Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: Japan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 194
Msg 181 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 9:37am | Đă lưu IP
vuivui đă viết:
Ra đường, mà muốn không dẫm phải phân chó !. Nếu cứ nghĩ rằng, phải cấm chó ỉa, th́ không bao giờ có thể làm được. Với cách nghĩ ấy th́ cũng chẳng bao giờ nói được về Cải số. Nhưng nếu nghĩ rằng: Cần phải luôn làm vệ sinh đường phố, và khi đi đường cần phải chú ư đừng để dẫm phải phân chó. Th́ sẽ không dẫm phải phân chó nữa. Ấy cũng như Cải số vậy !!! .
Chính xác như Bác VuiVui đề cập. Học tử vi mà không để cải được số th́ chẳng thà không học th́ tốt cho đương số hơn. Chứ xem tử vi xong , thấy những điều xấu, rồi than thân trách phận th́ càng làm cho cuộc sống thêm ảm đạm , chẳng có chút ích lợi ǵ cả. tinkhang xem tử vi như là 1 bản đồ, nh́n được khái quát con đường dẫn đến mục đích của ḿnh, biết được có những "ổ gà", hay ...mà tránh th́ mới có ích khi học xem tử vi. Điều này mới đúng theo tinh thần CẢI SỐ mà Bác VuiVui nghĩ, theo thiển ư của tinkhang.Tiếc rằng Bác VuiVui chưa có dịp để tŕnh bày phương pháp này 1 cách giáo khoa. Chỉ dám mong là một ngày đẹp trời nào đó có duyên được gặp
Đă tham gia: 02 September 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 59
Msg 182 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 11:25am | Đă lưu IP
Bác vuivui tiếp tục chủ đề nhé. Cô Tuỳ Vân nhặt sạn giùm bác rồi.
Cái này cũng giống như chị chaunguyen đề cập đến đạo Thiên chúa, là tín ngưỡng, ai theo th́ theo, không theo th́ thôi, chứ xông vào đả kích làm ǵ. Có lợi không?
Đă tham gia: 17 December 2005 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 366
Msg 183 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 1:00pm | Đă lưu IP
Con người từ khi bước chân vào đời ai cũng hăm hở, lạc quan và đầy ḷng tự tin. Ở vào cái tuổi mà người ta gọi là “Tam Thập Nhị Lập” ít có ai nghĩ đến hai chữ “số mệnh”. Nhưng dần dần khi đă va chạm với cuộc sống, trải qua một vài lần thất bại đổ vỡ … th́ lúc đó mới bắt đầu thấm mệt mới bắt đầu hiểu ư của Nguyễn Du, “có tài mà cậy chi tài” hoặc có phần khắt khe và hoàn toàn ràng buộc vào cái ư niệm “thiên mệnh” là “bởi số, chạy đâu cho khỏi số ?”
Tin hay không tin, tin ít hay nhiều, mức độ tin tưởng sẽ tỷ lệ theo tuổi đời, và có thể tin sớm hay tin muộn vào hai chữ ‘số mệnh” th́ cũng c̣n tùy thuộc đường đời của mỗi người, là con đường đầy hoa lá hay sỏi đá chông gai ? Và người Á Đông của chúng ta cho rằng, vào khoảng lứa tuổi 40, có thể gọi là khoảng đời mà con người đă “tận nhân lực” cho nên có thể bắt đầu “tri thiên mệnh”
Như vậy biết số để làm ǵ? Và biết số rồi có cải được hay không?
Vấn đề đầu tiên, biết số để làm ǵ, biết số có lợi ích ǵ không, là những điều có thể có câu trả lời tương đối dễ dàng. Có người nói rằng:
- Tôi không bao giờ xem Tử Vi, biết rồi thêm buồn thêm lo mà thôi. Khi nói như vậy, họ đă hàm ư tin rằng mỗi người đều có số mệnh, và ít nhiều họ đă thấy hay cảm thấy được cuộc đời của họ không có ǵ lạc quan lắm, cho nên chấp nhận một cuộc sống “đến đâu hay đến đó” biết trước chỉ thêm lo nghĩ mà không làm được ǵ để thay đổi.
Nhóm người này rất ít và mang cái tâm trạng của loài đà điểu, sợ th́ chui đầu xuống đất cát, c̣n hầu hết đều muốn biết số của ḿnh như thế nào. Và những người này lại có hai quan niệm, một thụ động và một chủ động. Những người thụ động là khi biết số của ḿnh rồi th́ thôi, phó mặc cho số như “thuyền đời mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” ngược lại, những người có quan niệm chủ động th́ họ tin vào số, dựa vào số, nương theo số để tránh hết những trở ngại mà họ đă biết trước. Đây chưa phải là một h́nh thức cải số mà chúng ta sẽ đề cập đến. Có thể nói đây là một h́nh thức tích cực của sự cải số, biết số và làm đúng với số cũng là một cách giúp chúng ta tránh được phần nào trở ngại, có thể là những trở ngại nhỏ nhặt, nhưng cũng có thể là những nguyên nhân đưa đến những sự thất bại to lớn. Ví dụ, người Mệnh Vô Chính Diệu, nếu biết số của người VCD là không nên đứng mũi chịu sào, có nghĩa là nếu trong quân đội th́ không nên giữ chức vị trưởng, dù lớn hay nhỏ, hoặc bên hành chánh th́ không nên giữ những chức vụ như trưởng pḥng, giám đốc v.v… hoặc trong lănh vực làm ăn kinh doanh th́ không nên là người ra mặt điều hành. Một ví dụ khác, người làm ăn mua bán nếu biết hạn của ḿnh năm nay không tốt th́ họ chỉ giữ cơ sở của họ như cũ chứ không bỏ công bỏ của để khuếch trương phát triển rồi chuốc lấy sự thất bại lỗ lă. C̣n ngược lại, nếu biết là hạn tốt, họ sẽ mạnh dạn mạo hiểm hơn mà vẫn gặt hái được những thành qủa như ư. Và trên khía cạnh tiêu cực, nếu ḿnh biết trước số ḿnh nghèo, t́nh duyên ḿnh lận đận, con cái ḿnh sẽ hư hỏng, về già ḿnh sẽ cô đơn lẻ bóng v.v…th́ ít ra ḿnh đă biết, đă ít nhiều có sự chuẩn bị về tâm lư. Khi sự việc xảy đến, những ảnh hưởng về tinh thần sẽ có phần nhẹ nhàng, có thể chịu đựng được và có thể vượt qua dễ dàng hơn là trường hợp bất ngờ.
Đi xa hơn, bậc làm cha mẹ nếu biết được số mệnh là một điều rất hữu ích trong vấn đề giúp đỡ con cái của ḿnh. Mặc dù chúng ta vẫn nói, không ai hiểu con cái bằng cha mẹ, nhưng thật ra sự hiểu biết của cha mẹ về con cái rất hạn hẹp. Ngoài tính t́nh và những sở thích hiện tại, có nghĩa là đang trong lứa tuối đó của mỗi đứa con, th́ cha mẹ không thể nào nh́n thấy được những biến chuyển và những thay đổi trong tương lai của mỗi đứa con của ḿnh. Nhưng khoa Tử Vi có thể nh́n thấy được những điều đó và giúp cho cha mẹ hiểu rơ năng khiếu, sở trường, sở đoản của mỗi đứa con để hướng dẫn con cái chọn ngành mà học, chọn nghề mà làm. Nói chung, nếu cha mẹ có thể nh́n thấy trước cuộc đời của con ḿnh, sung sướng hay cực khổ, may mắn hay gian truân, t́nh cảm được hạnh phúc hay lận đận, th́ ít ra cha mẹ cũng có sự bù đắp trước về mặt tâm lư giúp cho con cái khỏi bị ngỡ ngàng và thất vọng khi phải đối diện với nghịch cảnh của đời ḿnh.
Trên một phương diện khác, biết số là một yếu tố hữu ích cho thuật dùng người. Ba chữ “thuật dùng người” không hẳn ḿnh phải là một cấp lănh đạo, chỉ huy v.v… nhưng trong vấn đề hợp tác làm ăn với nhau, biết rơ người hợp tác với ḿnh cũng là một điều quan trọng. Hoặc trong vấn đề giao thiệp của cuộc sống hằng ngày, biết số giúp ḿnh biết người và khỏi lầm người th́ cũng tránh được sự ân hận về sau.
Những điều vừa nêu trên đề cập vấn đề chúng ta biết số và thuận theo số, như vậy biết số rồi, chúng ta có cải số được hay không?
Đối nghịch lại với quan niệm “thiên mệnh” là quan niệm “nhân định thắng thiên” Nhân sinh quan này phản ảnh phần nào khả năng tự tôn của con người, sự phấn đấu là tự tin của những tâm hồn lạc quan. Trong những bộ môn Khoa Học Huyền Bí th́ môn Phong Thủy, Tướng Mệnh, và Tử Vi Đẩu Số đều đề cập đến phần nhân định, có nghĩa là con người có phần nào chủ động trong số mệnh của họ, chỉ khác nhau ở chỗ mức độ mà con người có thể cùng tạo hoá dự phần vào sự thay đổi số phận của ḿnh.
Nói như vậy là chúng ta đă sớm có câu trả lời, con người có thể cải số được nhưng rất hạn hẹp và chỉ ở một mức độ nào đó thôi chứ không thể nào thay đổi, lật ngược lại cả 180 độ. Trong những môn vừa nêu trên th́ khoa Phong Thủy có thể sửa đổi một cách dễ dàng nhất v́ đối tượng của Phong Thủy là nhà ở, cơ sở thương mại hay mộ phần. Về khoa Tướng Mệnh, sự sửa đổi không thể nhờ vào khoa thẩm mỹ mà chỉ đặt trên yếu tố cái tâm của con người, “tướng tùy tâm sinh” Và khoa Tử Vi mà chúng ta đề cập ở đây chỉ dẫn cho chúng ta những trường hợp và phương cách cải số nhưng xét ra cũng rất hạn chế và kết qủa của cuộc cải số này vẫn c̣n ràng buộc chặt chẽ vào những yếu tố quan trọng mà con người khó ḷng kiểm chứng được, đó là phúc đức của mỗi người. Khi nói phúc đức của mỗi người chúng ta đă hiểu rằng phúc đức tạo được do chính bản thân ḿnh tạo ra và phúc đức mà ḿnh thừa hưởng được từ cha mẹ, ông bà hay nói chung là của ḍng họ.
Như vậy, chúng ta đă nói biết số và thuận theo số cũng là một h́nh thức cải số nhưng tiêu cực. C̣n những cách cải số tích cực hơn nhưng cũng rất hạn hẹp, ví dụ, một vài trường hợp thấy trong các sách Tử Vi như nếu một đứa con nào đó có số khắc với cha mẹ th́ đứa con ấy sẽ bị đau ốm, bệnh tật hoặc là có thể từ khi sinh ra đứa con này, cha mẹ của nó thường hay gặp những chuyện không may như mất việc, làm ăn thua lỗ v.v…Trong trường hợp này, cách hóa giải là cho đứa con ở với ông bà nội/ngoại, hay chú bác cô d́…
Cách hóa giải của khoa Tử Vi thoạt nghe th́ có vẻ dễ dàng nhưng thực tế th́ đây là một vấn đề rất tế nhị. Có cha mẹ nào sinh con ra mà không muốn chính tay ḿnh nuôi con. ở đây chưa nói đến sự ảnh hưởng sâu xa về tâm lư sau này của đứa bé. Tuy vậy, nếu làm được th́ đổi lại sự b́nh yên cho cả hai bên, cha mẹ và con cái.
Một ví dụ khác như đối với những người con gái mà khoa Tử Vi gọi là “cao số” hoặc có số h́nh khắc với chồng con, nặng nề hơn là số sát phu th́ những lời khuyên thông thường là không nên cử hành đám cưới hỏi linh đ́nh, mà càng nên đơn giản, càng lặng lẽ âm thầm càng tốt. Tùy theo mức độ khắc sát nặng nhẹ, hoặc lễ cưới không đốt đèn long phụng, không rướt dâu, hoặc có thể ở mức độ là cô dâu lặng lẽ xách vali về nhà chồng, hay một h́nh thức khác mà chúng ta thường nghe nói là cưới chạy tang. Cưới chạy tang là trường hợp đôi bên chưa có ư định làm đám cưới, nhưng nếu trong gia đ́nh hai bên có tang, th́ đây cũng là một cơ hội hóa giải sự khắc sát nặng nề, những giọt nước mắt ngày sau khóc chồng th́ nay đă đổ xuống cho tang sự.
Như vậy, đối với khoa Tử Vi, chúng ta có thể cải số, nhưng chỉ ở một mức độ nào đó và cũng giới hạn trong một vài lănh vực. Việc cải số đối với khoa Tử Vi vẫn đặt căn bản trên quan niệm phúc đúc là chính yếu, đức năng thắng số. Cái yếu tố phúc đức này có được hay không là tùy ở cái tâm, cái tánh và hành động của mỗi cá nhân. Ví dụ như một giai đoạn về đức năng thắng số là một cậu bé được ông thầy coi số và nói với cha mẹ cậu ta sẽ không sống qúa tuổi 17. Một ngày t́nh cờ đi qua con suối, cậu bé thấy tổ kiến có hàng ngàn con kiến đang bị cuốn trôi theo ḍng nước. Cậu bé can đảm lội xuống suối để cứu tổ kiến. Và cha mẹ đă ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn sống qua tuổi 17.
C̣n thời Tam Quốc phân tranh, Khổng Minh Gia Cát Lượng, trên thông thiên văn, dưới rành địa lư, làm phép cầm sao bổn mạng của ḿnh để sống thêm vài năm nữa mà thất bại. Người xưa đă nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” Gia Cát Lượng v́ pḥ tá nhà Hán mà đă ra tay đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi đốt luôn 80 vạn quân Tào trên sông Xích Bích th́ như vậy phúc đức c̣n đâu mà toan cải số ?
Tóm lại, những phương pháp cải số của khoa Tử Vi vừa giới hạn, vừa khó thực hiện. Một cách được xem là căn bản và áp dụng tổng quát là quan niệm “đức năng thắng số”
Nhưng hai chữ phúc đức vừa khó đo lường, vừa có vẻ mơ hồ khiến cho con người đâm ra nghi ngờ và đưa đến những ư nghĩ có vẻ đùa giỡn nhưng cũng phần nào hàm ư sự hoài nghi như có câu “ người ngay thường mắc nạn, kẻ ác lại sống lâu.” Và nếu đem cái triết lư quả báo của nhà Phật th́ lại đi vào một nghi vấn khác: đâu phải lúc nào cũng thấy “quả báo nhăn tiền” ? Nếu không “nhăn tiền” th́ đến bao giờ? Đi xa quá sẽ làm lung lay niềm tin của con người.
