Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 380 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Văn Hiến Lạc Việt (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Văn Hiến Lạc Việt
Tựa đề Chủ đề: Danh nhân văn hoá thế giơí Nguyễn Trăi vớ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
Hoa tham
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 March 2007
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 16
Msg 1 of 1: Đă gửi: 04 June 2007 lúc 8:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn Hoa tham

Danh nhân văn hoá thế giơí Nguyễn Trăi với Kinh dịch

                                                                          Hoa thám 

                                                                                 ( Phần I)

Nguyễn Trăi là khai quốc công thần dưới triều Lê sơ. Người đă thảo “ B́nh ngô đại cáo”, một thiên cổ hùng văn bất hủ của dân tộc ta. Là một danh nhân văn hoá thế giới, năm 1980 thế giới đă tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông.

Trong “ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả” viết: Tổ tiên Nguyễn Trăi ở xă Chi Ngạn, huyện Phượng Sơn (tức Phượng Nhăn, thuộc trấn Kinh Bắc) nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Vào thế kỷ XIV, triều vua
Trần Phế Đế (Hiện), gia đ́nh ông dời đến cư trú ở làng Nhị Khê, tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam thượng, (nay thuộc xă Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Nguyễn Trăi, hiệu Ức Trai, sinh năm Canh Thân (1380), cha là Nguyễn Ứng Long (tức Phi Khanh). Mẹ là Trần Thị Thái, con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (cháu bốn đời của Thái sư Trần Quang Khải).

Ngày 28 tháng 2 năm Canh th́n (1400), Hồ Quư Ly cướp ngôi vua Trần Thiếu Đế (Án), nhà Minh lấy cớ đó đưa quân sang xâm lược nước ta. Tướng quân Minh là Trương Phụ bắt cha con Hồ Quư Ly giải về Trung Quốc, chúng bắt theo cả Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trăi cùng Nguyễn Phi Hùng đến ải Nam Quan để tiễn biệt cha. Cha khuyên ông nên trở về  “báo quốc, trả thù nhà!”. Theo lời cha, trên đường trở về th́ ông bị quân Minh bắt giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội), tướng giặc Minh là Hoàng Phúc nhiều lần mua chuộc, dụ dỗ ông ra làm quan phục vụ mưu đồ đô hộ của giặc ngoại xâm. Với ḷng yêu nước, thương dân thiết tha ông không phản bội lại tổ quốc, thà chịu cảnh sống nghèo khổ bằng nghề dạy học để chờ thời cơ:

                          Góc thành Nam lều một gian,

                            No nước uống, thiếu cơm ăn.

                            Con đ̣i trốn, dường ai quyến,

                          Bầy ngựa gầy, thiếu kẻ chăn

                          Ao bởi hẹp ḥi khôn thả cá,

                          Nhà quen xú xứa, ngại nuôi vằn.

                         Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải.

                          Góc thành Nam, lều một gian”.

                      ( Nguyễn Trăi toàn tập, Quốc am thi tập, Thủ vĩ ngâm)

Sau Nguyễn Trăi đă cùng Trần Nguyên Hăn trốn thoát khỏi thành Đông Quan vào theo nghĩa quân Lam Sơn. Ông đem B́nh ngô sách dâng lên cho Lê Lợi. Nội dung của B́nh Ngô sách không bàn đến cách đánh thành mà chỉ chú ư vào việc thu phục ḷng người. Lê Lợi coi B́nh ngô sách là kim chỉ nam trong việc hoạch định sách lược, chiến lược chỉ đạo nghĩa quân Lam Sơn chống giặc Minh. Ngày 2 tháng giêng năm Mậu Tuất (ngày 7 tháng 2 năm 1418). Lê Lợi xưng là B́nh Định Vương phất cờ khởi nghĩa, mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài suốt 10 năm gian khổ, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, quân sư Nguyễn Trăi luôn ở bên cạnh Lê Lợi bàn mưu định kế đánh quân Minh xâm lược. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ đó, nghĩa quân dùng lối đánh du kích tiêu hao sinh lực địch, “Vây thành diệt viện” đă làm cho quân Minh khốn đốn ở thành Đông Quan phải cầu thêm quân cứu viện. Nhà Minh sai tướng An Viễn Hầu Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân và Kiềm Quốc Công Mộc Thạch dẫn 5 vạn quân theo hai đường sang cứu viện. Trước thế giặc to lớn Nguyễn Trăi bàn với Lê Lợi cử Đại Tư Đồ Trần Nguyên Hăn hạ thành Xương Giang trước khi viện binh của Liễu Thăng đến. Sau đó, đưa quân mai phục ở Chi Lăng. Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), nghĩa quân đă chém đầu Liễu Thăng ở núi Mă Yên, làm nên chiến thắng Chi Lăng đánh bại 10 vạn viện binh của nhà Minh, đạo quân của Mộc Thạnh nghe tin 10 vạn quân bộ bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại, Liễu Thăng bị chém mất đầu nên quân của Mộc Thạch không đánh tự tan. Vương Thông bị bao vây trong thành Đông Quang, cùng kế phải xin hoà.

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đă giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi lên làm vua lấy niên hiệu Thuận Thiên, Quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Kinh - Thăng Long ( Hà Nội). Nguyễn trăi được Vua Lê Thái Tổ uỷ thác đă thảo chiếu “B́nh ngô đại cáo” (đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Việt Nam trong lịch sử chống giặc ngoại xâm).

10 năm cùng vua Lê Thái Tổ lănh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh, ngoài việc vạch sách lược, chiến lược, Nguyễn Trăi c̣n là một nhà ngoại giao tài t́nh, giao thiệp với quan quân nhà Minh xâm lược. Nội dung các thư tịch của Nguyễn Trăi c̣n lưu lại cho ta thấy nhiều lần ông vận dụng học thuyết Chu Dịch, âm dương ngũ hành để thực hiện kế sách đối ngoại giành thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn trước một kẻ thù lớn mạnh rất mưu mô và xảo quyệt. Trong bài “Đầu mục nước An Nam kính gửi các tù tướng của thiên triều” (triều Minh), Nguyễn Trăi viết: “ Kinh Dịch có câu rằng: “Quân đi phải có kỉ luật, nếu không có kỷ luật th́ dẫu phải cũng gặp sự không hay”. Ư là Nguyễn Trăi nhắc đến quẻ Sư là một trong 64 quẻ Kinh Dịch do hạ Khảm      

             thượng Khôn         hợp thành, h́nh quẻ là          , tên là quẻ Sư, tượng trưng cho “binh chúng” (quân đội). ư nghĩa của quẻ Sư là ở chỗ nêu ra quy luật “dụng binh”. Lời quẻ nhấn mạnh hai nguyên tắc:

Một là: Tiền đề của việc dụng binh là “chính” (Chính nghĩa), tức là cho rằng “nhân nghĩa chi sư” (quân đội nghân nghĩa) “năng dĩ chúng chính” (có khả nắngử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ chính nghĩa) th́ có thể “độc thiên hạ nhi dân ṭng chi” (dù khiến thiên hạ phải khổ mà dân vẫn theo) (lời Thoán truyện).

Hai là: Ra quân thắng hay bại mấu chốt là ở chỗ chọn tướng có xứng đáng hay không. Cho nên ắt phải dùng bậc “trượng nhân” hiền minh th́ mới có thể được cát lợi. Sáu hào trong quẻ lần lượt nêu ra các yếu lĩnh về các mặt trong việc dụng binh. Hào Sơ lục nói về sự cần thiết về kỷ luật quân đội phải rất nghiêm minh. Hào Cửu nhị vạch rơ điều kiện để chủ soái thành công. Hào Lục tam tŕnh bầy về bài học thất bại. Hào Lục tứ chỉ rơ t́nh trạng triệt quân rút lui. Hào Lục ngũ nói về tiêu chuẩn chọn tướng của “quân chủ”. Hào Thượng lục thể hiện pháp tắc xét công ban thưởng. Từ yếu lĩnh dụng binh mà quẻ Sư  vạch ra, quẻ Sư thật đáng gọi là một bộ cương lĩnh chung về binh pháp cổ đại. Nếu từ nguyên tắc dụng binh là phải có tính chính nghĩa mà xét, th́ lại có thể coi đó đều tóm tắt quan trọng nhất trong tư tưởng chiến tranh của Chu Dịch. Tuân Tử - Nghị binh nói: “Việc binh ấy là để ngăn bạo trừ hại. Chứ chẳng phải là tranh đoạt”. Trong Hào Sư lục quẻ Sư, là hào âm ở ngôi đầu tiên dưới quẻ, lời hào nói: “Sư xuất dĩ luật, phủ tang, hung”. Có nghĩa là: Ra quân phải dùng pháp luật hiệu lệnh để ước thúc, kỷ luật quân đội không tốt ắt có sự hung hiểm (nguy hiểm chẳng lành). “Phủ tang” nghĩa như “bất thiện”, có nghĩa là không tốt. “Phủ” đây nghĩa như “bất” (chẳng). “Tang” như “thiện”, có nghĩa là tốt. Đây là thuyết minh về hào Sơ lục ở chỗ bắt đầu của quẻ Sư, tượng trưng cho quân đội mới bắt đầu xuất phát, nên nhắc nhở là phải nghiêm minh quân pháp. Nếu không ắt sẽ “hung” (chẳng lành). Sư là quẻ bàn về cách dùng binh. Đánh trận không phải tṛ đùa vui, mạnh ai nấy làm, mà phải có quân kỷ. ( C̣n nữa )

 

Quay trở về đầu Xem Hoa tham's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Hoa tham
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.2813 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO