Tác giả |
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 1 of 39: Đă gửi: 21 November 2004 lúc 2:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh
Hán dịch: Đường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Đạt Ma
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên bảo ṭa Sư tử trong đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, là cung điện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện ở núi Phổ Đà Lạc Già. Chỗ ấy toàn dùng vô số ngọc báu ma ni để trang nghiêm, treo xung quanh là tràng phan làm bằng trăm thứ quư báu khác.
Lúc bấy giờ, Đức Như Lai ở trên bảo ṭa, sắp sửa tuyên thuyết Pháp môn Tổng Tŕ Đà-La-Ni. Có vô số Bồ tát Ma-ha-tát đến tham dự; danh hiệu các vị ấy là: 1) Tổng Tŕ Vương Bồ tát, 2) Bảo Vương Bồ tát, 3) Dược Vương Bồ tát, 4) Dược Thượng Bồ tát, 5) Quán Thế Âm Bồ tát, 6) Đại Thế Chí Bồ tát, 7) Hoa Nghiêm Bồ tát, 8) Đại Trang Nghiêm Bồ tát, 9) Bảo Tạng Bồ tát, 10) Đức Tạng Bồ tát, 11) Kim Cang Tạng Bồ tát, 12) Hư Không Tạng Bồ tát, 13) Di Lặc Bồ tát, 14) Phổ Hiền Bồ tát, 15) Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Các vị Bồ Tát Ma-ha-tát như thế đều là những Đại Pháp Vương Tử đă được quán đảnh.
Lại có vô lượng vô số Đại Thanh-Văn Tăng, tất cả đều hành A-la-hán ở Thập Địa; với ngài Ma-Ha Ca-Diếp làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Phạm-Ma-La Thiên, với ngài Thiện-Tra Phạm-Ma làm thượng thủ.
Lại có vô lượng chư thiên-tử ở cơi Dục Giới đến câu hội, với Thiên-tử Cù-Bà-Già làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Hộ Thế Tứ Vương câu hội, với ngài Đề-Đầu-Lại-Tra làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân câu hội; với Thiên Đức Đại Long Vương làm thượng thủ.
Lại có vô lượng chư thiên-nữ ở cơi Dục Giới câu hội, với Đồng-Mục Thiên nữ làm thượng thủ.
Lại có vô lượng các vị thần như Thần Hư Không, Thần Sông Biển, Thần Suối Nguồn, Thần Sông Hồ, Thần Dược Thảo, Thần Thọ Lâm, Thần Nhà Cửa, cùng Thủy Thần, Hỏa Thần, Địa Thần, Phong Thần, Thổ Thần, Sơn Thần, Thạch Thần, Cung Điện Thần, v.v... đều đến tập hội.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát từ trong đại hội mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát-độ cùng cơi Tam Thiên Đại Thiên thế giới này, khiến tất cả đều biến thành sắc vàng. Thiên cung, Long cung, và cung điện của chư tôn thần đều chấn động. Sông hồ, biển cả, núi Thiết-vi, núi Tu-di, cùng Thổ sơn, Hắc sơn cũng đều rung động dữ dội. Ánh lửa ngọc của mặt trời mặt trăng và ánh sáng của các v́ tinh tú đều không hiện hữu nữa.
Lúc đó, Tổng Tŕ Vương Bồ-tát thấy tướng trạng hy hữu ấy th́ lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, dùng kệ thỉnh hỏi Đức Phật xem tướng thần thông kia là do ai phóng ra.
Lời kệ hỏi rằng:
"Hôm nay ai được thành Chánh Giác,
Phóng đại quang minh khắp thế này,
Mười phương sát-độ thành sắc vàng,
Tam thiên thế giới cũng như vậy?
Hôm nay ai chứng đắc tự tại,
Phô diễn đại thần lực hiếm có,
Vô biên nước Phật đều rúng động.
Cung điện Long Thần cũng chẳng yên?
Đại chúng hôm nay có thắc mắc,
Chẳng rơ nhân duyên bởi sức ai?
Là Phật, Bồ-tát, Đại Thanh Văn?
Hoặc trời Phạm, Ma, chư Đế Thích?
Chỉ mong Thế Tôn đại từ bi,
Nói rơ thần thông nọ do đâu."
Đức Phật bảo Tổng Tŕ Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên biết, trong Pháp hội hôm nay có vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đă thành tựu tâm đại từ đại bi và khéo tu tập vô lượng pháp môn Đà-La-Ni, v́ muốn chúng sanh được an vui nên mật phóng sức đại thần thông như thế."
Đức Phật nói những lời ấy xong. Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Đức Phật và bạch với Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con có Chú Đại Bi Tâm Đà-La-Ni, nay xin nói ra là v́ muốn cho chư chúng sanh được an lạc, được trừ tất cả các bệnh, được thọ mạng dài lâu, được giàu có sung túc, được dứt trừ tất cả ác nghiệp trọng tội, được xa ĺa chướng nạn, được tăng trưởng tất cả các công đức bạch pháp, được thành tựu tất cả các thiện căn, được xa ĺa tất cả sự sợ hăi, được mau có đủ tất cả những thứ mong cầu. Cúi xin Đức Thế Tôn từ bi hứa khả cho."
Đức Phật dạy: "Thiện nam tử! Ông thật đại từ bi, v́ sự an lạc của chúng sanh nên muốn tuyên thuyết thần chú. Nay chính là lúc ấy, vậy ông hăy mau nói ra. Như Lai tùy hỷ, và chư Phật cũng thế!"
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Đức Phật Thế Tôn ấy v́ thương nghĩ đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đă tuyên thuyết Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni này, lại dùng tay kim sắc xoa đảnh đầu con và bảo:
'Thiện nam tử! Ông nên thọ tŕ tâm chú này, v́ khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai mà làm sự đại lợi lạc.'
Con lúc đó mới đang ở Sơ Địa, vừa nghe xong Chú này th́ liền vượt lên Bát Địa. Bấy giờ, trong ḷng hoan hỷ, con lập tức phát lời thệ nguyện:
'Nếu trong đời vị lai tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh, th́ xin khiến cho thân tôi lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn mắt!'
Phát nguyện ấy xong th́ trên thân liền ứng thời hiện đủ ngàn tay ngàn mắt. Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu cách; ngàn Đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân con, cùng chiếu dọi vô biên thế giới ở khắp mười phương. Từ đó về sau, trong vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con được nghe lại và đích thân nhận lănh, thọ tŕ Đà-La-Ni này, lại sanh hoan hỷ, phấn chấn vô lượng, nên được siêu vượt vi tế sanh tử trong vô số ức kiếp. Từ ấy đến nay. con thường xuyên tŕ tụng, chưa từng quên bỏ. Nhờ thọ tŕ Chú này nên con luôn được sanh ra tại Phật tiền, hóa sanh từ hoa sen, không c̣n thọ thân thai bào nữa.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn tŕ tụng, th́ nên phát khởi ḷng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy:
1) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp;
2) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhăn;
3) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;
4) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện;
5) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhă;
6) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;
7) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Định Đạo;
8) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;
9) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;
10) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.
Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;
Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;
Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;
Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;
Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;
Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ.
Khi phát những nguyện này xong, hăy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con và cũng phải chuyên niệm danh hiệu Đức Bổn Sư của con là Đức A-Di-Đà Như Lai; sau đó phải luôn tŕ tụng Thần Chú Đà-La-Ni này. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến th́ có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử.
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, th́ lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn; và muốn sanh về cơi Phật nào cũng đều được tùy nguyện văng sanh".
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà c̣n bị đọa vào ba ác đạo, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cơi nước của chư Phật, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác. Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ư, th́ không gọi là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni; chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành.
Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn thành thân nam, tụng tŕ Thần Chú Đại Bi Đà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, th́ con thề sẽ không thành Chánh Giác; người nào c̣n sanh chút ḷng nghi tất không được toại nguyện.
Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ dẫu một ngàn đức Phật ra đời cũng chẳng được sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được; nay tụng Thần Chú Đại Bi th́ tức khắc được tiêu trừ.
Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ; nay tụng Đại Bi Đà-La-Ni th́ mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan.
Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng nhân báng Pháp, phá trai phá Giới, phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh; bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch.
Chỉ trừ một việc, nếu đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi th́ ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân Bồ-đề về kiếp xa sau".
Ngài lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng tŕ Đại Bi Tâm Chú, th́ sẽ được mười lăm loại thiện sanh và không phải chịu mười lăm loại ác tử. Các loại ác tử đó là:
Một là không bị chết v́ đói khát, khốn khổ;
Hai là không bị chết v́ gông, tù, đ̣n roi;
Ba là không bị chết v́ oan gia thù nghịch;
Bốn là không bị chết v́ chiến trận tương tàn;
Năm là không bị chết v́ cọp, sói, ác thú tàn hại;
Sáu là không bị chết v́ trúng độc rắn, rết, ḅ cạp;
Bảy là không bị chết v́ nước cuốn, lửa thiêu;
Tám là không bị chết v́ trúng phải độc dược;
Chín là không bị chết v́ cổ độc tác hại;
Mười là không bị chết v́ điên loạn, mất trí;
Mười một là không bị chết v́ núi lở, cây ngă, vách đá sụp;
Mười hai là không bị chết v́ kẻ ác thư ếm;
Mườ ba là không bị chết v́ tà thần, ác quỉ thừa cơ làm hại;
Mười bốn là không bị chết v́ ác bệnh triền thân;
Mười lăm là không bị chết v́ tự sát, tự tử.
Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, không bị mười lăm việc chết xấu như thế.
Người nào tụng tŕ Thần Chú Đại Bi th́ chẳng những không bị mười lăm loại ác tử như thế, mà c̣n sẽ được mười lăm loại thiện sanh:
Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương;
Hai là thường sanh ra ở thiện quốc;
Ba là thường gặp thời đại tốt;
Bốn là thường gặp thiện hữu;
Năm là thân căn thường được đầy đủ;
Sáu là Đạo tâm thuần thục;
Bảy là không phạm cấm giới;
Tám là tất cả quyến thuộc đều ḥa thuận, có ân nghĩa;
Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy đủ;
Mười là luôn được người khác cung kính, giúp đỡ;
Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt;
Mười hai là những việc mong cầu đều được toại nguyện;
Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng hộ;
Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe Pháp;
Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lư thâm sâu.
Nếu người nào tŕ tụng Đại Bi Tâm Đà-La-Ni th́ sẽ được mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất cả hàng Trời, người nên thường xuyên tŕ tụng, chớ sanh biếng trễ!"
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 2 of 39: Đă gửi: 06 December 2004 lúc 6:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Khi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sinh khởi ḷng Tử Bi, nở mặt mỉm cười nói chương cú mầu nhiệm: Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng:
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
2. Nam mô a rị da
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
4. Bồ Đề tát đỏa bà da
5. Ma ha tát đỏa bà da
6. Ma ha ca lô ni ca da
7. Án
8. Tát bàn ra phạt duệ
9. Số đát na đát tả
10.Nam mô tất kiệt lật đỏa y mông a rị da
11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
12.Nam mô na ra cẩn tŕ
13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
14.Tát bà tát bà a tha đậu du bằng
15.A thệ dựng
16.Tát bà tát đa na ma bà tát đa
17.Na ma bà dà
18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
19.Án. A bà lô hê
20.Lô ca đế
21.Ca ra đế
22.Di hê rị
23.Ma ha bồ đề tát đỏa
24.Tát bà tát bà
25.Ma ra ma ra
26.Ma hê ma hê rị đà dựng
27.Cu lô cu lô yết mông
28.Độ lô đồ lô phạt xà da đế
29.Ma ha phạt xà da đế
30.Đà la đà ra
31.Địa rị ni
32.Thất Phật ra da
33.Giá ra giá ra
34.Mạ mạ phạt ma ra
35.Mục đế lệ
36.Y hê di hê
37.Thất na thất na
38 Ra sâm Phật ra xá lợi
39.Phạt sa phạt sâm
40.Phật ra xá da
41.Hô lô hô lô ma ra
42.Hô lô hô lô hê lỵ
43.Ta ra ta ra
44.Tất rị tất rị
45.Tô rô tô rô
46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
47.Bồ đà dạ bồ đà dạ
48.Di đế lỵ dạ
49.Na ra cẩn tŕ
50.Địa rị sắc ni na
51.Bà dạ ma na
52.Ta bà ha
53.Tất ddà dạ
54.Ta bà ha
55.Ma ha tất đà dạ
56.Ta bà ha
57.Tất đà dũ nghệ
58.Thất bàn ra dạ
59.Ta bà ha
60.Na ra cẩn tŕ
61.Ta bà ha
62.Ma ra na ra
63.Ta bà ha
64.Tất ra tăng a mục khê da
65.Ta bà ha
66.Ta bà ma ha a tất đà dạ
67.Ta bà ha
68.Giả kiết ra a tất đà dạ
69.Ta bà ha
70.Ba đà ma kiết tất đà dạ
71.Ta bà ha
72.Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ
73.Ta bà ha
74.Ma bà rị thắng yết ra dạ
75.Ta bà ha
76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
77.Nam mô a rị da
78.Bà lô kiết đế
79.Thước bàn ra dạ
80.Ta bà ha
81.Án. Tất điện đô
82.Mạn đà ra
83.Bạt đà gia
84.Ta bà ha.
Bồ Tát thuyết Chú Đại Bi xong, cơi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống răi rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng long tóc, tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả A na hàm, hoặc có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa cho đến Thập địa. Vô lượng chúng sinh phát ḷng bồ đề.
Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: "Lành thay, Đại Sĩ! Từ trước đến nay, tôi đă trải qua vô lượng Phật Hội, được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Chỉ mong Đại Sĩ v́ tôi mà nói về h́nh mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy; tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe."
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: "Ông v́ phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hăy khéo lắng nghe, Ta sẽ v́ các Ông mà lược thuyết đôi điều."
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo: "Đó là tâm Đại Từ Bi, là tâm B́nh Đẳng, là tâm Vô Vi, là tâm Vô Nhiễm Trước, là tâm Không Quán, là tâm Cung Kính, là tâm Tỳ Hạ, là tâm Vô Tạp Loạn, là tâm Vô Kiến Thủ, là tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy ông nên y theo đó mà tu hành."
Phạm vương thưa: "Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn Đà Ra Ni này. Từ đây chúng tôi xin thọ tŕ chẳng dám lăng quên.
Bồ Tát lại nói tiếp: "Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng tŕ thần chú này, phải phát tâm bồ đề rộng lớn, nguyện độ tất cả muôn loài, giữ ǵn trai giới, đối với chúng sinh khởi ḷng b́nh đẳng, và thường nên tŕ tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẻ, mặc y phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng các thức ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ chớ nghĩ chi khác, y như Pháp mà tụng tŕ. Lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quan Bồ Tát, cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tích Vệ Đà và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sinh nào tụng tŕ Thần Chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỹ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu đồng vắn, bị sơn tinh, tạp mị, các quỹ vọng lượng làm năo loạn phá hại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng Chú này một biến, các quỹ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng tŕ đúng Pháp khởi ḷng thương xót tất cả chúng sinh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang, Mật Tích thường theo ủng hộ, không rời bên ḿnh, như giữ ǵn tṛng con mắt hoặc thân mạng của chính họ vậy.
Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lịnh rằng:
Ta sai Mật Tích, Kim Cang sĩ
Ô Sô Quân Đồ Ương Châu Thi
Bát Bộ lực sĩ, Thưởng Ca La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma Hê Na La Diên
Kim Tỳ La Đà Ca Ty La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La
Măn Thiện Xa Bát Chân Đà La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tát Giá Ma Ḥa La
Cưu Lan Đơn Tra Bán Chỉ La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tất Bà Dà La Vương
Ưng Đức Tỳ Đà Tát Ḥa La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La
Ngũ Bộ Tịch Cư Diêm Ma La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Thích Vương, Tam Thập Tam
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Để Đầu Lại Tra Vương
Các thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương
Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương
Hai mươi tám bộ đại tiên chúng
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà
Bà Da La Long, Y Bát La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Thuỷ, Hỏa, Lôi, Điễn thần
Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Các vị thiện thần này cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ đều có năm trăm đại lực Dạ Xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ tŕ Thần Chú Đại Bi. Nếu người đó ở nơi núi hoang đồng vắng, ngủ nghỉ một ḿnh, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương chướng nạn xâm phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu lạc mất đường về, tụng tŕ Chú này, thiện thần long vương hóa làm người lành chỉ đường dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, long Thần v́ ủng hộ, hóa ra nước lửa".
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lài v́ người tụng Chú, nói bài Kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:
"Hành giả đi trong đồng núi vắng,
Gặp những cọp sói, các thú dữ,
Rắn, rít, tinh, mị, quỹ vọng, lượng,
Tụng Tâm Chú này khỏi bị hại.
Nếu đi biển cả hoặc sông hồ,
Những rồng rắn độc, loài Ma kiệt,
Dạ Xoa, La Sát, cá rùa lớn
Nghe tụng chú này tự lánh xa.
Nếu bị quân trận giặc bao vây,
Hoặc người ác đoạt tiền của,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Giặc cướp tự khởi ḷng thương xót.
Nếu bị vua, quan, quân sĩ bắt,
Gông cùm trói buộc giam ngục tù,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Vua, quan tự mở ḷng ân xá.
Nếu đi vào nhà nuôi sâu trùng độc,
Uống ăn để thuốc muốn hại nhau,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Thuốc độc biến thành nước cam lồ.
Nữ nhân bị nạn khi sinh sản,
Khổ v́ ma quái làm ngăn cản,
Chí Thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Quỹ tà sợ trốn sinh an ổn.
Gặp rồng, dịch quỹ gieo hơi độc,
Nóng bức khổ đau sắp mạng chung,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Bệnh dịch tiêu trừ mạng trường cửu.
Rồng, quỹ lưu hành bệnh thủng độc,
Ung sang lở lói nhiều khổ đau,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Khạc ra ba lần hơi độc mất.
Chúng sinh đời trược khởi ḷng ác,
Trù ếm hại cho thỏa oán thù,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Liền phản trở lại người trù ếm.
Chúng sinh cơi trược đời mạt pháp,
Lửa dâm dục thịnh, tâm điên đảo,
Ngoại t́nh, xa vợ, bỏ chồng con,
Ngày đêm măi tưởng điều sái quấy,
Nếu hay xưng tụng Chú Đại Bi,
Lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt.
Công lực Đại Bi chỉ lược qua,
Nếu ta nói hết không cùng kiếp!
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 3 of 39: Đă gửi: 09 December 2004 lúc 8:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm Vương rằng:
Này Phạm Vương! Nếu chúng sinh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm sợi niệt, trước tiên tung Chú này năm biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗi biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đăi để trong thân. Tâm Chú Đại Bi đây do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đă nói ra. Các Đức Phật ấy v́ thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm Bồ Đề chưa phát, mau được phát sinh; hàng Thanh Văn chưa chứng quả, mau được chứng quả; các vị thần tiên trong cơi đại thiên chưa phát ḷng Bồ Đề, mau được phát tâm vô thượng Bồ Đề. Nếu chúng sinh nào chưa được tín căn Đại Thừa, do sức oai thần của Đà Ra Ni này hạt giống Đại Thừa tự sinh mầm và tăng trưởng; lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.
Lại nữa, người tŕ tụng Đà Ra Ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma, ngoại đạo, thiên, long, quỹ, thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với kẻ ấy khởi ḷng cung kính tôn trọng như Phật.
Người nào tŕ tụng Đà Ra Ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật Thân, v́ chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quư. Nên biết người ấy chính la tạng Quang Minh, v́ ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi ḿnh. Nên biết người ấy là tạng Từ Bi, v́ thường dùng Đà Ra Ni cứu độ chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng Diệu Pháp, v́ nhiếp hết tất cả các môn Đà Ra Ni. Nên biết người ấy chính là tạng Thiền Định, v́ trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng Hư Không, v́ hằng dùng Không Huệ quán sát chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng vô uư, v́ thiên, long, thiện thần, thường theo hộ tŕ. Nên biết người ấy chính là tạng Diệu Ngữ, v́ tiếng Đà Ra Ni trong miệng tuông ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng Thường Trụ, v́ tam tai ác kiếp không thể làm hoại. Nên biết người ấy chính là tạng Giải Thoát, v́ thiên ma ngoại đạo không thể bức năo. Nên biết người ấy chính là tạng Dược Vương, v́ thường dùng Đà Ra Ni trị bệnh chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng Thần Thông, v́ được tự tại dạo chơi mười phương cơi Phật. Công đức người ấy ngợi khen không cùng!
Này thiện nam tử! Chúng sinh nào nghe được danh tự của môn Đà Ra Ni này c̣n được tiêu diệt tội nặng sinh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng tŕ? Nếu người nào được Thần Chú này mà tụng tŕ, phải biết kẻ ấy đă cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng tŕ đúng Pháp, lại có thể v́ chúng sinh dứt trừ khổ nạn, nên biết người ấy là bậc có đủ tâm Đại Bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên hành giả khi thấy mọi loài, đều nên v́ chúng mà tụng chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, th́ sẽ được vô lượng vô biên công đức.
Nếu kẻ hành tŕ khéo giữ ǵn trai giới dụng Tâm Tinh Thành, v́ tất cả chúng sinh sám hối những ác nghiệp đă gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng Đà Ra Ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, th́ trong đời hiện tại liền chứng được bốn Đạo Quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn có phương tiện Huệ Quán, th́ quả vị thập địa c̣n chứng được không lấy ǵ làm khó, huống chi là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện.
(C̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 4 of 39: Đă gửi: 11 December 2004 lúc 4:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Phật lại gọi Ngài A Nan mà bảo:
Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên, nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng Chánh Pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng Chú này. Hành tŕ như thế luôn bảy ngày đêm, th́ trong cơi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thịnh, dân chúng được an vui.
Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập: bị nước nghịch đem quân xâm lấn, dân t́nh rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bệnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời, hoặc nhật nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt các thứ tai nạn ấy, vị Quốc Vương phải lập Đạo Tràng, tạo tượng Thiên Nhăn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương hoa tràng phan, bảo cái hoặc các thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng Thân Tâm tinh tấn tụng đọc chương cú thần diệu. Hành tŕ như thế đúng 7 ngày th́ nước giặc quy hàng, chánh t́nh an ổn, lân bang ḥa hảo thương mến lẫn nhau, trong triều từ Vương Tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành. Nơi cung vi phi tần thể nữ, khởi ḷng hiếu kính đối với vua, các thiên long, quỹ thần đều ủng hộ, trong nước khiến cho mưa gió thuận mùa, hoa quả tươi tốt, nhân dân vui đẹp.
Lại nếu trong nhà có những tai nạn như: ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao ṃn, gia đ́nh rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hăm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng ḥa thuận nhau... Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập Đàn Tràng (như đă nói ở phần chữ nghiêng màu xanh trên), hướng về tượng Thiên Nhăn, chí Tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng Đà Ra Ni này đủ ngàn biến th́ tất cả các việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đ́nh vĩnh viễn được an vui.
Ngài A Nan bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là Chi? Con nên thọ tŕ như thế nào?
Đức Phật Bảo: Thần Chú này có những tên như sau:
Quảng Đại Viên Măn Đà Ra Ni
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni
Cứu Khổ Đà Ra Ni
Diên Thọ Đà Ra Ni
Diệt Ác Thú Đà Ra Ni
Phá Ác Nghiệp Chướng Đà Ra Ni
Măn Nguyện Đà Ra Ni
Tốc Siêu Thánh Địa Đà Ra Ni
Ông nên như thế mà thọ tŕ.
Ngài A Nan lại bạch Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma ha tát, bộ chủ của Thần Chú này tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn Đà Ra Ni như thế?
Đức Phật bảo: Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quan Nhăn.
Này Thiện Nam Tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước đă từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. V́ nguyện lực đại bi, v́ muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, v́ muốn an vui thành thục cho chúng sinh, Ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát ma ha tát, Phạm Vương, Đế Thích, Long Thần đều nên cung kính, chớ sinh ḷng khinh mạn xem thường. Nếu tất cả hàng Trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, khi mạng chung sinh về cơi nước của Phật A Di Đà.
Đức Phật bảo ngài A Nan: Thần Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ là (tức là An tức hương).
(C̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 5 of 39: Đă gửi: 26 January 2006 lúc 8:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Phật lại bảo Ngài A Nan: Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tuỳ thuận các sự mong cầu của chúng sinh. Đó cũng là do Tâm Đại Bi của vị Bồ Tát ấy hóa hiện ra.
1. Nếu chúng sinh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu đồ dùng, nên tŕ Ấn Pháp tay cầm Châu Như Ư. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.
2. Nếu muốn trị các thứ bệnh trên thân, nên tŕ Ấn Pháp tay cầm cành dương liễu. Chân Ngôn rằng:
Úm! Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa, mục đà duệ, phạ nhật ra bàn đà, hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.
3. Nếu muốn trị các chứng bệnh trong bụng, nên tŕ Ấn Pháp tay cầm cái bát báu (úp ngược). Chân Ngôn rằng:
Úm! Chỉ rị chỉ rị, phạ nhật ra, hồng phấn tra.
4. Nếu muốn trị bệnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên tŕ Ấn Pháp tay cầm châu nhật tịnh ma ni (mặt trời): Chân Ngôn rằng:
Úm! Độ tỷ, ca giả độ tỷ, bát ra phạ rị nảnh, ta bà ha.
5. Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên tŕ Ấn Pháp tay cầm Bạt Chiết La. Chân Ngôn rằng:
Úm! Nể bệ nể bệ, nể bà dă, ma ha thất rị duệ, ta ba ha.
6. Nếu muốn hàng phục tất cả oán giặc, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm chày Kim Cang. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra chỉ nảnh, bát ra nể bát đa dă, ta ba ha.
7. Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hăi, không yên, nên tŕ Pháp Ấn tay Thí Vô Uư. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra nẳng dă, hồng phấn tra.
8. Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm dây quyên sách. Chân Ngôn Sách:
Úm! Chỉ rị lă ra, mô nại ra, hồng phần tra.
9. Nếu bị bệnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ, hết bệnh, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm Châu Nguyệt Tịnh ma ni (mặt trăng). Chân Ngôn rằng:
Úm! Tô tất địa yết rị, ta ba ha.
10. Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm tên báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! Ca mạ lă, ta bà ha.
11. Nếu muốn hàng phục các quỹ, thần, vọng, lượng, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm gươm báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! Đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh, đổ đề bà đà dă, hồng phấn tra.
12. Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây "phất trần" trắng. Chân Ngôn rằng:
Úm! Bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dă nhá, nga mô hạ nảnh, ta bà ha.
13. Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được ḥa thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ b́nh. Chân Ngôn rằng:
Úm! Yế lệ, thảm măn diệm, ta bà ha.
14. Nếu muốn xua đuổi hổ báo sài lang và tất cả ác thú, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm cái bàn bài. Chân Ngôn rằng:
Úm! Dược các sam nẳng, na dă chiến nai ra, đạt nậu bá rị dă, bạt xá bạt xá, ta bà ha.
15. Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, ĺa nạn quan quân vời bắt, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm cây phủ việt. Chân Ngôn rằng:
Úm! Vị ra dă, vị ra dă, ta bà ha.
16. Nếu muốn có người làm để sai khiến, nên tŕ nơi tay cầm chiếc ṿng ngọc. Chân Ngôn rằng:
Úm! Bát na hàm vị ra dă, ta bà ha.
17. Nếu muốn được các thứ công đức, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm hoa sen trắng. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra, vị ra dă, ta bà ha.
18. Nếu muốn được sinh về 10 phương Tịnh Độ, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm hoa sen xanh.
Úm! Chỉ rị, phạ nhật ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.
19. Nếu muốn được Trí Huệ lớn, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm cái gương báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! Vỉ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhật ra, mạn đà ra, hồng phấn tra.
20. Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm hoa sen tím. Chân Ngôn rằng:
Úm! Tát ra tát ra, phạ nhật ra, hồng phấn tra.
21. Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong ḷng đất, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm bảo kíp. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra, bá thiết ca rị, yết nẳng hàm, ra hồng.
22. Nếu muốn được đạo tiên, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm hóa hiện mây ngũ sắc. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra, ca rị ra tra hàm tra.
23. Nếu muốn sinh lên cỏi Phạm Thiên, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm b́nh quân tŕ. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra, thế khê ra, ro tra hàm tra.
24. Nếu muốn được sinh lên cung trời, nên cầu nơi tay cầm hoa sen hồng. Chân Ngôn rằng:
Úm! Thương yết lệ, ta bà ha.
25. Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm bảo kích. Chân Ngôn rằng:
Úm! Thảm muội dă, chỉ nảnh hạ rị, hồng phấn tra.
26. Nếu muốn triệu tất cả chư thiên thiện thần, nên tŕ tay cầm ống loa báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! Thương yết lệ, ma ha thảm măn diệm, ta bà ha.
27. Nếu muốn sai khiến tất cả quỹ thần, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm trượng độc lâu (đầu lâu). Chân Ngôn rằng:
Úm! Độ nẳng, phạ nhật ra xá.
28. Nếu muốn 10 phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm xâu chuỗi ngọc. Chân Ngôn rằng:
Nẳng mồ ra đát nẳng, đát ra dạ da.
29. Nếu muốn có được Phạm Âm thanh tốt nhiệm mầu, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm chiếc linh báu:
Nam Mô, bát na hàm bá noa duệ. Úm! a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ, thất rị chiếm rị nảnh, ta bà ha.
30. Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm ấn báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật ra, nảnh đảm nhá duệ, ta bà ha.
31. Nếu muốn được thiên thần, long vương thường đến ủng hộ, nên tŕ tay cầm cu thi thiết câu. Chân Ngôn rằng:
Úm! A rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ. Nam Mô, ta bà ha.
32. Nếu v́ ḷng Từ Bi muốn cho tất cả chúng sinh được nhờ sự chỡ che, giúp đỡ, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm tích trượng. Chân Ngôn rằng:
Úm! Na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na da bát nảnh, hồng phất tra.
33. Nếu muốn cho tất cả chúng sinh thường cung kính yêu mến nhau, nên cầu nơi tay hiệp chưởng. Chân ngôn rằng:
Úm! Bát nạp mạng nhá lăng, hất rị.
(Theo trong Tạng bản, lại có Chân Ngôn: Úm! Vỉ tát ra, vỉ tát ra, hồng phấn tra).
34. Nếu muốn tuỳ theo chỗ sinh, thường ở bên Phật, nên tŕ Pháp Ấn tay hiện hóa Phật. Chân Ngôn rằng:
Úm! Chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị ni, hồng phấn tra.
35. Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ sinh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa cung điện. Chân Ngôn rằng:
Úm! Vỉ tát ra, vỉ tát ra, hồng phấn tra.
36. Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm cung báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! A tả vĩ lệ, ta bà ha.
37. Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên tŕ Pháp Ấn tay cầm quyển Kinh báu. Chân Ngôn rằng:
Úm! A hạ ra, tát ra phạ ni, nể dă đa ra, bố nể đế, ta bà ha.
38.Nếu muốn từ thân này đến thân thành Phật, Tâm Bồ Đề thường không lui sụt, nên tŕ Pháp Ấn bất thối kim luân. Chân Ngôn rằng:
Úm! Thiết na di tả, ta bà ha.
39. Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ kư, nên tŕ Pháp Ấn Đảnh thượng hóa Phất. Chân Ngôn rằng:
Úm! Phạ nhật rị ni, phạ nhật lảm nghệ, ta bà ha.
40. Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc tốt, nên cầu nơi tay cầm chùm bồ đào. Chân Ngôn rằng:
Úm! A-ma lă kiếm đế nể nảnh, ta bà ha.
41. Nếu muốn cho tất cả loài hữu t́nh đói khát được no đủ mát mẻ, nên tŕ Pháp Ấn tay hóa nước cam lồ. Chân Ngôn rằng:
Úm! Tố rô tố rô, bác ra tố rô, bác ra tố rô, tố rô, tố rô dă, ta bà ha.
42. Nếu muốn hàng phục ma oán trong cơi đại thiên, nên tŕ Pháp Ấn tay tổng nhiếp tŕ. Chân Ngôn rằng:
Đát nể dă thá, phạ lô chi đế, thấp phạ ra dă, ta bà đốt sắc, tra ô hạ di dă, ta bà ha.
__________________ Muốn Tu: "Hăy bỏ bớt những ǵ ḿnh đang có, và chớ nên chất thêm vào những ǵ không phải của ḿnh".
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 6 of 39: Đă gửi: 26 January 2006 lúc 9:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
Này A-Nan! Những việc có thể cầu mong như thế kể có ngàn điều. Nay ta lược qua chút ít phần thôi.
Khi ấy Nhật Quang Bồ Tát v́ người thọ tŕ Đại Bi Tâm Đà Ra Ni mà nói Đại Thần Chú để ủng hộ rằng:
Nam Mô bột đà cu na mê. Nam mô đạc ma mạc ha đê. Nam mô tăng già đa dạ nê. Đế chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp ma.
Nhật Quang Bồ Tát bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tụng Chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng Chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm ba thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tuỳ theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng.
Nguyệt Quang Bồ Tát cũng v́ hành nhân mà nói Đà Ra Ni ủng hộ rằng:
Thâm đê đế đồ tô tra. A nhă mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhă tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ na tra. Ta bà ha.
Nguyệt Quan Bồ Tát Bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tụng Chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành niệt, gia tŕ Chú vào, buộc treo nơi tay. Chú này do bốn mươi hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đă nói ra, nay tôi cũng nói để v́ các hành nhân mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bệnh ác, thành tựu tất cả Pháp lành, xa ĺa tất cả sự sợ hăi.
Đức Phật bảo ngài A-Nan: Ông nên dùng ḷng trong sạch tin sâu mà thọ tŕ môn Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này, và lưu bố rộng ra trong cơi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà Ra Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sinh trong ba cơi. Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, đều dùng Đà Ra Ni này mà trị th́ không bệnh nào chẳng lành. Dùng Đài Thần Chú này tụng vào cây khô, cây ấy c̣n được sinh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng sinh có t́nh thức ư? Nếu thân bị đau bịnh, dùng Chú này trị mà không lành, lẽ ấy không bao giờ có!
Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi Tâm Đà Ra Ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được! Nếu chẳng phải là kẻ từ đời quá khứ lâu xa đến nay đă gieo nhiều căn lành, th́ dù cho cái tên gọi c̣n không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời người, long, thần, nghe ta khen ngợi, phải nên tuỳ hỉ. Nếu kẻ nào huỷ báng Thần Chú này tức là huỷ báng chín mươi ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với Đà Ra Ni này sinh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không nghe thấy Phật, Pháp, Tăng thường ch́m trong tam đồ, chẳng biết bao giờ mới được ra khỏi.
Khi ấy tất cả chúng hội: Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang, Mật Tích, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, Thiên, Long, Quỹ, Thần, nghe Đức Như Lai khen ngợi mông Đà Ra Ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành.
CHUNG
__________________ Muốn Tu: "Hăy bỏ bớt những ǵ ḿnh đang có, và chớ nên chất thêm vào những ǵ không phải của ḿnh".
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 7 of 39: Đă gửi: 26 January 2006 lúc 9:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính thưa quư vị,
V́ nhân duyên đến nay mới đúng nên tôi mới đủ phương tiện mà hoàn thành Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni.
Quư vị tu theo Đại Bi Tâm Đà Ra Ni th́ không có nghiệp lực hay nghèo khổ nào mà chuyển không được cả. Vấn đề là có tin hay không mà thôi. Hoặc có hành hay không mà thôi!
Mong rằng chư vị gặp nhiều khổ ải do nghiệp quả bức bách, hăy ráng tụng mỗi ngày 5 biến Chú Đại Bi, và theo Pháp Ấn miệng đọc tay tưởng Ấn. Nếu tŕ chí trụng tŕ trong ṿng 3 năm th́ sẽ có thành tựu. Đó là theo lời của Ngài Tuyên Hóa.
Hoặc như quư vị muốn câu giàu sang, mỗi ngày cứ tŕ tụng xong 5 biến Chú Đại Bi, rồi tŕ Pháp Ấn số 1 Châu Như Ư 108 biến, trong ṿng 3 năm sẽ có thành tựu.
Tôi thực tế đă thực hành những câu chú theo nhu cầu của tôi và đều đă có thành tựu cả, nên tin tưởng tuyệt đối, không hề có một chút nghi ngờ.
Mong rằng quư vị sẽ được muôn vạn lợi ích trong năm Bính Tuất!
Không Kiếp Minh Tâm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 8 of 39: Đă gửi: 26 January 2006 lúc 10:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
Dưới đây là cách tu Đại Bi Tâm Đà Ra Ni theo Ngài Tuyên Hóa. Trong thế kỷ 20 Ngài là người duy nhất đạt được Thần Thông Tự Tại, thấu triệt cả Thiền Tịnh Mật. Người duy nhất trong đời hiện tại có thể lên trời xuống địa ngục, sai khiến Trời, Diêm Vương, Long Thần Bát Bộ, Quỹ Thần theo ư muốn. Muốn ngừng mưa ngừng tuyết th́ ngừng; cấm động đất th́ không có động đất, người chết cho sống th́ Diêm Vương không dám bắt chết; muốn cho người sống thêm bao nhiêu năm th́ được bao nhiêu năm. Một bậc Đại Sỹ như thế đâu thể nào có lời nói hư nguỵ được. Thật ra đến chỗ Ngài th́ cần ǵ làm ra những điều như thế, nhưng Ngài muốn hiển lộ Thần Thông là v́ thời thế đó thôi. Bởi đời nay đa số người thích Thần Thông. Nếu thích Thần Thông Chân Chính, th́ không thể không tu theo Đại Bi Tâm Đà Ra Ni vậy! Quư vị đạt được Thần Thông của Đại Bi Tâm Đa Ra Ni rồi, th́ những Chú Thuật khác hoặc của Ngoại Đạo, khác nào đom đóm trong đêm.
Chỉ có điều tôi xin quư vị lưu tâm, khi xem Chú Đại Bi Giảng Giải của Ngài Tuyên Hóa chớ nên hiểu lầm ư chỉ của Ngài mà sinh ra phỉ báng! Chúng ta là những kẻ Ngu Si, khó bề hiểu nổi Thánh Ư, nói chi đến phê b́nh; được Ngài mở lượng từ bi dạy cho là phúc nhiều đời, chớ nên bỏ qua uổng phí.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 9 of 39: Đă gửi: 26 January 2006 lúc 10:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHÚ ĐẠI BI
Giảng Giải
&
Mười Pháp Giới Không Ĺa
Một Tâm Niệm
Hoà Thượng TUYÊN HÓA Giảng
Việt Dịch: Thích Minh Định
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 27 January 2006 lúc 12:29am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 10 of 39: Đă gửi: 26 January 2006 lúc 11:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thủ nhăn thông thiên đại tông tŕ
Chấn động tam thiên thế giới thời
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ diêm phù đề
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 11 of 39: Đă gửi: 27 January 2006 lúc 12:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Chú Đại Bi
Ḥa Thượng Tuyên Hóa giảng vào năm 1969
tại Phật Giáo Giảng Đường ở Tam Phan Thi (San
Francisco
Chú Đại Bi, vốn chẳng có cách ǵ giảng được, v́ Chú là mật ngữ bí mật. Nếu muốn biết ư nghĩa cúa Chú Đại Bi th́ trước hết tôi nói một bài kệ. Bài kệ này nói về Chú Đại Bi:
"Đai Bi đại chú thông thiên địa
Nhất bách nhất thiên thập vương hoa
Đại Bi đại từ năng khử bệnh
Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền"
"Đại bi đại chú thông thiên địa": Bạn đọc Chú Đại Bi th́ trên trời cũng chấn động, dưới đất cũng chấn động, thông thiên triệt địa.
"Nhất bách nhất thiên thập vương hoan": Mỗi ngày bạn tụng 108 biến, tụng một ngàn ngày một năm có 365 ngày, một ngàn ngày tức khoảng 3 năm. Bạn tụng 3 năm mà mỗi ngày chẳng gián đoạn. Mỗi ngày bạn tụng Chú Đại Bi th́ nhất định tụng vào lúc đó, dù bận thế nào bạn cũng tụng 108 biến. "Thập Vương" là mười ông vua ở dưới địa ngục, c̣n gọi là Thập Điện Diêm Vương, các vị ấy đều vui mừng, đó gọi là "nhất bách nhất thiên thập vương hoan".
"Đại từ đại bi năng khử bệnh": V́ sao Chú Đại Bi gọi là Chú Đại Bi? V́ "bi hay cứu khổ", hay cứu tất cả khổ nạn của chúng sinh; đó là "cứu khổ ban vui", cho nên gọi là Chú Đại Bi. Cứu khổ ban vui, chủ yếu là có thể trị bệnh; bất cứ có bệnh ǵ, bạn tụng Chú Đại Bi th́ bệnh đều khỏi hẳn. Có người nói: "Tôi tụng Chú Đại Bi sao bệnh không khỏi hăn"? V́ bạn chẳng thành Tâm; nếu bạn thành tâm, th́ nhất định sẽ có cảm ứng của Chú Đại Bi.
"Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền": Mỗi ngày bạn tụng 108 biến mà tụng một ngàn ngày, tức cũng khoảng thời gian 3 năm, hằng ngày bạn đều tụng Chú, chẳng tạo nghiệp. Dưới địa ngục có một tấm gương gọi là "Nghiệt Kính Đài", bất cứ bạn làm tội nghiệp ǵ th́ đều hiện ra trong tấm gương đó, giống như màn ảnh truyền h́nh. Một đời bạn làm ǵ, như bạn giết người th́ trong tấm gương đó sẽ hiện ra t́nh trạng bạn giết người; bạn trộm cắp vật của người th́ trong tấm gương đó sẽ hiện ra cảnh tượng bạn trộm cắp; nếu bạn đi đốt nhà phóng lửa th́ trong tấm gương đó sẽ hiện ra nghiệp bạn đă làm.
Nếu bạn chẳng có nghiệp th́ sao? Th́ trong tấm gương đó chẳng có cảnh ǵ để hiện ra. Cho nên trong ba năm bạn tụng Chú Đại Bi, nếu chẳng uống rượu, chẳng ăn thịt, chẳng ăn ngũ tân (hành, hành tây, hẹ, tỏi, nén) th́ khi tấm gương "Nghiệt Kính Đài" chiếu lên th́ bạn chẳng có nghiệp chướng ǵ; ở dưới địa ngục cho bạn mang tấm bảng nói rằng: "Người đó tụng tŕ Chú Đại Bi, đă tiêu trừ nghiệp chướng của họ, tất cả quỹ thần dưới địa ngục thấy người đó đều cúi đầu đảnh lễ cung kính như chư Phật ba đời và đều bảo hộ người đó như bảo hộ tất cả chư Phật, và cũng đi khắp nói với các quỹ thần khác rằng thấy người đó đừng có nhiễu loạn họ". Cho nên Chú Đại Bi có oai lực như thế, thật là không thể nghĩ bàn. Bây giờ giảng về Chú Đại Bi.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 27 January 2006 lúc 4:58pm
__________________ Muốn Tu: "Hăy bỏ bớt những ǵ ḿnh đang có, và chớ nên chất thêm vào những ǵ không phải của ḿnh".
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 12 of 39: Đă gửi: 05 February 2006 lúc 1:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
1. Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da.
Chúng ta thường niệm "Nam Mô A Di Đà Phật", "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật"; niệm th́ niệm, vậy cứu cánh hai chữ "Nam Mô" nghĩa là ǵ? Rất ít người biết. Trước kia tôi từng hỏi nghĩa hai chữ "Nam Mô" như thế nào? Chẳng ai trả lời được như ư, họ đều chẳng biết.
"Nam Mô" là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là "quy y", cũng là "quy mạng kính đầu". Quy mạng là đem thân mạng sống của ḿnh giao cho Phật, ḿnh chẳng cần; Phật kêu ta sống th́ ta sống, kêu ta chết th́ ta chết, nghe sự chỉ đạo của Phật. Kính là cung kính; đầu là nương tựa. Kính đầu tức là cung kính nương tựa vào Phật. Chúng ta quy mạng tức là thân của chúng ta cũng quy y cho Phật, tâm cũng quy y cho Phật; Thân Tâm đều quy y cho Phật .
"Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da": Nói tổng quát tức là 10 phương vô lượng vô tận Tam Bảo, trên h́nh vẽ nói là bổn thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tuy là bổn thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, tức cũng là quy y 10 phương chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.
Niệm câu Chú này ra chẳng phải chỉ kêu ta quy y 10 phương vô tận thường trụ Tam Bảo, mà cũng khiến cho tất cả chúng sinh nghe được câu mật ngữ này th́ đều quy mạng nương tựa vào 10 phương ba đời vô tận vô tận thường trụ Tam Bảo. Tam Bảo như bạn đă biết là Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo. Bạn phải biết, trên thế gian cao quư nhất là Phật Bảo, cao quư nhất là Pháp Bảo, cao quư nhất là Tăng Bảo. Chẳng có ǵ cao quư bằng Tam Bảo. Chẳng những trong thế gian, mà dù xuất thế gian cho đến các cơi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cũng chẳng cao quư bằng Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Cho nên trong 10 pháp giới th́ pháp giới của Phật là cao nhất. Cao nhất là Tam Bảo, nên chúng ta phải quy y, phải cung kính, phải tin nhận, đừng có tơ hào tâm hoài nghi; phải sinh tâm tin sâu sắc.
Quy y Tam Bảo có lợi ích ǵ? Quy y Phật th́ chẳng đọa địa ngục; quy y Pháp th́ chẳng đọa làm ngạ quỷ; quy y Tăng th́ chẳng đọa làm súc sinh. Đó là nói sơ về quy y Tam Bảo.
Song, bạn quy y th́ phải làm các điều lành mới được, nếu bạn vẫn giống như trước, sát sinh, giết người, phóng lửa, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, chẳng có ǵ mà chẳng làm th́ bạn chẳng tránh khỏi ba đường ác. V́ trong Phật Pháp chẳng nói ǵ đến nhân t́nh. Chẳng phải nói: "Bạn đă quy y Phật, đă quy y Pháp, đă quy y Tăng. Quy y Phật th́ chẳng đọa vào địa ngục; quy y Pháp th́ chẳng đọa làm ngạ quỷ; quy y Tăng th́ chẳng đọa làm súc sinh. Vậy th́ bạn cứ tuỳ tiện muốn làm ǵ th́ làm", chẳng phải vậy. Bạn phải cải ác hướng thiện, vĩnh viễn không làm việc xấu nữa mới được. Nếu bạn vẫn làm việc xấu th́ vẫn đọa địa ngục như nhau. Chẳng giống như các ngoại đạo khác nói: "Chỉ cần bạn tin CHÚA th́ dù bạn có tạo tội nghiệp cũng được lên thiên đàng, nếu bạn chẳng tin CHÚA, th́ dù bạn có làm công đức cũng đọa địa ngục". Chẳng phải đạo lư như thế. Dù bạn tin Phật, nếu bạn tạo tội nghiệp th́ nhất định cũng đọa địa ngục như nhau; dù bạn chẳng tin PHẬT, nhưng nếu bạn làm công đức, cũng được sinh về cơi trời như nhau. Phật Pháp chẳng phải là một thứ đạo lư làm mê hoặc ḷng người, nói: "Ngươi phải tin ta th́ muốn thứ ǵ cũng được", chẳng phải như thế. Bạn tin Phật cũng phải đừng tạo tội nghiệp mới được; nếu bạn tạo tội nghiệp th́ vẫn bị đọa địa ngục như thường. Tức nhiên đọa địa ngục như nhau, vậy tại sao c̣n phải quy y Tam Bảo?
Quy y Tam Bảo th́ bạn phải cải ác hướng thiện, sửa đổi lỗi lầm, làm con người mới, từ nay về sau chỉ làm việc lành, chẳng làm việc xấu nữa, như thế th́ mới được lợi ích. Cho nên câu này là quy y 10 phương vô tận vô tận Tam Bảo.
Bạn niệm câu Chú này th́ bạn cũng được tiêu tai. Bạn có tai nạn ǵ, mà thường niệm "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da" th́ tai nạn của bạn sẽ được giải trừ, tai nạn lớn th́ sẽ biến thành tai nạn nhỏ, tai nạn nhỏ th́ sẽ biến thành chẳng có tai nạn. Cho nên đây là "pháp tiêu tai".
"Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da" c̣n là "Pháp tăng ích". Pháp tăng ích tức là bạn vốn đă có căn lành rồi mà bạn niệm Chú này th́ căn lành của bạn càng tăng thêm, đắc được lợi ích càng nhiều, cho nên gọi là Pháp tăng ích.
Bạn thường niệm Chú Đại Bi, niệm riêng một câu "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da", th́ bất cứ bạn muốn ǵ, mong cầu ǵ, bạn sẽ được sở cầu như ư, sở nguyện toại tâm, đây là "Pháp thành tựu". Bạn cầu ǵ cũng đều sẽ thành công.VÍ NHƯ MUỐN CÓ CON TH̀ BẠN NIỆM "Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Gia" th́ sẽ được có con. Chẳng có bạn trăm năm mà bạn muốn có một người bạn tốt th́ bạn niệm "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Gia", th́ cũng sẽ được người bạn tốt. Song, bạn phải thành tâm, chẳng phải niệm một ngày, hai ngay, mà ít nhất bạn phải niệm ba năm. Nếu bạn niệm hết toàn bài Chú th́ càng tốt, nếu không niệm hết th́ niệm một câu "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Gia" cũng thành tựu công đức không thể nghĩ bàn.
Giống như tại Đông Bắc bên Trung Quốc, có một thứ ngoại đạo gọi là "Ly Môn". Chúng chẳng niệm ǵ khác, chỉ niệm câu này. Vị lănh tụ tối cao ngồi ở đó thọ người lễ lạy, ai ai cũng đều cuối đầu lạy anh ta. Trong tâm anh ta chỉ chuyên môn niệm "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da", đó là pháp linh cảm của Ly Môn. Một vị ngồi kế bên anh ta gọi là "lănh chánh", c̣n vị nữa gọi là "bang chánh", ba người ngồi ở tại đó, giống như là "phong diệm khẩu" (chẩn tế cô hồn). Đó tức là Lư Môn. Nếu câu mật ngữ này kêu bạn duỗi tay ra, tức là "Quán, Thế, Âm, Bồ, Tát", chỉ mấy chữ; tại lư xong rồi th́ coi như đă "triện thượng", triện thượng rồi th́ về sau chẳng cần mở miệng niệm; phải niệm ở trong Tâm: "Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát", chẳng niệm ra lời. Câu Pháp này "phụ tử bất qua, thê tử bất truyền", giữa cha và con cũng không thể truyền, dù vợ chồng cũng không được nói. Đắc được 5 chữ này rồi th́ gọi là "ngũ tự chân ngôn". Sau đó lại bảo bạn "tại lư", không niệm như vậy nữa mà phải "bết khẩu tàng thiệt", câm miệng, lưỡi th́ ẩn náu đi; "thiệt tiêm đ́nh thường ngạc", "khí khác tâm niệm", niệm ở trong tâm; "ư căn pháp hiện". Đây nói thật là hảo diệu, hảo thần mật. Tại phương Bắc có một cái hội gọi là "giới yêu tửu hội", hội này chủ yếu là không uống rượu, không hút thuốc, tức gọi "tại lư công sở". Ở Trung Quốc gần hơn một trăm năm đến nay "công sở đạo" rất là thịnh hành, họ nương vào câu Chú này. Làm Pháp sSư ngồi tại chánh ṭa "ṭa lư" niệm "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Gia". V́ trước kia những nơi này tôi đều đă đi qua cho nên tôi đều biết.
Câu Chú này cũng là "Pháp hàng phục", hay hàng phục thiên ma, chế các ngoại đạo. Tất cả thiên ma ngoại đạo nghe thấy câu Chú này th́ đều bỏ chạy. Song, chẳng phải là "Pháp câu triệu"; pháp câu triệu tức là một khi niệm câu Chú này th́ bắt thiên ma quỷ quái lại. Cho nên câu Chú "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Gia" này có công năng không thể nghĩ bàn; nếu nói ra nhiều th́ vô cùng vô tận.
"Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da": Nam Mô: là "Quy Mạng Kính Đầu"; Hắc Ra Đát Na: là "Bảo"; Đa Ra Dạ: là "Tam"; Da: là "Lễ". Hợp lại nghĩa là nói: dùng thân tâm tính mạng của ḿnh quy y cho 10 phương ba đời vô tận Tam Bảo, chúng ta cuối đầu đảnh lễ Tam Bảo.
Vô tận là ǵ? Chư Phật quá khứ chẳng cùng tận, chư Phật hiện tại chẳng cùng tận, chư Phật vị lai cũng chẳng cùng tận; đó gọi là vô tận Tam Bảo.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 12 February 2006 lúc 3:52pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 13 of 39: Đă gửi: 12 February 2006 lúc 4:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
2. NAM MÔ A RỊ DA
"Nam Mô": Nghĩa vẫn giống như ở trước, tức là "quy y kính đầu".
"A Rị Da": 'A Ri' dịch là bậc Thánh"; Bậc Thánh c̣n có một ư nghĩa là "xa ĺa tất cả Pháp ác bất thiện". Pháp ác bất thiện là đủ thứ các điều ác. "Da" vẫn là "lễ". Kính lễ bậc Thánh, đó là ư nghĩa "A Rị Da".
3. BÀ LÔ YẾT ĐẾ THƯỚC BÁT RA DA
"Bà Lô Yết Đế": Dịch ra nghĩa là ǵ? Tức là "Quán" của Quán Thế Âm Bồ Tát, c̣n dịch là "Quang" tức là quang minh biến chiếu. C̣n có một lối dịch khác nữa là "sở quán sát"; sở quán sát cảnh giới này.
"Thước Bát Ra Gia": Nghĩa là "Tự Tại", câu này hợp lại là "Quán Tự Tại", cũng là Bồ Tát Quán Tự Tại.
4. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA
"Bồ Đề": Chúng ta ai cũng biết bồ đề tức là giác, tiếng Phạn gọi là "Bồ Đề", giác ở đây là giác ngộ.
"Tát Đỏa": Tức là "Độ". Bồ Đề Tát Đỏa nói đơn giản là "Bồ Tát", tức là chúng sinh tự giác tự độ; tự ḿnh giác ngộ, tự ḿnh độ ḿnh.
"Bà Da": Là "Đănh Lễ"; "Da": Nghĩa là cúi đầu đảnh lễ. Cúi đầu đản lễ ai? Cúi đầu đản lễ "Bồ Tát tự giác tự độ". Câu này nói về "Bất Không La Tác Bồ Tát áp đại binh". Khi bạn tụng câu Chú này th́ Bồ Tát Bất Không La Tác mang thiên binh thiên tướng để bảo vệ bạn.
5. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA
"Ma Ha": Là "Đại", là "nhiều", là "thắng". "Ma Ha" là nói người phát đại Bồ Đề Tâm, đều đắc được thành tựu, được thắng lợi. Có ba ư nghĩa này.
"Tát Đỏa": "Tát Đỏa" ở đây vơi Tát Đỏa ở trước nghĩa chẳng giống nhau. "Tát Đỏa" ở trước nghĩa là "Độ"; "Tát Đỏa" ở đây nghĩa là "Bậc Dũng Mănh", tức cũng là "Bậc Tinh Tấn", chúng sinh tu hành rất dụng công tinh tấn.
"Bà Da": Tức là "hướng về Ngài đảnh lễ". Tôi hướng về vị Bồ Tát phát Bồ Đề Tâm đó, vị dũng mănh tinh tấn đó để cúi đầu đănh lễ. Đây là ư nghĩa mấy đoạn chú ở trên đây, tức là nói về Bồ Tát hay tự ḿnh đă giác ngộ rồi, chúng sinh tự ḿnh độ ḿnh và c̣n giác ngộ kẻ khác, độ tất cả chúng sinh khác.
6. MA HA CA RÔ NI CA DA
"Ma Ha": Nghĩa vẫn là "Đại", là "nhiều", là "thắng", ba ư nghĩa. "Ca Rô": là "Bi"; "Ni Ca": là "Tâm". Hợp lại tức là "Đại Bi Tâm". "Da": Vẫn là "đảnh lễ". Ư nói chúng ta phải đảnh lễ Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Thần Chú.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 12 February 2006 lúc 4:09pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 14 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 6:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
7. Án
Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật.
Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, v́ nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành tŕ.
4. Thứ tư là “Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền năo. Trí tuệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát Nhă Ba La Mật, đó là trí tuệ viên măn nhất. C̣n “quán” là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành tŕ.
6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, th́ dù quí vị có tu hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa th́ vẫn không có kết quả ǵ cả. Cũng như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lư chân chính của đức Phật th́ trước hết, quí vị phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám là “Lư”: nghĩa là đạo lư. Nếu quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu th́ mới có được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu pháp này, th́ quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.
9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, th́ quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đă gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.
Như vậy từ chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị tŕ niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ án th́ tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả tŕ tụng thần Chú Đại Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp tŕ. Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát bàn ra, Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí vị tŕ tụng thần chú này, th́ Tứ đại thiên vương đều đến làm Hộ pháp cho quí vị.
Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn.
Nguyên câu chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ư là xưng tán Phật bảo.
9. Số đát na đát tả
Chữ Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”.
Số Đát Na có nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp ǵ? Pháp này c̣n gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có ǵ vượt trội hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.
C̣n một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
C̣n có một cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ – tát.
Đát Na là biểu tượng của Pháp bảo.
Đát Tả là biểu tượng cho Tăng bảo.
Cho nên toàn thể câu chú án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo. Nên khi tŕ niệm đến câu thần chú này, có nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia tŕ của Tam bảo.
Đát tả c̣n có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy các loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da
Xưa nay dường như quí vị luôn luôn Nam mô với một người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính ḿnh. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một khách thể nào khác mà phải Nam mô ngay với chính ḿnh.
Nam mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.
Nam mô c̣n có nghĩa là đem tự ngă của chính ḿnh thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương. Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả mười phương.
Tất kiến lật có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết toàn tâm, toàn ư để quy y và đảnh lễ Tam bảo.
Đỏa y mông có nghĩa là “Ngă”. Đó chính là cái Ngă của Vô Ngă. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ư đảnh lễ bản ngă của chính ḿnh, nhưng đảnh lễ cái ngă của vô ngă. Như thế có nghĩa là không có ḿnh hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc ǵ xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, v́ nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đă rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, v́ vốn không có một bản ngă để dùng pháp nhân và không có một bản ngă để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”.
Đó gọi là Ngă của vô ngă vậy.
A lị da ở trên đă giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”. ở đây tức là phải hết ḷng đảnh lễ “cái ngă” ấy của Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngă trong vô ngă của bậc Thánh giả. Cái ngă ấy bao trùm khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây, tôi sẽ giảng rơ.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Bà lô kiết đế dịch là “Quán”.
Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán Thế Âm.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm, cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu này không nhất định phải là Bồ – tát Quán Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm, mà nếu khi quí vị đă đạt được tự tại rồi, th́ quí vị chính là Bồ – tát Quán Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh, th́ quí vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. V́ vậy, một khi quí vị đă thể nhập và vận dụng trọn vẹn pháp này rồi th́ chính quí vị là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng pháp này th́ chính tôi cũng là hóa thân của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa trắng nhỏ” v́ nơi núi ấy có loài hoa trắng nở rất nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo ở trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mă năo. Nhưng không phải ai cũng đến được nơi cung điện này.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.
Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 8:44pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 15 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 6:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
12. Nam mô na ra cẩn tŕ
Trong câu chú này, Nam mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”.
Na ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.
Cẩn tŕ dịch là “ái”, có nghĩa là t́nh thương yêu. Trong ư niệm ḷng Từ Bi bảo hộ, che chở cho mọi loài. Thế nên ḷng từ bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh. Trước đây tôi đă giảng về 10 loại tâm được đề cập trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị nên y cứ theo mười loại tâm này mà công phu tu tập.
Na ra cẩn tŕ, Hán dịch là “Hiền ái thiện hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô Thượng bồ đề.
Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ư nghĩa ǵ trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này giúp cho quí vị duy tŕ bản tâm thanh tịnh của ḿnh. Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi… th́ tâm quí vị liền bị ô nhiễm, không c̣n thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, th́ tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn biết th́ trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Th́ ra ư nghĩa của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế lại c̣n được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, măi măi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đă nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải thần Chú Đại Bi th́ quí vị không thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho quí vị rơ. Thật là khó gặp được người nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rơ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực t́nh mà nói, không mấy người thể nhập được rốt ráo ư nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là chuyển được ư nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi cần phải hỏi tôi. V́ tôi đă không hỏi th́ thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe được. V́ thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết.
Thay v́ quí vị hỏi tại sao tôi biết, th́ quí vị hăy quay trở lại hỏi chính ḿnh. Tại sao ḿnh lại không biết? Nếu quí vị biết được lư do tại sao ḿnh không biết, th́ quí vị sẽ rơ được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu quí vị không thể nào rơ được tại sao quí vị không biết, th́ quí vị cũng không thể nào rơ được lư do tại sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy.
Chẳng hạn có người đă hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm người xuất gia?” Tôi đă không trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết được lư do v́ sao anh không xuất gia, th́ anh sẽ hiểu được v́ sao tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lư trong Phật pháp cũng như vậy. Thay v́ quí vị hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lư ấy?”, th́ quí vị hăy tự hỏi lại chính ḿnh tại sao ḿnh không hiểu được. Khi quí vị đă hiểu được tại sao ḿnh không biết th́ quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết được đạo lư ấy. Nay quí vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ tŕ, bảo trọng cho thiện căn của ḿnh. Tự ḿnh phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.
Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này, ḷng người đang tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ ǵ gặp được chánh pháp, cũng không dễ ǵ gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu hành ǵ cũng có thể thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng: “Chúng tôi cũng là những con người như những con người khác, nếu không chịu tu hành th́ làm sao có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành tŕ th́ làm sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo th́ trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết tu suốt sáu năm làm ǵ, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc th́ Ngài tựu thành chánh giác.
Đức Phật c̣n phải tu hành mới thành tựu chánh giác. C̣n mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành th́ làm sao có thể thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả, nhưng người chân thật tu hành th́ rất ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu hành th́ đều có thể bị đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu tu hành th́ không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được điều kiện để nghiên cứu Phật pháp th́ nên dơng mănh tinh tấn lên, không nên biếng nhác, hăy siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu. Nếu không tinh tấn dơng mănh mà mong thành tựu đạo nghiệp th́ không thể nào có được.V́ thế nên quí vị đừng ngại gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh trống dơng mănh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt th́ đạo lư này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích ǵ. Quí vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật pháp, điều ǵ quí vị cũng muốn diễn bày cho rơ ràng minh bạch th́ thường bị đánh mất những nghĩa lư sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có tŕnh bày hết về diệu lư của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không tin sâu và không hành tŕ th́ điều tôi giảng không c̣n là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành tŕ cần phải thường xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về phía trước mà nỗ lực công phu th́ nhất định một ngày kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính ḿnh.
Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không c̣n tối tăm, mê muội, tức là không c̣n vô minh.
Sao gọi là “vô minh”, v́ tâm của quí vị không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do v́ quí vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được “đại quang minh” th́ tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là quí vị đă chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đă bị chuyển hóa sạch rồi, th́ pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí tuệ chân thật của quí vị.
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhăn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên ǵ trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đ́nh giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ư. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nh́n thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nh́n một đứa cháu cưới bà nội ḿnh làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ th́ không thể nào lư giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. V́ sao? V́ mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đă có con nối ḍng. Con gái ta cũng đă có chồng, ta không c̣n bận tâm ǵ nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa măn và đă gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: c̣n đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới th́ người chết sẽ nhắm mắt. C̣n nếu không, th́ người chết không nhắm mắt được. Bà lăo nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn c̣n lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng:
- Tôi c̣n đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cơi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. V́ vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ v́ một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ v́ bận tâm v́ đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được là v́ Ngài đă đạt được ngũ nhăn và lục thông. Nên chỉ cần nh́n qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ v́ bà nội đă khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội ḿnh. Một niệm lành c̣n như thế huống ǵ là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác th́ luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nh́n trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
V́ miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đă tạo nghiệp ác quá lớn nên đă phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con ḿnh ăn thịt. Ṿng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nh́n các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
V́ cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nh́nh quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nh́n trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đă sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với ḿnh rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà ḷng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rơ nhân quả khi nh́n vào gia đ́nh này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đ́nh với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, v́ khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đă gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không t́m cách trả món nợ này th́ nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đă vay của ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đ́nh nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn th́ họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật ǵ trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều ǵ sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hăy dùng ngũ nhăn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rơ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. C̣n con lừa th́ được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đă thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đă hiểu rơ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt ṿng oán nghiệp này. Bà hăy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng c̣n vật ǵ dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, th́ nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rơ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không c̣n đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật ǵ đó để đánh vợ. Chỉ c̣n thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta t́m cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đ̣n cho đến khi ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế th́ từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu c̣n đánh, th́ kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi t́m ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không c̣n đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đă tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai đă từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của ḿnh. Cái nhân đă tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của ḿnh. Nếu quí vị hiểu được đạo lư nhân quả, th́ quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.
C̣n một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ư nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay ḿnh làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nh́n đĩa thức ăn và hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh c̣n chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hăy nh́n đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra c̣n con kia th́ bị mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm th́ tại sao con bồ câu này không thể bay được?
Chính là v́ ông đă ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện này được.
Thiền sư Chí Công c̣n thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. V́ vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ư niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là v́ phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính ḿnh, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. C̣n Bồ – tát th́ chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến ḿnh. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát th́ tự làm lợi ích cho ḿnh c̣n lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ ḿnh xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. ư nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lư này vậy.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 8:50pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 16 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 6:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu chú này chia làm ba phần. Khi tŕ tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. C̣n có nghĩa là “b́nh đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ư thứ hai trong mười tâm, là “b́nh đẳng tâm”.
A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lư, Phật pháp.
C̣n dịch nghĩa là “như ư bất diệt”.
“Như ư” nghĩa là ước nguyện điều ǵ cũng đều được thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm th́ đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ư bất diệt”.
Du bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo phiền, ưu năo. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là khi quí vị vừa trông thấy một vật ǵ, tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là trạng thái không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và ngă; đối với chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như ḍng chuyển biến của thức tâm.
15. A thệ dựng
A thệ dựng la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”. Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này. C̣n có nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”, là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ người nào ḿnh gặp. Câu chú này c̣n biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhă tâm của Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại tâm này là tướng của Đà - la – ni, chúng ta phải đem những đạo lư này hành tŕ không xao nhăng và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà la ni th́ chắc chắn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”.
Na ma bà tát đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”, là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ – tát. “Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. C̣n “khai sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ – tát.
Na ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như ư nghĩa trong Bát nhă tâm kinh “Cố tri Bát – nhă ba – la – mật - đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”.
Quí vị có thể hỏi: “Cái ǵ không thể sánh bằng?” “Đó là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật thường trụ ở khắp trong mười phương.
17. Ma phạt đạt đậu
Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”.
Câu chú này có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát, xin hăy duỗi ḷng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hăy là thân quyến ở cơi trời của chúng con và là người bạn ở cơi thế gian này của chúng con, để hộ tŕ cho mọi thiện pháp được thành tựu”.
Câu chú này thỉnh nguyện sự gia tŕ của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát điệt tha - án
Trong Bát nhă tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhă Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”
Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. C̣n dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của Phạm Thiên.
Đát điệt tha c̣n có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở con mắt trí tuệ của chúng sinh.
Đát điệt tha lại c̣n có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhăn vô lượng. Đó là ư nghĩa của “Sở vị”.
Chữ án như đă nói ở trước, khi quí vị tŕ niệm tŕ niệm đến chữ án th́ quỷ thần đều phải chắp tay cung kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án c̣n có công năng lưu xuất nhiều pháp môn sau đây.
19. A bà lô hê
A bà lô hê chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là “quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm thanh oqr thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh. Bồ – tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian khi họ không thể vượt qua nổi những khổ nạn.
20. Lô ca đế
Lô ca đế nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là Bồ – tát dùng trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính là danh hiệu của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 8:52pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 17 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 6:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
21. Ca ra đế
Ca ra đế dịch là “Bi giả” là người có ḷng từ bi rộng lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng sinh vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế c̣n có nghĩa là “tác giả”. Người có thể làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi chúng sinh đều phát tâm bồ - đề, phát nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ – tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả.
22. Di hê rị
Di hê rị dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi quí vị tŕ tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát nguyện: “Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ – tát Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài đă dạy mà tu hành”.
Di hê rị c̣n có nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng như Quán Thế Âm của tự tâm để thực sự tu tŕ.
23. Ma ha bồ đề tát đỏa
Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn.
Bồ - đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lư chân chính.
Tát đoả. Hán dịch là “đại dũng mănh giả”. Câu này có nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại bồ - đề rất dũng mănh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ - đề hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống bồ - đề đă gieo được nảy mầm, rồi mới mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị Vô thượng bồ - đề.
Đây là ư nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên măn của chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi Định đă lắng trong th́ Huệ cũng được chiếu sáng. Khi Huệ đă viên măn, th́ Định viên dung. V́ Bồ – tát Quán Thế Âm đă đạt được định lực viên măn, nên xuất sinh trí tuệ sáng suốt. V́ Bồ – tát đă đạt được trí tuệ viên măn, nên Ngài mới đạt được định lực lắng trong. Không có Định th́ chẳng có Huệ và không có Huệ th́ chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai là vậy.
Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy ḿnh và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng ḿnh, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc ḿnh có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đă cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đă giúp anh thoát khỏi mọi phiền năo, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính v́ chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, th́ chư vị Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, th́ các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uư và bốn pháp bất khả tư ngh́. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đă chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đă thành tựu quả vị Vô thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm.
24. Tát bà tát bà
Tát bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ nhăn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng cách hành tŕ ấn pháp này, quí vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người tŕ tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ: “Hăy thả tội nhân này ra” th́ Diêm vương liền tức khắc thả ra liền. V́ sao vậy? V́ quí vị đă có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua th́ khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm ǵ cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành tŕ. Và sẽ đạt được sự an lành. V́ vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.
Người Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lăo gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu quí vị dụng công hành tŕ th́ nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần tŕ ấn này vào một tờ giấy, và viết vài ḍng cho Diêm vương: “Hăy tha cho người này sống lại ngay. Hăy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đă. Nếu công phu chưa thành tựu th́ chẳng có kết quả ǵ.
Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ.
Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có ǵ so sánh được.
Tát bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này th́ phải công phu tu tŕ qua cả bốn mươi hai thủ nhăn. Tát bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.
Có người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi chết, như ng đến khi quí vị phải chết, th́ chẳng có người nào giúp quí vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đă có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Măn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Măn Châu là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát từ ḷng hiếu đạo. Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do v́ thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống ǵ. Đầu lưỡi đă trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng ǵ c̣n chữa trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật. Với ḷng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm ǵ thế, anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai chống lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng trụ tŕ biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài liền phái cư sĩ Lư Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi t́m tôi.
Dù lúc ấy, tôi vẫn c̣n là chú Sa – di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ tŕ. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là ḿnh c̣n thiếu năng lực trong công phu.
Hoà thượng trụ tŕ giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ tŕ bảo:
- “Con hăy đem ḷng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời rất chí lư. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:
- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hăy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi. Hăy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ chính, c̣n tôi đi theo đường ṃn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đă thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền h́nh ǵ đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy ḍng:
“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi đă ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đă nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đă nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc ǵ cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này qua ngày khác để t́m đường về nhà ḿnh. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa đă ṃn cũ, vị này đă dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loăng để cho đỡ đói.
Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này không?
Bà nh́n tôi chăm chú rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy là người đă đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đă cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đ́nh chúng con cầu xin được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc ǵ, con nguyện đem hết sức ḿnh xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.
Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đ̣n. Quí vị có chịu th́ tôi chữa.
Họ đồng ư và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đă hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Măn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đă chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đă giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu quí vị nghĩ rằng ḿnh có thể sử dụng Bảo ấn để cứu ḿnh khỏi chết là quí vị lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, th́ cũng giống như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó ḷng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy nên nếu quí vị dù đă thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công phu hành tŕ thêm. V́ lư do này mà tôi ít để ư đến việc riêng của người khác nữa.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 8:55pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 18 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 7:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
25. Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ư” hoặc “tuỳ ư”. Đó là công năng của Như ư Châu thủ nhăn, làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc đều được tốt lành như ư.
“Như ư” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp này không? V́ vậy nên công năng ấn pháp này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp. Diệu dụng của Như ư Châu thủ nhăn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu quí vị muốn giàu có, hăy hành tŕ theo thủ nhăn ấn pháp này. Một khi đă thành tựu rồi, th́ quí vị sẽ có được mọi thứ và không c̣n bận tâm v́ nghèo khổ nữa. Quí vị luôn luôn giàu có và được vô lượng phước lạc.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ư”
“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực ư” có nghĩa là ư niệm kia đă đạt đến chỗ tối thượng, đă đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê cũng c̣n có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhăn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị đà dựng là “Thanh Liên Hoa thủ nhăn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành tŕ ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó t́m cầu!
27. Cu lô cu lô yết mông
Cu lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại c̣n có nghĩa là “xuy loa giải giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhăn ấn pháp.
Nay chúng ta đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần tŕ tụng chú Đại Bi là khế hợp với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết tŕ niệm chú Đại Bi mà không hành tŕ bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp th́ như người có tay mà không có chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ biết hành tŕ bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp mà không tŕ niệm chú Đại Bi th́ cũng như người có chân mà không có tay, không làm ǵ được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải thông đạt bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp rồi phải tŕ tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đă hiểu được câu chú đó nghĩa là ǵ rồi”.
Hiểu như thế cũng chẳng ích lợi ǵ cả. Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân ǵ cả. Quí vị đă có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước đức được.
Bảo loa thủ nhăn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quư vị kiến lập đạo tràng, quư vị nên dùng Bảo loa ấn pháp này. Khi quư vị tác pháp này th́ những âm thanh vang lên tận cơi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cơi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển của người tŕ ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể xâm hại. Đây c̣n gọi là sự kiết giới. ấn pháp này c̣n gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ṛng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quư vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành tŕ được bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta đă hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố hành tŕ bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên.
Yết mông là tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức cho chính ḿnh. Bồ – tát thực hành hạnh tư lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho ḿnh và giác ngộ giải thoát cho người khác.
Câu chú này nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh. Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhăn ấn pháp. Hăy tưởng tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay quí vị cầm cành hoa sen và miệng tŕ niệm chú Yết mông yết mông...
Không những quí vị tŕ tụng chú mà c̣n hành tŕ mật ấn. Khi tŕ tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể tạo nên mọi công đức. Khi quí vị tŕ tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành tŕ bốn mươi hai thủ nhăn ấn pháp th́ quí vị mới có thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư ngh́, không bao giờ nói hết được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy th́ nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu nhiệm th́ không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và kết thúc. Với sự tŕ niệm Yết mông, quí vị có thể thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời sau, quí vị măi măi được trang nghiêm bởi hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn được hộ tŕ.
Sự vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế
Độ lô độ lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh tử. C̣n dịch nghĩa “minh tịnh”.
Khi đă vượt qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh, đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rơ được tất cả mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt được ṿng sinh tử. Với đại định, tâm quí vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi quí vị có được định lực chân chánh th́ có thể văng sanh ở cơi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc.
Đây là Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhăn ấn pháp, là diệu pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang tuyên thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhăn này có công năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc.
Phạt già ra đế là Bàng Bi thủ nhăn ấn pháp.
Phạt Già Ra đế. Hán dịch là “Quảng bác trang nghiêm”, c̣n có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”. Nếu quí vị tu tập hành tŕ Bàng Bi thủ nhăn ấn pháp này th́ quí vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không công phu hành tŕ ấn pháp bàng bi thủ nhăn này, th́ không thể nào vượt thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp là quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lư vượt lên trên tất cả mọi sự thù thắng nhất trên đời.
Đây là Bảo Kích thủ nhăn ấn pháp. ấn pháp này có công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo. Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu quí vị hành tŕ ấn pháp này th́ vô h́nh trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.
30. Đà la đà la
Tiếng Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những ai đă học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật chú và giảng giải rơ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú Đại Bi mà thôi.
Đà là đà la là Tịnh b́nh thủ nhăn ấn pháp. Trong tịnh b́nh này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật ǵ, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới nước cam lồ th́ đều giải thoát khỏi tai nạn ấy.
Đà la đà la. Hán dịch là “Năng tổng tŕ ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ nhăn ấn pháp, Tịnh b́nh thủ nhăn ấn pháp và Dương chi thủ nhăn ấn pháp – tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ ni
Địa lỵ ni. Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là “thậm dơng” nghĩa là dũng khí mănh liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.
C̣n dịch là “Gia tŕ và thôi khai”.
- “Gia tŕ” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp.
- “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.
Đây là Cu thi thiết câu thủ nhăn ấn pháp. Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ thần, thiên long bát bộ đến hộ tŕ cho hành giả. Nếu quí vị công phu hành tŕ thành tựu thủ nhăn này, th́ có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ hết ngay.
Quí vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật! Đó chính là lư do mà tôi muốn nói cho quí vị nghe, tất cả chỉ là v́ quí vị không tin. Không có niềm tin và không ở trong cảnh giới này th́ khó ḷng hiểu nổi.
Nếu muốn, quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại, họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi bảo họ hăy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn tắt:
- Quí Phật tử hăy đợi xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, th́ trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ. (Những ai đă đến Đài Loan năm 1969 để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53 ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự viện không c̣n chất đốt, một khi củi đă bị ướt rồi, th́ không c̣n cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đă nói ở trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt cuộc điện đàm th́ mặt trời vừa hiện ra, bầu trời trở nên sáng trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực ra, đó chẳng phải là ǵ khác, chính là năng lực của thiết câu thủ nhăn ấn pháp. Quí vị chỉ cần kiết ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” th́ trời sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh của quí vị và chỉ khi quí vị đă thành tựu ấn pháp này và đă thông thạo thiết câu thủ nhăn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn pháp này và đ́nh chỉ việc làm mưa liền.
Quí vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe và tôi đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là chuyện nói đùa.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 8:59pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 19 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 7:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
32. Thất phật ra da
Mỗi khi quí vị niệm Thất Phật ra da th́ toàn pháp giới này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ.
Thất Phật ra da được dịch là “phóng quang”. C̣n dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “Isara” như trong chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, v́ có quán chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu thâm sâu, th́ quí vị sẽ không đạt được năng lực tự tại.
Quán chiếu nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu không ngừng. Hăy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị hay không? Quí vị có làm chủ được ḿnh hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là quí vị đạt được tự tại. C̣n nếu không hiện hữu, có nghĩa là quí vị không có được tự tại.
Sự phóng quang cũng mang ư nghĩa tự tại. Nếu quí vị đạt được năng lực tự tại, th́ quí vị có thể phóng quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, th́ không thể phóng quang được.
Thất Phật ra da cũng được dịch là “Hoả diệm quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải là lửa phát sinh từ tập khí phiền năo, như quí vị thường nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ trí tuệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ chân chính hiển lộ khi lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.
Khi quí vị tŕ tụng Thất Phật ra da tức là quí vị đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại th́ quí vị không thể nào phóng quang được. Hăy nhớ kỹ điều này.
Đây là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhăn ấn pháp. ấn pháp này có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rơ. Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại.
33. Giá ra giá ra
Giá ra giá ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là hành động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân. Hành quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân hành, có nghĩa là chống lệnh.
Đây là Bảo đạc thủ nhăn ấn pháp. Khi quí vị rung chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực hiện việc ǵ, chỉ cần rung chuông lớn, các loài chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều tuân theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn như khi có động đất, quí vị chỉ cần rung chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất không được rung lên như vậy”, trái đất trở về trạng thái yên b́nh ngay.
Bảo đạc thủ nhăn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, th́ hăy công phu hành tŕ ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
34. Ma ma phạt ma la
Ma ma. Hán dịch là “ngă sở thọ tŕ”. Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
Ma ma là Bạch phất thủ nhăn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết pháp.
Bạch phất thủ nhăn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhăn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đă trở về. Họ đă trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hăng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đă có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
B́nh thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đă nói với họ rằng:
“Khi mê th́ thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.
Nay họ phải tự độ chính họ, họ đă ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự t́m ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó là đường về chùa”.
Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đă bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ quên kinh chẳng có ǵ quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đă trở về. Sao vậy? V́ tôi đă mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ – tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh toán hợp đồng.
Quí vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những kẻ tự cho ḿnh là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi ḿnh là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.
Phạt ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn như núi Tu Di.
Phạt ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa ĺa tất cả mọi cấu nhiễm ở thế gian. C̣n có nghĩa là “vô tỷ như ư”. V́ không có ǵ có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện của ḿnh mà mọi điều xảy ra như ư muốn.
Đây là Hoá cung Điện thủ nhăn ấn pháp. Nếu quí vị hành tŕ được ấn pháp này thành tựu, th́ đời đời quí vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện), không c̣n phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noăn sinh và thấp sinh nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng chư Phật.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 9:03pm
__________________ Muốn Tu: "Hăy bỏ bớt những ǵ ḿnh đang có, và chớ nên chất thêm vào những ǵ không phải của ḿnh".
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 20 of 39: Đă gửi: 23 December 2008 lúc 7:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
35. Mục đế lệ
Mục đế lệ là Dương chi thủ nhăn ấn pháp của đức Phật. Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ – tát Quán Thế Âm cầm ở một tay, c̣n tay kia Bồ – tát cầm một tịnh b́nh. Nhành dương này được Bồ – tát nhúng vào tịnh b́nh rồi rưới lên cho tất cả mọi chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được thanh lương.
Mục đế lệ c̣n dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhăn ấn pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất như ư. Bề ngoài, chú này dường như không có ǵ quan trọng lắm, nhưng một khi quí vị công phu hành tŕ ấn pháp này thành tựu rồi, th́ không những quí vị có thể giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà c̣n có thể hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại đạo được thấm nhuận nước cành dương này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương chi thủ nhăn có diệu dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn.
Giọt nước cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn mà c̣n có một diệu dụng khác, khi một người sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ – tát Quán Thế Âm rảy nước lồ th́ có thể sống lại. Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đă khô héo nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được hồi sinh. Cây cỏ là loài vô t́nh, mà khi được nước cam lồ tưới tẩm c̣n được nảy mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là loài hữu t́nh sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của Dương chi thủ nhăn ấn pháp.
36. Y hê y hê
Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhăn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa là một khi quí vị nhờ ai làm việc ǵ đó, họ đều ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú này c̣n dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều ǵ, nhờ năng lực của chú này đều được thành tựu. Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường cho rằng ḿnh là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái nghịch. Thế nên khi quí vị tŕ niệm câu Y hê Y hê, th́ Ma – hê – thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị này liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người tŕ chú.
37. Thất na thất na
Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhăn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là ǵ? Đó là khi chúng sanh không c̣n dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, th́ mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhă, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quư vị có trí huệ chân chính th́ sẽ có được Quang Minh. C̣n nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, th́ vẫn c̣n trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh là ánh sáng dương, c̣n bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi v́ lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi v́ ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rơ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của ḿnh. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành tŕ, trước tiên quư vị phải đạt được trí tuệ. Rồi quư vị phải biết rơ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng quư vị không thể nào biết rơ việc làm nào hư ngụy nên cứ măi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quư vị kôhng thể nào biết được rơ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nh́n cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quư vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đă phát nguyện:
Tiêu ngă ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đă phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quư vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô t́nh, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quư vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi ch́m xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục măi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như ḍng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. V́ sao mà quư vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ v́ không có trí tuệ. Nếu quư vị có trí tuệ, th́ chẳng c̣n mảy may vọng tưởng và sóng cũng không c̣n xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không c̣n sóng xao”.
Khi trong công phu mà quư vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đă lặng yên. Khi có được định lực th́ nước trí tuệ hiển hiện, không c̣n một gợn sóng, chẳng c̣n một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy, khi một người không c̣n bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh th́ chẳng c̣n phải lo nghĩ một điều ǵ nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, c̣n người thiếu trí tuệu thường bị thất bại trong bất kỳ việc ǵ mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là ǵ? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quư vị hăy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong th́ rơ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
- Tôi không rơ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do v́ không có trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, v́ họ không chịu công phu hành tŕ Bảo cảnh thủ nhăn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, th́ sẽ không c̣n ngu muội nữa; bất luận chuyện ǵ xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay c̣n được ví như thanh gươm.
Quư vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ ǵ cầm kiếm ấy được”! Đó là v́ quư vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quư vị chưa từng cầm nó lên th́ thấy nó quá nặng. Nếu quư vị đă cầm lên rồi, th́ thấy nó nhẹ. Nếu quư vị không chịu cầm lên, th́ nhẹ biến thành nặng. Nếu quư vị chịu cầm lên, th́ nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? V́ quư vị đă cầm lên rồi!
Nếu quư vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quư vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quư vị đă sờ vào kiếm, đă vung gươm lên rồi th́ mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng c̣n một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quư vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lư này. Nếu quư vị gặp nhiều việc rắc rối, là v́ quư vị không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quư vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, th́ sẽ chẳng c̣n chuyện ǵ rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái ǵ là thế giới ư báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quư vị đă hiểu được sự báo ứng khi chính ḿnh thọ nhận, nghĩa là quư vị không c̣n vô minh nữa. Không c̣n vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết ǵ cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà ḷng chẳng c̣n vướng bận điều ǵ.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều ǵ lại trong ḷng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ tŕ tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đă tụng một lần rồi là không c̣n quên nữa, đă tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi th́ chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. C̣n khi quư vị chỉ cần nh́n hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ măi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quư vị chiếu sáng như một đài gương trong.
Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của ḿnh. Nếu quư vị hiểu được điều này th́ ḿnh sẽ không c̣n tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? V́ mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm ḿnh, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính ḿnh. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề ǵ cả.
Mặc dù nói về cảnh giới ấy th́ rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng ǵ, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề ǵ rắc rối cả”.
Bên ngoài th́ như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí tuệ chân chính th́ rất hiếm.
Quư vị cũng nên phân biệt rơ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian c̣n gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lư khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lư, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lư. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lư rất đúng”. Thực ra, nếu quư vị có được trí tuệ chân chính, quư vị sẽ không bị đắm ch́m trong mớ lư luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quư vị có thể thấy một người chẳng nói năng ǵ cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lư. Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát người khác, quư vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân ḿnh có được trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quư vị có trí tuệ chân chính, th́ quư vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. C̣n nếu quư vị không có trí tuệ, quư vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh th́ trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? V́ trí tuệ và vô minh là một. Nếu quư vị biết vận dụng, th́ đó là trí tuệ. C̣n nếu không biết vận dụng th́ đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quư vị nâng thanh gươm trí tuệ lên th́ đó chính là trí tuệ; c̣n khi quư vị buông thanh gươm ấy xuống th́ đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quư vị đừng bao giờ nói rằng ḿnh đang đi t́m kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quư vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay th́ không thể nào làm được cả, nhưng nếu quư vị dùng chính bàn tay của ḿnh th́ mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ư nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quư vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đă hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.
Thất na thất na là “đại trí tuệ” và c̣n có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc ǵ, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với h́nh tướng của một Tỳ kheo, Ngài đă phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đă phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đă từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quư vị nghe về việc phát đại nguyện. C̣n có lập nguyện được hay không là do ở quư vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng v́ tôi đoán chắc là quư vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quư vị phải phát nguyện. Nay quư vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự ḿnh lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn th́ sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của ḿnh thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ? Làm sao quư vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quư vị cứ t́m mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quư vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính ḿnh trước đă. Cho nên quư vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại ḿnh phát nguyện ǵ? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lăng những ǵ đă từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều ǵ? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn th́ trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quư vị đặt tất cả nguyện lực của ḿnh vào một lỗ chân lông, th́ quư vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, v́ không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết ḿnh sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quư vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? V́ khi đă phát nguyện rồi, ḿnh mới tự ḿnh hành động tương ứng với nguyện đă lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đă phát lời nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu c̣n
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quư vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quư vị thích làm.
Sửa lại bởi Kh.K.MinhTam : 23 December 2008 lúc 9:06pm
__________________ Muốn Tu: "Hăy bỏ bớt những ǵ ḿnh đang có, và chớ nên chất thêm vào những ǵ không phải của ḿnh".
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|