tôi cũng nh́n thấy các cư sĩ tantrika, đă hành xử vô trách nhiệm, những phù thủy già và những người phàm tục giả bộ làm các đạo sư, vô số những người đó đang ói ra máu và trải qua sự đau đớn không thể chịu được của thân xác. Tôi thấy nhiều sinh vật ăn thịt đang ngấu nghiến họ và nhiều cư dân ở địa ngục ném ra những lời buộc tội về những ác hạnh của họ.

Ô những lạt ma tăm tiếng của thời đại, gồm cả tu sĩ lẫn cư sĩ, một đứa con gái hèn mọn như tôi hầu như không dám nhắn gởi tới quư ngài, v́ thế tôi phải van nài quư ngài. Trong các cơi địa ngục là những cuộc phán xét mà quư ngài có thể tự thấy chính ḿnh.

Chúng ta sẽ xem xét những điều này? Quư vị, những cư sĩ tantrika, ngày nay với mái tóc dài và những áo choàng trắng, vợ (chồng) và con cái quư vị đă sum vầy đông đảo. Được các vị trời và quỷ ma trợ giúp và được sở hữu một ít năng lực huyền bí nhỏ bé, quư vị lừa phỉnh người khác bằng cách tuyên bố ḿnh phải những thị kiến về các vị trời và quỷ ma.

Nếu quư vị có khả năng nghĩ tưởng về điều đó, giờ đây hăy thực hiện nó. Cầu mong điều đó không làm tổn hại quư vị và cầu mong cuộc đời quư vị được trường thọ. Đó là thỉnh cầu của tôi.

Dưới đây là thông điệp của Yama Dharmaraja:

Những đạo sư, các tăng và ni tôn quư trong thế giới này

tin cậy nhiều guru theo một cách thế hời hợt mà không khảo sát họ.

Họ không giữ ǵn những thệ nguyện samaya của ḿnh, và

v́ thế đặt một gánh nặng lên vai họ, nó kéo họ xuống đáy sâu địa ngục.

Đặc biệt, vị đạo sư mà từ Ngài ta nhận lănh những quán đảnh,

là người chỉ cho ta con đường đi tới sự trưởng thành và tự do trong tâm linh,

và là người khai thị bổn tánh chân thật của ta

là tinh túy của một ngàn vị phật của thời đại may mắn này.

Đối với những kẻ làm đảo lộn hay đi nghịch lại lời dạy của đạo sư họ

hoặc kẻ tạo nên mối bất ḥa trong những bằng hữu, anh em và chị em tâm linh

-là những người đă tham dự cùng một mạn đà la và cùng một ḍng giáo lư-

th́ chẳng có sự tích tập công đức nào đem lại lợi lạc.

Không chỉ như thế, mặc dù những kẻ mắc phạm những ác hạnh chống trái như Phật

có thể tịnh hóa nghiệp của họ nhờ sự sám hối, nhưng những kẻ găy bể samaya th́ không có nơi nương tựa.

Mặc dù những kẻ đă giết hại nhiều ngàn người và ngựa

có những phương tiện để sám hối các hành động của họ, nhưng những kẻ găy bể samaya đă từ bỏ các đối tượng quy y mà với các ngài họ có thể sám hối.

Đi nghịch lại lời dạy của vị thầy gốc của ḿnh là một ác hạnh c̣n to lớn hơn việc mỗi ngày giết một người.

Dù cho một ngàn vị Phật của thời đại may mắn này xuất hiện,

nhưng bất kỳ dây cứu hộ nào các ngài có thể tung ra để kéo lên những kẻ chịu trách nhiệm về ác hạnh nặng nề này cũng đều bị đứt.

Không chỉ một ḿnh kẻ mắc phạm bị đọa lạc;

mà những ai có liên hệ với họ qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, giống như những đàn bê và cừu chạy tán loạn trên một sườn núi,

cũng sẽ bị lộn ngược đầu và rơi xuống Địa ngục Kim cương.

Vào lúc đó, mặt đất của thế giới con người sẽ rung động

và nhiều bậc linh thánh sẽ thị tịch.

Trong một ngàn kiếp sẽ không thoát khỏi trạng thái đó;

mà trong hàng tỉ đại kiếp không thể tính đếm được

họ sẽ phải chịu đựng lập tức mọi đau khổ

mà tuyệt đối không cách nào chịu đựng nổi sự đau đớn này.

Than ôi, hỡi các đạo sư và tulku, cư sĩ lẫn tu sĩ trong thế giới con người!

Hăy không ngừng dâng lên những lời cầu nguyện, trong mọi lúc hăy duy tŕ mối liên hệ không ngăn cách

với vị thầy gốc, ngài ngang bằng chư Phật trong ba thời.

Chớ để ba năng lực của quư vị bị xao lăng.

Hăy phụng sự đạo sư của quư vị trong bất kỳ cách thức nào có thể.

Hăy cúng dường những vật sở hữu thâu đạt được như một sự cúng dường mạn đà la hoan hỉ.

Nếu quư vị có thể chấp nhận mệnh lệnh của đạo sư của ḿnh

và hiến dâng thân thể lẫn sinh lực của ḿnh để phụng sự đạo sư,

th́ cho dù quư vị không thực hành đức hạnh nào khác, như thiền định về các bổn tôn hay tŕ tụng các thần chú,

quư vị sẽ không cần gặp ta khi từ bỏ thân xác ḿnh.

Quư vị sẽ sẵn sàng đi tới bất kỳ cơi thuần tịnh nào quư vị muốn.

Bởi thông điệp này tiết lộ công khai những vấn đề ẩn dấu và bí mật,

quư vị không cần phải xấu hổ hay bối rối – hăy lớn tiếng công bố ra ngoài cho mọi người.

Nếu quư vị muốn nghe lời khuyên của Dharmaraja,

hăy ôm giữ những ǵ ta nói trong tim quư vị,

Samaya!

Tiếp tục hành tŕnh trong các địa ngục, tôi đi tới một nơi có khoảng mười tám các vạc úp miệng xuống dưới. Tôi tự hỏi: “Những vật kỳ dị này sao lại úp ngược thế nhỉ?”

Ngay sau đó, Awa Đầu-Ḅ xoay cái vạc nhỏ nhất trong số đó (chúng lớn tới nỗi nếu đi ngựa th́ phải mất tới mười tám ngày mới giáp ṿng chu vi của nó) cho ngửa miệng lên, hướng về phía tôi. Bên trong là nhiều lớp máu. Tim tôi bừng bừng, thân tôi run rẩy v́ xúc động.

Ông ta nói: “Sự kiện năm nay chúng lật úp xuống có nghĩa là nhiều đạo sư, đặc biệt là các ngài Tromge Khakyod, Dza Konchhog và những vị khác, đă khởi hành tới các cơi thuần tịnh, đem theo những người có liên hệ với các ngài. Đối với họ, sẽ không có chuyện rơi trở lại vào ṿng luân hồi sinh tử”.

Trên một con đường ánh sáng cầu vồng trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, vị đại hành khất T’hrulzhing, lạt ma Gyurmed Dorje ở Tahor tiến lại gần cùng với đoàn tùy tùng gồm nhiều đệ  tử. Ngài đang hát tụng bài ca sau đây:

Om ah hum vara guru padma siddhi hum.

Tôi không thấy cơi địa ngục, mà chỉ thấy cơi thuần tịnh cao tột, Pháp giới nền tảng của mọi hiện tượng.

Tôi không thấy Yama Dharmaraja, mà chỉ thấy Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).

Tôi không thấy đám thuộc hạ hung nộ, mà chỉ thấy các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ của các mạn đà la.

Tôi không thấy các đứa trẻ tươi đẹp và tối ám của nghiệp, chỉ thấy năng lực mạnh mẽ tự-sinh của trí tuệ siêu việt và những phương tiện thiện xảo.

Tôi không thấy các cư sĩ, tăng hay ni, mà chỉ thấy cơi thuần tịnh của phạm vi hoàn toàn rộng lớn của sự thuần tịnh vĩ đại.

Tôi không thấy những hậu quả sau cùng của thiện hạnh và ác hạnh, mà chỉ thấy năng lực mạnh mẽ của giác tánh nội tại tô điểm chân tánh của thực tại.

Tôi không thấy sự khác biệt giữa những ǵ có mối liên hệ và những ǵ không,

mà chỉ thấy tất cả hoàn toàn nối kết trong Pháp giới nền tảng của các hiện tượng.

Tôi không thấy các cơi chúng sinh cao và thấp, mà chỉ thấy sự thuần tịnh nguyên sơ của sự hiện hữu có điều kiện và của trạng thái an b́nh.

Gấp lên, nhanh lên, mọi người hăy theo tôi!

Khi Ngài hát bài đó, từ trái tim Ngài một ánh sáng chiếu rọi như ánh trăng. Ngay lúc ấy nó tràn ngập mọi cơi địa ngục, những âm thanh của sự đau khổ và khóc than đột nhiên ngưng bặt.

Những cư dân địa ngục đứng nh́n với đôi mắt mở to, đầy vẻ sợ hăi. Ngay cả Dharmaraja cũng biến mất trong phút chốc. Vị lạt ma đi qua, dẫn dắt mười hai ngàn chúng sinh tới cơi Potala, dù họ có liên hệ với Ngài hay không.

Tôi quỳ lạy, cúng dường và lập đi lập lại sự xác quyết của tôi trong niềm tin và sự hoan hỉ. Đức Tôn kính Tara cũng chắp tay và nói: “Vị lạt ma đó tên là Akara, cũng được gọi là Tahor Gyurmed Dorje”.

Cũng xuất hiện một lạt ma ở quận Nyagrong tên là Yeshe Droje, thân Ngài chiếu sáng một vẻ rực rỡ khó mà cưỡng được và có một đoàn tùy tùng gồm nhiều daka và dakini vây quanh Ngài. Từ đôi môi Ngài phát ra những lời sau:

Con khẩn cầu dưới chân bậc thánh đại thành tựu ở sườn núi Lhangdrag.

Con là Yeshe Droje của cái thấy không tạo tác,

Yeshe Droje của sự thiền định không lầm lẫn,

Yeshe Droje của mục đích không lay động.

Từ tuổi ấu thơ, con đă nối góc một bậc thánh thành tựu vĩ đại.

Con đă đem tới sự hoàn thiện của Ngài cuộc đời cùng sự thực hành của con.

Tất cả những ai có một mối liên hệ với tôi, tôi đă hướng họ tới con đường toàn trí.

Giờ đây những ai có niềm tin nơi Padma Duddul,

bậc thánh đại thành tựu ở quận Nyagrong,

và ở tôi, một lăo già,

sẽ đi với tôi tới tiểu lục địa Chamara,

tới núi Huy Hoàng.

Om ah hum vajra guru padma siddhi hum.

Với những lời này, ánh sáng chiếu rọi và tràn ngập dưới mười tám cơi địa ngục. Rồi vị lạt ma dẫn hai mươi ngàn người, các đạo sư, tăng sĩ và các cư sĩ, ngay cả những hành khất và người mù, tới núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.

Tôi cảm thấy một niềm tin và sự hoan hỉ khó tưởng tượng nổi. Vị thiên nữ tôn kính lạy ba lạy và nói: “Vị lạt ma này tên là Jnanavajra, cũng được gọi là hành khất Yeshe Dorje. Chúng sinh chỉ nghe nhắc tới danh hiệu Ngài cũng được hưởng vô lượng lợi lạc”.

Trong số những người đàn ông và đàn bà ở cộng đồng Satod là một người đàn ông tên là Wanggyal mang trên lưng một chuỗi hột bồ đề có kích thước bằng một trái núi. Không thể nâng nó lên, ông ta kêu thét trong đau đớn khi các thuộc hạ đánh đập ông.

Tôi hỏi một thuộc hạ đầu cọp là hành động nào đă dẫn tới hậu quả này. Ông ta trả lời: “Người này đă đánh đập một khách hành hương du phương, một yogin chứng ngộ đang trên đường tới Tsiwa và dùng vũ lực ăn cắp chuỗi tràng và tất cả những tài sản khác của Ngài”.

Om mani padme hum hri.

Có một người tên là Ashey, mặc y phục màu nâu sậm, sống trong miền Gakhog. Ông ta giết hại nhiều lạt ma và những bậc trưởng thượng tâm linh thánh thiện, giả vờ đọc các kinh điển và nhận thù lao để tụng Kangyur nhiều lần mà chưa từng thực hiện những sự tŕ tụng này.

Lưỡi của ông ta bị kéo ra khỏi miệng. Trên chiếc lưỡi lớn như đồng cỏ Aji, là những con trâu sắt với những chiếc sừng sắc nhọn. Buộc vào sừng là những lưỡi cày sắt nóng cháy mà các con trâu dùng để cày bừa “cánh đồng” này. Nỗi đau đớn của người đàn ông này th́ không thể tưởng tượng nổi. Một thuộc hạ đầu khỉ nói với ông:

Lời của các Đấng Chiến Thắng th́ giống như một viên ngọc như ư:

Chớ nhận thù lao nhờ chúng hay bán chúng cho những người khác.

Ngữ của lạt ma th́ giống như một cái b́nh pha lê:

Chớ ném nó vào rác rưởi hay bùn nhơ, mà hăy yêu quư nó.

Ngôn ngữ tuyệt hảo nhất của Đức Phật th́ giống như một đại dương lương dược:

Đừng ngồi trên bờ và chết khác.

Giả vờ đọc Kinh văn th́ giống như ngụy tạo cỏ là vàng,

nhưng nó không trở thành vàng và ngươi phải chịu đựng nỗi khốn khổ này.

Trong khi vị thuộc hạ nói, những con trâu cứ cày liên tục.

Có khoảng chín người gốc miền Ragchab đang ở trong bardo. Họ không có ư thức được rằng họ đă chết và tâm trí bị dính mắc với của cải, tài sản và với cha mẹ họ. Họ và nhiều người khác không làm chủ được nơi sắp đi tới.

Hơn nữa, có khoảng một trăm nhà sư ở Nyitso. Một số vị mặc một bộ y phục bằng sắt nóng giống như chiếc y của nhà sư; một số mặc y phục bằng sắt nóng giống như áo chẽn không tay của nhà sư. Tôi được cho biết rằng đó là hậu quả của việc họ đă tham dự những tiệc cúng dường với samaya bất tịnh, giả bộ giữ giới nguyện thanh tịnh, bản thân họ không sám hối và tịnh hóa.

Cũng thế, có một người tên là Atsang ở vùng T’hrom thượng. Nhiều thuộc hạ của Yama đang đổ ch́ nóng chảy vào miệng ông ta. Họ nói: “Đây là kết quả sau cùng của việc hắn đă kín đáo ăn những thực phẩm cúng dường được chuẩn bị tại nhà hắn và nhà những người khác, khiến cho các thành viên của tăng đoàn xuất gia phải ăn đồ ăn thừa”.

Con khẩn cầu Đức Avalokiteshvara cao quư.

Con khẩn cầu Đức Avalokiteshvara đưa dẫn chúng con suốt con đường.

Con khẩn cầu Ngài dẫn dắt những người chết đó

là những kẻ lang thang trong các cơi thấp của địa ngục, tới núi Potala.

Om mani padme hum hri.

Có một cụ già trông như ông nội thuộc gia đ́nh Lạt ma Tromge, mặc một áo choàng đen lùng thùng. Trong bàn tay phải ông quay một bánh xe cầu nguyện bằng bạc, trong khi bàn tay trái cầm chuỗi tràng bằng gỗ cây keo.

Tên ông là Tromge Sodnam Namgyal và ông đang lớn tiếng hát tụng thần chú mani theo một nhịp điệu vui tươi. Các cư dân ở địa ngục đối xử với ông rất kính trọng và tin tưởng. Là một gia chủ và hóa thân của một Bồ Tát, ông tiến lên, dẫn theo nhiều chúng sinh trên con đường đi tới giải thoát.

Lạt ma Jinpa Dondan thuộc bộ tộc Zur có cách hành xử hết sức điên khùng. Ngài đi qua, tay cầm một chuỗi tràng bằng xương và hát tụng thần chú vajra guru theo một giai điệu khi dẫn dắt nhiều chúng sinh trên đường đi tới giải thoát.

Một người bảo trợ của Tromge Chhogtrul tên là Rinchhen thuộc gia đ́nh Kyompa, ở trong cơi địa ngục, đang hát tụng thần chú mani theo giai điệu với một giọng trong trẻo. Khi lớn tiếng nói: “Chhogtrul Dorje Chang thấu biết tất cả”. Ngài dẫn vài người tới cơi giới núi Potala.

Một người nào đó tên là Buchhung ở miền Nyoshul, đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông yêu cầu tôi tụng cho ông thần chú mani, hay thậm chí một chữ Om duy nhất cũng được.

“Ông là ai?” Tôi hỏi.

“Tôi là cậu của cháu”.

“Sao cậu không được Orgyan T’hutob Lingpa cứu?”

Ông nói: “Nỗi đau khổ của cậu là hậu quả của những lỗi lầm đă phạm trong lúc tṛ chuyện với vị đạo sư đó”.

Sau khi tôi tụng lớn tiếng từ xa cho ông ba lần thần chú mani, ông đi qua, biến mất khỏi tầm mắt tôi và tôi không rơ ông đi đâu.

Om mani padme hum hri.

Một cư dân ở địa ngục có đầu của một con cú đang dẫn nhiều người trên một cánh đồng sắt nóng, gây đau đớn cho nhiều người, cả cư sĩ lẫn tu sĩ. Cư dân đầu-cú này nói với tôi: “Cô gái thế tục có thái độ cao thượng, đừng bước lên con dao bằng đồng đỏ này của tôi”.

Tôi đă tụng liên tục thần chú mani. “Xin hăy cư xử nhưng một đồng minh của những chúng sinh này”, tôi van nài.

Cư dân này nổi giận trước thỉnh cầu của tôi. “Cô đă làm những thiện hạnh và ác hạnh nào? Tự cô hăy giải thích rơ ràng xem!” ông ta nói.

“Tôi từng ở mọi nơi, từ núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trở xuống và từ cánh đồng sắt nóng rộng lớn trong các địa ngục trở lên. Tôi đă tŕnh bày các thiện và ác hạnh của tôi trước mặt Dharmaraja. Tôi là một cô gái sống bởi nhân và quả của nghiệp. C̣n ông đă làm những thiện hạnh và ác hạnh nào?”

Ông ta không nói ǵ mà vẫn đứng đó, miệng mỉm cười.

Om mani padme hum hri.

Có một bà cụ tên là Argrong ở cộng đồng Barchhung. Là hậu quả sau cùng của việc giết chuột chũi, bà bị một cư dân có đầu chuột chũi đánh đập. Bà gởi cho tôi mang về một thông điệp:

Nếu nhân danh bà, một trăm triệu thần chú mani, Tantra Sám Hối Bất nhiễm, Sự Sám hối các Ác Hạnh và Kinh Giải Thoát được khắc trên đá và những sự hiến cúng được dâng lên cho nhiều hội chúng tăng sĩ, bà ta sẽ được tái sanh làm một cư sĩ tantrika trong miền Derge.

Khi bà nói điều này, nhờ nguyện lực của một đạo sư thuộc bộ tộc Ango ở Barchhung, bà thăm viếng chóng vánh một cơi thuần tịnh; nhưng sau đó tự bản thân nghiệp lực cạn kiệt và là hậu quả của việc sát hại một người, bà bị tái sanh trong Địa ngục Sống lại.

Để giải thoát bà khỏi chiếc ṿng cổ bằng sắt làm bà nghẹt thở, tôi khẩn cầu Đức Avalokiteshvara bi mẫn siêu việt và tụng thần chú mani cho bà từ xa, sau đó cái ṿng được lấy ra.

Tôi cho là bà ta sẽ được sanh làm người trong khoảng bảy đời. Bà nói rằng để bà được giải thoát, mọi người phải thực hiện pháp sám hối và tịnh hóa (đặc biệt là một trăm triệu thần chú mani, một trăm triệu thần chú siddhi, một triệu ba trăm ngàn thần chú trăm-âm của Đức Vajrasattva, và Sự Sám hối các Ác Hạnh); th́ bà có thể được tái sanh trong cơi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara sau khi đă trải qua một đời làm người.

Cái lưỡi của một người tên là Nyima P’huntsog ở Tsang phía nam trung tâm Tây Tạng bị kéo dài ra bằng kích thước của cả một quốc gia. Nó găm đầy những gai sắt trong bốn phương và bị đổ kim loại nóng chảy sôi sục lên. Tôi được cho biết đó là hậu quả sau cùng của sự báng bổ và nói dối, và đặc biệt là việc có cái nh́n sai lệch về các thành viên của tăng đoàn xuất gia.

Một người tên là Dondrub, là hậu quả sau cùng của việc đốt nhà, bị các cư dân trong địa ngục đưa lên một ngọn lửa phun ra từ sắt nóng đỏ, bị cháy sém cho tới khi thân ông chỉ c̣n trơ những khúc xương dính với nhau. Cuối cùng, ông ta sống lại và tiếp tục nỗi khổ như trước.

Kim loại nóng chảy được đổ vào miệng Tsering Drolma, phối ngẫu của Lạt ma Tanpa ở Minyag, là hậu quả của việc bà đă đầu độc vị lạt ma. Bởi đau đớn khủng khiếp, những giọt nước mắt tuôn ra từ đôi mắt bà giống như mưa rào trong một năm. Các cư dân tạo nên những tiếng huyên náo dễ sợ, một âm thanh ầm ĩ như tiếng sấm của một ngàn con rồng, đủ để tách rời thiên đường và trái đất ra làm hai.

Bảy người từ miền Golog, kể cả Tsering Kẻ Giết Ḅ Yak Hoang dă, bị móc vào sừng những con ḅ yak hoang bằng sắt, sau đó bị quăng xuống đất rồi bị húc. Kim loại nóng chảy được đổ vào miệng những bà vợ của họ, Chhimed Dronma và những người khác, khiến những lưỡi lửa nóng đỏ phụt ra sáng rực từ mọi khiếu trên người họ. Nỗi khổ của họ lên tới cực điểm.

Là hậu quả của việc làm ô uế nước trà của tăng đoàn xuất gia và đánh đập hoặc tấn công các nhà sư trong tăng đoàn, Gonpo Dargyay Tsogo, Je Nyima và những người khác ở Dartsedo đang vùng vẫy vượt qua con sông đầy xác chết không có chỗ cạn; họ kêu khóc ầm ĩ v́ đau đớn khủng khiếp.

Vào lúc đó, Yama Dharmaraja gởi tôi mang về thông điệp sau đây:

Hăy mang thông điệp này về cho các đạo sư:

Trong cái thấy tối hậu của bản tánh căn bản của thực tại thoát khỏi sự tạo tác,

Ta phải giống như không gian, không rơi vào bất kỳ thái cực nào.

Trong sự nuôi dưỡng các giai đoạn phát triển và thành tựu, sự hiện diện tự nhiên của sự trong sáng tuyệt đối,

ta phải giống như một ngọn núi, không có bất kỳ sự đổi thay hay chao đảo nào.

Trong sự vận dụng các giác tánh nguyên sơ, sự giải thoát tự nhiên khỏi năm độc,

ta phải giống như đại dương, không có sự chấp nhận hay chối bỏ.

Để làm việc v́ hạnh phúc của chúng sinh, dẫn đường trong việc làm lợi lạc cho người khác,

ta phải giống như một người cha hay mẹ, không đánh giá dựa trên sự thân thiết hay xa cách.

Để khám phá mục đích là sự thành tựu tự nhiên của hai loại lợi lạc,

ta phải giống như kẻ đi tới Đảo Vàng và không mất những ǵ đă t́m được ở đó.

Những người như thế th́ vô cùng tốt lành, là bậc siêu phàm trong những người quan tâm tới Giáo Pháp và chúng sinh.

Trái lại, những người giả bộ cung cách của đạo sư,

những kẻ thực hiện p’howa cho người khác mà không thấu suốt bổn tâm minh,

những kẻ chỉ v́ thực phẩm và của cải mà hạ thấp Mật thừa thành việc lầm bầm những nghi thức, trống rỗng,

những kẻ tự phong là người lăo luyện tài giỏi trong việc làm lợi ích cho người khác trong khi khát khao tích lũy của cải,

những kẻ chỉ bắt chước Phật Pháp linh thánh mà không giải thoát ḍng tâm thức của chính ḿnh,

và những kẻ dẫn dắt những người khác, cả người sống lẫn người chết, trên con đường sai lạc:

Hăy đưa tất cả những hành động theo những cách này tới gặp ta!

Và hăy mang một thông điệp tới các nhà sư:

Những người đi theo dấu chân của Đấng Đạo sư, Đức Phật Toàn Giác,

những người nắm giữ chân lư Thánh Pháp của các Kinh điển và tantra,

thân thể được tô điểm bằng cờ chiến thắng là những chiếc y màu vàng nghệ của sự thuần tịnh viên măn,

và những người đă ngưng dứt mọi hành vi ác hại, đă thâu thập mọi đức hạnh:

Họ là phước điền cho hai sự tích tập và được các vị trời tôn kính.

Những người mang dấu ấn con cái của các Đấng Chiến Thắng nhưng phá hoại Giáo Pháp của các Ngài,

Những kẻ mà sự thôi thúc của họ hướng về những theo đuổi thế tục,

những kẻ mê đắm đàn bà và rượu chè như cốt tủy của sự thực hành tâm linh của họ,

những kẻ dấn ḿnh vào mười loại hành vi ác hạnh:

Hăy để những kẻ hành động theo những cách này tới gặp ta!

Và hăy mang một thông điệp tới các vị phối ngẫu dakini:

Những ai lúc đầu làm chín mùi ḍng tâm thức của họ bằng sự quán đảnh và giữ ǵn samaya thanh tịnh,

những người khi đó trở nên thiện xảo trong các điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu,

và được phú bẩm kinh nghiệm và sự thực hành,

và những người sau cùng đi tới những giới hạn của sự thành tựu bằng con đường bốn cấp độ của sự hỉ lạc:

Những người như thế an trú giữa những bậc tŕ giữ giác tánh nội tại.

Nhưng những kẻ ích kỷ và dối gạt vĩ đại với những phương cách cám dỗ,

những kẻ khi đó chọn các ma vương làm bạn đồng hành và gây nên sự tranh chấp, đau khổ và xung đột,

và những kẻ cuối cùng bị đưa tới sự hủy hoại bởi những dục vọng thông dâm và tằng tịu tai hại:

Họ sẽ không được giải thoát.

Hăy cấp tốc đưa họ tới gặp ta!

Và hăy mang một thông điệp tới các sư cô:

Những người cúng dường tóc trên đỉnh đầu ḿnh cho các tu viện trưởng và giác thọ,

những người bảo vệ thân ḿnh như của cải không cho kẻ cướp xâm phạm

những người coi xứ sở quê hương như quân thù và t́m tới những sườn núi và khe hang cô tịch,

và những người theo đuổi thực hành đức hạnh với động lực hoàn toàn vị tha thanh tịnh:

Họ nhận ra bổn tâm và sẽ không hối tiếc vào giờ chết.

Trong một trạng thái cực kỳ hỉ lạc, họ sẽ đi tới bất kỳ cơi thuần tịnh nào họ muốn.

Nhưng những sư cô giả dối thọ giới

mà không tŕ giữ các thệ nguyện của họ và trắng trợn vứt bỏ chúng,

những kẻ cuối cùng dấu đầu ḿnh trong cát,

thèm khát tính dục bất chính và chạy quanh như những con chó lạc loài:

Hăy để những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!

Và hăy mang một thông điệp tới các thủ lănh và nhà cai trị:

Hăy lấy Tam Bảo làm nguồn mạch nương tựa chính yếu.

Hăy giữ vững vương quốc Giáo Pháp như lời khuyên dạy tinh túy của quư vị.

Chớ quan tâm tới lợi lạc riêng của quư vị, mà hăy bảo vệ những định luật đạo đức.

Hăy khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh, và ngăn cấm việc săn bắn và đánh bắt cá.

Quư vị sẽ đạt được quyền hành, thế lực và một thân thể cao quư, và thường xuyên gặp được con đường đi tới giải thoát.

Nhưng nếu quư vị không phân biệt được sự tuyệt hảo và điều ác hại,

quư vị sẽ đem tới sự hủy hoại cho chính óc bè phái của quư vị và phạm những tội ác làm hại người khác

và phí phạm cuộc đời khi hoàn toàn dấn ḿnh trong sự bất ḥa, mâu thuẫn, tranh căi và xung đột giết hại lẫn nhau.

Hoàn toàn vô ích, quư vị sẽ đem lại đau khổ cho nhiều chúng sinh.

Hăy đưa tất cả những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!

Hăy mang một thông điệp tới những người đàn ông:

Tất cả các ông, trước tiên c̣n làm một sự pha trộn thiện hạnh và ác hạnh,

rồi thiết lập những liên hệ với nhiều đạo sư

và sau cùng gặp được Phật Pháp linh thánh đích thực,

thực hành sám hối như cách đối trị cho các ác hạnh:

Hăy đi trên con đường cao quư càng lúc càng dẫn tới những trạng thái chói ngời.

Nhưng hầu hết trong các ông hành xử phi đạo đức, như những người chỉ huy binh lính hay những kẻ cướp,

Nhồi nhét thừa mứa thực phẩm và của cải, làm năm hành vi bị quả báo lập tức,

coi đạo sư và Tam Bảo như một nỗi tai ương.

Tâm các ông bốc cháy như ngọn lửa, có khuynh hướng phạm các ác hạnh:

Hăy đưa tất cả những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!

Và hăy mang một thông điệp tới những người đàn bà:

Tất cả quư vị không bội ơn những bậc cha mẹ tốt lành

hoặc là nguyên nhân cho mối bất ḥa của bạo lực và tranh chấp trong gia đ́nh,

mà phụng sự cha mẹ và cư xử nhân từ với mọi người,

xa lánh ác hạnh và theo đuổi thiện hạnh càng nhiều càng tốt:

không hối tiếc vào giờ chết và quư vị đi tới sự tái sanh trong những cơi cao hơn.

Những một số trong quư vị xâm phạm thân thể và tinh thần của các bậc cha mẹ tốt lành,

là nguyên nhân của nhiều bất ḥa cùng bạo lực và tranh chấp trong gia đ́nh,

hết sức khéo léo trong việc sử dụng những âm mưu vi tế với độc chất mạnh mẽ,

với những quan điểm sai lầm về mọi người, liên tục phỉ báng họ:

Hăy để những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!

Và hăy mang một thông điệp tới tất cả mọi người trong thế giới con người:

Khi đă được sanh trong một cơi giới cao, hăy xoay chuyển tâm quư vị hướng tới Giáo Pháp.

Hăy giữ những bánh xe cầu nguyện và các chuỗi hạt trong tay quư vị không ngơi nghỉ.

Hăy theo đuổi sự tŕ tụng các thần chú mani và siddhi như tinh túy của ngôn ngữ quư vị.

Những người trong quư vị có động lực cao quư và ḷng bi mẫn vĩ đại

sẽ không gặp ta mà sẽ đi tới Cơi Cực Lạc thuần tịnh.

Nhưng những người trong quư vị ngay từ ngày đầu mới sanh ra

chỉ gắng làm những hành động ác hại và phi đạo đức

và quay lưng lại Tam Bảo

sẽ không gặp ta mà sẽ đi tới Địa ngục Đau khổ Không ngừng.

Trong Giáo Pháp duy nhất này, hăy phát triển cái thấy và ḷng bi mẫn thanh tịnh, hăy quy y và cầu nguyện;

hăy tŕ tụng các thần chú mani, siddhi, tare và những lời của các Đức Phật ChiếnThắng;

hăy ngăn cản việc săn bắn và đánh cá, hăy khuyến khích những người khác thực hành đức hạnh;

hăy chuộc mạng những chúng sinh, sử dụng cờ cầu nguyện, những khuôn satsa và bánh xe cầu nguyện;

hăy cử hành các nghi thức chay nyungnay, các sự lễ lạy, kinh hành và tịnh hóa những che chướng –

không thiện hạnh nào lớn lao hơn những điều này trong khắp ba cơi.

Đừng quên những thông điệp này, mà hăy tường thuật chúng cho tất cả mọi người.

Sau đó, trên một con đường ánh sáng trắng, tôi thấy những tu sĩ lẫn cư sĩ, đang cầm các bánh xe cầu nguyện, lần chuỗi, tham dự các nghi thức chay, khắc thần chú mani trên đá, treo cờ cầu nguyện, tu sửa những con đường ṃn và gờ tường, nâng cấp những con đường xấu, khuyến khích người khác thực hành đức hạnh, ném các khuôn satsa, thắp đèn cúng dường, thực hiện các sự lễ lạy, đi hành hương và chuộc mạng sống của chúng sinh sẽ bị giết.

Vô số tỉ người trong số đó có vẻ mặt uy nghi, tâm hồn hoan hỉ và tư tưởng lạc quan vui vẻ. Trong khi ŕ rầm tŕ tụng các thần chú mani, siddhi và tare, họ tiến lên, đi tới Cơi Cực Lạc, núi Potala và núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.

Đó là những lời thuật lại của tôi, nó không trái nghịch những chỉ dạy của đạo sư. Những bậc cha mẹ tốt lành của tôi và tất cả dân chúng trong miền tôi ở đă liên tục thỉnh cầu tôi thuật lại tiểu sử của tôi, v́ thế ở đây tôi ghi lại một bản tường thuật phác thảo. Cầu mong nó làm vui ḷng quư vị.

Trong thời đại suy hoại này, khi những vấn đề lớn nảy sinh nhanh chóng, nếu chúng ta không nắm giữ những lời dạy của các Đấng Chiến Thắng với sự xác tín, th́ điều ǵ có thể được nói cho chúng ta?

Bài tường thuật Giáo Pháp về nhân và quả này mà tôi thực chứng kiến th́ không bị ô nhiễm bởi sự nói dối; cũng không chỉ là một sự lặp lại những lời của người khác nói. Tôi t́m được sự xác quyết để nói mà không bóp méo những thị kiến ở cơi địa ngục, chúng giảng dạy sự chấp nhận và từ bỏ nhờ ân phước của Đức Tara tôn quư và những đạo sư tốt lành của tôi.

Nếu tôi dối trá, nói rằng đă chứng kiến điều nào đó trong khi thực ra tôi không thấy, hoặc nếu v́ ước ao được kính trọng và nổi tiếng mà tự phụ tuyên bố về trạng thái tâm linh của tôi, th́ xin các ma mốt (mamo) ăn thịt nhanh chóng cướp đoạt sinh lực và hơi thở của tôi.

Đối với những người đọc tường thuật này, xin truyền bá nó và thực hành nó, xin dấn ḿnh không sai sót vào sự chấp nhận và từ bỏ của nhân và quả, thiên nữ cao quư sẽ là người hướng đạo trong suốt con đường ánh sáng cầu vồng.

Nếu có những thuật ngữ hay danh xưng sai lầm, những chữ không chính xác, hay những từ bí mật được phơi bày ở đây, tôi xin sám hối những thiếu sót này trước sự hiện diện của đạo sư. Tôi khẩn cầu được thành tựu sự thuần tịnh không chướng  ngại trong đời này và những đời sau.

Ḍng chảy êm ả, không ngừng nghỉ của đức hạnh hoàn toàn thuần tịnh

nhờ hàng trăm tia sáng tỏa ra sẽ xua tan bóng tối của những lỗi lầm tích tụ,

làm đổ xuống trận mưa lợi lạc và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh vô biên như không gian:

Cầu mong mọi người nhanh chóng đạt được trạng thái của thiên nữ cao quư.

Như thế, bản văn này tường thuật làm thế nào cô gái Dawa Drolma trải qua năm ngày nh́n thấy các thị kiến về cơi địa ngục và những cơi giới khác đă được người sao chép ghi lại đúng như những ǵ từ miệng cô gái nói ra, không có bất kỳ chữ nào được thêm vào hay bỏ sót và không có bất cứ sự sai sót hay lầm lẫn nào trong ư nghĩa.

May mắn, may mắn, may mắn!

Cầu mong tường thuật này là sự trang hoàng sáu lần nhiều hơn của thế giới, chói ngời với sự lộng lẫy tốt lành.

Sarva mangalam cầu mong mọi sự tốt lành.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 824 of 2534: Đă gửi: 25 September 2008 lúc 7:06pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 

HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI

BÊN KIA CÁI CHẾT

 

3- NÚI POTALACƠI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC AVALOKITESHVARA

Kính lễ Đấng Bi Mẫn Siêu Việt,

Avalokiteshvara, kho tàng vĩ đại của ḷng bi mẫn.

Mặc dù cô gái này không thể nói như cô nên nói, tôi có nên thuật lại cho các bạn một tường thuật ngắn về núi Potala hay không?

Cơi giới được gọi là núi Potala nằm ở phía đông nam của Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ. Toàn thể vùng này phủ đầy những bông hoa tươi đẹp và những cây như ư bằng châu báu đâm chồi nẩy lộc ở đó.

Những con suối sủi bọ cam lồ và những đàn chim véo von tuyên thuyết Giáo Pháp. Mọi người đều sinh ra từ những bông hoa và không có sự thay đổi theo mùa từ hạ sang đông. Ngay cả ư niệm về sự đau khổ cũng không có, trong khi kinh nghiệm về hỉ lạc và hạnh phúc th́ vô biên.

Các  Bồ Tát nam và nữ là những bậc đă đạt một cấp độ chứng ngộ vững chắc vui hưởng thực phẩm.

Tuyệt vời một trăm vị, mặc y phục bằng vải sắc cầu vồng và uống cam lồ của các vị trời. Các ngài đă thoát khỏi sinh, lăo, bệnh, tử, phụng sự các Đức Tathagata và nghe Giáo Pháp từ chính Đấng Bi Mẫn Siêu Việt. Ḍng tâm thức các ngài được giải thoát nhờ ḷng bi mẫn vô biên của các ngài. Các ngài tắm trong những cái hồ đầy nước có tám phẩm tính.

Ở đây tôi t́m thấy một ṭa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự xuất hiện và h́nh thành tự nhiên, tường làm bằng năm lớp riêng biệt. Nó trong mờ cả trong lẫn ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cây cột pha lê và tráng lệ nhờ những đá mài bằng châu báu.

Nó được tô điểm bởi những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. Vây quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa.

Phía trên là một mái ṿm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những đầu máng xối có đầu makara những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những cái chuông và chuông chùm nhỏ xíu phát ra những âm thanh thú vị.

Bốn phía của ṭa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những thú vui cảm giác, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số những đống vật cúng dường được sắp xếp, thậm chí c̣n vượt hơn cả của cải của những đại thiên trong cơi trời Nirmanarati.

Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh mở ra, là Đức Avalokiteshvara cao quư, bậc điều ngự bi mẫn siêu việt của chúng sinh, với vẻ tươi trẻ của một thiếu niên mười sáu tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay.

Đôi tay thứ nhất cầm một viên ngọc trong hai bàn tay chắp lại nơi tim, bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành huệ trắng nở hoa cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài.

Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da của một linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi chéo chân trong tư thế kim cương, thân Ngài sáng chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với ngài Drimed Khakyod Wangpo, bổn sư gốc của tôi.

Bên phải Đức Avalokiteshvara là Manidhara, Bậc nắm giữ Viên Ngọc, trưởng tử siêu phàm của Ngài; bên trái là con gái Ngài, Vidyadhari, Bậc nắm giữ Thần chú của Giác tánh; phía sau Ngài là Đấng bảo trợ, Đức Phật Amitabha; và trước mặt Ngài là vị phối ngẫu siêu phàm của Ngài, Đức Shadakshari, thiên nữ của Thần chú Sáu-Âm.

Quyến thuộc tùy tùng của Ngài chỉ gồm những bậc trưởng thượng tâm linh là những vị đă đạt những cấp độ chứng ngộ cao quư, tập hội không thể nghĩ bàn của chư Phật và Bồ Tát.

Đức Tara, bạn đồng hành của tôi nói:

Cung điện này là một xứ sở được tô điểm bằng hoa.

Cơi giới này là một lâu đài quư báu rộng lớn vô biên.

Bổn tôn này là bổn tôn của ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Quyến thuộc này là một đoàn tùy tùng gồm các Bồ tát nam và nữ.

Con, cô gái may mắn, nên thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường với ḷng sùng mộ.

Hăy tụng đọc những lời khẩn cầu ước nguyện để có một liên hệ nghiệp tích cực.

Ḷng tôi tràn ngập sự kính sợ và hoan hỉ, và bắt đầu lễ lạy, khẩn cầu. Tôi nói:

Đức Avalokiteshvara Bi Mẫn,

phóng ra những tia bi mẫn khắp mười phương,

con đảnh lễ Ngài, đấng không ly cách với đạo sư siêu phàm của con và không ly cách với quyến thuộc của Ngài.

Con cúng dường tập hợp những vật cúng dường vô song, thực có và tưởng tượng.

Với sự hối tiếc chân thật, con sám hối những ác hạnh và vi phạm giới nguyện của con,

và hứa không làm những điều đó trong tương lai.

Con tùy hỉ năng lực công đức vô tận.

Con khẩn cầu Ngài trụ thế măi măi, không thị nhập Niết Bàn,

và liên tục chuyển Pháp luân rộng lớn, sâu xa.

Con hồi hướng công đức tích tập được để tất cả chúng sinh trong sáu loài, vô biên như không gian,

có thể nhanh chóng đạt được trạng thái của Ngài, ôi đấng cao quư siêu phàm.

Con khẩn cầu Ngài, trong mọi cuộc đời, xin ban cho con ân phước siêu việt nhất

không bao giờ ly cách với Ngài, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.

Khi tôi khẩn cầu như thế trong trái tim tôi, Đức Bi Mẫn cao quư mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ và tôi nghe những lời sau đây, trong những âm thanh du dương dịu dàng, lời Ngài rung động tự nhiên và vang rền đi tới toàn thể mạn đà la của đoàn quyến thuộc tùy tùng:

Om mani padme hum hri.

Đạo sư của ta chính là ḷng bi mẫn siêu phàm.

Ta chính là bổn tôn hiện thân tự nhiên của ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sinh, đối tượng của ḷng bi mẫn,

và sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh trong cảnh khốn cùng.

Con, con gái ta, cũng có tâm hồn bi mẫn như thế,

giờ đây may mắn được gặp ta trong cơi này.

Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và ḷng sùng mộ

Ta sẽ đưa dẫn tới Cơi Cục Lạc của ta, nhờ nguyện lực trước đây của ta.

Nhờ năng lực của ḷng bi mẫn của ta, những chúng sinh trong sáu trạng thái mà số lượng th́ vô biên như không gian,

và đặc biệt những người ở Tây Tạng, Xứ Tuyết,

có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta với đức tin,

ta sẽ chăm sóc họ với ḷng bi mẫn, bởi ta được gọi là Mahakarunika, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.

Đặc biệt những ai không có khả năng tự bảo vệ, th́ suốt trong sáu thời của ngày và đêm.

ta trông chừng họ kỹ lưỡng với ḷng bi mẫn, đôi mắt giác tánh nguyên sơ của ta không bị ngăn che.

Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng những con người nhỏ bé này sự nương tựa cuối cùng từ khổ đau của họ,

bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có Đôi Mắt Thấu suốt.

Thiền định về thân tướng của ta, niệm danh hiệu ta, tŕ trụng tâm chú của ta,

và cử hành nghi lễ chay của ta những ai nỗ lực trong những thực hành này,

mặc dù họ từng phạm một hành vi cực kỳ tàn ác đưa tới sự quả báo lập tức vào lúc chết,

ta sẽ dẫn họ tới Cơi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng của Thế Giới.

Bởi nguyện lực kiên quyết từ lâu xa của ta là đưa dẫn không dụng công

tất cả chúng sinh nào nh́n thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta

đối với hàng ngũ thính chúng của Đức Phật Amitabha trong Cơi Cực Lạc,

các Đấng Chiến Thắng đă tuyên xưng ta là Khorwa Rangdrol, Sự Giải Thoát Tự Nhiên khỏi Luân Hồi Sinh Tử.

Than ôi! Trong những ngày cuối cùng này của Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng.

mặc dù ta chăm sóc chúng sinh với ḷng bi mẫn rộng lớn hơn bao giờ hết,

nhưng như thể giây cột chiếc móc bi mẫn của ta đă đứt.

Bởi năng lực ngoan cường của ác hạnh, nhiều người đă mất niềm tin và ḷng sùng mộ.

Dường như họ vuột khỏi cái nh́n bi mẫn của ta.

Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng bắc,

họ bị đoạt mất sự hiện diện của ta, ḷng bi mẫn hiển nhiên của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Trong khi ḷng bi mẫn của ta th́ không định kiến hay thiên v́,

nhưng bởi tập quán ương ngạnh của họ, những niệm tưởng không thích đáng tự bản chất,

chúng sinh cứ măi lang thang vơ vẩn trong vực sâu tăm tối của những con đường ti tiện và những trạng thái tái sanh thấp kém.

Nhận ra rằng t́nh huống của họ do họ tự tạo, lỗi lầm nằm nơi chính họ,

trong sự chăm sóc của ta, ta t́m thấy những người bơ vơ thực sự xứng đáng với ḷng bi mẫn của ta.

Thời đại trở nên tồi tệ khi bệnh tật, vũ khí và nạn đói làm họ khốn khổ;

thọ mạng của họ ngắn lại bởi ma vương bất thần mang họ đi;

ngôn ngữ của họ suy vi v́ họ trở nên lanh lợi trong việc lọc lừa người khác;

thực phẩm của họ thoái hóa bởi họ dấn ḿnh vào những cách sinh nhai tà vạy;

cái thấy của họ suy đồi bởi họ lao ḿnh xuống vực thẳm của học thuyết vĩnh hằng và hư vô.

Mặc dù bàn tay Đấng Chiến Thắng muốn ngăn họ lại, nhưng không dừng họ lại được.

Chắc chắn là họ phải chịu đau khổ trong sự thèm khát, có phải thế không?

Họ đáng thương biết bao với ác nghiệp của họ, khi theo đuổi những ǵ họ cho là lạc thú.

Giờ đây các con, Ôi dân chúng Xứ Tuyết, những kẻ tự thiêu đốt thịt da ḿnh,

bởi nỗi khổ của các con chỉ do một ḿnh các con sắp đặt, chỉ một ḿnh các con bảo đảm và chỉ khiến một ḿnh các con đau khổ,

hăy nhớ lại lỗi lầm to lớn bị che dấu đă phạm trong quá khứ, bởi nghiệp và những cảm xúc đau buồn.

Đă tới lúc để ban cho các con vài lời khuyên.

Chỉ một lần duy nhất trong quăng thời gian rất dài, các con mới có được nơi nương tựa này với sự tự do và cơ hội.

Bây giờ là lúc các con có thể gặp được các thiện tri thức cùng sự thực hành Phật Pháp linh thánh,

và những hoàn cảnh thuận lợi cùng tụ hội, hăy dùng phần đời c̣n lại của các con trong chính con đường này.

Nếu ngay lúc này các con đầm ḿnh trong vũng lầy của nghiệp hay những cảm xúc đau khổ,

các con sẽ gây nên đau khổ trong tương lai ở những trạng thái tái sanh thấp kém

là nơi mà ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo cũng khó t́m ra.

Những thuộc hạ khiếp sợ của Yama, Thần Chết sẽ tới lúc nào các con không biết.

Mọi khi tâm thức các con đă sở hữu nơi nương tựa này,

hăy thận trọng thực hành cốt tủy của Thánh Pháp.

Phật Pháp không hiện hữu chỉ v́ lợi ích bề ngoài nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ và đáp ứng mọi ước muốn của các con;

nó không đơn thuần là sự đạo đức giả như thế, v́ vậy hăy nh́n vào tâm thức phi đạo đức của các con.

Giờ đây, khi các con đă sở hữu một nền tảng cho sự tự do trong một cơi giới đạo đức,

các con đă có những hột giống của lương tri đạo đức không lầm lạc để tích tập đức hạnh.

Hăy sử dụng ba điều – sự chánh niệm, tỉnh giác và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh.

hăy thiền định về lẽ vô thường, nó làm tăng trưởng đức hạnh.

Hăy bắt đầu sự vun trồng đức hạnh với ḷng sùng mộ và nỗ lực liên tục.

Niềm tin và sự trông cậy là gốc rễ của đức hạnh.

Ḷng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh.

Bồ Đề tâm ước nguyện và Bồ Đề tâm thực hành là cốt lơi của đức hạnh.

Sáu sự toàn thiện (sáu ba la mật) là những nhánh và cành của đức hạnh.

Ư hướng, sự hồi hướng đức hạnh của riêng con và sự hoan hỉ trước đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.

Bốn phương pháp ảnh hưởng tốt đẹp tới người khác là hoa của đức hạnh.

Và tánh không và ḷng bi mẫn siêu phàm là trái của đức hạnh.

Nếu cây đức hạnh cao quư được vun trồng theo cách này,

nó sẽ đem lại những trái quả nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và măi măi;

đó là tính không thể sai lạc của sự tương thuộc của các sự việc.

Không có các phương tiện bảo vệ loài cây cao quư của những đức hạnh tích tập được,

những đức hạnh này sẽ liên tục bị phí phạm trong bardo.

Phủ nhận một cách ngu xuẩn nhân và quả, từ bỏ Giáo Pháp và làm hư hỏng giới luật tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.

Sự gây gổ, sân hận, thù hằn và ganh tị

là trận mưa đá hung tợn làm hư thối trái quả của đức hạnh.

Sự dính bám và thanh danh và lợi dưỡng, và liên tục bị mắc bẫy trong đời sống của gia chủ

là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.

Báng bổ hay sỉ vả các đạo sư và Bồ Tát

bởi sự tự phụ, kiêu căng và ngạo mạn thái quá

là một cơn khô hạn dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập được của các con.

Hậu quả không tránh khỏi của tất cả những điều này là sự phát triển mạnh mẽ nỗi khổ;

nó là kẻ thù vĩ đại của tài sản đức hạnh mà các con đă thâu thập.

Các pháp đối trị cho những điều này là ba loại trí tuệ siêu việt,

niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính,

sự hoan hỉ trước thành công của người khác,

sự quán chiếu sâu xa về lẽ vô thường, sự nhàm chán ṿng luân hồi sinh tử và sự từ bỏ,

sự chế ngự tánh kiêu ngạo và sự tu tập trong một quan điểm linh thánh không thành kiến.

Chớ bao giờ rời xa những lá chắn và sự bảo vệ này.

Ban đầu, được thúc đẩy bởi niềm tin, ḷng sùng mộ và ḷng bi mẫn.

Hăy giữ các giới luật tạm thời của những thệ nguyện tám nhánh.

Hăy nhất tâm trong việc từ bỏ những phóng dật thuộc ba năng lực của các con.

Bất kỳ những ǵ xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, nơi Ngài tất cả các Đấng Chiến Thắng hợp nhất;

âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu-âm;

sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ Đề tâm.

Đừng bao giờ ĺa xa ba điểm trọng yếu này;

hăy liên tục tŕ tụng lớn tiếng thần chú sáu-âm – chỉ ḿnh điều đó là đủ.

Hăy cùng nhau thâu thập đức hạnh mà các con và những người khác tích tập trong ba thời,

và hăy sử dụng tất cả chúng như một nguyên nhân nhờ đó tất cả chúng sinh nhanh chóng thành tựu Phật Quả,

hăy theo gương các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài bằng những lời nguyện hồi hướng và ước nguyện;

chủ đề hợp nhất này giống như một dây cương dẫn dắt một con ngựa tốt.

Nếu các con nỗ lực liên tục trong bốn loại thực hành đức hạnh,

vào giờ chết, ta sẽ đưa dẫn các con trong một trạng thái cực kỳ hoan hỉ

tới cơi Cực Lạc thuần tịnh.

Hăy nói với dân chúng Tây Tạng rằng chớ có nghi ngờ điều này.

Đừng do dự! Đây là lời khuyên thương yêu và chân thành của ta.

Đừng bám chấp vào đời  này; nó giống như một giấc mộng dễ chịu.

Đừng bị cám dỗ bởi cái xấu; điều ác hại mà các con có thể tự gây cho ḿnh không có sự chấm dứt.

Đừng củng cố tám ảnh hưởng thế tục; các con sẽ chỉ lừa gạt chính ḿnh.

Đừng lập ra mọi thứ kế hoạch; nhớ rằng các con có thể chết ngày mai.

Hăy kiên tŕ hiến dâng năng lực ba nhánh cho Thánh Pháp.

Đây là sự tốt lành vĩ đại nhất mà toàn thể dân chúng Tây Tạng tự họ có thể làm.

Nếu các con có một thái độ thiện lành toàn hảo như thế,

hăy liên tục tŕ tụng thần chú mani và tare

và hăy khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh trong bất kỳ cách nào các con có thể.

Về sau, các con có thể đi tới bất cứ cơi thuần tịnh nào các con muốn.

Con không xa ĺa ta, con gái, v́ thế hăy hoan hỉ.

Nghe những lời này, tôi kinh nghiệm một niềm tin siêu phàm, hỉ lạc và để khẩn cầu Đức Bi mẫn ban phước, tôi đọc bài kệ sau:

Đức Avalokiteshvara, bất kỳ sắc tướng nào của Ngài,

bất kỳ quyến thuộc, thọ mạng và cơi thuần tịnh nào của Ngài,

và bất kỳ phẩm tính cao quư nào của Ngài,

cầu mong con và những người khác hoàn toàn giống như Ngài.

Chắp hai bàn tay lại, tôi hỏi rằng sau này tôi có được gặp lại Ngài nữa hay không. Đấng cao quư trả lời:

Những ai ǵn giữ một thái độ quan tâm với ḷng sùng mộ,

ta sẽ hiện diện trước mặt họ;

ta ban cho họ lễ quán đảnh và các ân phước.

Chớ có hoài nghi điều này, Ôi người nữ của Tara.

Tôi cảm thấy một sự xác tín lớn lao chưa từng có về sự chân thật của những lời này. Tôi nhiễu quanh các Đấng Chiến Thắng ba lần, đi xung quanh sân trong ṭa lâu đài nguy nga của Ngài trong khi đọc bài kệ sau:

Trong mọi cuộc đời, cầu mong con không bao giờ xa ĺa đạo sư, chúa tể của các đấng cao quư.

Cầu mong con vui hưởng sự tráng lệ của Giáo Pháp,

hoàn thiện các phẩm tính của con đường và cấp độ.

Cầu mong con mau chóng đạt được trạng thái của Đức Avalokiteshvara.

Ở đây tôi sẽ đưa ra một ít luận giảng dựa trên Kinh điển để làm tăng thêm vẻ đáng tin cậy cho những điều tôi vừa thuật lại.

Đức Avalokiteshvara cao quư và tôn kính biểu lộ ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng. Hằng hà sa số kiếp về trước, chính trong thế giới này, trong một đại kiếp tên là Graha có một vị đại đế có danh hiệu là Aranemi có một ngàn người con trai. Người con trai cả tên là Animisha, là người đầu tiên phát khởi thái độ giác ngộ Bồ Đề tâm trước sự hiện diện của Đức Như Lai Ratnagarbha (Bảo Tạng Như Lai).

Có một lần với ḷng bi mẫn, Ngài nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh trong sáu trạng thái tái sanh, đặc biệt Ngài đă nguyện: “Cầu mong những chúng sinh không được giúp đỡ, bị lâm vào cảnh khốn khổ, đang bị trói buộc bởi luật nhân quả sẽ lập tức thoát khỏi đau khổ bằng cách nhớ tưởng tới tôi hay niệm danh hiệu của tôi. Cho tới khi tôi chấm dứt mọi nỗi khổ đau của chúng sanh, cầu mong tôi không bao giờ đạt được sự toàn giác”.

Khi Ngài đă viên măn hoạt động sâu xa và rộng lớn của Ngài, Ngài mang danh hiệu Avalokiteshvara, một Bồ Tát vĩ đại và dũng cảm. Có tiên tri rằng trong tương lai, trong cơi Sukhavati-padmapradesha, với tư cách là nhiếp chính của Đấng Chiến Thắng siêu phàm Amitabha (Đức Phật A Di Đà).

 Ngài sẽ giác ngộ là Đức Như Lai Rashmisamudra-shrikutaraja và thành tựu lợi ích to lớn hơn cho chúng sinh. Phù hợp với lời nguyện được tiên tri này, Ngài làm việc thậm chí c̣n mạnh mẽ hơn v́ lợi ích của chúng sinh trong sáu loài nói chung và đặc biệt là chúng sinh ở Xứ Tuyết Tây Tạng. Như Kinh Hoa Sen Trắng của Thánh Pháp nói:

Bồ Tát Akshayamati (Bồ Tát Vô Tận Ư) kính bạch Đấng Chiến Thắng, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Thế Tôn, hỏi rằng: “Đức Thế Tôn, v́ sao vị ấy được gọi là Avalokiteshvara?”

Đức Thế Tôn trả lời: “Chỉ nhờ nghe danh hiệu của Đức Avalokiteshvara mà vô lượng tỉ chúng sinh đang phải chịu đựng đau khổ sẽ hoàn toàn thoát khỏi những gánh nặng đau khổ không thể chịu đựng nổi. Bất kỳ khi nào chúng sinh bị đe dọa bởi lửa, nước, thuốc độc, vũ khí, thú dữ, những yêu tinh dạ xoa ác hại, ma quỷ, sự tù đày, trộm cướp v.v… họ sẽ được cứu thoát.

Họ sẽ thoát khỏi năm độc của những cảm xúc phiền năo và thoát khỏi mọi phương cách hăm hại. Nếu họ chỉ lễ lạy Ngài với đức tin trọn vẹn, tất cả những mục đích của họ không loại trừ điều nào sẽ được thành tựu tự nhiên”.

Kinh Quư báu về Dăy B́nh (Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương) nói:

 

“Bồ Tát Nivaranavishkambhin hỏi rằng sự chói lọi mănh liệt của những năng lực kỳ diệu phi thường của Bồ tát của ḷng bi mẫn siêu phàm th́ giống điều ǵ.

 

Từ kim khẩu của Đức Như Lai phát ra những lời này: “Đức bi mẫn Avalokiteshvara đem chúng sinh trong các cơi địa ngục tới sự thuần thục tâm linh viên măn. Khi đă mang h́nh tướng của một vị đại đế an trụ hoàn toàn thoải mái tại một khu rừng an lạc trong thành phố của các ngạ quỷ, Ngài mang lại một sự mát mẽ dễ chịu cho những người bị hành hạ bởi lửa nóng và biến hầm lửa thành những ao sen.

 

“Bằng cách tung rải và phân bổ lính canh trong các địa ngục, Ngài tạo nên Thần Chết, Dharmaraja, lễ lạy và liên tục tán thán ông ta. Ngài cũng làm dịu mát thành phố các ngạ quỷ và làm yên dịu những đám mây mưa đá kim cương.

 

Hơn nữa, những quân lính bảo vệ kho tàng, nhận ra rằng những thái độ thô lậu của họ được thuần hóa và bắt đầu phát khởi Bồ Đề tâm. Mười con sông lớn chảy ra từ mười ngón tay và bốn mươi con sông lớn khác chảy từ mười ngón chân Ngài.

Những hạt sương chảy ra từ những lỗ chân lông của đấng có một trái tim thương yêu, nhỏ xuống những ngạ quỷ. Chỉ nhờ nếm những giọt sương này mà cổ họng của họ được nghỉ ngơi, thân họ trở nên mạnh mẽ và toàn hảo, và họ được thỏa măn với thực phẩm hàng trăm vị của các vị trời.

 

 Đức hạnh của những hành giả của Pháp đang cư ngụ trên trái đất khiến cho các ngạ quỷ hết sức hỉ lạc trong Giáo Pháp và Pháp âm Đại thừa xuất hiện trong cơi giới của họ.

 

Vào lúc này, hai mươi ngọn núi sừng sững của quan điểm hư vô bị chày kim cương giác tánh nguyên sơ đập tan tành, rồi những ngạ quỷ này được tái sanh trong Cơi Cực Lạc, ở đó họ trở thành các Bồ Tát phù hợp với ước nguyện của họ và được dẫn dắt tới sự thuần thục.

 

“Theo cách này, mỗi ngày Ngài đưa hàng tỉ không thể tính đếm chúng sinh tới sự viên măn. Đó là sự xác quyết của Đức Avalokiteshvara mà ngay cả các Đức Như Lai vẫn c̣n thiếu”.

V́ lợi ích của những người được thuần phục, tùy theo tánh khí, năng lực và động lực của riêng họ, trong sáu thời ngày và đêm, Đức Avalokiteshvara hiện thân làm chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn (shravaka), Phật Độc Giác (pratyekabuddha).

 Các vị trời, các nhạc sĩ cơi trời, các yêu tinh dạ xoa (yaksha), Ishvara, Maheshvara, các vị đại đế, những quỷ ma khát máu, chúng sinh với thân tướng siêu phàm, những người Bà La Môn, và Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ) và giảng dạy Pháp.

Hơn nữa thậm chí chỉ gọi tên Ngài một lần th́ cũng như niệm danh hiệu chư Phật với số lần nhiều như cát sông Hằng. Tương tự như vậy, tô tạo một pho tượng Đức Avalokiteshvara th́ ngang bằng việc tô tạo những h́nh tượng của tất cả chư Phật và Bồ Tát đă xuất hiện, đang và sẽ xuất hiện trong ba thời.

Thiền định trong một ngày về thân tướng của Đức cao quư Avalokiteshvara th́ có công đức to lớn hơn việc thực hành sáu sự toàn thiện (sáu ba la mật) trong một năm. Đây là một vài trong số những phẩm tính không thể nghĩ bàn của Bồ Tát.

Về những lợi ích và thuận lợi của việc tŕ tụng dharani của Đức Avalokiteshvara mười một mặt, ta được biết là cuối cùng th́ hành giả sẽ hoàn toàn làm chủ bốn phẩm tính tốt: Vào lúc chết, hành giả sẽ được thấy các Đức Như Lai; hành giả sẽ không tái sinh nơi các cơi thấp; sẽ không gặp cái chết khủng khiếp; và sau khi chết ở thế giới này, hành giả sẽ được tái sanh trong Cơi Cực Lạc.

Nhờ sáu-âm của thần chú mani, tất cả các Kinh điển của Phật Pháp được đúc kết; mọi bệnh tật, mọi thế lực xấu và những chướng ngại đều bị xua tan; hành giả đạt được vô số phẩm tính tích cực như sự trường thọ và thoát khỏi bệnh tật; nỗi khổ của chúng sinh trong sáu loài được làm yên dịu; và các kaya (thân) của sáu Đấng Chiến Thắng được thành tựu.

 Tóm lại, chỉ cần nh́n, nghe, nhớ tưởng, hay xúc chạm sáu âm này là đă gieo trồng hạt giống của sự giác ngộ. Mọi che chướng đều được tịnh hóa nhanh chóng và hành giả ngăn ngừa được sự tái sanh nơi các cơi thấp. Sau khi trải qua một loạt những tái sanh cao quư trong các cơi cao, hành giả nhanh chóng đạt được giác ngộ viên măn.

Chỉ cử hành nghi thức chay của Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm một lần, hành giả giải trừ được bốn mươi ngàn kiếp lang thang trong luân hồi sinh tử và tịnh hóa tất cả các nghiệp và che chướng do những hành động như năm hành vi đưa tới quả báo trực tiếp.

Khi hoàn thiện tất cả những phẩm tính tích cực của sáu sự toàn thiện, hành giả an trú trong cấp độ của một Bồ Tát bất thối chuyển. Những người nữ cũng thế, những ai cử hành dù chỉ một lần duy nhất nghi thức chay này, khi chết sẽ được tái sanh như những Bồ Tát chứng ngộ cao cấp và quay trở lại ṿng luân hồi sinh tử.

Sự thực hành của thân hành giả trong nghi thức chay khiến tịnh hóa các che chướng thuộc thân, và hành giả không bị tái sanh làm một ngạ quỷ. Việc tự chế sự nói năng bằng lời nguyện giữ yên lặng tịnh hóa các chướng thuộc ngữ, và hành giả sẽ không bị tái sanh làm một súc sinh.

Sự tŕ tụng đà ra ni trong tâm tịnh hóa các che chướng thuộc về tâm và đóng lại cánh cửa dẫn tới tái sanh trong các cơi địa ngục. Như vậy, sử dụng ba phương pháp giữ ǵn thân, khẩu và ư trong sự tỉnh giác sống động, hành giả nhanh chóng thoát khỏi luân hồi.

Phục vụ ngũ cốc nóng cho các hành giả ăn điểm tâm sáng theo nghi lễ th́ tương đương với việc phục vụ một Bồ Tát đệ bát địa; phục vụ một người chỉ thọ xuất gia tạm thời th́ tương đương với việc phụng sự một vị A La Hán (arhat).

Một người bảo trợ cho một nghi thức chay như thế sẽ không bị tái sanh trong bacơi thấp, mà sẽ được phú cho thái độ giác ngộ của Bồ Đề tâm, được hưởng một sự may mắn vô tận trong mọi sự tái sanh, hoàn thiện phẩm tính của sự bố thí và nhanh chóng đạt được giác ngộ.

Bởi những ích lợi này và những lợi lạc không thể nghĩ bàn khác, trong sự t́m kiếm đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh, hăy hoan hỉ và nỗ lực ngày lẫn đêm không xao lăng, được thúc đẩy bởi ḷng vị tha, niềm tin và ḷng sùng mộ mănh liệt và quả quyết.

Nếu các bạn sống những ngày c̣n lại của đời ḿnh thật là ư nghĩa, các bạn sẽ bảo đảm được hạnh phúc của riêng các bạn và những người khác.

Sự thật này đă được xác nhận bởi ngữ chân thật của các Đấng Chiến Thắng, kinh nghiệm của tất cả những bậc trưởng thượng tâm linh vĩ đại và sự kiểm chứng trực tiếp của giác tánh nội tại của chính hành giả và những công đức của sự theo đuổi của các bạn với ư hướng sùng mộ.

Khởi hành thật đúng đắn, các bạn sẽ thoát  khỏi nỗi sợ chết và sợ tái sanh, nếu không được như thế th́ các bạn sẽ có được sự xác tín để gặp gỡ cái chết một cách hoan hỉ; ít nhất th́ các bạn sẽ chết mà không sợ hăi hay hối tiếc.

Tôi chắp tay và cầu nguyện tận đáy ḷng rằng tất cả các bạn sẽ có thể thực hiện được điều này. Tôi luôn khẩn nài các bạn hăy giải thoát tâm thức ḿnh khỏi sự do dự và giữ vững sự trung thực trong công cuộc nỗ lực đầy ư nghĩa này.

May mắn, may mắn, may mắn!

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 825 of 2534: Đă gửi: 25 September 2008 lúc 7:26pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 

HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI

BÊN KIA CÁI CHẾT

 

4- YULOKOD CƠI THUẦN TỊNH

 CỦA ĐỨC TARA

Kính lễ Đức Avalokiteshvara

Quỳ lạy dưới chân Đấng

nh́n chúng sinh với đôi mắt bi mẫn,

con sẽ tán thán vị bổn tôn phi thường này

để hoàn thiện hai tích tập.

Con đảnh lễ Ngài, Đức Tara, bổn tôn trong các bổn tôn,

suối nguồn của mọi thành tựu tâm linh không loại trừ cái nào.

Giống như một viên ngọc quư báu và như ư,

Ngài ban trái quả của mọi điều chúng con ước muốn.

Những chúng sinh thực sự mong ước được thấy trong tâm cơi thuần tịnh của Đức Tara

sẽ hoan hỉ trong những tia thị kiến dịu mát

trong chốn nương tựa êm ả của đóa sen đức tin nở rộ.

Khi từ núi Potala trở về, tôi bay vút lên hướng về bên trái, và nhờ Đức Tara Trắng dẫn đường, tôi đi tới một nơi mà khắp xứ đều xanh tươi, đẹp đẽ và trong trẻo tràn đầy sinh khí, một môi trường kỳ diệu với nhiều điều đặc biệt phi thường.

Những sảnh đường ánh sáng cầu vồng năm màu bay lượn trên không. Nhiều loại hoa sen mọc khắp nơi. Ở đây không có ư niệm về mùa hạ hay mùa đông. Những cây ban-điều-ước đầy lá, treo những chuông chùm và chuông nhỏ. Khi bị gió lay động, chúng vang lên những giáo huấn Phật Pháp bằng tiếng Phạn, như Namo arya tare mam.

Chim chóc là những hóa thân của Đức Bà Cao Quư những con chim sẻ, vịt, công, sếu, vẹt, gà gô trắng, chim cu và thiên nga nô đùa khắp nơi. Mặt đất ngập đầy của cải trù phú theo một mức độ không thể nghĩ bàn.

Những ngọn núi ẩn chứa vàng, bạc, lam ngọc và những ngọc báu. Khắp nơi là những ao cam lồ có tám phẩm tính tốt đẹp và những nhà tắm bằng châu báu được trang bị tao nhă.

Trong cơi này không có các ư niệm sinh, lăo, bệnh, tử. Tất cả các cư dân đều được sinh ra một cách kỳ diệu từ giữa hoa sen. Trong những đời tương lai họ không phải nghe một âm thanh khó chịu hay chói tai.

Những cư dân này là những Bồ Tát nam và nữ đă đạt tới sự chứng ngộ cao cấp. Nơi chốn này th́ vượt quá sức tưởng tượng; kích thước của nó không thể đo lường. Nó gồm chứa hàng ngàn lâu đài rộng mênh mông làm bằng năm chất thể quư báu.

Trong chốc lát, tôi đi tới cổng cung điện chính một ṭa lâu đài rộng lớn tuyệt vời có vẻ bề ngoài thật lôi cuốn và kỳ diệu, có năng lực giải thoát chúng sinh bằng bốn cách.

Ngay lúc tôi đi vào cung điện, tôi thức tỉnh khỏi giấc ngủ sâu của ư thức thuộc lư trí b́nh phàm và thoát khỏi những tấm màn vô minh. Cái thấy nội tại của giác tánh nguyên sơ của tôi trải rộng, và tôi cảm nghiệm t́nh thương và ḷng bi mẫn dạt dào trong ḷng.

Khi đi vào cửa phía tây, tôi gặp Guhyadevi, Thiên nữ của những điều Mật nhiệm, Ngài có vẻ hết sức vui mừng khi nh́n thấy tôi. Tôi đi tiếp tới một cái sân ở đó nhiều ngàn thiên nữ, mặc y phục xanh lá cây, hát tụng những lời tán thán hai mươi mốt thân thướng Tara bằng tiếng Phạn.

Thỉnh thoảng họ chơi những xập xơa nhỏ h́nh ngón tay, trống tay bằng vàng và trống làm bằng gỗ đàn hương, gỗ mun, gỗ “tim xoắn” và bốn loại lơi cây, cũng như các xập xơa, cồng chiêng và sáo. Họ thường ngắt quăng bài hát với âm nhạc được tấu lên bằng đủ loại khí cụ không thể nghĩ bàn này.

Khi nghe chúng, tôi thấy dấy lên một cảm thức sùng mộ không tưởng tượng nổi; tôi cúng dường trong tâm và tŕ tụng hết sức nhiệt thành những lời tán thán hai mươi mốt thân tướng Tara.

Tôi đi vào một căn nhà nhỏ, ở đó tôi thấy một thiên nữ. Bà có vẻ rất già, tóc trắng xoăn như vỏ ốc xà cừ, nhưng hàm răng c̣n đầy đủ và nước da bà sáng đẹp như nước da của một thiếu nữ thanh xuân.

 Vị thiên nữ cao quư phi thường này an tọa với đoàn tùy tùng vây quanh. Bà có mật danh là Gauri Girtima, nhưng được biết nhiều qua danh hiệu thật của Ngài là Ayudevi, Thiên nữ Trường thọ. Tôi thực hành những sự lễ lạy, đi nhiễu, cúng dường mạn đà la, lời cầu nguyện bảy-nhánh và những lời khẩn cầu và ước nguyện.

Bà nói: “Cái ǵ đây, con gái ta? Con may mắn biết bao khi tới gặp ta. Kỳ diệu biết bao! Mối liên hệ nghiệp nào giải thích cho sự xuất hiện của con ở đây? Ta là một nữ anh hùng mà những phẩm tính được ẩn dấu. Được vị bổn tôn kỳ diệu Đức Tara tôn quư ban phước, ta làm chủ được đời sống kim cương bất tử”.

Ngài đặt bàn tay lên đầu tôi, tỏ ra hết sức vui mừng v́ sự hiện diện của tôi và tụng:

Xin đảnh lễ Đấng chói sáng như một viên hồng ngọc,

trong sự nở rộ của niềm hỉ lạc tuổi mười sáu.

Chiến thắng trong trận chiến điều phục thế lực đối kháng của các ma vương,

Ngài ban tặng sự thành tựu đời sống bất tử.

Bà nói thêm: “Ngay cả một biểu tượng cho h́nh ảnh của ta cũng không được t́m thấy ở Ấn Độ và Tây Tạng. Mặc dù vô số yogi và yogini được ban phước bởi Đức Tara, thực sự viếng thăm cơi giới này, thăm viếng trong các thị kiến, hay trong những giấc mơ, nhưng không ai trong số họ được hội kiến ta”. Tôi sung sướng bởi những lời này.

Tôi tiếp tục tới ṭa lâu đài chính rộng mênh mông. Bên trong, tôi thấy năm lớp tường được làm bằng vỏ ốc xà cừ, vàng, san hô, ngọc lục bảo và ngọc bích, tất cả có diềm trang trí bằng hồng ngọc. Các trụ cột được làm bằng ngọc đỏ, các đà mái chính bằng pha lê thạch anh và rui mè làm bằng ngọc như ư.

 Những cửa sổ rộng và cửa sổ dưới mái ở khắp nơi để chiếu sáng bên trong. Trên đỉnh một gờ trang trí bằng vàng là một trán tường bằng san hô, nâng đỡ một mái ṿm bằng lam ngọc pha màu xanh dương nhạt.

Ở bốn hướng là các miệng máng xối với đầu makara; miệng chúng có treo những sợi dây và móc bằng ngọc trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, với những chuông chùm bé tí bằng vàng phát ra những âm thanh ngọt ngào.

Âm thanh du dương vang lừng cất đi nỗi khổ của chúng sinh trong các cơi thấp. Mùi khói hương thơm ngát của những tâm thái vô lượng thoang thoảng khắp nơi. Đó là những phô diễn đẹp đẽ của những sự cúng dường tràn đầy từ ái không tưởng tượng nổi.

Giữa ṭa lâu đài, trên một ṭa sen ngàn cánh nhiều màu và một đĩa mặt trăng là Đấng nương tựa duy nhất, hiện thân đích thực của ḷng bi mẫn, bà mẹ siêu phàm của tất cả các Đấng Chiến Thắng trong ba thời, bà chị của chư vị Bồ Tát.

 Là Đấng mà chúng sinh trong thế giới loài người và trong những cơi trời bày tỏ ḷng sùng kính bằng cách chạm đỉnh đầu họ vào ḷng bàn chân Ngài chính là Đức Tara tôn quư, vị thiên nữ sinh ra từ những giọt nước mắt của Đấng Cao Quư.

Thân Ngài màu xanh lá cây nhạt, chói lọi hơn một ngọn núi lam ngọc được một ngàn mặt trời chiếu sáng. Vô lượng những tia sáng tỏa ra từ thân Ngài, nó được tô điểm bởi những tướng hảo chính và phụ. Đó là thân tướng của một thiếu nữ mười sáu tuổi, mặc y phục làm bằng lụa của những vị trời và trang điểm bằng những vật trang sức vô cùng quư giá gồm những viên bảo châu như ư.

Tóc Ngài đen như hạt huyền, nửa mái tóc cuốn lại thành búi và nửa kia chảy xuống phủ trên vai, được bện lại bằng những dải ruy băng lụa màu xanh dương pha xanh lá cây rung rinh trong gió nhẹ. Bàn tay trái kết ấn tượng trưng cho Tam bảo và cầm một nhánh hoa huệ màu xanh dương, các cánh hoa nở rộ cạnh tai Ngài.

Với bàn tay phải kết ấn ban cho sự nương tựa, Ngài che chở chúng sinh thoát khỏi những nỗi sợ hăi vô biên của thế giới vô minh này trong luân hồi sinh tử. Hai chân Ngài xếp lại trong tư thế bán già của một nữ Bồ Tát.

Nhiều nữ Bồ Tát cao quư đang đi nhiễu quanh Ngài theo chiều nghịch kim đồng hồ. Bậc thông tuệ Suryagupta ở bên phải Ngài, Bồ Tát Dawa Gyaltsan ở phía sau, thi sĩ Chandragomin ở bên trái, và Đức Dipamkara ở phía trước Ngài.

Nói chung, có nhiều ngàn nhân vật quan trọng với những quyến thuộc của các Ngài và một tập hội không thể nghĩ bàn gồm hàng trăm hàng ngàn thân tướng của Đức Tara, gồm cả Tara Tiếng Gầm Sấm Sét của Rồng, Tara Năng lực Siêu phàm, Tara Thành tựu Tự Nhiên, Tara Vô Úy, Tara Tia Sáng.

Tara Điều Phục Chúng Sinh, Tara ở Zang-yun, Tara Không Thể Nghĩ Bàn, Tara Phương Tiện Thiện Xảo, Tara Giác Ngộ, Tara Trung Tâm Tây Tạng và Tara Trung Quốc. Những vị này hiển hiện rơ ràng trước mắt tôi, nhưng thân tướng các ngài không phải là tập hợp hiện hữu nội tại của máu và thịt.

Thay vào đó, đó là những thân tướng huyễn hóa của giác tánh nguyên sơ, một sự phô diễn kỳ diệu hiển lộ trong vô số phương tiện. Tôi nh́n thấy các Ngài trong toàn bộ sự chói ngời tinh tế của các Ngài, giống như những v́ sao và hành tinh phản chiếu trên đại dương bao la.

Vào lúc này, sự bám chấp của tôi vào thực tại b́nh phàm tự nhiên ngừng dứt. Trong một quăng thời gian ngắn, tôi kinh nghiệm một cảm thức không thể diễn bày, không tưởng tượng nổi về trật tự của vũ trụ vô hạn, một toàn cảnh rộng lớn và hoàn toàn không bị ngăn che của sự thuần tịnh không có ǵ để bám níu như cái ǵ hoàn toàn có thực.

Tôi lễ lạy liên tục trong một tâm thái tin tưởng và hết sức hoan hỉ. Tiến lại gần vị thiên nữ tôn kính, tôi dâng cúng mạn đà la vũ trụ và lời cầu nguyện bảy-nhánh. Với sự khát khao mănh liệt, tôi cầu nguyện ba bổn tôn trông nom Xứ Tuyết. Đặt bàn chân Ngài lên đầu tôi, tôi hát bài ca này bằng những âm thanh ai oán:

Than ôi, than ôi, Bà Mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng!

Đứa con gái yêu quư của Ngài lang thang trong vẻ hoang tàn của ṿng luân hồi sinh tử,

Tạo dựng bởi những tên trộm cướp là tám mươi ngàn kiểu niệm tưởng.

Cô ta đang ở thời điểm mất đi một tài sản tốt đẹp nhất là đức hạnh viên măn. Xin tóm lấy cô ta với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.

Giờ đây, như các biểu hiện cho thấy những thời đại suy hoại này nổi cơn thịnh nộ với chúng ta,

Giáo lư của các Đấng Chiến Thắng là một mặt trời đang tiến về trú xứ của vị trời nước.

Tập hội các thiện tri thức nắm giữ Giáo lư đă khởi hành tới một cơi yên b́nh.

Giáo lư của kinh điển và tantra bị che khuất bởi những đám mây định kiến bè phái.

Xin tóm lấy chúng con với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.

Nhiều chúng sinh hữu t́nh không có một chốn nghỉ ngơi.

Đau khổ thường xuyên bởi bệnh tật do nghiệp và những cảm xúc phiền năo,

họ chịu đựng hậu quả là nỗi khổ và đau đớn không chịu đựng nổi.

Thời gian sẽ rất dài trước khi họ đi tới xứ sở của toàn trí và giải thoát.

Xin tóm lấy họ với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.

Sắc màu của những tinh linh xấu ác nổi bật trên bầu trời.

Ánh sáng nhạt nḥa từ lá cờ chiến thắng của những hành giả của Pháp.

Giờ đây là lúc thế giới tràn ngập những kẻ bất tài bịp bợm tâm linh,

để chúng sinh không bị lôi kéo vào những con đường lầm lạc,

xin tóm lấy họ với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.

Lũ người man dă và các bộ tộc biên giới kết thúc Giáo lư.

Các cuộc chiến đấu được tiến hành không ngừng nghỉ với năm lực lượng xấu ác.

Những đội quân hủy diệt của các ma vương đang ở thời điểm xâm lược.

Nếu Ngài không che chở chúng con thoát khỏi những lực lượng này, th́ Ngài sẽ biểu lộ trí tuệ và năng lực cho ai?

Xin tóm lấy chúng con với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.

Tôi thốt ra nhiều lời cầu nguyện khác, tâm tôi tràn đầy sự khao khát. Thiên nữ cao quư đặt bàn tay phải, nó được đánh dấu rơ ràng bằng tướng hảo là một bánh xe như-ư lên đầu tôi và trả lời:

Hăy lắng nghe, ôi thiếu nữ đáng yêu, Chandra Tara.

Trong quá khứ, vào khởi đầu của những kiếp sớm nhất,

khi ta phát khởi Bồ Đề tâm tuyệt hảo,

không ai ước nguyện làm viên măn Phật Quả trong một thân tướng phụ nữ.

V́ thế ta ấp ủ nguyện ước sau:

“Tôi sẽ xuất hiện trong thân tướng những người nữ.

Tôi sẽ đem đại dương chúng sanh này tới sự giác ngộ siêu việt.

Giây phút họ nhớ tưởng thậm chí danh hiệu của tôi,

Họ được cam đoan là sẽ đứng trước tám loại sợ hăi.

và cái hầm của sự luân hồi sẽ được kéo vét tận đáy.

Cho tới khi tôi đưa họ tới Phật Quả viên măn,

cầu mong bản thân tôi không bao giờ đạt được Phật Quả”.

Với những ước nguyện này và một trăm ngàn ước nguyện khác,

tôi lập các lời hứa và thệ nguyện.

Và trong cơi giới này, vào thời một vị Phật nguyên thủy,

tuy thế tôi đă biểu thị phương cách để viên măn Phật Quả.

Ḷng bi mẫn của tôi lớn lao đối với tất cả chúng sinh;

Hoạt động của tôi nhanh chóng, đặc biệt là đối với thần dân Tây Tạng.

V́ thế, những người thông tuệ và may mắn,

hăy bảo vệ kỹ lưỡng mệnh lệnh sau đây của vị thiên nữ cao quư:

Vào thời đại của năm sự suy hoại, khi giáo lư chỉ c̣n là những dấu vết,

khi chẳng bao lâu những cuộc xâm lăng man rợ sẽ chấm dứt mọi sự,

vật chống đỡ cao quư này, được phú bẩm tánh lười nhác thực hành, bị đe dọa bởi tiếng chuông của sự vô thường.

Nếu các bạn lầm lạc nhân và quả, hăy tham khảo Kinh điển và các tantra để đem lại hạnh phúc và giải trừ khổ đau.

Tài sản và của cải, bằng hữu và quyến thuộc, cha và mẹ không phải là nơi nương tựa.

Cái ǵ cung cấp nơi nương tựa? Đó là Tam Bảo không lầm lạc.

Đặc biệt, ngày và đêm liên tục trong sáu thời, hăy cầu nguyện ba bổn tôn che chở Xứ Tuyết Tây Tạng.

Đức Phật Amitabha trong cơi Cực Lạc.

Đức Avalokiteshvara cao quư trong cơi Potala,

Đức đạo sự T’hod T’hreng Tzal ở tiểu lục địa Chamara,

Đức Tara cao quư ở cơi Yulokod,

và các đạo sư gốc là tinh túy sự hợp nhất của các vị này.

đồng nhất trong bản tánh cốt tủy, chỉ khác biệt trong sự xuất hiện bên ngoài,

không có sự tách biệt hay phân chia, các Ngài ở trong một trạng thái nguyên thủy của sự b́nh đẳng với giác tánh nội tại của riêng các bạn,

vượt lên sự hợp nhất trong ư nghĩa thông thường của sự tụ hội và tan tác.

Hăy luôn luôn chú tâm tới đức hạnh.

Chớ lăng phí đời người này trong sự phóng dật,

hoặc nói Pháp ngoài cửa miệng,

mà hăy chân thành tận đáy ḷng các bạn,

hăy nương dựa đức tin, cái thấy thuần tịnh, ḷng bi mẫn, Bồ Đề tâm,

sự tinh tấn, trí tuệ, sự chánh niệm, tỉnh gác và tự điều phục.

Nếu ba giai đoạn chuẩn bị, thực hành chính yếu và sự kết thúc đều viên măn, trái quả mục đích của các bạn sẽ chín mùi.

Đặc biệt, nếu các thần chú tinh túy của ba bổ tôn của ḷng đại bi –

các thần chú mani, siddhi và tare.

hoặc ngay cả một nghi thức chay nyungnay duy nhất do chính các bạn hay người khác thực hiện

sẽ giải tan hậu quả của những ác hạnh và vi phạm giới nguyên của các bạn trong bốn mươi ngàn kiếp,

th́ cần ǵ nói tới những lợi ích và thuận lợi của sự thực hành thường xuyên?

V́ thế, hăy hành xử theo đạo đức, không lầm lạc nhân và quả.

Một cách chắc chắn, là những người may mắn, các bạn có thể cầu nguyện

sẽ không nhọc mệt hay khó khăn

để đi tới cơi Yulokod không do dự chần chừ sau khi chết.

Ta thề rằng ta sẽ tới chào đón các bạn.

Các hóa thân của ta, như những thiện tri thức b́nh thường,

đàn ông và đàn bà, thú vật và chim chóc, và những ǵ tương tự,

mang bất kỳ h́nh tướng nào sẽ dẫn dắt và chăm sóc chúng sinh.

Bởi vô số người trong số họ,

có niềm tin và cái thấy thuần tịnh, và khẩn cầu cùng ước nguyện thiết tha.

Những lời dạy của Ngài đă gây một niềm tin và hoan hỉ vô biên trong ḷng tôi, tôi lặp đi lặp lại lời cầu xin được nhận bốn quán đảnh. Và mặc dù tôi cảm thấy nỗi khổ khi phải xa cách Đức Tara c̣n đau đớn hơn nỗi khổ của các vị trời đang đọa lạc từ hạnh phúc của họ, Đức Tara nói với tôi:

 “Chớ buồn phiền trong ḷng! Chúng ta không bao giờ ly cách trong bất kỳ cuộc đời nào. Ta ban cho con Pháp danh Rigdzin Drolma, Tara Đấng Tŕ giữ Giác tánh Nội tại. Hơn nữa, một thiên nữ, một hóa thân của năng lực hoạt động của ta, sẽ ở bên con trong sáu thời ngày và đêm, giống như một người đang nói chuyện với người kia”.

Tiếp tục đi, tôi tới một pḥng nhỏ, ở đó tôi gặp Repa Dampa Gyagar, thân Ngài lực lưỡng, tóc trắng và hơi gầy, Ngài có bốn con trai và bốn con gái. Người nhỏ nhất tên là Chhang Trama nói với tôi:

“Thật tuyệt v́ cô đă tới t́m tôi” và bắt đầu một điệu vũ và bài ca về Đức Tara. Cô ta tỏ ra rất quư mến tôi. Cha cô ngồi bên cạnh, cầm một b́nh trường thọ, cười một ḿnh. Khi tôi xin Ngài cầu nguyện cho tôi, Ngài lại cười và nh́n chăm chú, tập trung sự chú tâm trong một lát.

Tôi rời ṭa lâu đài bằng cửa phía tây. Tôi tắm trong một cái ao và uống chất cam lồ bất tử. (Nếu tôi phải tường thuật mọi điều nh́n thấy và tất cả những người tôi đă gặp ở đó, th́ chắc chắn là sẽ đầy nhiều quyển sách, nhưng tôi không thể viết ra tất cả).

Ở một nơi không xa, tôi bắt gặp một cây karandatava, có gốc bằng vàng, thân bằng bạc, cành bằng ngọc bích, lá bằng hổ phách, hoa bằng hồng ngọc và trái bằng kim cương.

Đó là một cây ban điều ước muốn và dường như che phủ mặt đất. Nó có treo những lá cờ bằng lụa nhiều màu, và những sợi dây và tḥng lọng bằng ngọc có gắn những chuông chùm nhỏ bằng vàng kêu leng keng.

Đậu trên ngọn cây là vua loài chim một con chim masar, dù nó được gọi bằng một tên khác, karantava. Thân nó được tạo bằng bảy loại châu báu và trên đỉnh đầu nó là một cái mào làm bằng ngọc sarvaphala. Bộ lông của nó c̣n đẹp hơn bộ lông công và tiếng hót th́ bằng tiếng Phạn:

Sarva buddhaye eka potala yana duhkhashantim siddhiphala hoh, có thể dịch là: “Để thành tựu hoàn toàn Phật Quả, là các ǵ viên măn trong mọi thế cách, hăy đi tới cơi Potala. Cầu mong chúng sinh trong sáu cơi luân hồi được giải thoát khỏi đau khổ và cầu mong những thành tựu tâm linh được ban tặng”.

Ngồi nơi gốc cây là một ông già tóc trắng đang cầm một cái ŕu. Ông ta tên là Arthachandra (Mặt trăng Hoàn thành các Mục đích). Khi tôi nghỉ ngơi ở đó và ăn trái quả hái từ cây này, người đàn ông nói to: “Đứa con trai do Đức cao quư Avalokiteshvara gởi tới, có tên là Karmasarvamangala, hiện ra từ gốc cây karandatava”.

Vào lúc này, đàn chim bắt đầu hót lanh lảnh” “Than ôi!” Chúng vỗ cánh, trong khi nước mắt tuôn rơi. Vua của chúng kêu than:

Xin đừng hạ cây karandatava!

Chim karantava sẽ rơi xuống đất.

Ôi ông ơi, cầu mong ông trường thọ và thoát khỏi bệnh tật.

Tôi, con chim, sẽ đi tới Potala.

Tôi nh́n thấy những cảnh người đàn ông đốn cây và con chim rơi xuống xen kẽ nhau. Tôi có nhiều th́ kiến bí ẩn như thế. Sau đó một hành giả cư sĩ, được Đức Avalokiteshvara cao quư ban phước, xuất hiện và nh́n tôi trong khi tôi tụng những lời tán thán hai mươi mốt thân tướng của Đức Tara. Sau một lát ông ta nói: “Đây là lợi ích của việc tŕ tụng như thế”.

Tất cả những ai tŕ giữ lời cầu nguyện này trong tâm sẽ nhổ sạch mọi lỗi lầm và thiếu sót không loại trừ điều ǵ,

hăy phát triển các phẩm tính tốt giống như vầng trăng tṛn

và được một ngàn vị Phật ban phước.

Ôi kỳ diệu thay lời tán thán cao nhă nhất này;

Chỉ một lần gợi nó trong tâm

Dứt khoát người ta sẽ được tái sanh

Trong Cơi Cực Lạc linh thánh tuyệt hảo.

Ông ta dùng mô tả những lợi ích thế tục và siêu việt như chúng được giảng trong nguồn mạch truyền thống.

Sau đó xuất hiện một người mà trong những đời trước đă có một liên hệ samaya với Đức Vajradhara (Kim Cương Tŕ) và Guru Padmasambhava, và là người bảo vệ kho tàng ẩn dấu của Phật Pháp mênh mông và sâu xa.

Sau này bà là phối ngẫu tâm linh của Đức Mila Zhadpa Dorje (vật trang sức duy nhất của ḍng thực hành trong Xứ Tuyết) khi Ngài ở trong vùng núi Everest và Chhubar, và v́ thế đă rút năng lực vi tế và tâm thức của Ngài vào kinh mạch trung ương.

Cuối cùng, bà là bổn tôn bảo vệ riêng của vị tulku siêu phàm Jigmed Do-ngag Tandzin (một bậc tŕ giữ kim cương của giác tánh nội tại) và Dechhen Dorje (một vương miện trong số hàng trăm bậc thông tuệ tâm linh), tẩy trừ mọi chướng ngại cho sự trường thọ của hai vị thầy này và hướng dẫn sự phát triển những hoạt động của các ngài để làm lợi ích chúng sinh một cách vô tư.

Được biết nhiều với danh hiệu Tashi Tseringma, nữ hoàng của các thiên nữ dược sư, từ trung tâm thiền định của vị thầy cao quư của tôi, bà gọi to ba lần: “Con, con gái Dawa Drolma! Hăy trở về cơi người!”.

Khi nghe giọng nói của bà vang lên, tôi bắt đầu nhớ tới người chú tôn quư của tôi cùng những bằng hữu, thân quyến và cha mẹ tôi đang ở miền T’hrom. Tâm tôi tràn ngập một sự khao khát là lùng và tôi nghĩ tới việc quay về.

Và v́ thế, cùng với Đức Tara Trắng đi kèm, tôi trở về trong chốc lát. Năm ngày tṛn (đó là mười thời kỳ mười hai-tiếng trong ngày hay đêm) đă trôi qua trong cơi người. Khi tâm thức tôi trở về thân xác, tôi hắt hơi dữ dội.

Trước hết tôi kinh nghiệm một sự hoàn toàn lạc hướng, như thể tôi vừa ngủ dậy, nhưng chẳng mấy chốc tôi bị tràn ngập bởi niềm tin và sự hỉ lạc trước những thị kiến về các cơi thuần tịnh và cảnh tượng khủng khiếp trong các thị kiến thuộc nghiệp của các địa ngục.

Cậu Trungpa, đứng trước mặt tôi cầm một mũi tên có trang trí dải ruy băng trường thọ và nh́n tôi chăm chú bằng đôi mắt đỏ ngầu. Tôi không thể nói một lời, như thể tôi hơi bẽn lẽn. Tôi được tẩy tịnh theo nghi lễ với nước mưa được chế thành thuốc của các thấu thị và bằng nước được dùng trong thực hành thiền định của thiên nữ bảo vệ Vijaya.

Mọi người kêu khóc và phấn khích, nói những điều như: “Việc này không khó khăn sao? Hẳn là con đói lắm! Chắc hẳn con khát lắm!”. Hầu như họ cố đổ đồ ăn và thức uống lên đầu tôi.

Mặc dù tôi phản đối: “Tôi hoàn toàn không khó chịu bởi đói hay khát” nhưng họ không tin tôi và cố nài: “Ăn đi! Uống đi”. Mọi người đều cảm thấy vô cùng vui sướng như nỗi vui của một lạc đà mẹ t́m thấy đứa con bị lạc của nó, và cùng tham dự một bữa tiệc mừng.

Rôi tôi nghỉ ngơi trong một hoặc hai ngày, sau đó tường thuật của tôi về các cơi thuần tịnh Potala và Yulokod và các cơi địa ngục được Tulku Gyazur ghi chép lại mà không bịa đặt hay thêm thắt điều ǵ.

