Tác giả |
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 21 of 38: Đă gửi: 10 April 2004 lúc 6:58am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính bác VDTT !
Pháp Vân mạnh dạn dám thử đoán ư người xưa cũng nhờ Bác VDTT chia sẻ, nếu có ǵ hơi quá cũng mong bác vui ḷng lượng thứ.
A.Theo thuyết Vận-Khí
1/ Khách vận : Vận th́ tính theo thiên can, phối hợp âm dương chia thành 5 vận
Giáp-Kỷ Thổ vận, nên lấy vận Thổ làm chủ.
Ất-Canh Kim vận, nên lấy vận Kim làm chủ.
Bính-Tân Thủy vận, nên lấy vận Thủy làm chủ.
Đinh-Nhâm Mộc vận, nên lấy vận Mộc làm chủ.
Mậu-Quí Hỏa vận, nên lấy Hỏa vận làm chủ.
2/ Chủ khí tức là Lục khí trong năm, Mộc khí bắt đầu từ Đại-Hàn. Ứng đối với thiên nhiên trong người là Lục phủ.
3/ Khách khí theo thứ tự tuần hoàn của 12 địa chi. Khách khí th́ có 6, theo 12 địa chi đối xứng nhau mà chia ra, tương ứng Phong—Hàn-Thử-Thấp-Táo-Hỏa.
4/ Như vậy Vận-Khí chính là sự biến hoa của Âm-Dương. Cho nên Thiên khí bắt đầu từ Giáp, cuối cùng ở Quư ; Địa khí bắt đầu từ Tư, cuối cùng ở Hợi. Hai dương thành Giáp Tư, hai âm thành Ất Sửu, xen kẽ âm dương thành 60 năm. 10 năm là một Kỷ, 60 năm là một chu.
5/ Vân-Khí thái quá hoặc bất cập lần lượt thay nhau làm chủ thời lệnh hàng năm. Mỗi Vận trong ngũ vận đều làm chủ 6 năm.
a - Năm thái quá (5*6=30 năm) :Thái Giốc tức 6 năm Nhâm, Thái Chủy tức 6 năm Mậu, Thái Cung tức 6 năm Giáp, Thái Thương tức 6 năm Canh, Thái Vũ tức 6 năm Bính.
b- Năm bất cập (5*6=30năm) : Thiếu Giốc 6 năm Đinh, Thiếu Chủy 6 năm Quư, Thiếu Cung 6 năm Kỷ, Thiếu Thương 6 năm Ất, Thiếu Vũ 6 năm Tân.
6/ Vận-Khí tương quan
- Thiên vận : có 5 vận do 10 can phối hợp nhau như Giáp với Kỷ hóa thành Thổ. Nói một vận nhưng một vận có đủ cả 6 khí. Do đó Vận theo Khí mà biến. Cho nên 5 năm mới đủ một ṿng.
- Địa khí : có 12 chi đối xứng nhau thành lục khí. Mỗi một khí bao hàm cả Ngũ vận do đó khí theo vận mà hóa. Cho nên lục khí phải 6 năm mới đủ một ṿng.
B.Thử đoán ư muốn của người xưa :
Giáp-Kỷ Thổ vận, nên lấy vận Thổ làm chủ, v́ thế Thổ sinh Kim
Ất-Canh Kim vận, nên lấy vận Kim làm chủ, v́ thế Kim sinh Thủy.
Bính-Tân Thủy vận, nên lấy vận Thủy làm chủ, v́ thế Thủy sinh Mộc
Đinh-Nhâm Mộc vận, nên lấy vận Mộc làm chủ, v́ thế Mộc sinh Hỏa
Mậu-Quí Hỏa vận, nên lấy Hỏa vận làm chủ, ví thế Hỏa sinh Thổ.
Thử lựa chọn một trong vài trường hợp Ngũ – Hành Nạp Âm.
1/ Trường hợp thứ nhất :
Như vậy có thể thứ tự Ngũ vận hóa là cơ sở, là Mẹ của nạp âm Ngũ hành theo thứ tự :
- Ngũ vận hóa : Thổ - Kim - Thủy - Mộc - Hỏa (là Mẹ)
- Hành Nạp âm : Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ (là Con)
<=> Ngũ âm tương ứng với Ngũ vận hóa, mà Ngũ vận hóa sinh ra Ngũ hành nạp âm, do đó Ngũ âm có thể gọi là Mẹ nuôi (Nghĩa Mẫu) của Ngũ hành nạp âm.
Có thể : Ngũ hành nạp âm có thứ tự, tự nhiên tương ứng với Vận Vũ-Trụ như sau : Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ .
Phù hợp với tính của “Trời có Đức hiếu sinh”.
2/ Trường hợp thứ hai :
Bác VDTT viết,
“Nhưng tôi nghĩ ta có một ưu điểm rất lớn so với nguời xưa là ta có khí cụ của khoa học. Bất luận người xưa dùng phương pháp ǵ để nghĩ ra ngũ hành, ta vẫn có thể dùng khoa học để xét xem ngũ hành có thể là một thuyết hợp lư hay không.”
Kính mong bác VDTT minh giảng và các bậc Cao minh uyên bác vui ḷng chỉ giáo cùng các bạn tham gia luận bàn.
Sửa lại bởi phapvan : 10 April 2004 lúc 7:03am
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 22 of 38: Đă gửi: 12 April 2004 lúc 10:23am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính bác VDTT,
2/ Trường hợp thứ hai :
Giáp-Kỷ Thổ vận, nên vận Thổ làm chủ, số 5 Thổ sinh Kim
Ất-Canh Kim vận, nên vận Kim làm chủ, số 4 Kim sinh Thủy.
Đinh-Nhâm Mộc vận, nên vận Mộc làm chủ, số 3 Mộc sinh Hỏa
Mậu-Quí Hỏa vận, nên Hỏa vận làm chủ, số 2 Hỏa sinh Thổ
Bính-Tân Thủy vận, nên vận Thủy làm chủ, số 1 Thủy sinh Mộc
Như vậy có thể thứ tự Ngũ vận hóa là cơ sở, là Mẹ của nạp âm Ngũ hành theo thứ tự :
- Ngũ vận hóa là mẹ : Thổ (5) - Kim (4) - Mộc (3) - Hỏa (2) - Thủy (1)
- Hành Nạp âm là con : Kim - Thủy - Hỏa - Thổ - Mộc.
Có thể : Ngũ hành nạp âm có thứ tự, tự nhiên tương ứng với Vận Vũ-Trụ theo số giàm dần theo các hành (lư số Hà-Đồ) như sau :
Kim - Thủy - Hỏa - Thổ - Mộc .
Thứ tự trên giống với với thứ tự Lục thập hoa giáp chưa đổi Thủy - Hỏa.
Kính mong bác VDTT minh giảng và các bậc Cao minh uyên bác vui ḷng chỉ giáo cùng các bạn tham gia luận bàn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 23 of 38: Đă gửi: 13 April 2004 lúc 9:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Pháp Vân và quí vị quan tâm thân mến!
Trước hết tôi xin cảm ơn sự quan tâm của bạn Pháp Vân về đề tài của NVTA mà tôi đă tường trên diễn đàn.
Theo tôi bác VDTT đă nói rất đúng là chúng ta có thể dùng các tiêu chí hoặc phương pháp khoa học để t́m ra căn nguyên nào mà người xưa đặt ra phép nạp âm Ngũ hành trong 60 mưới năm. Trên cơ sở này, tôi nhận thấy bảng Lạc thư hoa giáp hoàn toàn hợp lư với tất cả những hiện tượng và vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và các phương pháp ứng dụng của nó.Các bạn có thể tham khảo nguyên lư này trong cuốn:
"Thời Hùng Vương và bí ần lục thập hoa giáp". vanhienlacviet.com -liên kết nhanh- tuvilyso.com
Vài lời tường sở ngộ. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 13 April 2004 lúc 9:56am
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 24 of 38: Đă gửi: 13 April 2004 lúc 12:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính bác Thiên Sứ,
Pháp Vân cũng đă xem 3quyển sách của NVTA.H́nh như bác có quen, biết NVTA.
3/Trường hợp thứ ba
Kính mong các bậc Cao minh uyên bác vui ḷng chỉ giáo cùng các bạn tham gia luận bàn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách
Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 25 of 38: Đă gửi: 13 April 2004 lúc 12:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp theo)
Thiết nghĩ có thể thiết lập trên nền tảng khoa học:
-Ngũ hành lư số (5-10 thổ, 4-9 kim, 3-8 mộc, 2-7 hỏa, 1-6 thủy) cho ngũ hành đơn.
-Cách phân phối ngũ hành trên thập nhị địa chi (tức 12 cung địa bàn)
-(Cách phân phối ngũ hành trên thập thiên can th́ không cần thiết lập, v́ đây có thể coi là tiền đề).
Sau đó sẽ khám phá ra là phải phối hợp can và chi làm một thực thể mới, và thực thể này cũng phải có tính ngũ hành. Đây chính là khởi điểm của bài toán (và vấn nạn) "ngũ hành nạp âm".
Kế tiếp ta sẽ xét vài tiêu chuẩn mà bài toán ngũ hành nạp âm chắc chắn phải thỏa. (c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 26 of 38: Đă gửi: 13 April 2004 lúc 7:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
Theo tôi:
Bảng nap âm 60 nam - cội nguồn của nó thuộc về văn minh Việt - một trong những căn cứ của nó là chiều ngũ hành tương sinh của Hà Đồ. C̣n bảng Luc thập hoa giáp mà nền văn minh Hán tiếp thu từ người Việt bị sai ở hành Thuỷ và Hoả (Chiều Ngũ hành tương khắc của Hà Đồ?).
Khi ứng dụng (chỉ trong nạp âm 60 năm và những v/d liên quan. Ngoài ra các v/d khác không thay đổi). Nếu gặp hành Thuỷ và Hoả th́ - Nếu quí vị tin vào tính qui luật và khoa học của Lạc Thư hoa giáp - chỉ việc đổi hai hành này. Thí dụ khi xem Tử Vi:
Hoà Lục cục nay thành Thuỷ Luc cuc và ngược lại.
Thuỷ mạng th́ thành Hoả mang và ngược lại.
Ngoài ra tất cả vẫn không thay đổi.
Quí vị giỏi về Tử Vi và có điều kiện kiểm chứng; xin xem những lá số có cách Tử Phủ Dần thân liên quan đến Thuỷ /Hoả mang và thử luận theo nạp âm Tàu và nạp âm của Lạc thư hoa giáp sẽ thấy rơ sự sai lệch này.
Xin cám ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 13 April 2004 lúc 7:19pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách
Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 27 of 38: Đă gửi: 13 April 2004 lúc 11:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp theo)
Trứơc khi tiếp tục, thiết tưởng cần giải thích tại sao thập thiên can nên coi là một tiền đề.
a. 10 = 5 x 2 = ngũ hành x âm dương
b. V́ lư cân xứng, thổ phải là hành trung ương.
c. Bốn hành c̣n lại phải đựơc phân phối theo thứ tự hợp lư nhất.
Hợp lư nhất của ngũ hành chỉ có thể là ṿng sinh hoặc ṿng khắc. Giữa hai ṿng th́ ṿng sinh hợp lư hơn (bằng cách chấp nhận "trời đất hiếu sinh"), nên chọn ṿng sinh. Tức là thứ tự: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy (Thổ ở trung ương).
Hợp lư nhất của âm dương phải là dương dẫn âm theo, hay là dương trứơc âm sau.
Thứ tự sau cùng là: Dương mộc, âm mộc, dương hỏa, âm hỏa, dương thổ, âm thổ, dương kim, âm kim, dương thủy, âm thủy. Tên quen thuộc hơn là thập thiên can: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quư.
Kết quả trên đây rất hiển nhiên, nhưng cần ghi rơ lại để thấy rằng thập thiên can không phải là một thứ tự tùy hứng mà có lô gích hẳn hoi.
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 28 of 38: Đă gửi: 14 April 2004 lúc 11:51am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính bác Thiên Sứ và bác VDTT,
Bác VDTT đă viết :
“Kết quả trên đây rất hiển nhiên, nhưng cần ghi rơ lại để thấy rằng thập thiên can không phải là một thứ tự tùy hứng mà có lô gích hẳn hoi.”
“Sau đó sẽ khám phá ra là phải phối hợp can và chi làm một thực thể mới, và thực thể này cũng phải có tính ngũ hành. Đây chính là khởi điểm của bài toán (và vấn nạn) "ngũ hành nạp âm".”
Đây đúng là vấn nạn.
Về thứ tự của Ngũ-hành nạp âm, chỉ cần xét chiều vận hành của Địa khí. Vận hành chiều thuận hoặc nghịch. Khí mùa xuân chuyển từ Đông sang Tây, khí mùa Thu chuyển từ Tây sang Đông, khí mùa Hạ chuyển từ Nam sang Bắc, khí mùa Đông chuyển từ Bắc sang Nam.
“Người sinh ra ở hội Dần”
“Đế xuất hồ Chấn”
Kính mong các bậc Cao minh uyên bác vui ḷng chỉ giáo cùng các bạn tham gia luận bàn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 29 of 38: Đă gửi: 17 April 2004 lúc 6:26am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính mong các bậc Cao minh uyên bác vui ḷng chỉ giáo cùng các bạn tham gia luận bàn.
Sửa lại bởi phapvan : 17 April 2004 lúc 6:30am
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách
Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 30 of 38: Đă gửi: 17 April 2004 lúc 10:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn phapvan thân,
Tôi định từ từ viết ra lập luận của tôi về ngũ hành nạp âm của lục thập hoa giáp; nhưng nghĩ lại đây không phải là môi trường thích hợp. Xin hẹn một dịp khác.
Vài ḍng chia sẻ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 31 of 38: Đă gửi: 18 April 2004 lúc 12:22am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính bác VDTT,
Pháp Vân chân thành cảm ơn bác VDTT đã tham gia chia sẻ.Tuy PV mới đăng nhập diễn đàn TUVILYSO và cũng được biết bác qua chủ đề "Tử Vi Biệt cách" - PV kính phục bác VDTT.
Chúc bác luôn vui.
Pháp Vân
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 32 of 38: Đă gửi: 23 April 2004 lúc 10:39am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào các bạn,
Chúng ta đều biết ứng dụng Lục thập Hoa giáp (chưa đổi Thủy-Hỏa) hoặc Lạc thư Hoa giáp, thực chất là việc chế hóa Ngũ hành. Để chế hóa được Ngũ hành th́ phải biết Ngũ hành Bất cập hay Ngũ hành Thái quá. Xin lược chép lại trong sách của cụ Hải Thượng Lăn Ông (Thánh y nước Việt):
I/ Ngũ hành Thái quá.
1. Mộc - Khuếch tán khí ôn ḥa quá sớm làm cho vạn vận sớm phát dục.
2. Hỏa - Khuếch tán khí cường liệt, làm cho vạn vật đốt cháy chẳng yên.
3. Thổ - Có khí nồng hậu rắn chắc trở lại làm cho vạn vật không thể thành h́nh.
4. Kim – Có khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay thẳng.
5. Thủy – Có khí đầy tràn, làm cho vạn vật phiêu lưu không thể về chỗ thái quá là làm mất sức b́nh thường.
II/ Ngũ hành Bất cập.
1. Mộc – Không có khí ôn ḥa, làm cho vạn vật rũ rượi không phấn chấn.
2. Hỏa – Ít khí ấm áp làm cho vạn vật ảm đạm không sáng.
3. Thổ - Không có khí sinh hóa, làm cho vạn vật yếu đuối không có sức.
4. Kim – Không có khí cứng cỏi, làm cho vật mềm giăn không có sức đàn hồi.
5. Thủy – Không có khí phong tàng làm cho vạn vật khô queo.
III/ Ngũ hành B́nh khí.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 33 of 38: Đă gửi: 23 April 2004 lúc 12:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bác VDTT thân mến!
Việc đổi vị trí Thuỷ Hoả trong bảng Lục Thập Hoa Giáp thành Lạc Thư Hoa Giáp; tôi tường đầu tiên trên diễn đàn.Trong các mối quan hệ xă hội của tôi; có rất nhiều người không tin và phản đối. Nhưng thực t́nh tôi chưa thấy một sự chứng minh có tính thuyết phục cho bảng Lục Thập Hoa giáp trong các sách Hán; đồng thời cũng ko có sự phản bác có tính thuyết phục cho việc lâp thành Lạc Thư Hoa Giáp. Bởi vậy; tôi rất hy vọng bác cho biết ư kiến. Tôi nghĩ diễn đàn này rất thích hợp để mọi người trao đổi về điều này.
Hiện tôi có một cuốn sách của Thiệu Vị Hoa: "Dự Đoán theo Tứ trụ". Nxb VHTT 1996 , trang 68 có thừa nhận, đại ư :Ngay cả các học giả Trung Hoa từ xưa đến nay cũng chưa có một sự luận bàn minh bạch về nguyên lư lập thành bảng Lục thập hoa giáp.
Thực chất bảng Lục Thập Hoa giáp cũng ko hề chứng tỏ tính hợp lư ngay trong nội dung của nó.
Hy vọng được bác lưu ư.
Rất cảm ơn sự quan tâm của bác.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 23 April 2004 lúc 12:59pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 34 of 38: Đă gửi: 24 April 2004 lúc 8:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
III/ Ngũ hành B́nh khí.
1. Mộc – Nó phân bố ra khí ôn ḥa, làm cho vạn vật tươi tốt.
2. Hỏa – Sáng chói mà có cái khí thịnh trưởng, làm cho vạn vật dồi dào.
3. Thổ - Đầy đủ khí sinh hóa vạn vật, làm cho vạn vật được đầy đủ h́nh thể.
4. Kim – Phát ra khí yên tĩnh ḥa b́nh, làm cho vạn vật kết quả.
5. Thủy – Có khí tĩnh mịch ḥa thuận, làm cho vạn vật bế tàng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 35 of 38: Đă gửi: 24 April 2004 lúc 11:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thưa các bạn, Việc ứng dụng Ngũ hành mỗi nhà mỗi khác, tùy theo kinh nghiệm sở trường và sở đoản riêng. Tuy vậy chung qui cũng xuất phát từ nguyên lư chung mà ra.
IV/ Ứng dụng Ngũ hành
1. Trong Ngũ hành th́ hành Thổ và Kim nhờ vào khí tương sinh.
2. Hai hành Thủy và Hỏa do chân nguyên tự sinh. Do đó trong Ngũ hành đặc biệt chú trọng về Thủy - Hỏa. (Hai hành này lại bị đổi chỗ trong Lục thập hoa giáp)
3. Hành Mộc sinh trưởng nhờ Thổ (Mộc sống nhờ Thổ không lẽ lại khắc Thổ-khi nào th́ mới khắc?)
Mỗi hành trong Ngũ hành đều có đủ 5 tính chất. Cụ thể rơ nhất qua ṿng tràng sinh.
Chúng ta đều biết Ngũ hành tương sinh – tương khắc là cơ sở sinh - khắc định danh trong luận mệnh. Mệnh th́ lấy sinh làm gốc nhưng quư ở Ḥa (B́nh khí). Luận Mệnh gốc ở Ngũ hành âm-Ngũ hành dương. (Âm dương không ng̣ai Ngũ hành và ngược lại).
Kính mong các bậc tiền bối chỉ giáo cùng các bạn tham gia luận bàn.
Pháp Vân
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách
Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 36 of 38: Đă gửi: 25 April 2004 lúc 12:52am | Đă lưu IP
|
|
|
phapvan đă viết:
3. Hành Mộc sinh trưởng nhờ Thổ (Mộc sống nhờ Thổ không lẽ lại khắc Thổ |
|
|
Tại sao sống nhờ lại không thể khắc? Xin bạn đừng quên rằng thuyết ngũ hành có tương ứng chặt chẽ với thực tế (và đó là một lư do chính tại sao nó vẫn tồn tại đến ngày nay). Trong đời sống bạn sẽ thấy vô vàn trường hợp những kẻ sống nhờ nguời mà vẫn khắc người.
Vả lại, chớ nên nh́n mộc là cây, thổ là đất. Đây chỉ là tượng thôi. Khi luận bằng tượng ta phải rất thận trọng, bằng không sẽ ra nhiều kết quả kỳ dị, như con trai thứ (Khảm thuộc thủy) sợ vùng đồng bằng (Khôn thuộc thổ).
Vài ḍng chia sẻ.
Sửa lại bởi VDTT : 25 April 2004 lúc 12:58am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 37 of 38: Đă gửi: 25 April 2004 lúc 12:53am | Đă lưu IP
|
|
|
Nếu chúng ta xét bảng Lục thập hoa giáp của Tàu th́ đây chính là chiều ngũ hành vận động ngược theo chiều kim đồng hồ của Hà Đồ bắt đầu từ hành Kim. Bảng Lạc thư hoa giáp có nguyên lư là chiều ngũ hành Tương sinh của Hà Đồ cũng bắt đầu từ hành Kim.Bảng Lạc thư Hoa giáp tuân theo những nguyên tắc có tính qui luật của thuyết Âm Dương Ngũ hành và siêu công thức của nó là Bát quái; như: Cách bát sinh tử...
Bảng Lạc thư hoa giáp khi lập thành có tính hệ thống; tính qui luật liên hệ với các v/đ và hiện tượng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ngược lại; bảng Lục thập hoa giáp không chứng tỏ sự liên hệ tương quan.Ngay cả nguồn gốc của bảng Lục thập hoa giáp - nếu có thể cho là Hà Đồ - cũng thể hiện tính phi lư của nó => Hà Đồ ngũ hành theo chiều thuận; c̣n bảng Lục thập hoa giáp trong sách Tàu th́ lại theo chiều ngược.
Vài lời tựng sở ngộ. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
namth Học Viên Lớp Dịch Trung Cấp
Đă tham gia: 25 August 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 192
|
Msg 38 of 38: Đă gửi: 13 March 2006 lúc 8:28pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính gửi các cao nhân, Namth là dân nhập môn. Theo ư kiến của anh Dungkq là nên bắt đầu với Lục Thập Hoa Giáp và có t́m ra giải thích dưới đây trong phần bài giảng. Có đôi chút t́m ṭi xin được giải thích: Ta có 30 cặp chia làm 5 chu kỳ, mỗi chu kỳ bắt đầu ở Tư-Sửu và kết thúc ở Tỵ-Hợi. Mỗi chu kỳ tương ứng với một hành. Và trong mỗi chu kỳ đều khuyết một hành.
Nếu mă hoá 1=Thuỷ, 2=Mộc, 3=Hoả, 4=Kim, 5=Thuỷ. Th́ ta có sắp xếp theo các chu kỳ:
432543
154215
321432
543154
125321
Không thấy có quy luật. Nhưng nếu đổi vị trí của thuỷ cho hoả th́ thấy có sự đối xứng
412541
352435
123412
541354
235123
Có vài phát hiện nhỏ nhưng không biết giải thích làm sao, mong kiến giải của các cao nhân
“Giáp Tí-Ất Sửu là Hải Trung Kim. Tí thuộc Thuỷ lại là cái hồ, lại là đất vượng của Thuỷ, kiêm Kim tử ở Tí, Mộ ở Sửu, Thuỷ vượng mà Kim tử Mộ, v́ vậy đặt là Hải Trung Kim (vàng dưới biển).
Bính Dần-Đinh Măo là Lô Trung Hỏa, Dần là tam Dương, Măo là tứ Dương (thuộc quẻ Đại Tráng của 12 quẻ tiêu tức) nên Hỏa đă đắc địa, lại được Mộc của Dần Măo mà sinh ra như thế thời đó trời đất như mở ḷ ra, vạn vật bắt đầu sinh v́ vậy gọi là Lô Trung Hỏa (lửa trong ḷ).
Mậu Th́n-Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc. Th́n là chốn thôn dă. Tỵ là lục Dương (thuần Dương, Tỵ là quẻ Càn của 12 quẻ tiêu tức), Mộc đến lục Dương th́ cành tốt tươi, lá rậm rạp phong phú. Lấy sự tốt tươi thịnh vượng của Mộc mà vốn tại chốn thôn dă, v́ vậy đặt là Đại Lâm Mộc (cây rừng lớn).
Canh Ngọ-Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ, Mộc ở trong Mùi (v́ Mùi tàng Can Ất) mà sinh vượng Hỏa của ngôi vị Ngọ. Hỏa vượng th́ Thổ bị đốt khô đi, Mùi có thể nuôi nấng vạn vật, giống như lộ bàng thổ, v́ vậy đặt là Lộ Bàng Thổ (đất bên đường).
Nhâm Thân-Quư Dậu là Kiếm Phong Kim. Thân Dậu là chính vị của Kim, Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đă sinh vượng th́ thành cương (là thép) vậy, cương th́ vượt hơn ở kiếm phong, v́ vậy đặt là Kiếm Phong Kim (kim mũi kiếm).
Giáp Tuất-Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa. Tuất Hợi là thiên Môn, Hỏa chiếu thiên môn, ánh sáng của nó lên rất cao, chí cao vô thượng, v́ vậy đặt là Sơn Đầu Hỏa (lửa đầu núi).
Bính Tí-Đinh Sửu là Giản Hạ Thuỷ. Thuỷ vượng ở Tí, suy ở Sửu, vượng màlật lại là suy th́ không thể là giang hà (sông lớn) được, v́ vậy đặt là Giản Hạ Thuỷ (nước dưới khe).
Mậu Dần-Kỷ Mào là Thành Đầu Thổ. Thiên Can Mậu Kỷ thuộc thổ của Dần là Cấn sơn, thổ tích lại mà là núi, v́ vậy đặt là Thành Đầu Thổ (đất đầu thành).
Canh Th́n-Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim (hợp Kim của thiết và ch́), Kim Dưỡng ở Th́n, Sinh ở Tỵ h́nh chất mới sơ thành, chưa thể vững chắc ích lợi được, v́ vậy đặt là Bạch Lạp Kim (kim trong nến).
Nhâm Ngọ-Quư Mùi là Dương Liễu Mộc. Mộc Tử ở Ngọ, Mộ ở Mùi, Mộc đă Tử Mộ tuy được Thuỷ của Thiên Can Nhâm Quư sinh để sống, chung lại là nhu nhược, v́ vậy đặt là Dương Liễu Mộc (cây dương liễu).
Giáp Thân-Ất Dậu là Tỉnh Tuyền Thuỷ. Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đă vượng th́ Thuỷ do đó sinh ra, như vậy là mới đang lúc sinh ra, lực lượng chưa lớn, v́ vậy đặt là Tỉnh Tuyền Thuỷ (nước dưới suôi).
Bính Tuất-Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, Hỏa đốt cháy ở trên th́ Thổ không ở dưới mà sinh ra được, v́ vậy đặt là Ốc Thượng Thổ (đất trên nóc nhà).
Mậu Tí-Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa. Sửu Tí thuộc Thuỷ, Thuỷ cư ở chính vị mà nạp âm chính là Hỏa, Hỏa ở trong Thuỷ nếu không phại là Thần Long th́ không thể làm được, v́ vậy đặt là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét).
Canh Dần-Tân Măo là Tùng Bách Mộc. Mộc Lâm Quan ở Dần, Đế Vượng ở Măo, Mộc đă vượng th́ không thể nhu nhược được, v́ vậy đặt là Tùng Bách Mộc (gổ cây tùng, bách).
Nhâm Th́n-Quư Tỵ là Trường Lưu Thuỷ. Th́n là Mộ của Thuỷ, Tỵ là nơi Kim Sinh, Kim sinh th́ Thuỷ tính đă giữ lại, lấy Mộ Thuỷ mà gặp sinh Kim th́ nguồn suối không cạn, v́ vậy đặt là Trường Lưu Thuỷ (nước nguồn).
Giáp Ngọ-Ất Mùi là Sa Thạch Kim. Ngọ là đất Hỏa Vượng, Hỏa vượng th́ Kim chảy ra, Mùi là đất Hỏa Suy, Hỏa suy th́ Kim Quan Đái. Hỏa Suy mà Kim Quan Đái th́ Mùi có thể thịnh măn, v́ vậy đặt là Sa Thạch Kim (kim trong cát).
Bính Thân-Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa. Dậu là cửa nhập của nhật (mặt trời lặn), nhật đă đến ở thời đó th́ ánh sáng tàng ẩn, v́ vậy đặt là Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi).
Mậu Tuất-Kỷ Hợi là B́nh Địa Mộc. Tuất nguyên là chốn thôn dă, Hợi là đất Mộ sinh ra, Mộc sinh ra ở chốn thôn dă th́ không thể là một rễ cây, một gốc cây, v́ vậy đặt là B́nh Địa Mộc (cây ở đồng bằng).
Canh Tí-Tân Sửu là Bích Thượng Thổ. Sửu tuy là chính vị nhà của Thổ, mà Tí là đất của Thuỷ vượng, Thổ gặp Thuỷ nhiều thành là bùn, v́ vậy đặt là Bích Thượng Thổ (đất trên vách).
Nhâm Dần-Quư Măo là Kim Bạc Kim. Dần Măo là đất của Mộc vượng, Mộc vượng th́ Kim gầy yếu; lại nữa, Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở Măo. Kim đă vô lực v́ vậy đặt là Kim Bạc Kim (kim pha bạc).
Giáp Th́n-Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa. Th́n là thực thời (giờ ăn), Tỵ là ở trong khu vực, trong tướng của nhật, Dương rực rỡ, thế sáng sủa, phong quang ở thiên hạ, v́ vậy đặt là Phú đăng Hỏa (lửa đèn lồng).
Bính Ngọ-Đinh Mùi là Thiên Hà Thuỷ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, mà nạp âm chính là Thuỷ, Thuỷ từ Hỏa xuất ra, nếu không phải là ngân hà th́ không thể có nước nầy, v́ vậy đặt là Thiên Hà Thuỷ (nước trên ngân hà, nước sông trên trời).
Mậu Thân-Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ. Thân là Khôn, Khôn là địa, Đậu là Đoài, Đoài là trạch (đầm). Thổ của Mậu Kỷ gia lên trên địa trạch nầy chẳng phải cái nào khác là Thổ phù bạc, v́ vậy đặt là Đại Dịch Thổ (khu đất rộng lớn).
Canh Tuất-Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim. Kim đến Tuất mới Suy, đến Hợi mới Bệnh th́ đúng thật là nhu vậy, v́ vậy đặt là Thoa Xuyến Kim (kim trâm thoa hay vàng trang sức).
Nhâm Tí-Quư Sửu là Tang Chá Mộc. Tí thuộc Thuỷ, Sửu thuộc Kim, Thuỷ sinh Mộc c̣n Kim khắc Mộc (Mộc mới sinh th́ yếu giống như cây tang chá), v́ vậy đặt là Tang Chá Mộc (gỗ cây dâu).
Giáp Dần-Ất Măo là Đại Khê Thuỷ, Dần là góc Đông Bắc, Măo là chính Đông, Thuỷ chảy chính Đông (“chúng thuỷ triều Đông” – muôn nhánh sông đều chảy về phương Đông) th́ thuận tính nó, mà sông suối, khe, ao, đầm, hồ đều hợp với nhau mà quay trở về, v́ vậy đặt là Đại Khê Thuỷ (nước ở khe lớn, nước lũ).
Bính Th́n-Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ. Thổ Mộ ở Th́n, Tuyệt ở Tỵ mà Hỏa của Thiên Can Bính Đinh đến Th́n là Quan Đái, đến Tỵ là Lâm Quan, Thổ đă Mộ Tuyệt, vượng Hỏa quay lại sinh Thổ, v́ vậy đặt là Sa Trung Thổ (đất lẫn trong cát).
Mậu Ngọ-Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, Mộc ợ trong Mùi lại phục sinh, tính Hỏa cháy ở trên, lại gặp sinh địa, v́ vậy đặt là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời).
Canh Thân-Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc. Thân là tháng 7, Dậu là tháng 8, thời ấy th́ là Mộc tuyệt vậy, duy mộc của thạch lựu, trái lại bền chắc , v́ vậy đặt là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây thạch lựu).
Nhâm Tuất-Quư Hợi là Đại Hải Thuỷ. Thuỷ Quan Đái ở Tuất, Lâm Quan ở Hợi, Thuỷ vượng th́ lực hậu (dầy), kiêm Hợi là giang (sông lớn) nên lực mạnh thế tráng, không phải Thuỷ ấy th́ không thể như thế, v́ vậy đặt là Đại Hải Thuỷ (nước trong biển lớn).
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|