Tác giả |
|
Thai tue Hội viên
Đã tham gia: 24 May 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 158
|
Msg 21 of 28: Đã gửi: 01 March 2005 lúc 10:11pm | Đã lưu IP
|
|
|
MỒNG 1 THÁNG GIÊNG (DƯƠNG LỊCH) LÀ NGÀY
CHỦ NHẬT I. Mặt trời trị năm ấy
Mặt trời ở thấng thứ 4, có khí nhiệt, là lò sinh ra các khí dương nóng bỏng. Là nhà của các ngôi sao.
Năm nào lễ đặt tên vào ngày Chủ nhật I thì mặt trợi trị năm ấy; Mùa Đông lạnh, Mùa Xuân âm, Mùa Hè nống nức, nắng lắm, Mùa Thu cả gió. Nhưng của ắn uống giống như: Lúa gạo, hoa quả, cầm thú nhiều.
Vì bởi mặt trời có tính hoả, thì hoá ra các người ta chẳng ưa nhau, hay ghen ghét nhau, đễn nỗi làm hại nhau. Nhưng mà thường thường lại hoà với nhau, lắm bệnh vì tính hoá song chẳng độc.
THỨ 2 II: Mặt trăng trị năm ấy
Mặt trăng ở tầng thứ nhất, lại có tính nước lạnh qua, sinh ra khí ẩm nhiều. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ hai thì Mặt trăng trị năm ấy, cho nên thường mưa, mùa Đông ấm, Mùa Xuân mát, mùa Hạ nóng vừa mừa, mùa Thu mưa lụt. Được mùa bầu bí, thanh bông hoa quả xấu. Cầm thú ít, dịch bệnh nặng. Người ta lắm bệnh thê thấp. Đàn bà lắm bệnh hậu sản, khí hư, giống ông và tằm chết nhiều. Những người có quyền thế thì bất thuận cùng nhau. Người nhiều bệnh sốt rét lắm.
THỨ BA III: Sao hoả trị năm ấy:
Sao hoả ở tầng thứ 5, có tính nóng nảy sinh ra cả giận. Nhân vì nhiều hoá, khí dương mà ra, vì tính hoả độc làm vậy, thì hại người ta lắm. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ 3 thì Sao Hoả trị năm ấy. Lắm sấm sét bão táp, nhiều sương tuyết giá rét, nhiều gió mưa bức sốt chẳng có ngần nào. Nhiều dữ khí cho nên làm hại thiên hạ, chẳng kỳ giống nào. Mà người ta sinh ra buồn giận, giết nhau, không được bình an. Mùa Đông nhiều gió và rét lắm, mùa Xuân mưa giá, mùa Hạ nắng lắm, mùa Thu khô khan sông biển động, vỡ tàu bè, mất mùa, giống rau có nhiều độc khí. Năm ấy lắm bệnh hoả, bệnh huết, đàn bà chết nhiều.
THỨ TƯ IV: Sau thuỷ trị năm ấy
Sao thuỷ ở tầng thứ hai, tính dữ và độc, sinh ra khí âm. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ 4 thì Sao thuỷ trị năm ấy. Mùa Đông giá rét vừa vừa, mùa Xuân ấm vừa vừa, Mùa hạ nóng lắm, mùa Thu mát mẻ thóc lúa bình thường. Các loại hoa quả xấu. Năm ấy lắm bệnh truỵ thai và bệnh đau bụng đau bão, đầu thống, hiếp thống, hay sinh chứng yết hầu, nhiều người phải chết bệnh ấy.
THỨ NĂM V: Sao mộc trị năm ấy
Sao mộc ở tấng thứ 6 có tính nhiệt lắm, khí dương thịnh và lành, năm nào lễ đặt tên vào thày thứ 5. thì Sao Mộc trị năm ấy. Bốn mùa mưa gió thuận hoà. Mùa Đông ấm áp, Mùa Xuân gió thuận, Mùa Hạ mát, Mùa Thu mưa bụt. Được mùa tốt lúa, nhiều cá, ít ong mật. Người ta sinh ra lắm bệnh huyết hay bảy bệnh lỵ, bệnh nóng rét hình như dịch.
THỨ SÁU VI: Sao kim trị năm ấy
Sao kim ở tấng thứ 3. Tính lạnh vừa vừa, sinh ra khí âm, sao mọc sớm mai chiều hôm. Năm nào lế đặt tên vào này thứ 6 thì Sao Kim trị năm ấy. Thuận mưa, mùa Đông nặng kyhis, mưa và rá rét lắm, Mùa Xuân cả gió. Mùa Hà mưa và mát mẻ. Mùa Thu phânf thì khô cạn, phần thì mưa bụt, phần thì cả gió. Bởi đấy thì thiên hạ được mùa nửa phần (tỏi), được mật ông. Năm ấy lắm bệnh đau mắt và đậu độc, tiểu nhi và loại vật chết nhiều, hay động đất.
THỨ BẢY VII: Sao thổ trị năm ấy
Sao thổ ở tâng thứ 7 tính lạnh táo, sinh ra khi lo buồn, tính nó như tính đất, hay ghét người ta, làm cho người ta khó nhọc, đói khát. Tính ghét làm hại bắt bớ nhau chẳng thiếu cách nào. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ 7 thì Sao Thổ trị năm ấy. Năm ấy mất mùa. Mùa Đông hàn lạnh giá rét lắm, Mùa Xuân cả gió (hoặc gió lửa). Mùa Hạ kiết khô, Mùa thu khô hạn, mạ nời đồng tó. Hoa quả nhiều, người ta nhiều người đi hỏi vợ. Lắm khí rét, nhiều chứng bệnh phù phải chết , mất tằm tơ, ít cá.
__________________ Thái tuế
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thai tue Hội viên
Đã tham gia: 24 May 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 158
|
Msg 22 of 28: Đã gửi: 01 March 2005 lúc 10:18pm | Đã lưu IP
|
|
|
MỒNG 1 THÁNG GIÊNG (DƯƠNG LỊCH) LÀ NGÀY
CHỦ NHẬT I. Mặt trời trị năm ấy
Mặt trời ở thấng thứ 4, có khí nhiệt, là lò sinh ra các khí dương nóng bỏng. Là nhà của các ngôi sao.
Năm nào lễ đặt tên vào ngày Chủ nhật I thì mặt trợi trị năm ấy; Mùa Đông lạnh, Mùa Xuân âm, Mùa Hè nống nức, nắng lắm, Mùa Thu cả gió. Nhưng của ắn uống giống như: Lúa gạo, hoa quả, cầm thú nhiều.
Vì bởi mặt trời có tính hoả, thì hoá ra các người ta chẳng ưa nhau, hay ghen ghét nhau, đễn nỗi làm hại nhau. Nhưng mà thường thường lại hoà với nhau, lắm bệnh vì tính hoá song chẳng độc.
THỨ 2 II: Mặt trăng trị năm ấy
Mặt trăng ở tầng thứ nhất, lại có tính nước lạnh qua, sinh ra khí ẩm nhiều. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ hai thì Mặt trăng trị năm ấy, cho nên thường mưa, mùa Đông ấm, Mùa Xuân mát, mùa Hạ nóng vừa mừa, mùa Thu mưa lụt. Được mùa bầu bí, thanh bông hoa quả xấu. Cầm thú ít, dịch bệnh nặng. Người ta lắm bệnh thê thấp. Đàn bà lắm bệnh hậu sản, khí hư, giống ông và tằm chết nhiều. Những người có quyền thế thì bất thuận cùng nhau. Người nhiều bệnh sốt rét lắm.
THỨ BA III: Sao hoả trị năm ấy:
Sao hoả ở tầng thứ 5, có tính nóng nảy sinh ra cả giận. Nhân vì nhiều hoá, khí dương mà ra, vì tính hoả độc làm vậy, thì hại người ta lắm. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ 3 thì Sao Hoả trị năm ấy. Lắm sấm sét bão táp, nhiều sương tuyết giá rét, nhiều gió mưa bức sốt chẳng có ngần nào. Nhiều dữ khí cho nên làm hại thiên hạ, chẳng kỳ giống nào. Mà người ta sinh ra buồn giận, giết nhau, không được bình an. Mùa Đông nhiều gió và rét lắm, mùa Xuân mưa giá, mùa Hạ nắng lắm, mùa Thu khô khan sông biển động, vỡ tàu bè, mất mùa, giống rau có nhiều độc khí. Năm ấy lắm bệnh hoả, bệnh huết, đàn bà chết nhiều.
THỨ TƯ IV: Sau thuỷ trị năm ấy
Sao thuỷ ở tầng thứ hai, tính dữ và độc, sinh ra khí âm. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ 4 thì Sao thuỷ trị năm ấy. Mùa Đông giá rét vừa vừa, mùa Xuân ấm vừa vừa, Mùa hạ nóng lắm, mùa Thu mát mẻ thóc lúa bình thường. Các loại hoa quả xấu. Năm ấy lắm bệnh truỵ thai và bệnh đau bụng đau bão, đầu thống, hiếp thống, hay sinh chứng yết hầu, nhiều người phải chết bệnh ấy.
THỨ NĂM V: Sao mộc trị năm ấy
Sao mộc ở tấng thứ 6 có tính nhiệt lắm, khí dương thịnh và lành, năm nào lễ đặt tên vào thày thứ 5. thì Sao Mộc trị năm ấy. Bốn mùa mưa gió thuận hoà. Mùa Đông ấm áp, Mùa Xuân gió thuận, Mùa Hạ mát, Mùa Thu mưa bụt. Được mùa tốt lúa, nhiều cá, ít ong mật. Người ta sinh ra lắm bệnh huyết hay bảy bệnh lỵ, bệnh nóng rét hình như dịch.
THỨ SÁU VI: Sao kim trị năm ấy
Sao kim ở tấng thứ 3. Tính lạnh vừa vừa, sinh ra khí âm, sao mọc sớm mai chiều hôm. Năm nào lế đặt tên vào này thứ 6 thì Sao Kim trị năm ấy. Thuận mưa, mùa Đông nặng kyhis, mưa và rá rét lắm, Mùa Xuân cả gió. Mùa Hà mưa và mát mẻ. Mùa Thu phânf thì khô cạn, phần thì mưa bụt, phần thì cả gió. Bởi đấy thì thiên hạ được mùa nửa phần (tỏi), được mật ông. Năm ấy lắm bệnh đau mắt và đậu độc, tiểu nhi và loại vật chết nhiều, hay động đất.
THỨ BẢY VII: Sao thổ trị năm ấy
Sao thổ ở tâng thứ 7 tính lạnh táo, sinh ra khi lo buồn, tính nó như tính đất, hay ghét người ta, làm cho người ta khó nhọc, đói khát. Tính ghét làm hại bắt bớ nhau chẳng thiếu cách nào. Năm nào lễ đặt tên vào ngày thứ 7 thì Sao Thổ trị năm ấy. Năm ấy mất mùa. Mùa Đông hàn lạnh giá rét lắm, Mùa Xuân cả gió (hoặc gió lửa). Mùa Hạ kiết khô, Mùa thu khô hạn, mạ nời đồng tó. Hoa quả nhiều, người ta nhiều người đi hỏi vợ. Lắm khí rét, nhiều chứng bệnh phù phải chết , mất tằm tơ, ít cá.
__________________ Thái tuế
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thai tue Hội viên
Đã tham gia: 24 May 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 158
|
Msg 23 of 28: Đã gửi: 10 March 2005 lúc 10:23pm | Đã lưu IP
|
|
|
HỘI GIÁP TÝ TRUNG NGUYÊN 1924-1983
KINH NGHIỆM SINH HOẠT NÔNG NGHIỆP BẮC PHẦN
Năm Giáp tý 1924: Mùa Hạ được mùa cả, mùa Thu mất nửa. Hoa quả tầm được.
Cuối tháng 8 có Hồng thuỷ. Mùa Đông mưa to, rét lắm. Trâu bò bị thiên thời chết, trẻ con hại. Hai người ăn một thưng.
Năm Ất sửu 1925: Ruộng hai mùa được. Cá, muối thu khá. Mùa Hè đại hạn, sang Thu mới có mưa.
Loạn thời khí, trậu bị thiên thời chết. Một người ăn một thưng
Năm Bính Dần 1926: Ruộng mùa hạ được nửa. Mùa Thu được cả. Hoa quả mất nửa. Được tằm, cá. Một người ăn một thưng
Năm Đinh mão 1927: Ruộng mùa Hạ được nửa, mùa Thu được cả. Hoa quả, tằm mất. Cá được.
Mùa Thu mưa to gió lớn. Trâu lợn có bệnh thiên thời. Một người ăn một thưng
Năm Mậu thìn 1928: Ruộng mùa Hạ mất nửa, mùa Thu được hoa quả, tằm mất nửa, cá được, muối quí lắm. Dân không yên lành. Nhiều bệnh ôn dịch. Một người ăn một thưng
Năm Kỷ tỵ 1929: Mùa Hạ mùa Thu được cả. Hoa quả mất nửa, muối quí lắm. Một người ăn hai thưng.
Năm Canh ngọ 1930: Mùa Hạ mùa Thu được cả. Hoa quả cũng được. Trâu dê hại, nhiều người chết. Một người ăn hết một thưng.
Năm Tân mùi 1931: Ruộng mùa Hạ được cả, mùa Thu mất nửa. Hoa quả ít, dân đói kém. Năm người ăn một thưng.
Năm Nhâm thân 1932: Ruộng mùa Hạ mất, mùa Thu được nửa. Cây cối không yên, nhân dân cũng không yên ổn. Một người ăn một thưng
Năm Quý dậu 1933: Ruộng mùa Hạ được nửa, mùa Thu được cả. Sâu keo cắn hại. Tôm cá muối nhiều. Vàng bạc quý giá. Dân không yên nhiều người chết. Ba người ăn một thưng.
Năm Giáp tuất 1934: Ruộng màu Hạ mùa Thu được cả. Hoa quả được nửa, tằm nhiều, khí hậu như năm Nhâm tuất. Hai người ăn một thưng.
Năm Ất hợi 1935: Ruộng mùa Hạ được nửa. Mùa thu được cả. Bị gió đập hại lúa, mùa Thu hạn, hoa quả tằm mất nửa, Dũ rừng - Binh dân tán loạn. Bốn người ăn một thưng.
__________________ Thái tuế
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thai tue Hội viên
Đã tham gia: 24 May 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 158
|
Msg 24 of 28: Đã gửi: 10 March 2005 lúc 10:28pm | Đã lưu IP
|
|
|
Năm Bính tý 1936: Mùa Hạ, mùa Thu, hoa quả đều được cả. Tằm mất nửa - loạn hùm beo, trâu lợn quí. Một người ăn một thưng
Năm Đinh sửu 1937: Ruộng mùa Hạ mùa Thu mất, hoa quả được tháng 8 có hồng thuỷ. Ngày 22 tháng 9 thấy sao Kim mọc ở phương Tây thì sang năm hạn. ba người ăn một thưng.
Năm Mậu dần 1938: Mùa Hạ được. Mùa thu mất nửa, hoa quả tằm mất nửa, mùa Hè hạn, cá được, trâu lợn quý. Hai người ăn một thưng.
Năm Kỷ mão 1939: Mùa Hạ, mùa Thu, hoa quả cá muối đều lợi, tằm mất. Một người ăn một thưng.
Năm Canh thìn 1940: Mùa hạ mùa thu đều được cả, hoa quả tằm mất nửa, lắm rét lắm sương. Một người ăn hai thưng.
Năm Tân tị 1941: Mùa Hạ được nửa, mùa Thu được cả, hoa quả được nửa. trâu lợn thiên thời chết. Một người ăn một thưng.
Năm Nhâm ngọ 1942: Ruộng mùa Hạ mất, mùa Thu lợi 2 phần hỏng 1. Cây cối không yên, thời tiết giống năm Mậu ngọ. Hai người ăn hai thưng.
Năm Quý mùi 1943: Mùa Hạ màu Thu đều lợi. Hoa quả được , tằm cá muối quí, Thu nhiều mưa gió, rét lắm (thời tiết giống năm Kỷ Mùi) Một người ăn hai thưng
Năm Giáp thân 1944: Mùa Hạ mùa thu được cả, hoa quả ít, cá muối đắt. Ba tháng mùa Đông mưa nhiều. Một người ăn một thưng.
Năm Ất dậu 1945: Mùa Hạ được nửa, mùa Thu được cả. Hoa quả mắt nửa, trẻ con phát đậu, lở ngứa. Ba người ăn một thưng.
Năm Bính tuất 1946: Mùa Hạ được nửa, mùa Thu bội thu, hoa quả được. Mùa Hè hạn. Tháng 8 có hồng thuỷ, trâu bị thiên thời, Hai người ăn một thưng.
Năm Đinh hợi 1947: Mùa Hạ được toàn, mùa thu được nửa. Mùa Hè hạn, sang thu mưa nhiều, mùa Đông nhiều mưa gió, trâu lợn bị thiên thời. Hai người ăn một thưng.
Năm Mậu tý 1948: Ruộng hai mùa đều mất nửa. Xuân - Hè hạn, hoa quả mất nửa. Mùa Đông lắm mưa nhiều cá, muối ít, hại người. Hai người ăn một thưng.
Năm Kỷ sửu 1949: Hùa Hạ mùa Thu được cả. Hoa quả đậu sai, nhân dân nhiều bệnh. Loạn lạc không được yên. Một người ăn ba thưng.
Năm Canh dần 1950: Mùa Hạ, mùa Thu được cả, hoa quả được nửa. Một người ăn hai thưng.
Năm Tân mão 1951: Mùa Hạ, Thu mất nửa, hoa quả lợi, bình dấn tán loạn, trâu bọ thiên thời, lợn quý, tháng 8 hồng thuỷ. Hai người ăn một thưng.
Năm Nhâm thìn 1952: Mùa Hạ, Thu hoa quả đều được nửa, cá muối nhiều, trâu dê lợn quý. Một người ăn hai thưng.
Năm Quý tỵ 1953: Mùa Hạ mùa thu đều ít, hoa quả đều được nửa, cá muối lợi, tằm được. Ba người ăn một thưng.
Năm Giáp ngọ 1954: Mùa Hạ được nửa, mùa thu được cả, hoa quả, tằm cá được, muối đắt, loạn thời khí, trẻ lắm đậu sởi, Hai người ăn một thưng.
Năm Ất múi 1955: Mùa Hạ, Thu đều được, hoa quả muối cá cũng được, cuối tháng 8 có hồng thuỷ. Một người ăn một thưng.
Năm Bính thân 1956: Mùa Hạ được, mùa thu lợi, Xuân mùa, Hè hạn, hoa quả được nửa, tằm cá, muối lợi. Loạn thần khí, trâu bị thiên thời chết. Ba người ăn một thưng.
Năm Đinh dậu 1957: Mùa Hạ, Thu được, nhiều cá, muối mất nửa, Một người ăn một thưng.
__________________ Thái tuế
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đã tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 25 of 28: Đã gửi: 24 March 2005 lúc 5:02am | Đã lưu IP
|
|
|
đề nghị quản trị viên cho stick topic này lên cho mọi người xem.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thai tue Hội viên
Đã tham gia: 24 May 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 158
|
Msg 26 of 28: Đã gửi: 12 April 2005 lúc 9:37pm | Đã lưu IP
|
|
|
Năm Mậu tuất 1958: Mùa Thu được - Hoa quả lợi, cá muối quí loạn thuần khí. Trâu lắm bệnh chết nhiều, người nhiều bệnh, một người ăn ba thưng
Năm Kỷ hợi 1959: Nhiều bệnh, một người ăn ba thưng. Hạ được nửa, Thu được cả, hoa quả được nửa, cá muối được. Đầu Thu hồng thuỷ, đàn bà hay bị động thai, một người ăn ba thưng.
Năm Canh tý 1960: Mùa hạ mất, mùa thu được, hoa quả được nửa muối lợi. Ba tháng xuân hạn, đầu tháng 10 hồng thuỷ, có bệnh dịch trâu. Một người ăn một thưng
Năm Tân sửu 1961: Mùa Hạ mùa Thu được cả, hoa quả lợi, tằm được, một người ăn hai thưng.
Năm Nhâm dần 1962: Hai mùa đều được, hoa quả tằm lợi, muối đắt, kẻ hay bệnh đậu sởi, dân đại loạn. Một người ăn ba thưng.
Năm Quí mão 1963: Mùa Hạ thu ít, lắm mưa gió, nhân dân bị loạn lạc đi các nơi mới chiêu tập về làng, hai người ăn một thưng.
Năm Giáp thìn 1964: Hè Thu chỉ được nửa, hoa quả dâu tằm muối ít, vàng bạc cao giá, một người ăn một thưng
Năm Ất mão 1965: Năm mất mùa, hoa quả cá muối được, nhân dân loạn lạc tan nát. Một người ăn một thưng.
Năm Bính ngọ 1966: Mùa hạ được nửa, mùa Thu được cả, hoa quả mất nửa, nhân dân loạn lạc, thiên hạ tan nát, tháng 3 có hồng thuỷ, cá nhiều muối đắt. Trâu lợn chết, nhiều người mắc bệnh ôn dịch. Tháng 11 động đất, Ba người ăn một thưng.
Năm Đinh mùi 1967: Mùa hè được nửa, mùa thu được cả, hoa quả được nửa, tháng 8 hồng thuỷ, bình dân loạn lạc, hai người ăn một thưng.
Năm Mậu thân 1968: Mụa hạ mất, mùa thu được nửa, hoa quả muói quí, tháng 3 có động đất, tháng 8 hồng thuỷ. Nhân dân loạn lạc tan nát. Ba người ăn một thưng.
Năm Kỷ dậu 1969: Mùa hè mất nửa, mùa Thu mất cả, hoa quả cá muối tằm đều được nửa, trâu bị thiên thời tháng 8 có hồng thuỷ, nhiều gió độc, Ba người ăn một thưng.
Năm Canh tuất 1970: Mùa hạ mùa thu được cả, hoa quả cũng được, cá muối đắt, một người ăn ba thưng.
Năm Tân hợi 1971: Mùa hà được, mùa thu mất, hoa quả tằm cá muối được vừa, trâu dê bị thiên thời chết toi, mùa thu nước lớn lụt lội, nhiều mưa gió. Một người ăn 3 thưng.
Năm Nhâm tý 1972: Mùa hạ mùa thu được, hoa quqr tằm được nửa, cá muối vàng bạc quý. Loạn về phương tây hại nhiều, tháng 8 hồng thuỷ, dịch trâu lợn chết nhiều. Một người ăn một thưng.
Năm Quý sửu 1973: Mùa hạ, mùa thu được cả, hoa quả tằm cũng được, cá muói vàng bạc cao giá, trâu lợn chết, phương Tây Bắc hại nhiều, lắm mưa gió, tháng 8 hồng thuỷ, một người ăn một thưng.
Năm Giáp dần 1974: Mùa hạ bội thu, mùa thu được ít, hoa quả cá muối được, dân bị thiên thời, trẻ lắm đậu sởi, tằm mất nửa, trâu chết nhiều. Một người ăn một thưng.
Năm Ất mão 1975: Mùa hạ mất, mùa thu được nửa, hoa qủ tằm cá được, muối đắt xuân ít mư, tháng 8 có hồng thuỷ, mùa đông hạn, hai người ăn một thưng.
Năm Bính thìn 1976: Mùa hạ mùa thu được cả, hoa quả được nửa, một người ăn một thưng.
Năm Đinh tị 1977: Hai mùa thu kém, tằm được, cá muối quý, phương năm loạn dân hại, lắm gió đông bắc, có bệnh ôn dịch, trẻ con và trâu dê chết nhiều, xuân không mưa, thu gió mưa nhiều, tháng 8 hồng thuỷ, tây nam tán loạn. 4 người ăn một thưng.
Năm Mậu ngọ 1978: Hè thu muất nửa, cá muối quý, xuân ít mưa, thu đông mưa nhiều, thán 10 hạn, loạn khí, trâu lợn chết toi, người lắm bệnh. Ba người ăn một thưng.
Năm Kỷ mùi 1979: Hai mùa đều được, hoa quả hại, tằm được, cá nhiều, vàng bạc muối quý, tháng 8 có hồng thuỷ, đông mưa to, đàn bà có bệnh thai tiền. Một người ăn một thưng.
Năm Canh thân 1980: Hè thu đều được, lắm mưa gió, hoa quả cá lợi, muối tằm được nửa, vàng bạc quí, trâu ngựa bị thiên thời chết. Một người ăn một thưng.
Năm Tân dậu 1981: Mùa hạ mùa thu bình bình, hoa quả vàng bạc tằm nhiều cá ít, tháng 8 hồng thuỷ. Ngày 26-2 có chuyển đất, trâu lợi trẻ con chết nhiều, người già , con gái sức khoẻ tốt. Phương Đông Bắc loạn quân tan tác. Ba người ăn một thưng.
Năm Nhâm tuất 1982: Mùa hạ ít, mùa thu được bội, hoa quả cá muối được, tằm mất, lắm mưa gió. Hồng thuỷ tháng 4 có mưa gió to, tháng 9 hạn. Đông nhiều gió, trâu chết. hai người ăn 1 thưng.
Năm Quí hợi 1983: Năm được mùa lớn, cá muối tằm được nửa, vàng bạc quí , trâu chửa hay chết, người giáo hay phải cảm. Hai người ăn một thưng.
Sáu muơi năm từ Giáp Tý đến Quý Hợi ghi trên là thuộc hôi Trung Nguyên. Do đó, thời tiết và cấy trồng có khẳ năng không giống ở Hạ Nguyên hiện nay, nên chỉ ghi vào đây để so sánh cho có thêm kinh nghiệm (Lời người dịch)
- Hết-
__________________ Thái tuế
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienCanh Học Viên Lớp Dịch Lý
Đã tham gia: 28 December 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 102
|
Msg 27 of 28: Đã gửi: 06 February 2006 lúc 4:09am | Đã lưu IP
|
|
|
Hay quá!!!
Cám ơn bác Thái Tuế nhiều lắm,
Thiên canh cũng hay dự đoán gió mưa theo lịch mặt trăng, mùa, và điềm gió mây. Nay có thêm những kinh nghiệm của cổ nhân mà bác Thái Tuế đã hảo tâm đưa lên đây quả là cá gặp nước vậy.
Kính bác Thái Tuế mạnh khoẻ và viết nhiều bài đưa lên diễn đàn nhé!
__________________ Thien Canh xin tam biet dien dan. Nick ThienCanh khong con ton tai nua.
|
Quay trở về đầu |
|
|
quaman Hội viên
Đã tham gia: 20 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 5
|
Msg 28 of 28: Đã gửi: 23 February 2006 lúc 2:14am | Đã lưu IP
|
|
|
Cảm ơn Thái Tuế
Nếu bạn có sách gì về tướng số và phong thuỷ thì gửi cho tui 1 bản
Ccảm ơn nhiều
daoquangnam@yahoo.com
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|