Thân, ngữ và tâm bí mật của tất cả vô lượng các Đấng Chiến Thắng

Được hợp nhất không hề ly cách trong Đức Tara, bà nẹ của các Đấng Chiến Thắng.

Ngay khi tia bi mẫn sắc nhọn của Ngài đâm trúng tim con

nó xua tan mọi bóng tối trong con.

Đằng sau các cơi thuần tịnh, bởi những ước nguyện trướcđây của con,

đă thực sự xuất hiện rơ ràng trong tấm gương của trái tim con,

tường thuật đúng đắn và chính xác này, thoát khỏi mọi sự cường điệu hay giản lược

và không bị tổn hại bởi quỷ ma của sự bè phái phân biệt hay ganh ghét đố kỵ,

xuất hiện chỉ nhờ ân phước của các đạo sư của con.

V́ thế, nếu chúng con nhiệt thành tôn kính các bậc linh thánh đó,

là những thiện tri thức chỉ cho chúng con con đường đúng đắn,

trong mọi cuộc đời của chúng con, cầu mong các ngài ban cho chúng con những ân phước.

Sarva mangalam cầu mong mọi sự tốt lành.

May mắn, may mắn, may mắn!

Cầu mong sự tốt lành cháy rực và thế giới được trang hoàng.

Jayantu cầu mong chiến thắng.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 826 of 2534: Đă gửi: 25 September 2008 lúc 10:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

 

HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI

BÊN KIA CÁI CHẾT

 

5- CẦU THANG ĐƯA TỚI GIẢI THOÁT - TÓM LƯỢC

NHỮNG HẬU QUẢ CỦA ĐỨC HẠNH VÀ ÁC HẠNH

 

Hri Tự nhiên và thoát khỏi sự tạo tác là đạo sư Pháp Thân;

Niềm hạnh phúc lạc siêu việt của sự tráng lệ của hiện thể  Báo Thân là đạo sư, chúa tể của Pháp;

Sanh trong một cọng sen dài là đạo sư Hóa Thân:

Con đảnh lễ bậc Kim Cương Tŕ của ba thân.

Bổn tôn không lầm lỗi, thân Ngài sắc trắng,

Đầu Ngài tô điểm một vị Phật Toàn Giác,

Chăm chú nh́n chúng sinh với đôi mắt bi mẫn bẩm sinh:

Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara.

Là nơi nương tựa, đấng sanh ra tất cả các Đấng Chiến Thắng và là lănh vực trong đó các ngài biểu lộ sự phô diễn của ḿnh,

Hỡi Mẹ, Đức Tara tôn kính, dưới gót sen Ngài,

Cho tới khi con đạt giác ngộ

Con sẽ quy y với ḷng sùng mộ, hoàn toàn trông cậy nơi Ngài.

Sau khi được bà mẹ tốt lành sanh, tôi, Dawa Drolma, con gái của gia đ́nh Tromge, đă đối xử thương yêu với mọi chúng sinh khốn khổ bằng ḷng bi mẫn. Năm mười lăm tuổi, tôi buồn khổ v́ bệnh tật; mẹ tôi, Đức Tara Trắng, phấn khích tôi và làm thuyên giảm hoàn toàn những đau đớn của tôi bằng một loại thuốc đă cứu tôi thoát khỏi cái chết.

Trong thời gian mười ngày đêm, tôi bỏ ăn và kinh nghiệm các linh kiến tiên tri chúng thúc đẩy tôi t́m kiếm xem đức hạnh là ǵ. Đằng sau những sắc tướng của đời này và sự tỉnh giác của tôi về chúng bị ngăn che, bốn dakini đă trở thành bạn đồng hành của tôi và khiêng tôi trên một cái kiệu lụa.

Trong một thời gian ngắn, tôi đă du hành qua lối đi hẹp của bardo. Tôi có những thị kiến kinh khiếp, thoáng qua và lờ mờ; tôi cũng thấy vài đạo sư linh thánh dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi trạng thái đó và tôi tṛ chuyện với các ngài trong một tâm trạng vừa tin tưởng vào ḷng bi mẫn của các ngài vừa không ảo tưởng đối với sự hiện hữu luân hồi.

Om mani padme hum hri.

Cơi giới núi Huy Hoàng có h́nh dáng như một trái tim. Trên những sườn núi hùng vĩ của nó, giữa thành phố của các dakini, giữa một lâu đài nhiều tầng, vô cùng trong suốt, tôi gặp Đức Orgyan vinh quang và quyến thuộc của Ngài gồm các bậc Hóa thân, vua xứ Tây Tạng và các thần dân của nhà vua.

 Với  niềm tin và nỗi khao khát, tôi phục lạy và khẩn nài Ngài ban cho nơi nương tựa. Ngài ban cho tôi những quán đảnh và ban phước đặc biệt, tâm tôi tràn đầy cảm xúc bi mẫn. Ngài nói: “Đừng quên những cách thức trong đó những thị kiến về sáu loài chúng sinh biểu lộ với con; hăy trở về cơi người để nài xin con người đeo đuổi đức hạnh”.

Tập hội của daka, yogini và bà mẹ Tsogyal, vị dakini của giác tánh nguyên thủy, đă tỏ ḷng tôn kính tôi bằng cách đi theo tôi một trăm bước. Tôi làm mủi ḷng các ngài bằng những lời khẩn cầu ước nguyện cao nhă của tôi.

Cùng với Đức Tara Trắng, vị bảo trợ giám hộ của tôi, để gây cảm hứng cho chính ḿnh, tôi băng qua lối đi dài và hẹp của bardo. Ở đó, tôi thấy những ấn tượng thoáng qua và lờ mờ về mọi loài chúng sinh đă khuất (những người tôi biết và cả những người tôi không quen biết) đang cùng nhau quay cuồng trôi dạt.

Kêu khóc thảm thiết, những kẻ bất hạnh này trao cho tôi nhiều thông điệp nản ḷng để đem về thế giới của những người c̣n sống mà họ đă để lại sau lưng. Họ van nài: “Bởi ḷng yêu thương và bi mẫn đối với chúng tôi, xin hăy chuyển dùm những thông điệp”. Nắm chặt tay tôi, nước mắt họ tuôn như suối. Không thể chịu đựng nổi cảnh tượng này, tôi lặp đi lặp lại thần chú mani.

Om mani padme hum hri.

Khi du hành qua thế giới bên kia của người chết, tôi nhận ra rằng những người không có sự an ủi của Phật Pháp th́ đau khổ biết bao. Từ trên trời đổ xuống một trận mưa đỏ như máu các vũ khí và cả một vùng chung quanh rùng ḿnh bởi âm thanh ầm ầm như tiếng gầm rống của một ngàn con rồng, trong khi trên mặt đất những cư dân dữ tợn khua những vũ khí ác liệt và la hét: “Giết, giết! Đánh, đánh!”. Bóng tối dày đặc của nỗi khốn khổ bao trùm vùng đất đó.

Om mani padme hum hri.

Những người đă từng thực hành Phật Pháp được hạnh phúc và hài ḷng trong bardo. Đối với họ, bầu trời ngập đầy hàng trăm cầu vồng và một trận mưa cam lồ ngọt ngào đổ xuống, trong khi từ muôn phương các daka và dakini hát ca, nhảy múa và chơi những nhạc cụ, trao tặng những đám mây gồm những vật cúng dường và đưa dẫn những chúng sinh này trên con đường tới sự cực lạc giải thoát. Đối với họ, một ngày của niềm hạnh phúc đă ló rạng.

Om mani padme hum hri.

Bạn đang ở trong thế giới của người sống, cho dù bạn từng tích lũy y phục suốt một trăm năm, bạn sẽ ra đi trần trụi buổi sáng ngày bạn chết; nên tốt hơn, hăy mặc y phục xuềnh xoàng trong khi thực hành đức hạnh. Mặc dù bạn tích trữ lương thực trong một thời gian dài, bạn sẽ đói khát vào buổi sáng ngày bạn chết; nên tốt hơn, hăy cho đi ngay cả thức ăn thừa của bạn.

Mặc dù bạn cóp nhặt tài sản suốt cả cuộc đời, bạn sẽ ra đi với hai bàn tay trắng vào buổi sáng ngày bạn chết; nên tốt hơn, hăy chuẩn bị tư lương cho hành tŕnh của bạn trong những đời sau. Vào buổi sáng ấy, khi sợi tḥng lọng tối ám của Thần Chết xiết quanh bạn, và đó là lúc bạn phải ra đi, th́ bất lực biết bao, cha mẹ bạn sẽ chẳng có ở đó để bảo vệ bạn, những quyến thuộc và bằng hữu yêu mến của bạn sẽ không có ở đó để che chở bạn.

Bạn sẽ nhận ra rằng họ chỉ là những đối tượng của hồi ức của bạn về niềm hạnh phúc và vui thú, rằng họ không có thực chất. Hăy vất bỏ những gông cùm này của h́nh tướng và tri giác đặt nền trên sự vô minh, bởi chắc chắn rằng đây là lúc để thực hành Phật Pháp tuyệt vời, nó sẽ thực sự làm lợi lạc cho bạn trong đời sau. Chớ để phần đời người c̣n lại của bạn trôi tuột đi mất.

Om mani padme hum hri.

Tuy nhiên, trong thị kiến bất tịnh khác, tôi nh́n thấy những cảnh tượng lờ mờ, khủng khiếp của địa ngục. Trong một pháo đài dễ sợ đầy đầu lâu, trên một cái ngai cao chồng chất sọ người là Thần Chết, khủng khiếp và hung ác. Những thuộc hạ ghê gớm của ông đang cùng nhau cai quản vô số chúng sinh đă chết và đang ở trong bardo.

Mỗi người trong những chúng sinh này được một đứa trẻ sáng đẹp và một đứa trẻ tối ám đi kèm, chúng rất tài ba trong việc ước định những thiện hạnh và ác hạnh. Awa Langgo, thuộc hạ đầu-ḅ, khéo léo trong việc đọc những bản báo cáo cuộn tṛn; thuộc hạ đầu-sư tử đang đánh trống công lư nghiệp quả; thuộc hạ đầu-rắn đang tiên đoán trong một tấm gương.

 Thuộc hạ đầu-hươu đực đang sắp xếp dụng cụ tra tấn; thuộc hạ có đầu của một con gấu tuyết đỏ đang đánh bóng các vũ khí; thuộc hạ đầu-khỉ đang đo lường sự cân bằng (giữa thiện và ác), thuộc hạ đầu-gấu đang phân biệt thiện hạnh và ác hạnh. Bảy thuộc hạ này đă thẩm tra kỹ lưỡng thiện nghiệp và ác nghiệp của những người đă chết; đang ngợi ca tán thán những người có trí tuệ siêu phàm và đưa họ đi theo con đường sáng ngời dẫn tới giải thoát.

Om mani padme hum hri.

Những kẻ không có những phẩm tính tâm linh bị nắm tóc lôi xuống một con đường dẫn tới sự tăm tối, trong khi những thuộc hạ kêu gào: “Giết chúng! Đánh chúng!”. Bị đưa tới các địa ngục nóng và lạnh, họ sẽ phải chịu đau đớn không ngừng trong một kiếp.

Om mani padme hum hri.

Sự thương xót của tôi đối với chúng sinh khốn khổ đó thật không chịu đựng nổi. Tôi hát tụng các thần chú mani và tare bằng một giai điệu ai oán, nó đem lại chút lợi lạc nhỏ bé cho những ai có liên hệ với tôi bằng đức tin và sự khao khát.

Om mani padme hum hri.

Dharmaraja chăm chú nh́n tôi và hỏi gặng: “Cô gái, cô đă làm những đức hạnh hay ác hạnh nào? Không có lợi ích khi che dấu bất kỳ điều ǵ, v́ thế hăy nói cho ta nghe!” Đức Tara, vị bảo trợ của tôi, đứng lên, cúi đầu cung kính và nói:

“Chao ôi! Cô gái này có đức tin và sự kính trọng, v́ thế xin đừng giận dữ với cô ta. Cô ấy đối xử từ bi với người dưới và luôn luôn tránh làm điều ác”. Mặc dù sự khẩn cầu của Ngài, Dharmaraja nói với tôi “Hăy phơi bày những đức hạnh và ác hạnh của cô”.

Thuộc hạ đầu-ḅ xem kỹ cuộn giấy. “Hê, hê! Mặc dù tham gia nhiều hoạt động, cô vẫn kiên định với mục tiêu chính”.

Cô gái này nói với vẻ cung kính: “Tôi đă phạm lỗi khi mạnh tay xô ngă những đứa trẻ ngỗ nghịch”. Khi nói những điều này tôi cảm thấy sờ sợ.

Tuy nhiên, Dharmaraja hơi mỉm cười và nói: “Mặc dù có thể cô cần tự tịnh hóa lỗi lầm, nhưng thái độ thương yêu và che chở trẻ em của cô chiếu sáng bất kỳ ác hạnh nào có thể cô đă phạm.

 Ta có thể gởi trả cô về cơi giới của cô. Bây giờ hăy chú tâm tới cảnh giới địa ngục, các thông điệp do người đă chết gởi và mệnh lệnh của riêng ta cho thế giới của người sống và hăy tường thuật chúng thật rơ ràng. Cũng thật đúng lúc cho cô để sám hối các ác hạnh và tiếp tục nhiều điều đức hạnh. Từ nay về sau, hăy quả quyết rằng cô không làm điều ǵ để phải xấu hổ”.

Om mani padme hum hri.

Mặc dù người chết gởi về nhiều thông điệp, hăy cho phép tôi thỉnh cầu các bạn tụ hội ở đây để nghe những vấn đề trọng yếu. Các bạn là những người được ở lại trong thế giới này của người sống, nghiệp tích cực và tiêu cực chắc chắn phải được tổng kết.

 Những chúng sinh bất hạnh trong các cơi thấp phải liên tục chịu đựng nỗi khốn khổ mà không có cơ may thoát khỏi, v́ thế đừng để mối xúc động và ḷng bi mẫn của các bạn đối với họ bị ch́m lắng. Bây giờ là lúc để các bạn nhân danh họ mà nhanh chóng hồi hướng một vài công đức.

Om mani padme hum hri.

Đối với đức hạnh, trong ư định và trong thực tế, đây là lúc để nương cậy vào các điểm trọng yếu của sự tích tập, tịnh hóa và tăng trưởng. Để tịnh hóa các chướng ngại, giống như đứng lên lại bằng cách dựa vào mặt đất nơi các bạn té ngă, hăy quán tưởng, cung kính, thờ phụng một cách trong sáng các đối tượng của đức tin của các bạn và hăy dâng lời sám hối.

Ba hành động là sao chép, tụng đọc và truyền bá những mệnh lệnh của Dharmaraja, và đặc biệt là Kinh Giải Thoát, Kinh Tịnh Hóa Ba Nhánh, Tụng Niệm Hồng Danh Phật, Kinh Dược Sư, Sám Hối các Tội Phạm Giới và Tantra Sám Hối, là những phương cách tối hảo để tịnh hóa các che chướng.

Đức Phật Vajrasattva, Đức Phật Vairocana Toàn Tri, Đức Phật Akshobhya Bất Động, những nghi lễ của các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ, nghi lễ Sự Lưới Vét từ Tận cùng Địa Ngục, Akashagarbha Kinh Giải Thoát và hai văn bản tên là “Bất Nhiễm” hăy sử dụng chín phương tiện này để tịnh hóa các che chướng trong các sự tiếp cận Kinh điển và Tantra.

Một cách kiên tŕ, với niềm tin và ḷng bi mẫn, hăy duy tŕ ba điểm của sự tỉnh giác tươi mới và hăy tŕ tụng các thần chú mani, siddhi và tare, cũng như thần chú trăm-âm. Hăy phất lên những lá cờ cầu nguyện, khắc các thần chú lên đá, quay bánh xe cầu nguyện và cử hành nghi lễ chay nyungnay.

Hăy giải cứu chúng sinh thoát khỏi sự ác, hăy chuộc lại mạng sống của những chúng sinh chắc chắn bị giết hại và khoanh các vùng cấm đối với thợ săn. Bây giờ là lúc cúng dường để cấp dưỡng cho các hành giả và những bữa tiệc tsog. Hăy nỗ lực để bảo đảm những t́nh huống có thể hỗ trợ cho sự thực hành Pháp và để giúp đỡ người khác.

Nếu mối quan hệ của họ không lỏng lẻo th́ những người chết có sự nối kết với người sống qua gia đ́nh, Giáo Pháp, hay các đối tượng vật chất sẽ được thụ hưởng những lợi lạc của bất kỳ đức hạnh nào được hồi hướng cho họ.

Hăy kiên tŕ trong việc hồi hướng đức hạnh nhân danh những các nhân riêng biệt. Nếu các bạn thực hành theo cách này th́ lợi ích sẽ rất to lớn; nói chung, người chết và người sống cùng chia sẻ một vận mệnh chung cơ bản. Tôi báo cho các bạn” “Đừng quên những thông điệp của người chết. Đừng tự xa cách hay chối bỏ họ”. Các bạn là những người có sự hiệu biết, hăy ghi nhớ điều này trong tâm.

Om mani padme hum hri.

Hơn nữa, vị vua định mệnh đưa ra những mệnh lệnh sau đây:

Tất cả các ông ở trong thế giới những người sống, cao hay thấp;

Mọi sự sinh ra đều phải chết đi, và mọi sự hội tụ phải tan tác.

Kết quả sau cùng của sự tập hợp là phân tán và kết quả sau cùng của sự sinh khởi là suy hoại.

Bởi không điều ǵ trong ṿng hiện hữu sinh tử là thường hằng hay kiên cố, chớ níu chặt sự có vẻ thường hằng của các sự vật hoặc bám dính vào chúng như thật có.

Bất kỳ điều ǵ xuất hiện trước mặt các ông th́ giống như những kinh nghiệm trong một giấc mơ;

đừng bám luyến vào những h́nh tướng huyễn mộng của hạnh phúc.

Nếu các ông ước muốn hạnh phúc, hăy bỏ đi sự sao nhăng và biếng lười.

Hăy phát triển sự từ bỏ, Bồ Đề tâm, và một nhăn quan thanh tịnh.

Hăy hiến dâng ba đại lộ của hiện thể của các ông cho cái ǵ hoàn toàn tích cực.

Nếu các ông không ước muốn đau khổ, hăy tịnh hóa các hậu quả của những ác hạnh trước kia,

Và kiên quyết không tái phạm chúng.

Những nghiệp quả của các hành động tích cực và tiêu cực th́ không thể sai chạy.

Chớ phủ nhận chúng bằng những lời trống rỗng.

Các ông sẽ tái sinh trong một xứ sở tối tăm kéo dài một đại kiếp.

Những kẻ có dục vọng và tham muốn to lớn sẽ phải chịu đựng sự đói khát trong các cơi ngạ quỷ trong một triệu tám trăm ngàn năm.

Những kẻ có động lực xấu ác và luôn ám ảnh sự giết hại

Sẽ kinh nghiệm các địa ngục nóng và lạnh trong nhiều kiếp.

Những kẻ mắc phạm các ác hạnh chống trái những bậc tôn quư,

Những kẻ phạm các hành động bị nghiệp báo tức khắc,

Hay những kẻ từ bỏ Pháp hoặc giữ những tà kiến với nó

sẽ bị tái sanh trong Địa Ngục Kim Cương và ở đó trong một kiếp, kinh nghiệm nỗi khổ khủng khiếp không hề gián đoạn.

Những kẻ ganh tị và đua tranh, hoặc những kẻ vui thú trong sự gây gổ và tranh đấu,

Sẽ chịu đau khổ dài lâu trong các cơi bán thần.

Những kẻ tâm thức căng đầy kiêu ngạo và những người có thiện nghiệp th́ bị phụ thuộc vào sự cạn kiệt

Sẽ bị tái sinh trong các cơi trời và cuối cùng sẽ đọa lạc từ trạng thái này.

Những kẻ dấn ḿnh vào một pha trộn của sự hám lợi và những thiện hạnh

Sẽ bị tái sinh trong cơi người, phụ thuộc sự phiền muộn và túng thiếu.

Om mani padme hum.

V́ thế, chớ sa đà vào các ác hạnh, tám mối bận tâm thế tục.

Hay những tâm thái vụn vặt tầm thường,

Hăy nỗ lực gieo trồng cội gốc của đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh.

Om mani padme hum hri.

Ẩn nghiệp tạo nên bởi những hành động được thực hiện bí mật trở thành hiển nhiên khi nó rơi xuống đỉnh đầu các ông.

Sự lựa chọn giữa thiện và ác nằm trong ḷng tay các ông.

Nếu các ông không suy tưởng về điều này, sự ân hận sẽ là vô ích khi các ông tới trước mặt ta, Thần Chết, trong ṭa án của ta.

Om mani padme hum hri.

Như các ông đă thấy, ta tập hợp nhiều tinh linh của người chết làm thuộc hạ.

Chúng ta đâm chúng sinh bằng những vũ khí sắc nhọn,

Bắt chúng uống vạc kim loại nóng chảy,

Khiến chúng chịu nỗi thống khổ của nóng và lạnh trong nhiều kiếp,

Chúng ta đoan chắc rằng đau khổ tiếp diễn không hề gián đoạn.

Om mani padme hum hri.

Đừng lăng quên những thông điệp này; hăy truyền đạt chúng thật rơ ràng.

Việc này sẽ đem tới cho các ông công đức lớn lao.

Các ông, những tu sĩ và cư sĩ tụ hội nơi đây,

Ta yêu cầu các ông quán chiếu tới lui những vấn đề này cho tới khi các ông không c̣n nghi ngờ ư nghĩa của chúng.

Om mani padme hum hri.

Con khẩn cầu các cội nguồn quy y, các Đấng Chiến Thắng và những vị kế tục của các Ngài chứng minh cho con.

Cầu mong mọi đức hạnh mà con và những người khác tích tập suốt trong ba thời, như được minh chứng bởi năng lực đức hạnh của đức tin và ḷng sùng mộ được tập hợp nơi đây, đều được hồi hướng và bởi sức mạnh của sự hồi hướng này.

Cầu mong giáo lư của các Đấng Chiến Thắng, dù thuộc lư thuyết hay sự chứng nghiệm, phát triển tới những phạm vi rộng lớn nhất xa rộng ở muôn phương.

Cầu mong những ư hướng giác ngộ của các đạo sư, những bảo trợ vinh quang của chúng con được hoàn thành.

Cầu mong các sự cúng dường làm vui ḷng tất cả các Đấng Chiến Thắng và những vị kế tục.

Cầu mong các hoạt động giác ngộ của những thánh nhân nắm giữ giáo lư được hưng thịnh.

Cầu mong mối ràng buộc thiêng liêng với các bậc bảo vệ giáo lư được hoàn thành nhờ những chất thể linh thánh.

Cầu mong cái thấy (kiến) và hành vi (hành) của tăng đoàn duy tŕ giáo lư được thuần tịnh.

Cầu mong năng lực và ảnh hưởng của những ai tôn kính Giáo Pháp được tăng tưởng.

Cầu mong sự suy đồi của thế giới các sinh loài và vật vô tri giác được yên b́nh. Con hồi hướng đức hạnh này để đem lại sự chữa lành bây giờ và trong tương lai.

Tôi hồi hướng đức hạnh này cho hai đấng sinh thành, cũng như cho những kẻ thù, quỷ ma, những chướng ngại và cho tất cả những ai có liên hệ với tôi qua thiện nghiệp hay ác nghiệp và đặc biệt hồi hướng cho những người nam và nữ phụ thuộc vào tôi trong việc sinh nhai.

Cho những con ngựa cày xới ruộng đồng để phục vụ chúng tôi, cho những con ḅ cung cấp cho chúng tôi tinh chất của chúng, và cho những con vật mà chúng tôi sử dụng máu, thịt và da của chúng mọi loài hữu t́nh mà chúng tôi đă trực tiếp hay gián tiếp gây nên cái chết của chúng.

Tôi hồi hướng đức hạnh này để mọi ác hạnh và thiếu sót mà tôi và những người khác đă mắc phạm, hoặc khiến cho người khác mắc phạm, hoặc vui thú trước những ác nghiệp, cùng những kiểu thói quen thuộc nằm dưới chúng. Được nhanh chóng tịnh hóa.

 Tôi hồi hướng đức hạnh này để mọi chúng sinh trong sáu loài và trong bardo có thể dễ dàng và nhanh chóng hoàn thiện hai tích tập vĩ đại, và nhờ đó chứng ngộ trực tiếp bản tánh toàn khắp và nền tảng của thực tại, đạt được giác ngộ không ǵ sánh, nó làm hiển lộ những phẩm tính của sự từ bỏ và trưởng thành.

Bản tóm lược này về những thị kiến trong các cơi địa ngục được biên soạn theo cách chuyển Pháp luân bởi dakini Sherab Chhodron, cũng được gọi là Dawa Drolma, một hóa thân thực sự của Đức Tsogyal.

Sarva Mangalam May mắn, may mắn, may mắn!

Cầu mong mọi sự tốt lành.

 

                                                       Liên Hoa

 

 

                                       Hết

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 827 of 2534: Đă gửi: 26 September 2008 lúc 10:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ ẨN CỦA LINH CẢM

 

Thật là kỳ lạ, trong đời sống mỗi người đều có ít nhất một lần được linh tính mách bảo. Linh cảm hay linh tính ấy thường được gọi là "giác quan thứ sáu" và hiện nay vấn đề này c̣n được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.

Lịch sử đă có nhiều minh chứng cho điều ấy. Nhà bác học Nga Mendeleev 1834-1907, người đă phát minh ra định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học, đă nằm mơ thấy hiện rơ ra trước mắt toàn bộ bảng tuần hoàn.

Điều này có thể giải thích được v́ có lẽ ông đă nghiên cứu hàng chục năm vấn đề này và đến khi chín mùi th́ kết quả đă hiện ra trong giấc mơ và ông chỉ việc ngồi bật dậy và chép lại.

Nhà thơ Nag Lermontov 1814-1841, đă kể lại câu chuyện khi ông c̣n là sĩ quan biên pḥng ở Kabkaz. Có một hôm ông đang ngồi đánh bài với lính của ḿnh và nh́n thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy:

- Anh phải đề pḥng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên pḥng và sáng mai hăy về.

 Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đă gặp một người say rượu, trong cơn say đă đâm chết anh ta.

Về những khoa học c̣n mang đầy tính chất tiên đoán như kiến tạo học cũng đă có nhiều nhà bác học phát minh ra mỏ nhờ linh cảm. Viện sĩ Xobolev của Nga t́m ra kim cương ở vùng Iakutsk, viện sĩ Muratov 1908-1983, t́m ra dầu mỏ ở vùng Tây Xiberi đều do linh tính mách bảo.

Điều này cũng có thể được giải thích bằng kinh nghiệm và sự so sánh kiến tạo với các miền khác trên thế giới của họ, nhưng mặt khác, linh tính cũng đóng vai tṛ rất quan trọng.

Nhiều lúc linh tính hoàn toàn trái ngược với logic, tư duy nhưng lại thích hợp. Napoleon 1769-1821 khi đánh vào nước Nga năm 1812 đă linh cảm là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành, v́ theo ông cái vĩ đại chỉ cách cái lố bịch có một bước.

Rơ ràng là từ lâu, nhiều học giả đă phải đau đầu v́ cái thế giới cảm tính bao giờ cũng lẩn quất quanh ta, ngay trong ư nghĩ của ta nhưng lại cực kỳ bí ẩn.

Tờ báo Zarubejom tháng11-1995 đă đăng lại bài của tờ Time tháng 8-1995: "Linh cảm là một cảm giác hay một quy luật?"

Sau đây xin trích một đoạn của bài báo ấy:

"Vấn đề linh cảm rơ ràng là một bí mật lớn. Có một tư duy rất biện chứng của các nhà khoa học mà nhiều khi chúng ta quên đi: Trước một vấn đề mà ta không hiểu th́ ta đừng giải thích bừa, v́ làm như thế là ta tự dẫn ta vào ngơ cụt.

Trong những trường hợp ấy, tốt nhất là ta tự thừa nhận cái chưa biết của ḿnh và cũng đừng cho đó là một sự thật hiển nhiên. Bởi v́, vũ trụ là vô tận, đầy bí mật và mỗi ngày chúng ta chỉ biết thêm một tí trong cái ta chưa biết vô cùng lớn ấy.

Nhưng như con kiến tha lâu đầy tổ, chúng ta cứ chịu khó t́m ṭi và biết đâu sẽ t́m ra một quy luật chi phối toàn vũ trụ".

Điều khó hiểu hơn cả là tín hiệu mà ta cảm nhận được, cái mà ta gọi là "giác quan thứ sáu" là lời mách bảo của một sức mạnh siêu nhiên nào đó hay là thuộc tính tự nhiên của loài người?

V́ rơ ràng, linh tính không phải là kết quả quá tŕnh tư duy, nó nằm ngoài phạm trù logic và biến chứng. Nhưng thật ngược đời, sự logic mà linh tính mách bảo, trong nhiều trường hợp dường như lại hợp lư và lại là điều cần phải làm.

Xưa nay, quan niệm thông thường cho rằng phụ nữ có linh cảm cao hơn nam giới. Người đàn bà giải quyết nhiều vấn đề xuất phát từ cảm tính. Ngược lại, người đàn ông bao giờ cũng đi từ logic của vấn đề.

Nhưng cũng có nhiều phát minh nổi tiếng của các nhà bác học nam giới lại bắt đầu từ cảm tính. Nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo là Moza 1756-1791, khẳng định rằng, mỗi tác phẩm âm nhạc của ông là sự kết tinh của nguồn cảm hứng, tư duy sáng tạo và do linh tính mách bảo.

Nhà vật lư, toán học và thiên văn học người Anh là Niutơn 1642-1727, đă phải công nhận linh tính đă đưa ông đến những phát minh vĩ đại.

Trong lịch sử, không những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng có khả năng linh cảm trước một số vấn đề.

Một số người nổi tiếng cũng nhờ "giác quan thứ sáu" mà thoát chết. Nhà chính trị người Anh Socsin 1874-1965 người được giải thưởng Nobel văn học năm 1953, hai lần làm thủ tướng nước Anh 1940-1945, và 1951-1955 một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát xít Đức, là do linh tính mách bảo.

Năm 1944 ông Socsin vừa chuẩn bị rời trận địa tên lửa th́ máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Socsin không chịu vào xe mà ṿng chạy ra phía sau.

Đúng lúc ấy một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, làm thành một hố bom lớn, ngay chỗ Socsin vừa đứng. Trong tập hồi kư của ông, Socsin viết:

- Dường như có một sức mạnh nội tâm đă mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng.

Đến đây một câu hỏi đặt ra:

"Những người b́nh thường có khả năng linh cảm không?" Như trên đă nói ai cũng có ít nhiều khả năng này.

Tờ báo Scandal ở Mỹ năm 1994 có đăng một câu chuyện về giấc mơ kỳ lạ của một người mẹ:

"Chuyện kể rằng năm 1865 một chú bé bên là Maks Hofman năm tuổi, bang Wisconsin bị mắc chứng bệnh tả. Bác sĩ nói rằng không c̣n tia hy vọng nào cứu sống được chú. Ba ngày sau đó, chú bé trút hơi thở cuối cùng và mọi người đem chôn chú trong nghĩa địa của làng.

Đêm hôm đó trong giấc mơ, bà mẹ nghe thấy tiếng con trai trở ḿnh trong quan tài. Bà kêu lên rồi chạy đến bên chồng, xin ông hăy ra mộ để cứu con. Ông chồng tất nhiên đă từ chối. Ông giải thích cho vợ ḿnh rằng bà đă quá thương con nên đă thấy như vậy.

Nhưng đêm hôm sau bà mẹ lại mơ thấy y như thế. Lần này bà đă quyết tâm cùng người nhà ra cứu con. Lúc ấy đă gần nửa đêm. Mọi người treo đèn lên trên cành cây bên cạnh mộ và cặm cụi đào. Khi nắp quan tài vừa mở, ai cũng sửng sốt, v́ thấy cậu bé nằm đúng tư thế mà người mẹ nh́n thấy trong mơ:

"Cậu nằm nghiêng về phía bên phải, hai tay xếp dưới má phải". Cậu bé không có biểu hiện ǵ của sự sống. Nhưng người cha vẫn bế con lên rồi bằng mọi cách hô hấp nhân tạo.

Sau một giờ điều kỳ diệu đă xảy ra: Cậu bé dần dần tỉnh lại. Rồi mọi người đă t́m các biện pháp giúp cậu phục hồi sức khoẻ và chữa khỏi bệnh tả cho cậu. Về sau, Maks Hofman đă sống tới 80 tuổi 1860-1940, tại thành phố Lincoln bang Iowa, Mỹ.

Vật kỷ niệm quư giá nhất đời ông là cái núm sắt nhỏ ở nắp quan tài mà từ trong đó ông đă được cứu sống nhờ giấc mơ của người mẹ.

 

                                                                ST

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 828 of 2534: Đă gửi: 26 September 2008 lúc 11:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG TIẾNG GỌI BÍ ẨN

 

Một phụ nữ bước vào cửa hiệu, khi cô đang đi quanh góc nhà th́ chợt nghe một giọng nói gọi tên cô hai lần. Cô chạy lên phía trước nhưng không thấy ai, và lúc đó vang lên những tiếng ầm ầm. Cô quay trở lại góc nhà, nơi vừa đi qua th́ thấy chiếc cột nhà đổ nằm đó và chao đèn trên bàn vỡ tan từng mảnh.

Th́ ra đă có một chiếc thùng phuy lăn từ trên xe tải xuống và làm đổ chiếc cột nhà. Cô đă thoát hiểm nhờ tiếng gọi bí ẩn.

“Con người ta không hiếm khi nghe thấy một giọng nói nào đó như được cất lên từ bên ngoài. Và dù cố gắng t́m kiếm nơi phát ra giọng nói, họ cũng không thấy ai” ông Igor Vinokurov, chủ tịch Ban nghiên cứu những hiện tượng khó lư giải của Nga nói.

Một câu chuyện khác ông ghi nhận được ở Nga như sau. Sau khi người mẹ qua đời được hai tuần, cậu bé mười ba tuổi tên là Alecxey đă sống ở nhà người bà con. Một thời gian sau cậu trở về nhà ḿnh, trong nhà không có ai cả.

Cậu định bụng chuẩn bị bữa ăn. Tủ lạnh đặt ở gần cầu thang ngoài. Thế nhưng khi cậu đưa tay nắm cửa th́ từ đâu có tiếng gọi vang lên, đúng là giọng nói nhẹ nhàng của mẹ đang gọi cậu. “Vâng, mẹ ơi” cậu bé đáp rồi chạy bổ vào pḥng bà và chỉ thấy chiếc giường trống trơn nên đứng sững lại.

Sau đó cậu trở lại nhà bếp mà trống ngực đập th́nh thịch, rồi cậu quay lại cửa ở cầu thang th́ tiếng kêu thảng thốt của người mẹ lại vang lên. Cậu bé không nhớ là đă trở lại pḥng mẹ thế nào nữa.

Ngay lúc đó bà hàng xóm sang và nói rằng, người ta đă phá bỏ hoàn toàn chiếc cầu thang này rồi v́ nó bị lung lay. Cậu bé đă thoát khỏi nguy hiểm chết người.

Trong số những hiện tượng về giọng nói bí ẩn, đôi khi đó là thông báo cụ thể về sự kiện sắp tới mà nguồn tin lại là giọng nói phát ra từ TV hoặc radio.

Vào lúc gần trưa, một phụ nữ trẻ người Anh đang xem TV, trên màn h́nh vang lên lời thông báo về vụ nổ ở Fliksboro đă làm cho vài người bị chết. Không lâu sau đó, bạn bè của cô đến chơi và cô kể về tin này.

Đến tối, họ xem phóng sự truyền từ nơi xảy ra tai nạn và kinh ngạc khi nghe thông báo tai nạn xảy ra vào buổi chiều. Quả thật vụ nổ ở nhà máy hoá chất đă xảy ra vào lúc 16 giờ 35 phút.

Các công tŕnh của nhà máy hoàn toàn bị phá huỷ, khu dân cư, cửa hiệu và các xí nghiệp lân cận đều bị thiệt hại. Đă có hai mươi tám người bị chết, hàng trăm người bị thương và không hề có một tin tức nào được báo cáo vào lúc người phụ nữ nghe được thông báo cả.

Một người dân ở Xamara là V.Grigoriev đă ở trong garage của ḿnh suốt cả ngày. Vào lúc gần một giờ trưa th́ radio thông báo về một tai nạn ôtô mà nạn nhân là một linh mục. Một chiếc xe của bưu điện đă đâm vào ông ta.

Đến tối th́ thông báo này được nhắc lại hai lần. Ngày hôm sau Grigoriev đi đến nhà nghỉ và măi đến chiều tối mới về, cả ngày anh không đọc báo, nghe đài hay xem TV.

Khi đi xe taxi, người tài xế kể lại hôm qua anh ta chứng kiến vụ đụng độ đó. Theo lời anh th́ sự việc xảy ra vào lúc mười một giờ đêm hôm trước.

Grigoriev đă gọi điện đến đài phát thanh để hỏi về trường hợp này. Hoá ra tin tức chỉ được phát vào lúc nửa đêm và phát lại vào buổi sáng.

Theo các chuyên gia về thần giao cách cảm, những ảo ảnh về thính giác không phải lúc nào cũng là chứng hoang tưởng. Những giọng nói đoán định trước nguy cơ của hiểm họa sắp xảy ra có thể không phải là giọng nói của người quen, nhưng cũng có thể là của những người bà con hoặc người quen đă chết.

Nếu như giọng nói là của người c̣n sống, th́ điều đó thường đến vào lúc mà người nghe đang ở trạng thái không tốt về thể chất, hoặc cảm xúc có thể là do bệnh tật, sự sợ hăi hay ước muốn được gặp ai đó.

Đôi khi nó là tiềm thức và bên tai ta vang lên một cái tên, như thể là lời kêu gọi sự giúp đỡ hoặc là sự cảm thông.

 

                                                                ST

 

 

 

 

 

 

 

 


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 829 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 4:41am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

BÍ ẨN TIẾNG GỌI LÚC

TINH SƯƠNG

 

Đă hơn một tháng, Anna Bray, một phụ nữ độc thân 30 tuổi, sống tại thành phố Manchester Anh, nhận thấy có những dấu hiệu rất kỳ quặc trong giấc mơ của ḿnh. Cô thấy trong mơ rằng có ai đó thỉnh thoảng lại th́ thầm vào tai cô: "Dậy đi, dậy đi Anna". Cô liền trở dậy chân tay có vẻ chới với rất lạ.

Tiếng gọi ấy rơ lắm. Anna không nghe nhầm và dường như tiếng th́ thầm ấy phát ra từ phía tường bên trong chứ không phải là từ phía cửa sổ. Lẽ ra Anna không lưu tâm nhiều đến chuyện này nếu như khi tỉnh dậy không có ǵ xảy ra.

Các nhà tâm lư đă chứng minh được rằng những người sống độc thân thường có ảo giác và nghe được những tiếng gọi tên ḿnh như vậy trong mơ. Nhưng trường hợp của Anna có điều ǵ đấy rất kỳ quặc.

Khi tỉnh dậy, cô lại thấy chăn màn đă được gấp lại gọn gàng; b́nh nước cá vàng trong vắt như có ai đó vừa thay nước; bộ quần áo công sở đă được là gọn gàng và treo trên mắc; cửa sổ th́ mở toang ra...

Đó là những công việc mà cô thường làm mỗi khi thức dậy. Điều này đă khiến Anna không khỏi lo âu. Phải chăng có ai đó đă lẻn vào pḥng khi cô đang ngủ say và làm hết tất cả những công việc đó?

Thật là một câu chuyện giống như chuyện cổ tích. Anna càng hăi hùng hơn khi nghĩ rằng đó là do cô bạn thân Brige trở về làm giúp cô những việc đó. Brige đă chết trong một tai nạn xe hơi từ lâu.

Nỗi sợ này ngay lập tức ám ảnh vào giấc ngủ của Anna và cô nghe thấy chính Brige gọi ḿnh. Cuối cùng Anna t́m đến các bác sĩ tâm lư.

Người ta cho rằng Anna bị ấn tượng rất nặng nề về cái chết của Brige nên tâm lư bị rối loạn, trí nhớ cũng không bảo đảm. Những công việc đă hoàn tất khi Anna tỉnh dậy rất có thể là cô đă làm vào buổi tối.

Anna quả quyết rằng, cô không bao giờ thay b́nh nước nuôi cá vàng vào buổi tối. Nhưng cô thú nhận là thỉnh thoảng ḿnh cũng là quần áo trước khi đi ngủ để buổi sáng có thời gian ngủ được muộn hơn.

Các bác sĩ giữ nguyên kết luận của ḿnh rằng Anna đă bị rối loạn trí nhớ v́ cái chết của bạn ḿnh. Chính cô đă đi cùng Brige trên chiếc xe đó nhưng may mắn thoát chết. Để tránh những ám ảnh đó, các bác sĩ khuyên cô không nên ngủ một ḿnh.

Anna gọi điện cho một cô bạn gái đến ngủ cùng. Đêm đầu tiên, hai người bạn thức khuya nói chuyện. Hôm đó Anna ch́m vào một giấc ngủ sâu và sáng dậy, cô thấy rất vui khi những công việc buổi sáng của ḿnh vẫn c̣n nguyên, quần áo vẫn vắt trên đi văng, b́nh nước cá vàng vẫn đục ngầu...

Nhưng mọi việc lại bắt đầu vào đêm thứ ba. Cô bạn vẫn ngủ cùng. Anna lại mơ thấy tiếng ai đó th́ thầm gọi ḿnh trong giấc ngủ và sáng hôm sau quần áo lại được “ai đó” là sẵn. Anna lại đến bác sĩ. Người ta khuyên cô cứ trở về ngủ b́nh thường, họ sẽ t́m cách chữa trị khác. Đêm hôm đó, các bác sĩ cử người bí mật đến theo dơi pḥng ngủ của Anna.

Căn pḥng ch́m trong ánh sáng lờ mờ, hồng nhạt của ngọn đèn ngủ. Anna Bray và cô bạn vẫn đang ngủ say. Trên chiếc giường rộng có rất nhiều gối nhỏ. Cửa sổ mở hé. Bầu trời đêm yên tĩnh không có sao.

Đă hơn ba giờ sáng, cửa sổ pḥng Anna khẽ rung rinh. Không có ǵ hết. Nó chỉ là một ngọn gió buổi sáng khẽ lùa vào pḥng. Đột nhiên Anna trở dậy. Cô khẽ khàng không động đến cô bạn đang ngủ say.

Cô bật đèn lên, uể oải vươn vai rồi đẩy rộng cánh cửa sổ ra cô đi vào pḥng tắm. Một lát sau, Anna trở lại pḥng, cô lấy bàn là là quần áo công sở rồi vắt chúng lên mắc, sau đó đi thay nước b́nh cá vàng. Cuối cùng Anna xếp lại những chiếc gối c̣n thừa trên giường, tránh đụng đến cô bạn đang ngủ. Xong việc, Anna lại nằm xuống giường và ngủ tiếp.

Phát hiện này khiến các bác sỹ hết sức kinh ngạc. Họ quyết định bí mật cử nhiều người đến quan sát và tiếp cận gần hơn nữa căn pḥng của Anna. Cuối cùng, sau khi đă báo cho cảnh sát biết, một bác sĩ đă t́m cách lọt được vào pḥng ngủ của Anna và nấp ở đó chờ đợi.

Anh ta nhận thấy rằng Anna trở dậy, mắt nhắm nghiền nhưng các cử động lại rất chính xác. Cô làm việc, đi lại không hề va vấp vào các đồ vật trong pḥng. Thậm chí ngay cả khi từ pḥng tắm bước ra, Anna cũng vẫn nhắm nghiền mắt.

Trường hợp của Anna có những biểu hiện giống bệnh mộng du. Nhưng ở những người mộng du thường chỉ đứng dậy và đi đứng loanh quanh một hồi rồi lại nằm xuống chứ không thể đi rất lâu, làm nhiều việc, thậm chí làm cả những công việc tác động lên thân thể ḿnh như việc tắm giặt nữa. Các bác sĩ tâm lư xác nhận rằng Anna không phải là trường hợp duy nhất có những hành động kỳ lạ như thế.

Người ta đă phát hiện ở vùng nông thôn kề cạnh thủ đô London Anh, có một người đàn bà tên là Merey, 34 tuổi và một người đàn bà khác tên là Dlune ở New York, Mỹ... Khoảng hơn chục người có những biểu hiện như Anna xuất hiện ở Mỹ và Anh.

Điều lạ lùng là họ giống nhau ở đặc điểm: sống độc thân và từ ba mươi tuổi trở lên. Điều đặc biệt hơn nữa là mặc dù đă nhiều tuổi như vậy, lại sống trong một đời sống xă hội đầy những cám dỗ dục vọng, những người phụ nữ này lại vẫn giữ được cuộc sống của người thiếu nữ. Tất cả họ đều chưa bao giờ ngủ với người đàn ông nào cả.

Mộng du hay khao khát t́nh yêu? Theo các nhà khoa học, những người mắc bệnh mộng du thường đột nhiên vùng dậy, vừa đi đi lại lại, vừa nhắm mắt và lảm nhảm thành lời những điều ǵ đó.

Hiện tượng này là do một dây thần kinh thực vật nào đó bị kích động, thức dậy trước cả hệ thần kinh điều khiển ư thức của con người. Do vậy, chân tay con người có thể cử động được một cách hoàn toàn vô thức trong một thời gian ngắn.

Tuy nhiên, cũng có nhiều ư kiến trái ngược với nhận định này. Một số nhà tâm lư cho rằng trí nhớ của người bệnh quá linh hoạt và nhạy bén cho nên ghi nhớ quá mức b́nh  thường các hành động sinh hoạt. Mặc dù vậy, mộng du vẫn là một hành vi bí ẩn, vô ư thức mà giới khoa học vẫn chưa giải thích được cặn kẽ rơ ràng...

Cũng có những trường hợp người mộng du làm một vài việc ǵ đó rồi nằm xuống ngủ. Nhưng đa số các công việc đó đều có kết quả không tốt, hoặc nước đổ ra sàn hoặc quần áo bị là cháy. Khi nghiên cứu mộng du, người ta cho rằng có sự liên quan đến sự ngăn cản công năng năo.

Thường thường khi ngủ, cơ thể con người tạo ra một “khoảng trống” ngăn cản các tín hiệu từ năo truyền xuống hệ thống cơ bắp, giúp chúng ta nằm yên. Nhưng nếu như cơ chế tạo “khoảng trống” này bị khủng khoảng, rối loạn th́ sẽ tạo ra các hành động và con người bị mộng du.

Đa số các bệnh nhân mộng du thường xuất hiện ở lứa tuổi dậy th́, và sau khi trưởng thành th́ khỏi bệnh. Chính thế mà các nhà khoa học khó chuẩn định những bệnh nhân đă qua tuổi 30 như Anna.

Người ta bắt đầu lập hồ sơ tâm lư về những người bệnh này và nhận ra một điều hết sức đặc biệt: họ chưa từng cảm thấy thích thật sự một người đàn ông nào đó trong cuộc đời ḿnh.

Hơn nữa, xét nghiệm y tế cho thấy, họ hoàn toàn khỏe mạnh, không có các dị tật bẩm sinh. Thời gian ước định (sau đó được xác định bằng các quan sát từ bên ngoài) khi họ nghe tiếng gọi là vào khoảng hơn ba giờ sáng.

Như vậy thời gian đó là thời gian giấc ngủ sâu nhất, và “trạng thái ngủ” của cơ thể đạt được mức cao nhất của nó. Đây chính là chiếc ch́a khoá bí ẩn để mở cánh cửa căn bệnh này.

Các nhà khoa học cho rằng, đối với những người chưa từng yêu, chưa từng có một khao khát thực sự với một người khác giới, th́ trong họ luôn có một nỗi lo âu cô đơn thường trực.

Những người này luôn làm việc mau mắn v́ chỉ sợ hết thời gian. Và cũng bởi nỗi lo âu côi cút này mà tâm hồn họ sinh ra một thứ phản xạ rất đặc biệt; họ sợ đi đến cùng một sự việc hay một cảm giác nào đó. Tại sao lại như vậy?

Ở những người b́nh thường, t́nh yêu làm cho họ có cảm giác can đảm và tự tin kỳ lạ. Sự tự tin này nằm ngay trong phản xạ sống của mỗi người. Hơn nữa, họ không ngần ngại khi phải quyết định “phiêu lưu” trong một cảm giác sống nào đó, bởi v́ họ đă được “phụ thuộc” rơ ràng vào người t́nh của ḿnh. Nhưng ở những người sống cô đơn, chưa từng yêu th́ không có cảm giác đó.

Anna nói rằng sau tiếng gọi, "Anna dậy đi, dậy đi”, chân tay cô cảm giác rất chới với. Cô không cảm thấy đi hay là bay mà chỉ cảm thấy người cứ mềm nhũn và xê dịch vô định vào một cái ṿng tṛn lớn. Thế rồi khi gần chạm vào cái ṿng lớn đó th́ cô giật ḿnh, tỉnh dậy.

Điều khiến các nhà khoa học kinh ngạc là các bệnh nhân mộng du thường không thể nhớ những ǵ diễn ra trong giấc ngủ. Đằng này, Anna lại có được cảm giác “chới với”.

Người ta lư giải rằng, Anna và những người có biểu hiện như cô đă dồn tụ được cái phản xạ vô thức là không để ḿnh "đi" đến cùng mọi cảm giác sống. Do vậy, cái phản xạ vô thức ấy vẫn “thức” ngay cả khi giấc ngủ kéo đến.

Cái phản xạ đó như một “kẻ canh chừng” mọi hành vi sống của họ. Khi giấc ngủ tự nhiên chuyển dần về sáng, cơ thể con người “trôi” dần vào điểm “ngủ” viên măn nhất. “Kẻ canh chừng” lập tức ngăn lại, không cho giấc ngủ viên măn bằng cách tạo ra tiếng gọi.

Khi giấc ngủ tự nhiên bị chặn lại khỏi đỉnh điểm viên măn của ḿnh, con người sẽ rơi vào trạng thái nửa thức nửa ngủ. Một bộ phận tín hiệu sẽ truyền xuống hệ thống cơ bắp. Và hệ thống ấy sẽ làm những công việc quen thuộc, đă lặp đi lặp lại trong một khoảng thời gian dài.

Mặc dù chưa thống nhất được các nhận định trên, nhưng các nhà khoa học đều đồng ư rằng, những người bệnh chỉ có thể khỏi khi họ có một người đàn ông trong đời. T́nh yêu hay sự sống chung với một người khác giới sẽ giúp cho con người có được những phản xạ sống tự tin hơn. Đây là một ư nghĩa rất “thực dụng” của t́nh yêu nhưng rất cần thiết mà những người sống độc thân nên biết.

 

                                                                      ST

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 830 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 4:54am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG TÁC PHẨM TỪ THẾ GIỚI BÊN KIA

 

Từ một phụ nữ nội trợ ít học, Pearl Curran, Mỹ, đă trở thành văn sĩ nổi tiếng với hàng chục tác phẩm giá trị. Đặc biệt bà khẳng định ḿnh không viết nên các áng văn, thơ ấy mà chỉ chép lại lời "đọc" của một phụ nữ từ hai thế kỷ trước.

Suốt thời thơ ấu, Pearl L. Pollard tên hồi con gái của Pearl Curran 1883-1937, chỉ là cô bé có trí thông minh ở mức trung b́nh, không có năng khiếu hay sở thích nào đặc biệt và khá thờ ơ với chuyện học hành.

 Năm mười bốn tuổi, ngượng với bạn bè v́ phải học lại một lớp nên Pearl Curran bỏ dở chương tŕnh trung học và xin đi làm.

Mười năm sau bà kết hôn và bắt đầu một cuộc sống khép kín, buồn tẻ của người nội trợ trong một gia đ́nh nghèo thuộc tầng lớp lao động. Những người quen biết với Curran không bao giờ thấy bà nói chuyện văn chương, cũng chưa hề thấy người phụ nữ này có lấy một cuốn sách trong nhà. Mọi thứ cứ thế b́nh lặng trôi đi trong nhiều năm.

Cho đến một ngày tháng 7-1913, mấy người hàng xóm ghé chơi mang theo một chiếc bảng cầu cơ, loại bảng gồm các chữ cái, các kư tự khác và một mũi tên được cho là có thể chuyển tải thông tin từ thế giới bên kia.

Pearl Curran vừa đặt tay vào th́ mũi tên bắt đầu dịch chuyển giữa các con chữ trên bảng và một thông điệp dần hiện ra. Đó là tên một phụ nữ: Patience Worth.

Ṭ ṃ, Pearl Curran và những người hàng xóm tiếp tục đặt các câu hỏi cho Patience Worth qua bảng cầu cơ. Patience Worth cho biết bà là một phụ nữ đă sống ở Dorsetshire, Anh, năm 1649 hoặc 1694 sau đó di cư sang Mỹ và bị thổ dân da đỏ ở đó sát hại.

Nhà văn không sáng tác.

Từ sau buổi cầu cơ, Pearl Curran bỗng nhiên trở thành một con người khác. Trong ṿng chín năm tiếp theo, bà bước hẳn vào lĩnh vực văn chương và liên tiếp cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, một số truyện ngắn và hàng trăm bài thơ. Nhiều tác phẩm trong số này được giới phê b́nh đánh giá khá cao và thu hút được sự chú ư của độc giả v́ giá trị nghệ thuật và tư tưởng.

Nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên hơn cả là Pearl Curran khẳng định ḿnh không phải là người viết nên những tác phẩm này. Tất cả những ǵ bà làm chỉ là chép lại từng câu chữ được Patience Worth "đọc" cho nghe trong đầu hay qua bảng cầu cơ.

Khá nhiều học giả hồi đó tin vào giải thích này v́ theo họ, với tŕnh độ học vấn và hiểu biết của Pearl Curran th́ sáng tác là điều không tưởng. Hơn nữa phân tích ngôn ngữ dùng trong các tác phẩm của bà, khoảng 90% là thuộc hệ Anglo-Saxon và 10% là tiếng Pháp cổ được dùng từ thế kỷ 17 trở về trước.

Làm sao một bà nội trợ chưa học hết trung học, suốt ngày chỉ ru rú trong nhà và chẳng bao giờ sờ đến sách vở như Pearl Curran, lại có thể sử dụng thứ ngôn ngữ này.

Từ sau năm 1922 số lượng các tác phẩm mà Pearl Curran cho ra đời ngày càng ít đi. Theo lời bà th́ Patience Worth cũng không c̣n đọc tiếp cho bà chép nữa.

Cho đến năm 1937 khi Pearl Curran qua đời th́ việc đó ngừng hẳn. Patience Worth cũng không xuất hiện nữa, dù cũng có người thử dùng bảng cầu cơ để liên lạc.

Nhiều thập kỷ sau đó, người ta vẫn c̣n tranh căi về tính trung thực trong câu chuyện về Patience Worth. Một số người vẫn tin rằng thực sự có một linh hồn như vậy tồn tại và nó đă liên hệ với Pearl Curran bằng sợi dây tâm linh để thực hiện giấc mơ văn chương c̣n dang dở lúc sinh thời.

Ngược lại nhiều người khác cho đó chỉ là một màn kịch để tiếp thị sách.

 

                                                                    ST

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 831 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 6:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CHỮA HÓC XƯƠNG KHÓ TIN

NHƯNG CÓ THẬT

 

Cô bạn cùng pḥng làm việc với tôi bị hóc xương cá, đi khám bác sỹ yêu cầu chụp X-quang, siêu âm… tùm lum mất 300.000đ mà vẫn không lấy được xương ra bỗng tôi nhớ đến một người chữa hóc xương bằng lời nói mà mấy người trong quê bà xă tôi, quê ở Yên Thành kể và cho số điện thoại.

Cho cô bạn số rồi cô ấy gọi, cụ Nhâm chỉ hỏi han vài câu :

- Ở đâu ? Bị hóc khi nào ?

Rồi cụ bảo:

- Ừ thế thôi, xương trôi đi nhé, khỏi rồi nhé.

Vậy là cô ấy lập tức hết hóc chỉ trong nháy mắt, hết cả đau luôn. Cả buổi sáng chiếu chụp với bác sỹ chữa không khỏ,i với việc chỉ vài giây chữa qua điện thoại của một cụ già mà đă khỏi, th́ thật là kỳ diệu.

Cụ ông tám mươi tám tuổi, chữa hóc xương bằng… lời nói. Cụ ông ở Yên Thành Nghệ An "hành nghề" chữa hóc xương gần bốn mươi năm nay, mà không dùng một vị thuốc nào, cũng không cần gặp bệnh nhân, chỉ dùng... lời nói.

Đó là câu chuyện có thật về cụ ông Đoàn Văn Bính ở đội năm xóm Bắc An, xă Nhân Thành, huyện Yên Thành Nghệ An. Cụ cho biết nghề này chẳng phải ḿnh cụ có tài, mà đó là nghề gia truyền có từ đời ông của cụ.

Cụ nhớ khi cha cụ mất cách đây gần bốn mươi năm, đă dặn cụ phải thay cha chữa bệnh cho dân làng. Vậy là tính đến nay, cụ đă chữa khỏi cho hàng ngh́n ca hóc xương, có người để lâu ngày rất nguy kịch, đến với cụ cũng khỏi.

Điều lạ là cụ chữa bệnh không cần bất kỳ vị thuốc nào, cũng không phải gặp bệnh nhân. Ai hóc xương, chỉ cần nhờ người nhà đến gặp cụ tŕnh bày hóc xương ǵ, hóc khi nào. Khi cụ bảo:

- Về đi rồi sẽ khỏi.

Tức là người hóc xương ở nhà đă khỏi thật.

Theo lời cụ Bính th́ nghề này cần nhất cái tâm, cái đức. Thế nên cụ không bao giờ nhận tiền công của ai.

- Cái nghề này là thế, nếu cầm đồng tiền của ai là sau này không duy tŕ được nghề nữa.

Cụ giảng giải.

Ông Phan Lê Tâm là một lương y cùng xóm với cụ Bính. Ông kể:

- Từ khi tôi c̣n nhỏ đă thấy cha của ông Bính chữa bệnh hóc xương bằng cách này. Đă nhiều lúc tôi xin bí quyết nhưng ông Bính dứt khoát không cho.

Cũng theo ông Tâm th́ cụ Bính chữa bệnh làm phúc cứu người nhiệt t́nh lắm. Có hôm đang đêm, ôtô, xe máy đưa người bệnh từ xa đưa đến, cụ cũng sẵn sàng chữa chạy mà chẳng lấy một đồng tiền công.

Tiếng lành đồn xa, bệnh nhân đến với cụ ngày một nhiều, không chỉ dân trong vùng mà cả người ở các tỉnh xa. Người dân sống gần nhà cụ khẳng định, 100% số bệnh nhân đến với cụ đều được chữa khỏi.

Đặc biệt là tài của cụ c̣n "ứng" với cả các gia súc, vật nuôi trong nhà. Dân quanh vùng ai có trâu, ḅ, lợn… bị hóc xương cũng phải nhờ đến cụ. 

cụ cho biết chừng nào cụ không c̣n sức cứu người, cụ sẽ truyền nghề làm phúc này cho một người con trai.

 

                                                                 ST

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 832 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 6:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

ĐIỆN SINH HỌC NĂNG LƯỢNG KỲ BÍ CỦA CON NGƯỜI

 

Một nông dân Nhật phát hiện xác đứa trẻ chết đuối. Anh định vùng chạy nhưng cái xác đă vùng dậy, quờ lấy anh ta, khiến anh ngă xuống chết. Các nhà khoa học giải thích, không phải ma quỷ mà chính điện sinh học đă gây hiện tượng trên.

Mỗi cơ thể con người là hàng tỷ tế bào, mỗi tế bào là một chiếc pin sống. Chỉ có điều các pin này hết sức nhỏ, nên điện của chúng tạo ra vô cùng yếu. Có những điều con người cho là kỳ lạ nhưng lại xuất phát từ nguồn điện sinh học đang tồn tại trong cơ thể con người.

Có rất nhiều câu chuyện liên quan đến ḍng điện sống ở con người mà cho đến nay, nhiều người vẫn cho là do một thế lực siêu nhiên nào đó, và các nhà khoa học luôn đi t́m cách lư giải. Hiện tượng "quỷ nhập tràng" là một ví dụ, thực ra đây chỉ là một cách nói dân gian huyền bí làm câu chuyện trở nên ly kỳ.

Ở tỉnh Togshiga, Nhật Bản vào năm 1974, một người nông dân đă phát hiện xác đứa trẻ bị chết đuối trôi dạt vào bờ. Một nhân chứng thuật lại, khi nh́n thấy xác chết, dường như có một điều ǵ đó rất lạ làm người nông dân đó hoảng sợ định vùng chạy, nhưng cái xác lại vùng dậy, quờ lấy anh ta, rồi không thấy anh ta trở dậy.

Câu chuyện tưởng chừng như chỉ có trong các cuốn truyện kinh dị, hù dọa những người yếu tim, nhưng lại được giải thích một cách khoa học.

V́ quá sợ khi nh́n thấy xác chết, năo người nông dân đă phóng ra một nguồn điện rất mạnh truyền xuống chân, chân anh chạm vào xác chết, vốn là một chất dẫn điện, và ḍng điện này truyền xuống đất ẩm rồi quay trở lại, xuyên qua xác chết trở lại cơ thể người đàn ông.

Như vậy là nguồn điện đă "đóng mạch", xác chết giẫy mạnh bám lấy chân người nông dân khiến anh ta phát hoảng bỏ chạy, đồng thời kéo cái xác đi một đoạn. Người nông dân này không bị "ma bắt" như người ta thêu dệt mà bị đứng tim và chết do quá sợ.

Tương tự như vậy, vào mùa xuân năm 1957 ở Ba Lan, một sinh viên tên là Mangecki có hẹn với cô bạn gái vào lúc 6 giờ tối, nhưng do làm việc căng thẳng nên anh đă ngủ quên.

Trong giấc ngủ chập chờn, anh được thông báo về cái chết của người bạn gái. Sự thật là một chiếc ôtô lao nhanh đă cán ngang qua người một cô gái đi sang đường đúng vào giờ hẹn. Theo các nhà khoa học, trong trường hợp này, khi cô gái chết, năo của cô đă phóng ra một làn sóng điện và năo của Mangecki như một chiếc TV thu tín hiệu chuyển thành thông tin đến với anh.

Điện sinh học không chỉ tồn tại trong cơ thể con người mà nó c̣n có trong một số loài động vật, điển h́nh là ở cá đuối. Trên lưng cá đuối có sẵn hai nguồn điện sống, có thể phát ra nguồn điện mạnh đến 720 vôn để săn mồi. Chúng săn t́m những con cá khác mà không cần đến gần con mồi.

Trong mỗi người chúng ta có một ḍng điện sống. Mỗi tế bào chính là một chiếc pin, nhưng nguồn điện này lại quá yếu nên con người không bị điện giật. Đặc biệt ở năo bộ, nơi điều khiển mọi hoạt động của cơ thể con người, số lượng tế bào nhiều và tập trung hơn bất kỳ bộ phận nào. Nó là nhà máy phát điện mạnh nhất.

Các nhà khoa học đă đo được trong mỗi tế bào năo có một ḍng điện khoảng 90 milivôn, và với 15-18 tỷ tế bào năo, ta sẽ có một ḍng điện cực mạnh. Trong mỗi con mắt của một người b́nh thường cũng có tới 130 triệu tế bào.

Ở bộ năo, mỗi một cử động nh́n, nghe hay suy nghĩ của con người được năo bộ tiếp nhận và xử lư thông qua hàng triệu các xung động điện từ của các tế bào thần kinh. Bộ năo là nơi duy nhất không sản sinh thêm các tế bào thần kinh nào, mà chúng mất đi theo tuổi tác.

Theo các nhà khoa học của Nga, thông thường các tế bào năo hay tế bào thần kinh được sắp xếp theo một trật tự nhất định và điều khiển mọi hoạt động b́nh thường của con người.

Nếu ở người nào các tế bào đó bị sắp xếp lộn xộn, các pin yếu kết hợp lại và phóng điện ra ngoài, th́ người đó sẽ có khả năng... đặc biệt. Chẳng hạn như một người Italy có khả năng làm mọi vật bốc cháy, hay như một em bé "nam châm" ở Nga có khả năng hút các đồ vật bằng sắt...

Các nhà khoa học cho rằng, xung quanh những người này luôn xuất hiện một trường điện từ rất mạnh được điều khiển từ bộ năo. Khi muốn th́ khả năng đặc biệt mới bộc lộ, c̣n b́nh thường

họ không có ǵ khác biệt với chúng ta.

Ứng dụng khoa học về ḍng điện

Nhà bác học Faraday từng nói: "Cho dù điện vật lư có hấp dẫn bao nhiêu th́ cũng chẳng thể nào so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, điện trong cơ thể ta". Hiện nay, ở các bệnh viện đă có máy để ghi lại điện tim hay điện năo.

Khi nghiên cứu tác động của trường điện từ tự nhiên đối với bộ năo, giáo sư Hyland thuộc Đại học Coventry (Tây Ban Nha) cho rằng, những thay đổi về điện năo đo được ở người chứng tỏ sức khỏe của con người bị tác động của ḍng điện tự nhiên.

Nó làm năo bộ mất cân bằng về một số chất sinh hóa, giống như những người say rượu, và ngăn cản quá tŕnh sản xuất melatonin, một hoóc môn chống ung thư ở người.

Những thay đổi của ḍng điện sinh học trong cơ thể, hay những biến đổi về trường điện từ của bộ năo cũng có thể đang báo hiệu một bệnh cảnh lâm sàng nào đó, đặc biệt là các bệnh về thần kinh.

Bác sĩ T.Sharma ở Học viện tâm thần London Anh, cho biết, việc chữa bệnh mất trí nhớ bằng phương pháp sốc điện đă cho kết quả khả quan. Gần 2.800 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này trong ṿng ba tháng, 80% trong số họ cho biết t́nh trạng bệnh được cải thiện.

Tuy nhiên, nhiều người cho rằng phương pháp trên sẽ tiêu diệt các tế bào thần kinh của năo bộ. Thực tế là người ta đă kết hợp giữa ḍng điện tự nhiên của cơ thể với ḍng điện từ bên ngoài, và tác động vào các tế bào thần kinh.

Các nhà khoa học đă thí nghiệm trên những người bị thương tổn năo bộ. Họ dùng một ḍng điện yếu kích thích nhiều vùng trên năo để t́m ra những điểm điều khiển các hoạt động khác nhau của con người, có thể là vùng trí nhớ, vùng sợ hăi, hay vùng làm con người vui vẻ... Bằng phương pháp này, các bác sĩ có thể chữa được những căn bệnh liên quan đến tâm thần.

 

                                                                    S T

 

                                                                

 

                                                                                                          

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 833 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 6:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

CHUYỆN KHÓ TIN VỀ

"MA HÚT"

 

Ông Lường Văn Hối đă khuất núi ngót chục năm. Ông là người Xinh Mun, hay c̣n gọi là Puộc, một dân tộc hiền lành, thuở trước chuyên đi ở cho các nhà giàu trong vùng Sông Mă.

Trong cơi Tây Bắc mù sương ẩn chứa đầy rẫy những điều khó hiểu, thần bí đến hoang đường. Và, trong số những câu chuyện khó tin ấy có cách chữa bệnh, cứu người lạ lùng của ông V́ Văn Cán, sống ở bản Pá Công, xă Huổi Một, huyện Sông Mă, tỉnh Sơn La.

Chỉ bằng một ống tre nhỏ, lăo dị nhân miền sơn cước ấy có thể hút tất cả các dị vật "xâm nhập" ngoài ư muốn vào cơ thể người, như bị trúng đạn, kim đâm, hóc xương, hay dính độc… Người dân gọi ông là "ma hút".

BÍ KIẾP LẠ LÙNG

Ông Lường Văn Hối đă khuất núi ngót chục năm. Ông là người Xinh Mun, hay c̣n gọi là Puộc, một dân tộc hiền lành, thuở trước chuyên đi ở cho các nhà giàu trong vùng Sông Mă. Khi quân Pháp tiến lên vùng Tây Bắc, ông Hối bị bắt đi làm lính dơng, rồi theo gót giầy xâm lược của thực dân sang vùng Thượng Lào đóng quân.

Tại đây ông đă được một thầy phù thủy người Xinh Mun ở vùng đất ấy truyền cho bài chú… khấn "ma", đặc trị những chứng tai ương hiểm nghèo. Trước đây, súng kíp là loại vũ khí phổ biến của người dân vùng Tây Bắc và cũng bởi sự phổ biến đó mà tai nạn do loại "hoả lực" này gây ra cũng rất nhiều. Và v́ bài chú "hút dị vật" mà ông Hối học được đă "có đất" để phát huy công dụng.

Theo những người trong gia đ́nh ông Hối th́ hơn năm mươi năm chữa bệnh, ông đă làm lành vết thương cho hàng ngàn người mà không hề lấy một đồng tiền, cắc bạc nào của người bệnh. Chính v́ vậy cho đến khi nhắm mắt xuôi tay ông vẫn nghèo rớt mùng tơi.

Ông Hối mất, phương pháp chữa bệnh độc đáo đó được truyền lại cho người duy nhất là ông V́ Văn Cán con rể ông Hối. Đến giờ, truyền nhân ấy cũng đă chữa bệnh cứu người được hơn chục năm ṛng. Ông Cán vẫn nhớ như in những ngày khổ luyện khi học nghề lạ ấy từ bố vợ ḿnh.

Năm 1987, khi biết ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa, ông Hối đă chọn mặt gửi vàng truyền nghề cho những người mà ḿnh tin tưởng. Ba người được học là ông Cán và hai người cháu ruột của ḿnh.

Trong suốt ba năm, cứ vào buổi tối là họ phải học những bài cúng gọi là Rẹt Phi, đọc liền mạch không được đứt hơi và phải kiêng ăn thịt các loại chim, thịt khỉ và ba ba.

Sau vài tháng, hai người cháu không chịu nổi sự kiêng khem rối rắm trên nên đă… bỏ cuộc. Ông Cán vẫn kiên tŕ theo học. Truyền vừa hết mọi bí quyết cho con rể th́ ngay ngày hôm đó, ông Hối qua đời.

Theo như ông Cán, ngoài việc học thuộc những bài cúng và kiêng cữ đủ ba năm, ông c̣n phải lập một mâm thờ, ngay cạnh chỗ nằm ngủ của ḿnh, cùng hai bộ bàn thờ khác, một để dưới gầm nhà sàn, một treo trên vách tường.

Mâm thờ gồm có gạo nếp, một bát nước được ḥa với tổ của con ṭ ṿ, bên trong bỏ ba hào bạc hoa x̣e. Ngoài ra, trong mâm thờ này c̣n đặt hai mét vải đỏ, một chiếc khăn Piêu và lúc nào cũng phải có hai quả trứng. Mỗi khi ông Cán chữa bệnh th́ phải thắp hương ở cả ba bàn thờ.

Ông bảo, làm như vậy là để… bảo với "con ma" nhập vào ḿnh để giúp mọi người. Khi đó, ông có thể nh́n rơ mọi vật nằm sâu trong cơ thể, t́m đường vào của chúng và nhanh chóng hút ra. Trong lúc thực hiện "món công phu" này, ông Cán có thể cho nến cháy ở trong mồm, dùng lưỡi liếm vào lưỡi dao đă được hơ đỏ mà không hề hấn ǵ…

MÀN CHỮA BỆNH RỢN TÓC GÁY

Chứng kiến ông Cán chữa bệnh cho chị Ṭng Thị Hạnh bản Lệ, xă Hua La, thị xă Sơn La, chúng tôi không khỏi trầm trồ, kinh ngạc. Nó như một tṛ ảo thuật có một không hai.

Chị Hạnh bị viêm gai thị giác, đă chữa ở cả bệnh viện địa phương lẫn Trung ương mà bệnh chẳng lành. Cuối cùng chị đă t́m đến ông V́ Văn Cán nhờ giúp đỡ. Buổi chữa bệnh độc đáo ấy c̣n có sự chứng kiến của ông Lường Văn Cấu, nguyên là phó trưởng công an huyện Sông Mă, bản Pá Công.

Để chữa căn bệnh đau mắt của chị Hạnh, ông Cán dúi con dao chẻ củi vào bếp lửa đang cháy bùng bùng. Xong việc đó, ông thắp ba nén hương và khấn những câu Rẹt Phi bằng tiếng Xinh Mun. Vừa khấn ông vừa đốt nến và nhúng ba chiếc lá cỏ lát vào bát nước màu đen có ḥa tổ ṭ ṿ. Giơ cây nến đang cháy lên ngang mặt, ông thu hết thần lực của ḿnh vào chỗ đau của chị Hạnh.

Nhẹ nhàng dùng lá cỏ lát quét vào "vết thương" của người bệnh. Qua lời "phiên dịch" của ông Cấu th́ việc ông Cán dùng nến soi cũng không khác ǵ... chụp X quang ở bệnh viện.

Nhanh thoăn thoắt, ông Cán lấy chiếc ống hút bằng nứa, đặt lên chỗ đau trên đôi mắt chị Hạnh và bắt đầu pha chữa bệnh lạ lùng của ḿnh. Cứ hai lần hút vào th́ lại một lần ông thả những thứ gọi là chất độc ấy vào một chén rượu trắng.

Khi chuyển sang mắt phải chị Hạnh, ông Cán lại cho cây nến đang cháy dở vào miệng ḿnh, khua khua mấy ṿng trong họng rồi lại tiếp tục y như với mắt trái.

Đang "hút độc" th́ ông Cán ra hiệu cho người nhà xuống bếp cầm con dao nung trong than hồng khi năy lên. Giơ con dao nung đỏ trước mặt, ông Cán thản nhiên thè lưỡi… liếm ngon lành như đứa trẻ mút kem.

Những tiếng xèo xèo phát ra khiến nhiều người sởn da gà. Liếm dao nung đỏ xong, ông Cán phả hơi nóng vào mặt chị Hạnh. Theo như lời ông Cán nói th́ "đây là thuốc giảm đau với người bị vết thương kín và là cách cầm máu với những người có vết thương hở".

Màn chữa bệnh của ông Cán kết thúc khi ông cắm lưỡi dao vào bát nước trong mâm thờ… Chị Hạnh bảo, mỗi lần được hút như vậy th́ đỡ hơn hẳn. Trước đây, khi chưa nhờ ông Cán chữa trị, ngày nào chị cũng phải uống thuốc giảm đau mới ngủ được. Từ hôm sử dụng liệu pháp lạ lùng này, chị đă không phải dùng thuốc nữa.

THẦN Y MIỀN SƠN CƯỚC?

Cũng cách chữa bệnh kiểu trên, ông Cán đă cứu giúp nhiều người qua cơn hoạn nạn. Anh Lường Văn Táo, hai mươi hai tuổi, hiện là dân quân xă Huổi Một, Sông Mă là một ví dụ. Đầu tháng bảy trong lúc đi rừng, súng săn bị cướp c̣ khiến anh bị thương nặng. Hơn bốn chục mảnh đạn ch́ nhỏ li ti găm sâu trong đùi phải.

Trong khi đợi người nhà thuê xe đi ra bệnh viện tỉnh Sơn La, để các bác sỹ đóng đinh, bắt vít cho đoạn xương bị gẫy, anh Táo đă được ông Cán hút ra mười bảy mảnh đạn. Số c̣n lại, đợi khi nào chỗ xương gẫy lành hẳn th́ "phẫu thuật tiếp". Em của anh Táo là Lường Văn Tài giờ cũng coi ông Cán là ân nhân.

Ồng Lường Văn Tài, hiện là Trưởng bản Pá Công kể, trong một lần chỉnh lại súng kíp, ông đă vô t́nh để súng nổ, đạn găm chi chít vào chân con trai ḿnh. Như nhiều người khác, ông vội vă nhờ ông Cán hút đạn ra. Đến nay, đă tám năm, vết thương của con trai ông đă không c̣n vết dấu.

Theo bà Ḷ Thị Giáng Hương. Trưởng pḥng Y tế huyện Sông Mă, phương pháp chữa bệnh độc đáo của bố con ông Cán đă tồn tại từ rất lâu rồi. Chính người thân của bà Hương cũng nhờ cách chữa bệnh trên mà qua cơn bĩ cực.

Trường hợp thứ nhất bị kim máy khâu đâm vào tay. Mẩu kim đó chạy theo mạch máu, cách chỗ đâm khoảng bảy cm, bệnh viện huyện đă gắp nhiều lần nhưng không thành.

Trường hợp thứ hai là anh Ḷ Văn Khâm ở huyện Mai Sơn. Chụp phim, các bác sĩ thấy trong cơ thể ông Khâm có nhiều mảnh đạn. Sau khi được ông Cán "xử lư", chụp chiếu lại th́ không c̣n một mảnh đạn nào.

Phương pháp chữa bệnh độc đáo của ông V́ Văn Cán là rất lạ. Theo ông Khánh, ngành y tế tại địa phương cần nhanh chóng kiểm chứng cách chữa bệnh trên bằng các phương pháp khoa học. Nếu xét thấy việc chữa bệnh trên là tích cực th́ cần có chính sách hỗ trợ, "bảo tồn" tránh thất truyền.

C̣n theo kỹ sư Nguyễn Việt Hà, th́ loại bỏ những yếu tố bổ trợ mang màu sắc dị đoan như thắp hương, niệm chú… th́ việc dùng ống tre, nứa để hút được những vật đă nằm sâu trong cơ thể là có cơ sở khoa học. Kỹ sư Hà cho biết, lực hút chân không từ ống hút kết hợp với áp lực máu trong cơ thể người bệnh hoàn toàn có thể lấy được "vật thể lạ" ra ngoài.

 

 

                                                                  ST

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 834 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 6:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

T̀M HIỂU NHỮNG CẤU

TRÚC TÂM LINH


TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH TẬT.

I. NGUYÊN NHÂN BỆNH :

Theo y học hiện đại, nhờ vào những xét nghiệm y khoa trong việc khám và chẩn bệnh, chúng ta mới biết được nguyên nhân hầu t́m ra cách chữa trị có hiệu qủa. Tuy nhiên đa số các bệnh đều là tổn thương thực thể, có những kết qủa xét nghiệm bất b́nh thường so với tiêu chuẩn mẫu mực.

Ngược lại, có những bệnh không t́m ra được nguyên nhân v́ các kết qủa xét nghiệm y học đều b́nh thường, trong trường hợp ấy chúng ta không rơ nguyên nhân, cho là bệnh tâm lư thần kinh. Nếu không biết cách chữa, một thời gian sau có biến chứng làm tổn thương thực thể rơ ràng, lúc đó việc chữa trị lại khó khăn hơn.

Đối với y học phương đông, t́m nguyên nhân bệnh không dựa vào kết qủa xét nghiệm y khoa bằng máy móc dụng cụ, mà dựa vào quy luật khí hóa ngũ hành của tạng phủ ( nguồn gốc của dịch y đạo ), giống như dựa vào bảng tiêu chuẩn mẫu mực của Tây y, để so sánh giữa hai t́nh trạng khỏe và bệnh.

Khí hóa ngũ hành của tạng phủ là nhhững biến đổi trong cơ thể tạo ra những chu kỳ tuần hoàn của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn tim mạch, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ miễn nhiễm, hệ nội tiết, hệ thần kinh… thộng qua các tạng phủ và các chức năng riêng mà nó đảm nhận.

Khi tất cả các sự biến đổi trong con người được điều ḥa tốt, gọi là sự khí hóa chính thường, th́ con người được khỏe mạnh, c̣n sự khí hóa bất thường làm mất quân b́nh sự khí hóa chung của tổng thể th́ con người bị bệnh, do đó phải truy t́m nguyên nhân.
Có hai nguyên nhân chính là nguyên nhân bên ngoài cơ thể và nguyên nhân bên trong cơ thể. :

Nguyên nhân bên ngoài gồm nguyên nhân chủ quan như va chạm tổn thương, môi trường sống và làm việc, do ăn uống, ngủ nghỉ không đúng cách...

Nguyên nhân khách quan ảnh hưởng do sự tuần hoàn của vũ trụ tác động bởi mặt trời và nước biển tạo ra khí hậu, thời tiết, mùa màng, cây cỏ, vạn vật để nuôi dưỡng con người bị khác thường không phù hợp. Đó là do ảnh hưởng khí hóa của vũ trụ.

Nguyên nhân bên trong là sự khí hóa của tiểu vũ trụ để nuôi dưỡng tế bào, tác động bởi hai yếu tố tâm- thận. Tâm thuộc hỏa giống như mặt trời, Thận thuộc thủy giống như nước biển. Tim mạch và hơi thở tạo ra nhiệt năng tác động lên thận tạo ra sự tuần hoàn bên trong gọi là sự khí hóa tạng phủ.

Vũ trụ và tiểu vũ trụ tạo ra sự tuần hoàn đều đặn nhờ vào sự biến đổi của hai yếu tố thủy-hỏa để khí hóa, do đó đông y gọi là thiên nhân đồng nhất thể. Dù do nguyên nhân nào làm cho sự khí hóa bất thường sẽ không nuôi dưỡng tế bào, mà c̣n làm hại tế bào gây ra bệnh tật.

Đông tây y cùng quan điểm, nhưng tây y t́m nguyên nhân qua xét nghiệm, đông y t́m nguyên nhân theo khí hóa. Theo đông y, có 4 loại khí hóa bất thường gây ra bệnh gọi là sự tắc tuần hoàn. :

1-Tắc tuần hoàn khí : Không bị tổn thương thực thể, xét nghiệm không thấy, nhưng vẫn có hậu qủa của nó như mạch đập đều nhưng mạnh hơn hay yếu hơn, chỗ mạnh hơn, chỗ yếu hơn khi bắt mạch.. làm cho nhức đầu, chóng mặt, đau nhức phong tê thấp, chậm tiêu hóa, mệt mỏi.. chỗ đau không nhất định..

2-Tắc tuần hoàn huyết : Có tổn thương thực thể, đau nhức một chỗ cố định như huyết tụ, máu bầm, sung huyết năo, tắc nghẽn mạch, huyết khô hóa vôi làm thoái hóa xương khớp…

3-Tắc tuần hoàn tiêu hóa : Thức ăn chứa lâu trong bao tử và đường ruột do tiêu hóa chậm sẽ hóa nhịêt độc gây táo bón, tiêu chảy, loét bao tử, tiểu đường, hoặc phát sinh vi khuẩn, sán lăi, vi trùng… thấm vào máu thành bệnh nhiễm trùng…

4-Tắc tuần hoàn tâm sinh lư : Do thói quen, phong tục tập quán về ăn, mặc, ngủ, nghỉ, tư duy, cố chấp, bảo thủ, thành kiến, tánh t́nh vui, buồn, giận, lo sợ, xúc động, tích cực, tiêu cực, tánh khí bất thường…..có ảnh hưởng đến sức khỏe như vui qúa làm thần kinh hưng phấn tim mạch sẽ đập mạnh, vui quá hóa điên dại mất lư trí, buồn hay thở dài hại phổi.

Giận quá làm cơ gân co rút hại gan, tục ngữ có câu giận bầm gan tím ruột, lo qúa ăn mất ngon hại tỳ vị, sợ quá hại thận ảnh hưởng thần kinh…Tắc tuần hoàn tâm sinh lư cũng không xét nghiệm được trực tiếp, chỉ khi nào do t́nh trạng bệnh kéo dài làm tắc tuần hoàn chuyển từ tắc khí sang tắc huyết làm tổn thương thực thể mới xét nghiệm được.

mỗi khác có liên quan đến cấu trúc tâm linh trong cơ thể nó tác động vào cấu trúc vật chất ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Cho nên phương pháp chữa bệnh của đông y liên kết được cả hai phần vô h́nh và hữu h́nh qua sự khí hóa ngũ hành của tạng phủ.



II: CẤU TRÚC VẬT CHẤT VÀ TÂM LINH :



Ở mỗi con người chúng ta ai cũng có hai phần cấu trúc hữu h́nh và vô h́nh. Phần cấu trúc hữu h́nh là cơ thể vật chất tạo ra h́nh hài cơ thể nam nữ với đầy đủ các cơ quan tạng phủ do các tế bào ḥa hợp lại.

Phần cấu trúc vô h́nh là cấu trúc tâm linh, trong đó có một phần là tâm tánh khí tạo ra nét đặc thù của cá tính mỗi người do gène (DNA) mà khoa học đă chứng minh được, c̣n phần quan trọng nhất là thứ lớp của cấu trúc tâm linh hiện diện vô h́nh trong cơ thể, chúng ta cảm nhận được mà khoa học chưa chứng minh được.

Chúng ta hăy xét nghiệm các trường hợp sau đây để có thể h́nh dung ra được các thứ lớp của cấu trúc theo quan niệm đông y. Đó là ch́a khóa t́m hiểu sự khí hóa của tạng phủ trong việc chữa bệnh :

1- Thể Xác : Khi cơ thể không c̣n sự sống, mất sự hiện diện của các thể tâm linh, thân xác nằm bất động không c̣n thở, chúng ta gọi là xác chết, đó là phần cấu trúc vật chất.

2- Thể Phách : Khi con người hôn mê bất tỉnh, thân bất động, chỉ c̣n hơi thở để duy tŕ sự sống ( trong trường hợp hôn mê sâu=coma ), đông y gọi là c̣n thể phách. Đông y nói " Phế tàng phách" là phần tâm linh vô h́nh cư trú ở phổi chỉ huy chức năng hoạt động của phổi, giúp phổi thở để duy tŕ sinh mạng thông qua sự tuần hoàn của khí.

3- Thể Vía : Thể vía chỉ huy mọi cử động cơ học, là phần tâm linh vô h́nh cư trú ở tiểu năo sau gáy, khi bị va chạm tổn thương, hay say rượu, trúng độc hôn mê, đứt mạch máu năo làm tê liệt, cử động sẽ bị giới hạn mất kiểm soát như ư muốn.

4- Thể Hồn : Thể hồn chỉ huy mạng lưới gân cơ, thần kinh, làm co rút hoặc thư giăn khiến cho cơ thể biết đau hoặc không đau. Đông y nói "Gan tàng hồn" là phần tâm linh vô h́nh cư trú ở gan, có nhiệm vụ giúp gan hoạt động theo chức năng của nó.

Khi mất cảm giác, vô tri, là thể hồn đă rời thể xác. C̣n đau đớn qúa sức chịu đựng làm thể hồn bị tổn thương kêu la thảm thiết như trường hợp ung thư hành hạ đau đớn, mà thực thể gan không bị tổn thương, thể hồn bị tổn thương sinh ra ác mộng.

5- Thể Thần : Thể thần chỉ huy t́nh cảm, hệ thống tim mạch, hệ thống tuần hoàn huyết làm cho da thịt hồng hào, mặt tươi tỉnh hoặc mặt mày mất sắc, mất thần như ngây dại, hoảng hốt.

Đông y nói " Tâm tàng thần" là phần tâm linh vô h́nh cư trú tại tâm giúp cho tâm hoạt động theo chức năng của nó về hệ tuần hoàn tim mạch và thần kinh… Khi bị tổn thương th́ tim mạch nhảy loạn, thần sắc thay đổi, dễ xúc động, qúa khích động như điên khùng hoặc qúa bi quan, nói năng cười khóc bất thường.

6- Thể Ư : Thể ư chỉ huy sự diễn đạt của tư tưởng, tập trung hoặc mất tập trung, biết phân biệt tốt xấu, ưa thích hay không ưa thích, tính qủa quyết hay do dự… qua sự tiết hormone như truyền một tín hiệu có ảnh hưởng đến các cơ quan, phối hợp sự nói năng và cử chỉ phù họp với ư muốn.

Đông y nói " Tỳ tang ư " là phần tâm linh vô h́nh cư trú tại lá lách. Khi thể ư bị tổn thương sẽ mất đi sự quyết đoán, không ham muốn, không thích cử động nói năng và ăn uống nữa mặc dù thực thể của lá lách không bị tổn thương.

7- Thể Chí : Thể chí chỉ huy sự hoạt động của bộ năo, ẩn tàng sức mạnh ư chí, lư tưởng của thể xác và tinh thần, bao gồm phần tiên thiên và hậu thiên, phần tiên thiên là những dữ liệu tích lũy từ những kiếp trước đem vào bộ nhớ của năo khi sinh ra, và những gène ( chủng tử) của cha mẹ, phần hậu thiên do sự nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần và sự học hỏi kinh nghiệm thu thập được trong gia đ́nh, nhà trường và xă hội.

Đông y nói "Thận tàng chí" là phần tâm linh vô h́nh cư trú ở thận, về tinh thần, nó làm cho con người phát triển hay không phát triển phần hạ trí như thông minh hay đần độn, nhớ dai hay mau quên, có ư chí sáng tạo hay ỷ lại…

Về thể xác, nó điều ḥa chức năng thận biến hóa các chất bổ dưỡng chuyển thành khí huyết, sinh tinh tủy, nuôi xương , bổ năo, duy tŕ và phát triển, sản xuất tế bào mới thay thế tế bào cũ. Thể chí mạnh, duy tŕ được sự minh mẫn, trẻ trung, kéo dài tuổi thọ.

Khi thận không bị tổn thương thực thể mà bị bệnh mất trí nhớ, mất kư ức phải nghĩ ngay đến phần hạ trí bị tổn thương do thể chí.

8- Thể Trí: Thể trí gồm hai phần, phần hạ trí và thượng trí. Thể trí cư trú ở năo làm cho năo phát triển.

a- Thể Hạ Trí : Do con người khi phát triển đă học hỏi, tích lũy đươc những kinh nghiệm và khi sử dụng những kiến thức ấy th́ cũng mới chỉ chiếm tối đa 7-8% tế bào năo trong mọi sinh hoạt thường ngày.

b- Thể Thượng Trí : Các thần đồng, các nhà bác học, các bậc thiền sư, kỳ nhân.. đă sử dụng được các phần tế bào năo vượt ngoài giới hạn 8% so với những người khác.

Những kiến thức hiểu biết này đặc biệt không ai có, nó khác lạ mới mẻ, chúng ta gọi nó là thể thượng trí. Trong bộ óc chúng ta, hơn 90% tế bào năo c̣n lại là những băng đĩa c̣n bỏ trống chưa chứa dữ kiện nào.

Nó dành sẵn cho con người ghi thêm những kết qủa, những kinh nghiệm đă t́m ṭi phát minh được ở đời này, hoặc để ghi nhận được những điều mới lạ học hỏi được ở các cơi thiền định hoặc trong những giấc mơ có ư thức khi ao ước t́m ṭi phát minh một điều ǵ.

Phần c̣n lại là những băng đĩa đă ghi đầy những kinh nghiệm trong qúa khứ nhiều đời tích lũy được, nhưng những dữ kiện ấy đem vào thân xác đời này bị vô minh che lấp nên không có khả năng khai mở được hết mà chỉ sử dụng được một phần nào, chúng ta gọi là bẩm sinh để trở thành các kỳ nhân, thần đồng, các nhà khoa học, mỹ thuật, nghệ thuật.

C̣n thông thường khi chúng ta có một vấn đề khó giải quyết, qua một đêm yên tĩnh nghỉ ngơi, tự nhiên sáng dạy đă t́m được cách giải quyết, người đời gọi là thông minhThể thượng trí được khai mở qua phương pháp tập thiền, tập khai mở luân xa như yoga, hoặc do sau tai nạn bị chấn thương sọ năo..

Khi sử dụng được thể thượng trí, nó dẫn ta vào không gian bốn chiều như thân xác ở một chỗ, mà thể hồn đi vào không gian khác, không gian qúa khứ để thấy biết những hoạt động của tiền kiếp, hay không gian tương lai ở những cảnh giới khác để học hỏi, t́m ṭi.

Sau này trở thành một nhà phát minh như các nhà khoa học, hoặc trở thành nhà tiên tri.., c̣n đối với những người thỉnh thoảng mới xuất hiện thể thượng trí, khi có khi không, người ta gọi là linh tính, giác quan thứ sáu…

Bẩy thể tâm linh vô h́nh cư trú trong một cơ thể vật chất, có liên quan hai chiều nhờ vào thể thần thông qua hệ thần kinh và các màng lưới thần kinh.

Tất cả đều điều khiển chức năng hoạt động của tạng phủ, vừa nuôi dưỡng bảo vệ tạng phủ theo một quy luật tuần hoàn chung gọi là sự khí hóa ngũ hành.

 

                                                                ST

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 835 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 6:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH


LỜI TỰA

Hiện nay, thế giới đang cần một số tác phẩm như quyển sách nầy. Thời kỳ duy vật bế tắc nay đă qua. Vào thời kỳ này, con người tuyên bố một cách đường đột và tự măn rằng quyền năng và minh triết thiêng liêng chẳng qua là một thứ tin tức sai lầm. Nhưng nay, nhân loại nh́n nhận sự thực tại của cơi giới siêu h́nh vượt tầm giác quan con người và muốn t́m hiểu về cơi nầy.

Để giúp sự t́m hiểu nầy, một số sách đă xuất bản gồm hai loại chánh: loại “tư tưởng mới” và loại “thần linh học”.

Loại thứ nhứt được viết theo kinh nghiệm cá nhân của những người đă ư thức được quyền năng tư tưởng và sự quan trọng các cơi vô h́nh. Loại thứ nh́ chứa đựng các kinh nghiệm cá nhân, nhưng các kinh nghiệm nầy xuất phát từ những vong linh thương đời, họ đă từ bỏ cơi trần, nhưng cố gắng chia sớt các kinh nghiệm của ḿnh cho các bạn đồng hành c̣n đang bị tù hăm trong xác thân.

Những loại sách nầy rất quí, chúng không lặp lại những thành kiến chính thống mà tŕnh bày những kinh nghiệm cá nhân; tuy nhiên, chúng cũng có thể nguy hại, v́ một cá nhân riêng rẽ có thể nhận xét sai lầm, nếu không quen quan sát một cách khoa học.

Hiện nay, có một phong trào nghiên cứu một cách khoa học các vấn đề trên và vài khía cạnh đặc biệt của môn nầy. Phong trào nầy được khởi xướng từ mấy năm nay do những người đă được huấn luyện rất công phu trọn cả cuộc đời.

Kết quả sự nghiên cứu nầy chứng minh thực tại một số định luật thiên nhiên hoàn toàn ḥa hợp với các phát minh khoa học mới nhứt, đồng thời cũng giải thích rành rẽ nhiều giáo lư được truyền lại từ ngh́n xưa, nhưng không được bao nhiêu người hiểu rơ.

Sau khi tận tâm nghiên cứu, tác giả quyển sách nầy cố gắng tŕnh bày một phần kết quả bằng những lời đơn giản thông thường, chỉ để giúp độc giả thu thập được trong vài giờ những điều mà thường phải để nhiều năm mới học được.

Với tư cách một người đă nghiên cứu lâu năm hơn, tôi xin giới thiệu một cách nồng nhiệt quyển sách nầy cho những ai được may mắn lưu tâm đến các vấn đề tâm linh và muốn khảo cứu với một nguồn tài liệu chắc chắn.



LỜI TỰA CỦA LẦN XUẤT BẢN THỨ NHỨT



Trong quyển sách nhỏ nầy, chúng tôi cố gắng tŕnh bày bằng những lời rơ ràng và giản dị, những định luật thực tế, các kết quả sự phát triển tâm linh. Tuy ư định của chúng tôi chỉ dành quyển sách nầy cho những người mới bước chân vào khoa huyền môn, nhưng người khảo cứu sâu rộng có thể dùng nó như một cái khung để sắp xếp kiến thức hầu hệ thống hóa sự hiểu biết của ḿnh.

Theo thiển ư, những điều tŕnh bày trong quyển sách nầy không phải là những lư thuyết, mà là những sự kiện, v́ chúng được căn cứ trên những sự khảo cứu của những vị có huệ nhăn sáng suốt nhứt ở thời đại chúng ta.

Chúng tôi thành thật ước mong quyển sách nầy sẽ tránh nguy hại cho một số người và dẫn dắt một vài người khác đến ánh sáng trường cửu sẵn có trong ḷng mọi người.




LỜI TỰA CỦA LẦN XUẤT BẢN BÊN MỸ

 

Sự duyệt khảo kỹ càng quyển sách nầy, không sửa đổi nội dung của nó với mục đích trau luyện lời lẽ để sự diễn tả được sáng sủa, gọn gàng hơn. Ở Mỹ, sau nầy người ta lưu ư rất nhiều về vấn đề tâm linh, nhưng một số bị dẫn dắt lầm đường do những tác phẩm viết sai và nguy hiểm.

Tác giả ước mong quyển sách nhỏ nầy sẽ giúp độc giả bỏ ư định tập luyện theo những tác phẩm nói trên nhằm kích động các quyền năng tâm linh. Độc giả nên nghiên cứu và áp dụng lối tu tâm, sửa tánh: đó là con đường duy nhứt dẫn dắt chúng ta đến sự đại giác.


LỜI TỰA CỦA DỊCH GIẢ


Mục đích của quyển sách nầy, như tác giả đă nói ở hai bài tựa, là đưa ra sự tai hại các phương pháp tu luyện nhằm kích động quyền năng tâm linh. Các tai hại nầy chẳng những xảy ra ở Âu Mỹ như tác giả đă nói mà cũng thường thấy ở xứ ta như trường hợp loạn trí hay không chủ trị được dục t́nh.

Mới bước chân vào đường đạo, v́ chưa hạn chế được bản ngă, nên ai ai cũng muốn có quyền nầy phép nọ. Có người nhận thức rằng phụng sự là một mục đích cao cả và nghĩ muốn phụng sự đắc lực th́ phải có phép thần thông.

Sự suy nghĩ nầy tuy đúng, nhưng cần ư thức rơ hơn, là kích thích quyền năng tâm linh thật là nguy hiểm, như ta đang chơi dao hay chế tạo chất nổ. Khi các quyền năng nầy được thức động, mà ta sử dụng trái đạo hay không chủ trị được, ta sẽ lâm nguy trọn đời.

Hơn nữa, những quyền năng sẵn có trong chúng ta như trí thông minh, chúng ta đă sử dụng hợp lẽ chưa? Ngoài ra, có những quyền năng khẩn thiết hơn mà ta cần tu luyện như: tính can đảm, sự bền chí, tính ôn ḥa, ḷng tha thứ, t́nh thương người v.v... v́ các đức tính nầy quả thật là những quyền năng thực tế.

Nói thế, không phải chúng ta không bao giờ có những quyền năng tâm linh. Chúng ta sẽ có các quyền năng nầy, chắc chắn như vậy, khi chúng ta trau giồi tâm trí theo phương pháp tham thiền đơn giản, được chỉ dạy trong quyển sách nầy. Phương pháp phát triển tâm linh nầy đ̣i hỏi nhiều th́ giờ, nhưng kết quả sẽ chắc chắn.

Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, chúng ta sẽ được chỉ dạy bởi một Chơn Sư (theo ư nghĩa của Thông Thiên Học) hay một vị đệ tử của Ngài sẽ đến dạy bảo chúng ta đúng như lời Ngài dạy: “Khi chúng ta bước đến Ngài một bước, Ngài bước đến chúng ta hai bước.”

Việc sử dụng đồng cốt cũng rất nguy hiểm. Các đồng cốt thường bị loạn trí. Lư do là tấm màn bảo vệ của họ bị rách, nên các vong linh tự do xông vào thể xác họ như đến một nhà trống và hành hạ họ đủ thứ: họ có thể khùng và đau khổ suốt đời. Đó là một trở ngại rất lớn trên đường tu tập.

Trong việc cầu cơ, xây bàn, nếu sự tổ chức không được tinh khiết, màn bảo vệ của đồng tử cũng có thể bị rách như vậy. Ngoài ra, các vị nhập vào đồng tử có thể là những vong linh tầm thường, họ có ư giúp đời thật, nhưng v́ tiến hóa thấp, nên không dạy bảo được những điều hữu ích.

Cơ bút tự nó không phải là một điều tai hại. Tai hại thường là đồng tử không được siêu thoát, thanh cao, c̣n cử tọa th́ gồm những người tham lam, ô trược. Trong các điều kiện nầy, Tiên Thánh không thể giáng đàn.

Tóm lại, phương pháp phát triển tâm linh hữu hiệu nhứt là việc trau tâm luyện trí nhằm mục đích giúp đời. Việc cầu cơ xây bàn là những phương tiện hữu ích, nhưng cần được sử dụng hết sức cẩn thận, nếu không tai hại gây ra không nhỏ. C̣n việc kích động các quyền năng tâm linh như luyện luồng hỏa hầu chẳng hạn là một điều nhứt định phải tránh.

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 836 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 6:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH 

 ( CHƯƠNG I ) 


MỘT CƠI GIỚI TRONG MỘT CƠI GIỚI


TRỜI Ở ĐÂU?


Linh tính bất diệt báo cho ta biết thế giới nầy chẳng qua là một pḥng nhỏ của một ngôi nhà vĩ đại. Cho đến thuyết duy vật của thế kỷ vừa qua, và khoa thần học chính thống lâu đời cũng không sao hủy diệt được niềm tin đó, hay là làm cho con người lầm tưởng Trời chỉ là một chuyện thần thoại huyền hoặc hay xa vời.

V́ vậy, khi các thi sĩ ước mơ và ca tụng cơi thiên quốc đó, khi các triết gia và các nhà khoa học luận bàn hay phủ nhận nó th́ các nhà huyền môn đă t́m ra cơi đó, diễn tả và phân loại các sinh vật và hiện tượng của nó.

Trong lúc sự hiểu biết về cơi vô h́nh nầy và các thành phần của nó được càng ngày trở nên chính xác và sâu rộng, th́ đám mây vô minh, sai lầm c̣n bao phủ nhiều người, khiến họ măi đau khổ và không tin ở thiên cơ sáng suốt và nhân từ.

Nếu ta hỏi một người gặp ngoài đường: Trời ở đâu, họ sẽ ngạc nhiên và cười to lên. Nếu một người đă có đọc những sách thuộc loại “tư tưởng mới”, có lẽ họ sẽ trả lời: Trời ở tâm ta.

Câu trả lời nầy đúng, nhưng không chính xác cũng như không được hiểu rơ. Nếu người đối thoại với ta là một người mộ đạo, chỉ có đọc kinh Phúc Âm và nghe các bài giảng ngày chủ nhật, họ sẽ trả lời sau khi bớt ngạc nhiên và tổng hợp những giáo lư đă học được, rằng trời ở cao tận trên không, có lẽ ở chỗ mà hỏa tinh đang vận chuyển.

Nếu chúng ta được đưa lên một hành tinh xa xôi, câu hỏi trên được đặt lại, th́ ta cũng trả lời giống như vậy, và bây giờ th́ Trời cũng vẫn ở trên cao, nhưng không c̣n ở quỹ đạo của hỏa tinh nữa mà chỗ địa cầu đang quay trên ṿm trời đầy sao. Tại sao ta cứ măi nói Trời ở chỗ nầy chỗ nọ mà không phải ở tại đây?



CƠI VÔ H̀NH



Sinh viên huyền môn khi t́m hiểu các định luật ẩn tàng trong tạo vật, biết rằng có một cơi giới mênh mông tuy vô h́nh đang bao quanh quả địa cầu, và muốn t́m cơi ấy, ta khỏi phải sang các hành tinh khác hay du hành trên không trung. Chúng ta đang sống ở một hành tinh vật chất, giữa một cơi giới thanh nhẹ hơn, nó bao quanh chúng ta như một khí quyển rộng lớn.

Bất cứ chúng ta ở nơi nào, cơi ấy vẫn thâm nhập trí hóa ta, thân thể ta, cả quả đất chúng ta đang giẫm lên. Chúng ta không cần đi xa để t́m, v́ hiện nay chúng ta đă là dân cư của nó, tuy rằng chúng ta không ư thức được sự hiện diện và thực tại của vô số sinh linh và nhân vật đang sống trong đó.

Khi một linh hồn ở cơi đó, khoác một thể vật chất sang cơi trần để thu thập kinh nghiệm, đó là sự sanh. Đến lúc thể vật chất ấy trở nên già nua, tiều tụy sau khi làm xong chức vụ của nó, con người sẽ vứt bỏ nó: đó là sự chết.

Cơi vô h́nh đó thanh trong hơn cơi trần, là quê hương thật sự của chúng ta, c̣n cơi trần chẳng qua là một xứ xa lạ, thỉnh thoảng ta mới đến mà thôi. Chúng ta giống như một lữ khách đến một xứ xa t́m vật liệu dùng để dệt một bức lụa huy hoàng.

Chúng ta thường không ư thức được sự thực tại của cơi vô h́nh nầy, v́ một số giác quan của chúng ta chưa được khai mở. Khi một người bị cảm và nghẹt mũi vào một pḥng bát ngát mùi hương của hoa hồng, anh không biết có mùi hương nầy.

Khi một người mắc bịnh loạn sắc dạo chơi ở một khu rừng rậm rạp hay trên một băi cỏ xanh tươi, anh không thưởng thức được màu sắc phong phú, v́ tất cả chỉ là màu xám dưới đôi mắt bịnh hoạn của anh.

Chúng ta cũng giống vậy, đối với cơi vô h́nh vô cùng thanh trong và đẹp đẽ đang bao quanh chúng ta: chúng ta không ư thức được nó, không phải v́ nó không có, mà v́ ở giai đoạn tiến hóa hiện tại của chúng ta, những giác quan cần để cảm xúc nó chưa thức động. Nhưng ngày chúng nó được khai mở không c̣n xa.



NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ SỰ THỰC TẠI CỦA CƠI VÔ H̀NH



Nếu chúng ta có thể nhờ một cơ quan thông tấn, tập trung các kinh nghiệm cá nhân rải rác trên thế giới về cơi vô h́nh, chúng ta sẽ tin sự thực tại của cơi nầy ngay. Các kinh nghiệm riêng của mỗi chúng ta đều rất ít và cũng không vững chắc, nhưng khi được tập hợp lại, chúng là những bằng chứng hùng hồn.

Đôi khi chúng ta thấy một điều lạ hoặc có một giấc chiêm bao lư thú, chúng ta nhớ nó trong một thời gian, thuật cho bạn bè nghe hoặc thảo luận về ư nghĩa và tầm quan trọng của nó, nhưng không bao lâu, nó ch́m trong sự lảng quên.

Dĩ nhiên, thường nó không có giá trị bao nhiêu và cũng không dạy ta được nhiều. Nhưng khi chúng ta đọc qua các sự việc mà các hội thần linh đă thu góp được, chúng ta sẽ nhận định rơ ràng rằng toàn thể nhân loại đang tiếp xúc với một cơi tâm linh mênh mông và phức tạp.

Sự diễn tả các hiện tượng xa xôi nhờ huệ nhăn đột phát trong phút chốc; những lời tiên tri về các nguy tai sắp đến; việc các vong linh hiện ở những ngôi nhà xưa; những điềm chiêm bao sáng suốt báo đúng những việc xảy ra.

Những cảm hứng đến bất ngờ cho các bậc thiên tài hay chí sĩ, các việc ấy và nhiều việc khác nữa, chỉ rằng con người vĩ đại hơn chúng ta tưởng và thế giới chúng ta được lồng trong một cơi giới thanh cao. Chúng ta không cần có quyền nầy, phép nọ mới ư thức được thực tại của cơi vô h́nh.



NHỮNG ẢNH HƯỞNG TẾ NHỊ CỦA CƠI VÔ H̀NH



Từ giây, từ phút chúng ta chịu ảnh hưởng của cơi vô h́nh ấy. Bất cứ lúc nào, tư tưởng và t́nh cảm của kẻ khác tác động ở tâm ta khiến ta suy tư, cảm xúc và hành động trái với chân tánh của chúng ta. Thường, chúng ta không ư thức được căn nguyên của các tư tưởng đó và cho rằng chúng nó phát xuất từ ḷng ta.

Điều nầy được chứng minh do một việc xảy ra cách đây một vài năm. Một hôm, trên con tàu chạy ngang qua vịnh San Francisco, một người đàn ông đang b́nh tĩnh đọc sách. Bỗng nhiên, ông thấy tâm trí ông bị kích thích mănh liệt và sợ hăi.

Ông lấy làm lạ, v́ quyển sách của ông đang coi không có tính cách kích thích ấy. Ông ngước mắt lên và thấy một bà mẹ đang hoảng hốt chạy theo bao lơn và sắp té xuống biển. Như vậy, sự hoảng hốt đến cho ông không phát xuất từ tâm ông mà do tâm trí của người đàn bà nầy ảnh hưởng đến tâm trí ông.

Những người suy tư với tư tưởng riêng của ḿnh rất ít. Tư tưởng của đa số là tư tưởng rút trong bầu tư tưởng bao quanh chúng ta. Ngược lại các tư tưởng của chúng ta không phải chỉ liên hệ đến ta mà thôi, chúng nó gia nhập vào khối tư tưởng cộng đồng của nhân loại.

Người khôn ngoan điều ḥa tâm ḿnh với các ư tứ thanh cao, các t́nh cảm trong sạch, và chỉ thu nhận chúng nó mà thôi. Ta là cái máy lọc, phân tích sự thanh khiết của tư tưởng cao thượng ra khỏi sự ô trược của dục vọng thấp hèn.



SỰ HIỆN DIỆN CỦA CƠI VÔ H̀NH



Hiện nay chúng ta đang ch́m đắm trong đời sống vật chất, nên khó ư thức được sự hiện diện của cơi vô h́nh; chúng ta không nghe, không thấy, không nếm, không ngửi được với các giác quan phàm tục của chúng ta. Nhưng cơi ấy c̣n thật hơn cơi trần nhiều, mặc dầu các rung động tế nhị của nó không lưu một dấu vết chi trên vật chất thô kịch của các giác quan chúng ta.

Chúng ta biết rằng mỗi tháng trong một thời gian nào đó mặt trăng có thể thấy được vào lúc ban ngày. Chúng ta thấy trăng lưỡi liềm, không ngờ đến ánh sáng của nó đang bao trùm chúng ta.

Chúng ta chỉ thấy có ánh sáng mặt trời. Nhưng khi mặt trời lặn th́ cảnh vật hiện ra dưới ánh trăng êm ái, dịu dàng. Thật sự, trong suốt thời gian ấy, ánh trăng lúc nào cũng có, nhưng lúc ban ngày, chúng ta không thấy được.

Cơi vô h́nh cũng y như vậy. Lúc nào, nó cũng hiện diện, nhưng chúng ta không ư thức được, v́ chúng ta hoàn toàn ch́m đắm trong ngoại cảnh. Khi nào chúng ta trấn an được giác quan phàm tục và tâm trí hỗn loạn, chúng ta sẽ nhận được các rung động vi tế của cơi vô h́nh và ư thức được nó.



BẢN CHẤT CỦA GIẤC NGỦ VÀ GIẤC MỘNG

 

Rất may, chúng ta biết về cơi vô h́nh nhiều hơn là chúng ta tưởng, v́ mỗi đêm khi thể xác ta ngủ, chúng ta đều sang qua cơi đó và di chuyển giữa các quang cảnh của nó bằng một đối thể tế nhị của xác thân.

Đối thể ấy được gọi là thể t́nh cảm hay thể vía cấu tạo bằng chất thanh khí của cơi vô h́nh. Cũng như thể xác, thể vía là một dụng cụ của tâm thức và có thể dùng riêng biệt với thể xác.

Giấc ngủ đối với nhà huyền môn là một việc rất dễ nhận xét, nhưng nó là một sự kiện lạ lùng đối với những người đă đồng hóa ḿnh với thể xác và cho rằng trí tuệ là một thứ hóa phẩm của khối óc. Bản chất của giấc ngủ rất đơn giản.

Chúng ta rời xác thân, khối óc của ta trở nên vô thức, ngoại trừ một thứ ư thức mù mờ, máy móc c̣n lưu lại trong thần kinh hệ. Trong khi ta rời bỏ thể xác, chúng ta bay phất phơ trong cơi vô h́nh hay hướng theo một chiều nào đó với ít nhiều ư thức. Tâm thức của chúng ta vẫn như trước, nhưng cái thể ta dùng là thể vía, thay v́ thể xác.

Trong lúc ta ngủ, sự sống thiên nhiên vẫn tác động trong thể xác để bồi dưỡng các tế bào mệt nhọc, nuôi nấng các tế bào mới sanh, bài tiết các chất thừa trong cơ thể.

Như vậy, trong lúc vắng mặt chủ nhân, thể xác có dịp nghỉ ngơi và phục hồi sức lực, cho đến lúc chúng ta trở về th́ thể xác “thức tỉnh” và các tế bào phải hoạt động lại để đáp ứng với tư tưởng, cảm xúc và ư chí của ta.

V́ hoạt động như vậy, thể xác ta mới mệt và cần nghỉ ngơi trong lúc ngủ. Sở dĩ giấc ngủ khỏe là v́ chúng ta vắng mặt.

Đôi lúc, khi thức giấc, chúng ta có thể buộc trí óc nhớ lại một kinh nghiệm hay một sự việc xảy ra trong lúc ngủ. Khi ta nhớ được, đó là một giấc mộng hợp lư dù rằng chỉ là sự nhớ lại. Những điều hợp lư ta nhớ lại, khác hẳn các h́nh ảnh vô lư, chúng hiện liên tiếp trong trí óc ta lúc ngủ và tạo ra những giấc mơ thông thường, kỳ dị.

Nếu chúng ta liên kết được tâm thức lúc thức và tâm thức lúc ngủ, chúng ta trở thành con người năng linh; sự phát triển tâm linh là sự nới rộng giới hạn tâm thức lúc thức (mà chúng gọi là giác thức) bằng sự khai mở một vài quyền năng ẩn tàng trong con người. 





 

 

 

 

 


 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 837 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 7:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH 

( CHƯƠNG II ) 


TẠI SAO TA KHÔNG NĂNG LINH ?

 
TẤM MÀN BƯNG BÍT


Khi ta nhận thức có một cơi vô h́nh bao quanh, tuy ban đêm chúng ta hành động trong cơi đó một cách ư thức khi thể xác ngủ, lư do duy nhứt khiến ta không nhớ các hành động nầy v́ thần kinh hệ của chúng ta không có cảm lực cần thiết, chừng đó ta cảm thấy có một bức màn bưng bít và chúng ta muốn vén nó, xé nó, vứt nó.

Nhưng ta hăy coi chừng đừng để sự thèm khát hiểu biết làm hại chúng ta. Nếu nhân loại chưa thể có năng linh, v́ có những lư do trọng đại, những qui luật sáng suốt do Ơn Trên sắp đặt.

Một người mang cho chủ một đóa hoa sen c̣n đọng sương đêm vừa hé nhụy. Anh ta được lệnh đem ngâm hoa trong nước, nhưng v́ muốn đẹp ḷng chủ, anh ta mở các cánh hoa mịn màng để lộ nụ gương tươi thắm. Sau đó vài giờ, cánh hoa trở nên úa và tím, mặc dầu hoa được đặt trong nước.

Nếu chúng ta khai mở quyền năng của chúng ta sớm quá, chúng ta sẽ trở nên suy kém, tàn úa như vậy. Chúng ta không nên làm hỏng bộ thần kinh tế nhị hay thí nghiệm phương pháp nầy nọ với khối óc chúng ta.

Một công phu sai lạc, một cố gắng quá nhiều có thể gây thương tích trong cơ cấu phức tạp của bộ thần kinh khiến cho ta bịnh hoạn suốt đời. Chúng ta cần hiểu rơ những điều ta phải làm trước khi đánh thức các quyền năng tiềm tàng của ta; chúng ta hiểu rơ phương pháp khai mở nầy và kết quả của nó ra sao, nếu không chúng ta sẽ lâm nguy.



CÁC LỜI KHUYÊN NGUY HIỂM



Chúng ta không nên nhắm mắt tin theo những lời chỉ bảo khác nhau trong hằng ngàn quyển sách xuất bản khắp nơi, v́ các lời chỉ bảo ấy thường sai lầm và nguy hại. Chúng ta nên biết khoa tâm linh hiện nay được rất đông người chú ư, nên sách vở của khoa nầy xuất hiện rất nhiều, nhưng giá trị chẳng được bao nhiêu.

Cả trăm quyển sách được viết ra không phải để d́u dắt độc giả một cách hữu ích, mà để thỏa măn tánh hiếu kỳ thôi. Tác giả những quyển sách đó không nghĩ đến tai hại của những điều chỉ dạy của họ: mục đích của họ là bán sách chạy và kiếm tiền.

Những sách họ sưu tầm là những sách Ấn Độ nói về bùa chú, phù phép không được các bực tu sĩ chân chính tín nhiệm. Họ hấp tấp đọc qua và rút các cách tập luyện thân thể nhằm mục đích đánh thức các quyền năng tâm linh thấp kém rồi tŕnh bày lại cho các độc giả dễ tin dưới những tựa huyền bí, hấp dẫn.

Đó là lời chỉ bảo của nhiều nhóm được gọi là “huyền môn”. Cả ngàn người theo những lời chỉ bảo ấy hay các giáo lư khác tương tự được tŕnh bày trong sách cho đến khi tai hại xảy ra.

Sự chế tạo chất nổ rất nguy hiểm, nên không ai bắt tay vào công việc nầy mà không t́m hiểu cặn kẽ, không tham khảo ư kiến của các nhà chuyên môn.

Về sự luyện tập tâm linh, tuy công việc không kém phần nguy hiểm, nhưng nhiều người v́ một lẽ bí mật nào đó, tưởng ḿnh hiểu biết tất cả và tin ở ḿnh hoàn toàn. Họ cho ḿnh xét đoán không sai lầm và không ngần ngại tập luyện. Có lẽ v́ đó mà biết bao người đă loạn trí ở tây phương.



PHẢI SÁNG SUỐT



Về các công việc nghiên cứu tâm linh, chúng ta phải xét đoán hợp lư, phải sáng suốt như chúng ta giải quyết các công ăn việc làm. Trước một vấn đề về tâm linh, ta phải phân tích, đắn đo như đối với một bức thư quan trọng. Ta không nhắm mắt tin tưởng với sự ngưỡng mộ, tôn sùng. Trái lại, ta phải sử dụng tất cả khả năng để xét đoán.

Nhiều người rất thông minh, nhưng khi vào lănh vực tâm linh h́nh dường như họ mất hết quan năng suy luận. V́ vậy họ tán dương những điềm chiêm bao của họ như là những cuộc tiếp xúc với các bậc siêu phàm.

Họ cho những phản ứng xấu xa của óc tưởng tượng hỗn loạn là những hoạt động quỉ quái của bọn phù thủy, và gán cho một Chơn Sư linh hiển, những lời mộc mạc, tầm thường nổi lên ở tâm họ. Phải đợi nhiều năm họ mới trở nên b́nh thường trở lại, v́ vậy thái độ hoài nghi chơn chánh c̣n hơn là sự tin nhảm của một số người.



HĂY TỰ BIẾT M̀NH



Trên phương diện huyền môn, có biết bao phương pháp luyện tập, đúng cũng có, sai cũng nhiều, người nào muốn thành công cần áp dụng lời khuyên của Socrate chạm ở ngưỡng cửa đền Delphes: “Hăy tự biết ḿnh.”

Sự tự biết ḿnh đ̣i hỏi nhiều năm nghiên cứu trong sự an tĩnh và thâm diệu, cả công việc giúp đời, v́ ban cho và phụng sự có đặc tính mở mang các quan năng tâm linh.

Trong tâm ta, có những quyền năng vi diệu mà chúng ta chưa ḍ, những năng lực mà chúng ta chưa biết, những nguồn năng lực mà chúng ta chưa ư thức được sự hùng hậu.

Có những cơi rất cao ở tâm ta, chúng ta không ngờ nhưng có thể đạt, v́ vậy, người chí nguyện không lùi chân trước một trở ngại nào. Đó là mục đích của các kiếp sống chúng ta ở cơi trần.



NĂNG LINH QUÁ SỚM

 

Có những lư do quan trọng, khiến các quan năng tâm linh của chúng ta không mở sớm. Cách hay nhứt để hại một người là giúp cho họ cảm xúc được ảnh hưởng và năng lực của cơi vô h́nh.

Tạo Hóa rất sáng suốt và nếu các định luật thiên nhiên được tôn trọng, th́ không bao giờ một quan năng tâm linh có thể mở, nếu chúng ta chưa sử dụng nó được. Chúng ta không nên ao ước sự phát triển tâm linh quá sớm, nó chỉ đem lại đau buồn.

Nếu chúng ta chưa thuộc các bài học ở cơi trần và rèn luyện tánh can đảm, sự bền chí, đức vị tha, ḷng thanh bạch, sự sáng suốt, t́nh thương th́ cần chi phải thám hiểm cơi bên kia?

Chúng ta sẽ có thái độ điên cuồng của một nhà thám hiểm quyết đi sâu vào rừng già Phi châu mà không mang theo khí giới. Chúng ta nên thành thật nh́n nhận chúng ta chưa được sẵn sàng, hơn là để thất bại, v́ chưa chuẩn bị.



CÁC LOẠI ẢNH HƯỞNG TÂM LINH



Một trong những ảnh hưởng khủng khiếp nhứt mà ta phải chịu và không sao thoát ra được, v́ đă mở quan năng tâm linh quá sớm là ảnh hưởng gây ra do vong linh hung dữ. Chúng ta cứ đinh ninh rằng khi hành quyết một kẻ sát nhân, chúng ta chấm dứt hành động tàn ác của y.

Nhưng sau khi chết, con người không phải bỗng nhiên trở nên thánh thiện và cũng không đi xa hơn. Những người đạo hạnh sau khi từ trần, sẽ lên các từng cao của cơi vô h́nh.

Trái lại, các từng thấp ở gần quả đất th́ đầy dẫy những nhân loại cặn bă đă từng gây án mạng hay đam mê dục lạc lúc sinh tiền. Với mục đích thỏa măn các dục vọng đê hèn đang giày ṿ, họ ám ảnh người sống nhứt là những người nghiện rượu và xúi giục họ làm những điều bẩn thỉu.

Những người có năng linh quá sớm sẽ chịu ảnh hưởng khốc hại nầy, mà không thể chống đỡ được, v́ c̣n non nớt và chưa có kinh nghiệm cần thiết.

Một lư do khác khiến Tạo Hóa từ chối quan năng tâm linh cho các người chưa được chuẩn bị, v́ sự hiện diện ở chung quanh chúng ta những sinh linh kém tiến hóa hơn nhân loại; các sinh linh nầy chống đối nhân loại, nhưng không thể làm hại nhân loại được, v́ chúng thuộc cơi vô h́nh, chỉ khi nào con người tự đặt ḿnh dưới ảnh hưởng của chúng bằng cách khai mở quan năng tâm linh quá sớm: đó là một bài học rất đau khổ.

Ngoài ra, chúng ta đừng quên khi quan năng tâm linh thức động, ta sẽ cảm xúc được những tư tưởng, t́nh cảm và dục vọng phóng ra trong cơi vô h́nh, dưới h́nh thức những rung động, do hằng triệu con người sống tụ tập ở các đô thị.

Quả thực, chúng ta sống trong một biển h́nh ảnh xuất phát liên tiếp từ trí óc linh động của loài người, và chúng sẽ xâm chiếm tâm trí ta để gây nhiều tai hại, nếu chúng ta không kiểm soát và chủ trị được quan năng trí thức của chúng ta.

Sự xâm chiếm nầy sẽ trở nên một ác mộng cho những ai tu tập sai đường, v́ tư tưởng, t́nh cảm quay cuồng trong một thành phố lớn thường ích kỷ, tham lam, duy vật, trụy lạc, gian xảo, thù hận, thỉnh thoảng mới có màu sắc tươi đẹp, sáng sủa của t́nh thương và của hoài vọng tinh thần.



MÀN BẢO VỆ



Đến đây, chúng ta đề cập đến một trong những phát minh quan trọng nhứt của huyền môn học: phương pháp giản dị và hữu hiệu nhờ đó tạo hóa ngăn cản sự khai mở quá sớm các quan năng tâm linh.

Ai đă học về điện đều biết, nếu ta bao hai đầu một sợi dây dẫn điện bằng sáp và ráp hai đầu dây lại th́ luồng điện không chạy qua được. Nếu ta bỏ sáp đó ra, dù chỉ chút ít thôi, th́ điện xẹt ra ngay.

Cơ cấu tâm linh của con người cũng giống vậy. Trong thể vía và thể phách của chúng ta, có những trung tâm được xếp đặt thế nào để chúng gần như đụng các trung tâm tương ứng của thể xác.

Nếu các sinh lực của cơi vô h́nh có thể đi xuyên qua các trung tâm của thể vía và thể phách để ảnh hưởng các trung tâm của thể xác th́ các cơ quan năng linh thức động.

Tạo Hóa sáng suốt tránh sự thức động bằng cách đặt một màn lưới mỏng phân cách các loại trung tâm để ngăn cản luồng sinh lực chạy xuyên qua các thể. Màn lưới ấy được tạo bằng một lớp nguyên tử hồng trần ép chặt. Nó để các sinh lực nuôi dưỡng các thể lưu thông dễ dàng qua nó và chận đứng các loại ảnh hưởng khác trừ khi nào nó bị rách.

Rất tai hại, một vài phương pháp gọi là tâm linh được dạy ở tây phương trong các trường huyền môn trục lợi làm hại cái màn lưới bảo vệ ấy. Do đó các trường hợp điên cuồng gia tăng.



SỰ NĂNG LINH: MỘT SỰ THẬT KHẮT KHE



Sự năng linh đă được nghiên cứu từ xưa ở Ấn Độ, cũng như ở các trường huyền môn chân chính và lần lần trở nên một khoa học chân xác.

Ai đă biết năng linh không phải là một tṛ tiêu khiển, mà là một sự thật khắt khe, th́ không bao giờ dám nghĩ đến sự luyện tập cầu may của một số người Âu Mỹ. Nếu họ biết khoa ấy giúp ích rất nhiều cho những người đă được chuẩn bị và hội đủ những đức tính cần thiết, th́ cũng gây rất nhiều tai hại cho những kẻ chưa sẵn sàng.

Một nhà huyền môn chân chính không bao giờ dạy cách phát triển năng linh cho những người ích kỷ, tục tằn, v́ dạy như thế chẳng khác nào đưa chất nổ cho trẻ con.

Một người như vậy chẳng những ngăn trở sự tiến hóa của họ trong nhiều kiếp, mà c̣n gây đau khổ cho kẻ khác với ư chí ích kỷ của ḿnh.

Cho đến khi nào chúng ta chưa sử dụng được các khả năng sẵn có của chúng ta vào những mục đích vị tha, th́ ta không nên đ̣i hỏi thêm điều chi nữa.

Sự năng linh chỉ có tính cách quí báu khi nào các bạn đứng đắn, tinh tấn, bền chí, nhứt là vị tha.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 838 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 7:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH 

 ( CHƯƠNG III )

 
SỰ GIAO CẢM NĂNG LINH 

 
SỰ TRUYỀN CẢM CỦA ĐỜI SỐNG


Các tư tưởng đến với chúng ta, dù từ trí năo của chính ta, hay từ trí năo của người khác, đều do cơi vô h́nh chuyển đến, v́ tư tưởng và t́nh cảm phát sinh tại cơi nầy. Những tư tưởng và t́nh cảm phát sinh trong tâm trí ta, đó chỉ là những phỏng tạo vụng về trong khối óc vật chất, những rung động trí thức và t́nh cảm tương tự các làn sóng phát thanh của trí tuệ vô cùng linh động.

Mỗi khối óc là một máy thu thanh. Chúng ta đều biết rơ tư tưởng và t́nh cảm có thể truyền từ trí óc người nầy đến trí óc người khác trong chớp nhoáng mà không cần lời nói, nhưng chúng ta chưa ư thức được các tư tưởng mà chúng ta cho là riêng của chúng ta, chỉ là những tư tưởng của kẻ khác được phỏng tạo lại trong tâm trí ta.

Các ấn tượng, cách cảm xúc ấy được truyền liên tiếp từ người nầy đến kẻ nọ, từ đám đông nầy đến người kia, tạo nên giữa dân cư một thành phố hay một quốc gia, một lối suy luận riêng, cách cảm xúc riêng, một thái độ riêng.

Thái độ nầy gây ra một áp lực rất mạnh, như áp lực của không khí. Thường chúng ta không thấy áp lực đó, nhưng không ai thoát khỏi ảnh hưởng của nó.

Sự vui vẻ quá độ ở hí viện; sự bồng bột khiến ta la lối trong một trận túc cầu; sự ham mê âm nhạc hay hội họa đột nhiên nổi lên ở ḷng ta, lúc ta tṛ chuyện với nghệ sĩ; sự thích thú một quyển sách được nhiều người khen ngợi.

Sự sầu năo trong đám tang; sự chán nản ở buổi tiệc khi có mặt một người khách buồn rầu; sự nóng tánh ở buổi họp khi có một người giận dỗi, các t́nh cảm nầy chẳng phải là của ta mà là của kẻ khác được chuyển sang tâm trí ta.



THÁI ĐỘ TÍCH CỰC



Thái độ của chúng ta phải như thế nào, nếu chúng ta biết sự buồn rầu hay phấn khởi đều tùy thuộc hoàn cảnh hoặc tùy những người ở gần hay ở xa chúng ta mà liên hệ mật thiết với ta? Chúng ta phải tích cực: v́ các tư tưởng và t́nh cảm xấu của kẻ khác lúc nào cũng chờ đợi để xâm chiếm tâm trí ta, ta phải chống cự lại.

Việc đó không khó. Bạn hăy nói: “Các tư tưởng ấy không phải của tôi. Tôi không có lư do ǵ để buồn rầu hay chán nản. Tôi không để các tư tưởng ấy xâm nhập trí tôi. Chúng phải đi nơi khác. Tôi muốn vui vẻ, an lạc và thương yêu. Tôi là ánh sáng hóa thân, tôi là một điểm linh quang của Thượng Đế.” Một thái độ như thế rất có kết quả trên đường tiến hóa.



SỰ TRUYỀN CẢM CỦA NGƯỜI CHẾT



Chẳng những người sống mà cả những người chúng ta gọi là chết cũng chuyển tư tưởng và t́nh cảm đến tâm trí chúng ta, v́ sự chết của xác thân không ảnh hưởng đến trí tuệ của con người.

Một trong những điều mà chúng ta phải ư thức, nếu chúng ta muốn hiểu cách thức truyền cảm, là người chết không cách biệt với các người thân mến một thời gian sau khi từ trần.

Tuy chúng ta không thấy người, v́ mắt chúng ta không nhận được các rung động của cơi vô h́nh, nhưng người thấy ta trong khung cảnh hằng ngày, trong thời gian vài ba năm khi chưa siêu thoát lên cơi trên, và người vẫn thiết tha với hạnh phúc của chúng ta như lúc trước.

Ban đêm, trong lúc thể xác ta nghỉ ngơi, vía chúng ta gặp các người thân mến đă quá văng ở cơi vô h́nh và chuyện tṛ như lúc sống. Ban ngày tuy người sống không thấy người chết, nhưng có thể chuyển cho họ những tư tưởng thương yêu như những sứ giả hạnh phúc, và một tư tưởng mạnh mẽ của một vong linh cũng có thể xâm nhập tâm trí ta như tư tưởng của một người lân cận.

Nhiều tư tưởng đến với chúng ta, dù ta không bao giờ biết có sự truyền cảm từ cơi giới bên kia như vậy.



CẢM HỨNG



Đôi khi, trước số thính giả đông đảo, diễn giả được một nhân vật đang hoạt động giúp đời ở cơi vô h́nh lưu ư, và chuyển đến ông những tư tưởng mạnh mẽ.

Trong trường hợp nầy, diễn giả đột nhiên được nhiều cảm hứng. Những tư tưởng rơ ràng, những ư niệm sáng sủa hiện đến dồn dập, lời nói của ông trở nên chọn lọc, thanh tao, êm ái, ông trở nên hùng biện, trang nghiêm và lôi cuốn cử tọa mê say. Đó là một cách chuyển di tư tưởng quí báu nhứt.



VIẾT VÀ VẼ TỰ ĐỘNG

 

Ảnh hưởng của các nhân vật ở cơi vô h́nh có thể biểu hiện một cách khác hơn là sự chuyển di tư tưởng. Trong nhiều trường hợp, nhân vật ấy có thể chiếm lấy cánh tay hay bàn tay người sống xuyên qua các trung tâm thần kinh của y để vẽ hay viết. Đó là hiện tượng viết hay vẽ tự động thường thấy ở những buổi họp thần linh.

Trong các trường hợp nầy, cánh tay không c̣n tùy thuộc người sống kiểm soát mà do nhân vật nói trên sử dụng.



LỜI NÓI TRONG TRẠNG THÁI XUẤT THẦN

 

Nhân vật ấy cũng có thể chiếm lấy bộ phận nói của người sống để nói chuyện với các người hiện diện. Nếu người “đồng” không xuất ra trọn vẹn, th́ y vẫn tỉnh và biết được mọi sự việc, nhưng không cưỡng lại được những lời nói bộc phát từ đôi môi ḿnh.

Trái lại, nếu đồng tử xuất ra hoàn toàn, để thể xác bị chiếm trọn vẹn th́ y ít khi ư thức những việc xảy ra. Sau buổi nhập đồng, y không nhớ điều ǵ cả, từ lời nói đến việc làm. Trong các trường hợp nầy, nét mặt y có thể thay đổi.

Chúng ta biết thân thể phản ứng nhanh chóng tùy t́nh cảm chúng ta. Nó thay đổi sắc diện mỗi lần chúng giận, buồn hay vui. V́ vậy khi một nhân vật đến nhập vào thể xác, lời nói, cách nói của người đồng tử thay đổi để được giống nhân vật nầy.



SỰ HIỆN H̀NH

 

Một người ở cơi vô h́nh có thể tiếp xúc với người trần bằng một cách khác hơn là qua sự trung gian của đồng cốt. Người có thể lấy chất dĩ thái trong các thể người sống để tạo ra một cánh tay dùng xê dịch đồ đạc hay để bao quanh thể vía của ḿnh và hiện ra. Người ta có thể nói năng với h́nh dạng mới tạo nầy. Các hiện tượng nầy được gọi là sự hiện h́nh.

V́ những đồ vật hữu h́nh chỉ có thể bị xê dịch bởi những động lực tác động xuyên qua cơ thể hữu h́nh, nên vong linh chỉ có thể tạo ra hiện tượng vật chất khi nào vị ấy nhập vào xác người sống hay tự ḿnh hiện ra bằng chất dĩ thái.

Không phải các sự hiện h́nh đều có thể thấy được. H́nh có thể tạo bằng chất đặc, nhưng không thể trông thấy, có cái thấy được giống như sương mù, có cái vừa đặc vừa thấy được. Muốn xê dịch đồ đạc, h́nh hiện ra phải bằng chất đặc.

Sau khi chết, h́nh dáng con người giống như lúc sống, khác chăng là cơ thể của người bây giờ, không phải làm bằng vật chất hồng trần, mà bằng một chất thanh hơn. V́ vậy, khi bao quanh h́nh thể bằng một lớp dĩ thái vừa đủ để phản chiếu ánh sáng, th́ y hiện ra giống hệt lúc c̣n sinh tiền.

Trong buổi nhập đồng, vong linh có thể lấy tên một vị không có mặt tại đó. Nếu y tưởng tượng giống vị ấy th́ thể vía của y cũng giống như vậy, theo h́nh tư tưởng của y. V́ vậy việc mạo danh thường xảy ra trong các buổi đồng cốt.

Đấng Ky Tô, Socrate, Platon, Shakespeare và các nhân vật cao cả khác – mà nhiều người tưởng có sự hiện diện các nhân vật trên trong các buổi nhập đồng có nhiều công việc quan trọng hơn là đến nói những lời vô vị vụng về, mà những người sáng suốt không lưu tâm.



VIẾT TRÊN BẢNG ĐÁ



Sự viết trên bảng đá cũng là một sự hiện h́nh. Sự kiện xảy ra như sau: Một cây viết được để giữa hai tấm bảng, tất cả được gói lại và niêm khằng cẩn thận. Khi vong linh về muốn viết th́ dùng chất dĩ thái của người đồng để có thể sử dụng cây viết và viết.

V́ chất dĩ thái có thể đi xuyên qua các chất đặc một cách dễ dàng, nên bàn tay bằng chất dĩ thái đưa vào gói, băng ngang qua bảng đá và viết cũng như ta đưa bàn tay ngang qua đám khói.



KHI NHÀ HUYỀN MÔN HIỆN H̀NH

 

Đôi khi, một nhà huyền môn hoạt động ở cơi vô h́nh cần hiện h́nh để giúp đỡ một người lâm nạn ở cơi trần. Khi hiện h́nh như vậy, người không lấy chất dĩ thái của đồng cốt mà dùng ư chí mạnh mẽ rút dĩ thái ở không trung bao thể vía để tạo ra một h́nh thể có thể nói năng và hành động.

Sau đó, khi ư chí của người không tập trung nữa th́ chất dĩ thái trở về trạng thái cũ và sự hiện h́nh chấm dứt.

 

 

 

 

 

 

 


 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 839 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 7:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH 

  ( CHƯƠNG IV ) 


ĐỒNG CỐT VÀ SỰ TRUYỀN CẢM THỤ ĐỘNG


MỘT ĐẶC ĐIỂM VẬT CHẤT


Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất ra khỏi xác; thể xác y c̣n phải có một đặc điểm khác là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các phần tử dĩ thái và các phần khác của nó.

Đặc điểm nói trên thường có từ lúc mới sanh, nhưng nó cũng có thể được khai mở thêm ở những nơi được gọi là “Câu lạc bộ phát triển”.

Nó không chứng tỏ người có nó, tiến cao hơn mọi người khác. Thường th́ trường hợp trái lại xảy ra: khả năng lên đồng là dấu hiệu một linh hồn kém tiến hóa, mặc dù có vài ngoại lệ.

Lư do khả năng nầy không vượt qua phạm vi thể xác: khi thể xác có một vài đặc điểm cần thiết th́ người ta có thể ngồi đồng. Nó không đ̣i hỏi một tánh t́nh thanh cao hay một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần. Bản chất thanh cao của con người không được lưu ư.

Nhưng người ta nghĩ sai, khả năng ngồi đồng là một bằng chứng có sự phát triển tâm linh. Nhiều người c̣n hiểu rằng: tin ở các vong linh đời sống bên kia của tử, là dấu hiệu của sự phát triển cao quí, nếu chấp nhận những giáo lư vô vị ở các buổi nhập đồng, là chứng tỏ một sức mạnh tinh thần, c̣n say mê những hiện tượng này nọ là sự mộ đạo.



NHỮNG ĐIỆN TÍN PHI PHÀM



Xem sự lên đồng như là một tôn giáo, và kính trọng lời lẽ của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lư cao siêu, th́ không khác nào qú ở một trung tâm vô tuyến Marconi để nghe những điện tín chuyển đến từ một cơi xa xăm và tôn kính các điện tín ấy như là thông điệp của Trời.

Thái độ như thế không hợp lư. Trong hai trường hợp, lời lẽ vẫn phát xuất từ một người thường, có khác chăng là một bên được chuyển đến do máy móc, c̣n bên kia do xác đồng.

Việc người chết dùng xác đồng giống như việc ta dùng điện thoại: sự kiện không có tánh cách ǵ gọi là tâm linh. Chúng ta có thói quen gọi người vừa bỏ xác thân là “vong linh”.

Thói quen nầy gây nhiều sự hiểu lầm, khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết quá mức. Ngay bây giờ, chúng ta cũng là những linh hồn, và sau khi từ trần, chúng ta chỉ mất thể xác thôi, chứ chúng ta vẫn y như trước.

Lúc sanh tiền, anh Ất ăn nói dài ḍng, khi chết anh cũng thế. Anh có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo đi nữa th́ lời lẽ của anh cũng không có giá trị ǵ hơn lúc anh c̣n sống.

Chúng ta bao trùm cái chết và những điều ở bên kia cửa tử bằng một bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích chi cả. Khi một người đồng nói ra điều ǵ, ta nên đón nhận như lời một bạn quen, có thế thôi.



TRINH NỮ DÂNG HƯƠNG



Đồng cốt là một phương tiện liên lạc xưa nhất và dễ nhất giữa cơi trần và cơi vô h́nh. Lịch sử và các sự nghiên cứu huyền môn xác nhận đồng cốt đă có trên hai ngàn năm nay.

Người có huệ nhăn khi quan sát ở quá khứ, trong những đền thờ vĩ đại của châu Atlantide của Ai Cập hay Hi Lạp ngày xưa th́ các trinh nữ dâng hương, vũ nữ và đồng nữ hiện ra trong những xác thân trinh khiết trước những bàn thờ tôn nghiêm và các tín đồ yên lặng và tin tưởng, để chuyển lại lời lẽ quí báu của các đấng Thánh linh.

Nhưng hoàn cảnh hiện tại khác hẳn hoàn cảnh ngày xưa. Trước kia, các trinh nữ đó thuộc những gia đ́nh quí phái, được nuôi dưỡng trong các đền thờ thanh khiết, linh thiêng. Họ ăn những thức ăn chọn lọc và được ngừa những ảnh hưởng và tư tưởng xấu. Được chăm nom cẩn thận, vậy họ tránh được mọi tai hại cho họ, đồng thời nói lên được những giáo lư cao siêu do các bậc Chưởng Giáo nhập vào truyền dạy.

Việc rời bỏ xác thân để một Vị cao cả sử dụng không phải là một điều nguy hại. Sự thực th́ có những nhà huyền môn và các bậc điểm đạo làm như vậy khi họ biết rơ vị nào sẽ sử dụng xác thân của họ. Trong lúc họ rời khỏi xác thân, họ ư thức được những điều xảy ra. Họ c̣n có dịp đứng bên vị Chưởng Giáo để nghe các lời chỉ dạy.



NGUY HẠI CỦA ĐỒNG CỐT HIỆN NAY



Việc sử dụng đồng cốt hiện nay gây nhiều tai hại khiến các nhà huyền môn khuyến cáo nên xa lánh. Nguyên nhân các tai hại đó là điều kiện sinh sống bẩn thỉu, nhớp nhúa của đồng cốt. Họ không được tiến hóa đến mức có thể chọn những vị cao cả cho nhập vào xác ḿnh.

Khi họ rời thể xác, họ mê và không c̣n hoạt động được. Tâm thức của họ v́ không được luyện tập nên phất phơ như trong giấc mộng với những tư tưởng quen thuộc hằng ngày.

Trong lúc đó, một vong linh nhập vào xác trống và giảng dạy trước cử tọa kính cẩn. Đôi khi những vong linh được gọi là "kẻ d́u dắt", có mặt và cố gắng che chở đồng cốt. Tuy nhiên, các vong linh ấy cũng tầm thường như chúng ta chứ không phải toàn năng hay toàn tri để có thể bảo vệ cho có kết quả.

Nếu chúng ta biết cơi vô h́nh (nhất là các tầng thấp các đồng cốt thường tiếp xúc), có một số vong linh đàn ông, đàn bà bất hảo, chúng ta đừng ngạc nhiên khi một vong linh du đảng, thô bỉ, trụy lạc toan chiếm thể xác người đồng, mặc dầu có sự ngăn trở của vong linh d́u dắt. Kết quả thể xác người đồng bị hành hạ và trở nên ô uế.

Dù vong linh có thanh cao hơn, sự xâm chiếm ấy cũng không tốt, v́ trong số đó có ai không c̣n ích kỷ và dục vọng.


NHỮNG NƠI Ô UẾ


Chúng ta hăy đến dự một buổi lên đồng phải trả tiền vào cửa và nh́n xem cảnh vật chung quanh. Trong các người hiện diện, ít người học rộng và có t́nh thương, họ đến v́ tính ṭ ṃ hay để thoả măn dục vọng cá nhân.

Họ thường ăn thịt, uống rượu, lắm khi không được sạch sẽ, nên phát ra hôi hám ô uế. Người đồng không cử rượu thịt, nên từ điện cũng rất dơ bẩn. Vậy, các bậc Tiên Thánh không thể sử dụng được thể xác của y? Thể xác của y như một bộ quần áo dơ, làm sao một người sạch sẽ có thể mặc vào?

Do đó, những giáo lư do đồng cốt thốt ra không có giá trị, v́ các nhân vật quan trọng không đến nhập, dầu nơi đó có mặt thân nhân của họ. Kết quả là những vong linh tầm thường đến và rất hănh diện xưng vị này, đấng nọ để truyền dạy những điều vô vị.


NHỮNG ĐIỀU KIỆN LƯ TƯỞNG


Nếu các điều kiện trên được thay đổi, các người đến dự đều trong sạch, vị tha và có khuynh hướng tâm linh, người đồng cốt không ham mê thú vui vật chất, tinh lọc tư tưởng và giữ ǵn thân thể sạch sẽ th́ kết quả sẽ tốt đẹp hơn nhiều. "Văn Pḥng Julia" do cố W.T. Stead thành lập đă cố gắng nhiều trên phương diện này.

Các điều kiện c̣n bê bối như hiện nay, th́ đồng cốt sẽ mất hết phẩm giá và trở thành nô lệ các tập quán đê tiện, bị loạn óc hoặc điên cuồng. Nếu khoa thần linh muốn có một địa vị quan trọng trong giới tôn giáo và khoa học.

Nó phải nhận định khuyết điểm đó và huấn luyện đồng tử từ lúc nhỏ đừng để chúng bị lợi dụng do những người dốt nát, ích kỷ, chỉ biết chạy theo những hiện tượng có vẻ lạ đối với phần đông, nhưng không có một giá trị tâm linh nào. 

SỰ HIỆN H̀NH LÀM SUY YẾU THẦN KINH


Sự hiện h́nh không nên khuyến khích, với bất cứ lư do ǵ, v́ nó gây tai hại cho sức khoẻ và cả cho sinh mạng của đồng cốt. Lư do là khi chất dĩ thái được rút ra khỏi thể xác để hiện h́nh, th́ luồng sinh lực nuôi dưỡng thể xác bị giảm nhiều làm cho kiệt sức.

Các bộ phận trong cơ thể đều bị xáo trộn nhất là quả tim, bộ tiêu hóa và thần kinh hệ. Các bộ phận này bị căng thẳng và suy yếu đến đỗi đồng cốt phải dùng những chất kích thích. Do đó, một số người trở nên nghiện rượu.


SỰ Ô NHIỄM
 

Khi chất dĩ thái của thể xác được vong linh dùng để hiện h́nh, chất ấy sẽ thu hút một phần từ khí của vong linh đó và thu nhận ít nhiều các rung động của y. Nếu người ấy thuộc hạng hoang đàng xảo trá, chất dĩ thái bị ô nhiễm, và khi nó được hoàn lại cho đồng cốt, nó vẫn giữ ảnh hưởng nguy hại đó. V́ vậy, chúng ta cần tránh sự hiện h́nh dưới mọi h́nh thức.

Các người dự những buổi họp này cũng bị rút một ít chất dĩ thái của ḿnh để phụ với đồng cốt và v́ thế họ cũng bị ô nhiễm phần nào.


SỰ ÁM ẢNH
 

Nếu một buổi lên đồng được quan sát bằng thần nhăn, người ta sẽ thấy vong linh đến dự rất đông đảo. Một vài vong linh nhập vào đồng cốt, c̣n những vị khác th́ t́m cách ảnh hưởng cử tọa.

Lắm khi, một vong linh xé rách được màn lưới bảo vệ, đă nói ở chương trước, từ đó có thể lộng hành đối với nạn nhân bằng cách ám ảnh và gây ra đủ thứ đau buồn.

Khi màn bảo vệ đă bị rách, sự bảo vệ thiên nhiên không c̣n, th́ con người dễ bị ám ảnh bởi những vong linh xấu xa. Các vong linh này muốn trở lại cơi trần sống một đời sống vật chất để thoả măn những thèm khát của họ, nên đôi khi không c̣n chút lương tâm đối với nạn nhân.

V́ vậy, một người bị xé rách màn lưới là một người rất vô phước. Trong trường hợp màn lưới không rách, vong linh cũng có thể để ư đến một người nào và theo y về nhà để phá rầy đủ cách. Điều này sẽ nguy hại nhiều hơn, khi nhà có con nhỏ, v́ trẻ con dễ bị ám ảnh.

V́ thế, nhà huyền môn không phản đối việc sử dụng đồng cốt, nhưng cần nêu những tai hại của sự lên đồng trong những điều kiện thê thảm hiện nay. Các buổi họp riêng, ít nguy hiểm hơn, v́ cử tọa được chọn lọc, tuy nhiên, nguy tai vẫn c̣n. Lư tưởng là áp dụng các điều kiện của thời trinh nữ dâng hương.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 07 November 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2516
Msg 840 of 2534: Đă gửi: 27 September 2008 lúc 7:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH

(CHƯƠNG V )


TÂM THỨC SIÊU ĐẲNG


KHỐI ÓC BỊ GIỚI HẠN


Tính năng linh không phải siêu nhiên, nó chỉ đ̣i hỏi sự khai mở những đường liên lạc mới giữa khối óc và tâm thức siêu đẳng. Khối óc tự nó, nó không phát sinh tư tưởng, nó chỉ phỏng họa những làn rung động của trí tuệ.

V́ hoạt động trí tuệ phát xuất từ chơn ngă bên trong (chơn ngă này luôn luôn hiện hữu dù có khối óc hay không), chúng ta có thể quả quyết rằng mỗi tư tưởng, mỗi t́nh cảm của chúng ta (ngoại trừ khi chúng nó được tiếp nhận do sự truyền cảm) đều do tâm thức siêu đẳng của chúng ta chuyển đến.

Một việc đáng được lưu ư, mà chúng ta thường gọi là tâm thức, đó chỉ là một phần của tâm thức mà thôi. Khối óc của chúng ta là một cơ quan hoàn mỹ, nó đáp ứng khéo léo đối với hoạt động trí tuệ, nhưng nó bị hạn chế nên khả năng phỏng họa của nó kém hơn là chúng ta tưởng, nhất là đối với những rung động tế nhị của các tư tưởng và t́nh cảm cao siêu.

Khả năng đó thay đổi tùy người. Khối óc của kẻ quê mùa, có thể phát biểu tất cả tư tưởng của y, v́ các tư tưởng này đơn giản, chỉ liên hệ đến công ăn, việc làm, nhưng kiến thức phong phú của một người học rộng có thể phát biểu một ít xuyên qua loại óc hiện tại của con người. 


SỰ ĐIỀU HÀNH CỦA TÂM THỨC 


Về tâm thức phong phú của con người, nhà huyền môn có thần nhăn hiểu biết những ǵ? Ông biết tâm thức là một, nhưng khi nó biểu hiện xuyên qua một thể chất, cách biểu hiện của nó thay đổi tùy theo thể chất này.

Nếu chúng ta cho sợi dây điện chạy qua một ống thủy tinh đựng hơi thủy ngân, kế đó chạy qua robin Ruhmkorff và sau chót, chạy vào một xoắn ốc dây từ khí, sợi dây điện sẽ tạo ba hiện tượng khác nhau tùy thể chất nó xuyên qua. Hơi thủy ngân chiếu xanh, dây robin nóng, c̣n sợi dây xoắn phát ra từ khí.

Tâm thức con người cũng giống như thế. Khi nó tác động ở tầng cao của cơi vô h́nh, nó tạo ra tư tưởng; ở tầng thấp hơn, nó phát sinh t́nh cảm, dục vọng, c̣n ở vật chất, th́ nó tạo tâm thức tự động biểu hiện ở các thói quen.

Tâm thức tự động này khác hẳn tâm thức thông thường của ta trong lúc tỉnh thức (giác thức). Nó là tiềm thức và thỉnh thoảng mới hiện ra trong các tư tưởng hằng ngày. Bất th́nh ĺnh, chúng ta tránh cú đánh, đó là tác động của tiềm thức. Giác thức là phần của tâm thức phát biểu xuyên qua khối óc. C̣n phần tâm thức không phát biểu được, v́ quá cao là siêu thức.

Bởi thế, nhà huyền môn học phân tâm thức ra làm ba: tiềm thức (tâm thức tự động), giác thức (tâm thức thường trong lúc tỉnh thức) và siêu thức (tâm thức siêu đẳng).


TIỀM THỨC

(Tâm thức tự động)

Tâm thức tự động phát biểu xuyên qua bộ thần kinh giao cảm và các trung tâm phản ứng của hệ thống năo tủy. Chính nó kiểm soát các tế bào của xác thân, điều ḥa hoạt động của các bộ phận và lưu giữ trong trí ta những hành động mà chúng ta làm, nhưng không nghĩ đến. Đó là lănh vực của bản năng và của thói quen.

Hành động viết là một thí dụ. Khi chúng ta tập viết, chúng ta gặp nhiều khó khăn. Mỗi lúc, tâm thức ta phải tác động xuyên qua khối óc và ta phải suy nghĩ nhiều về mỗi chữ viết ra. Sau đó quen đi, ta không c̣n suy nghĩ hay cố gắng ǵ nữa, v́ công việc đă thuộc tâm thức tự động. Nhờ vậy, khối óc được rảnh rang để suy tư việc khác.

Khi chúng ta tập đi xe đạp, cũng thế. Lúc đầu tâm thức ta hoạt động nhiều để xe đừng chạy xuống hố hay đừng đâm vào cây. Nhưng khi chạy được rồi, chúng ta không c̣n suy nghĩ ǵ nữa: ta lên xe là tay lái, chân đạp và các động tác này không do trí óc kiểm soát mà thuộc về tiềm thức điều khiển.

Việc lái xe ba bánh cũng dạy ta nhiều việc. Cách lái xe này, khác cách đi xe đạp. Với xe này, ta không nghiêng ḿnh bên trái, bên phải mà chỉ có hướng tay cầm mà thôi. Cái khó lúc đầu là ở chỗ đó. Người quen đi xe đạp biết rơ là chỉ phải hướng tay cầm, nhưng khi muốn quẹo th́ tự nhiên y nghiêng ḿnh như lúc đi xe đạp, v́ vậy xe thường đâm vào hàng rào hay xuống hố.

Khi tâm thức tự động quen điều khiển một vài tự động nào, muốn sửa thói quen ấy ta phải mất một thời gian, mới có thể tạo một thói quen khác. Việc này không khó, chỉ ta chịu khó nhọc tập cho đến khi nào thói quen mới nhập vào lănh vực tiềm thức. Nhà huyền môn khai thác cách thức này để tạo cho ḿnh một tập quán tốt đẹp.


SIÊU THỨC 


Siêu thức gồm những tư tưởng và t́nh cảm mà khối óc ta không phát biểu được, v́ bị hạn chế và không thanh bai. Tư tưởng và t́nh cảm đó rất nhiều. Nhờ chúng mà đời sống tinh thần của chúng ta được phong phú. Không có chúng, chúng ta chỉ là sự kết hợp các tế bào và khối óc ta không c̣n suy tư được nữa.

Thỉnh thoảng, một t́nh cảm, một tư tưởng từ cơi siêu thức ấy chuyển xuống khối óc. Đó là một âm điệu thiêng liêng, thoạt đến tai nhạc sĩ, một ư thơ tuyệt diệu cảm hứng thi nhân, sự hào hùng phấn khởi chí nam nhi, một ư niệm mới soi sáng thiên tài, một sức can đảm bồng bột lôi cuốn quân lính ra trận.


SỰ HỒI NHỚ CÁC KINH NGHIỆM SIÊU H̀NH
 

Trong một giấc ngủ êm ái, siêu thức có thể lưu lại khối óc một vài kiến thức, nhưng việc này rất ít xảy ra, v́ khối óc ta dẫy đầy h́nh ảnh lộn xộn những việc xảy ra trong ngày.

Khối óc tự nó không có một sự khôn ngoan nào, chỉ là một cơ quan thụ cảm, ghi nhận một cách máy móc những rung động đă quen. Khi thiếu sự điều khiển thông minh, nó chỉ lặp lại h́nh ảnh mù mờ, thiếu thốn, nối tiếp nhau một cách vụng dại, không ư nghĩa.

Tuy nhiên, nếu chúng ta cố gắng tinh luyện, chúng ta có thể giữ trong óc ấn tượng rơ ràng và chính xác những việc xảy ra trong cơi vô h́nh khi chúng ta sang qua đó. Những ấn tượng này tạo những giấc mộng hợp lư, được kết lại một cách mạch lạc.


TIÊN TRI


Do một phương pháp mà giác thức chúng ta chưa giải thích được, chúng ta có thể thấy được những việc xảy ra trong tương lai khi ngủ và chuyển các điều nghe thấy ấy sang qua giác thức.

Khi chúng ta đứng trên một ngọn đồi nh́n hai chiếc xe lửa chạy ngược chiều trên một con đường, chúng ta có thể biết được chúng sẽ đụng nhau vào giờ phút nào, tuy hành khách trên xe không biết chi về tai nạn sắp xảy ra.

Trong cơi vô h́nh, chúng ta có thể ở một vị trí tương tự để quan sát các sự việc và biết trước được sự diễn tiến của chúng.


SỰ LIÊN LẠC VỚI SIÊU THỨC


Khi chúng ta thanh lọc thân thể, khối óc và thần kinh hệ đến mức chúng thông cảm được với siêu thức, một năng khiếu sẽ phát sinh: đó là nhăn thông. Năng khiếu tâm linh này là kết quả của các khả năng cá nhân. Đ

ó là quyền năng của con người mà ta không thể lầm lẫn với đồng bóng được. Một người ngồi đồng, chỉ chuyển tư tưởng của kẻ khác, c̣n người nhăn thông vận dụng khả năng riêng của ḿnh.

Có hai phương thức để khai mở nhăn thông. Một phương thức ở Ấn Độ là Hatha Yoga hay "Hợp nhất bằng trí lực". Với phương thức này, nhờ những động tác thích hợp, xác thân trở nên an tĩnh cho đến đỗi các giác quan trở nên suy nhược và bất động.

Phương thức này chỉ chú lực vào xác thân mà không nghĩ đến sự trau luyện tánh t́nh, nên chỉ khai mở được nhăn thông cổ sơ mà thôi.

Phương thức thứ hai là Raja Yoga (Hợp nhất đế vương). Phương pháp này tinh luyện trí tuệ, t́nh cảm và bản chất tâm linh.

Khi sự tinh luyện đến một mức nào, th́ nhờ sự tập trung hùng dũng, người ta có thể rút tâm thức ra khỏi khối óc để đưa vào cơi vô h́nh. Phương thức này mở nhăn thông siêu đẳng.














Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 127 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.8359 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO