Tác giả |
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 161 of 2534: Đă gửi: 26 May 2008 lúc 4:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỘ TÓC GIẢ
Nàng len lén nh́n hắn. Nhưng khuôn mặt như có thể tháo ra lắp vào thành rô bốt không có vẻ ǵ để ư đến cái đầu trọc lóc của nàng. Nàng không có tóc xấu xí, mang dáng dấp của kẻ sắp được thần chết rước đi hay có mái tóc bồng bềnh như thần vệ nữ, cũng như nhau với hắn cả thôi. Nàng nhét vào túi áo trắng của hắn một tờ tiền. Nhưng tờ tiền cũng không làm hắn thay đổi sắc mặt.
Nàng thức dậy trên chiếc giường lúc mặt trời đă đứng bóng. Nàng bị ghép giường với một bệnh nhân khác, một bà già đầu trọc lóc da xanh tái và môi thâm bệch như thần chết. Trong pḥng c̣n vài bệnh nhân nữa cũng với h́nh dạng tương tự. Nàng biết rằng ḿnh cũng sẽ giống hệt thế kia. Sau vài đợt hóa trị tóc nàng đă tự rụng từng búi. Nàng lê vào pḥng khám nhận thuốc và rời bệnh viện.
Nàng trở về nhà. Căn hộ nàng thuê trên một khu chung cư cao cấp đă phải trả lại, để thay thế cho căn nhà tồi tàn nằm sát bờ sông mùi ẩm thấp xộc lên, nhưng nàng không để ư. Việc đầu tiên là nàng nhảy xổ đến chiếc gương, mà chủ thuê trước vẫn để lại trên tường. Nàng chải đầu và mở to mắt nh́n chiếc lược. Những búi tóc to tướng mắc lại đấy như thể tóc trên đầu nàng cứ mủn ra như của xác ướp.
Chẳng mấy chốc nàng sẽ không c̣n sợi tóc nào nữa. Nàng xót xa nghĩ đến những bữa tiệc xa hoa trong nhà hàng đượm ánh đèn vàng, những đêm ră rượi bên suối rượu để rồi đắm ch́m trong cảm giác điên loạn cho đến sáng. Đôi mắt ngây dại của nàng chợt chạm vào một vật ǵ đó trong pḥng. Nàng giật thót ḿnh khi nhận ra có một bóng người đang quan sát ḿnh. Nàng quay phắt lại. Cái bóng biến mất. Nàng thở hắt. Chỉ là bộ tóc giả mà nàng mua chiều qua trong một cửa hàng nhỏ trên khu phố cổ.
Nàng t́nh cờ đi qua đó và nh́n thấy một hàng tóc giả. Những đứa bạn trước ở cùng nhà với nàng cũng hay xài tóc giả. Nhưng đó là những bộ tóc sợi nhân tạo với kiểu dáng thời trang. Lũ bạn cùng nghề với nàng thường dùng cho hợp với bộ quần áo đang mặc.
C̣n nàng nàng cần tóc. Bà lăo bán hàng ngồi im ĺm trong những giá tóc. Khuôn mặt bà ta cổ quái với vệt trầu đỏ sẫm trên làn da nhăn nheo bợt bạt.
- Cháu muốn xem một bộ tóc.
Nàng nh́n những bộ tóc dài thượt treo trên giá vẻ không ưng ư. Đó là những bộ tóc nối dành cho người đă có tóc rồi. C̣n nàng sẽ không có tóc. Nàng cần nguyên bộ. Bà ta không nói ǵ giương đôi mắt trân trân nh́n nàng, rồi trỏ ngón tay dài thượt một cách kỳ quặc vào bên trong.
Bà ta biến mất rồi xuất hiện với một mớ tóc dài xơa xượi trên cánh tay xương xẩu. Người bán hàng lấy chiếc lược sừng trong túi chải lại mái tóc. Những sợi tóc x̣a xuống mượt mà. Bà ta âu yếm như thể đang chải đầu cho đứa con gái.
Huyền cúi thấp người để bà cụ nhỏ bé giúp nàng chụp mớ tóc lên đầu. Những sợi tóc mềm mại, quệt qua quệt lại trên vai nàng mát rượi. Bà cụ lại biến mất sau cánh cửa. Và lần thứ hai bà trở ra, cầm chiếc gương h́nh bầu dục để nàng soi. Mặt kính trong vắt đến độ nàng có thể nh́n rơ từng sợi vương vít. Khuôn mặt hơi tái của nàng ch́m lỉm trong sóng tóc.
Nó đă mất cái vẻ khơi gợi đến trơ trẽn mà chính nàng cũng nhận ra thế. Một người đẹp trong gương, quyến rũ với đôi mắt buồn bă đang nh́n nàng chăm chăm. Và những lọn tóc khuôn lấy đôi g̣ má xanh xao.
- Cháu lấy bộ tóc này. Bao nhiêu tiền vậy cụ?
- Già bán lược không bán tóc. Tóc là để tặng.
Huyền sửng sốt nh́n chiếc lược sừng trong tay người bán hàng. Nó màu trắng và đơn giản như mọi chiếc lược khác. Bà cụ đă ra giá rất đắt. Nhưng Huyền mừng rỡ v́ nàng được tặng cả một bộ tóc mềm mại. Nó c̣n đẹp hơn mái tóc trước đây của nàng.
Huyền uống vội mấy viên thuốc và lên giường nằm. Nàng để nguyên bộ tóc. Nó vắt choàng lên người nàng như một chiếc chăn. Nàng hy vọng có nó nàng sẽ ấm áp hơn trong tiết giá này. Nhưng Huyền cảm thấy rét. Bộ tóc giả lẽ ra rất ấm như nàng nghĩ, song làm cả bờ vai và sống lưng nàng lạnh buốt.
Nàng không thể ngủ. Huyền mở choàng mắt. Nàng không nh́n thấy ai, nhưng lần này nàng kinh sợ v́ những bước chân gấp gáp. Nó lộn đi lộn lại và âm thanh đă dồn sát chiếc giường của nàng. Nàng cứng người trong bộ tóc và lớp chăn mỏng. Vài sợi tóc x̣a xuống má nàng lạnh toát.
Căn pḥng ch́m vào tĩnh mịch, chỉ c̣n tiếng gió hú ngoài sông. Chúng luồn qua rặng tre và xào vào nhau thành những tiếng rền rĩ. Huyền cảm thấy cái luồng hơi lạnh vô h́nh đang đứng trước mặt, im lặng quan sát nàng. Có tiếng thở dài và tiếng bước chân lướt nhẹ trên mặt sàn rời khỏi nàng. Nàng mở to mắt hăi hùng. Một bóng người vô ảnh đang đứng sát phía cửa sổ. Cơn khát rát bỏng lại cứa lên thân thể nàng.
Khi Huyền tỉnh dậy nàng đoán rằng đêm qua nàng đă bị ngất đi. Cổ họng nàng khô khốc. Mớ tóc đă rời khỏi đầu kéo theo từng búi tóc rụng. Nó xơa dài xuống mặt đất một cách thảm hại và bù rối như vừa bị kẻ nào đó giày xéo. Nàng xót xa lấy chiếc lược sừng chải lại. Những sợi tóc nằm ngay ngắn như cũ và mát rượi dưới tay nàng.
- Nhà này trước có bà cô chưa chồng chết trẻ.
cô Xu ngước cặp mắt lờ đờ nh́n nàng. Bộ mặt cô hồn của cô khiến Huyền rúm lại. Giọng cô Xu lúc nào cũng như thằng bé dậy th́ đang vỡ. Cô xoa cái cằm đầy râu mà có lẽ sáng nay bị Huyền gơ cửa từ sớm nên quên chưa cạo. Đôi môi thoa son vội đỏ choe đỏ choét.
- Nó đang đứng ở đây này.
Huyền bíu lấy bàn tay xương xẩu của cô Xu:
- Ở đâu?
- Đang đứng cạnh tao.
- Sao cô biết?
- Tao nh́n thấy.
- Trông như thế nào?
- Mặt nó phù lên đầy máu.
- Ôi, Huyền rên lên, bây giờ phải làm sao?
- Nó kêu lạnh cần quần áo. Nếu mày cho nó quần áo th́ nó sẽ đi khỏi đây.
- Trăm sự nhờ cô, cô mua giúp quần áo cho bà ấy.
Cô Xu liếc Huyền ngẫm nghĩ:
- Mấy bữa nay tao bận lắm đấy. Nhưng tao thương mày nên sẽ giúp. Cứ đưa đây năm trăm rồi tối tao sang làm lễ cho. Càng cúng nhiều quần áo nó càng biến nhanh.
Huyền cuống lên lấy nắm tiền cuối cùng dúi cho cô Xu. Cô Xu thu lại bộ đồ nghề gồm một cái bát, con dao đen bóng và vài miếng trầu tươi. Huyền tiễn cô Xu ra tận cửa. Từ lúc chưa chuyển nhà đến đây Huyền đă biết cô Xu. Danh tiếng của cô lan truyền khắp xóm băi. Bận trước nàng và các bạn cũng vài lần ghé nhà cô những lúc rỗi răi để xem tiền duyên vận mệnh.
Là một đồng cậu khó tính, cô Xu chỉ tiếp những người nào kiên nhẫn xếp hàng chờ cô trước hai ngày. Sáng nay nàng may mắn mời được cô đến tận nhà. Có lẽ cô Xu động ḷng trước bộ dạng thảm hại của nàng.
Chuyên viên pḥng X-quang có ánh mắt lạnh lùng ra lệnh cho nàng. Nàng đă làm việc này cả ngàn lần nhưng trước vẻ thản nhiên kỳ quặc của hắn nàng lúng túng. Hắn bực dọc quát lên:
- Cởi áo ra rồi treo ở cái móc kia không ai thèm nh́n.
Hắn không thèm nh́n hẳn nhiên rồi. Hắn cũng đă ra cái lệnh này đến ngàn lần. Vẻ mặt của hắn giống hệt những cỗ máy trong pḥng, xám xịt trơ ĺ vô cảm, hằng ngày tiếp nhận hàng trăm kẻ ép ḿnh vào máy với những khối u trong người.
Nàng làm theo lời hắn rồi rúm ró đi lại chiếc máy.
- Buộc tóc lên.
Nàng ngần ngừ rồi tháo bộ tóc giả treo lên giá. Nàng len lén nh́n hắn. Nhưng khuôn mặt như có thể tháo ra lắp vào thành rô bốt không có vẻ ǵ để ư đến cái đầu trọc lóc của nàng. Nàng không có tóc xấu xí, mang dáng dấp của kẻ sắp được thần chết rước đi, hay có mái tóc bồng bềnh như thần vệ nữ cũng như nhau với hắn cả thôi. Nàng nhét vào túi áo trắng của hắn một tờ tiền. Nhưng tờ tiền cũng không làm hắn thay đổi sắc mặt. Sáng nay bạn nàng đă đưa nó cho nàng.
- Tao quyên góp cả đám mới được ngần này. Thôi mày ráng mà chịu đựng. Đối với lũ ḿnh sống hay chết cũng như nhau cả thôi. Chỉ có điều đứa nào giỏi lừa thần chết th́ đứa ấy may mắn.
- Thẳng người lên dang hai tay ra.
Gă quát to rồi vội vàng chạy ra ngoài đóng cửa lại. Chiếc máy bắt đầu hoạt động. Nó áp sát lên cơ thể nàng lạnh như băng. Nàng thấy nó cũng có cảm xúc, nhưng là cảm giác thích thú của một cỗ máy giết người khi t́m được khối u ác tính trên vật chủ.
Bốn bức tường sơn màu xám trống trơn u ám. Nàng đưa mắt nh́n ra chiếc giá treo quần áo như mong t́m một vật quen thuộc. Bỗng nàng gào thét điên loạn. Cái bóng bất động trong ánh sáng nhợt nhạt của pḥng X-quang hiện h́nh rơ một người đàn bà, hốc mắt sâu hoắm buồn thảm, da xanh tái và đầu cũng trọc lóc.
Bà ta đang đứng cạnh giá để áo và vuốt ve mớ tóc giả của nàng. Gă kia chạy vội vào, cả những bệnh nhân khác đang chờ bên ngoài cũng vào theo. Nàng chỉ cái giá áo nói như mê sảng:
- Oan hồn, tôi sắp chết rồi tôi bị quỷ ám. Bà ta lúc nào cũng đeo đẳng tôi.
- Ra ngoài kia ra hết ngoài kia.
Kẻ canh giữ cỗ máy quát những bệnh nhân bâu nhâu ngoài cửa rồi đẩy nàng thô bạo.
- Cứ yên tâm rồi sẽ được chết. Ai đă phải vào đây th́ chẳng thoát được đâu.
Gă nhếch mép cười nụ cười hiếm hoi với hai chiếc răng nanh nhọn và ánh mắt độc ác. Nàng ngồi chờ trên dăy ghế dành cho bệnh nhân tâm trí hoảng loạn.
Hồn ma của người đàn bà đă có mặt ở bất kỳ nơi nào nàng đến. Bà ta muốn ǵ ở nàng? Nàng c̣n ǵ để lấy đi nữa ngoài một linh hồn lay lắt đang chống chọi hằng ngày với thần chết. Người ta đọc đến tên nàng. Nàng bước vào pḥng rồi rũ ḿnh trên ghế.
Ông bác sĩ giơ tấm phim lên ngang mặt không nói ǵ, nhưng nh́n nàng mỉm cười.
- Một sự thần kỳ cô gái ạ. Chưa có khối u nào như trường hợp của cô lại có thể tan hoàn toàn bằng những phương pháp y học hiện có.
Tai nàng ù đi. Giọng ông bác sĩ vẫn đều đều:
- Bây giờ cô chỉ cần phục hồi thôi, phục hồi rồi tóc của cô sẽ mọc trở lại.
Nàng về nhà vào lúc chiều muộn. Những cơn gió bấc cuối cùng của mùa đông tranh thủ tạt nốt những ǵ c̣n sót lại từ phía bên kia sông. Nàng co ro đi trên mặt cát. Túp nhà tiều tụy của nàng đă thấp thoáng, sẫm lại dưới ngọn tre. Dưới đám mây vần vũ đang sà thấp xuống, mái nhà như kẻ tội đồ chờ sự phán quyết.
Nàng dừng lại ngắm nh́n nó, cho đến tận lúc nó lẫn vào bóng tối nàng mới vào nhà. Tim nàng thắt lại. Cửa nhà nàng không khóa. Nàng đứng tựa vào cây cột trước hàng hiên nghẹt thở. Cánh cửa hút gió vẫn mở ra đập vào chan chát lên mép tường. Nàng nh́n vào trong nhà. Có ai đó đang ngồi trên giường của nàng.
Nàng bước như thôi miên qua bậc cửa. Người đàn bà thở dài nh́n nàng buồn thảm. Cái bóng trắng bệch của bà ta hiển hiện trước mặt nàng.
- Cho tôi xin lại tóc.. tôi cần tóc..tôi lang thang cô độc..lạnh lắm. Hăy trả lại tóc cho tôi..
Nàng chạy như điên như dại ra khỏi ngôi nhà. Mây đen vẫn vần vũ như sắp đổ ụp xuống đầu nàng. Gió từ trên ngọn tre thổi theo tà áo phần phật của nàng những tiếng rít ai oán:
- Tóc của tôi.. tóc của tôi. Trả lại tóc cho tôi..
Nàng đă đảo đi đảo lại khúc phố này tới mươi lần, mà không thể t́m thấy cửa hàng tóc với người bán hàng kỳ dị. Lần trước nàng đă t́m thấy nó ngay góc phố dưới chân cột điện, v́ thế nàng không thể lầm. Những người bán hàng trong các shop thời trang đông đúc ở khu phố tỏ ra cắm cảu khi nàng hỏi thăm.
- Thời buổi này muốn mua tóc th́ ra siêu thị. Mười năm nay không ai dại ǵ thuê nhà ở đây để mà bán tóc.
Nàng thất vọng mua một chiếc vé lên xe buưt. Nàng chưa biết đi đâu. Nàng không thể trở về căn nhà hăi hùng đó. Bộ tóc giả và chiếc lược sừng đă được cho vào một chiếc túi gọn ghẽ.
Nàng tiến lên đầu xe để quan sát xem chiếc xe đă đi tới phố nào. Bỗng nhiên một cái ǵ đó chạm vào cổ tay nàng nó rất ấm. Lâu lắm rồi nàng không cảm nhận được cái ǵ đó ấm và sự ấm áp khiến nàng rùng ḿnh. Nàng quay lại. Một người đàn ông đang nh́n nàng:
- Tôi nhường chỗ.
Hẳn là anh ta nghĩ nàng đang đi t́m chỗ.
- À không tôi cũng có chỗ.
Nàng trở về ghế của ḿnh, nơi nàng đă đặt cái túi để giữ chỗ lúc đứng lên. Nhưng toàn bộ ghế trên xe đă kín người ngồi và nàng không thể nhớ ghế nào là ghế của ḿnh. C̣n chiếc túi nó đă biến mất.
Người ngỏ ư muốn nhường chỗ cho nàng tỏ vẻ lo lắng:
- Cô bị mất cái ǵ à?
- Một chiếc túi.
- Có ǵ trong đó.
- Một bộ tóc giả.
- Không sao ḿnh sẽ cùng t́m.
Nàng thở hắt ra:
- Thôi tôi không cần đến nó nữa.
Chiếc xe phanh khựng lại. Những người trên xe bị dúi ra đằng sau và trong khoảnh khắc xô đẩy láo nháo, nàng thoáng thấy một người phụ nữ có mái tóc giống hệt mớ tóc giả của nàng, đi lướt bên ngoài cửa xe. Chỉ là một khoảnh khắc.
Khi nàng nhoài ra sát cửa kính chiếc xe đă quanh sang một con phố khác, bên ngoài bóng người đi bộ trên vỉa hè đă thưa thớt. Họ vội vă trở về nhà để trốn cơn lốc hiếm hoi đang ập đến cuối mùa đông.
Di Li
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 162 of 2534: Đă gửi: 28 May 2008 lúc 9:28am | Đă lưu IP
|
|
|
TIỄU NGẠ QUỶ BÊN CẦU NẠI HÀ
Ai cũng nói hễ chết không c̣n vương vấn. Bao nhiêu chuyện đời vẫn kể đấy thôi. Không mất không hết. Không tử không sinh..
Tôi là một ngạ quỷ. Tôi là một tiểu ngạ quỷ lắm chuyện ở dưới Âm ty hầu hạ dưới quyền Ty chủ cơi Luân hồi.
Chúng tôi được coi là loài ti tiện nhất thấp bé nhất trong cơi đất trời, chỉ sống trong địa ngục tăm tối đời đời kiếp kiếp. Công việc của tôi là đi tuần bên cầu qua (Sông Lú) một việc nhàn hạ bởi ngoài những bóng hồn lẻ quỷ đói đôi khi đi qua, th́ không có ǵ xảy ra sẽ chẳng có ǵ xảy ra.
Tôi thường đờ đẫn ngồi bên cầu Nại Hà, đờ đẫn nh́n những hồn phách cô đơn lẻ loi bay qua. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, ngày nối ngày, năm lại năm.
Một ngày Ty chủ cơi Luân hồi gọi tôi tới, nói tôi đă trung thành canh giữ, bởi tôi đă đi tuần cầu Nại Hà suốt ba trăm năm chưa hề xảy ra sai sót. Bởi vậy nên cho tôi làm sứ giả đi câu hồn, cho tôi cơ hội lên chốn nhân gian.
Cơi người thật sự rất tươi đẹp thứ ǵ cũng có, so với chốn địa ngục tối đen u ám này thật như một giấc mộng. Nhưng chỉ tiếc mỗi lần tôi đi lên cơi nhân gian đều là nửa đêm, mà đều là đi lấy hồn phách con người.
Thời gian lâu dần tôi biết loại người như tôi, à không, phải nói là loài quỷ như tôi, làm loài người sợ hăi đau khổ nhất, bởi hễ chúng tôi xuất hiện có nghĩa là một cuộc đời người kết thúc. Tôi chỉ có thể cười đau khổ bởi con người tin vào số mệnh, nhưng lại sợ hăi số mệnh rồi căm ghét lây sang cả chúng tôi.
Thời gian trôi thật nhanh một trăm năm lại đă trôi qua. Ty chủ cơi Luân hồi nói với tôi, ngươi đă có bốn trăm năm đạo hạnh rồi, chờ khi ngươi tu đủ năm trăm năm đạo hạnh, ngươi có thể lên cơi người để đầu thai, hoặc tiếp tục tu hành nơi địa ngục rồi đi làm một thần tiên.
Khi đó tôi rất vui mừng vui tới mức cười lên, có lẽ là lần đầu tiên tôi cười. Bạch Vô Thường đại ca lúc đó trêu tôi nói tôi cười c̣n xấu hơn quỷ. Tôi nghĩ: Tôi chính là quỷ đây mà Bạch Vô Thường cười c̣n xấu hơn tôi, loài người mà nh́n thấy anh ta cười, hẳn quá nửa sợ chết giấc.
Trong một trăm năm cuối cùng này, tôi tiếp tục cố gắng làm trọn mọi việc Ty chủ giao cho. Nhưng sao tôi thấy một trăm năm, sao dài hơn cả bốn trăm năm trước đây? Tôi rất hy vọng nó trôi nhanh để một ngày tôi sẽ được đầu thai...
Một ngày tôi đi bên cầu Nại Hà, trong bóng tối mơ hồ tiếng khóc thút thít rất mảnh. Tôi bước tới xem th́ ra là một quỷ nữ đang khóc phía đó. Tôi hỏi v́ sao cô đến đây, cô ta bảo cô ta vô ư đă làm tắt mất ngọn đèn lồng soi sáng đường luân hồi chuyển kiếp rồi.
Những lúc vui vẻ, tôi cũng thường hay giúp đỡ người khác (quỷ khác), lúc đó tôi đang vui vẻ nên tôi bảo, tôi có thể dẫn cô quay về phủ Luân Hồi. Quỷ nữ gạt nước mắt cười với tôi nói:
"Cảm ơn anh!"
Trong sát na đó ngực tôi như bị cái ǵ đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn.. Tôi chưa bao giờ thấy một hồn quỷ cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...
Quay về phủ Luân Hồi, Ty chủ tra sổ kư lục của quỷ nữ nói cô ta là vong chết oan, không được đầu thai chuyển kiếp, chỉ có thể vào giam trong Thành Chết Oan (Uổng Tử Thành) mà thôi.
Cô ta khóc than tôi phút chốc cũng thấy thương xót, hỏi Ty chủ liệu có cách ǵ cho cô ta đi đầu thai không? Ty chủ nổi trận lôi đ́nh mắng nhiếc tôi thậm tệ, mắng đến mức toàn thân tôi run lẩy bẩy, cô ta cũng sợ hăi không dám khóc nữa.
Tôi cúi đầu nuốt giận dẫn quỷ nữ đến thành Uổng Tử, trên đường đi tôi không nói một lời. Đến thành Uổng Tử tôi để cô ta đi vào, cô ta gật đầu đi vào trong. Tôi nh́n theo cô ta đi khuất lúc đó cô ngoái lại, lại nói một câu:
"Cảm ơn anh".
Bóng quỷ nữ tan ra trước cổng thành, chỉ c̣n lại tôi thẫn thờ đứng đấy. Ngày lại qua ngày tôi thất kinh phát hiện ra tôi vẫn nhớ đến cô ta. Nên đôi khi tôi chạy tới thành Uổng Tử lén nh́n cô.
Tôi phát hiện cô ta thường vội vă chạy ra Lầu Nhớ Quê (Vọng Hương Đài) từ rất sớm, rồi ở đó đứng nh́n ra suốt một ngày cuối cùng khóc lóc đi về. Tôi không hiểu v́ sao, mỗi lần nh́n thấy cô ta khóc tôi cũng rất muốn khóc...
Mùa xuân đă lặng lẽ tàn, những bông liễu tan tác đă biến thành đầy trời tuyết bay. Khi chim nhạn trở về chân trời những đám mây chiều tà sáng lên màu tuyệt diệu, xa như đôi mắt như nước chảy tiêu tan, gần như đă in vào sâu trong trái tim.
Vô t́nh có nỗi niềm cảm động mơ hồ dường như đang quấn quưt măi trong ḷng, chưa từng theo nhạn phương Nam bay về miền di cư. Tiết Thanh minh tảo mộ năm ấy tôi đă t́m thấy mộ của cô ta. Một doi hoàng thổ trước có cốc rượu, đĩa trái cây ba màu (tam sắc quả phẩm), hai người đang than khóc, một người lớn một đứa trẻ con.
Tôi thẫn thờ đứng nh́n hai người họ, một nỗi buồn và mất mát tôi chưa từng bao giờ cảm thấy đă đến quấn lấy tim tôi, tôi ở lại nơi đó rất lâu đến tận nửa đêm. Uống một chén rượu nhân gian, rượu mạnh đắng cay, ḷng tôi có dư vị không biết nên gọi là ǵ.
Một lần tôi vô t́nh hỏi Bạch Vô Thường đại ca, những người chết oan th́ làm thế nào đầu thai được? Anh ta nói cần có nhân quả. Tôi hỏi nhân quả là ǵ? Anh bảo nhân quả thực ra chính là sự trả giá, nếu có người gieo nhân ắt có người nhận quả, như có người tặng cơ may đầu thai th́ người chết oan có thể trở lại cơi người. Anh c̣n nói cơ hội đầu thai th́ có quỷ nào ngu lắm cũng không bao giờ nhường.
Ngày nối ngày trôi măi măi, Ty chủ cơi Luân hồi kêu tôi tới, bảo tôi biết năm trăm năm đă qua. Ngài hỏi tôi chọn ǵ. Tôi nói tôi rất muốn được đi đầu thai, Ty chủ hỏi tôi thích đầu thai đi xứ nào, tôi trả lời tôi mong được cô ấy đi đầu thai.
Ty chủ trợn mắt nh́n tôi, sứ giả câu hồn Bạch Vô Thường đại ca c̣n kinh hăi hơn, lưỡi anh rơi xuống đất. Ty chủ phán nếu tôi từ bỏ năm trăm năm đạo hạnh, tôi sẽ lại trở thành một tiểu ngạ quỷ đi tuần quanh sông Nại Hà.
Tôi đáp:
"Con xin vâng!"
Nói xong tôi lặng lẽ đi ra, lúc này ḷng tôi yên tĩnh dường như chưa có ǵ xảy ra...Ngày cô ấy ra đi tôi lén lút trông theo, cho đến lúc quỷ nữ uống bát canh Mănh Bà lăng quên tất cả, rồi bước lên Đài hoá kiếp (Chuyển Luân Đài).
Xa quá tôi không thể nh́n thấy cô ấy nữa, tôi không kiềm được bước từ chỗ nấp ra ngóng tới phương đó. Mănh Bà giật ḿnh ngạc nhiên nh́n tôi bà thở dài, rồi lại tiếp tục nấu món canh lăng quên...
Tôi lại biến thành tiểu ngạ quỷ, tôi vẫn giữ nhiệm vụ đi tuần bên sông Nại Hà, tôi hàng ngày vẫn đi đến chân cầu Nại Hà tôi đi ngóng. Tôi tin tưởng rồi một ngày nào đó, khi cái chết đến cô ấy sẽ quay trở lại qua đây...
Một vết nước mắt lăn qua giấc mơ. Ngày lại nối ngày lại một ngày qua. Tôi ở bên chân cầu ngóng đợi ngày lại ngày. Ngày trôi nhiều quá tôi không nhớ đă trôi bao ngày.
Ty chủ cơi Luân hồi kêu tôi tới nói tôi đă canh gác đủ năm trăm năm rồi, giờ tôi có thể tự quyết định con đường sau này. Ty chủ vừa dứt lời tôi đă bàng hoàng lại đă năm trăm năm rồi ư, suốt năm trăm năm nay tôi luôn đợi ở chân cầu cơi Chết nơi âm ty này, nhưng v́ sao tôi không thấy cô ấy quay về đây...
Ty chủ nh́n thấy tôi thần trí hoảng hốt mơ hồ chỉ thở dài. Trong cơn mê man tôi lại bước chân ra đến bên chân cầu Nại Hà. Ở cây cầu cơi Chết này tôi đă ngồi một ngh́n năm nay. Ở bên cây cầu này tôi đă chờ đợi suốt năm trăm năm nay. Năm trăm năm một cuộc bể dâu, ngay cả đá cũng lên xanh rêu. Nhưng tôi th́ không thấy cô ấy quay lại...
Sau này Bạch Vô Thường nói cho tôi hay rằng, mỗi hồn lên trần gian đầu thai, có trời mới biết cô ấy đă đầu thai thành ai, là nam hay là nữ. Phút chốc tôi thấy ḿnh rất ngu ngốc quá ngốc. Nhưng v́ sao lại có sự xếp đặt đó. Và trong khoảnh khắc đó mắt tôi duềnh lên những lệ...Trong sâu thẳm đêm tối một con quỷ khóc than.
Giờ đây tôi không biết ḿnh c̣n chờ đợi ǵ nữa, quá khứ đă trở thành quá khứ, y như vết nước mắt lăn trong giấc mơ đêm qua, sáng nay tỉnh dậy nào biết t́m nơi đâu. Những nỗi niềm trong mộng mơ màng như tiếng trống vỗ xa xôi, kinh hoảng như thế giới sụp đổ. Khi tỉnh mộng chợt chỉ c̣n sót lại những mảnh vỡ không thể nào ghép vừa nhau, như những chữ nghĩa viển vông khó ḷng nói được.
Nhưng những lời th́ thầm c̣n lấp ló đâu trong trí óc th́ như mảnh sáng chớp điện, xé toạc màn đêm vĩnh hằng trong tâm trí. Không biết mộng thấy ǵ, cũng không mong đuổi theo phù vân trong mơ. Tôi biết nếu không đau ḷng sẽ không phải rơi nước mắt.
Lướt phím tơ khẽ ngâm hát ǵ khúc bi ai, trong cơi hồng trần đă quá nhiều chuyện bi thương. Buồn tay giở bút mực khó viết nổi câu cười, những hoan lạc vui vầy thế gian nào ai biết? Và tôi như bông hoa dại trong gió sương tôi biết v́ ai mà nở. Lại như ngọn cỏ dại cô đơn giữa hoang vu tôi biết xanh v́ ai?
Tôi một lần nữa vứt bỏ cơ hội được đầu thai, tôi sợ phải gặp lại chốn vạn dặm bụi trần từng mê hoặc tôi... Tôi sợ phải nh́n thấy nụ cười duyên dáng làm tôi vĩnh viễn không thể nào quên...
Ty chủ thấy tôi th́ than, loại quỷ c̣n giằng giữ nghiệp chướng cơi trần như tôi có tu cũng chẳng thể thành thần tiên. Tôi lại ngồi bên chân cầu Nại Hà, tôi làm một tiểu ngạ quỷ, tôi chờ đợi một người có lẽ chưa từng bao giờ tồn tại.
Lại ngồi đầu cầu bên này tôi nh́n những hồn ma quỷ đi qua cầu, mặt chúng dường như đều vẽ nên một câu chuyện, trong những đôi mắt trống rỗng của chúng phảng phất kể lại một khoảnh khắc nào của dĩ văng.
Nh́n chúng nhớn nhác tôi thầm mừng vui, bởi tôi c̣n tri giác c̣n cảm nhận, tôi dần dần hiểu cơi nhân gian đă mang cho tất cả mọi người vô số dấu hỏi, mà câu trả lời biết t́m nơi đâu? Địa ngục này ư?
Tôi nghĩ không phải bởi trong tim tôi, cũng vẫn c̣n quá nhiều chất ngất những câu hỏi. Tôi một lần nữa lại quay về với cuộc tồn tại không vui sướng, không hy vọng không đau buồn, cuộc tồn tại của một hồn quỷ.
Buồn tay lướt dây đàn vốn định hát bâng quơ trường ca, ai ngờ tiếng đàn năo nề đỗ quyên rỉ máu người mong về cội. Thời thanh xuân nào biết đến sầu thương phổ chi lời thơ mang buồn..
Nào ai hay giữa bạt ngàn thanh âm bỗng hai tim gặp gỡ để một đời sầu nhớ. Dây đàn rung cùng tiếng trái tim, hận tay vụng khó đàn lên nỗi ḷng, để cho nửa khúc vụng lời cả điệu bi ai.
Ch́m nổi ngàn kiếp trong nỗi nhớ chỉ c̣n ngàn điều hụt hẫng. Ngoái lại ngày cũ người với việc thiếu ǵ thị phi phải trái. Hy vọng biết bao mọi nỗi nhớ về hội tụ, ai ngờ lại thành chiếc thuyền vô hướng không người chèo lái băng giữa hoang vu.
Thời gian cứ ngày nối ngày trôi qua, tôi ngày nối ngày đi lại bên cầu, tuy rằng tôi đă không c̣n ǵ để mong mỏi, nhưng mỗi lần đi qua tôi lại không kiềm ḷng được ngóng sang, nh́n xem trên cầu liệu có xuất hiện h́nh bóng tôi nhớ nhung.
Cứ mỗi lần như thế tôi đều tự mắng ḿnh thậm ngốc, tự mắng thầm ḿnh vài câu, nhưng chỉ cần đi tới đấy tôi lại làm cái việc ngu xuẩn ấy. Thậm chí tôi c̣n ngớ ngẩn đến mức đi ra thành Uổng Tử, nh́n xem liệu có vong nào đang khóc trên Vọng hương đài chăng.
Trong những ngày sau này tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận v́ sao lúc cô ấy ra đi tôi không bước lên nói với cô ấy một câu, hối hận v́ sao khi cô ấy ra đi tôi không trốn đi để khỏi phải nh́n cô ấy lần cuối, hối hận v́ sao khi cô ấy ra đi...Thế gian hạnh phúc bởi c̣n kư ức, c̣n có thể ghi nhớ sắc màu thế giới. Thế gian bi ai bởi c̣n kư ức, c̣n có thể ghi nhớ bóng tối của thế giới.
Ma thuật của thời gian đă chồng màu sắc lên đen và trắng, xé toạc chúng ra phủ bụi lên... c̣n lại đầy trời bay những mảnh giấy vụn, cho tôi đuổi theo với cho tôi ghép lại... Để quên. Để không thể quên. Để quên mà không thể. Tất cả.
Trên những đoá hoa tươi nở trong mưa mùa xuân, giữa những cánh hoa rụng bay tan tác trong gió thu, hăy để những ǵ tươi đẹp sau cùng ngân lên khúc ca t́nh yêu lưu luyến không rời dưới tia nắng.
Hỡi những cánh hoa không chịu ĺa xa sao giống trái tim tôi nát tan vụn vỡ. Hỡi thiên nhiên người làm những cơn gió xuân dịu dàng gọi thức linh hồn hoa, sao người nỡ để những cơn mưa thu bịt bùng giết chết đời hoa, v́ sao trên thế gian này có khởi đầu tức là có kết thúc...
Ly biệt vẫn luôn vội vă thế vẫy tay nhé, vầng mây bên trời xa vẫn cũ. Người qua vội vă chỉ giây lát ngoái lại người mới chợt hiểu. Mà lúc đó đă là cuối cuộc vui nhạc tàn người tan, vẫy tay chào nhau nh́n nhau như sắp ĺa xa nhau.
Có tiếng người đi trong gió thu những nếp áo vấn quanh mềm mại, những tiếng dịu êm bên tai như sợi diều gió, diều càng bay càng vời xa. Sợi dây đă đứt từ lâu và cánh diều giờ biết lưu lạc phương nào.
Tôi không ngờ rằng tất cả đă kết thúc tôi c̣n giữ chặt sợi dây, tôi chờ cánh diều quay lại, quay lại. Biệt ly vội vàng quá vẫy tay chào nhau, c̣n ghi nhớ em, c̣n nhớ đến tóc dài em c̣n đôi khi t́m h́nh bóng em...
Khi mùa thu quay trở lại tôi không biết phải tất cả đă như bông hoa bị mưa dập nát bị gió cuốn đi, tan tác mai một mất đi không dấu vết. Khó ḷng gặp nhau sao dễ ĺa nhau, mà hoa như tuyết dễ tàn.. Rất lâu về sau rất lâu.. rất lâu...
Hôm đó tôi gặp được Địa Tạng Vương Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật tối cao của chốn địa ngục, cũng là người hiền hoà thiện lương nhất.
Huệ nhăn của Địa Tạng Vương Bồ Tát thoáng chốc nh́n thấu nỗi do dự mê hoảng đau đớn tích tụ ngh́n năm trong ḷng tôi. Bồ Tát kinh hăi bởi một hồn quỷ như tôi sao lại có tâm sự. Bồ Tát thở dài:
"Chúng sinh nơi bể khổ quay đầu lại là bờ".
Nhưng tôi đă không hiểu lời của Ngài. Tôi mang tất cả những nỗi ḷng dồn nén của tôi kể cho Bồ Tát nghe. Bồ Tát hỏi tôi:
"Cái ǵ là Duyên?"
Tôi không trả lời nổi.
Bồ Tát lại hỏi tôi:
"Cái ǵ là T́nh?"
Tôi hoàn toàn không rơ.
Cuối cùng Bồ Tát hỏi tôi:
"Ngươi muốn ǵ?".
Không gh́m giữ nổi bản thân tôi khóc ṛng đau đớn, van xin Bồ Tát cho tôi được một lần làm người, xin Bồ Tát hăy cho tôi và cô ấy kết một đoạn trần duyên. Bồ Tát đồng ư, đồng ư cho tôi đổi ngh́n năm tu đạo hạnh lấy một cơ duyên được cùng cô ấy làm người trong một kiếp luân hồi.
Cuối cùng Bồ Tát nói:
"Vạn sự tuỳ Duyên đừng Chấp nữa!".
Hôm đó tôi cuối cùng đă được chuyển thế làm người rồi. Nhà tôi là danh gia vọng tộc trong vùng, tôi vừa sinh ra đă là Thiếu gia. Thời gian trôi tôi lớn lên tôi phải ḷng cô gái nhà hàng xóm.
Nhà cô ấy là nô bộc cho nhà tôi, từ nhỏ cô ấy đă hầu hạ trong nhà tôi, ngày nhỏ chúng tôi thường cùng chơi đùa với nhau, nhưng lớn lên chúng tôi dần lạnh nhạt với nhau. Nhưng tôi nhận ra tôi càng ngày càng thích cô ấy. Và tôi nghĩ cô ấy hẳn cũng phải thích tôi. Năm cô mười tám tuổi cha mẹ không ngăn cản được ư tôi, đành sang nhà cô ấy cầu thân gia đ́nh cô tất nhiên nhận lời ngay.
Hôm đó tôi chạm mặt cô ấy ở cửa, tôi vui vẻ định nói với cô vài câu, ai ngờ được tôi chỉ thấy trong mắt cô tràn ngập căm hờn. Trái tim tôi phút chốc ngưng đọng lại, tôi nôn nao quay về mơ hồ dự cảm một điều ǵ đó sẽ xảy ra.
Quả nhiên ngày tôi đón dâu về, cô ấy đă bỏ trốn cùng một người con trai trong làng. Cha tôi nổi trận lôi đ́nh, sai đám gia đinh đông đúc trong nhà đuổi theo, tôi hoang mang cũng chạy theo đám người. Không mấy lâu chúng tôi bắt được đôi trai gái, tôi kinh ngạc mê hoảng khiếp sợ, không biết nên nói ǵ chỉ biết đứng đực ra nh́n cô.
Cô ấy cũng nh́n tôi con ngươi trong đôi mắt trong như một vực xoáy đầy hận thù nuốt chửng tôi. Trong lúc bối rối hoang mang trái tim tôi co thắt lại:
"Cô ấy hận thù tôi!"
Trước mắt tôi tối sầm...Chờ lúc tôi tỉnh lại, gia đinh nói cho tôi biết cô ấy đă cùng chàng trai kia chạy trốn, cuối cùng cả hai nhảy xuống vực sâu tự sát...
Tôi vừa nghe thấy tin đó cả thế giới dường như không c̣n tồn tại nữa, thời gian không gian như hoá thành hư không... Người yêu dấu ngày xưa nay chỉ c̣n lại nét mặt xám tối. Viên thuỷ tinh quá khứ đă vụn thành cát lỏng trong tay tôi, bị những ngọn gió thời gian và không gian thổi bay tung, bay mất dần tan vào trong gió.
Gió ơi gió về đâu? Sao không mang tôi đi theo, nhưng gió đă lấy trái tim tôi đi xa, làm ơn đừng vứt bỏ tôi ở lại một ḿnh, gào thét ở tận cùng thế giới thét gào vô tận. Đêm đen sẽ đến sự sống sẽ tiêu tàn, v́ sao tương tư nhau mà không thể quay lưng nhau, v́ sao tương tư nhau mà không thể oà lên nhau? Chờ đến lúc tôi tỉnh dậy một lần nữa, tôi phát hiện ḿnh đă ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đang đứng bên cạnh nh́n tôi.
Chờ khi tôi định thần Bạch Vô Thường nói cho tôi biết, sau khi ngất đi không lâu hồn tôi đă ĺa khỏi xác...Anh ta c̣n nói cho tôi biết, người con gái v́ t́nh mà tự vẫn kia, chính là hồn quỷ nữ năm nào tôi đau khổ chờ đợi, giờ đă phải đi vào thành Uổng Tử rồi!
Đầu óc tôi mụ mị tất cả mọi kư ức đều dội tới, tôi không biết phải làm ǵ... Bạch Vô Thường dắt tay tôi đến trước Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát mỉm cười im lặng. Tôi không nén được hỏi ngài:
"V́ sao cô ấy hận thù tôi?".
Bồ Tát nói đấy là nhân quả.
Tôi hỏi nhân quả là ǵ.
Bồ Tát nói:
"Hữu duyên chính là nhân quả. Ngươi đă từng cho cô ấy một kiếp luân hồi, cô ấy cả đời hầu hạ ngươi đó chính là nhân quả. Ngươi cho cô ấy một kiếp luân hồi, là bởi v́ cô ấy đă bị chết oan v́ ngươi. Cô ấy v́ ngươi mà chết, cho nên cô ấy đ̣i ngươi đền cô ấy một kiếp luân hồi.
Con người thường bảo là có Tiền sinh Hậu thế (kiếp trước thế nào th́ kiếp sau nhận báo ứng thế), nhưng thực ra làm ǵ có trước và sau, chỉ có kiếp này ở đây thôi! Có đến có đi nhưng trước sau không có sinh không có tử".
Tôi cảm thấy tất cả là một sai lầm lớn, vào một thời điểm đặc biệt, gặp một người đặc biệt, xảy ra một điều ǵ đặc biệt. Dường như có thể thấy sẵn một kết quả, nhưng thế sự đâu phải thế. Tôi đă sai lầm. Tôi đă bỏ lỡ mất một ngàn năm của tôi. Tôi đă bỏ lỡ mất hai kiếp đầu thai đáng lẽ được hạnh phúc làm người của tôi.
Trong khoảnh khắc đó tôi ngộ được hai chữ luân hồi, con người c̣n phải luân hồi, là bởi con người có vô vàn sai lầm, vô vàn ân hận, vô vàn mất mát, nên phải đi tới kiếp sau để đền bù.
Nhưng nếu cứ luân hồi măi măi, con người làm sao nhớ được kiếp trước đă làm ǵ, trong một cơi nhân gian hẹp ḥi, để chỉ đường cho kiếp sau đi hoá giải? Luân hồi là lời kinh của Phật, để chúng sinh mê muội hiểu rằng ngoái đầu là bờ, nhưng những người c̣n Chấp th́ sao hiểu ư nghĩa lời Phật, ngoảnh lại những việc ḿnh đă làm họ lại hối tiếc.
C̣n tôi chí ít tôi đă không hối tiếc. Giờ đây tôi đă hiểu lời Phật nhắc tôi, nhưng tôi vẫn không đáp lời Phật, tôi cũng không muốn đi ngẫm ngợi lời Bồ Tát. Bởi tôi đă nếm trải được hạnh phúc nếm trải được đau thương, đă từng hạnh phúc đă từng đau thương. Đă có được một giấc mộng một ngh́n năm, đă có nợ kiếp trước duyên kiếp này, đă có tất cả tôi đă măn nguyện rồi.
Tôi, cuối cùng đă vứt bỏ mọi cơ hội tiếp tục luân hồi hay tu đạo hạnh, tôi t́nh nguyện vĩnh viễn quẩn quanh ở cái kiếp tiểu ngạ quỷ mà tôi đă ảo mộng suốt ngh́n năm, vĩnh viễn làm một tiểu ngạ quỷ bên chân cầu Nại Hà. Bởi tôi tin tưởng lại sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại cô ấy một cô gái vĩnh viễn không đổi thay...
Người có tâm tất ngẫm ngợi nhiều chuyện, cũng sẽ quên nhiều chuyện. Tôi không biết một con quỷ dưới địa ngục th́ có tâm hay không. Ngày ngày tháng tháng trôi, tôi thấy tôi ngày lại ngày càng trở nên lănh đạm, rất nhiều những chuyện trong quá khứ đều trở nên mờ nhạt, tôi đă dần dà lăng quên đi những xúc động, những thương xót, những lúc đau đớn, quên rồi dường như quên tất cả rồi...
Trí óc đă quên rất nhiều, cần có thứ ǵ đó mới mẻ lấp đầy, cho nên tôi bắt đầu chăm chú nghiền ngẫm những lời nói của Bồ Tát năm ấy, dường như tôi hiểu ra đôi chân lư.
Cơi phù sinh đều là khổ ải, vạn vật chỉ có h́nh tướng mà chẳng có gốc căn (vạn tượng bản vô). Đó là lời Bồ Tát tôi tin rằng Bồ Tát đúng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu, v́ sao đă có Cơi Người mười dặm hồng trần, th́ tại sao nó lại chỉ là Hư Không?
Chả lẽ cơi người chỉ là một tṛ chơi mà Thần Phật dùng để giày ṿ con người thôi ư? Làm cho con người không chịu đựng nổi biển khổ nữa đành quay đầu về Cơi Phật? Thần Phật nham hiểm như thế th́ đáng cho xuống địa ngục. Nhưng tôi dứt khoát không tin rằng Thần Phật đang đùa giỡn với người đời, bởi Phật luôn là đấng từ bi nhất. Và tất cả tất cả những điều này nên giải thích thế nào?
Tôi vùi đầu vào kinh kệ một ḷng niệm giáo lư nhà Phật, tôi muốn biết tất cả v́ sao lại xảy ra? Tôi c̣n nhớ được đôi chút chuyện ngày xưa trên trần gian, giờ hồi tưởng đến tôi không đành ngoái lại. Nếu tôi có thể hiểu được nhân quả của chuyện cũ, tôi tin rằng, những đau khổ trên thế gian này sẽ dần tiêu tan đi.
Tôi đă trải qua ngàn năm mơ hồ và đợi chờ, tôi muốn giúp đỡ những linh hồn đang c̣n mê man như tôi, những người đang c̣n đau khổ như tôi, như thể giúp chính tôi được giải thoát.
Mải mê t́m kiếm đông qua đă bao năm, không biết không hay, tôi lại đă vùi đầu vào kinh kệ ba trăm năm. Ty chủ đă gọi tôi qua khen tôi đắc Đại Đạo, cho tôi làm phán quan bên ngài tôi tạ ơn và từ chối.
Bạch Vô Thường đại ca lại kinh ngạc tới mức để rơi lưỡi xuống đất, nói tôi sao đă xem nhẹ được danh vọng, thật đă "tứ đại giai không" thoát được những lệ thuộc thể phách hư ảo cơi nhân gian, như không h́nh người, không bản ngă, không súc sanh, không dài lâu. có thể viên măn đắc đạo như thần tiên (bạch nhật phi thăng).
Tôi chẳng nói ǵ trong ḷng tôi mắng thầm: Tôi cũng chẳng phải sư, Không cái ǵ mà Không, coi thường danh lợi ǵ đâu, chẳng qua là trong ḷng tôi đang rối bời mà thôi. Nhưng cũng không rơ từ bao giờ những người quanh tôi, à không nên gọi là quỷ quanh tôi, bắt đầu kính trọng tôi, Bồ Tát cũng thường gọi tôi đi nghe ngài giảng kinh thuyết pháp.
Thực ra tôi chỉ hiểu rơ một điều, cho dù hiểu rồi tôi vẫn thấy không phải tất cả những lẽ Phật đều đúng, bởi tôi tin cơi mang mang đất trời tự nó đă có chân lư, chân lư là ǵ? Tôi cảm thấy đó chính là đừng để chúng sinh phải khổ đau nữa.
Bồ Tát nói phải cắt đứt mọi dục vọng, nhưng tôi lại thấy đó đâu phải là Lẽ Phải, một cuộc sống đă tắt mọi dục vọng th́ c̣n ǵ để sống? Nhưng tôi không dám nói ra mồm, tôi chỉ mơ hồ trong sâu thẳm rồi cật lực t́m đáp án giữa những trang kinh.
Đọc hàng ngh́n vạn trang sách Kinh, đọc Phật gia, đọc Đạo gia, tôi chỉ thấu đáo nửa chừng, rồi cảm thấy tuy những lời đó có lư, nhưng đều đâu phải thứ tôi cần t́m.
Nhất là "Nam Hoa Kinh" của Trang Tử, tôi hoàn toàn bị lư lẽ "Bướm bay múa Hồ điệp phi vũ" của ông ta làm quay cuồng đầu óc, bị đánh lạc hướng ngập tràn trang giấy không rơ nên nói sao. Càng làm tôi mơ hồ hơn là mỗi lần Bồ Tát hỏi tôi Thiền cơ. Tôi hoặc tuỳ tiện đáp lời hoặc trầm ngâm không nói.
Bồ Tát th́ phảng phất nụ cười tôi không thể hiểu ư ngài ra sao, hoang hoải rồi trọn ngày. Rồi lại thế hai trăm năm tôi kinh ngạc v́ tính nhẫn nại của chính ḿnh, sao tôi vẫn có thể cứ đọc măi sách kinh cho dù tâm tôi không ở trang sách mà vẫn đọc nổi.
Tôi vốn chỉ là một tiểu ngạ quỷ ti tiện, vốn làm ǵ đủ tư cách học, cũng chẳng biết học về làm cái ǵ, nhưng Bồ Tát nói tu luyện pháp lực chính là gốc rễ cho việc trừ ma giữ ǵn đạo.
Tôi không hiểu nếu Phật pháp đă là vô biên, th́ v́ sao c̣n tồn tại tà ma ngoại đạo. Nhưng Bồ Tát nói có những kẻ bản tính ngoan cố độc ác, không thể giáo hoá. Tôi ngoan ngoăn nghe lời ngài.
Có một ngày tôi đang vật vờ tại địa phủ, bước chân lỡ đăng đưa tôi đến nơi Mănh Bà đang nấu canh Lăng Quên. Mănh Bà ngủ gật. Tôi bước tới gọi bà dậy, Mănh Bà hốt hoảng thức giấc hoảng loạn ngó trước nh́n sau hồi lâu mới thở phào nhẹ nhơm. Tôi lấy làm lạ sao bà lo âu thế, bà nói nếu có quỷ nào không uống bát canh của bà đă đi đầu thai, th́ bà mang tội lớn. Tôi hỏi bà v́ sao hồn quỷ phải uống canh Lăng quên rồi mới được đi đầu thai?
Bà trả lời, để kư ức của hồn đó không bao giờ được nối tiếp. Để mỗi kiếp nó đều có muôn vàn những nuối tiếc, cứ thế đến ngày nó mệt mỏi chán ghét những đau đớn dằn vặt, nó từ bỏ không luân hồi nữa, nó sẽ một ḷng theo đại đạo.
Trời mờ sáng khóm núi phủ một dải mây u ám, tôi dật dờ giữa đám mây mù. Trong tim tôi tràn ngập cảm giác không thể nói ra b́nh yên và hỗn loạn, kiên quyết mà lưỡng lự. Có lẽ đây là lần tôi ra đi vĩnh viễn, cảm giác trào lên đâu đó trong tim, để tôi thấy nỗi hoang mang và cô độc tột cùng.
Ra đi thật dễ dàng cũng chả cần nói chia tay, cũng chả cần vẫy tay, nhưng rời khỏi nơi đă gắn gốc rễ, thành cụm bèo phiêu dạt trong gió lạnh lẽo trở thành khoảnh khắc không ai quên được. Chim di cư c̣n biết chốn bay về, lá rụng từ cây c̣n biết về cội, giây lát ấy, tôi rốt cuộc hiểu ra cảm giác của những người bạt xứ chết nơi đất khách, cuộc đời đă trôi chảy hết, vạn sự đă dĩ văng, nắm xương c̣n ṃn mỏi hóng về quê cũ.
Tôi không biết tôi sẽ sống bao lâu, có lẽ một trăm năm, có thể một ngàn năm, có thể mười ngàn năm. Một vạn năm rất dài, dài tới mức tôi không biết dài bao lâu, nhưng khi kết thúc, cũng không biết vạn năm đó kết thúc ở một ngày nào, rồi liệu có người nào mang nắm xương tàn của tôi về lại chốn mà hôm nay tôi ra đi.
Nắng xuyên qua mây mù, rọi vạn dặm nhân gian rỡ ràng. Tôi đứng trong ánh nắng cảm giác được nỗi nhẹ nhơm chưa từng nếm trải, từng sợi nắng từng sợi ấm áp hắt vào buồng tim tôi, ánh sáng quyến rũ như xuyên suốt thân thể tôi đang trong veo như một đám mây.
Một hồn quỷ th́ làm sao nh́n thấy được nắng trời, hạnh phúc làm sao khi tôi được Bồ Tát truyền giáo Pháp môn tu Tiên, tôi lănh ngộ được ân sủng từ thiên nhiên. Tôi vô t́nh nhớ tới Bồ Tát, trong tim tôi ngài là bậc tối cao nhân từ, tôi kính trọng ngài tôi yêu ngài.
Nhưng cùng lúc đó tôi nhớ đến nỗi tuyệt vọng của Tần phán quan, gương mặt gỗ đá tuyệt vọng trong oán hận, những mảnh hồn sót lại nhầy nhụa và tấm lụa áo bay phấp phới, và lúc đó gương mặt Bồ Tát lạnh lùng như băng, đôi con ngươi sâu thẳm... Tôi chưa biết từ bao giờ bắt đầu có một sợi tơ ai oán với Bồ Tát, cũng không rơ tôi đă thương xót Tần phán quan từ bao giờ.
Không quên nổi nụ cười nhân ái như cha của Bồ Tát. Không quên nổi ánh mắt vô thần khi sấm sét giáng tới của Tần phán quan. Không quên nổi khúc hát ai oán của linh hồn đơn côi nơi ngục tăm tối. Đầu óc hỗn loạn, như có vô số người đang căi cọ trong tôi, kéo tôi về nhiều hướng...Tôi không biết tôi nên ngả về đâu về ai.
Tôi ngơ ngẩn ngồi bên đường nh́n người qua lại, mỗi người đều một vẻ mặt vội vă, vội vàng tới vội vàng đi. Tôi hâm mộ họ, họ biết họ nên đi đâu, c̣n tôi th́ chả biết đi đâu, cũng không ai nói cho tôi biết tôi nên đi về đâu.
Ngày của người trôi sao nhanh, chớp mắt mặt trời đă tắt đi tà huy của ḿnh, đêm lại tối rồi bốn phía người đi thưa dần, đôi khi có người ngang qua, mặt có nỗi thèm mau về ngôi nhà nhỏ. Nhà, tốt biết bao.
Trong nhà có thể vợ đă nấu xong cơm, chờ người chồng về sum vầy, con cái chờ bố mang quà về...Mà những người vội vă qua đường này, có lẽ cũng đang nhớ bữa cơm thịnh soạn chờ ở nhà và người vợ dịu dàng, đám con ngoan, mở cửa về con cái sẽ sà vào ḷng, vợ mỉm cười êm ái...
Nhà, tôi không có nhà, cũng không biết ở đâu có nhà của tôi. Đột nhiên tôi nghĩ đến ngôi nhà một ngh́n năm trước tôi đă đầu thai, ở đó có cha tôi có mẹ có cô ấy... tôi như người chết đuối vớ được cọc, người đi đường ban đêm nh́n thấy một tia sáng đèn, tôi không kiềm được nỗi cảm động:
"Tôi phải về nhà!"
Vào giây cuối cùng khi đêm tới, trong ngọn khói leo lét đèn nến thắp lên đây đó, tôi hoá thành làn gió, bay về phương xa, nơi xa là nhà tôi cách xa đă ngh́n năm. Loáng thoáng nhớ vị trí nhà ngh́n năm trước ở bên núi. Tôi khôi phục vóc tướng bước lên đường núi.
Đường núi quanh co bên núi có thị trấn nhỏ, gọi là "Đào Nguyên Hương" tôi từng sống ở đây. Đi trên đường núi bốn bề xanh ngắt điệp trùng, chim hót vượn kêu hoa dại phả vào tôi hương vị nhân gian.
Được sống trong đời sống này thật hạnh phúc, tôi nghĩ. Tôi lục lọi t́m kư ức những ǵ c̣n nhớ về cuộc sống trần gian ngày xưa, xuân hoa thu nguyệt hạ đỗ quyên, tuyết hoa trắng trời mùa đông.
Hoa đào trước cổng vườn cũ, không rơ hôm nay tôi về có nở hoa rực đầy cành như ngày xưa? Cây liễu bên hồ trước làng liệu c̣n bầy trẻ con đùa nghịch? Những quán rượu dọc đường bay hương thơm liệu c̣n nhộn nhịp như ngày cũ? Những ngôi nhà cổ c̣n che người qua cơn mưa gió? Những bạn bầy thanh mai trúc mă thơ trẻ xưa liệu c̣n đầu thai về đất cũ này?
Nghĩ rồi chân bước chậm dần, quê càng gần ḷng càng âu lo, cách biệt ngàn năm thời gian, cố hương vẫn là cố hương của tôi chứ? Thị trấn ngày càng gần tim tôi càng thắc thỏm, cảm xúc hỗn tạp không biết nên bắt đầu từ đâu. Trong tâm trạng hoang mang tôi một lần nữa đặt chân lên quê cũ.
Ấn tượng về khu vườn xưa đă mất, tất cả xa lạ những con phố xa lạ, những cái cây xa lạ những người măi măi là người lạ. Tất cả vừa như vẫn có ǵ quen thuộc, màu viên đá lát đường như xưa, dáng cây vẫn yểu điệu như xưa, gương mặt người dường như ta từng gặp, chỉ có điều không biết nói từ đâu.
Quanh quẩn măi tôi mới t́m được nền nhà ngh́n năm trước, nơi tôi đă từng sống với cha mẹ và người thân. Nhà đă không c̣n nền đất đă biến thành rừng hoa đào, giữa rừng chỉ c̣n sót lại một ḥn thạch sư lở lói cho tôi biết đây vốn là nhà tôi, đây là nhà tôi ngôi nhà một ngh́n năm trước, ngôi nhà đă không c̣n tồn tại.
Chậm răi đi giữa rừng đào, cẩn trọng soi xét kỹ dưới chân ḿnh đất nào là nền nhà cũ, đâu là pḥng, tôi không ngờ tôi có trí nhớ tốt thế, nhớ được bao nhiêu chuyện xưa cũ. Nhè nhẹ ngẩng đầu nh́n về xa xăm rừng đào, đôi mắt ầng ậng mây mù mơ hồ như rừng không c̣n nữa, tôi đang đứng giữa nhà tôi, lầu gác ṿm mái hiển hiện trong mắt.
Trong nhà giữa như vọng đến tiếng mẹ gọi tôi về ăn cơm, thư pḥng dường như có tiếng cha mắng tôi trốn học. Tiểu viện tường đông đầu tường như mọc chút rêu xanh, đó là âm thanh ǵ? Cô ấy ở bên tường gọi tôi đ̣i tôi gấp cho cô ấy một cành hoa đào, bắt một con chim sẻ nhỏ...
Một cánh hoa rụng xuống, ngả lên những vân sóng tầng tầng giữa ḍng, từng ṿng sóng từng vầng loang ra, trong làn ánh sáng xao động, pḥng ốc, đ́nh viện ch́m đi không dấu vết, cha mẹ, gia nhân, những lứa bạn bè quen thân hoá thành hư ảo theo sóng nước.
Chỉ có hoa đào như cũ những cánh hoa bay trong gió như mơ như ảo, như khói như mưa, như khóc như than, trái tim tôi như những làn khói bay xa, phiêu dạt theo cánh hoa phiêu bạt...
Đêm tối tôi mang bầu rượu, ngồi bên ḥn đá thạch sư nói chuyện cả đêm với đá. Tôi kể với đá quá khứ của tôi, nói với nó chuyện kiếp trước của tôi, nói với đá về cha mẹ tôi xưa, nói với đá về sự vô tri của tôi, nói với đá sự đau đớn của tôi, nói với đá sự buồn bă của tôi, nói với đá những khao khát của tôi, nói với đá sự hoảng loạn của tôi...
Cuối cùng tôi đắp ba doi đất vàng bên ḥn thạch sư, làm thành mộ của cha mẹ tôi và người tôi yêu, dùng chỗ rượu c̣n sót lại, tế cúng linh hồn đă xa xưa của họ. Rượu thấm vào đất thoáng đă khô ngay, tôi hy vọng nhờ rượu này có thể rửa đi những đau thương và bất hạnh mà tôi đă mang đến cho họ ngh́n năm trước, có thể rửa đi những tiếng than v́ sự bất hiếu của tôi, những oán hận v́ tôi ngỗ ngược.
Nhưng tôi không biết rượu có khả năng đó thật không, đi giải những vết thương suốt ngàn năm, đi bù đắp những tiếc nuối đă ngàn năm. Tôi quyết định ở lại sống nơi quê nhà, sau khi từ bỏ địa phủ, tôi hồn phách ră rời, không c̣n muốn bước chân ra đi nữa, tôi muốn có một cái nhà, đây đă là nhà tôi ở kiếp trước cũng sẽ là nhà tôi ở kiếp này.
Tôi vốn định ở lâu trong rừng hoa đào, nhưng rừng đào ven thị trấn. Vốn cô độc trong địa phủ, tôi không thể sống chung với hàng xóm, hàng xóm luôn thấy tôi cổ quái tránh né tôi, tôi rất buồn tôi muốn sống như họ, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. V́ thế tôi đành dọn ra ŕa núi ngoài thị trấn, tự lợp cho ḿnh một gian cỏ.
Mặt trời mọc rồi lặn năm nối năm ngày trôi qua rất nhanh, tôi cũng tập tành dần thói quen người trần gian tôi tự cày lấy vài mẫu đất cằn cỗi, trồng vài loại rau nuôi vài con gà con vịt. Cuộc sống tuy thanh đạm nhưng so với cuộc sống u ám nơi âm ty, tôi cảm thấy rất măn nguyện.
Đôi khi tôi cũng xuống núi vào thị trấn, bán vài thức rau ḿnh trồng, vài con gà vịt ḿnh nuôi, rồi vào quán quen nhắm vài cốc rượu nhỏ. Dần dà tôi quên ḿnh là quỷ, quên ḿnh đang đi t́m đại đạo, tôi dường như cảm thấy ḿnh là người là một kẻ phàm phu nhàn rỗi.
Một ngày núi yên tĩnh xuất hiện một người khách không mời mà tới. Hôm đó tôi vừa cho gà vịt ăn xong, chuẩn bị nghỉ ngơi uống ấm trà. Một đạo sĩ bước tới trước mặt tôi định hoá duyên. Tôi bèn đưa chút cơm rau và trà nước cho ông.
Khi đưa tay ra nhận mặt đạo sĩ biến sắc, trở nên rất khủng khiếp mắt cḥng chọc nh́n thẳng vào mặt tôi. Rồi không nói không rằng quay người chạy mất. Tôi cảm thấy thật kỳ quặc, nhưng không ngờ một tai hoạ từ trên trời giáng xuống...
Sáng hôm sau tôi c̣n chưa cơm nước ǵ, th́ thấy đạo sĩ kia dẫn một đoàn người lên núi, có cả đạo sĩ, hoà thượng, rất nhiều dân làng. Nhóm người vừa nh́n thấy tôi đă cuống lên, rồi toả ra bao vây tôi hoà thượng niệm kinh liên tục, niệm những ǵ mà tôi nghe không hiểu.
Những đạo sĩ th́ ném bùa chú tới tấp, cầm chuông rung lắc loạn xạ, thoáng chốc sân nhà tôi náo loạn gà vịt bay chó chạy ruộng rau bị dẫm nát tan hoang. Tôi chịu không nổi phản đối, các người đang làm cái ǵ đấy! Ai ngờ đạo sĩ kia hắt một thứ đen ś vào người tôi, một mùi tanh nồng nặc lên mũi th́ ra là một chậu máu!
Tôi nổi cơn thịnh nộ tiến tới vung tay lên một quyền, đạo sĩ bị đánh bay văng ra vài trượng, thổ ra máu tươi nằm úp trên đất phều phào. Tôi sững lại giờ mới nhớ ra công phu tôi tu luyện suốt ngàn năm đâu phải sức người thường chịu nổi, may quá tôi chỉ ra một đ̣n nhẹ nếu không đạo sĩ kia chết ngắc. Đám người hỗn loạn kêu oai oái một đạo sĩ mắng chửi:
"Đồ súc sinh quỷ đói lại c̣n không sợ máu chó đen!"
Tôi mắng lại:
"Ngươi mới nói nhảm ta không phải ác quỷ, ta là... ta là..."
Tôi sững sờ. Tôi là quỷ tôi chính là quỷ đây.
Đạo sĩ quát:
"Ngạ quỷ nhà ngươi v́ sao không ở địa ngục, chạy lên trần gian hại người. Quyết không tha cho ngươi"
Tôi giận dữ tôi nào hại người. Tôi hét lên:
"Tôi chưa hề hại người"
Đạo sĩ hét lớn:
"Ác quỷ không hại người lên trốn trần gian làm ǵ! Xảo trá"
Tôi giận đùng đùng tôi chỉ muốn về sống ở quê hương tôi, chỉ muốn có một mái nhà. Chẳng lẽ như thế là sai lầm ư? Ai ngăn cấm quỷ về dương gian! Ai! Tôi không hại ai tôi chưa bao giờ hại ai. Tôi chỉ sống trên mảnh đất của tôi thôi.
Tim tôi ngày càng kích động, lời mắng mỏ của đạo sĩ làm tôi không kiềm chế nổi nữa, tiếng niệm kinh, tiếng chuông, những tiền giấy bay tới tấp đầy trời, những gậy gộc gạch đá đập lên người làm tôi bức bối.
Một luồng sức mạnh tiềm ẩn trong thân tôi bạo phát, tôi ngửa đầu lên trời gào thét, một luồng âm khí từ ngực tôi vụt thoát, tức khắc biến thành một quầng vần vụ xanh lè và hoá thành cơn lốc dữ dội, thổi bay đất đá mái nhà bị san phẳng, ruộng vườn tơ tướp cây cối bật nhào rễ... Mấy hoà thượng đạo sĩ bị thổi bay, những người c̣n lại sợ hăi kinh khủng cuống cuồng bỏ chạy xuống núi.
Hôm sau tôi vào thị trấn định mua vài thứ cất lại nóc nhà. Ai ngờ vừa vào trấn những người gặp tôi mặt thảy đều xanh lè hoảng hốt bỏ chạy. Người người tán loạn sợ hăi, cả những lính gác cổng thành đều không rơ nấp vào đâu trốn. Tôi cũng không hiểu xảy ra điều ǵ, cho đến khi tôi tới quán ḿ quen thuộc của ông Vương định ăn chút lót dạ tôi mới hiểu ra.
Ông Vương nh́n thấy tôi đi vào sợ run lên cầm cập, vội vàng bảo:
"Đừng đến nữa đừng có đến nữa..."
Tôi nghi hoặc nh́n ông ta nói vấp váp:
"Anh là quỷ thật ư?"
Óc tôi oà ra một tiếng tôi hiểu rồi, tôi hiểu hết, người, không bao giờ đón nhận quỷ, cũng sẽ không bao giờ cho phép quỷ chia sẻ cơi sống cùng họ. Tôi không biết trong ḷng tôi là cảm xúc ǵ nữa, là bi thương là bi phẫn là buồn bă, tôi ngơ ngẩn quay người đi ra khỏi quán nhỏ nh́n phố không người hàng quán xô lệch.
Tôi muốn gào tôi muốn gọi tôi muốn khóc... Tôi, nơi quán rượu trống hoác cầm hồ rượu, vứt xuống một đồng xu tôi đi khỏi thị trấn không ngoái đầu. Giữa rừng đào tôi uống một hơi cạn nửa hồ rượu, c̣n lại nửa b́nh rưới lên đất. Tôi vốn định năm nay mùa hoa đào nở, tôi sẽ xây những nấm mồ thật cho họ, nhưng xây rồi nào để làm chi, mà tôi cũng chẳng c̣n thể nào ở lại nơi này.
Tôi vốn tưởng đây là quê nhà nhưng không phải, ngh́n năm trước là, ngh́n năm sau không! Băi bể ruộng dâu thiên địa vô t́nh, ai ngờ nhân gian lạnh lùng thế, những người bạn ta từng quen thân, lại nghĩ ta không phải đồng loại mà vứt bỏ ta, những người qua đường từng đi bên cạnh giờ trốn tránh ta, như ta là hồng thuỷ ta là thuốc độc...
Lần này tôi không có nước mắt, nhưng trong tim tôi đau như là nhỏ nước mắt, đau tới mức tôi không thể thở...
Lang tang...chiếc hồ rượu vỡ tan dưới chân như mảnh vườn tan nát của đời tôi, giấc mơ tan nát của tôi. Ngọn cả lả bóng tà dương lả ngoài bóng tà dương, nước lạnh mây vàng nếu có ruột cũng đau đớn đứt ruột nữa là tôi không có ruột.
Những ngày trên cơi thế tôi như con trùng bám trên lá khô trôi dật dờ, vật vờ măi không hết ngày, những cơn sóng triều của nhân gian lôi tôi đi, tôi muốn phản kháng nhưng hết sức cũng không kháng cự nổi. Tôi không biết bờ bên kia của tôi là phía nào, tôi chỉ biết nh́n xa vời triều lên triều xuống, kệ ḍng trôi dạt.
Tôi là quỷ là thứ con người ghê sợ nhất, cho dù tôi dùng nỗi niềm nào đi khao khát những dịu dàng êm ái, nhưng cũng không bao giờ có được một trái tim ấm áp bởi v́ tôi là quỷ.
Dần dà tôi quy thuận số mệnh của ḿnh, ban ngày tôi nấp trong góc tối, nh́n ra những tấp nập nhiều màu của người sống, ban đêm tôi lẩn vào ḍng người, thử đi nếm những niềm vui cơi hồng trần. Tôi tưởng tôi đă rèn một chiếc mai, cơng nó lên sống cẩu thả tạm bợ qua ngày, giữa xă hội của con người.
B́nh minh, những tia nắng sớm uể oải chiếu vào từ cửa sổ, trời đă sáng rồi...
Tim tôi bỗng trở nên lo âu luống cuống, tôi không thích b́nh minh và nắng trời. Sự mát mẻ của b́nh minh và tia nắng ấm làm da tôi có cảm giác hỗn loạn, một hơi ấm từ ngoài thấm vào làn da c̣n lạnh lẽo, làm tôi cảm giác ngứa ngáy và tê tái bứt rứt khó tả. Trên da như có ngh́n con côn trùng đang ḅ, muốn bắt chúng không được. Tâm trạng càng lúc càng cồn cào...
Lại qua một đêm ngập trong rượu. Với người đời một ngày vừa mới bắt đầu, với tôi một cuộc vui sống vừa kết thúc. Tôi không ngăn được tôi căm ghét cả thế giới này, mọi sức mạnh thần linh trên đời.
Tôi thích đêm đen v́ tôi là ngạ quỷ, giữa tiếng câm lặng yên tịch trái tim tôi từ tốn lại, màn đen kịt của đêm che phủ lên tất cả những ǵ tôi không muốn để người đời thấy. Tôi thả lỏng người trong bóng đêm, tôi lúc này mới thực sự là tôi. Tôi không cần để ư xung quanh, không cần canh cánh bên ḷng mọi sự, cho dù bên tôi ẩn chứa những ác mộng của đêm đen tôi cũng không bận ḷng. Bởi tôi với ác mộng là một đều thuộc về bóng tối...
Trong màn đêm vô tận t́nh cảm của tôi chảy lan theo nước triều lên xuống, tất cả đă là vật ngoài ta, đă không c̣n liên quan ǵ đến tôi... Quan trọng nhất là trong màn trời tối đen tôi được phục sinh.
Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi lúc nào cũng bên tôi. Đó sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất. Hiện thực th́ vô cùng u ám tôi không c̣n cơ hội nào cất tiếng nói với con người kể chuyện tâm sự.
Đôi khi tôi phát hiện một cơ hội nhỏ nhoi, nhưng cũng chỉ là một chấm sáng vụt tắt. Lâu dần tôi bắt đầu buồn phiền bắt đầu oán trách. Cuối cùng tôi cũng chẳng được thần linh nào đoái hoài, có thể ngay cả thần phật cũng đă vứt bỏ tôi rồi bắt tôi phải sống trong đêm tăm tối.
Những lúc lên đèn người như một đàn ong huyên náo trong tổ ong, tôi thèm được hưởng sự huyên náo thoải mái ấy, nhưng tôi dường như không sống trong cơi người, tuy tôi nh́n được họ nhưng tôi măi măi không thể tới gần.
Xuân đi xuân lại thu về thu qua. Những mầm non từng vươn nở trong gió xuân, những chiếc lá đă mọc lên giữa đêm hè, những khúc biệt ly lưu luyến bay múa giữa gió thu, những bùn hoá dưới tan tác tuyết đông, rồi như phép lạ xuất hiện ở đầu cành, lại một màu xanh tươm óng toàn thân cây. Cỏ cây như đều hớn hở sinh sôi, có sinh có tử có đến có đi, kẻ tới hôm nay tiếp kẻ vừa ĺa ngày qua.
Nh́n những sinh linh mạnh mẽ ấy, tim tôi như dây đàn bị ai lướt một khúc nhạc nặng ḷng và cuống quưt. Cây cỏ cũng có thể vậy tôi tuy là một hồn quỷ, nhưng tôi đă sống qua hai ngh́n năm rồi, tôi cũng đă từng tu luyện đại đạo rồi.
Giữa bao la chúng sinh tôi cũng điềm nhiên có một số mệnh như ai. Tôi đă bỏ địa ngục rồi không thể quay về đấy nữa và tôi cũng không muốn quay về, tôi đă tới cơi mười dặm hồng trần này rồi, th́ tôi sẽ sống như một "người" trong nhân gian, tôi không muốn làm một "quỷ" chỉ có quyền sống dưới địa ngục.
Tôi phiêu dạt tứ xứ lưu biệt lăng đăng, tôi lại t́m một nơi mới cho tôi trồng lên số mệnh ḿnh. Tôi muốn t́m một người bầu bạn bên ḿnh suốt đời. Quên đă bao mùa nhạn bay về phương Bắc, quên đă bao mùa én con rời tổ. Bạc những vết bụi hoàng thổ con đường cũ dưới chân tôi, bạc những ngọn khói liễu heo hắt bên ḿnh. Giữa đất trời chỉ có mỗi một tôi đi...
Nhớ chớm thu năm ấy... Ngoài quan tái cảnh vật không c̣n giống như Giang Nam, Trung Nguyên, trời cao mây nhạt, mênh mang chân trời, có khúc ca vọng tới: "Trời xanh xanh cỏ mênh mang, gió thổi cỏ ngả xuống hiện lưng cừu đàn."
Tôi đi lang thang trong thảo nguyên nh́n núi Hạc Lan uy nghi xa xa, những mạch núi gân guốc dưới nắng mặt trời. Trên thảo nguyên không có đường đi, chỉ có những người du mục đôi khi ngang qua đuổi một đám ḅ cừu.
Ḷng tôi nhẹ nhơm có lẽ bởi phong cảnh rộng răi ngoài biên ải đă giúp tôi thở rộng lồng ngực, hít vào ngọn gió xua mây mù trong tim tôi. Tôi rất muốn chào hỏi người chăn cừu tṛ chuyện với họ, nhưng tôi lại sợ người ta phát hiện ra tôi là ai tôi do dự măi. Tôi chỉ nh́n theo họ lùa những đàn súc vật đi xa dần...
Có một ngày tôi ngồi trên một g̣ cỏ nhỏ, yên lặng ngắm đám mây màu uyển chuyển cuối trời. Màu mây biến đổi diệu kỳ, lúc là ngọn núi lúc thành cái mũ, lúc là con ngựa một chú dê... Dê? Tôi đột nhiên phát hiện không biết từ lúc nào một đàn dê đă chạy tới bên tôi, dê rất đáng yêu chỉ cúi đầu yên lặng gặm cỏ... Tôi ôm một chú dê vào ḷng vuốt ve lông dê, lúc đó, một chú chó chăn dê chạy đến chỗ tôi, dừng lại trước mặt tôi nh́n tôi, tôi nh́n nó.
Một lúc sau con chó chăn dê lười biếng nằm xuống chân tôi, tôi đưa tay xoa đầu nó mũi nó ngửi hít áo quần tôi, thè lưỡi liếm tay tôi. Một bóng người chạy tới là một con người, tôi bắt đầu tự dưng lo lắng không biết nên bỏ đi hay nên...
Người đó đă chạy đến trước mặt tôi, con chó dưới chân tôi đứng dậy, nhiệt t́nh chạy tới bên chân chủ vẫy đuôi rối rít. Người đó chăm chú nh́n tôi, tôi cũng nh́n người đó, là một cô bé chừng mười lăm mười sáu tuổi. Tôi luống cuống đứng dậy tôi sợ họ nghĩ ḿnh là kẻ trộm, sợ họ ghét ḿnh sợ nói chuyện với họ. Tôi ngốc nghếch cười với cô bé nhưng v́ quá lo âu, tôi cứ ôm khư khư con dê trong ḷng không thả ra.
Cô gái quỳ xuống đỡ lấy con dê trong tay tôi ôm nó vào ḷng. Rồi bảo tôi anh có đói không? Tôi không ngờ cô gái nói với tôi câu đó tôi há miệng trợn mắt không trả lời được. Cô gái ấy đi xuống sườn đồi nh́n tôi đờ đẫn không phản ứng quay lại nói thêm:
"Đi với em đi!"
Rồi cô ấy cười rạng rỡ...Tôi chưa bao giờ nh́n thấy một nụ cười đẹp như thế...Không, tôi đă từng nh́n thấy tôi đă từng gặp...Tôi quay lại một ngh́n năm trước bên chân cầu Nại Hà, một nụ cười không có ǵ xinh đẹp hơn...Trái tim tôi buốt nhói một ư nghĩ "lẽ nào là cô ấy?" Tôi không biết nên làm ǵ nên nói ǵ chỉ thấy chân ḿnh đă bước theo cô ấy.
Dưới sườn núi là một lều Mông Cổ tôi đứng ngoài lều lưỡng lự. Cô ấy mở rèm cửa lại cười với tôi rồi vẫy tay cho tôi. Trong lều Mông Cổ trên bếp lửa đang đun nồi thịt dê, một người đàn ông cao to kêu tôi ngồi xuống. Cô cười vui đưa cho tôi bát sữa ngựa. Tôi chẳng biết nói ǵ vụng về lúng túng, thôi th́ họ đưa ǵ tôi ăn nấy, nghe họ nói chuyện tôi biết tên cô gái là Hốt Lan, người đàn ông cao lớn là cha cô.
Tôi chăm chú ăn thịt dê, uống sữa ngựa, bố cô nh́n tôi ăn bèn cười ha hả, c̣n cô nh́n tôi tủm tỉm tôi cũng cười theo ngô nghê. Ăn hết tôi quẹt mồm, lúc này Hốt Lan mới mủm mỉm và nghiêm túc nói:
"Anh ăn thức ăn nhà tôi anh trở thành nô lệ cho nhà tôi, đây là luật lệ của thảo nguyên!".
Tôi lại đờ đẫn cả người mồm há hốc, nhưng thấy cô ấy nói rất nghiêm túc tôi chỉ c̣n biết vâng. Lúc này cô cười lên một tràng ḍn giả lanh lảnh như chuông bạc, bố cô cũng cười phá lên sảng khoái, chỉ có tôi ngồi đó mồm vẫn tiếp tục há hốc.
Bố cô hỏi tôi:
"Anh là người ở đâu?"
Tôi ngơ ngẩn lắc đầu ông ta lại hỏi:
"Anh mấy tuổi?"
Tôi không dám nói tôi hai ngàn tuổi, v́ thế tôi thờ thẫn lắc đầu. Bố cô nh́n tôi ḍ xét:
"Thằng này bị dở hơi chăng!".
Cô cứ cười tủm tỉm măi rồi bảo bố:
"Người này thú vị ghê bố giữ nó lại nhé!"
Bố cô đánh giá tôi không nói ǵ. Tôi nh́n cô tôi nh́n qua đôi con ngươi nâu xanh trong vắt, tôi dường như thấy cả quá khứ xa thăm thẳm, những biệt ly cũ những nhớ nhung xưa những sầu đau xưa, tất cả tất cả xưa xa… Tôi không kiềm được nước mắt chảy ṛng ṛng xuống má, tôi dập đầu lên nền đất van xin:
"Xin hăy giữ tôi ở lại đây cho dù bắt tôi làm nô lệ cho ông, xin ông hăy cho tôi ở lại!"
Tôi thành tâm khẩn cầu như năm đó tôi khóc ṛng đau đớn van xin Bồ Tát. Hai cha con người Mông Cổ kinh ngạc v́ phản ứng của tôi, nhưng thấy tôi thành tâm và đầy nước mắt trên mặt, cả những lời nói khẩn cầu không thể giả tạo họ tỏ vẻ thương hại.
Cuối cùng cha cô giữ tôi lại.Trong tim tôi có niềm vui không lời, tôi lén nh́n cô gái muốn biết cô nghĩ ǵ, mắt cô vẫn trong sáng nhưng dường như trong sâu thẳm tâm hồn có chút nghi ngại.
Tôi không dám nh́n cô lần nữa, những ngọn triều trong hồn tôi đă phản chiếu lại một đôi mắt trong kư ức nh́n tôi căm hận ai oán, tôi sợ hăi đôi mắt ấy tôi sợ hăi ánh nh́n ấy. Tôi sợ hăi số mệnh…Tôi tự nhủ: Cho dù cô coi tôi là ǵ, đời này kiếp này tôi nguyện làm nô lệ cho cô một đời một kiếp, cho dù tôi là nô bộc, nhưng chỉ cần được ở bên nhau được nh́n thấy nhau cũng đủ…
Từ đó tôi ở lại ngày ngày tôi ở bên cô, cưỡi ngựa chăn dê…Ngày nối ngày qua tôi ngày ngày cầu xin, cầu cho cô măi măi vui tươi, cầu cho cô măi măi không bao giờ ghét bỏ tôi, măi măi để cho tôi theo cô, măi măi làm nô bộc của cô… Tuy cô ấy chưa bao giờ coi tôi là nô lệ, nhưng tôi là một ngạ quỷ, một ngạ quỷ chỉ có thể làm nô bộc…
Tôi đă từng nghe người nói những cây cỏ đá núi cũng có linh hồn, nếu nó cứ một ḷng một dạ cầu nguyện làm người, rồi sau sẽ được biến thành người thật. Tôi tuy đă có h́nh người nhưng tôi vẫn ngày đêm mơ được làm người, không rơ bao nhiêu đêm mộng say, tôi mơ thấy tôi biến thành người thật sự.
Cứ thế qua vài năm cô đă lớn, mỗi ngày nh́n thấy cô tôi như mê mẩn tâm thần, nhưng tôi cố gắng kiềm nén t́nh yêu dành cho cô ấy khao khát với cô ấy. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ những ảo mộng đau đớn khắc cốt ghi tâm của kiếp trước, đôi mắt oan khuất của một người con gái t́nh nguyện chết đi.
"Chỉ sợ t́nh thắm thiết, tan vỡ mộng mỹ nhân" tôi hiểu rơ lẽ đời này. Tôi t́nh nguyện làm một cái cây cho cô ngồi bóng mắt, tôi t́nh nguyện làm lưng ngựa cho cô tuỳ ư vung roi cưỡi, tôi t́nh nguyện làm đốc dao cho cô pḥng thân, tôi t́nh nguyện làm ṿ đựng trà sữa cho cô uống.
Tôi không muốn hé nỗi ḷng với cô ấy, không muốn hoang tưởng được ôm cô vào giấc ngủ, bên nhau cười xem hoa nở hoa rụng… Tôi đă không c̣n tin đời ḿnh có hạnh phúc, không muốn biết tôi và cô liệu có duyên, nếu những giấc mơ tươi đẹp đó có thể v́ tôi mà tan vỡ tôi nguyện măi măi im lặng…
Rồi sau cha cô mất. Trước lúc chết ông hứa gả cô cho một chàng trai trẻ của bộ tộc khác. Ngày đón dâu cô ấy trang điểm rất đẹp, làn da mịn trắng hơn cả sữa ngựa, tóc lóng lánh hơn ngọc trai, những phấn hồng trên g̣ má hồng hơn những mây chiều, ánh sáng trong đôi mắt cô ấy đẹp hơn mọi ngôi sao lạnh lẽo bên trời.
Tôi đăm đăm nh́n cô ấy giá như cô ấy là cô dâu của tôi, nếu như là của tôi… Tôi chỉ thấy ḿnh rơi dần vào địa ngục, ch́m sâu dưới bóng đêm vô tận, những bùn lầy tăm tối nuốt chửng tôi, tất cả đă như một kết thúc. Tôi đăm đăm nh́n cô ấy, tôi thấy cô rực rỡ thế, sáng rạng như thế, tôi thấy đôi mắt long lanh màu hổ phách, trong mắt cô những câu hỏi khôn cùng, tôi không cách nào hiểu nổi những ǵ trong mắt, bởi những lời trong đôi mắt nói nhiều quá, quá nhiều.
Đám rước dâu đi xa dần tôi đứng lại một ḿnh giữa thảo nguyên bao la, tôi đứng rất lâu tôi không biết giờ tôi nên làm ǵ, tôi không biết trái tim tôi đă bị móc mất tôi đă mất tất cả. Đêm tối xuống thảo nguyên tôi ngửa mặt nh́n trời cao, trên tấm màn lông ngỗng bao la phủ ṿm trời kia, gương mặt cô ấy hiện ra xinh đẹp và rạng rỡ mỉm cười rồi lại biến mất.
Trong một giây khắc đó ánh sáng bỗng chói loà vạn trượng, mắt tôi nh́n thấy những ánh sao như mưa rơi tới tấp cả thế giới đă ngừng lại, tôi không biết nụ cười đă mất đi ấy là những hồi ức từ tiền kiếp hay chính là tương lai của cơi này. Đứng một ḿnh giữa đêm khuya, chợt phát hiện thấy chính ḿnh đă lệ rơi xuống ướt đẫm mặt mày…
Tôi thấy kiếp người đau khổ quá tôi không dám thổ lộ cùng con người, không dám đi dọ t́m sợ tất cả sẽ kết thúc. Ai biết được thế gian này cái ǵ có khởi đầu th́ đều có kết thúc, mà đến lúc kết thúc tôi mới hiểu, đáng lẽ tôi phải nắm lấy cơ hội sớm hơn, nhưng làm sao tôi biết được điều đó?
Đêm trên thảo nguyên rất yên tĩnh, tĩnh tới mức cho tôi nghe thấy tiếng tim đập cũng không thể ngủ, tôi ôm lấy cái chăn cô ấy vẫn đắp, trong tim tôi không hề đau đớn không hề hối hận, tôi chỉ nhớ lại những ánh mắt của cô ấy những cái nh́n trong veo như nước…
Khi sắp ly biệt thường có muôn ngàn lời muốn nói. Nhưng ra đi th́ vẫn phải ra đi. Ngày em đi gió sẽ thổi hết những hơi thở em để lại, nhật nguyệt sẽ mang nốt những chuyện cũ của em, làn mây trắng sẽ xoá đi những vết thương ngày xưa của em, và đám sao sẽ che giấu cái khoảnh khắc em vẫy tay sau cùng. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ khoảnh khắc ấy, như khoảnh khắc lần đầu tiên tôi nh́n thấy em…
Đột ngột một đôi tay vạch tấm cửa ra, ánh trăng dát bạc toả khắp lều, trong lều là tôi kinh ngạc vạn lần, ngoài lều là cô ấy,gương mặt đă hút hồn tôi bao cơn mê! Tôi không dám tin vào mắt ḿnh, cho măi tới khi cô ấy chạy vào trong lều, chầm chậm ngồi xuống cạnh tôi.
Tôi nhận ra ḿnh vẫn c̣n ôm chặt tấm chăn của cô ấy, thoáng chốc tôi đỏ mặt xấu hổ ghê gớm, không biết phải giải thích thế nào, tôi vừa ngước lên nh́n cô ấy, cô ấy cũng nh́n tôi như trên sườn núi nào gặp tôi. Tôi không nói lên lời. Cô ấy sát tới nhè nhẹ đỡ cái chăn trong tay tôi. Tôi không chống cự không thể chống cự, không muốn chống cự. Đêm đó cô ấy thành vợ tôi. Tôi rất vui rất hạnh phúc dường như một ngh́n năm luân hồi đă chuộc lại cho tôi tất cả, số phận u ám trầm uất đă rời tôi, tôi thấy giây phút này, đến địa phủ cũng nên gội trong ánh mặt trời. Tôi cảm tạ thần phật anh minh, cảm tạ ḷng nhân từ của trời đất, thoát khỏi bể khổ tôi thành tâm cầu nguyện đất trời.
Chúng tôi đến một đồng cỏ thật xa để dựng lều, ngày trôi qua thật hạnh phúc thứ hạnh phúc yên b́nh như nước. Chúng tôi vẫn như thuở trước cùng nhau cưỡi ngựa cùng nhau chăn dê. Đêm xuống cô ấy dựa vào ḷng tôi thủ thỉ những tâm sự của ḿnh. Tôi thường lơ mơ ngủ quên rồi cô ấy nổi giận lay tôi dậy, rồi cô ấy lại thủ thỉ tiếp những câu chuyện măi măi không kết thúc...Những ngày vui vẻ qua mau trời đất như cố ư nhạo tôi, cho tôi nếm một chút hạnh phúc rồi bắt tôi cơng nỗi đau vĩnh hằng...
Cô ấy ốm, ngày càng tiều tụy thuốc ǵ cũng không khỏi thân thể cô ngày càng yếu ớt, c̣n như chiếc lá thu trước cơn gió, tôi nghĩ mọi cách thậm chí đi đánh tuỳ tùng của Tây Vương Mẫu Côn Lôn bị thương ăn cắp tinh của Tuyết Liên. Nhưng cô ấy không khoẻ lại. Tôi nh́n hai g̣ má cô ấy ngày càng gầy xanh xao, nh́n đôi mắt đen quyến luyến tôi không kiềm được lệ. Cô ấy cười thê thiết: "Ở bên anh thực sự rất hạnh phúc em không hối hận"
Trong sát na đó tôi chợt hiểu ra. Tôi là quỷ, Là tôi đă hại cô ấy tôi là một con quỷ hại người! Tôi khóc không thành tiếng, nước mắt nhoà cái nh́n của hai chúng tôi. Khi đôi tay cô ấy chậm răi trượt xuống khỏi tay tôi, tôi không c̣n nhớ ǵ nữa, tôi chỉ nghe thấy cô ấy nói câu cuối cùng:
"Đừng bỏ em".
Nỗi đau ngập tràn thân thể tôi căng tức rồi bùng nổ ra, biến thành đầy trời cát bay lấp hết thảo nguyên... Trong băo cát tôi gạt đi ḍng lệ cuối cùng cô đơn đi về phía thế gian mênh mang.
Luân hồi, Nhân quả, T́nh duyên, Yêu đương, Thương đau, Mê hoảng trong giờ phút này đều hoá thành sao băng rơi vạch qua chân trời, rơi vào trong cơi xa sâu vô đáy. Thế giới là một màn đen kịt là trái tim tôi, trong tim loé lên một ánh sao băng huy hoàng ngắn ngủi, thế giới đă sáng lên trong khoảnh khắc đó, thứ ánh sáng không bao giờ tắt nổi...
Cô ấy v́ tôi đă lại chết đi một lần nữa, nhưng tôi không hối hận, bởi chúng tôi đă từng được hạnh phúc quen nhau kề nhau không rời không ĺa, Tôi sẽ lại chờ cô ấy, chờ cô ấy lại quay lại trần thế này, tôi tin lần sau tới tôi sẽ t́m được cô ấy, t́m được cách ở bên cô.
Tôi tin rồi sẽ có một ngày cô ấy sẽ quay lại. Vạn thế luân hồi ngh́n ảnh hợp tan, mây về lại bên trời trăng mém góc rừng, không rơ gió vô định về đâu là về hay là đang đi. Trái tim vừa nhói lệ đă một hàng...
Trang Hạ dịch
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 163 of 2534: Đă gửi: 28 May 2008 lúc 9:49am | Đă lưu IP
|
|
|
SỰ CỨU GIÚP CỦA NHỮNG LINH HỒN KHUẤT MẶT
Lần đầu tôi thấm thía về siêu linh là chuyện của một con chó. Khi tôi rời Viện Đại Học Cambridge để sang Antigua, miền tây Ấn Độ, dạy học về môn văn phạm Anh ngữ, tôi mang con chó tên Pat theo.
Tôi thích ánh nắng mặt trời và đời sống tại Antigua. Ở đó tôi được bơi lội thỏa thuê, lại c̣n chơi thả dàn môn khúc côn cầu, chưa kể những tṛ chơi ngoài trời khác. Nhưng thảm thương cho con Pat của tôi, vốn quen khí hậu ở Anh, không chịu nổi cái nóng bức của xứ này, cuối cùng đă chết. Con Pat mất đi làm tôi buồn ghê gớm.
Đêm hôm con Pat chết, tôi ngủ không được, bèn trở dậy để làm một cuộc tản bộ cho khuây khỏa. Đi loanh quanh một hồi, tôi chợt nhận ra có ba bóng đen lẽo đẽo theo ḿnh. Chúng đă chận tôi lại, một tên gằn giọng:
“Móc tiền ra ông cố nội!”.
Trong túi không nhiều tiền, nhưng tôi nghĩ chẳng lẽ phải giao tiền cho chúng một cách vô lư dễ dàng như vậy sao. Dù ǵ, thời gian ở Trung học và Đại học Cambridge tôi đă đeo đuổi môn đánh bốc và tay nghề cũng không đến nỗi tệ lắm. Nhưng chọi lại ba đối thủ, cuộc đấu này có vẻ không thuận lợi lắm.
Đang phân vân không biết tính sao, chợt từ trong bụi rậm một con chó giống con Pat của tôi nhảy xổ ra, nhe răng và rống hộc lên hung dữ xông vào tụi cướp. Quá bất ngờ trước sự hung tợn của con chó loại berger, ba tên cướp ù té chạy.
Con chó Pat của tôi thực sự không to lắm, nhưng dáng dấp hung hăng của nó đủ làm người trực diện phải hoảng sợ. Suốt đời tôi chả bao giờ quên h́nh ảnh quẫy đuôi tíu tít, ánh mắt long lanh ngó tôi từ xa với tiếng kêu rít rít biểu lộ vui mừng của con chó vừa cứu tôi, đúng là nó! con Pat của tôi, trước khi vùng chạy biến mất.
Một chấn động sâu xa trong tâm khảm của tôi lần đầu tiên về hiện tượng siêu linh.
Thời gian trôi, dù đang tận hưởng vui sướng đời sống tại Antigua, nhưng một ngày nọ cảm nhận như ơn Thiêng Liêng kêu gọi, tôi bèn trở lại Anh quốc để vào tu tập về thần học tại một trường ḍng, chuẩn bị cho đời sống của một tu sĩ. Sau ngày thụ phong, tôi ngược lên miền Bắc viếng thăm tu sĩ quản nhiệm một giáo xứ.
Vị tu sĩ chấp nhận cho tôi một phần vụ tại giáo xứ. Sau buổi tiếp xúc, trên đường về, tôi suy nghĩ lan man, lơ đăng bước xuống khỏi vỉa hè mà không để ư đến xe cộ đang xuôi ngược rộn rịp hai bên. Ngay lúc ấy, một bàn tay chụp lấy tôi, kéo thật mạnh lên lề đường.
Sau đấy tôi mới biết, kiểu đăng trí vừa rồi của tôi, chỉ có đường vào nằm nhà thương hay về chầu Chúa v́ xe cộ đang chạy ào ào lúc đó. Tôi ngước lên ngó người lôi ḿnh lên vỉa hè th́ ra anh bạn Johnson đang nhe răng tươi cười với tôi. Chúng tôi từng mải mê chơi khúc côn cầu khi ở đại học Cambridge.
Nhưng tôi chợt rùng ḿnh nhớ lại, rơ ràng Johnson đă qua đời trong một tai nạn phi cơ. Chưa kịp hỏi anh bạn này một câu, chỉ nghe anh nói:
“Để ư những nơi nguy hiểm nghe bạn”
Rồi biến mất trong đôi mắt ngỡ ngàng, dáng vẻ sững sờ của tôi.
Vài năm sau đó, một đêm thứ sáu tôi phải ngồi nghiên cứu cho một bài giảng cho ngày Chúa nhật tới, tôi phải cố làm điều này cho xong tối nay, v́ ngày mai có chuyến hành tŕnh xa với một người trong họ đạo, mất rất nhiều th́ giờ di chuyển.
Vừa chợt nghĩ đến cuộc đi xa ngày mai, tôi đột nhiên bỏ bài thuyết giảng đang nghiên cứu và lấy tờ bản đồ để xem lộ tŕnh ḿnh phải đi qua những nơi nào. Lúc c̣n chăm chú trên bản đồ, bất chợt linh tính khiến tôi ngửng lên và thấy ông bầu thể thao hồi c̣n đi học đang đứng ở góc pḥng từ hồi nào.
Tôi rất thân thiết với ông v́ sự đam mê thể thao của ḿnh. Nhưng quái lạ, tôi nhớ là ông đă chết rồi cách đây năm năm kia mà. Ông ngó tôi mỉm cười và tôi c̣n nghe rơ ràng lời nói chậm răi của ông:
“Đừng đi!”
Rồi biến mất liền sau đó trước khi tôi kịp có phản ứng.
Dĩ nhiên, sau đó tôi khước từ chuyến đi. Tôi thật thà kể lại cho người bạn trong họ đạo những ǵ tôi thấy, tôi nghe về ông thầy cũ của tôi đêm qua và khuyên ông nên bỏ cuộc hành tŕnh này.
Ông bạn trong họ đạo nghe xong, cười ngất có vẻ nhạo báng cho sự mê sảng dị đoan của tôi. Rốt cuộc, sau đó tin buồn không mong muốn đến với tôi. Trên đường đi, ông bạn tôi đă tử thương v́ xe húc vào tường trong một tai nạn. Một lần nữa trong đời của tôi, người khuất mặt đă cứu tôi thoát chết.
Sau cái chết của người bạn trong họ đạo, tự nhiên tôi không dám lái xe hơi nữa. Tôi đâm thích cưỡi xe đạp đi loanh quanh đây đó. Một hôm vào ngày thứ hai, sau một ngày Chúa nhật mệt nhoài bận rộn, tôi nảy ra ư định leo lên xe đạp đi chơi một ṿng. Đúng ra tôi không nên đi xa quá, v́ thắng xe không c̣n tốt lắm. Nhưng chả hiểu sao lúc ấy, tôi như thằng khùng cứ nhấn bàn đạp ngon trớn đi tới.
Lúc leo lên xong đỉnh một ngọn đồi, khoan khoái đứng nghỉ ngắm cảnh thiên nhiên một lúc đă đời rồi mới sửa soạn quay về. Nhưng đây là con đường độc đạo một chiều, tôi không thể đi xe ngược lại được, chỉ c̣n một cách tiếp tục theo đường đổ dốc dọc xuống băi biển trải dài xanh ngắt bên dưới.
Vừa tính leo lên xe, chợt một người vừa trèo qua bức tường căn nhà gần đó tiến lại và bảo tôi:
“Ông ơi! Đừng đạp xe xuống dưới. Cuối dốc bắc qua một cái cầu, đường cua gắt lắm, ông đổ dốc bằng xe như vậy không giữ tay lái được v́ thắng xe của ông có tốt ǵ đâu”.
Tôi há hốc trợn mắt ngó người khuyên ḿnh vừa rồi. Rơ ràng là anh chăm sóc vườn của nhà thờ trong họ đao cũ của tôi. Anh làm ǵ ở chỗ đồi núi heo hút lơ thơ nhà cửa này? Nhưng rồi tôi lạnh người nổi gai ốc khi nhớ lại tin tức về việc anh mới qua đời gần đây. Tính gạn hỏi vài lời th́ anh đă biến đâu mất.
Hoang mang, tôi leo xuống xe lầm lũi dắt xe đi bộ xuống đồi. Đúng như người làm vườn đă cảnh cáo, dưới con đường ngoằn ngoèo cuối chân đồi, có một khúc quẹo thật gắt để lên cái cầu dài hẹp, bề ngang chỉ đủ một người đi. Thắng xe không ăn của tôi, chỉ c̣n một nước đâm bổ cả xe lẫn người xuống dưới cái hố sâu lởm chởm đầy đá dẫn ra eo biển.
Hiện giờ tôi là giáo sĩ của một nhà thờ tại Anh và qua kinh Tin Kính, tôi có thể nói, tôi tin có sự cảm thông truyền đạt từ nơi các vị Thánh. Cảm thông mang một ư nghĩa của t́nh huynh đệ.
Ở đây, khi tôi đề cập đến ba người bạn, đối với tôi đây là ba vị thánh. Những vị thánh này không có ư nghĩa cao xa như người đời đánh giá. Tôi coi họ như thánh, bởi các bạn tôi đă làm các điều thánh thiện: cứu tôi thoát chết.
Thường các người khuất mặt không thích can thiệp các việc của người đời. Chúng ta, những người đang sống, chịu trách nhiệm về những ǵ chúng ta làm. Trừ vài sự kiện đặc biệt họ mới hiện diện.
Có thể nói ba người bạn của tôi rơ ràng nghĩ rằng tôi chưa có quyền vui hưởng với họ. Chắc v́ c̣n nhiều thứ mà tôi phải làm cho xong trong cuộc đời trần gian này.
Chuyện của một tu sĩ Anh Giáo
Dịch theo Ronald Adkins
TT Lương Yên
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 164 of 2534: Đă gửi: 28 May 2008 lúc 5:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN KỲ LẠ CHẾT ĐI SỐNG LẠI
Các bác sĩ gọi trường hợp của bà Val Thomas là điều kỳ diệu trong y học. Họ không thể giải thích tại sao người phụ nữ sống tại bang Tây Virginia (Mỹ) có thể sống lại được sau mười bảy giờ chết năo.
Bà Thomas trải qua hai cơn đau tim, và năo không hoạt động trong hơn mười bảy giờ. Vào khoảng một giờ rưỡi sáng hôm thứ bảy tuần vừa rồi, tim và mạch bà ngừng đập. Bà Thomas được lắp máy trợ thở, các bác sĩ cho hay người bà bắt đầu cứng đờ.
Jim Thomas con trai bà Thomas nói:
“Da mẹ tôi cứng dần, c̣n các ngón tay th́ cuộn lại. Thần chết đă đến”.
Ngay lập tức bà được chuyển tới bệnh viện Tây Virginia. Tại đây các bác sĩ đă đặt bà Thomas vào một chiếc máy đặc biệt để làm giảm thân nhiệt.
Tuần tự của quy tŕnh này là hạ thấp thân nhiệt trong hai mươi bốn giờ, trước khi hâm nóng cơ thể bệnh nhân lên. Sau thao tác đó tim bà lại ngừng đập lần nữa.
“Năo bà ấy không hoạt động”.
Bác sĩ Kevin Eggleston cho hay. Bác sĩ đă tháo hết các ống hỗ trợ thở khỏi bà Thomas và gia đ́nh bà đă tụ tập đông đủ để chào tạm biệt.
Tuy nhiên do người nhà đă đồng ư hiến tặng nội tạng của bà, nên bà tiếp tục được máy hô hấp trợ giúp lâu hơn một chút.
Sau mười phút bà bất thần bật dậy và cất tiếng nói y như không có chuyện ǵ xảy ra. Người y tá đă quá kinh ngạc không thể thốt lên lời:
“Tôi xin lỗi bà Thomas!”
C̣n bà th́ tỏ ra rất b́nh thản:
“Tôi ổn mà”.
Val Thomas và gia đ́nh tin rằng Chúa đă ban cho họ một điều kỳ diệu:
“Tôi biết Chúa có lư do để giữ tôi lại. Tôi vẫn chưa biết nó là ǵ, nhưng chắc chắn Ngài sẽ nói cho tôi biết”.
Bà Thomas đă được chuyển về bệnh viện Cleveland để kiểm tra lại sức khỏe. Các bác sĩ cho biết thật kinh ngạc là, bà không hề bị nghẽn mạch và sẽ vẫn khỏe như thường.
Newsnet5
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 165 of 2534: Đă gửi: 29 May 2008 lúc 10:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
BẢN THẢO T̀M THẤY TRONG CHAI
Khi cuộc sống chỉ c̣n trong khoảnh khắc. Nào có ai muốn giấu giếm điều chi. Quinault Atys.
Về quê hương và gia đ́nh tôi chẳng có ǵ nhiều để nói. Sự bạc đăi đă khiến tôi phải rời bỏ quê hương, và rồi sau những năm tháng quá dài tôi trở thành xa lạ với cả gia đ́nh ḿnh.
Sự giàu có của ḍng họ đă giúp tôi có được một số vốn học vấn hơn người. Tôi đă suy nghĩ và sắp xếp một cách có phương pháp những ǵ gặt hái được trong việc học chăm chỉ trước đây. Trên tất cả những tác phẩm của các triết gia Đức mang lại cho tôi nhiều thích thú, tất nhiên không phải do sự thán phục mù quáng, mà nhờ có th́ giờ nhàn rỗi cộng với thói quen suy nghĩ một cách nghiêm nhặt, tôi đă khám phá ra những sai lầm của họ.
Tôi thường bị chê trách bởi tài năng vô vị ấy. Mọi người trút vào tôi cái tội thiếu óc tưởng tượng. C̣n việc tôi luôn luôn có thái độ của một người theo chủ nghĩa hoài nghi trong mọi vấn đề là điều ai cũng biết rơ.
Mà thật vậy tôi e rằng bởi quá say mê triết học vật lư nên tôi đă phạm vào điều lầm lỗi phổ thông nhất của thời đại này. Đó là thói quen luôn luôn liên hệ mọi sự việc, ngay cả khi ít có khả năng nhất, với những nguyên lư của triết học ấy.
Tóm lại chính tôi là kẻ đáng phải chịu trách nhiệm nặng hơn ai hết nếu tôi tự để cho ḿnh bị mê hoặc bởi những “ánh lửa chập chờn” của óc mê tín dị đoan vượt ra ngoài ranh giới khắc nghiệt của chân lư.
Tôi quyết định viết những lời nhập đề dài ḍng này v́ e rằng câu chuyện khó tin tôi sắp kể ra đây sẽ bị xem là điều điên rồ của một trí tưởng tượng lỗ măng chứ không phải là một kinh nghiệm tích cực của một trí tuệ vốn vẫn xem những điều mơ mộng viển vông chỉ là một bức thư không có người nhận và hoàn toàn vô giá trị.
Đă nhiều năm lang bạt ở nước ngoài, lần này tôi đáp tàu từ cảng Batavia nằm trên đảo Java sầm uất và giàu có để đến Archipelago thuộc quần đảo Sunda. Tôi cứ đi măi như vậy không có mục đích ǵ mà chỉ bởi cái tâm trí vốn bất định của tôi cứ luôn dày ṿ dằn vặt như một kẻ bị ma ám.
Chiếc tàu tôi đi rất đẹp, trọng tải khoảng bốn trăm tấn, vỏ bọc đồng, đóng tại Bombay bằng gỗ tếch vùng Malabar. Nó chở đầy bông vải và dầu ăn từ quần đảo Lachadi. Trên tàu c̣n có cả sợi dừa, đường thốt nốt, bơ, hạt cacao và một vài thùng thuốc phiện. Hàng hóa chất lên tàu rất cẩu thả nên tàu dễ bị cḥng chành.
Chúng tôi lên đường khi có gió nhẹ, suốt nhiều ngày liền tàu vẫn c̣n đi gần bờ biển phía đông Java. Chẳng có chuyện ǵ lạ để chúng tôi có thể giải khuây sự buồn tẻ đơn điệu của cuộc hành tŕnh ngoài những chiếc thuyền nhỏ hai cột buồm với những cánh buồm h́nh tam giác của dân bản xứ thuộc đảo Archipelago mà chúng tôi vẫn c̣n ở trong hải phận của nó.
Một buổi chiều đứng tựa lan can phía đuôi tàu, tôi nh́n thấy một đám mây lẻ loi rất kỳ lạ ở hướng tây bắc. Lạ không những v́ màu sắc của nó mà c̣n v́ đó là đám mây đầu tiên xuất hiện kể từ khi chúng tôi rời bến Batavia.
Tôi chăm chú quan sát đám mây cho tới lúc mặt trời sắp lặn. Lúc ấy th́nh ĺnh nó trải dài từ đông sang tây, che kín đường chân trời bằng một dải hơi nước hẹp, từ xa trông giống một bờ cát dài.
Tôi chuyển sự chú ư vào mặt trăng màu đỏ bầm đang từ từ xuất hiện và cái vẻ lạ lẫm của biển. Biển thay đổi thật nhanh, làn nước trở nên trong suốt một cách bất thường. Mặc dù tôi có thể nh́n rơ mồn một đáy biển, nhưng khi tôi thả dây buộc ch́ xuống đo mới rơ độ sâu lên đến ba mươi mét.
Không khí lúc này trở nên oi bức không chịu nổi, hơi nóng bốc lên cuồn cuộn hệt như ta thường thấy ở một cái bàn là nóng. Khi đêm xuống trời không một chút gió, sự yên tĩnh khó có thể tưởng tượng nổi. Ngọn lửa cây nến cuối đuôi tàu hầu như không lay động.
Một ngọn tóc cầm trên đầu ngón tay cũng không thể nào nhận ra nó có đung đưa hay không. Tuy nhiên con tàu cứ bị giạt dần vào bờ. Viên thuyền trưởng thấy không có triệu chứng nào nguy hiểm, ra lệnh cho thủy thủ cuốn buồm thả neo. Không cắt người canh, cả đám thủy thủ chủ yếu người Malaysia nằm nghỉ la liệt trên sàn tàu.
Tôi bước xuống hầm tàu ḷng linh cảm điều không may. Thật vậy những triệu chứng ấy khiến tôi lo sắp có băo. Tôi thổ lộ với viên thuyền trưởng nhưng ông ta chẳng để ư ǵ đến lời tôi, quay lưng đi không một tiếng trả lời.
Tuy thế ḷng tôi vẫn cứ bất an không thể ngủ được. Khoảng nửa đêm tôi lại trèo lên boong. Khi bước lên tới bậc thang trên cùng, tôi giật ḿnh bởi tiếng ŕ rầm rất lớn nghe như tiếng cối xay, và trước khi tôi kịp hiểu xuất xứ, toàn thân con tàu rùng lên. Ngay liền đó, một đợt sóng dữ dội hất tôi ngă xuống. Sóng rùng rùng tràn qua mọi người, quét sạch sàn tàu từ mũi đến tận lái.
Sự hung hăn đến cực điểm của cơn gió hầu như lại giúp cho con tàu sống sót. Mặc dù đă ngập hẳn trong nước và các cột buồm găy phăng, một phút sau con tàu từ từ trồi lên, lắc lư một lúc bởi sức ép quá lớn của cơn băo rồi đứng thẳng.
Nhờ điều kỳ diệu nào mà tôi thoát chết là việc không thể cắt nghĩa nổi. Tỉnh lại sau cơn choáng váng v́ bị sóng đập, tôi thấy ḿnh kẹt cứng giữa càng và bánh lái. Khó khăn lắm tôi mới đứng dậy được. Lảo đảo nh́n quanh, đầu tiên tôi nhận ra ḿnh đang đứng giữa một cảnh đổ nát. Cho dù có một trí tưởng tượng man rợ nhất cũng phải vô cùng kinh sợ bởi tôi nhận ra con tàu đang ở giữa vùng biển sôi sục những cột nước cao như núi.
Lát sau tôi nghe tiếng của ông già người Thụy Điển, hành khách cuối cùng lên tàu vừa kịp lúc nhổ neo. Tôi lấy hết sức để gọi. Ông già nghe được liền bước về phía lái. Chúng tôi nhận ra chỉ c̣n hai chúng tôi sống sót sau tai nạn vừa qua.
Mọi thứ trên boong tàu đều bị quét sạch xuống biển. Viên thuyền trưởng và các sĩ quan đều chết ngạt trong cabin v́ nước biển tràn vào quá nhanh. Không c̣n ai phụ giúp, chúng tôi khó hy vọng làm được ǵ nhiều cho sự an toàn của con tàu.
Và thoạt tiên cái hy vọng nhỏ nhoi ấy cũng bị dập tắt v́ h́nh như con tàu sắp ch́m đến nơi rồi. Dĩ nhiên sợi dây neo đă đứt phăng như một sợi dây cột đồ ngay từ khi đợt gió đầu tiên thổi tới, chứ nếu không chúng tôi đă ch́m lỉm rồi.
Con tàu bị gió cuốn phăng trên mặt biển. Những đợt sóng trắng xóa tung lên trên đầu chúng tôi. Bánh lái găy hoàn toàn. Khắp con tàu hầu như bộ phận nào cũng bị hư hại đáng kể. Nhưng chúng tôi đă quá đỗi mừng khi thấy những cái bơm nước không bị nghẹt và những vật nặng dùng để dằn thuyền được thăng bằng không bị dời chỗ.
Chúng tôi cảm thấy mối nguy hiểm v́ gió đă giảm nhiều, nhưng khi nghĩ đến việc gió sẽ hoàn toàn ngưng thổi chúng tôi lại vô cùng kinh hăi v́ tin chắc rằng trong t́nh trạng hư hỏng thế này con tàu sẽ bị hủy diệt dưới những con sóng ghê gớm.
Nhưng cái điều dự đoán chính xác này dường như không trở thành sự thực ngay. Suốt năm ngày đêm, trong thời gian này chúng tôi sống bằng vài viên đường thốt nốt khó khăn lắm mới moi được ở đầu mũi tàu, con tàu trôi nhanh vùn vụt.
Những cơn gió cứ tiếp tục nổi lên, không dữ dội như lúc cơn băo bắt đầu nhưng vẫn kinh khiếp hơn tất thảy những ǵ tôi đă từng trông thấy trước đây. Suốt bốn ngày đầu con tàu lao theo hướng nam, đông nam, thỉnh thoảng có thay đổi một chút, và như thế chúng tôi sẽ đâm thẳng vào bờ biển Tân Hà Lan.
Ngày thứ năm trời lạnh ghê gớm, mặc dù gió đổi chiều chếch về hướng bắc. Mặt trời nhô lên với những tia sáng vàng vọt bệnh hoạn. Nó chỉ lê lên được chừng vài độ trên đường chân trời, không tỏa ra mấy chút ánh sáng. Không một đám mây nào xuất hiện, gió cứ tăng lên măi với sự cuồng nộ bất thường.
Vào buổi trưa chúng tôi đoán như vậy, sắc thái của mặt trời lại khiến chúng tôi chú ư. Nó không tỏa ra ánh sáng có thể nói như vậy, mà phát ra một thứ lửa u ám buồn bă như thể tất cả những tia sáng đều đă bị chiết tán. Ngay trước khi chiếu vào ḷng biển trương ph́nh, những ngọn lửa trung tâm mặt trời đột ngột tắt ngấm như thể có một sức mạnh huyền bí nào đó đang vội vàng dập tắt chúng đi. Mặt trời như một cái bánh xe màu trắng bạc nhợt nhạt cô đơn khi bắt đầu phóng vào ḷng đại dương thăm thẳm.
Chúng tôi đợi cái ngày thứ sáu đến trong nỗi tuyệt vọng. Cái ngày ấy đối với tôi chưa đến, c̣n với ông cụ người Thụy Điển th́ măi măi không bao giờ đến. Từ đấy chúng tôi ch́m trong bóng đêm đen như mực, tối đến nỗi chúng tôi không thể nh́n thấy xa quá hai mươi bước.
Bóng đêm vĩnh cửu tiếp tục bao trùm chúng tôi, không hề giảm bớt chút nào bởi mặt nước biển lấp lánh ánh lân tinh như chúng ta thường thấy ở miền nhiệt đới. Chúng tôi cũng nhận thấy, mặc dù gió vẫn tiếp tục thổi và không hề giảm cơn thịnh nộ nhưng những bọt sóng trắng đă tận t́nh giúp đỡ chúng tôi nay không c̣n nữa.
Chung quanh chúng tôi chỉ là sự hăi hùng, bóng tối dày đặc như một sa mạc nồng nực đen tối màu gỗ mun. Một nỗi kinh khiếp mê tín trườn dần vào trí năo ông cụ người Thụy Điển. C̣n tâm hồn tôi th́ ch́m vào một nỗi ngờ vực câm lặng.
Chúng tôi không thiết săn sóc con tàu nữa. Việc đó đă trở nên vô ích. Dán người sát vào chân cột buồm thấp nhất, chúng tôi cay đắng đưa mắt nh́n vào đại dương thăm thẳm. Chúng tôi không c̣n phương tiện nào để đoán biết thời gian và cũng không cách nào đoán biết được chúng tôi đang ở vào hoàn cảnh như thế nào.
Tuy nhiên chúng tôi vẫn biết chắc rằng con tàu đă đi rất xa về phương nam hơn bất cứ nhà hàng hải nào và rất ngạc nhiên là tại sao vẫn chưa gặp những chướng ngại thường thấy là những tảng băng trôi.
Dù vậy mỗi phút vẫn đe dọa là phút cuối cùng trong đời. Từng con sóng khổng lồ lao tới như muốn nuốt chửng chúng tôi. Sóng là cái ǵ vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Mỗi lần sóng đi qua mà con tàu chưa bị chôn vùi là cả một điều kỳ diệu. Ông già đồng hành của tôi nói rằng hàng hóa trên tàu chưa đủ nặng và nhắc tôi nhớ đến phẩm chất tuyệt hảo của con tàu.
Nhưng tôi hoàn toàn không hy vọng ḿnh có thể thoát nạn. Ḷng buồn rầu tôi chuẩn bị cho cái chết mà tôi nghĩ sẽ đến trong ṿng không quá một tiếng đồng hồ nữa. Vượt qua mỗi hải lư sóng biển đen đủi khổng lồ càng âm u khủng khiếp hơn.
Nhiều lần chúng tôi nín thở khi con tàu leo lên đến độ cao của chim hải âu, rồi lại xây xẩm choáng váng khi nó lao xuống cái địa ngục bằng nước với một tốc độ kinh hoàng. Ở đó không khí như ứ đọng lại, tuyệt đối không có một âm thanh nào khuấy động đến giấc ngủ loài thủy quái.
Chúng tôi đang ở dưới đáy của một trong những vực thẳm như thế th́ bỗng tiếng la thất thanh của ông bạn đồng hành vỡ ra trong bóng tối:
- Ḱa.. ḱa.. Ông cụ hét lớn vào tai tôi. Lạy chúa quyền năng! Hăy nh́n ḱa!
Tôi nh́n thấy một vầng sáng màu đỏ lù mù, ảm đạm đang lao xuống theo triền vực bao la, nơi chúng tôi đang ở tận đáy, hắt sang sàn tàu chúng tôi những tia sáng lay lắt.
Ngước mắt nh́n lên tôi bắt gặp một cảnh tượng khiến cho máu trong người như đông lại. Ở một độ cao kinh khủng, ngay trên đầu chúng tôi, sát bên mép bờ vực, lượn lờ một con tàu khổng lồ ước phải đến bốn ngàn tấn. Mặc dù con tàu đang đứng trên đầu một ngọn sóng cao gấp trăm lần chiều cao của chính nó nhưng trông nó vẫn lớn hơn bất kỳ con tàu nào của Công ty Đông Ấn.
Cái vỏ khổng lồ của nó sơn một màu đen kịt, không chạm trổ h́nh vẽ như vẫn thường thấy. Chỉ có một dăy đại bác bằng đồng chĩa mũi ra từ các ô cửa sổ để mở, bề mặt bóng láng của ṇng súng phản chiếu lấp lánh ánh sáng từ những ngọn đèn tín hiệu treo đung đưa lắc lư giữa các cột buồm.
Nhưng điều làm chúng tôi kinh ngạc nhất là con tàu ấy giương hết buồm lên mà chạy giữa những chiếc răng nanh khổng lồ của biển siêu nhiên đang lên cơn giông tố cuồng dại này. Đầu tiên chúng tôi chỉ nh́n thấy phần mũi của con tàu lạ v́ nó đang chậm chạp ngoi lên đỉnh vực. Trong một thoáng con tàu bỗng ngưng lại, ngay trên cái đỉnh cao tít ấy, như thể để trầm tư về sự siêu việt của ḿnh. Rồi rùng ḿnh một cái nó bắt đầu chúi mũi lao xuống.
Ngay lúc ấy không hiểu sao sự b́nh tĩnh chợt trở lại với tôi. Cố lao người về phía lái tôi chờ đợi không một chút sợ hăi giây phút hủy diệt. Cuối cùng con tàu chúng tôi chấm dứt cuộc chiến đấu. Nó cắm mũi vào ḷng biển. Cái khối khổng lồ đang lao xuống kia cuối cùng đă xô vào chúng tôi ở phía lườn tàu vốn đă mấp mé nước.
Việc đó dẫn đến một kết quả phi thường. Sức chấn động hất tung tôi lên không và sau đó tôi rơi ngay xuống ḷng con tàu lạ. Khi tôi rơi xuống con tàu lạ khựng lại một giây rồi chợt đổi hướng. Nhờ sự nhộn nhạo ấy mà tôi đă thoát khỏi sự chú ư của các thủy thủ.
Không khó khăn ǵ lắm và cũng chẳng bị ai nh́n thấy, tôi t́m ra lối đi chính xuống hầm tàu. Lúc ấy cửa đang khép hờ, tôi dễ dàng chọn được một chỗ trốn. Thật khó mà nói tại sao tôi lại làm thế. Một cảm giác sợ hăi mơ hồ khi nh́n thấy dáng vẻ của những người trên tàu có lẽ là nguyên nhân chính của hành động này.
Tôi không dám tin tưởng vào loại người mà ngay từ cái nh́n đầu tiên đă cảm thấy có quá nhiều điểm xa lạ mù mờ, ngờ vực và đầy sợ hăi. V́ thế tôi nghĩ tốt hơn nên t́m một chỗ ẩn náu trong hầm tàu. Dỡ một mảnh ván cạp vách, tôi dễ dàng tạo được chỗ ẩn giữa những cột kèo đồ sộ của con tàu.
Có tiếng bước chân trong hầm tàu ngay khi tôi vừa làm xong công việc. Tôi liền chui vào hốc trốn. Một người đàn ông bước ngang qua chỗ tôi ẩn nấp, dáng đi chậm chạp không vững. Tôi không thấy rơ khuôn mặt nhưng lại có dịp quan sát h́nh tướng chung của gă. Có những nét cho thấy hẳn gă rất lớn tuổi và yếu ớt. Đầu gối của gă như muốn khuỵu xuống dưới sức nặng của năm tháng toàn thân run rẩy.
Gă lầm bầm với bản thân bằng một thứ tiếng trầm trầm xa lạ tôi không hiểu được. Gă lục soạn trong góc hầm tàu chất đầy dụng cụ kỳ quái và những bản đồ hàng hải đă rách nát. Bộ tịch của gă là một sự trộn lẫn man rợ giữa sự cáu kỉnh của một ông già đang hồi trở lại thời trẻ thơ và sự oai vệ của một vị thần. Cuối cùng gă quay lên boong và tôi không c̣n nh́n thấy gă nữa.
Một cảm giác không tên tuổi vây kín tâm hồn tôi, một cảm giác không mong được phân tích. Với nó không có sách vở nào thích hợp cả. Và tôi e rằng cả trong tương lai cũng không thể t́m được lời giải đáp.
Đối với tôi đây đúng là một điều khủng khiếp. Tôi sẽ không bao giờ tôi biết chắc sẽ không bao giờ, nh́n nhận bản chất của những ư niệm này. Dù sao cũng không lấy ǵ làm lạ về những cảm giác này bởi chính nó đă bắt nguồn từ một câu chuyện hoang đường. Một cảm giác mới lạ một thực thể hoàn toàn mới đă ghi vào tâm hồn tôi.
Đă qua một thời gian khá lâu kể từ khi tôi lọt vào con tàu khủng khiếp này. Tôi nghĩ rằng giờ đây mọi nẻo lối của số phận tôi đang quy về một điểm. Ch́m trong cơn mặc tưởng nào đó mà tôi không thể nào hiểu nổi, những thủy thủ hờ hững đi ngang qua trước mặt tôi mà không buồn chú ư.
Phần tôi quả thật là thừa khi vội t́m chỗ trốn. Bởi chính họ có muốn trông thấy ǵ đâu. Mới lúc năy đây tôi đi ngang trước mặt viên thuyền phó. Và cũng chẳng lâu ǵ, tôi đă mạo hiểm vào tận pḥng viên thuyền trưởng. Tôi lấy ở đấy được một ít giấy và đang dùng để viết.
Thỉnh thoảng tôi lại viết tiếp những trang bản thảo này. Thực ra tôi không có cách nào truyền lại cho thế giới bên ngoài. Nhưng tôi sẽ cố thử xem. Vào phút cuối tôi sẽ bỏ những trang bản thảo này vào một cái chai đóng kín và thả xuống biển.
Một vài biến cố vừa xảy ra khiến tôi phải suy nghĩ. Có phải tất cả những điều này là một cuộc run rủi rủi may hay không? Tôi đă mạo hiểm bước lên boong, nằm dài xuống giữa những đống dây thừng và buồm cũ hoặc trong chiếc xuồng nhỏ mà chẳng ai chú ư cả.
Trong khi suy nghĩ miên man về số phận kỳ quặc của ḿnh, tôi lơ đễnh cầm chiếc bàn chà chải hắc ín bôi lên một tấm buồm phụ được xếp cẩn thận đặt trên một cái thùng tṛn. Cánh buồm phụ bây giờ đang được căng lên, chiếc bàn chải vô t́nh lúc năy đă viết thành hai chữ: khám phá.
Ở trên tôi có tả sơ qua kiến trúc của con tàu. Mặc dù được trang bị đại bác nhưng theo tôi, nó không phải là một chiếc tàu chiến. Cấu trúc và trang thiết bị đều không phải của tàu chiến. Nhưng nó thực sự là loại tàu ǵ th́ tôi e rằng khó xác định. Tôi không biết tại sao như thế. Nh́n vóc dáng lạ lẫm kỳ quặc của các cột buồm, những bộ buồm khổng lồ cao ṿi vọi, cái mũi tàu quá đơn giản, phần đuôi cổ lỗ, trong tôi chợt lóe lên một tia sáng từ kư ức mơ hồ hỗn độn. Đó là những h́nh ảnh gợi nhớ về một triều đại cổ xưa ở một vương quốc nào đó.
Tôi nh́n kỹ loại gỗ làm sườn tàu. Đó là thứ vật liệu hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tính chất đặc biệt của gỗ khiến tôi phải nghĩ rằng nó không thích hợp với mục đích sử dụng. Tôi muốn nói rằng nó hoàn toàn xốp, không phải do bị mối ăn mà bởi đă đi lại quá nhiều trên biển cũ đến mục ruỗng. Tôi quan sát thấy một điều rất đỗi kỳ lạ, loại gỗ này có đủ mọi đặc tính của loại sến Tây Ban Nha, nếu như gỗ sến Tây Ban Nha có thể xẻ ra được bằng những dụng cụ nhân tạo.
Đọc lại đoạn vừa viết, tôi chợt nhớ đến câu nói kỳ quặc của một con sói biển già người Hà Lan:
“Cái điều ấy e cũng chắc chắn”.
Ông thường nói vậy khi tấm ḷng trung thực của ông bị một nỗi nghi ngờ xâm chiếm.
“Như trên đời này có một vùng biển mà ở đó những con tàu lại có thể ph́nh lớn như thân thể của một thủy thủ”.
Tôi chen vào đám thủy thủ được hơn một giờ. Mặc dù tôi đứng ngay giữa bọn họ nhưng dường như sự có mặt của tôi hoàn toàn nằm ngoài nhận thức của họ. Giống như người đầu tiên tôi nh́n thấy dưới hầm tàu, tất cả những thủy thủ đều râu tóc bạc phơ. Đầu gối không c̣n giữ vững, lưng c̣ng xuống với tuổi tác, làn da run run trước gió rét, giọng nói trầm trầm rè rè, đôi mắt suy yếu kèm nhèm nước mắt, mái tóc bạc phất phơ trong gió một cách kỳ dị. Chung quanh họ khắp cả sàn tàu, rải rác những dụng cụ toán học kiểu rất cổ không c̣n thích hợp.
Ở trên tôi có nói chuyện những cánh buồm phụ được căng lên. Kể từ lúc ấy con tàu lộng gió phóng thẳng về hướng nam, tiếp tục cuộc hành tŕnh khủng khiếp. Mọi cánh buồm đều căng phồng, từ buồm chính trên đỉnh đến những cánh buồm phụ bên dưới. Những đ̣n tay buồm cḥng chành nghiêng ngả như muốn thọc vào cái địa ngục bằng chất lỏng khủng khiếp mà óc tưởng tượng của con người có thể nặn ra được.
Tôi vừa mới rời boong tàu v́ ở đó khó mà đứng vững trên hai chân mặc dù các thủy thủ vẫn b́nh thản đi lại. Tôi cảm thấy quá đỗi kỳ diệu khi cái khối khổng lồ này vẫn chưa chịu ch́m đắm vĩnh viễn. Chúng tôi hẳn đă bị trời đày phải măi măi đi ṿng quanh cái mép ŕa của sự vĩnh cửu mà chẳng bao giờ được phép thực hiện cú nhảy cuối cùng để lao vào vực thẳm.
Trên những con sóng to lớn kinh dị gấp ngàn lần trước đây chúng tôi lướt đi nhanh như loài én biển. Những đợt sóng khổng lồ ngóc đầu chồm lên chúng tôi như những con thủy quái. Nhưng chúng chỉ doạ nạt chứ không được phép tàn phá.
Tôi cho rằng sở dĩ con tàu thoát nạn măi như thế chỉ là nhờ vào nguyên nhân tự nhiên. Và chỉ như vậy mới có thể cắt nghĩa nổi những kết quả thế này. Tôi cho rằng có lẽ con tàu đang nằm trong ảnh hưởng của ḍng hải lưu cuồn cuộn nào đó hoặc giả có ḍng nước ngầm rất mạnh ngay bên dưới con tàu.
Tôi đă nh́n tận mặt viên thuyền trưởng ngay trong cabin của ông ta, nhưng như tôi đă đoán trước ông ta hoàn toàn không chú ư ǵ đến tôi. Mặc dù vẻ bề ngoài của ông ta chẳng có ǵ khác hơn một người đàn ông b́nh thường, nhưng một cảm giác kính trọng và sợ hăi trộn lẫn niềm kinh ngạc nào đó vẫn khiến tôi ngưỡng mộ ông ta.
Về h́nh dạng ông ta cao ngang bằng tôi, khoảng một mét sáu lăm. Dáng vóc ông chắc gọn nhưng không có vẻ mạnh mẽ hay đáng chú ư. Có lẽ do cái vẻ đặc biệt biểu lộ trên khuôn mặt ông ta, một bằng chứng khốc liệt và dữ dội của tuổi tác già nua quá độ già nua trọn vẹn, gợi trong tôi một ư tưởng một cảm giác khó tả.
Vầng trán của ông dù ít nếp nhăn nhưng vẫn hằn rơ dấu ấn năm tháng chồng chất. Mái tóc xám như một bản ghi chép của quá khứ. Và đôi mắt xám hơn cả mái tóc lại như một bầy phù thủy của tương lai. Trên sàn pḥng bày la liệt những xấp giấy tờ có nẹp sắt, những dụng cụ khoa học méo mó cũ kỹ, những tấm bản đồ đă lâu không dùng đến.
Hai tay ông ta bưng đầu, đôi mắt sáng quắc và lo âu chú mục vào một tờ giấy mà tôi cho là tờ chiếu chỉ bởi trên mặt giấy có đóng dấu triện của nhà vua. Ông ta cũng nói lầm bầm, như người thủy thủ đầu tiên tôi nh́n thấy trong hầm tàu, giọng trầm trầm càu nhàu của một thứ tiếng nào đó lạ hoắc. Và mặc dù ông ta ở sát ngay bên cạnh mà tôi nghe như ở tận dặm xa nào vọng lại.
Con tàu và những thứ nó mang theo đều nhuốm màu một thời đại xa xưa nào. Các thủy thủ th́ đi lại như bóng ma của những thế kỷ đă bị chôn vùi, đôi mắt toát ra một sự hăm hở và lo âu. Nh́n những bàn tay của họ rọi bóng nghiêng nghiêng dưới ánh sáng những ngọn đèn tín hiệu, trong tôi dấy lên một cảm giác chưa từng có, mặc dù suốt đời tôi là một kẻ say mê đồ cổ, đă nhập nhiễm trong bóng mát các cột trụ đền đài đổ nát ở Balbec, Tadomor, Persepolis cho đến nỗi chính bản thân tôi cũng trở thành một thứ đồ cổ.
Nh́n lại chung quanh, tôi cảm thấy xấu hổ về những mối lo sợ ban đầu của ḿnh. Nếu tôi đă khiếp hăi trước cơn băo vẫn đang theo đuổi chúng tôi cho đến tận bây giờ th́ lúc này tôi sẽ khiếp hăi đến nhường nào trước sự đụng độ giữa gió và biển, mà để diễn đạt điều này, những từ như lốc xoáy, băo tố thật là tầm thường và thiếu sót: vây quanh con tàu là bóng tối của đêm đen vĩnh cửu và một khối nước khổng lồ đang đảo lộn nhưng không sủi lên một chút bọt nào.
Từ phía xa cách chúng tôi khoảng một dặm, có thể nh́n thấy lờ mờ những bức tường thành khổng lồ và vĩnh cửu của băng giá đứng chọc thẳng vào bầu trời ảm đạm, trông giống những bức tường của ngôi nhà vũ trụ.
Như tôi đă nghĩ đến lúc năy, con tàu có vẻ đang bị cuốn đi bởi một ḍng hải lưu, nếu tôi có thể dùng từ này để gọi con thủy triều đang gầm rú chảy ào qua vùng băng giá trắng xóa. Ḍng hải lưu ấy vừa rền lên như sấm vừa lao băng băng về phương nam với tốc độ một con thác đang chúi đầu đổ xuống.
Tôi cho rằng khó ai hiểu được cảm giác kinh hoàng của tôi. Tuy vậy sự ṭ ṃ muốn lư giải những bí mật của vùng biển kỳ dị này đă thắng được cơn sợ hăi trong tôi. Nó giúp tôi cảm thấy dễ chịu trước khuôn mặt xấu xí của thần chết. Rơ ràng là chúng tôi đang vội vă lao vào một sự hiểu biết kỳ thú nào đó, một thứ bí mật không bao giờ có thể chia sẻ cùng ai và kẻ nào biết được phải trả giá bằng cái chết.
Có lẽ ḍng nước này sẽ dẫn chúng tôi đến tận Bắc Cực. Phải thấy rằng giả thiết này cũng có nhiều cơ sở để trở thành sự thật.
Những thủy thủ đi lại trên boong với bước chân bồn chồn run rẩy. Nhưng vẻ mặt của họ vẫn phẳng phất một niềm hưng phấn đầy hy vọng hơn là nỗi thờ ơ của sự tuyệt vọng. Lúc này gió vẫn thúc vào lưng chúng tôi. Khi giương hết buồm lên con tàu như muốn bay bổng lên khỏi mặt biển.
Ồ thật là khủng khiếp! Băng giá chợt rẽ ra bên phải rồi bên trái và chúng tôi bắt đầu quay tít theo những ṿng tṛn đồng tâm rộng lớn. Quay và quay theo những đường xoáy của một hư trường vĩ đại. Bên trên con vực là bóng đen mịt mùng thăm thẳm. Tôi chẳng c̣n bao nhiêu thời gian để suy ngẫm về số phận ḿnh nữa.
Những ṿng tṛn đang nhanh chóng thu hẹp lại. Chúng tôi đang phóng như điên cuồng vào giữa ṿng ôm của vực xoáy giữa tiếng gầm gừ, rú rít rền rĩ của đại dương băo tố. Con tàu bỗng rùng ḿnh, ôi Thượng đế! và ch́m xuống.
Edgar Allan Poe
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 166 of 2534: Đă gửi: 30 May 2008 lúc 9:34am | Đă lưu IP
|
|
|
SỰ SUY TÀN CỦA NGÔI NHÀ ACSơ
Vào một ngày thu lặng lẽ buồn tẻ, tôi một ḿnh trên lưng ngựa tiến về phía ngôi nhà Acsơ. Khi đă đứng trước ngôi nhà tôi gần như xỉu hẳn đi. Tâm hồn tôi cũng buồn bă và tăm tối như bầu trời lúc đó. Ḷng tôi th́ u ám như những bức tường xám lạnh lẽo của ngôi nhà trước mắt.
Tôi cũng không biết tại sao lại có cái cảm giác đau khổ đến tột độ này. Có lẽ là do sự tàn tạ của ngôi nhà và của cả cảnh vật xung quanh chăng. Những cánh cửa sổ đen x́ giống như những đôi mắt đen trên một khuôn mặt trống rỗng. Những thân cây khô trắng toát không c̣n sức sống để soi bóng toàn cảnh khu nhà trông c̣n tiêu điều hơn là cảnh thực.
Một lát sau không c̣n đủ sức để t́m hiểu cái bí ẩn trong cảm xúc của ḿnh nữa, tôi rời khu hồ chầm chậm bước vào nhà.
Rôdric Acsơ chủ nhân gia tài này, là người bạn thân nhất thời thơ ấu của tôi. Đă mấy năm trôi qua kể từ ngày gặp nhau lần cuối, măi gần đây anh mới gửi cho tôi một bức thư, tha thiết mời tôi đến thăm, thực ra là anh ta cầu khẩn tôi và ở chơi với anh vài tuần.
Anh biết là anh đang bị ốm nặng v́ một căn bệnh tinh thần. Anh cho rằng sự có mặt của tôi sẽ làm anh vui lên, sẽ làm dịu đi những ư tưởng lộn xộn bất thường của anh. Anh chân thành quá làm tôi không nỡ từ chối và giờ đây tôi đă có mặt trước ngôi nhà.
Dù trước đây khi c̣n nhỏ, chúng tôi đă từng là bạn thân thiết, nhưng thực ra tôi biết rất ít về Rôdric Acsơ. Tôi chỉ c̣n nhớ anh là người rất ít nói, thích tách ḿnh ra khỏi những người khác. Mọi người trong ḍng họ của anh theo như gia phả đă ghi, đều có một trí tưởng tượng kỳ lạ và điều này đă bộc lộ trong các tác phẩm vĩ đại về nghệ thuật và âm nhạc.
Tôi cũng biết một điều rất lạ là không hề có các chi ngành trong ḍng họ Acsơ, mỗi thế hệ chỉ có một người nối dơi. Tên tuổi cũng như gia sản được truyền từ đời cha sang đời con không hề bị gián đoạn. Ngôi nhà Acsơ theo quan niệm của người dân khu này không chỉ có nghĩa là ngôi nhà và mảnh đất mà c̣n là ḍng họ ấy.
Khi tiến gần đến ngôi nhà mầu xám xịt, trong óc tôi nảy ra một ư tưởng kỳ lạ, tự nhiên tôi cảm thấy không khí bao bọc xung quanh ngôi nhà ấy cũng khác với không khí của chúa trời. Tôi tưởng tượng không khí ấy được lan toả từ những cái cây đă mục nát, từ những bức tường mầu xám và từ cái hồ im ĺm, một thứ không khí mà bản thân nó cũng có mầu xám xịt bủa vây quanh ngôi nhà như một đám mây mù. Khó khắn lắm tôi mới gạt bỏ được ư tưởng điên rồ này.
Bây giờ tôi mới nh́n rơ ngôi nhà, tuy vẫn c̣n nguyên vẹn song trông đă quá cũ. Tôi muốn nói là cả cái công tŕnh bằng đá ấy chưa có chỗ nào bị đổ xuống. Nhưng từng viên đá đều mang dấu ấn của sự tàn lụi theo thời gian. Tất nhiên, tôi không thấy dấu hiệu nào của sự sụp đổ, trừ một vết nứt hẹp dài chạy thẳng từ nóc mái trước xuống tận chân tường.
Một người đầy tớ chạy ra dắt con ngựa cho tôi. Tôi bước qua cổng ṿm nhà, sau đó tôi được dẫn qua nhiều đoạn ngoằn ngoèo tối tăm đến căn pḥng của ông chủ. Tôi cảm thấy mỗi bước đi đều tác động mạnh mẽ đến tôi mặc dầu suốt cả cuộc đời tôi đă quen thuộc với những cảnh này: những mảng trần nhà có trang trí, những mảnh rèm cửa nặng nề, những bộ áo giáp và vũ khí thời xưa, và những bức tranh trên tường.
Tôi gặp ông bác sỹ của gia đ́nh ở giữa cầu thang. H́nh như ông ta vừa ngạc nhiên vừa hoảng sợ v́ sự có mặt của tôi.
Pḥng của ông chủ là một căn pḥng riêng biệt cao và tối. Trên sàn có hàng loạt những đồ đạc cổ kính. Sách vở nhạc cụ vung văi khắp nơi, nhưng cũng chẳng tạo cho cảnh tượng một sức sống nào cả. Tôi cảm thấy đang hít thờ bầu không khí chết chóc.
Acsơ đón tôi rất nồng nhiệt. Chúng tôi cùng ngồi xuống bên bàn. Tôi nh́n anh với cảm giác ái ngại. Rơ ràng không một người nào lại thay đổi khủng khiếp như thế này sau một thời gian ngắn. Trước đây trông anh cũng xanh xao nhưng chưa bao giờ lại xanh xao đến như thế.
Đôi mắt to và thông minh giờ đây không c̣n b́nh thường nữa, mặc dù vẫn ánh lên một sự thông minh lạ kỳ. Đôi môi chỉ c̣n lại một vệt thẳng trên khuôn mặt. Bộ tóc mềm mại đă lâu không cắt giống như bộ tóc của một cụ già rủ xuống mặt và cổ. Sự thay đổi về cử chỉ của anh bạn tôi cũng thật kỳ lạ. Anh luôn luôn chuyển từ trạng thái sôi nổi sang trạng thái lo âu.
Và khi anh chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác th́ giọng nói của anh lại thay đổi: lúc th́ cất cao, lúc th́ hạ trầm xuống giống như kiểu nói của một người quá say. Cứ như thế anh nói đến cuộc viếng thăm của tôi, đến sự mong đợi tha thiết được gặp tôi, đến những niềm an ủi mà anh hy vọng tôi sẽ mang lại. Rồi anh bắt đầu kể lể dài ḍng về bệnh tật.
Theo anh đó là một căn bệnh của ḍng họ, không có thuốc nào chữa được. Nhưng rồi bỗng nhiên anh lại nói: đó chỉ là một căn bệnh đơn giản và sẽ qua nhanh thôi. H́nh như anh đang phải chịu đựng sự căng thẳng về tinh thần. Anh chỉ ăn được những thức ăn không mùi vị, chỉ mặc được một loại quần áo nào đó và không chịu được mùi hoa.
Một tia sáng mờ ảo nhất cũng làm cho đôi mắt anh đau nhức. Anh đă cấm mọi người không được gây ra tiếng động trong nhà, trừ một vài âm thanh của một số nhạc cụ. Anh nói:
- Tôi hoảng sợ tương lại không phải chỉ v́ những sự kiện của tương lai mà cả sự tác động của nó đối với tôi. Tôi run rẩy khi nghĩ đến bất cứ một sự kiện nào, dù là nhỏ nhất, có thể làm tăng sự lo âu của tôi. Trong t́nh trạng khủng khiếp này tôi cảm thấy sắp đến lúc, tôi phải từ bỏ cơi trần trong một cuộc vật lộn chống lại sự sỡ hăi.
Tôi rất kinh ngạc khi biết anh đă không rời ngôi nhà từ nhiều năm nay. Anh nói:
- Chính ngôi nhà này... những bức tường và những cột nhà đă có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tôi. Chúng có một ma lực buộc tôi vào chúng như thể chúng là những linh hồn sống.
Tôi không biết nói thế nào với anh bạn tôi. Mặc dù hơi do dự một chút, nhưng anh vẫn công nhận rằng tất cả những nỗi bất hạnh mà anh phải chịu đựng đều có một cội nguồn đơn giản hầu như rất tự nhiên, đó là bệnh hoạn nguy hiểm và kéo dài của người em gái mà anh yêu quư, người đă cùng ḍng máu với anh c̣n lại duy nhất trên trái đất này. Anh nói:
- Cô ấy sắp chết.
Với giọng nói đau xót mà tôi không bao giờ quên được, cái chết của cô ấy sẽ bỏ lại ḿnh tôi trên trái đất này, người con cuối cùng của ḍng họ Acsơ lâu đời.
Trong lúc anh đang nói th́ tiểu thư Madơlin (đó là tên cô em gái) chậm răi đi ngang qua phía cuối căn pḥng. Cô không để ư thấy có người lạ đang ngồi với anh cô. Tôi nh́n cô đầy kinh ngạc và hoảng sợ. Tôi không thể nào giải thích được những cảm giác của tôi lúc ấy. Cô vừa đi khỏi tôi quay lại phía bạn tôi và đă thấy anh đang ôm mặt để giấu một ḍng nước mắt.
Căn bệnh của tiểu thư Madơlin đă làm cho tất cả các bác sỹ đều phải bó tay, v́ cô không c̣n quan tâm rằng ḿnh c̣n sống hay là đă chết. Sự héo hon dần dần về xác thịt làm cho cơ thể cô mỗi ngày một yếu đi. Thỉnh thoảng trái tim cô lại ngừng đập một lúc. Điều đó làm cho cơ thể cô càng suy kiệt.
Bạn tôi đau khổ kể cho tôi nghe rằng, khoa học không thể làm ǵ để ngăn chặn sự tấn công của thần chết. Anh nói:
- Cô ấy sẽ phải nằm liệt giường và tôi tin rằng anh sẽ không c̣n gặp lại cô ấy nữa.
Suốt mấy ngày ở lại ngôi nhà này cả hai chúng tôi đều không ai nhắc đến tên cô ấy nữa. Tôi chỉ cố gắng an ủi và làm cho bạn tôi nguôi ngoai, chúng tôi cùng nhau vẽ tranh và đọc sách. Có lúc tôi ngồi lặng đi nghe anh bạn tôi chơi một bản nhạc như trong giấc mơ.
T́nh bạn của chúng tôi càng ngày càng thân thiết hơn, và cùng chia sẻ những ư tưởng thầm kín nhất. Nhưng cũng chẳng có ích ǵ. Một màn đêm đă bao phủ trong tâm hồn anh và toả ra mọi vật xung quanh cả một chuỗi vô tận những nỗi niềm đau khổ.
Tôi sẽ măi măi ghi nhớ những giờ phút trang trọng nhất mà tôi đă sống riêng với người chủ của ngôi nhà Acsơ. Thế nhưng tôi không thể miêu tả bằng lời những ǵ chúng tôi đă cùng nhau t́m ṭi và hoạt động.
Anh ta là một người có những ư tưởng cao siêu. Nhưng những ư tưởng này trở nên lộn xộn v́ bệnh tật của anh. Bây giờ anh chỉ c̣n có thể diễn đạt ư tưởng của ḿnh bằng màu sắc và âm thanh, bằng loại màu hoang dă nhất của hội hoạ và bằng giai điệu khó hiểu nhất của chính những bản nhạc của anh. Và những ư tưởng này cũng không thể hiện rơ ràng ngay đối với chính anh. Vậy th́ ta cũng có thể tưởng tượng được rằng nó khó hiểu đối với tôi như thế nào.
Tôi cho rằng trong một bức tranh nào đó, ư tưởng của anh đă được thể hiện rơ ràng hơn nhưng tôi vẫn cứ không hiểu nổi. Tôi vẫn c̣n nhớ bức tranh ấy bởi v́ khi nh́n nó tôi bị xáo động dữ dội. Bức tranh vẽ một lối đi tun hút, hai bên là hai bức tường thấp lè tè bóng nhẵn và trắng toát. Nền bức tường gây cho ta một cảm giác đó là lối đi sâu xuống ḷng đất, nhưng không có lối ra. Trên bức tường không có đèn sáng và cũng không thấy có loại ánh sáng nào khác. Tuy nhiên hoàn cảnh bị nhấn ch́m trong một thứ ánh sáng rực rỡ.
Trong một lần nói chuyện, Acsơ bảo tôi là anh tin rằng tất cả các loài cây đều có khả năng cảm giác, và ngay cả những vật vô tri cũng có khả năng này trong một điều kiện nào đó. Như tôi đă kể trước đây, ḷng tin này có liên quan đến những tảng đá xám của khu nhà.
Anh cho rằng chính cái cách chúng được sắp xếp thành một bức tường, một kiểu sắp xếp đă có vài trăm năm nay đă tạo cho chúng tôi một cuộc sống riêng. Anh nói rằng nước trong hồ cũng như những cây khô đều có cuộc sống giống như vậy. Anh nói tiếp:
- Cái để chứng minh cho suy nghĩ ấy của tôi về những bức tranh tường quanh nhà và hồ nước, tôi có cảm giác là đều xuất phát từ sự phát triển dần dần của một không khí đặc thù xung quanh chúng. Tôi nghĩ ngay đến ư tưởng đă xuất hiện trong óc tôi khi tôi vừa đến nơi này, anh nói tiếp:
- Cái không khí này đă ảnh hưởng đến ḍng họ tôi một cách thầm lặng nhưng khủng khiếp. Chính nó đă làm cho tôi như thế này đây.
Lúc này tôi không nghĩ ra nổi một điều ǵ để nói với anh bạn tôi nữa.
Một buổi tối Acsơ nói vắn tắt với tôi rằng tiểu thư Madơlin đă chết. Anh bảo là anh định giữ thi thể của cô trong hai tuần rồi mới chôn. Anh sẽ đặt cô trong căn pḥng dưới nhà hầm. Lư do anh đưa ra cũng chẳng có ǵ khác thường, v́ anh đă hiểu được cái bệnh mà cô đă phải chịu đựng, nói một cách đơn giản hơn, anh muốn bảo đảm chắc chắn một điều là cô đă chết thật trước khi đặt thi thể cô vào nhà mồ của ḍng họ.
Theo yêu cầu của Acsơ tôi đă giúp anh chuẩn bị mọi thứ. Hai chúng tôi khiêng thi thể cô gái đặt vào áo quan rồi đưa quan tài vào một căn pḥng nhỏ, vừa tối vừa ẩm thấp nằm ngay bên dưới căn pḥng tôi đang ở.
Cách đây đă lâu trong những năm tháng lộn xộn, căn pḥng này dùng làm kho chứa thuốc súng và một số chất nguy hiểm khác nữa. Một phần của sân nhà và toàn bộ cửa ṿm mà chúng tôi đi qua đều viền bằng đồng. Cánh cửa sắt nặng nề cũng được bảo vệ bằng cách đó.
Đặt xong chiếc quan tài lệch sang bên cạnh một chút để nh́n vào khuôn mặt bên trong. Tôi nhận ngay ra rằng hai anh em trông rất giống nhau. Đoán được ư nghĩ của tôi, Acsơ bảo rằng anh và Madơlin là hai anh em sinh đôi nên giữa hai người luôn luôn có sự đồng cảm khác thường.
Trên khuôn mặt và cổ của cô ta vẫn c̣n hơi có mầu sắc, và nụ cười vẫn c̣n đọng trên môi trông thật khủng khiếp. Chúng tôi không dám nh́n lâu, vội đậy nắp quan tài và vít chặt lại, khép cánh cửa sắt và trở lên trên nhà.
Ba bốn ngày trôi qua đầy sự đau thương, tôi nhận thấy một sự thay đổi lớn trong cuốc sống của người bạn ḿnh. Những hoạt động b́nh thường như âm nhạc, đọc sách, vẽ tranh đều bị lăng quên. Anh cứ lang thang từ pḥng nọ sang pḥng kia, không làm ǵ và cũng chẳng thiết ǵ cả.
Anh lại càng xanh xao hơn và ánh mắt thông minh của anh đă biến đi đâu mất. Đôi khi tôi nghĩ rằng có một điều ǵ đó rất bí mật anh muốn kể cho tôi nghe nhưng lại không đủ can đảm để kể. Có những lúc anh ngồi lặng đi hàng tiếng đồng hồ như thể đang lắng nghe một âm thanh tưởng tượng nào đó, như thể đang chờ đợi một cái ǵ bất thường xẩy ra.
Không biết có phải hoàn cảnh của anh đă làm cho tôi hoảng sợ, và chính nó đă khiến tôi cảm thấy những ảnh hưởng hoang dă, của những niềm tin khủng khiếp trong anh đang lan sang tôi.
Vào đêm thứ bẩy hoặc thứ tám ǵ đó sau cái chết của tiểu thư Madơlin, tôi bắt đầu thấy mănh lực khủng khiếp của các cảm giác này. Tôi nằm thao thức hàng giờ cố chống lại cảm giác hoảng sợ. Tôi trách cứ mọi đồ vật xung qanh tôi: những đồ đạc bụi bặm, những mảnh rèm cửa rách bươm đang bay lên bay xuống trong luồng gió của một cơn băo, trách cứ ngay cả chiếc giường cổ kính mà tôi đang nằm.
Nhưng mọi cố gắng của tôi đều vô ích. Cuối cùng v́ quá sợ hăi tôi đă chồm dậy nh́n chằm chằm vào bóng tối của căn pḥng. Tôi nghe thấy cũng có thể nghĩ rằng tôi đă nghe thấy, những âm thanh trầm trầm nổi lên vào những lúc gió băo lặng xuống. Tôi vội mặc quần áo v́ tôi đang run rẩy, run rẩy v́ lạnh hay v́ sợ tôi cũng không c̣n biết nữa. Để trấn tĩnh tôi đi đi lại lại trong pḥng.
Tôi đi lại được hai ba lần th́ nghe tiếng gơ cửa nhè nhẹ. Acsơ tay cầm đèn bước vào. Trong đôi mắt của anh tôi nhận thấy một nỗi kinh hoàng như điên dại. Anh bỗng kêu lên:
- Anh không trông thấy ǵ ư ? Không thấy ǵ à ? Nhưng này...
Vừa nói anh vừa cẩn thận giơ cao cây đèn đi vội ra cửa sổ, đẩy bật tung cửa ra. Luồng gió ùa vào mạnh đến nỗi gần như nhấc bổng chúng tôi lên. Nhưng cái mà chúng tôi chăm chú nh́n không phải là luồng gió mà cũng chẳng phải là những đám mây dày đặc đang phủ quanh ngôi nhà.
Chúng tôi không trông thấy trăng sao, nhưng cả ngôi nhà và những đồ vật xung quanh chúng tôi, kể cả những đám mây mù lơ lửng đang sáng rực lên trong một luồng sáng kỳ lạ. Chính luồng sáng này đă dội lên từ những bức tường và từ mặt nước hồ.
- Anh không được... anh không nên nh́n.
Tôi vừa nói vừa kéo anh ra khỏi cửa sổ và đẩy anh ngồi xuống ghế. Tôi nói tiếp:
- Thứ ánh sáng làm cho anh hoảng sợ chỉ là ánh sáng điện xuất hiện trong không trung. Chúng ta hăy đóng cửa sổ lại, v́ luồng gió lạnh này rất nguy hiểm cho sức khỏe của anh. Đây quyển sách mà anh ưa thích đấy. Tôi sẽ đọc cho anh nghe và chúng ta sẽ cùng nhau sống qua cái đêm khủng khiếp này.
Tôi bắt đầu đọc c̣n Acsơ lắng nghe hoặc có vẻ lắng nghe một cách chăm chú. Đó là một câu chuyện nổi tiếng của Lonsơlot Cenninh. Đọc được độ khoảng mươi phút, đọc đến phần nói về nhân vật chính đang t́m cách lọt vào nhà kẻ thù. Tôi c̣n nhớ đoạn đó như sau:
"...và Etơret giơ kiếm lên chém mạnh vào cửa. Cửa bị nứt rồi vỡ toác ra. Tiếng gỗ khô tạo ra một âm thanh trầm trầm h́nh như đă vang khắp cả khu rừng".
Đọc xong câu cuối tôi ngừng lại, v́ h́nh như tôi cũng nghe thấy một tiếng động như vậy, giống như tiếng gỗ vỡ mặc dù rất lơ mơ. Tiếng động h́nh như phát ra từ một nơi nào đó trong ngôi nhà này. Tôi chắc rằng băo tố đă làm vỡ một cái ǵ rồi.
Thế là tôi chẳng quan tâm đến nó nữa và tiếp tục đọc truyện:
"Rồi Etơret bước qua cửa đứng trên sàn nhà đầy ánh bạc trước mặt một con thú dữ. Đằng sau con thú là một cái khiên bằng đồng treo trên tường. Trên khiên có khắc những lời sau đây:
"Người nào vào được đây sẽ trở thành kẻ chinh phục. Người nào diệt được con thú sẽ chiếm được chiếc khiên này".
Etơret lại vung kiếm lên chặt đầu con thú. Kêu lên một tiếng kêu làm rung chuyển cả bức tường, con thú ngă xuống và làm chiếc khiên rơi xuống sàn nằm ngang dưới chân Etơret".
Đến đây tôi lại cảm thấy kinh ngạc và hoảng sợ. Tôi buộc phải ngừng đọc. Bây giờ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, tôi thực sự nghe thấy một tiếng kêu đau đớn mặc dù tiếng kêu khe khẽ nhưng rất rơ.
Sau tiếng kêu đó là một tiếng vang của hai thanh sắt chạm nhau. Tôi không biết Acsơ có nghe thấy những âm thanh này không. Tôi run rẩy chạy về phía anh đang ngồi. Đôi mắt của anh dán chặt vào cửa ra vào. Đôi môi anh đang mấp máy v́ khi tôi cúi xuống bên anh tôi nghe thấy anh nói:
- Có phải tôi đă nghe thấy không? Đúng. Tôi nghe thấy, tôi đă nghe thấy: dài.. dài.. dài hàng phút đồng hồ hàng giờ.. hàng ngày. Tôi đă nghe thấy ư ? Nhưng tôi không dám.. Ôi khổ tôi quá!... Tôi là một sinh vật khốn khổ... tôi không dám nói ra.
..Ôi chúng ta đặt cô bé đang sống vào quan tài. Chẳng lẽ tôi đă không nói với anh là cảm giác của tôi rất nhạy bén hay sao ? Bây giờ tôi phải nói cho anh biết rằng cách đây mấy ngày, tôi đă nghe thấy tiếng chân cô ấy đi lại, thế nhưng tôi không dám nói ra và bây giờ đêm nay.. Etơret..ha.. ha
..Tiếng phá cửa và tiếng kêu của con thú, tiếng rơi "xoảng" của cái khiên, không phải đó là tiếng phá quan tài, tiếng kêu của cô ấy, tiếng vật lộn trong ṿm cửa bằng đồng của nhà tù. Ôi tôi trốn đi đâu bây giờ ? Chắc cô ấy sắp lên đến đây rồi, chắc sẽ mắng mỏ tôi v́ đă quá vội vă..Tôi không nghe thấy tiếng bước chân của cô trên cầu thang hay sao ? Tôi không cảm thấy nhịp đập nặng nề từ trái tim của cô hay sao ? Thằng điên.
Đến đây anh đứng bật dậy hét to lên:
- Thằng điên tao bảo cho mày biết rằng cô ấy đang đứng ở ngoài cửa đấy!
Như thể lời nói của anh có một ma lực đặc biệt nào đó cánh cửa to bật tung ra. Thực ra đó là do luồng gió mạnh đập vào cửa làm cho nó bật ra...
Nhưng ngay phía bên ngoài cửa rơ ràng là một dáng h́nh mặc bộ đồ trắng đang đứng sừng sững: tiểu thư Madơlin của ḍng họ Acsơ. Cô cứ đứng run rẩy như vậy một lúc ở cửa ra vào rồi khẽ kêu lên một tiếng, và nặng nề đổ xuống trước mặt anh. Sự hoảng hốt tốc độ đă đưa Acsơ đến cái chết trong giây lát và một phút sau người em gái cũng chết bên cạnh anh.
Tôi lao ra khỏi pḥng rồi lao ra khỏi nhà trong nỗi kinh hoàng. Tôi không hề nh́n lại cho đến khi đă chạy qua cái hồ. Một tiếng nổ lớn bung ra trong không trung. Tôi nh́n lại chỗ nứt, chính cái chỗ nứt mà tôi đă nói đến trước đây, chạy từ nóc nhà xuống đến chân tường bây giờ toác ra như cái mồm há rộng của một con vật khổng lồ. Những bức tường to lớn vỡ toang. Tôi nghe thấy một tiếng rú lớn, tiếng rú của hàng ngh́n ngọn nước... rồi cái hồ sâu đầy nước đen kịt trùm lên ngôi nhà Acsơ.
Edgar Allan Poe
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 167 of 2534: Đă gửi: 30 May 2008 lúc 1:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON QUẠ
Poe đă viết một bài thơ nổi tiếng mà tất cả chúng ta đều biết, nổi tiếng quá đáng bởi đó không phải là một trong những bài thơ hay nhất của ông: bài Con Quạ.
Sau đó trong một cuộc nói chuyện ở Boston, ông đă giải thích quá tŕnh sáng tác bài thơ. Đầu tiên ông nhận thấy vai tṛ quan trọng của điệp khúc, sau đó ông nghĩ đến ngữ âm của tiếng Anh.
Ông khẳng định rằng hai âm dễ ngân vang và có hiệu quả nhất của tiếng Anh là “o” và “r”. Thế là ngay lập tức ông t́m ra cụm từ never more "không bao giờ nữa".
Khởi đầu chỉ có vậy sau đó xuất hiện một vấn đề: phải làm sao để hợp lư hóa việc nhắc đi nhắc lại hai từ này, bởi v́ nói chung nếu để một người làm việc đó th́ không được tự nhiên lắm. Ông tự nhủ không được quá lư trí và điều đó dẫn ông tới ư tưởng về một con chim biết nói.
Ông đă nghĩ tới vẹt, nhưng loài chim này không có được những phẩm chất mà thơ ca đ̣i hỏi. Thế là ông chọn một con quạ.
Nói một cách trung thực, khi đó ông đang đọc cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens, Barnaby Rudge, trong đó có chuyện một con quạ. Thế là ông có một con quạ tên là Never More và nó không ngừng nhắc lại tên ḿnh. Đó là tất cả những ǵ Edgar Poe có lúc ban đầu.
Sau đó ông tự nhủ: sự kiện nào đáng buồn nhất đau khổ nhất ? Chắc chắn đó là cái chết của một cô gái đẹp.
Ai sẽ là người đau khổ nhất khi nghe cái tin ấy ? Dĩ nhiên đó là người yêu của nàng. Thế là ông nghĩ tới một chàng trai vừa mất người yêu, người yêu có tên là Leonore để vần với Never More.
Chàng trai khi đó đang ở đâu ? Poe suy nghĩ: con quạ màu đen. Màu đen nổi bật nhất trên nền màu ǵ ? Màu trắng. Vậy ta hăy chọn màu trắng của bức tượng. Một bức tượng của ai nhỉ ? Ta hăy chọn bức tượng của Pallas Athènes. Bức tượng đặt ở đâu ? Trong thư viện.
Edgar Poe giải thích rằng để bài thơ được thống nhất, cần phải chọn một nơi kín đáo. Vậy là ông đặt bức tượng Minerve trong thư viện.
Chàng trai ngồi một ḿnh trong đó, giữa những quyển sách của chàng và thương khóc người yêu đă chết, so lovesick more.
Sau đó con quạ bay vào. Tại sao con quạ lại bay vào ? Như ta đều biết thư viện là một nơi yên tĩnh, vậy cần phải đưa ra một cái ǵ đó trái ngược: Edgar Poe tưởng tượng ra một trận băo. Đêm giông băo đă ném con quạ vào thư viện.
Chàng trai hỏi tên con quạ nó kêu lên: never more. Chàng trai đau khổ vật vă, tiếp tục hỏi nhưng nó trả lời tất cả những câu hỏi đó bằng cách lặp đi lặp lại: never more, never more, never more không bao giờ nữa.
Nhưng chàng trai vẫn hỏi, hỏi măi. Cuối cùng chàng trai nói với con quạ điều mà ta có thể coi là ẩn dụ đầu tiên của bài thơ: Hăy tống khứ cái mỏ của mày ra khỏi trái tim tao rồi rút ra khỏi cửa.
Con quạ đă trở thành biểu tượng của kư ức, một kư ức đáng buồn thay bất tử, con quạ ấy đáp: never more. Chàng trai hiểu rằng chàng đă bị kết án chung thân, rằng trong suốt quăng đời c̣n lại, quăng đời kỳ ảo c̣n lại, chàng sẽ phải chuyện tṛ với con quạ, con quạ chỉ biết khẳng định một điều duy nhất: không bao giờ nữa.
Chàng sẽ suốt đời phải đặt cho nó những câu hỏi mà chàng đă biết trước câu trả lời. Nói cách khác, Edgar Poe muốn chúng ta tin rằng ông đă viết một bài thơ lư trí.
Nhưng chỉ cần nghiên cứu chủ đề của bài thơ kỹ hơn một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rằng điều đó là giả tạo. Edgar Poe hoàn toàn có thể thực hiện được ư tưởng sáng tác một cách duy lư của ḿnh, nếu chọn một gă dở hơi hay một người say rượu thay cho con quạ. Khi đó chúng ta sẽ có một bài thơ khác hẳn và khó giải thích hơn.
Một đêm nao lúc giữa đêm buồn thảm, tôi đương ngẫm ngợi mệt lả và ră rời. Trước cuốn sách chẳng c̣n ai nhớ đến khá lạ kỳ và xưa cũ. Tôi đương gà gật gần như thiếp đi, đột nhiên có tiếng đập vào cửa.
Như có ai nhẹ nhàng gơ cửa, gơ vào cửa buồng tôi.
“Có khách nào”
Tôi khẽ nói:
“đập vào cửa buồng”
Chỉ vậy thôi chẳng có ǵ hơn nữa. À, tôi nhớ rơ một đêm tháng chạp lạnh lẽo. Mỗi thanh củi chết dần tro than đổ hồn bóng của nó lên sàn. Tôi da diết muốn trời mau sáng, đă hoài công mượn chồng sách mong ngơi ngớt cơn sầu, nỗi sầu nàng Lenore đă mất. Người xũ nữ rạng ngời hiếm có được thiên thần gọi tên Lenore.
Giờ tên nàng chẳng c̣n trên đời nữa. Và tiếng lụa xột xoạt mơ hồ buồn bă của từng tấm rèm hồng tía Làm tôi rùng ḿnh tràn ngập hồn tôi nỗi khiếp sợ lạ kỳ chưa cảm thấy bao giờ. Để b́nh tâm tôi lại tự nhủ ḿnh.
“Có vị khách nào đứng ngoài cửa nài nỉ xin vào. Một vị khách muộn màng nào đó, đứng ngoài cửa nài nỉ xin vào”
Thế thôi chẳng có ǵ hơn nữa. Lúc này tôi đă vững tâm hơn chẳng c̣n e ngại nữa.
“Quư ông hay quư bà” tôi bảo:
” thực ḷng xin thứ lỗi. Quả t́nh tôi đương thiếp ngủ mà quí vị lại gơ quá nhẹ nhàng. Lại đập quá khẽ khàng đập cửa buồng tôi. Tôi không dám chắc là đă nghe tiếng gơ”
Và đây tôi mở rộng cửa. Ngoài đó đêm đen chẳng có ǵ hơn nữa. Nh́n sâu vào đêm thẳm tôi đứng đó thật lâu ngạc nhiên sợ hăi. Ḷng nghi hoặc mơ những giấc mơ chẳng người trần nào từ trước dám mơ. Nhưng im lặng vẫn hoàn im lặng và bóng đêm chẳng hé lộ điều ǵ.
Và chỉ một từ được thốt lên tiếng th́ thầm.
“Lenore!”
Tiếng th́ thầm của chính tôi và lầm rầm nghe vọng lại
“Lenore!”
Chỉ vậy thôi chẳng c̣n ǵ hơn nữa. Trở lại pḥng cả hồn tôi rực cháy. Rồi tôi lại nghe một tiếng đập nghe chừng c̣n mạnh hơn lần trước.
“Chắc là” tôi tự nhủ
“ chắc có ǵ động ngoài song cửa
Hẵng thử xem ngoài ấy có ǵ rồi sẽ t́m ra bí ẩn này, Hẵng cứ b́nh tâm giây lát rồi sẽ t́m ra bí ẩn này, Là gió thôi chẳng có ǵ hơn nữa. Tôi mở tung cánh cửa con quạ vung vinh vỗ cánh dồn dập bước vào. Một con quạ bệ vệ trang nghiêm của những ngày thiêng xưa cũ. Chẳng hề cung kính không lúc nào dừng lại hay đứng yên.
Mà với bộ mặt đài các kiêu kỳ đậu vào phía trên cánh cửa buồng tôi. Đậu trên tượng bán thân thần Pallas đặt ngay phía trên cánh cửa buồng tôi. Đậu chễm chệ thế thôi chẳng có ǵ hơn nữa. Thế rồi với bộ dạng trịnh trọng nghiêm nghị. Con chim màu mun này làm tôi nguôi đi ḷng đương sầu muộn chợt thấy buồn cười.
“Cho dù đầu ngươi bị xén trụi lông rồi” tôi bảo:
“Nom ngươi chẳng nỗi nào hèn nhát”.
Con quạ khủng khiếp và cổ lỗ bay lang thang thoát khỏi bờ đêm. Cho ta biết quư danh ngươi nơi bờ đêm địa ngục. Con quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” Tôi kinh ngạc xiết bao khi nghe con chim lóng ngóng vụng về này phát thành lời rơ thế. Dù câu trả lời khá vô nghĩa vu vơ. Bởi tôi cũng như bạn không thể tin rằng một ai trên đời này. Có diễm phúc được thấy loài chim hay thú nào trên cánh cửa pḥng ḿnh.
Nó đậu ngay trên pho tượng phía trên cửa pḥng ḿnh. Với một cái tên:
“Không bao giờ nữa” Nhưng con quạ đơn độc đậu trên pho tượng câm lặng ấy. Chỉ nói mỗi một từ dường như nó trút cạn cả linh hồn vào đó. Rồi nó chẳng thốt thêm lời nào lặng yên không động cánh. Cho đến khi tôi khẽ th́ thầm:
“Bạn bè đă bỏ tôi bay biến đi từ trước. Và ngày mai nó lại sẽ bỏ tôi như bao hy vọng đă bay đi từ trước. Lời quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” Giật ḿnh trước sự yên tĩnh bị phá vỡ bởi tiếng trả lời rất đanh và rơ. Tôi liền bảo:
“ Chắc lời nó thốt ra là toàn bộ vốn liếng ngôn từ lấy từ một ông chủ bất hạnh, mà tai ương tàn khốc bám riết theo cho đến khi những bài ca nước mắt, và những lời ai điếu Niềm Hy Vọng hắn than văn u buồn trĩu nặng.
“Không bao giờ.. không bao giờ nữa” Con quạ cứ thế làm tôi khuây khỏa tâm hồn đương buồn bă lại muốn mỉm cười. Tôi bèn lê thẳng chiếc ghế nệm tới trước con chim, trước pho tượng bán thân và cánh cửa. Rồi lún ngập trong nhung đệm tôi miên man tưởng tượng.
Nghĩ ngợi con chim quái gở này từ thủa xa xưa. Con chim ác nghiệt thô vụng, rùng rợn buồn thảm và quái gở từ thủa xa xưa. Muốn nói ǵ khi kêu lên:
“Không bao giờ nữa” Đến lúc này tôi đành ngồi ngẫm đoán không nói một lời với con chim kiêu bạc. Mà đôi mắt rực lửa thiêu đốt tận tâm can. Đến lúc này ngồi dần dà đoán thêm, đầu nhẹ nhàng ngả trên nhung tím.
Nơi ánh đèn hau háu trùm lên. Nhưng chiếc gối bọc nhung tím ánh sáng đèn hau háu trùm lên. Nàng sẽ chẳng ôm gh́ được nữa không bao giờ nữa. Rồi tôi cảm thấy khí trời đậm đặc hơn đượm mùi thơm từ một lư hương vô h́nh. Đung đưa trên tay thiên thần mà tiếng chân buông khẽ vang trên thảm.
“Thân làm tội đời” tôi gào lên:
” Chúa đă ban cho ngươi và qua những thiên thần này đă gửi tới cho ngươi niềm khuây khỏa, niềm khuây khoả và rượu giải sầu để lăng quên Lenore.”
Hăy uống.. hăy uống đi chút rượu giải sầu này và quên đi nàng Lenore đă mất.
Con quạ kêu:
“Không bao giờ nữa” “Kẻ báo điềm kia!” Tôi bảo:
“ Đồ tai ác kia! Ngươi lặng thinh là chim hay là quỷ”.
Quỷ cám dỗ phái ngươi đến hay băo táp quăng ngươi dạt vào bến bờ này. Vừa cô độc lại vừa nghênh ngang khinh bạc, trên mảnh đất thần diệu hoang vu này. Trong ngôi nhà ám ảnh rùng rợn ấy ta van ngươi hăy nói thật ta nghe.
Có chăng liệu có chăng nhựa hương vùng Gilead ? Con quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” “Kẻ báo điềm kia!” Tôi bảo:
“Đồ tai ác kia ! Ngươi lặng thinh. Là chim hay là quỷ”.
Có trời cao nh́n xuống chúng ta có chúa mà hai ta tôn thờ. Xin hăy bảo cho tâm hồn đang trĩu nặng buồn thương, xem trên cơi thiên đường xa xôi. Nó có c̣n được xiết vào ḷng người nữ thánh thiện được các thiên thần gọi tên Lenore. Hiếm có được các thiên thần gọi tên Lenore. Con quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” “Là chim hay là quỷ, lời ngươi kia là dấu hiệu của chia ĺa”
Tôi đứng phắt dậy gào lên. Hăy quay về với dông băo và bờ đêm địa ngục. Đừng bỏ lại một chiếc lông đen nào làm bằng cho lời dối trá mà hồn ngươi vừa phun ra. Cút khỏi pho tượng trên cánh cửa buồng ta. Hăy rút mỏ ra khỏi tim ta và mang h́nh hài ngươi biến sau khung cửa. Con quạ đáp lời:
“Không bao giờ nữa” Và con quạ không hề động cánh vẫn im ĺm, tọa im ĺm. Trên bức tượng xanh xao tượng Pallas bán thân bên trên cánh cửa. Và mắt ấy mắt quỷ đương mơ ngủ Và ánh đèn trên cao đổ bóng và hồn tôi khi nào thoát khỏi bóng quạ đen dập dềnh trên sàn. Không thể nào bay lên.. không bao giờ nữa.
Edgar Allan Poe
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 168 of 2534: Đă gửi: 30 May 2008 lúc 1:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
MA ĐÊM HALLOWEEN
Lúc tôi lên bảy gia đ́nh tôi dọn về sống ở Cleveland Ohio, trong một khu chung cư lớn gọi là Clifton Manor.
Khu chung cư này đă xây lâu năm nên rất cổ xưa và cũ kỷ, với những ṿng sắt cong chạy dài theo hành lang để chắn gió, bên cạnh những cánh cửa lớn đen ng̣m không nh́n thấu được.
Tôi không nhớ chính xác nó có bao nhiêu tầng, nhưng tôi nghĩ là nó có khoảng năm hay sáu tầng ǵ đó và ở mỗi tầng có khoảng mười lăm đến hai mươi căn.
Đêm hôm đó là Halloween trời vừa sụp tối, tôi vội vă chuẩn bị đồ đạc và cái bao gối đi xin kẹo một ḿnh v́ má tôi phải ở nhà chăm sóc đứa em mới sanh. Với lại tôi chỉ đi xin kẹo ở trong khu chung cư này thôi không cần đi ra ngoài xin để làm ǵ, cho nên má của tôi mới an tâm để tôi đi một ḿnh.
Sau khi đi được vài tầng lầu với cái bao gần đầy kẹo vác theo sau lưng, tôi bước vào thang máy để tiếp tục lên trên tầng kế tiếp. Đến tầng trên vừa bước ra thang máy tôi giáp mặt với Donald, con của người cai quản khu chung cư này.
Thường ngày anh ta rất cà chớn, v́ học hơn tôi một lớp nên anh ta ỷ lớn ăn hiếp tôi, c̣n tôi chỉ là một người con gái nhỏ con yếu đuối thường bị anh ta xô vào bụi cây trên đường từ trường về nhà.
Theo phản ứng tự nhiên, khi gặp anh ta là tôi sợ rồi nhưng hôm nay lại khác, anh ta lại chuyện tṛ với tôi rất tử tế về việc đi xin kẹo, và anh ta c̣n nói rằng những người ở tầng dưới cho kẹo chocolate bar ngon lắm, nếu muốn đi th́ anh ta sẽ dẫn đi.
Nghe đến những thỏi chocolate thơm ngon làm ḷng ham muốn nổi dậy, tôi không đắn đo suy nghĩ ǵ hết liền theo anh ta.
Chúng tôi vào thang máy đi xuống tận dưới tầng cuối cùng. Cái tầng này có rất nhiều ống dẫn nước, nước rỉ ra từ những đường rạn nứt trên tường, làm cho không khí ở đây rất là ẩm ướt và ma quái, với những ánh đèn vàng lờ mờ dọc theo hai bên tường. Đồ đạc để đầy ở nơi đây được trùm bằng những tấm vải trắng trông giống như những con quái vật.
Khi thấy cảnh tượng này tôi cũng hơi sợ nhưng Donald thúc giục gần sắp tới rồi. Donald đi trước tôi nối gót theo sau. Màng nhện giăng đầy dẫy khắp nơi, có đôi lúc tôi phải cúi xuống để tránh bị màng nhện bám vào đầu tóc.
Cuối cùng chúng tôi đến một cái cổng làm bằng gỗ với ống khóa bên ngoài, đáng lẽ tôi phải biết đây là cái cạm bẫy, nhưng v́ cứ nghĩ đến những thỏi chocolate mà không để ư ǵ khác.
Donald cầm chùm ch́a khóa của ba anh ta năy giờ, đến bây giờ mới dùng đến nó. Sau khi mở ổ khoá xong, anh ta từ từ kéo cánh cửa gỗ ra, bỗng dưng anh ta đổi sắc mặt với cái giọng cà chớn:
- Vào trước đi..
Vừa nói anh ta vừa đẩy tôi thật mạnh vào bên trong căn pḥng tối om. Sau đó anh ta đóng sầm cửa lại và khóa tôi ở trong đó. Anh ta đă bỏ tôi ở trong pḥng dưới tầng cuối cùng, gọi là cái hầm nhà một ḿnh..
Trước khi đi anh ta c̣n để lại một tràng cười khoái chí. Lúc đó tôi đă biết ḿnh bị lừa nhưng đă trễ rồi..
Căn pḥng tối om làm tôi sợ lắm, tôi cố gắng dồn hết sức la cho thật lớn, tay th́ đập mạnh vào cánh cửa hy vọng có người nghe thấy sẽ xuống nơi này mở khóa cho tôi.
Sau một hồi la khóc khan cả tiếng, tôi không thấy ai đến cứu. nên tôi nín khóc và t́m cách để ra ngoài. Tôi lấy hết can đảm của một người con nít bảy tuổi, dựa theo cái tường trơn trượt phủ đầy rong rêu quờ quạng đi trong bóng tối.
Càng đi vào trong càng tối, đến nỗi để tay trước mặt c̣n không thấy, dĩ nhiên tôi vẫn c̣n dựa theo bức tường đi cho an toàn, bỗng dưng tôi trượt chân té xuống một vũng bùn lầy, ẩm ướt và hôi hám làm tôi sợ mất hồn.
Sau khi bị trượt chân tôi không thèm đi đâu mà chỉ ngồi yên một chỗ, cho đến khi tinh thần kiệt quệ, tôi đổ hết kẹo trong bao gối ra rồi chui vào trong đó. Có lẽ mệt mơi v́ la khóc nên vừa nằm xuống là tôi ch́m vào giấc ngủ ngay lập tức.
Không biết ḿnh đă ngủ bao lâu nhưng có ǵ đó đă làm tôi giật ḿnh. Mở to đôi mắt c̣n ngái ngủ ra, tôi thấy một vùng ánh sáng lờ mờ cách xa chỗ tôi nằm.
Lúc đó tôi nghĩ có lẽ trời đă sáng nên trong ḷng cũng thấy bớt sợ một chút. Nhưng không ánh sáng đó từ từ tiến đến gần tôi, càng đến gần tôi càng thấy sáng hơn.
Chuyện ǵ đang xảy ra th́ tôi không biết, tôi chỉ thấy lạ rồi sợ nên cuộn ḿnh trong bao gối rồi ôm nó thật chặt. Ánh sáng tiến đến càng gần tôi càng thấy rơ hơn, th́ ra đó là một người đàn bà đang cầm một cây nến.
Bà ta mặc quần áo lạ lắm không giống má tôi và những người đàn bà khác, tóc bà ta th́ bới theo kiểu nào đó tôi chưa từng bao giờ thấy. Tôi nh́n bà ta thật kỹ và để ư rằng bà ta không phải đi như một người b́nh thường, mà từ từ lướt tới rất nhẹ nhàng.
Khi đến gần tôi bà ta không nói ǵ, mà chỉ lấy tay chỉ cánh cửa, bây giờ tôi mới thấy được nhờ ánh sáng của ngọn nến, tôi đoán bà ta có thể là má của Donald xuống đây mở khoá cho tôi, nên tôi vội nhanh chân chui ra khỏi bao gối chạy nhanh đến cánh cửa lấy tay cầm cái nắm mở ra.
Lúc đó tôi mới phát giác ra cửa vẫn c̣n khóa. Vào lúc này tôi chỉ biết đứng đó chết trân, hai mắt chăm chăm nh́n người đàn bà không biết từ đâu đến, nhưng chỉ trong ṿng vài giây bà ta lướt đến thật nhanh rồi đi "xuyên" qua cánh cửa, sau đó tôi nghe "rắc" một cái cánh cửa mở ra.
Khi cửa mở tôi phóng nhanh ra ngoài và chạy thẳng một mạch về đến nhà, mà không dám quay đầu lại. Về đến nhà tôi mới biết má tôi đă gọi cảnh sát, và họ đang lục soát t́m tôi khắp nơi trong khu chung cư tôi đang ở, kể cả những nhà hàng xóm kế bên.
Vừa thở hổn hển tôi vừa kể lại những chuyện đă xảy ra cho má tôi nghe, nhưng khi má tôi nghe đến cái phần tôi gặp một người đàn bà mở khóa cho tôi, th́ má tôi liền nổi giận nói là tôi bịa chuyện, và chỉ có tôi mới đặt ra câu chuyện ngu xuẩn như vậy...
Rốt cuộc chẳng có người nào tin tôi, đến khi cảnh sát xuống dưới hầm nhà và t́m thấy trong căn pḥng sau cánh cửa gỗ, có nhiều bao giấy kẹo rải rác khắp nơi, họ mới tin tôi thật sự đă bị nhốt ở đây, nhưng làm cách nào mà tôi ra khỏi đó, họ không thể nào giải thích được.
Tôi không biết người đàn bà tốt bụng đó là ai, nhưng tôi xin cám ơn bà ta rất nhiều. C̣n Donald th́ bị ba mẹ anh ta phạt mấy roi v́ cái tội nhốt tôi.
Từ đó anh ta không c̣n dám chọc phá tôi nữa, không biết v́ anh ta sợ bị ba mẹ đánh, hay là v́ sợ người đàn bà tốt bụng theo nhát anh ta.
Truyện Ma
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 169 of 2534: Đă gửi: 30 May 2008 lúc 9:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGĂN KÉO SỐ MƯỜI BỐN
Làm người trực đêm ở nhà xác thành phố th́ cũng chẳng có ǵ đáng khoe, nhưng công việc này cho phép tôi vẫn đi học đầy đủ vào ban ngày và cũng có thể nghiên cứu thêm vào ban đêm, bên cạnh những nhiệm vụ phải làm vốn không nặng nề ǵ.
Trong các ngăn kéo được đánh số và gắn thẻ, các xác chết trong đó sẽ chẳng bao giờ quấy rầy tôi, trong khi tôi đang nặn óc đánh vật với các vấn đề tích phân. Tôi vẫn nghĩ thế.
Tối hôm đó tôi tới đổi phiên cho Olaf Daly như thường lệ. Olaf là một lăo già chết cứng với cái nghề này v́ đă lớn tuổi và v́ cái chân thọt, nên cả ngày lăo chỉ mong cho tới lúc đổi phiên. Như mọi khi lăo ầm ừ một câu chào rồi tạm biệt cùng một lượt. Với cái chân thọt mà lăo đi ra khỏi nhà xác coi bộ nhanh nhẹn ác.
C̣n lại một ḿnh trong gian pḥng phía ngoài vắng lặng, tôi đặt b́nh thủy, chiếc radio và mấy cuốn sách lên bàn, rồi tôi lôi cuốn sổ trực to tổ bố lại gần xem qua một lượt. Olaf đă ghi chép việc xuất nhập hàng ngày bằng nét chữ khẳng khiu của lăo. Một ông chết đuối. Một gă ngủ say tới bỏ mạng khi nhà bốc cháy. Một chú đánh lộn bị đâm chết. Một phụ nữ bỏ xác trôi sông...
Công việc mỗi ngày của Olaf rất đều đặn. Cả tuần qua chẳng có ǵ đặc biệt đáng chú ư. Ngoại trừ cái bà tuần qua nằm ở ngăn số mười bốn. Nghe đồn là phù thủy, bà ta xưng là Phù thủy Endor đệ tứ.
Nhiều người tin bà gớm, bà ta sống ở một khu nghèo nàn và thất học, kiếm ăn bằng nghề đoán số đề, bán bùa ngăi... nhưng dân láng giềng nói bà ta chưa làm ǵ bậy. Một đêm trời nóng nực bà ta leo lên mái nhà khu chung cư. Không hiểu do trượt chân hay v́ muốn bay lên mặt trăng nhưng thất bại, mà người ta thấy bả nằm phơi xác trên mặt đường nhựa, trước khu chung cư sáu tầng lầu đó, rồi được mang tới đây đặt trong ngăn số mười bốn.
Bả nằm trong ngăn đông lạnh đó bốn ngày th́ có đứa con ở tận đâu đó tới nhận xác. Với Olaf th́ mụ ấy chưa hoàn toàn đi khỏi đây lăo già nói:
- Tao thề là có cái mùi ǵ ở ngăn số mười bốn đó, giống như mùi lưu huỳnh.
Tôi có thấy cái ǵ đâu. Mũi tôi c̣n đầy nghẹt mùi của pḥng thí nghiệm nơi tôi đă phải trầy trật để theo kịp chúng bạn. Tôi dẹp cuốn sổ để đi tuần một ṿng. Căn pḥng kế cạnh thắp đèn sáng choang, nhưng lạnh tanh thênh thang và không sinh khí.
Nền pḥng sạch bông thoang thoảng mùi thuốc sát trùng. Đằng kia là cánh cửa lớn mở ra lối cho xe chở xác chạy vào, cạnh đó là cái bàn đá có chân bánh xe mặt bàn dài thượt. May mắn mà lúc này nó trống, được lau chùi sạch sẽ chờ lúc được sử dụng tới. Cái máy lạnh phát ra tiếng rù ŕ trầm trầm chú ư mới nghe thấy.
Ở phía tay phải giống như một tổ ong khổng lồ, là hàng hàng lớp lớp những ngăn kéo để chứa các xác chết trong khi chờ thân nhân đến nhận, hay sau cùng th́ nhà nước bỏ tiền ra chôn làm phước.
Ngăn kéo nào có xác đều được gắn thẻ, như thẻ hành lư trong kho trên máy bay hay tàu thủy. Thẻ được móc vào tay cầm của ngăn kéo. Tôi huưt sáo nho nhỏ chỉ v́ muốn tạo một âm thanh ǵ đó thôi, và bắt đầu kiểm tra những thẻ theo danh sách trong sổ mà tôi vừa xem qua và nhớ được.
Tới gần ngăn số mười bốn tôi chợt khịt mũi .
"A! cái mùi lưu huỳnh của lăo Olaf đây !"
Tôi lẩm bẩm. Đi qua ngăn kéo ấy một bước th́ tôi giật ḿnh, ngoảnh đầu rồi xoay cả người lại. Olaf đâu có ghi xác nào trong ngăn mười bốn nhưng mà có thẻ gắn ở ngăn này. Tôi cúi người tới đưa tay ra huưr sáo không thành tiếng nữa. Tôi cầm tấm thẻ lật qua lật lại. Một lần, hai lần rồi ba lần càng lúc càng nhanh.
Đứng thẳng dậy tôi găi đầu một phát. Cả hai mặt thẻ đều trống trơn chẳng ghi ǵ cả. Olaf tuy già nhưng đâu đến nỗi lẩm cẩm. Quên ghi tên người vào thẻ, lăo chưa từng có vụ này bao giờ. Rồi tôi nhếch mép cười. Lăo già này muốn đùa đây, tôi đâu dè lăo cũng khoái giỡn như thế. Tôi lại huưt sáo được thành tiếng nghe có vẻ tỉnh táo lắm nhưng không có ǵ hay ho.
Tôi nắm lấy tay cầm và kéo mạnh. Ngăn kéo vốn có bánh xe nên tuột ra cái rẹt. Tiếng huưt sáo của tôi chợt tắt ngúm. Một người đàn bà đang nằm trong đó! Tóc vàng coi trẻ măng và đẹp nữa mặc dù đă chết.
Tôi đứng nh́n cô ta mà nghe mấy ngón chân ngọ ngoạy trong đôi giày. Nét mặt cô thật dễ thương làn da mịn màng như lụa. Đôi mắt khép nhẹ như đang ngủ, bờ mi cong và dài đen mướt. Cô mặc bộ đồng phục y tá. Món duy nhất cho tôi biết lai lịch chút ít của cô là tấm lắc dây chuyền ở cổ tay. Trên tấm lắc có khắc hai mẫu tự Z. L.
Tôi vội vàng quay đi chạy ra pḥng ngoài vồ lấy cuốn sổ trực tôi lật vội ra xem. Tôi không muốn nghi oan lăo Olaf. Tôi rà một lượt ngớ người ra rà lại lần nữa. Lật trang trước coi phần ghi chép hôm qua và cả hôm kia nữa. Tuyệt nhiên không có ai được đưa vào ngăn mười bốn cả.
Tôi chu mỏ nhưng huưt sáo không nổi và bước tới cửa vào pḥng lạnh. Phía trên cửa có hai khung kiếng nên tôi có thể nh́n vào trong mà không cần mở cửa. Ngăn kéo mười bốn bị lôi kéo ra vẫn c̣n nguyên ở đó, và cô Z. L. tóc vàng vẫn nằm chần dần một đống như cũ.
Tôi cẩn thận ngồi xuống ghế rút khăn tay ra và lau trán. Hít một hơi dài tôi nhấc phôn lên quay số của Olaf. Khi nghe tiếng chuông, tôi c̣n liếc lại cửa pḥng lạnh. Giọng vợ Olaf nghe ngái ngủ:
- Ồ rất tiếc. Ông Olaf nhà tôi chưa về.
Rồi chợt giọng bà ta nghe tử tế hơn.
- Chờ chút tôi nghe tiếng ông ấy mở cửa.
Giọng Olaf vang lên sau tiếng đằng hắng:
- Rồi, chuyện ǵ ?
- Tully Branson đây bác Olaf.
- Không có cái vụ trực thế cho mày đi nhậu với bạn đâu à nghen !
- Không có đâu, tôi đáp.
- cháu chỉ muốn biết về cái cô trong ngăn mười bốn.
- Không có ai trong ngăn mười bốn hết, Tully.
- Có mà thưa bác. Một cô tóc vàng đàng hoàng. Trẻ và đẹp chết uổng hết sức. Chắc bác nhớ ra hén có điều bác quên ghi sổ nhập cho cô ấy.
Tôi nghe tiếng bà Olaf hỏi chồng chuyện ǵ đó, rồi nghe ông ta nói với vợ:
- Chắc cái thằng Tully này đêm nay nó mang rượu vô đó uống quá!
- Không có bác ơi, tôi cự liền.
- Cháu khoái nhậu nhưng không có mang rượu vô đây à nghen! Chỉ có chuyện cô tóc vàng ở ngăn mười bốn bác quên ghi sổ thôi !
- Đời nào tao lại quên chuyện đó được ?
- Có mà. Không tin bác ghé đây coi đi.
- Tao sẽ tới con ạ ! Sai sót này lớn lắm chứ chơi đâu.
Lăo dộng ống nói xuống thiếu điều làm tôi thủng cả màng nhĩ. C̣n tôi th́ nhẹ nhàng đặt ống nói xuống, lấy b́nh thủy rót một ít cà phê ra, đốt một điếu thuốc, nhấp một ít cà phê châm một điếu thuốc. Nhấp miếng cà phê nữa cất b́nh thủy vào chỗ của nó, tḥ tay lấy gói thuốc lúc đó tôi mới nh́n thấy ḿnh đă châm hai điếu bỏ trên gạt tàn. Tôi mếu miệng cười dụi tắt một điếu để dành đêm khuya.
Với bước chân khập khiễng lăo Olaf bước vào cứ như một con tàu đi trong dông băo. Đáp lại ánh mắt trợn trừng của lăo, tôi chỉ mỉm cười với tất cả sự chắc ăn ḿnh có được và mời lăo vào pḥng xác.
Lăo đi qua cánh cửa tôi theo sát nút. Ngăn mười bốn vẫn c̣n kéo ḷi ra ngoài ở đó. Lăo chẳng cần đi tới nơi. Nh́n một cái lăo quay lại liền:
- Tully, lăo nói:
- Tao mà c̣n trẻ là đập bể mặt mày liền. Mày bắt một người già mệt nhọc nửa đêm tới một nơi hôi thối như thế này đó hả ? Vậy mà lâu nay tao cứ nghĩ mày là thằng nhóc tử tế đó !
- Nhưng bác Olaf...
- Không có "nhưng" ǵ cả cái vụ này tao sẽ báo cáo !
Tôi trợn mắt nh́n ngăn mười bốn như thằng khùng. Cô ta vẫn c̣n đó thù lù một đống. Tóc vàng xinh đẹp và chết cứng. Olaf xô tôi qua một bên và bước đi. Tôi níu lấy tay lăo. Tôi đúng là c̣n nhỏ tuổi nhưng cũng đă mọc râu rồi. Tôi kêu lên:
- Bác Olaf.. bác thấy mà..cháu biết bác thấy mà.
- Bỏ cái tay ra nghe chưa, lăo quát:
- Tao thấy rơ ràng là cái ngăn kéo trống trơn, y hệt cái đầu óc của mày vậy.
Tôi cứ níu tay lăo không cho đi:
- Cháu không có chịu giỡn kiểu này đâu.
- Th́ tao cũng vậy.
Lăo quát vào mặt tôi.
- Giỡn ǵ cà chớn.
- Th́ bác coi kỹ cái ngăn đi đừng giỡn nữa mà.
- Th́ tao đă coi rồi. Không có ǵ hết ngoài một thằng nhóc láo lếu dám bày tṛ thối tha là bắt một người già phải nửa đêm tới đây.
Lăo giật tay ra và bước nhanh ra ngoài. Đến cửa lăo quay lại dứ dứ ngón tay về phía tôi:
- Nè nhóc tốt nhất là từ mai mày lo kiếm việc làm khác đi.
Và lăo dông thẳng. Tôi bước theo tới pḥng ngoài rồi quay lại. Nh́n qua khung kính vào pḥng xác tôi lại rên lên khốn khổ. Cô nàng Z.L. vẫn nằm ch́nh ́nh trong ngăn kéo mười bốn.
- Đàng hoàng coi.
Tôi lầm thầm với cô ta.
- Tôi nhắm mắt rồi mở ra là cô phải biến mất à nghen!
Tôi nhắm mắt rồi mở ra. Vẫn y nguyên. Tôi bước tới bàn rồi sụm xuống nhưng cũng chẳng được lâu. Có tiếng chuông kêu ở cửa nhận xác, làm tôi muốn nhảy nhổm rồi vội vàng chạy qua pḥng xác ra cửa.
Smith và Macklin mở toang cửa xe chở xác, lôi một băng ca đặt một ông già ăn mặc tả tơi ra và đem vào đặt trên bàn đá.
- Ông này lao ngay vào đầu xe tải. Smith nói.
- Không giấy tờ ǵ hết. Macklin tiếp:
- cứ ghi là John Doe.
- Tèm lem quá hả Tully.
Smith nói trong khi tôi phủ tấm khăn lên xác chết, Smith rất khoái chọc tôi v́ biết tôi yếu bao tử.
- Phải à, tôi liếm môi:
- C̣n đỡ hơn con nhỏ kia.
- Nhỏ nào ?
- Th́ con nhỏ trong ngăn mười bốn chớ đâu ?
Smith và Macklin nh́n lại ngăn kéo mười bốn nằm sau lưng tôi, rồi hai ông nh́n nhau.
- Tully, Macklin nói:
- Hôm nay có bệnh không đó ?
- Bệnh ǵ đâu ?
Tôi nghe mồ hôi trên trán muốn đóng băng lại.
- Có mất ngủ hông ? Có gặp ác mộng hông ?
- Đâu có, tôi đáp:
- Nhưng con nhỏ tóc vàng ở ngăn mười bốn... Nếu không phải mấy ông đưa tới, th́ chắc hai ông Collins với Snavely làm ca ban ngày có thể cho tôi biết rơ hơn.
Cả hai ông như dội ra, rồi Smith bật cười phá tan sự im lặng :
- Người đẹp tóc vàng ngăn mười bốn, ngăn của bà phù thủy bữa trước...Hay lắm Tully tao hiểu rồi.
Macklin ngơ ngác nh́n bạn :
- Tức là sao ?
- Tức là, Smith đă ngớt cười:
- Thằng quỷ Tully này ở đây một ḿnh buồn quá, nên bày chuyện xí gạt ḿnh chơi đó mà phải không Tully ?
Vậy là hai ông này cũng không nh́n thấy cô bé luôn. Nếu tôi cứ khẳng định hoài chỉ tổ cho hai người cười thôi, nên tôi cũng ráng cất lên tiếng cười hô hố.
- Đừng để xác thiếu lạnh nghe chưa ?
Smith thúc cùi chỏ vào sườn tôi cười khành khạch rồi đi ra. Macklin nh́n tôi ngơ ngác rồi đi theo. Cửa đóng lại làm tôi rầu thúi ruột. Lần đầu tiên trong đời, cảm giác chỉ có một ḿnh trong nhà xác làm bao tử tôi teo c̣n một cục nhăn nhúm. Tôi đi ṿng qua ngăn mười bốn, cứ như đang đi trên một chiếc cầu bằng thủy tinh bắc qua một bờ vực.
- Đi đi mà, tôi th́ thầm với Z.L.
- Cô đâu phải xác chết. Chỉ là một h́nh ảnh riêng một ḿnh tôi thấy. Nên làm ơn biến đi giùm.
Lời nói của tôi chẳng hiệu quả ǵ, mà chỉ làm tôi hoảng thêm khi thấy ḿnh lầm bầm nói chuyện với một thây ma. Trở lại bàn tôi ngồi run rẩy một lát rồi chợt nghĩ ra. Có thể tất cả Olaf, Smith và Macklin đă thông đồng với nhau, có lẽ hai tay chở xác làm ca ban ngày đă mang cô Z.L. này tới, rồi cả ba toa rập để nhát ma tôi chơi.
Cảm thấy an tâm hơn tôi lấy điện thoại gọi cho Juđ Lawrence. Juđ là bạn của bố tôi hiện làm cảnh sát điều tra ở đây. Chú ấy lúc nào cũng thiện cảm với tôi, và cũng chính là người giới thiệu cho tôi chỗ làm này.
Chú ấy chưa về ca trực của chú ấy tới mười một giờ mới xong. Tôi gọi lại sở cảnh sát và gặp được chú.
- Chào chú Lawrence. Tully Branson đây.
- Có ǵ không Tully ?
- Cháu có chuyện chú ơi.
- Nói đi, chú ấy đáp ngay.
- à... sổ sách đằng cháu h́nh như hơi lộn xộn.. Có một cô gái ở đây tóc vàng, làm y tá tên tắt là Z.L.
- Cháu phải gọi ông Olaf mà hỏi chứ.
- Phải nhưng làm sao t́m ông ấy được sau giờ làm việc, ông ấy luôn la cà quán xá. Giờ này mà gọi được ông ấy th́ ông cũng nổi sùng lên cho mà xem.
- Đúng rồi, chú Juđ bật cười:
- Chi tiết về cô gái chỉ có thế thôi hả ?
- Vâng. Cô ta có vẻ tử tế lắm. Kiểu người như vậy chắc sẽ chết b́nh thường và quàn tại nhà chứ đâu có bỏ trong nhà xác thế này.
- ư cháu muốn nói là chết mờ ám ? Juđ hỏi.
- Cháu không rơ. Nhưng có lẽ chết trong t́nh huống đáng nghi.
- Ok Tully để chú kiểm tra lại xem.
- Cháu làm phiền chú quá.
- Phiền ǵ. Chỉ cần phôn đi hỏi vài nơi là xong.
- Cám ơn chú nhiều, chú Lawrence.
Gác máy và trong khi chờ chú Juđ gọi lại, tôi ṃ tới cửa pḥng xác nh́n vào để thấy cô ta vẫn c̣n nằm đó. Quả thực cô vẫn c̣n đó. Tôi rầu rĩ trở lại bàn. Rồi điện thoại reo.
- Nhà xác thành phố đây.
Tôi vội vàng nói vào ống nói.
- Juđ đây Tully. Pḥng điều tra án mạng không có tên đó. Suốt hai mươi bốn giờ qua không có cô nào tên Z L. tóc vàng bị giết cả.
- Ô.. tôi kêu lên thất vọng.
- Chú kiểm tra danh sách y tá thành phố, chú Juđ tiếp:
- Có một cô y như cháu tả tên là Zella Langtry, y tá mới ra trường, nhà số 711 đường Eastland, làm ở bệnh viện thành phố. Nếu cô ta gặp chuyện ǵ th́ điều đó đang xảy ra v́ cô vừa hết ca trực tối nay.
Những điều nghe được đó cùng với h́nh ảnh cô bé trong ngăn mười bốn bỗng làm tôi nghĩ ra một điều và thấy rởn tóc gáy.
- Chú Lawrence, cháu chợt sợ rằng cô Zella sắp gặp chuyện chẳng lành.
- Cháu muốn nói ǵ vậy ?
- Bởi v́..bữa trước..bà phù thủy Endore đệ tứ có nằm ở đây..Bà ta rất..
- Cháu nói chuyện nhảm nhí ǵ đó, giọng chú gay gắt:
- Bộ cháu uống rượu say rồi hả ?
- Dạ không, tôi vội đáp.
- C̣n ǵ không ?
- Dạ không..cám ơn chú.
Hai mươi phút sau chiếc xe cà khổ của tôi đậu lại trên đường Eastland, đi bộ một đoạn là tôi t́m được số nhà cô ta. Đó là một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng, trông khiêm tốn với mảnh sân tí tẹo phía trước. Cả khu nhà đă tối đen yên ngủ.
Tôi đứng đó mấy phút và cảm thấy ḿnh ngố ơi là ngố th́ nghe tiếng máy xe ở đầu đường. Ngoảnh ra th́ thấy chiếc xe buưt đang nặng nề rời bến ở ngă tư đằng kia.
Đứng khuất vào bóng cây ven đường, tôi nhận ra bóng một cô gái vừa rời xe buưt và đi bộ về phía tôi, nhưng cô không phải người duy nhất xuống xe ở bến này. Đằng sau cô có một bóng người cao và to con. Thấy cảnh đó tôi muốn nghẹn thở luôn.
Cô chợt nhận ra có người theo ḿnh và cô rảo bước. Người đàn ông cũng rảo theo. Cô ngoảnh lại nh́n và bước vội hơn gần như chạy. Tiếng giày đàn ông trên mặt đường nghe mồn một. Tiếng la của cô gái nghẹn lại khi gă ta đuổi kịp và quàng tay xiết cổ cô.
Hai người dằng co với nhau, đôi chân cô gái đá loạn xạ. Từ chỗ nấp tôi vụt xông ra chẳng c̣n biết sợ là ǵ. Gă kia nghe tiếng chân tôi, gă quay lại buông cô gái ra th́ tôi lao người bừa vào hông gă.
Gă lên mạnh gối một cái trúng ngay cằm tôi. Tôi té ngồi xuống đường. Gă liền quay người bỏ chạy. Có đôi bàn tay dịu dàng đỡ tôi dậy và tôi nh́n rơ được đôi mắt của Zella Langtry lần đầu. Đôi mắt đẹp mơ huyền và long lanh trong bóng đêm.
- Cô có sao không ? tôi hỏi hơi thở c̣n hổn hển.
- Cám ơn tôi không sao. C̣n anh ?
- Bây giờ th́ ổn rồi, tôi đáp.
- Thật là may anh lại có mặt kịp thời, cô ta đă b́nh tĩnh lại.
- Ừ.. tôi.. t́nh cờ đi ngang qua đây. Để tôi đưa cô tới nhà cho chắc ăn. Khỏi báo cảnh sát vụ này làm chi. Có thấy được mặt mũi tên kia đâu ?
- Tôi đang về nhà. Nhà tôi ngay đằng kia.
- Chúng tôi đi bên nhau, cô xưng tên ḿnh là Zella, và tôi cho cô biết tôi là Tully. Đến trước cửa nhà hai đứa tôi nh́n nhau. Tôi hỏi tôi có thể gọi điện cho cô không th́ cô ấy rất hoan hỷ.
Đợi cô ấy vào hẳn trong nhà tôi mới thả bộ về chỗ đậu xe vừa đi vừa huưt sáo. Về đến nhà xác tôi đi thẳng vào pḥng xác. Nếu lư thuyết của tôi đúng th́ h́nh ảnh của Zella Langtry trong ngăn mười bốn sẽ không c̣n nữa, bây giờ cô đă được cứu thoát chết.
Kéo ngăn số mười bốn ra, tôi đực mặt đứng nh́n vào đó. Lư thuyết của tôi đến lúc này đă hoàn toàn đúng. H́nh ảnh của Zella Langtry không c̣n đó nữa. Nhưng thay vào đấy là một cô nàng tóc đỏ hung cũng xinh đẹp không kém.
Talmage Powell
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 170 of 2534: Đă gửi: 31 May 2008 lúc 3:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁI SỐ
Vợ chồng ông Nguyên, bà Mai bằng tuổi nhau. Người xưa có nói. Vợ chồng bằng tuổi là số con trâu nằm trên băi cỏ. Nghĩa là sướng hay khổ ? Số làm con trâu th́ chắc không phải là sướng. Nhưng con trâu được nằm trên băi cỏ lúc nào cũng có sẵn cỏ để ăn lại là nhất rồi.
Qua thời tiền vận, bà Mai thấy rơ số bà không giàu được nên suốt thời trung vận bà chịu an phận thủ thường, không cố gắng bon chen với đời. Bà Mai cứ nghĩ số ḿnh không giàu không sang, vùng vẫy cũng chẳng đi đến đâu chỉ khổ xác mệt tâm.
Năm một chín tám mươi gia đ́nh bà Mai được định cư nơi xứ Mỹ. Bà Mai bằng ḷng đi làm hăng xưởng. Ông Nguyên cứ bày đặt đ̣i làm Business. Bà Mai không chịu, ông Nguyên lười thấy mồ, mà làm Business th́ cực khổ lắm. Nếu số giàu ông Nguyên mua Stock, mua đâu trúng đó lời gấp ba bốn lần. C̣n đằng này chỉ mua Stock của hăng bà Mai làm thôi mà ông Nguyên c̣n lỗ chỏng gọng ra, mất hơn nửa tiền hưu.
Bà Mai lư luận kiểu đó rồi chứng minh cụ thể cho ông Nguyên biết. Này nhé thời bà c̣n đi làm trong hăng, cứ chỗ nào có bà là không có Overtime. Bà vừa rời chỗ đó th́ chỗ đó Overtime mút mùa lệ thủy. Chỗ bà mới đến đang có Overtime thiên hạ làm thở ra khói v́ mệt, bà vừa đến là Overtime cắt cái rụp. Số bà Mai nhàn nhưng không tiền.
Ông Nguyên vừa đi làm vừa đi học lại mà lúc nào cũng có Overtime, phải ráng đi cày mệt nghỉ v́ tính lo xa muốn kiếm thêm tiền để dành pḥng thân lúc tuổi già. Thấy chưa Cái Số đă định rồi. Cái Số đưa đẩy tư tưởng trong đầu ḿnh ra đến hành động.
Đáng lẽ ra vợ chồng cùng tuổi sẽ cùng cày cùng bừa, rồi sẽ rũ tay về hưu cùng một lúc. Nhưng cùng tuổi vậy mà số mệnh vẫn khác nhau. Ông Nguyên vẫn phải tiếp tục đi cày trả nợ cơm áo. Bà Mai th́ được nằm trên cỏ xanh, đóng vai liên tử cho ông Nguyên. Năm hai ngàn lẻ một hăng bà Mai chuyển việc ra ngoại quốc để được nhân công rẻ nên bà được hưu non, lănh gần ngàn bạc hưu của hăng, bà ở nhà luôn.
Mỗi tuần ông Nguyên bay đi làm Out Of State đến các tiểu bang khác nhau làm việc, từ sáng thứ hai đến tối thứ năm th́ có mặt ở nhà. Được cớ là người kiếm tiền nuôi vợ nên ông Nguyên về đến nhà không làm một điều ǵ động chân tay, coi như đương nhiên, là chuyện thiên kinh địa nghĩa. Đó là tư tưởng đối với vợ của hầu hết những người đàn ông Việt Nam trên thế gian này. Đă thế lại c̣n thừa thắng xông lên, tự do bày bừa. Lúc th́ quần áo dơ vứt ở salon, vứt ở nhà tắm, khi th́ cái ly cà phê đem ra tuốt Garare hoặc sân sau...
Bao nhiêu những chuyện trước đây, thời bà Mai c̣n đi làm, như phụ bà cắm nấu nồi cơm điện, rửa vài cái ly, đổ rác, ông Nguyên quên hết ráo một cách rất hồ hởi. Bà Mai cứ tha hồ nấu cơm lủi thủi một ḿnh, ông Nguyên cứ ôm Computer làm việc Lớn. Lúc nào người bà Mai khỏe bà chẳng nói ǵ. Nhưng những lúc mệt mỏi th́ hay suy nghĩ lung tung rồi tủi thân, bà Mai chạy tới nói với ông Nguyên
- Anh bây giờ ngon quá há, chắc có nhiều tiền lắm mới mướn được người làm đấy hả?
Ông Nguyên tṛn xoe đôi mắt ngây thơ nh́n bà Mai không hiểu ǵ cả. Bà bực dọc nói tiếp
- Em đến nhà người ta coi con nít vừa vui vừa có cả bạc ngàn mà không phải nấu cơm rửa chén dọn dẹp nhà cửa ǵ cả
Ông Nguyên lúc đấy mới hiểu ra, ôm vai bà xin lỗi rối rít
- Anh cứ tưởng là chuyện nhỏ.
Ông Nguyên chỉ để ư được một tuần rồi ngựa lại quen đường cũ.
Thành ra bà Mai không bị nạn huấn luyện chồng nấu cơm hộ vợ, khi chồng về hưu mà vợ vẫn c̣n đi cày, như một số bạn bè lấy chồng lớn tuổi hơn ḿnh, nhưng lại bị nạn người làm không công một trăm phần trăm. Gia tài của chồng trao tặng cho ta, gia tài của chồng một đống việc nhà. Số kiếp người đàn bà dù ở hoàn cảnh nào cũng không bao giờ b́nh đẳng được với đàn ông.
Sức khỏe của tuổi già giảm xuống với thời gian. Dần dần bà Mai không nấu nướng ǵ nhiều v́ ông Nguyên bị cao mỡ phải ăn kiêng. Dọn dẹp nhà cửa bà Mai cũng đă bắt đầu theo chủ nghĩa sơ sơ... mắt mờ mờ nh́n đâu cũng thấy sạch sẽ ... Nhàn cư th́ lại sinh buồn. Mấy chục năm sống với nhau đâu c̣n chuyện ǵ phải nói cho hiểu nhau biết nhau. Chuyện con cái cũng chẳng có ǵ để nói v́ mọi chuyện của tụi nó vẫn b́nh thường. Chuyện vui chuyện tốt lâu lâu mới có để nói. Chẳng lẽ lại mong tụi nó có chuyện xui xẻo để vợ chồng có chuyện bàn tán lo toan ?
Suốt tuần bà Mai ở nhà, cuối tuần ông Nguyên về, ngoài chuyện đi chợ cũng chẳng đi đâu. Đi Shopping làm ǵ v́ có cần mua sắm ǵ nữa đâu. Gặp bạn bè ăn nhậu th́ lại sợ cao mỡ ... Ông Nguyên ôm Computer hoài cũng mỏi mắt, bà Mai ôm phim Tàu, đọc truyện hoài cũng chán v́ nhức mắt... Vậy ta sống làm ǵ đây? Đi chơi xa th́ không có th́ giờ v́ ông Nguyên c̣n đi làm và bà Mai v́ sức khỏe kém cũng chẳng thích rời xa cái nhà có đầy đủ thứ cần thiết của ḿnh.... Chuyện đi du lịch vợ chồng bà Mai không quan tâm đến.
Một hôm trên đường từ Dallas thăm con trở về nhà ở Oklahoma, bà Mai nh́n thấy một Casino treo bảng khai trương rầm rộ bà rủ ông Nguyên.
- Hay là ḿnh đi cờ bạc đi anh.
Ông Nguyên mắt sáng lên mặt tươi rói.
- Đúng đấy có cách giải quyết nỗi buồn không tên rồi.
Bà Mai cũng cười hớn hở.
- Em với anh lúc nào cũng ngược nhau, em nói đông th́ anh nói tây, thế mà vợ chồng ḿnh lại hợp nhau chuyện cờ bạc may quá anh nhỉ ?
Ông Nguyên lườm bà Mai một cái, bà vui quá cũng không để bụng làm ǵ.
Tiểu bang OK mấy năm trước đây trong một thời gian dài, v́ sự đạo đức của các Cha nhà thờ, chính phủ chỉ cho dân chúng chơi đua ngựa. Đua ngựa cũng là Gambling nhưng vẫn có dính chút thể thao v́ ngựa chạy đổ mồ hôi, thiên hạ reo ḥ cổ vơ toát mồ hôi và thua tiền cá độ ngựa cũng toát mồ luôn.
Chính phủ không cho mở Lottery. Sau thấy dân chúng cứ chạy sang các tiểu bang hàng xóm mua vé số, lại thêm công quỹ cạn dần và với sức ép của các nhà đối lập, quốc hội tiểu bang đành phải ra đạo luật mở Lottery, liên kết với năm sáu tiểu bang khác.
Ông chính phủ lại c̣n tiến mạnh, cho phép mở Casino ở tứ phía đông tây nam bắc của tiểu bang trên đất của các ông thổ dân da đỏ. Chính phủ thâu thuế nhiều tiền sửa sang đường xá, trường học thêm tiền học sinh dồi dào phương tiện học hành, tiểu bang thêm Job chính phủ lại có thêm tiền thuế.
Dân chúng vui chơi đen đỏ xả hơi... Đôi bên đều lợi, c̣n dân đen nào ngu cờ bạc sạt nghiệp tan cửa nát nhà làm bậy ráng mà chịu, chính phủ không lo v́ các ngài đă có dư tiền xây thêm nhà tù mới rồi.
Hiện giờ th́ có hai ṣng bạc lớn nhất, tổ chức như Las Vegas tiện nghi và an ninh. Casino qua mặt Walmart về số lượng khách hàng cả vạn lần. Khách kéo Slot Machine phần nhiều là người già đến chơi cho qua thời gian chờ ngày rũ bụi trần gian lên đường luân hồi.
Mỗi lần đi hành quân ở Casino, ông Nguyên rút ba trăm đưa bà Mai một trăm kéo máy, ông Nguyên giữ hai trăm cho ḿnh. Mỗi tuần đi chiều thứ sáu, nếu huề hay thắng th́ đi thêm thứ bảy, cuối tháng đi thêm chủ nhật để dự rút số xe hơi.
Có vài lần hăng say đỏ đen vợ chồng bà Mai chơi đến hai ba giờ sáng mới về. Trên đường về hai vợ chồng cứ tự trách, bê tha trụy lạc quá nhưng mà vui cứ như thuở xa xưa, tinh thần tràn đầy sức sống trong một thân xác về chiều mệt mỏi.
Hầu như bà Mai ít ôm bạc của Casino về nhà, huề là bà mừng c̣n thắng th́ vui như tết. Thiên hạ nói Kéo máy làm ǵ có chuyện thắng. Bà Mai chỉ kéo máy một Cent. Tiếng là máy một Cent, nhưng máy có từ hai mươi đến hai mươi lăm Active Lines, nên mỗi lần bấm phải chi tối thiểu hai mươi Cents. Bà Mai chỉ bấm Cycle hai mươi Cents, lâu lâu chơi bạo lên bốn mươi Cents. Không dám chơi ngon bấm Max hai trăm hoặc hai trăm năm mươi Cents .
Ông Nguyên chơi bàn Black Jack, Three Cards Poker, Paigow, Texas Hold'em ... thỉnh thoảng thắng th́ bù cho bà Mai. Hơn một tháng thua nhiều hơn thắng, ông Nguyên than thở:
- Ít tiền khó đánh lắm phải có thêm vài trăm nữa, vững bụng mới mạnh tay đánh mới có cơ hội thắng, nhà cái hay ăn ḿnh v́ nó nhiều vốn.
Bà Mai đồng ư liền chính mắt bà thấy người ta kéo Max, lúc trúng thắng cả hơn ngàn bạc, mới đáng đứng dậy đi về. C̣n bà Mai đánh Min, lúc trúng thường chỉ được hai ba chục, trúng lớn mới được một hai trăm ngồi riết rồi tiền cũng ra hết.
Vợ chồng bà Mai đổi chiến lược đem thêm tiền. Ông Nguyên rút sáu trăm đưa bà Mai hai trăm... nhưng cũng chẳng thắng ǵ cả. Hay là chưa đủ vốn ? Bà Mai hỏi:
- Một hai ngàn có quan trọng với ḿnh không anh ?
Ông Nguyên mạnh dạn lắc đầu
- Không, có thêm một ngàn hay hai ngàn...
Rồi lên giọng ngân nga...
- Ḿnh đây... vẫn là ḿnh...
Bà Mai c̣n cẩn thận suy nghĩ thêm. Mấy nhỏ bạn ḿnh đang du lịch ở Việt Nam, tụi nó tốn cả chục ngàn mà lại c̣n mệt cái thân già nữa, tụi nó tốn tiền hơn ḿnh gấp bội lần mà tụi nó có lo đâu ..Thế là bà Mai chấp thuận để ông Nguyên rút ra ngàn bạc đưa bà ba trăm.
Nhưng than ôi tiền cũng không cánh mà bay. Rời ṣng bạc hai vợ chồng buồn hiu, nói th́ hay lắm mất cả ngàn bạc ruột đau như cắt. Hai vợ chồng duyệt lại cách hành quân bố trận của ḿnh ..một cách rất thành khẩn, không hề dấu diếm lỗi lầm của ḿnh để t́m hiểu v́ đâu nên nỗi tả tơi này. Bà Mai quyết chí:
- Thôi bỏ nghề cờ bạc từ đây.
Bà Mai về nhà cắt thẻ cờ bạc chứng tỏ đă hạ quyết tâm tu tỉnh trở lại. Vợ chồng ở nhà được mấy cuối tuần, buồn ơi là buồn, Bà Mai cằn nhằn đổ thừa:
- Tại anh cứ bày đặt đ̣i đánh bàn mới thua nhiều như vậy. Kéo máy nghe nhạc giải trí thua vài chục bạc là được rồi.
- Anh chiều em anh mới chịu đi chớ bộ, anh không thích kéo máy đâu chán thế mồ.
- Ok không chịu kéo máy th́ anh đừng đi nữa, anh đi làm em ở nhà đi với bà Quư cũng được.
Bà Quư là bà bạn thân lớn tuổi góa chồng, thường đi Casino với vợ chồng bà Mai, bà Quư cũng chê kéo máy. Sức mấy ông Nguyên chịu cho bà Mai xé lẻ đi du hư với bạn nên phải chịu kéo máy. Ông Nguyên rút ra hai trăm để vợ chồng kéo máy cũng thua sạch.
Thấy ông Nguyên kéo máy một cách thiểu năo bà Mai lại không đành ḷng. Bà vắt tay lên trán t́m kế sách vẹn toàn. Sau mấy ngày suy nghĩ bà Mai bàn với ông Nguyên:
- Anh à ḿnh không đi đánh bài sống buồn quá. Em bệnh hoạn chẳng biết sống được bao lâu nữa. Con ḿnh đă đi làm không cần tiền của ḿnh, ḿnh đâu cần phải lo để dành cho tụi nó ... Em quyết định trở lại nghề cờ bạc cho vui tuổi già. Nhưng ḿnh phải thay đổi sách lược lại cứ cho là ḿnh bỏ tiền ra để giải trí.
Ông Nguyên nghe bà Mai nói vậy mặt mừng như bắt được vàng, chuyện ǵ ông cũng ngược lại bà, chỉ có chuyện cờ bạc là lúc nào cũng Get Along rất phấn khởi.
- Thay đổi thế nào ?
- Anh rút ra hai ngàn đồng, em tám trăm, anh ngàn hai, em chịu anh đánh bàn lại. Tụi ḿnh để riêng tiền không ai đụng của ai xem ai hết tiền trước..
Không đem theo nhiều tiền nữa. Mỗi lần anh chỉ đem hai trăm, em một trăm, thua hết là ngừng . Giờ về cũng phải định, cứ mười giờ là đứng dậy đi về thua thắng cũng mặc
- Nhưng hai ngàn trong bao lâu ?
- Ai biết cứ thử xem sao nếu đánh chừng mực có lẽ cũng được lâu.
Ông Nguyên gật đầu Ok lia lịa.
Bà Mai để ư thấy trước cửa chính của Casino nào cũng có hồ nước sâu rộng lớn có ṿi phun nước. Các ông chủ Casino này cũng biết cách xài phong thủy để rút tiền của bá tánh chăng ?
V́ vậy trước khi xuống núi trở lại giang hồ, Bà Mai đi ṿng quanh nhà xem có ǵ cần phải sửa chữa cho hợp phong thủy hy vọng móc được tiền của Casino lại.
Cái bếp tượng trưng cho sự thịnh vượng ấm áp của căn nhà, mà bếp của bà Mai lại bị cái bồn rửa chén đứng đối diện, ṿi nước chảy ra dập tắt hết lửa hồng làm ǵ c̣n tiền nong nữa. Bà Mai phải đi mua một chậu cây nhỏ đặt ở bồn rửa chén để giải trừ, cây sẽ cuốn hết nước không cho nước tạt sang bếp phá ông thần hỏa làm bà mất tiền.
Để cho chắc có đại thắng mùa xuân, mỗi khi đi Casino bà Mai c̣n chịu khó coi lịch xem ngày đó có kỵ tuổi hai vợ chồng không th́ mới chịu xuất quân. Vậy mà vẫn thua nhiều hơn thắng.
Có lần lịch ghi ngày Hỏa, bà Mai rất phấn khởi hôm nay chắc thắng rồi v́ mạng của hai vợ chồng là Thổ, Hỏa sinh Thổ là nhất rồi. Nhưng.. các ông thầy bói làm lịch sai bét hai vợ chồng thua te tua.
Ông Nguyên cười bà vợ khờ khạo đi tin lịch bói toán. Từ đó bà Mai không thèm mở lịch coi ngày nữa, muốn đi là cứ hiên ngang ra đi với ḷng tin vững chắc. Thắng Thua là Cái Số thôi.
Sau một thời gian vào nghề, nghề dậy nghề bà Mai đă biết cách đánh cho huề hay thua ít. Đến Casino bà Mai thường đứng canh chừng những máy bà thích, chờ cho những người đen bạc đỏ t́nh, mặt buồn hiu bỏ đi, bà tà tà đến thế chỗ hy vọng máy đến thời kỳ cho ăn lại.
Phần nhiều các máy sau một chu kỳ cho thắng bị vơi tiền đi, sẽ Cold cho thua một lúc lấy lại tiền rồi cho thắng lại. Bà Mai thử mười đồng một máy, thấy máy coi bộ vẫn c̣n đang ở thời kỳ cho thua là bà bỏ đi máy khác.
Trước đây ngồi dán mắt vào màn ảnh của máy, bà Mai cứ khần thầm:
- Xin cho con thắng để có tiền giúp Thương Phế Binh ở Việt Nam.
Đi ăn chơi mà vẫn không quên người nghèo khổ ở quê nhà, mới đúng là người tốt. Vậy mà Chúa Phật chẳng động tâm. Thấy lời cầu nguyện của ḿnh chẳng đem đến kết quả bà Mai chán không cầu xin nữa.
Bà Mai đổi qua Thiền bà quán chữ Bonus. Khi nhập Thiền bà Mai quên hết tất cả sự đời, vui buồn hỷ nộ ái ố tất cả đều là Không, chỉ c̣n duy nhất một chữ Bonus. Kết quả lại khả quan mới chết chứ.
Sức mạnh của Thiền ghê gớm thật. Sách Thiền dạy Khi Thiền gặp Phật giết Phật, gặp Ma giết Ma, giết.. giết thấy ghê quá. C̣n bà Mai nhập định Thiền thấy chữ Bonus là mừng rỡ. Có lần bà Mai được Bonus, trong Bonus lại có Bonus, rồi Triple Bonus, nhạc thắng nhả ra nghe thật đă lỗ tai. Bà Mai đánh có bốn mươi Cents mà máy nhả ra đến hai trăm bốn mươi đồng, niềm vui lên đến cao độ.
Khi đă thắng lớn th́ phải bỏ đi máy khác, đừng ngồi lại, ngồi lâu một máy là tiền sẽ ra hết lại. Tuy biết vậy nhưng đôi khi tuy thắng mà vẫn cứ ngồi lỳ v́ tâm lư tham lam làm cho ḿnh hy vọng máy sẽ cho trúng nữa, cho đến khi thấy tiền đă xuống nhiều th́ tâm lư lại biến chuyển. Kệ lỡ rồi biết đâu lại lên trở lại.
Đă thua cho thua luôn sợ ǵ nhằm nḥ ǵ, cho đến khi hết tiền th́ đành đứng lên mà ḷng cứ tiếc hùi hụi. Sao ḿnh ngu thế biết vậy ăn non cho rồi. Và chuyện tiếc vẫn cứ lập đi lập lại hoài.
HAY không bằng HÊN. Nguyên tắc đánh bài chơi một thời gian, ai cũng rành sáu câu vọng cổ, nhưng không hên phải chịu thua. Đă hên th́ đến máy nào trúng máy đó. Số trúng là trúng.
Có một hôm bà Mai vào một máy thắng được ba mươi lăm đô, nhớ đến nguyên tắc ăn non bà đứng dậy qua máy đối diện. Bỏ vào máy này hai mươi đồng, bấm vài cái chẳng thấy ǵ bà Mai cũng nản chí anh hùng, khi c̣n khoảng mười hai đồng th́ tự dưng máy sáng lên sau cái bấm của bà, trên màn ảnh hiện ra "You win the Jackpot" Bấm hai mươi cents mà trúng bốn trăm đă thật.
Bà Mai cứ tiếc rẻ biết thế ḿnh Bet hai trăm Cents th́ c̣n đă hơn, đúng là số không giàu. Nhưng có nhiều người nói nếu bà Mai Bet nhiều bà không trúng đâu, v́ Cycle sẽ ra khác. Cycle hai mươi Cents, khác với Cycle bốn mươi Cents, sáu mươi Cents, một trăm Cents, hai trăm Cents... Đừng tiếc làm ǵ người ơi.
Lại có nhiều người nói Cycle chỉ có một, Bet nhiều ăn nhiều, vậy cứ tiếc đi để hưởng thú đau thương bị hụt, mất tiền. Chẳng biết ai nói đúng. Sau này với kinh nghiệm bà Mai biết các Cycle Bet đều khác nhau.
Hai người cùng đi hiếm hoi có chuyện hai người cùng thắng, phần nhiều một người thua một người thắng. Lần bà Mai trúng Jackpot ông Nguyên thua sạch, bà bù cho ông và cằn nhằn.
- Em đă nói ăn non đi mà, xui th́ anh phải lo chạy bàn như bà Quư chứ.
Ông Nguyên ngượng ngùng.
- Sao dở mặt thế, anh bù cho em bao nhiêu lần th́ sao
- Nhưng anh bù cho em có chút xíu, c̣n em bù cho anh cả nửa cái Jackpot của em, không Fair.
Hai vợ chồng cứ nói qua nói lại, rồi kể cho nhau nghe những chuyện ngộ nghĩnh đă xẩy ra của những người chung quanh ḿnh... rất là hào hứng thấy đời thật là vui. Chơi chừng mực thua khoảng một trăm bạc tính ra khoảng mười lăm đồng một giờ giải trí cũng OK. Ông Nguyên c̣n nói:
- Có hy vọng thắng anh mới đi chứ, biết chắc là thua anh ngu ǵ mà đi.
Bà Mai nghe cũng có lư.
Mỗi tháng vào ngày chủ nhật, cuối tháng Casino thường cho rút xổ số chiếc xe hơi. Cuối tháng tư là chiếc xe Z 28 loại Classic của dân chơi nhà giàu. Ba người, vợ chồng bà Mai và bà Quư phấn khởi lên đường hành quân. Ba người rất tâm đầu ư hợp về đề tài cờ bạc.
Tuổi già chờ chết ta làm ǵ để Enjoy cuộc đời ? Bao nhiêu năm lăn lộn với đời, cực khổ nuôi con thành nhân, có cái nhà để ở có cái xe để đi, ta phải thưởng cho ta niềm vui trong tuổi xế chiều chứ ! Đi du lịch ư ? Già rồi đi đâu cũng ngại thuốc men đem theo lôi thôi lỉnh kỉnh, đời sống Routine hàng ngày xáo trộn, chân đi đă mỏi...
Muốn xem phong cảnh th́ cứ mua những video về mà coi. Sáng nay thăm viếng Đài Loan, trưa đă chạy sang Thái Lan ngắm cảnh. Tuần này Âu Châu tuần sau đă Phi Châu. Huế Saigon Hà nội... ta muốn đi lúc nào cũng được. Nuôi cháu ư ? Lại vất vả nữa hay sao một đời v́ con rồi, đời con ḿnh để nó tự lo được mà.
Vẽ tranh viết văn ư ? Họa sĩ văn sĩ trên thế giới này có thiếu đâu. Vẽ được một bức tranh viết được một truyện ngắn, gửi đến bạn bè chờ đợi tiếng khen chê để làm ǵ. Được khen th́ lại thắc mắc khen thật hay đăi bôi, dù khen thật th́ cũng ngượng ngùng v́ tự biết ḿnh không phải là họa sĩ văn sĩ thứ thiệt. Không ai khen lại buồn.
Tại sao tuổi đă già lại để t́nh cảm vui buồn của ḿnh lệ thuộc vào người khác. Vẽ cho ḿnh viết cho ḿnh.. tự thưởng thức, có mấy ai ngon lành làm được như vậy !
Tập suối nguồn tuổi trẻ sống mạnh khoẻ, tu dưỡng tinh thần sống..để Tu Phật..thành Phật đă thành như PhậtThích Ca. Ba người là loại phàm phu tục tử, không có khí chất thanh cao làm như vậy được. Đi làm thiện nguyện giúp người, sức khỏe đâu mà giúp, bỏ của th́ may ra chứ bỏ công coi bộ cũng là vấn đề lớn đấy.
Ba người cứ thế mà cười nói những lư luận cùi hủi trên đây, rất đắc ư là đă t́m ra được chân lư niềm vui cho tuổi già. Bà Quư c̣n cẩn thận phụ đề Việt ngữ. Giá như hồi trẻ c̣n phải nuôi con th́ không nên đánh bài không tốt cho con, bây giờ th́ khác ai đạo đức chê cười tụi ḿnh th́ cứ nhe răng mà cười, Who Cares ?
Trước đây bà Mai cứ tính vợ chồng bà, người nào đi trước th́ đă yên bề, người ở lại khăn gói về ở với con. Giờ đây bà Mai đổi ư:
- Anh ơi nếu em mà đi sớm trước anh, anh cứ ở nhà ḿnh đừng về ở với đứa nào cả, cứ đi đánh bài sướng hơn, miễn là đừng thua hết thành Homeless làm phiền con th́ chỉ có nhục thôi.
- C̣n anh đi trước th́ em làm sao ?
- Em không lái xe xa lộ được, em sẽ bán nhà dọn về ở chung với chị Quư, chị Quư... chết th́ em mua nhà gần ṣng bài.
Ba người cứ nói chuyện điên khùng rồi cười ơi là cười. Ba người c̣n hẹn ước kiếp sau sẽ đi t́m nhau để cùng đi đánh bài.
Đến Casino bà Quư lấy mũ đội lên đầu
- Sao đội mũ vậy ?
- Pḥng ngừa lúc về thua tóc tai dựng ngược lên, có mũ đè nó xuống.
Ông Nguyên nghe vậy vội vàng lột mũ cất vào cóp xe... để mong thắng.
Vào đến cửa Casino ba người chia tay nhau, chúc nhau râu tóc không chổng ngược lên trời, hẹn gặp nhau ở cửa sau khi xong màn rút xổ số
Bà Mai làm những thủ tục như thường lệ, xong kiếm một cái máy ḿnh thích ngồi Thiền. Bỏ hai chục đồng, hên máy cho lên bốn chục, lời rồi phải ăn non đứng lên chứ. Nhưng không hiểu sao bà Mai cứ ngồi ỳ ḷng cứ hy vọng máy cho thắng dài dài, cứ nghĩ lại kiếm máy khác cũng thế thôi.
Tiền lời ra hết c̣n lại vốn, bà Mai mới đứng lên đi xả hơi. Rồi lại đi rảo kiếm máy khác bỏ vào hai chục, may quá máy nhả ra ba chục, xem đồng hồ sắp đến giờ rút số rồi bà Mai đứng lên. Ăn được mười đồng cứ chiến thắng ít nhiều đều vui.
Bà Mai đi ra máy đổi tiền, tiếng loa đang oang oang kêu tên người trúng giải, gọi qua tên người thứ hai cũng không có mặt. Gọi đến tên người thứ ba cũng đang chờ người lên lănh. Toàn là tên người Mỹ, bà Mai cũng thờ ơ chẳng bao giờ nghĩ đến việc ḿnh trúng xe cả. Casino chỉ cho năm phút tŕnh diện lănh xe, không có ai lên họ sẽ gọi tên người kế tiếp, trong một danh sách đă có sẵn rút từ Computer một cách Random.
Bà Mai buồn t́nh len lỏi đến chỗ để xe, tính ḍm mặt người trúng số. Trên bục cao cạnh chiếc xe, Manager của Casino đang đếm ba, hai, một là Sec cuối cùng cho người thứ ba lên lănh. Không có ai lên cả.
Tiếng loa vang lên... Mai Tran, hai chân bà Mai tự dưng nhẩy lên, hai tay đưa cao khua loạn xà ngầu miệng la lên
- Hey, Hey, I am here, I am here... Mọi người đứng chung quanh cười ồ lên.
Bà Mai chạy tới chỗ người Manager, ông ta đưa tay kéo bà lên bục cao. Thường bà Mai nói tiếng Mỹ ngọng lắm nên rất nhút nhát, vậy mà lúc đó bà chẳng nhát chút nào, mở ví đưa cái bóp trong đó có thẻ lái xe nói một cách rất rơ ràng:
- Nè thẻ lái xe của tôi này, ông xem có đúng tên tôi không đó, hay là ông đọc sai làm tôi mừng hụt.
Ông ta liếc mắt
- Đúng là bà rồi.
Mọi người vỗ tay chúc mừng bà Mai. Chụp h́nh loạn xạ. Manager mở cửa xe cho bà Mai ngồi vào để chụp h́nh. Ông Nguyên bấy giờ mới xuất hiện mặt tươi như hoa. Manager hỏi:
- Ông ta là ai vậy?
- Chồng tôi đấy.
Thế là ông Nguyên được kéo lên chụp h́nh luôn. Sau này ông Nguyên kể lại nghe loa kêu tên bà Mai, ông bỏ ngang ván bài đang đánh nhưng cũng vẫn c̣n nhớ chụp mớ tiền Chip của ḿnh, phóng chạy như ma đuổi.
Chẳng là lúc nào ông Nguyên cũng nghĩ vợ ḿnh ngu ngơ không nghe được người ta gọi tên ḿnh, bị lỡ dịp may. Ông Nguyên tính chạy lên mượn Micro gọi tên bà Mai cho rơ ràng. Đúng là bé cái lầm. Đụng đến tiền bạc làm ǵ có chuyện khù khờ !
Bao nhiêu người Việt Nam bu quanh bà Quư hỏi thăm.
- Cái bà bạn bà chắc tổ sư đánh bài phải không ?
- Đâu có không biết đánh bài, chỉ biết bấm máy mà chỉ kéo máy một Cent thôi.
Bà Quư c̣n mừng rỡ quá độ gọi điện thoại báo tin lung tung. Khi gọi cho bạn cờ bạc ở tiểu bang khác, bà này c̣n không tin.
- Dỡn mặt hoài.
Bà Quư phải nói thêm vài lần bà ta mới chịu tin và đưa ra nhận xét:
- Hóa ra ṣng bài không nói xạo, cho xe thật và cũng không kỳ thị chủng tộc.
Hôm sau vợ chồng bà Mai đi lănh tiền. Bà Mai hỏi thăm cách thức rút giải thưởng của Casino, cũng giống như cách chơi Lottery. Dù bà Mai chỉ có một vài Entry (cứ chơi hai mươi lăm đồng là được một Entry), so với những người chơi nhiều có nhiều Entry, nhưng nếu bà có số trúng th́ cũng sẽ được Computer chạy Random đưa tên bà vào danh sách trúng số.
Tất cả là Cái Số của con người. Cả gần năm ngàn người tham dự rút số chứ có ít đâu. Tiếng là chiếc xe trị giá sáu mươi ngàn đô, nhưng với Cash Option và thuế má bà Mai chỉ đem về khoảng hơn hai chục ngàn.
Bà Mai để mười ngàn làm vốn hành quân hy vọng trúng nữa. C̣n mười ngàn để dành cho Thương Phế Binh và những người nghèo ở Việt Nam. Bà Mai đưa ông Nguyên những hồ sơ của các Thương Phế Binh, ông có dịp nh́n những h́nh ảnh của những người chiến sĩ, phần nhiều là lính, hạ sĩ quan, đă bị cụt chân, cụt tay, tê liệt v́ tổ quốc thân yêu.
Nh́n vẻ mặt buồn của ông Nguyên khi nh́n những tấm h́nh của các Thưong Phế Binh bà Mai hài ḷng lắm. Từ nay ông Nguyên sẽ hỗ trợ bà Mai, không c̣n cằn nhằn bà lo chuyện bao đồng, không c̣n chọc quê bà kêu bà đến ṭa Bạch Ốc xin Job đi cứu trợ Phi Châu nữa.
Vợ chồng con gái út bà Mai từ Dallas về nhà chơi một tuần, Bà Mai dụ khị con bé:
- Mẹ dắt con đi Casino kéo máy, cuối tháng này sẽ có xổ số chiếc xe Truck F-150 King Ranch Edition 4*4, Bố thích lắm. Biết đâu con hên trúng được làm quà cho Bố. Nhưng có điều kiện con đ̣i Bố trúng xe phải đưa lại cho con tiền trị giá phân nửa chiếc xe, để giúp người nghèo ở Việt Nam con chịu vậy không?
Con bé gật đầu ưng chịu. Hai mẹ con hư hửng ra báo tin quyết định của hai mẹ con như vậy, cứ tưởng ông Nguyên sẽ mừng lắm ai dè ông ngúng nguẩy:
- Không thèm cho đi một nửa th́ đâu c̣n ǵ, cho một phần tư thôi.
- Sao tham quá vậy ? Cho đi ít như vậy làm sao Chúa Phật cho trúng ?
- Không cho trúng th́ thôi sao không tính tiền ḿnh thua ra, đi Casino cũng hao tổn sức khỏe chứ bộ, ngửi khói thuốc là Second Hand hại phổi, đi bác sĩ phải trả tiền Co pay càng ngày càng nhiều, Deal cái kiểu lỗ vốn dù với Chúa hay Phật anh cũng chẳng Deal.
Cứ thế mà vợ chồng con gái con rể bà Mai tranh luận một cách sôi nổi rồi đi đến kết quả dung ḥa. Tiền trúng trừ thuế, c̣n bao nhiêu chỉ cho một phần ba để bù vào tiền vốn đă bỏ ra đầu tư. Bà Mai nghĩ có c̣n hơn không nên đành móc tay Ok với ông Nguyên.
Cứ như là chuyện cô bé đội b́nh sữa trên đầu đi bán sữa mơ mộng chuyện tương lai... Nhưng căi qua căi lại thật vui vẻ hào hứng dù có hơi khùng khùng.
Sự đời đă nói Có Số mà biết đâu có công mài sắt có ngày..trúng xe nữa, như bạn bè của bà Mai đă cổ vơ bà tiếp tục nghề cờ bạc, nhưng bà cũng đủ khôn ngoan biết đừng bao giờ gơ cửa nhà mượn tiền họ. V́ bạn bè mà dính đến tiền bạc là mất cả t́nh bè bạn.
Trải qua hơn sáu mươi năm cuộc đời, bao nhiêu biến đổi tang thương, từ Bắc vào Nam rồi chạy tuốt qua Mỹ, bà Mai thấy con người sướng hay khổ, thành công hay thất bại, giầu sang hay nghèo khó... đều do số mệnh của con người đă được định bởi Nghiệp của ḿnh từ muôn kiếp trước.
Được trúng xe thêm một lần nữa hay là... Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà bán hết lê chân ăn mày, cũng là Cái Số của bà Mai thôi.
TRẦN CẨM TÚ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 171 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
Một Triển Vọng Đáng Mừng
Chương Một
Một nhà Hiền Triết đă tóm tắt tất cả lịch sử của nhân loại với những lời nầy: "Con người sinh ra, chịu đau khổ và chết."
Nói về sự đau khổ của thế gian, người ta đă từng nghe nói về một chuyện cổ xưa và đầy ư nghĩa. Đó là truyện tích thái tử Sĩ Đạt Ta, mà về sau người ta được biết dưới danh hiệu đức Phật, tức là bậc Toàn Giác. Phụ Vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua rất giàu sang và có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ. Người quyết định truyền ngôi cho Thái Tử, và muốn giữ Thái Tử ở trong cung, không muốn cho Thái Tử nh́n thấy cảnh lầm than, đau khổ của người đời. Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm, và đến lúc trưởng thành, vua cha mới cưới cho Thái Tử một vị Công Chúa nhan sắc đẹp tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, Thái Tử không hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc chung quanh Hoàng cung một lần nào. Đến lúc Thái Tử sinh hạ được một hoàng nam, người mới thấy nhàm chán cảnh cung điện và tọc mạch muốn biết có những ǵ ở cơi thế gian bên ngoài. Người mới t́m cách đánh lừa những tên lính gác cửa thành, và lần đầu tiên người mới nh́n thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đăo và cảnh đời thực tế bên ngoài.
Trong chuyến ngao du đó, người nh́n thấy ba cảnh tượng làm cho người chú ư: đó là cảnh tượng một người gia, một người bịnh và một xác chết. Thái tử vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo Ngài, tại sao lại có những cảnh đau khổ như thế? Khi được biết rằng đó là những điều thường vẫn xảy ra hằng ngày và đó là cái số phận chung cho cả mọi người, không ai tránh khỏi, Thái Tử lấy làm buồn bực vô cùng đên nỗi Ngài không c̣n muốn sống cuộc đời sung sướng xa hoa như trước nữa. Ngài trở về cung, bèn từ giă tất cả mọi gia tài sản nghiệp, gia đ́nh vợ con, và quyết định xuất gai tầm Đạo để cứu vớt nhân loại và chúng sinh khỏi sự lầm than đau khổ. Sau nhiều năm khổ công tu luyện và tham thiền quán tưởng, Ngài bèn thoát nhiên đại ngộ, trở nên một bậc Toàn Thông, đắc Vô thượng Đạo, chánh đẳng chánh giác, tức là đắc Đạo thành Phật vậy. Khi đó Ngài mới đem truyền dạy Đạo mầu thoát khổ cho thế gian.
Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không mấy ai có thể làm giống như Phật Thích Ca, nhất thời dứt bỏ tất cả giàu sang, quyền thế, danh vọng, t́nh yêu và hạnh phúc gia đ́nh để theo đuổi một mục đích mơ màng viễn vông như là việc đi t́m Chân Lư, và t́m hiểu bí quyết của cuộc Đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đau khổ ít nhất một vài lần trong đời ḿnh và đă có lúc phải tự hỏi: Tại sao con người bị đau khổ? Và họ có thể làm ǵ để thoát khổ?
Những nhà văn có óc không tưởng đă phác họa một thời kỳ trong tương lai mà trong bốn điều khổ của đức Phật nêu ra, th́ hai điều sẽ không c̣n nữa, đó là: Bệnh và lăo. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đă có bao nhiêu những phát minh mới mẻ tân kỳ, người ta vẫn chưa có triển vọng t́m ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn coi như là một kẻ thù lớn nhất, đó là Sự Chết! Trong khi chờ đợi, và trong khi mà một sự cải tạo thế giới trên một b́nh diện hợp lư hơn vẫn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, an ninh, và hạnh phúc, th́ chúng ta c̣n phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh, nguy cơ và đau khổ nó hăm dọa nền hạnh phúc và sự bằng an trong tâm hồn chúng ta!
Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, ngập lụt, bệnh tật truyền nhiễm, động đất, chiến tranh... đó chỉ là mới kể một vài sự hăm dọa từ bên ngoài. C̣n nói về đời sống bên trong, tức là về phần nội tâm th́ con người có bao nhiêu những sự yếu đuối, bất toàn, như sự ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê... Nó là bao nhiêu những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho mọi người và cho những kẻ đồng loại ở chung quanh.
Trong những giờ tươi sáng, khi chúng ta cảm thấy trong ḷng vui vẻ hân hoan v́ tiếng nhạc réo rắt dụ dương, hay khi nh́n thấy cảnh tượng tưng bừng rực rỡ của lúc b́nh minh, chúng ta cảm thấy rằng trong vũ trụ hẳn có sự ḥa vui và có ẩn dấu một ư nghĩa sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cơi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng năo nề cay đắng, chúng ta không khỏi nêu ra những câu hỏi tối hậu: Yù nghĩa và mục đích của cuộc đời là ǵ? Tôi là ai? Tại sao tôi lại sinh ra ở đây? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi phải chịu đau khổ? Có những mối liên quan ǵ giữa tôi với người khác ở chung quanh? Và giữa con người với cái sức mạnh vô h́nh huyền bí trong cơi thiên nhiên nó bao phủ cuộc đời chúng ta, có một mối liên hệ như thế nào?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đă từng nêu ra từ thuở bao giờ trong những thời đại quá khứ xa xăm. Ngày nào người ta vẫn chưa t́m ra được câu giải đáp th́ tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sư đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh thần, cũng đều là vô nghĩa và không có ích lợi ǵ. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại vẫn chưa được giải quyết, th́ người ta vẫn chưa giải quyết được ǵ cả. Ngày nào mà trên thế giới c̣n có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích nổi lư do, th́ người ta cũng vẫn chưa giải thích được điều ǵ cả, và quan niệm triết lư của chúng ta về cuộc đời vẫn hăy c̣n là thiếu sót và bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đă từng nêu ra những câu hỏi đó. Càng ngẫm nghĩ, họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả đau khổ của con người không phải là vô ích và vô nghĩa lư như người ta tưởng, mà nó có một ư nghĩa nhờ bởi một sự liên quan lớn lao nối liền con người và vũ trụ. Hoặc họ đă cảm thấy có sự hiện diện vô h́n của những đấng Thần Minh trong khu rừng vắng hoặc trên đồi cao và biết rằng mỗi sinh vật, từ con người đến loài cầm thú, đều có một linh hồn: Rằng linh hồn đó chỉ là tạm thời sống và chịu đau khổ một lúc ở cơi hạ giới, và sau khi chết sẽ t́m thấy một đời sống an nhàn và hạnh phúc hơn. Hoặc họ nghĩ rằng ngoài ra cơi trần gian đau khổ nầy, mà loài người sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, c̣n có một cơi giới xa xăm nào đó, là nơi thưởng phạt những hành động của họ Ở thế gian. Những điều tin tưởng và giải thích như trên đă từng được nêu ra kể đến hằng ngh́n, có những điều hăy c̣n giản dị thô sơ, có những điều tế nhị hơn, cũng có những điều hợp lư. Và v́ bởi một vài điều giải thích đó có vẻ hợp lư mà trên thế gian con người vẫn tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn của họ một cách can đảm.
Có người tin tưởng ở đức Mahomet, có người tin tưởng ở đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay đức Krishnạ Có hằng muôn người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lư do duy nhất, đó là sự sống c̣n. Những người khác không cần t́m biết lư do ǵ cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng khoái lạc trong hiện tại.
Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, th́ sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời là nhứ thế này: Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử thách đưa đến cho chúng ta, Thiên Đàng hay Địa Ngục là những điều tưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian. Những người đă từng chấp nhận sự giải thích đó không hề tự hào rằng họ có đủ bằng chứng; đó là sự giải thích mà họ được hấp thụ của cha mẹ và của giáo sĩ, chính những vị này cũng đă hấp thụ của những bậc phụ huynh và các giáo sĩ của họ, và cứ như thế đi ngược thời gian cho đến khi người ta t́m thấy uy quyền của một quyển sách gọi là bộ Thánh Kinh (Bible), và của một người tên Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ư: Bộ sách này thật là hay tuyệt diệu, và đức Jesus, dầu rằng là một người hay là Con của Chúa Trời, vốn là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời Phục Hưng (Renaissance) cho đến nay, người Tây phương càng ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín điều căn cứ trên uy quyền của một người: Bất cứ tín điều nào mà không thể chứng minh được qua cái ḷ thí nghiệm khoa học đều phải gặp một sự hoài nghi mỗi lúc càng tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolémée nói rằng mặt Trời xoay chung quanh Trái Đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đă chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic đă phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh rằng trái lại, chính Trái Đất xoay chung quanh mặt Trời. Triết gai Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng một lượt hai vật có trọng lượng khác nhau từ chỗ cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước tiên, và Hội Thánh đă hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của Aristotẹ Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise, Galiée đă chứng minh rằng hai vật cùng đồng một dung tích như nhau, nhưng trọng lượng khác nhau, lại rơi xuống đất cùng một lúc.
Trong bộ Thánh Kinh có nhiều đoạn cho rằng Trái Đất vốn bằng phẳng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng những nhà thám hiểm khác nữa của thế kỷ mười lăm đă làm đảo lộn giả thuyêt trên đây bằng những chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ phương Tây để đi về phương Đông. Những sự chứng minh trên đây cùng với việc chứng minh khác nữa đă lần lần chỉ cho người thời xưa không phải là hoàn toàn đúng. Do đó nảy sinh ra quan niệm khoa học và óc hoài nghi của người thời nay.
Trong sự tranh đấu để sống c̣n, con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không t́m ra lư do nào khác hơn là nó không có mục đích ǵ cả. Sự chết chỉ là một sự tan ră của những phân tử hóa học vật chất, ngoài ra không c̣n ǵ nữa.
Như vậy, người ta đă thay thế uy quyền của bộ Thánh Kinh hay của đức Giáo Chủ bằng uy quyền của năm giác quan! Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác, khoa học đă nới rộng tầm hoạt động của ngũ quan chúng tạ Sự nhận xét bằng ngũ quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác, là nền tảng của mọi lư luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm nay, người ta đă trở nên phức tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng ḿnh đă hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta đă phát minh ra, đă chỉ cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật là thiếu sos1st, bất toàn là dường nào và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật sự. Những luồng sóng Hertziennes, chất phóng quang, nguyên tử lực, đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đă chứng minh một cách rơ ràng rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mănh lực vô h́nh; và những vi tử nhỏ bé nhất của cơi vật chất đều là những kho chứa đựng tinh lực, hàm xúc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người không thể tưởng tượng. Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... Mà chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của cái ṭa nhà bé nhỏ là xác thân của chúng tạ Sự nhậy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp cho chúng ta tiếp nhận có một bát độ nhỏ hẹp trong cái biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn của loài người; bởi đó vũ trụ của chúng nó bao hàm chứa đựng nhiều sự vật mà chúng ta không nhận thấy và không thể nhận xét thấy rơ.
Người biết suy nghĩ không khỏi lấy làm ngạc nhiên về hiện tượng này là con người vốn thường vẫn tự hào về trí óc thông minh của ḿnh, lại thua kém loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về tầm hoạt động của giác quan để nhận xét vũ trụ bên ngoài, và về điểm này họ cũng thua kém cả những đồ dụng cụ khoa học mà trí óc siêu việt thông minh của họ đă phát minh. Họ bắt đầu tự hỏi rằng làm sao họ có thể tự ḿnh nh́n thấy và quan sát những sự vật trong cơi vô h́nh mênh mông rộng lớn. Thí dụ, chúng ta hăy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận xét của giác quan đến mức làm cho chúng ta trở nên nhậy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức thường độ một ít mà thôi. Phải chăng chúng ta sẽ nhận xét được nhiều sự vật mà trước kia chúng ta không hề nghe, thấy? Hoặc thí dụ như một vài người trong chúng ta bẩm sinh ra đă có những giác quan phi thường, với một tầm thu nhận rộng lớn hơn: Phải chăng là một điều tự nhiên nếu những người này có thể nghe và thấy những sự vật mà chúng ta không thấy và không nghẻ Và phải chăng họ có thể nghe xa chẳng khác nào như một cái máy thu thanh, và thấy xa dường như một cái máy vô tuyến truyền h́nh?
Đứng trước cái thế giới vô h́nh huyền bí, vô tận bao la mà những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ 20 đă tiết lộ cho chúng ta biết, th́ người ta phải nh́n nhận sự thật của những điều kể trên. Và nếu chúng ta nh́n lui về lịch sử loài người, th́ chúng ta thấy có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận xét phi thường của một số người.
Một trong những người đó là ông Swedenborg, nhà bác học và toán học trứ danh của thế kỷ 18, đă có một năng khiếu thần thông phi thường. Người ta được biết rơ một chuyện về năng khiếu thần thông của ông, chuyện này đă được nhiều nhà tai mắt chứng kiến trong số đó có nhà triết học Emmanuel Kant.
Một buổi chiều vào khoảng 6 giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giựt ḿnh và nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ 500 cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đă thiêu hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến 8 giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đă trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đă được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác. Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đă được xác nhận bằng những lời tường thuật về cuộc hỏa hoạn, mà sự bộc phát nhằm đúng ngay vào lúc ông Swedenborg giựt ḿnh và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này. Đây không phải là trường hợp duy nhất: Tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng đă ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có vài người như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens,... Trong vài trường hợp, chính những người bà con thân quyến của họ đă có lúc nh́n thấy th́nh ĺnh những h́nh ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ từng chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg th́ năng khiếu thần nhăn của ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Trong phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó h́nh như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay đă đến lúc mà người ta không thể nh́n xem những hiện tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở, saün sàng t́m hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các trào lưu khoa học và sự nhu cầu của thế hệ th́ bất cứ sự việc ǵ có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lư thú và có một tầm quan trọng vào bậc nhất.
Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng răi, cho rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên, đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, và đă ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine, giáo sư trường Đại Học Dukẹ Từ năm 1930, bác sĩ Rhine và những người cộng sự với ông đă nghiên cứu ráo riết về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu Thần Nhăn trong con người.
Do những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và một phương pháp đặc biệt, bác sĩ Rhine đă khám phá được một điều là trong pḥng thí nghiệm, có nhiều người đă biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng, nói tóm tắt là biểu lộ những năng khiếu thần thông. Người ta có thể nh́n thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của bác sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề "Tầm Hoạt Động Của Trí Năo" do chính ông xuất bản năm 1947.
Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đă đi đến những kết luận giống như của bác sĩ J. B. Rhinẹ Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đă giải tán mọi điều nghi ngờ về sự thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiều Thần Nhăn trên địa hạt tâm linh con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh rằng hiện tượng Thần Nhăn là một điều có thật. Người ta vẫn chưa t́m cách áp dụng năng khiếu đó trên địa hạt thực tế. Nếu con người có được cái năng khiếu thần thông đó, nó giúp cho y nh́n thấy được những ǵ xảy ra trong không gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt phàm, chẳng khác nào y như là một cái máy vô tuyến thu ảnh (Television) th́ chừng đó y đă có được một khí cụ mới và quan trọng để thu hoạch những điều hiểu biết về con người và về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đă làm được nhiều công tŕnh lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo của y đă giúp y chinh phục không gian và làm chủ được cơi giới vật chất. Nhưng mặc dầu y đă có được sự khôn ngoan khéo léo đó, y vẫn là một vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu những sự chinh phục trên địa hạt vật chất, y vẫn c̣n bất lực và bỡ ngỡ, lạc loài. Mặc dầu y đă thu hoạch được những kết quả thành tựu mỹ măn trên các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, y vẫn chưa t́m ra ư nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà con người phải chịu từ khi sinh ra cho đến khi y từ giă cơi đời. Trong thời gian qua, con người đă t́m ra những bí mật của hột nguyên tử. Có lẽ nhờ những sự khám phá gần đây về những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ư thức và tiềm thức, y sẽ có thể tiến sâu vào lĩnh vực tâm linh huyền bí của chính ḿnh. Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm t́m ṭi, có lẽ sau cùng người ta sẽ t́m ra những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí hiểm quan trọng của đời người, những lư do v́ sao y sinh ra ở cơi thế gian và mục đích cùng ư nghĩa của sự đau khổ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 172 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
ÔNG EDGAR CAYCE DÙNG THẦN NHĂN
ĐỂ KHÁM BỆNH
Chương Hai
Thật là một điều lư thú mà biết rằng năng khiếu Thần Nhăn có thể giúp cho ta làm được những điều phi thường. Nhưng càng lư thú hơn nữa khi ta được biết rằng trong thời đại này có một người đă dùng năng khiếu Thần Nhăn một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm cũng như trên phương diện thực tế.
Người ấy là ông Edgar Caycẹ Người ta gọi ông Cayce trong những năm cuối cùng của đời ông, là "Con người phi thường ở Virginia Beach". Đó là một danh hiệu phỉnh lừa, v́ tùy rằng có hằng trăm người đă được ông chữa khỏi bịnh trong những điều kiện thật là lạ lùng, nhưng ông không phải là một người làm "Phép lạ" hiểu theo ư nghĩa thông thường của chữ này. Không hề có chuyện đặt bàn tay truyền điện, hay làm cho bịnh nhân quăng nạng gỗ sau khi đă sờ nhẹ vào manh áo của ỵ Những sự "Nhiệm màu" của ông Cayce chỉ là sự khám đúng căn bịnh, mà thường là trong khi bịnh nhân ở cách xa ông đến hằng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu Thần Nhăn của ông chỉ hoàn toàn khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự chú ư của những nhà chữa bịnh theo khoa Tâm lư, thường dùng giấc ngủ thôi miên để chữa bịnh hoặc làm phương tiện sưu tầm về cơi tiềm thức của con người.
Một trong những ví dụ đáng kể nhất về cách xử dụng Thần Nhăn của ông Cayce là trong trường hợp sau đây: Một người con gái ở Selma, thuộc tiểu bangAlabama Hoa Kỳ, th́nh ĺnh bị mất trí và được đem vào một nhà thương điên. Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông Cayce bèn nằm trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nh́n vào thể xác của người thiếu nữ và khám bịnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu nói, cũng như bất cứ mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lịnh truyền của người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người thường, là ông Cayce bắt đầu diễn tả t́nh trạng thể chất của người bịnh, dường như cặp mắt ông có quang xuyến X. Ông cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn lên một đường gân thông lên bộ Óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường gân kia được giải tỏa, khỏi động lên tới óc, và đem bịnh nhân trở lại trạng thái b́nh thường. Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con gái th́ thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho một vị nha sĩ nhổ răng th́ người con gái liền hết bịnh điên.
Một thí dụ khác rất lạ lùng, là một người thiếu phụ Ở tỉnh Kentucky bên Hoa Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong giựt rất nặng đến nỗi ba bác sĩ săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó sẽ không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đă tuyệt vọng, bèn nhờ ông Cayce khám bịnh cho nó. Trong giấc thôi miên, ông Cayce bảo đem cho nó uống một liều thuốc belladone và kèm theo sau đó, cho uống một liều thuốc trừ độc. Những vị bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bịnh này, v́ belladone là một thứ thuốc độc, nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất định tự ḿnh đưa thuốc ấy cho con ḿnh uống. Ngay tức khắc, chứng kinh phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đă được cứu sống và đă khỏi bịnh.
Những thí dụ trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ khác, không phải là những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng "đức tin". Những trường hợp mà người bịnh được chữa khỏi cấp thời như những trường hợp kể trên chỉ là một số ít. Trong tất cả những trường hợp khác th́ người bịnh được điều trị một cách cụ thể, có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có: Thuốc men, giải phẫu, kiêng cữ món ăn, dùng sinh tố, chữa bằng điện, thoa bóp hay tự kỷ ám thị...
Những trường hợp chữa bịnh bằng Thần Nhăn của ông Cayce đều được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ ǵn cẩn thận. Tất cả có đến ba chục ngàn hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và saün sàng được dùng làm tài liệu cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm.Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản các cuộc khám bịnh bằng Thần Nhăn, có kê khai ngày tháng rơ ràng; những thơ thỉnh cầu của bịnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bịnh; những bức thơ bày tỏ sự biết ơn của những bịnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng minh của các bác sĩ; và những bản tốc kư chép lại những lời của ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện và tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về hiện tượng Thần Nhăn (Clairvoyance).
Ông Cayce sinh năm 1877 tại Hopskinville, tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Ông sinh trưởng trong một gia đ́nh nông dân nghèo và thất học. Ông theo học trường làng đến bực tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời, ông đă tỏ ư muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục theo đuổi việc học vấn. Đời sống ở nông trại không thích hợp với ông; ông bèn ra ở tỉnh thành, trước hết ông làm nhân viên phụ trách cửa hàng bán sách, sau đó ông làm nhân viên một hăng bảo hiểm.
Năm ông 21 tuổi, một việc xảy ra bất ngờ làm thay đổi trọn cuộc đời ông: Ông bị tắt tiếng nói v́ một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều vô hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bịnh. Không thể tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha mẹ Ông. Ông ở đó gần một năm, không hoạt động ǵ cả và chứng bịnh của ông dường như không thể chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học nghề chụp ảnh, v́ nghề này không bắt buộc phải dùng đến giọng nói. Trong khi ông đang tập sự nghề chụp ảnh, một nhà thôi miên đạo diễn tên là Hart, đi ngang qua Hopskinville và biểu diễn tài nghệ tại nhà hí viện thành phố.Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông Cayce bị chứng bịnh tắt tiếng, mới đề nghị chữa bịnh cho ông bằng khoa thôi miên. Ông Cayce liền vui vẻ nhận lời. Trong giấc thôi miên, ông Cayce tuân theo mệnh lệnh của ông Hart và nói chuyện như thường, nhưng trái lại, khi ông thức tỉnh th́ ông lại bị tắt tiếng như trước.Trong những giấc thôi miên kế đó, nhà thôi miên bèn dẫn dụ cho ông nghe rằng: Sau khi thức tỉnh, ông sẽ có thể nói chuyện được như b́nh thường. Phương pháp này gọi là "Aùm thị thôi miên, " tuy rằng rất hiệu nghiệm và đă từng giúp đỡ được nhiều người thắng được một vài thói quen như tật hút thuốc quá độ chẳng hạn, lại không có kết quả đối với chứng bịnh của ông Cayce.
Ông Hart, v́ phải di chuyển qua tỉnh khác theo chương tŕnh đă sắp đặt, không thể tiếp tục những cuộc thí nghiệm của ông nữa, nhưng có một người tên là Layne ở cùng một địa phương, đă theo dơi cuộc chữa bịnh cho ông Cayce một cách thích thú. Ông Layne mới đề nghị với ông Cayce để cho ông ta thử điều trị cuống họng của ông. Ông Cayce v́ muốn được khỏi bịnh bằng bất cứ phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận.
Ông Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ cho ông Cayce trong giấc thôi miên, hăy tự diễn tả căn bịnh của ḿnh.Thất lạ thay, ông Cayce tuân theo lời dẫn dụ đó và làm đúng y theo lời. Bằng một giọng nói b́nh thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh âm (cordes vocales) trong cuống họng ông. Ông nói: "A! Chúng ta có thể nh́n thấy cái thể xác này! Vào lúc b́nh thường, nó không thể nói được v́ những thớ thịt phần dưới cuống họng bị liệt bại hết một phần, so một sự căng thẳng thần kinh gây nên. Chứng bịnh này nguyên nhân là do một trạng thái tâm lư gây ra và ảnh hưởng đến phần thể chất. Muốn chữa hết bịnh, phải dùng các dẫn dụ để làm vận chuyển sự lưu thông máu huyết ở bộ phận bị đau, trong khi người bịnh c̣n nằm trong trạng thái vô ư thức của giấc thôi miên."
Ông Layne liền dẫn dụ cho ông Cayce nghe rằng sự lưu thông máu huyết của ông sẽ tăng gia một cách dồi dào ở chỗ cuống họng bị đau và bịnh trạng của ông sẽ thuyên giảm. Lần lần, phần trên của bộ ngực và cuống họng của ông Cayce thay đổi màu sắc, và chuyển từ hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó 20 phút, vẫn trong giấc ngủ thôi miên, ông Cayce bèn ho lên mấy tiếng để lấy giọng và nói: "Tốt lắm, căn bịnh đă dứt. Ông hăy dẫn dụ rằng sự lưu thông máu huyết sẽ trở lại b́nh thường và thể xác này hăy thức tỉnh." Ông Layne liền làm y theo lời. Ông Cayce bèn thức tỉnh và nói chuyện như thường lần đầu tiên từ trên một năm naỵ Trong những tháng sau đó, thỉnh thoảng căn bịnh ông tái phát trở lại một đôi lần. Mỗi lần như thế, ông Layne lại dẫn dụ bằng thôi miên cho máu huyết lưu thông nơi cuống họng, và chứng bịnh lại dứt.
Câu chuyện của ông Cayce có lẽ đă chấm dứt với bấy nhiêu đó, nếu ông Layne không nh́n thấy những triển vọng sâu xa của trường hợp đặc biệt này, và t́m cách khai thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi miên là điều quen thuộc đối với ông và ông đă từng biết những trường hợp tương tự đặt dưới sự điều trị của ông De Puysegur ở Pháp, ông này là vị kế nghiệp cho bác sĩ Mesmer, người đă khám phá ra khoa nhân điện học. Ông Layne nghĩ rằng nếu ông Cayce có thể nh́n thấy thể xác của những người khác và khám bịnh cho họ. Ông Layne bèn thí nghiệm điều này với chính ḿnh ông, v́ trong thời gian gần đây ông bị chứng đau bao tử. Cuộc thí nghiệm đă thành công mỹ măn. Trong giấc thôi miên, ông Cayce diễn tả trạng thái bên trong xác thể của ông Layne và đề nghị một vài phép điều trị. Ông Layne lấy làm vui mừng vô hạn: Sự khám nghiệm của ông Cayce hoàn toàn đúng theo những triệu chứng mà chính ông đă nhận thấy và cũng đúng theo sự khám nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác.
Hơn nữa, cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có một phép ăn uống hạn chế, kiêng cữ, những thuốc men và những phép tập thể dục chưa từng đem áp dụng cho trường hợp của ông từ trước. Ông Layne bèn áp dụng theo cách điều trị ấy và trong ṿng ba tuần, ông nhận thấy rằng bịnh trạng của ông đă thuyêng giảm rất nhiều. Những sự kiện trên đây là cho ông Cayce lưỡng lự phân vân không ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và quyết định thử xem phép điều trị này có thể chữa khỏi bịnh cho những người khác hay không?
Hồi mới lên mười tuổi, ông Cayce bắt đầu đọc bộ Thánh Kinh (Bible), và đọc đi đọc lại hàng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông có ư nghĩ muốn trở nên một nhà chữa bịnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ, cũng như các vị môn đồ đấng Christ hồi xưa.Về sau, ông có tham vọng trở nên một nhà truyền giáo như đă nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông không cho phép.Và đến bây giờ th́nh ĺnh ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bịnh cho thiên hạ tự nhiên xuất hiện đến với ông. Nhưng ông c̣n băn khoăn lo ngại không dám nắm lấy cơ hội ấy, v́ ông sợ rằng nếu trong giấc ngủ thôi miên, ông lỡ nói một điều ǵ có hại và nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác, th́ sao? Nhưng ông Layne liền bảo đảm rằng ông đừng sợ ǵ cả; chính ông Layne đă có hiểu biết khá nhiều về Y học để có thể ngăn chận lại những phép điều trị nào xét ra có hại cho bịnh nhân. Ông Cayce liền thăm ḍ lại bộ Thánh Kinh để t́m lấy một đường lối hành động. Sau cùng, ông bằng ḷng giúp đỡ cho những người bịnh nào muốn điều trị theo phương pháp của ông, nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc thí nghiệm, và ông không đ̣i hỏi tiền thù lao chi cả.
Kế đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc kư những lời mà ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên và gọi đó là biên bản, hay phúc tŕnh những cuộc "Khán Bịnh Bằng Thần Nhăn." Điều lạ lùng nhất trong những cuộc khán bịnh của ông Cayce, ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh, ông đă dùng những danh từ đúng đắn về khoa Sinh Lư Học và Cơ Thể Học, mặc dầu trong lúc thức tỉnh, ông không hề biết một điều ǵ về nghành Y học và không hề đọc các sách về Y khoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce, là những bịnh nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường hợp của ông Layne không đủ làm cho ông chịu thuyết phục v́ ông cho rằng có lẽ sự tưởng tượng đă làm cho ông Layne tưởng rằng ḿnh khỏi bịnh.Về phần ông Cayce, việc ông đă thu hồi lại được giọng nói không thể cho là sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là một sự ngẫu nhiên t́nh cờ.
Những sự nghi ngờ nó vẫn luôn ám ảnh ông trong những năm đầu khi ông mới bắt tay vào việc khán bịnh bằng Thần Nhăn, đă lần lần giải tán trước sự kiện hiển nhiên là những bịnh nhân do ông điều trị đều được khỏi bịnh, thậm chí đến cả những trường hợp được coi như là nan y và hết phương chạy chữa.
Lần lần, quyền năng phi thường của ông Cayce đă được đồn đăi khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông được tin điện thoại của ông cựu Thanh tra Giáo dục thành phố Hopskinville mời ông đến chữa cho cô con gái của ông mới lên năm tuổi, và đau ốm đă ba năm naỵ Em ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ khi đó đến nay, em bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ em đă mời đến khám bịnh cho em đều thúc thủ vô sách, không làm sao cứu em khỏi bịnh. Gần đây, em lại bị chứng phong giựt càng ngày càng dữ dội thêm, và một vị bác sĩ chuyên môn đă tuyên bố rằng đó là một chứng bịnh thuộc về óc, không thể chữa nổi. Cha mẹ em đă tuyệt vọng, và đem em trở về nhà để chờ ngày em trút linh hồn. Khi đó, một người bạn mới nói chuyện về cha mẹ em về ông Cayce và quyền năng nhiệm mầu của ông. Khi ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ này, ông bằng ḷng di chuyển đến nơi để khám bịnh cho em ấy.V́ t́nh h́nh tài chánh của ông không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia đ́nh bệnh nhân cung cấp: đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc chữa bịnh của ông để giúp đỡ kẻ khác. Ông bèn lên đường, tuy rằng với một sự băn khoăn khó nghĩ trong ḷng.
Khi cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông càng cảm thấy một cách thấm thía sự mỉa mai của vai tṛ của ông: V́ ông, con của một gia đ́nh nông dân tầm thường và không biết một chữa về y học, lại tự hào có thể chạy chữa cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong xứ về nghành Y khoa đă phải chịu bó tay không chữa nổi! Ông cảm thấy hơi run rẩy khi ông nằm trên chiếc sofa trong pḥng khách nhà ông Thanh tra, và ngủ mê thiếp đi. Tuy nhiên, trong giấc ngủ thôi miên, ông không c̣n băn khoăn nghi ngại về ông nữa. Ông Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và chép bằng tốc kư những lời ông Cayce thốt ra như thường lệ.
Với một sự b́nh tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu lộ trong những cuộc khàn bệnh trước đây, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả bịnh trạng của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đă bị té ngă từ trong xe văng xuống đất, và vi trùng bịnh cúm đă đột nhập vào chỗ thương tích do tai nạn gây ra; rằng điều này gây nên chứng phong giựt. Ông cho biết thêm rằng một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và giúp cho em nhỏ được b́nh phục trở lại như thường.
Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngă xe, nhưng v́ không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngă xe lại có ảnh hưởng đến bịnh trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo lời dặn của ông Cayce và trong ṿng ba tuần, em nhỏ đă hết chứng phong giựt. T́nh trạng trí khôn của em đă khá nhiều: Em nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất của em mà em vẫn chơi trước khi bị bịnh; sau đó em gọi tên của cha mẹ em và cha mẹ em lần đầu tiên từ nhiều năm naỵ Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố rằng cô con gái nhỏ của ông bà đă hoàn toàn b́nh phục và đang cố gắng vớt vát lại thời gian đă mất trong những năm đen tối vừa qua.
Những sự việc xảy ra như trường hợp này đă đem đến cho ông Cayce một đức tin rằng ông không lầm mà đem sử dụng khả năng lạ lùng của ông để giúp đỡ thế gian. Tiếng tăm của ông càng ngày càng đồn xạ Báo giới đă khám phá ra chỗ ông ở và đă phỏng vấn ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận được những cú điện thoại và những bức điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng yêu cầu ông chữa bệnh cho họ. Chính nhờ đó mà ông nhận thấy rằng ông có thể khám bệnh xuyên qua không gian, trong khi ông ở cách xa bệnh nhân đến hằng mấy trăm dặm đường, miễn là trong giấc thôi miên, người ta nói cho ông biết tên tuổi và địa chỉ rơ ràng của bệnh nhân.
Ông Cayce thường bắt đầu các cuộc khán nghiệm bịnh nhân ở xa bằng vài lời b́nh phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương chỗ bịnh nhân ở, với một giọng nói th́ thầm đại khái như:
"Ở đây, sáng nay gió thổi mạnh quá!"
"Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Những bộ áo pyjama này đẹp quá!"
"Ừ! Bà mẹ đang cầu nguyện ở pḥng bên!"...
Những sự tả cảnh đó về sau được xác nhận là đúng, lại càng giúp một bằng chứng xác thực về năng khiếu Thần Nhăn của ôn Caycẹ Dầu rằng bịnh nhân ở cách xa, hay ở gần một bên ông trong một gian pḥng, th́ ông cũng dùng một phương pháp giống nhau không có ǵ thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày, lên nằm trên divan hay trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ ngơi. Ông nhận thấy rằng ông cần phải nằm day đầu về hướng bắc và quay về hướng nam. Ngoài ra một chỗ nằm và một cái gối để gối đầu, ông không cần dùng một món ǵ khác.
Những cuộc khán nghiệm có thể diễn ra ban ngày cũng như ban đêm, và bóng tối hay sáng đều không có ảnh hưởng ǵ khác nhau. Vài phút sau khi nằm yên chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hay là vợ Ông Cayce, hay bất cứ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm này, mới đưa ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghị Câu dẫn dụ thông thường là: "Bây giờ, ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa chỉ: Tên đường thành phố, xứ) Ông sẽ khán nghiệm thân thể người ấy một cách chăm chú và cẩn thận, và ông sẽ nói cho biết bịnh trạng cùng nguyên nhân của chứng bịnh là như thế nào. Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra sao để chữa bịnh cho cái thể xác người ấy được thuyên giảm. Và ông sẽ đáp lại những câu hỏi của tôi đưa rạ"
Vài phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc cô thư kư Gladys Davis chép bằng tốc kư những lời nói của ông Caycẹ Sau đó, bản chép tốc kư được đem đánh máy lại rơ ràng. Trong phần nhiều trường hợp, một bổn sao được đưa cho người bịnh hoặc thân nhân của y, hoặc người đỡ đầu hay vị bác sĩ của đương sự, c̣n một bổn sao bằng giấy màu vàng th́ được giữ trong hồ sơ của bệnh nhân.
Lời đồn đăi truyền khẩu và những bài tường thuật trên mặt báo chí về năng khiếu Thần Nhăn của ông Cayce không bao lâu đă hấp dẫn sự chú ư của những tay con buôn có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn về ngành bông vải đề nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm dollars liên tiếp trong hai tuần để nhờ ông "Xem" dùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy ông đang cần dùng tiền, nhưng ông bèn từ chối. Có những người khác muốn nhờ ông chỉ dùm những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc chỉ con ngựa nào về nhứt để đánh trúng giải cá ngựa trong trường đuạ Có nhiều lần, ông Cayce đă chịu nghe theo lời thiên hạ thỉnh cầu và làm thử những chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và cũng để xem kết quả ra sao. Nhiều lần ông đă thành công và nói đúng kết quả của những cuộc cá ngựa; nhưng nhiều lần ông cũng đă nói sai! Và những lần như thế, sau khi thức tỉnh ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất măn về ḿnh! Có một lần, người ta thuyết phục được ông hăy thử thời vận và dùng Thần Nhăn để khám phá các mỏ dầu hỏa ở tiểu ban Texas, nhưng ông không thu được kết quả ǵ đáng kể và đă hoàn toàn thất bại!
Sau cùng ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng năng khiếu thần thông của ḿnh một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bịnh cho nhân loại, vài chỉ v́ mục đích duy nhất đó mà thôi, chớ không bao giờ nên dùng Thần Nhăn để giúp cho ai, hay cho chính ḿnh trong việc kiếm tiền và sinh lợi! Chí đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông đều dửng dưng không quan tâm đến.
Năm 1922, ông Giám Đốc tờ báo Denver Post nghe nói đến ông Cayce và mời ông đến Denver. Sau khi dự kiến một buổi khám bịnh có kết quả hiển nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce một việc sau đạy: Ông ta sẽ trả cho ông Cayce mỗi ngày một ngàn dollars, và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức những cuộc tŕnh diễn lưu động trong xứ, nếu ông Cayce bằng ḷng đổi tên họ và khoác lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khán bịnh bằng giấc thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt ṭ ṃ. Nhưng ông Cayce quyết liệt từ chối.
Ông David Kahn, Giám Đốc công ty Vô Tuyến Truyền H́nh ở Brunswich, và là bạn cũ của ông Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng tư, đă quảng cáo về việc làm của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới kinh doanh thương măi; nhưng khi ông đề nghị mở một chương tŕnh quảng cáo đại quy mô về công việc của ông Cayce trên đài vô tuyến truyền h́nh, th́ ông Cayce liền từ chối một cách quyết liệt, ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự khán bịnh hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông.
Trong các cuộc đàm thoại với những người không được biết ông nhiều, ông không bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của ḿnh, nếu người ta không hỏi ông về vấn đế đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết ǵ về ông, ngoài ra việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng ông chỉ là một khí cụ để giúp đỡ và đem lại sức khỏe cho những kể ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên hạ chú ư đến ḿnh.
Trong những năm đầu, ông Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh, và luôn luôn từ chối không nhận tiền thù lao về những cuộc khám bịnh của ông. Về sau, khi số người bịnh đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông làm cho ông không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới có lư do nhận tiền thù lao v́ ông c̣n phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đ́nh. Tuy thế, đối với những người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bịnh dùm không lấy tiền. Không bao giờ ông Cayce đ̣i hỏi hoặc bắt buộc bịnh nhân phải trả tiền thù lao.
Những bổn sao các thư từ của ông hiện c̣n được cất giữ trong các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến trú ngụ từ năm 1927, là nhữg bằng chứng hùng biện cho ḷng hy sinh, vô kỷ của ông. Mặc dầu trong những bức văn thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót về văn phạm, cách chấm câu và cách hành văn, nhưng nó biểu lộ một cách sâu xa ḷng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt những nỗi đau khổ của nhân loại. Trong những năm đầu tiên đó, ông Cayce luôn luôn bị dày ṿ bởi sự hoài nghị Có đôi khi, trong những cuộc khán binh, ông Cayce vẫn lặng thinh không nói ǵ trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những lúc đó, năng khiếu Thần Nhăn của ông bị ảnh hưởng bởi t́nh trạng sức khỏe hoặc trạng thái bất an của tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu dàng và hiền lành, nhưng ông có những lúc nóng giận th́nh ĺnh; và ông thường có sự lo âu về tiền bạc.
Một tâm trạng như thế lẽ tất nhiên làm tê liệt mất năng khiếu của ông. Trong những trường hợp khán bịnh mà không có kết quả, người ta phải đ́nh lại một lúc khác để đợi cho t́nh trạng sức khỏe và tâm lư của ông được phục hồi trở lại, khi đó cuộc khán bịnh sẽ đem lại kế quả mong muốn.
Nhưng ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu có bịnh nhân nào tỏ vẻ bất măn v́ cuộc khán bịnh không nói đúng theo bịnh trạng của họ, hoặc sự điều trị không có kết quả như mong muốn. Trong những trường hợp đó, ông Cayce xin lỗi một cách khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích rằng ông không hề tự hào là Thần Y có thể chữa khỏi bá bịnh; rằng có một phần chi tiết mà ông không được biết rơ, điều này làm cho những cuộc khán bịnh của ông trở nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không nh́n thấy rơ ràng mọi sự, cũng như một cái máy thu thanh vô tuyến, nghe khi mờ khi tỏ, chứ không phải lúc nào cũng chạy một cách đều đặn, hoàn toàn. Và trong thơ, ông kết luận: "Mục đích duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ ông." Và ông gửi kèm theo trong thơ một ngân phiếu hoàn nguyên số tiền mà ông đă nhận được lại cho vị thân chủ.
Thỉnh thoảng, sau nhiều tháng, chính những người thân chủ đó trở lại cho ông hay rằng một cuộc khán bịnh riêng về sau đă xác nhận những ǵ ông đă nói từ lúc đầu, mà họ đă nghi ngờ là không đúng như bịnh trạng của họ. Cũng có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bịnh nhân đă than phiền về sự chữa bịnh không lành, đă tỏ ra cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo cách điều trị của ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiên cữ, hoặc không chịu uống thuốc, hoặc xao lăng về phần kỷ luật tinh thần mà ông đă buộc họ phải noi theo. Dầu sao ông cũng biết rằng những cuộc khán bịnh của ông không phải là bá phát bá trúng. Nhưng với
thời gian qua, những cuộc khán bịnh của ông càng ngày càng trở nên rơ ràng và đúng đắn hơn trước, v́ kinh nghiệm đă giúp cho ông biết cách sử dụng năng khiếu của ông một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc sai biệt xảy ra một đôi khi, đă được bù đắp bởi những sự chữa lành bịnh một cách mầu nhiệm.
Một vị linh mục Thiên Chúa giáo người Gia Nă Đại đă được chữa khỏi bịnh động kinh; một người tṛ trường tỉnh ở Dayton (Ohio) đă được chữa khỏi bịnh đau khớp xương; ở New York, một viên nha y đă được chữa khỏi trong hai tuần chứng bịnh nhức đầu kinh niên đă nhiều năm; một thiếu niên ở Philadenlphia mắc chứng bịnh đau mắt có cườm, là một chứng bịnh được coi như là nan y, đă được b́nh phục khi một vị bác sĩ chữa cho y theo lời chỉ thị của ông Cayce.
Chính những trường hợp chữa khỏi bịnh kể trên đă xảy ra rất nhiều lân2, làm cho ông Cayce b́nh nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự, và cẩn thận rất mực, phải tin tưởng nơi cái năng khiếu của ông, mặc dầu thỉnh thoảng vẫn có những sự khó khăn và một vài sự sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể; và ông có thể tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho.
Năm 1942, do các báo chí đua nhau nói về thân thế và sự nghiệp của ông Cayce, tên tuổi của ông đă vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả là hằng triệu thơ từ của người trong xứ ở khắp bốn phương đều được gởi đến nhờ ông chữa bịnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng khẩn cấp. Ông Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bịnh bệnh nhân nào và không bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám bịnh cho từng người, và có người ông phải hẹn trước đến mười tám tháng mới đến phiên khám bịnh cho y.
Thay v́ chỉ khám bịnh hai hay ba lần trong mỗi ngày, có khi ông đă khám bịnh đến tám lần, sớm mai bốn lần và bốn lần vào buổi chiều. Làm việc trong giấc ngủ, có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng, nhưng sự thật, ông Cayce đă phung phí rất nhiều sinh lựcvà sự căng thẳng gây nên bởi sự làm việc quá sức đó đă ảnh hưởng đến sức khỏe của ông; ông từ trần vào ngày ba tháng giêng năm 1945, hưởng thọ 67 tuổi.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce đă chấm dứt, nhưng tiếng tăm của ông không bao giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ do những công tŕnh phụng sự nhân loại th́ người ta có thể nói rằng ông Cayce đă trở nên bất tử với thời gian vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 173 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
GIẢI ĐÁP CHO NHỮNG VẤN ĐỀ
BÍ HIỂM CỦA LOÀI NGƯỜI
Chương Ba
Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bịnh để cứu độ thế gian, ông Cayce đă cứu chữa cho hằng mấy muôn ngh́n bịnh nhân, và điều này càng xác nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhăn của ông.Với năng khiếu thần thông này, ông Cayce nh́n thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người bịnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường hợp thông thường người ta không nh́n thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu Thần Nhăn có thể soi thấu vào cơ thể con ngượi, th́ chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ càn khôn để nh́n thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và t́m sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc đó đă xảy ra trong trường hợp sau đây:
Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự với ông nói chuyện về ông Caycẹ Ông lấy làm thích thú và ṭ ṃ đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ. Sau khi đă quan sát những cuộc khán bịnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nh́n nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhăn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng nếu một người có nhăn quang nh́n thấy những sự vật ẩn dấu đối với cặp mắt phàm, th́ người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nh́n thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy tiêu hóa của người bịnh mà thôi đâu. Thí dụ như: Trong tất cả mọi nghành triết học và tôn giáo, th́ nghành nào gần nhất với Chân Lư? Mục đích của đời người là ǵ? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhăn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng?
Ông Cayce không hề biết một chút ǵ về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời,... Không hề thoáng qua trong ư của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lư mà người ra giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lư đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Sở dĩ ông đă chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là v́ do ḷng mong muốn giúp đơ những kẻ bịnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên đă nghĩ đến việc dùng Thần Nhăn vào những mục đích khác hơn là chữa bịnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng gia ḷng hứng khởi của ông Caycẹ Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông đă luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy th́ không có lư do ǵ mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bịnh.
Ông Lammers v́ bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma, nên ông yêu cầu ông Cayce hăy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng ḷng với ư nghĩ rằng có lẽ đấng Thiên Liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụg sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ư đến khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với Chân lư, th́ đó có thể là một nghành khoa học nối liền con người và vũ trụ mà chúng ta có thể hiểu được rơ ràng. Ông bèn có ư định bắt đầu thí nghiệm Thần Nhăn của ông Cayce về khoa này.
Một ngày nọ vào tháng 10, năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian pḥng khách sạn Phillips ở Dayton, th́ người ta dẫn dụ cho ông hăy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: "Thuở xưa y là một tu sĩ." Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đă từng đọc nhiều và đă từng quen thuộc với những lư thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh con người, câu nói ấy làm cho ông giựt ḿnh chẳng khác nào như bị điện giựt!
Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhăn của ông Cayce đă xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi?
Thay v́ làm thỏa măn sự ṭ ṃ của ông Lammers, cuộc khán nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammmers đang bàn luận sôi nổi với cô nữ bí thơ Linden Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng minh thuyết Luân Hồi là có thật, th́ điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những quan niệm đă có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lư học! Nếu ông Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rơ ràng luật Luân Hồi hành động bằng cách nào. Thí dụ như những mối liên hệ giữa Luân Hồi và khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người?
Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khán nghiệm. Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đă được giải đáp một cách đứng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời người mà ông bắt đầu khảo cứu t́m ṭi. Theo những cuộc khán nghiệm đó, khoa Chiêm Tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn đang tiến hóa một cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thâu thập kinh nghiệm ở cơi trần và trên những cơi vô h́nh khác, mà thuở xưa người ta gọi bằng tên các cầu hành tinh làm trung tâm điểm cho những cơi ấy. Tuy nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn đúng, bởi v́ có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn.
Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự ṭ ṃ khiến ông cứ tiếp tục những cuộc khán nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự nghĩ rằng những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đ̣i hỏi lấy một "Lá số, " và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hăy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghịVà đây là lối dẫn dụ mà ông Cayce đă đưa ra:
"Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày... Tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai tṛ của y trong vũ trụ là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của y ra sao với những chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đă trải qua những tiền kiếp đó.Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đă giúp đỡ hoặc làm tŕ trệ sự tiến hóa của y trong kiếp này."
Từ đó những cuộc khán nghiệm đều nhằm rơ rệt vào những tiền kiếp của đương sự. Những cuộc khán nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp, để phân biệt với danh từ khán bịnh, chỉ nhằm khán nghiệm thể xác của bịnh nhân v́ mục đích chữa bịnh mà thôi. Đối với hai loại khán nghiệm kể trên, ông đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Cayce tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau th́ ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội. Chính ông cũng tự khán nghiệm lấy ḿnh để t́m ra nguyên nhân sự chóng mặt, th́ ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay đấu về hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. C̣n lư do v́ sao cần phải thay đổi chiều hướng như thế, th́ không thấy giải thích, mà chỉ thấy nói rằng đó là một vấn đề thuận gịng "Từ điển."
Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ, ông đă từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có nhiều quyền phép thần thông, nhưng ông đă bị vấp ngă v́ tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến tranh trên sa mạc và bị bỏ sót lại trên băi cát, v́ những người đồng bọn tưởng rằng ông đă chết. Nằm một ḿnh, không có nước uống, không lương thực và không một mái che ông đă chịu khổ rất nhiều trong ba ngày và ba đêm đến nỗi ông đă làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác của ông. Ông đă xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của xác thể.Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đứng đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đă có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha, để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích điều sắc dục.
Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Cayce hăy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đ́nh ông, gồm cả bà Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys Davis, cô này từ đó đă trở nên một người thân tín trong gia d́nh ông. Cả gia đ́nh đều bằng ḷng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự ǵ xảy ra, th́ họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce: Lúc đầu họ c̣n ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên ṭ ṃ muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mệ Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đ́nh ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tánh tốt đều có nguyên nhân trong những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai ông, ông nói: "Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đă trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người con khác ông nói: "Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đă gây cho con nhiều điều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp nầy con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn."
Những sự diễn tả tánh t́nh đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người xa lạ như ông Lammers, cơ Linden Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng.
Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đă tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhăn của ḿnh, bằng những cuộc khán bịnh và soi kiếp, ông đă làm một công việc phụng sự chánh đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những điều tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... "Phản đạo," làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?
Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh trưởng trong một gia đ́nh Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút ǵ về những giáo lư của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết ǵ về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lư nó chiếâu diệu trong những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của ḿnh. Ông hoàn toàn dốt về giáo lư căn bản của Ấn Giáo và Phật Giáo nói về vấn đề Luân Hồi.
Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn cho lắm, v́ người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng theo thuyết ấy th́ những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa... Chính những cuộc soi kiếp đă giải tán những sự nghi ngờ này cho ông Caycẹ Trong những cuộc khán nghiệm các tiền kiếp, ông Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật; và không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lư có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và lấy đó làm nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á Châu cũng chủ trương thuyết Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều Chân Lư căn bản và trọng đại.
Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của linh hồn con người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cơi trần, khi th́ đầu thai làm đàn ông, khi th́ làm đàn bà; khi th́ làm thường dân, khi th́ làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác... Cho đến khi linh hồn đạt tới mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như một anh tài tử sân khấu đóng nhiều vai tṛ khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải trong một thời gian, và khi nó đă cũ, th́ vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác. Nhiều bậc Hiền Triết và các nhà thông thái, trí thức siêu việt của Âu Tây cũng đă chấp nhận thuyết Luân Hồi và đă viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer.
Ông Cayce bày tỏ ư kiến: "Những điều đó hẳn là đúng sự thật hiển nhiên rồi; nhưng c̣n đạo Cơ Đốc th́ sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết Luân Hồi th́ phải chăng điều đó có nghĩa là tôi là phủ nhận đấng Christ th́ rơ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đă đưa ra câu hỏi đó cho đấng Christ, và Ngài đáp rằng: Ngươi hăy kính yêu Chúa ngươi một cách hết ḷng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà Tiên Trị" (Mathieu 22:35-40.)
Những lời dạy giản dị và sâu xa về t́nh bác ái đó có khác ǵ với lời dạy về sự tiến hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác ǵ với những giáo lư của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đă dạy: "Ngươi đừng làm hại kẻ khác nếu ngươi không muốn cho kẻ khác làm hại ḿnh." Và những Thánh Kinh của Ấn Giáo cũng dạy rằng: "Ngươi đừng làm điều ǵ cho người khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi."
Ấn Giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt, dị đồng giữa luật bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không cho rằng hai luật ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên 10 tuổi, người ta đă cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất lấy làm say mệ Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có chữ Luân Hồi. Vậy th́ tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này?
Ông Lammers nghĩ rằng: "Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề Luân Hồi."
Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đă truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo lư mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho Ngài có dạy thuyết Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đă chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lư nguyên thủy của Ngài đă bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ư về vấn đề Luân Hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh, nhưng Ngài lại nói một cách rơ ràng không úp mở, rằng "Elie đă trở lại... Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về Thánh Jean-Bastistẹ" Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: "Bạch Sư Phụ, ai đă gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đă phạm tội, khiến cho y sinh ra đă bị mù?" Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm xúc ư nghĩa về Luân Hồi. Ta hăy đọc trong thiên Apocalypse, Chương mười ba, câu thứ mười: "Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết v́ gươm đao."
Câu ấy ám chỉ rằng có một định luật quả báo hành động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đă lần lần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lư của đấng Christ không có nói về vấn đề Luân Hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lư nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy có nhiều vị trong số đó đă nh́n nhận thuyết Luân Hồi trong những tác phẩm của họ, và đă công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin Thánh Jerome, Clement d' Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đă từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đă biết và truyền bá những phần giáo lư bí truyền có từ ngh́n xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho 12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?
Theo ông Lammers, th́ đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết Luân hồi, nhưng đă tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô.
Những điều kể trên đă giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Cayce, v́ ông đă tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng của ḿnh một cách trái Đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài ra, ông cũng c̣n có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của ḿnh, nhưng điều này lại có một tánh cách khoa học. Một thí dụ: Làm sao giải thích sự gia tăng dân số lớn lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những linh hồn đều đă có sống trên mặt đất? Vậy th́ số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà rả Tất cả gia đ́nh ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong pḥng khách để thảo luận về những vấn đề ấy.Khi tất cả mọi người đều cạn ư kiến, th́ người ta mới nhớ đến sự khán nghiệm bằng năng khiếu Thần Nhăn của ông Cayce để t́m ra sự giải đáp; và khi những cuộc khán nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, th́ họ tham khảo tài liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia.
Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, th́ t́m ra câu giải đáp cũng không phải là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng dầu sao, chúng ta có chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khán nghiệm đă qua có nói về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantide nay đă biệt tích. Ở Cao Miên, Mễ Tây Cơ, Ai Cập và ở các xứ Đông Phương, những tàn tích khảo cổ đă xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa đă từng xuất hiện trên những vùng lănh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ c̣n là những băi sa mạc. Như thế người ta có thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sở, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng vẫn không hề thay đổi linh hồn trong vũ trụ.Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn phảng phất trên các cơi vô h́nh trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện cho họ đầu thai xuống cơi trần.
Tuy ông Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đă hài ḷng về câu giải đáp hữu lư trên đây. Nhưng c̣n châu Atlantide cũng lại là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật? Hay đó chỉ là chuyện hoang đường? Những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhăn của ông Cayce đă đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ ḿ và với rất nhiều chi tiết:
Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đă tường thuật sự hiện diện của châu Atlantide, nay đă ch́m dưới đáy biển Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không chư ư đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đă từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ư với nhau, người th́ phủ nhận, kẻ th́ quả quyết sự hiện diện của châu Atlantidẹ Dầu sao có một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đă nói đến vấn đề này và đă đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn cho nhau. Ông Cayce đă đọc một quyển nhan đề "Châu Atlantide, một thế giới của thời kỳ tiền sử" của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng nhữơng cuộc khán nghiệm của ông đă diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy.
Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lư cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lư của khoa thôi miên, là những vấn đề đă được nêu ra trong các cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhăn, đă giúp cho ông Cayce có được một tầm kiến thức rộng răi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót. Lần lần, ông bớt sợ hăi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối óc phê b́nh, ông bắt đầu phân tách những cuộc khán nghiệm để kiểm soát cho nó được hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khán nghiệm ấy đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khán nghiệm này lại tương phản với một cuộc khán nghiệm khác, dầu là cách nhau bao xa cũng vậy. Bởi đó, một người có thể được khán nghiệm một lần thứ nh́, nhiều tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất: Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển sách ở chỗ trang đă được làm dấu saün, để đọc tiếp theo đoạn sách đă bỏ dở kỳ trước. Phần nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide.
Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, th́ thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đă bỏ khuyết lẫn nhau và trở nên hoàn bị hơn: Mỗi cuộc soi kiếp lập lại một phần những ǵ đă được nói ra trong một lần trước, hoặc thêm vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.
Không cuộc soi kiếp đều ḥa hợp lẫn nhau, mà c̣n xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu đó là những sự việc bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ: Một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đă từng làm một người "Phóng ghế." Ông Cayce không hề biết "Phóng ghế" nghĩa là ǵ, và khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ: Người ta trói những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận ch́m họ xuống ao nước lạnh.
Một thí dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước, y đă sống ở bên Pháp, tại đây y gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đă giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rơ Robert Fulton nhưng ông không tin rằng ông này đă sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông Fulton đă có ở bên Pháp nhiều năm, và đă được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích trong nghành hoạt động của ông.
Ngoài ra những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, c̣n có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lư trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông và những người trong gia đ́nh, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khán bịnh, dầu cho đương sự có quen biết hay không đối với ông Cayce, điều đó không có quan hệ ǵ cả. Họ ció thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới: Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp.
Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce đă có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đă tiết lô về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con: Một cuộc soi kiếp ngày sinh của một đứa trẻ tai. Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rơ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được.
Trong trường hợp lư thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau y có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp trước cũng đă bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích thú đặc biệt về nghành y học. Vào năm tám tuổi, y đă bắt đầu mổ xác những con thú đă chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, y đă xem một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, y cho cha mẹ biết rằng y có ư muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo nghành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York; mẹ y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ y đều phản đối ư định học Y khoa của y và khuyên hăy bỏ ư định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau cùng đă thắng mọi trở lực. Hiện nay y đang học lớp dự bị về khoa Lư Hóa Sinh tai. một trường Đại Học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu Thần Nhăn thật sự của ông Cayce, v́ ông đă nh́n thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biết của y sẽ biểu lộ ra ở kiếp này.
Những thí dụ kể trên chỉ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ sơ sinh mà cũng của những người lớn. Một cô điện tín viên ở nhà Bưu điện thành phố New York lấy làm vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đă đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Cayce và quyết định yêu cầu ông soi kiếp cho cộ Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện tín viên, và tốt hơn cô nên học về nghành vẽ quảng cáo, v́ trong nhiều kiếp trước, cô đă là một nghệ sĩ có tài về nghành này. Cô ấy không hề có ư nghĩ theo đuổi một nghệ thuật nào, dầu là kỹ nghệ họa hay bất cứ nghành nào khác, nhưng cô ấy có đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đă thành công rất mau chóng với nghành kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của ḿnh.
Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đă giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng v́ nó gây nên những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ; những người khác nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự khó khăn trong đời sống gia đ́nh; những người khác nữa đă t́m cách tự biết ḿnh và tập ḥa ḿnh một cách thích nghi với đời sống xă hội.
Những điều kể trên đă lần lần thuyết phục ông Cayce về tánh cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhăn cũng như của sự giải thích mà nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều nó làm cho ông tin tưởng hơn hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đă tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết Luân Hồi.
Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn sách trong Thánh Kinh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: "Ngươi gặt hái những ǵ ngươi đă gieo" và "Hăy làm cho kẻ khác những ǵ ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi." Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như:
"Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời! V́ ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy." Và: "Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính ḿnh. Ngươi hăy làm điều lành cho những kẻ đă phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội lỗi mà chính ngươi đă gây ra cho kẻ khác."
Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bịnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đă gây ra trong một kiếp trước.
Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đă lắng dịu, th́ nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đă tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp h́nh như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại Atlantide, Đế quốc La Mă, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đấu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: Châu Atlantide, Ai Cập, La Mă, nước Pháp thời Louis 14, 15 và 16, và Giặc Phân Ly (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cao Miên, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ư, Tây Ban Nha, Nhật Bổn, và nhiều xứ khác; nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau.
Theo ông Cayce, lư do của sự kiện trên là v́ những linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, th́ những nhóm linh hồn khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự thay phiên đầu thai từng nhóm một một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống như sự thay phiên từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều những linh hồn đang sống trên thế gian hiện nay, đều đă cùng đầu thai với nhau một lượt ở những thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có sự liên lạc gia đ́nh, bè bạn hoặc đồng lư tưởng với nhau, có thể đă cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước.
Một câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu đó do đâu mà có?" Câu trả lời là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại kư ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đă trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh nghiệm ở những kiếp trước. Những kư ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài ṿng hiểu biết và thực nghiệm của khoa Tâm lư học hiện đại.
Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm ḍ bằng tiềm thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ư thức, chẳng khác nào như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng những phương tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một phần nào, với những sự phát minh của khoa phân giải tâm lư (psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.
Nhưng c̣n cái nguồn gốc thứ hai đă giúp tài liệu cho ông Cayce, th́ dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những " kư ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh từ; Akashique: Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau:
Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rơ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự ǵ ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ đó sự ghi nhận trong kư ức của không gian đó mà những bị có Thần Nhăn có thể nh́n thấy dĩ văng như đọc một quyển sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đă cách xa hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha c̣ thể được coi như một cái máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy kư ức của Thiên Nhiên trên chất Akasha đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi mực độ nhậy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt ḿnh vào một trạng thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce không có thể đặt ḿnh vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng luồn sóng" như đă kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể làm được điều ấy.
Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đă thốt ra trong giấc thôi miên, th́ đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi th́ dùng những danh từ giống nhau, có khi th́ thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là "Kư ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách Thiên nhiên."
Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đă có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akashạ Nền Triết học cổ Ấn Độ đă từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách cảm: Và những điều này gần đây đă được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng này là ông Cayce đă nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khán nghiệm sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa Jesus?
Có thể nào ông đă góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đă từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đă khám phá ra những điều đó trong kư ức của Lịch Sử, được ẩn dấu tiềm tàng và giữ ǵn nguyên vẹn trong những cơi vô h́nh huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Cayce đă chấp nhận quan niệm về chất Akasha, không phải v́ ông có một bằng chứng tuyệt đối về đều ấy, mà bởi v́ nó đă được xác nhận trong những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhăn; và những cuộc khán nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy.
Có lẽ sự dùng Thần Nhăn để nh́n thấy những sự việc đă xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng ǵ hơn những hiện tượng đă có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ Óc con người, và sự truyền cảm của bộ Thần kinh hệ. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khán bịnh bằng Thần Nhăn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đă soi kiếp cho tất cả độ 2.500 người. Cũng như những cuộc khán bịnh bằng Thần Nhăn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ ǵn cẩn thận. Nhiều thơ từ văn kiện đă chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đă tiết lộ. Những người nào muốn t́m biết sự thật về những điều này vẫn c̣n có thể chất vấn nhiều người hiện nay c̣n sống và đă từng được ông Cayce soi kiếp cho họ.
Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tánh cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, th́ ta đă có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về luật Luân Hồi, là một nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, th́ ít nhứt nó cũng đáng để cho chúng ta chú ư v́ mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao nhiêu những cuộc phát minh lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giải thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đă phát minh ra thuyết Tương Đối luận, ông đáp:
- Tôi chỉ thử đặtt một nghi vấn về một định lư.
Ngoài ra, chúng ta c̣n có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lư, y lư và triết lư, nó d8em đến cho ta một tầm kiến thức rộng răi và khác hẳn về cuộc đời.
Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đă t́m đến ông Cayce và đă được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu Thần Nhăn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bịnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn t́m sự giải đáp cho câu hỏi sau đây:
" Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?"
" Nguyên nhân v́ đâu mà tôi bị sự đau khổ này?"
Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra th́ những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp này, v́ không có ǵ đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đă chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là cái kết tinh của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đă được chỉ cho thấy rằng những bịnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự hành động của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.
Những ǵ họ đă nghe và học hỏi đă làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học Nhân Quả đă giúp cho họ một nguồn an ủi cùng t́m thấy sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn.Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi kiếp, người ta cũng phải nh́n nhận sự kiện này là nó đă làm đảo lộn trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việv kể trên không phải là nó đem đến cho ta một giả thuyết mới: đó là một lư thuyết rất cổ xưa và đă từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả địa cầu. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng v́ hai điều này:
Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đă có được những bản phúc tŕnh đúng đắn mạch lạc, rơ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của một số nhiều người.
Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch xử thế giới, những bản phúc tŕnh đó được ghi chép và sắp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă hợp nhứt triết lư Đông Tây càng thêm phần sinh sắc.Nhờ đó, chúng ta đă có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông Phương và Tây Phương.
Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhăn của ông Cayce cũng đă tổng hợp khoa học cà tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cơi giới tinh thần được cai quản bởi những định luật Nhân Quả một các đúng đắn cũng y như cơi giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro t́nh cờ theo quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động sai lầm trong quá khứ. Nó chỉ rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ư muốn độc đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết quả của những hành động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.
Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ư nghĩa và mục đích giáo hóa chúng ta về đướng xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là những bài học quư mà chúng ta thọ lănh trên trường học lớn của thế gian, ngơ hầu trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh Triết và Toàn Thiện.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 174 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
VÀI LOẠI QUẢ BÁO XÁC THÂN
Chương Bốn
Những người tàn tật, đui què, câm điếc, những người bị các chứng nan y, đó là những thí dụ rơ rệt nhứt về sự đau khổ của người đời. Đứng trước những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy một ḷng trắc ẩn sâu xa và thấm thía. Khi mà một trong những cảnh khổ đó xảy đến cho ta, khi chúng ta gặp phải những cảnh ngộ đắng cay, trái ngược, chúng ta có lẽ đâm ra hoài nghi về ḷng nhân từ bác ái của đấng Tạo Hóa. Có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi: "Tại sao tôi bị sự đau khổ này? Và tại sao cảnh khổ này lại xảy đến cho tôi?"
Anh X... Là một người hiền lành và đức hạnh hơn người. Anh đă bị mất hết gia tài, sản nghiệp và tất cả mấy đứa con anh đều chết hết; anh chịu đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không phàn nàn rên siết. Nhưng khi anh bị một chứng bịnh kỳ quái làm toàn thân anh đều nổi các mụt nhọt lở loét, ghê tởm, th́ anh X... Bèn nguyền rủa Thượng Đế lần đầu tiên, và cũng lần đầu tiên, anh la lên trong cơn tuyệt vọng để t́m biết lư do những sự đau khổ đă xảy đến: "Ai có thể nói cho tôi biết, rồi tôi sẽ im lặng và an phận. Tôi đă gây nên những tội lỗi ǵ?"
Nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do bởi những hành động sai lầm, tội lỗi gây ra, th́ người thời nay thường cho đó là một điều dị đoan, di sản của những tôn giáo cổ xưa đă lỗi thời. Ít người chịu suy nghĩ và nh́n nhận điều đó. Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, th́ tội lỗi và đau khổ đi liền với nhau như bóng với h́nh, và giữa Nhân với Quả vốn có một sự liên quan chắt chẽ.
Để hiểu rơ cái quan niệm trên, nó làm nền tảng cho những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ta cần hiểu ư nghĩa của danh từ Karma, là danh từ duy nhất giải thích ư nghĩa về vấn đề Nhân Quả. Karma là một danh từ Phạn ngữ, có nghĩa là hành động. Nhưng theo ư nghĩa về triết học, th́ nó định nghĩa Luật Nhân Quả, là một định luật cai quản và chi phối mọi h́nh thức sinh hoạt trong Trời Đất. Ông Emerson là người đă từng hấp thụ và tin tưởng nền Triết học Ấn Độ, gọi đó là Luật Thừa Trừ. Đấng Christ cũng đă nói về luật ấy một cách gọn gàng giản dị trong câu: "Ngươi sẽ gặt những ǵ ngươi đă gieo." Định lư khoa học của Newton nói rằng: "Mỗi hành động đều gây nên một phản ứng tương đương và ngược chiều," áp dụng trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta thích thú say mê v́ nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bịnh tật đau khổ trong kiếp hiện tại, truy nguyên ra từ những hành động ở những kiếp quá khứ, và làm sáng tỏ một cách rơ ràng cái quan niệm trừu tượng về Nhân Quả. Một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những trường hợp đă khán nghiệm co biết rằng có nhiều loại quả báo khác nhau. Một trong những loại đó có thể gọi là "Quả Báo Dội Ngược," nghĩa là một hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả sẽ dội ngược trở về bản thân của đương sự.
Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ về loại quả báo này, mà một trường hợp được kể ra như sau:
Một vị giáo sư dạy nhạc, lúc mới sinh ra đă bị mù mắt, có nghe nói về ông Cayce trong một chương tŕnh phát thanh "Những Sự Mầu Nhiệm." Ông bèn đến nhờ ông Cayce khán bịnh và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, ông ta cảm thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông đă thuyên giảm được 10 phần trăm về con mắt bên trái, mà các nhà chuyên môn về bịnh đau mắt cho là đă hoàn toàn hỏng. Kế đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rơ ràng tất cả bốn tiền kiếp của ông ta: Kiếp thứ nhất ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ Chiến tranh Phân Ly (Secession); kiếp thứ nh́ ở Pháp hồi thời kỳ Giặc Thánh Chiến (Croisades); kiếp thứ ba ở Ba Tư vào khoảng 1.000 năm trước Tây lịch; và kiếp thứ tư ở Châu Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại Hồng Thủy. Chính trong kiếp thứ ba ở Ba Tư, ông ta đă gây nên cái nhân ác nó báo ứng bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp này. Hồi đó, ông ta có chân trong một bộ lạc dă man có tục lấy dùi sắt nhọn nung đỏ châm vào mắt những tù binh, và chính ông ta là đao phủ quân hành tội các tù nhân bằng cách đó.
Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của một thiếu nữ làm nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới lên một tuổi. Cô này không thể đi đứng ǵ được, nếu cô không dùng nạng chống và những dụng cụ nối xương nhân tạo. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên nhân của bịnh trạng cô bây giờ là do một tiền kiếp ở Châu Atlantidẹ Trong kiếp đó, cô đă dùng những phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị yếu mềm cả tay chân, trở nên bất lực và chịu để cho cô sai khiến. Bởi vậy trong kiếp này cô phải chịu quả báo về sự tổn thương mà cô đă gây ra cho kẻ khác. (Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce thường dùng chữ "Linh hồn" để chỉ đương sự, v́ con người vốn là một linh hồn bất tử đầu thai từ kiếp này sang kiếp khác để học hỏi những bài học kinh nghiệm cần thiết trên đường tiến hóa đưa đến mức Toàn Thiện.)
Một thí dụ thứ ba về quả báo dội ngược được kể ra như sau:
Một người đàn bà 40 tuổi từ lúc nhỏ bị một chứng bịnh kỳ lạ. Mỗi khi cô ăn một vài thức ăn như bánh ḿ, hoặc chất ngũ cốc, th́ bị nhảy mũi dữ dội như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ đồ vật dụng, nhất là đồ bằng da hay bằng chất nhựa (plastique, ) th́ lại cảm thấy đau nhói dữ dội ở bên hông trái. Cô đă đi khám bịnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả, và cho biết rằng cô chỉ thấy bớt trong những cuộc chữa bịnh bằng thôi miên lúc 25 tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng triệu chứng cũ lại tái phát. Cô đến nhờ ông Cayce chữa bịnh. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng:
"Trong một tiền kiếp, linh hồn này làm nghề bào chế sư, y đă dùng nhiều chất hóa học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó y bị hành xác bằng những chất hóa học trong kiếp này. Linh hồn này cũng đă dùng một vài chất độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, bởi đó ngày nay ông bị nhiễm độc bởi một vài chất kim khí, chất nhựa, và đồ da thuộc bằng chất hóa học... "
Một loại quả báo thứ nh́ trên địa hạt vật chất có thể được gọi là quả báo về xác thân, theo đó sự lạm dụng cơ thể trong một kiếp sẽ gây nên quả báo thích nghi trong một kiếp sau. Đây là một ví dụ:
Một người đàn ông 35 tuổi, từ thuở nhỏ đă bị chứng đau ruột và bộ máy tiêu hóa. Y phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được một vài thức ăn giản dị mà thôi, và mặc dầu như thế, y cũng tiêu hóa các bữa ăn của y một cách khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt nhọc. Chứng bịnh này gây cho y rất nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại không ít trong đời sống ngoài xă hội. Cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết nguyên nhân của bịnh trạng này là trong một tiền kiếp dưới trào vua Louis 13 bên Pháp, y làm chức hầu cận của nhà vuạ Y thừa hành chức vụ một cách tận tâm và chu đáo, nhưng y có tật tham ăn và ăn uống quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi y làm nghề y sĩ dưới triều vua nước Ba Tư, y cũng ăn uống vô tiết độ. Như thế trong hai kiếp, y đă phạm cái lỗi về tâm lư là lạm dụng sự ăn uống để t́m khoái lạc của nhục thể. Điều này làm đảo lộn sự quân b́nh trong trạng thái tâm lư của y, và phải được thừa trừ bằng một cách nào đó trong kiếp hiện tại. Quả báo về xác thân làm cho y bị đau bộ máy tiêu hóa, và bắt buộc y phải hạn chế ăn uống trong kiếp này.
Một loại quả báo thứ ba về thân xác mà người ta thường thấy trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, có thể gọi là "Quả báo Tượng Trưng." Đây là một loại quả báo rất lạ kỳ và thú vị nhứt trong các loại quả báo về thể xác. Một trường hợp của loại quả báo này được kể ra như sau:
Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bịnh thiếu máu từ thuở nhỏ. Y là con của một vị bác sĩ, bởi đó y đă được săn sóc thuốc thang và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bịnh nan y như thế hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xạ Cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một tiền kiếp ở xứ Perou, đă năm kiếp về trước, linh hồn này làm tướng đem quân chiếm đoạt xứ ấy một cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Cuộc chiến tranh đó đă làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một thảm họa lưu huyết rất lớn. Bởi đó trong kiếp hiện tại của linh hồn nầy, y bị bịnh mất máu, không sao chạy chữa."
Chúng ta sẽ hiểu rơ ư nghĩa câu này hơn, nếu chúng ta so sánh với trường hợp quả báo vềt thể xác, v́ tội lỗi của người này không phải do sự lạm dụng một bộ phạm nào trong cơ thể của ỵ Đây cũng không phải là một trường hợp "Quả báo dội ngược," v́ nếu như thế th́ người thanh niên này có lẽ đă là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo, chẳng hạn như y có thể là một người lính Ba Lan bị quân Đức Quốc Xă của Hitler sát hại.
Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp báo ứng vào chính thể xác của y: Nó trở thành một vật khí dụng cho y dùng để trả quả. Bịnh mất máu làm cho cơ thể yếu đuối suy nhược suốt một đời, chính là một cơ hội trả quả nặng nề đau đớn hơn và có một ư nghĩa giáo dục rộng răi hơn là một cái chết v́ đao kiếm trên băi chiến trường. Linh hồn này đă làm đổ máu cả một dân tộc để làm thỏa măn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này sự yếu đuối bất lực so bịnh thiếu máu gây nên làm cho y chịu quả báo một cách tượng trưng.
Điều này có vẻ h́nh như hoang đường, nếu chúng ta không quen với những quan niệm thuộc về loại đó, qua sự phát minh gần đây về những sự tương quan giữa linh hồn và thể xác theo khoa Tâm Bịnh Học (Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng bịnh đều so những nguyên nhân về sinh lư. Những sự tiến bộ của khoa chữa bịnh tinh thần (Psychiatrie) đă chỉ rằng ít nhất có vài bịnh trạng nguyên nhân là do bởi những sự xáo trộn tinh thần hoặc xúc động t́nh cảm gây nên. Từ sự khám phá này mới nảy sinh một ngành Y học mới, gọi là khoa Tâm bịnh học (Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: Psyche là linh hồn, và soma là xác thể), khoa này cũng đạt được những kết quả hiển nhiên và không thể chối căi về sự liên quan giữa xác thể và linh hồn.
Khoa Tâm bịnh học đă chứng minh rằng những sự căng thẳng về t́nh cảm nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường tự biểu lộ nơi thể xác một cách tượng trưng bởi một thứ "Tiếng nói của cơ thể."
Thí dụ: Nếu người bịnh không nuốt được một cách trôi chảy trong bữa ăn mà người ta không t́m thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể, th́ đó có thể là một cái ǵ trong đời của bịnh nhân mà y "Không thể nuốt được." Sự buồn mửa, nếu không phải là do bịnh tật của cơ thể sinh ra, có nghĩa là người bịnh c̣n mang trong ḷng một cái hận nào đó trong đời sống t́nh cảm của y.
Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa "Tiếng nói của cơ thể" theo khoa Tâm bịnh học, và điều mà người ta gọi là "Quả báo tượng trưng." Trong các trường hợp sau này, dường như đương sự có một ư thức sâu xa thâm trầm về tội lỗi của ḿnh, và cái ư thức đó biểu lộ ra nơi một bộ phận trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ư nghĩa tượng trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển h́nh trong số rất nhiều trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta t́m thấy trong các tập hồ sơ của ông Cayce.
Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc soi kiếp được nghe ông Cayce nói rằng: "Anh đă từng đè nén, áp bức kẻ khác, lẽ tự nhiên, nhân quả báo ứng, có lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở, cũng như chính anh bị kẻ khác đè nén và áp bức vậy." Một người điếc bị cảnh báo rằng: "Như vậy anh đừng bịt lỗ tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh giúp đỡ." Cuộc soi kiếp cho biết người điếc này là một người ḍng sang, quư tộc dưới thời Cách Mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng kêu rên siết và những cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.
Một người bị chứng bịnh lao trong tủy xương sống, được biết cho rằng: "Linh hồn này đă từng gây chướng ngại khó khăn cho kẻ khác. Nên bây giờ y phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của ỵ"
Một người bị chứng bịnh rút gân, làm cho hai chân y bị teo bắp thịt, càng ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng: "Đây không phải là bịnh rút gân và teo bắp thịt mà thôi đâu; đó là hậu quả của những ǵ maà anh đă làm cho kẻ khác trong những kiếp trước."
Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong các tập hồ sơ Cayce là trườnghợp của một trẻ em mười một tuổi có tật đái dầm từ khi mới lên hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn, v́ tánh cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.
Người thiếu niên này hồi nhỏ rất hiền lành, được cha mẹ y nuôi nấng dễ dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái nhỏ: Từ khi đó, y bắt đầu đái dầm trên giường trong giấc ngủ. Y đái dầm như vậy đều đều mỗi đêm. Cha mẹ y nghĩ rằng có lẽ y cảm thấy bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm một em nhỏ nữa, nên tiềm thức của y khiến cho y tái diễn thói quen của tuổi sơ sinh để làm cha mẹ y phải chú ư và săn sóc y như thuở ban đầu. Cha mẹ y bèn hết sức cố gắng để tỏ cho y biết rằng t́nh thương của cha mẹ vẫn không thay đổi v́ đứa em gái nhỏ mới sinh, và y vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn không có kết quả.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ y bèn nhờ một vị bác sĩ chuyên môn về bịnh thần kinh chạy chữa cho ỵ Sau một năm thuốt thang điều trị, y vẫn không thuyên giảm chút nào, và cha mẹ đành phải chịu vậy. Suốt năm năm trường, y vẫn tiếp tục đái dầm mỗi đêm. Cha mẹ y chạy đủ thầy chuyên môn và thử đủ mọi cách điều trị chứng bịnh vẫn trơ trơ không sao chữa khỏi. Y vẫn đái dầm lên cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ y lại chạy chữa với một bác sĩ khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn không hiệu quả. Khi y lên mười tuổi, thấy rằng cuộc điều trị vẫn không ăn thua ǵ, cha mẹ y mới thôi và đành chịu phép. Khi y lên mười một tuổi, cha mẹ y nghe nói về thuật chữa bịnh của ông Caycẹ Người cha bèn yêu cầu ông Cayce khán bịnh về trường hợp ḱ lạ này của đứa trẻ. Ông Cayce bèn dùng Thần Nhăn để soi kiếp cho đứa trẻ th́ thấy rằng trong kiếp trước, y là một người giáo sĩ đạo Gia Tô trong hồi xử án những kẻ theo tà giáo. Chức vụ của y là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy bằng cách trói họ trên những chiếu ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận ch́m họ xuống ao nước lạnh. Sau khi t́m ra cái lư do nhân quả nói trên, cuộc soi kiếp cho biết bịnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là hăy áp dụng phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải thuộc về tinh thần chớ không phải về thể xác.
Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mê bèn đến ngồi cạnh giường con trai bà. Đợi đến lúc y đă ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng một giọng trầm trầm và chậm răi những lời này: "Con là một người hiền lành tốt bụng. Con sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những người con gặp trên đường đời của con. Con rất hiền lương và tốt bụng." Bà lặp đi lặp lại nhiều lần câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác nhâu, tuy rằng với bấy nhiêu ư tưởng đó trong chừng mười phút trở lại, trong khi con bà đang ngủ mệ Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không đái dầm như môi khị Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn theo đuổi phương pháp ámthị đó và cũng vẫn dùng bấy nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không đái dầm một lần nào trong suốt mấy tháng đó. Lần lần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một lần, rồi sau đó mỗi tuần một lần là đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không c̣n cần thiết nữa: Con bà đă hoàn toàn khỏi bịnh.
Trường hợp này có nhiều điểm lư thú. Trước hết là cuộc ám thị vừa áp dụng đầu tiên, đă làm dứt hẳn một chứng bịnh kinh niên trong chín năm. Và nếu người mẹ là một người đàn bà không có học thức và đức hạnh; th́ có lẽ người ta cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là một nữ luật sư ở Ṭa Án, bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan mê tín, và không có tâm địa bất lương.
Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo con là đừng đái dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ư thức về vào cái ư thức tâm linh của người thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm vào cái ư thức về sự tội lỗimà y đă làm trong kiếp trước, nó đă biểu lộ ra một cách tượng trưng trong thể xác của y do đường tiểu tiện, thận và bọng đái. Kiếp trước y đă nhận người khác xuống ao nước lạnh, hoặc chịu trách nhiệm về cái hành động tàn ác đó; kiếp này, y cảm thấy trong chỗ kín đáo, u uẩn của tiềm thức, rằng y phải trả cái nghiệp ác đó, và cái quả báo đă ứng hiện vào xác thân của y một cách tượng trưng. Mặc dầu trong kiếp này, y không có làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm thức làm cho y nghi ngờ về ḷng tốt của ḿnh, v́ y c̣n mang nặng trong ḷng cái kỷ niệm về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà y đă gây cho kẻ khác trong kiếp trước. Sự ám thị của bà mẹ đă thức động đến cái lớp kín đáo u uẩn đặc biệt đó, làm cho y hiểu rằng sự tội lỗi của y có thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ hiền lương, tốt lành, và bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không c̣n là cần thiết nữa.
Từ đó người thiếu niên đă bắt đầu sống một cuộc đời mới. Y được mọi người thương mến, y là một người học tṛ tốt và tỏ ra có khả năng lănh đạo. Tâm t́nh tánh chất của y đă thay đổi. Trong một cuộc giảo nghiệm về khả năng tại Viện Đào Tạo Nhân Cách Johnson Ó Connor, y đă được liệt vào hạng những người có triển vọngï thành công về sự giao tế ngoài xă hội. Người mẹ y cho rằng sự thay đổi cá tính của y một phần nhờ bởi sự điều trị thần kinh, và một phần nhờ bởi cuộc khán bịnh bằng Thần Nhăn của ông Caycẹ Hiện nay, vào năm 18 tuổi, theo ư kiến của cha mẹ y, th́ người thiếu niên có một đức tính căn bản là rộng răi khoan dung đối với mọi người. Đối với thói hư tật xấu cua người đời, y đều t́m cách bào chữa và t́m ra một sự giải thích về tâm lư để khoan dung và tha thứ cho họ. Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của y trong kiếp trước, mà chứng bịnh đái dầm là một h́nh phạt tượng trưng, đă được biến đổi thành một đức tánh khoan dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó cán cân nhân quả đă được lập lại sự cân bằng, và căn bịnh quả báo của y cũng đă dứt tuyệt.
Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng trên, chúng ta có thể thấy rơ một vài nguyên tắc hành động chung của Luật Nhân Quả. Trong những cuộc khán nghiệm và soi tiền kiếp của ông Cayce, ông đă chỉ cho ta thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển nhiên và cụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúa nào cũng báo ứng một cách thật đúng khớp với cái nguyên nhân gây ra, cũng như vay nửa cân trả tám lạng. Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông ta đă lấy dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta không có sinh vào làm dân của một bộ lạc dă man đến rồi đến phiên ông bị bắt làm tù binh của bộ lạc cừ địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông tạ Ông ta sinh ra đă bị mù ḷa, và sinh trưởng trong một xă hội văn minh tân tiến của thế kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong kiếp này của ông ta không hoàn toàn đúng hẳn như trong kiếp trước.
Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cũng một loại, đă đưa chúng tôi đến cái kết luận chung như sau: "Luật Nhân Quả là một định luật tâm lư, nó hành động trước hết trên địa hạt tâm lư, những hoàn cảnh vật chất chỉ là một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lư đó mà thôi. Bởi đó, sự báo ứng của nghiệp quả trên b́nh diện vật chất không hẳn phải là thật đúng khớp và ăn rập theo khuôn mẫu với cái nguyên nhân đă gây ra từ trước, mà chỉ là đúng một cách phỏng chừng. Trên b́nh diện tâm lư, nghiệp quả báo ứng mới thật đúng khớp hơn, và đầy đủ trọn vẹn hơn." Một nguyên tắc đại cương khác dường như căn cứ trên vấn đề khí cụ của nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ Cayce, người ta không hề thấy có trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra bởi một nạn nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đă gặp lại y trong kiếp này. Trong trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều ǵ chỉ rằng cha mẹ Ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay đầu thai lại để hành phạt ông tạ Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị bịnh liệt bại hai chân từ thuở nhỏ không phải là bị trả thù bởi những nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu Atlantide.
Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do chính nạn nhân cũ của đương sự gây ra, mà có thể do những người khác, những người này chỉ là những khí cụ của nghiệp quả, cũng chẳng khác nào như những người tay sai đi đ̣i nợ, để cho y trả những món nợ cũ. Và những người "Tay sai" này cũng chỉ hành động một cách vô ư thức, chứ không hề biết ǵ cả về cái vai tṛ "Thiên Lôi" hay "Hung Thần" của ḿnh, tức là cái vai tṛ làm khí cụ của nghiệp quả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 175 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUẢ BÁO CỦA SỰ CHẾ NHẠO
Chương Năm
Theo giáo lư Gia Tô, th́ tánh kiêu ngạo là một trong bảy điều tội lớn nhất của con người. Cũng như những tính điều khác trong đạo Gia Tô điều này rất lư thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thật tế về sự đau khổ của nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta chấp nhận những bằng chứng trong cuộc soi kiếp của ông Cayce, th́ sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế diễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời dèm pha, chỉ trích, chê bai dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ mang đến cái quả báo dội ngược: Người chế nhạo sẽ bị một thứ bịnh tật, tai ương, đau khổ giống như của người bị y chế diễu! Những hồ sơ Cayce có ghi chép bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những hành động chế nhạo kể trên. Có điều hơi lạ, là sáu trường hợp trong số đó xảy ra trước hết ở La Mă, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tộ Về điểm này một lần nữa, chúng ta lại thấy những nhóm linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử, tái sinh trở lại cơi trần đồng một lượt ở một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp về bịnh bại liệt.
Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi, có ba người con; chồng bà ấy làm một nghề tự dọ Năm ba mươi sáu tuổi bà bị bại liệt cả hai chân và không thể đi đứng vận động ǵ được. Từ khi đó, bà vẫn ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người đỡ mỗi khi muốn cử động. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân bịnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời Đế Quốc La Mă. Hồi đóm bà là một người trong ḍng dơi quư tộc của triều đại vua Néron và trực tiếp tham gia khủng bố những người theo đạo Gia Tộ Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đă cười khi thấy những người bị hành h́nh trong vũ trường, và bây giời y phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!"
Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị bệnh bại liệt từ lúc sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng những rất thản nhiên với bịnh trạng của bà, mà c̣n lấy hết tiền bạc của bà dành dụm được nhờ nuôi gà vịt kiếm lời. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa v́ hai cuộc t́nh duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này bị đau nặng và vừa khi khỏi bịnh xong th́ liền cưới ngay cô nữ y tá đă săn sóc y trong nhà thương! Ngoài ra những đau khổ về thể xác và t́nh cảm trên đây, c̣n thêm nào là đời sống cô độc ở quê, và một lần té ngă trên những bực thang bằng đá, làm cho bà phải nằm liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: Người ta không thể tưởng một cuộc đời đau khổ hơn nữa! Nguyên nhân của bệnh trạng này thuộc hai kiếp về trước ở đế quốc La Mă. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này thuộc về gịng dơi nhà vua Palatius, và thường đến vũ trường xem những cuộc đấu vơ giữa hai tội nhân, hoặc giữa một tội nân với một thú dữ. Sự đau khổ hiện thời một phần lớn là v́ bởi y đă cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yết đuối bất lực của những kẻ tù nhân bị thú dữ xé xác trong vũ trường!"
Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hăy c̣n có tật ở chân. Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mă. Cuộc soi kiếp cho biết: "Linh hồn này thuở xưa làm lính đao phủ quân của nhà vua, và đă cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ dấu sợ sệt hoặc những người bị ngă quị trong vơ trường dưới ngọn đao hành tội của ỵ Y đă gây ác quả không phải v́ y làm phận sự của người đao phủ, mà v́ y đă khinh bỉ chế nhạo những người theo một lư tưởng tôn giáo. Trong kiếp này, một xác thể tàn tật đem cho y cái kinh nghiệm cần thiết để làm thức động Chân Tánh và phát triển những sức mạnh tâm linh tiềm tàng của ỵ"
Dưới đây là bốn trường hợp lư thú mà sự chế nhạo lại bị những quả báo khác hơn là bịnh liệt bại. Một là trường hợp của một thiếu nữ bị chứng lao xương háng. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bịnh trạng của cô được truy nguyên ra ở một kiếp trước nữa ở La Mă. Hồi đó, cô thuộc giồngquư tộc dưới triều vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành đội người Gia Tô Giáo trong các vũ trường. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách một bên hông đă làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái trá!
Đây là một trường hợp khác: Một thiếu nữ kia mới mười tám tuổi đáng lẽ ra có một vẻ đẹp quyến rũ, nếu cô không bị phát ph́! Các bác sĩ y khoa nói rằng đó là do bộ hạch óc làm việc quá độ. Cuộc khán bịnh bằng Thần Nhăn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của hạch và phát ph́ của cô ta là một chứng bịnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực sĩ ở thành La Mă, có tiếng về khoa điền kinh và vẻ đẹp cân đối của thân h́nh. Nhưng y hay chế nhạo những tay lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự khéo léo lanh lẹ.
Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mười mốt tuổi, theo đạo Gia Tộ Cha mẹ y muốn cho y sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng y thấy rằng nghề ấy không đúng với sở thích của ỵ Y bèn từ chối không chịu nghe theo. Tật xấu lớn nhất của y là tật đồng t́nh luyến ái (yêu bạn trai hay bạn gái cùng đồng một nam tính hay nữ tính với ḿnh: Homosexualité). Y bèn yêu cầu ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong một tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp y là một họa sĩ chuyên môn về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút ch́ sắc sảo và linh động, y hay vẽ những cảnh tượng luyến ái giữa những người đồng t́nh với nhau để làm tṛ cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp luận như sau: "Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về cái tật nào, th́ chính anh sẽ mắc phải cái tật đó!"
Trường hợp thứ tư là của một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho y bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên môn nói rằng y sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc y vẫn sống sót. Y hoàn toàn bại liệt cả nửa thân ḿnh, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể từ khi đó y không hề rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc y được 33 tuổi, 17 năm sau khi tai nạn xảy ra, mẹ y yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho ỵ Cuộc soi kiếp cho biết rơ hai tiền kiếp: Một kiếp hồi thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ, trong khi đó y phục vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú và can đảm. Do kinh nghiệm trong kiếp đó mà kiếp này y có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mă vào lúc bắt đầu Tây lịch kỷ nguyên, y đă tạo ra cái nguyên nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó y là một người lính trong đạo binh La Mă và lấy làm khoái trá mà nh́n thấy những sự đau khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành h́nh ở pháp trường. Y đă từng đấu sức trong vũ trường, và về sau y nh́n xem những kẻ địch thủ của y đối chọi với các thú dữ. Y đă nh́n thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng y không chút động ḷng. Kết quả là trong kiếp này y nh́n thấy sự đau khổ ở chính ḿnh, và y cũng phải tập nh́n nó một cách thản nhiên nhưng với một mục đích khác hẳn: Quả báo này có cái tác dụng sâu xa là nhờ sự đau khổ, y sẽ cảm thấy rằng sự tín ngưỡng tôn giáo mà y diễu cợt nhạo báng trước kia, nay đă đột khởi ở trong linh hồn y để bù lại những ǵ y đă tạo ở kiếp trước.
Có điều lư thú là trong những trường hợp kể trên, gồm có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bịnh lao xương háng, một người phát ph́, một người có tật đồng tính luyến ái, một người dập tủy xương sống, tất cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là bịnh di truyền. Trong mỗi trường hợp, bịnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đă sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên một và năm lên 36 tuổi. Trong một trường hợp, bịnh tật do tai nạn xe hơi gây nên, Dầu rằng thế nào, đằng sau cái nguyên nhân hiển hiện, c̣n ẩn khuất một nguyên nhân sâu xa hơn. Cái định mệnh lạ lùng nó đặt để rằng trong một tai nạn xe cộ, có người thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích nặng nề, có người lại không bị một vết trầy da, thường được coi như một sự may rủi, t́nh cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên th́ thấy rằng dường như có sự hành động của một bàn tay vô h́nh, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy ra bất th́nh ĺnh, và như thế những quả báo xảy đến đều đúng luật công b́nh, không mảy may sơ sót.
Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một viếc không quan trọng như là một tiếng cười, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ th́ sẽ thấy quả có sự công bằng.
Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức là y kết án người này về những hoàn cảnh trái ngược của họ mà y không hề hiểu biết được cái lư do ẩn tàng. Y khinh bỉ cái quyền tự do của người khác, dầu cho đó là cái tự do lỗi lầm mà mỗi người đều có thể rút những bài học kinh nghiệm lấy cho ḿnh. Y chà đạp, dày xéo cái nhân vị, cái giá trị và tính cách thiêng liêng của mỗi linh hồn, dầu rằng linh hồn ấy có rơi vào sự đớn hèn, da đọa hay lố bịch chăng nữa. Ngoài ra, y c̣n tự tôn và cho rằng ḿnh cao hơn kẻ mà y chế diễu đùa cợt. Trong sự chế diễu đùa cợt, có một h́nh thức tự tôn rá6t bỉ ổi làm cho đương sự cách biệt rất xa với t́nh bác ái đại đồng giữa nhân loại và vạn vật. Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lư răn dạy người đời, được chứa đựng trong một quyển sách về đạo lư cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đă tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi người thốt ra những lời này: "Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi phải gây tội lỗi v́ cái lưỡi."
"Người chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người xét đoán! V́ ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đă kết án kẻ khác vậy."
Đức Jesus cũng nói rằng: "Kẻ nào mắng người khác là "Đồ ngu!" sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa Địa ngục!"
Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đă kể trên, th́ lời nói của đức Jesus hẳn là có một ư nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lư vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 176 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
VÀI CẢM TƯỞNG VỀ LUẬT QUẢ BÁO
Chương Sáu
Những tập hồ sơ Cayce tŕnh bày cho ta thấy biết bao nhiêu những sự đau khổ của người đời, có thể phân tách ra từng nhiều loại, đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn cả về tinh thần. Những hồ sơ đó làm nổi bật những khía cạnh trừng ph5t của Luật Nhân Quả, bởi v́ những người đến nhờ ông Cayce giúp đỡ, trước hết là những người đau khổ về bịnh tật. Một người đầy đủ sức khỏe không có lư do đến viếng một bác sĩ; và một người sung sướng ít khi thấy cần phải t́m hiểu về mục đích rốt ráo và ư nghĩa của cuộc đời. Chính v́ đó mà phần lớn những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhăn của ông Cayce được thực hiện cho những người bị thắc mắc đau khổ về những bịnh tật khó khăn, hoặc có khi là những sự đau khổ tinh thần rất lớn, mà không có một vị y sĩ, một nhà tâm lư, hay một vị mục sư nào có thể t́m ra cách giải quyết.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă thấy giá trị của sự đau khổ trên phương diện luân lư và tinh thần; nhờ thấy rơ lư do và nguyên nhân sự đau khổ, nên nó không c̣n là một điều khủng khiếp và rùng rợn đối với chúng tạTrái lại, những cuộc soi kiếp đó đă khuyến khích, an ủi, giúp nguồn cảm hứng và xoa dịu những tâm hồn đau khổ một cách sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, một tập hồ sơ thâm trầm của Cayce không phải chỉ gồm có những trường hợp chữa bịnh và giúp đỡ những kẻ bịnh tật khốn khó mà thôi. Trong những Chương sau, chúng ta sẽ thấy sự hành động của Luật Nhân Quả trong việc đào tạo khả năng, đức tính, thiên tài, và những bẩm tính cùng tư chất đủ mọi loại trong con người, làm căn bản cho sự khám phá ra những tài năng ẩn tàng cùng là vấn đề hướng nghiệp, ngơ hầu giúp cho thiên hạ t́m thấy con đường hành động của ḿnh để có thể thành công ở đời.
Một hoàn cảnh tốt và một thân thể kiện toàn là do những nghiệp quả tốt đưa đến. Nhưng những cuộc soi kiếp thường không giải thích về nguyên nhân của những quả báo tốt lành, v́ người ta cho rằng không phải những người được yên lành sung sướng, mà chỉ có những trường hợp đau khổ mới là đáng được chú ư. Những người được soi kiếp cũng đồng quan niệm với cái khuynh hướng chung của mọi người, là một số phận tốt lành hạnh phúc không cần phải giải thích lư do; mọi người đều cho rằng ḿnh có quyền được hưởng một số phận yên lành tốt đẹp. Chỉ khi nào bị điêu linh khốn khổ, tai họa dập dồn, th́ người ta mới bắt đầu tự hỏi lại sao họ lại bị như thế!
Một thân h́nh tốt đẹp cũng là do nghiệp quả tốt gây nên. Những cuộc soi kiếp thỉnh thoảng cũng cho biết rằng một thân h́nh cân đối mỹ lệ trong kiếp này là kết quả của sự săn sốc giữ ǵn thân thể trong kiếp trước. Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có đưa ra một trường hợp lư thú về sắc đẹp do một lư do nghiệp quả khác hẳn. Đó là trường hợp của một người đàn bà là kiểu mẫu đẹp có tiếng ở New York. Cô có hai bàn tay tuyệt đẹp, và được các hăng buôn mời chụp ảnh làm kiểu mẫu để quảng cáo cho những món hàng trang sức như thuốc nhuộm móng tay, dầu thơm, và đồ nữ trang. Quả báo tốt lành khiến cho cô có sắc đẹp trong kiếp này được truy nguyên từ một kiếp trước trong một tu viện ở Anh Quốc. Trong tu viện, cô đành trọn cuộc đời và dùng hai bàn tay để làm những công việc hèn mọn và thấp thỏi nhất với một tinh thần phụng sự và hoàn toàn hiến dâng. Cái chí nguyện tâm linh ấy đă đem đến cho cô trong kiếp nầy một thân h́nh mỹ lễ với hai bàn tay đẹp đẽ khác thường. Đây là một triển vọng đáng khuyến khích cho những ai mong muốn có sắc đẹp!
Những quả báo đau khổ xảy đến cho ta có lẽ gây cho ta một ấn tượng sâu xa thấm thía hơn là những quả báo tốt lành, nhứt là nó lại càng thấm thía hơn và cần thiết hơn ở vào thời buổi hỗn loạn và suy đồi hiện naỵ Người thời nay trí khôn đă mở rộng, khoa học càng ngày càng phát triển, cuộc đời tinh thần của họ cần căn cứ trên một nền tảng thông minh có thể làm thỏa măn được lư trí.
Một phép xử thế đúng đắn, hạp với lẽ Đạo là cần thiết để đem đến cho con người một đời sống hạnh phúc, an vui và giải thoát. Người ta sẽ nhận thấy tầm quan trọng lớn lao của điều này khi người ta hiểu rơ những định luật Nhân Quả và Luân Hồi. Bởi đó, giáo lư Minh Triết cổ truyền đem đến cho ta một phương thuốc bổ khỏe, thần hiệu để chữa khỏi chứng bịnh liệt nhược tinh thần của nhiều giáo phái hiện naỵ Có lẽ những sự hành phạt đau khổ của luật quả báo mà chúng tôi tŕnh bày trong quyển sách này sẽ không làm nản ḷng quá mức những người nào chấp nhận định luật Luân Hồi; trái lại nó c̣n đem cho họ một niềm hy vọng một sự yêu đời và một đức tinh mới mẻ căn cứ trên sự tin tưởng ở định luật công b́nh của Vũ Trụ, nó cai quản mọi sự trên thế gian.
Những thí dụ kể trên có lẽ sẽ làm cho chúng ta dè dặt cẩn thận hơn trong những hoạt động và cử chỉ của đời sống hằng ngày. Khi chúng ta biết rằng sự tàn nhẫn độc ác có thể gây nên quả báo đui mù tàn tật, bịnh mất máu, bịnh xuyễn hay bịnh liệt bại; sự hoang dâm có thể gây nên chứng bịnh động kinh (épilepsie); sự áp chế đè nén kẻ khác có thể đem đến bịnh liệt bại; th́ những điều đó có thể làm cho chúng ta dễ quay đều hướng thiện và cố gắng sống một đời sống tốt lành. Ngoài ra, những trường hợp kể trên đem đến sự giải thích về t́nh trạng thê thảm của hằng triệu người đau khổ về bịnh tật trên thế gian. Chúng ta không thấy những kẻ tật nguyền, què quặt, đui mù, câm điếc, điên khùng, những người bị các chứng bịnh nan y, liệt bại, động kinh cùi phong, những người cụt tay, cụt chân v́ tai nạn hay chiến tranh... Những người xấu số đáng thương ấy, chúng ta không nh́n thấy v́ họ Ở ẩn trú trong nhà, hoặc nằm trong các bịnh viện. Chúng ta chỉ t́nh cờ gặp họ một đôi khi ở ngoài đường phố, và không biết rơ tổng số những người bịnh tật đau khổ ấy lên đến bao nhiêu!
Nhưng họ gồm một thành phần rất đông đảo, và số phận của họ rất thảm thương. Sự giải thích thông thường của những giáo sĩ đạo Gia Tô về những thảm trạng đau thương ấy là: "Đó là ư muốn của Chúa Trời!" Nhưng thật khó mà dung ḥa cái ư niệm một đấng Cha Lành đầy ḷng từ bi bác ái mà lại tạo ra những cảnh đau khổ lầm than đó cho những đức con vô tội của Ngài. Về điểm này, người ta lại nói rằng ư muốn của Chúa Trời là một điều bất khả tư nghị, không thể cân nhắc đo lường, và không thể hiểu được! Nhưng rốt cuộc câu ấy vẫn không giải quyết được sự mâu thuẫn nói trên.
Thuyết Luân Hồi đă đưa ra sự giải thích cho vấn đề bí hiểm đó bằng cách chỉ rằng sự vật diễn ra trong vũ trụ không bao giờ do sự ngẫu nhiên t́nh cờ, mà là do sự hành động của một định luật thiên nhiên rất công b́nh và hợp lư. Đó là một định luật căn bản trong Trời Đất, theo đó th́ những người đau khổ bịnh tật vốn là do những nguyên nhân của họ đă gây ra trong quá khứ, và bây giờ họ phải gánh lấy hậu quả; không một ai có thể bị những cảnh lầm than khốn đốn nếu đó không phải là do những nguyên nhân xa gần mà họ đă tạo nên trong những kiếp quá khứ. Người Tây phương không thể chấp nhận quan niệm về Luân Hồi một cách dễ dàng v́ nó khó tin và không thể đem ra thí nghiệm một cách khoa học, hoặc không có ǵ làm bằng chứng.
Tuy nhiên, trong đời có biết bao nhiêu những chuyện khó tin mà chúng ta không hề nghĩ đến! Từ một cái trứng bé nhỏ chui ra một con ṇng nọc, nó lội nước như một con cá, rồi lớn dần và rụng đuôi để trở thành con cóc. Một con sâu kết một kén bằng tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén một cái kén bằng tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén chui ra và trở thành một con bươm bướm màu mè sặc sỡ. Đó chỉ là một vài thí dụ lạ lùng để chỉ cho ta thấy rằng sự sống của một sinh vật có thể thay h́nh đổi dạng nhiều lần liên tiếp mà vẫn không mất cái cá tính riêng của nó; và chúng ta chấp nhận điều ấy một cách tự nhiên. Nếu ta suy nghĩ kỹ, có lẽ chúng ta sẽ thấy rằng những thí dụ đó cũng không khác ǵ hơn là việc linh hồn những thể xác khác nhau mà vẫn giữ nguyên vẹn cá tính của nó.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ta có thể chấp nhận được về phương diện tâm lư và luân lư đă giúp cho chúng ta giải tán được sự hoài nghị Những tài liệu lạ lùng đó là một bằng chứng để giúp cho chúng ta có một tầm hiểu biết sâu xa hơn. Có lẽ nó giúp đỡ cho chúng ta thấy rằng ngoài ra những kiếp sống tầm thường, bẩn chật, g̣ bó của chúng ta trên cái thế giới nhỏ hẹp này, c̣n có một tầm sinh hoạt rộng lớn bao la hơn nữa, và cuộc đời c̣n có một ư nghĩa sâu xa thâm trầm hơn những ǵ mà chúng ta đă có thể tưởng tượng từ trước đến nay.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 177 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUẢ BÁO TREO
Chương Bảy
Một điều lạ lùng mà người ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo về xác thân như chúng tôi đă nêu trên, là có đôi khi những quả báo chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân được tạo ra. Người ta tự hỏi tại sao lại có sự đ́nh chỉ đó, và tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?
Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là: Linh hồ đă gây nhân tạo nghiệp, phải đợi đến khi có một hoàn cảnh và thời giờ thuận tiện cho quả kia kết thành h́nh. Có khi phải đợi nhiều thế kỷ mới có một cơ hội thuận tiện và trong khi chờ đợi, th́ khoảng thời gian đó được sử dụng để cải thiện cho tâm tính của đương sự. Người ta t́m thấy một thí dụ về loại quả báo treo này trong những tập hồ sơ Cayce về những linh hồn trước kia đă sống ở Châu Atlantide.
Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của Châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa ch́m dưới đáy biển Đại Tây Dương, mặc dầu người ta có đủ lư do để tin ở sự kiện lấy trước những bằng chứng lịch sử, khoa học và văn hóa. Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách "Crisias Timeus" của Platon trong đó tác giả tường thuật những điều ông đă nghe nói về Châu Atlantidẹ Một trong những bằng chứng khoa học thường được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp (câble sous marin) đặt ngầm dưới biển Đại Tây Dương bị đứt và ch́m xuống đáy biển ở một bề sâu 3.000 thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, th́ nó quến theo những mẫu phún thạch (lavạ) Khi người ta quan sát bằng kiếng hiển vi th́ thấy rằng những mẫu phún thạch này ngày xưa đă từng đông đặc lại trên đất liền, trước khi ch́m xuống đáy biển.
Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhứt, th́ trước hết là những chuyện giai thoại về cuộc Đại Hồng Thủy. Người ta gặp chuyện những giai thoại này không những trong bộ Thánh Kinh (Bible), mà c̣n trong những truyện Thần Thoại tôn giáo và lịch sử của hầu hết tất cả những dân tộc cổ xưa trên thế giới.
Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có những phương tiện giao thông giữa hai lục địa Mỹ Châu và Phi Châu.
Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng nơi sự hiện diện của Châu Atlantide, nhưng vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận chắc chắn. Dầu sao, nếu ta có phải tin nơi những cuộc soi kiếp của ông Cayce, th́ châu Atlantide đă từng có một cách hiển nhiên, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Theo ông Cayce một vài gian pḥng bí mật hăy c̣n khóa chặt trong Kim Tự Tháp lớn ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantidẹ Ông Cayce cho biết rằng những tài liệu đó được đem chôn giấu trong Kim Tự Tháp, do những người dân Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đă nhận ch́m châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng 9.500 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên. Ông Cayce cũng có nói rằng đảo Bimini, ở ngoài khơi tiểu bang Florida bên Hoa Kỳ, nguyên là đỉnh ngọn núi cao ở châu Atlantide ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể t́m thấy dưới đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlante, mái bầu của ngôi đền được xây cất với những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng mặt trời. Những cuộc soi kiếp cho biết dân Atlante ngày xưa đă từng đạt tới một tŕnh độ khoa học tiến bộ hơn của chúng ta ngày naỵ Họ đă từng phát triển tới một mực rất cao các nghành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền h́nh, những phương tiện di chuyển trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng mănh lực của Mặt Trời và nguyên tử lực. Họ đă từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lực, thắp sáng, và chuyển vận tiến bộ hơn của chúng ta ngày nay.
Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường lập đi lập lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong v́ họ đă lạm dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa thôi miên và mănh lực của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai khiến chúng làm việc một cách nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ và thỏa ḷng háo sắc của họ Nïười ta sẽ hiểu rằng những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái Đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn trong những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển, và người ta chưa có những kiến thức sâu rộng về khoa tâm lư hoặc khoa Huyền Môn. Cuộc thử thách hữu hiệ nhứt để biết xem một người đă thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa, là đặt trước mặt y những món cao lương mỹ vị mà y ưa thích, để xem y có biết tự chủ hay không. Người ta không thể biết đượ rằng một người đă hoàn toàn tự chủ về đường sắc dục hay chưa, nếu y không gặp cơn thử thách: Bị cám dỗ mà vẫn không động ḷng như Thánh Antoine ngày xưa vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc, đáng yêu!
Cũng giống như thế, những linh hồn đă lạm dụng những quyền năng phi thường và mầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantide thuở xưa, không chắc là đă từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và cải tạo tâm tính, nếu họ chưa gặp những hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời đại này, để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một tinh thần xây dựng, hay là với mục đích kỷ hại nhân như thuở xưa kia.
Sự tiến bộ từng chu kỳ của Lịch sử đă làm cho thế kỷ 20 trở nên thời kỳ phát triển khoa học kể trên; bởi đó những cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết rằng có rất nhiều dân Atlantide thời cổ nay đă đầu thai chuyển kiếp vào thời kỳ hiện tại. Những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật có thể hiểu được bằng hai cách: Trước hết, đó là do kết quả của những kinh nghiệm về mọi phát minh khoa học mà những linh hồn mới đầu thai đă mang lại từ những kiếp quá khứ của châu Atlantide ngày xưa; thứ hai, thời kỳ này là giai đoạn thử thách cho những linh hồn đó để xem trong những thế kỷ trung gian, họ đă thâu thập được những đức tính ǵ khả dĩ giúp cho họ chống chỏi lại sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo của thế hệ văn minh khoa học vật chất đưa đến. Bởi đó, cái yếy tố căn bản nó quyết định vấn đề "Quả báo treo" dường như là những linh hồn đă gây sự nghiệp quả xấu phải chờ đầu thai vào một thời kỳ thuận tiện, có một nền văn minh tiến bộ thích nghị Vấn đề này h́nh như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của lịch sử, và việc luân phiên của những nhóm linh hồn trong việc chọn lựa những thời kỳ đầu thai chuyển kiếp xuống Trần.
Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên Địa Cầu cũng đầu thai trở lại thế gian theo từng đợt hay từng nhóm, cũng ví như những luồng sóng dập dồn từng thời kỳ, theo định luật Tuần Hoàn của vũ trụ. Tuy nhiên, có nhiều đoạn trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ rằng sự chuyển kiếp của những nhóm thiểu số trong những luồng sóng lớn đó, và thậm chí sự đầu thai của từng cá nhân trong những nhóm ấy, có thể không phải là do tiền định một cách chặt chẽ và máy móc theo từng chu kỳ nhất định. Những linh hồn và từng nhóm linh hồn không phải tái sinh trở lại một cách đều đặn như một việc đă định saün. Về điểm này, cũng như trên những lănh vực khác của Cơ Trời máy Tạo, con người vốn có quyền tự do ư chí, và một cá nhân hay một nhóm người đều có quyền tự do chọn lựa những thời kỳ đầu thai tùy theo ư muốn.
Điều này lại đưa đến một sự phức tạp mới nữa: Nếu một linh hồn cần phát triển một đức tính trong những giao tế của y với một linh hồn hay một nhóm linh hồn khác, có lẽ y sẽ cần tŕ hoăn sự đầu thai của y trong một thời gian để đợi đến một thời kỳ được chọn lựa cho sự đầu thai chung của những linh hồn ấy. Và nếu đó là một sự tŕ hưỡn lâu dài, th́ trong khi chờ đợi, linh hồn ấy có thể dùng thời gian để cố gắng phát triển một vài đức tính mới, hoặc một khía cạnh mới nào đó về sự tiến hóa của y, và bởi đó mới có cái hiện tượng "Quả báo treo."
Những sự kiện kể trên nhắm vào những yếu tố bên ngoài của quả báo treo; nhưng ngoài ra c̣n có những yếu tố bên trong. Một sự kiện tâm lư sau đây c̣n có một tầm quan trọng tương đương, nếu không nói là lớn hơn; đó là sức mạnh tinh thần cần thiết để chịu đựng những quả báo xảy đến. Linh hồn phải trả quả cần có cơ hội thâu thập những đức tính cần thiết để đương đầu với quả báo khi nó xảy đến; chứ nếu không th́ quả báo nặng nề quá sức chịu đựng c̣ thể làm cho đương sự bị đè bẹp, thay v́ giúp ích cho sự tiến hóa của y.
Nhiều người bịnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho biết rằng nguồn gốc bịnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trở về trước, đều lấy làm ṭ ṃ muốn biết lư do của sự tŕ hoăn lâu dài như thế. Những người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nh́, đều nhận được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đă kể chuyện trong Chương Năm. Cô này hỏi: "Tại sao linh hồn lại đợi cho đến kiếp này mới trả xong nghiệp quả đă gây ra từ thời Đế Quốc La Mă?" Cô ấy được trả lời như sau: "Bởi v́ linh hồn ấy không đủ sức trả quả sớm hơn."
Câu chuyện ấy chỉ rơ rằng nếu một linh hồn không đủ sức trả quả sớm hơn, đó là v́ bởi một lư do bên trong hơn là lư do bên ngoài. Trong trường hợp đó, cũng như những trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những kiếp trung gian chỉ rằng những kiếp này là những kinh nghiệm cần thiết để giúp cho đương sự có cơ hội thu thập thêm một vài đức tính tốt và để tiến hóa thêm.
Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên 16 tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đă kể trên, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do y đă gieo trong thời kỳ đế quốc La Mă. Tuy nhiên, một kiếp đầu thai vào thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ đă giúp cho họ có cơ hội phát triển một vài đức tính như can đảm, yêu đời, và khả năng khai thác khía cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó là những điều mà y cần dùng để chịu đựng cảnh khổ trong kiếp hiện tại, khi quả đă chín mùi và đến kỳ phải trả.
Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rơ hơn về vấn đề này:
Một người kia vay năm triệu đồng của ngân hàng để kinh doanh sự nghiệp. Y không thể nào trả hết số tiền đó trong vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng sau.V́ lẽ đó, y xin hẹn đến một kỳ hạn nào đó, thí dụ là ba năm để cho y có thời giờ dành dụm lần hồi cho đủ số trước khi trả dứt làm một lần. Ngân hàng không thể bắt y phải trả dứt trong một tuần lễ, v́ lẽ tất nhiên là y không đủ sức trả gấp, và đ̣i nợ một cách gắt gao như thế thật là không có ích ǵ. Có thể rằng trên địa hạt tâm linh, sự tŕ hoăn thời kỳ phải trả quả, gọi là quả báo treo, cũng diễn ra với một tinh thần đó.
Nếu một ngày kia thuyết Luân Hồi được một số đông người thừa nhận và nếu quan niệm về Nhân Quả được quần chúng Phương Tây cũng như Đông Phương hiểu rơ, ít nhất trên nguyên tắc đại cương, th́ vấn đề quả báo treo có lẽ sẽ trở nên một đầu đề lo sợ cho rất nhiều người! Cái ư tưởng rằng một hành động hung dữ độc ác trong quá khứ có thể bị quả báo đui mù, tàn tật trong một kiếp tương lai xa hay gần, làm cho người ta cảm thấy băn khoăn lo sợ. Đối với những người nhậy cảm và nhiều tưởng tượng, th́ một món nợ nhân quả mà họ không được biết rơ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng trên xà nhà và chực rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Quả báo treo có thể trở nên một sự đe dọa khủng khiếp rùng rợn trong những năm đầu của thế hệ phổ biến về thuyết Luân Hồi, cũng như Quỷ Satan và lửa Hỏa ngục đă từng là một mối đe dọa sợ hăi cho người đời trong thế hệ đă qua!
Để chống lại khuynh hướng sợ sệt đó những nhà lănh đạo các phái Tư Tưởng Mới có thể đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo treo, cũng như phong trào Khoa Học Công Giáo (Science Chrétenne) phủ nhận tội lỗi, bịnh tật, sự chết, sự lầm lạc và cơi vật chất. Những sự phủ nhận đó có một sức dẫn dụ rất mạnh và có thể đưa đến những kết quả khá lành mạnh về đường tâm linh. Tuy nhiên, phủ nhận vật chất, thế gian, tội lỗi và quả báo, không có nghĩa là giải quyết được vấn đề! Bổn phận của chúng ta không phải là dấu diếm sự thật, cũng như con chim đà điểu vùi đầu xuống đống cát; mà là thắng đoạt, chế ngự và tổ chức lại cơi đời vật chất theo những lư tưởng tâm linh cao cả. Phủ nhận Luật Quả Báo chẳng khác nào như không nh́n nhận những món nợ mà ḿnh phải trả, và những bài học mà ḿnh phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn tránh trách nhiệm, dâu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần, không thể gây cho người khác ḷng mến phục. Thói thường, khi người ta không thích một điều ǵ, người ta hay lư luận một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự t́m cách trốn tránh trách nhiệm. Nhưng chúng tôi không muốn nói rằng sự dẫn dụ (suggestion) là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bịnh trạng thuộc về tâm lư. Chúng ta đă thấy trường hợp lư thú của một trẻ em bị chứng bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan ư thức về tội lỗi in sâu trong tiềm thức, đă chữa cho em ấy được khỏi bịnh.
Nếu những nhà chữa bịnh tinh thần muốn chữa các chứng bịnh về nhân quả, th́ phương pháp điều trị là làm cho bịnh nhân thành thực nh́n nhận những tội lỗi cũ; bày tỏ một ư muốn chân thành cứu chuộc những tội lỗi và sau cùng, tỏ ra một sự cương quyết làm việc phải và hướng thiện theo đường lối ngược chiều với tội lỗi đă gây ra. Như vậy, các quả báo sẽ lần lần tiêu tan, và bịnh sẽ thuyên giảm.
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Luân Hồi, th́ ta phải nh́n nhận rằng nhân loại chưa được tiến hóa cao về phương diện tâm linh, và bởi đó con người phải chịu quả báo xấu xa trong những kiếp tương lai. Nhưng điều đó không là cho ta quá băn khoăn lo sợ, v́ hai lư do:
Một là: "Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó!" (A chaque jour suffit sa peinẹ) Câu tục ngữ này có nghĩa là: Ta nên sống mỗi ngày một cách b́nh tĩnh và không nên quá băn khoăn lo lắng. Chẳng những thế, mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như thế nào, ta cũng phải sống trọn kiếp của ḿnh với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng số phận của mỗi người là rất công b́nh, và ta có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến. Không bao giờ ta phải trả một quả báo nào mà ta không đủ sức chịu đựng.
Hai là: Dầu cho ta có tin ở Luật Nhân Quả hay không, ta cũng phải thấy rằng tương lai là một cái ǵ mà ta không thể biết một cách chắc chắn. Và ta biết rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chớ không phải do sự ngẫu nhiên t́nh cờ, th́ những nỗi băn khoăn sợ sệt của chúng ta cũng sẽ giảm bớt, v́ lư do giản dị là quả báo xảy đến chỉ do một định luật Công Bằng. Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu một sự việc xảy đến một cách công b́nh, để cho ta học một bài học hay và mở rộng tầm kiến thức của ḿnh th́ đó không phải là một điều đáng sợ. Một người lương thiện nếu mắc nợ th́ lo trả; y làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để trả góp đúng kỳ hạn vào đầu tháng. Y không phải lúc nào cũng lo lắng sợ sệt cái ngày trả nợ sẽ đến. Y đem hết tinh thần, sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần.
V́ bởi tầm ư thức của chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không biết được rằng ḿnh đă mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong thời kỳ dĩ văng xa xăm. Nhưng chúng ta nên có cái thái độ thẳn thắn của một người lương thiện, để chấp nhận những món nợ của chúng ta với một sự thiện chí và thành thật muốn trả nợ.
Sự chấp nhận định luật Nhân Quả và đức tin nơi một sự Công Bằng Thiêng Liêng, phải là cái thái độ của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến. Trong một Vũ Trụ công bằng, trật tự và tốt lành, mà định luật Luân Hồi đă tiết lộ cho chúng ta thấy, th́ tuyệt nhiên ta không có ǵ cần phải sợ sệt hết cả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 178 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUẢ BÁO ĐỐI VỚI SỨC KHỎE
Chương Tám
Có nhiều người tin tưởng một cách sai lầm về Luật Nhân Quả. Họ nghĩ rằng theo luật ấy, mọi sự đều có tiền định, và điều này làm cho họ có một thái độ thụ động, lười biếng, mất cả chí tiến thủ, và việc ǵ cũng đổ thừa cho số mạng. Đó là trường hợp của người Ấn Độ, mà sự tin tưởng của Luật Nhân Quả vốn ăn sân dân tộc của họ đă từng nhiều ngàn năm, làm cho phần đông có cái thái độ kể trên.
Tŕnh độ sinh hoạt ở Ấn Độ nói chung vẫn ở vào một mực rất thấp thỏi và bi đát. T́nh trạng này phần lớn là do óc thụ động, thiếu tranh đấu của người Ấn trong sự chấp nhận nghiệp quả và số mạng của họ.
Nếu chúng ta chấp nhận quan niệm về Nhân Quả, th́ thái độ của chúng ta đối với luật Quả Báo, cũng như đối với mọi định luật thiên nhiên, phải là an phận và tin tưởng. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi rằng chúng ta nên chấp nhận sự kiềm tỏa của Luật Quả Báo và bằng ḷng an phận đến một giới hạn nào, và đến một mực độ nào? Vấn đề này được nêu ra trong những trường hợp quả báo về xác thân gây nên những bệnh tật đau khổ cho xác thể.
Về vấn đề này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều rất lư thú v́ nó đem đến sự giải đáp rơ ràng và chắc chắn cho những sự tranh luận về thuyết Luân Hồi.
Những câu hỏi sau đây đă được nêu ra:
- Đối với những người đau khổ v́ một chứng bịnh quả báo, phải dùng phép điều trị như thế nào? Có hy vọng chữa khỏi những chứng bịnh "Nhân quả" đó không? Mỗi cuộc soi kiếp trong tập hồ sơ Cayce đều khuyên ra không nên có một thái độ quá thụ động trong sự trả quả. Luôn luôn trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce đều lặp đi lặp lại câu này để nói với bịnh nhân:
"Đó là nghiệp quả của anh (hay chị). Và bây giờ, đây là điều mà anh (hay chị) có thể làm để sửa đổi lại."
Trong những tập hồ sơ đó, có điều đáng chú ư là trong tất cả mọi trường hợp về bịnh "Nhân quả," luôn luôn đều có những lời khuyên về cách điều trị. Trong nhiều trường hợp về bịnh quả báo, cuộc soi kiếp cho biết có hy vọng chữa khỏi. Trong những trường hợp mà nghiệp quả nặng nề hơn, cuộc soi kiếp nói rơ rằng không nên hy vọng được hoàn toàn chữa khỏi, nhưng bịnh có thể được thuyên giảm nhờ sự cố gắng; và kế đó là sự diễn tả phương pháp điều trị.
Đây là một trường hợp lư thú của một người thợ điện, 34 tuổi, bị một chứng bịnh đau mắt có cườm rất nặng, không thể chữa khỏi. Trong ba năm, y không làm việc ǵ được; y đă quá mù mắt để có thể đọc hay viết; và khi y thử đi vài bước th́ y thường bị vấp ngă. Y đă vào nằm nhiều bịnh viện, trong khi đó vợ y làm công trong một cửa hàng lớn để nuôi gia đ́nh và một đứa con năm tuổi. Trong một cuộc khám nghiệm, y được cho biết là một chứng bịnh quả báo, nhưng y không nên tuyệt vọng. Cuộc soi kiếp nói:
- À! Chúng ta có cái tthể xác ở đây. (Các cuộc soi kiếp đều bắt đầu bằng một câu này, tuy giản dị mà lạ lùng, trước khi diễn tả căn bịnh của đương sự.) Theo chỗ chúng thấy th́ bịnh trạng rất nặng, nhưng anh chớ tuyệt vọng v́ sự cứu chữa đă sắp đến.
Tiếp theo sau đó là sự diễn tả căn bịnh bằng những danh từ Y học. Kế đó, ông Cayce nói về những mănh lực hàn gắn tiềm tàng trong thể xác của bịnh nhân; ông nói qua vài điều chỉ rằng nguyên do chứng bịnh này là do quả báo gây ra. Tiếp theo đó là lời khuyên bịnh nhân hăy thay đổi tâm tính, và dẹp bỏ mọi điều oán ghét, thù hận và mọi tư tưởng ác. Cuộc soi kiếp kết thúc bằng một phương pháp điều trị tỉ mỉ từng chi tiết.
Độ một năm sau, chính người bịnh nhân ấy viết thơ yêu cầu ông Cayce dành cho một soi kiếp thứ nh́; y cho biết rằng y đă áp dụng cách điều trị một cách đúng đắn và đă thấy khá. Sự thuyên giảm đó kéo dài được bốn tháng, nhưng sau đó bịnh lại tái phát và sức khỏe bị giảm sút. Dường như y chỉ áp dụng phép điều trị về phương diện vật chất, mà không chú ư bao nhiêu đến phương diện tinh thần, v́ cuộc soi kiếp lần thứ hai đă cảnh cáo y một cách không úp mở như sau:
"À! Chúng ta có cái thể xác ở đây. Thể xác này, chúng ta đă thấy trước đây không lâu. Chúng ta nhận thấy rằng thể xác này đă có nhiều tiến bộ về vật chất, nhưng nó c̣n rất nhiều điều phải sửa chữa.
"Như đă nói ở trên, đây là một chứng bịnh quả báo. Linh hồn này phải thay đổi thái độ đối với cuộc đời, đối với mọi hoàn cảnh và đối với người đồng loại. Bịnh được thuyên giảm một phần nào, do sự áp dụng những phương pháp điều trị về thể chất. Nhưng nếu linh hồn này lấy làm tự măn, và không chịu thay đổi thái độ về mặt tâm linh; nếu y vẫn c̣n nuôi ḷng thù hận, ích kỷ, độc ác bất công và ganh ghét; nều y vẫn c̣n nuôi trong ḷng nhữn ǵ trái ngược lại với đức kiên nhẫn, khoan dung, bác ái, thiện cảm, nhân từ, th́ bịnh trạng của y không thể nào có thể chữa khỏi.
"Linh hồn này c̣n muốn khỏi bịnh v́ mục đích ǵ?"
"Phải chăng là để thỏa măn những dục vọng của thể xác?"
"Hay là để làm tăng trưởng thêm ḷng ích kỷ của ḿnh? Nếu như thế, th́ tốt hơn là y hăy cứ ở nguyên t́nh trạng cũ của y bây giờ.
"Nếu linh hồn này có sự thay đổi bên trong về thái độ và về đường tâm tính, nếu y biểu lộ sự thay đổi đó trong lời nói và hành động, và nếu y áp dụng cách điều trị đúng như phương pháp đă nêu ra, th́ bịnh y sẽ có thể thuyên giảm.
"Nhưng trước hết cần phải có một sự thay đổi tánh t́nh, tâm trạng và mục đích. Tất cả những cách điều trị máy móc mà anh đă áp dụng chỉ có thể đem đến một sự khỏi bịnh hoàn toàn khi nào linh hồn anh và mục đích của anh được tiếp nhận ân đức Thánh Linh. Ân huệ đó, anh muốn nhận lănh hay từ chối, là tùy ư anh. Chúng tôi không c̣n ǵ để xét thêm, trừ phi anh biết tự sửa đổi. Chúng tôi đă chấm dứt cuộc khán bịnh ở nơi đây."
Người ta nhận thấy trong những đoạn kể trên đây, rằng hy vọng được khỏi bịnh tùy thuộc nơi sự thay đổi trong tâm hồn và thái độ của bịnh nhân đối với cuộc đời. Anh muốn khỏi bịnh với mục đích ǵ? Đó là một câu hỏi rơ ràng với một giọng ḍ xét. Phải chăng là để thỏa măn những dục vọng của xác thể? Hay là để làm tăng trưởng ḷng ích kỷ? Nếu như thế tốt hơn anh hăy ở vào t́nh trạng cũ!
Trải qua trên 15.000 cuộc soi kiếp, ông Cayce không một lần nào từ chối giúp đỡ ư kiến để cho một bịnh nhân tự điều trị lấy, dầu y đă phạm tội lỗi xấu xa nặng nề như thế nào. Nhưng cũng như trong trường hợp kể trên, ông thường nhấn mạnh rằng bịnh tật đau khổ có một mục đích giáo dục để bắt buộc chúng ta quay về đường chính, và sự tội lỗi, tà vạy đă gây nên quả báo bịnh tật cần phải được sửa đổi. Người bịnh cần phải cố gắng bằng đủ cách để cải thiện t́nh trạng của ḿnh; nhưng đồng thời y phải sửa đổi sự yếu kém bên trong tâm hồn. Những sức mạnh hàn gắn thiên nhiên và những cách điều trị của khoa học hiện đại có thể đem đến một sự thuyên giảm tạm thời, nhưng không thể chữa khỏi bịnh, nói về khía cạnh tinh thần của Luật Quả Báo. Nói tóm lại, sự khỏi bịnh phải là do ở khía cạnh tâm linh, nó phải đến từ bên trong, chứ nếu không, nó sẽ không được lâu bền.
Trường hợp sau đây của một người mù, rút trong số hằng trăm trường hợp mù ḷa trong các tập hồ sơ Cayce, có thể tiêu biểu cho quan điểm kể trên. Đây là biên bản cuộc khán nghiệm: "Đây cũng là một bịnh quả báo. Sự áp dụng các lư tưởng đạo đức tâm linh trong cách xử thế hằng ngày đă đem đến một sự thay đổi lớn trong cuộc đời của bệnh nhân. Tuy lúc đầu bịnh nhân vẫn không thấy bớt, nhưng chúng tôi thấy rằng cặp mắt bịnh nhân đă lần lần thuyên giảm khi y bắt đầu sửa đổi tâm tánh. Chúng tôi nhận thấy rằng sự cố gắng đầu tiên phải là thuộc về địa hạt tinh thần và bịnh nhân phải cố gắng biểu lộ ḷng nhân từ trong những cử chỉ hằng ngày. Hăy tập lấy sự thiện cảm, t́nh thân hữu, đức kiên nhẫn, dịu dàng, khoan dung, nhân hậu... "
Trong hai trường hợp kể trên, người ta thấy rằng cuộc soi kiếp nhấn mạnh trước hết ở sự thay đổi tâm tính và cải tạo tinh thần, và đó là điều kiện cốt yếu để sửa đổi nghiệp quả về xác thân. Nếu chúng ta nhớ rằng mục đích của sự quả báo là giáo dục tâm linh, chúng ta sẽ hiểu rằng phương pháp điều trị kể trên là lẽ tự nhiên vậy. Điều tội lỗi mà luật quả báo sửa đổi, không phải là thứ "Tội lỗi" hiểu theo ư nghĩa dị đoan cổ xưa là làm trái ư hoặc xúc phạm Quỷ Thần, cũng không phải theo ư nghĩa của các nhà Thần học, hay của nền luân lư khiết bạch hồi thời Nữ hoàng Victoria. Đó là tội lỗi theo ư nghĩa tâm lư, nó bao gồm tất cả những ǵ trái với định luật thiên nhiên.
Tội lỗi hiểu theo ư nghĩa đó vốn căn cứ trên ḷng ích kỷ, hay khuynh hướng chia rẽ người với ta, và tăng cường bản ngă đó có thể khoác lấy nhiều h́nh thức. Nó có thể là sự tàn bạo đối với kẻ khác; hoặc sự lạm dụng cơ thể của chính ḿnh do bởi sự vô tiết độ hay sinh hoạt cẩu thả; hoặc nó có thể là do sự kiêu căng, tự tôn tự đại. Những sự lỗi lầm đó sở dĩ có là do bởi một điều lầm lạc chính đại, căn bản về nguồn gốc con người.
V́ con người vốn là tinh thần chứ không phải là xác thể. Tội lỗi của con người là do bởi y quên đi cái chân lư căn bản đó và tưởng rằng ḿnh là cái thể xác. Y phải cố gắng loại trừ điều ảo vọng đó; và phương tiện chắc chắn nhứt để đánh đổ điều hư vọng ấy không phải là phủ nhận thể xác một cách tiêu cực, mà là một phương pháp tích cực tự hỗn hợp với tinh thần.
Về điểm này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và những giáo lư thần bí khác gọi sự hỗn hợp tinh thần đó là Ân Phước, hay Ơn Trên. Người ta thấy trong những trường hợp kể trên cũng như trong những trường hợp khác về quả báo xác thân trong tập hồ sơ Cayce, rằng lời khuyên răn tối hậu để được khỏi bịnh là bịnh nhân hăy cố gắng làm thế nào để được thấm nhuần Ơn Trên, hay ḷng Nhân Từ của đấng Christ. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă dùng những lời lẽ và danh từ Gia Tô Giáo, bởi v́ ông Cayce là người theo đạo Gia Tộ Trong lúc b́nh thường, ư thức của ông đă thấm nhuần những từ ngữ và quan điểm Gia Tô, v́ vậy những lời nói do nơi tiềm thức của ông thốt ra trong giấc thôi miên đều phải đi xuyên qua cái bức màn đó. Người ta có thể hiểu rằng nếu ông Cayce sinh trưởng ở một xứ Phật giáo, th́ có lẽ ông đă dùng những lời lẽ danh từ trong khuôn khổ tôn giáo và văn hóa địa phương và có lẽ ông đă dùng những danh từ nhà Phật. Nhưng cách biểu lộ tư tưởng của ông, dầu là dưới h́nh thức nào, cũng không có ảnh hưởng ǵ đến công việc cứu khổ mà ông vẫn theo đuổi. Dưới đây là một thí dụ về sự khuyên răn của ông cho một người bị chứng bịnh lao tủy xương sống: "Anh hăy nhớ rằng nguồn gốc bịnh trạng của anh là tự anh gây ra: Nó là một chứng bịnh quả báo. Phương diện tốt nhứt là anh hăy cầu nguyện Ơn Trên và hoàn toàn tin tưởng nơi đấng Thiêng Liêng, v́ Ngài là Công Bằng, Chân Lư và Ánh Sáng."
Ơn Trên ở đây không phải là một độc quyền của đạo Gia Tô hay của những người tin ở đấng Christ: Ơn Trên có thể được ban xuống cho tất cả người nào, dầu y là người Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Gia tô cũng vậy. Được thấm nhuần Ơn Trên, tức là do sự sám hối, ăn năn tội lỗi và quyết chí sửa ḿnh mà được hưởng ân huệ tốt lành nó làm tiêu tan nghiệp chướng do luật Quả Báo đưa đến. Sự suy gẫm, cầu nguyện, đọc Thánh Kinh, lập hạnh, và làm việc phụng sự giúp đời, là những phương pháp thường được nêu ra trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce để sửa đổi tâm tính và tiến bộ tâm linh. Nhưng muốn được hiệu nghiệm, những phương pháp đó phải được thi hành một cách thành thật, chứ không phải là một cách máy móc. Nếu không có một t́nh thương nhân loại và chúng sinh phát ra tự trong đáy ḷng, nếu không có đức nhân ái từ bi, th́ những phương pháp thực hành kể trên chỉ là trống rỗng và không có giá trị ǵ. Chỉ có những kỷ luật đúng đắn, một sức dẫn dụ mạnh mẽ quyết tâm cải tà quy chánh, mới có thể đưa linh hồn vào đúng con đường của nó. Nhưng c̣n đối với hằng triệu linh hồn hăy c̣n vào thời kỳ ấu trĩ về phương diện tâm linh, những phương pháp trên không thể nhất thời đưa họ tiến ngay đến mục đích. Không phải tất cả mỗi người đều đă tiến hóa đến một tŕnh độ tâm linh đầy đủ để có thể đạt được trong một kiếp cái t́nh bác ái rộng răi bao la nó bao trùm tất cả mọi loài, tức là trạng thái thâm thức đó mới có đủ mănh lực làm tiêu tan mọi điều tật ách, nghiệp chướng do quả báo dưa đến.
Trong trường hợp người thanh niên bị chứng bịnh lao ở tủy xương sống, cuộc soi kiếp dường như biết rơ y không đủ sức thực hiện những điều kể trên. Bởi đó, với sự thẳng thắn của một vị y sĩ biết rơ tiềm lực và khả năng của bịnh nhân và không muốn làm cho y hy vọng những điều quá sức ḿnh, ông Cayce đă cho y biết rơ: "Bịnh anh chỉ có thể giảm bớt phần nào thôi, chứ không thể dứt tuyệt." Tuy nhiên, cuộc soi kiếp không phải đă kết thúc.
Trong trường hợp này và những trường hợp khác nữa, cuộc soi kiếp tiếp tục đưa ra cho bịnh nhân những phương pháp điều trị về phần thể chất, để cho bịnh nhân có thể làm những cố gắng cụ thể để tự chữa bịnh lấy ḿnh. Sự kiên nhẫn, bền chí, can đảm và những đức tính khiêm tốn, nhân từ, khoan hậu, mà bịnh nhân cố gắng phát triển và thâu thập được trong thời kỳ đó, sẽ đóng góp phần nào trên phương diện tinh thần, ít nhứt là một cách gián tiếp, để sửa chữa nghiệp quả. Như vậy, thay v́ có một thái độ tiêu cực, thụ động đối với vấn đề trả quả, những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn khuyến khích bịnh nhân hăy có một thái độ tích cực tranh đấu để vượt qua nỗi chướng ngại đau khổ của ḿnh. Dưới đây là một khía cạnh quan trọng khác của vấn đề chữa bịnh.
Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce luôn luôn đưa ra những điều khuyên răn các bịnh nhân tùy theo tŕnh độ tiến hóa riêng của từng người. Ông đưa ra những phương pháp điều trị thiên hẳn về tinh thần cho những người không thể hiểu được hoặc chống chỏi lại những phương pháp đó. Bác sĩ Alexis Carrel, tác giả hai quyển sách nhan đề: "Con Người, Một Vật Huyền Bí" và "Cuộc Hành Tŕnh Đến Thành Lourdes," cho biết rằng ở Lourdes, nhiều ngườit sâu xa, đă được chữa khỏi ngay tại chỗ về bịnh ung thư và những chứng bịnh nan y khác. Nếu như sự khỏi bịnh ấy quả có thật, th́ chắc chắn là việc ấy không thể xảy đến cho những người không có một đức tin và một thái độ tinh thần giống như của những người được khỏi bịnh kể trên.
Sự nghiên cứu nhiều cuộc soi kiếp và khán bịnh của ông Cayce chỉ rơ ràng nguồn tài liệu luôn luôn biết rơ giới hạn đức tin của bịnh nhân. Trong nhiều trường hợp, những cuộc soi kiếp biết rằng vài bịnh nhân có thrể được chữa khỏi bằng phương pháp dẫn dụ tinh thần. Trong những trường hợp khác cũng cùng một chứng bịnh nhưng bịnh nhân lại không thể chữa khỏi bằng phương pháp đó, hoặc v́ do sự thiếu hiểu biết, hoặc do sự hoài nghi, hoặc v́ họ quá thiên về quan niệm vật chất. Đối với những người này, tốt hơn là hăy khuyên họ dùng phương pháp điều trị thể xác. Người ta nhớ một câu chuyện cổ điển Ấn độ nói về một người đệ tử của một người đạo sĩ nọ. Người đệ tử đă trải qua một giai đoạn huấn luyện công phu để có thể chế ngự được vật chất bằng sức mạnh tinh thần. Y là một người đệ tử ưu tú và có nhiều khả năng. Y bèn ẩn ḿnh trong rừng sâu, và sau mười năm tập luyện y mới trở lại gặp Tôn Sự Tôn Sư hỏi: "Con đă làm ǵ trong suốt thời gian đó?" Người đệ tử đáp lại với một giọng hơi tự đắc: "Con đă luyện tập chế ngự tư tưởng để có thể đi trên mặt nước và bây giờ con có thể vượt qua sông như đi trên đất bằng." Vị Tôn Sư nói với một giọng buồn rầu: "Con ơi! Con đă lăng phí thời giờ vô ích. Con há lại chẳng biết rằng con có thể vượt qua sông mà chỉ trả có một xu cho người lái đ̣?"
Câu chuyện này do một dân tộc đă từng phát triển sức mạnh tâm linh trải qua nhiều thế kỷ để lại, có một ư nghĩa sâu xa để cho chúng ta suy gẫm. Lẽ dĩ nhiên, sự cố gắng để tự chữa bịnh cho ḿnh bằng sức mạnh tinh thần là một cố gắng đáng khen và nó giúp cho ta tự đào luyện tinh thần và ư chí. Khoa học công giáo và những phong trào tôn giáo cùng một loại đă từng phổ biến trước công chúng sự hiểu biết về những quyền năng của tư tưởng, nó là nguồn gốc của nhiều chứng bịnh của người đời, và đồng thời cũng có thể được dùng để chữa bịnh luôn. Tuy nhiên, người ta cần biết rằng có những chứng bịnh nguyên nhân không phải do tư tưởng gây ra; nhiều chứng bịnh, dầu là nguyên nhân nào, có thể điều trị bằng những phương tiện vật chất một cách hữu hiệu hơn là điều trị bằng tinh thần.
Những quan niệm về y học của ông Cayce c̣n có một khía cạnh khác: Những cuộc soi kiếp không cho là một phương pháp điều trị nào lại "Tinh thần" hơn một phương pháp nào. Tất cả những phương pháp điều trị đều có một nguồn gốc thiêng liêng như nhau.
Một người phụ nữ kia bị chứng đau lưng rất dữ dội. Bà muốn biết xem nên theo cách điều trị thể xác hay tinh thần. Cuộc khán bịnh của ông Cayce giải đáp câu hỏi đó như sau: "Bịnh trạng của bà phần lớn có thể chữa khỏi bằng tinh thần. Nhưng bà hăy để tự nhiên. Nếu bà thấy đau nhiều, bà hăy theo phép điều trị bằng thuốc men để đáp ứng sự nhu cầu của xác thể. Thật ra hai phương pháp điều trị đều không khác ǵ nhau, v́ là đều do một nguồn gốc mà ra. Hai phương pháp ấy không phải tương phản nhau như vài người tưởng lầm."
Một kư giả ở Pittsburg bị bịnh tê thấp đă mười năm, được khuyên nên điều trị bằng cách tắm nước nóng và dùng tử loại tuyến để làm tăng sự lưu thông máu huyết và bài tiết chất độc trong máu. Cuộc soi kiếp nói: "Mọi sự chữa bịnh đều do một Quyền Năng Thiên Liêng. Ai chữa khỏi bịnh cho anh? Đó là cái Nguồn Sống sinh ra muôn loài vạn vật. Bất cứ phương tiện nào người ta dùng để chữa bịnh, dầu cho đó là thuốc men, máy móc dụng cụ, tắm nước nóng, hay là phương tiện nào khác, người ta cũng phải trở về cái Nguồn Sống Duy Nhứt, tức là Thượng Đế vậy."
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 179 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
KÍCH THƯỚC MỚI CỦA KHOA TÂM LƯ
Chương Chín
Người ta có thể học được nhiều việc bằng cách thử giải quyết những vấn đề khó khăn. Sự giải quyết nhiều vấn đề lư thú căn cứ trên một nguyên tắc quan trọng là sự lư luận hay suy gẫm.
Vấn đề quan trọng nhứt trong mọi vấn đề bí hiểm của cuộc đời là sự bí mật về con người. Con người là ai? Y từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Để giải đáp vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một phương pháp khoa học giản dị như sau: Chúng ta đưa cho một người kia sáu cái diêm quẹt và bảo y hăy sắp thành bốn h́nh tam giác đều cạnh với nhau (triangles équilatéraux.) Người ấy lần ṃ sắp đặt các diêm quẹt một hồi lâu... Sau cùng y đành chịu thua và bỏ cuộc v́ không sao sắp được. Bài toán đố bí hiểm này chỉ có thể giải quyết được nếu người ấy bỏ cái ư nghĩ sắp các diêm quẹt theo hai chiều đo (chiều dài và ngang) trên một mặt bàn bằng phẳng, mà hăy thêm vào một chiều đo thứ ba (3ème dimension), tức là chiều sâu, và sắp thành một khối Kim Tự Tháp (Pyramide).
Vấn đề bí hiểm của đời người đại khái cũng giống như cái tṛ chơi kể trên. Chúng ta chỉ cần thêm vào một bề đo thứ ba, tức là yếu tố thời gian, và chúng ta sẽ có thể hiểu được nguồn gốc và tương lai của con người.
Người ta thường cho rằng đời người chỉ là cái kiếp sống của thể xác, kể từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi chết là hết. Nhưng nếu người ta có thể chứng minh một cách khoa học rằng con người không phải là cái thể xác vật chất, mà cũng là một linh hồn; linh hồn ấy đă từng sống trước khi y sinh ra và sẽ tiếp tục tồn tại sau khi y chết, th́ sự khám phá đó sẽ làm đảo lộn tất cả khoa tâm lư học hiện naỵ Điều đó chẳng khác nào như một cái ống thăm ḍ mà người ta cắm xuống tận những lớp sâu trong ḷng Trái Đất để t́m mỏ dầu. Khoa Tâm Lư Học hiện đại ví như một cái lỗ sâu có năm phân để trồng một củ hành, so với một cái giếng dầu lửa bề sâu ba ngàn thước tượng trưng cho bề đo vừa nói trên.
Trong thời gian gần đây, các nhà tâm lư học đă nghiên cứu tỉ mỉ về cá tính của con người, và nhờ sự nghiên cứu công phu đó, người ta đă có nhiều sự áp dụng thực tế vào các vấn đề lao động, hướng nghiệp, công tác xă hội... Tuy thế những sự phát minh đó cũng chỉ biết một cách rất nông cạn về con người.
Nếu người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, th́ đó là một ngọn đèn pha sáng rực soi vào những hang ngách tối tăm, sâu thẳm của vấn đề bí hiểm này. Nhờ đó, người ta có thể nhận thấy rơ bằng cách nào được cấu tạo nên những tánh t́nh, cử chỉ, thái độ, đức tánh, vận mạng cùng thân thế hiện nay của một người.
Chúng ta có thể dùng một thí dụ khác: đời người có thể ví như một khối nước đá ngâm dưới nước; chín phần ch́m xuống nước chỉ có một phần nổi lên trên. Thuyết Luân Hồi tiết lộ cho ta thấy chín phần khối nước đá ch́m dưới mặt nước, c̣n khoa tâm lư học hiện nay chỉ nghiên cứu một cách vất vả mệt nhọc về một phần nhỏ bé nổi lên trên, mà ta có thể nh́n thấy!
Những tập hồ sơ của Cayce c̣n đưa ra nhiều thí dụ về bề đo "Thời gian" kể trên, và về cách mà nó giải thích cá tính hiện nay của một người. Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có nói về một người lính Gaulois bị tướng La Mă Annibal bắt làm tù binh và bắt làm nô lệ chèo thuyền ở giữa biển. Người tù binh này bị các tướng da đen ngược đăi và sau cùng, y bị một tên da đen đánh chết. Việc này xảy ra đă từ ba kiếp về trước, nhưng ḷng căm thù uất hận về hành động tàn ác này đă ăn sâu vào tiềm thức của y trải qua 22 thế kỷ. Trong kiếp này, y làm nghề nông nghiệp và trồng tỉa ở tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ.
Suốt cả đời, y luôn luôn có một ḷng thù ghét sâu đậm đối với dân da đen; thậm chí, y lập nên một Hội bảo vệ chủ quyền của người da trắng. Đó là một thí dụ điển h́nh về việc người ta giữ nguyên vẹn cá tính từ kiếp này sang kiếp khác. Người ta có thể t́m thấy rất nhiều trường hợp như thế trong các tập hồ sơ Cayce.
Một nhà viết báo nó biểu lộ trong nhiều năm một tinh thần chống Do Thái rất mănh liệt. Cuộc soi kiếp cho biết rằng thái độ ấy được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở xứ Palestine, trong kiếp đó, y thuộc về giáo phái Samaritains, phái này thường có những cuộc xung đột dữ dội với người Do Thái ở nước láng giềng.
Một người đàn bà 38 tuổi, độc thân, đă có nhiều mối t́nh duyên trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào v́ bà ta có một ḷng nghi kỵ rất thâm sâu đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này do bởi ở một kiếp trước bà ta đă từng đau khổ v́ bị chồng bỏ để đi tùng chinh trong trận Thánh Chiến.
Một người phụ nữ nọ có một tinh thần tôn giáo rất rộng răi khoan dung, được biết rằng cô có đức tính này là nhở bởi kiếp trước có tham dự cuộc Thánh Chiến, và đă từng sống chung với người Hồi Giáo. Trong khi tiếp xúc với những người thuộc một tôn giáo khác hẳn, lần đầu tiên cô dă nhận thức được rằng những người "Ngoại đạo" cũng biểu lộ những đức tính tốt như can đảm, nhân từ, khoan hậu, và ḷng sùng tín thiêng liêng. Điều này đem đến cho cô một ấn tượng mạnh mẻ sâu xa đến nỗi nó đă làm cho cô có một ư thức rơ rệt và bền bỉ về đức tính khoan dung đối với người thuộc tôn giáo khác hơn ḿnh.
Trái lại, một nhà chuyên môn quảng cáo nọ có óc hoài nghi và không có tín ngưỡng tôn giáo, kiếp trước cũng là một chiến sĩ trong trận Thánh Chiến. Nhưng y cảm thấy có sự khác biệt giữa sự Thuyết Giáo và Hành Đạo trong số những người mà y đă gặp, đến nỗi trong kiếp này y vẫn c̣n giữ một sự nghi ngờ rất lớn đối với những sự biểu lộ tôn giáo về h́nh thức bên ngoài.
Những thí dụ kể trên gồm ba thái độ khác nhau: Thái độ về vấn đề chủng tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà nguyên nhân là do bởi ở một kiếp trước. Lẽ tụ nhiên trong mỗi trường hợp, đương sự phải gặp những hoàn cảnh địa phương thuận tiện để gây cho y sự phản ứng về các vấn đề đó. Người căm thù dân da đen sinh ra ở miền Nam Hoa Kỳ năm 1853 là thời kỳ mà những phong tục và truyền thống ở xứ này là những hoàn cảnh thuận tiện để gây cho y cái ư niệm kỳ thị chủng tộc da đen.
Vấn đề ảnh hưởng của hoàn cảnh địa phương cũng được nêu ra trong những trường hợp khác như đă kể trên, hoặc trong nhiều trường hợp tương tự. Sự kiện rằng có nhiều người cũng ở vào những hoàn cảnh địa phương giống như nhau, nhưng lại có sự phản ứng khác hẳn, dường như chỉ rằng sự phản ứng đó có một nguyên nhân sâu xa hơn là do những hoàn cảnh sinh hoạt ở kiếp này.
Các nhà chữa bịnh tâm thần đều đồng thanh cho rằng những thái độ tinh thần của con người vốn từ trong tiềm thức biểu lộ ra ngoài. Nguyên tắc Luân Hồi chỉ nới rộng lĩnh vực t́m thức để gồm luôn cả những kinh nghiệm của những kiếp trước. Cũng như trong nhữg trường hợp bệnh tật của xác thể, người ta đă truy nguyên lư do của mỗi chứng bịnh ở những kiếp trước là do bởi yếu tố thời gian. Đó là nói về những thái độ cử chỉ của con người đối với một vài vấn đề nhất định. Những thái độ đó, cũng như những khuynh hướng, đố kỵ, ưa thích... đều gồm lại làm thành phần cá tính của một người. Những bản năng tự tồn, bản năng sinh sản... đều hỗn hợp một cách chặt chẽ với tất cả những điều ham muốn khác của đời sống con người. Tuy nhiên, ngoài ra những sự nhu cầu căn bản chung của nhân loại, c̣n có những điều thích thú say mê và hứng khởi đặc biệt, biểu lộ một cách khác biệt nhau rất xa ở một số người.
Thí dụ:
Trong một gia đ́nh có năm người con, một đứa thích âm nhạc, một đức thích máy móc, một đứa thiên về hội hoạ, một đức thích sưu tầm các loài bướm; đứa sau chùng chơi bời du đăng và phá phách làng xóm.
Sự giải thích thông thường của khoa học tâm lư về sự khác biệt giữa những khả năng và tính chất kể trên: Một là do sự di truyền và hai là do những yếu tố tâm lư phân giải (psychanalyse) tùy thuộc nơi vị trí của một người trong gia đ́nh và những kinh nghiệm riêng mà y thâu nhập được.
Những tập hồ sơ của Cayce chứa đựng những thí dụ dưới đây về những khuynh hướng đặc biệt của một số người, được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trước.
Một vị nha y sinh trưởng ở thành phố New York, mặc dầu rất hài ḷng về chức nghiệp và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh thoảng lại thấy muốn sống ở ngoài đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng đi săn và một cần câu; và cắm trại một ḿnh với một chiếc lều dựng lên giữa băi sa mạc. Sự thích thú sống gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm tính của một người quen sống ở thị thành, nhứt là gia đ́nh của y đă từng sống ở thành thị trải qua nhiều thế kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích được bằng thuyết Luân Hồi. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một tiền kiếp, y là một người Đan Mạch di cư sang Bắc Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Y sống ở New Jersey, trong một vùng có nhiều đầm đ́a, hồ ao, sông rạch; y sống với nghề săn bắt, gài bẫy thú rừng, và buôn bán các loại thú. Cuộc đời hoạt động chốn bụi trừng, đầm lạch, sông ng̣i, đă đem cho y một sự thích thú đặc biệt vẫn c̣n tồn tại đến ngày nay, tuy rằng điều ấy c̣n phải lệ thuộc vào đời sống hành nghề nha sĩ của y trong kiếp này.
Có nhiều người cảm thấy yêu mến nồng nàn một xứ hay một vùng địa phương xa lạ. Những cuộc soi kiếp truy nguyên ra sự hấp dẫn này ở một kiếp trước của đương sự, trong kiếp đó y đă từng trải qua một thời kỳ sung sướng và hạnh phúc ở xứ ấy. Thí dụ: Một người đàn bà nọ kinh doanh buôn bán lớn ở vùng bờ biển phía đông xứ Hoa Kỳ, luôn luôn vẫn có ư muốn di cư xuống ở miền Tây Nam xứ ấy. Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay bà làm chủ một khách sạn lớn ở tại New Mexicọ Cuộc soi kiếp cho biết bà đă từng sống trong hai tiền kiếp ở vùng này, và ḷng tŕu mến của bà đối xử ấy vẫn c̣n tồn tại trong những thế kỷ trung gian.
Có bốn người kia, một người cảm thấy yêu mến những vùng hải đảo miền Nam Thái B́nh Dương, một người muốn sống ở tiểu bang New Orleans, một người yêu mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ Trung Hoa. Những cuộc soi kiếp cho biết rằng trong kiếp trước, họ đă từng sống ở các xứ ấy, và đó là lư do của sự hấp dẫn nói trên.
Sự thích thú về một môn nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào cũng là do ở những kinh nghiệm trong các tiền kiếp. Một thiếu phụ kia yêu thích đến say mê môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp, được biết rằng đó là do kinh nghiệm trong một kiếp trước của y ở Hy Lạp, trong thời kỳ những môn nghệ thuật này phát triển đến cực điểm. Sự thích thú của một thanh niên nọ về hiện tượng thần giao cách cảm được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở châu Atlantide, trong kiếp trước y đă dạy môn tâm lư học và chuyển di tư tưởng.
Cũng do một kinh nghiệm cũ về nghề hoa tiêu về giám đốc ngành chuyên vận ở châu Atlantide, mà một thiếu nữ nọ cảm thấy rất thích thú về môn lái máy bay và môn kỹ thuật hàng không trong kiếp này. Một người đàn bà nọ ham thích làm việc công tác xă hội phụng sự các trẻ em tật nguyền khốn khổ, được cho biết rằng kiếp trước y đă từng sống ở xứ Palestine, tại đây y chịu ảnh hưởng giáo lư của đức Jusus và bắt đầu hiến dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn tật và bịnh hoạn. Một vị kỹ sư nọ đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đă từng làm việc nhiều năm trong phong trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn là một người Atlante chuyên coi về ngành Quản trị Khoa học trong xứ ở châu Atlantide.
Sự tái diễn những kinh nghiệm và khả năng đặc biệt từ những tiền kié6p, dường như càng biểu lộ rơ rệt trong cuộc đời của những nhân vật tên tuổi. Chúng tôi không căn cứ điều này trên những cuộc soi kiếp của ông Cayce, mà căn cứ trên tiểu sử của những nhân vật ấy.
Thí dụ như trường hợp của ông Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ Đức đă khám phá ra những di tích cổ của thành phố Troie bị chôn vùi dưới mặt đất, và nhờ đó đă xác nhận tánh cách lịch sử của thiên Anh Hùng Ca "Iliade" của Homèrẹ Ông là con của một vị mục sư nghèo, giảng đạo tại miền Bắc nước Đức nhưng trong lúc thiếu thời ông đă say mê "Iliade", ông nhất định học tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự tích của thiên Anh Hùng Ca bất hủ này.
Trong ba mươi lăm năm, ông Schiemann cố gắng dành dụm một số tiền để giúp ông thực hiện công tŕnh khảo cổ này. Ông trở nên một nhà sinh ngữ học ưu tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh ngữ Hy Lạp và tất cả những ǵ thuộc về xứ ngàn năm vạn vật này. Về sau, ông dùng những cách hành văn Hy Lạp trong khi nói chuyện và nhà chép tiểu sử của ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ rửa tội cho con trai ông, ông đặc quyển Anh Hùng Ca của Homère trên đầu con ông và ngâm vang lên những câu thơ bất hủ trong đó trước khi giao nó cho vị linh mục làm phép rửa tội! Điều này chỉ là một trong những cử chỉ lố lăng khác, nó phản ảnh một ḷng hâm mộ hâm mộ và say mê nồng nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp. Một sự say mê nồng nhiệt như thế có thể hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó chỉ là do kư ức của linh hồn muốn nhắc nhở và sống lại thời kỳ hạnh phúc đă qua trong dĩ văng.
Một thí dụ khác cũng rất lư thú là trường hợp của nhà văn Lafcadio Hearn. Ông sinh ra trên một ḥn đảo ở gần Hy Lạp, cha ông là người Ái Nhĩ Lan, mẹ Ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu lưu giang hồ từ Hy Lạp sang Anh quốc, Mỹ quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và sau cùng ông đă t́m thấy "Quê hương tinh thần" của ông ở xứ Phù Tang tại đây ông cưới vợ Nhật, đổi tên Nhật, và dạy học ở một trường Nhật. Sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn của người Nhật bổn, tài năng lạ lùng của ông trong sự diễn đạt cái tinh hoa của nước Nhật cho thế giới Âu Tây và diễn đạt tư tưởng Âu Tây cho người Nhật, không làm cho ta ngạc nhiên nếu ta thấy rằng đó chỉ là do những kinh nghiệm cũ của ông ta trong một tiền kiếp ở Nhật Bản.
Trường hợp của ông T.E.Lawrence là một thí dụ khác nữa. Ông ta rất đặc biệt khôn khéo trong việc tiếp xúc với người Ả Rập và đă sống chung với họ như một người Ả Rập. Ông không hề cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại quê hương xứ sở hay trong gia đ́nh ông ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở nhà trường, trừ ra lớp học lịch sử cuộc Thánh Chiến (Croisades), và việc nghiên cứu các ṭa lâu đài cùng thành lũy thời Trung Cổ.
Sự thành công đặc biệt của ông trong vai tṛ tướng soái chỉ huy quân đội Ả Rập có thể hiểu được như là kết quả của một giai đoạn phiêu lưu ở kiếp trước hồi thời Trung Cổ, trong kiếp đó chính ông ta là người Ả Rập và là một chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục đích trước khi ông ta từ trần.
Những khuynh hướng đặc biệt kể trên không phải chỉ có những nhân vật tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người đều có thể nhận thấy ít nhiều khuynh hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của ḿnh.
Những nét riêng hay đặc điểm về cá tính, cũng như những thích thú và cử chỉ cùng thái độ đặc biệt của một người là những yếu tố quan trọng trong việc phân tách tâm lư, và những tập hồ sơ của Cayce đă nêu ra những trường hợp vô cùng lư thú về sự truy nguyên ra những kiếp trước.
Bà vợ của một nhà triệu phú nọ Ở miền Tây Hoa Kỳ có một tính chất rất độc tài và chuyên chế. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân là v́ bởi kiếp trước, y đă từng làm giáo sư ở tiểu bang Ohio, và trong những kiếp trước nữa, y đă từng nắm giữ những chức vụ cao ở Palestine và ở Ẩn Độ.
Một thanh niên nọ từ thuở nhỏ đă tỏ ra có tính rất hay tranh luận đôi co, và có thể lư luận mọi sự một cách rất hùng hồn và xác đáng. Nguyên nhân là trong một kiếp trước, y đă từng làm một luật gia và một luật gia và một kiếp trước nữa, y đă làm quan Ṭa ở xứ Ba Tư.
Một người đàn bà nọ có khuynh hướng trầm lặng và thần bí. Trong kiếp trước, bà ấy đă từng cầm đầu một tu viện kín, vào hồi đầu thế kỷ mười chín.
Một thanh niên nọ con nhà giàu có lớn, nhưng lại có tật chè chén say sưa quá độ đến nỗi gây sự thất vọng và đau khổ cho một gia đ́nh trưởng giả. Thói say sưa này được truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng trong kiếp trước, hồi thời kỳ thiên hạ đổ xô nhau đi t́m vàng ở California. Người ta thấy hằng trăm trường hợp tương tự trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce.
Khoa tâm lư học hiện đại cho rằng sự khác biệt giữa những người nhân loại được định đoạt trước hết bởi sự di truyền của cha mẹ và sau đó bởi ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, theo quan niệm về thuyết Luân Hồi th́ chính sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng là những kết quả báo ứng của những nguyên nhân gây ra từ những kiếp trước, và bởi đó mọi đức tánh của linh hồn đều là do cái công phu đào tạo của từng cá nhân chứ không phải do cha mẹ truyền lại.
Đức Phật có nói: "Hành động là kết quả của tư tưởng." Những ǵ mà chúng ta làm hiện nay là kết quả của những điều ta đă suy ngẫm từ trước. Trong Phật giáo, thuyết Luân Hồi là một giáo lư căn bản; đức Phật dạy rằng những đức tính của con người bây giờ là kết quả của những tư tưởng và hành động của y trong những kiếp trước.
Có nhiều người, tuy chấp nhận Nhân Quả, nhưng lại quan niệm luật ấy dưới khía cạnh trừng phạt và đau khổ. Ta nên nhớ rằng danh từ Karma chỉ có nghĩa là hành động, và đó là một danh từ trung lập. Mọi sự vật trong vũ trụ đều có hai phương diện Âm và Dương, và Nghiệp Quả (Karma) cũng không ngoài cái thông lệ đó. Lẽ tất nhiên, một hành động có thể tốt hay xấu, vị kỷ hay vị thạ Nếu cách hành động cư xử của một người là tốt, th́ không có ǵ ngăn trở y cứ tiếp tục làm những điều phải và tốt lành do cái đà tiến hoá tự nhiên của con người. Điều đó có thể gọi là Nguyên Tắc Liên Tục của nghiệp quả. Trái lại, nếu một người có những hành động xấu xa hung dữ độc ác, th́ nghiệp quả đó phải được sửa chữa bằng luật Quả Báo; điều này gọi là Nguyên Tắc Thừa Trừ.
Do Nguyên Tắc Thừa Trừ, tức là do bởi mănh lực tạo thế quân b́nh của Luật Nhân Quả, chúng ta được d́u dắt trở lại con đường chính, là con đường tự tu tiến và cải thiện lấy ḿnh. C̣n do Nguyên Tắc Liên Tục, chúng ta cứ từ từ tiến bước một cách đều đặn, không gián đoạn trên con đường chính, tức là con đường Tiến hóa đưa đến mục đích giải thoát vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 180 of 2534: Đă gửi: 01 June 2008 lúc 10:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG HẠNG NGƯỜI KHÁC NHAU
Chương Mười
Trong sự tiếp xúc hằng ngày với những người chung quanh, chúng ta có thể phân biệt được một vài loại mà chúng ta sắp thành hạng theo một hệ thống riêng. Có hạng người tánh t́nh cởi mở, xă giao lịch thiệp; có hạng người dè dặt kín đáo, tánh t́nh trầm lặng; có hạng người ích kỷ, hạng người vị tha...
Nhiều nhà tâm lư học đi đến kết luận rằng con người có thể sắp thành hạng, và lập một căn bản khoa học cho việc sắp hạng ấy. Sự phân hạng thông thường nhất là cuả Carl Jung, ông này phân loài người ra làm hai hạng chính: Hạng người có tâm hồn khép chặt (intraverti); và hạng người có tâm hồn cởi mở (extraverti). Hạng người "Khép chặt" tức là hạng người hướng sự chú ư của họ vào bên trong, nghĩa là vào chính bản thân ḿnh; c̣n hạng người "Cởi mở" tức là hạng người hướng sự chú ư của họ ra thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, các Đạo gia cho rằng Carl Jung và những nhà tâm lư học khác đều không đưa ra những giải thích mỹ măn và đích đáng về lư do nào đă khiến cho một người sinh ra đời lại có một tâm hồn khép chặt, và một người khác sinh ra lại có một tâm hồn cởi mở. Ông Carl Jung và những nhà bác học khác cho rằng hai trạng thái tâm lư căn bản này là do những nguyên nhân về sinh lư. Tuy nhiên quan niệm nhà Đạo gia đối với vấn đề này, cũng như các vấn đề khác, là những nguyên nhân về sinh lư kể trên chỉ là phụ thuộc; c̣n các sinh hoạt cùng thái độ cử chỉ của một người trong một kiếp trước mới là nguyên nhân chính.
Những tập hồ sơ Cayce có ghi chép rơ ràng nhiều trường hợp hướng nội, tức là của những tâm hồn khép chặt, nguyên nhân do bởi những kinh nghiệm từ kiếp trước. Xét kỹ những trường hợp này, người ta thấy rằng nguyên tắc liên tục của luật Nhân Quả hành động một cách rơ ràng, và chuyển từ kiếp này sang kiếp khác một vài thái độ hay trạng thái tâm lư của con người một cách liên tục không gián đoạn. Dưới đây là một trường hợp: Một thiếu nữ 21 tuổi, sinh viên, có khiếu về âm nhạc, nhưng có tánh e lệ rụt rè một cách quá đáng. Mặc dầu cô có dung mạo đẹp đẽ, nhưng cô khó t́m bạn và rất buồn mà thấy ḿnh không được nhận vào Câu Lạc Bộ của trường. Người ta không biết ǵ về những hoàn cảnh gia đ́nh của cô trước khi cô vào trường, v́ có thể đó là nguyên nhân gây cho cô cái tánh rụt rè nhút nhát bây giờ. Tuy nhiên, cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng điều này có nguyên nhân ở một kiếp trước. Hồi đó, cô ta là một mệnh phụ dưới triều đ́nh nước Pháp, có tài hoa, sắc đẹp và rất lịch thiệp. Nhưng chồng bà vốn là một người ích kỷ, không muốn cho bà xă giao khéo léo và lịch sự với tất cả mọi người. Bởi đó, ông ta ngăn trở mọi sự giao tế xă hội của vợ bằng một sự áp chế lạnh lùng và khắc nghiệt, thậm chí có khi ông ta đánh đập vợ bằng roi vọt. Điều này làm cho bà vợ e dè sợ sệt, và sự sợ sệt đó hăy c̣n in sâu vào tiềm thức cho đến bây giờ.
Sau đây là một trường hợp cũng có sự áp chế tương tự, tuy rằng trong những hoàn cảnh khác hẳn. Ông Cayce soi kiếp cho một thah niên 28 tuổi, anh chàng này hiếu học và tâm tính "Khép chặt." Ông Cayce cho biết trong một kiếp trước, y bị khủng bố tàn nhẫn trong những vụ xử án các tay phù thủy ở Salem, thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Kinh nghiệm đó đă bộc lộ bằng hai cách trong tâm tính của y bây giờ. Trước hết y có sự căm hờn đối với mọi h́nh thức áp chế; và sau đó y có tánh rất hiếu học, nhưng lại muốn giữ những điều hiểu biết riêng cho ḿnh, không muốn thố lộ cho ai.
Chúng ta đă thấy rằng cho một con chó hay con mèo mà bị đánh đập tàn nhẫn, chúng cũng biết tự vệ và có ḷng đố kỵ với loài người. Lẽ tự nhiên, đối với người thanh niên này, trong tiềm thức của y vẫn c̣n in sâu một bản năng tự vệ, nó khiến cho y hăy giữ ǵn đề pḥng những người chung quanh, không chịu tiếp xúc với họ và không chịu thổ lộ với ai những điều hiểu biết của ḿnh. Những tập hồ sơ Cayce c̣n ghi nhiều trường hợp giống như trên về những vụ án phù thủy ở Salem, mà kết quả là làm cho đương sự có một khái độ khép nép, ẩn độn, dè dặt cũng y như thế. Một vị bác sĩ có tính rất dè dặt kín đáo, không thích giao du, được biết nguyên nhân là v́ trong một kiếp trước, y đă giữ giới tịnh khẩu theo kỷ luật của phái Quaker. Một vị giám đốc Thương Vụ Ở New York cũng có tính rụt rè, thiếu xă giao lịch thiệp. Trong một kiếp trước, ông ta là một nhà thám hiểm, sống một cuộc đời cô độc và tự lập ở miền Nam Phi Châu. Một cô nữ sinh nhút nhát và tự ti mặc cảm, được biết kiếp trước cô ta là một người thổ dân da đỏ dưới thời đô hộ của người thực dân da trắng ở Bắc Mỹ Châu và hăy c̣n giữ thái độ nghi ngờ và giữ ḿnh đối với kẻ khác.
Theo sự chứng minh của những trường hợp kể trên và nhiều trường hợp khác trong tập hồ sơ Cayce, th́ tính rụt rè ẩn độn vẫn kéo dài một cách liên tục từ kiếp này sang kiếp khác, bắt đầu từ kinh nghiệm đầu tiên khiến cho đương sự có thái độ đó. Nguyên tắc liên tục này cũng áp dụng y như trong trường hợp những người có tánh t́nh cởi mở. Đây là trường hợp một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, đă hai lần ly dị, có một tâm hồn cởi mở và vẫn c̣n nghĩ đến một cuộc tái giá lần thứ bạ Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng cái thái độ hồn nhiên, yêu đời đó được truy nguyên từ hai kiếp về trước: Trong một kiếp, cô làm huấn luyện viên tại một khiêu vũ trường hồi thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ; trong một kiếp trước nữa dưới triều đ́nh vua nước Pháp, cô là một bà ái phi của vua Louis thứ mười lăm. Trong kiếp đó, cô đă phát triển được những khả năng khôn khéo, lịch thiệp và quyến rũ, làm cho người người đều thương mến, từ ông vua cho đến chị bếp trong cung cấm. Trong kiếp làm huấn luyện viên khiêu vũ, cô cũng đă xử dụng và phát triển thêm những khả năng trên đây.
Đây là một thí dụ lư thú khác nữa: Một nhà làm tṛ ảo thuật ở New York có một sức hấp dẫn rất mạnh, xă giao lịch thiệp, và đặc biệt có tài hài hước, được biết rằng những khả năng trên đây truy nguyên từ những kinh nghiệm trong hai kiếp trước. Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước, y là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên đến vùng Mohawk Valley ở Bắc Mỹ. Những đức tính mà y đă phát triển trong kiếp đó và một kiếp trước nữa, đă giúp cho y có cái khả năng hấp dẫn và chỉ huy kẻ khác trong kiếp này. Sự khôn khéo lịch thiệp và tài lănh đạo của y được phát triển là do thời kỳ tranh đấu cho lư tưởng ở Bắc Mỹ hồi thuở ban đầu. Sự nhanh trí khôn và tinh thần hài hước của y nảy sinh ra từ một kiếp làm hề dưới triều vua Henri VIII ở Anh quốc.
Nói tóm lại, tất cả những trường hợp của những người có tâm hồn cởi mở và xă giao lịch thiệp dường như kết quả của những hoạt động xă hội trong những kiếp trước đó. Trong những tập hồ sơ của Cayce, có nhiều trường hợp thành công hoặc thất bại trong sự giao tế và sống ḥa b́nh với hoàn cảnh xă hội bên ngoài. Một trường hợp là của một người đàn bà có tính chất cởi mở, hoạt động và vị thạ Trước hết, cô có tham vọng trở nên một nữ tài tử, nhưng hoàn cảnh gia đ́nh và một thể xác lùn thấp không làm cho được như y nguyện, cô bèn xoay qua vấn đề kinh doanh. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước trong thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ, cô đă hưởng thụ rất nhiều, có địa vị xă hội cao, sống một cuộc đời xa hoa lộng lẫy, nhưng thiếu lương thiện và khinh thường đạo lư. Khả năng lôi cuốn hấp dẫn kẻ khác, tinh thần hài hước và khoa ngôn ngữ của cô là do từ kiếp đó mà có; nhưng v́ cô đă xử dụng khả năng ấy một cách thiếu đạo đức nên kiếp này bị thất bại trên trường đời.
Những trường hợp kể trên chỉ cho ta thấy rằng vấn đề nghề nghiệp vẫn đi đôi với vấn đề đạo đức tâm linh. Người ta thường thấy, cũng như trong trường hợp này rằng sự thất bại về nghề nghiệp, lư do không phải v́ thiếu khả năng, mà v́ thiếu tinh thần đạo đức; điều này không thể sửa chữa nếu tham vọng về nghề nghiệp của đương sự được thỏa măn một cách êm đẹp, tốt lành. Cuộc soi kiếp khuyên người thiếu phụ này, lúc ấy mới có ba mươi hai tuổi, hăy hành nghề tài tử hoặc săn sóc trẻ em thiếu nhi hay cô nhi nói tóm lại, cô phải dùng những khả năng của ḿn vào những mục đích xây dựng và vị tha.
Đây là một trường hợp khác của một người đàn bà, bốn mươi chín tuổi, làm thư kư ở Hoa Thịnh Đốn, v́ trong kiếp trước đă lạm dụng những đức tính lịch thiệp xă giao của ḿnh, nên phải chịu những điều kiện tâm lư khắc nghiệt để sửa đổi trong kiếp này. Trong những bức thơ, cô cho biết rằng trong bất cứ mọi giới mà cô cố gắng để tiếp xúc, cô đều cảm thấy rằng không được mọi người hoàn nghinh. Có lẽ đó là v́ hồi thuở nhỏ, cô thường bị những người anh và chị trong gia đ́nh ruồng bỏ, nên vẫn c̣n mang nặng cảm giác ấy kh ra tiếp xúc với đời. Cô viết thơ như sau: "Tôi lớn lên với một sự mặc cảm sợ sệt luôn luôn ám ảnh tôi. Khi tôi đi chơi với một nhóm bạn bè, tôi luôn luôn cảm thấy rằng sự có mặt của tôi không cần thiết, và tôi tự hỏi rằng tôi phải nói ǵ và phải làm ǵ. Tôi muốn đi sâu hơn vào các vấn đề, nhưng không biết phải làm sao. Tôi luôn luôn có cảm tưởng rằng tôi phải cố gắng làm nhiều hơn kẻ khác, để làm cho họ vui ḷng. Bởi đó, tôi hy sinh sức khỏe và thời giờ của tôi để làm việc ǵ cho một người nào đó. Tôi muốn rằng người ta cần dùng đến tôi."
Kế đó, cô thuật lại rằng đă bị ba lần thất vọng v́ t́nh, trong đó có hai lần người yêu bỏ đi cưới vợ khác. Cuộc soi kiếp cho biết người đàn bà này trong kiếp trước là một trong những người khai phá thuộc địa đầu tiên ở tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Y đối xử với người khác một cách vui vẻ, lễ độ, nhưng chỉ v́ mục đích ích kỷ, trục lợi. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này tuy được thỏa măn về sự thành công của ḿnh, nhưng đă đem lại sự thất vọng cho nhiều người. Những người mà y lợi dụng trước kia, ngày nay trở lại gâu những sự lo âu phiền muộn cho y trong kiếp này. Lợi dụng kẻ kác làm cái đà tiến thân cho ḿnh, tức là tạo nên nghiệp quả xấ mà ngày nay y phải trả." Định luật vũ trụ rất mực công b́nh: Nó trả lại một cách đúng đắn những ǵ của ta cho ra. Cũng như một cái gương phản chiếu, những điều kiện sinh hoạt của người đàn bà này phản ảnh những ǵ y đă gây ra trong cuộc đời kẻ khác. Thật ra, trong kiếp trước cô không mong muốn sự họp bạn với kẻ khác, trừ ra khi nào cô có thể lợi dụng họ. Trong kiếp này, từ thuở nhỏ sống trong gia đ́nh, cô đă bị ngược đăi, làm cô cảm thấy bị ruồng bỏ. Bởi đó cô cảm thấy cuộc đời bấp bệnh và tâm hồn y trở nên khép chặt cho đến lúc trưởng thành cũng vẫn c̣n. Cô có một dung nhan khá đẹp và những đức tính đầy đủ để có thể hấp dẫn nhiều người, nhưng mặc dầu cô tưởng rằng được mọi người yêu mến, sau cùng cô đă bị thất vọng. Cô nh́n nhận rằng cái cảm giác bị ruồng bỏ và tâm hồn khép chặt của cô đă làm cho cô thay đổi thái độ và cố gắng giúp đỡ kẻ khác để được mọi người yêu mến, và được mọi người cần dùng đến ḿnh. Và đó chính là cách hành động sửa đổi tốt lành của luật Nhân Quả.
Sự xă giao khôn khéo mà cô đă lạm dụng do ḷng ích kỷ và thiếu thành thật trong kiếp trước, đă đem đến cho cô sự khó khăn trở ngại hiện nay, mà cô chỉ có thể vượt qua được bằng những việc làm vị tha, với một tinh thần thành thật giúp đỡ người khác. Sự lợi dụng lường gạt kẻ khác dường như là một thói xấu thông thường, và thuộc về loại quả báo dội ngược trên b́nh diện tâm lư. Về điểm này, dưới đây là một đoạn trong cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ông đă thốt ra với một giọng không úp mở:
"Linh hồn này thường bị kẻ khác làm cho thất vọng. Hăy nghe đây cái định luật căn bản và bất diệt này: Ai gieo giống nào có ngày sẽ gặt giống nấy. Kiếp trước, cô đă phỉnh lừa gạt gẫm kẻ khác. Ngày nay, chính cô bị kẻ khác gạt gẫm phỉnh lừa, làm cho cô bị thất vọng để cho cô học bài học kiên nhẫn, là đức tính đẹp đẽ nhất trong tất cả mọi đức tính."
Nói chung, luật Nhân Quả luôn luôn hành động theo nguyên tắc giáo dục, sửa đổi, cải tiến, và lập lại thế quân b́nh trong tâm tính của con người. Mục đích rốt ráo là làm cho người đời sẽ quay đầu hướng thiện, và cứu cánh sẽ trở nên trọn lành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|