Đă tham gia: 04 September 2004 Nơi cư ngụ: Poland
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1457
Msg 185 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 3:38pm | Đă lưu IP
Đây không phải là MTQ viết bài này !phải không ?
Trích:
C̣n thời Tam Quốc phân tranh, Khổng Minh Gia Cát Lượng, trên thông thiên văn, dưới rành địa lư, làm phép cầm sao bổn mạng của ḿnh để sống thêm vài năm nữa mà thất bại. Người xưa đă nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” Gia Cát Lượng v́ pḥ tá nhà Hán mà đă ra tay đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi đốt luôn 80 vạn quân Tào trên sông Xích Bích th́ như vậy phúc đức c̣n đâu mà toan cải số ? Xin hỏi. Khổng Minh đ̣i Cải số ?. Mà cải số ai !. Cải khí số nhà Hán, hay là cải số mệnh của Không Minh ?.
Trong Tam quốc, viết rơ ràng, Khổng Minh đ̣i Cải khí số nhà Hán. Bằng vào câu: Biết khí số nhà Hán đă tận- điều này, chẳng phải chỉ có ḿnh Khổng Minh biết, mà cả đứa trẻ chăn trâu gặp Lưu Bị ngang đường cũng biết - nhưng Khổng Minh vẫn một mực theo Lưu Bị ?. Vậy đâu có phải Khổng Minh muốn Cải mệnh của Khổng Minh, mà là Khổng Minh muốn Cải cái khí số nhà Hán đó chứ !.
Vậy là Khổng Minh - nếu đúng như thực tô vẽ của nhà tiểu thuyết - cậy tài, ngạo mạn ?. Bởi v́ tử xưa tới nay, chỉ có thời thế tạo anh hùng, chứ mấy khi anh hùng tạo thời thế !. Cá nhân làm sao cải tạo được mệnh số của quốc gia ?. Khổng ḿnh đi vi phạm quy luật vận động của vũ trụ th́ sao gọi là Tuấn Kiệt. Mà không phải là Tuấn Kiệt, th́ hy vọng ǵ Cải mệnh quốc gia ?.
Nhưng nếu Khổng Minh muốn cải số của chính ḿnh, nếu biết số mệnh th́ rơ ràng là có thể cải được !. Chỉ cần hiểu được Ṿng Thái tuế là Cải được dễ dàng !!!
Thế nên mới có câu: Kẻ thức thời mới là Tuấn Kiệt !!!.
V́ phản biện bài này là làm rơ hơn vấn đề Cải số, nên Tôi có đáp ứng.
Thân ái.
Đă tham gia: 20 November 2002 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 856
Msg 186 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 6:45pm | Đă lưu IP
Chuyện là Khổng Minh biết ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa, sau
theo lời Khương Duy dùng phép cầu thọ hầu để sống thêm 10 năm để phục
hưng nhà Hán. Nhưng rồi bị Ngụy Diên làm đổ ngọn đèn bổn mạng ... rồi
th́ thất bại.
Vấn đề ở đây là:
- Khổng Minh biết số sắp tận, dùng phép tục mạng để sống thêm 10 năm. Vậy đây được xem là có "ư đồ" Cải Số.
- Ngụy Diên làm hỏng việc. Ư trời chăng? Dù thế nào th́ rút cuộc Khổng Minh cải số thất bại.
C̣n nếu cho rằng đó không phải là hành động cải số mạng cho ḿnh, tức Khổng Minh th́ là chuyện hơi lạ.
*********
NL
không biết Khổng Minh tài trí thông tuệ cở nào, nhưng theo sách vở ghi
lại (chắc hẳn ai cũng qua sử sách mà thôi) th́ Khổng Minh rất tài ba,
trên thông thiên văn, dưới tường địa lư, giữa rơ thế sự cũng như nhân
sự, ngoài ra Kỳ Môn - Độn Giáp, thuật Chiêm Bốc th́ khá thông, thuật
xem Tướng cũng rơ, etc. Nói chung, Khổng Minh là một người kiệt xuất
trên đời, học rộng biết nhiều, thông kim bác cổ, chuyện trên trời dưới
đất và thế sự đều nắm trong ḷng bàn tay, các môn chiêm bốc đều hiểu
th́ không đơn giản tí nào. Vậy mà chú vuivui nói "nhưng nếu Khổng Minh muốn cải số của chính ḿnh, nếu biết số mệnh th́
rơ ràng là có thể cải được !. Chỉ cần hiểu được Ṿng Thái tuế là Cải
được dễ dàng" như
thế th́ đâu khác ǵ bảo rằng ông Khổng Minh không hiểu ṿng Thái Tuế
nên không Cải được số của ḿnh? Ṿng Thái Tuế nói riêng, môn Tử Vi nói
chung, so với các thuật mà Khổng Minh biết th́ thế nào? Chắc hẳn 1
trời 1 vực.
Nếu bảo, thời Khổng Minh chưa có ṿng Thái Tuế
th́ là 1 chuyện khác, chứ nếu bảo Khổng Minh không cải được số của ḿnh
v́ không hiểu được ṿng Thái Tuế th́ là chuyện quan trọng đó chú vuivui.
********
Vấn
đề Cải Số trong khái niệm của nhiều người là tương tự như việc của
Khổng Minh đă làm. Ví như BIẾT RƠ không qua được Hạn này mà qua được
th́ mới là Cải Số, như chuyện cậu bé không màn nguy hiểm bản thân để
cứu đàn kiến hoặc chuyện về Lư Phùng Xuân (Tử Vi Đẩu Số II, NMB, trang
37) nếu sự thật là như vậy mà sau đó kết quả không phải vậy th́ mới là
Cải Số.
C̣n những việc trong phạm vi cũng như trong khả năng
của mỗi người th́ gọi là tích cực hoặc là cải thiện cuộc đời th́ hợp lư
hơn chăng???
Tóm sơ qua th́ con người có số mệnh, tuy có định số
nhưng con người vẫn có sự lựa chọn, cũng như cụ Nguyễn Du có câu "có
Trời mà cũng có Ta", và Cải Số tuy có thể được nhưng rất khó. Và quan
trọng hơn hết, phải biết rơ (tức là có đủ bản lănh) SỐ trời (Mệnh Số) thế nào rồi th́ mới cải số, và có như vậy mới là cải số, nếu không th́ cũng đâu biết cái đó có phải thật sự là Cải Số hay chỉ là vận tŕnh của cuộc đời.
Đây là nói chung chung!
Sửa lại bởi NgoaLong : 18 November 2008 lúc 7:00pm
__________________ Có công Canh Cọp (hổ phục) có ngày nên Cao (hổ cốt)!
SHMILY!
Đă tham gia: 08 March 2008 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 125
Msg 188 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 9:30pm | Đă lưu IP
@Chú vuivui: theo chú vuivui th́ hiểu được ṿng Thái Tuế là cải được số dễ dàng, cháu vẫn chưa rơ lắm mong chú gợi mở thêm một chút nữa được không ạ. Liệu có phải sống phù hợp theo ư nghĩa của từng tam hợp Tuế-Hổ-Phù, Tang-Tuế-Điếu, Âm-Long-Trực...th́ sẽ tránh được các sai lầm đáng tiếc không ạ!
Đă tham gia: 21 May 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 80
Msg 189 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 9:54pm | Đă lưu IP
< http-equiv="Content-" content="text/; charset=utf-8">< name="ProgId" content="Word.">< name="Generator" content="Microsoft Word 11">< name="Originator" content="Microsoft Word 11">
Cháu xin phép chú Vuivui cho cháu được đóng góp bài này trong mục Cải số của chú. Đây là một cách nh́n tích cực của Đạo Phật về Cải Số mà cháu tâm đắc. Nếu chú không đồng ư hay Ban Quản trị không đồng ư, xin xóa bỏ bài này.
Liễu Phàm
Tứ Huấn - Phương pháp cải tạo vận mệnh
Liễu Phàm Tử Huấn Hoà Thượng Thích Thiện Siêu dịch
Truyện tự thuật của ông Liễu Phàm
(Người tỉnh Giang Tô, đời Minh, đậu tiến sĩ)
( Một câu chuyện rất lư thú giúp cải tạo vận mệnh)
1. Cái học lập mạng
Tôi bị mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề Y học và nói với tôi rằng: Học
nghề làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có thể giúp người. Vả lại luyện tập một
nghề cho tinh vi có tăm tiếng, chính là sở nguyện của cha mầy khi trước.
Sau đó, có một hôm tôi đến lễ chùa Từ Vân, nhân gặp một cụ già râu dài tướng
đẹp, dáng mạo phơi phới như tiên, tôi đem ḷng kính mộ. Cụ nói với tôi:
"Ta coi cậu là người trong chốn quan trường, sang năm đă đến khoa thi tấn
học, sao cậu không chịu đọc sách?". Tôi tŕnh bày lư do và hỏi thăm tên họ
quê quán của Cụ.
Cụ bảo: Ta họ Khổng, người đất Vân Nam. Ta được chánh truyền phép lư
số trong sách Hoàng Cực của Thiệu Ưng tiên sinh. Ta muốn truyền lại cho cậu.
Tôi liền dẫn Cụ về nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy tiếp đăi Cụ rất hậu,
và yêu cầu Cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, th́ quả nhiên từ những việc
mảy may đều được Cụ đoán trúng rành mạch. Từ đó tôi nảy sanh ư muốn đọc sách,
và đem chuyện bàn với người anh cô cậu là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi: hiện nay
có Úc Hải Cốc tiên sinh đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi
em tới đó học, rất tiện. Sau đó tôi trở thành học tṛ của thầy Úc Hải Cốc.
Khổng tiên sinh chấm số tôi như vầy: Lúc nhỏ thi huyện đậu thứ 14, thi phủ đậu
thứ 71, thi tỉnh đậu thứ 9. Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi đều có tên
đậu đúng như lời đoán.
Cụ lại đoán cả việc lành dữ trong suốt đời tôi, rằng năm nào thi đậu thứ mấy,
năm nào được bổ Bẩm sinh năm nào được bổ chức Cống sinh, sau đó năm nào được bổ
Tri huyện tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm tri huyện đủ ba năm rưỡi lại nên cáo thối và
thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu ngày 14 tháng tám. Chỉ đáng tiếc số người
không con. Các lời đoán nầy tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận. Từ đó về sau, phàm
mỗi lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi thế nào đều đúng
như lời tiên sinh dự đoán, duy có điều nầy làm tôi hơi nghi là tiên sinh đoán
tôi ăn lộc trong thời gian Bẩm sinh đủ số 91 thạch 5 đấu gạo th́ được bổ Cống
sinh, nhưng cập kỳ tôi mới tiêu hết số gạo 71 thạch, đă được Đồ Tôn sư phê
chuẩn cho tôi bổ Cống sinh, nên tôi nghi điều nầy tiên sinh đoán sai, không ngờ
sau đó tôi bị quan đại lư Dương Công bác khước, phải kéo dài thời gian măi đến
năm Đinh măo mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển văn thi của tôi tại khoa trường, khen
rằng: Năm thiên sách nầy chính là năm thiên tấu nghị lên triều đ́nh, người có
tài văn bài thế nầy há lại để vùi lấp măi ở chỗ song môn sao? Rồi ông tŕnh văn
bài của tôi lên quan huyện và tôi được phê chuẩn bổ Cống sinh. Kiểm điểm lại số
gạo tiêu trong thời gian nầy cộng với số gạo 71 thạch khi trước th́ vừa đủ số
91 thạch 5 đấu không sai; do đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số
mạng, mau chậm có vận thời, nên tôi cứ dửng dưng không c̣n để ư mong cầu một
điều ǵ.
Sau khi bổ Cống sinh tôi phải vào yến đô học tại Quốc tử giám. Suốt một năm lưu
lại kinh đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng lặng, không buồn xem văn thư ǵ cả. Qua
năm Kỷ tỵ đi dạo Nam
Ưng. Trước khi vào Quốc tử giám, tôi có đến viếng thăm Thiền sư Vân Cốc Hội ở
núi Thể Hà. Ngồi chung với Thiền sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề
nhắm. Thiền sư hỏi tôi: người ta ở cơi đời sở dĩ không làm được Thánh Hiền chỉ
v́ bị vọng niệm ràng buộc, nay ông ngồi suốt ba ngày mà không thấy khởi lên một
niệm nào, là tại làm sao? Tôi trả lời: Thưa Thiền sư, tôi được Khổng tiên sinh
chấm số, cho biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có nóng ḷng
mơ tưởng điều ǵ cũng vô ích, v́ vậy tôi không cần nghĩ tưởng điều ǵ. Thiền sư
cười: Lâu nay tôi đăi ông như bậc hào kiệt, không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm
phu chay! Tôi giựt ḿnh, hỏi Thiền sư cho biết lư do, Thiền sư dạy: những người
chưa được "không tâm" mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc
ràng. Nhưng số mệnh chỉ câu thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được người cực
thiện cũng như cực ác, ông suốt 20 năm nay chịu bó tay trước số mệnh không
chuyển đổi được tí ǵ, như thế, há không phải phàm phu th́ là ǵ?
Tôi hỏi: Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có thể tránh được ư? Thiền sư dạy: Số mệnh
do ta gây ra, họa phước chính ta t́m lấy. Đó là điều sách vở đă dạy đành rành.
Kinh Phổ Môn, Phật dạy: Cần giàu sang được giàu sang, cần con trai con gái,
được con trai con gái, cần sống lâu được sống lâu. Ôi! Vọng ngữ là một giới cấm
nặng của nhà Phật, há lẽ chư Phật Bồ-tát lại khi cuồng người đời mà nói ra câu
ấy hay sao!
Tôi hỏi tiếp: Thầy Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời được, ấy là nói cầu những điều
chính nơi tâm ḿnh có thể làm được kia, như điều đạo đức nhân nghĩa thời có thể
ra sức mong cầu, c̣n như công danh phú quí là đều ngoài năng lực ḿnh, làm sao
mong cầu được? Thiền sư nói: Thầy Mạnh Tử nói không lầm, chỉ tại ông hiểu lầm
thôi. Ông không nghe ngài Lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói: Hết thảy phước
điền, không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông nấy. Cầu ngay nơi ta,
không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công danh phú quư, hễ trong
đạt được th́ ngoài đạt được, nên càng thấy rơ hiệu nghiệm của tâm hướng nội
mong cầu. Người nào không chịu khó ngó lui ḿnh để tu tỉnh, cứ như một bề dong
ruổi t́m cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách t́m cầu thế nào chăng nữa, kết quả
vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối mong cầu nầy hoài công vô ích. Những
người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo cầu mong phú quí công danh bằng con đường
đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo t́m cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải
bị thiệt tḥi cả hai mặt, là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân
nghĩa cũng hỏng.
Thiền sư lại hỏi tôi về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả
mọi điều. Thiền sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông c̣n có hy vọng thi
đậu không? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: Không thể. Người khoa giáp
phải là người có phước tướng, c̣n tôi chỉ là kẻ bạc phước, lại không biết dồn
chứa công hạnh làm nền tảng phước đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung
đại độ, có khi c̣n cậy ḿnh tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ ǵ làm nấy, nói năng
khinh suất dối trá, chẳng nể v́ ai. Đấy toàn là những tướng của kẻ bạc phước,
làm sao tôi mong cầu được khoa giáp! Vả lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng
sinh, nước trong th́ đâu có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết,
nên tôi không con là phải; phàm khí tiết ôn ḥa mới nuôi dưỡng muôn vật, thế mà
xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải; phàm nhân ái là gốc
sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết
hăo huyền, chẳng hề hy sinh giúp ai, thế nên tôi không con là phải. Đó là chưa
kể tôi c̣n có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượu làm tán tỉnh, tật ưa
ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết tật xấu của tôi th́ hẳn
c̣n nhiều nữa...
Thiền sư nói: Không riêng ǵ một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian
nầy thảy đều nằm trong lư nhân quả. Những người có được sản nghiệp trị giá ngàn
vàng tức là người có được cái phước hưởng ngàn vàng đó, những người có được sản
nghiệp trị giá trăm vàng tức là người có được cái phước hưởng trăm vàng đó,
những người bị chết đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó. Thế mà người
đời không nhận rơ lẽ nầy, cứ đổ dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật trời đất bất
quá chỉ gia thêm những điều ḿnh đă tạo sẵn, chứ trời đất có bao giờ sanh được
mảy may họa phúc nào cho ai đâu. Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có
công đức trăm đời thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp ǵn giữ; người
nào có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, hai đời kế
tiếp ǵn giữ, c̣n người nào tuyệt nhiên không con, ấy là người chỉ có công đức
mỏng manh vậy. Nay ông đă biết chỗ khuyết điểm của ḿnh, ông hăy tận t́nh gột
bỏ cái tướng không phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và muốn vậy, ông phải lo tích đức, phải mở
ḷng bao dung, phải giữ niệm ḥa ái, phải yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc
trước đập tan ngày qua đă chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đă
sinh, được vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lư đó.
Cái thân xác thịt c̣n có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lư nầy lại không cảm
thông cùng trời đất? Thiên thái giáp trong kinh Thi có câu: Trời làm ương
nghiệt, ḿnh có thể tránh, ḿnh làm ương nghiệt không thể nào tránh. kinh Thi
nói: Thường hay nói phối hợp thiên mạng chính là nói tự ḿnh cầu được nhiều
phước. Trước đây Khổng tiên sinh đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh
con, đó là điều ương nghiệt do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ. Nếu ông mở rộng đức tính, gắng làm việc
thiện, dồn chứa âm công, ḿnh gây ra phước, há ḿnh không được hưởng thụ
hay sao?
Dịch là bộ kinh mưu tính việc sưu các ty hung giúp cho người quân tử - hạng
người biết phản tỉnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai tốt cứ tốt,
ai xấu cứ xấu, th́ đâu có thể nói đến chuyện mưu tính sưu các ty hung? Mở đầu
kinh Dịch c̣n có câu: Nhà nào chứa điều thiện sẽ có thừa điều phúc (tất thiện
chi gia tất hữu dư khánh), ông có tin nỗi điều ấy chăng?
Tôi tin lời Thiền sư nói, nên thành tâm bái lănh. Tôi liền đến trước Phật đài
tận t́nh phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của ḿnh, và dâng một sớ bạch, trước
hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba ngàn điều lành, để báo đáp
ân đức của trời đất tổ tông.
Thiền sư đưa bảng "Công hóa cách" chỉ cho tôi, khiến cứ mỗi ngày có
công việc thiện ghi vào, c̣n làm ra mấy việc ác th́ thối trừ và gắng chuyên tŕ chú Chuẩn-đề,
như thế sở nguyện của ông tất có hiệu nghiệm.
Thiền sư lại dạy tiếp: Một nhà Phù lục thường nói rằng: Người họa phù mà không
hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí truyền của cách họa phù không
chi lạ, chỉ cốt giữ tâm không lay động mà thôi. Khi cầm bút họa phù, điều cần
thiết trước tiên phải dũ sạch muôn mối duyên lự trong ḷng, tâm đừng khởi lên
mảy may tưởng nghĩ nào cả. Ngay khi tâm bất động ấy, hạ bút chấm một chấm gọi
là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp huơ bút họa viết, không để một tư lự nào
móng lên, được như thế là điệu phù thành linh nghiệm. Phàm người kỳ đảo trời đất cầu sửa đổi số mệnh
cũng phải làm như thế, phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn tưởng
khởi mới có cảm cách.
Khi thầy Mạnh Tử luận đến cái học lập mạng có câu: yểu và thọ không hai. Thực
tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại
nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, th́ ngay đó đâu có phân chia số
mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo
nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đă sinh ra ở đời,
ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống
lâu và chết yểu, kỳ thật ư đă bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên
suốt cả đời người.
Đến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đă nêu lên, là cốt nhắc
người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.
Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi
(sĩ) tức có ư nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dầy, tự nhiên
số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế nầy
thế kia mà được kết quả thế nầy, thế kia. Người thông đạt đạo lư, dù một mảy
may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong ḷng, được như thế mới đạt đến cảnh
giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.
Nay Ông chưa được
"không tâm", Ông hăy tŕ niệm chú Chuẩn-đề, cần niệm măi không gián
đoạn, không cần kể số ít nhiều, tŕ niệm đến khi nào được thuần thục, trong tŕ
niệm mà không tŕ niệm, trong không tŕ niệm mà tŕ niệm, th́ bây giờ được tâm
không lay động, mà có sự ứng nghiệm rơ ràng.
Sau khi được Thiền sư chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu Học Hải trước kia để lấy Liễu
Phàm, v́ từ đây đă hiểu cái lư nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn để ḿnh
rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt ngày ǵn giữ cẩn thận, do
đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước. Ngày trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi,
nhưng từ nay tôi đă biết lo ǵn ḷng giữ ư, cẩn thận từng khắc từng giờ, dẫu ở
chỗ kín đáo riêng tư, ḷng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai quấy, mắc tội với trời
đất, hoặc dẫu gặp ai ganh ghét, phá phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ
xả.
Bước sang năm sau, bộ Lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ
tên đậu ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ lại khảo thí từ tên đậu
nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần nầy không ứng nghiệm; và Tiên
sinh không đoán tôi được đậu Cử nhân thế mà tôi đă đậu Cử nhân trong kỳ Hương
thi mùa thu!
Tuy nhiên tôi tự xét việc hạnh nghĩa ḿnh làm chưa thuần thục, sai sót c̣n
nhiều. Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái, hoặc có khi cứu giúp
người mà tâm c̣n do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành mà miệng có nói ác, hoặc
khi tỉnh th́ tháo vác mà khi say lại phóng dật... tôi đem tội chiết tính bù trừ
với công, th́ thấy hẳn có nhiều ngày ḿnh sống uổng! Tôi phát nguyện từ năm Kỷ
tỵ mà măi đến năm Kỷ măo, suốt 10 năm, mới hoàn thành ba ngàn việc thiện! Khi
rời Lư Tiệm Am tiên sinh để vào Bản bộ Trung Quốc, tôi chưa kịp làm lễ hồi
hướng ba ngàn việc thiện kia, năm Canh th́n có dịp trở lại Nam Biên, tôi mới
thỉnh các Ḥa thượng Thánh Không, Huệ Không đến Đồng tháp Thiền đường chứng
minh cho lễ hồi hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành
khác để cầu sinh con, và đến năm Tân tỵ, tôi đă may mắn hạ sinh một quư tử.
Mỗi lần làm một việc ǵ, tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được,
nên hễ làm được việc ǵ th́ lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một khoanh
tṛn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng sinh, tính ra mỗi
ngày có đến mười khoanh. Sang tháng tám năm Quí mùi, tính lại đủ số ba ngàn
điều lành, sau khi đă khấu trừ các điều ác. Tôi lại thỉnh các Ḥa thượng Thánh
Không, Huệ Không đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9, tôi lại phát
nguyện làm thêm một vạn điều lành, cầu th́ đậu Tiến sĩ, quả nhiên năm Bính tuất
tôi thi đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Đê.
Trong lúc làm Tri huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là
Trị Tâm Thiền (sách sửa ḷng). Cứ mỗi sáng dậy, gia nhân đem nó giao lính hầu
đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm được điều lành điều dữ nào
dù lớn dù nhỏ đều ghi rơ
ràng vào sách, đêm đến thiết án giữa trời, bắt chước ông Triệu Duyệt Đào thắp
hương cáo với trời đất (1). Vợ tôi thấy đă lâu mà chẳng làm được bao
nhiêu việc lành, mới chau mày buồn bă nói: Trước Ông ở nhà có tôi giúp sức, nên
Ông đă làm đủ ba ngàn điều lành theo sở nguyện. Nay Ông nguyện làm thêm một vạn
điều, nhưng ở tại công đường chẳng có việc ǵ để làm, th́ biết bao giờ Ông mới
làm đủ số ấy.
Đêm đó, mộng thấy một Thần nhân, tôi mới than thở về lư do khó là đủ các điều
lành minh đă hứa. Thần nhân bảo: Chỉ một việc giảm khinh tiền thuế cho dân của
Ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành. Nghe lời Thần nhân bảo, tôi
liền xét lại nhớ ḿnh có làm việc đó thật. V́ khi trước thuế ruộng của huyện
Bửu Đê, mỗi mẫu phải đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân
nên tôi đă khu xữ làm cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào. Tuy
vậy, tôi vẫn hồ nghi không hiểu tại sao việc làm đó lại có thể sánh bằng một
vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như Thiền sư vừa từ núi Ngũ Đài đến, tôi
đem chuyện nằm mộng ra hỏi có đáng tin không, Thiền sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết, th́
một việc lành có thể đương được muôn việc lành, huống chi giảm thuế cho
cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng một số tiền lương, nhờ Thiền
sư đem về Ngũ Đài trai Tăng một vạn vị sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.
Khổng tiên sinh trước kia đoán tôi đến năm 53 tuổi gặp tai nạn, nhưng đến năm
đó chẳng có ǵ xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo xin tăng thọ, và nay th́ tuổi
tôi đă 69 rồi. Trong Kinh
Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng
chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! Do đó tôi biết
chắc rằng, họa phúc đều
phải cầu ngay nơi ḿnh, đó mới thật đúng ư của Thánh Hiền, ngược lại người nào
nói họa phúc do mệnh trời, th́ đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.
Hiện tại số mệnh mỗi người
thế nào chưa dễ biết được.Vậy đang khi được hiển vinh hăy tưởng như gặp điều không vừa ư, đang khi
được thuận lợi hăy tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hăy
tưởng là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hăy tưởng khi bị khuất
phục, đang khi gia thể trọng vọng hăy tưởng như ḿnh ở hạng thấp hèn, đang khi
có chút học vấn uyên thâm hăy tưởng ḿnh c̣n thiển cận. Xa về trước,
nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi
của cha mẹ mà t́m cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia
đ́nh, ngoài th́ giúp người tai nạn, trong th́ lo ngăn ngừa tà ác chính ḿnh.
Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của ḿnh để lo toan hối cải. Nếu một ngày không
tự biết ḿnh quấy tức một ngày an ḷng tự cho ḿnh là phải, một ngày không ăn
năn hối quá tức một ngày không tiến bộ.
Hạng người thông minh tuấn
kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang
thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đ́nh trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay
chớ mà thôi!
Cái thuyết lư an thân lập mạng của Vân Cốc Hội Thiền sư trao dạy trên đây thật
là chí t́nh, chí lư, chí chân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành sẽ khỏi
một đời luống trôi vô ích vậy.
2. Hối cải lỗi lầm
Những quan đại phu thời Xuân Thu, thường quan sát sự nói năng hành động của mọi
người để đoán định điều họa phúc của họ, phần nhiều đúng nghiệm cả. Những điều
nầy đều có ghi trong các bộ Tả truyện, Quốc ngữ, hăy đọc đến tất thấy.
Hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha từ trong tâm ư rồi hành động ra
tay chân. Nếu một người thiên hẳn về phúc hậu họ thường gặp phước, một người
thiên hẳn về khắc bạc họ thường mang họa. Song người phàm mắt tục ít ai thấy rơ
điều nầy, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường!
Hễ người nào đem tâm thành
tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân lư, mà hạnh phúc sẽ
đến với họ, trái lại th́ tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác
của họ làm, người ta cũng biết trước việc đó. Nhưng những người muốn lánh họa
cầu phúc, hăy lo ăn năn cải quá, trước khi nói tới việc làm lành.
Theo pháp cải hoá, đầu
tiên phải có tâm biết hổ thẹn, nghĩ rằng ta cũng là bậc trượng phu nam tử như
cổ Thánh tiên Hiền, thế sao các ngài làm thầy cả thiên hạ, được muôn đời tôn
thờ, c̣n ta lại cứ lẹt đẹp thấp hèn một đời ngói bể, cứ lo say đắm dục t́nh,
thầm lén làm điều bất nghĩa, c̣n cho là không ai biết, Vễnh mặt ngạo nghễ không
chút thẹn thùng, đến đổi mỗi ngày mỗi sa đọa xuống hàng cầm thú mà không tự
biết, thật chẳng c̣n chi hổ nhục cho bằng!
Thầy Mạnh Tử nói: Điều lớn lao khẩn yếu nhất đối với con người là tâm biết hổ.
V́ rằng hễ người nào giữ được tâm đó th́ trở nên Thánh Hiền, kẻ nào bỏ mất tâm
đó th́ chẳng khác chi cầm thú. Cho biết tâm hổ thẹn là động cơ chính trong việc cải hoá tự tâm.
Thứ hai, phải có tâm sợ
hăi. Hăy nghĩ rằng ḿnh làm việc ǵ đều có Thánh thần ở trên ḿnh, xung
quanh ḿnh biết rơ, không dối trá được. Dẫu ḿnh có phạm tội lỗi nhỏ nào, người
đời đều không thấy, Thánh thần đâu có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo
theo, gây tội nhẹ th́ giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè
dặt sợ hăi.
Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư, thần linh càng thấy rơ. Mặc dù ta có
che dấu những điều ḿnh làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan
trường vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống chi đă bị mọi người ḍm
thấy th́ dù một chút giá trị chẳng c̣n, như vậy há không đáng cẩn thận sao?
Vả lại, khi c̣n hơi thở, dù có gây ác tày trời vẫn c̣n mong hối cải, nên lắm
người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm thiện tâm mănh liệt, họ vẫn
có thể hưởng được một cái chết an lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mănh liệt đủ rửa sạch tội trăm năm,
ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối kia liền biến
mất. Vậy không kể tội lỗi đă tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành thật
hối cải là tội hết. Trần thế vô thường, mạng người chẳng mất, khi hơi thở ra
không vào, dù muốn hối cải chẳng kịp nào. Kẻ làm ác đă phải mang tiếng ác suốt
trăm ngàn năm trên dương thế, không con hiền cháu thảo nào rửa sạch, lại phải
chịu ngục báo trầm luân muôn vạn đời, dù Thánh hiền, Phật, Bồ-tát cũng khó ḷng
cứu vớt.
Như thế là không kiêng sợ được ư?
Thứ ba, phát tâm dơng mănh:
những người không ăn năn hối hoá, phần nhiều là những người dần dà có tánh thụt
lui. Biết vậy, ta cần phải dũng mănh hăng hái, đừng nên do dự, đừng nên chần
chờ, hăy xem tội nhỏ như bị mũi nhọn châm làm thúi thịt, mau mau khoét vất, sợ
tội lớn như bị rắn độc cắn tay, mau mau cắt bỏ, không được tŕ trễ phút nào.
Càng trễ càng nguy, càng mau càng có lợi.
Những người có đủ ba thứ tâm nói trên, dù có tội lỗi đến đâu vẫn cải đổi được
như băng sương gặp ánh mặt trời làm sao không tan biến. Nhưng nên biết có những tội lỗi được cải đổi do
việc làm thực sự, có
những tội lỗi được cải đổi do triệt ngộ đạo lư, có những tội lỗi được cải đổi do tận tâm. Công
phu không đồng nên hiệu quả cũng khác.
Chẳng hạn ngày trước sát sanh nay sẽ răn dè đừng giết, ngày trước nóng giận nay
phải răn dè đừng nóng... đó là cách hối lỗi do việc làm thực sự. Lối nầy chỉ
mới là lối cưỡng chế bên ngoài, khó ḷng sạch tội, v́ bệnh căn c̣n chất chứa
trong ḷng, th́ tội dù diệt bên Đông lại mọc bên Tây, nên hối cải hoá nầy chưa
phải là hoàn hảo cứu cánh. Vậy muốn dứt lỗi triệt để, trước khi cưỡng chế sự
việc phải thấu rơ đạo lư. Như muốn chừa bỏ tội sát sanh trước hăy rơ lẽ nầy:
Trời đất vốn hiếu sinh, muôn loài đều tiếc mạng, giết vật để nuôi ḿnh, làm sao
yên ḷng được. Vật bị giết đă đành phải chịu cắt xẻ, nếu đau đớn tận xương tủy,
ảo năo muôn phần, mà ta ăn vào dù béo bổ ngon bùi đến đâu hễ nuốt khỏi cổ liền
trở thành đồ hôi thối rồi tiêu ma, chi bằng rau dưa vẫn no bụng, c̣n tránh khỏi
cái tội sát sanh làm tổn phước ḿnh không ít.
Vả chăng, phàm là loài huyết khí đều có tính linh tri, đă có tính linh tri th́
cùng ta không khác (vật ngă nhất thể). Ví bằng không thực hành nổi những điều
chí đức khiến chúng nó kính ta, thân ta, th́ cũng chớ nên mỗi ngày sát phạt
sinh linh, khiến chúng nó măi oán ta thù ta đời đời kiếp kiếp! Người nào đă
nghĩ được như thế th́ dẫu muốn giết vật ăn thịt, cũng thấy thương tâm chẳng ham
ăn nữa.
Lại nếu muốn trừ bỏ tật hay nóng giận th́ trước hăy suy nghĩ: Người có chỗ hư hỏng không bằng
ta là người đáng thương, c̣n người trái lẽ xâm phạm ta, lỗi ấy thuộc về họ, chớ
ta can dự ǵ mà nổi cơn giận dữ. Huống hồ trong thiên hạ không đáng hào kiệt nào là người
nặng tánh tự thị, cũng không bậc học thức nào là người hay oán trách tha nhân,
v́ họ biết rơ việc ḿnh làm không thành là bởi đức tu của ḿnh chưa thấu đáo,
cho cảm ứng chưa tới nơi, họ luôn luôn phản tỉnh, nên đối với họ dù gặp những
điều hủy báng, cũng xem như cơ hội tốt để mà luyện tâm đức, mà luôn luôn hoan hỷ
đón nhận không hề phẫn nộ.
Khi nghe lời hủy báng mà không phẫn nộ th́ dù ngọn lửa bài báng cao ngất trời
xanh cũng tự nhiên tắt biến như phóng lửa đốt hư không.
Trái lại hễ nghe lời dèm chê vội nóng giận th́ dù có khôn ngoan xảo biện đến
đâu, cũng chỉ như tằm xuân kéo kén, càng kéo lại càng buột chặt ḿnh. Nóng
giận, chẳng những vô ích mà c̣n gây nên tai hại đến thế.
Ngoài các tính nóng giận c̣n bao nhiêu tính xấu khác đều có thể suy biết, và hễ
rơ thấu lẽ nầy th́ tội lỗi nào cũng trừ diệt được.
Thế nào là tội từ tâm cải? Tội lỗi vô vàn đều do tâm tạo, tâm không vọng động
th́ tội lỗi dựa vào đâu phát sinh? Kẻ học thức không cần phải phanh t́m từng
bệnh hiếu sắc, hiếu danh, hiếu tài, hiếu nộ, nhưng chỉ cần nhất tâm hành thiện, giữ ǵn chánh niệm tự
khắc tiêu tan như vầng thái dương chiếu giữa hư không, mọi thứ ma mị đều bặt
dấu.
Tội lỗi do tâm tạo tất cũng do tâm cải đổi, như muốn chặt cây độc, chỉ chặt
ngay gốc nó, chớ cần chi phải tỉa từng nhánh lá nhọc công lâu lắc.
Đại để cách đối trị tâm bệnh hay nhất là giữ ḷng cho thanh tịnh. Hễ tâm vừa
móng động liền giáo biết, biết tất liền tiêu. Hoặc nó không tiêu, hăy quán xét
lư lẽ nói trên để trừ đoạn, nếu cũng không trừ được, th́ lại lấy sự để cấm chỉ.
Trước lo tu tâm sau lo khởi công hạnh sự. Như thế mới là lối sửa chữa tội lỗi
đắc sách nhất.
Khi phát nguyện cải quá cần phải nhờ thiện hữu đề huề, cầu Hiền Thánh chứng
tri. Nhất tâm sám hối ngày đêm không giải đải, trải qua một thất (bảy ngày),
hai thất, cho đến một tháng, ba tháng, tất sẽ có hiệu nghiệm rơ ràng, hoặc tự
thấy tâm thần thoải mái, trí tuệ mở mang, hoặc đang trong chỗ phiền toái rối
ren mà gặp đâu thông suốt đó, hoặc gặp oán cừu mà họ bỏ giận làm lành, hoặc
mộng thấy khạc nhổ vật đen, mộng thấy được các bậc Thần, Thánh, Tiên, Hiền đề
huề tiếp dẫn, hoặc mộng thấy bay đi giữa hư không, mộng thấy tràng phan bảo cái
đưa rước, tóm lại là gặp được các chuyện tốt lành nhờ lỗi tiêu, tội diệt hiện
ra. Tuy nhiên, không được cố chấp lấy đó để tự cao tự đại, lăng quên bề tiến
hóa.
Xưa ông Cừ Bá Ngọc, đang lúc 20 tuổi đă biết xét tội lỗi lúc thiếu thời để lo
chừa bỏ, đến lúc 21 tuổi vẫn thấy rơ lỗi trước chưa sạch, đến 22 tuổi lại thấy
lúc 21 tuổi c̣n như kẻ ở trong mộng. Cứ mỗi năm lại mỗi năm, ông không ngớt cải
đổi, đến lúc 50 tuổi ông c̣n thấy ǵ sai quấy lúc 49 tuổi. Cái lối cải quá của
người xưa như thế thật đáng phục thay!
Chúng ta hiện mang thân phàm tục, tội ác dập dồn, thế mà ít ai xét thấy, đó
phải chăng là v́ tâm c̣n thô và mắt bị ḷa? Dù thấy không thấy mặc ḷng, hễ đă
tạo tội ác sâu dầy tất không tránh khỏi những điều bất hảo, hoặc tâm thần hôn
muội, chưa nhớ đă quên, hoặc thường sinh phiền năo dẫu không việc ǵ xúc động,
hoặc gặp người quân tử th́ hoảng sợ mặt đỏ hồn tiêu, hoặc chẳng ưa nghe lời hay
lẽ phải, hoặc giúp người mà lại bị người oán, hoặc mộng thấy điên đảo, đến nỗi
nói cuồng thất chí... đó toàn là các tướng quái nghiệt của tội ác hiện ra,
người nào gặp cảnh như thế nầy cố gắng dơng mảnh cải quá tự tân, may ra mới khỏi điều mê hoặc.
3. Chứa đức làm lành
Kinh Dịch nói: Nhà nào chứa lành sẽ có dư phúc.
Xưa nhà họ Nhan trước khi muốn gả con gái cho Thúc Lương Ngột đă không quên tra
xét công việc chứa đức của Tổ tông nhà ấy để suy xét con cháu về sau chắc chắn
hưng xương.
Đức Khổng Tử có lời khen vua Thuấn là đại hiếu rằng: Ông Thuấn mà tế Tổ tông
th́ Tổ tông chứng hưởng, phước để con cháu th́ con cháu được trông nhờ.
Ông Thiếu sư Dương Vinh người đất Kiên Ninh, nhà đă nhiều đời sống với nghề đưa
đ̣, có một lần xảy ra cơn mưa lụt nước ngập tràn phá hại dân cư, nhiều người bị
trôi theo ḍng nước. Trong lúc đó, mọi kẻ khác lo bơi thuyền vớt của, riêng ông
cố và ông nội của Thiếu sư lại lo t́m vớt người, chẳng chút để tâm tới tài vật,
người chung quanh thấy thế chê là ngu, nhưng từ ngày thân phụ Thiếu sư ra đời,
nhà ông dần dần thịnh vượng. Có một Thần nhân gia h́nh Đạo sĩ đến nói với ông
rằng: Tổ phụ nhà người có âm đức, con cháu sẽ nên quư hiển. Quả thật sau sinh
Thiếu sư, mới 20 tuổi đă đậu đại khoa, làm quan tới chức tam công, và cả ông
cố, ông nội và thân phụ của Thiếu sư đều được phong chức quan lớn. Ai cũng biết
ḍng dơi nhà nầy đến nay vẫn phát nhiều người hiền tài xuất chúng.
Ông Dương Tự Trưng, người huyện Cần, lúc đầu được làm huyện Lại, giữ ḷng nhân
hậu, xử đoán công minh, nhân một lần ông gặp quan Tri huyện đánh khảo một tên
tù máu tuôn lai láng mà vẫn chưa đă giận. Dương Tự Trưng mới quỳ gối khuyên
giải, ông Tri huyện trả lời: Những kẻ làm điều vượt pháp trái lẽ thế nầy, khiến
ai không giận được.
Dương Tự Trưng cúi đầu nói: quan trên đă bỏ rơi pháp luật, khiến dân lư tán lâu
ngày rồi, nay giả sử quan huyện xét thấy người kia quả có tội phạm, động ḷng
thương xót buồn bă, thế mà xử trị sợ c̣n chưa được công minh, huống lại nổi
giận đùng đùng, làm sao công minh được. Nghe câu ấy quan huyện liền dịu ḷng
thôi giận.
Dương Tự Trưng tuy nhà rất nghèo, nhưng ai tặng biếu ǵ cũng không nhận. Hễ gặp
tù nhân thiếu thốn ông thường t́m cách giúp đỡ.
Một lần nọ có vài người tù đang đói đến xin, gặp lúc nhà ông thiếu gạo, nếu
giúp cho tù th́ người nhà phải nhịn đói, c̣n để cho người nhà ăn th́ cảnh tù
đói đáng thương, ông mới thương lượng với vợ.
Vợ ông hỏi: Các người tù ấy đâu đến? Ông đáp: Từ Hàng Châu đến. Nhận thấy họ đi
xa đói khát, mặt mày xanh xao hốc hác đáng thương, vợ chồng ông liền đem phần
gạo của ḿnh nấu cháo cho họ ăn.
Về sau hai vợ chồng sinh được hai trai, một tên Thủ Trần, một tên Thủ Chí. Cả
hai đều làm quan tới chức Lại bộ tả hữu thị lang. Cháu trưởng làm H́nh bộ thị
lang, cháu thứ làm chức Liêm hiến tỉnh Tứ Xuyên, toàn là những vị triều thần
tên tuổi c̣n để tiếng đời nay.
Khoảng niên hiệu Chánh Thống đời Minh, có Đặng Mậu Thất nổi loạn tại tỉnh Phúc
Kiến, sĩ dân trong xứ theo rất đông, triều đ́nh cử quan Ngự sử Trương Giai dùng
mưu bắt giặc, sau ông nầy lại ủy quan Bố chánh họ Tạ làm chức Đô sự t́m giết
đảng giặc. Tạ xét trong sổ hễ thấy người nào nghi không thực sự oan phạm, th́
âm thầm trao cho một lá cờ nhỏ vải trắng, dặn khi nào quân binh đi đến th́ cắm
cờ ấy ra trước cửa, đồng thời ra lệnh cho quân lính không ai được giết càn, nhờ
đó hàng vạn người sống sót khỏi bị chết oan. Về sau con của Tạ là Thiên, thi đỗ
Trạng nguyên, làm Tể tướng, cháu Tạ tên Phỉ, thi đỗ Thám hoa.
Nhà họ Lâm ở huyện Phố Điển, nhiều đời trước trong nhà có một bà lăo ưa làm
việc thiện. Bà thường lấy bột gạo làm thành từng vắt để bố thí. Hễ ai đến xin
là cho, không hề tỏ vẻ buồn chán. Có một vị Đạo nhơn hằng ngày đến xin sáu, bảy
vắt, bà lăo vẫn vui ḷng cho, suốt ba năm liền như thế. Vị Đạo nhân biết bà ta
thật có ḷng thành, mới bảo rằng: Tôi ăn của bà suốt ba năm, bây giờ biết lấy
ǵ báo đáp, thôi tôi chỉ cho bà biết ở sau phủ bà ở có chỗ đất tốt, bà hăy dặn
con cháu say nầy đem bà đến đó, chôn, tất con cháu sẽ phát tước lộc lớn. Về sau
con cháu y lời dặn chôn bà. Quả thật đời thứ nhất có tới chín người đỗ đạt, và
tiếp tục nhiều đời nhà nầy trở thành một nhà thế kiệt trâm anh, đến đỗi tại
tỉnh Phúc Kiến có câu ca dao: Thiếu mặt người họ Lâm th́ bảng vàng không nở.
Tóm lại những điều trên, tuy thi hành với nhiều lối, nhưng rốt lại đồng là việc
thiện. Những việc thiện nầy nếu gia tâm xem xét kỹ sẽ thấy có chân có giả, có
thẳng có công, có âm có dương, có thị có phi, có thiên có chánh, có nửa có
toàn, có lớn có nhỏ, có khó có dễ.
Nếu làm lành mà không thấu đạt lư lẽ nầy, nhiều khi khổ công nhọc trí, chẳng
đem lại lợi ích ǵ.
4. Đức khiêm hư
Kinh Dịch có câu: Thiên đạo thường làm khuy tổn chỗ dinh kiêu mà ích bồi nơi
khiêm hư, địa đạo làm biến cải chỗ dinh kiêu mà lưu nhận nơi khiêm hư, quỷ thần
thường làm hại trừ chỗ dinh kiêu mà tăng phúc nơi kiêm hư, nhân đạo thường chán
ghét chỗ dinh kiêu mà ưa chinh nơi khiêm hư. Thế nên trong một quẻ Khiêm mà sáu
hào đều tốt.
Kinh Thư nói: người tự
kiêu tự măn thường bị nạn, kẻ khiêm nhượng hư tâm thường đắc ích.
Tôi từng cùng bạn bè nghiệm thử, thường thấy kẻ hàn sĩ khi sắp hiển đạt, bao
giờ cũng có một lúc đức khiêm tốn hiện trên nét mặt.
Khoa thi năm Tân mùi, tôi cùng mười người bạn ở huyện Gia Thiện đi thi, trong
đó có anh Đinh Kính Vũ, người tuy trẻ mà rất có tính khiêm nhượng hư tâm. Tôi
nói với anh Phí Cẩm Pha, thế nào khoa nầy anh Đinh Kính Vũ cũng đỗ. Anh Phí gạn
lại: làm sao biết? Tôi đáp: chỉ người có đức khiêm hư mới được phước. Anh thử
xem trong bọn mười người chúng ta có ai có tính khiêm nhượng bằng anh Đinh Kính
Vũ đâu? Có ai bị chơi chọc mà không đối trả, bị chê bai mà không
biện bạch như anh Đinh Kính Vũ đâu? Người có đức nết như thế, thế nào cũng được trời đất hộ độ,
làm sao không phát được. Quả nhiên lúc treo bảng thấy có tên anh Đinh đậu cao!
Năm Đinh sửu tôi ở chung với anh Bằng Dữ Chi tại Kinh đô, bỗng thấy anh có phong độ khiêm
tốn hư tâm khác hẳn tính t́nh hồi nhỏ.Bạn anh ta, ông Lư Tế Nham, là người cương
trực mà thành thực, thưởng thẳng thắn chỉ lỗi anh ngay mặt, nhưng lúc nào cũng
thấy anh b́nh tĩnh nghe theo chẳng hề thốt một lời căi cọ. Thấy vậy tôi nói
thầm phước có phước hiện ra sau họa có họa phát ra trước, anh nầy quả có hư tâm
khiêm tốn như thế, anh chắc chắn gặp được điều hay, thế nào anh ta cũng đậu kỳ
nầy. Sau quả thật đúng như lời tôi dự đoán.
Ông Trương Úy Nham người huyện Giang Âm, học rộng văn hay, có nhiều tiếng tăm
trong văn giới. Năm Giáp ngọ ông đến thi Hương tại Nam Kinh, nhân ở lại một
ngôi chùa. Khi treo bảng thấy không có tên ḿnh, mới nổi nóng mắng nhiếc giám
khảo là đồ ḷa mắt chẳng trông thấy văn ḿnh. Một vị Đạo nhân gần bên nghe thấy
mỉm cười, Trương giận luôn vị Đạo nhân.
Vị Đạo nhân nói: Văn của tướng công chắc không hay lắm.
Trương càng giận, nộ rằng: Ông không thấy văn tôi, sao biết văn tôi không hay.
Vị Đạo nhân nói: Tôi từng nghe kẻ làm văn quư hồ tâm khí b́nh ḥa, nay thấy
tướng công nóng giận mắng nhiếc lung tung, không có chút chí ḥa khí th́ văn
hay vào đâu được.
Trương bỗng đổi giận, tỏ ḷng kính phục và xin chỉ giáo.
Đạo nhân nói: Thi hỏng hay đậu là do mạng. Mạng không đậu th́ dù văn hay cũng
vô ích, vậy ông cần để ư chuyển biến mạng ḿnh.
Trương nói: đă là mạng th́ làm sao chuyển biến được?
Đạo nhân nói: tạo mạng do nghiệp xưa, lập mạng do nghiệp nay, nếu ông gắng làm việc thiện,
dồn chứa âm đức, th́ có phước ǵ mà không cầu được.
Trương nói: Tôi chỉ là một tên bần sĩ, làm sao làm được sự nầy.
Đạo nhân nói: việc lành, âm đức đều do tâm tạo, thường bảo tồn tâm đó thời công đức vô lượng. Ngay
như đức tínhkhiêm hư đâu phải mất tiền mới
làm được, thế mà ông không biết tự tỉnh để mà làm, lại giận trách quan
trường dốt nát, phải chăng đó chỉ là tự ông không muốn làm chớ không phải không
thể làm?
Từ đó Trương để ư kiềm chế kiêu khí, ngày ngày tu nhân bồi đức. Năm Đinh dậu, Trương mộng thấy đi đến
một căn pḥng cao lớn, gặp được một bảng kư lục chuyện thi, thấy ở giữa có
nhiều hàng bỏ trống không tên. Một người đứng bên nói: đây là bảng ghi chép
khoa thi năm nay. Trương hỏi: sao bỏ trống nhiều chỗ không tên? Người ấy đáp:
về việc thi cử cứ ba năm xét một lần, hễ người nào chứa nhiều công đức, th́ mới
có tên vào đó. Chỗ bỏ trống trong bảng kư lục nầy là tại trước kia người có
công đức đáng đậu, sau vi phạm tội ác mà tên bị xóa đi. Cuối cùng lại thấy một
ḍng chữ rằng: người ba năm lại đây giữ thân cẩn thận, tên ngươi có thể được
điền vào bảng nầy, hy vọng ngươi cố gắng. Quả nhiên khoa ấy, Trương được đậu
thứ 105 trên bảng vàng.
Lời xưa nói: Người có chí
ở công danh tất được công danh, người có chí ở giàu sang tất được giàu sang.
Người có chí như cây có gốc. Khi đă lập chí phải thường nên tập tính khiêm hư, dè chừng mọi điều hành
động, được như thế tự nhiên cảm động đất trời mà phúc đức đầy đủ nơi ta vậy.
Phương pháp tích thiện
1. Bàn luận rơ ràng về thiện
Nếu xét một cách tinh tường mà nói, th́ thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc,
có âm dương, có phải hay chẳng phải, có thiên lệch hay chính đáng, có đầy có
vơi, có tiểu có đại, có dễ hay khó, đều cần bàn luận rơ ràng.
Làm việc thiện mà không hiểu rơ đạo lư, cứ tự cho việc ḿnh làm là hành thiện,
ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.
------Thế nào là chân thiện và giả thiện?
Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hoà thượng (một vị cao tăng triều
đại nhà Nguyên), mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo h́nh, tức
làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, nay có người nọ thiện mà con cháu không được
thịnh vượng, mà kẻ kia ác th́ gia đ́nh lại phát đạt, vậy là Phật nói về việc
báo ứng thực vô căn cứ sao?
Hoà thượng nói: Người phàm tâm tính chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh,
tuệ nhăn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy
không phải là hiếm có, đă tự ḿnh lẫn lộn phải trái cho ác là thiện, cho thiện
là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại c̣n oán trách trời cho báo ứng là
sai, là không công bằng ư.
Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện th́ cho là thiện, thấy ác th́ cho là
ác, sao lại bảo là lẫn lộn đảo điên vậy?
Hoà thượng bảo họ thử thí dụ xem sự t́nh thế nào là thiện thế nào là ác. Một
người trong bọn nói : mắng chửi đánh đập người là ác , tôn kính lễ phép với
người là thiện.
Hoà thượng nói không nhất định là như vậy.
Một người khác cho là tham lam lấy bậy của người là ác, ǵn giữ sự thanh bạch
liêm khiết là thiện.
Hoà thượng cũng bảo không nhất định là như vậy.
Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hoà
thượng đều bảo là không nhất định là như vậy.
Nhân thế bọn họ đều thỉnh hoà thượng giảng giải cho.
2. Định nghĩa chữ thiện
Hoà thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Giúp ích người gọi là thiện, chỉ v́ ích ḿnh gọi là ác. V́ giúp ích người cho nên dù có đánh
mắng cũng vẫn là thiện, trái lại chỉ v́ ích ḿnh nên dù có kính trọng người
cũng vẫn là ác.
(1). V́ vậy người làm thiện đem lại ích lợi cho người là công, mà công tức là
chân, c̣n v́ lợi ḿnh ấy là tư, mà tư tức là giả.
Lại việc thiện tự ḷng phát ra là chân, tập theo thói cũ là giả, không trước
tướng mà làm chân, trước tướng mà làm giả...
Lại nữa làm việc thiện mà
xuất phát từ tấm ḷng thành là chân thiện, c̣n hời hợt chiếu lệ mà làm là giả
thiện. Hơn nữa hành
thiện mà không nghĩ đến một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại
c̣n hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự ḿnh cần khảo sát
kỹ lưỡng.
--------Thế nào là âm thiện,dương thiện?
Phàm làm việc lành mà
người ngoài biết được là dương thiện, làm việc lành mà người ngoài không biết
được là âm đức. Âm đức được phúc báo, dương thiện hưởng danh thơm. Nhưng
danh thơm thường là điều
đáng húy kỵ v́ xưa nay biết bao nhiêu người v́ háo danh thành thử bị
danh làm hại, lâm vào cảnh tai họa, ngược lại những người không tội lỗi mà cứ
bị thiên hạ chê oan, th́ lắm lúc con cháu họ được phát đạt.
Cái lẽ âm dương như thế, phải để tâm nhiều mới hiểu hết.
------Thế nào là phải và chẳng phải ?
Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở nước
khác về th́ được quan phủ thưởng tiền. Tử Cống(học tṛ đức Khổng Tử tên là Tứ)
chuộc người về mà không nhận tiền thưởng.
Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi.
Ôi thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục thay đổi tập
quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ư làm những
việc thích hợp với riêng ḿnh.
Nay nước Lỗ người giàu th́ ít người nghèo th́ nhiều,nếu nhận thưởng cho là tham
tiền là không liêm khiết c̣n không lănh thưởng th́ người nghèo sao có tiền tiếp
tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về
nữa.
Tử Lộ (tên Do,học tṛ đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con
trâu, Tử Lộ nhận lănh. Khổng Tử hay chuyện hoan hỷ bảo rằng:Từ nay về sau ở
nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối.
Cứ lấy mắt thường t́nh mà xem, việc Tử Cống không nhận tiền bồi thường là cao
quí, Tử Lộ nhận trâu là thấp hèn, nhưng Đức Khổng Tử lại khen Tử Lộ mà chê Tử
Cống.
Vậy nên biết người không nên chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt mà cần xét xem hành
động đó có ảnh hưởng tệ hại ǵ về sau nầy không.
Không nên bàn tới lợi ích nhất thời ở đời nầy mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà
cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân ḿnh mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại
chúng nữa.
Việc làm hiện nay tuy bề
ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại di hại cho người, th́ thiện mà thực
chẳng phải thiện.
C̣n việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau nầy lại có lợi ích cứu
giúp người th́ tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy.
Ở đời có nhiều sự t́nh tương tự,chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có
trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ
tâm, đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng .
------Thế nào là thiên lệch và chính đáng?
Xưa ông Lă Văn Ư, lúc mới từ chức tể tướng , cáo lăo về quê, dân chúng 4 phương
đến nghênh đón như thái sơn bắc đẩu. Nhưng có một người làng say rượu mạ lỵ
ông. Lă công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: kẻ say chẳng chấp làm ǵ , đóng
cửa lại mặc kệ hắn.
Qua một năm sau,người đó phạm tội bị tử h́nh. Lă công hay biết sự t́nh mới hối hận rằng : giá mà ngày
ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt th́ hắn có thể bị phạt một tội nhẹ mà tránh
khỏi phạm trọng tội về sau.
Ta lúc đó chỉ muốn giữ
ḷng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ hoá ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của
hắn để phạm tội tử h́nh như ngày nay vậy.
Đó là một sự việc do ḷng thiện hoá ra làm ác. Cho hay có khi tâm lành mà hành
sự lại ác, có khi tâm ác mà hành sự lại lành.
-------Thế nào là đầy và vơi (bán và măn)
Kinh dịch nói việc thiện mà không tích luỹ cho nhiều không đủ để được danh thơm
tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để mang hoạ sát thân.
Kinh thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ v́ thế mà Trụ Vương
bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ
đầy kho, c̣n biếng nhác không chịu tích lại thi vơi chứ không đầy.
Chuyện làm thiện được đầy hay vơi bán hay măn là vậy.
Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại nghèo, trong
túi chỉ c̣n hai đồng , đem cả ra để cúng . Vị trụ tŕ đích thân làm lễ bái sám hồi hướng
cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài phú quư có thừa, đến chùa lễ
Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hoà thượng trụ tŕ chỉ sai đồ đệ thay
ḿnh làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi
chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng
cho, nay cúng cả ngàn lượng bạc mà ngài không tự ḿnh làm lễ là sao vậy?
Vị hoà thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả thật ít ỏi nhưng xuất phát từ tấm ḷng thật chân thành,
nếu bần tăng không đích
thân làm lễ th́ không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy
nhiều nhưng tâm bố thí th́ không được chí thành như trước, nên bảo đồ đệ thay
bần tăng làm lễ cũng đủ.
Với ḷng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên măn, c̣n bố thí cả ngàn
lượng bạc mà ḷng không được chí thiết th́ công đức đó chỉ được bán phần mà
thôi.
Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lă Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có
thể đem dùng để cứu giúp người đời.
Lă Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất không?
Chung Ly Quyền bảo 500 năm sau vàng đó sẽ trở về nguyên bản chất là sắt, th́ họ
Lă nói : Như vậy sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng học phép ấy
làm ǵ.
Chung Ly Quyền bảo:Muốn tu tiên cần tích luỹ công đức 3000 điều, nhưng chỉ một
lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ măn 3000 công đức rồi.
Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán măn vậy.
Lại làm lành mà tâm không
chấp trước th́ mỗi việc đều được viên măn, trái lại tuy làm suốt đời mà
việc lành cũng chỉ có được một nửa.
Ví như đem của giúp người
mà trong không thấy ḿnh giúp, ngoài không thấy người nhận, trung gian không
thấy vật đem giúp th́ được gọi là bố thí tam luân không tịch hay nhất tâm thanh
tịnh.
Bố thí như vậy, dù một lon gạo cũng có thể gây vô lượng phước, một đồng bạc có
thể tiêu ngàn kiếp tội. Nhược bằng tâm khư khư chấp trước, thời tuy bố thí cả
thoi vàng, phước đức cũng chỉ có được một nửa.
Đây lại một cách xét việc lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.
---------Thế nào là đại và tiểu
Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn lâm viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm
phủ. Diêm vương sai các phán quan tŕnh những cuốn sổ ghi điều thiện và
ác ra để xét. Nếu đem so sánh th́ những sổ ghi điều ác chất đầy một đống
c̣n sổ ghi điều thiện có mỗi quyển mỏng dính.
Diêm Vương cho đem lên bàn cân th́ bên một cuốn sổ mỏng dính kia lại nặng hơn
tất cả các cuốn ghi điều ác cộng lại.
Trọng Đạt nhân thế mới hỏi : Năm nay tôi mới chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội
lỗi lại có thể nhiều đến thế? Diêm Vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi đến lúc có
thực sự phạm phải hay không.
Trọng Đạt lại hỏi trong cuốn sổ mỏng kia có ghi việc thiện ǵ vậy.
Diêm Vương bảo : triều đ́nh đă từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở
Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián, sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy.
Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ,nhưng triều đ́nh
không y theo lời tấu tŕnh , th́ sự việc đâu có ích ǵ?
Th́ Diêm Vương lại bảo cho hay là tuy triều đ́nh không y
theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà người là v́ lợi ích của toàn dân
muốn cho họ khỏi bị đi lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời
tấu tŕnh được triều đ́nh y theo th́ công đức nhà người thật vô cùng lớn
lao. Cho nên nếu có
chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ , cho đại chúng th́ tuy việc
làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, c̣n nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân ḿnh
th́ tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.
-------------Thế nào là khó và dễ ?
Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục ḿnh, muốn thắng được tâm ḿnh th́ nên
bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi tâm trước.
Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức
là từ chỗ phải thắng được ḷng ḿnh vậy, bởi lẽ khó mà làm được th́ dễ ắt cũng
làm xong.
Chẳng hạn như ở Giang Tây có ông già họ Thư làm nghề dạy học, nhân gặp một
người nghèo thiếu tiền quan, vợ người ấy sắp bị quan bắt làm tôi tớ, ông liền
bỏ số tiền nhập học của học tṛ mà ông đă dồn được trong hai năm ra chuộc, nhờ
đó vợ chồng người kia khỏi bị ly tán. Ông già họ Trương ở tỉnh Trực Lệ, nhân
gặp một người bị nợ khốn, phải đem cầm vợ con. Ông liền bỏ số tiền ḿnh
để dành được trong 10 năm ra chuộc, nhờ đó vợ con người kia được an toàn. Bỏ
tiền cứu người như hai trường hợp trên thật là hiếm có, ít ai làm nổi.
Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đă cao, không có con nối dơi, lân gia
có người đem đứa con gái c̣n trẻ đến nạp cho lam thiếp , nhưng ông không nhẫn
tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn
được.
Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ hậu.
Phàm những người có tiền
tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc th́ thực là dễ , dễ mà chẳng làm là tự
huỷ hoại ḿnh. Người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thật là khó , khó
nhưng mà làm được ,đó mới thực là đáng quư vậy .
3.Tuỳ duyên hết sức tu thập
thiện
Tuỳ lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tuỳ hỷ công đức mà hành thiện, nếu
phân biệt ra từng loại th́ rất nhiều, nhưng đại khái có mười loại như sau: trợ giúp người cùng làm thiện,
giữ ḷng kính mến người, thành toàn việc thiện của người, khuyến khích người
làm thiện, cứu người gặp nguy khốn, kiến thiết tu bổ có lợi ích lớn, xả tài làm
phúc, ǵn giữ bảo hộ chánh pháp, kính trọng tôn trưởng, thương tiếc mạng sống
loài vật.
-------------- Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?
Xưa vua Thuấn lúc chưa tức vị thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều
tranh chiếm chỗ nước sâu dầy nhiều cá, c̣n người già yếu phải t́m chỗ nước nông
cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có ḷng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cùng tới đánh
cá. Thấy người nào
tranh dành chỗ th́ ông im lặng không đá động ǵ đến tánh xấu ấy, c̣n thấy người
nào mà có ḷng nhường chỗ th́ ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng
nhường chỗ cho người khác. Một năm sau những người đánh cá ở chỗ nước sâu
ai cũng có ḷng nhường chỗ cho nhau mà không tranh dành nữa.
Ôi vua Thuấn thực sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hoá được
người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân ḿnh làm gương mẫu cho
người khác sửa đổi. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.
Bọn chúng ta ở thời mạt pháp nầy chẳng nên thấy ḿnh có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người, chẳng
nên lấy chỗ hay giỏi của ḿnh mà đem so sánh xét người. Ẩn ác dương thiện tức là thấy người
ta dở, có lỗi lầm th́ gặp riêng khuyên bảo đừng ra ngoài nói xấu làm người ta
mất hết danh dự, gặp được việc làm tốt của ai th́ nên ghi nhớ mà học theo đồng
thời hết sức ca ngợi để mọi người cùng được biết .
---------------Thế nào là thành toàn việc thiện
của người?
Một ḥn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như ḥn ngói, nhưng nếu đem
mài dũa chạm trổ ắt sẽ thành khuê trượng hốt ngọc. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện hoặc thấy ư
chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công th́ đều nên khuyến dụ trợ giúp
họ; hoặc khen ngợi khích lệ hoặc ǵn giữ bảo bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ
hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu hoạ phỉ báng họ, cốt sao
giúp cho họ được thành công mà thôi.
Đại khái con người thường không ưa thích những người không giống như ḿnh,
chẳng hạn như ác không ưa thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người
trong một xóm làng, thiện th́ ít mà xấu ác th́ nhiều, v́ thế người thiện ở đời
bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng.
Hơn nữa nguời hào kiệt, thông minh tài cán, tính t́nh cương trực không trọng bề
ngoài, không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê b́nh;
v́ thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo
báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rơ được sự t́nh
mà khuông phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người th́
công đức thực là lớn lao vô cùng.
-------------Thế nào là khuyến khích người làm thiện
Con người ta sinh đă sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm.
Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đoạ ch́m đắm v́ lợi danh.
Đối với những người c̣n mải mê tham danh tham lợi tạo thành nghiệp ác, ta nên t́m cách cảnh tỉnh họ cho
thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn
trong đêm dài mà ta giúp họ đoạn diệt , bạt trừ hết th́ ân huệ đó thật vô biên
vô lượng .
Hàn Dũ đời nhà Đường có nói : dùng lời th́ khuyên người được một đời, làm sách
th́ khuyên người được trăm đời. Việc khuyên người làm lành ở đây đem so với
việc cùng người làm lành ở trên có phần sút kém, song theo bệnh cho thuốc, theo
thời khuyên răn vẫn thâu được hiệu quả rất nhiều. C̣n như dùng chính bản thân
ḿnh hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh
ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi th́ hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại
h́nh tích ǵ; có hai phương tiện nầy đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người,
khuyên người cần phải
thông minh sáng suốt , biết tuỳ thời, tuỳ người không để mất lời tức phí lời
ḿnh nói mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể
khuyên cải được mà ḿnh không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém
hiểu biết không có trí tuệ vậy.
------------Thế nào là cứu người nguy cấp
Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Vậy khi gặp ai
lâm cảnh ách nạn hăy xem như chính ḿnh lâm nạn mà lo vội vă cứu trừ, hoặc lấy
lời biện bạch an ủi, hoặc dùng phương chước khôn ngoan giải trừ.
Thôi Tử có nói: Làm ân không cần phải đợi lớn lao mới làm, chỉ cần cứu kịp người lúc
cấp nạn là quư.
Đó thật là lời của kẻ có ḷng nhân vậy .
Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho nên rất quư trọng đồng tiền, nay
chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong ḷng bỏ được tính keo kiệt , ngoài mặt
th́ cứu giúp được người lúc cần cấp; lúc mới bắt đầu th́ có vẻ miễn cưỡng mà
làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi th́ an nhiên tự tại hành động, có thể rửa
sạch được ḷng riêng tư, vị kỷ, trừ bỏ được tính biển lận.
-----------Thế nào là giữ ǵn bảo hộ chánh pháp?
Góp phần công đức xây dựng chùa chiền, chăm làm việc Phật sự, ấn tống kinh
điển, lưu truyền sách báo bài giảng của quư thầy là bảo hộ chánh pháp.
Bản thân ḿnh th́ học, hiểu
và thực hành đúng chánh pháp rồi đem chánh pháp đó lan truyền đi cho những
người khác, ấy cũng là bảo hộ chánh pháp.
__________________ "Mấy ngh́n năm ḍng dă buồn vui... Khóc cười theo mệnh Nước nổi trôi. Nước ơi!"
Làm Người phải Nói.
Đă tham gia: 06 May 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 55
Msg 190 of 302: Đă gửi: 18 November 2008 lúc 11:54pm | Đă lưu IP
NgoaLong đă viết:
NL không biết Khổng Minh tài trí thông tuệ cở nào, nhưng theo sách vở ghi lại (chắc hẳn ai cũng qua sử sách mà thôi) th́ Khổng Minh rất tài ba, trên thông thiên văn, dưới tường địa lư, giữa rơ thế sự cũng như nhân sự, ngoài ra Kỳ Môn - Độn Giáp, thuật Chiêm Bốc th́ khá thông, thuật xem Tướng cũng rơ, etc. Nói chung, Khổng Minh là một người kiệt xuất trên đời, học rộng biết nhiều, thông kim bác cổ, chuyện trên trời dưới đất và thế sự đều nắm trong ḷng bàn tay, các môn chiêm bốc đều hiểu th́ không đơn giản tí nào. Vậy mà chú vuivui nói "nhưng nếu Khổng Minh muốn cải số của chính ḿnh, nếu biết số mệnh th́ rơ ràng là có thể cải được !. Chỉ cần hiểu được Ṿng Thái tuế là Cải được dễ dàng" như thế th́ đâu khác ǵ bảo rằng ông Khổng Minh không hiểu ṿng Thái Tuế nên không Cải được số của ḿnh? Ṿng Thái Tuế nói riêng, môn Tử Vi nói chung, so với các thuật mà Khổng Minh biết th́ thế nào? Chắc hẳn 1 trời 1 vực.
Nếu bảo, thời Khổng Minh chưa có ṿng Thái Tuế th́ là 1 chuyện khác, chứ nếu bảo Khổng Minh không cải được số của ḿnh v́ không hiểu được ṿng Thái Tuế th́ là chuyện quan trọng đó chú vuivui.
Nhân bàn về ngài Khổng Minh với ṿng Thái Tuế mới thấy cái hết ḿnh trong oan nghiệt của ṿng Thái Tuế ngộ Không Kiếp , mà đây lại là Thái Tuế Dậu cung tức cung Thiên Di thứ hai (bất luận cung này là cung ǵ !), sẵn sàng dấn thân ra bất kể thành hay bại .
Lư vậy Khổng Minh không cưỡng nổi cái định mệnh vô sở hữu xứ của cung Dậu đi theo Lưu Bị mà không ở ẩn . Vấn đề là đừng đem thành bại hay không mà luận anh hùng giỏi hay hào kiệt thức thời . Ông Khổng Minh đă chấp nhận cuộc chơi vô tiền khoáng hậu lưu danh thiên cổ, cái bại của ông ta là cái bại một phần từ bản chất cung Dậu , phần nữa là Không Kiếp lâm vào Thái Tuế khi cung an Thân ở Măo nh́n vào cung Dậu với Nhật Lương sáng chói là cách tự ḿnh đối kháng ḿnh và thua là thua ông Trời, thua Thái Tuế cũng là thua chính ḿnh thôi !
Cái thất bại cải đổi của ông không phải là thường t́nh không biết cơ Trời , mà là cái bại của người ngộ được định mệnh cay nghiệt mà vẫn "chịu chơi hết ḿnh" cho đến chết ! Điều này hơn xa xa lắc những ai có mệnh số may mắn cải đổi chơi mà thành công thật, mà chẳng hiểu mô tê về thành bại là do phước đức, do duyên nghiệp với nhau CHỨ KHÔNG PHẢI TÀI NĂNG CỦA M̀NH .
Ta cần phải hiểu trước khi chết, với địa vị Thừa Tướng ngang với chức Thủ Tướng và Tổng Tư Lệnh bây giờ mà ông từ chối tất cả những đặc ân về tiền, đất đai, chức quyền cho con cháu, th́ đủ thấy ông không hề tầm thường muốn cải đổi , cải thiện để có một vỏ bọc bao che tránh nạn cho chính ḿnh và gia đ́nh , th́ đủ thấy chuyến Thiên Di của ông chỉ là đem cuộc đời ḿnh muốn thách đố với định nghiệp mà thôi .
Đă tham gia: 02 February 2005 Nơi cư ngụ: Argentina
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 358
Msg 191 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 1:54am | Đă lưu IP
Thiên Hỉ đă viết "Cái thất bại cải đổi của ông không phải là thường t́nh không biết cơ Trời , mà là cái bại của người ngộ được định mệnh cay nghiệt mà vẫn "chịu chơi hết ḿnh" cho đến chết ! Điều này hơn xa xa lắc những ai có mệnh số may mắn cải đổi chơi mà thành công thật, mà chẳng hiểu mô tê về thành bại là do phước đức, do duyên nghiệp với nhau CHỨ KHÔNG PHẢI TÀI NĂNG CỦA M̀NH . "
Liễu Phàm tứ huấn th́ nói rằng "nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ , cho đại chúng th́ tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, c̣n nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân ḿnh th́ tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy. "
Nay xét thấy Khổng Minh dư sức hiểu thiên thời đă thuộc về Tào Tháo mà có câu "Ư dân là ư trời". Kể từ loạn Hoàng Cân, TQ tan nát, các sứ quân đánh nhau tá lả, dân chết như rạ, chẳng mấy ai c̣n hy vọng, mong mỏi ǵ nhà Hán trùng hưng cả, người ta ngán tới tận cổ cái triều đại thối tha ấy rồi nên mới theo cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Cân (muốn biết dân theo đông đảo thế nào th́ đọc lại chương 1 của Tam QUốc diễn nghĩa nhé).
KM đă rơ vấn đề từ lúc c̣n ở Long Trung, thế mà cứ theo ư muốn riêng tư, theo chính kiến của riêng ḿnh, t́m mọi cách vun bồi cho phe phái, muốn đảo ngược quy luật đổi thay của lịch sử, chống lại nguyện vọng của đại đa số nhân dân nên đă kéo dài cuộc nội chiến, đưa đến cái chết của hàng trăm vạn binh lính và lương dân như vậy là làm ác chứ đâu có làm thiện cũng đâu có phải v́ lợi ích quốc gia.
Cái nỗ lực của KM là cái việc làm của người biết cơ trời mà cố t́nh làm trái, quả báo là bị giảm thọ.
Đă tham gia: 02 February 2005 Nơi cư ngụ: Argentina
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 358
Msg 192 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 2:11am | Đă lưu IP
Thái tuế mà gặp Không Kiếp, phải xét xem chính tinh thế nào, nếu là vô chính diệu hoặc chính tinh xấu th́ không hẳn là bậc quân tử dấn thân v́ chính nghĩa bất chấp hiểm nguy đâu mà có thể là trường hợp lợi dụng chính nghĩa tạo ác đó v́ kẻ ác có đứa nào tự nhận ḿnh là sai đâu.
Trong chính trị, một quyết định sai của nhà lănh đạo đưa đến ảnh hưởng xấu di hại cho bao đời sau, ảnh hưởng đến thế thiện ác của thế giới. Những con người theo đuổi lư tưởng cộng sản là những ví dụ điển h́nh, nạn nhân trực tiếp khoảng 100 triệu mạng người, nạn nhân gián tiếp th́ hàng tỷ, trải dài nhiều thế hệ. Như vậy việc một nhà lănh đạo cho dù có hy sinh suốt đời không lấy vợ, thanh đạm, áo bạc, dép râu, v...v và cố tranh đấu cho cái lư tưởng ấy th́ cho dù cố công đến đâu th́ ông ta vẫn làm ác rất nhiều lần hơn làm thiện nên kết quả chung vẫn là kẻ ác.
Luật trời không thiên vị, khi xét thiện ác chỉ có thế.
Đă tham gia: 08 October 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 234
Msg 193 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 7:22am | Đă lưu IP
Đọc bài viết của Nguyễn Phúc Vĩnh Tung do Mạnh Thường Quân loát về, tôi thấy hết sức thú vị, bổ ích và các bạn hăy nên tham khảo. Tuy vậy, với topic Cải số của Tiên sinh Vuivui áp dụng cho từng lá số, cho mỗi một cuộc đời bất hạnh cũng là một chủ đề rất đáng để chúng ta quan tâm, suy ngẫm.
Bể học thật là mênh mông vô tận, ai giám nói đă nắm vững hết kiến thức của nhân loại ? Nhất là mấy môn Lư số huyền bí này, hậu nhân muốn chiếm lĩnh nắm bắt được kiến thức, kinh nghiệm cũng như ư tứ của người xưa đâu phải là dễ ? Nó lại càng khó hơn bởi khoa Tử vi được dựa trên nền dịch lư và sự quan sát thực nghiệm mấy ngàn năm của những người đi trước đúc kết lại…
Diễn đàn TVLS có thể nói là diễn đàn qui tập được nhiều “anh hào” nhất và mỗi bậc cao nhân đều có những lĩnh vực chuyên sâu thể hiện mặt mạnh riêng của ḿnh. Ví như bàn về lĩnh vực cải số th́ trên diễn đàn này duy nhất chỉ có hai bậc cao nhân quan tâm nghiên cứu - đó là Tiên sinh Vuivui và Thầy ThienKyQui !
Với Tiên sinh Vuivui, cải số là “phải hiểu các nguyên lư nền tảng Tử vi, nắm được các vận động và biến hóa của chúng trên bức tranh của một bảng số tử vi. Phải nói bằng chính cái lư tử vi để chữa cho cái mệnh lư tử vi…
Cải số là phải nắm được phép gắn tam tài với lư số tử vi, mà thực ra, khi xây dựng tử vi, cổ nhân đă để một khoảng trống bao la cho hậu thế chuyển tam tài vào rồi. Gắn được tam tài, số lá số tử vi, về lư thuyết là có thể tăng vô hạn. Giới hạn đến đâu, c̣n tùy vào công lực của người nghiên cứu và giải số tử vi….”
C̣n với Thầy ThienKyQui, cải số là áp dụng phương pháp Tử b́nh để t́m ra những biện pháp cần bằng trong mệnh lư, đồng thời nghiên cứu sâu về lá số tử vi để nắm rơ bệnh tật tai hoạ mà áp dụng những diệu pháp của Phật giáo tiêu trừ những nghiệp chướng…
Tôi luôn tin rằng, mỗi khi những bậc cao nhân ấy đă bỏ ra bao nhiêu công sức trí tuệ thời gian để nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực nào đấy th́ chắc chắn ít nhiều họ đă đạt được những thành tựu khả quan đáng kể qua kiểm nghiệm và áp dụng thực tế rồi. Chỉ có điều chính kiến thức chúng ta c̣n quá nông cạn nên u mê chưa hiểu hết đấy thôi.
Vậy th́, tại sao chúng ta không thử lắng nghe và suy ngẫm để cập nhật trau dồi thêm kiến thức của ḿnh trên tinh thần “gạn đục khơi trong” thay cho thái độ phản ứng có phần hơi bất nhă, khiến các bậc cao nhân đôi khi mất cả hứng tŕnh bày ?
Bác Kim hạc đă từng nói "Con đường ngắn nhất để nâng cao tŕnh độ Tử vi là chúng ta phải biết đứng trên vai những người khổng lồ, dùng những thành quả của các bậc Tiền bối đốt cháy từng giai đoạn trong tiến tŕnh nâng cao tầm độ Tử vi của ḿnh chứ không phải cứ đi đến đâu là phải đào đường đào giếng đến đấy…”
Nên chăng, hậu học hăy luôn biết trân quí những cống hiến về mặt học thuật cũng như tấm ḷng nhân ái với tha nhân của các vị tiền bối đáng kính…
Đă tham gia: 08 October 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 234
Msg 194 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 7:24am | Đă lưu IP
Khi nhắc đến nhân vật Khổng minh khiến tôi nhớ đến Nguyễn Trăi, bởi giữa hai tư tưởng lớn ấy có cái ǵ đó gặp nhau. Vậy nên - tôi muốn tản mạn đôi chút về hai ông trong chủ đề cải số này.
Xin lỗi Tiên sinh Vuivui, hăy cho phép Mơkhach nhé…!
Đă tham gia: 08 October 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 234
Msg 195 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 7:29am | Đă lưu IP
Những sự lựa chọn
trong cuộc đời Nguyễn Trăi
Nguyễn Trăi hiệu là Ức Trai sinh năm 1380 tại Thăng Long là vị anh hùng không những đă để lại sự nghiệp cứu nước thành công rực rỡ trong công tác đánh vào ḷng người nổi tiếng mà c̣n để lại rất nhiều tác phẩm nói lên tư tưởng của ông về các mặt quân sự, chính trị, triết học và nhiều thơ văn hết sức giá trị. Nhờ những tác phẩm ấy, thế hệ mai sau mới hiểu được sâu sắc về một cuộc đời tài đức vẹn toàn nhưng không mấy thanh thản của ông. Những sự lựa chọn sau đây trong cuộc đời Nguyễn Trăi chỉ là một phần nhỏ, giúp cho chúng ta thấy được con người ông chẳng những có công lớn, tài cao mà lại có đức cả. Cái đức của ông lớn quá, cơ hồ như muốn phá vỡ khuôn khổ quá ư chật hẹp của chế độ phong kiến ngay trong buổi thịnh thời của nó.
1 - Lựa chọn triều đại để phục vụ :
Ngày 28-2 năm canh th́n (1400) Hồ Quí Ly lật đổ nhà Trần, dựng ra nước Đại Ngu. Hầu hết các quan lại và những người thân thích nhà Trần đều mưu chống lại Hồ Quí Ly, kết quả là một vụ tàn sát đẫm máu xảy ra, trên dưới 300 người bị giết chết. Trong khi đó Nguyễn Trăi là con cháu thần dân của nhà Trần nhưng lại đi theo Hồ Quí Ly. Đi theo họ Hồ không phải bởi lư do tham sống sợ chết (cuộc đời của ông đă minh chứng điều đó) mà bởi tư tưởng Hồ Quí Ly có sự gặp gỡ trong tư tưởng Nguyễn Trăi - ông thấy được đường lối cải cách về chính trị, kinh tế và văn hoá cuả Hồ Quí Ly hết sức tiến bộ nhằm đưa xă hội Việt Nam sang một giai đoạn phát triển hơn. Với sự lựa chọn này cho chúng ta thấy Nguyễn Trăi không đi theo một xu hướng phổ biến đương thời hay một đạo lư sách vở khuôn sáo của chế độ phong kiến, mà ông đă có một tầm nh́n vượt qua thời đại .
2 - Lựa chọn đi với khởi nghĩa Lam Sơn :
Sau khi quân của Hồ Quí Ly bị giặc Minh đánh bại, đất nước ta lại rơi vào thảm hoạ xâm lăng. Nhiều cuộc khởi nghĩa đă dấy lên, trong đó có những người dương cao ngọn cờ khôi phục nhà Trần. Là con cháu nhà Trần, là quan lại của triều đại họ Hồ, nhưng Nguyễn Trăi không nghĩ đến việc khôi phục nhà Trần, cũng không nghĩ đến khôi phục nhà Hồ - lư tưởng lớn lao nhất của cuộc đời ông là lư tưởng v́ dân v́ nước. Vậy nên ông đă quyết định đi theo Lê Lợi để thực hiện mục đích và lư tưởng của ḿnh. Có thể nói đây là sự lựa chọn hết sức sáng suốt và có ư nghĩa nhất trong cuộc đời Nguyễn Trăi. Đi với khởi nghĩa Lam Sơn, ông mới có một "B́nh ngô đại cáo" - áng thiên cổ hùng văn ( bài văn hùng tráng của muôn đời) vừa là bản tuyên ngôn độc lập, vừa là một kiệt tác văn chương .
3 - Lựa chọn đường lối kháng chiến :
Giặc Minh lẫn cướp đất nước ta với một chính sách hết sức tàn bạo, chúng muốn phá hoại nền văn hoá dân tộc ta, muốn cho dân mọn xóm làng không có cuộc sống yên ổn bằng nhiều h́nh thức như: thuế nặng, h́nh phiền vơ vét của quí, giết hại kẻ vô tội, hăm người vào chỗ chết mà không xót thương...
Lịch sử dân tộc không thể chấp nhận thực tế đau thương tang tóc như thế măi ? Một vấn đề vô cùng khẩn thiết mà lịch sử đ̣i hỏi ở những người lănh đạo kháng chiến là phải đánh tan lũ giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước. Bao nhiêu đường lối mưu binh của các nghĩa sĩ tài hiền được đưa ra xung quanh vấn đề: dùng bạo lực chống lại bạo lực.
Vậy mà Nguyễn Trăi lại muốn dùng đường lối kháng chiến: Mưu phạt tâm công. Bản "B́nh ngô sách" Nguyễn Trăi dâng lên cho Lê Lợi đă vạch ra chiến lược chiến thuật đánh quân Minh và được Lê Lợi chấp nhận. Theo bài tựa của Ngô Thế Vinh Trong "Ức trai di tập" th́ "B́nh ngô sách" hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào ḷng người. Cuối cùng nhân dân và đất nước của mười lăm đạo quân nước ta đều đem về cho ta cả. Đây chính là công lao lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trăi và lịch sử đă ghi nhận ông - một trong những vị anh hùng dân tộc lỗi lạc nhất.
4 - Lựa chọn kết thúc chiến tranh :
Tháng 10 năm 1947, Liễu Thăng bị diết ở g̣ Mă Yên. T́nh thế bọn Vương Thông ở thành Đông Quan vốn đă khốn quẫn nay lại càng thêm khỗn quẫn. Thông cho người cầm thư đến bản doanh quân Lam Sơn giảng hoà. Các tướng khuyên Lê Lợi nên tiếp tục đánh thành để giết cho hết quân giặc. Nhưng ư kiến của Nguyễn Trăi lại khác: "Phục thù báo oán là chuyện thường t́nh của người ta, nhưng giết một lúc hàng vạn như vậy là không nên" và ông khuyên Lê Lợi t́m cách dụ bọn địch đầu hàng rồi sau đó tha về, đi thuỷ ta cho thuyền, đi bộ ta cho ngựa. Sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, đất nước Việt Nam có thời gian hoà b́nh kéo dài trên 300 năm - phải chăng đó chính là cái hậu của đường lối kết thúc chiến tranh bằng nhân nghĩa, không khoét sâu vào ḷng hận thù dân tộc của Nguyễn Trăi ?
5 - Lựa chọn đường lối trị nước :
Quan điểm nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trăi. Tư tưởng nhân nghĩa của ông lại một lần nữa thể hiện rất rơ trong chính sách cai trị nước lúc bấy giờ: "Thời loạn dùng vơ, thời b́nh dùng văn, ngày nay định ra lễ nhạc, chính phải thời lắm. Song cây không có gốc không thể đứng vứng, không có văn không thể lưu hành. Hoà b́nh là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc, thần phụng chiếu định ra âm nhạc, không dám không gắng hết tâm lực. Song học vấn sơ sài nông cạn, sợ trong áng thanh luật, khó làm cho được hài hoà. Dám mong bệ hạ rủ ḷng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho trong chỗ thôn cung xóm vắng , không có một tiếng hờn dận oán sầu, đó là giữ được cái gốc của nhạc".
Trong bài thơ chữ Hán nhan đề "Hạ qui Lam Sơn" ( mừng nhà vua về thăm Lam Sơn ) ông viết :
Quyền mưu bản thị dụng trừ gian
Nhân nghĩa duy tŕ quốc thể an
Có nghĩa quyền mưu vốn là dùng để trừ gian ác, nhưng để giữ cho thế nước yên ổn th́ chỉ có chính sách nhân nghĩa mà thôi .
Có thể nói tư tưởng nhân nghĩa lấy dân làm gốc của Nguyễn Trăi là một điểm sáng tạo hết sức tiến bộ so với thời đại trong ư thức hệ giai cấp thống trị lúc bấy giờ.
6 - Lựa chọn văn hoá :
Nguyễn Trăi là người chứng kiến âm mưu đồng hoá tiếng việt của nhà Minh, chúng muốn huỷ diệt văn hoá việt Nam và dân tộc Việt Nam . Điều đó đă làm cho ông đau ḷng và căm phẫn, trong "Dư địa chí" ông tỏ rơ quan điểm của ḿnh về văn hoá nước nhà: "Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân lạp để làm loạn phong tục trong nước". Và ông đă bảo vệ quan điểm của ḿnh một cách khẳng khái khi vua sai cùng Lương Đăng soan nhă nhạc (tức là nhạc trong cung đ́nh) ông từ chối v́ Lương Đăng chủ trương mô phỏng nhạc cung đ́nh của Trung Quốc.
Như vậy Nguyễn Trăi đă thể hiện là một con người có tinh thần tự tôn dân tộc rất cao và luôn luôn ư thức bảo tồn ǵn giữ, phát triển bản sắc văn hoá đất Việt .
7 - Lựa chọn xuất và xử : (xuất là ra làm quan ; xử là ở ẩn )
Học thuyết nho giáo chuẩn bị cho người quân tử hai t́nh thế: một là nhập thế một cách tích cực, hai là rút lui một cách cao đạo "dụng chi tắc hành, xả chi tắc tà" (dùng đến th́ giúp đời, thất thế th́ ở ẩn giữ cho riêng ḿnh trong sạch). Thực tế lịch sử cho chúng ta thấy đa số các nhà nho Việt Nam đă đi theo học thuyết này, tiêu biểu nhất là Trạng tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng đối với Nguyễn Trăi, xuất và xử trở thành một cuộc đấu tranh thường xuyên trong con người ông. Mặc dù ông rất chán ghét cảnh triều quan đến ghê sợ "hoạn t́nh dị kiếm thương cung điểm" (t́nh cảnh chốn triều quan dễ làm cho người ta khiếp sợ như con chim bị thương v́ cung tên) và biết rằng ở ẩn th́ tính mạng được bảo toàn, tinh thần được trong sạch, nhưng lại trái với lư tưởng sống của ông. V́ vậy ông phải nhẫn nhục ở lại triều đ́nh để đấu tranh cho đường lối chính trị của ḿnh, cho cái chí lớn của kẻ sĩ thức thời, tức là cái chí v́ dân v́ nước. Có thể nói suốt cuộc đời ông ôm mối tiên ưu, không ngủ được v́ lo trước thiện hạ, tấm ḷng ưu quốc ái dân đến chết vẫn thắm như son, nỗi niềm thao thức v́ nước v́ dân "cuồn cuộn như nước triều đông" của ông thể hiện qua từng lời thơ sau hơn sáu trăm năm đến với chúng ta như một lời xót xa, gửi gắm và nhắn nhủ .
Có thể sự lựa chọn này là nguyên nhân dẫn đến kết cục cuộc đời của Nguyễn Trăi hết sức bi thảm - vụ án Lệ Chi Viên ? Cho đến bây giờ vẫn là nỗi đau và sự căm phẫn của dân tộc ta đối với những cái ung nhọt bất công trong chế độ phong kiến. Nhưng cũng chính sự lựa chọn này đă cho chúng ta thấy công lao của Ngyễn Trăi không chỉ là tham gia vào sự nghiệp cứu nước vĩ đại, tham gia tích cực vào việc xây dựng đất nước sau ngày giải phóng, mà c̣n ở chỗ nêu cao được bài học yêu nước yêu dân , dũng cảm chiến đấu cho đại nghĩa đến chết mà thôi. Những t́nh cảm vĩ đại và những đức tính cao quí ấy đă thuộc về truyền thống dân tộc mà chúng ta phải luôn phát huy .
Đă tham gia: 08 October 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 234
Msg 196 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 7:31am | Đă lưu IP
Bài viết này, tôi đă tổng hợp từ những kiến thức lịch sử ḿnh đă đọc được, chứ hoàn toàn không có ư “sáng tạo”. Dĩ nhiên, khi tôi viết th́ luôn lồng theo quan điểm nh́n nhận đánh giá chủ quan của bản thân, vậy có ǵ sai - kính mong mọi người lượng thứ góp ư trên tinh thần học hỏi…
Đă tham gia: 08 October 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 234
Msg 197 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 7:34am | Đă lưu IP
Khổng Minh :
Khi Lưu bị ở Tân Dă có đến Tư Mă Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mă Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng số. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên."
Lúc bấy giờ là năm 208 Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi và ông 3 lần đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn làm quân sư
Khổng Minh nói: - Tôi đă đọc thư của tướng quân, cứ xem ư tứ trong thư đủ thấy tướng quân có ḷng lo cho dân, cho nước, chỉ hiềm 1 nỗi Lượng tôi tuổi trẻ tài hèn.. Huyền Đức nói: - Tư Mă Đức Tháo và Từ Nguyên Trực 2 ông ấy đều tiến cử tiên sinh, rất mong tiên sinh đừng bỏ kẻ hèn này. Xin tiên sinh cho 1 lời khuyên. Khổng Minh nói: - Lượng tôi chỉ là 1 thợ cày đâu dám lạm bàn việc lớn trong thiên hạ. 2 ông ấy đă tiến cử với tướng quân sai lầm rồi. Huyền Đức nói: - Đại trượg phu phải đem tài ra giúp nước, há chịu chết già ở chôn lâm tuyền hay sao ? Xin tiên sinh lấy việc cứu muôn dân trong thiên hạ đang chịu lầm than làm trọng, chỉ bảo mở mang sự ngu hèn của Bị này mà nhận lời thỉnh cầu. Khổng Minh cười nói: - Vậy th́ xin Tướng quân cho nghe chí hướng của ḿnh. Bị nói: - Nay nhà Hán Đang ngiêng ngă, gian thần chia quyền, Bị này chẳng lường sức ḿnh, muốn đứng lên làm nghĩa lớn với thiên hạ. Nhưng hổ thẹn v́ trí thiển, tài hèn, măi đến nay vẫn long đong chưa thành sự nghiệp, nay mong tiên sinh chỉ bảo cho những điều ngu muội, để cứu vớt vận nguy của nhà Hán, thật lấy làm may mắn. Khổng Minh nói: - Từ khi Đổng Trác làm loạn đến nay, các hào kiệt trong thiên hạ đều đứng lên khởi ngiệp. Tào Tháo tuy thế lực không bằng Viên Thiệu, nhưng lại bị Tháo diệt, đó chẳng phải do thiên thời mà c̣n do có cả sức người. Nay Tháo có trong tay hàng trăm vạn quân, hiếp đáp thiên tử, sai khiến chư hầu, nơi này thật không nên cùng nó tranh dành. Tôn Quyền th́ chiếm cứ Giang Đông đă được 3 đời, thế nước hiểm yếu, nhân tâm qui phục, nơi này chỉ nên dùng làm bạn tương trợ lẫn nhau, chớ không thể thôn tính được. - C̣n đất Kinh Châu, Bắc có sông Hán, sông Miện chạy dài đến tận Nam Hải, phía Đông liền Ngô Hội, phía Tây thông Ba Thục, nơi ấy là đất dụng vơ, nếu không có 1 vị minh chủ hùng cường, th́ không thể giữ được. Theo tôi nơi đó là trời cho Tướng quân đó. Ích Châu hiểm trở, đât đai ngàn dặm ph́ nhiêu, thực là vựa thóc trời cho. Hán Cao Tổ xưa kia cũng dựng nghiệp đế từ nơi ấy. Nay Lưu Chương nhu nhược, dân đông, nước giàu mà không biết trông nom, nên các bậc chí sĩ tài ba đang muốn có một minh chủ để thờ. Tướng quân là ḍng dơi nhà Hán, tín nghĩa lừng vang bốn bể, kết nạp anh hùng, cầu hiền tài như người khát nước. Nếu tăng quân thu về được Kinh Châu và Ích Châu giữ vững nơi hiểm yếu, phía Tây ḥa với các dân tộc it người, phía Nam thu phục được các nước Di Việt. Ngoài liên kêt với Tôn Quyền, trong sữa sang việc cai trị, đợi lúc thiên hạ có biến, sai 1 viên thượg tướng, từ Kinh Châu tiến sang Uyển Lạc, Tướng quân thân đêm quân chính nghĩa từ Ích Châu ra Tây Xuyên, sẽ được trăm họ đem gạo thịt đón tướng quân, lúc đó sự nghiệp sẽ thành, nhà Hán có thể hưng vượng. Lượng này v́ tướng quân đề ra quyêt sách cũng không ngoài như thế. Tướng quân có ư ấy chăng ? Khổng Minh nói xong sai tiểu đồng đem ra 1 bức bản đồ treo giữa nhà, chỉ dẫn cho Lưu Bị: - Đây là vùng Tây Xuyên gồm 54 châu. Nếu tướng quân muốn nên nghiệp bá th́ Bắc nhường Tôn Quyền chiếm địa lợi, c̣n tướng quân th́ chiếm lấy nhân hoà. Trước hết lấy Kinh Châu làm nhà, sau đó lấy Tây Xuyên dựng nên cơ nghiệp, như vậy tạo thành thế chân vạc, mới hay b́nh định được Trung Nguyên. - Lượng tôi xem thiên văn, thấy Lưu Biểu chẳng bao lâu nữa th́ mất, c̣n Lưu Chương th́ không phải minh chủ làm nên cơ ngiệp. Huyền Đức nghe xong chắp tay lạy tạ và mời Khổng Minh ra giúp nước, nhưng Khổng Minh không nhận lời, Bị khóc nói rằng: - Tiên sinh không chịu ra giúp nước th́ trăm họ không biêt sống ra sao ? Nói xong 2 hàng tuôn rơi ươt cả vạt áo. Khổng Minh thấy vậy mới vui vẻ nhận lời.
Lưu Bị vui mừng goi hai em vào dâng lễ vật ngủ lại 1 đêm. Hôm sau Gia Cát Quân về, Khổng Minh ân cần dặn ḍ em chăm lo làm ruộng, đừng bỏ đất hoang, đợi anh sau nay công thành tức thời trở về sống một cuộc đời ẩn dật.
Đă tham gia: 08 October 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 234
Msg 198 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 7:37am | Đă lưu IP
Nguyễn Trăi và Khổng Minh đều có chung sự lựa chọn trong cuộc đời đó là xuất và xử. Cuối cùng, hai ông đă chọn con đường đi là ra làm quan cho tới lúc qua đời.
Nếu đem cuộc đời của Nguyễn Trăi ra so với cái tài của Khổng Minh th́ có phần hơi khập khiễng. Nên ở đây tôi chỉ muốn nói đến sự lựa chọn mà thôi ! Dẫu rằng Nguyễn Trăi chưa phải là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lư, giữa rơ nhân thế như Khổng Minh, nhưng chắc chắn ông sinh ra trong đời Trần, học hết sách thánh hiền, thấm nhuần dịch lư, thấu hiểu tạo hoá, đạo của trời đất th́ tất phải biết rơ số phận và cái giá lựa chọn con đường đi của ḿnh ?
Chẳng phải bàn nhiều mà làm ǵ, khi đọc về cuộc đời hai ông, thiết nghĩ rằng - Nguyễn Trăi và Khổng Minh không hề có ư định cải số, bởi họ biết rất rơ ởẨn th́ tính mạng được bảo toàn. Tâm nguyện duy nhất của Nguyễn Trăi và Khổng Minh là nhập thế để giúp vua ổn định giang sơn xă tắc.
Vậy, khi đưa câu chuyện Khổng Minh vào chủ để cải số và bảo rằng ông muốn cải số nhưng không cải được số là thiếu chính xác. Cái phép cầm sao bổn mạng của Khổng Minh khi ấy là một chuyện chẳng đặng đừng chứ không thể nói là cải số. Phải chăng ông phóng lao đành phải theo lao mà thôi ?
Có thể nói Khổng Minh là một con người học rộng biết nhiều, thông kim bác cổ, chuyện trên trời dưới đất và thế sự đều nắm trong ḷng bàn tay, khiến Chu Du trước lúc chết ngửa mặt mà than “sao trời đă sinh ra Du c̣n sinh ra Lượng ?”.
Nhưng như vậy, không có nghĩa tài ba lỗi lạc của ông có thể cải được mệnh số của một Quốc gia ? Có lẽ đúng ! Khổng Minh muốn cái khí số nhà Hán và xưa nay thời thế tạo anh hùng chứ có bao giờ anh hùng tạo được thời thế đâu ?
Về quan điểm đó tôi hoàn toàn nhất trí với nhận định của Tiên sinh Vuivui !
Đă tham gia: 03 April 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3743
Msg 199 of 302: Đă gửi: 19 November 2008 lúc 8:01am | Đă lưu IP
Thời Tam Quốc, Khổng Minh được xem là đệ nhất kỳ viên trên cả Tào Tháo cũng là 1 dị nhân văn vơ song toàn. Không có KM, Lưu Bị không thể giữ được đất Thục trong thế chân vạc nhiều năm.
Người tài có chí lớn cùng tấm ḷng trung nghĩa, KM đă pḥ Lưu đến hơi thở cuối cùng. Đó là cái t́nh nghĩa ngày trước và thân phận của KM bắt ông làm như vậy. Ông cũng làm nhiều sai lầm có tính chiến lược như nhiều lần xuất phát Kỳ Sơn thất trận đi về tay không, nếu cho rằng ông giỏi độn toán th́ tại sao kô biết trước kết quả hành quân đầy tổn thuơng (KM là thủy tổ của môn Lục Nhâm Diệu Toán vẫn lưu truyền tới ngày hôm nay, dùng bởi đệ nhất kỳ viên chốn này ! ) ?.
Người tính sao bằng trời tính, cầm lá số chính ḿnh lên, lư số gia có đoan chắc ḿnh đă hiểu, đă đoán trúng các vận hạn theo mong đợi ? Đă định giờ sai trái như thường thấy trên diễn đàn này và luận giải mênh mông, lấy tư cách ǵ căi / sửa số ? KM tài ba quán thế như vậy (nhiều khi do thêu dệt bởi ngoại sử) mà chỉ giúp được Lưu Bị làm bá vuơng 1 khu mà thôi chứ không thể thống nhất sơn hà, điều đó cho thấy cái khung định mệnh áp đặt cho chính tập thể mà ông phù trợ (Lưu Bị và các huynh đệ kết nghĩa Đào Viên) chính là cái cộng nghiệp bị uốn nắn trong 1 khuôn mẫu nào đó để ḍng sử mệnh trôi chảy là sự tuơng tác giữa ư người và ḷng trời !
HC
Sửa lại bởi HoaCai01 : 19 November 2008 lúc 8:11am
Bạn không thể gửi bài mới Bạn không thể trả lời cho các chủ đề Bạn không thể xóa bài viết Bạn không thể sửa chữa bài viết Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ
Trang này đă được tạo ra trong 3.3359 giây.
DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG