Tác giả |
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 1 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 8:51pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
KUNZANG
LAMAI’I SHELUNG
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Bản
dịch Anh ngữ: Padmakara Translation Group
Bản
dịch Việt ngữ đầu tiên (2004): Nhóm Longchenpa Thanh Liên –
Tuệ Pháp
Hiệu
đính sơ khởi (2006): Thanh Liên
Hiệu
đính toàn bộ (2008): Tâm Bảo Đàn với sự đóng góp của
Từ Bi Hoa
Bản
Hiệu Đính Toàn Bộ được Viet Nalanda Foundation ấn tống
lần
đầu tiên tại Hoa Kỳ năm 2008
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
KUNZANG
LAMA’I SHELUNG
Tác
Giả: Đại Sư Patrul Rinpoche
Nguyên
tác: O-rgyan-‘jigs-med-chos-kyi-dban-po
Bản
dịch Anh ngữ: The Words of My Perfect Teacher
Dịch
giả Anh ngữ: Padmakara Translation Group
Nhà
xuất bản: Shambhala, Boston, Hoa Kỳ (1994, 1998)
Chuyển
dịch Việt ngữ lần đầu tiên (2004):
Nhóm
Longchenpa - Thanh Liên và Tuệ Pháp
Hiệu
đính sơ khởi (2006): Thanh Liên
Hiệu
đính toàn bộ (2008)ä: Tâm Bảo Đàn với sự đóng góp của
Từ Bi Hoa
Bìa
sách: Tâm Bảo Đàn
Trình
bày: Hoài Hương ISBN 978-0-9799607-1-0
Bản
Hiệu Đính Toàn Bộ Lời Vàng Của Thầy Tôi được
tổ chức Viet Nalanda Foundation (Viet Vajra Foundation) phát tâm
ấn tống 1,000 quyển lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 2008
với sự đồng thuận của Padmakara Translation Group và chi nhánh
Alta Mira của nhà xuất bản Rowman & Littlefield Publishing Group,
Maryland, Hoa Kỳ. Alta Mira và Rowman & Littlefield Publishing
Group hiện giữ bản quyền của bản dịch Anh ngữ của tác
phẩm này.
Viet
Nalanda Foundation giữ bản quyền đạo đức của bản Hiệu
Đính Toàn Bộ Lời Vàng Của Thầy Tôi – ấn
bản 2008. Sách ấn tống, không bán. Nếu muốn trích đăng,
xin vui lòng ghi rõ xuất xứ. Nếu muốn ấn tống, xin vui lòng
gửi điện thư đến vietnalanda@ymail.com
để nhận được bản điện tử cập nhật hoặc viếng trang
nhà của Viet Nalanda Foundation tại www.vietnalanda.org.
NỘI DUNG
Lời
Ngỏ của Bản Hiệu Đính Toàn Bộ (Ấn bản Việt ngữ
2008)
Thủ
Bút của Tulku Nyima Rinpoche (Ấn bản Việt ngữ 2008)
Lời
Nói Đầu (Ấn bản Việt ngữ 2004)
Lời
Nói Đầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Lời
Giới Thiệu của Dilgo Khyentse Rinpoche
Dẫn
Nhập của Các Dịch Giả Anh Ngữ
Lịch
Sử Phật Giáo Tây Tạng – Dẫn Nhập Tóm Tắt
Tiểu
Sử Patrul Rinpoche (Ấn bản Việt ngữ 2008)
Thi
Kệ Mở Đầu của Patrul Rinpoche
PHẦN
MỘT:
NHỮNG
PHÁP TU DỰ BỊ THÔNG THƯỜNG
HAY
NHỮNG CHUẨN BỊ BÊN NGOÀI
CHƯƠNG
MỘT: TỰ DO VÀ THUẬN DUYÊN KHÓ TÌM
CHƯƠNG
HAI: LẼ VÔ THƯỜNG CỦA CUỘC ĐỜI
CHƯƠNG
BA: NHỮNG KHỔ ĐAU CỦA CÕI LUÂN HỒI
CHƯƠNG
BỐN: NGHIỆP: LUẬT NHÂN QUẢ
CHƯƠNG
NĂM: LỢI ÍCH CỦA GIẢI THOÁT
CHƯƠNG
SÁU: LÀM THẾ NÀO ĐỂ THEO CHÂN MỘT VỊ THẦY TÂM LINH
PHẦN
HAI:
NHỮNG
PHÁP TU DỰ BỊ PHI THƯỜNG
HAY
NHỮNG CHUẨN BỊ BÊN TRONG
CHƯƠNG
MỘT: QUY Y, NỀN TẢNG CỦA MỌI CON ĐƯỜNG
CHƯƠNG
HAI: KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM, GỐC RỄ CỦA ĐẠI THỪA
CHƯƠNG
BA: TRÌ TỤNG VÀ THIỀN QUÁN VỀ BỔN SƯ
NHƯ
ĐỨC KIM CANG TÁT ĐỎA ĐỂ TỊNH HOÁ TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
CHƯƠNG
BỐN: CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA ĐỂ VUN BỒI PHƯỚC TUỆ
CHƯƠNG
NĂM: KUSALI - PHÁP TÍCH TỤ CÔNG ĐỨC:
DIỆT
TRỪ BỐN MA VƯƠNG BẰNG MỘT ĐỘC CHIÊU
CHƯƠNG
SÁU: BỔN SƯ DU GIÀ,
CÁNH
CỔNG DẪN ĐẾN NĂNG LỰC GIA TRÌ,
PHƯƠNG
PHÁP TỐI HẬU ĐỂ CHỨNG NGỘ TUỆ GIÁC
PHẦN
BA:
CON
ĐƯỜNG CHUYỂN DI THẦN TỐC
CHƯƠNG
MỘT: CHUYỂN DI TÂM THỨC,
CÁC
GIÁO HUẤN CHO NGƯỜI HẤP HỐI:
PHẬT
QUẢ KHÔNG CẦN THIỀN ĐỊNH
CHÚ
THÍCH
THUẬT
NGỮ
Ban
Biên Tập Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm ơn quý đạo hữu:
Thanh Liên, Tâm Bảo Đàn và Mai Thy (Viet Nalanda Foundation) đã
gửi tặng ấn bản giấy và phiên bản điện tử quyển sách
này. Xin trân trọng kính giới thiệu đến quý độc giả.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 2 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 8:53pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni
Guru
Rinpoche
Còn
được biết đến dưới tên Padmasambhava hay Liên Hoa Sanh (đản
sanh từ đóa hoa sen). Ngài là “Đức Phật Thứ Nhì,”
là người đã thiết lập nền móng Phật Giáo tại Tây Tạng.
Trong bức hoạ trên, Ngài được mô tả trong một hình tướng
có tên là Nangsi ZilnoŠn, có nghĩa là “Siêu Vượt Sắc Tướng
và Diệu Hữu.” Danh hiệu này có nghĩa là khi thấu hiểu
được chân tánh của tất cả những gì hoá hiện thì Ngài
tự động trở thành bậc thầy của mọi tình huống.
NỘI
DUNG
Lời
Ngỏ của Bản Hiệu Đính Toàn Bộ (Ấn bản Việt ngữ 2008)
Thủ
Bút của Tulku Nyima Rinpoche (Ấn bản Việt ngữ 2008)
Lời
Nói Đầu (Ấn bản Việt ngữ 2004)
Lời
Nói Đầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Lời
Giới Thiệu của Dilgo Khyentse Rinpoche
Dẫn
Nhập của Các Dịch Giả Anh Ngữ
Lịch
Sử Phật Giáo Tây Tạng – Dẫn Nhập Tóm Tắt
Tiểu
Sử Patrul Rinpoche (Ấn bản Việt ngữ 2008)
Thi
Kệ Mở Đầu của Patrul Rinpoche
MỤC
LỤC
PHẦN
MỘT
NHỮNG
PHÁP TU DỰ BỊ THÔNG THƯỜNG
HAY
NHỮNG CHUẨN BỊ BÊN NGOÀI
CHƯƠNG
MỘT
TỰ
DO VÀ THUẬN DUYÊN KHÓ TÌM
I.
CÁCH THỨC ĐÚNG ĐẮN ĐỂ LẮNG NGHE GIÁO PHÁP
1.
Thái Độ
1.1
ĐỘNG LỰC BAO LA CỦA BỒ ĐỀ TÂM
1.2
THIỆN XẢO BAO LA TRONG PHƯƠNG TIỆN: ĐỘNG LỰC TU TẬP CỦA
CON ĐƯỜNG MẬT THỪA
2.
Cung cách hành xử
2.1
NHỮNG ĐIỀU NÊN TRÁNH
2.1.1
Ba khiếm khuyết của chiếc bình chứa
2.1.2
Sáu điều ô nhiễm
2.1.3
Năm cách nhớ tưởng sai lạc
2.2
NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM
2.2.1
Bốn ẩn dụ
2.2.2
Sáu pháp toàn thiện siêu việt (Lục độ ba la mật)
2.2.3
Những phương cách hành xử khác
II.
CHÍNH VĂN GIÁO PHÁP: LUẬN GIẢI VỀ VIỆC KHÓ TÌM ĐƯỢC
TỰ DO VÀ THUẬN DUYÊN
1.
Quán chiếu về bản chất của tự do
2.
Quán chiếu về những thuận duyên đặc biệt liên quan đến
Pháp
2.1
NĂM THUẬN DUYÊN CÁ NHÂN
2.2
NĂM THUẬN DUYÊN THUỘC HOÀN CẢNH
2.3
TÁM HOÀN CẢNH XÂM HẠI KHIẾN TA KHÔNG CÓ ĐƯỢC
TỰ DO ĐỂ TU HÀNH
1
TÁM THIÊN HƯỚNG KHÔNG THÍCH HỢP KHIẾN TA KHÔNG CÓ TỰ
DO ĐỂ TU HÀNH
2
Quán chiếu dựa trên những biểu tượng để thấy rằng
tự do và thuận duyên rất khó tìm
3
Quán chiếu dựa trên những so sánh bằng số lượng
CHƯƠNG
HAI
LẼ
VÔ THƯỜNG CỦA CUỘC ĐỜI
I.
SỰ VÔ THƯỜNG CỦA THẾ GIỚI BÊN NGOÀI NƠI CÓ
CHÚNG SINH ĐANG SINH SỐNG
II.
SỰ VÔ THƯỜNG CỦA CHÚNG SINH SỐNG TRONG THẾ GIỚI
III.
SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG BẬC HIỀN THÁNH
IV.
SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ ĐỊA VỊ VÀ THẾ LỰÏC
V.
CÁC VÍ DỤ KHÁC VỀ VÔ THƯỜNG
VI.
SỰ BẤT ĐỊNH CỦA CÁC TÌNH HUỐNG ĐƯA ĐẾN
CÁI CHẾT
VII.
SỰ TỈNH GIÁC MÃNH LIỆT VỀ LẼ VÔ THƯỜNG
1.1
BÁT HỎA ĐỊA NGỤC (Tám địa ngục nóng)
CHƯƠNG
BA
NHỮNG
KHỔ ĐAU CỦA CÕI LUÂN HỒI
I.
NHỮNG ĐAU KHỔ NÓI CHUNG CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI
II.
NHỮNG NỖI THỐNG KHỔ ĐAËC BIỆT MÀ
CHÚNG
SINH TRONG SÁU CÕI PHẢI KINH QUA
1.
Thập bát địa ngục (Mười tám cõi địa ngục)
1.1.1
Đẳng Hoạt Địa Ngục (Địạ ngục chết đi sống lại)
1.1.2
Hắc Thằng Địa Ngục (Điạ ngục dây sắt đen)
1.1.3
Chúng Hợp Địa Ngục (Địa ngục đè ép nát
nhừ)
1.1.4
Hào Kiếu Địa Ngục (Địa ngục gào khóc)
1.1.5
Đại Kiếu Địa Ngục (Địa ngục gào khóc
thống thiết)
1.1.6
Viêm Hỏa Địa Ngục (Địa ngục thiêu cháy)
1.1.7
Đại Viêm Hoả Địa Ngục (Địa ngục thiêu cháy cực
nóng)
1.1.8
Vô Gián Địa Ngục (Địa ngục A-Tì dành cho ngũ nghịch
trọng tội)
1.1.9
Cận Biên Địa Ngục
1.2
BÁT HÀN ĐỊA NGỤC (Tám điạ ngục lạnh)
1.3
CÔ ĐỘC ĐỊA NGỤC
2.
Ngạ quỷ
2.1
LOÀI NGẠ QUỶ SỐNG TỤ TẬP
2.1.1
Ngạ quỷ bị hành hạ bởi những chướng ngại bên ngoài
2.1.2
Ngạ quỷ bị hành hạ bởi những chướng ngại
bên trong
2.1.3
Ngạ quỷ bị hành hạ bởi những chướng ngại đặc
biệt
2.2
LOÀI NGẠ QUỶ DI CHUYỂN TRONG KHÔNG GIAN
3.
Súc sinh
3.1
SINH VẬT SỐNG Ở CÁC ĐỘ SÂU
3.2
SÚC VẬT SỐNG RẢI RÁC Ở NHỮNG NƠI KHÁC NHAU
4.
Cõi người
4.1
BA LOẠI ĐAU KHỔ CHÍNH YẾU
4.1.1
Đau khổ vì biến đổi
4.1.2
Đau khổ chồng chất đau khổ
4.1.3
Đau khổ của tất cả những gì giả hợp
4.2
ĐAU KHỔ CỦA SINH, LÃO, BỆNH, TỬ
4.2.1
Đau khổ khi sinh ra đời
4.2.2
Đau khổ của tuổi già
4.2.3
Đau khổ của bệnh tật
4.2.4
Đau khổ của cái chết
4.3
NHỮNG ĐAU KHỔ KHÁC CỦA CON NGƯỜI
4.3.1
Nỗi sợ hãi gặp kẻ thù địch
4.3.2
Nỗi sợ hãi mất người thân yêu
4.3.3
Nỗi khổ của ham muốn không đạt được
4.3.4
Nỗi khổ vì gặp điều không mong muốn
5.
A Tu La
6.
Chư Thiên
CHƯƠNG
BỐN
NGHIỆP:
LUẬT NHÂN QUẢ
I.
NHỮNG ÁC HẠNH PHẢI TỪ BỎ
1.
Mười hành vi bất thiện nên tránh (Thập ác)
1.1
SÁT SINH
1.2
LẤY NHỮNG GÌ KHÔNG ĐƯỢC CHO
1.3
TÀ DÂM
1.4
NÓI DỐI
1.5
GIEO MỐI BẤT HOÀ
1.6
NÓI LỜI CAY NGHIỆT
1.7
NÓI CHUYỆN PHIẾM VÔ ÍCH
1.8
THAM MUỐN
1.9
MUỐN LÀM TỔN HẠI NGƯỜI KHÁC
1.10
TÀ KIẾN
2.
Hậu quả của mười hành vi bất thiện
2.1
QUẢ CHÍN MUỒI TRỔ SANH
2.2
QUẢ TƯƠNG ỨNG VỚI NHÂN
2.2.1
Hành nghiệp tương ứng với nguyên nhân
2.2.2
Kinh nghiệm tương ứng với nguyên nhân
2.3
QUẢ TRỔ SANH NGHIỆP CẢNH
2.4
QUẢ TĂNG TRƯỞNG LIÊN TỤC
II.
NHỮNG THIỆN HẠNH NÊN LÀM (Thập thiện)
III.
TÍNH CHẤT HOÀN TOÀN QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁC HÀNH VI
TẠO NGHIỆP
CHƯƠNG
NĂM
LỢI
ÍCH CỦA GIẢI THOÁT
I.
NHỮNG NHÂN TỐ ĐƯA TỚI GIẢI THOÁT
II.
KẾT QUẢ: BA QUẢ VỊ GIÁC NGỘ
CHƯƠNG
SÁU
LÀM
THẾ NÀO ĐỂ THEO CHÂN
MỘT
VỊ THẦY TÂM LINH
I.
QUÁN SÁT THẦY
II.
THEO CHÂN THẦY
III.
NOI GƯƠNG SỰÏ CHỨNG NGỘ VÀ CÔNG HẠNH CỦA THẦY
PHẦN
HAI
NHỮNG
PHÁP TU DỰ BỊ PHI THƯỜNG
HAY
NHỮNG CHUẨN BỊ BÊN TRONG
CHƯƠNG
MỘT
QUY
Y, NỀN TẢNG CỦA MỌI CON ĐƯỜNG
I.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐẾN VỚI QUY Y
1.
Tín tâm
1.1
NIỀM TIN SỐNG ĐỘNG
1.2
NIỀM TIN THA THIẾT
1.3
NIỀM TIN KIÊN ĐỊNH
2.
Nguyện lực
2.1
NGUYỆN LỰC QUY Y CỦA NHỮNG NGƯỜI HẠ CĂN
2.2
NGUYỆN LỰC QUY Y CỦA NHỮNG NGƯỜI TRUNG CĂN
2.3
NGUYỆN LỰC QUY Y CỦA NHỮNG BẬC THƯỢNG CĂN
II.
QUY Y NHƯ THẾ NÀO
III.
NHỮNG GIỚI LUẬT VÀ LỢI ÍCH CỦA QUY Y 283
1.
Giới luật của quy y
1.1
BA ĐIỀU PHẢI TỪ BỎ
1.2
BA ĐIỀU NÊN LÀM
1.3
BA GIỚI LUẬT BỔ SUNG
2.
Lợi ích của quy y
CHƯƠNG
HAI
KHƠI
DẬY BỒ ĐỀ TÂM, GỐC RỄ CỦA ĐẠI THỪA
I.
RÈN LUYỆN TÂM NƯƠNG NƠI TỨ VÔ LƯỢNG
1.
Thiền định về tâm xả
2.
Thiền định về tâm từ
3.
Thiền định về tâm bi
4.
Thiền định về tâm hỷ
II.
KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
1.
Phân Loại Bồ Đề Tâm Dựa Trên Ba Mức Độ Dũng Cảm
1.1
SỰ DŨNG CẢM CỦA MỘT VỊ VUA
1.2
SỰ DŨNG CẢM CỦA NGƯỜI CHÈO THUYỀN
1.3
SỰ DŨNG CẢM CỦA NGƯỜI CHĂN CỪU
2.
Phân loại theo các địa Bồ Tát
3.
Phân loại theo tính chất của Bồ Đề Tâm
3.1
BỒ ĐỀ TÂM TƯƠNG ĐỐI
3.1.1 Tác ý (Bồ Đề Tâm Nguyện)
3.1.2 Áp dụng thực hành(Bồ Đề Tâm Hạnh)
3.2
BỒ ĐỀ TÂM TỐI THƯỢNG (Bồ Đề Tâm Viên Mãn)
4.
Thọ giới nguyện Bồ Đề Tâm
III.
RÈN LUYỆN THEO GIỚI LUẬT CỦA BỒ ĐỀ TÂM
1.
Bồ Đề Tâm Nguyện và Giới Luật
1.1 COI NGƯỜI KHÁC NGANG BẰNG VỚI MÌNH
1.2 HOÁN ĐỔI MÌNH VÀ NGƯỜI
1.3 COI NGƯỜI KHÁC QUAN TRỌNG HƠN MÌNH
2.
Bồ Đề Tâm Hạnh: Nương Theo Giới Hạnh Của Sáu
Pháp Toàn Thiện Siêu Việt
2.1
BỐ THÍ SIÊU VIỆT (Bố thí ba-la-mật)
2.1.1
Bố thí vật chất (Tài thí)
2.1.2
Bố thí Pháp (Pháp thí)
2.1.3
Bố thí sự che chở khỏi sợ hãi (Vô Uý thí)
2.2
TRÌ GIỚI SIÊU VIỆT (Giới ba-la-mật)
2.2.1
Tránh những hành động bất thiện
2.2.2
Quyết làm việc thiện
2.2.3
Đem lại lợi lạc cho người khác
2.3
NHẪN NHỤC SIÊU VIỆT (Nhẫn ba-la-mật)
2.3.1
Nhẫn nhục khi gặp bất công
2.3.2
Nhẫn nhục chịu đựng gian khổ vì Đạo Pháp
2.3.3
Nhẫn nại đối mặt với chân lý sâu xa với tâm
vô úy
2.4
TINH TẤN SIÊU VIỆT (Tinh tấn ba-la-mật)
2.4.1
Tinh tấn như áo giáp 380
2.4.2
Tinh tấn trong hành động
2.4.3
Tinh tấn không ngưng nghỉ
2.5
THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆT (Định ba-la-mật)
2.5.1
Từ bỏ những phóng dật
2.5.2
Thiền định thực sự
2.6
TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT (Tuệ ba-la-mật)
2.6.1
Trí tuệ nhờ lắng nghe
2.6.2
Trí tuệ nhờ quán chiếu
2.6.3
Trí tuệ nhờ thiền định
CHƯƠNG
BA
TRÌ
TỤNG VÀTHIỀN QUÁN VỀ BỔN SƯ
NHƯ
ĐỨC KIM CANG TÁT ĐỎA ĐỂ TỊNH HOÁ
TẤT
CẢ CHƯỚNG NGẠI
I.
LÀM THẾ NÀO TỊNH HÓA CHƯỚNG NGẠI NƯƠNG VÀO PHÁP
SÁM HỐI
II.
TỨ LỰC TỊNH HÓA NGHIỆP (Bốn Lực Tịnh Hoá Nghiệp)
1
Lực Hỗ Trợ
2
Lực Ân Hận Đã Hành Ác Hạnh
3
Lực Quyết Chí Chuyển Tâm
4
Lực Quyết Chí Hành Thiện Hạnh
III.
PHÁP THIỀN QUÁN KIM CANG TÁT ĐỎA (Vajrasattva)
CHƯƠNG
BỐN
CÚNG
DƯỜNG MẠN ĐÀ LA ĐỂ VUN BỒI
PHƯỚC
TUỆ
I.
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC VUN BỒI HAI BỒ CÔNG
ĐỨC
II.
MẠN ĐÀ LA THÀNH TỰU
III.
MẠN ĐÀ LA CÚNG DƯỜNG
1
Cúng Dường Mạn-đà-la Ba Mươi Bảy Cúng Phẩm
2
Cúng Dường Mạn-đà-la Của Ba Thân Theo Bản Văn Này
2.1
MẠN ĐÀ LA THÔNG THƯỜNG CỦA HOÁ THÂN
2.2
MẠN ĐÀ LA PHI THƯỜNG CỦA BÁO THÂN
2.3
MẠN ĐÀ LA ĐAËC BIỆT CỦA PHÁP THÂN
CHƯƠNG
NĂM
KUSALI
- PHÁP TÍCH TỤ CÔNG ĐỨC:
DIỆT
TRỪ BỐN MA VƯƠNG BẰNG MỘT ĐỘC CHIÊU
I.
THÂN THỂ NHƯ MỘT PHẨM VẬT CÚNG DƯỜNG
II.
PHÁP TU CÚNG DƯỜNG THÂN XÁC
1
Bữa Tiệc Trắng Dành Cho Thượng Khách
2
Bữa Tiệc Trắng Dành cho Các Vị Khách Ở Dưới Thấp
3.
Bữa Tiệc Đa Dạng Dành Cho Thượng Khách
4.
Bữa Tiệc Đa Dạng Dành Cho Các Vị Khách Ở Dưới Thấp
III.
Ý NGHĨA CỦA PHÁP Choš
CHƯƠNG
SÁU
BỔN
SƯ DU GIÀ, CÁNH CỔNG DẪN ĐẾN
NĂNG
LỰC GIA TRÌ, PHƯƠNG PHÁP TỐI HẬU ĐỂ
CHỨNG
NGỘ TUỆ GIÁC
I.
LÝ DO CÓ PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ (Guru Yoga)
II.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
1.
Quán Tưởng Ruộng Công Đức
2.
Cúng Dường Thất Chi Phổ Hiền
2.1
LỄ LẠY, PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TRỊ TÁNH KIÊU NGẠO
2.2
CÚNG DƯỜNG
2.3
SÁM HỐI ÁC HẠNH
2.4
HOAN HỶ, PHÁP ĐỐI TRỊ TÁNH GANH TỴ
2.5
KHẨN CẦU CHƯ PHẬT CHUYỂN PHÁP LUÂN
2.6
KHẨN CẦU CHƯ PHẬT ĐỪNG NHẬP NIẾT BÀN
2.7
HỒI HƯỚNG
3.
Khẩn Cầu Với Lòng Tin Kiên Quyết Chí Thành
4.
Thọ Nhận Bốn Pháp Quán Đảnh (Bốn Pháp Gia Lực)
III.
LỊCH SỬ CHÀO ĐỜI CỦA CỰU PHÁI DỊCH THUẬT
1.
Dòng Tâm Truyền (Biệt Truyền) Của Các Đấng Chiến Thắng
2.
Dòng Truyền Dạy Qua Biểu Tượng Của Các Bậc Minh
Trì (Vidyadhara)
2.1
CÁC MẬT ĐIỂN ĐẠI DU GIÀ (Mahayoga)
2.2
LỊCH SỬ TRUYỀN DẠY A-NẬU (Anuyoga)
2.3
CÁC GIÁO HUẤN TÂM YẾU CỦA ĐẠI VIÊN MÃN
2.4
GIÁO PHÁP ĐẠI VIÊN MÃN ĐẾN VỚI CÕI NGƯỜI
IV.
LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ TÂM-YẾU Ở XỨ TUYẾT TÂY TẠNG
1.
Dòng nhĩ truyền của những chúng sinh bình thường
PHẦN
BA
CON
ĐƯỜNG CHUYỂN DI THẦN TỐC
CHƯƠNG
MỘT
CHUYỂN
DI TÂM THỨC, CÁC GIÁO HUẤN
CHO
NGƯỜI HẤP HỐI: PHẬT QUẢ KHÔNG CẦN
THIỀN
ĐỊNH
I.
PHÂN LOẠI NĂM PHÁP CHUYỂN DI
1
Chuyển Di Siêu Việt Tới Pháp Thân Nhờ Dấu Ấn Của
Cái Thấy
2
Chuyển Di Trung Bình Tới Báo Thân Nhờ Hợp Nhất Hai Giai Đoạn
Phát Triển Và Toàn Thiện
3
Chuyển Di Thấp Tới Hoá Thân Nhờ Lòng Bi Mẫn Vô Lượng
4
Chuyển Di Thông Thường Nương Vào Ba Ẩn Dụ
5
Chuyển Di Thực Hiện Cho Người Chết Với Cái Móc Của Lòng
Bi Mẫn
II.
CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG NƯƠNG VÀO BA ẨN DỤ
1.
Thực Tập Pháp Chuyển Di
2.
Chuyển Di Thực Sự
3.
Trình Tự Của Pháp Thiền Định Chuyển Di
3.1
PHÁP CHUẨN BỊ
3.2
PHÁP QUÁN TƯỞNG CHÍNH YẾU 559 KẾT LUẬN (của Patrul Rinpoche)
Lời Bạt (của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye) Chú Thích Thuật ngữ
Sách Tham Khảo
DANH
MỤC HÌNH ẢNH VÀ TRANH HỌA
ĐỨC
PHẬT THÍCH CA MÂU NI (bản khắc gỗ từ Derge)
GURU
RINPOCHE (tranh hoạ của Orgyen Lhundrup)
PADMASAMBHAVA
– ĐỨC LIÊN HOA SANH (tranh vẽ của Lama Wangdu) xxxii LONGCHENPA
(tranh vẽ của Glen Eddy)
JIGME
LINPA (tranh vẽ của Glen Eddy)
JIGME
GYAWAI NYUGU (bản khắc gỗ của Gomchen Ulekshé)
PATRUL
RINPOCHE (bản khắc gỗ của Gomchen Ulekshé)
CUỘC
ĐỜI CỦA JAMYANG KHYENTSE WANGPO (tranh vẽ của Lama Wangdu dựa
trên những phác hoạ của Dilgo Khyentse Rinpoche)
JAMYANG
KHYENTSE WANGPO
VUA
TRISONG DETSEN
JETSUN
TRAKPA GYALTSEN
GAMPOPA
DROM
TOŠNPA
PADMA
SANGYE (trang vẽ của Konchok Khadrepa)
MILAREPA
DILGO
KHYENTSE RINPOCHE (hình chụp của Mathieu Ricard)
CÁC
BỔN TÔN QUY Y
SANTIDEVA
- TỊCH THIÊN (tranh vẽ của Konchok Khadrepa)
ATISA
(tranh vẽ của Konchok Khadrepa)
VAJRASATTVA
- KIM CANG TÁT ĐỎA
MẠN
ĐÀ LA CỦA TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI
MACHIK
LABDRON (tranh hoạ của Gérard Muguet)
DUDJOM
RINPOCHE
GURU
RINPOCHE (ĐỨC LIÊN HOA SANH) VÀ DÒNG TRUYỀN THỪA TÂM-YẾU CỦA
ĐẠI-QUẢNG-TRÍ (LONGCHEN NYINTIK)(tranh vẽ của Konchok Lhadrepa)
TU
VIỆN SAMYE (hình chụp của John Canti)
GURU
RINPOCHE (ĐỨC LIÊN HOA SANH) VÀ MƯỜI HAI HOÁ THÂN THEO HỆ GIẢNG
PARCHÉ KUNSEL (tranh hoạ từ bộ sưu tập của Dzongsar Khyentse
Rinpoche)
KANGYUR
RINPOCHE
CÁC
HANG ĐỘNG GẦN TU VIỆN DZOGCHEN (hình chụp của Christian Bruyat)
NHÌN VỀ HƯỚNG TU VIỆN DZOGCHEN (hình chụp của Christian
Bruyat)
CHÚ
THÍCH
THUẬT
NGỮ
LỜI
NGỎ
Của
Bản Hiệu Đính Toàn Bộ năm 2008
do
Viet Nalanda Foundation ấn tống tại Hoa Kỳ
Từ
khởi thủy, sự có mặt của Bản Hiệu Đính Toàn Bộ “Lời
Vàng Của Thầy Tôi,” ấn bản năm 2008, đã xuất phát
từ tấm lòng biết ơn sâu xa của những đệ tử người Việt
có duyên được tu học theo hệ giảng Longchen Nyingtik (Tâm-Yếu
của Đại-Quảng-Trí) với đại sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche.
Vào
năm 2005, tại trung tâm Sakya Dokho Choling ở tiểu bang Maryland,
Hoa Kỳ, chúng tôi đã lần đầu tiên được thọ nhận khẩu
truyền (Tib: lung) toàn bộ trước tác “Lời Vàng Của Thầy
Tôi” (gọi tắt là “Lời Vàng”) qua kim khẩu của đại
sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche. Thầy chúng tôi là một vị đại
tăng, một hoá thân thuộc dòng truyền thừa Sakya, nhưng suốt
cả đời đã tu tập hành trì theo truyền thống Longchen
Nyingtik
và Đại Viên Mãn (Dzogchen) của dòng Nyingma. Đại sư Tulku
Nyima Gyaltsen Rinpoche được biết đến như là một danh sư
đã chứng đắc pháp tu Đại Viên Mãn, và đã được Đạo
Sư vĩ đại Jamyang Khyentse Chokyi Lodro1 tuyên nhận là một hiện
thân về ngữ của ngài Khenpo Ngawang Palzangchung,2 một
trong những đại học giả và danh sư cao trọng nhất theo truyền
thống Đại Viên Mãn của thế kỷ hai mươi.
Trong
gần ba mươi năm qua, đại sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche đã
không ngừøng tận tụy giảng dạy từng lời từng chữ trong
tập sách “Lời Vàng Của Thầy Tôi” cho biết bao nhiêu là
đệ tử, trong hàng tăng ni cũng như cư sĩ tại gia. Ngày
xưa, khi được sư phụ khai tâm và bắt đầu học hỏi, nghiên
cứu những giáo lý được giảng dạy trong “Lời Vàng,”
đại sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche đã học thuộc lòng toàn
bộ quyển sách mấy trăm trang chỉ vỏn vẹn có bốn tháng!
Sau
này, khi giảng dạy lại cho học trò, Thầy chúng tôi đã truyền
dạy hoàn toàn theo trí nhớ. Không cần đến sách trong tay
mà Thầy có thể giảng từng câu từng chữ, theo đúng trình
tự, sát lời sát ý, y như đang có quyển sách mở ra trước
mặt. Hằng năm, khi từ Tây Tạng qua du hoá tại Hoa Kỳ, Thầy
thường bỏ ra khoảng một tháng để ngày đêm giảng dạy
về “Lời Vàng.” Nhìn Thầy, nghe Thầy như thế, vàø cảm
nhận được rằng lúc nào Thầy cũng chỉ muốn trải thân
mình ra để giáo hóa lũ học trò khờ khạo, thì mới hiểu
được rằng công ơn muôn một của Thầy to lớn biết dường
nào, và sẽ chẳng bao giờ tất cả chúng tôi có thể đền
đáp được!
Cũng
vào cuối năm 2005, chúng tôi tình cờ nối được duyên lành
với dịch giả Thanh Liên, và sau đó, được anh Thanh Liên
cho biết là quyển “The Words of My Perfect Teacher” đã được
dịch và phổ biến tại Việt Nam vào năm 2004 với tựa đề
“Lời Vàng Của Thầy Tôi.” Thật không gì có
thể nói lên được niềm vui sướng và cảm kích của chúng
tôi khi nghe tin này và cầm quyển sách ấy trong tay. Quyển
“Lời Vàng Của Thầy Tôi,” ấn bản Việt ngữ xuất bản
lần đầu tiên vào năm 2004 tại Việt Nam, là công khó của
hai dịch giả Thanh Liên và Tuệ Pháp trong Nhóm Longchenpa.
Theo
như lời của anh Thanh Liên thuật lại thì trước đây, vào
khoảng năm 2000, trong khi đọc quyển “The Heart Treasure of the
Enlightened Ones” (Kho Tàng Tâm Của Các Bậc Giác Ngộ) của
đại đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche, anh Thanh Liên thấy trong
đó có nhắc đến một tác phẩm bất hủ mang tên “Kunzang
Lama’i Shelung” của ngài Patrul Rinpoche. Bản tiếng Anh đã
dịch thoát ý tựa sách ra thành “The Words of My Perfect Teacher,”
đại ý có nghĩa là “Những Lời Dạy Của Vị Thầy
Toàn Bích Của Tôi.” Tựa đề quyển sách này đã đem đến
những rung động sâu xa trong tâm hồn anh. Anh đã nhờ một
người bạn thân ở Hoa Kỳ là cư sĩ và dịch giả Nguyên
Giác tìm dùm quyển sách này. Anh Nguyên Giác đã gửûi về
tặng anh Thanh Liên quyển “The Words of My Perfect Teacher”, ấn
bản Anh ngữ phát hành vào năm 1998.
Ngay
sau đó, anh Thanh Liên khởi công chuyển ngữ qua tiếng Việt,
bắt đầu với chương viết về Lẽ Vô thường của Cuộc
Đời trong Phần Một, và sau đó là những chương về các
pháp hành trì trong Phần Hai của quyển sách. Một thời
gian sau, đạo hữu Tuệ Pháp, một dịch giả khác trong Nhóm
Longchenpa, cũng đã phát tâm đóng góp vào công tác dịch thuật
và chịu trách nhiệm chuyển ngữ Phần Một. Sau khi Phần
Một và Phần Hai được hoàn tất, dịch giả Thanh Liên đã
chịu trách nhiệm hiệu đính lại bản dịch đầu tiên, bổ
túc thêm các Lời Giới Thiệu, Dẫn Nhập, phần Chú Thích,
Thuật Ngữ cùng hình ảnh. Việc hai dịch giả Thanh Liên và
Tuệ Pháp trong Nhóm Longchenpa đã bỏ ra nhiều năm tháng để
mài miệt chuyển ngữ bản tiếng Việt đầu tiên của “Lời
Vàng” với một tác ý hết sức thuần tịnh, quả là một
sự hy sinh to lớn và một món quà tinh thần quý giá cho những
Phật tử người Việt có ý nguyện theo chân chư đạo sư
thuộc truyền thống Phật Giáo Tây Tạng.
Được
biết rằng lúc đầu, Nhóm Longchenpa có ý định đặt tên
cho bản dịch là “Lời Dạy Của Vị Thầy Toàn Hảo Của
Tôi” nhưng sau đó, một vị sư người Việt, Sư Hồng Nhật,
đã góp ý và đổi tên sách thành “Lời Vàng Của Thầy Tôi.”
Khi
biết được về bản dịch “Lời Vàng Của Thầy Tôi”,
ấn bản 2004, chúng tôi đã vô cùng hoan hỷ và phát tâm muốn
ấn tống lại tập sách này ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chúng tôi
cũng có nhiều suy nghĩ, và đã mạo muội thỉnh ý Nhóm Longchenpa
cho phép chúng tôi được hiệu đính lại toàn bộ tác phẩm
“Lời Vàng” trước khi ấn tống. Chúng tôi thật vô cùng
biết ơn Nhóm Longchenpa đã chấp thuận lời thỉnh cầu và
trong gần ba năm qua, công việc hiệu đính đã được hoàn
tất nhờ vào sự hỗ trợ tinh thần, tài chánh cũng như công
sức của nhiều người.
Khi
đại sư Nyima Gyaltsen Rinpoche từ Tây Tạng trở qua lại Hoa
Kỳ để thuyết giảng vào mùa xuân năm 2006, chúng tôi đã
gọi điện thoại và sử dụng màn ảnh trực tuyến qua hệ
thống internet để liên lạc với một số đạo hữu đang
tu tập theo truyền thống Kim Cang Thừa ở tại Việt Nam.
Trong dịp này, chúng tôi đã giới thiệu đại sư Tulku Nyima
Gyaltsen Rinpoche với dịch giả Thanh Liên, thầy Trí Không, cũng
như một vài anh chị đạo hữu khác trong nhóm Orgyen Choling.
Đại
sư Tulku Nyima Gyaltsen đã vô cùng hoan hỉ khi biết được “Lời
Vàng Của Thầy Tôi” đã được Nhóm Longchenpa chuyển qua
Việt ngữ và phát hành tại Việt Nam. Cũng trong dịp
ấy, Thầy đã ban khẩu truyền những lời khẩn nguyện Đức
Longchenpa, vị Sơ Tổ của những giáo lý Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí
(Longchen Nyingtik), cho một số các đạo hữu tại Việt Nam
qua màn ảnh trực tuyến của máy vi tính. Thầy đã nhìn sững
vào khung ảnh, và thấy hiện lên trong đó hình ảnh của những
người đệ tử nhỏ bé, khiêm cung, ở một nơi cách xa nửa
quả địa cầu, đang chắp tay búp sen lắng nghe những lời
truyền khẩu. Khi Thầy dứt lời thì ở nơi khoé mắt
trái, một giọt lệ bất chợt đọng lại rồi từ từ ứa
ra. Đây chính là một kinh nghiệm nhiệm mầu, và một nhân
duyên vô cùng hi hữu.
Sau
đó, đại sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche đã độ lượng cho
phép chúng tôi làm công việc hiệu đính “Lời Vàng” để
có thể ấn tống ở Hoa Kỳ. Khi phát tâm làm công việc này,
chúng tôi không có một nguyện ước nào khác, ngoại trừ
tấm lòng chân thành muốn cho tác phẩm “Lời Vàng” và những
giáo lý tâm huyết đã được đại sư Patrul Rinpoche trao truyền,
sẽ có thể dễ dàng đến được với người đọc hơn.
Bản
dịch Anh ngữ của Nhóm Dịch Thuật Padmakara vốn dĩ không
phải là một văn bản dễ dịch, nhất là những đoạn diễn
đạt những ý niệm trừu tượng. Nếu cứ y theo văn phong
của Nhóm Dịch Thuật Padmakara mà dịch sát qua tiếng Việt
thì câu văn sẽ trở nên rất dài và rườm rà, dễ trở thành
rắc rối và tự nhiên đâm ra khó hiểu, khó cảm nhận đối
với độc giả người Việt, đôi khi còn có thể xa rời nguyên
ý của tác giả. Do đó, dựa trên những lời giảng dạy về
các giáo lý và các pháp môn thực hành trong “Lời Vàng Của
Thầy Tôi” mà đại sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche đã truyền
dạy, chúng tôi đã cố gắng chỉnh sửa lại những chi tiết
liên quan đến các phương pháp hành trì cho thêm phần rõ ràng
và chính xác, và khi cần thiết cũng đã chỉnh sửa câu văn
đểø lời và ý trở nên gần gũi hơn với nguyên ý của
tác giả.
Trong
Bản Hiệu Đính Toàn Bộ, ấn bản 2008, chúng tôi cũng đã
thực hiện và bổ túc thêm những phần sau đây để cho bản
dịch được thêm hoàn hảo:
•
Bổ túc tiểu sử của Patrul Rinpoche. (Thanh Liên)
•
Bổ túc Lời Khuyên Của Đại Sư Tulku Nyima Gyalsten Rinpoche.
Đây là thủ bút của Thầy để sách tấn chúng đệ tử tu
tập theo các giáo lý đã được giảng dạy trong “Lời Vàng.”
•
Bổ túc Danh Mục Hình Ảnh và Tranh Họa.
•
Bổ túc và sử dụng các thuật ngữ Phật học đã quen thuộc
trong truyền thống Đại Thừa để giúp làm sáng tỏ thêm
các khái niệm trong Kim Cang Thừa hiện vẫn còn mới mẻ đối
với Phật tử người Việt.
•
Sử dụng các tên Kinh hay tên Luận theo truyền thống Phật
Giáo Việt Nam, là những tên Kinh hay Luận tương đối phổ
thông, tạo được cảm giác quen thuộc cho độc giả người
Việt là những người đã quen với truyền thống Đại Thừa.
Chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Bách Nghiệp, Đại Thừa
Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, vân vân… Chúng tôi đã tra cứu
từ danh sách tên tiếng Phạn của các Kinh hay Luận này, thay
vì dịch sát từ tên tiếng Anh qua tiếng Việt.
•
Bổ túc Tài Liệu Tham Khảo (có liệt kê trong bản dịch Anh
ngữ) gồm có tên sách bằng tiếng Phạn, tiếng Anh và tiếng
Việt.
•
Bổ túc và hiệu đính phần Thuật Ngữ và phần Chú Thích.
Vì
yếu tố thời gian không cho phép, chúng tôi đã không thể
sửa đổi lại cho đồng nhất tất cả các từ tiếng Phạn
và tiếng Tạng trong bản dịch lần này cho đúng với lối
đánh vần nguyên thủy của Phạn ngữ và Tạng ngữ. Trong
các ấn bản kế tiếp trong tương lai, chúng tôi hy vọng là
sẽ có thể bổ túc cho thiếu sót này.
Theo
lời yêu cầu của Nhóm Longchenpa, Lời Giới Thiệu được
Sư Hồng Nhật viết cho bản tiếng Việt đầu tiên, ấn bản
năm 2004, đã được in lại trong Bản Hiệu Đính Toàn Bộ,
ấn bản năm 2008 này, để giữ lại đầy đủ tính cách lịch
sử của bản dịch đầu tiên. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin
nói lên quan điểm của chúng tôi về vấn đề này như sau,
và quan điểm này dựa trên những giáo huấn từ các vị Thầy
khác nhau đến từ tất cả bốn dòng phái của Phật Giáo
Tây Tạng mà chúng tôi đã có duyên thọ pháp. Điều chúng
tôi muốn thưa ở đây là những giáo lý và pháp môn dự bị
sơ khởi (preliminary practices hay Ngondro) của những hành giả
tu tập theo truyền thống Đại Viên Mãn (Dzogchen) của dòng
Nyingma hay theo truyền thồng Đại Thủ Ấn (Mahamudra) của dòng
Kagyu đều không khác biệt.
Cả
hai truyền thống tu tập Dzogchen va Mahamudra đều đòi hỏi
hành giả phải có được những hiểu biết rốt ráo về thân
người hiếm quý, về vô thường, nhân quả, về những đau
khổ của cõi luân hồi. Sau đó, hành giả phải phát tâm quy
y, phát tâm Bồ Đề, hành trì pháp môn quy y và lễ lạy, hành
trì pháp môn tịnh hoá Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), hành trì
pháp cúng dường Mạn Đà La, hành trì pháp bổn sư du già
(Guru Yoga), vân vân… Nói tóm lại, cho dù là theo Đại
Viên Mãn hay Đại Thủ Ấn, theo Nyingma hay theo Kagyu thì các
hành giả đều phải hành trì mỗi một pháp môn dự bị một
trăm ngàn lần, trước khi được hướng dẫn để tu tập
các pháp cao hơn.
Hơn
nữa, chúng tôi cũng nhận thấy là có rất nhiều chi tiết
đặc thù trong các pháp môn tu tập thuộc hệ giảng Longchen
Nyingtik, đã được đại sư Patrul Rinpoche giảng dạy sâu rộng
trong “Lời Vàng,” và đây là những chi tiết có liên hệ
mật thiết với dòng truyền thừa Nyingma. Tuy vậy, nếu
nhìn một cách khách quan trong tinh thần bất bộ phái, thì
tinh túy của các pháp tu dự bị và các giáo lý này cũng là
tinh túy của tất cả bốn dòng phái của Phật Giáo Tây Tạng,
gồm có Nyingma, Sakya, Kagyu và Gelug.
Chúng
tôi xin chân thành cảm tạ Nhóm Dịch Thuật Padmakara và chi
nhánh Alta Mira của Nhà Xuất Bản Rowman & Littlefield Publishing
Group, Maryland, Hoa Kỳ đã hoan hỉ cho phép Viet Nalanda Foundation
ấn tống bản hiệu đính tiếng Việt của quyển sách
này. Cũng xin đặc biệt cám ơn ông Wulstan Fletcher, vị dịch
giả trưởng Nhóm Dịch Thuật Padmakara, đã nâng đỡ tinh thần
và giúp ý kiến cho chúng tôi trong lúc khởi đầu để có
thể xin được bản quyền dịch thuật từ nhà xuất bản.
Xin
hết lòng cảm tạ Cụ Bà Diệu Tịnh đã bỏ công sức giúp
đánh máy tất cả các trang Tài Liệu Tham Khảo bằng tiếng
Việt, các đạo hữu Vô Huệ Nguyên, Minh Nguyễn, Minh Phi, Thanh
Liên đã giúp duyệt lại bản thảo, Hoài Hương đã bỏ công
sức trình bày toàn bộ quyển sách, Minh Phi đã phụ trách
liên lạc in ấn, Phổ Từ Diệu Hương, Hồng Như, Chân Giác,
Vô Huệ Nguyên đã đóng góp ý kiến, và nhất là hai anh Thanh
Liên và Nguyễn Chí Khanh đã nhiều lần chỉ bảo và chia sẻ
kinh nghiệm tâm linh quý báu có liên hệ đến “Lời Vàng.”
Cũng xin cám ơn các đạo hữu Nguyễn Minh Tiến và Minh Không
đã bỏ thời giờ giúp tra cứu một số danh từ Phạn ngữ
và Hán Việt, nhất là tra tìm tên Kinh và tên Luận và giúp
thêm ý kiến cho phần Thuật Ngữ. Ngoài ra, chúng tôi còn có
được sự cộng tác đặc biệt của đạo hữu Từ Bi Hoa,
một người bạn đồng môn, đã bỏ công hiệu đính hai chương
trong “Lời Vàng” cũng như đã đóng góp nhiều ý kiến sâu
sắc và đích đáng cho toàn bộ quyển sách.
Chúng
tôi cũng không quên gửi lời cám ơn chân thành đến tất
cả quý thân hữu, đạo hữu khắp nơi đã có lòng quan tâm,
khuyến khích, đóng góp tịnh tài, và đã vô cùng độ lượng,
kiên nhẫn trong thời gian gần ba năm qua. Nếu không có được
tấm chân tình và những đóng góp của tất cả quý đạo
hữu, đặc biệt là của Minh Phi, đã ngày đêm chuyên tâm
duyệt soát lại toàn bộ bản thảo lần cuối cùng trước
khi ấn loát, thì Bản Hiệu Đính Toàn Bộ, ấn bản 2008 có
lẽ đã khó có thể được hoàn tất một cách tốt đẹp.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng biết là Bản Hiệu Đính Toàn Bộ,
ấn bản 2008 vẫn còn nhiều sơ sót. Ngưỡng mong quý đạo
hữu và thiện tri thức xa gần bỏ chút thời giờ để đóng
góp ý kiến, giúp cho các ấn bản kế tiếp trong tương lai
được hoàn chỉnh hơn.
Xin
hồi hướng tất cả công đức lên cho quả vị giác ngộ
của Thầy, Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche, vị Đạo Sư đã từ
bi khai tâm chúng con bằng ánh sáng cực kỳ đẹp đẽ và truyền
cảm của “Lời Vàng,” cũng như cho quả vị giác ngộ của
chư Đạo Sư cùng toàn thể chúng sinh.
Nguyện
cho ánh sáng cực kỳ đẹp đẽ và truyền cảm của “Lời
Vàng” sẽ soi rọi tới vô lượng pháp giới...
Tâm
Bảo Đàn (Konchog Jimpa Lhamo)
Hoa
Kỳ, ngày 5 tháng 11 năm 2008
[1]
Jamyang Khyentse Chokyi Lodro (1893-1959) là một trong những vị
đại sư chủ xướng phong trào bất bộ phái Rimé khởi đầu
vào thế kỷ thứ 19 tại Tây Tạng. [2] Khenpo Ngawang Palzang
(1879-1941) còn có danh hiệu làø Khenpo Ngachung, đã cống hiến
trọn đời mình cho việc giảng dạy sâu rộng toàn bộ giáo
lý Longchen Nyingtik trong “Lời Vàng Của Thầy Tôi” và đã
biên soạn tác phẩm “Cẩm Nang Hướng Dẫn Lời Vàng Của
Thầy Tôi” (“Guide to the Words of My Perfect Teacher”) dựa trên
được chính những ghi chép do Patrul Rinpoche truyền xuống cho
một đại đệ tử tâm truyền là ngài Lungtok Tenpei Nyima (Nyoshul
Lungtok). Ngài Lungtok Tenpei Nyima chính là sư phụ của Khenpo
Ngawang Palzang.
Lời
Khuyên và Thủ Bút của
Đại Sư Tulku
Nyima Gyaltsen Rinpoche
Lời
Khuyên Của Nyima Gyaltsen: “Khi biết rằng những giáo
huấn thâm diệu như Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Longchen
Nyingtik) thật khó tìm thấy trong thế gian này, hãy quyết tâm
gắng sức tu học những giáo huấn ấy như đã được giảng
dạy ở đây. Giờ đây, các con đã có được thân người,
ta khẩn thiết mong các con hãy tận dụng đời người một
cách có ý nghĩa.”
Đây
là thủ bút của đại sư Tulku Nyima Gyaltsen Rinpoche viết vào
sáng ngày 1 tháng 7 năm 2006 theo lời thỉnh cầu của đệ tử
Tâm Bảo Đàn, trước khi Thầy từ giã trung tâm Sakya
Dokho Choling, Hoa Kỳ để quay trở về lại Tây Tạng.
Những lời khuyên của Thầy đã được đệ tử Kanaya Chevli
chuyển sang Anh ngữ như sau: “Knowing that the profound instructions
like these of Longchen Nyingtik are difficult to find in this world, make
intense efforts to study just as it has been taught herein. Now that you
have a human body, I urge you to do something meaningful with it.”
Đức
Liên Hoa Sanh
LỜI
NÓI ĐẦU
Của
Bản Việt Ngữ đầu tiên
do
Nhóm Longchenpa ấn hành năm 2004 tại Việt Nam
Đạo
sư Patrul Rinpoche, một thánh giả dòng Longchenpa, đã đưa vào
những giáo huấn bên tai mà Thầy của Ngài là Jigme Gyalwai
Nyugu đã truyền xuống từ Đạo sư Jigme Lingpa. Giáo huấn
này được Ngài hành trì rốt ráo, không thiếu sót, đắc
Đại Viên Mãn. Nay Ngài phó chúc lại cho đàng hậu sanh, những
hành giả Kim Cương Thừa của dòng Cổ Mật y giáo phụng hành,
cùng với lời chúc phúc chân thành và cảm động.
Giáo
huấn này là cốt tuỷ của Tiền Hành Pháp (Ngondro), dọn tâm
vào cảnh giới bất khả tư nghì trong một kiếp sống. Đây
là giáo huấn giải thoát ngay tại cửa vào, làm việc trên
đức tin hay lòng sùng mộ và trí tuệ sắc bén mà không khổ
công nhiều như con đường Đại Thủ Ấn, hoặc con đường
chuyển hoá tiệm tiến của dòng hay Thừa khác.
Dịch
giả cầu mong các hành giả Mật Thừa nắm được phần tinh
yếu trong quyển sách này để công phu tu tập chính xác và
hiệu quả là giải thoát các phiền não ô nhiễm, chán nản
các lỗi lầm của vòng luân hồi và cuối cùng phát nguyện
theo con đường của chư Tổ, chư Bồ Tát làm lợi ích chúng
sanh vô biên trong sáu cõi.
Dịch
giả trung thành với căn bản của Đạo sư Patrul Rinpoche, tuy
nhiên các bài nguyện riêng biệt theo từng chương, hành giả
có thể dựa theo các bài nguyện riêng của Đạo Sư truyền
cho mình, không nhất thiết phải dò theo bài nguyện vắn tắt
trong sách.
Nguyện
cho phước lành tràn khắp làm dịu mát tâm của mọi chúng
sanh.
Hồng
Nhật
Longchenpa
(1308 - 1363)
Vị
Thầy phi thường nhất của truyền thống Nyingma (Cổ Mật).
Longchen Rabjampa đã tập hợp các giáo lý Tâm-Yếu của Padmasambhava
(Đức Liên Hoa Sanh), Vimalamitra (Tì Ma La Ma Mật Đa) và Yeshe
Tsogyal. Ngài Longchen Rabjampa (Longchenpa) đã trao truyền tất
cả những giáo lý này cho Jigme Lingpa trong một loạt các linh
kiến được đặt tên là Tâm-Yếu của Đại-QuảngTrí (Longchen
Nyingtik).
LỜI
NÓI ĐẦU
Ngài
Jigme Gyalwai Nyugu là một trong những đệ tử lỗi lạc nhất
của Ngài Jigme Lingpa, vị Đạo Sư đã ban truyền những hướng
dẫn về Giáo Pháp Đại Viên Mãn (Dzogpa Chenpo) theo truyền
thống Longchen Nyingthig. Ngài Jigme Gyalwai Nyugu đã kế thừa
và ban tặng giáo huấn khẩu truyền Longchen Nyingthig, và Dza
Paltrul Rinpoche, đệ tử của Ngài, đã sao chép lại, đặt
tựa đề cho tập sách này là: KUNSANG LA-MAI ZHAL-LUNG.
Được
biết rằng theo giáo lý Đại Viên Mãn, ta không thể đạt
được Giác Ngộ với tâm tạo tác; mà ta phải nhận biết
ra được bản tâm nguyên sơ, và nương vào đó mà có thể
hiểu ra được vạn pháp chỉ như là trò hiển lộng của
tâm. Sau đóù ta phải luôn luôn tự nhắc nhở, phải thấm
nhuần nhận thức này và phải nhất tâm tin tưởng vào hiểu
biết sắt đá ấy. Tuy nhiên, để có được một hiểu
biết liễu tri, thấu suốt toàn diện giáo lý này thì việc
ta chỉ đơn thuần đọc sách sẽ là một điều vô cùng thiếu
sót; ta còn cần tới những pháp tu dự bị theo hệ phái Nyingma,
và thêm vào đó, cần tới Giáo Pháp đặc biệt do một bậc
Chân Sư với đầy đủ phẩm hạnh thuộc dòng Nyingma trao truyền
cũng như cần tới năng lực gia hộ của Ngài. Được như
vậy, chúng đệ tử cũng đã phải từng tích lũy công
đức thật sâu dầy. Đó là lý do tại sao các Đạo Sư Nyingmapa
vĩ đại như Ngài Jigme Lingpa và Ngài Dodrupchen đã phải bỏ
hết tâm sức đeo đuổi công việc [truyền bá giáo pháp].
Ngày
nay, việc chuyển dịch những tác phẩm bao gồm các pháp tu
dự bị của Đại Viên Mãn (Dzogchen) mang một giá trị
cực kỳ lớn lao. Tôi chúc mừng Nhóm Dịch Thuật Padmakara
đã cho phổ biến các tác phẩm này bằng Anh ngữ và Pháp
ngữ. Tôi đoan chắc rằng những tài liệu sơ yếu đáng tin
cậy này sẽ đem lại lợi lạc cho tất cả những ai có lòng
quan tâm tới pháp tu Đại Viên Mãn.
Ngày
23 tháng 10, 1990
Đạt Lai Lạt Ma
LỜI
GIỚI THIỆU
của DILGO KHYENTSE
RINPOCHE
Tuyển
tập luận giải Lời Vàng Của Thầy Tôi, Hướng Dẫn Về
Các Pháp Tu Dự Bị Cho « Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí »
(Heart-Essence of the Vast Expanse) Thuộc Giáo Lý Đại Viên Mãn
(Dzogchen), đã trình bày về con đường tu tập của bốn trường
phái chính yếu của Phật Giáo Tây Tạng mà không hề có bất
kỳ một mâu thuẫn nào [giữa những trường phái ấy].
Tác
phẩm này bao gồm tất cả các giáo pháp, kể cả :
(1) Những Bước Tuần Tự Trên Đường Tu cho những người
thuộc ba trình độ hiểu biết, căn cơ khác nhau, cùng với
Ba Điểm Tinh Yếu Của Con Đường Đạo; (2) Ba Tri Kiến, tức
pháp tu dựï bị cho Đạo và Quả; (3) Phật tánh là nhân,
đời người quý báu là trợï duyên, bậc Đạo Sư tâm linh
là lực thúc đẩy, các giáo huấn của Ngài là phương pháp
tu tập, các Thân Phật (kāyas) và trí tuệ là quả -- tất
cả những giáo huấn này là kết quả của sự kết hợp giữa
hai truyền thống tu tập Kadampa và Mahāmudrā (Đại Thủ Ấn).
Ngoài ra, tác phẩm này còn bao gồm con đường tu tập được
hướng dẫn theo truyền thống Nyingma (Cổ Mật), chẳng hạn
như là quyết tâm câàu tìm giải thoát vì đã nhờm tởm vòng
sinh tử luân hồi, phát khởi tín tâm do có được sự
hiểu biết, tin tưởng vào luật nhân quả, phát khởi tâm
Bồ Đề qua việc nhiệt thành cố gắng cứu giúp người khác,
và phát khởi tri kiến thuần tịnh, nhận thấy được tất
cả những gì có trên đời này đều tột cùng thanh tịnh.
Dù
là đối với các pháp tu dự bị hay là các pháp thực hành
chính yếu thì tập luận giải này cũng thật vô cùng thiết
yếu! Đó là lý do tại sao trong thời đại may mắn này
khi mà giáo lý tôn quý của Đức Phật đang bắt đầu chói
sáng trên khắp thế giới, tập sách này đã được chuyển
dịch với niềm hy vọng sâu xa rằng tài liệu luận giải
này sẽ đem lại được một giá trị tột cùng lớn lao, cũng
như tài liệu ấy sẽ bao gồm được tất cả những điểm
trọng yếu của con đường tu. Hy vọng rằng tất cả những
ai có dịp tiếp xúc với những giảng dạy này đêàu sẽ
được lợi lạc, và mong rằng tài liệu này có thể trở
thành một đề mục để nghiên cứu, quán chiếu và thiền
định. Điều quan trọng là những người bước trên
con đường Chánh Pháp sẽ giảng dạy và lắng nghe về tài
liệu này-- đó mới thực là điều cực kỳ quan trọng.
Jigme
Lingpa (1729-1798)
Jigme
Lingpa thọ nhận những giáo huấn Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí
(Longchen Nyingtik ¬Essence of the Vast Expense) từ Longchenpa. Ngài
Jigme Lingpa đã hành trì những giáo pháp này trong cô tịch
và sau đó đã truyền dạy lại cho các đệ tử của mình.
DẪN
NHẬP
DẪN NHẬP
CỦA CÁC DỊCH GIẢ ANH NGỮ
Lời
Vàng Của Thầy Tôi là một trong những giáo huấn được yêu
quý nhất, giới thiệu về nền tảng tu tập của Phật Giáo
Tây Tạng. Quyển sách này thường xuyên được Đức Đạt
Lai Lạt Ma và những bậc Thầy lỗi lạc khác khuyến khích
và giới thiệu [đến mọi người]. Tài liệu này cung cấp
những hướng dẫn chi tiết về các phương pháp tu tập mà
nương vào đó, một con người bình thường có thể chuyển
hoá tâm thức của họ và khởi hành bước đi trên con đường
dẫn tới Phật Quả, trạng thái của Giác Ngộ và giải thoát.
Nửa phần đầu của quyển sách bao gồm một loạt các suy
niệm như sau: (1) thất vọng ê chề đối với luân hồi và
thấu hiểu về nỗi thống khổ của vòng sinh tử, là vòng
tròn hiện hữu dựa trên vô minh cùng những cảm xúc ô nhiễm,
và (2) thấu hiểu giá trị cực kỳ to lớn của đời người
mà ta có được, cho ta một cơ hội độc đáo để đạt được
Phật Quả. Phần Hai của quyển sách giảng dạy rõ ràng những
bước thực hành đầu tiên trong “Kim Cương Thừa” (Vajrayana),
với những phương pháp chuyển hoá vô cùng mãnh liệt, tạo
nên tính chất đặc thù của truyền thống Phật Giáo Tây
Tạng.
Tác
phẩm của Patrul Rinpoche không phải là một luận văn dành
cho những bậc lão thông mà là một cẩm nang gồm những chỉ
dạy thực tiễn cho bất kỳ ai thành tâm ước muốn thực
hành Pháp. Ngài biên soạn tài liệu này với một văn phong
có thể dễ dàng đến được với những người du mục thô
lậu và dân làng mà cũng dễ dàng đến với các Lạt Ma và
tu sĩ. Thật ra, Ngài đã quả quyết rằng tài liệu này thực
sự không phải là một tác phẩm văn học, mà Ngài chỉ đơn
thuần ghi chép lại những giáo huấn khẩu truyền của Bổn
Sư của Ngài, như bản thân Ngài đã từng được nghe giảng.
Sức lôi cuốn đặc biệt của quyển sách là khi đọc, chúng
ta có cảm giác rằng chúng ta chính là những đệ tử của
Patrul Rinpoche, đang lắng nghe lời chỉ dạy chân thành của
Ngài, dựa trên truyền thống khẩu truyền mà Ngài đã thọ
nhận từ Bổn Sư và dựa trên kinh nghiệm sâu xa của những
năm dài thực hành Pháp.
Ngài
giảng rõ tất cả những gì ta cần biết để có thể thực
hành Giáo Pháp— và thường xuyên với vẻ châm biếm có sức
công phá, Ngài cũng giảng dạy cho ta nhận ra nhiều lỗi lầm
mà ta có thể gây ra trên hành trình tâm linh. Ngôn ngữ chuyển
hướng từ thi ca kiêu kỳ sang ngôn ngữ địa phương khoáng
đạt. Mỗi vấn đề được Ngài minh họa với nhiều trích
dẫn, nhiều ví dụ thực tế trong đời sống hàng ngày, kèm
theo một kho tàng đầy rẫy những mẩu chuyện kêå. Một số
trong những câu chuyện này có nguồn gốc từ thế kỷ thứ
6 trước Công nguyên và xa hơn nữa; một số được rút ra
từ cuộc đời phi thường của những vị Đạo Sư vĩ đại
của Ấn Độ và Tây Tạng; một số liên quan tới những việc
làm của những người bình thường ở vùng Kham, là quê hương
của Patrul Rinpoche.
Patrul
Rinpoche nổi tiếng qua phương cách Ngài sử dụng (trong khi
giảng dạy) để có thể trực tiếp thăm dò chiều sâu tâm
thức của các đệ tử. Ngài có niềm tin vô cùng kiên định
vào câu châm ngôn của Ngài Atisa: “Thiện tri thức tuyệt
hảo nhất là người tấn công vào các lỗi lầm tiềm ẩn
của bạn.” Mặc dù những hướng dẫn của Ngài rõ ràng
là để thích ứng với nhóm thính giả đặc biệt của Ngài,
nhưng nếu ta chịu khó làm một vài thủ tục hoán chuyển
thì chúng ta cũng có thể thấy rõ ra rằng bản tánh con người
nói chung đều giống nhau một cách kỳ lạ bất luận thời
gian và dị biệt văn hoá. Chúng ta có cảm tưởng rằng những
chỗ sâu kín của cá tính riêng ta được phơi bày, và ta được
thúc đẩy để tự tra vấn về những thói quen suy tưởng
của chính mình, mở bày tâm hồn ta trước những triển vọng
mới mẻ.
Trong
chương kết luận, tác giả mô tả công việc của Ngài như
sau:
Khi
biên soạn những giáo huấn này, tôi gần như không để cho
những cân nhắc về mỹ học hay văn chương lôi kéo. Mục
đích chính yếu của tôi là chỉ ghi chép một cách trung thực
những giáo huấn truyền khẩu của vị Thầy tôn kính của
tôi theo một cách trình bày dễ hiểu và có lợi lạc cho tâm
thức. Tôi đã cố gắng bằng hết khả năng của mình để
không làm hư hoại những giáo huấn ấy bằng cách pha trộn
vào đó những ngôn từ và ý tưởng của riêng tôi. Trong một
số trường hợp riêng biệt, Thầy tôi cũng thường ban truyền
nhiều giáo huấn đặc biệt nhằm phơi bày những lỗi lầm
tiềm ẩn, và tôi đã thêm vào bất kỳ những gì tôi nhớ
được về những điều này trong những đoạn văn thích hợp
nhất. Đừng nên coi những giáo huấn phơi bày lỗi lầm này
như một cánh cửa sổ để qua đó bạn có thể xem xét lỗi
lầm của người khác, mà phải coi đó là một tấm gương
để khảo sát chính bạn. Hãy xem xét kỹ lưỡng bản thân
bạn để xem mình có hay không có những lỗi lầm tiềm ẩn
đó. Nếu có, hãy nhận ra chúng và hãy trục xuất chúng. Hãy
chỉnh sửa tâm bạn và thanh thản đặt tâm ấy trên con đường
tu đúng đắn.
Đối
với Phật Giáo Kim Cương Thừa thì Giác Ngộ không phải là
một lý tưởng xa vời nhưng là điều có thể đạt được
ở đây và ngay lúc này, trong chính cuộc đời này, qua những
phương pháp tu tập thích hợp và qua một nỗ lực siêu việt.
Theo truyền thống trí tuệ sống động ở Tây Tạng, mỗi
một Kinh điển, mỗi một pháp môn thiền định và pháp rèn
luyện tâm thức, tất cả đều được truyền lại từ một
vị thầy xuống đến đệ tử, và sau đó cần phải thấm
nhuần trong tâm thức cho tới khi trở thành một phần không
thể thiếu trong kinh nghiệm tu tập của hành giả. Một trong
những từ chỉ việc tu tâäp tâm linh ở Tây Tạng là nyamlen,
nghĩa đen là “đưa vào kinh nghiệm.” Những người có thể
được coi là bậc trì giữ dòng truyền thừa, một vị Thầy
tâm linh chân chính có đầy đủ phẩm hạnh, phải là người
đã thực sự đạt được chứng ngộ. Patrul Rinpoche nắm giữ
một dòng truyền dạy liên tục bắt nguồn từ chính Đức
Phật. Dòng truyền thừa này đã nối tiếp không đứt đoạn,
từ một vị Thầy chứng ngộ truyền xuống tới một vị
chứng ngộ kế tiếp, cho tới tận ngày nay.
Patrul
Rinpoche Và Truyền Thống Mà Ngài Kế Thừa
Patrul
Rinpoche thuộc dòng phái Nyingma là truyền thống cổ xưa nhất
của Phật Giáo Tây Tạng. Trong phái này có hai nhánh truyền
thừa khác nhau. Đó là (1) Kahma, (bka’ ma) hay dòng khẩu
truyền, được truyền từ Thầy tới trò qua nhiều thế kỷ,
và (2) dòng truyền trực tiếp phi thường Terma (gter ma) hay
Kho Tàng Tâm Linh. Những giáo lý (của dòng Terma) được Đức
Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và vị nữ đệ tử vĩ đại Yeshe
Tsogyal của Ngài cất dấu vào thế kỷ thứ tám, và đã được
khám phá trong những thời đại sau đó vào một thời điểm
thích hợp. Lời Vàng Của Thầy Tôi là những giảng dạy về
các pháp tu tập dự bị của phái Longchen Nyingtik (klong chen
snying thig), có nghĩa là Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Heart-Essence
of the Vast Expanse), một kho tàng tâm linh được Ngài Rigdzin
Jigme Lingpa khám phá (1729-1798).
Jigme
Lingpa là một bậc phi thường, hầu như không bao giờ phải
học tập mà đã trở nên cực kỳ uyên bác nhờ vào tuệ
giác của Ngài đã được khai mở trong một loạt những cuộc
nhập thất tu thiền dài hạn. Ngài đã thọ nhận giáo huấn
Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí trong một loạt các linh kiến
đến từ Ngài Longchenpa, một Lạt Ma vĩ đại vào thế kỷ
thứ mười bốn.
Jigme
Gyalwai Nyugu
Vị
Thầy toàn hảo của Patrul Rinpoche. Patrul Rinpoche được nghe
Ngài giảng Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik)
nhiều lần, và đã quả quyết rằng Lời Vàng Của Thầy Tôi
là một bản văn toát yếu không hơn không kém ghi chép lại
một cách trung thực tất cả những gì Ngài đã được nghe
từ Thầy của mình vào những dịp khác nhau.
Longchenpa
đã hệ thống hoá giáo thuyết của dòng Cổ Mật (Nyingmapa)
trong một trước tác luận giải thật không thể nghĩ bàn
mang tên Thất Bảo Luận (*Bảy Kho Báu) (mdzod bdun) và trong
những tác phẩm khác của Ngài, bao gồm đầy đủ tất cả
những lãnh vực đã được giảng dạy trong Phật Giáo, và
đặc biệt là thảo luận đầy đủ về những điều rất
vi tế trong pháp Đại Viên Mãn (Dzogchen). Ngài cũng biên soạn
một cách bao quát về những giáo lý của các trường phái
khác, nhưng những tác phẩm này đã bị thất lạc. Mặc dù
sống trước Jigme Lingpa vài thế kỷ, Ngài thực sự là vị
Thầy chính yếu của Jigme Lingpa.
Trước
tiên, Jigme Lingpa đã thực hành tu tập và tinh thông các giáo
pháp mà Ngài khám phá, và sau đó đã truyền dạy các giáo
pháp này cho một số ít đệ tử thân cận là những người
có khả năng trở thành những bậc trì giữ thanh tịnh giáo
thuyết mà họ đã thọ nhận. Một trong những vị đó là
Ngài Jigme Gyalwai Nyugu tức là Sư Phụ của Patrul Rinpoche. Sau
khi trải qua một thời gian khá dài với Jigme Lingpa ở Tây
Tạng, Ngài Jigme Gyalwai Nyugu trở về Kham (miền đông Tây Tạng).
Ở đó Ngài đưa vào thực hành tất cả những gì Jigme Lingpa
đã chỉ dạy cho Ngài, sống trên một sườn núi cô tịch
trong một chỗ trũng nhỏ bé trên mặt đất, thậm chí không
có cả một miệng hang để ẩn náu, và chỉ có cây cỏ hoang
dã làm thực phẩm. Ngài dửng dưng với mọi sung túc và tiện
nghi, quyết định bỏ mặc mọi mối quan tâm thế tục và
tập trung vào mục đích tối hậu là đại ngộ. Dần dần
các đệ tử tụ hội lại quanh Ngài, sống trong những chiếc
lều trên sườn đồi lộng gió. Một trong những vị đệ
tử này là chàng thanh niên Patrul, người đã nhận từ Ngài
không dưới mười bốn lần các giáo lý chứa đựng trong
quyển sách này. Sau đó Patrul cũng đã theo học với nhiều
Lạt Ma vĩ đại đương thời, kể cả Ngài Do Khyentse Yeshe
Dorje sống ngoài vòng ước lệ, là bậc Thầy đã trực chỉ
chân tâm cho chàng thanh niên Patrul.
Suốt
cuộc đời, Patrul Rinpoche đã một mực noi theo gương sống
tối đa giản dị của Thầy mình. Mặc dù khi còn nhỏ Ngài
đã được công nhận là một Lạt Ma Hoá Thân, hay tulku. Tên
của Ngài là cách viết tắt hai chữ Palgye Tulku – và theo
lẽ thông thường thì Ngài đã có một địa vị cao trọng
trong một cơ sở tu viện, nhưng Ngài đã trải đời mình lang
thang đây đó, cắm trại ngoài trời, trong bộ lốt của một
kẻ hành khất bình thường. Nếu được cúng dường vàng
hay bạc, Ngài thường để lại trên mặt đất, cho rằng của
cải đó chỉ là nguồn mạch của phiền não. Ngay cả khi đã
trở thành một Đạo Sư danh tiếng, Ngài du hành khắp nơi
không ai biết tới, sống một cách đơn giản và vô tư y như
trước. Thậm chí có câu chuyện về một Lạt Ma mà Ngài đã
gặp trên đường du hành, ông ta cho rằng Ngài là một người
bạn tốt có thể thấm nhuần lợi lạc từ một giáo lý phi
thường như thế này nên đã dạy lại chính bản văn này
cho Ngài. Trong một dịp khác, Ngài du hành với một goá phụ
nghèo khổ, giúp bà ta nấu nướng và chăm sóc những đứa
con của bà, cõng chúng trên lưng. Khi họ đi tới nơi, Patrul
Rinpoche cáo lỗi, nói rằng Ngài có việc quan trọng phải làm.
Người đàn bà nghe nói rằng có Ngài Patrul Rinpoche vĩ đại
đang giảng dạy tại tu viện. Bà đi tới đó để được
nhìn thấy Ngài, và đã sửng sốt khi nhìn thấy người bạn
đồng hành của mình đang ngồi trên pháp toà giảng dạy cho
một hội chúng đông đảo. Vào cuối buổi giảng, Ngài yêu
cầu tặng hết tất cả những vật cúng dường cho bà.
Đối
với chúng đệ tử, Ngài vô cùng ân cần từ ái nhưng cũng
hết sức cứng rắn. Ngài đối xử với những hành khất
và những vị vua hoàn toàn như nhau. Trong mọi tình huống,
Ngài chỉ quan tâm tới việc làm lợi lạc cho người khác,
và Ngài luôn luôn nói ra bất kỳ những gì ích lợi nhất,
bất chấp những thói tục tế nhị thông thường trong xã
hội.
Trình
Tự Tu Tập (các giai đoạn thực hành)
Lời
Vàng Của Thầy Tôi thuộc vào loại tác phẩm văn học được
gọi là “những hướng dẫn được biên soạn” (khyid yig),
cần phải noi theo và bổ túc cho những giảng dạy khẩu truyền,
giúp làm sáng tỏ một bản văn dạy về thiền định. Trong
trường hợp này, nghi quỹ thiền định đang được nhắc
tới là pháp tu dự bị của
Tâm-Yếu
của Đại-Quảng-Trí (Heart-Essence of Vast Expanse hoặc Longchen
Nyingtik).
Giáo
lý thuộc hệ Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí mà Ngài Longchenpa
truyền cho Jigme Lingpa đã trở thành một trong những giáo lý
được lưu truyền và thực hành rộng rãi nhất trong dòng
Nyingmapa. Giáo lý này bao gồm một con đường Kim Cương Thừa
toàn thiện, khởi hành ở giai đoạn bắt đầu với những
pháp tu tập dự bị (sngon ‘gro hay Ngondro). Sau đó tới phần
thực hành chính yếu (dngos gzhi), gồm có ba giai đoạn chính
là (1) giai đoạn phát triển (bskyed rim), (2) giai đoạn thành
tựu (rdzogs rim), và (3) Đại Viên Mãn hay Đại Toàn Thiện
(rdzogs pa chen po).
Các
pháp tu dự bị gồm có (1) phần chuẩn bị bên ngoài và (2)
phần chuẩn bị bên trong, và tài liệu trước tác mà chúng
ta đang có trong tay đã phân chia thành hai phần khác nhau một
cách thích hợp. Phần Một, gồm các pháp tu dự bị thông
thường hay các chuẩn bị bên ngoài, được đề cập tới
qua những đề mục như sau: 1) những điều kiện tự do và
thuận duyên nhờ có được thân người, 2) vô thường,
3) khổ não của sinh tử luân hồi, 4) làm thế nào nghiệp
báo hay nguyên lý nhân quả có thể chi phối mọi hành vi của
chúng ta, 5) lợi lạc của giải thoát, và 6) làm thế nào để
theo chân một vị Thầy tâm linh. Những yếu tố này là những
điều căn bản giúp ta có thể có được một hiểu biết
đúng đắn về giá trị của Phật Đạo. Những điều này
là những hiểu biết tổng quát, là nền tảng của Phật Giáo
nói chung. Những suy niệm như trên là những điều mà ai ai
cũng có thể quán chiếu, cho dù có là Phật tử hay không.
Phần
Hai, những pháp tu dự bị phi thường hay những chuẩn bị
bên trong, bắt đầu bằng quy y – học cách nương tựa nơi
Phật, Pháp (giáo lý của Ngài) và Tăng đoàn (cộng đồng
Phật Giáo). Đây là hứa nguyện căn bản trong Đạo Phật,
đối với mọi truyền thống Phật Giáo cũng đều giống như
nhau. Kế tiếp là phần phát khởi Bồ Đề Tâm hay “tâm
Giác Ngộ.” Thái độ từ và bi vô điều kiện của tâm Bồ
Đề nhằm dẫn dắt tất cả chúng sinh tới giải thoát viên
mãn, là căn bản của Phật Giáo Đại Thừa. Tâm Bồ Đề
phải được đi kèm với các pháp tu tịnh hoá ác nghiệp
đã tạo trong quá khứ, và tích tập những năng lực thiện
lành cần thiết để thăng tiến trên con đường tu. Những
pháp tu này vận dụng trọn vẹn những kỹ thuật thiện xảo
của pháp môn quán tưởng và trì tụng minh chú (mantra) là
phương tiện thiện xảo đặc biệt của riêng truyền thống
tu tập theo Kim Cương Thừa.
Cuối
cùng tới pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga), hợp nhất tâm ta với
tâm của Thầy. Pháp Bổn Sư Du Già chính là gốc rễ của
Kim Cương Thừa, và trong pháp môn này, mối liên kết hoàn
toàn thanh khiết thuần tịnh giữa Thầy và trò có một tầm
quan trọng tột bực. Ngoài ra, trong pháp này cũng bao gồm cả
phần thực hành pháp chuyển di tâm thức (phowa), đây là một
phương pháp thần tốc (đường tắt) khiến những ai không
thể theo đuổi con đường tu chứng tới tận cùng vẫn có
thể đạt được giải thoát vào lúc chết.
Đối
với những pháp môn thực hành trong Phần Hai thì cần phải
có sự dẫn dắt của một vị Thầy có đầy đủ phẩm hạnh,
(có khả năng và đã chứng ngộ). Quả thực đây là một
lời khuyên dành cho bất kỳ một pháp môn tu tập tâm linh
nào. Ở xứ Tây Tạng thời tiền Cộng Sản, hầu như tất
cả dân chúng
Tây
Tạng đều tự coi mình là Phật tử, và họ nỗ lực sống
một cuộc đời đức hạnh theo lời Phật dạy, cúng dường,
trì tụng một số bài cầu nguyện và những câu thần chú.
Điều này thực sự vẫn còn rất phổ biến ngay tại một
xứ Tây Tạng đang bị chiếm đóng ngày nay. Nhưng một
ít người trong số những Phật tử [hiểu theo định nghĩa
tổng quát về Phật tử như trên], sau đó đã quyết định
theo đuổi hành trình tâm linh một cách tích cực, và chính
những người như thế đã miên mật hành trì những pháp môn
tu tập này, thường là phải lập đi lập lại mỗi một pháp
môn hành trì [trong Phần Hai]ù cả thảy là một trăm ngàn
lần.
Kế
tới là các pháp môn thực hành của hai giai đoạn phát triển
và thành tựu, mà cực điểm là Đại Viên Mãn (hay Đại Toàn
Thiện). Theo truyền thống Tây Tạng, hành trình bên trong được
vạch ra một cách cực kỳ chính xác đến phải kinh ngạc.
Đối với mỗi giai đoạn thực hành đều có những lời giảng
dạy khẩu truyền và những tài liệu diễn giảng. Kim Cương
Thừa là một nền khoa học của tâm, trong đó một vị Thầy
lão luyện hoàn toàn thấu suốt tầm ảnh hưởng của mỗi
một kinh nghiệm tu tập và có giải pháp cho mỗi một sai lầm.
Tài liệu hiện có của chúng ta không đi sâu vào chi tiết
của phần còn lại của con đường tu (gồm các giai đoạn
phát triển, thành tựu và Đại Viên Mãn), nhưng ở đây chúng
tôi sẽ đưa ra một cái nhìn khái quát ngắn gọn để độc
giả có thể cóù được một khái niệm về tiến trình tu
tập xảy ra tiếp theo sau những pháp tu dự bị.
Các
Pháp Tu Dự Bị
Những
pháp tu dự bị bên ngoài gồm có bốn tư tưởng quán chiếu
để chuyển tâm ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Những
pháp tu dự bị bên trong là: 1) quy y, (2) phát khởi Bồ Đề
Tâm (bodhicitta), 3) tịnh hoá bằng pháp hành trì Kim Cương Tát
Đoả (Vajrasattva), 4) tích tụ công đức bằng pháp cúng dường
mạn đà la, và 5) hành trì pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).
Đôi
khi có những yếu tố khác cũng được thêm vào, như trong
Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí. Nghi quy hành trì có thể rất
dài hoặc rất ngắn. Tuy nhiên trên đây là cấu trúc tổng
quát.
Giai
Đoạn Phát Triển
Trong
giai đoạn phát khởi (hay phát triển), ta tu tập để phát
triển một linh kiến giác ngộ về thế giới này bằng cách
quán tưởng bản thân ta là một vị Phật, và môi trường
quanh ta là một cõi Phật thanh tịnh trong khi trì tụng một
câu minh chú thích hợp. Tiến trình này sẽ mang vẻ giả tạo
vào lúc ban đầu, là cái gì được ta phát triển hay làm cho
sinh khởi, nhưng cách thức ta quán tưởng này thật ra tương
ứng với chính những kinh nghiệm về linh kiến của những
bậc đã chứng ngộ. Bằng cách chấp nhận thói quen và thấm
nhuần nhận thức mới mẻ này, ta có thể làm suy yếu dần
những tập quán bình thường của tri kiến thô thiển dựa
trên vô minh và dựa trên những khuynh hướng lâu đời của
cảm xúc ô nhiễm. Qua đó, ta có thể đưa mình vào những
chứng nghiệm ởù mức độ vi tế hơn. Những pháp môn hành
trì này dựa trên hình thức của các nghi quỹ (sadhana), là
những bản văn đôi khi hết sức thi vị ghi lại các nghi thức
hành trì.
Giai
Đoạn Thành Tựu (Toàn Thiện)
Một
khi thị kiến thiêng liêng đã trở thành một kinh nghiệm sống
thực thì tiến trình tu tập của giai đoạn thành tựu được
hoàn tất, và [sau đó, hành giả có thể] đi sâu hơn vào các
chứng nghiệm bằng cách tu tập dựa trên các năng lực vi
tế (subtle energies) của thân, qua việc làm chủ hơi thở, qua
những tư thế của thân cùng các pháp môn du già khác.
Đại
Viên Mãn (Dzogchen, Đại Toàn Thiện)
Trong
các giai đoạn phát triển và thành tựu, ta đạt được trí
tuệ chói ngời (dpe’i ye shes) nhờ vào những kinh nghiệm thiền
định để chỉ cho ta thấy đâu là bản tánh của tâm. Trong
Dzogchen - Đại Viên Mãn - bản tánh của tâm được vị Thầy
chỉ thẳng và chỉ một cách bất thình lình. Đây là
một kinh nghiệm trực ngộ Phật tánh. Những pháp thực
hành tiếp theo sau đó sẽ bao gồm việc làm quen với kinh nghiệm
trên, và phát triển kinh nghiệm đó trên một bình diện bao
la rộng lớn, mỗi lúc mỗi tăng trưởng hơn lên. Ở đây
ta đạt được tuệ giác đích thực hay tuệ giác viên mãn
(don gyi ye shes), trực nghiệm chân lý tối hậu.
Trên
một phương diện nào đó, mỗi giai đoạn tu tập được xây
dựng trên nền tảng của một giai đoạn tu tập trước đó,
nhưng đồng thời, mỗi giai đoạn cũng lột bỏ được thêm
những lớp mê lầm, để lại mãi mãi một kinh nghiệm trần
trụi về thực tại [sau khi đã bóc đi lớp vỏ vô minh]. Tự
mỗi một pháp môn hành trì cũng là một con đường viên mãn,
và đối với những ai có trí tuệ để thấy được thì trong
mỗi một pháp môn hành trì, tất cả những pháp môn tu tập
khác cũng được bao gồm trong đó. Ngay cả những pháp tu dự
bị, và ngay cả những yếu tố riêng lẻ trong những pháp
tu này, tự các yếu tố ấy cũng có thể tạo thành một con
đường viên mãn đưa đến Giác ngộ.
Đặc
biệt, pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) là tinh tuý của tất cả
mọi con đường. Các vị Thầy của dòng truyền thừa thường
nói rằng tất cả các pháp hành trì phải được thực hiện
theo giống phương cách ta hành trì pháp Bổn Sư Du Già. Hoàn
toàn mở rộng lòng ra và giữ tâm sùng mộ tuyệt đối với
một vị Thầy đã chứng ngộ là phương thức bảo đảm và
nhanh chóng nhất để tiến tu.
Patrul
Rinpoche đã biểu lộ tầm quan trọng chủ yếu của vị Thầy
tâm linh ngay trong tựa đề của quyển sách này, Kunzang Lamai
Shelung, mà chúng tôi đã dịch thoát là Lời Vàng Của Thầy
Tôi.
Kunzang
có nghĩa là “viên mãn mọi nơi” hay “luôn luôn viên mãn.”
Từ này là tên tắt của Kuntuzangpo (Phạn ngữ: Samantabhadra),
được biểu lộ qua hình tượng của một vị Phật trong sắc
tướng trần trụi, màu xanh da trời đậm. Tuy nhiên biểu tượng
này không tượng trưng cho một con người, mà chính là Phật-tánh,
là sự thuần tịnh bất biến của tâm, là chân tánh nguyên
sơ của vạn pháp. Thông thường thì chân tánh này bị che
mờ và chính vị Thầy, người đã chứng ngộ chân tánh ấy,
là người có thể dẫn dắt ta khám phá ra chân tánh ấy ở
trong chúng ta, trong tất cả nét vẻ vinh quang không che đậy.
Lạt Ma (lama) có nghĩa đen là: “tối thượng.” Đây là cách
biểu lộ của tiếng Tây Tạng đối với từ Guru trong tiếng
Ấn Độ. Cả hai từ này đã trở nên quá quen thuộc trong
ngôn ngữ bình thường, nhưng như Patrul Rinpoche có giải thích,
đối với chúng ta (là những hành giả) thì vị Thầy tâm
linh giống như là Đức Phật hiện tiền. Ngài đem đến cho
ta nhữngï truyền dạy của chư Phật trong quá khứ, là hiện
thân của chư Phật trong hiện tại, và qua giáo lý của Ngài,
Ngài cũng là suối nguồn của chư Phật trong tương lai. Patrul
Rinpoche nói rằng trên một phương diện nào đó thì pháp Bổn
Sư Du Già siêu việt hơn các pháp tu của hai giai đoạn phát
triển và thành tựu, bởi pháp Bổn Sư Du Già trực tiếp mở
ra con đường dẫn tới tuệ giác tối thượng nhờ vào năng
lực gia hộ của vị Thầy.
Lịch
Sử Của Bản Dịch Này
Người
dân Tây Tạng đã giữ gìn nguyên vẹn tất cả mọi khiá cạnh
của Phật Giáo Ấn Độ từ thế kỷ thứ tám tới thế kỷ
hai mươi. Tuy nhiên, đây không chỉ là sự bảo tồn các kho
tàng linh hiển một cách khô cứng. Phật Giáo là mối quan
tâm chính yếu của những tâm thức siêu việt nhất của Tây
Tạng trong nhiều thế kỷ, sản sinh một nền văn học phi
thường có tính chất triết học, thi ca, kinh viện, tạo bao
nguồn cảm hứng, cũng như đã sản sinh ra một di sản kiến
trúc đặc biệt, mỹ thuật và tráng lệ. Nhưng hơn tất cả,
người Tây Tạng đã vận dụng giáo lý Đạo Phật cho mục
đích chân thực, như một khí cụ để chuyển hoá tâm thức
con người, và hàng ngàn hành giả, trong số đó có những
vị thầy danh tiếng, cùng với những hành giả du già vô danh,
đều đã thành tựu mục đích cuối cùng của họ [nghiã là
đạt được giải thoát].
Ta
có thể cho rằng những gì vinh quang vĩ đại nhất của Tây
Tạng đã thuộc về quá khứ xa xăm, và những thế kỷ sau
này là biểu hiện của một thời kỳ suy tàn. Nhưng hoàn toàn
không phải là như thế. Trên thực tế, mỗi một thế kỷ
(kể cả thế kỷ hiện tại) và mỗi một thế hệ đã góp
phần đào tạo những bậc hành giả tâm linh phi thường. Ví
dụ như thế kỷ mười chín đã đem đến một hình thức
hồi sinh đặc biệt. Patrul Rinpoche là một thành viên trong
phong trào rimé hay bất-bộ-phái (non¬sectarian), được Ngài
Jamyang Khyentse Wangpo, Jamgon Kongtrul và những vị khác đồng
khởi xướng, nỗ lực phá vỡ những chướng ngại được
dựng lên giữa những trường phái Phật Giáo bằng cách nghiên
cứu và giảng dạy tất cả những trường phái này một cách
bình đẳng không phân biệt. Tinh thần này vẫn còn tồn tại
cho tới ngày hôm nay, điển hình là Đức Đạt Lai Lạt Ma,
và Ngài Dilgo Khyentse quá cố, là bậc Hoá Thân của Ngài Jamyang
Khyentse Wangpo.
Giống
như Patrul Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche xuất thân từ miền
đông Tây Tạng. Ngài trải qua hai mươi năm của đời mình
trong thiền thất, thường là trong những điều kiện tột
cùng giản dị. Ngài đã học tập với vô số những vị
Đạo Sư, thậm chí khi còn trẻ Ngài đã gặp cả một vài
vị trong số những đệ tử của chính Patrul Rinpoche. Ngài
đã phải đương đầu với sự hủy diệt tàn bạo ở Tây
Tạng trong thập niên năm mươi và sáu mươi của thế kỷ
hai mươi này bằng cách làm việc cật lực không mệt mỏi
để truy tìm, giữ gìn và in lại những văn bản bị thất
lạc, thiết lập những cộng đồng tu viện lưu vong, và trên
hết là giảng dạy và tạo nguồn cảm hứng cho những thế
hệ mới. Ngài coi Patrul Rinpoche như tấm gương toàn bích
của một hành giả Đại Viên Mãn (Dzogchen), và đã khuyến
khích, trợ giúp cho các dịch giả của cuốn sách này, là
tác phẩm mà Ngài coi là người dẫn đường tuyệt hảo cho
các đệ tử đang bước đi trên con đường Phật Đạo.
Bản
dịch của chúng tôi xuất phát trực tiếp từ bên trong truyền
thống này. Hiểu theo một nghĩa nào đó thì bản dịch này
có một dòng truyền thừa riêng. Dudjom Rinpoche, Dilgo Khyentse
Rinpoche, Kangyur Rinpoche, Nyoshul Rinpoche, và những vị lạt ma
khác đã giảng dạy cho chúng tôi toàn bộ văn bản này qua
hình thức khẩu truyền – và trong suốt quá trình dịch thuật,
đã ban cho chúng tôi những chỉ dạy về những điểm khó
hiểu trong quyển sách. Đây là những bậc trì giữ đã
chứng ngộ Giáo Pháp của Patrul Rinpoche.
Mặc
dù việc trung thành với những từ ngữ chính xác của nguyên
tác đáng được hưởng một sự kính trọng nào đó trong
các hệ thống giảng dạy của Tây Tạng, nhưng chúng tôi đã
nhận ra rằng những bản dịch như thế thường làm cho các
ý niệm hoàn toàn sáng sủa và hợp lý trong tiếng Tây Tạng
dường như trở nên tối tăm và thậm chí kỳ quái một cách
không cần thiết trong Anh ngữ. Đặc biệt là đối với quyển
sách này, một phương pháp chuyển dịch như thế không bao
giờ có thể làm sống dậy văn phong địa phương và
tánh hài hước sống động phi thường của nguyên tác. Vì
thế mặc dù chúng tôi cố gắng nhất quán những thuật ngữ
trong bản dịch, nhưng chúng tôi đã nhắm tới việc phản
ảnh lại không chỉ từ ngữ, mà còn phản ảnh cả không
khí và văn phong (của nguyên tác) bằng cách diễn dịch mọi
ý niệm bằng một thứ Anh ngữ tự nhiên, càng gần ngôn ngữ
Tây Tạng càng tốt nhưng không phải trả cái giá là đánh
mất đi sự trong sáng và trôi chảy của toàn thể bản dịch.
Những
giải thích ngắn gọn mà chúng tôi cảm thấy có thể mang
lại lợi ích cho nhiều độc giả sẽ xuất hiện như các
chú thích ở cuối trang (footnotes). Cũng có một số lớn chú
thích ở cuối sách (endnotes) nhưng không nhất thiết là tất
cả những chú thích này đều được hầu hết độc giả
quan tâm đến. Tuy nhiên chúng tôi cảm thấy cần phải có
bởi vì những chú thích này (endnotes) chứa đựng những bình
giảng rất tuyệt vời từ những ghi chép của các vị đệ
tử của Patrul Rinpoche, cùng với những diễn giảng về các
điểm khó hiểu hơn đã được Dilgo Khyentse Rinpoche và những
vị Thầy khác ban cho. Những chú thích này sẽ giúp độc giả
tránh được một vài ngộ nhận thông thường về những quan
điểm của Phật Giáo; và đối với các Phật tử hành giả
trước đây đã có một ít hiểu biết về những quan điểm
này thì những lời bình giảng này sẽ đem lại một kích
thước khai phá phi thường cho quyển sách.
Patrul
Rinpoche (1808 – 1887)
PHẬT GIÁO
TÂY TẠNG
DẪN NHẬP
TÓM TẮT
Đức
Phật Gautama (Cồ Đàm) sinh ở miền Bắc Ấn Độ vào thế
kỷ thứ năm trước Công nguyên, là nam tử của một vị vua
và được thân phụ nuôi dạy để kế thừa ngai vàng. Sự
chào đời và thuở ban đầu của Ngài thật khác thường,
và rõ ràng là ngay từ đầu, vị thái tử trẻ tuổi Siddharta
(Tất Đạt Đa) đã có duyên tiền định để trở thành một
bậc siêu phàm. Thuở thiếu thời của Ngài trải qua trong xa
hoa ở chốn hoàng cung, ít phải lo nghĩ hay bận tâm, và Ngài
thật tài ba xuất chúng trong mọi lãnh vực hoạt động vào
thời đại của ngài, cả về học thuật lẫn thể thao.
Tuy
nhiên, chẳng bao lâu sau đó, Ngài bắt đầu hoài nghi về giá
trị bền vững của đời sống thế tục của mình. Trốn
thoát khỏi cung điện của vua cha, Ngài đi tìm một cuộc đời
có ý nghĩa hơn, tu học với một số những vị Thầy được
kính nể như những bậc sư phụ về triết học và thiền
định. Lòng cầu tìm chân lý của Ngài chân thành tới nỗi
Ngài nhanh chóng đạt được những thành tựu thiền định
tối thượng khiến những vị Thầy này không thể dạy Ngài
thêm được gì nữa, nhưng Ngài vẫn chưa thoả mãn. Mặc dù
dốc lòng tu hành khổ hạnh qua bao năm tháng, Ngài nhận ra
rằng không có điều nào trong những hệ thống này có thể
giúp Ngài vượt lên trên những giới hạn của một thế giới
hữu vi là một thế giới hiện hữu dựa trên những yếu
tố duyên hợp. Ngài quyết định một mình tiếp tục công
cuộc tìm kiếm, và bằng nỗ lực của riêng mình, cuối cùng
đã đạt được Giác Ngộ ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya)
ngày nay.
Điều
Ngài khám phá ra thâm diệu và bao la đến nỗi lúc đầu Ngài
ngần ngại phát lộ những khám phá đó cho người khác, sợ
rằng không ai có thể hiểu được. Tuy nhiên sau đó Ngài bắt
đầu giảng dạy, và nhanh chóng lôi cuốn một số đông đệ
tử đi theo Ngài, nhiều người trong số đó trở thành những
bậc đại thành tựu giả về thiền định.
Sự
đa dạng của những người tìm tới Đức Phật để thọ
nhận giáo pháp và thực hành con đường của Ngài đòi hỏi
một cách thức giảng dạy cũng đa dạng y như thế, và những
giáo huấn Ngài giảng dạy cũng dị biệt, tương ứng với
trình độ hiểu biết và căn cơ của những cá nhân hay nhóm
người dị biệt này. Như vậy, những giáo lý mà Đức Phật
đã giảng dạy trong cuộc đời của Ngài có thể được phân
chia một cách tổng quát thành ba loại – (1) những giáo lý
cuối cùng được tập hợp trong Kinh điển Pali và trở thành
nền tảng cho Trường Phái Theravāda (Nguyên Thủy), nhấn mạnh
vào giới luật và đạo đức; (2) giáo lý Mahāyāna, hay Đại
Thừa, chú trọng vào lòng bi mẫn và quan hoài tới người
khác; và (3) giáo lý của Kim Cương Thừa hay Mật Thừa, sử
dụng vô số phương pháp thiện xảo khác nhau để dẫn tới
kinh nghiệm chứng ngộ sâu xa trong một thời gian tương đối
ngắn. Giáo lý Kim Cương Thừa được chính Đức Phật truyền
dạy chỉ trong một phạm vi giới hạn, nhưng Ngài đã tiên
đoán rằng giáo pháp ấy sẽ được những bậc giác ngộ
khác xuất hiện sau Ngài truyền bá trong thế giới. Đây
là lý do tại sao Kim Cương Thừa chính là một giáo lý của
Đạo Phật không khác gì hai trường phái kia, mặc dù Kim Cương
Thừa không được giảng dạy rộng rãi trong thời Đức Phật
còn tại thế.
Sau
khi Đức Phật nhập Niết Bàn, những dị biệt giữa các giáo
lý khác nhau mà Ngài đã giảng dạy càng trở nên rõ rệt
hơn khi những trường phái và truyền thống dị biệt hình
thành. Chẳng hạn như truyền thống Theravada hiện nay đã khởi
đầu với một nhóm đệ tử của Đức Phật, sau này
được phân ra thành mười tám trường phái. Tương tự như
vậy, Đại Thừa được đa dạng hóa thành một số truyền
thống, mỗi truyền thống có những dị biệt triết học vi
tế đặc thù. Kim
Cương
Thừa cũng thế, trong đó có vô số những pháp môn thực hành
khác nhau; nhiều pháp môn trong số đó đã chỉ được truyền
dạy lại cho một người đệ tử duy nhất.
Trong
những thế kỷ tiếp theo sau đó, các truyền thống dị biệt
này dần dần được truyền bá khắp xứ Ấn Độ và tiếp
tục truyền xa hơn nữa, cho tới khi Phật Giáo đã trải rộng
tầm ảnh hưởng đến Trung Á, Đông Á và Nam Á, thậm chí
đến tận Nam Dương (Indonesia). Một vài truyền thống đã
hoàn toàn bị thất truyền, trong khi có những truyền thống
khác lại hợp nhất dưới một hình thức mới mẻ hơn của
Phật Giáo. Vào thế kỷ mười ba, sự xuất hiện của Hồi
Giáo và những biến động chính trị trong xã hội Ấn Độ
đã cuốn dạt Phật Pháp ra khỏi xứ sở đã sản sinh ra Đạo
Phật, và chính giáo lý này lại được bảo tồn ở những
quốc gia khác – Theravāda ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan
và Cam Bốt, Đại Thừa ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và
Đông Dương, và Kim Cương Thừa chủ yếu là ở Tây Tạng.
Tây Tạng đã may mắn bội phần. Tây Tạng không chỉ là một
trong số ít quốc gia trong đó Kim Cương Thừa tiếp tục được
hành trì mà Tây Tạng cũng là quốc gia duy nhất trong đó toàn
bộ các loại giáo lý từ cả ba truyền thống của Đạo Phật
đã được truyền dạy và bảo tồn.
Trải
qua nhiều thế kỷ, rất nhiều những kết hợp của các giáo
lý của Đức Phật đã được trao truyền từ đạo sư xuống
tới đệ tử trong nhiều dòng truyền thừa bao gồm bốn trường
phái chính (Nyingma, Sakya, Kagyu, Gelug) của Phật Giáo Tây Tạng
mà chúng ta biết tới ngày nay. Các thành viên của những dòng
truyền thừa này không chỉ đơn giản là những học giả
uyên bác nghiên cứu các giáo lý mà họ nhận lãnh, nhưng là
những bậc đã đắc quả, đã từng hành trì và thông suốt
những gì đã được truyền dạy cho họ, và như thế có đầy
đủ phẩm tính để truyền thụ giáo lý cho các đệ tử của
mình.
Trong
bốn trường phái này, phái Nyingma (tên xuất phát từ tiếng
Tây Tạng có nghĩa là “cổ”) tuân theo những truyền thống
được giới thiệu trước tiên vào thế kỷ thứ tám bởi
các Đạo Sư Ấn Độ như Sāntaraksita (Tịch Hộ), Vimalamitra
(Tì Ma La Mật Đa), và Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) là bậc Đạo
sư mà những người Tây Tạng gọi bằng Guru Rinpoche, “Đạo
Sư Tôn Quý,” và những truyền thống này được tiếp tục
truyền xuống qua những vị Đạo sư Tây Tạng đã chứng ngộ
viên mãn chẳng hạn như Longchenpa, Jigme Lingpa và Jamyang Khyentse
Wangpo. Những dòng truyền thừa này còn được truyền dạy
xuống qua ba dòng chính yếu khác – dòng Kagyupa, Sakyapa và
Gelugpa – và đã được đưa vào Tây Tạng sau thế kỷ thứ
mười, tiếp theo sau thời điểm mà một vị vua phi-Phật Giáo
đã có những nỗ lực hủy diệt Giáo Pháp ở Tây Tạng. Giống
như những hình thức dị biệt của Phật Giáo tại nhiều
nơi khác nhau ở Á Châu đã được kế tục và biến thái
để đáp ứng nhu cầu của những con người và văn hoá khác
nhau thì mỗi một trường phái trong bốn trường phái [của
Kim Cương Thừa tại Tây Tạng] đều có nguồn gốc hình thành
và phát triển trong những hoàn cảnh hết sức khác biệt gồm
có lịch sử, địa dư và ngay cả chính trị – những khác
biệt về lịch sử, địa dư và chính trị này được dùng
như một lăng kính để phân chia ánh sáng của giáo lý của
Đức Phật thành một quang phổ nhiều màu của những truyền
thống và dòng truyền thừa khác nhau. (Điều đáng buồn là
có một số Phật tử có khuynh hướng quên đi rằng ánh sáng
này có chung một nguồn mạch, và như trong các tôn giáo lớn
khác của thế giới, sự phân chia bè phái đôi khi đã che
lấp mất thông điệp chân chính yếu của Phật Giáo.)
Những
giáo lý được bảo tồn trong các dòng truyền thừa của Phật
Giáo Tây Tạng được chứa đựng trong khối Kinh văn linh hiển
khổng lồ của truyền thống đó. Kangyur (nghĩa: Lời Đức
Phật), gồm trên một trăm bộ, bao gồm những Kinh điển có
nguồn gốc từ thời của Đức Phật, và được phân ra thành
(1) Luật Tạng (Vinaya), đề cập tới đạo đức học và giới
luật, (2) Kinh Tạng (Sūtras), là tạng liên quan tới thiền
định, và (3) Luận Tạng (Abhidharma), bao gồm triết học Phật
Giáo. Có nhiều luận giải viết về những kinh tạng này,
cũng như viết về những tác phẩm Phật Giáo chính yếu khác;
những bộ luận giải này đã được biên soạn và sau đó
đã tạo thành hơn hai trăm pho sách của Tangyur (nghĩa: Dịch
Các Luận Giải). Kangyur lẫn Tangyur được dịch qua tiếng
Tây Tạng chủ yếu là từ tiếng Phạn, tạo thành Đại Tạng
Kinh Điển Phật Giáo Tây Tạng (Tibetan Buddhist Canon). Thêm vào
số này còn có một khối lượng khổng lồ những trước
tác khác gồm những giáo lý từ Ấn Độ được đưa vào
Tây Tạng từ thế kỷ thứ tám trở đi (kể cả nhiều giáo
lý Kim Cương Thừa), và vô số những bình giảng về cả ba
Thừa (Thanh Văn Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa) do các
Đạo Sư Tây Tạng biên soạn.
Tuy
nhiên khối lượng giáo lý khổng lồ được tìm thấy trong
Phật Giáo Tây Tạng có thể được tóm tắt trong Tứ Diệu
Đế là giáo lý được Đức Phật thuyết giảng không lâu
sau khi giác ngộ. Chân lý thứ nhất (Khổ Đế) chỉ ra rằng
thế giới hữu vi của chúng ta (trạng thái hiện hữu dựa
vào điều kiện nhân duyên) không bao giờ có thể đưa chúng
ta thoát khỏi trạng thái đau khổ, không bao giờ thực sự
đem lại sự mãn nguyện. Bất kỳ hạnh phúc nào ta có chỉ
là nhất thời và vào một thời điểm thích hợp nào đó
sẽ đưa tới đau khổ. Lý do của Khổ Đế, như đã được
giảng dạy trong chân lý thứ hai (Tập Đế), là bất kỳ hành
động nào ta có thể làm, nói, hoặc suy nghĩ cũng đều đem
đến một kết quả mà ta sẽ phải kinh qua trong đời này
hoặc trong một đời tương lai. Quả thật, tái sinh là kết
quả của những hành vi của ta, và ta được tái sinh trong
những điều kiện như thế nào thì những điều kiện này
cũng đều lệ thuộc trực tiếp vào những hành vi mà ta đã
từng làm trong những đời trước, và đặc biệt là lệ thuộc
trực tiếp vào những động cơ tác
ý
và thái độ tương ứng. Điều này (nguyên lý nhân quả) giải
thích lý do tại sao một số người lại nghèo khổ suốt đời
mặc dù họ hết sức nỗ lực để trở nên giàu có, trong
khi những người khác có đủ mọi thứ họ mong muốn mặc
dù chẳng phải làm gì. Chân lý thứ hai tiếp tục chỉ cho
ta thấy rằng động lực phía sau các hành vi của chúng ta
chính thực là những cảm xúc tiêu cực, chẳng hạn như thù
ghét, tham luyến, kiêu ngạo, ganh tị và, đặc biệt là vô
minh, gốc rễ của tất cả mọi thứ khác. Vô minh không
chỉ có nghĩa là thiếu trí tuệ trong cách chúng ta hành xử
như thế nào, mà còn là sự vô minh căn bản nằm đằng sau
cung cách chúng ta nhận thức về toàn thể thế giới hiện
hữu này, và sự vô minh ấy thường xuyên bị mắc kẹt trong
tư tưởng bám chấp vào một ý niệm bản ngã của riêng ta,
và vào ý niệm của một cái ngã của thế giới bên ngoài,
như thể bản thân ta và thế giới ấy bền vững có thật
và bất biến trường tồn. Bởi vì những hành vi của chúng
ta không bao giờ chấm dứt, nên việc ta phải tái sinh liên
tục trong thế giới hữu vi này cũng chẳng thể nào chấm
dứt được. Chỉ khi nào ta ngừng hành động do vô minh lôi
kéo thì vòng quay này mới có thể đứt đoạn, giống như
chân lý thứ ba (Diệt Đế) đã chỉ cho ta thấy, và giảng
dạy về sự chấm dứt đau khổ và giải thoát khỏi thế
giới hữu vi (giải thoát khỏi trạng thái hiện hữu dựa
vào điều kiện nhân duyên).
Chân
lý thứ tư (Đạo Đế) giảng dạy cách thức (hay con đường)
giúp ta thành tựu việc chấm dứt khổ đau và giải thoát
khỏi thế giới hữu vi do nhân duyên kết hợp. Điều này
thật sự có nghĩa là, một mặt bao gồm công phu tích lũy
các thiện hạnh, chẳng hạn như tôn kính và cúng dường Phật,
Pháp (giáo lý của Ngài), và Tăng đoàn (cộng đồng các hành
giả), thực hành hạnh bố thí, v.v., và một mặt khác, bao
gồm công phu thực hành thiền (thiền chỉ và thiền quán),
là những gì có thể trực tiếp tẩy trừ gốc rễ vô minh,
nguyên nhân của đau khổ. Một hành giả đi theo con đường
này với ý hướng chỉ giải thoát cho bản thân mình có thể
đạt được mức độ chứng ngộ thâm sâu và trở thành một
bậc A La Hán (bậc chiến thắng những cảm xúc tiêu cực).
Nhưng đây không phải là giác ngộ viên mãn (hay toàn giác).
Chỉ có những bậc hành giả với tâm nguyện tốt lành muốn
tất cả chúng sinh đều đạt được giác ngộ tối thượng,
những bậc ấy mới có thể đạt được Phật Quả. Những
hành giả đi theo con đường Đại Thừa dựa trên lòng bi mẫn
như thế được biết đến như là các vị Bồ Tát. Hơn
nữa, nếu vị Bồ Tát ấy còn hành trì các giáo pháp thâm
diệu và thiện xảo của Kim Cương Thừa thì vị ấy có thể
đạt được giác ngộ viên mãn trong một thời gian rất ngắn.
Khi
còn tại thế, Đức Phật đã thành lập một cộng đồng
các tăng và ni, và các vị ấy đã đóng vai trò nòng cốt
trong việc hộ trì và tiếp nối giáo pháp. Tuy nhiên, điều
này không loại trừ các cư sĩ nam và nữ là những đệ tử
nghiêm cẩn trên con đường tu. Cộng đồng các cư sĩ
này được phản ảnh ở Tây Tạng là nơi mà từ thế kỷ
thứ tám trở về sau, cộng đồng các hành giả bao gồm hai
giáo đoàn hỗ trợ lẫn nhau: một mặt, là một cộng đồng
tu sĩ rất đông đảo, và một mặt khác là một truyền thống
vững mạnh gồm các hành giả cư sĩ, là các hành giả du già
hay các gia chủ, nhiều vị trong số đó có vẻ như sống một
cuộc đời bình thường trong khi theo đuổi một con đường
tâm linh thâm diệu và cuối cùng đã đạt được giác ngộ
viên mãn.* Theo truyền thống Nyingmapa, việc thọ giới xuất
gia được coi là một phương tiện hỗ trợ rất lợi ích
cho công phu hành trì, nhưng đó không có nghĩa là phương cách
duy nhất để tiến bộ trong thiền định. Điều này đã khích
lệ cho những người ao ước muốn đưa giáo lý vào thực
hành nhưng không thể tự đặt mình trong một nếp sống tu
viện.
*‘Cộng
đồng những người độc thân khoác y đỏ’ và ‘cộng đồng
những người áo trắng với bện tóc dài’.
Trước
đây Albert Einstein đã lưu ý rằng Phật Giáo là truyền thống
ông cảm thấy đáp ứng được những tiêu chuẩn mà ông cho
là cần thiết cho một con đường tâm linh thích hợp với
thế kỷ hai mươi. Ngày nay các vật lý gia hiện đại đang
đưa ra những kết luận đến gần với giáo lý mà Đức Phật
đã giảng dạy hai ngàn năm trăm năm trước. Trong khi những
hấp lực của chủ trương duy vật có một ảnh hưởng bất
lợi cho đời sống tâm linh cổ truyền ở khắp Châu Á, thì
có một số đông những người Tây phương, càng lúc càng
gia tăng, đang tỏ ra quan tâm đến những triển vọng tốt
lành mà việc nghiên cứu và thực hành theo Phật Giáo có thể
đem lại cho họ.
Khi
sự tương tục của những dòng truyền thừa Phật Giáo bị
đe doạ bởi các biến động chính trị ở Tây Tạng trong
những năm bắt đầu từ 1950 trở đi, nhiều vị Lạt
Ma với đầy đủ phẩm hạnh - là những vị không chỉ
thọ nhận những dòng truyền dạy đúng đắn từ các vị
Thầy của mình, mà đã hoàn toàn thấu triệt và chứng ngộ
các giáo lý qua công phu nghiên cứu và thiền định, các vị
ấy đã mưu cầu việc bảo tồn những giáo lý này bằng cách
đưa những giáo lý ấy sang Ấn Độ. Vào cùng thời điểm
đó, một số du khách Tây phương tới Ấn Độ bắt đầu
tỏ vẻ quan tâm tới các Lạt Ma và tới di sản tâm linh của
các Ngài. Do bởi Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) đã có nói,
trong các giáo lý Đạo Phật, Kim Cương Thừa sẽ chứng tỏ
(cho thấy tiềm năng) đặc biệt mãnh liệt và hữu hiệu cho
những người sống trong một thời đại mà những cảm xúc
ô nhiễm lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nên nhiều vị Thầy
đã cảm thấy việc đưa những giáo lý này sang Tây phương
là một việc làm vô cùng thích hợp. Kim Cương Thừa đặc
biệt mềm mỏng uyển chuyển và thích ứng được với những
loại tình cảnh mà con người thời đại tự đâm đầu vào,
và giờ đây giáo lý ấy đang được giảng dạy cho đủ loại
người trên khắp thế giới mà vẫn không đánh mất đi hình
thức cổ truyền.
TI
ỂU SỬ PATRUL RINPOCHE
TIỂU SỬ CỦA
ĐẠO SƯ VĨ ĐẠI
PATRUL
1 JIGME CHOKYI WANGPO
(1808
– 1887)
Patrul
Rinpoche Ogyen Jigme Lingpa Chokyi Wangpo là hóa thân về ngữ của
Đức Jigme Lingpa. Ngài là một trong những Đạo Sư và tác
giả Nyingma vĩ đại mà cuộc đời và các tác phẩm của ngài
được ngay cả những học giả của những trường phái khác
trích dẫn. Mặc dù là một trong những học giả và bậc lão
thông vĩ đại nhất của phái Nyingma, Ngài đã sống như một
ẩn sĩ khiêm tốn và giản dị nhất. Ngài nói năng thẳng
thắn và lớn tiếng, nhưng mỗi lời Ngài nói ra đều là ngôn
từ của chân lý, trí tuệ và của một tấm lòng quan hoài.
Ngài
sinh trong bộ tộc Getse Kongma thuộc dòng Mukpo Dong ở Karchung
Ko-o trong Thung lũng Dzachukha vào năm Thìn Thổ thuộc Rabjung
2 thứ mười bốn (1808). Thân phụ Ngài là Lhawang thuộc nhóm
Gyalthok, và thân mẫu là Dolma thuộc nhóm Tromza. Sau khi sinh
ra không bao lâu, Ngài cố gắng nói “OM,” nhưng không rõ
ràng. Nhưng vào ngày thứ năm, Ngài nói “OM MANI PADME HUM”
thật rõ. Các mẫu tự của câu minh chú “OM MANI PADME HUM”
cũng được nhìn thấy nơi cổ, và một chữ “HRIH” hiện
trên lưỡi Ngài.
Mặc
dù là một tulku (tái sinh) của Jigme Lingpa, Ngài còn được
ngài Dola Jigme Kalzang xác nhận là tulku (hóa thân) của Palge
Samten Phuntsok. Khi chứng thực (phê chuẩn) sự xác nhận này,
Dodrupchen đệ nhất nói với Jigme Kalzang rằng: “Ta phó chúc
cho cậu bé và trao truyền giáo lý Longchen Nyingthig viên mãn
với pháp danh Ogyen Jigme Chokyi Wangpo.” Chẳng bao lâu, Palge
Konchok, một người cháu của Palge cuối cùng, đem Patrul tới
Palge Latrang, trú xứ của Palge cuối cùng.
Patrul
đã học tập các giáo lý Kinh điển và Mật điển (tantra)
với nhiều Đạo sư, trong đó có các Ngài Dola Jigme Kalzang,
Jigme Ngotsar, Gyalse Zhenphen Thaye, Sonam Palge, và Zhechen Thutop Namgyal.
Ngài Sengtruk Pema Tashi ở tu viện Dzogchen đã cho ngài thọ giới
xuất gia.
Tuy
nhiên, các vị Thầy gốc (Bổn Sư) của Ngài là Jigme Gyalwe
Nyuku và Do Khyentse. Với Jigme Gyalwe Nyuku, Ngài đã học tập
từ pháp ngondro, là các pháp tu dự bị, cho tới những giáo
lý tsalung và Dzogpa Chenpo (Đại Viên mãn). Từ Gyalwe Nyuku, Ngài
thọ nhận các giáo lý dự bị ngondro của Longchen Nyingthig
hai mươi lăm lần, và đã hành trì tu tập các giáo lý này.
Sau này Ngài biên soạn những lời dạy của vị Thầy của
Ngài về ngondro (pháp tu dự bị) qua bản văn nổi tiếng
Kunzang Lamei Zhalung (“Những Lời Dạy Từ Kim Khẩu Của Lạt
Ma Phổ Hiền” – hay là “Lời Vàng Của Thầy Tôi”).
Một
hôm, Do Khyentse, vị Thầy lang thang trong khi luyện tập
những pháp tu bí truyền, thình lình xuất hiện trước lều
của Patrul. Do Khyentse la lên: “Ồ Palge! Nếu mi can đảm thì
bước ra đây!” Khi Patrul bước ra một cách cung kính, Do Khyentse
túm lấy tóc Ngài, ném Ngài trên mặt đất, và lôi Ngài xềnh
xệch. Lúc đó, Patrul ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của
Do Khyentse và nghĩ: “Đức Phật đã giảng dạy về những
nguy hiểm của rượu, vậy mà ngay cả một bậc lão thông
như Ngài cũng có thể say rượu như thế này.” Ngay lúc đó,
Do Khyentse buông Patrul ra và la lớn: “Chao ôi! Người thông
tuệ
như ông mà cũng có thể có những tư tưởng xấu xa như thế!
Đồ Chó Già!” Do Khyentse đánh vào mặt ngài, giơ ngón tay
út ra (một cử chỉ nhục mạ), và ra đi. Patrul nhận ra rằng:
“Ồ, ta đã sai lầm rồi. Ngài đang luyện tập một pháp
tu bí truyền để giới thiệu cho ta bản tánh giác ngộ của
ta.” Patrul bị giằng xé bởi hai cảm xúc mâu thuẫn: đau
buồn về những tư tưởng tiêu cực của chính mình và sửng
sốt trước sự thấu thị của Do Khyentse. Ngồi bật dậy,
Ngài lập tức thiền định về bản tánh giác ngộ của tâm,
và một kinh nghiệm tỉnh giác nội tại, trong trẻo, rỗng
rang như bầu trời đã thức giấc trong ngài. Do đó, kinh nghiệm
chứng ngộ trong trẻo và toàn triệt như mặt trời mọc đã
thức dậy trong Ngài, siêu vượt sự chứng ngộ như bình minh
mà Ngài đã nhận được nhờ Gyalwe Nyuku khai mở. Kể từ
lúc đó, Ngài giữ danh hiệu “Chó Già” với vẻ đùa bỡn
như cái tên bí truyền hay thiêng liêng của ngài.
Khi
Patrul khoảng hai mươi tuổi, vị tổng quản lý của Palge Latrang
là Palge Konchok qua đời. Patrul đóng cửa trụ xứ Palge và
bắt đầu sống như một ẩn sĩ lang thang.
Tại
tu viện Dzogchen, Ngài nhận những trao truyền Nyingthig Yabzhi
và Longchen Nyingthig từ Dzogchen Rinpoche đệ tứ và Gyalse Zhenphen
Thaye. Sau đó Ngài nhập thất dài hạn tại động Shinje (động
Yamantaka hay Tử Thần) và động Tsering gần tu viện Dzogchen,
nơi có lần Dodrupchen đã thực hiện một cuộc nhập thất
dài hạn.
Khoảng
năm 1851, từ đại học giả Gyawa Do-ngak Gyatso, một đệ tử
của Patrul và Zhapkar Tsoktruk Rangtrol (1781-1851), Patrul được
nghe những chi tiết về cuộc đời đầy cảm hứng của Zhapkar.
Khi Ngài tới Golok trên đường đi gặp Zhapkar, Ngài nghe hung
tín rằng Zhapkar vừa mất. Ngài quay trở lại và đến Yarlung
Pemako, trụ xứ của Dodrupchen. Tại Yarlung, Ngài kết giao với
Gyalse Zhenphen Thaye (1800-?), vị Thầy này đang sống ở đó
như vị nhiếp chính của Dodrupchen quá cố và đang bắt đầu
một khóa giảng và khoá Phật thất hàng năm kéo dài bốn
mươi lăm ngày về Guhyagarbha-mayajala¬tantra (Bí Mật Tập Hội).
Patrul nhận giáo lý Guhyagarbha-tantra từ Gyalse và làm trợ giảng
cho vị Thầy này trong năm đầu tiên. Sau đó bản thân Ngài
đảm nhiệm những khóa giảng hàng năm trong hai năm nữa.
Ngài
đi khắp các thung lũng Ser, Do, Mar, và Dzika và nhiều lần ban
các giáo lý về Bodhicharyavatara (Nhập Bồ Tát Hạnh) và truyền
cảm hứng cho toàn bộ dân chúng trì tụng OM MANI PADME HUM.
Trong những vùng đó, Ngài rất thành công trong việc bãi bỏ
hệ thống phục vụ thịt thà cho các Lạt Ma khi họ tới cử
hành các buổi lễ. Ngài tuyên bố các luật lệ chống lại
việc trộm cắp và săn bắn. Ngài đã mang Phật giáo đến
với cuộc sống của mọi người và tới mọi nhà, khiến
cho Phật Pháp không bị giới hạn trong giới tu sĩ hay các
tu viện và gompa (tu viện hay ẩn thất).
Ngài
thăm viếng tu viện Shukchung, và sau đó trong một thời gian
dài Ngài ở Shukchen Tago, trụ xứ chính thức của Dodrupchen
đệ nhất. Mặc dù Dodrupchen đã bỏ trụ xứ này khoảng nửa
thế kỷ trước nhưng nơi đây vẫn được dùng như một ẩn
thất. Tại đây Ngài tụng toàn bộ Kanjur (Kinh tạng) ba lần
và học thuộc lòng nhiều bộ Kinh.
Sau
đó Ngài sống dưới một gốc cây tại Ari Nak (còn được
gọi là Dhichung Phuk) một thời gian dài. Đó là một bãi đất
cao và trống giữa một cánh rừng rậm. Chưa từng có ai tới
đó, và những người duy nhất mà thỉnh thoảng người ta
có thể nhìn thấy là những lữ khách ở bên kia thung lũng
Do, cách bên kia sông Do khoảng nửa dặm. Rừng Ari trên bờ
sông Do ở nửa đường giữa Shukchen Tago và tu viện Dodrupchen
hiện tại.
Trước
tiên, Patrul và Nyoshul Lungtok, người sống gần Patrul và học
với Ngài trong hai mươi tám năm, sống đơn độc tại rừng
Ari trong sáu tháng. Một túi tsampa nhỏ làm lương thực, y phục
khoác trên người, và đôi ba quyển sách là những vật sở
hữu duy nhất của các ngài. Vào giữa trưa họ họp lại và
dùng một ít tsampa. Sau đó họ buộc miệng túi tsampa vào một
gốc cây và để nó ở đó cho tới ngày hôm sau. Sau đó, Patrul
giảng cho Lungtok đôi câu kệ trong Bodhicharyavatara (Nhập Bồ
Tát Hạnh). Rồi khoác mảnh vải trắng rách rưới là y phục
duy nhất của Ngài, với một chiếc gậy trong tay, Patrul biến
mất vào rừng, nói to, Ha! Ha! Ha! như một pháp tu thiền định.
Buổi trưa hôm sau họ lại cùng nhau tụ họp và làm những
việc tương tự.
Chẳng
bao lâu, nhiều đệ tử đến rừng Ari, và Patrul bắt đầu
giảng dạy Semnyi Ngalso, Yonten Dzo và những giáo lý khác. Patrul
Rinpoche ban giáo lý và sau đó các đệ tử thiền định về
các giáo lý ấy ở trong rừng. Bởi không chú tâm nhiều vào
việc tổ chức cuộc sống nên họ có rất ít thực phẩm
để dùng. Mặc dù ở trong rừng rậm nhưng cũng không có rau
trái có thể ăn được. Loại trà họ uống rất đặc và
ngon khi pha lần đầu với lá trà tươi; nhưng sau đó họ cứ
đổ thêm nước vào trà cũ khiến trà càng lúc càng lạt đi
và mất màu. Họ đùa bỡn về độ đậm lạt khác nhau của
trà, gọi đó là trà “ba thân.” Trà đặc là trà của Hóa
Thân phức tạp, trà lạt là trà của Báo Thân mộc mạc, và
trà vô vị là trà của Pháp Thân mang tánh không rỗng
rang. Patrul nhận ra rằng tài sản và những thuận duyên, chẳng
hạn thực phẩm ê hề, y phục hảo hạng, chỗ ở tiện nghi,
những lời tán tụng và tiếng tăm là những chướng ngại
hơn là sự hỗ trợ cho tiến bộ tâm linh. Ngài viết:
Đau
khổ thì tốt và hạnh phúc thì không tốt.
Hạnh
phúc làm năm độc của dục vọng thêm lẫy lừng .
Đau
khổ khiến ác nghiệp tích lũy trong quá khứ bị cạn kiệt.
Đau
khổ là năng lực gia trì của Lạt Ma.
Chỉ
trích thì tốt và tán tụng thì không tốt.
Nếu
tôi được tán tụng, tôi sẽ phình lớn sự kiêu mạn.
Nếu
tôi bị chỉ trích, lỗi lầm của tôi sẽ được phơi bày.
Nghèo
khó thì tốt và thịnh vượng thì không tốt.
Thịnh
vượng tạo thêm những thống khổ ghê gớm của việc mưu
sinh và duy trì nó.
Nghèo
khó mang lại sự dâng hiến và thành tựu Thánh Pháp.
Sau
đó Patrul đi tới tu viện Dzamthang, một trung tâm vĩ đại
của học phái Jonang. Ở đó Ngài thuyết giảng về Uttaratantra
(Đại Thừa Tối Thượng Mật điển) dựa trên những giải
thích của Kunkhyen Dolpo. Tại Minyak Ngài gặp Dra Geshe Tsultrim
Namgyal, một học giả vĩ đại phái Geluk, người rất kinh
ngạc trước sự uyên bác của Patrul. Tại tu viện Gyaphak,
Ngài ban các quán đảnh và giáo lý Longchen Nyingthig viên mãn,
là giáo lý Ngài hiếm khi truyền dạy. Tại Golok, Ngài điều
phục những kẻ trộm cướp phóng túng và những thợ săn
hung ác bằng năng lực của sự hiện diện và ngôn từ phù
hợp lẽ phải của ngài. Tại Marung Ngài dạy dân chúng nhắc
lại ngôn từ của lòng bi mẫn OM MANI PADME HUM, bởi thậm chí
họ không biết đọc câu minh chú đó ra sao. Sau đó Ngài trở
về rừng Ati trong thung lũng Do và ở đó một thời gian.
Năm
1856/57 Patrul nghe nói là từ Tarsedo, Do Khyentse đã đến núi
Yutse ở Golok. Patrul tới đó sau nhiều ngày du hành để gặp
Do Khyentse. Patrul khẩn cầu Đức Do Khyentse ban cho Ngài quán
đảnh Yumka Dechen Gyalmo của Longchen Nyingthig. Do Khyentse nói:
“Ta đã giữ nó bí mật trong nhiều năm, nhưng bây giờ ta
sẽ ban quán đảnh đó cho con,” và hết sức hoan hỉ, Do Khyentse
truyền quán đảnh cho Ngài. Trong số nhiều tiên tri mà Do Khyentse
đã ban, có một tiên tri nói rằng Patrul sẽ sống đến tám
mươi tuổi. Sau đó Do Khyentse, Dodrupchen đệ nhị và Patrul
cùng cử hành một lễ đốt hương (sang ceremony); điều này
trở thành một dấu hiệu cho thấy các Ngài sẽ tái sinh làm
anh em ruột. Patrul trở về thung lũng Do và ban giáo lý về
Bodhicharyavatara ở nhiều nơi.
Sau
khi sống khoảng mười năm quanh các thung lũng Do và Ser, quanh
các trụ xứ của Dodrupchen, Patrul trở về tu viện Dzogchen.
Tại các ẩn thất Padme Thang, Nakchung, và học viện Shrisimha
của tu viện Dzogchen, ngài giảng dạy Bodhicharyavatara (Nhập
Bồ Tát Hạnh), Abhisamayalamkara (Hiện Quán Trang nghiêm), Madyamakavatara
(Nhập Trung luận), Mahayanasutralamkara (Đại thừa Trang nghiêm
Kinh luận), Abhidharmakosha (A tỳ đạt ma Câu xá luận), Guhyagarbha-mayajala
(Bí Mật Tập Hội), Yonten Dzo (Kho Thiện Đức), Domsum Namnge
(Sự Xác quyết của Ba Thừa), và nhiều bản văn khác trong
nhiều năm. Ngài hành hương đến Kathok và giảng Bodhicharyavatara.
Ngài tiếp đón Terton Chogyur Lingpa ở tu viện Dzogchen và thọ
nhận những giáo pháp được trao truyền.
Cuối
cùng, Ngài trở về Dzachukha, quê hương của Ngài. Ngài viếng
thăm hầu hết tu viện và ẩn thất trong thung lũng Dzachukha,
đặc biệt là các ẩn thất Gekong và Changma, và giảng Bodhicharyavatara
và những bản văn khác của triết học Đại thừa. Nhưng
trong hầu hết phần đời còn lại của Ngài, Ngài sống quanh
Dzagya Gon, trụ xứ của bổn sư Gyalwe Nyuku của Ngài, nơi di
cốt của Gyalwe Nyuku được giữ gìn trong một bảo tháp. Tại
Dzagya, Ngài thiết lập một khóa giảng và Phật thất Bodhicharyavatara
hàng năm kéo dài ba tháng, và một khóa giảng và Phật thất
về Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô lượng Quang A Di Đà
trong một tuần lễ. Mỗi lần Ngài đi vào điện thờ di cốt
của vị Thầy của Ngài, Ngài luôn luôn tụng lớn tiếng những
lời ước nguyện sau:
Trong
chuỗi liên tục tất cả các mọi cuộc đời của chúng con,
nguyện không bao giờ chúng con bị ảnh hưởng bởi mọi ác
hữu. Trong chuỗi liên tục tất cả mọi cuộc đời của chúng
con, nguyện không bao giờ chúng con xâm phạm ngay cả một sợi
tóc của người khác. Trong chuỗi liên tục tất cả mọi cuộc
đời của chúng con, cầu mong không bao giờ chúng con xa rời
ánh sáng của Thánh Pháp. [Tiếp theo là một bài kệ lấy từ
Kinh điển:]
Bất
kỳ ai nhận giáo lý từ ta, và
Thậm
chí nhìn thấy ta, lắng nghe ta, nghĩ tới ta,
hay
có quan hệ với ta qua việc trò chuyện,
Nguyện
cho cánh cửa dẫn đến sự tái sinh của họ trong
những
cõi thấp được đóng kín,
Và
nguyện cho họ tái sinh trong Cõi Cực Lạc Potala
(Phổ Đà).
Ở
Mamo Do tại Dhachukha, Ngài dâng hiến nỗ lực trong nhiều năm
cho việc phát triển một Dobum nổi tiếng, một quần thể
những bức tường đá đồ sộ thật đáng kinh ngạc, và trên
mỗi hòn đá có khắc nhiều thần chú “OM MANI PADME HUM.”
Bức tường này được bắt đầu từ vị tiền nhiệm của
Patrul. Trong lần đầu tiên [khi mới khởi sự], Ngài bắt đầu
thu nhận tất cả các phẩm vật cúng dường và dùng từng
mẩu bơ như tiền lương trả cho những người được Ngài
thuê khắc những lời cầu nguyện. Khi bức tường đá được
hoàn tất, Ngài gởi một sứ giả đến thỉnh cầu Ngài Khyentse
Wangpo tới làm lễ hiến cúng. Vào ngày đặc biệt này, những
hạt gia trì của lễ hiến cúng mà Ngài Khyentse Wangpo ném từ
một nơi cách xa tám ngày đường trên lưng ngựa, rơi xuống
bức tường đá trước mắt mọi người.
Ở
Tramatung, Ngài giảng dạy và hướng dẫn thực hành về các
tu tập chuẩn bị duy nhất, Trekcho và Thogal. Sau này, Tendzin
Norbu (Tenli), đệ tử chính của Ngài, đã nhận xét như sau:
“Tôi đã có một ít hiểu biết về Dzogpa Chenpo trước đó,
nhưng ở Tramatung, tôi hoàn toàn thấu suốt và chứng ngộ
những điều này.”
Khoảng
năm 1872, Dodrupchen đệ tam, lúc đó tám tuổi, đến Dzagya Gon
để nhận các giáo lý và trao truyền từ Patrul. Sau khóa giảng,
theo khẩn cầu của chính Patrul, Dodrupchen ban giáo lý về Bodhicharyavatara
cho đại chúng, kể cả cho bản thân Patrul. Sau đó Patrul gởi
tin lành đến cho Khyentse Wangpo, nói rằng: “Về việc học
Pháp, Dodrupchen đã ban giáo lý về Bodhicharyavatara năm lên tám
tuổi. Đối với việc chứng ngộ Pháp, Nyakla Pema Dudul [1816-1872]
vừa đạt được thân cầu vồng. Vì thế Giáo Pháp của Đức
Phật không bị suy giảm.”
Vào
lúc đó, thỉnh thoảng Dodrupchen nghe giọng nói của Patrul lọt
qua tường, nói rằng: “Đức Liên Hoa Sanh vĩ đại, xin đoái
tưởng tới con. Con không có người nào khác để tin cậy...”
– những lời khẩn cầu Guru Rinpoche trong bản văn ngondro Longchen
Nyingthig. Điều này cho thấy chắc hẳn ngondro là một trong
những pháp hành trì chính yếu của Ngài.
Từ
năm bảy mươi mốt tuổi, Ngài bắt đầu tiết kiệm lương
thực, chỉ đủ để dùng khoảng một tuần, là việc mà trước
đây ngài chưa bao giờ làm. Ngoài ra, ngài không nhận bất
kỳ vật cúng dường nào, hoặc nếu có nhận thì ngài lập
tức gởi nó cho quỹ xây tường đá mani. Thỉnh thoảng ngài
để lại thực phẩm ở nơi được cúng dường cho ngài, khiến
những người nghèo thường đi theo Ngài để thâu thập những
vật cúng dường mà ngài để lại.
Năm
bảy mươi sáu tuổi, tại cánh đồng Dza Mamo, Ngài ban giáo
lý về Lời Nguyện Khát Khao Cõi Tịnh Độ và Mani Kabum cho
khoảng một ngàn người. Sau đó Ngài không ban giáo lý cho
đại chúng nữa. Bất kỳ ai đến gặp Ngài, Ngài gởi tới
Thầy Tenzin Norbu để học Pháp. Nếu ai cố nài nỉ thì Ngài
la rầy, nhưng Ngài càng la rầy thì họ càng sùng mộ Ngài.
Đó là bởi trái tim bi mẫn và lời lẽ khiêm tốn của Ngài.
Năm
bảy mươi bảy tuổi, ngài đi tới Dzagya Gon và mời Dzogchen
Rinpoche đệ ngũ, khi đó đang viếng thăm Dzachukha, và các ngài
đã kỷ niệm ngày mồng mười tháng Thân năm Mùi, là sinh
nhật của Guru Rinpoche.
Năm
bảy mươi tám tuổi, Patrul trở về Ko-o, sinh quán của Ngài.
Năm tám mươi tuổi, vào ngày mười ba tháng tư năm Hợi Hỏa
(1887), Ngài bắt đầu có vấn đềø về sức khỏe. Vào ngày
mười tám tháng đó Ngài dùng trà sáng như thường lệ. Sau
đó, trước giờ trưa, Ngài ngồi dậy trần trụi trong tư
thế của một vị Phật và đặt bàn tay trên đầu gối. Khenpo
Kulpal có mặt ở đó, và Khenpo cố mặc quần áo lại cho Ngài,
nhưng Ngài không phản ứng lại. Sau một lát, với đôi mắt
mở trong thiền định, Ngài búng ngón tay một lần và để
tay trong tư thế thiền định, và tâm Ngài hòa vào pháp giới
thuần tịnh nguyên thủy. Vào ngày hai mươi trong tháng, Tsamtrul
Rinpoche cử hành lễ đánh thức tâm thức Ngài ra khỏi thiền
định.
Khi
qua đời, Ngài không để lại vật gì đáng giá. Có một bộ
y tu sỹ, một bình bát khất thực, một khăn choàng vàng, một
hạ y, thực phẩm đủ dùng khoảng mười ngày, một bộ gồm
năm bản văn của Asanga (Vô Trước), và một bản chép Madhyamakavatara
(Nhập Trung Luận). Có năm đồng bạc và một ít khăn choàng
mà Ngài chưa gởi cho quỹ xây tường đá. Đó là tất cả
những gì Ngài sở hữu.
Dodrupchen
đệ tam mô tả giáo lý của Patrul như sau:
Dù
ban giáo lý nào, Ngài không bao giờ trình bày với vẻ phô
trương sự uyên bác của mình nhưng với mục đích giúp cho
những giáo lý ấy thích hợp với sự hiểu biết của người
nghe. Nếu phân tích những lời dạy của Ngài, ta sẽ thấy
chúng hợp luận lý và đầy ý nghĩa. Thậm chí một người
đần độn nghe những giáo lý ấy cũng có thể hiểu được
dễ dàng. Bởi những giáo lý đó rất cô đọng nên người
nghe dễ dàng nắm bắt. Lời giảng dạy có độ dài tương
xứng, liên quan tới chủ đề và thật duyên dáng khiến cho
người nghe say mê.
Mô
tả nhân cách của Patrul, Dodrupchen đệ tam viết:
Patrul
sử dụng ngôn từ cứng rắn có vẻ khủng khiếp và áp đảo,
nhưng không có chút sân hận hay tham luyến trong những lời
nói đó. Nếu quý vị biết cách lắng nghe thì đây chỉ là
những giáo lý trực tiếp hay gián tiếp. Mọi điều ngài nói
ra thì rắn chắc như vàng – rất chân thật. Ngài đối xử
với mọi người một cách bình đẳng, không tâng bốc khi
họ có mặt mà cũng không nói xấu họ sau lưng. Ngài không
bao giờ giả bộ là một điều gì đó hay một người nào
đó. Vì thế mọi người, dù ở địa vị cao hay thấp, tất
cả đều tôn kính Ngài như một vị Thầy đích thực. Ngài
không thiên vị đối với người có chức quyền cao mà cũng
không coi nhẹ những người bình thường. Bất kỳ ai dính
dáng tới những hoạt động phi đạo đức, trừ phi họ không
thể thay đổi được, Ngài lập tức nêu ra những lỗi lầm
của họ và phơi bày chúng. Ngài tán thán và thôi thúc những
người đang theo đuổi một đời sống tâm linh. Ngài có vẻ
khó khăn trong cung cách hành xử nhưng nếu thân cận với Ngài,
quý vị không bao giờ thấy ngài biểu lộ sự thiếu trung
thực, thiếu tin cậy, thiếu kiên định, hay đạo đức giả.
Ngài không thay đổi trong tình bằng hữu, dễ dàng và thoải
mái khi tiếp cận. Ngài kiên nhẫn trước những điều tốt
và xấu. Khó có thể xa rời Ngài. Mặc dù suốt đời Ngài
vẫn là một hành giả ẩn dật, mọi quan điểm của Ngài
đều lành mạnh, bởi Ngài không bao giờ lạc hướng đối
với các hoạt động của một vị Bồ Tát. Như một câu tục
ngữ có nói: “Cho dù vàng vẫn còn nằm dưới mặt đất,
ánh sáng của nó chiếu rọi tận trời cao.” Nếu quý vị
quán sát Ngài ở một mức độ nào đó quý vị sẽ thấy
Ngài trong sạch và thanh tịnh. Nếu quý vị nghĩ về Nài ở
mức độ nào đó, niềm tin nơi Ngài của quý vị sẽ tăng
trưởng.
Mô
tả về hình tướng vật lý của Patrul, Dodrupchen đệ tam viết:
Đầu
Ngài to lớn như một cái dù. Mặt Ngài giống như một đóa
sen nở, và những năng lực tri giác của Ngài thì trong trẻo
tinh khiết. Thường thì Ngài rất ít bệnh tật. Từ thời
thơ ấu Ngài đã có trí tuệ và lòng bi mẫn vĩ đại, và
là một diễn giả sáng chói.
Khenpo
Kunpal, người sống với Patrul nhiều năm trong phần cuối cuộc
đời của Ngài, viết rằng một trong những lời cầu nguyện
chính của Ngài là Manjushrinamasangiti (Hát Tụng Những Danh Hiệu
Của Đức Văn Thù). Patrul không chỉ không có của cải thế
gian mà Ngài cũng không có nhiều Kinh sách, là thứ mà đối
với một Đạo sư-học giả thường được cho là quan trọng
nhất. Đôi khi Ngài có một bản sao của Bodhicharyavatara và
một bản Manjushrinamasangiti, là những bài nguyện hàng ngày
của Ngài. Nhưng đôi khi ngay cả những bản đó Ngài cũng
cho đi, bởi Ngài đã thuộc lòng những bản văn đó. Ngài
không có giấy hay một cây bút tre. Vì thế bất kỳ Ngài ở
đâu, khi đứng dậy, Ngài sẵn sàng rời bỏ tức thì một
nơi chốn.
Patrul
đã ban những giảng dạy về những bản văn triết học thuộc
Kinh điển, Mật điển, Đại Viên mãn và đã đánh thức hay
trao truyền sự chứng ngộ tối thượng cho tâm thức của
nhiều đệ tử hữu duyên. Tuy nhiên, dường như rất ít khi
Ngài ban quán đảnh hay cử hành những buổi lễ phứùc tạp.
Ngài
có một quan điểm không bộ phái (non-sectarian) trong việc giảng
dạy, trong cách viết và cách hành trì. Ngài đã nghiên cứu,
hành trì và giảng dạy đầy đủ các truyền thống Phật
Giáo của Tây Tạng. Ngài coi những Đạo sư của những trường
phái khác nhau ngang bằng với Đức Phật Trí tuệ:
Đức
Sakya Pandita, đấng mang lại bình minh của ngũ minh,
Đức
Tsongkhapa, suối nguồn của những giáo lý Kinh điển và Mật
điển,
Và
Đức Longchen Rabjam, Đạo Sư của những giáo lý viên mãn của
Đức Phật,
Là
những Đấng Văn Thù đích thực của Xứ Tuyết Tây Tạng.
Là
một người vô cùng khiêm tốn và đơn giản, tuy thế Ngài
có thể giúp đỡ nhiều học giả cao quý, giàu có, đầy năng
lực và nổi tiếng như các đệ tử của Ngài. Nhiều đệ
tử trong bộ quần áo gấm thêu có đoàn tùy tùng vây quanh
đã đến quỳ dưới chân vị ẩn sĩ trong manh áo vải cũ
kỹ, rách rưới, đắp vá này, là người khó có đủ tsampa
để ăn hay đủ nhiên liệu để nấu trà. Thậm chí cũng có
lúc vẻ khiêm tốn của Ngài làm xấu hổ những người khoác
áo thêu, đi ngựa và phô bày sự yếu đuối của họ.
Có
lần Patrul du hành tới một trại của người du cư, và Ngài
đi bộ như thường lệ. Ngài dừng chân tại một gia đình
có một chiếc lều khổng lồ và xin họ cho Ngài ở lại vài
ngày bởi ngài đã kiệt sức. Gia đình đó nói: “Ông có
đọc lời cầu nguyện được không?” Ngài trả lời: “Chút
ít.” Sau đó họ bằng lòng cho Ngài vào và để Ngài ở một
góc thấp nhất của chiếc lều. Nhiều người đang bận rộn
làm các vật nghi lễ, dựng lều, làm ghế cao, và nấu thức
ăn ngon cho một đại Lạt Ma và đoàn tuỳ tùng của ông sắp
đến để cử hành một buổi lễ quan trọng. Sau vài ngày,
họ nghe đồn là vị đại Lạt Ma đang đến, và mọi người
xô nhau ra đón Lạt Ma. Patrul không đi ra ngoài. Mọi người
quát tháo Ngài và hầu như lôi Ngài ra để trình diện trước
Lạt Ma. Vị Lạt Ma trong bộ quần áo thêu, đi tới với toàn
bộ vẻ phô trương của khoảng bốn mươi kỵ binh hầu cận,
cầm những lá phướn trong tay, như thể trong một vở tuồng.
Patrul không còn chọn lựa nào khác là phải tới trước vị
Lạt Ma, nên Ngài đã làm như thế. Khi vị đại Lạt Ma nhìn
thấy Patrul, ông ta nhảy xuống ngựa và sụp xuống dưới
chân Đạo Sư, xấu hổ vì sự phô bày khoa trương vô nghĩa
trước sự hiện diện khiêm tốn và đầy ý nghĩa của Patrul
vĩ đại. Vị Lạt Ma là Minyak Kunzang Sonam, một đệ tử của
Patrul, người đã viết một bình giảng nổi danh về Bodhicharyavatara.
Từ ngày đó trở đi, vị Lạt Ma từ bỏ lối sống khoa trương
của mình, trở thành một ẩn sĩ, không bao giờ cưỡi ngựa
nữa mà đi bộ cho dù du hành nơi đâu. Người ta tin rằng
Patrul đã biết trước kết quả của cuộc gặp gỡ này nhờ
tài thấu thị của Ngài, một khả năng mà Ngài đã biểu
lộ nhiều lần.
Các
tác phẩm của Ngài được thu thập trong sáu quyển sách, về
Đại Viên Mãn, Mật điển, Kinh điển, lời chỉ dạy, thi
ca, và kịch tác. Các tác phẩm lừng danh của Ngài là những
giáo huấn công phu về thực hành chuẩn bị của Longchen Nyingthig,
có tựa đề là Những Lời Dạy Từ Kim Khẩu Của Lạt Ma
Phổ Hiền (Lời Vàng Của Thầy Tôi); một giáo huấn ngắn
gọn nhưng kỳ diệu về thiền định Đại Viên Mãn, có tựa
đề là Ba Lời Công Phá Những Điểm Trọng Yếu, và một
bình giảng về Abhisamayalamkara.
Ở
miền Đông Tây Tạng, có lẽ Patrul là người có công lao to
lớn nhất trong việc giúp cho Bodhicharyavatara (Nhập Bồ Tát
Hạnh) trở thành một cẩm nang cho nhiều tu sĩ; Lời Nguyện
Khát Khao Được Tái Sinh Trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc Của
Đức Phật A Di Đà thành một lời nguyện hàng ngày cho nhiều
cư sĩ; giúp cho Guhyagarbha-mayajala-tantra trở thành nền tảng
của truyền thống Mật Thừa Nyingma; giúp cho các giáo lý Đại
Viên Mãn không chỉ là một truyền thống dựa trên văn tự
mà là một chứng ngộ thiền định; và trên tất cả, giúp
cho OM MANI PADME HUM trở thành như hơi thở bất tận của nhiều
người.
Trong
số những hóa thân của Ngài có Jigme Wangpo xứ Dzagya Gon và
Namkha Jigme xứ Dzachukha, một nam tử của Dudjom Lingpa.
Tiểu
sử của Patrul Rinpoche được trích từ tập sách “Masters
of Meditation and Miracles – Lives of the Great Buddhist Masters of India
and Tibet” do đại sư Tulku Thondup biên soạn. Thanh Liên chuyển
Việt ngữ.
1
Trong nguyên tác, Tulku Thondup, tác giả của bản tiểu sử này
đã viết là Paltrul (thay vì Patrul như trong quyển “The Words
of My Perfect Teacher - Lời Vàng Của Thầy Tôi”). Sở dĩ có
sự khác biệt này là do cách phát âm khác nhau của các địa
phương ở Tây Tạng. Chúng tôi xin mạn phép viết là Patrul
để thống nhất với bản dịch quyển “Lời Vàng của Thầy
Tôi”.
2
Rabjung: chu kỳ 60 năm. Rabjung thứ nhất bắt đầu từ năm
1027 sau Công nguyên.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 3 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 8:58pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
Lời
Vàng Của Thầy Tôi
Cẩm
Nang Hướng Dẫn Các Pháp Tu Dự Bị
Dành
Cho Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí
(Longchen
Nyingtik - Heart Essence of the Vast Expanse)
Thuộc
Truyền Thống Đại Viên Mãn
(Dzogchen)
MỞ
ĐẦU
Do
PATRUL RINPOCHE biên soạn
Chư
Đạo Sư tôn quý với lòng từ bi vô lượng vô ngại,
con xin quy mạng lễ tất cả chư vị.
Các
Đấng Chiến Thắng của dòng truyền tâm;
các bậc Minh Trì của dòng truyền qua biểu tượng;
Những
vị may mắn nhất trong số chúng sinh tầm thường,
Nương
nhờ các đấng Toàn Giác dẫn dắt, đã đạt được
hai tầng mục đích (tự lợi và lợi tha).
Chư
Đạo Sư của ba dòng truyền thừa, con xin quy mạng lễ.
Trong
đại-phương-quảng-trí, mọi hiện tượng đều cạn kiệt,
Ngài chứng ngộ tuệ giác Pháp Thân;
Trong
tịnh quang của pháp giới rỗng rang,
Ngài
thấy Phật cảnh Báo Thân hiển lộ;
Để
làm lợi lạc chúng sinh, Ngài hoá hiện trong hình tướng của
Hóa Thân
Đấng
Pháp Vương Toàn Giác,* con xin quy mạng lễ.
Nương
nơi trí tuệ, Ngài thấu suốt chân tánh của vạn pháp, Ánh
từ bi của Ngài phóng toả lợi ích khắp chúng sinh, Ngài soi
sáng Giáo Pháp của con đường thâm diệu, đỉnh cao của
các Thừa.
Rigdzin
Jigme Lingpa – con xin quy mạng lễ.
Ngài
chính là Đức Quán Thế Âm trong hình tướng vị Thầy tâm
linh; Ai nghe được lời Ngài thuyết cũng được an lập trên
đường tu giải thoát; Để thoả mãn ước nguyện chúng sinh,
công hạnh của Ngài trải dài vô tận, Bổn Sư từ ái –
con xin quy mạng lễ.
Những
tác phẩm, và dòng truyền thừa của đấng Toàn Giác Longchenpa,
chứa đựng toàn bộ giáo lý Đức Phật:
Những
giáo huấn tâm yếu đưa đến Phật Quả chỉ trong
một
đời, Những pháp tu dự bị bên ngoài, bên trong, và ẩn mật
Cùng những giáo huấn về con đường chuyển di thần tốc.
Nguyện
xin chư Phật và chư vị Đạo Sư từ bi gia hộ; Khiến con
có thể luận giải chính xác những điều con ghi
khắc,
Vô cùng thâm diệu, nhưng sáng tỏ và dễ hiểu— Lời Vàng
không sai trật của bậc Thầy toàn bích của con!
*
Đức Longchenpa
Văn
bản này ghi chép trung thực những giáo huấn của vị Thầy
vô song của tôi về những pháp môn chuẩn bị tổng quát bên
ngoài và bên trong cho Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Longchen
Nyingtik) thuộc giáo lý Đại Viên Mãn. Những giáo huấn
này được chia ra làm ba phần: (1) những pháp tu dự bị thông
thường bên ngoài; (2) những pháp tu dự bị phi thường bên
trong; và (3) con đường chuyển di thần tốc như một phần
của pháp môn hành trì chính yếu.
PHẦN MỘT
NHỮNG PHÁP
TU DỰ BỊ THÔNG THƯỜNG
HAY NHỮNG CHUẨN
BỊ BÊN NGOÀI
Jamyang
Khyentse Wangpo (1820-1892)
Khyentse
đời thứ nhất. Đây là một trong nhữõng vị nắm giữ dòng
truyền thừa Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik).
Ngài là một trong những vị sáng lập phong trào bất bộ phái,
một phong trào cổ võ sự học hỏi những giáo lý đặc thù
của tất cả các truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng một
cách không phân biệt, tạo nên một sự phục hưng về tâm
linh tại Tây Tạng. Ngài đã bảo tồn được nhiều giáo
lý của những dòng truyền thừa có nguy cơ bị thất truyền.
CHƯƠNG
I
TỰ DO VÀ THUẬN
DUYÊN KHÓ TÌM
Trước
khi giảng giải về chủ đề chính của chương này làø sự
khó khăn biết bao để tìm được những điều kiện tự do
và thuận duyên để tu tập, ta sẽ giải thích về cách làm
thế nào để có thể lắng nghe bất kỳ giáo huấn tâm linh
nào một cách đúng đắn.
I.
CÁCH THỨC ĐÚNG ĐẮN ĐỂ LẮNG NGHE GIÁO PHÁP
Cách
thức đúng đắn để lắng nghe giáo pháp gồm có hai khía
cạnh: thái độ [hay động lực] đúng đắn và hành vi
đúng đắn.
1.
Thái Độ
Thái
độ [hay động lực] đúng đắn là thái độ kết hợp (1)
Bồ Đề Tâm (bodhicitta), tức tâm giác ngộ bao la, cùng với
(2) phương tiện thiện xảo vô hạn của Mật Thừa (Secret
Mantrayāna).
1.1
ĐỘNG LỰC BAO LA CỦA BỒ ĐỀ TÂM
Suốt
từ vô thủy vô chung, không có một chúng sinh nào trong biển
luân hồi đau khổ mênh mông này chưa từng là cha hay mẹ của
chúng ta [trong một kiếp nào đó]. Khi là cha là mẹ của
chúng ta, ý tưởng duy nhất mà họ canh cánh bên lòng là nuôi
nấng ta với lòng nhân từ to lớn nhất mà họ có thể có
được, bảo vệ chúng ta với tình yêu thương vĩ đại và
ban phát cho ta những gì tốt lành nhất trong số thực phẩm
và áo quần của họ.
Tất
cả những chúng sinh này, là những người đã quá tử tế
với chúng ta. Những chúng sinh ấy đều muốn được
hạnh phúc, tuy nhiên họ không biết làm thế nào để thực
hiện những điều mang lại hạnh phúc, hay thực hiện mười
hành vi thiện lành (thập thiện). Không ai muốn đau khổ, nhưng
họ không biết cách từ bỏ mười hành vi xấu ác (thập ác),
là gốc rễ của mọi đau khổ. Vì thế ước muốn sâu xa
nhất trong lòng của họ và những điều họ thực sự làm
bên ngoài thì thật là trái nghịch với nhau. Những chúng sinh
khốn khổ, lạc loài và mê lầm này giống như những người
mù bị bỏ rơi giữa cánh đồng hoang!
Hãy
tự nhủ: “Chính vì hạnh phúc của họ mà tôi sẽ lắng
nghe Giáo Pháp thâm diệu và đưa Giáo Pháp ấy vào con đường
thực hành. Tôi sẽ dẫn dắt tất cả chúng sinh này, là cha
hay mẹ của tôi, đang bị hành hạ bởi những nỗi khổ trong
sáu cõi luân hồi. Tôi sẽ đưa họ tới Phật Quả toàn
giác, giải thoát họ khỏi tất cả những hiện tượng nghiệp
báo, khỏi những tập khí và những đau khổ mà họ đang gánh
chịu trong mỗi một cõi trong sáu cõi.” Điều quan trọng
là phải có thái độ [hay động lực] này mỗi khi bạn lắng
nghe giáo pháp hay thực hành giáo pháp.
Bất
cứ khi nào bạn làm điều gì tốt lành, dù quan trọng hay
không quan trọng, bạn bắt buộc phải vun bồi cho việc bạn
làm bằng ba phương pháp siêu việt sau đây. Trước khi bắt
đầu, (1) hãy khơi dậy Bồ Đề Tâm như một phương tiện
thiện xảo để đảm bảo rằng hành vi ấy sẽ trở thành
suối nguồn của những điều thiện lành trong tương lai. Trong
lúc thực hiện việc đang làm, (2) nên tránh vướng mắc vào
bất kỳ hình thức vọng tưởng nào 1 để công đức không
bị những yếu tố liên hệ 2 phá hủy. Khi kết thúc,
(3) hãy niêm phong việc làm ấy một cách đúng đắn bằng
cách hồi hướng công đức, vì hồi hướng công đức chắc
chắn sẽ giúp cho việc ta làm còn tiếp tục phát triển lớn
lao hơn nữa.3
Cách
bạn lắng nghe Giáo Pháp rất quan trọng, nhưng còn quan trọng
hơn nữa chính là động lực thúc đẩy bạn lắng nghe như
vậy.
Điều
gì tạo nên một hành vi tốt hoặc xấu?
Không
phải vẻ bề ngoài, cũng không phải lớn hay nhỏ,
Mà
bởi động lực xấu hay tốt đằng sau.
Cho
dù bạn đã được nghe nhiều Giáo Pháp tới đâu chăng nữa,
nhưng nếu những mối quan tâm tầm thường là động lực
thúc đẩy bạn – chẳng hạn như lòng tham muốn trở nên
vĩ đại, muốn tiếng tăm – thì đó không phải là con đường
của Giáo Pháp chân chính. Vì thế, trước tiên, điều hết
sức quan trọng là bạn phải chuyển nhìn vào bên trong tâm
bạn và thay đổi động lực [hay tác ý] của bạn. Nếu bạn
có thể chỉnh sửa thái độ của bạn thì những hành động
tốt lành của bạn sẽ luôn thấm nhuần phương tiện thiện
xảo, và bạn sẽ bước đi trên con đường của những bậc
vĩ đại. Nếu bạn không thể làm được như vậy thì tuy
rằng bạn có thể nghĩ rằng mình đang tu học và thực hành
Giáo Pháp, nhưng đó sẽ chẳng khác gì hơn là một cái vỏ
bề ngoài của cái chân thật bên trong . Do đó, bất kỳ khi
nào bạn lắng nghe Giáo Pháp và hành trì Giáo Pháp, cho dùø
là thiền định về một Bổn Tôn, lễ lạy, đi nhiễu, hay
trì tụng một câu minh chú (mantra) – cho dù chỉ một chữ
mani duy nhất – thì điều cốt yếu là luôn luôn phải phát
khởi Bồ Đề Tâm.
1.2
THIỆN XẢO BAO LA TRONG PHƯƠNG TIỆN: ĐỘNG LỰC TU TẬP
CỦA CON ĐƯỜNG MẬT THỪA
Quyển
Tam Pháp Tuệ Đăng Mật Điển (Ngọn Đuốc của Ba Pháp Tu)
có nói về Mật Thừa như sau:
Cùng
mục tiêu nhưng tự tại thoái khỏi mọi mê lầm,4
Phong
phú trong phương tiện và chẳng có gì khó khăn,5
Dành
cho những người có căn cơ nhạy bén.6
Mật
Thừa là tối thượng.
Con
đường đi đến Mật Thừa có nhiều ngã. Mật Thừa bao gồm
nhiều phương pháp tích lũy công đức và trí huệ, cùng với
nhiều phương tiện thiện xảo giúp cho tiềm năng trong chúng
ta hiển lộ 7 mà ta không cần phải trải qua những gian khổ
lớn lao. Nền tảng của các pháp tu này là cách thức chúng
ta dẫn dắt soi sáng cho những nguyện ước của mình:
Tất
cả tùy thuộc vào hoàn cảnh
Và
hoàn toàn tùy thuộc vào nguyện lực của ta.
Không
được coi nơi giảng Pháp, vị Thầy, Giáo Pháp và v..v... như
là những gì bình thường và bất tịnh. Khi bạn lắng nghe
Pháp, hãy giữ cho năm yếu tố toàn hảo (five perfections) thật
rõ ràng sáng tỏ trong tâm:
Nơi
chốn toàn hảo là thành trì của pháp giới bao la viên mãn,
được gọi là Akanistha, có nghĩa là “Vô Song.” Vị Thầy
toàn hảo là đức Phật Phổ Hiền (Samantabhadra), Pháp Thân.
Tăng đoàn toàn hảo bao gồm các vị Bồ Tát nam và nữ và
những vị Bổn Tôn8 của dòng tâm truyền (biệt truyền) của
các Đấng Chiến Thắng và của dòng truyền qua biểu tượng
của các bậc Trì Minh Vương (Vidyadhara).
Hoặc
bạn có thể nghĩ tưởng rằng nơi giảng Pháp là Cung điện
Liên-Hoa-Quang của Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ, vị Thầy giảng
Pháp là Đức Liên-Hoa-Sanh xứ Oddiyāna, và chúng ta, thính chúng,
là Tám Trì Minh Vương (Eight Vidyādharas), Hai-Mươi-Lăm Đệ
Tử (Twenty-five Disciples), và các vị Không Hành nam và Không
Hành nữ (dākas và dākinis).
Hoặc
bạn nghĩ tưởng rằng nơi chốn toàn hảo này là Cõi Phật
Phương Đông, cõi Hiêån Lạc, ở đó có vị Thầy toàn hảo
là đức Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), là một Báo Thân
toàn hảo, đang giảng dạy cho tập hội gồm những bậc hiền
thánh tăng thuộc Kim Cương Phật Bộ và chư Bồ Tát nam và
nữ.
Tương
tự, nơi chốn toàn hảo để giảng Pháp có thể là Cõi Phật
Phương Tây, cõi Cực Lạc, vị Thầy toàn hảo là đức Phật
A Di Đà, và tập hội các Bồ Tát nam và nữ và các Bổn Tôn
thuộc Liên Hoa Phật Bộ.
Trong
mọi trường hợp, Pháp là Giáo Pháp của Đại Thừa và thời
gian là bánh xe vĩnh cửu thường-chuyển (the ever-revolving wheel
of eternity).
Những
quán chiếu 9 này là để giúp cho chúng ta có thể thấu suốt
được thực trạng của tất cả sự vật. Đây không phải
là chúng ta đang tạm thời tạo tác điều gì không thực sự
hiện hữu.
Thầy
của ta là hiện thân của tinh tuý của tất cả chư Phật
khắp ba thời. Ngài là sự hợp nhất của Tam Bảo: thân Ngài
là Tăng đoàn, khẩu Ngài là Pháp, ý Ngài là Phật. Ngài
là sự hợp nhất của Ba Nguồn Gia Trì: thân của Ngài là
Thầy (lama), khẩu của ngài là vị Hộ Phật (deity, hay Bổn
Tôn – yidam), ý của Ngài là Nữ Không-Hành hay Thiên Nữ Diệu
Không (dākinī). Ngài là sự hợp nhất của ba Thân (kāyas):
thân Ngài là Hóa Thân, khẩu Ngài là Báo Thân, ý Ngài là Pháp
Thân. Ngài là hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ,
là suối nguồn của tất cả chư Phật trong tương lai và là
đại diện cho tất cả chư Phật trong hiện tại. Bởi Ngài,
Thầy của ta, đã chấp nhận những chúng sinh suy đồi như
chúng ta làm đệ tử, là những kẻ mà không vị nào trong
hàng ngàn vị Phật trong thời Hiền Kiếp10 có thể cứu giúp,
nên lòng bi mẫn và quảng đại của Thầy ta còn trội vượt
hơn tất cả muôn chư Phật.
Thầy
là Phật, Thầy là Pháp, Thầy cũng là Tăng Đoàn.
Thầy
là bậc đại thành tựu giả.
Thầy
là đấng Kim Cương Trì Quang Vinh.
Chúng
ta, tập hội những người lắng nghe giáo lý, hãy biết vận
dụng nền tảng tu tập là Phật tánh của riêng ta, vận dụng
lực hỗ trợ là đời người quý báu, vận dụng hoàn cảnh
là có được một vị Thầy tâm linh và vận dụng phương
pháp là tuân theo lời chỉ dạy của Ngài, để nương vào
đó, ta có thể trở thành những vị Phật trong tương lai.
Như Mật điển Hô Kim Cương (Hevajra) có nói:
Tất
cả chúng sinh đều là Phật,
Nhưng
bị những ô nhiễm giả hợp che lấp.
Khi
ô nhiễm được tịnh hóa, Phật quả sẽ hiển lộ.
2.
Cung Cách Hành Xử
Cung
cách hành xử trong khi lắng nghe giáo pháp được mô tả trong
phạm vi những điều nên tránh và những điều nên làm.
2.1.
NHỮNG ĐIỀU NÊN TRÁNH
Những
hành vi nên tránh bao gồm (1) ba khiếm khuyết của chiếc bình
chứa, (2) sáu điều ô nhiễm và (3) năm cách nhớ tưởng sai
lạc.
2.1.1
Ba Khiếm Khuyết Của Chiếc Bình Chứa
Không
nên lắng nghe như một chiếc bình bị lật úp. Không có khả
năng nhớ được những gì bạn nghe thì lại giống như một
cái bình bị thủng lỗ. Còn trộn lẫn những cảm xúc tiêu
cực với những điều bạn đang nghe thì giống như một cái
bình trong có chứa chất độc.
Bình
lật úp. Khi bạn đang lắng nghe Giáo Pháp, hãy chú tâm
lắng nghe những gì được nói ra và đừng để bất kỳ điều
gì khác làm cho bạn trở nên sao lãng. Nếu không, bạn cũng
sẽ như cái bình bị lật úp, không thể rót gì vào đó được.
Mặc dù thân bạn đang hiện diện ở đó, nhưng bạn lại
chẳng nghe được một lời nào của giáo lý đang được giảng
dạy.
Bình
thủng lỗ. Nếu bạn chỉ lắng nghe mà không nhớ được
bất kỳ điều gì bạn đã nghe hoặc đã hiểu thì bạn sẽ
giống như một cái bình có một chỗ rò rỉ: cho dù có
đổ vào đó bao nhiêu nước thì cũng sẽ không giữ lại được
chút gì. Dù bạn có được nghe bao nhiêu giáo lý chăng nữa
thì bạn cũng chẳng bao giờ có thể thấm nhuần được những
giáo lý ấy hay đưa được những giáo lý ấy vào thực hành.
Bình
chứa chất độc. Nếu bạn lắng nghe giáo lý với thái
độ (động lực) sai lầm, chẳng hạn như bạn mang trong lòng
tham vọng trở nên nổi tiếng hay vĩ đại, hoặc lắng nghe
với một tâm thức tràn đầy năm độc, thì Giáo Pháp chẳng
những không giúp được gì cho tâm bạn mà Giáo Pháp ấy cũng
sẽ bị biến đổi thành một cái gì đó hoàn toàn không còn
phải là Pháp nữa, hệt như chất cam lồ được rót vào một
bình chứa chất độc.
Đó
là lý do tại sao Ngài Padampa Sangye, một nhà hiền triết của
Ấn Độ đã nói:
Hãy
lắng nghe giáo lý giống như một con nai nghe nhạc;
Hãy
suy niệm về giáo lý giống như người du cư phương Bắc xén
lông cừu;*
Hãy
thiền quán về giáo lý giống như người câm thưởng thức
thức ăn;**
Hãy
thực hành giáo lý giống như con trâu ‘yak’ háu đói đang
ăn cỏ; Hãy thành tựu giáo lý, giống như mặt trời lộ ra
từ sau những đám mây.
*
Điều đó có nghĩa là hoàn toàn tỉ mỉ và không chút xao
lãng.
**
Một người câm có thể nếm thức ăn, nhưng không mô tả
được hương vị mà anh ta đang nếm. Cũng thế, hương vị
của chân thiền định siêu vượt bất kỳ những gì có thể
được mô tả, siêu việt mọi khái niệm.
Khi
lắng nghe giáo lý, bạn phải giống như một con nai bị mê
hoặc bởi âm thanh của đàn vīnā tới nỗi không hề chú
ý tới người thợ săn ẩn núp đang bắn mũi tên có tẩm
thuốc độc. Hãy chắp hai bàn tay lại và lắng nghe, để mỗi
lỗ chân lông trên thân bạn cũng đều rúng động và đôi
mắt bạn nhạt nhoà đẫm lệ, chớ để cho bất kỳ tư tưởng
nào hiện ra làm cản trở việc lắng nghe.
Thật
chẳng có gì là tốt lành nếu chỉ có thân bạn là hiện
diện ở đó, trong khi tâm bạn lại lang thang theo các niệm
tưởng, buông thả lời nói của mình trong một kho chuyện
tầm phào, phát biểu bất kỳ điều gì bạn ưa thích và đưa
mắt nhìn quanh quẩn khắp nơi. Thậm chí khi lắng nghe giáo
lý, bạn nên ngưng cầu nguyện, ngưng niệm các câu minh chú,
hay làm bất kỳ một hành vi phước đức nào khác mà bạn
có thể đang làm.
Sau
khi lắng nghe giáo lý một cách đúng đắn theo cách thức như
trên, thì còn một việc quan trọng không kém là phải nắm
giữ lại được ý nghĩa của những điều đó, không bao giờ
được quên những ý nghiã đóù, và liên tục áp dụng những
gì đã được nghe vào thực hành. Như chính bậc Minh Hạnh
Túc đã nói:
Ta
đã chỉ cho các ông phương pháp
Đưa
tới giải thoát
Nhưng
các ông nên biết
Giải
thoát tuỳ thuộc vào chính các ông.
Vị
Thầy ban truyền cho đệ tử những giáo huấn về cách lắng
nghe Giáo Pháp và cách áp dụng Giáo Pháp, cách thức từ bỏ
những ác hạnh, thực hiện những thiện hạnh, và cách thức
tu tập. Người đệ tử có nhiệm vụ phải ghi nhớ những
giáo huấn đó, không được lãng quên bất cứ điều gì;
phải đem những giáo huấn đó vào thực hành và chứng ngộ
được những giáo huấn đó.
Tự
mỗi một mình việâc lắng nghe Giáo Pháp cũng có thể đem
đến chút ít lợi lạc. Nhưng trừ phi bạn nhớ được những
gì bạn đã được nghe, còn bằng không thì bạn sẽ không
có được chút hiểu biết nào về ngôn từ hoặc ý nghĩa
của giáo pháp – điều này thì chẳng khác gì việc không
được lắng nghe gì hết.
Nếu
bạn ghi nhớ Giáo Pháp nhưng lại trộn lẫn Giáo Pháp
với những cảm xúc tiêu cực ô nhiễm của bạn, thì giáo
pháp ấy sẽ không bao giờ là Giáo Pháp thuần tịnh. Như Ngài
Dagpo Rinpoche vô song đã nói:
Trừ
phi bạn thực hành Pháp phù hợp với Giáo Pháp Bằng không,
chính Pháp ấy sẽ trở thành nguyên nhân của con đường tái
sinh xấu ác.
Hãy
tự xả bỏ bất kỳ một vọng niệm sai lạc nào liên quan
tới vị Thầy và Giáo Pháp, đừng phê bình hay lăng mạ các
huynh đệ tâm linh cùng những người bạn đồng hành của
bạn, hãy dứt bỏ tánh kiêu căng, khinh miệt, hãy từ bỏ
mọi niệm tưởng xấu xa. Bởi vì tất cả những điều
này sẽ đưa bạn tới con đường tái sinh vào các cõi thấp.
2.1.2
Sáu Điều Ô Nhiễm
Trong
Như Thật Luận (Tương Ưng Luận) có nói:
Kiêu
mạn, thiếu lòng tin và thiếu nỗ lực,
Sao
lãng bên ngoài, căng thẳng bên trong và chán nản;
Đây
là sáu điều ô nhiễm.
Hãy
từ bỏ sáu điều sau đây: (1) kiêu hãnh tự tin rằng bản
thân bạn giỏi giang hơn vị Thầy đang giảng Pháp, (2) không
tin tưởng nơi vị Thầy và giáo lý của Ngài, (3) không chuyên
tâm nỗ lực đến gần với Pháp, (4) để cho những sự
kiện bên ngoài làm cho sao lãng, (5) tập trung năm giác quan
hướng vào bên trong một cách quá căng thẳng, và (6) chán
nản vì nhiều lý do chẳng hạn như vì bài giảng quá dài.
Trong
tất cả những cảm xúc tiêu cực thì kiêu mạn và ganh tị
là những cảm xúc khó nhận diện nhất. Vì vậy, hãy quán
chiếu tâm bạn một cách tỉ mỉ. Nếu bạn có bất kỳ
cảm tưởng nào cho rằng những phẩm tính mà bạn có được
có chút gì đó đặc biệt, cho dù là chỉ một chút, dù trên
phương diện thế gian hay phương diện tâm linh, thì điều
ấy cũng sẽ khiến cho bạn mù loà trước những lỗi lầm
của chính mình và không nhận thấy được những phẩm tính
tốt đẹp của người khác. Vì thế, hãy từ bỏ tánh kiêu
mạn và luôn luôn hạ mình xuống một vị trí thấp kém.
Nếu
bạn không có lòng tin thì lối vào Giáo Pháp đã bị lấp
kín. Trong bốn loại niềm tin,11 hãy hướng tới niềm tin bất
thối chuyển.
Mối
quan tâm 12 của bạn đối với Giáo Pháp là nền tảng của
tất cả những gì bạn sẽ thành đạt. Vì thế, tùy theo mức
độ quan tâm của bạn sâu dầy, trung bình hay thấp kém, mà
bạn sẽ trở thành một hành giả siêu việt, trung bình, hay
kém cỏi. Và nếu bạn hoàn toàn không quan tâm tới Pháp thì
sẽ chẳng có được chút kết quả nào. Như ngạn ngữ có
nói:
Giáo
Pháp không phải là tài sản của riêng ai.
Giáo
Pháp thuộc về bất kỳ kẻ nào có nỗ lực to lớn nhất.
Để
có được Giáo Pháp, chính bản thân Đức Phật đã phải
trả giá bằng hàng trăm gian khó. Để có được một bài
kệ chỉ có bốn dòng, Ngài đã khoét thịt mình làm thành
những chiếc đèn cúng dường, đổ đầy dầu và đặt vào
đó hàng ngàn tim đèn cháy đỏ. Ngài đã nhảy vào những
hầm lửa, cắm hàng ngàn đinh sắt vào thân thể mình.13
Cho
dù phải đối diện với hỏa ngục nóng đỏ hay những lươi
dao sắc nhọn,
Hãy
tìm cầu Giáo Pháp cho tới khi bạn lìa đời.
Vì
thế, hãy lắng nghe những lời giáo huấn với nỗ lực to
lớn, hãy quên đi cái nóng, cái lạnh và tất cả mọi thử
thách khác.
Thông
thường, tâm thức ta thường có khuynh hướng mải mê chạy
theo các đối tượng của sáu giác quan14 và khuynh hướng này
chính là gốc rễ của tất cả mọi ảo giác hư huyễn trong
vòng sinh tử luân hồi và là nguồn gốc của mọi đau khổ.
Đây là cách mà con thiêu thân chết cháy trong ngọn lửa vì
nhãn thức của nó bị sắc tướng lôi cuốn; là cách con hươu
bị thợ săn giết chết vì nhĩ thức của nó bị âm thanh
lôi cuốn; là cách những con ong bị những cây ăn thịt nuốt
chửng vì bị mùi vị của cây ấy hấp dẫn; là cách những
con cá cắn câu vì vị giác của chúng bị nhử bởi hương
vị của mồi câu; là cách những con voi chết đuối trong đầm
lầy vì chúng thích cảm giác thân thể đắm trong bùn. Cũng
thế, bất kỳ khi nào bạn đang lắng nghe Pháp, đang giảng
dạy, đang thiền định hay đang tu tập thực hành Pháp, thì
điều quan trọng là bạn không được chạy theo những khuynh
hướng huân tập trong quá khứ, không ấp ủ những cảm xúc
về tương lai, và không để những tư tưởng hiện tại bị
sao lãng bởi bất kỳ điều gì quanh bạn. Như Gyalse Rinpoche
đã có nói:
Niềm
vui và nỗi muộn phiền của quá khứ giống như những bứùc
tranh vẽ trên nước:
Chẳng
còn lại dấu vết gì. Chớ chạy theo chúng!
Nhưng
nếu chúng xuất hiện trong tâm, hãy quán chiếu xem thành công
hay thất bại đến và đi như thế nào.
Ngoài
Pháp ra, còn có thể tin vào thứ gì khác, hỡi những hành
giả trì tụng minh chú ‘mani’? 15
Kế
hoạch và dự án tương lai giống như lưới thả nơi sông
cạn.
Sẽ
không bao giờ đem lại được những gì bạn mong muốn.
Hãy
hạn chế những khát khao và nguyện ước!
Nhưng
nếu chúng xuất hiện trong tâm, hãy nghĩ đến ngày giờ chết
bất định:
Còn
có thời giờ cho bất cứ việc gì khác không ngoài Pháp, hỡi
những hành giả trì tụng minh chú ‘mani’?
Việc
làm hiện tại giống như công việc trong giấc mơ,
Hãy
quẳng chúng sang bên vì mọi nỗ lực như thế đều vô nghĩa.
Hãy
dửng dưng không tham luyến ngay cả món tiền bạn kiếm được
do mồ hôi nước mắt.
Tất
cả mọi việc làm đều không có thực chất, hỡi những hành
giả trì tụng minh chú ‘mani’!
Theo
đó, giữa những thời công phu thiền định, hãy tập cách
kiểm soát mọi niệm tưởng khởi lên từ tam độc;
Cho
đến khi tất cả niệm tưởng và tri giác hiển lộ như Pháp
Thân.
Điều
này không thể bỏ qua -- hãy hồi nhớ lại bất cứ khi nào
cần thiết.
Chớ
buông lung theo những vọng tưởng mê lầm, hỡi những hành
giả trì tụng minh chú ‘mani’!
Cũng
có câu nói rằng:
Đừng
dệt mộng tương lai. Vì nếu làm như vậy, Bạn chẳng
khác nào người cha của Mặt Trăng Danh Tiếng!
Câu
nói trên muốn nhắc tới câu chuyện của một người nghèo
khổ đi ngang qua một đống lúa mạch lớn. Ông ta cho lúa mạch
vào một bao lớn, treo nó lên xà nhà, rồi nằm bên dưới
bao lúa ấy và bắt đầu mơ mộng hão huyền.
“Số
lúa mạch này sắp làm cho ta thực sự giàu có,” ông ta nghĩ
như thế. “Khi đã giàu, ta sẽ lấy vợ... Nhất định là
cô ta sẽ sinh một đứa con trai... Ta nên gọi nó là gì nhỉ?”
Ngay
lúc đó mặt trăng xuất hiện, và ông ta quyết định đặt
tên đứa con là Mặt Trăng Danh Tiếng. Tuy nhiên vào lúc đo,ù
có một con chuột đang gặm sợi dây đỡ cái túi. Đột nhiên
sợi giây đứt bung, cái túi rớt lên người làm ông ta chết
ngay.
Những
giấc mơ về tương lai và quá khứ như thế sẽ chẳâng bao
giờ đem lại kết quả và chỉ là sự phá rối. Hãy từ bỏ
hết thảy những giấc mơ như thế. Hãy tỉnh thức và chú
tâm lắng nghe với lòng cẩn trọng.
Không
nên tập trung tư tưởng một cách quá căng thẳng, nhặt nhạnh
ra từng chữ, từng điểm một, như con gấu dremo bới tìm
‘mạc mốt’ – mỗi lần bạn nắm bắt được một đề
mục nào, bạn lại quên đi đề mục trước đó, và sẽ chẳng
bao giờ hiểu được cái tổng thể. Tập trung quá nhiều cũng
làm bạn buồn ngủ. Thay vào đo,ù hãy giữ một sự quân bình
giữa sự căng thẳng và tâm trạng buông lỏng.
Có
lần Ngài Ānanda đang dạy Śrona thiền định. Śrona rất khó
có thể hiểu được điều đó một cách đúng đắn. Đôi
khi ông ta quá căng thẳng, đôi lúc lại quá buông lỏng. Śrona
đem vấn đề ra hỏi Phật, Đức Phật bảo: “ Khi còn là
cư sĩ, ông là người đánh đàn vīnā rất hay phải không?”
“Vâng,
con chơi rất hay.”
“Vậy
âm thanh đàn vīnā của ông hay nhất khi lên dây thật căng
hay thật chùng?”
“Âm
thanh nghe hay nhất khi giây không căng quá mà cũng không chùng
quá.”
“Tâm
ông thì cũng tương tự như thế,” Đức Phật bảo; và nhờ
thực hiện theo lời khuyên này mà Śrona đạt được kết
quả. Ngài Machik Labdrưn có nói:
Hãy
định tâm vững chắc và lơi lỏng thư dãn: 16
Đây
là điểm trọng yếu của cái Thấy (kiến).
Đừng
để tâm bạn quá căng thẳng hay quá tập trung hướng vào
bên trong; hãy để các giác quan của bạn thoải mái tự nhiên,
cân bằng giữa buông lỏng và căng thẳng.
Bạn
không nên cảm thấy mệt mỏi khi lắng nghe giáo huấn. Đừng
nên chán nản khi bạn cảm thấy đói hay khát trong khi đang
lắng nghe một bài giảng quá dài, hoặc khi bạn phải chịu
đựng những phiền toái do nắng, mưa, gió, v.v... gây ra...
Hãy hoan hỷ vì hiện nay bạn đang có được những điều
kiện tự do và thuận duyên của đời người, rằng bạn đã
gặp được một vị Chân Sư, và bạn có thể lắng nghe những
giáo huấn sâu xa của Ngài.
Sự
kiện bạn đang được nghe Giáo Pháp thâm diệu vào thời điểm
này là kết quả của công đức được tích lũy từ vô lượng
kiếp. Giống như bạn đang được ăn một bữa ăn khi mà bạn
chỉ có thể ăn được một bữa duy nhất trong hàng trăm bữa
ăn trong suốt cả đời bạn. Vì vậy, để tiếp nhận những
giáo lýù này, hãy khẩn thiết lắng nghe với lòng hoan
hỷ; hãy phát
nguyện
chịu đựng cái nóng, cái lạnh và bất kỳ thử thách, khó
khăn nào có thể xảy ra.
2.1.3
Năm Cách Nhớ Tưởng Sai Lạc
Hãy
tránh việc nhớ chữ mà quên nghĩa,
Hoặc
nhớ nghĩa mà quên lời.
Hãy
tránh việc nhớ cả hai mà không hiểu ý;
Nhớ
lộn xộn, hay nhớ sai lạc không chính xác.
Không
nên gán một tầm quan trọng thái quá cho những cú pháp biến
hoá tao nhã mà không cố gắng phân tích ý nghĩa sâu xa của
văn tự, chẳng khác nào một đứa bé đang nhặt hoa. Vì chỉ
có văn tự suông thì chẳng có lợi ích gì cho tâm thức. Ngược
lại, chớ xem thường cách thức những giáo huấn đó được
giải bày, và coi đó chỉ thuần là ngôn từ nên chẳng có
gì là cần thiết. Nếu như vậy thì mặc dù bạn có thể
thấu hiểu được ý nghĩa thâm sâu, nhưng bạn sẽ không còn
có được phương tiện để có thể diễn tả ý nghĩa đó.
Văn tự vàø ý nghĩa sẽ mất đi mối liên kết.17
Nếu
bạn nhớ được giáo lý mà không nhận ra được những mức
độ khác nhau của ý nghĩa – gồm có ý nghĩa thích hợp (phương
tiện nghĩa), chân nghĩa và ý nghĩa gián tiếp (dụ nghĩa) –
thì bạn sẽ nhầm lẫn về những điều mà văn tự muốn
ám chỉ.18 Điều này có thể dẫn bạn xa rời Chân Pháp. Nếu
ghi nhớ một cách lộn xộn thiếu trật tự thì bạn sẽ làm
cho trình tự đúng đắn của giáo lý ấy bị rối tung lên,
và rồi mỗi lần bạn lắng nghe, giải thích hay thiền định
về giáo lý ấy, sự nhầm lẫn rối tung kia sẽ còn tăng lên
gấp bội. Nếu bạn nhớ không chính xác những điều đã
được nói ra, vô số vọng niệm sai lầm sẽ gia tăng.19 Điều
này sẽ làm hư hỏng tâm bạn và làm giảm giá trị của những
giáo huấn. Hãy xa lánh tất cả những lỗi lầm này và hãy
ghi nhớ tất cả – gồm có văn tự, ý nghĩa và thứ tự
của bài giảng – một cách đúng đắn, không có bất kỳ
sai lạc nào.
Dù
bài giảng có dài và khó tới đâu chăng nữa, bạn chớ nên
ngã lòng và đừng tự hỏi chừng nào sẽù kết thúc;
hãy kiên trì. Và dù bài giảng có ngắn gọn và đơn giản
tới đâu, bạn cũng đừng đánh giá thấp, cho rằng đây là
những điều hoàn toàn sơ đẳng.
Như
thế thật là điều cực kỳ cần thiết để bạn có thể
nhớ được cả văn tự lẫn ý nghĩa một cách hoàn hảo,
đúng trình tự và với tất cả mọi sự cùng nối kết lại
với nhau một cách đúng đắn.
2.2
NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM
Cung
cách hành xử nên noi theo trong lúc lắng nghe Giáo Pháp được
giải thích như bốn ẩn dụ, sáu pháp toàn thiện siêu việt
(lục độ ba la mật), cùng với những phương cách hành xử
khác.
2.2.1
Bốn Ẩn dụ
[Một
phẩm] trong Kinh Hoa Nghiêm có nói:
Thiện
nam tử, ông nên nghĩ bản thân ông như người bị
bệnh,
Giáo
Pháp là phương thuốc,
Đạo
Sư tâm linh là một y sĩ thiện xảo,
Và
công phu hành trì là cách thức để hồi phục.
Chúng
ta đang bị bệnh. Từ vô thủy, trong biển khổ vô biên là
vòng sinh tử luân hồi này, chúng ta đã bị hành hạ bởi
bệnh tật do tam độc gây ra, và hậu quả chính là ba loại
đau khổ.
Khi
người ta bị bệnh nặng, họ đi tham vấn một vị y sĩ tài
ba. Họ nghe theo lời khuyên của ông bác sĩ, dùng bất kỳ
loại thuốc nào mà ông ta cho, và làm tất cả những điều
có thể làm để vượt qua bệnh tật và trở nên khỏe mạnh.
Tương tự, bạn nên tự mình điều trị những bệnh tật
của nghiệp, điều trị những cảm xúc tiêu cực và chữa
lành đau khổ bằng cách tuân theo hướng dẫn của ông bác
sĩ đầy kinh nghiệm là vị Thầy tâm linh chân chính, và bằng
cách sử dụng thần dược của Giáo Pháp.
Việc
theo chân một vị Thầy mà không làm theo những điều Ngài
hướng dẫn thì cũng giống như không vâng lời bác sĩ, điều
đó làm cho ông không có cơ hội để chữa lành bệnh cho bạn.
Không uống thuốc của Giáo Pháp – có nghĩa là không áp dụng
Giáo Pháp vào thực hành – thì cũng giống như có vô số
thuốc men và chỉ dẫn ngay cạnh bên giường mà không bao giờ
chạm tới chúng.
Ngày
nay, người ta thường phát biểu đầy vẻ lạc quan: “Lạt
Ma, xin đoái thương tới con với lòng bi mẫn!”, và cho rằng
dù họ có tạo ra nhiều điều khủng khiếp cách mấy chăng
nữa, họ cũng sẽ không bao giờ phải gánh chịu hậu quả.
Họ ước đoán rằng vị Thầy, với lòng bi mẫn, sẽ quăng
họ lên cõi Trời như thể Ngài đang ném một viên sỏi. Nhưng
khi ta nói rằng vị Thầy đang gia hộ chúng ta với lòng bi
mẫn thì điều này thực sự muốn nói tới việc Ngài đã
nhận chúng ta làm đệ tử của Ngài với tràn đầy lòng thương
yêu, đã ban cho chúng ta những giáo huấn sâu xa, khai thị cho
chúng ta điều gì cần làm và điều gì nên tránh, chỉ dẫn
cho chúng ta con đường giải thoát đã được Đấng Chiến
Thắng giảng dạy. Có thể có lòng bi mẫn nào to lớn hơn
thế được không? Điều này tùy thuộc vào việc chúng ta
có tận dụng được lòng bi mẫn này và thực tâm theo đuổi
con đường giải thoát hay không.
Giờ
đây là lúc chúng ta được sinh ra làm người, có tự do và
được ban cho nhiều điều kiện thuận lợi; giờ đây là
lúc chúng ta biết điều gì nên làm và điều gì không nên
làm. Ở bước ngoặt này, trong một hoàn cảnh hoàn toàn
tự do, chúng ta có thể quyết định chọn lựa và quyết định
của chúng ta vào lúc này sẽ định rõ số phận của chúng
ta tốt hơn hoặc xấu đi trong suốt chiều dài tương lai sau
này.20 Điều tối quan trọng là chúng ta hãy chọn lựa một
lần cho xong giữa sinh tử và niết bàn, và hãy đưa những
giáo huấn của Bổn Sư của chúng ta vào thực hành.
Những
người hướng dẫn các buổi lễ trong làng sẽ làm cho bạn
tin rằng ngay trên tử sàng, bạn vẫn còn có thể đi lên (cõi
cao) hay đi xuống (cõi thấp), như thể bạn đang điều khiển
một con ngựa bằng dây cương. Nhưng vào lúc đó, trừ phi
bạn đã thuần thục trên con đường tu, trâän gió nghiệp
dữ dội của những hành vi trong quá khứ của bạn sẽ săn
đuổi bạn, trong khi ở phía trước, một màn đen kịt khủng
khiếp đổ xô tới vào lúc bạn hoàn toàn bất lực, bị lôi
tuột xuống một con đường dài đầy hiểm nguy của trạng
thái trung ấm. Vô số những thuộc hạ của Thần Chết sẽ
đuổi bắt bạn với những tiếng kêu thét: “Giết! Giết!
Đánh! Đánh!” Làm thế nào trong khoảnh khắc đó, khi không
có nơi để chạy tới, không có chỗ để ẩn náu, không chốn
nương tựa và không chút hy vọng, khi bạn đang tuyệt vọng
và không biết phải làm gì – làm thế nào vào một thời
điểm quyết định như thế mà bạn có thể làm chủ được
việc mình đi lên (cõi cao) hay đi xuống (cõi thấp)? Như Đấng
Vĩ Đại xứ Oddiyana có nói:
Đợi
tới lúc được nhận lễ tịnh nghiệp 21 trên một tấm bảng
có ghi tên bạn thì đã quá muộn! Khi ấy, tâm thức của bạn
đã hoàn toàn lang thang trong trạng thái trung ấm như một con
chó mê muội, và bạn sẽ thấy ra rằng ngay cả việc chỉ
nghĩ tưởng về những cảnh giới cao hơn cũng thật vô cùng
khó khăn.
Thật
ra thì bước ngoặt quyết định, thời điểm duy nhất mà
bạn thật sự có thể hướng dẫn mình đi lên hay đi xuống
như thể đang điều khiển một con ngựa bằng dây cương,
là ngay lúc này đây, trong khi bạn đang còn sống.
Là
một con người, thiện hạnh của bạn mạnh mẽ hơn thiện
hạnh của các loài chúng sinh khác. Mặt khác, điều này cho
bạn một cơ hội, vào lúc này và ngay tại đây, trong chính
đời này của bạn, để bạn có thể dứt bỏ sinh tử luân
hồi một lần và mãi mãi.22 Nhưng (cũng tương tự như thế),
những ác hạnh của bạn cũng mạnh mẽ hơn. Do đó bạn
cũng có thể quả quyết rằng mình sẽ không bao giờ thoát
khỏi vực sâu của những cõi thấp. Vì thế, giờ đây là
lúc bạn đã gặp được một vị Thầy, một vị y sĩ thiện
xảo, và gặp được Giáo Pháp, là thần dược chiến thắng
cái chết. Đây là lúc để áp dụng bốn pháp ẩn dụ, đưa
giáo lý bạn đã được nghe vào thực hành, và du hành trên
con đường dẫn tới giải thoát. Quyển Kho Báu Thiện Đức
mô tả bốn khái niệm sai lạc cần phải tránh, là những
khái niệm đối nghịch với bốn ẩn dụ mà chúng ta đã đề
cập tới ở trên.
Người
miệng lưỡi nông cạn, với bản tánh xấu ác.
Đến
với vị Thầy như thể Ngài là một con hươu xạ.
Rút
tỉa xạ hương, Giáo Pháp viên mãn,
Tràn
đầy khoái lạc, họ phỉ báng giới nguyện.
Những
người như thế coi vị Thầy tâm linh của họ như một con
hươu xạ, Giáo Pháp như xạ hương, bản thân họ là người
đi săn, và công phu hành trì miên mật là cách thức để giết
chết con hươu với một mũi tên hay một cái bẫy. Họ không
hành trì giáo huấn mà họ đã thọ nhận và hoàn toàn không
cảm thấy mang chút ân nghĩa gì đối với vị Thầy. Họ sử
dụng Giáo Pháp để tích lũy ác hạnh, và điều này giống
như một cái cối đá kéo lôi họ đoạ xuống những
cõi thấp.
2.2.2
Sáu Pháp Toàn Thiện Siêu Việt (Lục Độ Ba La Mật)
Trong
Liễu Nghĩa Giáo Huấn Chân Pháp Mật Điển có nói:
Hãy
cúng dường phẩm vật tối hảo như hoa thơm và bồ đoàn,
Hãy
thu vén (đạo tràng) và tự kiểm soát cung cách hành xử,
Chớ
làm tổn thương bất kỳ chúng sinh nào,
Hãy
chân thành tin tưởng nơi Thầy của bạn,
Hãy
lắng nghe các giáo huấn của Ngài không sao lãng
Và
đặt câu hỏi để xua tan các nghi ngờ;
Đây
là sáu pháp toàn thiện siêu việt của người lắng nghe Giáo
Pháp.
Một
người đang nghe giáo lý nên thực hành sáu pháp toàn thiện
siêu việt (lục độ ba la mật) như sau:
Hãy
chuẩn bị chỗ ngồi cho vị Thầy, sắp xếp các tấm bồ
đoàn lên đó, hãy dâng cúng một mạn đà la, hoa thơm, và
các phẩm vật cúng dường khác. Đây chính là thực hành bố
thí.
Hãy
quét dọn sạch sẽ [đạo tràng] hay quét dọn căn phòng sau
khi đã cẩn thận rửa sạch bằng nước mát, và hãy tự chế
mọi hành vi thiếu tôn kính. Đây chính là thực hành trì giới.
Tránh
làm tổn hại chúng sinh, ngay cả những con côn trùng nhỏ bé
nhất, và hãy chịu đựng nóng, lạnh và mọi gian khó khác.
Đây chính là thực hành nhẫn nhục.
Đặt
sang một bên bất kỳ quan niệm sai lạc nào liên quan đến
vị Thầy và đến giáo lý, hãy hoan hỷ lắng nghe với niềm
tin chân thật. Đây chính là thực hành tinh tấn.
Hãy
lắng nghe những giáo huấn của Đạo Sư một cách chú tâm
không sao lãng. Đây chính là thực hành thiền định.
Và
hãy đặt câu hỏi để xua tan bất kỳ do dự hay mối nghi
hoặc nào. Đây chính là thực hành trí tuệ.
2.2.3
Những Phương Cách Hành Xử Khác
Nên
tránh tất cả những cung cách hành xử thiếu tôn kính. Luật
tạng (Vīnaya) có nói:
Không
giảng dạy cho những người thiếu tôn kính,
Những
người không bệnh mà trùm khăn đội đầu,
Những
người mang gậy gộc, vũ khí và che dù,
Hay
những người quấn khăn trên đầu.
Và
trong Bản Sanh Truyện (Truyện Tiền Thân Đức Phật) có nói:
Hãy
chọn chỗ ngồi thấp nhất
Hãy
vun bồi giới luật trang nghiêm hoàn hảo.
Với
đôi mắt tràn đầy hoan hỷ,
Hãy
uống từng lời như uống cam lồ,
Và
hãy hoàn toàn chú tâm.
Đó
là cách lắng nghe giáo lý.
II.
CHÍNH VĂN GIÁO PHÁP:
LUẬN
GIẢI VỀ VIỆC KHÓ TÌM ĐƯỢC TỰ DO VÀ THUẬN DUYÊN
Chủ
đề chính yếu của chương này được giải thích qua bốn
đề mục như sau: (1) quán chiếu về bản chất của tự do,
(2) quán chiếu về những điều kiện thuận lợi đặc biệt
[hay thuận duyên] liên quan đến Pháp, (3) quán chiếu về những
hình ảnh cho thấy việc khó tìm được tự do và thuận duyên
ra sao, và (4) quán chiếu về những đối chiếu dựa trên số
lượng.
1.
Quán Chiếu về Bản Chất của Tự Do
Ở
đây, nói một cách tổng quát thì “tự do” có nghĩa là
có được cơ hội để hành trì Phật Pháp và không bị sinh
vào một trong tám trạng thái thiếu vắng cơ hội đó. “Thiếu
tự do” ám chỉ tám trạng thái dưới đây khi ta không có
được cơ hội hành trì Phật Pháp:
Sinh
ra trong cõi địa ngục hay cõi ngạ quỷ,
Sinh
ra làm thú vật, làm một vị trời trường thọ hay một kẻ
man rợ,
Có
tà kiến, sinh ra ở nơi không có Phật,
Hay
sinh ra câm và điếc; đây là tám trạng thái không có tự
do.
Những
chúng sinh bị tái sinh trong cõi địa ngục không có được
cơ hội để hành trì Phật Pháp vì họ thường xuyên bị
cái nóng hay cái lạnh khủng khiếp hành hạ dữ dội.
Ngạ
quỷ (preta) không có được cơ hội hành trì Phật Pháp vì
những nỗi thống khổ mà họ phải chịu đựng do đói và
khát.
Súc
sinh không có được cơ hội hành trì Phật Pháp bởi chúng
phải sống đời nô lệ và chịu đựng những cuộc tấn công
của những con thú khác.
Các
vị trời trường thọ không có được cơ hội hành trì Phật
Pháp bởi họ tiêu phí thời giờ của mình trong một trạng
thái tâm thức trống không.23
Những
kẻ sinh ra ở các nơi biên địa không có được cơ hội hành
trì Phật Pháp bởi giáo lý của Đức Phật không được biết
tới ở những nơi như vậy.
Những
kẻ sinh ra làm những kẻ ngoại đạo (tirthika*) có các loại
tà kiến tương tự như vậy cũng không có được cơ hội
hành trì Phật Pháp vì tâm thức họ chịu ảnh hưởng nặng
nề của những tin tưởng sai lầm đó.
Những
kẻ sinh ra trong một Mạt Kiếp tối tăm không có được cơ
hội hành trì Phật Pháp vì họ chưa từng được nghe đến
Tam Bảo, và không thể phân biệt được tốt, xấu.
Những
người sinh ra bị câm hoặc khiếm khuyết về tinh thần không
có được cơ hội hành trì Phật Pháp vì các giác quan
bẩm sinh của họ không được đầy đủ.
Những
chúng sinh sống trong ba cõi thấp phải chịu đựng liên tục
cái nóng, lạnh, đói, khát và những đau khổ khác, là kết
quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của
họ; họ không có được cơ hội để thực hành Phật Pháp.
Những
“kẻ man rợ” là những người sống ở ba mươi hai biên
địa như Lo Khatha,24 và tất cả những ai coi việc làm tổn
hại người khác như một đức tin, hoặc những người có
niềm tin man rợ coi việc sát sinh là việc tốt lành. Những
người này sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh, tuy có được
thân người nhưng tâm trí họ thiếu sự định hướng đúng
đắn và bản thân họ không thể hòa hợp với Pháp. Thừa
kế từ tổ tiên của họ những phong tục đồi bại như cưới
mẹ của mình, họ sống một cuộc đời thực sự đối nghịch
với Pháp. Tất cả mọi việc họ làm đều xấu ác, và họ
vượt trội trong các kỹ thuật tạo ra ác hạnh như giết
hại côn trùng hoặc săn bắt thú hoang. Nhiều người trong
số đó bị đoạ ngay xuống những cõi thấp sau khi họ chết.
Đối với loại người như thế thì không có được cơ hội
để hành trì Phật Pháp.
Các
vị Trời trường thọ là những vị Trời miệt mài trong một
trạng thái tâm thức trống không. Chúng sinh phải bị sinh
vào cõi này là do kết quả của việc họ tin rằng giải thoát
là một
*
Tirthika, (mu rtegs pa): môn đồ của các truyền thống tôn giáo
hay triết học phi-Phật Giáo, ám chỉ các tà kiến được
mô tả ở Phần Một, Chương Bốn.
trạng
thái trong đó tất cả những hoạt động tâm thức, dù thiện
hay ác, đều vắng bặt. Họ tin vào việc phải thiền
định trong trạng thái tâm thức đó. Họ trụ trong trạng
thái này liên tục trong nhiều đại kiếp. Nhưng một khi quả
lành đưa đến trạng thái an định đó bị tiêu hao thì họ
sẽ bị tái sinh vào những cõi thấp vì chính tà kiến của
họ. Những chúng sinh này cũng không có bất kỳ cơ hội nào
để thực hành Phật Pháp.
Nói
chung, thuật ngữ “tà kiến” bao gồm niềm tin vào thuyết
vĩnh cửu (eternalist) và thuyết hư vô (nihilist), là những quan
niệm đối nghịch với giáo lý của Đức Phật và nằm ngoài
giáo lý Phật Pháp. Những quan niệm như vậy làm băng
hoại tâm thức và ngăn cản không cho niềm khao khát về Chánh
Pháp phát triển trong ta, tới nỗi chúng ta sẽ không còn cơ
hội nào để thực hành Pháp nữa. Ở đây nơi xứ Tây Tạng,
bởi Đức Phật thứ hai, Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) của
xứ Oddiyana, đã giao phó việc bảo vệ xứ sở cho mười hai
Tenma, nên chính ngay cả những kẻ ngoại đạo cũng không thể
nào có thể xâm nhập được. Tuy nhiên, bất kỳ những ai
có hiểu biết giống như hiểu biết của những kẻ ngoại
đạo, là những hiểu biết mâu thuẫn với hiểu biết của
Chánh Pháp và của những vị chân sư, thì chính vì lý do đó
mà họ bị tước mất cơ hội để có thể thực hành
Pháp dựa trên những giáo huấn chân chính. Tu sĩ Sunaksatra
trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật, nhưng
vì không có chút tín tâm nào và chỉ ôm giữ tà kiến trong
lòng, nên cuối đời bị tái sinh làm ngạ quỷ trong một vườn
hoa.
Sinh
trong một đại kiếp tối tăm có nghĩa là bị tái sinh vào
một thời đại không có Phật. Trong một vũ trụ không có
Phật xuất hiện, thậm chí chưa ai từng được nghe đến
Tam Bảo. Bởi không có Pháp, nên không có cơ hội để hành
trì Pháp.
Tâm
thức của người câm điếc không thể hoạt động đúng đắn.
[Đối với người câm điếc], tiến trình lắng nghe Giáo Pháp,
diễn giải, quán chiếu về Pháp, và đưa Pháp vào thực hành
sẽ gặp trở ngại. Định nghĩa “câm, điếc” thường để
ám chỉ một khuyết tật về tiếng nói, ngôn ngữ. Khả năng
thông thường của con người là khả năng sử dụng và hiểu
biết ngôn ngữ. Khi không có được khả năng đó thì
người ta cũng không có được cơ hội để đến với Pháp.
Thế nên, phạm trù này cũng bao gồm những người có bệnh
tâm thần khiến họ không thể nào thấu hiểu được Giáo
Pháp và vì vậy họ cũng bị tước mất cơ hội để thực
hành Pháp.
2.
Quán Chiếu về Những Thuận Duyên Đặc Biệt Liên Quan Đến
Pháp
Đề
mục này bao gồm năm điều kiện thuận lợi hay thuận duyên
cá nhân và năm điều kiện thuận lợi hay thuận duyên thuộc
về hoàn cảnh.
2.1
NĂM THUẬN DUYÊN CÁ NHÂN
Ngài
Long Thọ liệt kê năm thuận duyên thuộc về cá nhân như sau:
Sinh
ra làm người, ở nơi trung tâm, đầy đủ các giác quan, Không
sống đời xung đột với Pháp, và có niềm tin vào Phật Pháp.
Không
được sinh làm người thì ngay cả Phật Pháp cũng sẽ không
được gặp. Vì vậy, thân người là thuận duyên hỗ trợ.
Nếu
bạn bị sinh ra ở một nơi hoang vu, một nơi chưa từng bao
giờ được nghe tới Pháp thì bạn sẽ chẳng bao giờ gặp
được Pháp. Nhưng bạn được sinh ra ở một nơi gọi là
“trung tâm” có nghĩa là nơi đó, Phật Pháp được quan tâm
đến, và vì thế bạn có thuận duyên về nơi chốn.
Nếu
bạn không có đầy đủ các giác quan thì đó sẽ là một
chướng ngại cho việc thực hành Pháp. Nếu bạn có đầy
đủ các giác quan, bạn có thuận duyên sở hữu các giác quan.
Nếu
bạn có một lối sống đầy xung đột [đi ngược lại với
Pháp, không thuận theo Giáo Pháp] thì bạn sẽ luôn đắm chìm
trong những ác hạnh, sống một cuộc đời mâu thuẫn với
Pháp. Giờ đây, bởi vì bạn đang mong muốn thực hiện những
việc thiện lành, nên đây là thuận duyên về động lực.
Nếu
không có niềm tin vào Giáo Pháp của Đức Phật, bạn sẽ
cảm thấy không có bất kỳ thiên hướng nào về Pháp. Việc
bạn có khả năng xoay chuyển tâm thức của bạn hướng về
Pháp như giờ đây bạn đang làm chính là thuận duyên về
niềm tin.
Rất
cần thiết để có được đầy đủ tất cả năm điều kiện
thuận lợi trên đây để tạo thành một cá thể nên năm
điều kiện thuận lợi này được gọi là năm thuận duyên
cá nhân.
Để
tu tập hành trì Chánh Pháp chân chính thì điều tuyệt đối
cần thiết là phải sinh ra làm người. Giả dụ bạn không
có được thân người như một trợ duyên mà lại mang hình
dạng cao nhất trong các hình dạng của chúng sinh trong ba cõi
thấp, là hình dạng của một con thú – kể cả là con vật
đẹp đẽ nhất và được đánh giá cao nhất mà con người
biết đến. Ngay cả như vậy, nếu có ai đó nói với bạn:
“Hãy tụng một lần câu Om mani padme hum, và bạn sẽ thành
Phật,” thì bạn cũng sẽ hoàn toàn không thể hiểu được
lời họ nói hay nắm được ý nghĩa của câu nói đó, và
bạn cũng sẽ không thể thốt ra được đến một lời. Trên
thực tế, [trong thân xác của một con thú], cho dù bạn đang
chết cóng vì lạnh, bạn cũng sẽ chẳng nghĩ ra được điều
gì để làm mà chỉ biết nằm ụ ra đó – trong khi đối
với một con người, cho dù họ có yếu ớt tới đâu chăng
nữa thì họ cũng biết cách tìm trú ẩn trong một hang động
hay dưới một gốc cây, có thể tìm nhặt củi và đốt một
ngọn lửa để hơ ấm mặt và tay của mình. Nếu loài vật
không thể làm ngay cả những việc đơn giản như vậy, thì
làm sao chúng có thể thấu hiểu được việc thực hành Pháp?
Chư
Thiên và những chúng sinh đại loại như vậy, cho dù họ có
mang hình tướng siêu việt đến đâu chăng nữa, họ cũng
không có đủ điều kiện để thọ các giới nguyện của
Biệt Giải Thoát (Prātimoksa), do đó không thể thấm nhuần
toàn bộ Giáo Pháp.
Đối
với định nghĩa của một “vùng trung tâm”, ta nên phân
biệt giữa một vùng trung tâm có tính chất địa lý và một
nơi là trung tâm trong phạm vi Giáo Pháp.
Nói
về mặt địa lý, vùng trung tâm thường được nói là Pháp
Toà Kim Cương tại Bồ Đề Đạo Tràng25 ở Ấn Độ, nằm
ngay trung tâm của cõi Diêm Phù Đề (Jambuvipa) hay Nam Thiệm
Bộ Châu. Hàng ngàn vị Phật trong thời Hiền Kiếp đã đạt
được quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác ở nơi đây. Thậm
chí ngay khi toàn thể vũ trụ bị huỷ hoại vào cuối thời
Hiền Kiếp, bốn nguyên tố đất nước gió lửa cũng không
thể hủy hoại được Pháp Toà Kim Cương tại Bồ Đề Đạo
Tràng, và vùng trung tâm ấy sẽ tồn tại ở đó như thể
được treo lơ lửng trong không gian. Ở trung tâm của Pháp
Toà Kim Cương tại Bồ Đề Đạo Tràng mọc lên Cây Giác Ngộ
(Cây Bồ Đề). Do đó, địa điểm này cùng với tất cả
những thành phố của Ấn Độ nằm chung quanh đó, được
coi là vùng trung tâm về mặt địa lý.
Trong
phạm vi Giáo Pháp, một vị trí trung tâm là ở bất cứ nơi
nào mà Phật Pháp – giáo lý của Đức Phật – hiện hữu.
Tất cả những vùng khác được gọi là vùng biên địa.
Trong
quá khứ xa xôi, khởi đi từ thời Đức Phật xuất hiện
trên thế gian này, và cho đến khi nào mà Giáo Pháp của Ngài
vẫn còn hiện hữu ở tại Ấn Độ, thì xứ sở đó là trung
tâm về cả hai mặt địa lý và Giáo Pháp. Tuy nhiên, giờ
đây là lúc xứ sở ấy đã rơi vào tay những kẻ ngoại đạo
và giáo huấn của Đấng Chiến Thắng đã biến mất ở trên
xứ sở đó, nên nếu nói trên phương diện Phật Pháp thì
ngay cả Bồ Đề Đạo Tràng cũng là xứ biên địa.
Ở
vào thời Đức Phật, Xứ Tuyết Tây Tạng được gọi là
“Xứ Tây Tạng biên địa,” bởi xứ ấy là một xứ thưa
dân mà Phật Pháp chưa được truyền bá đến. Sau này dân
số tăng dần và một vài vị vua trị vì là những hóa thân
của chư Phật. Trước tiên, Phật Pháp xuất hiện ở Tây
Tạng trong triều đại vua Lha-Thothori Nyentsen, khi Kinh Bách Nguyện
Bách Bái, một khuôn tsa-tsa, (dùng để đúc tượng Phật)
và những bảo vật khác rơi xuống trên mái cung điện.
Năm
thế hệ sau đó, Pháp Vương Songtsen Gampo, một hóa thân của
Đấng Đại Bi Siêu Phàm,* đã xuất hiện phù hợp với những
lời tiên tri rằng Ngài sẽ thông suốt yếu nghĩa của Kinh
văn (Sutra). Trong triều đại của Ngài, dịch giả Thưnmi Sambhota
được gởi tới Ấn Độ để học ngôn ngữ và văn tự Ấn
Độ. Khi trở về, Ngài khai lập bản mẫu tự đầu tiên cho
Tây Tạng. Ngài phiên dịch sang tiếng Tây Tạng hai mươi mốt
bản Kinh và Mật điển của đức Quán Thế Âm (Avalokiteshvara),
Oai Mật Kinh, cùng nhiều loại văn bản khác. Bản thân đức
vua Songtsen Gampo đã hoá hiện trong nhiều thân tướng, và cùng
với quan thừa tướng Gartongtsen, Ngài đã sử dụng nhiều
phương tiện kỳ diệu để bảo vệ đất nước. Ngài tấn
phong hoàng hậu cho hai công chúa, một đến từ Trung Quốc
và một đến từ Nepal. Hai vị này đã mang theo nhiều
biểu tượng của thân, khẩu, ý của Đức Phật bao gồm hai
pho tuợng Phật được gọi là Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni,
là những biểu tượng đích thực của Đức Phật.26 Nhà vua
cho xây dựng một loạt điện thờ được gọi là Thadul và
Yangdul, trong đó ngôi điện chính có tên là Rasa Trulnang.27
Bằng vào cách ấy, Ngài đã thiết lập nền móng Phật Giáo
ở Tây Tạng.
*
Đây ám chỉ đức Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại (Avalokitesvara),
là Bồ Tát của lòng Bi Mẫn hay Đại Từ Đại Bi.
Vị
kế nghiệp thứ năm của Ngài là vua Trisong Detsen đã mời
thỉnh một trăm lẻ tám vị học giả đến Tây Tạng, kể
cả đức Liên Hoa Sanh, bậc Đạo Sư xứ Oddiyana, bậc trì
giữ mật chú vô song, bậc vĩ đại nhất trong suốt ba cõi
giới. Để hộ trì những biểu tượng của thân của chư
Phật, vua Trisong Detsen đã cho xây dựng nhiều chùa chiền gồm
cả tu viện Samye, “một hiển lộ tự nhiên bất biến”.
Để hộ trì ngữ của chư Phật tức Chánh Pháp, một
trăm lẻ tám vị dịch giả gồm cả Ngài Vairotsana vĩ đại,
đã trau dồi nghệ thuật phiên dịch và đã chuyển dịch tất
cả các Kinh, Luận, và Mật điển chính yếu ở xứ Ấn Độ
cao quý vào thời điểm đó (qua Tạng ngữ). “Bảy Vị Tăng
Sĩ Tiên Phong” và những người khác đã thọ giới tỳ kheo,
tạo thành một Tăng Đoàn để hôä trì tâm nguyện của chư
Phật.
Từ
thời đó cho tới nay, Giáo Pháp của Đức Phật đã tỏa sáng
như mặt trời ở Tây Tạng và mặc dù có lúc thịnh lúc suy,
nhưng Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng chưa từng bị mai
một trên cả hai khiá cạnh truyền dạy và chứng ngộ. Do
đó, đối với Tây Tạng trên phương diện Giáo Pháp thì Tây
Tạng là một xứ trung tâm.
Một
người nếu thiếu bất kỳ giác quan nào trong năm giác quan
thì cũng đều không thể có đủ điều kiện để thọ giới
nguyện của tu viện. Ngoài ra, những ai không đủ may mắn
để có thể nhìn thấy được những biểu tượng của Đấng
Chiến Thắng nhằm khơi dậy lòng sùng mộ quy ngưỡng, hoặc
không đủ may mắn để có thể tụng đọc hay lắng nghe những
giáo lý quý báu và tuyệt hảo, là những chất liệu cần
thiết cho công phu nghiên cứu và quán chiếu, thì họ sẽ không
thể nào tiếp nhận được Giáo Pháp một cách trọn vẹn.
Nếu
muốn nói một cách chính xác thì “lối sống xung đột”
(không thuận theo Phật Pháp) ám chỉ lôái sống của những
người phải bị sinh ra trong cộng đồng của những người
làm thợ săn, gái điếm, v…v.., hoặc sinh ra làm kẻ bị dính
líu đến những ác hạnh này từ thuở thiếu thời non dại
nhất. Nhưng trong thực tế, “lối sống xung đột” cũng
bao gồm bất kỳ những ai mà mỗi tư tưởng, lời nói và
hành vi của họ đều trái nghịch với Pháp – thậm chí ngay
cả những người không phải sinh vào kiểu sống như vậy
cũng có thể dễ dàng lọt vào lối sống đó sau này. Vì thế,
điều quan trọng là phải tránh làm bất cứ điều gì mâu
thuẫn, đối nghịch với Giáo Pháp chân chính.
Nếu
bạn không đặt niềm tin nơi Phật Pháp mà lại tin vào các
vị Trời, nāga (rồng nước) đầy quyền lực và v.v.. hay
tin vào những học thuyết khác, chẳng hạn như giáo thuyết
của những kẻ ngoại đạo thì dù bạn có thể đặt niềm
tin nơi họ nhiều tới đâu chăng nữa, không ai trong số họ
có thể bảo vệ bạn thoát khỏi những đau khổ của sinh
tử luân hồi hoặc khỏi bị đọa vào những cõi thấp. Nhưng
nếu bạn đã phát khởi được một niềm tin đúng đắn hợp
lý nơi Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng, là Giáo Pháp hợp
nhất được cả hai phương diện truyền thừa và chứng ngộ,
thì không còn nghi ngờ gì nữa, bạn chính là một bình chứa
thích hợp cho Giáo Pháp chân chính. Và đó là điều vĩ đại
nhất trong năm thuận duyên cá nhân.
2.2
NĂM THUẬN DUYÊN THUỘC VỀ HOÀN CẢNH
Một
vị Phật đã xuất hiện và thuyết giảng Giáo Pháp,
Giáo
lý của Ngài vẫn hiện hữu và vẫn được noi theo,
Và
có những bậc nhân từ đối với kẻ khác (cũng đang hiện
hữu.
Những
người không được sinh ra trong một kiếp chói sáng (Minh Kiếp),
là kiếp có một vị Phật xuất hiện, thì ngay cả đến Giáo
Pháp, họ cũng sẽ không bao giờ được nghe nói tới. Nhưng
giờ đây chúng ta đang sống trong một kiếp đã có một vị
Phật xuất hiện, và vì vậy chúng ta có được thuận duyên
của sự hiện diện của vị Thầy đặc biệt.
Mặc
dù một vị Phật đã xuất hiện, nhưng nếu Ngài không giảng
dạy thì sẽ chẳng có ai được lợi lạc. Nhưng bởi Đức
Phật đã chuyển Pháp Luân phù hợp với ba căn cơ khác nhau
nên chúng ta có thuận duyên của việc truyền dạy Giáo Pháp.
Dù
Ngài đã giảng dạy, nhưng nếu giáo lý của Ngài đã tàn
lụi thì Giáo Pháp ấy sẽ không còn hiện diện ở đây để
đem đến lợi lạc cho chúng ta. Nhưng bởi thời kỳ tồn tại
của Giáo Pháp chưa chấm dứt, nhờ đó chúng ta có được
thuận duyên về thời gian.
Dù
giáo lý còn tồn tại, nhưng trừ phi chúng ta tuân theo những
gì đã được truyền dạy thì Giáo Pháp ấy chẳng thể đem
lại lợi ích gì cho ta. Nhưng bởi chúng ta đã thọ trì Giáo
Pháp, nên ta có thuận duyên về phước duyên của riêng ta.
Dù
chúng ta có thọ trì Giáo Pháp nhưng nếu không có hoàn cảnh
thuận lợi được một vị Thầy tâm linh chấp nhận dạy
dỗ thì chúng ta sẽ không bao giờ biết được Giáo Pháp thật
sự là gì. Nhưng bởi có một vị Thầy đã chấp nhận dạy
dỗ ta nên chúng ta có được thuận duyên về lòng bi mẫn
phi thường của Ngài.
Bởi
ta cần có đầy đủ trọn vẹn năm yếu tố thuận lợi, thuộc
về hoàn cảnh hơn là thuộc về chính chúng ta, nên năm yếu
tố thuận lợi này được gọi là năm thuận duyên thuộc
về hoàn cảnh.
Thời
gian để vũ trụ hình thành, hiện hữu, bị hủy diệt và
tồn tại trong một trạng thái của không tánh được gọi
là một kiếp (kalpa). Một đại kiếp trong đó một vị Phật
Toàn Giác xuất hiện trên thế gian được gọi là một “kiếp
chói sáng” hay là một Minh Kiếp (bright kalpa) trong khi đại
kiếp không có một vị Phật xuất hiện được gọi là một
“kiếp tối tăm” hay là một Ám Kiếp (dark kalpa). Từ xa
xưa, trong Không Kiếp (kiếp hoá lạc -Kalpa of Manifest Joy) có
ba mươi ba ngàn vị Phật xuất hiện. Tiếp theo là một trăm
kiếp tối tăm. Sau đó, trong Kiên Kiếp (kiếp tuyệt hảo -
Perfect Kalpa), tám trăm triệu vị Phật đã xuất hiện, rồi
lại tiếp theo là một trăm kiếp không có Giáo Pháp. Rồi
tới tám trăm bốn mươi triệu vị Phật xuất hiện trong Đề
Hồ Kiếp (kiếp toàn hảo - Excellent Kalpa), sau đó là năm trăm
kiếp tối tăm. Trong Diệu Kiếp (Kalpa Delightful to See), tám
trăm triệu vị Phật xuất hiện và sau đó là bảy trăm kiếp
tối tăm. Sáu mươi tư ngàn vị Phật xuất hiện trong Kiên
Đề Hồ Kiếp (kiếp hoan lạc - Joyous Kalpa). Rồi tới kiếp
của chính chúng ta gọi là Hiền Kiếp (Good Kalpa).
Trước
khi kiếp của chúng ta xuất hiện, vũ trụ gồm một tỷ thế
giới này (tam thiên đại thiên thế giới) là một đại dương
bao la mà trên bề mặt của đại dương ấy đãù xuất hiện
một ngàn đóa sen ngàn-cánh. Khi tự hỏi làm thế nào điều
này có thể xảy ra, chư Thiên trong cõi Trời Phạm Thiên đã
dùng thần lực thấu thị để minh xác được điều này và
tuyên bố rằng trong kiếp này, một ngàn vị Phật sẽ xuất
hiện. Họ nói rằng: “Đây sẽ là một kiếp tốt lành,”
và “Hiền” (tốt lành) trở thành tên của kiếp ấy.
Từ
thời đại khi thọ mạng của chúng sinh là tám mươi ngàn
năm và Đức Câu Lưu Tôn Phật (Phạn: Krakucchanda) xuất hiện,
và cho tới khi chúng sinh sẽ sống lâu không thể tính đếm
và Đức Lâu Chí Phật (Phạn: Rucika) sẽ xuất hiện, một
ngàn vị Phật sẽ đến với thế gian này, an trụ trên
Pháp Toà Kim Cương tại trung tâm của Diêm Phù Đề (Jambudvīpa).
Mỗi vị Phật trong số một ngàn vị Phật sẽ chứng đắc
Phật quả viên mãn ở đó và sẽ chuyển Pháp Luân. Vì thế,
kiếp hiện tại của chúng ta là một kiếp chói sáng.
Theo
sau đó là sáu mươi kiếp ngoại vi xấu ám, và sau đó, trong
Vi Trần Kiếp (Kalpa of Vast Numbers), mười ngàn vị Phật sẽ
xuất hiện. Rồi mười ngàn kiếp xấu ám khác sẽ xảy ra
sau đó. Giữa sự luân phiên của những kiếp chói sáng và
kiếp tối tăm này, nếu ngẫu nhiên chúng ta phải bị sinh
ra trong một
kiếp
tối tăm, thì thậm chí ngay cả hai tiếng Tam Bảo cũng là
điều mà chúng ta sẽ không bao giờ được nghe nói đến.
Ngoài
ra, như Đấng Vĩ đại xứ Oddiyana đã có chỉ rõ, riêng truyền
thống
Mật Thừa hay Kim Cang Thừa cũng chỉ được truyền dạy một
cách hiếm hoi:
Từ
lâu xa về trước, ngay trong kiếp đầu tiên là Diêu Kiếp
(Kalpa of the Complete Array), giáo lý Mật Thừa được Đức Phật
có danh hiệu là Nhất Lai Vương Phật (Once-Come Buddha) truyền
bá, và trở nên hết sức lừng lẫy. Giáo lý của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni mà hiện nay chúng ta đang có cũng bao gồm Mật
Thưà. Trong thời gian mười triệu kiếp, trong Tinh Tú Kiếp,
Đức Phật Văn Thù (Mansjushri) sẽ xuất hiện, như ta đang
xuất hiện, để khai phá giáo lý Mật Thừa trên một phạm
vi cực kỳ rộng lớn. Đây là bởi vì chúng sinh trong ba kiếp
này là những người thích hợp để lãnh hội Mật Thừa,
và lý do mà giáo lý Mật Thừa không xuất hiện vào những
thời điểm khác là bởi chúng sinh ở những thời đó không
có khả năng hành trì những giáo lý này.28
Trong
Hiền Kiếp này, vào thời hiện tại khi thọ mạng của con
người là một trăm năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni toàn hảo
đã xuất hiện trên thế gian, vì thế đấy là một kiếp
chói sáng.
Giả
sử một vị Phật đã xuất hiện, nhưng Ngài vẫn còn trụ
trong thiền định và chưa giảng dạy Giáo Pháp. Chừng nào
mà ánh sáng Giáo Pháp của Ngài chưa hiển hiện thì sự xuất
hiện của Ngài không tác động gì tới chúng ta. Điều đó
cũng giống như thể Ngài chưa từng xuất hiện.
Khi
đạt được Phật Quả Chánh Đẳng Chánh Giác trên Toà Kim
Cương, Bậc Thầy của chúng ta đã thốt lên rằng:
Ta
đã tìm ra một Giáo Pháp giống như cam lồ,
Thâm
sâu, an bình, đơn giản, dễ hiểu, rạng rỡ.
Nếu
ta giảng về Giáo Pháp ấy, sẽ chẳng ai hiểu nổi,
Vì
thế ta sẽ ở đây, tịch lặng trong rừng.
Do
đó, Ngài đã không giảng dạy trong bảy tuần cho tới khi
Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra) khẩn cầu Ngài chuyển
Pháp Luân. Hơn nữa, nếu những ai nắm giữ giáo lý chân chính
mà không giảng dạy, thì Giáo Pháp ấy sẽ khó đem lại được
bất kỳ lợi ích thực sự nào cho chúng sinh. Ví dụ Ngài
Smrtijnana vĩ đại xứ Ấn Độ đã đến Tây Tạng vì mẹ
Ngài tái sinh ra ở đây trong một Cô Độc Điạ Ngục. Người
thông dịch của Ngài đã chết trong cuộc hành trình, và Ngài
đã lang thang khắp tỉnh Kham mà không thể nói được một
tiếng Tây Tạng nào; sau đo,ù Ngài trở thành một người
chăn cừu rồi chết ở đó mà không đem lại được lợi
ích cho bất kỳ ai. Sau này khi Ngài Jowo Atisha đến Tây Tạng
và biết được điều gì đã xảy ra, Ngài than khóc: “Đáng
buồn thay! Dân Tây Tạng quí vị kém phước quá! Không đâu
ở Ấn Độ, dù Đông hay Tây mà có được một học giả
uyên thâm hơn Ngài Smrtijnana,” và chắp hai bàn tay lại, Ngài
Atisha khóc.
Đối
với chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân
cho ba loại căn cơ khác nhau và Ngài đã thị hiện qua vô số
hình tướng phù hợp với nhu cầu và căn cơ của những người
cần được cứu giúp, dẫn dắt các đệ tử qua giáo lý của
chín thừa để giúp cho họ trưởng thành trên con đường
đạo và đạt được giải thoát.
Ngay
cả trong một kiếp có Đức Phật xuất hiện và ban cho giáo
lý, nhưng một khi thời gian để giáo lý này tồn tại đã
tới lúc chấm dứt và Giáo Pháp chân chính mà Ngài đã dạy
biến mất không để lại dấu vết gì thì kiếp ấy cũng
sẽ hoàn toàn giống như một kiếp tối tăm. Thời kỳ trung
gian giữa khi giáo lý của một vị Phật mất tăm dấu tích
và khi giáo lý ấy lại được một đức Phật vị lai
truyền dạy, thì thời kỳ ấy được mô tả là thời kỳ
“không có Pháp.” Ở những nơi may mắn mà chúng sinh có
đầy đủ công đức thì có các vị Độc Giác Phật (Pratyekabuddhas)
xuất hiện, nhưng kinh điển không được giảng dạy hay thực
hành [ở những nơi đó].
Ngày
nay, chúng ta vẫn còn có những giáo lý của Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni. Sự tồn tại của những giáo lý này đi theo một
chu kỳ liên tục gồm mười thời kỳ. Trước tiên, có ba
thời kỳ, mỗi một thời kỳ gồm năm trăm năm.29 Trong thời
kỳ này xuất hiện “giáo lý tâm yếu của Đức Phổ Hiền,”
đó là quả.30 Sau đó là ba thời kỳ kế tiếp, mỗi một
thời kỳ gồm năm trăm năm dành cho thành tựu.31 Tiếp theo
là ba thời kỳ mà mỗi thời kỳ gồm năm trăm năm dành cho
việc truyền dạy. Cuối cùng, một thời kỳ gồm năm trăm
năm xuất hiện khi chỉ còn lại những biểu tượng mà thôi.
Nói chung, chu kỳ liên tục này tạo nên mười thời kỳ, mỗi
thời kỳ gồm năm trăm năm. Hiện nay chúng ta ở thời kỳ
thứ bảy hay thứ tám. Chúng ta hiện đang sống trong một thời
đại mà năm sự suy hoại đang tăng triển: suy hoại về thọ
mạng, về lòng tin, về cảm xúc, về thời gian và về chúng
sinh. Tuy nhiên, giáo lý liên quan đến việc truyền dạy và
chứng ngộ vẫn còn hiện hữu. Bởi việc truyền dạy và
chứng ngộ không bị mai một nên chúng ta vẫn sở hữu sự
thuận lợi có được toàn bộ Giáo Pháp.
Tuy
nhiên, sự kiện Giáo Pháp vẫn còn hiện diện sẽ không có
ích lợi gì trừ phi bạn tận dụng được Giáo Pháp ấy ¬giống
như mặt trời hừng đông, mặc dù nó chiếu sáng khắp thế
gian nhưng cũng không tạo được ngay cả một tác động nhỏ
bé nhất cho một người mù. Và cũng như nước trong một cái
hồ lớn không thể làm người lữ hành đang đi tới bờ hết
khát, trừ phi họ thực sự uống nước ấy. Cũng như
thế, Giáo Pháp đã được trao truyền cũng chẳng thể nào
tự một mình thấm nhập được vào tâm trí bạn nếu bạn
không đón lấy.
Nếu
việc đến với Giáo Pháp chỉ nhằm để bảo vệ bản thân
bạn thoát khỏi bệnh tật và thoát khỏi những ảnh hưởng
xấu xa trong cuộc đời này, hoặc vì bạn sợ hãi những đau
khổ của ba cõi thấp trong những đời sau, thì Giáo Pháp ấy
được gọi là “Giáo Pháp như sự bảo vệ chống lại sợ
hãi,” và đó không phải là cách thức đúng đắn để đưa
ta bước đi trên con đường đạo.
Nếu
việc đến với Giáo Pháp chỉ để giúp cho ta có thực phẩm,
quần áo trong đời này, hoặc để có được một phần thưởng
tốt lành là được tái sinh trong cõi Trời hay được sinh
làm người trong đời sau, thì Giáo Pháp ấy được gọi là
“Giáo Pháp như sự tìm kiếm những gì ưu việt”.
Nhưng
nếu đến với Giáo Pháp mà hiểu được rằng toàn bộ luân
hồi đều không có ý nghĩa, và muốn nỗ lực tìm ra một
con đường để giải thoát khỏi cõi luân hồi thì điều
ấy được gọi là “thọ trì giáo lý bằng cách bước đến
ngay ở khởi điểm của con đường.”
Cho
dù nay bạn đã bắt đầu tu hành, thực hành Giáo Pháp thì
điều ấy cũng sẽ chẳng ích lợi gì trừ phi bạn được
một vị Thầy tâm linh chấp nhận cho làm đệ tử. Trong Bát
Nhã Tập Kệ có nói:
Đức
Phật và Giáo Lý dựa vào vị Thầy tâm linh. Đấng Chiến
Thắng, hiện thân tối thượng của mọi phạm hạnh tốt
lành, đã nói như thế.
Giáo
lý của Đức Phật thì bao la, những lời thuyết giảng đã
được trao truyền thì vô số kể, và giáo lý ấy bao trùm
một phạm vi rộng lớn với những chủ đề vô tận. Nếu
không nương tựa vào những giáo huấn tâm yếu cốt tủy của
một vị Thầy, thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được
làm cách nào để thâu góm được tất cả các điểm trọng
yếu và đưa những điểm trọng yếu ấy vào thực hành.
Có
một lần, khi Ngài Jowo Atisha đang ở Tây Tạng thì Khu, Ngok
và Drom* đến hỏi: “Đối với những người muốn đạt
được giải thoát và toàn giác thì giữa những kinh điển,
những luận giảng, hay những giáo huấn khẩu truyền của
vị Thầy, cái nào quan trọng hơn?”
Ngài
Atisha trả lời:
“Các
giáo huấn của vị Thầy”.
“Tại
sao vậy?”
“Bởi
khi đi vào thực hành – cho dù các ông có thể giảng được
toàn bộ Tam Tạng (Tripitaka) bằng trí nhớ và hết sức thiện
xảo trong khoa siêu hình – nhưng nếu không có đuợc sự hướng
dẫn thực tế của một vị Thầy thì các ông và Giáo Pháp
sẽ không thể hợp nhất được.”
Họ
tiếp tục hỏi: “Như vậy thì có phải điểm chính yếu
của những giáo huấn của vị Thầy là để trì giữ ba giới
nguyện và miên mật tạo những nghiệp lành với thân, khẩu
và ý?”
“Điều
đó chẳng có chút lợi ích nào,” Ngài Atisa trả lời.
“Làm
sao có thể như vậy được?” họ kêu lên kinh ngạc.
“Các
ông có thể giữ ba giới nguyện một cách toàn hảo, nhưng
trừ phi các ông nhất quyết giải thoát bản thân khỏi tam
giới trong vòng luân hồi, còn bằng không thì việc giữ giới
nguyện chỉ tạo thêm những nguyên nhân cho luân hồi sinh tử.
Các ông có thể miên mật tạo những nghiệp lành với thân,
khẩu, ý cả ngày lẫn đêm, nhưng trừ phi các ông biết cách
hồi hướng công đức của những việc làm đó cho giác ngộ
viên mãn, còn bằng không thì chỉ cần hai hay ba niệm tưởng
sai lạc là cũng đủ để phá hủy toàn bộ các nỗ lực đó.
Các ông có thể là những vị Thầy và thiền giả, uyên bác
và được mọi người sùng kính, nhưng trừ khi tâm các ông
đã được chuyển hoá, không bám vào tám pháp thế gian tầm
thường, còn bằng không thì bất kỳ điều gì các ông làm
cũng sẽ chỉ là để cho
*
Ba đệ tử chính của Ngài Atisa (xem Thuật ngữ).
cuộc
đời hiện tại này, và các ông sẽ không thể gặp được
con đường đem lại lợi lạc cho những đời sau.” Điều
này minh họa tầm quan trọng của việc ta được một vị
Thầy – một thiện tri thức – quan tâm chăm sóc đến.
Hãy
quán chiếu cuộc đời và những hoàn cảnh của riêng bạn
dựa trên mỗi một điều kiện tự do trong tám điều kiện
tự do và mỗi một điều kiện thuận lợi trong mười điều
kiện thuận lợi, và nếu bạn nhận ra rằng tất cả mỗi
một điều kiện thuận lợi (thuận duyên) đều đang hiện
diện, thì bạn có được cái gọi là “đời người với
mười tám điều kiện tự do và thuận duyên phú bẩm.” Tuy
nhiên, Đấng Pháp Vương Toàn Giác Longchenpa, trong tác phẩm
Như Ý Bảo Luận của Ngài, đã phân định mười sáu điều
kiện phụ thuộc có thể gây khó khăn cho ta, không cho ta bất
kỳ cơ hội nào để thực hành Pháp – gồm có tám hoàn cảnh
xâm hại (intrusive circumstances),32 và tám thiên hướng không
thích hợp (incompatible proprensities). 33 Khi ta bị những điều
kiện phụ thuộc này làm cho chao đảo thì điều quan trọng
là không để cho mình bị suy sụp. Ngài có giảng rằng:
Rối
loạn bởi năm cảm thọ, đần độn, bị ảnh hưởng độc
hại thống trị, Lười biếng, bị chìm ngập trong hậu quả
của những ác hạnh trong quá khứ, Bị làm nô lệ cho người
khác, tìm sự bảo vệ thoát khỏi hiểm nguy, và tu hành giả
dối. Đây là tám hoàn cảnh xâm hại khiến ta không có được
tự do (để tu hành). Bị trói cứng trong những ràng buộc
riêng, truỵ lạc
hoang
độ, Không biết chán ghét luân hồi, hoàn toàn thiếu lòng
tin, Vui thích với những hành vi xấu ác, không quan tâm
gì
đến Giáo Pháp,
Lơ
là các giới nguyện và mật nguyện: Đây là tám thiên hướng
không thích hợp khiến ta không có được tự do (để tu hành).
2.3
TÁM HOÀN CẢNH XÂM HẠI
KHIẾN
TA KHÔNG CÓ ĐƯỢC TỰ DO ĐỂ TU HÀNH
Có
những người mà ngũ độc trong họ thường nổi lên hết
sức mạnh mẽ – đó là những cảm xúc tiêu cực như căm
ghét kẻ thù, si mê bạn bè và những người thân thuộc và
v.v.. Đôi khi họ cũng mong ước rằng họ có thể thực
hành một ít Giáo Pháp chân chính. Nhưng ngũ độc quá mạnh,
thường xuyên thống trị tâm thức họ và ngăn cản họ không
bao giờ để họ có thể thành tựu Giáo Pháp một cách đúng
đắn.
Có
những người rất ngu đần, thậm chí không có chút thông
tuệ nào, những người này có thể đến với Giáo Pháp nhưng
bởi vì họ không thể hiểu được ngay cả một từ vựng
nào của giáo lý hay một ý nghĩa nào của giáo lý, nên
họ không thể tu học hay quán chiếu và thiền định về Pháp.
Một
khi người ta được một ông thầy giả mạo nhận làm đệ
tử và giảng dạy cho họ nghe về những quan điểm sai lạc
và dạy cho họ hành động trong một cách thế lầm lạc, thì
tâm thức họ sẽ bị dẫn dắt đi trên con đường sai lạc
và không phù hợp với Giáo Pháp chân chính.
Có
những người muốn học Pháp nhưng quá lười biếng, không
có lấy một chút kiên nhẫn nào, những người ấy sẽ chẳng
bao giờ thành tựu bởi họ bị sập bẫy quá nặng trong chính
sự lười nhác và chần chừ do dự của chính mình.
Có
những chướng ngại và ác hạnh của một số người mạnh
mẽ tới nỗi, mặc dù họ có nỗ lực tu hành Giáo Pháp đến
mấy chăng nữa, họ cũng sẽ thất bại trong việc phát khởi
những phẩm tính tốt lành trong tâm thức họ. Những ác hạnh
chồng chất nhiều kiếp làm cho họ choáng ngợp. Họ
sẽ đánh mất tín tâm vào giáo lý mà không nhận ra rằng
tất cả là do những hành vi của chính họ trong quá khứ.
Có
những người bị làm nô lệ cho người khác và đánh mất
quyền tự chủ, những người này có thể muốn thực hành
Pháp nhưng chủ của họ không cho phép họ tu hành.
Có
một số người tìm đến với Giáo Pháp vì mang trong
lòng những sợ hãi về cuộc đời này – họ sợ họ có
thể thiếu thực phẩm hay quần áo, hoặc sợ phải trải qua
những phiền não khác. Nhưng bởi họ không có lòng tin tưởng
sâu xa nơi Pháp, nên họ tự nộp mình cho những huân tập
xưa cũ của họ và để cho họ bị dính mắc vào những sự
việc không phải là Pháp.
Còn
thêm những người khác là người giả mạo. Qua việc khoe
khoang Giáo Pháp, họ cố gắng thâu đoạt của cải, muốn
được cung phụng và muốn có uy tín. Đứng trước người
khác, họ đội lốt hành giả, nhưng trong tâm thức thì họ
chỉ quan tâm tới cuộc đời này, vì thế họ đã lià xa con
đường giải thoát.
Đây
là tám hoàn cảnh khiến cho con người không thể tiếp tục
tu tập thực hành Giáo Pháp.
2.4
TÁM THIÊN HƯỚNG KHÔNG THÍCH HỢP
KHIẾN
TA KHÔNG CÓ ĐƯỢC TỰ DO ĐỂ TU HÀNH
Những
người hết mực tham luyến vào những giao kết thế gian thường
tình, vào tài sản, vào khoái lạc, con cái, thân quyến và
v.v… Họ quá bận tâm trong những nỗ lực đầy căng thẳng
gây ra bởi những điều này tới nỗi họ không có thời gian
để thực hành Giáo Pháp.
Một
số người không có chút nhân tính nào, và bản chất họ
suy đồi tới nỗi họ không thể nào sửa đổi được cung
cách hành xử của họ. Ngay cả một vị Thầy chân chính cũng
thấy rằng thật khó lòng có thể đưa dẫn những người
này bước trên con đường cao quý. Như những đấng siêu phàm
trong quá
khứ
đã nói: “Khả năng của một đệ tử thì có thể uốn nắn
được nhưng không thể nào uốn nắn đuợc tánh khí căn bản
của hắn.”
Có
người không cảm thấy khiếp sợ chút nào khi nghe nói tới
việc tái sinh vào những cõi thấp và về những bất hạnh
trong vòng luân hồi, hoặc khi đối diện với những đau khổ
của cuộc đời hiện tại này, họ đã không có bất kỳ
quyết tâm nào để giải thoát chính mình khỏi vòng sinh tử,
và vì thế họ không có lý do gì để dấn mình vào việc
tu hành Giáo Pháp.
Có
những người hoàn toàn không có niềm tin nào, dù tin nơi Giáo
Pháp hay nơi vị Thầy; họ đóng chặt bất kỳ một lối vào
nào dẫn đến giáo lý nào và chặn đứng bất kỳ cánh cổng
nào dẫn đến con đường giải thoát.
Có
những người thích thú trong hành động gây tổn hại hay thích
thú các ác hạnh, và là những người thất bại trong việc
kiểm soát tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi của họ. Những
người này không có bất kỳ phẩm tính cao quý nào và đã
xa rời Giáo Pháp.
Có
một số người quan tâm tới những giá trị tâm linh và Giáo
Pháp không hơn gì một con chó đang ăn cỏ. Bởi họ không
cảm thấy nhiệt thành với Giáo Pháp, nên những điều cao
đẹp của Phật Pháp sẽ không bao giờ phát triển trong
tâm thức họ.
Còn
bất kỳ ai khi đã bước vào tu tập theo Thừa Căn Bản mà
lại vi phạm giới nguyện và vi phạm ước nguyện cam kết
giữa tâm Bồ Đề, thì những người này chẳng còn chỗ nào
khác để tới ngoài những cõi thấp. Họ sẽ không thể thoát
khỏi những trạng thái ở cõi thấp nơi đó họ sẽ không
có được cơ hội để tu hành.
Cuối
cùng, bất kỳ ai khi đã bước vào tu tập theo Mật Thừa mà
lại vi phạm những mật nguyện đã cam kết với vị Thầy
và với chư huynh đệ tâm linh của họ, thì điều ấy sẽ
hủy hoại chính họ, hủy hoại vị Thầy và chư huynh đệ,
cũng như sẽ hủy diệt luôn bất kỳ triển vọng thành tựu
nào của họ.
Đây
là tám thiên hướng khiến cho con người xa rời Giáo Pháp
và thổi tắt ngọn đèn giải thoát.
Trước
khi họ có thể cẩn thận loại trừ đi mười sáu yếu tố
khiến người ta không có cơ hội tu tập thì con người trong
thời đại suy đồi này có thể tỏ ra như thể họ đang có
đầy đủ những điều kiện tự do và thuận lợi, và là
những hành giả đích thực của Giáo Pháp. Tuy nhiên, vị thủ
lãnh ngự trên chiếc ngai và vị Lạt Ma ngồi dưới chiếc
lọng,34 vị ẩn sĩ trong chốn núi non cô tịch, kẻ đã từ
bỏ chính sự, và bất kỳ kẻ nào đang có thể có một đánh
giá cao về giá trị của bản thân mình – mỗi người trong
số họ có thể nghĩ rằng hắn đang thực hành Pháp, nhưng
chừng nào mà kẻ ấy còn ở dưới thế lực của những điều
kiện phụ thuộc đầy giới hạn thì kẻ ấy vẫn không ở
trên con đường tu đích thực.
Vì
thế, trước khi mù quáng mang vào người những hình tướng
bề ngoài của Giáo Pháp, hãy cẩn thận quán xét chính tình
trạng của bản thân bạn trước tiên, xem bạn có đủ ba
mươi bốn yếu tố của các điều kiện tự do và thuận lợi
hay không. Nếu bạn có đầy đủ những yếu tố ấy, hãy
hoan hỷ và quán chiếu sâu xa về những điều ấy nhiều lần.
Hãy tự nhắc nhở mình rằng, giờ đây, khi mà cuối cùng
bạn cũng đã có đầy đủ được những điều kiện tự
do và thuận lợi rất khó tìm, thì bạn sẽ không phí
phạm những trợ duyên ấy; cho dù bất kỳ điều gì xảy
ra, bạn cũng sẽ thực hành Giáo Pháp chân chính. Tuy nhiên,
nếu bạn tìm thấy ra rằng bạn vẫn còn thiếu sót một số
khía cạnh nào đó thì hãy cố gắng đạt được những điều
ấy bằng bất kỳ phương tiện nào có thể có được.
Trong
mọi lúc, bạn nên chú tâm quán chiếu thật cẩn thận xem
bạn có tất cả những yếu tố tự do và thuận lợi hay không.
Nếu bạn không quán chiếu, và để cho bất kỳ một trong
những yếu tố này bị thiếu sót, thì bạn sẽ đánh mất
cơ hội để thực sự hành trì Phật Pháp. Cuối cùng, ngay
cả việc thực hiện duy nhất một công việc thứ yếu hàng
ngày cũng đòi hỏi nhiều chất liệu và nhiều điều kiện
phụ thuộc hỗ tương cho nhau; những điều ấy phải cùng
hợp lại trong cùng một thời điểm. Có gì đáng phải kinh
ngạc đâu, nếu ta muốn chứng ngộ mục đích tối thượng
– chứng ngộ Giáo Pháp – thì điều này sẽ không thể xảy
ra được nếu không có sự tiếp hợp của nhiều yếu tố
được liên kết với nhau.
Hãy
hình dung một lữ khách muốn pha một ít trà. Việc pha trà
liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau – ấm trà, nước,
củi, lửa và v.v… Trong những yếu tố này, chỉ riêng việc
đánh lửa sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu đá
lửa, thép, bùi nhùi, hai bàn tay của lữ khách và v..v… Nếu
chỉ thiếu một yếu tố chẳng hạn như bùi nhùi, thì sự
thực là dù người lữ khách có đủ mọi thứ khác đi nữa
thì cũng chẳng ích lợi gì. Cũng thế, nếu thậm chí chỉ
một yếu tố trong những điều kiện tự do và thuận lợi
bị thiếu sót thì ta sẽ không có chút cơ hội nào để tu
tập Chân Pháp.
Nếu
bạn cẩn thận quán sát tâm bạn, bạn sẽ thấy rằng ngay
cả những điều kiện tự do và mười thuận duyên căn bản
cũng rất khó đạt được, và bạn sẽ nhận ra là có đủ
mười thuận duyên thì thậm chí còn hiếm hoi hơn cả việc
có tám điều kiện tự do.
Có
một số được sinh ra làm người, với đầy đủ mọi giác
quan nguyên vẹn và họ ở trong vùng trung tâm, nhưng họ lại
dính mắc vào một lối sống mâu thuẫn với Giáo Pháp; họ
không có lòng tin vào giáo lý của Đấng Chiến Thắng. Nếu
như vậy thì những người này chỉ còn có ba thuận duyên
mà thôi. Nếu họ có được một trong hai điều kiện thuận
lợi hay thuận duyên còn lại kia thì họ vẫn chỉ có được
bốn thuận duyên. Giờ đây, để có được một lối sống
hoàn toàn không xung đột với Giáo Pháp thì điều này cực
kỳ khó khăn. Nếu bất kỳ tư tưởng, lời nói và hành vi
nào của một người cũng đều tiêu cực và những động
cơ thúc đẩy họ chỉ cốt nhắm tới cuộc đời này, thì
trên thực tế, cho dù họ có nổi tiếng là một người tốt
và uyên bác chăng nữa, cách sống của họ cũng vẫn mâu thuẫn
với Giáo Pháp.
Cái
nhìn như trên cũng được áp dụng tương tự cho năm thuận
duyên thuộc về hoàn cảnh. Nếu một vị Phật xuất hiện,
giảng dạy Giáo Pháp và giáo lý ấy vẫn còn hiện hữu, nhưng
nếu một người không bước vào con đường tu (đến với
Giáo Pháp), thì người đó chỉ có được ba trong số các
điều kiện thuận lợi đã nêu. Ở đây, một lần nữa, “bước
vào con đường tu” không đơn giản là thỉnh cầu một vài
giáo lý và được ban cho giáo lý đó. Điểm khởi đầu của
con đường giải thoát là (1) lòng xác tín rằng toàn bộ vòng
luân hồi đều vô nghĩa, và (2) có quyết tâm chân thật muốn
giải thoát khỏi toàn bộ luân hồi. Để đi trên con đường
Đại Thừa, điều cốt yếu là (3) phát khởi được Bồ Đề
Tâm chân thành. Điều tối thiểu cần phải có là (4) niềm
tin bất thối chuyển nơi Tam Bảo, đến nỗi bạn sẽ không
thể bao giờ từ bỏ được Tam Bảo cho dù là để cứu mạng
mình. Không có được những điều đó thì việc chỉ đơn
giản trì tụng những lời cầu nguyện và khoác vào người
những chiếc y vàng không phải là bằng chứng bạn đã bước
vào con đường tu.
Hãy
đoan chắc là bạn biết cách nhận ra được mỗi một điều
kiện trong tất cả những điều kiện tự do và thuận duyên,
và hãy tự quán chiếu xem là bạn có những điều ấy hay
không. Đây là vấn đề trọng yếu.
3.
Quán Chiếu Dựa Trên Những Biểu Tượng
Để
Thấy Rằng Tự Do và Thuận Duyên Rất Khó Tìm
Đức
Phật nói rằng việc có được thân người (được sinh ra
làm người) còn khó hơn việc một con rùa trồi lên từ đáy
biển, ngẫu nhiên chui đầu vào cái lỗ của một cái ách
bằng gỗ đang dập dình trên mặt đại dương giữa những
cơn sóng khổng lồ.
Hãy
hình dung toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới (tam thiên
đại thiên thế giới) như một đại dương bao la. Một cái
ách trôi nổi trên mặt biển, đó là một miếng gỗ có khoét
một cái lỗ để tròng quanh sừng trâu bò được dùng để
kéo xe. Cái ách này bị sóng biển làm cho trôi nổi đó đây,
khi thì hướng đông khi thì hướng tây, không bao giờ ở một
chỗ dù trong chốc lát. Ở đáy sâu của đại dương có một
con rùa mù cứ một trăm năm lại nổi lên mặt nước một
lần.35 Việc con rùa và cái ách có thể gặp được nhau là
điều cực kỳ khó có thể xảy ra. Bản thân cái ách là vật
vô tri; con rùa thì không có ý định tìm cái ách. Con rùa bị
mù không thể dùng mắt để nhận ra cái ách. Nếu cái ách
đứng yên ở một chỗ, thì còn dễ có thể có một cơ hội
để chúng gặp nhau; nhưng cái ách lại di chuyển liên tục.
Nếu con rùa phải sử dụng toàn bộ thời gian để bơi quanh
mặt biển thì có lẽ nó có thể gặp cái ách; nhưng nó chỉ
nổi lên duy nhất một lần trong một trăm năm. Do đó, những
cơ hội để con rùa và cái ách gặp nhau thật hết sức nhỏ
nhoi. Tuy nhiên, nhờ cơ hội mỏng manh ấy mà con rùa vẫn có
thể chui đầu vào cái ách. Nhưng Kinh điển nói rằng so với
điều đó thì việc được sinh ra làm người với những điều
kiện tự do và thuận lợi thậm chí còn khó hơn thế nữa.
Tổ Long Thọ có mô tả điều này trong Long Thọ Bồ Tát Khuyến
Giới Vương Tụng (Lời Khuyên cho Vua Surabhibhadra):36
Thật
khó xảy ra việc một con rùa mù có thể ngẫu nhiên
trồi
lên chui đầu vào một cái ách dập dình trên một đại dương
bao la;
Tuy
thế, so với việc tái sinh làm súc sinh thì việc được
sinh
ra làm người còn hiếm hoi hơn thế nữa.
Do
đó, ôi Đức Vua, Hãy tu hành Giáo Pháp chân chính để vận
may của Ngài sẽ kết thành chánh quả!
Và
Ngài Tịch Thiên (Santideva) có nói:
Đức
Phậit đã tuyên thuyết rằng gống như một con rùa ngẫu nhiên
có thể Đặt đầu nó vào trong một cái ách trôi dạt giữa
đại dương không bờ bến, Việc sinh ra làm người quả thật
khó tìm.
Sự
khó khăn của việc được sinh ra trong thân người cũng được
so sánh với việc ta ném những hạt đậu khô vào một bức
tường trơn láng mà hạt đậu lại dính được vào bức tường
đó, hay việc đặt một nhúm đậu cho thật cân phân trên
đầu một mũi kim dựng đứng – việc làm này, thậm chí
chỉ phải làm với một hạt đậu duy nhất thôi là cũng đã
đủ khó rồi! Điều quan trọng là ta phải thấu hiểu những
biêåu tượng so sánh này, được trích ra từ Đại Bát Niết
Bàn Kinh, cùng với những so sánh tương tự ở trong các bản
văn khác.
4.
Quán Chiếu
Dựa
Trên Những So Sánh Bằng Số Lượng
Khi
bạn khảo sát số lượng tương đối của các loại chúng
sinh khác nhau, bạn có thể cảm kích rằng để được sinh
làm một con người thì hoàn toàn khó có thể có được. Qua
cách minh họa trên, ta được biết rằng chúng sinh trong các
cõi địa ngục thì nhiều như sao trong bầu trời đêm, [và
nếu so theo đó thì] số chúng sinh trong cõi ngạ quỷ thì không
thể nhiều hơn được số lượng những ngôi sao nhìn thấy
vào ban ngày. Còn nếu ngạ quỷ nhiều như sao ban đêm,
thì súc sinh chỉ nhiều như những vì sao ban ngày; và nếu
súc sinh nhiều như sao ban đêm, thì chư Thiên và con người
chỉ như sao ban ngày.
Cũng
có được nghe nói rằng chúng sinh trong địa ngục nhiều như
vi trần (bụi) trong toàn thể thế giới, ngạ quỷ nhiều như
cát sông Hằng, súc sinh nhiều như những hạt lúa mạch trong
một thùng chứa bia,37 và A Tu La nhiều như những bông tuyết
trong một trận bão tuyết – nhưng chư Thiên và con người
thì ít như những hạt bụi đất dính trong một móng tay.
Để
có được thân tướng như bất kỳ chúng sinh nào trong các
cõi cao cũng đã là hiếm có, nhưng có được một đời người
với đầy đủ những điều kiện tự do và thuận duyên thì
lại càng hy hữu hơn nữa. Chúng ta có thể tự thấy rằng
vào bất kỳ lúc nào nếu so với loài vật thì loài người
ít ỏi hơn biết bao. Hãy nghĩ xem có bao nhiêu sâu bọ sống
trong một cục đất vào mùa hè, hay có bao nhiêu con kiến trong
một tổ kiến duy nhất – mới chỉ nhiều bằng số người
trong toàn thế giới. Nhưng ngay trong nhân loại, chúng ta có
thể thấy rằng so với tất cả những ai sinh trong những
miền xa xôi hẻo lánh nơi mà Giáo Pháp chưa từng xuất hiện,
thì những người sinh ra ở những nơi Giáo Pháp đã được
truyền bá thật đặc biệt hiếm hoi. Và ngay cả trong những
người đó cũng chỉ có một số rất ít người có đủ những
điều kiện tự do và thuận duyên.
Với
tất cả những viễn cảnh này trong tâm, bạn nên để cho
lòng mình tràn đầy hoan hỷ khi biết rằng bạn thực sự
có được đầy đủ tất cả mọi điều kiện tự do và thuận
duyên [để có thể tu hành].
Một
đời người có thể được gọi là một “đời người quý
báu” chỉ khi nào đời người ấy chứa đựng đầy đủ
mọi khía cạnh của những điều kiện tự do và thuận duyên,
và từ đó trở đi mới thực sự trở nên quý báu. Nhưng
khi nào mà những khía cạnh đó chưa được đầy đủ, thì
cho dù sự hiểu biết, kiến thức và tài năng của bạn trong
những sự việc thông thường có rộng lớn tới đâu chăng
nữa, bạn cũng không có được một « đời người quý báu
». Như thế có nghĩa là bạn chỉ có được cái gọi là một
đời người bình thường, một đời người đơn thuần, đời
người không may mắn, đời người vô nghĩa, hay một đời
người trắng tay. Đời người như thế thì cũng giống như
việc tay cầm ngọc như ý mà không biết sử dụng nó, hay
việc bạn đi đến một xứ sở ngập đầy châu báu mà trở
về tay không.
Tình
cờ gặp được một viên ngọc quý
Thì
chẳng đáng gì đối với việc tìm được đời người quý
báu.
Hãy
nhìn xem những kẻ không biết ngao ngán luân hồi
Lãng
phí cuộc đời ra sao!
Chiếm
được cả một vương quốc
Thì
chẳng đáng gì đối với việc gặp được một vị Thầy
toàn hảo.
Hãy
nhìn những người không có lòng quy kính
Đối
xử với vị Thầy như ngang hàng với họ ra sao!
Đứng
đầu cả một vùng, miền
Thì
chẳng đáng gì đối với việc thọ Bồ Tát giới.
Hãy
nhìn những người không có lòng bi mẫn
Ném
bỏ những giới nguyện của họ ra sao!
Được
cai trị cả thế giới
Thì
chẳng đáng gì đối với việc thọ nhận quán đảnh Mật
Thừa.
Hãy
nhìn những kẻ không tuân giữ các mật nguyện
Vứt
bỏ những hứa nguyện của họ ra sao!
Thấy
được Đức Phật
Thì
chẳng đáng gì đối với việc thấy được chân tánh của
tâm
Hãy
nhìn những kẻ không có quyết tâm
Lại
chìm sâu trong mê lầm ra sao!
Những
điều kiện tự do và thuận duyên này không đến tình cờ
hay ngẫu nhiên. Tất cả đều là kết quả của công đức
và trí tuệ đã được tích lũy trong nhiều kiếp. Đại học
giả Trakpa Gyaltsen có nói:
Có
được thân người đầy đủ các tự do và thuận duyên này
Không
phải là kết quả của tài xoay sở
Mà
đến từ công đức bạn đã tích lũy được.
Có
được đời người chỉ để đắm mình trong những ác hạnh
mà không có chút ý niệm nào về Đạo Pháp thì còn thấp
kém hơn cả chúng sinh trong những cõi thấp. Như Ngài Jetsun
Milarepa đã từng nói với người thợ săn Gonpo Dorje:
Có
được những tự do và thuận duyên của một đời người
thì thường được coi là quý báu, Nhưng khi ta nhìn những
người như ông thì thấy chẳng có vẻ quý báu chút nào.
Không
gì có khả năng chiêu cảm, đọa bạn xuống những cõi thấp
hơn là chính cuộc đời của con người. Bạn làm gì với
cuộc đời ấy, ngay bây giờ, tuỳ thuộc vào chỉ mình bạn
thôi:
Khéo
sử dụng thì thân này là chiếc bè đưa tới giải thoát,
Sử
dụng một cách tệ hại thì thân này neo chúng ta lại
với luân hồi.
Thân
xác này so tài cao thấp giữa giữa hai cái thiện lẫn
ác.
Chính
là nhờ vào năng lực của tất cả công đức bạn đã tích
lũy được trong quá khứ mà giờ đây bạn có được thân
người với đầy đủ mười tám điều kiện tự do và thuận
duyên. Việc bạn sao lãng điều cốt tủy duy nhất – Giáo
Pháp siêu việt
–
và thay vào đó, tiêu trọn đời bạn trong việc thâu hoạch
thực phẩm, quần áo và mê đắm tám mối quan tâm thế gian
(bát phong), thì đó chính là phí phạm những tự do và những
thuận duyên của bạn một cách thật vô ích. Thật vô tích
sự
biết bao khi chờ đến lúc cái chết vồ chụp lấy bạn rồi
đến lúc đó bạn mới đấm ngực ăn năn hối tiếc! Hẳn
là bạn đã có một chọn lựa sai lầm, như đã có nói trong
Nhập Bồ Tát Hạnh:
Do
đó, khi đã tìm được những tự do của một đời người,
Nếu
giờ đây tôi không rèn luyện bản thân bằng đức hạnh,
Thì
liệu còn có sự điên rồ nào to lớn hơn?
Làm
sao tôi có thể lừa dối chính mình hơn được nữa?
Như
thế, cuộc đời hiện tại này là bước ngoặt mà nhờ đó
bạn có thể lựa chọn giữa cái thiện trường cửu hay cái
ác lâu dài. Nếu ngay bây giờ bạn không tận dụng những
tự do có được trong đời này để nắm lấy thành lũy của
chân tánh tối hậu, thì trong những đời sau bạn sẽ rất
khó có được tự do như thế này một lần nữa. Một khi
bạn phải bị tái sinh vào trong bất kỳ thân tướng nào nơi
những cõi thấp, thì sẽ chẳng bao giờ còn có ý niệm nào
về Đạo Pháp loé lên trong bạn. Quá hoang mang không biết
điều gì nên làm và điều gì không nên làm, bạn sẽ không
ngừng lao càng lúc càng sâu xuống những cõi thấp. Vậy hãy
tự nhủ rằng bây giờ là lúc để phải cố gắng tu hành,
thiền định liên tục, áp dụng ba phương pháp tối thắng
sau đây: (1) khởi đầu với ý niệm về Bồ Đề Tâm, (2)
hành trì chính các pháp tu mà không có mảy may vọng tưởng,
và (3) hồi hướng công đức vào lúc kết thúc.
Như
một hình thức đo lường xem pháp tu này (tư duy về những
điều kiện tự do và thuận duyên của đời người) thực
sự thuyết phục chúng ta nhiều tới mức độ nào, thì chúng
ta phải làm sao để giống được như Geshe Chengawa, người
đã sử dụng toàn bộ thời gian để tu tập và thậm chí
không bao giờ ngủ. Ngài Geshe Tonpa nói với đệ tử rằng:
“Tốt hơn là con nên nghỉ ngơi, con của ta. Con sẽ làm mình
bị bệnh đấy.”
“Vâng,
con sẽ nghỉ ngơi,” Ngài Chengawa trả lời. “Nhưng khi con
nghĩ thật khó khăn biết bao để tìm được những điều
kiện tự do và thuận duyên mà chúng ta đang có, thì con không
có thời giờ nào để nghỉ ngơi.” Ngài trì tụng chín trăm
triệu lần câu thần chú của Miyowa và không ngủ suốt cuộc
đời Ngài. Chúng ta phải thiền định cho đến khi nào một
lòng xác tín y hệt như vậy thực sự trổi dậy trong tâm
thức chúng ta.
Dù
con đã đạt được những tự do này, con vẫn nghèo khó
trong
Giáo Pháp, là tinh túy của tự do.
Dù
con đã bước đến với Đạo Pháp, con đã lãng phí thời
giờ
khi làm những công việc khác.
Xin
từ bi gia hộ cho con và những kẻ xuẩn ngốc như con,
Để
chúng con có thể đạt được tinh túy đích thực của
những
tự do và thuận duyên khó tìm.
Vua
Trisong Detsen (790 – 844)
Là
vị vua đã thỉnh mời học giả Santaraksita (Tịch Hội) và
đạo sư Kim Cương Thừa Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) tới Tây-Tạng.
Ngài cho xây dựng Samye, tu viện đầu tiên tại Tây Tạng,
và nhận lãnh trách nhiệm củng cố nền tảng Phật Giáo tại
Tây-Tạng.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 4 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:01pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
HAI
LẼ VÔ THƯỜNG
CỦA CUỘC ĐỜI
Nhìn
tam giới này như ảo ảnh phù du,
Ngài
bỏ lại sau lưng những mối quan tâm thế tục,
như
bãi nước bọt trong bụi đất.
Chấp
nhận mọi gian khó, Ngài theo chân chư Đạo Sư đời quá khứ.
Đạo
Sư Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
Cách
thức để lắng nghe Giáo Pháp đã được mô tả trong Chương
thứ Nhất. Chủ đề chính yếu trong chương này bao gồm bảy
pháp thiền quán về: (1) sự vô thường của vũ trụ bên ngoài
(outer universe) nơi có chúng sinh đang sinh sống, (2) sự
vô thường của chúng sinh sống trong đó, (3) sự vô thường
của những bậc hiền thánh, (4) sự vô thường của những
người có địa vị và thế lực, (5) các ví dụ khác về
vô thường, (6) sự bất định của những hoàn cảnh đưa
đến cái chết, và (7) sự tỉnh giác mãnh liệt về lẽ vô
thường.
I.
SỰ VÔ THƯỜNG
CỦA
VŨ TRỤ BÊN NGOÀI NƠI CÓ CHÚNG SINH ĐANG SINH SỐNG
Thế
giới của chúng ta, môi trường bên ngoài này được hình
thành bởi cộng nghiệp tốt lành của chúng sinh. Thế
giới ấy được cấu trúc một cách thật vững chãi, kiên
cố, bao gồm bốn đại lục, Núi Tu Di và các cõi trời, và
thế giới ấy tồn tại trọn một đại kiếp. Tuy vậy,
thế giới ấy thì vô thường và sẽ không thoát khỏi sự
hủy diệt cuối cùng của bảy quá trình hoả tai (thiên tai
do lửa gây ra) và một quá trình thủy tai (thiên tai do nước
gây ra).
Khi
kiếp hiện tại đang tiến dần đến thời điểm của sự
hủy diệt, chúng sinh sinh sống trong các cõi thấp (dưới cõi
của chư Thiên chứng đắc định sơ thiền) sẽ dần dần
biến mất trong từng cõi một, cho tới lúc không còn sót một
chúng sinh nào.
Rồi,
cái này sau cái kia, bảy mặt trời sẽ mọc trong bầu trời.
Mặt trời thứ nhất sẽ thiêu sạch tất cả các cây ăn trái
và rừng rậm. Mặt trời thứ hai sẽ làm bốc hơi mọi giòng
suối, vũng lạch, và ao hồ; mặt trời thứ ba sẽ làm khô
cạn mọi con sông; và mặt trời thứ tư làm khô cạn các
hồ lớn, ngay cả hồ Manasarovar. Khi mặt trời thứ năm xuất
hiện, các đại dương cũng sẽ dần dần bốc hơi, trước
tiên tới bề sâu một trăm lý (một lý = 4,8km), rồi hai trăm,
bảy trăm, một ngàn, mười ngàn, và cuối cùng là tám mươi
ngàn lý. Nước biển còn sót lại sẽ rút từ một lý xuống
một tầm nghe, cho tới khi chỉ còn lại thậm chí không đầy
một vết chân. Vào lúc cả sáu mặt trời cùng bốc cháy,
toàn thể trái đất và các ngọn núi phủ tuyết cũng sẽ
bốc cháy thành những ngọn lửa. Và khi mặt trời thứ bảy
xuất hiện, chính Núi Tu Di sẽ bốc cháy đồng thời với
bốn đại lục, tám tiểu lục địa, bảy ngọn núi vàng,
và vòng tường gồm các ngọn núi ngay nơi bờ mép của vũ
trụ này. Mọi thứ sẽ chảy ra thành một đống lửa khổng
lồ. Khi lửa cháy xuống phía dưới, nó sẽ thiêu đốt mọi
cảnh giới địa ngục. Khi nó cháy lên trên, lửa sẽ nhận
chìm thiên cung của Phạm Thiên, đã bị phế bỏ từ lâu.
Trên các cung Trời, các vị Trời trẻ tuổi trong cảnh giới
Tịnh Quang sẽ hoảng sợ thét lên: “Đám cháy lớn khủng
khiếp!” Nhưng các vị Trời lớn tuổi hơn sẽ trấn an và
nói: “Đừng sợ! Khi lửa cháy đến thế giới của Phạm
Thiên, nó sẽ lụi tàn. Điều này đã từng xảy ra trước
đây.” * Những giai đoạn huỷ
diệt này hoàn toàn xảy ra trong một đại kiếp, nhưng ngay
cả những vị Trời trường thọ này cũng có thể già đi
ở giữa khoảng thời gian của sự huỷ diệt đầu tiên và
sự huỷ diệt thứ bảy do lửa gây ra; và sau đó cõi của
họ – một phần thuộc về tầng thiền định thứ hai –
sẽ bị nước huỷ diệt.
Sau
bảy lần bị lửa hủy diệt như thế, các đám mây mưa sẽ
hình thành trong cảnh giới của các vị Trời thuộc tầng
thiền thứ hai và một trận mưa như thác có độ dầy bằng
một cái ách sẽ đổ xuống, theo sau là một trận mưa dày
bằng một cái cày. Giống như muối hòa tan trong nước, tất
cả mọi thứ từ cõi Tịnh Quang trở đi và kể cả cõi giới
Tịnh Quang, cũng sẽ đêu tan ra.
Sau
khi sự hủy hoại thứ bảy do nước gây ra như thế qua đi,
chày kim cang đôi của gió ở đáy vực của thế giới sẽ
nổi lên. Giống như bụi đất bị gió tung rải, mọi
thứ từ cõi tam thiền trở đi và kể cả cảnh giới của
các vị Trời của tầng thiền thứ ba này cũng sẽ hoàn toàn
bị cuốn đi.
Hãy
quán chiếu sâu xa và một cách chân thành để thấy rằng,
nếu mỗi một trong hàng tỉ thế giới cấu tạo nên các vũ
trụ – mỗi thế giới với một Núi Tu Di, bốn trung châu
(lục địa) và các cõi Trời riêng – còn phải bị hủy
diệt cùng lúc theo cách thức như đã được mô tả như trên,
chỉ còn để lại không gian ở phía sau, thì làm thế nào
những thân người như chúng ta, giống như những con ruồi
lúc cuối mùa, có thể có được chút thường hằng vĩnh cửu
hay sự bền vững nào?
II.
SỰ VÔ THƯỜNG
CỦA
CHÚNG SINH SỐNG TRONG VŨ TRỤ
Từ
tột đỉnh của các cõi Trời cao nhất cho tới tận cùng của
địa ngục, không có được lấy một chúng sinh nào có thể
thoát khỏi cái chết. Như trong Linh Ly Sầu Ưu (Lá Thư An Ủi)
có ghi:
Bạn
có từng thấy, trên mặt đất hay trong các cõi Trời,
Một
chúng sinh nào được sinh ra mà không chết?
Hoặc
nghe rằng một chuyện như thế từng xảy ra?
Hay
ngay cả hoài nghi rằng điều đó là điều có thể?
Tất
cả những gì được sinh ra rồi cũng bị buộc phải chết
đi. Không ai từng thấy hay nghe nói về người nào đó trong
bất kỳ cảnh giới nào – ngay cả trong thế giới của các
vị Trời – được sinh ra nhưng không bao giờ chết. Thật
vậy, thậm chí chưa bao giờ có chuyện chúng ta tự hỏi một
người sẽ chết hay không. Cái chết là một điều chắc chắn.
Đặc biệt là đối với chúng ta, là những người được
sinh ra vào cuối một kỷ nguyên** trong một thế giới nơi
mà chiều dài của cuộc đời thì không thể tiên đoán được
– chẳng mấy chốc cái chết sẽ tới. Cái chết tới càng
lúc càng gần ngay từ giây phút chúng ta được sinh ra đời.
Cuộc đời chỉ có thể ngắn đi chứ không bao giờ dài ra.
Chẳng chút gì động tâm, Thần Chết tới gần, không hề
ngơi nghỉ một chốc lát, giống như cái bóng của một ngọn
núi lúc hoàng hôn.
**
Lúc cuối của một kỷ nguyên là thời kỳ suy tàn trong đó
đời sống còn mỏng manh hơn nữa.
Bạn
có biết chắc chắn khi nào mình chết, hoặc chết ở đâu
không? Chuyện đó có thể xảy ra ngày mai, hay đêm nay? Bạn
có thể quả quyết rằng cái chết sẽ không đến với bạn
ngay bây giờ, giữa hơi thở này và hơi kế tiếp không? Như
trong Pháp Tập Yếu Tụng Kinh có nói :
Ai
quả quyết được rằng họ sẽ sống đến ngày mai?
Bây
giờ là lúc phải sẵn sàng,
Bởi
đạo quân của Thần Chết
Không
là bằng hữu của chúng ta.
Và
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) cũng nói:
Đời
sống lập loè trong những cơn giông gió của một ngàn điều
bất hạnh,
Còn
mong manh hơn một bọt nước trong giòng suối.
Trong
giấc ngủ, mỗi hơi thở ra đi và lại được hít vào;
Kỳ
diệu biết bao khi ta thức dậy mà vẫn còn sống!
Khi
hít thở nhẹ nhàng, người ta vui hưởng giấc ngủ của mình.
Nhưng không có gì bảo đảm là cái chết sẽ không lẻn vào
giữa một hơi thở này và hơi thở kế tiếp. Thức dậy trong
sự khỏe mạnh là một sự kiện rất đáng được coi là
kỳ diệu, song chúng ta lại cho đó là điều hoàn toàn tất
nhiên.
Mặc
dù biết rằng ta sẽ chết một ngày nào đó, nhưng chúng ta
không thực sự để cho triển vọng của một cái chết luôn-luôn-thường-trực
ảnh hưởng đến thái độ sống của mình. Chúng ta vẫn tiêu
phí tất cả thời giờ của mình khi mang trong lòng những hy
vọng và lo âu về vấn đề sinh sống trong tương lai, như
thể chúng ta sẽ sống mãi. Chúng ta hoàn toàn bị cuốn hút
vào cuộc chiến đấu cho sự hạnh phúc, sung sướng và địa
vị, cho tới khi, thật bất ngờ, chúng ta đối diện với
Thần Chết tay cầm sợi thòng lọng đen, cắn chặt môi dưới
và nhe những chiếc nanh trông thật dữ tợn.
Khi
ấy không điều gì có thể giúp đỡ được ta. Không đạo
quân nào, không sắc lệnh nào của nhà cầm quyền, không tài
sản nào của người giàu có, không sự sáng chói nào của
học giả, không vẻ duyên dáng nào của sắc đẹp, không sự
lanh lẹn nào của lực sĩ – chẳng điều gì còn ích lợi
nữa. Chúng ta có thể tự nhốt mình trong một cái tủ bọc
sắt không thể bị đâm thủng, được hàng trăm ngàn lực
sĩ tua tủa cung tên giáo mác bảo vệ; nhưng những thứ đó
không đem lại cho ta sự che dấu hay che chở nào dù chỉ bằng
bề dày của một sợi tóc. Một khi Thần Chết tròng sợi
thòng lọng đen quanh cổ ta, khuôn mặt ta bắt đầu nhợt nhạt,
đôi mắt đờ đẫn đẫm lệ, đầu và tứ chi xuôi xụi,
và dù muốn hay không, chúng ta bị lôi một mạch xuống xa
lộ để đi qua đời sau.
Cái
chết không thể bị đánh bại bởi bất kỳ chiến sĩ nào,
không thể bị sai sử bởi quyền lực, hoặc được hối lộ
bởi người giàu có. Cái chết không từ đâu tới, không nơi
ẩn nấp, không chỗ nương tựa, không người bảo vệ hay
dẫn dắt. Cái chết kháng cự lại với bất kỳ một sự
trông cậy nào nơi phương tiện và lòng từ bi. Một khi cuộc
đời ta đã cạn kiệt, thì cho dù đích thân Đức Phật Dược
Sư có xuất hiện chăng nữa, Ngài cũng không thể trì hỗn
cái chết của chúng ta.
Vì
thế, hãy quán chiếu và thiền định một cách chân thành
rằng ngay từ giây phút này trở về sau, thật là quan trọng
xiết bao để ta chẳng bao giờ còn rơi vào trong sự biếng
nhác và trì hỗn; phải luôn luôn thực hành Chân Pháp, vì
đây là điều duy nhất mà bạn có thể tin chắc là sẽ giúp
đỡ được bạn vào giây phút lià đời.
III.
SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG BẬC HIỀN THÁNH
Trong
Hiền Kiếp hiện tại, các đức Phật Ti Bà Thi (Vipasyin), Thi
Khí (Sikhin) và năm vị Phật khác đã xuất hiện, mỗi vị
với một thánh chúng riêng gồm vô số các vị Thanh Văn và
A La Hán. Mỗi Đức Phật đều phải hoằng hoá để đem lại
lợi lạc cho vô lượng chúng sinh nương vào các giáo lý của
Ba Thừa. Ngay cả tất cả các giáo lý mà ngày nay chúng ta
có được cũng là những gì còn sót lại của giáo lý của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, tất cả những vị Phật
đó đã nhập Niết Bàn và mọi Giáo Pháp thuần tịnh các
Ngài ban cho đã dần dần biến mất.
Từng
vị một, trong vô vàn các vị Thanh Văn vĩ đại của hệ thống
tôn giáo hiện tại, mỗi vị với hội chúng năm trăm vị
A La Hán, cũng đã siêu vượt đau khổ đi vào trạng thái giác
ngộ nơi không còn các uẩn.
Ở
Ấn Độ, có một thời Năm Trăm Vị A La Hán đã kết tập
Pháp ngôn của Đức Phật. Có Sáu Bảo Trang1 và Hai Đấng
Siêu Việt,** Tám Mươi (Tư) Thành Tựu Giả,*** và nhiều vị
khác nữa, là những bậc tinh thông tất cả mọi phẩm hạnh
của con đường tu cùng các trình tự tu tập, và có sự thấu
thị vô hạn cùng các năng lực kỳ diệu. Nhưng ngày nay những
gì còn lại từ các ngài chỉ là những câu chuyện kể rằng
các ngài đã sống ra sao.
Ở
đây, nơi xứ Tuyết Tây Tạng thì cũng vậy. Khi Đức Phật
Thứ Hai xứ Oddiyana**** chuyển Pháp Luân để dẫn dắt và
giải thoát chúng sinh, thì khi ấy, có tất cả những đệ
tử của Ngài hiện diện, như hai mươi lăm đệ tử được
gọi là Pháp Vương (Trisong Detsen) và Thần Dân, cùng Tám Mươi
Thành Tựu Giả ở Yerpa. Sau đó lại có các Đạo Sư của
Phái Cựu Dịch thuộc các bộ tộc So, Zur và Nub; các Ngài
Marpa, Milarepa và Dagpo của Phái Tân Dịch; cùng vô số các
bậc học giả và thành tựu giả khác. Hầu hết các Ngài
đã đạt được những quả vị chứng đắc rất cao và điều
phục được bốn yếu tố
*
Sáu Bảo Trang của Ấn Độ gồm có các ngài Long Thọ (Nagarjuna),
Thánh Thiên (Aryadeva), Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu),
Trần Na (Dignaga) và Pháp Xứng (Dharmakirti). ** Hai Đấng Siêu
Việt là hai ngài Đức Quang (Gunaprabha) và Thích Tử Quang (Shakyaprabha)
ở Ấn Độ. *** Tám Mươi Tư Vị Đại Thành Tựu Giả (Ma
ha tất đạt) là những vị tu tập theo Tối Thượng Du Già
tại Ấn Độ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12. ****
Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) thường được nhắc đến
như là Đức Phật thứ Hai của thời đại này của chúng
ta, truyền bá sâu rộng những giáo pháp của Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni.
(tứ
đại). Các Ngài có thể tạo nên đủ loại biến hoá thần
diệu. Các Ngài có thể làm cho các hiện vật xuất hiện từ
không trung và biến mất trở lại vào không trung. Các Ngài
không thể bị lửa đốt cháy, không bị nước cuốn trôi,
không bị đất đè bẹp hoặc không thể té rơi vào không
gian từ trên các vách núi cao – các Ngài đã hoàn toàn thoát
khỏi bất kỳ tai hoạ có thể gây ra bởi các yếu tố tứ
đại (đất, nước, gió, lửa).
Ví
dụ như, có một lần, Ngài Jetsun Milarepa đang thiền định
tĩnh lặng trong động Nyeshangkatya ở Nepal thì có một nhóm
thợ săn đi qua. Nhìn thấy Ngài ngồi ở đó, họ hỏi Ngài
là người hay ma. Milarepa vẫn bất động, Ngài nhìn chăm chú
vào phía trước và không trả lời. Những người thợ săn
bắn một loạt mũi tên tẩm độc vào Ngài, nhưng không mũi
tên nào chọc thủng được da Ngài. Họ ném Ngài xuống sông
rồi xuống bờ vực –nhưng mỗi lần như thế Ngài lại ngồi
ngay nơi đã ngồi trước đó. Cuối cùng, họ chất củi quanh
Ngài và phóng hỏa, nhưng lửa không thiêu cháy được Ngài.
Đã từng có rất nhiều các bậc thành tựu giả cũng
đã đạt được các thần lực như thế. Nhưng cuối cùng,
tất cả các Ngài đều chọn lựa [sự ra đi] để minh hoạ
cho chúng ta thấy rằng tất cả mọi hiện tượng đều vô
thường,** và ngày nay tất cả những gì còn sót lại từ
các Ngài chỉ là những câu truyện tiểu sử.
Đối
với chúng ta, các ác hạnh của ta được ngọn gió của các
chướng duyên cuốn bay về hướng của các khuynh hướng xấu
xa tiêu cực. Các khuynh hướng ấy đưa dẫn ta đến
đây, vào trong cái bộ máy tạm thời và dơ bẩn này,
là một bộ máy được tạo nên bởi bốn yếu tố vật chất,
nơi đó chúng ta bị sập bẫy và đời sống hữu tình của
ta bị lệ thuộc vào bộ máy ấy. Và bởi chúng ta không bao
giờ có thể quyết chắc rằng lúc nào và ở đâu thì ta,
cái tên bù nhìn của thân xác huyễn hóa
**
Các bậc như thế được coi như đã vượt thoát khỏi sinh
tử. Tuy nhiên, giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các ngài
đã chọn cái chết để nhắc nhở chúng sinh về lẽ vô thường.
này,
sẽ sửa soạn sắp tan rã, nên điều hết sức quan trọng
là ngay từ giây phút này trở về sau, bản thân chúng ta làm
sao phải tự tạo cảm hứng cho chính mình để tư tưởng,
ngôn từ và hành động của ta sẽ luôn luôn tốt lành.
Giữ trọn điều này trong tâm, hãy thiền định về lẽ vô
thường.
IV.
SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ ĐỊA VỊ VÀ THẾ LỰC
Có
những vị Trời và những vị tu luyện trường sinh risi, uy
nghi và lừng lẫy tuyệt đỉnh; họ có thể sống lâu cả
một đại kiếp. Nhưng ngay cả những vị này cũng không thể
thoát khỏi cái chết. Những vị cai trị chúng sinh, như chư
Phạm Thiên (Brahma), Đế Thích Thiên (Indra), Vi Nữu Thiên
(Visnu), Tự Tại Thiên (Isvara) và chư Thiên vĩ đại khác,
có thọ mạng kéo dài cảû một đại kiếp, với dáng vóc
hay tầm nghe đo được tới hàng nhiều lý (một lý= 4,8km),
và chư vị này có thần lực và vẻ lộng lẫy vượt xa mặt
trời và mặt trăng. Tuy thế, các vị này cũng không thể vượt
khỏi tầm với của cái chết. Như trong Kho Báu Thiện Đức
có nói:
Ngay
cả chư Phạm Thiên (Brahma), Đế Thích Thiên (Indra), Ma
Hê Thủ La (Mahesvara) và các vị đại đế thiên vương, Không
có cách nào lẩn tránh được Thần Chết.
Cuối
cùng, ngay cả các vị tu luyện trường sinh risi siêu phàm hay
các vị risi sống trong thế giới loài người với năm loại
thấu thị và có thần lực bay ngang bầu trời, thì họ cũng
không thể trốn thoát khỏi cái chết. Trong Linh Ly Sầu
Ưu có nói:
Các
vị tu luyện trường sinh vĩ đại với năm loại thần lực
Có
thể bay xa và rộng trong các bầu trời,
Song
họ sẽ chẳng bao giờ tới được một xứ sở
Nơi
có sự bất tử trị vì.
Ở
đây, trong thế giới loài người của chúng ta, có nhiều vị
đại đế đã đạt đến cực điểm của quyền lực và của
vật chất của cải. Taiï thánh địa Ấn Độ, bắt đầu
với Mahasammata, vô số các vị hoàng đế đã cai trị toàn
thể đại lục. Về sau có ba vị Pala, ba mươi bảy vị Candra
và nhiều vị vua giàu có và uy quyền khác đã trị vì cả
phía đông lâãn tây Ấn Độ.
Ở
xứ Tuyết Tây Tạng, vị vua đầu tiên là Nyatri Tsenpo, thuộc
dòng dõi siêu phàm, là một hóa thân của Bồ Tát Nivaranaviskambhin.
Kế đó có bảy vị thiên vương trị vì được gọi là Tri,
sáu vị địa vương được gọi là Lek, tám vị vua ở giữa
[giữa cung trời và trái đất] được gọi là De, năm vị
vua liên kết được gọi là Tsen, có mười hai và một nửa38
vị vua của Triều Đại May Mắn bao gồm năm vị vua của Triều
Đại Cực Kỳ May Mắn, và ngoài ra còn nhiều vị khác nữa.
Trong triều đại của Pháp Vương Songtsen Gampo, một đạo quân
thần diệu đã chế ngự tất cả các lãnh thổ từ Nepal
tới Trung Hoa. Vua Trisong Detsen đặt hai phần ba châu Jambudvipa*
(Diêm Phù Đề) dưới quyền lực của ngài, và trong triều
đại Ralpachen, một cột sắt được trồng trên bờ sông Hằng,
đánh dấu biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Tây Tạng
đã sử dụng quyền lực tại nhiều miền đất ở Ấn
Độ, Trung Hoa, Gesar, Tajikistan và các quốc gia khác. Tại lễ
hội mừng Nguyên Đán, các sứ giả của tất cả các nước
này được yêu cầu phải sống qua một ngày ở Lhasa.
Quyền lực của Tây Tạng là như thế trong quá khứ. Nhưng
quyền lực ấy không kéo dài, và ngày nay, ngoài những tường
thuật lịch sử ấy ra, không điều gì còn sót lại.
*
Ở đây thuật ngữ này dường như ám chỉ miền Nam Châu Á,
Mông Cổ và Trung Hoa.
Hãy
quán chiếu về những huy hoàng trong thời quá khứ đó. Nếu
so sánh với những huy hoàng này thì hết thảy những nhà cửa,
quyến thuộc, tôi tớ, địa vị và bất cứ điều gì khác
mà ta quý trọng dường như không đáng giá hơn một cái tổ
ong. Hãy thiền định sâu xa, và tự hỏi làm sao bạn có thể
nghĩ rằng những điều này sẽ tồn tại mãi mãi và không
bao giờ biến đổi.
V.
CÁC VÍ DỤ KHÁC VỀ VÔ THƯỜNG
Như
một ví dụ của sự vô thường, hãy quán sát chu kỳ sinh
trưởng và suy tàn xảy ra trong một đại kiếp. Thời xa xưa,
trong thời kỳ đầu tiên của đại kiếp này, trên bầu trời
không có mặt trời và mặt trăng, và tất cả con người được
chiếu sáng bởi sự chói ngời nội tại của họ. Họ có
thể di chuyển thật kỳ diệu qua không gian. Họ cao lớn đến
vài lý. Họ sống bằng chất cam lồ linh thiêng và thụ hưởng
niềm vui và hạnh phúc hoàn hảo, sánh được với đời sống
của chư thiên. Tuy nhiên, dần dần dưới ảnh hưởng của
những cảm xúc đắm nhiễm và ác hạnh, loài người suy hoại
dần tới tình trạng hiện nay. Ngay cả ngày nay, những xúc
cảm đó vẫn còn trở nên to lớn hơn nữa, nên thọ mạng
và sự thịnh vượng của con người vẫn còn suy giảm. Tiến
trình này sẽ tiếp tục cho tới khi con người sống không
quá mười năm. Hầu hết chúng sinh sống trong thế giới sẽ
biến mất trải qua những thời kỳ của dịch bệnh, chiến
tranh, và nạn đói. Sau đó đối với những người sống sót,
một hóa thân cuả Đức Phật Di Lặc sẽ thuyết giảng về
pháp từ bỏ sát sinh. Vào lúc này, loài người sẽ chỉ còn
cao một cubit (= 45,72cm). Từ đó trở đi thọ mạng của họ
sẽ tăng lên tới hai mươi năm, và sau đo,ù từ từ trở nên
lâu dài hơn cho tới khi đạt tới tám mươi ngàn năm. Vào
thời điểm đó, Đức Di Lặc sẽ xuất hiện trong thân người,
sẽ đạt được Phật quả và sẽ chuyển Pháp Luân.
Khi
mười tám chu kỳ sinh trưởng và suy hoại như thế đã xảy
ra và nhân loại sống trong một số năm không thể nghĩ bàn
thì Đức Lâu Chí Phật (Phạn: Rucika) sẽ xuất hiện và sẽ
trường thọ trong thời gian lâu bằng một ngàn Đức Phật
khác của Hiền Kiếp cộng lại. Các công hạnh và hoạt động
của ngài vì hạnh phúc của chúng sinh thì cũng thế, sẽ sánh
được với tất cả các công hạnh của cả ngàn Đức Phật
đó cộng lại. Cuối cùng, kiếp này sẽ chấm dứt trong sự
suy hoại. Khi suy xét về các sự chuyển dịch như thế, bạn
có thể thấy rằng ngay cả trên phạm vi rộng lớn này, không
có gì nằm ngoài tầm với của vô thường.
Cũng
thế, khi nhìn bốn mùa thay đổi, bạn có thể thấy được
mọi sự vô thường như thế nào. Vào mùa hè, đồng cỏ xanh
tươi và khát khao những trận mưa hè như chất cam lồ, và
mọi sinh linh tắm mình trong sự hừng hực của hạnh phúc
và niềm vui. Muôn hoa đang trổ nụ và toàn thể cảnh vật
cùng nhau khoe sắc thành một thiên đường của những sắc
màu trắng, vàng, đỏ thắm và xanh. Rồi khi mùa thu đến,
gió nhẹ mát hơn, đồng cỏ xanh đổi màu. Hoa và trái từng
cái một, khô đi và héo úa. Chẳng mấy chốc mùa đông bắt
đầu, và toàn thể vạn vật trở nên khô cứng và dễ vỡ
như đá. Những chiếc cầu và các con sông đóng băng, các
cơn gió lạnh giá lướt qua cảnh vật. Bạn có thể mất liên
tục nhiều ngày để tìm kiếm tất cả những đoá hoa mùa
hè đó và chẳng còn thấy được đoá hoa nào. Và như thế
mỗi mùa luân phiên nhau tới, mùa hạ nhượng bộ mùa thu,
mùa thu nhường bước mùa đông và mùa đông nhường chỗ
cho mùa xuân, mỗi mùa khác biệt với mùa đến trước đó,
và mỗi mùa hoàn toàn chỉ là một ảo ảnh phù du. Hãy nhìn
xem hôm qua và hôm nay chóng vánh như thế nào, buổi sáng và
tối hôm nay, năm nay và năm tới, mọi sự trôi đi cái này
sau cái kia. Chẳng có gì tồn tại mãi, chẳng có gì đáng
để có thể tin cậy!
Hãy
nghĩ tưởng về ngôi làng hay cộng đồng tu viện của bạn,
hoặc bất kỳ nơi nào bạn đang sống. Những người mới
trước đây không lâu thành công và an toàn thì nay bất thần
đối mặt với sự suy sụp; những người khác, xưa kia nghèo
khổ và bơ vơ thì nay nói năng đầy uy quyền, thế lực và
giàu có. Không có gì cứ như thế mãi mãi. Trong gia đình của
riêng bạn, từng thế hệ kế tục của cha mẹ, ông bà và
các cụ cố, tất cả đều đã chết, từng người một. Giờ
đây họ chỉ còn là các tên gọi đối với bạn. Và khi tới
lúc [phải ra đi khỏi cõi đời này] thì nhiều anh em, chị
em và những người thân khác cũng sẽõ chết, và không ai
biết được họ đi về đâu hoặc giờ đây họ đang ở đâu.
Với những người đầy quyền thế, giàu có và thịnh vượng
mà mới chỉ năm ngoái đây thôi còn là người lỗi lạc nhất
trong xứ sở, thì nhiều người năm nay chỉ còn là những
cái tên. Ai biết được những người mà giờ đây sự giàu
có và tầm quan trọng của họ làm mọi người phải thèm
muốn, họ sẽ vẫn còn tồn tại ở vị trí tương tự vào
thời điểm này trong năm tới, hoặc ngay cả trong tháng tới
hay chăng? Đối với các gia súc của riêng bạn
–
cừu, dê, chó - bao nhiêu con đã chết trong quá khứ và bao
nhiêu con vẫn còn sống? Khi bạn suy tưởng về điều gì xảy
ra trong tất cả những trường hợp này, bạn có thể thấy
rằng không sự gì cứ yên vị như thế mãi mãi. Với tất
cả những người sống hơn một trăm năm về trước, không
có lấy một người thoát khỏi cái chết. Và trong hàng trăm
năm khác từ bây giờ, mỗi một người hiện đang sống khắp
thế giới sẽ chết. Không ai trong số họ sẽ còn sót lại.
Như
thế tuyệt đối không có gì trong thế giới, dù hữu tình
hay vô tri, có bất kỳ sự bền chắc hay thường hằng nào.
Bất
kỳ điều gì được sinh ra đều vô thường và buộc phải
chết đi.
Bất
kỳ điều gì được tích luỹ đều vô thường và buộc phải
cạn kiệt.
Bất
kỳ điều gì tụ hội đều vô thường và buộc phải chia
ly.
Bất
kỳ điều gì được xây dựng đều vô thường và buộc phải
sụp đổ.
Bất
kỳ điều gì hưng thịnh đều vô thường và buộc phải suy
tàn.
Cũng
thế, tình bằng hữu và sự thù địch, vận may và nỗi buồn
phiền, điều tốt và xấu, tất cả những tư tưởng lướt
qua tâm bạn – mọi sự luôn biến đổi.
Bạn
có thể là người tuyệt mỹ và cao quý như những vị Trời,
mạnh mẽ như sấm sét, giàu có như một naga (thuỷ long), đẹp
đẽ như một vị Trời hay dễ thương như một cầu vồng
– nhưng dù bạn là ai hoặc là gì chăng nữa, khi cái chết
bất thần vồ đến thì bạn không thể làm được bất cứ
điều gì dù chỉ trong chốc lát. Bạn phải ra đi không được
lựa chọn, trần trụi và lạnh lẽo, đôi bàn tay không của
bạn bị cột cứng dưới nách. Mặc dù không thể chịu đựng
nổi khi phải lìa bỏ tiền của, những tài sản yêu qúi,
bằng hữu, những người thân yêu, người hầu, đệ tử,
quốc gia, xứ sở, thần dân, của cải, đồ ăn, thức uống
và tài sản, bạn phải hoàn toàn để lại mọi sự sau lưng,
giống như một sợi tóc bị kéo ra khỏi một miếng bơ.* Bạn
có thể là vị Lạt Ma lãnh đạo hàng ngàn nhà sư, nhưng bạn
không thể mang theo mình dù chỉ một người trong số họ.
Bạn có thể là thủ lãnh của hàng mười ngàn người, nhưng
bạn không thể mang theo thậm chí chỉ một người làm người
hầu của bạn. Tất cả mọi tài sản trong thế giới này
cũng vẫn không thể đem lại cho bạn bất cứ sức mạnh nào
để đem theo với bạn bất cứ thứ gì, ngay cả chỉ một
cây kim và một sợi chỉ.
*
Bơ không dính vào sợi tóc. Chỉ có dấu vết trống rỗng
của sợi tóc là còn lại.
Cũng
thế, thân thể yêu quí của bạn sắp bị bỏ lại đằng
sau. Chính thân thể này đã được quấn bọc suốt đời trong
lụa là và gấm thêu, được nuôi dưỡng kỹ lưỡng bằng
trà và bia ê hề, và đã có một thời trông bạn đẹp đẽ
và xuất sắc như một vị trời, thì nay bạn được gọi
là một tử thi, và đang bị bỏ mặc nằm đo,ù xám xịt,
nặng nề và dúm dó thật khủng khiếp. Đức Jetsun Mila đã
nói:
Vật
mà ta gọi là tử thi này, trông thật khiếp hãi,
Thì
đã sẵn ở đây – chính là thân thể của ta.
Xác
bạn bị cột chặt bằng một sợi dây và được phủ bằng
một tấm màn, được giữ ở một nơi cùng với đất và
đá. Cái tô của bạn bị lật úp xuống gối. Dù bạn được
tôn quý và được yêu mến đến đâu chăng nữa, giờ đây
bạn khơi gợi sự khiếp hãi và buồn nôn. Khi một người
sống nằm xuống ngủ, ngay cả trên đống lông thú và thảm
lông cừu mềm mại, chỉ một lát sau họ đã bắt đầu cảm
thấy khó chịu và phải trở mình. Nhưng một khi bạn đã
chết, bạn nằm yên đó, gò má dựa vào một hòn đá hay bụi
cỏ, tóc bạn bê bết đất.
Một
số trong các bạn là những gia trưởng hay trưởng bộ tộc,
có thể lo lắng về những người đang nằm dưới sự chăm
sóc của bạn. Một khi bạn không còn ở đó để chăm sóc
họ, liệu họ có dễ dàng chết vì đói hay lạnh, bị kẻ
thù giết, hoặc chết đuối trong giòng sông? Tất cả tài
sản, tiện nghi và hạnh phúc của họ không tùy thuộc vào
bạn sao? Tuy nhiên, thực tế là sau khi bạn chết, họ sẽ
chẳng cảm thấy điều gì trừ sự nhẹ nhõm khi tìm được
cách tống khứ tử thi của bạn bằng cách hỏa táng, ném
xuống sông, hoặc quăng nó vào nghĩa địa.
Khi
bạn chết, bạn không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc
lang thang hoàn toàn cô độc trong trạng thái trung ấm mà không
có lấy một người đồng hành. Vào lúc đo,ù nơi nương tựa
duy nhất của bạn sẽ là Phật Pháp. Vì thế hãy tự nhắc
đi nhắc lại với mình rằng từ nay trở về sau bạn, phải
tinh tấn cố gắng làm sao để thành tựu cho bằng được
ít nhất là một pháp tu chân chính của Giáo Pháp.
Bất
kỳ cái gì được tích lũy bắt buộc phải cạn kiệt. Một
vị vua có thể cai trị toàn thể thế giới mà vẫn kết thúc
như một kẻ lang thang. Nhiều người bắt đầu cuộc đời
với tài sản vây quanh và chấm dứt nó bằng chết đói, mất
sạch tất cả. Những người có đàn súc vật hàng trăm con
trong một năm có thể bị sa sút đến độ trở nên bần cùng
vào năm sau bởi các bệnh dịch hoặc tuyết ngập dày, và
một số người mới chỉ một ngày trước đó còn giàu có
và đầy quyền lực, thình lình có thể thấy chính mình phải
ăn xin bố thí vì bị kẻ thù thiêu hủy mọi thứ họ đã
sở hữu. Tất cả những điều này xảy ra là những gì bạn
có thể nhìn thấy cho chính bạn; đó là bạn không thể mãi
mãi bám chặt vào tài sản và của cải của bạn. Đừng bao
giờ quên rằng sự rộng lượng (bố thí) là vốn liếng quan
trọng nhất để tích lũy.*
Không
có sự tụ hội nào có thể kéo dài mãi. Mọi tụ hội sẽ
luôn luôn chấm dứt trong sự phân ly. Chúng ta giống như những
cư dân ở những nơi chốn khác nhau tập họp lại hàng ngàn
và thậm chí hàng vạn người trong một hội chợ vĩ đại,
hay trong một lễ hội tôn giáo quan trọng, chỉ để rời nhau
khi ai nấy trở về nhà. Bất kỳ mối tương quan thắm thiết
nào chúng ta đang thụ hưởng hiện nay – giữa các vị Thầy
và các đệ tử, chủ và tớ, những người ban sự gia hộ
và những người được che chở, các bằng hữu tâm linh, các
anh em và chị em, chồng và vợ – ta không thể nào tránh khỏi
sự phân ly vào lúc kết thúc. Thậm chí ta không thể quả
quyết rằng cái chết hay một vài biến cố khủng khiếp khác
không bất thần chia lìa chúng ta ngay bây giờ. Bởi những
bằng hữu tâm linh, những cặp vợ chồng v.v... có thể bị
chia cắt thình lình bất kỳ lúc nào, vì thế tốt hơn, chúng
ta nên tránh giận dữ và cãi vã, tránh những lời nói ác
và sự tranh chấp lẫn nhau. Không bao giờ ta biết được chúng
ta có thể sống với nhau bao lâu, vì thế ta nên lập quyết
*
Nói cách khác, một vốn liếng công đức. Quan niệm này đã
được giảng ở Phần Hai, Chương 4.
định
là sẽ quan tâm và thương mến nhau trong quãng thời gian ngắn
ngủi còn lại. Như ngài Padampa Sangye có nói:
Gia
đình thì phù du như một đám đông trong ngày phiên chợ;
Dân
chúng xứ Tingri, đừng tranh cãi hay đánh nhau!
Bất
kỳ kiến trúc nào được xây dựng cũng buộc phải sụp đổ.
Các làng mạc và tu viện mà một thời từng thành công và
thịnh vượng, giờ đây nằm hoang vắng và bị bỏ phế, và
nơi mà một thời các chủ nhân cẩn trọng của chúng đã
từng sống, thì nay chỉ còn những chú chim làm tổ. Ngay cả
tu viện trung ương Samye ba tầng, được những người thợ
hóa thân kỳ diệu xây dựng trong triều đại Đức Vua Trisong
Detsen và được Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyana hiến cúng,
đã bị lửa thiêu hủy chỉ trong một đêm. Cung điện Núi
Đỏ có trong thời đại Đức Vua Songtsen Gampo được so sánh
với cung điện của chính vị vua Trời Đế Thích, nhưng giờ
đây ngay cả những tảng đá làm nền móng cũng không còn.
So sánh với những công trình đó thì các thành phố, nhà cửa
và tu viện của chúng ta hiện nay chỉ là những tổ côn trùng.
Vì thế tại sao chúng ta lại quá coi trọng chúng đến thế?
Tốt hơn, hãy hết lòng noi theo gương sáng của các hành giả
Kagyupa ngày xưa, là những vị đã bỏ lại quê hương phía
sau và tiến thẳng vào nơi hoang dã. Các Ngài đã sống dưới
chân những vách đá, chỉ có thú hoang làm bầu bạn và không
chút bận tâm tới thực phẩm, quần áo hay thanh danh, ôm chặt
lấy bốn mục đích tu tap căn bản của các hành giả Kadampa:
Hãy
đặt tâm của bạn trên Pháp,
Hãy
đặt Pháp của bạn trên một cuộc đời khiêm tốn tầm
thường,
Hãy
đặt cuộc đời khiêm tốn của bạn trên niệm tưởng về
cái chết,
Hãy
đặt cái chết của bạn trên một lỗ hang trống không,
trơ trụi.*
*
Nói cách khác, chết đơn độc ở một nơi hẻo lánh không
có sự quấy rầy náo động.
Đất
đai bất động sản to lớn và quân đội hùng mạnh không
bao giờ tồn tại lâu. Đại Đế Mandhatri đã quay bánh xe vàng
của quyền lực trên khắp bốn châu; ông đã trị vì các
cõi trời của các vị Trời thứ Ba Mươi Ba; thậm chí ông
còn chia ngai toà với vua Đế Thích, vua của các vị Trời,
và có thể đánh bại các A Tu La trong trận chiến. Tuy thế,
cuối cùng ông rơi xuống trái đất và chết mà chưa thoả
mãn các tham vọng. Bạn có thể thấy cho chính bạn rằng tất
cả những người nắm giữ quyền uy và thế lực đó – dù
thân cận những ông vua, đạo sư, chúa tể hay chính phủ –
không một ai có thể duy trì địa vị của họ mãi mãi; và
nhiều người đầy quyền lực đã từng áp đặt luật lệ
lên những người khác vào một năm nào đó, năm sau, thấy
chính mình đang sống mòn mỏi trong ngục tù. Cách sử dụng
quyền lực nhất thời như thế có thể được dành cho bạn
là gì? Trái lại, trạng thái Phật Quả viên mãn không bao
giờ có thể sút giảm hay hư hoại, và xứng đáng với những
cúng dường của Trời và người. Đó là điều bạn cần
kiên quyết phải đạt được tới.
Tình
bằng hữu và sự thù địch thì cũng thật khó bền vững.
Một ngày kia khi A La Hán Katyayana đi ra ngoài để khất thực,
ngài tình cờ gặp một người đàn ông ôm một đứa bé trong
lòng. Người đàn ông đang ăn một con cá với vẻ thật thích
thú, và ném những hòn đá vào con chó cái đang cố vồ
Padampa
Sangye (thế kỷ 11-12)
Thành
tựu giả Ân Độ lừng danh là người đã truyền bá giáo
pháp khắp nơi tại Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng. Ngài
Padma Sangye và đệ tử là Machik Labdrošn đã thiết lập những
dòng truyền thừa của pháp Choš (Kusali) ở tại Tây Tạng
những
miếng xương. Tuy nhiên, bằng sự thấu thị, vị Đạo Sư
nhìn thấy như sau. Con cá đã từng là cha của người đàn
ông ngay trong đời đó, và con chó cái đã là mẹ của ông
ta. Một kẻ thù mà ông đã từng giết trong một đời quá
khứ đã tái sinh làm con trai ông ta, như sự vay trả nghiệp
báo mà người đàn ông phải chịu trong đời. Ngài Katyayana
kêu thét lên:
Hắn
ăn thịt cha, đánh đập mẹ,
Hắn
nâng niu trong lòng kẻ thù mà hắn giết;
Vợ
đang gặm xương chồng mình.
Ta
phá lên cười khi thấy những gì xảy ra trong sự hiển bày
của sinh tử!
Ngay
cả trong một cuộc đời, thường xảy ra việc những kẻ
thù không đội trời chung về sau lại giảng hòa và làm bạn
với nhau. Thậm chí họ có thể trở thành một thành phần
trong gia đình lẫn nhau, và sau cùng còn gần gũi nhau hơn bất
kỳ ai khác. Trái lại, những người được liên kết mật
thiết bởi huyết thống hoặc hôn nhân thường tranh cãi và
làm hại nhau càng nhiều càng tốt chỉ vì một ít của cải
tầm thường hay gia tài nhỏ mọn. Các cặp vợ chồng hay bạn
bè thân thiết có thể chia ly vì những lý do vô nghĩa nhất,
thậm chí có khi kết thúc trong sự chém giết. Khi nhận ra
tất cả tình bằng hữu và sự thù địch thì hết sức phù
du, bạn hãy tự nhắc đi nhắc lại là mình phải đối xử
với mọi người với lòng từ và bi.
Vận
may và sự mất mát không bao giờ tồn tại mãi mãi. Có nhiều
người bắt đầu cuộc đời trong sự an nhàn và sung túc,
đã kết thúc đời mình trong sự bần cùng và đau khổ. Những
người khác bắt đầu sống trong cảnh cùng cực mà về sau
lại được hạnh phúc và may mắn. Thậm chí có những người
bắt đầu cuộc đời như kẻ hành khất và kết thúc như
những vị vua. Có vô số ví dụ về sự đảo lộn vận mệnh
như thế. Chẳng hạn như một buổi sáng, chú của Ngài Milarepa
đã tặng cho cô con gái riêng một bữa tiệc vui vẻ, nhưng
đến tối thì căn nhà của ông sụp đổ và ông đã kêu khóc
lóc tiếc thương. Khi Phật Pháp đem lại cho bạn những gian
khó, cho dù khi ấy bạn phải gánh chịu nhiều loại đau khổ
khác nhau, như Jetsun Mila và Các Đấng Chiến Thắng trong quá
khứ, nhưng cuối cùng hạnh phúc của bạn sẽ không gì so
sánh được. Nhưng khi bạn làm giàu bằng một tà hạnh thì
dù trong nhất thời bạn có thể có được bất kỳ sự vui
thú nào, nỗi khổ của bạn sẽ mênh mông vô hạn vào lúc
kết thúc.
Vận
may và nỗi buồn thì rất khó tiên đoán. Thuở xa xưa trong
vương quốc Aparantaka có một trận mưa thóc kéo dài bảy ngày,
theo sau là một trận mưa quần áo trong bảy ngày kế và một
trận mưa châu báu trong bảy ngày nữa – và cuối cùng một
trận mưa đất chôn vùi toàn thể dân chúng, tất cả đều
chết và bị đọa vào các cõi thấp. Thật là vô ích khi chúng
ta, trong một tâm trạng tràn đầy hy vọng và sợ hãi, lại
cố gắng làm chủ hạnh phúc và đau khổ, là những thứ luôn
luôn biến đổi. Thay vào đó, hãy hoàn toàn bỏ lại đằng
sau mọi tiện nghi, tài sản và những thú vui của đời này,
giống như quá nhiều nước bọt trong bụi đất. Hãy quyết
định đi theo bước chân của các Đấng Chiến Thắng trong
quá khứ, can đảm chấp nhận bất kỳ gian khổ nào bạn phải
chịu đựng, tất cả để cho Đạo Pháp.
Cũng
như thế, sự tuyệt hảo và sự tầâm thường cũng vô thường.
Trong đời sống thế gian, dù bạn có thể có đầy quyền
thế và lưu loát đến đâu, dù bạn có uyên bác và tài giỏi,
mạnh mẽ và thiện xảo thế nào chăng nữa, thì cũng sẽ
đến lúc các phẩm tính đó phải suy tàn. Một khi công đức
bạn tích lũy trong quá khứ bị cạn kiệt, thì tất cả những
gì bạn suy nghĩ trong đầu sẽ trở nên lôi thôi và không
điều gì bạn làm sẽ đưa đến thành công. Bạn sẽ
bị phê phán từ mọi phía. Bạn trở nên cùng khốn và mọi
người sẽ xem thường bạn. Một số người bị tước mất
đi bất kỳ những thuận duyên nhỏ bé nào mà họ đã từng
có trong quá khứ và kết cục là họ chỉ còn hai bàn tay không.
Một số người khác, một thời đã từng bị coi như là những
kẻ lừa đảo, dối láo, bất tài và không có lương tri, nhưng
về sau lại tự trở nên giàu có, phong lưu, được mọi
người tin cậy và quý mến như những con người tốt lành
và đáng tin. Như tục ngữ có nói: “Những lừa lọc lâu
đời có một chỗ đứng cao nhất.” 2
2
“Aging frauds take pride of place.” “Pride of place” có
nghĩa là một tư thế hay địa vị quan trọng nhất.
Trong
đời sống tôn giáo thì cũng thế, như tục ngữ có câu: “Lúc
về già, các hiền thánh trở thành học trò, người từ bỏ
thế gian lại đi tích lũy của cải, và thầy giáo trở thành
gia chủ.” Những người trước đây từ bỏ mọi hoạt đông
thế tục thì cuối cùng ta lại có thể tìm thấy họ đang
bận rộn tích lũy của cải và lương thực. Những người
khác khởi đầu bằng việc giảng dạy Giáo Pháp nhưng kết
thúc trở thành những thợ săn, những kẻ trộm cướp. Những
vị giảng sư thông thái trong tu viện lúc còn trẻ đã tuân
giữ tất cả các Giới Luật, về già lại có thể cho ra đời
nhiều đứa con. Trái lại, cũng có nhiều người tiêu phí
những năm đầu đời của họ chỉ để làm những việc xấu
ác nhưng vào cuối đời, hoàn toàn hiến mình cho việc
thực hành Diệu Pháp và đạt được thành tựu, hoặc nếu
không, thì ít ra khi chết, họ cũng ở trên con đường tiếp
tục đi tới các cõi tái sinh cao hơn.
Một
vài người dù có vẻ là tốt hay xấu ngay trong hiện tại,
nhưng đó chỉ là một ấn tượng nhất thời không có sự
thường hằng hay vững chắc nào. Bạn có thể cảm thấy một
phần nào chán ngán vòng sinh tử, phát khởi một quyết tâm
mơ hồ để thoát khỏi luân hồi, và làm ra vẻ một học
trò nghiêm cẩn của Giáo Pháp tới nỗi những người bình
thường hết sức cảm kích bạn và muốn được làm vị thí
chủ và đệ tử của bạn. Nhưng ở ngay thời điểm đó,
trừ phi bạn có cái nhìn nghiêm khắc về chính mình, còn không
bạn có thể dễ dàng bắt đầu cho rằng bạn thực sự là
cái gì mà người khác nhìn bạn. Dương dương tự đắc, bạn
hoàn toàn bị các hình tướng cuốn hút và bắt đầu cho rằng
bạn có thể làm bất kỳ điều gì mình muốn.
Bạn
hoàn toàn bị đánh lừa bởi các thế lực tiêu cực xấu
xa. Vì thế, hãy đẩy lùi mọi tin tưởng chấp ngã và khơi
dậy trí huệ vô ngã.* Cho tới khi bạn đạt được các địa
Bồ Tát cao cả, thì sẽ không có hình tướng nào, dù tốt
hay xấu, có thể tồn tại mãi mãi. Hãy thiền định miên
mật về cái chết và sự vô thường. Hãy phân tích các lỗi
lầm của riêng bạn và luôn luôn giữ vị trí thấp nhất.
Hãy nuôi dưỡng lòng chán ngán sinh tử và ước muốn được
giải thoát. Hãy tu tập bản thân để trở nên an bình, có
kỷ luật và luôn tỉnh giác. Hãy liên tục phát triển
một cảm thức buồn rầu chua sót đâày sâu sắc khi nghĩ
tưởng về tính chất nhất thời của tất cả các duyên
hợp và về những đau khổ của vòng sinh tử, giống như Ngài
Jetsun Milarepa:
Trong
một hang đá ở chốn hoang vu
Nỗi
âu sầu của con khôn nguôi.
Con
hằng khát khao Ngài,
Hỡi
Đạo Sư của con, Đức Phật của ba thời.
Trừ
phi bạn thường xuyên duy trì kinh nghiệm này trong tâm thì
sẽ không có tài nào biết được tất cả các niệm tưởng
thường xuyên biến đổi trong bạn sẽ dẫn dắt bạn đi về
đâu. Xưa kia, một người đàn ông, sau khi có một mối thù
hận với các thân quyến, đã áp dụng Giáo Pháp và được
gọi là Hành Giả Gelong Thangpa. Ông ta học tập để kiểm
soát các năng lực và tâm,39 và có thể bay giữa bầu trời.
Một hôm, khi nhìn một bầy chim bồ câu thật lớn đang xúm
lại ăn thực phẩm cúng dường mà ông đã cúng xong, ông nảy
ra tư tưởng là với đội quân đông người, ông ta có thể
tiêu diệt những kẻ thù của mình. Ông đã không đưa được
tà niệm này vào con đường tu,40 và kết quả là sau cùng
khi trở về quê hương, ông trở thành người chỉ huy một
đội quân.
*
Trí huệ nhận ra tánh Không của bản ngã và các hiện tượng.
Tạm
thời lúc này, nhờ vào Đạo Sư và các bằng hữu tâm linh
của bạn mà bạn có thể có được một vài cảm nhận sơ
sài nông nổi về Pháp. Nhưng hãy ghi khắc trong tâm rằng những
xúc cảm của một con người thì thật ngắn ngủi xiết bao,
và hãy tự giải thoát mình nương vào Chánh Pháp bất
cứ khi nào bạn có thể làm được, và ngày nào bạn còn
sống thì ngày ấy bạn hãy một lòng quyết tâm tu tập.
Khi
bạn quán chiếu về vô số các ví dụ được đưa ra ở đây,
thì bạn sẽ không còn chút nghi ngờ gì, rằng từ các trạng
thái hiện hữu cao nhất xuống tới các tầng địa ngục thấp
nhất, chẳng có mảy may bất kỳ một sự thường hằng hay
bền vững nào. Mọi sự bị lệ thuộc vào lẽ biến dịch,
mọi sự thịnh rồi suy.
VI.
SỰ BẤT ĐỊNH CỦA CÁC TÌNH HUỐNG
41 ĐƯA ĐẾN CÁI CHẾT
Một
khi đã sinh ra, chắc chắn mọi người trong thế giới này
đều phải chết. Nhưng việc chúng ta sắp chết như thế nào,
tại sao, vào lúc nào, và ở đâu thì ta không thể nào tiên
đoán được. Không ai trong chúng ta có thể đoan chắc được
rằng cái chết của mình sẽ xảy ra vào thời điểm nào hay
ở tại nơi chốn đặc biệt nào, trong cách thức nào, hoặc
biết chắc được rằng cái chết là kết quả của nguyên
nhân này hay nguyên nhân nọ.
Những
nguyên nhân của cái chết thì nhiều;
Những
nguyên nhân của đời sống thì ít,
Và
ngay cả những nguyên nhân của đời sống cũng có thể
trở
thành những nguyên nhân của cái chết.
Lửa,
nước, các chất độc, vách đứng, những kẻ man rợ, những
dã thú – có rất nhiều kiểu nguy hiểm chết người, nhưng
những gì có thể kéo dài đời sống thì thật ít ỏi. Ngay
cả thực phẩm, quần áo và các sự vật khác thường được
xem như để duy trì đời sống thì đôi khi có thể biến thành
các nguyên nhân của cái chết. Nhiều rủi ro xảy ra là hậu
quả của việc ăn uống – thực phẩm có thể bị ô nhiễm;
hoặc có thể một vài thực phẩm được dùng vì các thực
phẩm ấy có mang một số các tính chất lợi lạc, nhưng trong
một vài trường hợp42 lại có thể trở thành độc hại;
hoặc có thể thực phẩm ấy lại không tốt đối với một
cá nhân đặc biệt nào đó. Nhất là ngày nay, hầu hết mọi
người tham ăn thịt và dùng thịt và máu mà không suy xét,
hoàn toàn không biết gì về mọi bênh tật gây nên bởi thịt
ôi 43 hoặc các tinh linh ác hại trong thịt. Các chế độ ăn
uống và cách sống thiếu lành mạnh cũng có thể gây ra những
khối u, gây ra sự rối loạn của đàm, bệnh phù và các bệnh
tật khác, đưa đến vô số cái chết. Tương tự, việc tìm
kiếm tiền của, danh vọng và các bã vinh quang khác có thể
kích động người ta chiến đấu, phải đương đầu với
các thú hoang, hoặc phải vượt sông một cách táo bạo và
liều lĩnh, và đây chỉ là một trong vô số các tình huống
khác có thể đem lại cái chết cho họ.
Hơn
nữa, hoàn toàn chẳng thể nào tiên đoán được lúc nào là
lúc mà bất kỳ nguyên nhân nào trong số các nguyên nhân khác
nhau đưa đến cái chết có thể xảy đến. Một số người
chết trong bụng mẹ, một số chết khi sinh ra đời, một số
trước khi học bò. Một số người chết trẻ; những người
khác chết khi già và yếu lụ khụ. Một số chết trước
khi có thể dùng được thuốc men hay có được sự trợ giúp.
Những người khác có thể lây lất, dán chặt thân mình trên
giường bệnh nhiều năm, nhìn cuộc đời bằng đôi mắt của
người đã chết; khi họ chết, họ chỉ còn da bọc xương.
Nhiều người chết bất đắc kỳ tử hoặc do tai nạn, chết
trong khi ăn, khi nói chuyện hay làm việc. Thậm chí một
số người còn tự tử.
Bị
vây khốn bởi nhiều nguyên nhân của cái chết nên giống
như một ngọn lửa của cây nến trong gió, cuộc đời bạn
thật khó có cơ hội kéo dài. Không có gì bảo đảm rằng
cái chết sẽ không bất thần tấn công ngay bây giờ, và ngày
mai bạn sẽ không bị đoạ sinh vào làm một con thú với cặp
sừng trên đầu và răng nanh trong miệng. Bạn nên tin chắc
rằng sẽ không thể nào tiên đoán khi nào bạn chết và thật
không tài nào biết được bạn sẽ sinh ra ở đâu trong đời
sau.
VII.
SỰ TỈNH GIÁC MÃNH LIỆT VỀ LẼ VÔ THƯỜNG
Hãy
nhất tâm thiền định về cái chết, trong mọi lúc và mọi
tình huống. Khi đứng lên, khi ngồi hoặc nằm xuống, hãy
tự nhủ: “Đây là hành động cuối cùng của tôi trong thế
giới này,” và hãy thiền định về điều đó với lòng
xác tín mãnh liệt nhất. Trên đường đi tới bất kỳ nơi
đâu, hãy tự nói: “Có thể tôi sẽ chết ở đây. Không
có gì chắc chắn là tôi sẽ trở về.” Khi bạn sắp đặt
cho một cuộc hành trình và tạm dừng chân để nghỉ ngơi,
hãy tự hỏi: “Tôi sẽ chết ở đây chăng?” Bất kỳ bạn
ở đâu, bạn nên tự hỏi phải chăng bạn sẽ chết tại
nơi đây. Ban đêm, khi nằm xuống, hãy tự hỏi liệu bạn
có thể chết trong giường đêm nay hay có thể quả quyết
được rằng sáng mai bạn sẽ thức dậy hay không. Khi nhỏm
dậy, hãy tự hỏi liệu bạn có thể chết vào lúc nào đó
trong ngày, hoặc quán chiếu rằng chẳng có gì chắc chắn
là bạn sẽ còn sống để đi ngủ vào buổi tối.
Hãy
chỉ thiền định về cái chết một cách nhiệt thành và tận
sâu thẳm trái tim của bạn. Hãy thực hành giống như các
Geshe phái Kadampa ngày xưa; các ngài đã luôn luôn nghĩ tưởng
về cái chết trong từng giây phút. Ban đêm, các Ngài lật
úp cái tô của mình xuống;* và khi quán chiếu rằng biết
đâu ngày mai có thể không cần đốt lửa, các Ngài đã không
bao giờ vùi than hồng ban đêm.
*
Đối với người Tây Tạng, lật úp cái tô của ai xuống
là một dấu hiệu người đó đã chết.
Tuy
nhiên, chỉ thiền định về cái chết không thôi thì sẽ không
đủ. Điều ích lợi duy nhất vào lúc chết là Pháp, vì thế
bạn cũng cần tự khuyến khích mình phải nên thực hành Giáo
Pháp một cách chân thực, không bao giờ để cho mình lẻn
trốn vào sự quên lãng hay mất cảnh giác, và phải luôn luôn
ghi nhớ rằng các hoạt động của sinh tử đều chỉ thoáng
qua và không có chút ý nghĩa nào. Tự bản chất, sự nối
kết của thân và tâm này thì vô thường, vì thế đừng trông
cậy vào sự nối kết ấy như là cái gì của riêng bạn;
đây chỉ hoàn toàn là một sự vay mượn.
Mọi
con đường và lối đi đều vô thường, vì thế dù bạn đang
đi đâu, hãy hướng bước chân của bạn về Pháp. Như có
nói trong Bát Nhã Tập Kệ:
Nếu
bạn vừa đi vừa nhìn phía trước trong chánh niệm
với
một khoảng cách bằng bề dài của một cái ách,
tâm
bạn sẽ không bị mê mờ.
Bất
kỳ bạn ở đâu, mọi nơi chốn đều vô thường, vì thế
hãy giữ các cõi Phật thanh tịnh trong tâm. Đồ ăn, thức
uống và bất cứ sự gì bạn vui hưởng đều vô thường,
vì thế hãy nuôi sống bạn bằng công phu thiền định thâm
diệu. Giấc ngủ thì vô thường, vì thế khi bạn ngủ, hãy
tịnh hóa các mê lầm của giấc ngủ thành tịnh quang.44 Tài
sản, nếu bạn có, thì cũng vô thường, vì thế hãy tinh tấn
để sở hữu bảy món tài sản cao quý.ù** Những người
thân yêu, bạn hữu và gia đình thì vô thường, vì thế ở
một nơi cô tịch, hãy khơi dậy lòng khát khao muốn giải
thoát. Địa vị cao và danh tiếng thì vô thường, vì thế
luôn luôn giữ một vị trí thấp. Ngôn ngữ thì vô thường,
vì thế hãy tự hưng phấn để trì tụng các thần chú và
những bài cầu nguyện. Lòng tín tâm và ước muốn giải thoát
cũng vô thường, vì thế hãy cố gắng
**
'phags pa’i nor bdun: Đức tin, giới luật, sự học hỏi, sự
rộng lượng (bố thí), sự tận tâm, khiêm tốn và trí huệ.
giúp
cho những thệ nguyện của bạn trở nên vô ngại, không gì
lay chuyển được. Những ý niệm và tư tưởng thì vô thường,
vì thế hãy tiếp tục phát triển một bản tánh tốt đẹp.
Các kinh nghiệm tu tập và chứng ngộ thiền định thì vô
thường, vì thế hãy tiếp tục tinh tấn cho tới khi bạn đạt
tới một nơi mà mọi sự đều tan lẫn vào trong bản tánh
của thực tại. Khi ấy, sự nối kết giữa cái chết và tái
sinh45 rơi biến mất, và bạn đạt được sự xác tín rằng
bạn hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng đối với cái chết. Bạn
đã đoạt được thành trì bất tử; bạn giống như con chim
đại bàng tự tại vút lên đỉnh cao của những cõi trời.
Sau đo,ù không còn cần đến bất kỳ pháp thiền định buồn
thảm nào về cái chết đang tới gần của bạn.
Như
Ngài Jetsun Mila đã hát:
Sợ
hãi tử thần, ta bỏ vào núi cao.
Ngày
đêm ta thiền định về sự bất định của cái chết
Và
nắm giữ thành lũy của chân tánh bất tử bất biến.
Giờ
đây ta không còn sợ hãi và đã vượt qua mọi kinh sợ về
cái chết!
Và
Đức Dagpo Rinpoche vô song cũng đã nói:
Lúc
đầu, bạn phải để cho nỗi sợ hãi sinh tử rượt đuổi
như một con hươu đực trốn thoát cái bẫy. Vào lúc giữa,
bạn cần làm sao để không còn gì phải hối tiếc cho dù
bạn phải chết, như một nông gia đã thận trọng canh tác
những cánh đồng của mình. Vào lúc cuối, bạn nên thấy
an ổn và sung sướng, như một người vừa hoàn tất một
công việc tuyệt vời.
Lúc
đầu, bạn phải biết rằng không có thời giờ để phí phạm,
giống như người bị một vết thương chí mạng vì trúng
tên độc. Vào lúc giữa, bạn phải thiền định về cái chết
mà không nghĩ tưởng về điều gì khác, giống như người
mẹ có đứa con duy nhất vừa qua đời. Vào lúc cuối, bạn
phải hiểu rằng chẳng còn gì để làm, giống như một người
chăn cừu mà đàn thú của anh ta đã bị kẻ thù lùa đi mất.
Hãy
nhất tâm thiền định về cái chết và sự vô thường cho
tới khi bạn đạt tới mức độ đó.
Đức
Phật đã có dạy:
Thiền
định bền bỉ về vô thường là cúng dường tất cả chư
Phật. Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất
cả chư Phật cứu thoát khỏi đau khổ. Thiền định bền
bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật dẫn dắt.
Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư
Phật gia hộ.
Trong
tất cả các dấu chân, dấu chân voi thì to lớn nhất; cũng
thế, trong các đề mục thiền định đối với một Phật
tử, sự suy niệm về vô thường thì không gì sánh được.
Và
Đức Phật đã nói trong Luật Tạng:
Nhớ
tưởng trong giây lát về lẽ vô thường của mọi sự duyên
hợp thì còn vĩ đại hơn việc hiến tặng thực phẩm và
vật cúng dường cho cả trăm đệ tử của ta là những chiếc
bình chứa toàn hảo,* như các tỳ khưu Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên.
Một
đệ tử cư sĩ hỏi Geshe Potowa rằng nếu phải chọn một
pháp hành trì duy nhất thì pháp nào là quan trọng nhất. Vị
Geshe đã trả lời:
Nếu
con muốn sử dụng một pháp môn hành trì duy nhất, thì thiền
định về vô thường là thiền định quan trọng nhất.
Lúc
đầu, thiền định về cái chết và vô thường khiến con
nắm giữ lấy Pháp; vào lúc giữa, thiền định về cái chết
và vô thường dẫn đến việc hành trì tích cực; vào lúc
cuối, thiền định về cái chết và vô thường giúp con chứng
ngộ tánh nhất như của mọi hiện tượng.
Lúc
đầu, thiền định về vô thường khiến con cắt đứt những
ràng buộc với mọi việc ở đời; vào lúc giữa, thiền định
về vô thường dẫn đến sự từ bỏ mọi bám luyến sinh
tử; vào lúc cuối, thiền định về vô thường giúp con bước
lên con đường đi tới Niết Bàn.
Lúc
đầu, thiền định về vô thường khiến con phát triển tín
tâm; vào lúc giữa, thiền định về vô thường dẫn đến
sự tinh tấn trong thực hành; vào lúc cuối, thiền định về
vô thường giúp con phát sinh trí huệ.
Lúc
đầu, cho tới khi con hoàn toàn xác quyết, thiền định về
vô thường khiến con tìm cầu Pháp; vào lúc giữa, thiền định
về vô thường dẫn con đến với thực hành; vào lúc cuối,
thiền định về vô thườngï giúp con đạt tới mục đích
tối hậu.
*
Nghĩa là hoàn toàn có khả năng thọ nhận giáo lý một cách
đúng đắn và vận dụng những giáo lý ấy.
Lúc
đầu, cho tới khi con hoàn toàn xác quyết, thiền định về
vô thường khiến con thực hành với một sự tinh tấn, như
chiếc áo giáp che chở con; vào lúc giữa, thiền định về
vô thường dẫn dắt cho con thực hành với một sự tinh tấn
trong hành động; vào lúc cuối, thiền định về vô thường
giúp con thực hành với một sự tinh tấn vô bờ.46
Và
ngài Padampa Sangye nói:
Lúc
đầu, lòng xác quyết về lẽ vô thường sẽ khiến bạn nắm
lấy Pháp; vào lúc giữa, lòng xác quyết về vô thường sẽ
thúc giục bạn tinh tấn; và vào lúc cuối, lòng xác quyết
về vô thường sẽ đem lại cho bạn Pháp Thân chói lọi.
Trừ
phi bạn cảm nhận được sự xác quyết chân thành này về
các nguyên lý vô thường, thì bất kỳ giáo lý nào bạn có
thể cho rằng mình đã thọ nhận và đưa vào thực hành sẽ
chỉ khiến bạn càng thêm trơ lì 47 đối với Pháp. Ngài Padampa
Sangye cũng có nói:
Tôi
chưa bao giờ thấy một hành giả Tây Tạng duy nhất nào nghĩ
tưởng về sự chết. Cũng chưa bao giờ thấy ai sống mãi!
Nhìn họ thích thú góp nhặt của cải một khi đã khoác chiếc
y vàng, tôi tự hỏi – Phải chăng họ sắp hối lộ Thần
Chết bằng thực phẩm và tiền bạc? Nhìn cách họ
tích lũy những vật dụng giá trị nhất, tôi tự hỏi? Phải
chăng họ sắp lo đút lót trong địa ngục? Ha, ha! Nhìn thấy
các hành giả Tây Tạng đó khiến tôi phải bật cười!
Người
thông thái nhất là kẻ tự phụ nhất,
Những
thiền giả xuất sắc nhất chất đống thực phẩm và của
cải, Các ẩn sĩ cô tịch mê mải giữa những theo đuổi tầm
thường, Những kẻ từ bỏ nhà cửa và quê hương không biết
xấu hổ, Những người đó miễn nhiễm đối với Pháp! Họ
miệt mài trong tà hạnh. Họ có thể thấy người khác chết
nhưng không hiểu rằng
bản
thân họ cũng sẽ chết.
Đó
là lỗi lầm đầu tiên của họ.
Như
vậy thì thiền định về vô thường là một khúc dạo mở
đầu để khai mở con đường cho tất cả các pháp thực hành
của Phật Pháp. Khi được thỉnh cầu ban giáo huấn về cách
giải trừ nghịch cảnh, Geshe Potowa đã trả lời bằng những
lời sau đây:
Hãy
suy tưởng dài lâu về cái chết và lẽ vô thường. Một khi
bạn quyết chắc rằng bạn sẽ chết, bạn sẽ không còn thấy
khó khăn để gạt các tà hạnh sang một bên, và cũng không
khó khăn để làm những điều đúng đắn.
Sau
đó, hãy thiền định lâu dài về lòng từ và bi. Một khi
lòng bi tràn ngập trái tim bạn, bạn sẽ không thấy khó khăn
để hành động vì lợi lạc của người khác.
Rồi
hãy thiền định lâu dài về tánh Không, trạng thái tự nhiên
của mọi hiện tượng. Một khi bạn hoàn toàn thấu suốt
tánh Không, bạn sẽ không còn thấy khó khăn để loại trừ
các mê lầm của bạn.
Một
khi chúng ta có được sự xác quyết như thế về lẽ vô thường
thì mọi hoạt động tầm thường của đời này dường như
trở nên cực kỳ ghê tởm, như một miếng thịt mỡ làm một
người đang khốn khổ vì ói mửa phải gớm ghiếc. Đạo
Sư tôn kính của tôi thường nói:
Bất
kỳ thứ quyền cao chức trọng, của cải hay sắc đẹp nào
ta thấy trong thế giới này cũng không khơi dậy được lòng
tham muốn trong ta. Đó là bởi vì khi ta nhìn thấy các bậc
tôn quý khi xưa đã sống cuộc đời của các ngài như thế
nào thì ta có được chỉ một chút hiểu biết ít ỏi về
lẽ vô thường. Ta không còn giáo huấn nào sâu sắc hơn điều
này để ban cho con.
Thật
ra thì bạn đã có thể thấm nhuần được ý niệm về lẽ
vô thường một cách sâu sắc như thế nào? Bạn nên trở
thành giống như Geshe Kharak Gomchung; Ngài đi vào những vùng
núi non cô tịch ở Jomo Kharak trong tỉnh Tsang để thiền định.
Trước hang của Ngài có một bụi gai, nó vướng vào quần
áo Ngài.
Lúc
đầu Ngài nghĩ: “Có lẽ ta nên chặt nó đi,” nhưng rồi
ngài tự bảo: “Nhưng xét cho cùng, ta có thể chết trong cái
hang này. Ta thực sự không nói trước được là liệu mình
còn sống sót để trở ra nữa không. Hiển nhiên, điều quan
trọng hơn là ta phải tiếp tục lo việc hành trì.”
Khi
ra ngoài, Ngài lại bị những chiếc gai móc vào quần áo. Lúc
này Ngài nghĩ: “Ta không dám chắc là sẽ còn trở vào lại
hang nữa hay không,” và sự việc này tiếp diễn như thế
trong nhiều năm cho tới khi Ngài trở thành một Đạo
Sư thành tựu. Khi Ngài rời hang, bụi gai vẫn chưa được
chặt.
Vào
mùa thu, trong thời gian chòm sao Risi xuất hiện, Ngài Rigdzin
Jigme Lingpa luôn luôn ở tại một con suối nóng nào đó.
Các sườn vực không có bậc thang khiến việc Ngài xuống
tới mặt nước và ngồi trong suối rất khó khăn. Các đệ
tử của Ngài tỏ ý muốn làm vài bậc thang, nhưng Ngài trả
lời: “Tại sao phải quá bận tâm khi chúng ta không biết
sẽ còn ở đây năm tới hay không?” Đạo Sư của tôi đã
kể cho tôi rằng Ngài luôn luôn nói về sự vô thường như
thế.
Chúng
ta cũng thế, chừng nào mà ta chưa hoàn toàn thâm nhập được
một thái độ hiểu biết về lẽ vô thường như thế, thì
hãy nên thiền định về lẽ vô thường. Hãy bắt đầu bằng
việc phát khởi Bồ Đề Tâm, và trong phần thực hành chính
yếu, hãy rèn luyện tâm bạn bằng tất cả những phương
tiện khác nhau cho tới khi vô thường thực sự thấm nhập
vào từng tư tưởng của bạn. Cuối cùng, hãy kết thúc thời
công phu bằng cách hồi hướng công đức. Hãy thực hành
theo cách này, và với tất cả khả năng tốt lành nhất ,
hãy nỗ lực noi gương các bậc thánh giả vĩ đại trong quá
khứ.
Vô
thường thì có mặt khắp nơi, tuy thế con vẫn cho rằng mọi
thứ sẽ tồn tại.
Con
đã đi tới cánh cổng của tuổi già, tuy thế con vẫn giả
đò như mình còn son trẻ.
Xin
từ bi gia hộ cho con và những chúng sinh lạc lối như
con,
Để
chúng con có thể thực sự thấu hiểu lẽ vô thường.
Jetsun
Trakpa Gyaltsen (1147-1216)
Một
học giả và đạo sư tiên phong của trường phái Sakya (Lam
Thổ)
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 5 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:02pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
BA
NHỮNG KHỔ
ĐAU CỦA CÕI LUÂN HỒI
Thấu
hiểu rằng những hoạt động thế gian đều vô nghĩa,
Với
lòng đại bi,
Ngài
nỗ lực chỉ vì lợi lạc của chúng sinh.
Không
đắm nhiễm sinh tử hay niết bàn,
Ngài
hoằng hoá theo con đường Đại Thừa.
Bậc
Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
Hãy
lắng nghe chương này với thái độ (động lực) tương tự
như ở những chương trước. Chương này bao gồm phần
quán chiếu tổng quát về những nỗi khổ nói chung trong sinh
tử luân hồi và quán chiếu về những nỗi thống khổ đặc
biệt của từng cõi trong sáu nẻo luân hồi.
I.
NHỮNG ĐAU KHỔ NÓI CHUNG CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI
Như
ta đã chỉ ra từ trước, hiện giờ chúng ta có thể có một
đời người được phú bẩm với những điều kiện tự do
và những thuận duyên rất khó tìm, nhưng cuộc đời này sẽ
không kéo dài. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ phải chịu
sức mạnh chi phối của vô thường và cái chết. Nếu sau
đó, chúng ta biến mất đi như ngọn lửa tàn lụi hay như
nước bốc hơi, thì mọi sự thế là xong hết. Nhưng sau khi
chết, chúng ta sẽ không tan biến thành không có gì cả.
Chúng ta bị buộc phải tái sinh – và điều đó có nghĩa
là ta sẽ vẫn phải ở trong vòng sinh tử, không có chỗ nào
khác ngoài nơi đó.
Thuật
ngữ samsara, tức bánh xe hay vòng quay của sự hiện hữu, được
dùng ở đây để ngụ ý một sự xoay vòng từ nơi này sang
nơi khác trong một vòng tròn, giống như một bánh xe bằng
gốm, hay bánh xe của một cái máy xay nước vậy. Khi một
con ruồi bị bẫy trong một cái chai đóng kín thì dù có bay
chỗ nào chăng nữa nó cũng không thể thoát ra được. Tương
tự như vậy, cho dù được sinh trong cõi cao hay cõi thấp,
ta cũng chẳng hề nằm ngoài vòng luân hồi sinh tử. Phần
trên cái chai giống như những cõi cao của thiên giới hay con
người, và phần dưới giống như ba cõi bất hạnh. Vòng luân
hồi giống như một vòng tròn, vì ta cứ mãi xoay vòng, tái
sinh hết nơi này đến nơi khác trong sáu cõi do bởi hậu quả
của hành nghiệp của chính mình, và những hành nghiệp, cho
dù là thiện hay ác, đều bị ô nhiễm bởi sự bám chấp.
Từ
vô thủy nhẫn cho đến ngày nay, chúng ta đã từng lang thang
trong thế giới luân hồi. Mỗi một chúng sinh trong đó,
không loại trừ ai, đều có những ràng buộc về luyến ái,
hận thù và lãnh đạm đối với những chúng sinh khác. Ai
cũng đã từng là cha mẹ của các chúng sinh khác. Trong Kinh
điển có nói rằng nếu ta tính lùi lại những thế hệ các
bà mẹ trong gia đình mình rồi nói rằng: “Người ấy là
mẹ của mẹ tôi; mẹ của mẹ của mẹ tôi là người này
và người này...” và cứ tiếp tục tính theo cách thức như
vậy, dùng những viên đất nhỏ bằng hột cây bách xù để
đếm số người thì toàn thể số đất được dùng sẽ hết
sạch trước khi bạn đếm xong số lượng các bà mẹ. Như
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) đã nói:
Chúng
ta sẽ dùng hết đất khi cố gắng tính đếm những bà mẹ
của mình
Bằng
những viên đất sét nhỏ bằng hột bách xù.
Trải
qua suốt vòng luân hồi từ vô thủy cho tới ngày nay, không
có một sinh thái (life form) nào mà ta đã chưa từng sinh ra
trong đó. Đã bao lần những dục vọng của ta khiến đầu
và tứ chi ta đứt rời. Nếu có thể chất đống ở tại
một nơi tất cả những tứ chi mà ta đã mất khi làm thân
kiến và làm những côn trùng khác thì đống tứ chi ấy còn
cao hơn Núi Tu Di. Những giọt nước mắt mà ta đã khóc bởi
cái lạnh, cái đói và cái khát khi không có cái ăn, cái mặc,
những giọt nước mắt ấy có thể tạo thành một đại dương
còn lớn hơn tất cả những đại dương bao quanh trái đất
này. Ngay cả tất cả số đồng đỏ mà ta từng nuốt
trong các cõi địa ngục thì còn lớn hơn cả bốn đại dương.
Thế nhưng tất cả những chúng sinh bị cột chặt vào các
cõi sinh tử bởi dục vọng và bám chấp sẽ còn phải chịu
đựng thêm nữa những đau khổ trong vòng luân hồi vô tận
này, trong tâm họ chẳng hề có chút hối hận dù chỉ trong
chốc lát.
Ngay
cả nếu nhờ kết quả may mắn của một vài thiện hạnh,
chúng ta có thể được trường thọ, có được thân thể
hoàn hảo, của cải và vinh quang của vua cõi Trời Đế Thích
(Indra) hay Phạm Thiên (Brahma), thì cuối cùng chúng ta vẫn không
thể trì hỗn được cái chết; và sau cái chết chúng ta lại
phải chịu đựng những đau khổ của các cõi thấp hơn. Trong
đời này, những điều kiện thuận lợi nhỏ bé của quyền
lực, của cải, sức khoẻ và những thứ khác mà ta vui hưởng
có thể lừa phỉnh ta trong một ít năm, ít tháng hay ít ngày.
Nhưng một khi kết quả của bất kỳ thiện hạnh nào ta đã
tạo được trong những trạng thái hạnh phúc này bị cạn
kiệt, thì dù có muốn hay không, ta sẽ phải trải qua sự
bần cùng và khốn khó, hay trải qua những đau khổ không thể
chịu đựng nổi trong những cõi thấp.
Có
ý nghĩa gì không trong loại hạnh phúc đó? Nó như một giấc
mộng chỉ ngừng lại giữa chừng khi bạn tỉnh giấc. Những
ai có vẻ sung sướng và thoải mái vào lúc này nhờ vào kết
quả của một vài thiện hạnh không đáng kể, họ cũng sẽ
không thể kéo dài được tình trạng thoải mái và sung
sướng đó hơn một khắc nào một khi kết quả của thiện
hạnh đó đãù cạn kiệt. Có những vị vua Trời, ngồi cao
ngất trên những chiếc ngai bằng châu báu, dàn trải với
những thứ lụa là đẹp tuyệt trần, vui hưởng mọi lạc
thú của năm giác quan. Nhưng, một khi thọ mạng của họ cạn
kiệt thì trong nháy mắt, họ bị đắm chìm trong đau khổ
và đâm đầu xuống nền kim khí nóng như thiêu như đốt của
địa ngục. Ngay cả những vị thần mặt trời và thần mặt
trăng,48 là những vị đã chiếu sáng bốn đại lục, cuối
cùng cũng có thể bị tái sinh ở một nơi nào đó ngay giữa
những đại lục kia, trong bóng tối sâu dày tới nỗi họ
không thể thấy tứ chi của chính họ duỗi ra hay gập lại.
Vì
thế chớ nên đặt sự kỳ vọng của mình vào những niềm
vui trước mắt của cõi luân hồi. Hãy mang quyết tâm rằng,
ngay trong đời này, ta sẽ giải thoát chính mình khỏi biển
khổ và đạt được chân hạnh phúc, một hạnh phúc thường
hằng của Phật Quả viên mãn. Hãy đưa tâm niệm này vào
công phu hành trì của bạn, áp dụng những phương pháp đúng
đắn khi bắt đầu thời công phu, khi hành trì phần chính
yếu của công phu và lúc kết thúc công phu.
II.
NHỮNG NỖI THỐNG KHỔ ĐẶC BIỆT
MÀ
CHÚNG SINH TRONG SÁU CÕI PHẢI KINH QUA
1. Thập Bát
Địa Ngục (Mười tám cõi địa ngục)
1.1
BÁT HỎA ĐỊA NGỤC (Tám hỏa ngục
hay địa ngục nóng)
Bát
hỏa địa ngục nằm chồng chất lên nhau như các tầng lầu
của một toà nhà, từ Đẳng Hoạt địa ngục nằm cao nhất
xuống tới Vô Gián địa ngục (A-Tì địa ngục) ở dưới
cùng. Trong mỗi tầng điạ ngục, mặt nền và vành đai đều
nóng bỏng như sắt nung chảy ở lò rèn – không thể có chỗ
nào có thể đặt chân an toàn lên được. Mọi thứ chìm trong
sự thiêu hủy rừng rực của ngọn lửa bùng cháy dữ dội.
1.1.1
Đẳng Hoạt Địa Ngục (Phạn: Samjiva – Địa ngục chết
đi sống lại)
Ở
tầng địa ngục này, than hồng bao phủ mặt nền kim khí nóng
chảy, vô lượng chúng sinh nhiều như tuyết rơi trong một
trận bão tuyết do nghiệp cảm của họ mà gom tụ lại.
Hành nghiệp dẫn họ tới địa ngục này được thúc đẩy
bởi tâm hận thù, nên hậu quả cũng tương tự như căn
nguyên đã đưa họ đến đó; họ nhìn nhau như những kẻ
tử thù, và xông vào đánh nhau dữ dội. Họ vung lên những
vũ khí kỳ lạ – một kho vũ khí ma quái tạo ra bởi nghiệp
lực của họ – họ đánh nhau cho tới khi tất cả ngã gục.
Khi ấy, một giọng nói từ trên cao bỗng cất lên: “Hãy
sống lại!” và lập tức họ tỉnh dậy và lại bắt đầu
đánh nhau y hệt như trước. Và họ bị hành hạ như vậy,
liên tục chết đi rồi sống lại.
Thọ
mạng ở đó là bao lâu? Năm mươi năm trong đời sống con
người tương đương với một ngày trong Cung Trời của Tứ
Thiên Vương. Ba mươi ngày ở đó thành một tháng, và mười
hai tháng làm thành một năm; năm trăm năm như thế tương đương
một ngày trong Đẳng Hoạt Địa Ngục. Trong địa ngục này,
mỗi tháng có ba mươi ngày, mười hai tháng làm thành một
năm. Những chúnh sinh này chịu đau khổ ở đó trong năm trăm
năm như thế.
1.1.2
Hắc Thằng Địa Ngục (Phạn: Kalasutra – Điạ ngục dây sắt
đen buộc kéo tội nhân)
Ở
đây những thuộc hạ của Diêm Vương (Yama) đặt các tội
nhân trên nền kim khí nóng chảy như những khúc củi cháy
dở và gạch lên thân họ những đường vạch đen - bốn,
tám, mười sáu, ba mươi hai và v..v... – mà các thuộc hạ
của Diêm Vương dùng làm những đường mẫu để xẻ cắt
các nạn nhân ra bằng những chiếc cưa nóng đỏ. Vừa bị
cắt thành từng mảnh xong, họ lập tức nguyên vẹn trở lại,
chỉ để rồi lại bị chặt ra thành từng phần và bị băm
đi băm lại.
Đối
với tuổi thọ của những chúng sinh ở đây, một trăm năm
làm người tương ứng với một ngày của các vị Trời trong
Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên), và một ngàn năm
trong Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba tương đương với một ngày
trong địa ngục này. Dựa theo phỏng ước đó thì các chúng
sinh này phải thọ mạng ở địa ngục này một ngàn năm.
1.1.3
Chúng Hợp Địa Ngục (Phạn: Samghata – Điạ ngục đè ép
tội nhân tới nát nhừ)
Trong
địa ngục này, triệu triệu chúng sinh bị ném vào những
cối giã khổng lồ bằng sắt có kích thước bằng cả những
cái thung lũng. Những thuộc hạ của Diêm Vương xoay tít những
chiếc búa khổng lồ bằng kim loại nóng đỏ lớn như Núi
Tu Di quanh đầu họ, và giã nát các nạn nhân ra. Những chúng
sinh này bị nghiền nát cho tới chết, kêu khóc trong nỗi thống
khổ và kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi. Khi những
chiếc búa được nhấc lên, thì họ lại sống lại, chỉ
để phải tiếp tục chịu đi chịu lại những cực hình như
vậy.
Đôi
khi, núi non ở cả hai bờ thung lũng biến thành đầu hươu,
nai, dê, cừu và những súc vật khác mà những chúng sinh trong
địa ngục đã từng giết hại trong các kiếp quá khứ. Những
con vật húc đầu vào nhau bằng những đầu sừng phun lửa
của chúng, và vô số chúng sinh trong địa ngục bị lôi kéo
tới đó bởi nghiệp lực của mình, và đều bị nghiến nát
cho tới chết. Rồi, thêm một lần nữa, khi những rặng núi
tách ra, họ lại sống lại chỉ để lại bị nghiền nát.
Hai
trăm năm làm người tương đương với một ngày của những
vị Trời trong Cung Trời Vô Chiến (Dạ Ma Thiên). Hai ngàn năm
trong cõi đó tương đương với một ngày trong Chúng Hợp địa
ngục, và chúng sinh trong địa ngục này có thọ mạng hai ngàn
năm.
1.1.4
Hào Kiếu Địa Ngục (Phạn: Raurava – Điạ ngục gào
khóc)
Ở
đây, chúng sinh đau khổ vì bị quay nướng trong những toà
nhà bằng kim loại nóng đỏ không có lối thoát. Họ la thét
và gào khóc, có cảm giác sẽ không bao giờ thoát được.
Bốn
trăm năm làm người tương đương một ngày trong Cung Trời
Đâu Suất (Đâu Suất Thiên). Bốn ngàn năm trong cõi trời
đó tương đương với một ngày trong Hào Kiếu Địa Ngục,
ở đó thọ mạng kéo dài bốn ngàn năm.
1.1.5
Đại Kiếu Địa Ngục (Phạn: Maharauvara – Địa ngục gào
khóc to lớn thống thiết)
Một
đám đông thuộc hạ của Diêm Vương, trang bị vũ khí và
trông kinh khiếp, xô đẩy hằng triệu nạn nhân vào những
nhà kho bằng kim khí với những bức tường đôi đang cháy
rừng rực, và đánh đập họ bằng búa và những vũ khí khác.
Những cánh cửa bên trong lẫn bên ngoài đều bị niêm phong
bằng kim loại nóng chảy và chúng sinh địa ngục kêu rú trong
đau đớn khi nghĩ rằng, cho dù họ có thể vượt qua cánh
cửa đầu tiên, họ cũng sẽ không bao giờ có thể đi qua
cánh cửa thứ hai.
Tám
trăm năm làm người thì bằng một ngày trong Cung Trời Hoá
Lạc (Hoá Lạc Thiên). Tám ngàn năm ở đó tương đương với
một ngày trong Đại Kiếu Địa ngục. Chúng sinh ở địa ngục
này có thọ mạng tám ngàn năm.
1.1.6
Viêm Hỏa Địa Ngục (Phạn: Tapana – Địa ngục thiêu cháy)
Ở
đây, vô lượng chúng sinh đau khổ vì bị nấu sôi trong chất
đồng nóng chảy trong những vạc sắt khổng lồ có kích thước
lớn bằng cả tam thiên đại thiên thế giới. Dù có trồi
lên được ở chỗ nào thì họ cũng bị những thuộc hạ
của Diêm Vương tóm lại bằng những cái móc kim khí
và dùng búa đánh vào đầu, đôi khi cho đến bất tỉnh;
ý niệm về hạnh phúc của họ là những giây lát bất tỉnh
hiếm hoi này khi họ không cảm thấy đau đớn. Ngoại trừ
những giây phút này, họ luôn phải chịu đựng những đau
khổ cùng cực.
Một
ngàn sáu trăm năm làm người tương đương một ngày giữa
những vị trời trong Cung Trời Tha Hóa (Tha Hoá Thiên). Mười
sáu ngàn năm của những vị Trời tương đương một ngày
trong Viêm Hoả Địa ngục. Chúng sinh ở địa ngục này có
thọ mạng mười sáu ngàn năm như thế.
1.1.7
Đại Viêm Hoả Địa Ngục (Phạn: Pratapana – Địa ngục thiêu
cháy cực nóng)
Chúng
sinh trong địa ngục này bị giam cầm trong những ngôi nhà
bằng kim khí nóng rực, và những thuộc hạ của Diêm
Vương dùng các chĩa ba bằng sắt nóng đỏ đâm họ qua gót
chân và qua hậu môn cho tới khi các nạnh chĩa được đẩy
sâu vào tận vai và đỉnh đầu. Trong khi đó thân họ bị
trói bọc trong những miếng kim loại nóng đỏ. Họ phải chịu
đau đớn biết bao! Những đau đớn này kéo dài liên tục
trong nửa trung kiếp, là một thời gian vô tận tính theo năm
tháng của con người.
1.1.8
Vô Gián Địa Ngục (Phạn: Avici – Địa ngục A Tì dành cho
ngũ nghịch trọng tội)
Địa
ngục này là một dinh thự bao la bằng kim loại nóng hực,
bao quanh làø mười sáu Cận Biên Địa ngục. Trong đó các
thuộc hạ của Diêm Vương ném vô lượng chúng sinh vào giữa
một núi sắt nung đỏ rực than hồng. Chúng còn làm cho lửa
cháy bùng lên bằng những ống thổi làm bằng da cọp da beo
cho tới khi thân các nạn nhân và ngọn lửa trở nên không
còn phân biệt được nữa. Nỗi khổ của các nạn nhân
là vô cùng tận. Ngoài những tiếng kêu khóc tuyệt vọng thì
không còn dấu hiệu nào về sự hiện diện của những thân
xác thực sự nữa. Các chúng sinh không ngớt mong mỏi được
trốn thoát, nhưng điều ấy không xảy ra. Thỉnh thoảng có
một lỗ hổng nhỏ trong ngọn lửa và họ nghĩ rằng mình
có thể thoát ra, nhưng các thuộc hạ lại đánh họ bằng
giáo, dùi cui, búa và những vũ khí khác. Chúng sinh ở đây
cũng phải chịu mọi đau đớn hành hà của bảy tầng địa
ngục ở trên, chẳng hạn như bị đổ chất đồng nóng chảy
vào miệng ï.
Thọ
mạng ở đây kéo dài cả một trung kiếp. Điạ ngục này
được gọi là Vô Gián, bởi vì không đâu có thể có nỗi
khổ khủng khiếp đến như vậy. Đây là địa ngục mà những
kẻ phạm năm trọng tội bị quả báo tức thì, và những
hành giả Kim Cương Thừa nào phát khởi những quan điểm đối
nghịch lại với Vị Thầy Kim Cương, cũng bị tái sinh vào
đó. Ngoài ra không có hành nghiệp nào có thể có đủ
nghiệp lực để dẫn đến tái sinh ở địa ngục này.
1.1.9
Cận Biên Địa Ngục
Ở
bốn hướng chung quanh Vô Gián Địa Ngục đều bao phủ hào
sâu đầy than hồng cháy bỏng, đầm lầy đầy những xác
chết thối rửa, cánh đồng vũ khí tua tủa và rừng cây có
lá sắc như dao. Ở các phương bắc, nam, đông và tây
đều có các điạ ngục này, tất cả hợp lại thành mười
sáu địa ngục. Ở các hướng trung gian – đông nam, tây nam,
tây bắc và đông bắc – là những đồi cây salmali bằng
sắt.
Hố
than nóng đỏ. Khi chúng sinh đã trả xong hầu hết các nghiệp
tội ở Vô Gián Địa Ngục và thoát được khỏi địa ngục
này, họ sẽ thấy ở đằng xa một cái gì giống như một
cái mương rợp mát. Thế là họ vui mừng lao xuống đó, để
rồi chỉ thấy mình chìm nghỉm xuống một hố than nóng
đỏ thiêu đốt thịt xương họ.
Đầm
lầy đầy tử thi thối rữa. Tiếp theo đó họ sẽ thấy một
con sông. Bị quay nướng trong một lò than cả một đại kiếp,
họ khát tới nỗi chỉ nhìn thấy nước là họ đã tràn ngập
sung sướng và họ vội vã lao tới đó để làm nguôi cơn
khát. Nhưng dĩ nhiên là không có nước. Không có gì ngoài
những xác chết – xác người, xác ngựa, xác chó – tất
cả đang thối rữa và lúc nhúc giòi bọ, bốc ra những mùi
hôi thối khủng khiếp. Họ lún sâu vào bãi lầy này cho tới
khi đầu bị chìm nghỉm, và những con sâu có mỏ sắt cấu
xé, ngấu nghiến họ.
Cánh
đồng dao cạo. Khi thoát khỏi đầm lầy tử thi, họ sung sướng
khi nhìn thấy một cánh đồng xanh tươi . Nhưng khi tới đó
họ nhận ra rằng nó lởm chởm đầy những vũ khí. Toàn mặt
đất bị bao phủ bởi những lưỡi dao sắt nóng đỏ, nhiều
như cỏ, chúng đâm xuyên thủng chân họ mỗi khi họ cất
bước. Khi họ nhấc chân lên thì bàn chân lại lành lặn –
chỉ để lại bị đâm nát thật đau đớn ngay khi họ đặt
chân xuống.
Rừng
gươm. Được tự do một lần nữa, họ sung sướng khi được
nhìn thấy một cánh rừng đẹp đẽ và vội vã tới đó.
Nhưng khi tới nơi thì chẳâng có cánh rừng xinh đẹp nào
cả. Nó hoá thành một bụi cây mà trên những cành cây kim
loại mọc đầy gươm đao thay cho lá. Khi cây lay động trong
gió, những lưỡi gươm cắt thân họ thành từng miếng nhỏ.
Thân họ sau đó trở lại như cũ và lại liên tục bị băm
nhỏ như vậy.
Đồi
cây salmali bằng sắt. Đây là nơi tái sinh của những vị
tăng, ni vi phạm giới nguyện giữ thân trong sạch và của
những kẻ phạm tà dâm. Hậu quả của những ác nghiệp này
đã khiến họ phải đến chân đồi cây salmali bằng sắt
khủng khiếp. Họ có thể thấy trên đỉnh đồi những người
tình cũ đang kêu gọi họ. Khi họ hăm hở leo lên để gặp
những người ấy thì tất cả những nhánh lá của cây sắt
chĩa xuống và đâm thủng da thịt họ. Khi lên tới đỉnh,
họ chỉ thấy những con quạ, kên kên, và những con cùng loại,
chúng móc mắt họ để hút lấy mỡ. Lúc này họ lại thấy
những người bạn tình đang gọi họ từ dưới đồi. Họ
leo xuống và những lá cây lại chỉa ngược lên liên tục
đâm vào ngực họ. Khi xuống tới mặt đất, những người
đàn ông và đàn bà bằng sắt hình thù gớm ghiếc ôm chầm
lấy họ, cắn đứt đầu họ và nhai cho tới khi óc chảy
ròng ròng ở khóe miệng. Những đau khổ phải trải qua ở
địa ngục này là như vậy.
Hãy
thấm nhuần mọi chi tiết của những đau khổ ở bát
hỏa địa ngục, mười sáu địa ngục cận biên và phụ cận,
và những đồi cây salmali bằng sắt. Hãy lui về một nơi
yên tĩnh, nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng mình đang
ở trong những địa ngục này. Khi đã cảm nhận được
nỗi kinh hoàng và đau khổ nhiều tới độ như thể mình đang
thực sự sống ở đó, thì hãy khởi lên trong tâm những suy
nghĩ như sau:
“Khi
quán tưởng về những nỗi thống khổ đó, tôi cảm nhận
được sự khiếp sợ và đau khổ khủng khiếp như vậy, mặc
dù tôi không thực sự ở đó. Ngay giờ phút này, có vô số
chúng sinh đang sống trong địa ngục, và tất cả họ đã
từng là cha mẹ của tôi trong những đời quá khứ. Chẳng
biết cha mẹ, những người thân yêu và bằng hữu của tôi
có bị tái sinh vào đó sau khi chết hay không. Sự tái sinh
vào những cõi này chủ yếu là do những hành vi phát xuất
từ thù hận, và bản thân tôi cũng đã tích lũy vô lượng
hành nghiệp ấy trong đời này cũng như trong tất cả những
đời quá khứ của tôi. Tôi biết chắc rằng không sớm thì
muộn chính tôi cũng sẽ phải tái sinh vào những cõi địa
ngục đó.
“Vào
lúc này, tôi có được thân người với đầy đủ mọi điều
kiện tự do và thuận lợi. Tôi đã gặp được một vị Thầy
chân chính và thọ nhận được những lời chỉ dạy thâm
sâu để có thể đạt được Phật quả. Vậy, tôi phải gắng
hết sức mình để hành trì các pháp tu để có thể cứu
thoát tôi không bao giờ để cho tôi còn bị tái sinh nữa vào
những cõi thấp đó.”
Hãy
quán chiếu nhiều lần như vậy về nỗi khổ ở địa ngục.
Hãy sám hối những ác hạnh trong quá khứ với lòng ân hận
sâu xa và hãy lập quyết tâm bất thối chuyển rằng, cho dù
phải bỏ thân mạng này thì cũng sẽ không bao giờ vi phạm
những hành nghiệp dẫn đến tái sinh vào địa ngục. Với
lòng bi mẫn to lớn đối với những chúng sinh giờ đây đang
ở đó, hãy cầu nguyện rằng ngay giây phút này, xin cho tất
cả họ có thể được giải thoát khỏi những cõi thấp.
Hãy đem những lời chỉ dạy vào công phu hành trì, hãy hoàn
tất pháp tu này ở phần đầu của thời công phu, ở phần
thực hành chính yếu cũng như vào lúc kết thúc thời công
phu.
1.2
BÁT HÀN ĐỊA NGỤC (Tám địa ngục
lạnh)
Trong
các địa ngục này, toàn thể khung cảnh được tạo bằng
núi tuyết vàø băng hà, thường xuyên bị bao phủ trong bão
tuyết.
Chúng
sinh ở đây, hoàn toàn phải chịu trần truồng, và bị hành
hạ bởi giá lạnh. Trong Địa ngục Án Phù Đà (Phạn: Arbuda
– Hell of Blisters – Điạ Ngục Phồng Giộp), cái lạnh buốt
giá làm cho thân họ phồng giộp lên. Trong Địa Ngục
Ni La Phù Đà, (Phạn: Nirarbuda – Hell of Burst Blisters – Địa
Ngục Phồng Giộp Nứt Nẻ), những mảng phồng giộp trên
thân họ bị nứt bật ra. Trong Địa Ngục A Tra Tra (Phạn:
Atata – Hell of Clenched Teeth – Địa Ngục Nghiến Răng), cái
lạnh nhức buốt đến mức không thể chịu nổi và hàm răng
họ phải nghiến chặt lại. Trong Địa Ngục Hoắc Hoắc Ba
(Phạn: Hahava – Hell of Lamentations – Điạ Ngục Than Khóc),
tiếng than khóc của họ chẳng bao giờ dứt. Trong Địa Ngục
Hô Hô Ba (Phạn: Huhuva – Hell of Groans – Địa Ngục Rên Xiết),
giọng họ bị vỡ ra và chỉ có những tiếng rên dài nghe
được từ miệng họ. Trong Địa Ngục Ưu Bát La (Phạn: Utpala–
Hell of Utpala-like Cracks – Địa Ngục Nứt Nẻ Như Hoa Ưu Bát
La), da của họ trở nên xám xanh và thân họ nứt ra thành
bốn mảnh như cánh hoa ưu bát la. Trong Địa Ngục Liên Hoa
(Phạn: Padma – Hell of Lotus-like Cracks – Địa Ngục Nứt Nẻ
Như Hoa Sen), có thể nhìn thấy máu thịt đỏ dưới da họ,
và cái giá lạnh làm thân họ phải bị nứt thành tám mảnh
như hoa sen. Cuối cùng, trong Địa Ngục Đại Liên Hoa (Phạn:
Maha-Padma – Hell of Great Lotus-like Cracks), máu thịt họ
trở nên đỏ sậm và nứt ra thành mười sáu, ba mươi hai
mảnh và sau đó thành vô số mảnh. Sâu bọ đục thủng những
mảng thịt vỡ nứt và ngấu nghiến chúng bằng những cái
mỏ kim khí. Tên của tám địa ngục này bắt nguồn từ những
đau khổ khác nhau mà chúng sinh phải chịu đựng ở đó.
Còn
về thọ mạng trong những địa ngục lạnh này, hãy hình dung
một cái thùng có thể chứa được hai trăm thước bộ Câu
Tát La (Kosala),* đựng đầy hột mè. Nếu cứ một trăm năm
lại lấy một hột mè ra thì thọ mạng của các tội nhân
trong Địa Ngục Án Phù Đà (Điạ Ngục Phồng Giộp) kéo dài
chừng nào tất cả các hột mè được lấy ra khỏi cái thùng
đó.
*
Một đơn vị đo lường thời xưa được đặt tên theo thành
phố Kosala của Ấn Độ (hiện nay gần Ayodhya).
Đối
với những địa ngục lạnh khác, thọ mạng và các nỗi khổ
mỗi thứ tăng gấp hai mươi lần. Do đó thọ mạng trong
Địa Ngục Ni La Phù Đà (Địa Ngục Phồng Giộp Nứt Nẻ)
dài gấp hai mươi lần đời sống trong Địa Ngục Án Phù
Đà; thọ mạng trong Địa Ngục A Tra Tra (Địa Ngục Nghiến
Răng) thì dài gấp hai mươi lần đời sống trong Địa Ngục
Ni La Phù Đà và tương tự như vậy đối với các địa ngục
khác…
Hãy
hứng chịu những nỗi đau khổ (của các tội nhân) này trong
tâm thức, và hãy thiền quán về những nỗi thống khổ này
theo cách thức thiền quán đối với bát hoải địa ngục.
Hãy nghĩ rằng trong thế giới con người hiện tại này, sẽ
lạnh lẽo khủng khiếp biết bao khi ta không có được một
mảnh vải che thân dù chỉ trong chốc lát giữa gió bão mùa
đông lạnh giá. Làm sao có thể chịu đựng được nếu bị
tái sinh vào bát hàn địa ngục? Hãy phát lồ sám hối những
lỗi lầm của mình và nguyện không bao giờ tái phạm. Sau
đó hãy phát khởi lòng bi mẫn đối với chúng sinh đang sống
trong những thế giới đó. Hãy công phu hành trì như trong
những thời công phu trước, áp dụng các phương pháp hành
trì vào lúc khởi đầu, trong phần công phu chính yếu cũng
như khi kết thúc thời công phu.
1.3
CÔ ĐỘC ĐỊA NGỤC (Phạn: Pratyeka)
Các
Cô Độc Địa Ngục hiện hữu ở nhiều tầng khác nhau và
những nỗi khổ phải kinh qua ở mỗi nơi cũng biến đổi
rất nhiều. Chúng sinh có thể bị nghiền nát giữa các tảng
đá, hoặc bị giam cầm trong một hòn đá, bị cóng lạnh giữa
băng tuyết, bị nấu chín trong nước sôi hay thiêu đốt trong
lửa đỏ. Có những chúng sinh cảm thấy rằng khi có người
đang đốn cây, thì mình là cái cây đang bị chặt cành. Một
số đau khổ bởi thấy thân thể họ là những dụng cụ bị
liên tục sử dụng như cối giã, chổi, xoong chảo, cánh cửa,
kèo cột, đinh đầu lớn và dây thừng ...
Minh
chứng về các Cô Độc Địa Ngục có thể kể đến các câu
chuyện về con cá mà Ngài Lingje Repa nhìn thấy trong Hồ Yamdrok
và con ếch mà thành tựu giả Tangtong Gyalpo tìm thấy bên trong
một hòn đá.
Yutso
Ngonmo, Hồ Lam Ngọc xuất hiện trong lúc thánh nữ Yeshe Tsogyal
đang thiền định ở Yamdrok, khi một miếng vàng ròng do một
người tu theo đạo Bonpo ném xuống đã biến thành hồ nước.
Nó là một trong bốn cái hồ nổi tiếng ở Tây Tạng, và
dài đến nỗi từ đầu hồ tại Lung Kangchen tới cuối hồ
ở Zemaguru phải đi bộ mất vài ngày. Một ngày nọ, khi đại
thành tựu giả Lingje Repa đang quan sát cái hồ này thì Ngài
bắt đầu bật khóc và than rằng: “Con vật đáng thương!
Chớ lạm dụng những vật cúng dường! Chớ lạm dụng những
vật cúng dường!”49
Khi
những người đang ở cùng với Ngài xin Ngài giải thích, Ngài
nói “Thần thức của một Lạt Ma lạm dụng của cúng dường
đã bị tái sinh trong một điạ ngục Cô Độc trong cái hồ
này, và đang phải hứng chịu cực kỳ đau khổ.”
Những
người này muốn được nhìn thấy, và vì thế mà vị thành
tựu giả đã làm khô cạn nước hồ trong chốc lát một cách
kỳ diệu, phơi bày một con cá khổng lồ, lớn tới nỗi chiếm
trọn bề rộng và bề dài của cái hồ. Nó đang quằn quại
trong đau đớn vì toàn thân bị phủ kín bởi những sinh vật
nhỏ đang ăn sống nó. Những thị giả của Ngài Lingje Repa
hỏi Ngài người có nghiệp xấu như vậy làø ai, và Ngài
trả lời đó là Tsangla Tanakchen, một lạt ma của phái Hắc
Mã (Ngựa Đen) ở tỉnh Tsang. Ông là một Lạt Ma mà lời
nói, ngôn từø có mãnh lực to lớn và có thể đem đến nhiều
sự gia hộ.50 Chỉ một cái nhìn của ông là đủ để chữa
lành cho một ngườiù bị tinh linh quấy nhiễu. Vì lý do này
ông rất được kính trọng trong bốn tỉnh của U và Tsang.
Nhưng khi ông thực hiện pháp chuyển di tâm thức trong những
buổi tang lễ, mỗi lần phát ra tiếng “P’et” là ông đòi
phải được trả công bằng một số lượng lớn gồm ngựa
và trâu bò của người chết.
Một
ngày nọ, khi thành tựu giả Tangtong Gyalpo đang hành trì những
bài pháp du già (yoga) về kinh mạch và khí lực trên một tảng
đá lớn, làm tảng đá bể ra làm hai. Bên trong đó làø một
con cóc lớn, có vô số những sinh vật bé nhỏ đang bám vào
và ăn sống nó, làm nó há mở rồi lại ngậm cái miệng đen
của nó lại vì đau đớn khôn tả. Khi những người đồng
hành hỏi Ngài tại sao lại xảy ra điều này, Tangtong Gyalpo
giải thích rằng người bị tái sinh trong hình thể đó là
một thầy tu đã dùng những con vật để cúng tế.
Hãy
nhìn những Lạt Ma ngày nay! Mỗi lần một tín chủ giết một
con cừu béo tốt và bày ra thịt cổ, những trái cật và những
bộ phận khác cùng với thịt và máu, chất đống nó cùng
những miếng thịt sườn trâu yak còn run rẩy, những Lạt
Ma của chúng ta kéo áo choàng ra khỏi đầu và mút bộ lòng
như trẻ em bú mẹ. Sau đó, họ dùng dao lạng miếng thịt
và ung dung nhai nuốt chúng một cách ngon lành. Khi ăn xong, cái
đầu của họ mới ngẩng lên, nóng hổi và bốc hơi. Miệng
họ loáng mỡ và râu họ thoảng một màu đỏ nhạt. Nhưng
họ sẽ gặp hậu quả nặng nề trong đời sau, ở các cô
độc địa ngục, khi họ phải trả giá lại bằng chính thân
thể của họ tất cả những gì họ đã ăn quá nhiều lần
trong kiếp sống này.
Có
lần, Ngài Palden Chokyong, Tu Viện Trưởng Tối Cao của xứ
Ngor, có mặt ở Derge. Ngài bố trí nhiều tu sĩ dọc theo bờ
Sông Ngulda, ra lệnh cho họ không được để bất kỳ thứ
gì trôi qua. Tới chiều, họ thấy một thân cây lớn trôi
trên mặt nước nên lôi vào bờ và đem lại cho vị Tu Viện
Trưởng, nói rằng ngoài khúc cây này họ không thấy vật
gì khác.
“Chắc
hẳn là nó,” Ngài nói. “Hãy chẻ nó ra.”
Ở
bên trong thân cây họ thấy một con cóc lớn đang bị vô số
côn trùng ăn sống. Sau khi thực hiện nghi lễ tịnh hóa, vị
Tu Viện Trưởng nói rằng con cóc trước đây là một người
quản thủ tên là Pogye ở vùng Derge. Ngày nay những người
quản thủ như vậy có vẻ có mọi quyền lực, nhưng tất
cả những người lãnh đạo và những kẻ quyền cao chức
trọng đang thâm lạm của công nên suy nghĩ về Cô Độc Địa
Ngục và phải vô cùng cẩn trọng.
Vào
thời Đức Phật, có một người đồ tể của làng lập một
lời nguyện không giết súc vật vào ban đêm. Ông ta bị tái
sinh vào một địa ngục Cô Độc. Vào ban đêm ông ta được
trải qua sự hỷ lạc vô hạn. Ông sống trong một lâu đài
tuyệt đẹp với bốn phụ nữ quyến rũ và họ ra sức phục
vụ các thức ăn đồ uống và những thú vui khác cho ông.
Tuy nhiên, vào ban ngày những bức tường của toà nhà biến
thành kim khí nóng đỏ và bốn người phụ nữ thành bốn
con chó nâu thật khủng khiếp ngấu nghiến ăn thịt ông ta.
Ngày
xưa, Ngài Srona thấy một người đàn ông ngoại tình thề
giữ giới không tà dâm vào ban ngày. Ngược với người đồ
tể, ông ta chỉ bị đau khổ vào ban đêm.
Trước
đây có một tu viện rất an vui có khoảng năm trăm tăng sĩ.
Khi chuông đổ vào giữa trưa, những nhà sư vân tập để
thọ trai, dùng bữa trưa thì tu viện biến thành một căn nhà
bằng kim khí cháy nóng. Những bình bát, ly tách và v.v... biến
thành các vũ khí và những vị tu sĩ đánh đập nhau. Khi hết
giờ ăn trưa, họ tách ra và lại trở về vị trí cũ. Vào
thời Đức Phật Ca Diếp, nhiều vị tăng đã tranh cãi vào
giờ ăn trưa, và đây là sự trổ quả việc tranh cãi đó.*
Tám
địa ngục nóng (hỏa ngục), tám điạ ngục lạnh (hàn ngục),
cùng với cận biên địa ngục và cô độc địa ngục tạo
thành mười tám cõi địa ngục. Hãy nghiên cứu kỹ càng số
lượng của những địa ngục này, thời gian trải qua ở đây,
những đau khổ phải chịu đựng và nguyên nhân gây ra việc
phải bị đọa sinh vào đó. Hãy thiền quán với lòng bi mẫn
về những chúng sinh bị đọa sinh ở đó. Hãy cố gắng để
bảo đảm rằng sẽ không một ai, kể cả bản thân mình lẫn
bất kỳ chúng sinh nào khác, còn bị sinh vào những cõi đó.
Nếu
chỉ hoàn toàn bằng lòng với việc lắng nghe và hiểu biết
về những địa ngục này về mặt kiến thức mà không biến
những hiểu biết ấy thành một kinh nghiệm sống thực, thì
ta sẽ chỉ trở thành một người trong đám những hành giả
ngoan cố và kiêu ngạo, sẽ bị các bậc siêu phàm phê phán
và các bậc thiện tri thức chỉ trích.
Ngày
xưa có một tu sĩ có đức hạnh gương mẫu nhưng lại hết
sức kiêu ngạo. Ông ta đến thăm Ngài Shang Rinpoche, Ngài hỏi
ông ta hiểu biết Giáo Pháp gì.
“Tôi
đã được nghe nhiều giáo lý,” vị tăng sĩ trả lời.
“Vậy
hãy kể cho ta tên của mười tám địa ngục,” Shang Rinpoche
nói.
“Tám
địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh... tổng cộng là mười
sáu... và nếu Ngài thêm vào Mũ Đen và Đỏ của các vị Karmapa
thì là mười tám.”
*
Điều này được giải thích trong chương theo sau.
Không
phải vì sự thiếu tôn kính đã khiến cho ông ta gộp chung
các đạo sư Karmapa với các địa ngục. Đơn giản là chỉ
vì ông ta quên tên của các Cô Độc Điạ Ngục và Cận Biên
Địa Ngục, và bởi vào lúc đó những vị đạo sư Karmapa
Mũ Đen và Đỏ rất nổi tiếng, nên ông ta đã hấp tấp kể
thêm các Ngài vào. Bây giờ bạn có thực hành những giáo
lý đã nhận được hay không là một chuyện, nhưng nếu ngay
cả những ngôn từ và thuật ngữ có liên quan đến những
giáo lý ấy mà cũng không biết tới thì thật đáng xấu hổ.
2. Ngạ Quỷ
(Phạn:
Preta)
Có
hai loài ngạ quỷ: ngạ quỷ sống tụ tập và ngạ quỷ du
hành khắp không gian.
2.1
LOÀI NGẠ QUỶ SỐNG TỤ TẬP
Những
ngạ quỷ này bị hành hạ đau khổ bởi ba loại chướng ngại:
chướng ngại bên ngoài (ngoại chướng), chướng ngại bên
trong (nội chướng), hay chướng ngại đặc biệt (không chướng).
2.1.1
Ngạ quỷ bị hành hạ bởi chướng ngại bên ngoài
Những
ngạ quỷ này bị hành hạ bởi cái đói và khát cực độ.
Nhiều thế kỷ đã trôi qua mà ngay cả một từ “nước”
cũng chẳng được nhắc tới. Thường xuyên bị ám ảnh bởi
thực phẩm và nước uống, họ không ngừng tìm kiếm thức
ăn và nước uống, nhưng không tìm thấy ngay cả một dấu
vết nhỏ nhất. Thỉnh thoảng họ thấy ở xa một dòng nước
trong trẻo, thanh tịnh. Nhưng những khớp xương của họ yếu
tới nỗi không đỡ nổi cái bụng nặng nề. Họ khổ
sở lắm mới tới được đó, và khi tới nơi thì hoàn toàn
kiệt lực – chỉ để càng khốn khổ hơn khi thấy nước
đã khô cạn hết, không còn gì ngoài đáy sông đầy sỏi
đá.
Đôi
khi họ thấy xa xa có một vườn trái cây. Cũng như trước,
họ tiến lại gần, nhưng khi đến nơi họ lại thấy rằng
những cây lớn đã hoàn toàn khô héo. Đôi lúc họ nhìn thấy
nhiều thức ăn và nước uống cùng những thứ vừa ý khác,
nhưng khi tới gần thì họ thấy những thứ này được bảo
vệ bởi vô số người trang bị vũ khí, những người này
săn đuổi và đánh đập họ bằng các vũ khí khiến họ phải
bị vô cùng đau đớn.
Vào
mùa hè, ngay cả ánh trăng dường như cũng nóng bỏng và thiêu
đốt họ; vào mùa đông thì họ có cảm tưởng mặt trời
cũng lạnh giá. Những cảm giác này hành hạ họ khủng khiếp.
Có
lần, khi Ngài Srona ở trong một xứ ngạ quỷ, Ngài thấy sự
tham lam của họ độc hại tới nỗi làm Ngài phát sốt và
miệng Ngài trở nên hoàn toàn khô đắng. Ngài đi qua một
lâu đài bằng sắt mà đứng ở cửa là một hình dạng ảm
đạm khủng khiếp với đôi mắt đỏ ngầu.
”Xin
hỏi ở đâu có nước?” Ngài Srona nói.
Nghe
được lời này, tất cả một đám ngạ quỷ trông giống
như những mẩu gỗ đang cháy xúm lại quanh Ngài, van nài: “Đấng
viên mãn vĩ đại, xin hãy cho chúng tôi nước uống!”
“Chính
ta cũng chẳng tìm ra,” Ngài trả lời. “Các ngươi hãy cho
ta một ít.”
“Ngài
nói gì vậy?” những ngạ quỷ trả lời. “Chúng tôi sinh
ở vùng này đã mười hai năm mà tới nay chưa từng được
nghe nhắc tới nước.”
2.1.2
Ngạ quỷ bị hành hạ bởi chướng ngại bên trong
Những
ngạ quỷ này có cửa miệng không lớn hơn một lỗ kim. Thậm
chí nếu họ uống hết nước trong các đại dương, thì lúc
nước trôi xuống cái cổ họng nhỏ như một sợi lông ngựa,
sức nóng của hơi thở họ sẽ làm nước bốc hơi hết. Ngay
cả nếu bằng cách nào đó họ nuốt được một chút ít,
thì cũng chẳng bao giờ làm đầy nổi cái bao tử có kích
cỡ bằng cả một quốc gia. Thậm chí, cho dù nước vào được
bao tử đủ để làm họ thoả mãn, thì vào ban đêm, nó cũng
biến thành lửa và thiêu cháy tim, phổi, và nội tạng của
họ. Khi muốn bước đi, với chân tay chỉ như cọng cỏ, họ
không thể nâng nổi cái bụng khổng lồ, và sau đó, cũng
làm cho họ đau khổ vô hạn.
2.1.3
Ngạ quỷ bị hành hạ bởi chướng ngại đặc biệt
Những
ngạ quỷ này phải chịu tất cả những loại đau khổ khác
nhau và ở mức độ khác nhau. Chẳng hạn, một số ngạ quỷ
có nhiều sinh vật sống trong thân thể và ăn thịt chúng.
Có
lần khi đang du hành trong xứ sở của ngạ quỷ, Ngài Srona
tới một lâu đài và gặp một phụ nữ tuyệt đẹp. Nhờ
vóc dáng thanh tú và được trang điểm bằng châu báu nên
trông bà thật quyến rũ. Ở mỗi chân chiếc ngai bà ngồi
có một ngạ quỷ bị trói. Bà cúng dường Ngài Srona thức
ăn, và báo trước rằng Ngài không nên cho các ngạ quỷ này
một miếng ăn nhỏ nhất cho dù họ van xin. Khi Ngài Srona bắt
đầu ăn thì họ bắt đầu van xin. Ngài đưa một ít thức
ăn cho một ngạ quỷ thì miếng thức ăn đó biến thành
vỏ trấu; những gì Ngài cho ngạ quỷ thứ hai biến thành
cục sắt; ngạ quỷ [thứ ba] bắt đầu ăn thịt của chính
mình, và những gì Ngài cho ngạ quỷ thứ tư thì biến thành
máu và mủ.
Khi
người phụ nữ trở lại, bà la lên, “Tôi đã nói là Ngài
không nên cho họ bất cứ thứ gì! Ngài nghĩ rằng ngài có
nhiều lòng bi hơn tôi ư?”
“Bà
có liên hệ như thế nào với bốn ngạ quỷ này?” Ngài Srona
hỏi bà ta.
“Đây
là chồng tôi; kia là con trai, đó là con dâu, và người thứ
tư là người hầu của tôi.”
“Hành
nghiệp nào trong quá khứ đã đưa họ tới đây?”
“Dân
chúng ở cõi Diêm Phù Đề (cõi Ta Bà) rất đa nghi,” người
phụ nữ trả lời. “Ngài sẽ không bao giờ tin tôi đâu.”
“Làm
sao tôi lại không tin bà khi mà chính mắt tôi đang chứng kiến
[cảnh tượng ngạ quỷ]?”
Thế
là người phụ nữ kể cho Ngài Srona câu chuyện của bà. “Tôi
là một phụ nữ Bà-la-môn trong một ngôi làng nọ. Một chiều
kia, tôi nấu một số thức ăn ngon vì hôm đó là một ngày
tốt lành. Tình cờ Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm đi
khất thực qua đó. Tôi phát khởi niềm tin nơi Ngài và
cúng dường Ngài thực phẩm. Rồi tôi tự nghĩ có lẽ chồng
tôi muốn chia sẻ công đức, nên tôi nói với ông rằng: “Hãy
hoan hỷ với tôi vì tôi đã cúng dường Ngài Katyayana vĩ đại
và siêu phàm, bậc thừa kế của Đức Phật.” Nhưng ông
ta nổi cơn thịnh nộ. “Bà chưa cúng dường thực phẩm cho
những người Ba la môn, mà lại dâng phần thức ăn đầu tiên
cho tu sĩ trọc đầu này! Tại sao ông ta không thể tọng vỏ
trấu vào miệng?”
Tôi
cũng kể chuyện tương tự cho con trai mình, nhưng nóù cũng
nổi giận và la lên rằng: “Tại sao cái ông đầu trọc của
má không ăn những mẩu sắt?.”
“Tối
hôm đó, cha mẹ tôi gởi cho tôi một số thức ăn ngon, nhưng
đứa con dâu đã ăn mất và chỉ chừa lại cho tôi những
miếng dở nhất. Khi tôi hỏi : ‘Có phải con đã ăn
những miếng ngon và chỉ chừa lại cho mẹ những miếng tệ
nhất?’ thì nó đã nói dối tôi: ‘Thà con ăn thịt mình
còn hơn là chạm vào đĩa thức ăn của mẹ!’
“Tương
tự như vậy, khi người hầu đã ăn những thức ăn mà cô
ta phải mang lại cho gia đình tôi, cô ta nói với tôi rằng
cô thà uống máu và mủ còn hơn là ăn cắp thực phẩm của
tôi.
“Bản
thân tôi trở thành một ngạ quỷ đầy quyền lực vì tôi
ước nguyện được tái sinh vào nơi mà tôi có thể thấy
những gì xảy ra cho họ do nghiệp lực của họ chiêu cảm.
Tôi đã không ước nguyện được sinh vào Cung Trời thứ Ba
Mươi Ba (Đao Lợi) sau khi đã cúng dường cho một bậc
siêu phàm.
“Nếu
có bao giờ Ngài tới làng tôi, xin nói với con gái tôi, mà
bây giờ là một con điếm, rằng Ngài đã gặp cha mẹ
nó, và Ngài được giao phó để bảo với nó rằng những
gì nó đang làm sẽ có hậu quả xấu, đó là một cách sống
sai lầm và nó nên từ bỏ những cách sống xấu xa đó.
“Nếu
nó không tin Ngài, xin nói với nó rằng trong căn nhà cũ của
cha nó có bốn bình sắt chứa đầy vàng, một cây gậy bằng
vàng và một bình tẩy tịnh cho tu sĩ. Xin nói với nó đem
những thứ này thỉnh thoảng cúng dường cho Ngài Katyayana
vĩ đại và siêu phàm, và hãy hồi hướng công đức nhân
danh chúng tôi. Điều đó sẽ giảm bớt nghiệp tội của chúng
tôi cho tới khi cuối cùng nghiệp tội ấy được trả kỳ
hết.”
Có
lần, khi Đạo Sư Jetari đang du hành, Ngài gặp một nữ ngạ
quỷ có thân hình gớm guốc, là mẹ của năm trăm đứa con.
“Chồng
tôi đi Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) đã mười hai năm để
tìm kiếm thực phẩm và vẫn chưa về. Nếu Ngài đến đó,
xin nói với ông ấy rằng nếu không về sớm, những đứa
con của chúng tôi sẽ chết đói hết.”
“Chồng
của ngươi ra sao?” Đạo sư hỏi. “Mọi ngạ quỷ đều
giống nhau, làm sao ta có thể nhận ra ông ta?”
“Ngài
không thể quên ông ấy được,” bà ta nói. “Ông ta có một
miệng lớn, mũi bẹp dí, mù một mắt và có tất cả chín
tướng xấu.”
Khi Ngài Jetari đến Bodh Gaya, Ngài thấy một sa di ném thực
phẩm và nước dùng trong những lễ cúng dường bánh cúng
(torma) ra ngoài. Khi vị sa di bỏ đi, một đám ngạ quỷ xô
lấn nhau để tranh dành đồ cúng. Trong đám đó có kẻ mà
Ngài đang tìm kiếm, vì thế Ngài nói với ngạ quỷ này lời
nhắn của người vợ của hắn.
Ngạ
quỷ này trả lời: “Tôi đã lang thang mười hai năm nhưng
chưa từng tìm được vật gì – ngoại trừ một lần, khi
một tu sĩ thanh tịnh làm nhỏ một ít nước mũi, nhưng thậm
chí tôi cũng không lấy được nhiều vì cả đám chúng tôi
đánh nhau để tranh dành nó.” Và Đạo sư nói thêm vào khi
Ngài thuật lại câu chuyện là trong lúc đánh nhau vì một
ít nước mũi đó, ngạ quỷ đã bị thương rất nặng.
Trong
tâm thức, hãy hứng chịu những nỗi khổ khác nhau mà các
ngạ quỷ phải trải qua do nghiệp lức chiêu cảm , nhất là
sự hành hạ của cái đói và khát. Hãy nghĩ xem ta sẽ đau
khổ như thế nào nếu không ăn hay uống chỉ trong một buổi
sáng. Ta sẽ cảm thấy thế nào nếu bị tái sinh ở một
nơi mà trong nhiều năm thậm chí chữ nước uống cũng không
được nhắc tới?
Hãy
quán chiếu rằng những nguyên nhân chính yếu gây nên sự
tái sinh làm ngạ quỷ là tính keo kiệt bủn xỉn và sự phản
đối lòng rộng lượng (tâm bố thí) của những người khác.
Chúng ta cũng đã mắc phạm những hành vi như thế vô số
lần, vì thế chúng ta phải làm bất kỳ những gì có thể
để
tránh bị đọa sinh vào nơi đó. Hãy thiền quán như vậy tận
đáy lòng mình với ba phương pháp dành cho lúc khởi đầu
thời công phu, trong khi thực hành phần chính yếu
của thời công phu và lúc kết thúc thời công phu.
2.2
LOÀI NGẠ QUỶ DI CHUYỂN TRONG KHÔNG GIAN
Cảnh
giới này bao gồm tsen, gyalpo, shindre, jungpo, mamo, theurang. *
Tất cả những chúng sinh này luôn sống trong sợ hãi và ảo
giác. Không suy nghĩ điều gì ngoài cái xấu, họ luôn
làm bất kỳ những gì có thể làm được để gây tổn hại
cho những chúng sinh khác, và nhiều trong số những ngại quỷ
này thậm chí còn bị đoạ vào những cõi thấp hơn như như
địa ngục ngay
*Những
loại tinh linh khác nhau không có thuật ngữ tương đương trong
Anh ngữ.
sau
khi (thọ mạng ở cõi ngạ quỷ chấm dứt). Đặc biệt,
mỗi tuần, họ lại phải trải qua tất cả những đau đớn
của cái chết trước đây do bệnh tật, vũ khí, những thế
lực xấu, hay bất kỳ những gì khác gây ra. Bởi điều
duy nhất mà họ muốn làm là trút bỏ nỗi khổ của mình
sang người khác, nên dù đi bất cứ nơi đâu họ cũng không
làm gì khác ngoài sự ác hại. Nhưng dù như vậy, họ vẫn
không thể gặt hái được bất kỳ điều tốt đẹp nào cho
bản thân họ. Thậm chí khi vui sướng được thăm viếng những
bạn bè cũ và những người thân yêu, những ngại quỷ này
chỉ đem lại cho những người đó bệnh tật, điên khùng
và những đau khổ bất ngờ khác.
Những
ngạ quỷ này phải trải qua những đau khổ liên tục. Các
pháp sư đầy năng lực đã chôn vùi, thiêu đốt họ và cử
hành những nghi lễ mà trong đó các pháp sư ném mọi loại
vũ khí tưởng tượng vào họ.51 Các pháp sư nhốt họ trong
bóng tối dưới trái đất trong nhiều kiếp, thiêu đốt họ
trong các ngọn lửa cúng dường, nghiền giã họ với những
hột mù tạt, bột đá hoặc những thứ tương tự. Các pháp
sư chẻ đầu họ ra thành trăm mảnh và thân họ thành một
ngàn khúc.
Giống
như tất cả các ngạ quỷ khác, họ cũng có những tri kiến
lệch lạc: vào mùa đông, mặt trời thì lạnh lẽ vào mùa
hè, mặt trăng lại nóng bỏng. Một số ngạ quỷ mang hình
tướng chim, chó hay động vật khác, trông vô cùng gớm ghiếc.
Tóm những đau khổ của các loài ngạ quỷ này thì không thể
tưởng tượng được.
Hãy
hành trì như đã được chỉ dạy ở phần trước, thiền
quán với những phương pháp đã được dạy khi bắt đầu
thời công phu, trong lúc thực hành phần hành trì chính yếu
và vào lúc kết thúc thời công phu. Qua dòng tâm thức, hãy
hứng chịu những đau khổ của những chúng sinh này và hãy
nuôi dưỡng lòng từ và bi đối với họ.
3. Súc Sinh
Có
hai loài súc sinh: những sinh vật sống ở các độ sâu và
những súc vật sống rải rác ở những nơi khác nhau.
3.1
SINH VẬT SỐNG Ở CÁC ĐỘ SÂU
Các
đại dương chứa đầy cá, các loài bò sát, rùa, cua tôm,
sâu bọ và những sinh vật khác, nhiều như những hạt mạch
nha dưới đáy một thùng bia. Có cả những con rắn và quái
vật lớn tới nỗi thân chúng có thể quấn nhiều vòng quanh
Núi Tu Di. Lại có những sinh vật khác nhỏ như những hạt
bụi hay đầu mũi kim.
Tất
cả những sinh vật này phải chịu đựng những đau khổ vô
hạn. Những con lớn nuốt những con bé. Ngược lại cũng có
những con bé đục khoét những con lớn và ăn sống chúng.
Những con vật lớn cũng phải bị có nhiều con nhỏ xíu sống
bên trong chúng và ăn thịt chúng. Một số những sinh vật
này sinh ra ở giữa những châu lục, nơi mặt trời không chiếu
sáng và nơi thậm chí chúng không thể thấy tứ chi của chúng
co hay duỗi. Đần độn và ngu dốt, chúng không biết những
gì nên làm và không nên làm. Chúng bị tái sinh vào những
nơi mà khổ đau là vô hạn.
3.2
SÚC VẬT SỐNG RẢI RÁC Ở NHỮNG NƠI KHÁC NHAU
Những
súc vật sống trong các cõi trời và cõi người chịu đau
khổ liên tục bởi sự ngu xuẩn của chúng và bởi chúng bị
bóc lột. Trong khi đó chúng long thần52 phải trải cuộc
đời trong sự hành hạ cùng cực bởi những con chim kim xí
điểu (garuda) và những trận mưa cát nóng. Thêm vào đó, những
chúng sinh này ngu đần, hung hăng và hiểm độc.
Đặc
biệt, những dã thú sống cùng với thế giới con người chúng
ta thường xuyên phải sống trong sự sợ hãi. Chúng không thể
ăn một miếng ăn mà không phải đề phòng cảnh giác. Chúng
có nhiều tử thù, vì các loài dã thú đều săn mồi lẫn
nhau, và do vậy, luôn có những đe dọa của kẻ săn mồi,
kẻ bị săn, và những sự đe dọa mạng sống khác. Diều
hâu giết những con chim nhỏ, chim nhỏ giết các côn trùng,
và v..v.., liên tục chồng chất những hành động xấu ác
trong một vòng tròn vô tận của sự giết và bị giết.
Thợ
săn thì lão luyện trong mọi phương pháp hành hạ và giết
hại những thú vật này. Họ đe dọa mạng sống của chúng
bằng mọi mưu kế xấu xa – bẫy, lưới, và súng. Một số
muông thú bị giết để lấy sừng, da, bộ lông và những
sản vật khác của thân thể chúng. Những con trai (sò) bị
giết để lấy ngọc; voi bị giết để lấy ngà và xương;
cọp, beo, rái cá và cáo để lấy bộ lông; bò xạ để lấy
xạ; con lừa và trâu yak để lấy máu và thịt. Thật là một
nỗi đau khổ khủng khiếp khi chính thân chúng được sinh
ra chỉ để bị giết hại.
Đối
với những thú vật được con người thuần hoá, chúng ngu
đần đến nỗi khi những kẻ giết hại chúng tới gần, cầm
dao trong tay, chúng chỉ biết giương đôi mắt mở lớn mà
thậm chí còn không nghĩ tới việc chạy trốn. Chúng bị vắt
sữa, chở nặng, bị thiến, xỏ mũi và bị thắng vào cái
cày. Chẳng có con nào trong chúng trốn thoát khỏi vòng tròn
nô lệ liên tục này. Ngựa và trâu yak tiếp tục bị chở
nặng và bị cưỡi ngay cả khi lưng chúng vô cùng đau đớn.
Khi không thể đi xa hơn được nữa, chúng bị đánh roi và
bị ném đá. Trong đầu những chủ nhân, họ chẳng bao giờ
nghĩ được rằng chúng có thể bị bệnh tật hay kiệt sức.
Trâu
bò và cừu bị bóc lột cho đến chết. Một khi chúng quá
giàø, chúng bị chính những người chủ của mình đem bán
hay giết thịt. Bất kỳ trường hợp nào, số mệnh của chúng
đều bị định đoạt bởi người đồ tể, và chúng không
bao giờ biết đến cái chết một cách tự nhiên.
Vì
thế, loài vật trải qua những đau khổ không thể tưởng
tượng được. Bất cứ khi nào thấy những thú vật bị hành
hạ như vậy, hãy đặt mình vào vị trí của chúng và hình
dung thật chi tiết tất cả những gì chúng phải trải qua.
Hãy thiền định với lòng bi mẫn mãnh liệt về tất cả
những chúng sinh bị tái sinh làm kiếp súc vật. Đặc biệt,
nếu có nuôi súc vật, hãy đối xử tử tế và thương yêu
chúng. Bởi lẽ tất cả các súc vật, ngay cả những côn trùng
nhỏ bé nhất, đều có cảm giác sung sướng và đau khổ,
và vì tất cả chúng đã từng là cha mẹ của chúng ta, hãy
phát khởi lòng từø bi đối với chúng, và hãy kết hợp
công phu hành trì của bạn với những phương pháp đã được
chỉ dạy vào lúc khởi đầu thời công phu, lúc thực hành
phần công phu chính yếu và vào lúc kết thúc thời công phu.
Dù
chúng sinh có thể bị tái sinh bất cứ nơi đâu trong ba cõi
thấp này, họ phải chịu đựng tất cả những sự hành hạ
lâu dài và khủng khiếp. Chúng sinh tái sinh vào những cõi
này thì ngu đần, khờ dại và không có bất kỳ ý niệm nào
về Giáo Pháp, và càng tạo ra thêm nhiều nhân để ̣bị đoa
nhiều lần hơn nữa vào trong những cõi thấp. Vì thế một
khi bị sinh vào những cõi này thì thật khó mà thoát ra được.
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta, và trong những kiếp
quá khứ khác, chúng ta đã tích lũy vô số hành nghiệp chắc
chắn sẽ dẫn chúng ta tới tái sinh vào những cõi này. Do
đó chúng ta phải thật lòng hối tiếc những hành nghiệp
sai lầm của mình trong quá khứ, sám hối và thệ nguyện là
sẽ không bao giờ tái phạm.
Với
lòng đại bi,hãy suy nghĩ về những chúng sinh phải sống trong
những cõi đó, hồi hướng cho họ công đức của mọi thiện
hạnh mà ta đã tích lũy khắp ba thời. Hãy cầu nguyện cho
họ có thể được giải thoát khỏi những cõi ác đạo đó:
“Giờ đây là lúc tôi đã gặp được Giáo Pháp của Đại
Thừa, và có cơ hội thực hành con đường đem lại lợi ích
thật sự cho cả tôi lẫn những người khác, tôi sẽ thực
hành Giáo Pháp đó với lòng dũng cảm, coi thường mọi khó
khăn, và đưa dẫn tất cả chúng sinh trong ba cõi thấp tới
những cõi Phật.” Sau khi nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm với những
suy nghĩ như vậy, hãy cầu nguyện Bổn Sư và chư Phật, khẩn
nguyện các Ngài cứu giúp và gia hộ: “Cầu xin Bổn Sư và
Tam Bảo gia trì cho con để con có thể đạt được mục đích
này!” Hãy hồi hướng công đức cho lợi ích của chúng sinh,
và thực hành ba phương pháp tối thượng đã được dạy
ở phần trước.
Mặc
dù tái sinh vào ba cõi thấp đưa đến đau khổ tất yếu,
và vì vậy có thể có người hy vọng rằng ở ba cõi cao sẽ
hạnh phúc và sung sướng, nhưng thực sự, ngay cả những cõi
cao cũng không có hạnh phúc.
4. Cõi Người
Loài
người phải chịu ba loại đau khổ chính, và bốn nguyên nhân
đau khổ lớn lao là sinh, lão, bệnh và tử. Ngoài ra,
còn có những loại đau khổ khác như sợ hãi khi gặp kẻ
mình ghét, khi bị mất người thương yêu, và khổ sở
khi không đạt được những gì mình muốn, hay khi gặp phải
những điều không mong muốn.
4.1
BA LOẠI ĐAU KHỔ CHÍNH YẾU
4.1.1
Đau khổ vì biến đổi
Khổ
về sự biến đổi là đau khổ mà ta cảm thấy khi trạng
thái hạnh phúc đột nhiên chuyển thành đau khổ. Có khi chúng
ta đang cảm thấy khỏe mạnh, hài lòng, no đủ sau một bữa
ăn ngon, thì đột nhiên bị đau bụng quằn quại bởi những
ký sinh trùng trong dạ dày chúng ta. Có khi ta hạnh phúc, và
chỉ một lát sau thì có kẻ thùø cướp đoạt tài sản hay
thú nuôi của ta; hay lửa cháy thiêu rụi nhà ta; hoặc đột
nhiên chúng ta bị mắc bệnh hay bị ảnh hưởng bởi những
thế lực xấu; hoặc nhận được những tin tức khủng khiếp
– và ngay lập tức chúng ta bị nhấn chìm trong đau khổ.
Thật
ra, bất kỳ biểu hiện hạnh phúc, tiện nghi hoặc quyền lực
nào được tìm thấy trong vòng luân hồi đều không có một
chút nền tảng bền vững nào, và về lâu dài, chẳng bao giờ
có thể kháng cự lại được vòng quay của sự đau khổ.
Vì vậy, chúng ta cần nuôi dưỡng sự tỉnh giác với tất
cả nhữùng biểu hiện hạnh phúc, tiện nghi hoặc quyền lực
trong cõi luân hồi.
4.1.2
Đau khổ chồng chất đau khổ
Chúng
ta trải qua đau khổ nối tiếp, chồng chất đau khổ; trước
khi một đau khổ chấm dứt, chúng ta đã phải chịu thêm một
đau khổ khác. Chúng ta bị bệnh cùi, và sau đó cũng lại
thình lình bị phỏng; cũng như bị phỏng rồi lại bị thương.
Cha chúng ta chết và sau đó không lâu mẹ ta cũng qua đời.
Chúng ta bị kẻ thù săn đuổi, và thêm vào đóù, người
thân yêu qua đời; và v.v... Dù chúng ta tái sinh ở đâu trong
luân hồi, thời gian của chúng ta cũng đều bị tiêu hao trong
đau khổ này chồng chất đau khổ kia, không có bất kỳ may
mắn nào để được hạnh phúc trọn vẹn trong giây lát.
4.1.3
Đau khổ của tất cả những gì giả hợp 53
Bây
giờ, một số người có thể nghĩ rằng mọi sự đang diễn
tiến hoàn toàn tốt đẹp với mình vào lúc này, và dường
như chúng ta không bị đau khổ nhiều cho lắm. Thật ra, chúng
ta hoàn toàn bị nhận chìm trong những nguyên nhân của đau
khổ. Ngay cả chính thực phẩm, quần áo, nhà cửa, các vật
trang hoàng và lễ hội là những thứ đem lại cho chúng ta
khoái lạc, tất cả những thứ ấy đều được tạo ra bằng
ác hạnh. Bởi vì tất cả mọi việc chúng ta làm, những việc
ấy hoặc dựa trên nền tảng của ác hạnh, hoặc có liên
hệ đến ác hạnh, chỉ có thể dẫn đến đau khổ mà thôi.
Hãy lấy trà và bột lúa mạch tsampa* ra làm ví dụ để có
thể hiểu rõ hơn.
Ở
Trung Quốc, nơi trồng trà, số sinh vật nhỏ bé bị giết
hại khi cây trà được trồng xuống rồi khi lá được hái,
v.v... – qua đó, số sinh vật bị giết chết đó không thể
tính đếm được. Sau đó trà được những phu khuân vác mang
đi xa tận Dartsedo. Mỗi phu khuân vác mang 12 túi, mỗi túi có
sáu bánh trà, chịu sức nặng quanh họ bằng dây buộc quanh
trán làm da họ mòn đi. Nhưng ngay cả khi cái sọ đầu của
họ lộ ra hết, hoàn toàn trắng bệch, thì họ vẫn phaiû
tiếp tục. Từ Dotok trở đi, những con dzo, những con trâu
yak và con la đảm nhiệm việc chuyên chở, lưng chúng muốn
gẫy sum, bụng chúng bị đục thủng với những vết cắt,
lông chúng loang lở từng mảng trầy xát. Chúng chịu đau khổ
ghê gớm vì sự nô lệ này. Sự trao đổi trà chẳng là gì
khác ngoài một loạt những lời thất hứa, lừa gạt và cãi
cọ, cho tới cuối cùng trà được đổi chủ, thường là
đổi để lấy những sản phẩm từ súc vật như len và da
cừu non. Bây giơ nói tới chuyện len, vào mùa hè trước khi
lông cừu bị xén, nó lúc nhúc đầy những bọ chét, ve và
những sinh vật bé nhỏ khác nhiều vô kể như chính len vậy.
Trong lúc xén lông, những con này bị đứt đầu, bị chặt
làm hai hay bị lòi ruột. Số con không bị giết vẫn còn kẹt
lại trong len và bị chết ngạt. Tất cả những việc làm
này chỉ có thể dẫn tới những cõi thấp. Đối với da cừu
non, hãy nhớ rằng những con cừu mới đẻ đều có đầy
đủ những giác quan, và chúng biết cảm thấy sung
*
Trà và tsampa, lúa mạch nướng được xay mịn thành bột,
là những thực phẩm chính yếu ở khắp xứ Tây Tạng. Trà
Tây tạng được khuấy với sữa và bơ và được dùng thường
xuyên suốt ngày. Tsampa được hoà trộn với trà để làm
thành một món ăn lập tức.
sướng
và đau khổ. Đúng lúc chúng đang vui hưởng những khoảnh
khắc đầu tiên của cuộc sống, trong khi hoàn toàn khỏe mạnh,
thì chúng lại bị giết. Có thể chúng chỉ là những
con vật ngu dại, tuy nhiên chúng không muốn chết – chúng
ham sống và đau khổ khi bị hành hạ và giết thịt. Đối
với những con cừu mẹ có những đứa con bị giết, thì chúng
là một ví dụ sống động về nỗi đau khổ mà một
người mẹ mất đứa con duy nhất của mình phải trải qua.
Vì thế, khi chúng ta suy nghĩ về việc sản xuất và buôn bán
những sản phẩm như vậy, chúng ta có thể hiểu được rằng
ngay cả một ngụm trà cũng chẳâng thể làm gì khác ngoài
góp phần vào việc đưa chúng ta đọa sinh trong những cõi
thấp.
Bây
giờ hãy xem xét trường hợp của bột lúa mạch tsampa. Trước
khi gieo lúa mạch, cánh đồng phải được cày xới, công việc
đó khơi lên mặt đất tất cả mọi con sâu và côn trùng
vốn sống ngầm dưới đất, và chôn vùi mọi sâu trùng vốn
sống trên mặt đất. Những con bò cày tới đâu thì những
con quạ và chim nhỏ bám theo sau, không ngừng săn bắt những
con côn trùng bé nhỏ. Khi cánh đồng được tưới nước,
tất cả sinh vật sống trong nước bị mắc cạn trên đất
khô, trong khi mọi sinh vật đang sống ở đất khô lại bị
chết đuối. Tương tự, vào mỗi giai đoạn gieo hạt, thu hoạch
và đập lúa, số lượng chúng sinh bị giết thì không thể
tính đếm. Nếu suy nghĩ về điều đó thì chúng ta hầu
như đang ăn các côn trùng được nghiền thành bột vậy.
Cũng
tương tự như vậy, bơ, sữa và những thực phẩm khác, “ba
thực phẩm trắng” và “ba thực phẩm ngọt” mà chúng ta
xem là thanh tịnh và không bị những hành vi ác hại làm ô
nhiễm, thì hoàn toàn không phải như vậy. Phần đông những
trâu yak con, những con bê và cừu đều bị giết. Những con
không bị giết, thì ngay khi được sinh ra và thậm chí trước
khi chúng có một dịp may được bú một miếng sữa ngọt
của mẹ chúng, đã có một sợi thừng quanh cổ và bị cột
vào một cái cọc mỗi khi dừng lại trên đường, để mỗi
ngụm sữa – thức ăn và uống chính đáng của chúng – có
thể bị đánh cắp để làm bơ và phó mát. Bằng cách rút
mất tinh chất của thân bò mẹ là thứ rất cần thiết cho
bò con, chúng ta để mặc chúng nửa sống nửa chết. Khi mùa
xuân trở lại, những con bò mẹ già nua trở nên suy yếu tới
nỗi thậm chí chúng không thể đứng dậy trong chuồng. Những
con bê và cừu non hầu như chết đói. Những con còn sống
sót thì yếu ớt và như một bộ xương, lảo đảo như sắp
chết.
Tất
cả những yếu tố mà chúng ta coi là những phần cấu tạo
nên hạnh phúc – thực phẩm để ăn, quần áo để mặc,
và bất cứ những hàng hóa và vật liệu nào chúng ta có thể
nghĩ tới – đều được tạo ra bằng một cách tương tự
và duy nhất là qua hành động bất thiện. Hậu quả cuối
cùng của tất cả những việc làm này là sự đau khổ vô
tận của những cõi thấp. Do đó, mọi sự việc mà ngày nay
có vẻ như tượng trưng cho sự hạnh phúc thì trong thực tế
chỉ là đau khổ của tất cả những sự giả hợp.
4.2
ĐAU KHỔ CỦA SINH, LÃO, BỆNH VÀ TỬ
4.2.1
Đau khổ khi sinh ra đời (Sinh khổ)
Với
loài người trong thế giới hiện nay, chúng ta thuộc loài được
sinh ra từ thai tạng (thai sanh).54 Trước tiên, thần thức của
một chúng sinh trong trạng thái trung ấm phải nhập vào giữa
sự hợp nhất tinh dịch của người cha và máu huyết của
người mẹ. Sau đó thần thức đó phải trải qua nhiều kinh
nghiệm đau đớn trong những giai đoạn khác nhau khi bào thai
được hình thành, như miếng thạch hình tròn, như hình trái
soan lầy nhầy, như hình thuôn dầy, như hình bầu dục vững
chắc, hoặc khối u tròn căng cứng,55 và v.v... Một khi tay
chân, các cơ quan và các giác quan được hình thành, cái thai
sẽ bị nhốt bên trong tử cung tối tăm, hôi hám và ngạt
thở, khổ sở như người bị ở trong tù. Khi người mẹ ăn
thực phẩm nóng, thai nhi đau đớn như thể bị lửa đốt.
Khi người mẹ dùng đồ ăn lạnh, nó cảm thấy như thể bị
ném vào nước đóng băng; khi người mẹ nằm xuống, nó như
thể bị chôn vùi dưới sức nặng của một quả đồi; khi
mẹ ăn no, nó như thể bị ngạt thở giữa những tảng đá;
khi người mẹ đói, như thể nó bị rơi từ một vách núi;
khi người mẹ đi hay ngồi xuống, nó cảm thấy như thể bị
gió vùi dập.
Tới
lúc phải chào đời thì nghiệp lực 56 xoay đầu đứa bé
xuống, để nó sẵn sàng được sinh ra. Khi đứa bé bị đẩy
xuống cổ tử cung, nó đau đớn như thể bị một người
khổng lồ mạnh mẽ nắm lấy hai chân đập thật mạnh vào
tường. Khi bị đẩy qua khỏi xương chậu, đứa bé cảm thấy
như thể bị kéo qua cái lỗ trong một bàn kéo sợi.57 Nếu
tử cung mở quá hẹp, nó không ra được và sẽ phải
chết. Quả thực, cả hai mẹ và con có thể chết trong khi
sinh đẻ, và cho dù qua được thì họ cũng đã phải trải
qua tất cả những kinh nghiệm đau đớn của lúc hấp hối.
Như Đại Đạo Sư xứ Oddiyana có nói:
Cả
mẹ và con đều đi nửa đường đến gần xứ sở của Tử
Thần,
Và
mọi khớp xương của người mẹ, ngoại trừ xương hàm, bị
vặn rời ra.
Đứa
bé phải kinh qua mọi sự đau đớn. Khi rơi xuống tấm nệm
lúc chào đời, nó có cảm giác như bị rơi xuống một cái
hố đầy gai. Khi được lau chùi lớp chất nhờn trên lưng
thì nó có cảm giác như bị lột da sống. Lúc được tắm
rửa, nó có cảm tưởng như bị đánh bằng gai. Khi được
đặt vào lòng mẹ, nó cảm thấy như một con chim nhỏ bị
diều hâu tha đi. Khi được thoa bơ trên đỉnh đầu58 thì
nó có cảm giác như bị trói và ném xuống một cái lỗ. Được
đặt trong nôi thì giống như bị bỏ vào bùn dơ. Mỗi khi
đứa bé bị khổ vì đói, khát, đau bệnh và những thứ khác
thì điều duy nhất mà nó có thể làm là la khóc.
Từ
lúc được sinh ra, đến khi lớn lên và bước vào tuổi thanh
niên, ta có cảm tưởng là có sự phát triển và tăng trưởng.
Nhưng sự thật là cuộc đời ta trở nên ngắn đi, càng ngày
chúng ta càng tới gần cái chết hơn. Chúng ta bị thu hút trong
những công việc tầm thường của cuộc đời này, hết cái
này đến cái kia, chẳng có việc nào đi đến kết thúc, tất
cả tiếp nối nhau như những con sóng trên mặt nước. Bởi
vì tất cả mọi điều đều chỉ dựa trên ác hạnh nên kết
cục chắc chắn là sẽ bị đoạ sinh vào những cõi thấp,
và chịu đau khổ vô cùng tận.
4.2.2
Đau khổ của tuổi già (Già khổ)
Khi
chúng ta khiến bản thân mình phải bận rộn với những điều
vụn vặt tầm thường và với những phận sự thế gian không
bao giờ chấm dứt, thì nỗi đau khổ của tuổi già đã lén
đến với ta mà không báo trước. Từng chút một, cơ thể
ta mất đi sinh lực. Chúng ta chẳng tiêu hóa nổi những thức
ăn mà mình ưa thích. Thị giác mờ đi, và chúng ta không còn
có thể nhìn rõ những vật bé nhỏ hay ở xa. Thính giác cũng
bắt đầu giảm sút và chúng ta không phân biệt được rõ
ràng âm thanh và lời nói. Lưỡi không còn nếm được những
gì mình ăn uống nữa, cũng không phát âm đúng những gì chúng
ta muốn nói. Khi tinh thần suy yếu, trí nhớ suy giảm và chúng
ta bị nhầm lẫn và đãng trí. Răng cũng bị rụng nên không
còn nhai được thức ăn cứng, và nếu ta có thể nói điều
gì thì cũng trở thành những tiếng lầm bầm khó hiểu. Thân
thể mất đi hơi ấm (nhiệt) nên ta không còn thấy ấm áp
khi mặc quần áo mỏng manh. Sức khoẻ sa sút nên ta không thể
mang vác những vật nặng được nữa. Mặc dù chúng ta vẫn
còn sở thích được sung sướng và hưởng thụ, nhưng ta không
còn năng lực để hưởng thụ được nữa. Bởi vì kinh
mạch và năng lực suy giảm, chúng ta trở nên cáu gắt và
thiếu kiên nhẫn. Bị mọi người coi thường, ta trở nên
trầm uất và buồn chán. Trong cơ thể, các yếu tố (tứ
đại) bị mất quân bình, nên đem lại nhiều tật bệnh và
khó khăn. Chúng ta phải vật lộn mỗi khi cử động, như việc
đi đứng cũng hầu như trở thành những việc không thể kham
nổi. Ngài Jetsun Mila đã có hát rằng:
Một,
bà đứng lên như thể nhổ một cây cọc khỏi mặt đất;
Hai,
bà đi rón rén như rình bắt chim;
Ba,
bà ngồi như một cái túi bị thả rơi.
Khi
ba dấu hiệu này cùng đến, hỡi bà già;
Bà
là một bà lão u buồn mà huyễn thân bà đã suy sụp.
Một,
da dẻ bà hằn những vết nhăn;
Hai,
bà gầy giơ xương, máu huyết thu rút;
Ba,
bà nửa ngây nửa dại, nửa đui nửa điếc.
Khi
ba dấu hiệu này cùng đến, hỡi bà già;
Mặt
bà nhăn nhúm với những vết hằn xấu xí.
Một,
quần áo rách rưới tả tơi và luộm thuộm;
Hai,
thức ăn uống sao nhạt nhẽo, lạnh tanh;
Ba,
bà ngồi trên chiếu mà dựa dẫm bốn bên.
Khi
ba dấu hiệu này cùng đến, hỡi bà già;
Bà
giống như một hành giả du già chứng ngộ bị người
và chó giẫm đạp.
Lúc
già cả, khi muốn đứng lên chúng ta hoàn toàn không thể đứng
một cách bình thường. Chúng ta phải đặt cả hai bàn tay
lên sàn nhà như thể đang cố nhổ một cây cọc trên nền
đất cứng. Khi đi, chúng ta gập người lại và không thể
ngước cao đầu; và không thể nhanh chóng nhấc chân, hạ chân,
chúng ta rón rén như một đứa trẻ rình bắt chim. Mọi khớp
tay, chân bị viêm sưng đến nỗi ta không thể ngồi xuống
từ từ. Ngược lại, toàn bộ sức nặng của ta lập tức
đổ sầm xuống như một cái bị cói đứt dây treo.
Khi
da thịt ta bị tiêu hao, da ta dãn ra, thân thể và mặt chúng
ta đầy những vết nhăn. Với ít thịt và máu bao quanh, tất
cả các khớp lộ ra hơn. Xương gò má và mọi đầu xương
khác nhô lên dưới da. Trí nhớ bị suy giảm, chúng ta trở
nên trì trệ, mu mờ, đui điếc. Chúng ta không thể suy nghĩ
sáng suốt và cảm thấy choáng váng xây xẩm. Sinh lực suy
yếu, chúng ta chẳng còn muốn ngó ngàng gì tới mình nên quần
áo chúng ta mặc luôn luộn thuộm và sờn rách. Khi ăn, ta thường
bỏ mứa và không thấy có mùi vị gì; mọi thứ ta ăn đều
lạnh lẽo và nhạt nhẽo. Chúng ta cảm thấy nặng nề đến
nỗi khó có thể làm được việc gì. Trên giường, chúng
ta phải dựa dẫm tứ phía và không thể ngồi dậy. Bởi
vậy, sự suy yếu của thân thể chúng ta đem lại nỗi phiền
muộn và đau khổ tinh thần ghê gớm. Tất cả vẻ đẹp và
sáng sủa trên khuôn mặt của chúng ta bị phai nhoàø, da dẻ
nhăn nheo và trán cũng hằn những nếp nhăn xấu xí của một
tâm trạng không sung mãn. Mọi người xem thường chúng ta,
và cho dù người ta bước qua đầu ta, ta cũng không thể dậy
nổi. Chúng ta không phản ứng lại nữa, cứ như thể là những
hành giả du già chứng ngộ và tịnh với bất tịnh không
còn hiện hữu nữa.59 Không thể chịu đựng nỗi khổ của
tuổi già, chúng ta muốn chết, nhưng thực ra càng tới gần
cái chết chúng ta lại càng khiếp sợ nó.
Tất
cả những điều này khiến những nỗi khổ mà chúng ta phải
trải qua trong tuổi già, không khác biệt lắm với những đau
khổ của chúng sinh trong các cõi thấp.
4.2.3
Đau khổ của bệnh tật (Bệnh khổ)
Khi
bốn yếu tố (tứ đại) tạo nên cơ thể chúng ta trở nên
mất quân bình, mọi loại bệnh tật – những bệnh thuộc
về gió, mật, đàm thấp và v.v... xuất hiện, và những cảm
giác đau đớn, khổ sở xâm chiếm chúng ta.
Ngay
khi những cơn đau nhức đầu tiên của bệnh tật tấn công
– dù thân tâm ta trẻ trung tới đâu, dù ta mạnh mẽ và chói
ngời tới đâu, dù cho ta đang ở trong thời kỳ sung mãn nhất–
chúng ta vẫn sụp đổ như con chim nhỏ bị ném đá. Sức mạnh
của ta biến mất. Chúng ta lún sâu xuống nệm, và bất
cứ chuyển động nào dù nhẹ nhàng cũng rất khó khăn. Thậm
chí việc trả lời khi có người hỏi thăm cũng là một cố
gắng: giọng nói của ta dường như đến từ một nơi sâu
thẳm và khó bật ra thành tiếng. Chúng ta cố nằm nghiêng
bên phải, rồi bên trái, nằm ngửa, nằm sấp nhưng chẳng
bao giờ có thể thoải mái. Chúng ta mất cảm giác ngon miệng
và không thể ngủ được về đêm. Ngày lẫn đêm dường
như dài vô tận. Chúng ta phải chịu đựng uống thuốc đắng,
chua, hay nóng, phải kiên nhẫn đối với việc đốt, lấy
máu và mọi loại điều trị khó chịu khác. Ý nghĩ rằng
bệnh tật này có thể làm ta chết đột ngột khiến chúng
ta kinh sợ. Dưới sức mạnh của những thế lực bệnh hoạn
và những gì không toàn vẹn của bản thân, chúng ta có thể
mất kiểm soát cả thân lẫn tâm, và khi những tri giác mê
lầm thông thường của ta lên tới cực độ thì chúng ta bắt
đầu có ảo giác. Thậm chí đôi lúc người bệnh còn tự
tử. Những người đau khổ vì những loại bệnh tật như
bệnh cùi, động kinh, họ bị mọi người bỏ rơi và để
mặc họ suy ngẫm về số phận của mình; họ vẫn còn sống
mà như thể đã chết.
Người
bệnh thường không thể tự chăm sóc mình. Bệnh tật làm
cho họ nóng nảy, và luôn tìm kiếm lỗi lầm nơi những gì
người khác làm cho họ. Càng ngày họ càng trở nên khó tính
hơn và hay chỉ trích hơn, và nếu bệnh tật của họ tiếp
tục kéo dài, mọi người sẽ trở nên mệt mỏi khi săn sóc
họ và không còn làm những gì họ đòi hỏi nữa. Nỗi bực
dọc do bệnh tật của họ gây ra liên tục hành hạ họ.
4.2.4
Đau khổ của cái chết (Chết khổ)
Khi
cái chết tới gần, chúng ta sẽ nằm liệt giường và không
còn sức để đứng dậy. Thậm chí khi nhìn thấy đồ ăn,
thức uống, ta cũng chẳng còn cảm thấy thèm muốn nữa.
Bị hành hạ bởi những cảm giác của người sắp chết,
ta cảm thấy càng lúc càng tuyệt vọng và tất cả lòng can
đảm cùng niềm tin của ta đều tan biến. Chúng ta có những
điềm báo và những ảo giác về những gì đang chờ đợi
mình. Đã đến lúc cho cuộc ra đi lớn lao. Gia đình và bạn
bè tụ tập quanh ta, nhưng họ không thể làm gì để trì hỗn
cuộc khởi hành của ta – chính bản thân ta phải trải qua
nỗi khổ của cái chết, một cách hoàn toàn đơn độc. Ta
cũng chẳng có cách nào để đem theo những vật sở hữu,
dù chúng có thể nhiều tới đâu chăng nữa. Ta không thể
tự mình buông bỏ những thứ đó, nhưng cũng biết rằng mình
cũng không thể giữ được chúng. Sự hối hận tràn ngập
trong tâm khi ta nhớ lại những hành nghiệp bất thiện đã
làm. Ta khiếp sợ khi nghĩ về những đau khổ của các
cõi thấp. Cái chết đến đột ngột. Nỗi sợ hãi phủ chụp
lấy ta. Những tri giác về cuộc đời biến mất và thân thể
lạnh dần.
Khi
người hành nhiều ác nghiệp chết, họ nắm chặt lấy ngực
mình khiến trên da đầy những dấu móng tay. Khi nhớ lại
mọi ác hạnh của mình, họ run sợ vì bị tái sinh trong
những cõi thấp. Họ tràn đầy hối hận vì đã không thực
hành Pháp trong khi có được sự tự do để làm điều đó,
bởi đó là điều ích lợi duy nhất vào lúc chết. Khi nhận
ra điều đó, họ cảm thấy vô cùng đau khổ. Đó là lý do
tại sao họ lại đấm ngực và để lại đầy những dấu
móng tay ở đó khi chết. Có câu nói rằng:
Hãy
xem một người ác hấp hối;
Kẻ
ấy là một vị thầy minh họa cho chúng ta thấy nghiệp quả
của mọi hành vi.
Thậm
chí trước khi chết, những cõi thấp bắt đầu thâm nhập
vào họ. Bất kỳ điều gì họ cảm nhận đều trở thành
mối đe dọa. Mọi cảm giác đều khiến cho họ đau khổ.
Tứ đại tan rã, hơi thở khò khè và chân tay rũ liệt.
Họ bắt đầu có các ảo giác. Đôi mắt trợn trừng, và
khi họ từ giã đời này, Thần Chết sẽ đến gặp họ. Những
ma quỷ trong trạng thái trung ấm xuất hiện, mà họ không
có người che chở hay nơi nương tựa nào.
Chẳng
có gì bảo đảm rằng giây phút mà ta sẽ rời bỏ cuộc đời
này, hoàn toàn trần trụi và trắng tay, sẽ không đến vào
ngày hôm nay. Khi điều này xảy ra, điều duy nhất sẽ thực
sự giúp đỡ chúng ta chính là Phật Pháp. Không có nơi nương
tựa nào khác. Có câu nói rằng:
Trong
thai tạng của mẹ, hãy chuyển tâm bạn hướng
về Pháp; Ngay khi bạn chào đời, hãy nhớ nghĩ đến Giáo
Pháp cho giây phút lià đời.
Bởi
cái chết đến thật đột ngột, đối với người trẻ cũng
như già, nên chúng ta phải bắt đầu thực hành Pháp ngay từ
lúc sinh ra đời. Duy chỉ một mình Pháp sẽ giúp đỡ chúng
ta vào lúc chết. Nhưng cho tới bây giờ chúng ta đã lãng quên
cái chết, quá bận rộn trong việc đánh bại kẻ thù và giúp
đỡ bạn bè, chăm sóc của cải và nhà cửa của mình, hoàn
toàn bị gia đình và bằng hữu chiếm lĩnh. Nhưng nếu suy
ngẫm về điều đó, thì việc để thời gian trôi qua như
thế và chìm sâu trong tham, sân và si vì lợi ích của bạn
bè và những người thân yêu, chính là một sai lầm khủng
khiếp.
4.3
NHỮNG ĐAU KHỔ KHÁC CỦA CON NGƯỜI
4.3.1
Nỗi sợ hãi gặp kẻ thù địch
Chúng
ta tiêu phí tất cả thời gian của mình để tìm kiếm giàu
sang và thịnh vượng, và canh chừng sự giàu sang thịnh vượng
đó cả ngày lẫn đêm. Nhưng cuối cùng thì ngay cả điều
đó cũng không giúp cho ta khỏi phải chia xẻ tài sản của
chúng ta với kẻ thù. Những kẻ cướp ngày, trộm đêm, chó
hoang, chó sói, và những thú dữ khác hoàn toàn có thể bất
ngờ tấn công ta mà không báo trước. Rõ ràng là càng có
nhiều của cải và tài sản thì ta lại càng thêm phiền não,
để thâu đạt được những thứ ấy, để bảo vệ và cố
gắng làm cho những thứ ấy tăng trưởng.
Ngài
Long Thọ đã viết:
Việc
tích lũy, canh chừng và làm cho của cải tăng trưởng sẽ
làm bạn kiệt sức. Hãy hiểu rằng của cải trù phú chỉ
đem lại sự suy tàn và hủy hoại.
Ngài
Jetsun Milarepa có nói:
Lúc
bắt đầu, của cải làm bạn hạnh phúc và thèm thuồng;
Nhưng
dù có nhiều đến đâu, dường như chẳng bao giờ bạn thấy
đủ.
Trong
khi đó, tâm bủn xỉn cột những nút thắt quanh bạn:
Bạn
không thể chịu đựng được khi phải dùng của cải vào
việc cúng dường hay từ thiện.
Sự
giàu có của bạn hấp dẫn kẻ thù và những thế lực xấu,
Và
tất cả những gì bạn tích góp lại bị người khác tận
dụng.
Vào
lúc cuối, con quỷ giàu có đặt cuộc đời bạn vào nỗi
hiểm nghèo.
Nản
lòng biết bao khi đấy chỉ là việc trông nom tài sản cho
kẻ thù!
Ta
(Milarepa) đã vứt bỏ khối nặng này là kẻ kéo lôi ta vào
luân hồi sinh tử.
Ta
chẳng còn mong muốn nữa thứ yêu tinh cám dỗ này.
Những
đau khổ của chúng ta có mối tương quan trực tiếp tương
ứng với số lượng những gì ta sở hữu. Chẳng hạn, nếu
ta sở hữu một con ngựa, ta sẽ lo nghĩ nó có thể bị
kẻ thù chiếm đoạt hay bị ăn trộm; ta sẽ lo rằng liệu
nó có đủ cỏ khô để dùng hay không. Chỉ một con ngựa
thôi cũng đủ mang lại bao nhiêu phiền toái. Nếu ta có một
con cừu, ta sẽ có nỗi phiền toái tương xứng với một con
cừu. Nếu ta có một túi trà,* chắc chắn ta sẽ có nỗi phiền
não đáng giá một túi trà.
*
Đây là một cách dịch thoát từ ja’khor, một cách đo lường
tương đương với bốn bánh trà Tây Tạng được ép chặt.
Vì
vậy hãy quán chiếu và thiền quán để hiểu rằng được
sống trong an bình là điêàu quan trọng như thế nào, như câu
ngạn ngữ cổ xưa có nói, “Không của cải, thì không kẻ
thù.” Hãy tạo hứng khởi cho mình bằng những câu chuyện
của chư Phật trong quá khứ và hãy nhổ bật gốc tất cả
những tham luyến tiền bạc và của cải. Hãy sống bằng những
gì mình nhận được như những con chim, và cống hiến hoàn
toàn bản thân mình vào việc thực hành Phật Pháp.
4.3.2
Nỗi sợ hãi mất người thân yêu
Chúng
ta sống trong thế giới luân hồi này và cảm thấy ràng buộc
với những người mà ta đồng cảm và thù địch đối với
những người khác. Vì lợi ích của gia đình, đệ tử, đồng
bào, bạn bè và những người thân yêu của ta, chúng ta sẵn
sàng trải qua mọi thứ đau khổ. Dù là họ hàng hay bằng
hữu thì không một ai trong số những người mà chúng ta có
những sự ràng buộc này có thể sống mãi mãi, và không sớm
thì muộn, chúng ta cũng buộc phải xa lìa họ. Họ có thể
chết hay bôn ba ở những xứ khác, hoặc bị kẻ thù hoặc
nguy hiểm đe dọa – và những nỗi khổ họ phải trải qua
sẽ ảnh hưởng đến chúng ta còn sâu xa hơn cả nỗi khổ
của chính chúng ta. Đặc biệt là các bậc cha mẹ, quan tâm
quá nhiều tới con cái và thường xuyên lo lắng chúng có thể
bị lạnh, đói hay khát, hoặc chúng có thể bị đau ốm hay
chết. Trong thực tế, họ thương con tới nỗi thà họ chết
còn hơn là để chúng phải đau khổ, và vì lợi ích của
chúng, họ phải trải qua rất nhiều khổ não.
Nhưng
dù chúng ta đau khổ quá nhiều vì nỗi lo sợ phải bị chia
cách với bạn bè và người thân yêu, thì chúng ta nên suy
nghĩ về những điều này thật cẩn thận. Liệu ta có thể
quả quyết rằng những người thân yêu của ta thì đáng yêu
như ta nghĩ không? Chẳng hạn cha mẹ ta nói thương chúng ta
như con cái họ, nhưng cách họ thương yêu ta là một
cách thức thương yêu lầm lạc và có hậu quả vô cùng tai
hại. Bằng cách cố gắng cho chúng ta của cải, tài sản và
lập gia đình cho ta, cha mẹ ta đang cột chặt chúng ta vào
với luân hồi. Cha mẹ dạy cho ta mọi thứ chúng
ta cần để ta biết cách đối xử tốt hơn với các đối
thủ của ta, cách quan tâm tới bạn bè, cách làm giàu, và
dạy cho ta tất cả các kế hoạch tai hại khác, [nhưng làm
như vậy], thật sự là chỉ để cầm chắc một điều là
chúng ta sẽ bị mắc bẫy không thoát ra được khỏi
những cõi thấp. Các bậc làm cha mẹ chẳng thể làm được
điều gì tệ hại hơn thế nữa.
Về
phần con cái chúng ta, cả trai lẫn gái, lúc đầu chúng bú
tinh chất từ thân ta, lúc lớn lên, chúng lấy thực phẩm
khỏi miệng ta, và vào lúc cuối chúng lấy tài sản khỏi
tay ta. Để đáp lại tình thương của ta, chúng nổi loạn
chống lại chúng ta.
Chúng
ta [trong khi làm cha mẹ] đã cho những đứa con trai tất cả
tài sản mà chúng ta kiếm được suốt đời mình, không tính
toán giá trị và chẳng quan tâm gì đến tất cả những hoạt
động bất thiện, những nỗi khổ và sự phê bình chỉ trích
mà ta đã phải nếm chịu – nhưng chúng vẫn không có lòng
biết ơn tối thiểu. Cho dù ta cho chúng nhiều đồng tiền
Trung Hoa bằng bạc, chúng cũng chắng biết ơn gì hơn bất
kỳ người bình thường nào nhận được từ ta một nhúm
lá trà. Chúng chỉ nghĩ rằng bất kỳ những gì của cha mẹ
đều tự động thuộc về chúng.
Những
kẻ chị em và con gái chúng ta cũng thế, họ ngốn nuốt tài
sản của ta mà không một chút biết ơn. Chúng ta càng cho họ,
thì họ càng muốn thêm. Nếu chúng ta chỉ có được chút
ít, như một miếng lam ngọc giả dùng làm vật để đếm
khi lần tràng hạt thì chị em và con gái ta cũng sẽ đến
nịnh bợ khiến ta cũng phải buông nó ra để cho họ. Trong
hoàn cảnh tốt đẹp nhất thì họ góp phần vào sự thịnh
vượng của người khác, nhưng chẳng mang lại điều gì cho
ta. Nhưng nếu giả dụ hoàn cảnh trở nên tệ hại thì chúng
lại trở về nhà, mang theo sự ô danh và buồn tủi cho gia
đình mình.*
*
Trong
các nền văn hoá truyền thống Á Châu, cô dâu về nhà chồng
cùng với của hồi môn của mình, nối kết với gia đình
chồng. Nếu cuộc hôn nhân đổ vỡ, cô sẽ trở về nhà cha
mẹ mình.
Về
phần những thân quyến và bạn bè khác của ta, họ đối
xử với ta như đối với những vị Trời – đó là chừng
nào mà chúng ta vẫn còn giàu có, hạnh phúc và mọi việc
đang tiến triển hết sức tốt đẹp. Họ làm bất kỳ những
gì có thể làm để giúp ta, và cho ta tất cả những thứ
mà ta không cần. Nhưng nếu ta rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
thì mặc dù ta chẳng làm điều gì tổn hại tới họ, họ
sẽ đối xử với chúng ta như kẻ thù và đáp trả lại lòng
tốt của ta bằng ác ý.
Tất
cả điều này cho thấy rằng con trai, con gái, gia đình và
bằng hữu chẳng có chút giá trị nào, như Ngài Jetsun Milarepa
đã diễn tả trong bài đạo ca của Ngài:
Lúc
ban đầu, con trai của bạn là một thiên thần nhỏ
duyên
dáng;
Bạn
thương nó nhiều đến mức không thể chịu nổi.
Khi
lớn lên, nó đòi hỏi quyền lợi thật hung tợn;
Bạn
cho nó mọi thứ, nhưng chẳng bao giờ nó thỏa mãn.
Nó
đem về nhà con gái của người khác,
Xô
đẩy cha mẹ nhân từ của nó ra ngoài.
Khi
cha gọi, nó chẳng thèm trả lời.
Khi
mẹ gọi, thậm chí nó chẳng buồn nghe.
Cuối
cùng, nó giống như một người hàng xóm ở xa.
Bạn
tự hủy hoại chính mình khi nuôi dưỡng một tên lừa
đảo như thế. Nản lòng biết bao khi sinh ra kẻ thù của chính
bạn! Ta (Milarepa) đã ném đi bộ yên cương này là thứ trói
buộc ta vào luân hồi. Ta không cần bất kỳ ai trong những
đứa con trai thế tục ấy.
Rồi
Ngài tiếp tục:
Vào
lúc đầu đứa con gái là một thiên nữ bé nhỏ xinh tươi,
Hống
hách độc chiếm mọi tài sản tốt lành nhất của bạn.
Lớn
lên, nó không ngừng đòi hỏi quyền lợi:
Công
khai yêu sách cha đủ mọi điều,
Và
kín đáo lấy trộm của mẹ.
Không
bao giờ thỏa mãn với những gì được cho.
Nó
là nguồn thất vọng của bậc cha mẹ nhân từ.
Cuối
cùng, nó là con yêu tinh mặt đỏ:
Khi
mọi việc tốt đẹp, nó là báu vật cho người khác,
Khi
mọi việc tệ hại, nó sẽ đem tai hoạ tới cho bạn.
Nản
lòng biết bao, con quỷ phá hoại này!
Ta
(Milarepa) đã ném đi nỗi buồn khôn nguôi này.
Ta
không muốn một đứa con gái sẽ dẫn ta tới chỗ hủy diệt.
Cuối
cùng:
Vào
lúc đầu, bạn bè tươi cười khi gặp bạn,
Và
cả thung lũng âm vang “Hãy vào đây!” và “Mời ngồi!”
Trung
cuộc, họ đáp lại lòng hiếu khách của bạn bằng thịt
và
bia,
Món
đổi món, đáp trả chính xác từng cái một.
Cuối
cùng, họ gây tranh chấp trên sự thù ghét hay tham
luyến.
Nản
lòng biết bao, những người bạn xấu ác này với tất cả
những
tranh cãi của họ!
Ta
(Milarepa) đã từ bỏ những bạn bè ăn nhậu lúc thảnh
thơi.
Ta
không muốn bất kỳ bằng hữu thế tục nào.
4.3.3
Nỗi khổ của ham muốn không đạt được
Trong
thế gian này, không ai trong chúng ta không muốn được hạnh
phúc và được cảm thấy sung sướng; nhưng chẳng ai trong
chúng ta đạt được những gì mình mong muốn. Ví dụ, có
gia đình cố gắng xây nhà để được sống cho tiện nghi,
nhưng ngôi nhà sụp đổ và đè chết họ. Có người muốn
ăn để thoả mãn cơn đói, nhưng thực phẩm làm họ bị bệnh
và gây nguy hại cho mạng sống của họ. Có những người
lính chiến đấu, hy vọng sẽ chiến thắng, và lập tức bị
giết. Có đoàn thương nhân tiến hành những chuyến đi buôn
viễn du, với hy vọng chắc chắn sẽ kiếm được lợi nhuận,
nhưng bị tấn công và trở nên nghèo khổ. Dù chúng ta có
hao tốn bao công sức để kiếm tìm hạnh phúc và của cải
trong cuộc đời này, nhưng chúng ta sẽ không thể đạt được
những điều ta mong muốn, ngay cả việc thoả mãn cơn đói
trước mặt, trừ phi nào những hành nghiệp trong quá khứ
của chúng ta có thể tạo đủ duyên lành để những việc
đó trổ quả. Những gì chúng ta làm đều gây nên phiền não
cho mình và người khác. Chỉ duy một điều chúng ta có thể
chắc chắn là ta sẽ không thể thoát khỏi đáy sâu của các
tầng địa ngục. Đó là lý do tại sao một tia lửa nhỏ công
đức cũng đáng giá là hơn một trái núi nỗ lực.
Những
hoạt động luân hồi tiếp nối, không bao giờ chấm dứt,
liệu chúng có ích lợi gì không? Tất cả mọi nỗ
lực của chúng ta trong vòng quay luân hồi từ vô thủy chỉ
nhằm đạt được những gì ta mong muốn, song chúng lại không
đem lại cho ta điều gì ngoài sự đau khổ. Nếu như những
năng lực mà ta đã dành trong quá khứ cho những mục đích
thế gian, hoặc trong những năm đầu, hoặc trong những năm
cuối của chỉ duy nhất một cuộc đời, nếu ta hiến dâng
những năng lực này cho Phật Pháp thì giờ đây chắc chắn
chúng ta đã chứng thành Phật quả. Và cho dù không đạt được
như vậy, có một điều chắc chắn là ít nhất, chúng ta sẽ
không bao giời phải hứng chịu đau khổ trong những cõi thấp
nữa.
Chúng
ta nên thiền quán như sau: giờ đây là lúc ta hiểu rõ sự
khác biệt giữa những gì ta nên làm và không nên làm, hãy
ngưng việc đặt hy vọng lớn lao nơi những công trình của
luân hồi, vì chúng là những thứ mà ta sẽ chẳng bao giờ
hoàn tất được – thay vào đó, hãy thực hành Giáo Pháp
chân chính, bởi vì chắc chắn chỉ có nương vào đó mà mới
có được sự thành tựu.
4.3.4
Nỗi khổ vì gặp điều không mong muốn
Không
ai trên thế gian này ước muốn bất kỳ loại đau khổ nào
đã được mô tả ở đây, tuy nhiên chúng ta luôn phải trải
qua đau khổ dù có muốn hay không. Chẳng hạn, có những người,ø
do những hành nghiệp trong quá khứ, phải làm bộ hạ của
một kẻ thống trị hay làm nô lệ của kẻ giàu có.
Trái với ước muốn của họ, họ hoàn toàn phải phụ thuộc
vào ý muốn của chủ, không có được một giây phút tự
do nào. Họ có thể bị trừng phạt thật nặng nề vì một
lỗi lầm rất nhỏ mà chẳng thể làm được gì về việc
đó cả. Cho dù họ bị dẫn đến nơi hành hình, họ biết
rằng họ cũng không thể trốn thoát.
Chúng
ta luôn luôn phải gặp những gì mình không mong muốn. Như
Đấng Toàn Giác Longchenpa có nói:
Bạn
thích sống với gia đình và những người thương yêu
Mãi
mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải bỏ lại họ.
Bạn
thích được giữ căn nhà xinh đẹp của mình
Mãi
mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải để lại phía sau.
Bạn
thích được hưởng thụ hạnh phúc, giàu sang và an
nhàn
Mãi
mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải đánh mất chúng.
Bạn
thích giữ đời người tuyệt hảo này với những tự do và
thuận
lợi
Mãi
mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải chết.
Bạn
thích được học Giáo Pháp với vị Thầy phi thường của
bạn
Mãi
mãi, nhưng chắc chắn rằng bạn sẽ phải chia ly.
Bạn
thích được ở bên những thiện tri thức tốt lành,
Mãi
mãi, nhưng chắc chắn là bạn sẽ phải rời xa.
Ô
những người bạn của ta, những người đã vỡ mộng về
cõi
luân hồi,
Ta,
kẻ ăn mày vô-Pháp*, thúc đẩy các bạn:
Từ
hôm nay, hãy mặc áo giáp tinh tấn, bởi đã tới lúc
Phải
băng qua sinh tử để đến xứ sở của đại lạc là nơi
không
có sự cách ngăn.
Của
cải, tài sản, sức khỏe, hạnh phúc và được nhiều người
mến mộ, tất cả đều là kết quả của thiện hạnh trong
quá khứ.
*
Các tác giả Tây Tạng thường tự ám chỉ mình với sự cực
kỳ khiêm tốn trong cách nói này.
Nếu
ta tích lũy thiện hạnh trong quá khứ, thì kết quả là tất
cả những điều này sẽ đến với ta một cách tự nhiên,
cho dù có muốn hay không. Nhưng nếu không có thiện hạnh thì
dù nỗ lực đến đâu chăng nữa, ta cũng không đạt được
những gì mong muốn. Tất cả những gì ta sẽ thâu hoạch được
là những thứ ta ít mong muốn nhất. Vì thế, khi thực hành
Pháp, ta phải dựa vào kho tài sản vô tận là sự hài lòng
với bất kỳ những gì sẽ xảy đến. Nếu không, một khi
bắt đầu tu tập chắc chắn là những tham vọng thế gian
của ta trong đời này sẽ làm cho ta phiền não và khiến cho
các bậc linh thánh phải phật lòng. Ngài Jetsun Mila có hát
rằng:
Những
gì mà đức Thế Tôn, Đấng Chiến Thắng, đã giảng
dạy,
chủ yếu là Làm thế nào thoát khỏi tám mối quan tâm tầm
thường. Nhưng hỡi những kẻ tự cho là uyên bác thời nay
– Không phải là những mối quan tâm thế tục ấy còn nảy
nở
lớn
hơn trước nữa hay sao?
Đấng
Chiến Thắng đã giảng dạy những giới luật để tuân
theo
Nhờ đó người ta có thể rút lui khỏi tất cả mọi việc
đời. Nhưng các vị tu sĩ thời nay, những kẻ tuân theo
giới luật
này
– Không phải là những công việc thế gian của họ
lại còn nhiều gấp bội lần hơn trước hay sao?
Ngài
dạy làm thế nào để sống như những bậc hiền thánh ngày
xưa, Nhờ đó người ta có thể cắt đứt những ràng buộc
với bạn bè và thân quyến. Nhưng những kẻ sống như những
bậc thánh thời nay –
Chẳng
quan tâm là người ta tới thăm họ thậm chí còn nhiều hơn
trước hay sao?
Tóm
lại, tu tập mà không nhớ tới cái chết,
Thì
bất cứ Giáo Pháp nào cũng vô ích.
Nhân
loại sống trong thời buổi suy thoái ở bốn trung châu, đặc
biệt là tại đây ở cõi Diêm Phù Đề (Jambudvipa – cõi người)
này, bị tước đi ngay cả những cơ hội hạnh phúc nhỏ bé
nhất. Cuộc sống của họ tràn ngập đau khổ. Ngày nay, sự
suy thoái ngày càng tăng tốc độ với mỗi một năm qua, với
mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi bữa ăn, mỗi buổi sáng và mỗi
buổi tối. Đại kiếp đang đi từ chỗ xấu tới tệ hại
hơn. Giáo lý của Đức Phật và hạnh phúc của chúng sinh
đang suy tàn mỗi lúc càng nhiều hơn. Hãy suy ngẫm về
tất cả những điều này và hãy phát khởi một tâm cảm
chán ngán luân hồi. Đặc biệt, châu Diêm Phù Đề này có
thể cho ta thấy rất rõ cái mãnh lực đặc biệt của sự
trổ quả của nghiệp,60 là điều làm cho mọi sự khó có
thể lường trước được – cho dù là tốt hay xấu,
dễ chịu hay khó chịu, cao hay thấp, Pháp hay phi-Pháp. Ta cần
tự mình thấu hiểu sự vật ra sao, và hãy giữ cho tâm thức
được hoàn toàn minh bạch về những gì nên làm và những
gì nên tránh. Hãy đưa lời khuyên của Đấng Toàn Giác Longchenpa
vào thực hành:
Đôi
khi hãy nhìn vào những gì bạn thấy là thuận lợi; Nếu bạn
biết đøó chỉ là tri kiến, mọi sự bạn kinh qua sẽ trở
nên lợi lạc.61
Đôi
khi hãy nhìn vào những gì bạn thấy là bất lợi và tai hại;
Điều này thì tối yếu, sẽù khiến bạn kinh sợ cách bạn
nhìn sự việc một cách mê lầm.
Đôi
khi hãy nhìn vào bạn bè của mình và các bậc Thầy của những
người khác; Việc phân biệt người tốt với người xấu
sẽ khiến bạn hứng khởi trong tu tập.62
Đôi
khi hãy nhìn vào sự phô diễn kỳ diệu của tứ đại trong
không gian; Bạn sẽ thấy làm thế nào mọi tạo tác lắng
xuống trong chân tánh của tâm.63
Đôi
khi hãy nhìn vào xứ sở, nhà cửa và tài sản của bạn; Khi
thấu hiểu chúng là mộng huyễn, bạn sẽ cảm thấy ghê sợ
trước cách nhìn lầm lạc của bạn.
Đôi
khi hãy nhìn vào của cải và tài sản của người khác; Khi
thấy họ đáng thương ra sao, bạn sẽ bỏ đi tham vọng của
cõi luân hồi.
Tóm
lại, khi quán chiếu bản tánh của mọi việc trong tất cả
những nét vẻ đa dạng, Bạn sẽ tiêu diệt được mê lầm
của sự bám chấp vào mọi thứ như là thật.
5. A Tu La (Phạn:
Asuras)
Các
A Tu La – hay các bán-thiên (semi-gods), vốn là địch thủ của
chư Thiên – được hưởng thụ nhiều khoái lạc và thừa
thãi về vật chất. Tuy nhiên, họ có một khuynh hướng ganh
tị thù hận mạnh mẽ, hay gây hấn và tranh chấp từ những
kiếp trước. Kết cục của những ác hạnh này là ngay sau
khi mang thân tướng của A Tu La trong kiếp hiện tại,
họ bắt đầu mang những cảm giác thù hận dữ dội.
Thậm
chí ngay trong cõi giới của họ, cũng có những cuộc tranh
cãi (để chiếm giữ) các lãnh thổ và địa phận, và họ
tiêu phí toàn bộ thời gian của mình để đánh nhau và gây
hấn với nhau về những bất đồng như vậy.
Nhưng
tệ hại hơn nhữa, khi nhìn lên cõi Trời, họ có thể thấy
chư Thiên giàu có tột bậc. Họ cũng thấy rằng mọi ước
muốn và nhu cầu của chư Thiên được cung cấp bởi một
cây¬như-ý – tuy nhiên rễ cây ấy lại nằm trong cõi của
họ. Khi nhìn thấy như vậy, tâm họ tràn ngập một mối oán
giận không thể nào chịu nổi. Khoác áo giáp và chộp lấy
các vũ khí, họ lên đường gây chiến với chư Thiên. Khi
các vị Trời nhìn thấy những gì xảy ra, họ đi tới Khu
Rừng Hiếu Chiến,64ø mặc vào áo giáp và cấm lấy vũ khí.
Chư Thiên giữ một con voi ba mươi ba đầu gọi là Kiên Định
Siêu Phàm. Vua Trời Đế Thích (Indra) của họ ngự trên đầu
voi ở giữa, cùng với tất cả các đại thần bao quanh trên
ba mươi hai đầu kia. Xung quanh là vô số chư Thiên đầy
hào quang ánh sáng, cất cao tiếng hô xung trận. Khi trận chiến
bắt đầu, chư thiên thả xuống một trận mưa vũ khí –
chày, giáo, bánh xe, những mũi tên khổng lồ v.v... Năng lực
huyền diệu của họ khiến họ có sức mạnh lôi những ngọn
núi lớn vào lòng và ném chúng xuống như hỏa tiễn. Do nghiệp
lực trong quá khứ, chư thiên cao lớn hơn con người bảy lần,
nhưng các bán thiên a tu la thì nhỏ hơn chư thiên nhiều. Chư
Thiên chỉ có thể bị giết khi bị đứt đầu; song nhờ chất
cam lồ linh thiêng của họ mà bất kỳ vết thương nào khác
trên thân họ cũngï sẽ lập tức lành lặn. Nhưng các bán-thiên
A Tu La lại chết y hệt như con người khi bị đánh trúng vào
một bộ phận quan trọng nào đó trên thân thể. Do đó họ
bị thua trận rất nhiều. Nhiều khi, chư thiên phái một con
voi được gọi là Hộ Vệ Của Tất Cả, điên cuồng vì hơi
men, với một bánh xe có các lưỡi kiếm được cột vào vòi
của nó, khiến hàng trăm ngàn a tu la phải bỏ mạng. Thi thể
họ đổ lăn xuống sườn núi Tu Di và rơi xuống những Hồ
Đại Hoa Mỹ phía dưới làm nước hồ loang đầy màu máu.
Trong
cõi A Tu L này, cùng những cuộc chiến đấu và gây hấn thường
xuyên, họ cũng không thoát khỏi đau khổ. Hãy thiền quán
về số phận của họ từ tận đáy lòng bạn.
6. Chư Thiên
Chư
Thiên vui hưởng sức khoẻ, tiện nghi, của cải và hạnh phúc
toàn hảo suốt cuộc đời họ. Tuy nhiên, họ tiêu phí thời
gian trong việc tiêu khiển. Ý tưởng thực hành Phật Pháp
không bao giờ hiện đến với họ. Suốt trong cả cuộc đời
có thể kéo dài một đại kiếp, chẳng bao giờ niệm
tưởng thực hành Pháp khởi lên trong tâm họ dù chỉ trong
giây lát. Rồi thì khi đã lãng phí cả cuộc đời trong sự
phóng dật, đột nhiên họ phải đối mặt với cái chết.
Tất cả các chư Thiên trong sáu cõi trời Dục Giới, từ cõi
Trời của Tứ Thiên Vương cho tới cõi được gọi là Hoá
Lạc, đều phải chịu đựng nỗi khổ của cái chết và luân
hồi.
Có
năm dấu hiệu báo trước cái chết của một vị Trời. Thân
họ vốn chói sáng, có thể nhìn thấy cách một lý (khoảng
4,8km) hay vài dặm, bỗng mờ dần đi. Chiếc ngai mà trước
đây họ vẫn ngự trên đó và không bao giờ cảm thấy mỏi
mệt, thì giờ đây không còn làm họ hài lòng; họ cảm thấy
thiếu tiện nghi và không còn thoải mái. Vòng hoa trên đầu
của họ, trước đây dù lâu đến đâu cũng chẳng bao giờ
tàn, nhưng giờ đây đã khô héo. Y phục của họ luôn sạch
sẽ tinh tươm dù có mặc bao lâu thì nay trở nên cũ,
bẩn và bắt đầu bốc mùi. Thân họ bắt đầu đổ mồ hôi
dù trước đây không bao giờ như vậy. Khi năm dấu hiệu đưa
họ gần tới cái chết bắt đầu xuất hiện, họ rất đau
khổ vì biết chẳng bao lâu nữa mình cũng sẽ chết. Bằng
hữu và những người thân yêu của họ cũng biết những gì
sắp xảy ra với họ; nhưng họ không thể tới gần nữa,
mà chỉ đứng ở xa ném hoa và nói những lời chúc tốt lành:
“Khi Ngài chết và từ giã nơi đây, cầu xin ngài được
tái sinh vào cõi người. Cầu mong Ngài làm nhiều việc thiện
và lại được tái sinh vào cõi Trời.” Với những lời đó,
họ từ bỏ chư thiên đang hấp hối. Hoàn toàn cô độc, chư
thiên đang hấp hối phải chìm đắm trong nỗi buồn sầu.
Bằng thiên nhãn, họ biết nơi mình sắp. Nếu phải tái sinh
ở một cõi đau khổ, thì những đau đớn của sự đày đọa
này xâm chiếm tâm họ và làm cho họ càng đau khổ trong khi,
mệnh của họ ở cõi trời vẫn chưa kết thúc. Những đau
khổ này trở nên mãnh liệt gấp hai rồi gấp ba lần, khiến
họ tuyệt vọng và than khóc trong bảy ngày liền trên cõi
trời. Bảy ngày trên cung Trời thứ Ba Mươi Ba (cung Đao Lợi
hay Đế ThíchThiên) thì bằng bảy trăm năm ở cõi người.
Trong thời gian đó, khi nhìn lại và hồi tưởng lại tất
cả những phúc lạc và sung sướng mà họ đã từng vui hưởng,
họ nhận ra là mình không thể nán ở lại được nữa và
họ phải trải qua nỗi khổ của sự chuyển kiếp; rồi nhìn
về phía trước, khi đã bị dày vò bởi thị kiến có được
về nơi tái sinh trong tương lai, họ trải qua nỗi đau khổ
của việc bị đọa vào cõi thấp hơn. Nỗi đau đớn của
cả hai tâm trạng này còn khổ sở hơn cả nỗi khổ trong
địa ngục.
Trong
hai cõi trời cao nhất,65 không có những đau khổ rõ ràng của
cái chết và sự chuyển kiếp. Tuy nhiên, khi nghiệp quả đã
đưa họ đến đây bị cạn kiệt thì những vị Trời này
rơi vào những cõi thấp như thể thức dậy sau giấc ngủ.
Sự đau khổ của họ là như vậy. Như Ngài Long Thọ có nói:
Hãy
biết rằng ngay cả chính Phạm Thiên,
Sau
khi có được hạnh phúc nhờ thoát khỏi vướng mắc
Đến
lượt ông ta phải chịu đau khổ không ngừng dứt
Như
dầu đốt lửa của Điạ Ngục Vô Gián.
Do
đó, dù chúng ta sinh ra bất cứ nơi đâu trong sáu cõi, tất
cả đều có một bản chất là đau khổ, tất cả đều là
sự chồng chất đau khổ, tất cả đều là một cỗ máy động
cơ của đau khổ – và không là gì khác hơn ngoài đau khổ.
Tất cả giống như một cái hố sâu bằng lửa, một hòn đảo
đầy quỷ cái ăn thịt người, một vực sâu trong đại dương,
đầu lưỡi dao hay một hầm phân. Ta không thể tìm ra chút
an lạc. Trong Tịnh Ức Diệu Pháp Kinh có nói:
Chúng
sinh trong địa ngục đau khổ vì lửa địa ngục,
Ngạ
quỷ đau khổ vì đói và khát,
Súc
sinh đau khổ bởi việc ăn thịt lẫn nhau,
Loài
người đau khổ vì cuộc đời ngắn ngủi,
A
Tu La đau khổ vì chiến tranh và tranh chấp,
Và
chư Thiên đau khổ vì thiếu tỉnh giác.
Chẳng
bao giờ có hạnh phúc trong sinh tử luân hồi dù chỉ nhỏ
bằng đầu đinh ghim.
Và
Đức Di Lặc có nói:
Cũng
như không có mùi thơm trong một hố phân,
Không
có hạnh phúc trong năm loại chúng sinh.66
Đạo
Sư Vĩ đại xứ Oddiyana cũng nói:
Người
ta nói rằng trong vòng luân hồi này
Sẽ
không tìm ra được hạnh phúc dù nhỏ như đầumũi kim.
Nhưng
nếu ngẫu nhiên ta tìm được chỉ một ít,
Thì
hạnh phúc ấy sẽ chứa đựng nỗi khổ của sự biến đổi.
Càng
quán chiếu về những điều này và những đoạn tương tự
khác, ta sẽ càng nhận ra rằng cho dù sinh ra ở đâu; từ đỉnh
cao của sự sống xuống tới địa ngục sâu thẳm nhất, tất
cả đều không có ngay cả một giây phút hạnh phúc thực
sự. Mọi sự đều vô nghĩa. Hãy suy ngẫm về luân hồi sinh
tử và những đau khổ của sinh tử cho đến khi không còn
tham muốn gì về cõi luân hồi này nữa, giống như người
đau gan được mời ăn một món thức ăn có nhiều mỡ béo
vậy.
Đừng
nên hài lòng với việc chỉ đơn thuần nghe nói về những
đau khổ này và có được những hiểu biết theo tri kiến.
Hãy thấu hiểu những điều đó qua dòng tâm thức và kinh
nghiệm những đau khổ ấy với toàn bộ trí tưởng tượng
cho tới khi nào ta có thể thực sự có niềm tin vào những
điều đó. Khi có được sự xác quyết này thì việc tránh
không phạm ác hạnh và việc phải tích lũy thiện hạnh sẽ
đến với ta một cách tự nhiên không cần ép buộc.
Nanda,
người anh em họ với Đức Phật, rất luyến ái người vợ
và không muốn từ bỏ thế gian. Mặc dù Đức Phật, bằng
phương tiện thiện xảo, đã thuyết phục ông hãy bước chân
trên con đường Đạo Pháp và trở thành một tăng sĩ, ông
ta đã không tuân theo giới luật. Ông sắp bỏ trốn thì Đức
Phật dùng thần lực đem ông lên một đỉnh núi tuyết và
cho ông ta thấy một con khỉ cái một mắt.
Đức
Phật hỏi Nanda: “Ông thấy Pundarika vợ của ông và con khỉ
này ai đẹp hơn?”
Nanda
trả lời: “Vợ con, nàng đẹp hơn gấp trăm, gấp ngàn lần!”
“Được
rồi,” Đức Phật trả lời. “Bây giờ chúng ta hãy lên
cõi Trời.”
Khi
đến nơi, Đức Phật ngồi xuống và bảo Nanda đi một vòng
xem xét. Mỗi vị trời sống trong cung điện riêng, chung quanh
có nhiều thiên nữ trẻ, và hưởng thụ những khoái lạc,
hạnh phúc và sự dư dật không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, có
một cung điện có nhiều thiên nữ nhưng không có vị trời
nào. Nanda hỏi tại sao, và được trả lời: “Trong cõi người,
có một người đàn ông tên Nanda, là người anh em họ
của Đức Phật, đang tuân giữ giới luật tu viện. Hành động
này sẽ dẫn ông ta tái sinh vào cõi thiên, và khi đó cung điện
này sẽ là của ông ta.”
Nanda
vui mừng khôn xiết. Khi trở lại với Đức Phật, Phật hỏi,
“Ông có thấy cõi trời chưa?”
“Tất
nhiên là con thấy rồi!”
“Tốt.
Ông thấy vợ ông hay những thiên nữ trẻ ai đẹp hơn?”
“Những
người con gái của các chư thiên đẹp hơn nhiều,”
Nanda trả lời; “Quả thực, sắc đẹp của họ vượt xa
sắc đẹp của Pundarika cũng như sắc đẹp của Pundarika vượt
xa con khỉ một mắt mà chúng ta thấy trước đó.”
Khi
trở về thế gian, Nanda giữ gìn giới luật tu viện thật
hoàn hảo.
Sau
đó Đức Phật nói với những tu sĩ: “Nanda đã từ bỏ cuộc
sống thế gian để được sinh vào những cõi trời,” Ngài
nói, “Nhưng tất cả các ông trở thành tu sĩ để vượt
thoát đau khổ. Các ông và ông ta không cùng một con đường.
Đừng nói chuyện với ông ta nữa. Không nên thân mật với
ông ta. Thậm chí không nên ngồi cùng chỗ với ông ta!”
Tất
cả tu sĩ vâng lời, và Nanda rất bối rối. Ông nghĩ: “Ananda
là em trai ta; tối thiểu nó vẫn còn chút tình cảm với ta.”
Nhưng khi ông ta đi gặp em, Ananda đứng dậy và bỏ đi. Nanda
hỏi tại sao, và Ananda thuật lại những điều Đức Phật
đã nói. Nanda rất đau khổ.
Cuối
cùng Đức Phật đến với ông và nói, “Nanda, ông có muốn
đi thăm các địa ngục không?” Nanda đồng ý, và Đức Phật
đưa cả hai xuống đó bằng thần lực. “Hãy đi và quan sát
chung quanh,” Ngài nói.
Vì
vậy, Nanda bắt đầu thám hiểm, tìm thăm tất cả cảnh giới
của địa ngục, cho tới khi ở một nơi kia, ông bắt gặp
một vạc trống không, trong đó có một ngọn lửa cháy kêu
tanh tách và rất đông thuộc hạ của Diêm Vương đang vây
quanh. Ông hỏi họ tại sao trong cái vạc không có ai.
“Có
một người em họ trẻ tuổi của Đức Phật tên là Nanda,”
họ trả lời, “anh ta đang thực hành giới luật tu viện
với ý định được tái sinh làm một vị trời. Sau khi hưởng
thụ hạnh phúc của cõi trời, khi công đức của anh ta cạn
kiệt, anh ta sẽ tái sinh vào đây.”
Nanda
hoảng sợ. Khi trở về ông ta suy nghĩ kỹ về các sự việc.
Trong tương lai được sinh vào cõi trời và sau đó kết thúc
ở các cõi địa ngục thì chẳng có ý nghĩa gì hết, vì thế
ông nuôi dưỡng một quyết tâm chân thực để tìm cách
giải thoát khỏi luân hồi. Khi đã được nhìn tận mắt các
cõi địa ngục, ông không bao giờ làm bất kỳ điều gì vi
phạm giới luật dù nhỏ nhặt nhất, và Đức Phật tán thán
ông là đệ tử tuyệt hảo nhất trong việc thu thúc các căn.*
Chúng
ta không cần phải đi quá xa để tận mắt thấy các cảnh
địa ngục. Một hình ảnh đơn giản cũng đủ làm chúng ta
kinh sợ và củng cố ý muốn được giải thoát của mình.
Chính vì lý do này mà Đức Phật yêu cầu bánh xe năm nhánh
tượng trưng cho vòng luân hồi được vẽ tại cửa thiền
đường* của Tăng đoàn. Như Đức Long Thọ đã nói:
*
Thu thúc các căn có nghĩa là không cho phép mình bị cám dỗ
bởi những đối tượng của các giác quan.
*
Hình vẽ này thường được thấy ở cổng vào của các ngôi
chùa Tây Tạng.
Nếu
chỉ nhìn những hình ảnh của các địa ngục, tai nghe những
điều mô tả,
Hoặc
đọc và suy nghĩ về địa ngục đã khiến bạn kinh sợ như
vậy,
Thì
bạn sẽ làm gì khi trải nghiệm ở đo,ù
Toàn
bộ nghiệp quả sẽ trổ ra từ những hành vi của bạn
mà
không sao ngăn cản được?
Vì
thế, hãy quán chiếu về những loại đau khổ khác nhau trong
luân hồi. Từ tận đáy lòng, hãy vất bỏ mọi mục đích
tầm thường của cuộc đời này. Trừ phi hoàn toàn từ bỏ
những hoạt động thế gian, bất kỳ Giáo Pháp nào mà bạn
nói là đang thực hành sẽ không thể dẫn đến thành tựu.
Khi
Ngài Atisa sắp viên tịch, một hành giả du già đến hỏi
Ngài: “Sau khi Ngài viên tịch, con có nên thiền định không?”
“Cho
dù ông thiền định, nó có sẽ thực sự là Giáo Pháp không?”
Ngài Atisa hỏi ông ta.
“Vậy
thì, con có nên giảng dạy hay không?”
Vị
đạo sư trả lời như trước.
“Vậy,
con nên làm gì?”
“Tất
cả những gì ông nên làm là hoàn toàn nương tựa vào Tonpa
và chí tâm từ bỏ [sự tham luyến vào] cuộc đời này,”
Ngài Atisa trả lời.
Một
câu truyện khác kể về một vị sư đang đi nhiễu quanh Tu
Viện Radreng thì gặp Geshe Tonpa. Vị Geshe nói: “Tu sĩ đáng
kính, đi nhiễu là một việc tốt, nhưng việc thực hành Giáo
Pháp đích thực không tốt hơn hay sao?”
Vị
tăng tự nghĩ: “Có lẽ việc đọc kinh điển Đại Thừa
thì cần thiết hơn là đi nhiễu.” Vì thế ông ta đọc kinh
điển trên ban công nhìn ra sân giảng ngoài trờiø.
Sau
một lát, Ngài Geshe Tonpa nói với ông ta: “Đọc giáo lý cũng
là một việc tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp đích thực lại
không tốt hơn hay sao?”
Một
lần nữa, nhà sư suy nghĩ kỹ về điều đó: “ Điều này
hẳn có nghĩa là thực hành thiền định thì tốt hơn đọc
kinh điển.” Do đó ông ta hỗn việc đọc kinh và bắt đầu
dùng thời giờ để ngồi trên giường với đôi mắt nhắm
hờ.
Một
lần nữa, Ngài Tonpa nói với ông ta: “Thiền định là một
việc tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp đích thực không tốt
hơn hay sao?”
Bị
bí lối, nhà sư kêu lên: “Ngài Geshe tôn kính, vậy con nên
làm gì để thực hành Giáo Pháp?”
“Tu
sĩ đáng kính,” Ngài Geshe trả lời, “hãy [phát tâm] từ
bỏ đời này! Hãy [phát tâm] từ bỏ đời này!”
Chính
tất cả những hoạt động tầm thường và những ràng
buộc hạn chế trong những lo toan của cuộc đời này, bây
giờ và mãi mãi về sau, sẽ luôn ngăn trở không cho chúng
ta thoát được khỏi những cảnh giới đau khổ của luân
hồi. Ngoài vị chân sư thì không ai có thể thực sự chỉ
dạy cho ta phải làm gì, để chặt đứt sợi dây neo cột
chặt chúng ta vào cuộc đời này, để chúng ta đạt được
giác ngộ trong những kiếp sống tương lai. Hãy bỏ lại đằng
sau tất cả những mối bận tâm của cuộc đời này – thân
quyến và bạn bè, bằng hữu và những người thân yêu, thực
phẩm, của cải và tài sản– giống như nhổ nước bọt
vậy.* Hãy bằng lòng với bất kỳ thực phẩm và quần áo
nào ta có thể có, và hoàn toàn hiến mình cho Giáo Pháp. Ngài
Padampa Sangye có nói:
*
Điều muốn nói ở đây (được nói rõ trong những chương
khác) không phải là một sự chối bỏ trách nhiệm của ta
đối với cha mẹ, con cái v.v... nhưng là sự chuyển hoá tâm
tham luyến và chuyển hoá định kiến giới hạn đặt nền
tảng trên “cái tôi” thành một lòng từ ái chân thực trải
rộng đồng đều cho mọi chúng sinh.
Vật
chất giống như mây mù; đừng bao giờ nghĩ rằng chúng có
thể trường tồn. Được mến mộ ưa chuộng giống như tiếng
vang; chớ đeo đuổi sự kính trọng, hãy tìm theo tánh thật
của nó.
Quần
áo đẹp giống như những màu sắc trong một cầu vồng; hãy
ăn mặc đơn giản và chuyên tâm thực hành.
Thân
thể này là một cái bao chứa máu; mủ và dịch chất; đừng
yêu quý nó. Ngay cả những bữa ăn ngon lành cũng biến thành
chất phẩn; đừng quá coi trọng miếng ăn. Hiện tượng xuất
hiện như kẻ thù; hãy sống trong ẩn thất hay núi non. Ảo
tưởng nhận thức như cây gai xé rách tâm thức; hãy xem ảo
tưởng thảy có cùng một tánh (tánh không).** Mọi tham dục
và mong cầu đều phát xuất từ chính bản thân; hãy hướng
về chân tánh của tâm.
**
Đứng về mặt tuyệt đối thì mọi tri giác đều có cùng
một bản tánh, đó là tánh Không.
Viên
ngọc quý báu nhất ở ngay trong ta; đừng mong mỏi thực phẩm
và của cải.
Nói
nhiều chỉ đem lại tranh cãi; hãy hành động như thể bị
câm.
Tâm
có năng lực tự nhiên;67 đừng chạy theo tiếng gọi của
bao tử.
Sự
gia hộ xuất hiện từ tâm; hãy thỉnh nguyện lạt ma và bổn
tôn của mình.
Nếu
ở một nơi nào quá lâu rồi cũng sẽ thấy ngay cả Đức
Phật cũng có lỗi, vậy chớ ở lâu bất kỳ nơi đâu.
Hãy
hành động khiêm tốn; hãy từ bỏ tính kiêu căng.
Cuộc
đời không kéo dài lâu; hãy thực hành ngay, đừng chậm trễ.
Bạn
giống như một lữ khách trong cuộc đời này; đừng xây một
toà lâu đài ở nơi bạn chỉ lưu lại một lát.
Chẳng
hành động nào đem lại ích lợi; hãy đặt thành tựu nơi
công phu hành trì.
Chẳng
thể nào biết được khi nào thân bạn trở thành mồi cho
dòi bọ hay hoàn toàn biến mất; chớ bị phân tâm bởi những
hiện tượng của cuộc đời này.
Bạn
bè và thân quyến giống như những con chim nhỏ trên cành;
đừng vướng mắc với họ.
Lòng
tín tâm vững chắc giống như một nền tảng hoàn hảo; đừng
quăng bỏ lòng tin ấy vào đống rác cảm xúc bất thiện.
Thân
người như viên ngọc như ý quý giá, chớ trao nó cho kẻ thù
– sự thù hận.
Mật
nguyện (samaya) thì giống như tháp canh;68 đừng làm ô nhiễm
với những lỗi lầm.
Trong
lúc vị Đạo Sư Kim Cương vẫn còn (hiện diện) ở giữa
các bạn; đừng để Giáo Pháp bị cuốn trôi vào sự biếng
lười.
Để
thực sự tu tập và kinh nghiệm được Phật Pháp, điều thiết
yếu là ta phải nhận ra rằng mọi sự trong luân hồi đều
là vô nghĩa. Cách duy nhất để phát triển được nhận thức
đó là phải thiền quán về những nỗi thống khổ và tai
hoạ của luân hồi. Hãy quán chiếu cho đến khi đạt được
sự hiểu biết và niềm tin tưởng sâu xa rằng toàn bộ cõi
luân hồi ngập tràn đau khổ.
Khi
công phu thiền quán đã thật sự bén rễ trong ta, ta sẽ có
dấu hiệu như Geshe Langri Thangpa. Một ngày nọ, một trong những
vị thị giả thân cận nói với Ngài: “Người ta gọi Ngài
là Langri Thangpa Mặt Sầu Não” (Langri Thangpa Tang-diện).
“Làm
sao mặt ta có thể tươi sáng và vui vẻ khi ta nghĩ về tất
cả các nỗi khổ trong tam giới của luân hồi được?” vị
Geshe trả lời.
Người
ta nói rằng Ngài Langri Thangpa chỉ từng cười có một lần.
Ngài thấy một con chuột đang cố di chuyển một viên ngọc
lam trên mạn đà la của Ngài. Nhưng một mình nó không thể
nhấc nổi viên ngọc, nên nó gọi: “Tsik! tsik!” và con chuột
khác chạy đến. Một con đẩy viên ngọc trong khi con kia kéo.
Điều đó khiến Ngài Langri Thangpa mỉm cười.
Công
phu thiền quán về những nỗi đau khổ của luân hồi là nền
tảng và là sự hỗ trợ giúp cho tất cả những phẩm
tính tốt đẹp trên con đường tu tập Đạo Pháp. Công
phu thiền quán này sẽ xoay chuyển tâm ta hướng về Pháp.
Sẽ cho ta niềm tin vào luật nhân quả trong tất cả những
việc ta làm. Sẽ khiến ta quay lưng lại với những mục đích
của cuộc đời này. Và sẽ khiến ta cảm nhận lòng từ bi
đối với tất cả chúng sinh.
Chính
Đức Phật, trong ba lần chuyển Pháp luân, đã bắt đầu bằng
những lời dạy: “Hỡi chư tỷ kheo, cuộc đời này là đau
khổ.” Điều đó cho thấy việc ta nhận thức ra được những
đau khổ trong cõi luân hồi này thật sự quan trọng đến
ngần nào.
Vì
vậy, hãy hành trì tu tập cho tới khi có được hoàn toàn
niềm tin tưởng và sự xác quyết rằng luân hồi là đau khổ.
Nhìn
thấy luân hồi là đau khổ, nhưng con vẫn khao khát vòng sinh
tử.
Sợ
hãi vực thẳm của cõi thấp, nhưng con tiếp tục làm điều
sai trái.
Xin
hãy từ bi gia hộ cho con và những kẻ lạc lối như con
Để
chúng con có thể thật lòng từ bỏ những đa đoan của cuộc
đời này.
Gampopa
(1079 – 1153)
Cũng
được gọi là Dagpo Rinpoche.
Là
một trong những vị trưởng tử của Milarepa và cũng là vị
Đạo
Sư quan trọng của dòng truyền thừa Kagyu.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 6 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:05pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
BỐN
NGHIỆP:* LUẬT
NHÂN QUẢ
Ngài
từ bỏ việc xấu, làm việc thiện, như giáo lý về nhân
quả.
Công
hạnh của Ngài noi theo tiến trình của các Thừa.69
Nhờ
cái Thấy viên mãn, Ngài thoát khỏi mọi bám chấp.
Bậc
Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
Chương
này cần phải được giảng giải và học hỏi [với thái
độ] tương tự như đối với những chương khác. Chủ đề
trong chương này sẽ được giải thích dưới ba đề mục:
hành động tiêu cực (ác hạnh) là những gì nên từ bỏ,
hành động tích cực (thiện hạnh) là những điều nên tuân
theo; và tính chất hoàn toàn quyết định của các hành động
tạo nghiệp.
*Từ
Phạn ngữ karma (T.T. las), bây giờ thường được sử dụng
trong Anh ngữ để ám chỉ kết quả của những hành động
trong quá khứ, nhưng karma thực ra chỉ đơn thuần có nghĩa
là “những hành động.” Tuy nhiên, người Tây Tạng cũng
sử dụng thành ngữ las trong ngôn ngữ thông thường để ám
chỉ toàn thể tiến trình , hay nguyên lý, của nhân và quả,
rgyu’bras, và đây là chủ đề của chương này.
I.
NHỮNG ÁC HẠNH PHẢI TỪ BỎ
Điều
khiến cho chúng ta phải tái sinh trong những cõi cao hay bị
đọa trong cõi thấp của vòng luân hồi chính là những hành
vi thiện hay ác mà bản thân chúng ta đã tích lũy. Chính vòng
luân hồi được tạo ra bởi các hành vi này, và bao gồm tất
cả những kết quả của các hành vi ấy – chứ không có
bất cứ điều gì khác đưa dẫn chúng ta vào những cảnh
giới cao hay thấp. Đây cũng chẳng phải chỉ là sự ngẫu
nhiên. Vì thế, vào mọi lúc, chúng ta nên luôn luôn quán sát
hậu quả của các hành động tích cực và tiêu cực, cố
tránh tất cả những điều xấu và làm những điều tốt.
1. Mười hành
vi bất thiện nên tránh (Thập ác)
Ba
hành vi trong số mười hành vi bất thiện là những hành vi
thuộc về thân: sát sinh, lấy những gì không được cho, và
tà dâm (quan hệ tình dục bất chánh); bốn hành vi thuộc về
khẩu: nói dối, gieo mối bất hòa, nói lời cay nghiệt, và
nói chuyện phiếm vô ích; ba hành vi thuộc về ý: tham muốn,
muốn làm tổn hại người khác, và quan điểm sai lạc (tà
kiến).
1.1
SÁT
SINH
Sát
sinh có nghĩa là cố ý làm bất cứ điều gì để kết thúc
sinh mạng của một chúng sinh khác, dù là người, súc vật
hoặc bất kỳ sinh linh nào khác.
Người
lính giết kẻ địch trong chiến trận là một ví dụ của
việc sát sinh vì thù hận (sân). Việc giết một con thú hoang
để ăn thịt hay lấy da của chúng làm y phục là sát sinh
bởi lòng tham. Giết mà không biết hậu quả là đúng hay sai
– hay như những kẻ ngoại đạo (tirthika) tin rằng đó là
một việc đức hạnh – là sát sinh bởi sự vô minh (si).
Có
ba trường hợp sát sinh được gọi là những hành vi có quả
báo tức thời (hiện báo), vì những hành vi này dẫn đến
sự tái sinh ngay lập tức trong Địa Ngục Vô Gián mà không
kinh qua trạng thái trung ấm, đó là: giết cha, giết mẹ, và
giết một vị A La Hán.70
Một
số người trong chúng ta nghĩ rằng chỉ phạm tội sát sinh
khi có hành vi giết hại cụ thể bằng chính đôi bàn tay của
mình; và rất có thể là chúng ta tưởng tượng là chúng ta
vô tội vì chưa hề bao giờ phạm tội sát sinh. Nhưng ngay
từ đầu thì không một ai trong chúng ta, dù cao hay thấp, mạnh
mẽ hay yếu đuối lại chưa từng phạm lỗi đạp chết vô
số côn trùng dưới chân khi dạo bước.
Đặc
biệt hơn, những Lạt Ma và tu sĩ khi tới nhà thăm các tín
chủ, được dâng cúng máu và thịt của thú vật bị giết
và được nấu thành thức ăn; mùi vị của thịt hấp dẫn
họ tới nỗi họ ngấu nghiến món ăn với sự khoái trá mà
không có chút xíu ân hận hay thương xót nào đối với những
con vật bị giết. Trong những trường hợp như vậy, hậu
quả ác nghiệp của người sát sinh sẽ ập xuống cho cả
chủ lẫn khách không hề có sự khác biệt.
Khi
những nhân vật quan trọng và viên chức chính quyền đi du
hành, dù họ đi tới đâu thì cũng có vô số súc vật bị
giết để dùng vào việc tổ chức những buổi tiệc trà và
tiệc chiêu đãi của họ. Những người giàu có theo thói quen
sát hại vô số súc vật. Trong số tất cả các gia súc của
họ, ngoại trừ một vài con vật già nua ở đây đó, thì
họ không để bất cứ con vật nào chết tự nhiên mà đều
giết thịt từng con một khi các con vật ấy lớn dần. Hơn
nữa, trong mùa hè, chính những con trâu bò và những con cừu
này, khi chúng ăn cỏ thì chúng lại giết hại vô số côn
trùng, ruồi, kiến và thậm chí cả cá con và ếch nhái; trong
khi chúng đang nuốt cỏ, chúng nghiền nát những con côn trùng
này dưới bộ móng của chúng, hay làm những con côn trùng
bị ngập lún trong phân. Hậu quả của ác nghiệp của tất
cả các hành động này sẽ xảy tới với chủ nhân cũng như
cho các con vật. Nếu đem so sánh với ngựa, trâu bò và những
loại gia súc khác thì con cừu là một nguồn đặc biệt gây
nhiều tổn hại. Khi chúng ăn cỏ, chúng nuốt tất cả các
sinh vật bé nhỏ – ếch, rắn, chim con, v.v... Khi bị xén lông
vào mùa hè, hàng trăm ngàn sinh vật sống trên mỗi bộ lông
cừu đều bị giết chết. Lúc sinh đẻ vào mùa đông, không
tới phân nửa cừu con được giữ lại, còn bao nhiêu đều
bị giết thịt khi vừa sinh ra. Cừu mẹ được dùng để lấy
sữa và sinh sản cho tới khi chúng quá già và suy kiệt; lúc
đó chúng bị giết để lấy thịt và da. Và không một con
cừu đực nào, dù có bị thiến hay không, tới lúc trưởng
thành mà không bị giết ngay lập tức. Nếu cừu có rận thì
hàng triệu chấy rận trên mỗi con cừu sẽ bị chết đồng
loạt. Bất cứ ai sở hữu một bầy cừu một trăm con hay
nhiều hơn nữa, bảo đảm sẽ tái sinh ít nhất một lần
trong địa ngục.
Trong
mỗi một đám cưới, vô số cừu bị giết khi của hồi môn
được gởi đi, lúc tiễn cô dâu về nhà chồng, và khi cô
dâu được cha mẹ chồng đón nhận. Sau đo,ù mỗi khi cô dâu
trẻ về thăm gia đình, chắc chắn những súc vật khác sẽ
bị đem giết. Nếu bạn bè và thân quyến mời cô ra và phục
vụ cô bất cứ thứ gì trừ món thị thì cô sẽ làm ra vẻ
lúng túng ăn không ngon miệng và ăn với vẻ khinh khỉnh như
thể cô đã quên cách nhai.71 Nhưng nếu giết một con cừu
mập mạp và đặt phần thịt vú và bộ lòng trước mặt
cô, thì cô sẽ ngồi xuống thật trịnh trọng như một con
tiểu quỷ mặt đỏ, lôi con dao nhỏ ra, rồi cô nuốt chửng
cả miếng thịt kèm theo những cái chắp môi. Ngày hôm sau
cô lên đường, và trở về nhà buông phịch một xác thú
đầy máu me xuống đất, y như thể một tên thợ săn - nhưng
còn tệ hơn thế nữa, mỗi khi cô đi đâu ra ngoài, chắc chắn
chẳng khi nào cô về tay không.
Trẻ
con cũng vậy, chúng gây ra vô số cái chết cho súc vật trong
lúc chơi đùa, dù chúng có biết điều đó hay không. Chẳng
hạn trong mùa hè, chúng giết chết nhiều con côn trùng chỉ
bằng cách dùng một cành liễu hay một cái roi da đập xuống
mặt đất khi chúng đi bộ dọc theo con đường. Như vậy nên
trong thực tế, tất cả loài người chúng ta dùng toàn bộ
thời gian của mình để sát sinh, chẳng khác nào loài yêu
quái. Thực thế – hãy xem bằng cách nào chúng ta giết chết
trâu bò của mình để thưởng thức thịt và máu của chúng
trong khi chúng đã dành toàn bộ cuộc đời để phục vụ
và nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa của chúng, như thể chúng
là mẹ của chúng ta – chúng ta còn tệ hơn bất kỳ thứ
yêu tinh nào.
Hành
vi cướp đi mạng sống được hoàn tất khi bao gồm đầy
đủ bốn yếu tố của một ác hạnh. Hãy lấy ví dụ về
một người thợ săn giết một con dã thú. Trước hết, ông
ta thấy một con nai thực sự, hay một con hươu xạ, hoặc
bất kể con vật nào, và nhận thấy rõ rằng đây chính
là con vật, không chút nghi ngờ: việc nhận biết đó là một
sinh vật chính là căn bản cho sự hành động. Kế đó, ước
muốn giết con thú phát khởi: ý tưởng giết con thú
là động cơ để thực hiện hành vi giết hại. Sau đó ông
ta bắn vào điểm nhược của con vật bằng một khẩu súng,
bằng cung tên hay bất kỳ vũ khí nào khác: hành động giết
hại của thân là việc thực hiện hành vi ấy. Ngay sau đó,
chức năng sinh tồn của con vật ngừng dứt, sự nối kết
giữa thân và tâm của nó bị tách lìa: đó là sự hoàn tất
cuối cùng của hành động sát sinh.
Còn
một ví dụ khác: theo yêu cầu của gia chủ, người đồ tể
giết một con cừu được nuôi để lấy thịt. Trước tiên,
chủ nhà bảo người hầu hay người hàng thịt giết một
con cừu. Điều căn bản là ông ta biết rằng có một sinh
vật có liên quan đến ác hạnh naỳ – đó là một con cừu.
Động lực (ý định) hay ý tưởng giết con vật, sẽ hiện
diện ngay khi ông ta quyết định con cừu này hay con cừu kia
sẽ bị giết. Việc thực hiện hành động sát sinh thực sự
xảy ra khi người đồ tể sắp sửa giết con cừu, vật nó
ngã ngửa, cột bốn chân nó lại với nhau bằng những sợi
dây da và buộc một sợi thừng quanh mõm cho tới khi nó chết
ngạt. Con vật ngừng thở trong sự đau đớn dữ dội của
sự dãy chết, đôi mắt trợn trừng của nó ngả màu hơi
xanh, kéo mây và trào lệ. Xác nó bị kéo ra khỏi nhà và giai
đoạn cuối cùng, sự chấm dứt đời sống của nó, đưa
tới sự hoàn tất ác hạnh. Không để phí chút thời gian
nào, con vật bị lột da bằng một con dao, da thịt nó vẫn
còn đang rung động vì “năng lực toả-khắp”* chưa đủ
thời gian để lìa khỏi xác; như thể con vật vẫn còn sống.
Ngay lập tức, nó được nướng trên một ngọn lửa và nấu
trên bếp lò, rồi được mang ra ăn. Khi bạn nghĩ về nó,
về những con vật như vậy bị ăn thịt, trong thực tế nó
đang bị ăn tươi nuốt sống, và loài người chúng ta thì
không khác gì những con thú săn mồi.
Giả
sử hôm nay bạn có ý định giết một con vật, hoặc bạn
nói rằng sẽ giết, nhưng không thực sự làm điều đó. Như
thế là đã có căn bản, có sự hiểu biết rằng đó là một
chúng sinh, và có ý định hay ý tưởng giết hại con vật.
Do đó, hai trong số các yếu tố của ác hạnh đã có mặt
đầy đủ, và mặc dù sự tác hại ít nặng nề hơn so với
việc bạn hoàn thành hành vi sát sinh trong thực tế, nhưng
giống như sự phản chiếu trong một tấm gương, dấu vết
của một hành động tiêu cực (ác hạnh) vẫn tồn tại.
Một
số người tưởng rằng chỉ có những ai sử dụng thân thể
để thực hiện việc sát sinh mới tạo ra hậu quả của ác
nghiệp, còn người chỉ ra lệnh thì không - hay nếu có tạo
thì cũng chỉ tạo một ít hậu quả mà thôi. Nhưng bạn nên
biết rằng nghiệp quả xảy đến với tất cả những người
có liên quan đến hành vi xấu ác đều đồng đều như nhau,
ngay cả với những người chỉ cảm thấy vui thích về điều
đó – đừng nói chi tới người thực sự ra lệnh cho việc
sát sinh được thực hiện. Mỗi người nhận toàn bộ nghiệp
quả của việc giết hại một con vật. Không làm gì có việc
một hành động sát sinh lại có thể được chia ra cho nhiều
người.
*Một
trong năm năng lực vi tế (rlung), hay “gióù” trong thân thể
(xem thuật ngữ).
1.2.
LẤY
NHỮNG GÌ KHÔNG ĐƯỢC CHO
Việc
lấy những gì không được cho gồm có ba loại: lấy bằng
bạo lực, lấy bằng cách ăn trộm lén lút và lấy bằng
thủ đoạn gian trá.
Lấy
bằng bạo lực. Cũng gọi là lấy bằng sự áp chế, có nghĩa
là cưỡng chiếm của cải hay tài sản của người khác; và
người làm công việc cưỡng chiếm này là một cá nhân có
quyền lực chẳng hạn như một ông vua, là một người không
có chủ quyền hợp pháp đối với những tài sản kia. Điều
này cũng bao gồm sự cưỡng đoạt bởi một số đông người,
ví dụ như là một quân đội.
Lấy
bằng trộm cắp. Điều này có nghĩa lấy mất của cải vật
chất một cách bí mật, giống như một kẻ trộm ban đêm
không bị chủ nhân bắt gặp.
Lấy
bằng thủ đoạn gian trá. Nghĩa là lấy tài sản của người
khác, ví dụ như trong giao dịch mua bán, bằng cách nói dối
người khác, hoặc dùng cân và những dụng cụ đo lường
sai lạc hoặc dùng các thủ đoạn lừa bịp khác.
Ngày
nay, chúng ta nghĩ rằng trong lãnh vực kinh doanh và những phạm
vi khác, việc lừa lọc hay dùng thủ đoạn để lấy đi những
thứ gì đó của người khác thì không có gì là sai trái miễn
là chúng ta không công khai trộm cắp. Nhưng trong thực tế,
bất kỳ lợi nhuận nào chúng ta có thể tạo ra bằng cách
lừa gạt người khác thì đều không khác với sự ăn cắp
công khai.
Đặc
biệt là ngày nay, các vị lạt ma và tu sĩ thấy rằng không
có
tổn hại hay sai lầm nào trong việc làm kinh doanh; quả thực
họ tiêu phí toàn bộ cuộc đời vào công việc đó, và cảm
thấy hơi tự hào về sự thành thạo của họ. Tuy nhiên, không
có gì làm suy yếu tâm lực của một lạt ma hay tu sĩ hơn
là việc làm kinh doanh. Bị choáng ngợp trong công việc giao
dịch, ông ta ít cảm thấy có khuynh hướng theo đuổi việc
nghiên cứu hay tu tập để tịnh hóa những che chướng của
mình – và dù sao chăng nữa thì cũng chẳng còn sót lại chút
thời giờ nào để dành cho công việc tu tập như vậy. Tất
cả thời giờ, từ lúc thức cho đến khi đi ngủ, đều bị
hao phí mải mê với những trương mục kế toán. Bất cứ
ý niệm nào về lòng quy ngưỡng, tâm chán ghét luân hồi,
hay lòng bi mẫn thì những ý niệm đó cũng đều bị tiệt
trừ và sự mê lầm thường xuyên chế ngự ông ta.
Một
đêm kia, Ngài Jetsun Milarepa đến một tu viện và ngủ qua đêm
trước cửa một căn phòng. Vị tu sĩ sống trong phòng đang
nằm trên giừơng suy nghĩ về việc làm thế nào bán xác của
con bò mà ông ta dự định sẽ làm thịt vào ngày mai: “Ta
sẽ được ngần đó tiền cho cái đầu, xương vai đáng giá
ngần ấy, và thịt vai được chừng ấy, chừng ấy cho giò
và cẳng chân.” Ông ta tiếp tục tính toán giá trị của
từng món và từng phần của con bò, bên trong và bên ngoài.
Tới rạng sáng, ông ta không chợp mắt được chút nào nhưng
đã tính toán được xong xuôi mọi thứ ngoại trừ việc phải
hỏi giá cái đuôi. Ông lập tức ngồi dậy, hoàn tất công
phu quy ngưỡng và thực hành phần cúng dường bánh cúng (torma).
Khi
đi ra đến ngoài, ông ta bước ngang qua chỗ Ngài Jetsun vẫn
còn đang say ngủ, và mắng nhiếc Ngài một cách khinh bỉ:
“Ông xưng là hành giả của Giáo Pháp, mà cho tới giờ này
vẫn còn ngủ ở đây! Ông không công phu hành trì hay tụng
niệm chút nào hay sao?”
“Tôi
luôn mất ngủ như vầy,” Ngài Jetsun Mila trả lời. “Tôi
vừa thức suốt đêm để nghĩ về cách bán con bò mà tôi
sắp giết. Tôi chỉ mới chợp mắt được một chút…”
Và như thế Ngài phơi bày những khuyết điểm che dấu của
vị tăng, rồi bỏ đi.
Giống
như vị tu sĩ trong truyện này, ngày nay những người mà cả
đời chỉ chí thú việc kinh doanh đã dùng cả ngày lẫn đêm
hoàn toàn mê đắm trong việc tính toán. Họ bị choán ngợp
trong ảo tưởng, ngay cả khi cái chết đến, họ cũng sẽ
chết mà vẫn mê lầm như thế. Hơn thế nữa, thương
mại có liên quan đến tất cả những loại hành vi tiêu cực
(ác hạnh). Người ta có hàng hóa để bán, dù trong thực tế
là loại kém tệ, nhưng họ lại đề cao chất lượng của
nó bằng bất kỳ cách nào họ có thể nghĩ ra. Họ nói dối
công khai, chẳng hạn như khách hàng này người mua nọ đã
trả tới giá nào ra sao, nhưng họ đã từ chối không bán;
hoặc lúc ban đầu họ đã mua vào với số tiền lớn như
thế nào. Khi cố gắng mua cho bằng được những món hàng
đang được hai người khác thương lượng, thì họ dùng đến
sự vu khống nhằm kích động sự bất hoà giữa hai bên. Họ
dùng những lời lẽ nặng nề để nói xấu hàng hoá
của đối thủ cạnh tranh, nhằm việc tranh nợ hoặc các thứ
tương tự khác. Họ say mê trong những cuộc trò chuyện vô
nghĩa bằng cách đòi hỏi giá cả kỳ cục hoặc mặc cả
những thứ mà họ chẳng có ý định mua. Họ ghen tỵ và thèm
muốn những thứ thuộc sở hữu của người khác, nỗ lực
hết mình để được người kia cho những món đó. Họ luôn
mong đối thủ của mình bị tổn hại, luôn mong muốn dành
được phần tốt hơn của đối thủ. Nếu họ buôn bán gia
súc, họ bị dính mắc trong việc sát sinh. Vì thế trong thực
tế, việc kinh doanh bao gồm tất cả mười hành động bất
thiện (thập ác), may ra thì có thể không phải kể đến tà
kiến và tà dâm. Sau đó, khi việc thương lượng của họ
tiến hành không tốt đẹp thì cả hai bên đều hao phí tài
sản, mọi người đều khốn khổ, các thương nhân có thể
trở thành đói khát, đem lại tổn thất cho bản thân họ
và cho cả những kẻ đối tác. Nhưng nếu họ gặt hái chút
ít thành công, thì dù có kiếm lời nhiều đến đâu chăng
nữa họ chẳng bao giờ thấy đủ. Ngay cả những người giàu
có như Đa Văn Thiên (Vaisravana) vẫn cảm thấy thích thú trong
những việc kinh doanh bất chính. Cuối cùng khi cái chết tới
gần, họ sẽ đấm ngực trong đau khổ, bởi toàn bộ đời
người của họ đã bị tiêu phí trong những sự mê ám như
vậy, là những thứ giờ đây đang trở thành gánh
nặng lôi họ xuống các cõi thấp.
Để
tích lũy những ác hạnh vô tận và hoàn toàn làm cho bạn
trở nên đồi bại, hư hỏng thì không có gì hữu hiệu hơn
là làm việc buôn bán và thương mại. Bạn sẽ thấy bản
thân mình luôn luôn nghĩ đến các phương thức đánh lừa
người khác như thể bạn đang xem xét một bộ sưu tập gồm
các loại dao, dùi và kim xem dụng cụ nào sắc bén nhất. Khi
nghiền ngẫm không ngừng về những tư tưởng ác hại, bạn
quay lưng lại với lý tưởng Bồ Đề tâm là tư tưởng cứu
giúp những chúng sinh khác, và những hành động nguy hại của
bạn sinh sôi nảy nở vô tận.
Việc
lấy đi những gì không được cho cũng bao gồm bốn yếu tố
làm cho ác hạnh được hoàn tất; những điều này cũng đã
được giảng rõ rồi. Tuy nhiên, bất cứ sự tham dự nào
vào trong các hành vi bất thiện đó, dù chỉ là biếu tặng
những kẻ đi săn hoặc những tên trộm cắp chút ít
thực phẩm giúp cho cuộc hành trình của chúng thì việc này
cũng đủ để đem lại cho bạn một phần hậu quả tương
đương với hậu quả của hành vi bất thiện gây ra bởi tội
sát sinh và trộm cướp của chúng.
1.3
TÀ
DÂM
Những
quy luật sau đây là dành cho cư sĩ. Ở Tây Tạng, trong triều
đại của vị Pháp Vươnng Songtsen Gampo, luật pháp được
đặt nền tảng trên mười hành động tốt lành (thập thiện).
Những quy luật này được thiết lập, bao gồm những luật
lệ dành cho người dân sống trong xã hội và những giới
luật dành cho cộng đồng tôn giáo. Ở đây, chúng ta đang
đề cập tới những quy luật hạn chế trong cách cư xử dành
cho người thế gian. Là những người chủ gia đình, họ nên
tuân theo một đạo lý thích hợp. Riêng đối với Tăng và
Ni, họ được đòi hỏi phải tránh tất cả mọi hành
vi tính dục.
Sự
tà dâm nghiêm trọng nhất là việc dẫn dắt người khác phá
vỡ giới nguyện của họ. Tà dâm cũng bao gồm những hành
vi được liên kết với những cá nhân nào đó, hoặc tại
một nơi chốn và hoàn cảnh đặc biệt nào đó như là: sự
thủ dâm; những quan hệ tình dục với người đã có gia đình
hoặc với người đã hứa hôn với người khác; hoặc với
người còn độc thân nhưng công khai giữa ban ngày, trong khi
đang giữ nguyện trai giới một ngày, trong khi bệnh tật, trong
lúc kiệt sức, trong lúc có thai, trong khi vừa mất một người
thân, trong khi có kinh nguyệt, trong lúc đang hồi phục sau khi
sinh nở; ở nơi có sự hiện diện của các biểu tượng của
Tam Bảo; với cha mẹ mình, hay với những thành viên khác trong
gia đình (họ hàng), với trẻ em chưa tới tuổi dậy thì;
hay có quan hệ tính dục qua cửa miệng hay hậu môn, vân vân.
1.4
NÓI
DỐI
Nói
dối có ba loại: nói dối thông thường, nói dối nghiêm trọng
và những lời giả dối của lạt ma giả mạo.
Những
lời nói dối thông thường. Đó là bất kỳ những lời phát
biểu không chân thật nào, được nói ra với ý định lừa
gạt người khác.
Những
lời nói dối nghiêm trọng. Đó là những lời phát biểu chẳng
hạn như: thiện hạnh thì không đem lại lợi ích và không
có hại gì khi làm các hành động bất thiện, không có hạnh
phúc gì trong các cõi Phật và không có đau khổ trong những
cõi thấp, hoặc là những lời phát biểu rằng Đức Phật
không có các phẩm hạnh tốt đẹp. Những lời phát biểu
như vậy được gọi là nói dối nghiêm trọng bởi không có
những lời nói dối nào khác có thể đem lại các hậu quả
gây lầm lạc nghiêm trọng hơn thế nữa.
Những lời giả dối của lạt ma giả mạo. Đây là tất cả
những lời tuyên bố không thành thật rằng mình có những
phẩm tính cao cả và có oai lực, ví dụ như đã đạt được
những Bồ Tát địa, hay có thần lực thấu thị. Ngày nay,
những kẻ mạo danh lại thành công hơn những vị Thầy chân
thực, và tư tưởng cùng hành động của mọi người dễ
dàng bị những kẻ mạo danh gây ảnh hưởng. Do đó, có một
số người tự xưng là những đạo sư hay là những thành
tựu giả trong nỗ lực lừa gạt người khác. Họ tuyên bố
là mình có một linh kiến về một Bổn Tôn nào đó và tổ
chức các lễ cúng dường tạ ơn Ngài, hoặc tuyên bố là
họ thấy một tinh linh và đã trừng trị nó. Thường thì
đây chỉ là những lời dối gạt của các Lạt Ma giả mạo,
nên hãy thận trọng đừng tin tưởng một cách mù quáng vào
những kẻ lừa gạt và bất tài như thế. Bởi có thể nói
rằng việc tìm ra được vị Thầy chân chính làm ảnh hưởng
tới đời này lẫn đời sau, nên điều tối quan trọng là
hãy đặt niềm tin của bạn vào một hành giả Giáo Pháp mà
bạn biết rõ, một người luôn luôn khiêm tốn, và bản tánh
bên trong cùng cách hành sử bên ngoài của Ngài thì tương
ưng với nhau.
Nói
chung, có những người bình thường có được một mức độ
thấu-thị-giới-hạn-tro ng-ý-niệm nào đó, nhưng khả năng
này không thường hằng, và chỉ có hiệu lực trong một thời
gian. Khả năng thấu suốt hoàn toàn thuần tịnh chỉ hiện
ra với những bậc đã đạt tới quả vị siêu việt, vì thế
khả năng này thật cực kỳ khó đạt được.72
1.5
GIEO
MỐI BẤT HOÀ
Việc
gieo mối bất hoà có thể công khai hay bí mật.
Gieo
mối bất hoà công khai. Đây là một chiến lược thường
dùng của những người nắm quyền. Điều này bao gồm việc
tạo ra mối bất hòa giữa hai người cùng hiện diện bằng
cách công khai kể với một người rằng người kia nói xấu
sau lưng anh ta, và tiếp tục diễn tả lại những gì người
thứ nhất đã nói hay làm hại người thứ hai – và sau đó
có thể hỏi cả hai tại sao hiện giờ vẫn đối xử với
nhau như thể không có chuyện gì xảy ra giữa họ.
Gieo
mối bất hoà bí mật. Điều này có nghĩa là chia rẽ hai người
đang rất hoà thuận với nhau bằng cách kể lại sau lưng người
thứ hai cho người thứ nhất nghe về những điều kinh khủng
mà người thứ hai được cho là đã nói về người thứ nhất
trong khi người thứ hai lại là một người mà người thứ
nhất luôn quan tâm đến.
Trường
hợp tệ nhất trong việc gieo mối bất hoà là gây mâu thuẫn
giữa những thành viên trong Tăng Đoàn. Việc gây nên sự rạn
nứt giữa vị Thầy của Mật Thừa và đệ tử của Ngài,
hoặc trong nhóm huynh đệ hay tỉ muội tâm linh thì đặc biệt
nghiêm trọng.
1.6
NÓI
LỜI CAY NGHIỆT
Lời
nói cay nghiệt là, chẳng hạn như phê bình một cách thô bạo
về những khuyết điểm trên thân thể của người khác, công
khai gọi người ta là chột, điếc, mù v.v.. Điều này bao
gồm sự phơi bày những khiếm khuyết che dấu của người
khác, đủ mọi loại lời nói xúc phạm và, trong thực tế,
ngay cả bất kỳ những lời nào làm người khác không vui
hay không thoải mái, cho dù là lời ngọt ngào chứ không cay
nghiệt.
Đặc
biệt, nói xúc phạm một người trước mặt một vị Thầy,
trước mặt một huynh đệ tâm linh, hay một bậc hiền thánh
là một lỗi lầm rất nghiêm trọng.
1.7
NÓI
CHUYỆN PHIẾM VÔ ÍCH
Nói
chuyện phiếm vô ích là nói nhiều mà không có bất cứ mục
đích nào: ví dụ, kể lại những gì ta tưởng là Giáo Pháp
nhưng thật ra không phải – như nghi lễ của những Bà la
môn (brahmin);73 hay nói bâng quơ về những chủ đề làm khuấy
động lòng tham muốn hay sân hận, như kể những chuyện của
gái điếm, hát những bài ca dâm dật, hoặc bàn luận về
chuyện cướp bóc và chiến tranh. Đặc biệt, làm quấy nhiễu
việc cầu nguyện hay trì tụng của người khác bằng cách
tuôn ra những lời lẽ vô dụng làm cho họ bị xao lãng
thì điều này đặc biệt tai hại, bởi việc ấy ngăn cản
họ trong việc tích tập công đức.
Những
mẩu chuyện ngồi lê đôi mách mà thoạt nhìn dường như phát
sinh hoàn toàn tự nhiên và tự phát, nhưng khi bạn xem xét
kỹ lưỡng hơn, thì được thúc đẩy bởi sự tham dục hay
thù hận, và mức độ nặng nề của những lỗi lầm sẽ
tương xứng với số lượng tham muốn hay sân hận được
tạo nên trong tâm bạn hay tâm người khác khi nói về những
mẩu chuyện này.
Trong
khi bạn đang tụng đọc những lời cầu nguyện hay trì tụng
các câu minh chú mà lại trộn lẫn với sự trò chuyện không
thích đáng thì việc ấy sẽ ngăn chặn sự kết trái của
công phu tu tập của bạn, cho dù bạn có tụng niệm nhiều
tới đâu chăng nữa. Điều này đặc biệt áp dụng cho những
loại chuyện tầm phào khác nhau lan truyền trong hàng ngũ Tăng
Đoàn. Chỉ một người duy nhất nói chuyện tầm phào là đã
có thể làm cho công đức của toàn thể hội chúng bị tiêu
huỷ và những hành động đáng khen của các tín chủ và người
bảo trợ của hội chúng cũng bị uổng phí.
Trong
xứ Ấn Độ cao quý, như một thông lệ, chỉ có những bậc
đã đạt được những thành tựu cao nhất và hoàn toàn trong
sạch, đã đoạn diệt được tất cả những lỗi lầm xấu
xa thì những vị ấy mới có quyền sử dụng quỹ cúng dường
cho Tăng Đoàn. Đức Phật không cho phép một ai khác được
làm điều đó. Nhưng ngày nay, người ta chỉ cần học được
một hay hai nghi thức Mật thừa, và ngay khi có thể trì tụng
các nghi quỹ ấy là họ bắt đầu sử dụng bất kỳ những
vật cúng dường nguy hiểm nào74 mà họ có thể nhận được.
Nếu không được thọ nhận các lễ quán đảnh, không trì
giữ tất cả các mật nguyện, không tinh thông các giai
đoạn phát triển và hoàn thiện, và không hoàn tất những
điều kiện đòi hỏi của việc tụng niệm minh chú, mà lại
đi nhận cúng dường bằng cách cử hành những nghi lễ mật
thừa – nghĩa là chỉ hát tụng những minh chú bí mật một
cách qua loa giống như những phù thủy đạo Bon – thì đây
là một vi phạm nặng nề. Sử dụng những của cúng dường
nguy hiểm này được so sánh với việc ăn những viên sắt
nóng: nếu người bình thường cùng dự phần mà không có
quai hàm bằng gang thép của sự hợp nhất hai giai đoạn phát
triển và hoàn thiện, thì họ sẽ tự đốt cháy mình và bị
hủy hoại. Như có câu nói rằng:
Phẩm
vật cúng dường nguy hiểm là những lưỡi dao bén chết người;
Cứ
tiêu xài, và của ấy sẽ cắt đứt huyết mạch của giải
thoát.
Chẳng
những không tinh thông hai giai đoạn thiền định của pháp
tu Mật Thừa mà những người như vậy, cho dù có thể họ
biết chút ít những ngôn từ của các nghi thức nhưng thậm
chí họ cũng không lo tụng niệm những ngôn từ ấy một cách
đúng đắn. Tệ hơn nữa, vào lúc họ trì tụng thần chú
– là phần quan trọng nhất – họ lại bắt đầu tán gẫu,
và trong suốt thời gian được ấn định để trì chú, họ
tuôn ra một lô toàn những chuyện tầm phào không dứt, những
chuyện ngập đầy tham vọng và kích động. Điều này thật
tai hại cho chính bản thân họ và cho cả những người khác.
Điều tối quan trọng là các tu sĩ và các Lạt Ma phải từ
bỏ loại chuyện phiếm này và tập trung vào việc tụng chú
mà không được tro øchuyện.
1.8
THAM
MUỐN
Sự
tham muốn bao gồm tất cả những tư tưởng thèm muốn hay
hám lợi, thậm chí kể cả những niệm tưởng vi tế nhất
mà chúng ta có thể có đối với tài sản của người khác.
Khi suy tưởng rằng sẽ dễ chịu biết bao nếu như những
thứ kỳ diệu đó của họ lại thành của mình, chúng ta cứ
mơ tưởng được sở hữu những thứ ấy, vạch ra những
kế hoạch để chiếm đoạt chúng, v.v…
1.9
MUỐN
LÀM TỔN HẠI NGƯỜI KHÁC
Điều
này ám chỉ tất cả những tư tưởng hiểm độc mà ta có
thể có về những người khác. Ví dụ như suy nghĩ với lòng
oán ghét hay giận dữ để xem bằng cách nào chúng ta có thể
làm hại được họ; cảm thấy thất vọng khi họ thành công
hay phát đạt; mong muốn họ bớt sung túc, bớt hạnh phúc
hay bớt tài giỏi; hoặc cảm thấy vui mừng khi những điều
khó chịu xảy ra cho họ.
1.10
TÀ
KIẾN
Tà
kiến bao gồm quan điểm cho rằng hành động không tạo nghiệp
quả, và quan điểm của thuyết vĩnh cửu và thuyết hư vô.
Theo
quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh
không đem lợi ích và ác hạnh không gây tổn hại. Quan điểm
của thuyết vĩnh cửu và hư vô bao gồm tất cả những quan
điểm khác nhau của những kẻ ngoaiï đạo. Mặc dù những
tà kiến loại này có thể được chia ra thành ba trăm
sáu mươi quan điểm sai lầm, hay sáu mươi hai tà kiến, nhưng
tất cả có thể được tóm tắt thành hai phân loại bao gồm
chủ nghĩa vĩnh cửu và chủ nghĩa hư vô.
Những
người theo chủ nghĩa vĩnh cửu tin là có một cái ngã thường
hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu
vĩnh cửu bên ngoài ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara
hay Vishnu. Những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả
sự vật hoàn toàn tự phát, không có đời quá khứ hay đời
vị lai,
không
có nghiệp quả, không có tự do và giải thoát.75 Như có nói
trong học thuyết của thần Isvara Sắc Đen:
Mặt
trời mọc, nước chảy xuống,
Hạt
đậu xoe tròn, chiều dài đâm tủa và cái bén nhọn của cây
gai,
Vẻ
đẹp của con mắt ngũ sắc của đuôi công;
Chẳng
do ai tạo, tất cả đều tự phát một cách tự nhiên.
Họ
biện luận rằng khi mặt trời mọc ở phương Đông, không
ai ở đó làm cho nó mọc. Khi một dòng sông chảy xuống thấp,
không ai lèo lái cho nước chảy xuống. Không ai lăn những
hạt đậu để làm tất cả những hạt đậu tròn xoe, hay
làm cho tất cả các mũi gai thành dài, sắc nhọn, và dựng
đứng. Không ai vẽ những con mắt đẹp đẽ nhiều màu trên
một đuôi công... Tất cả những sự việc này chỉ là thuần
túy như thế, được sinh do những đặc tánh riêng của chúng.
Và vì thế mọi sự trong thế gian này dù thoải mái hay khó
chịu, xấu hay tốt – mọi hiện tượng đều tự phát một
cách hoàn toàn tự nhiên. Không có nghiệp từ quá khứ, không
có những đời trước, không có những đời sau.76
Nếu
cho rằng văn bản của những học thuyết như vậy là chân
chính và thuận theo những bản văn ấy, hoặc ngay cả không
noi theo nhưng lại suy gẫm cho rằng lời của Đức Phật, cũng
như những giáo huấn của vị Thầy của bạn, hay những trước
tác của những nhà luận giảng uyên bác là những lời sai
lạc, rồi đâm ra hoài nghi, chỉ trích những lời này, thì
tất cả đều được bao gồm trong điều được gọi là tà
kiến.
Điều
tệ hại nhất trong mười hành động bất thiện là sát sinh
và tà kiến. Như đã có câu nói rằng:
Không
hành vi nào tệ hại hơn việc cướp đi mạng sống của
một chúng sinh khác; Trong mười hành vi bất thiện, tà kiến
là nặng nề nhất.
Ngoại
trừ chúng sinh trong các địa ngục, không ai không chùn bước
trước cái chết hay không ai không coi trọng cuộc đời mình
hơn bất kỳ điều gì khác. Thế nên, huỷ diệt một cuộc
đời là một hành động cực kỳ bất thiện. Trong Tịnh Ức
Diệu Pháp Kinh có nói rằng ta sẽ phải trả lại bất kỳ
mạng sống nào ta đã cướp đi bằng năm trăm kiếp sống
của riêng ta, và nếu ta giết chết dù chỉ một chúng sinh
thì ta sẽ phải trải qua một đại kiếp trong thân trung ấm
ở các cõi địa ngục.
Còn
tệ hại hơn nữa là trong khi đang thực hiện một việc công
đức, chẳng hạn như xây dựng một biểu tượng của Tam
Bảo, mà bạn lại làm việc đó như thể đây là một
lý do bào chữa để qua đó mà bạn phạm những ác hạnh như
sát sinh. Ngài Padampa Sangye đã nói:
Xây
dựng pháp bảo hộ trì cho Tam Bảo trong khi gây ra tổn hại
và đau khổ
Là
ném đời sau của bạn vào trong gió.
Cũng
là điều sai lầm quấy quá nếu bạn nghĩ rằng bạn đang
làm điều đáng ca ngợi khi giết súc vật và dâng cúng thịt
và máu của chúng cho các lạt ma được mời tới nhà bạn,
hay dâng cúng những món này cho một hội chúng các tu sĩ. Hậu
quả của ác nghiệp sẽ xảy tới cho cả người cho lẫn người
nhận. Người cho, mặc dù làm việc cung cấp thực phẩm, nhưng
đang tạo ra một món cúng dường bất tịnh; và người nhận
đang chấp thuận thực phẩm không thích hợp. Bất kỳ kết
quả tốt lành nào cũng đều sẽ bị hậu quả tiêu cực lấn
át (lợi bất cập hại). Quả thực, trừ khi bạn có khả
năng làm hồi sinh các nạn nhân của bạn ngay tại chỗ, còn
thì không có tình huống nào mà hành vi sát sinh lại không
làm ô uế bạn như là một hành vi bất thiện. Bạn cũng có
thể đoan chắc rằng việc ấy sẽ làm tổn hại cuộc đời
và công hạnh của vị Thầy.78 Nếu bạn không có khả năng
chuyển di tâm thức chúng sinh đến trạng thái cực lạc, thì
bạn nên thực hiện mọi nỗ lực để tránh việc cướp đi
mạng sống của các chúng sinh ấy.
Nếu
bạn có tà kiến, cho dù chỉ trong một khoảnh khắc, điều
ấy sẽ phá vỡ tất cả các giới nguyện của bạn và bạn
tự loại mình ra khỏi cộng đồng Phật tử. Tà kiến cũng
sẽ không cho bạn có được sự tự do khi đang có được
thân người trong đời này để thực hành Giáo Pháp. Từ giây
phút tâm thức bạn bị những tà kiến làm nhiễm ô, thì ngay
cả những việc tốt lành mà bạn làm cũng không dẫn tới
được giải thoát và những việc xấu ác bạn đã phạm cũng
chẳng thể sám hối được nữa.79
2. Hậu Quả
Của Muời Hành Vi Bất Thiện
Mỗi
hành vi tiêu cực sinh ra bốn loại nghiệp quả: quả chín muồi
trổ sinh, quả tương ứng với nhân đã gieo, quả trổ sinh
nghiệp cảnh, và quả tăng trưởng liên tục.
2.1
QUẢ
CHÍN MUỒI TRỔ SANH 80
Nếu
phạm vào bất kỳ một trong mười ác hạnh nào trong khi để
cho lòng sân hận thúc đẩy thì điều này sẽ dẫn đến sự
tái sinh trong các cõi địa ngục. Phạm điều ác bởi lòng
tham dục sẽ bị đọa vào cõi ngạ quỷ; phạm điều
ác do vô minh thì sẽ phải đọa vào cõi súc sinh. Một khi
bị đọa vào trong những cõi thấp này, chúng ta phải trải
qua những nỗi thống khổ đặc biệt ở cõi đó.
Ngoài
ra, khi có một sự thôi thúc rất mạnh mẽ – lòng tham, sân,
hay si cực kỳ dữ dội– thì sự thôi thúc này sẽ là động
cơ dẫn đến việc liên tục tích tụ những ác hạnh
trong một thời gian dài, và điều này sẽ đưa đến
việc tái sinh trong các cõi địa ngục. Nếu sự thôi thúc
bớt mạnh và các ác hạnh giảm thiểu đi, thì sẽ đưa đến
việc tái sinh làm ngạ quỷ; nếu ít hơn nữa thì sẽ tái
sinh làm súc vật.
2.2
QUẢ
TƯƠNG ỨNG VỚI NHÂN
Ngay
cả cuối cùng, khi chúng ta đã thoát được ra khỏi cõi thấp,
nơi mà quả chín muồi hoàn toàn trổ sinh đã khiến ta phải
bị đoạ sinh vào ấy, và nay ta đã có được một thân người,
nhưng dù như thế thì chúng ta sẽ vẫn phải tiếp tục trải
qua kinh nghiệm của quả tương tự với nhân. Thật vậy, trong
các cõi thấp cũng có nhiều loại đau khổ khác nhau tương
tự với những nguyên nhân đặc biệt. Những kết quả tương
tự với nguyên nhân này có hai loại: những hành nghiệp tương
ứng với nguyên nhân và những kinh nghiệm tương ứng với
nguyên nhân.
2.2.1
Hành nghiệp tương ứng với nguyên nhân
Quả
này là một xu hướng thích hợp với những hành vi cùng loại,
giống như là nhân lúc ban đầu. Nếu trước đó chúng ta từng
sát sinh thì chúng ta vẫn còn thích giết hại; nếu chúng ta
đã từng ăn trộm, chúng ta vẫn thích thú khi lấy những gì
không được cho; và v.v. Điều này giải thích lý do tại
sao, có một số người nào đó ngay từ lúc còn rất nhỏ
đã giết tất cả các côn trùng và ruồi muỗi mà họ nhìn
thấy. Một khuynh huớng sát sinh như thế tương ứng với những
hành vi tương tự mà họ đã thực hiện trong các đời trước.
Từ khi mới lọt lòng, mỗi người trong chúng ta hành động
hoàn toàn khác biệt nhau, bị dẫn dắt bởi những thôi thúc
của nghiệp lực khác nhau. Một số thích giết hại,
một số thích ăn trộm, trong khi những người khác lại không
cảm thấy ham thích những hành vi như thế và thay vào đó
họ thích làm việc thiện.
Tất
cả những khuynh hướng như vậy là những gì còn sót lại
của những hành động trước kia, hay nói khác đi là quả
tương tự với nhân. Đó là điều mà tại sao người ta lại
nói:
Muốn
biết những gì bạn làm trước kia, hãy nhìn bạn bây giờ.
Muốn
biết nơi bạn sắp sinh vào, hãy nhìn những gì bây giờ bạn
đang làm.81
Đối
với loài vật thì cũng thế. Bản năng của những loài thú
như chim ưng và chó sói là giết hại; bản năng của chuột
là ăn trộm – trong mỗi trường hợp là một kết quả tương
ứng với nguyên nhân, và được tạo nên bởi hành nghiệp
trước đây của chúng.
2.2.2
Kinh nghiệm tương ứng với nguyên nhân
Mỗi
một hành vi trong mười hành vi bất thiện đều dẫn tới
một cặp hậu quả (a pair of effects) cho những kinh nghiệm mà
chúng ta phải trải qua sau đó.
Sát
sinh. Việc sát sinh ở một kiếp trước không chỉ làm cho
thọ mạng của đời hiện tại của chúng ta bị thâu ngắn
mà ta sẽ còn thường xuyên bị bệnh tật. Đôi khi có những
đứa bé đã chết ngay khi mới sinh ra đời như là quả tương
tự với nhân của việc chúng đã từng sát sinh trong một
đời quá khứ; trong nhiều kiếp, chúng có thể tiếp
tục chết ngay lập tức khi vừa sinh ra đời và cứ lập đi
lập lại như vậy. Cũng có những người sống tới tuổi
trưởng thành nhưng từ thuở ấu thơ đã bị bệnh tật hành
hạ, hết bệnh này tới bệnh kia không ngưng nghỉ cho tới
khi chết -- một lần nữa, đó là kết quả của việc
giết hại và hành hung những người khác trong một kiếp trước.
Đối mặt với những tình huống như vậy, điều quan trọng
là phải sám hối với lòng ân hận về những hành động
đã làm trong quá khứ, hơn là tìm cách làm dịu đi những
khó khăn trước mắt. Chúng ta nên sám hối với lòng hối
hận và phát nguyện từ bỏ những hành vi như vậy; và như
một cách đối trị với những quả báo của nghiệp cũ, hãy
nỗ lực làm những thiện hạnh và từ bỏ những ác hạnh.
Lấy
những gì không được cho. Việc trộm cắp trong đời quá
khứ không chỉ làm chúng ta nghèo hèn trong đời này mà ta
còn có thể phải bị chịu đựng cướp bóc, mất trộm, hoặc
những tai họa khác chẳng hạn như là việc kẻ thù và đối
thủ của chúng ta chia năm xẻ bảy những món tài sản ít
oi mà ta kiếm được. Vì lý do này, bất cứ ai hiện nay đang
thiếu thốn tiền bạc hay của cải thì tốt hơn hết là nên
tạo ra thậm chí một tia lửa nhỏ công đức cón hơn là bỏ
đi lên núi làm giàu. Nếu số phận bạn không giàu có
vì bạn ít bố thí trong những đời trước, thì không nỗ
lực nào trong đời này có thể giúp bạn được. Hãy xem của
cải mà hầu hết những kẻ trộm cướp có được từ mỗi
chuyến cướp bóc của họ – thường thì hầu như nhiều
hơn những gì bản thân mặt đất có thể giữ được. Tuy
nhiên những người sống bằng nghề trộm cướp luôn luôn
kết thúc đời mình trong sự đói khát. Cũng hãy chú ý đến
những thương nhân hay những kẻ chiếm đoạt tài sản của
Tăng Đoàn đã thất thu trong việc kiếm tiền ra sao, cho dù
tài sản của họ có lớn tới đâu chăng nữa. Trái lại,
những người hiện nay đang được hưởng quả lành của việc
bố thí của họ trong quá khứ thì trọn đời họ chẳng bao
giờ thiếu thốn của cải, và đối với nhiều người trong
số những người này thì mọi việc tốt lành xảy tới mà
họ không cần chút xíu nỗ lực nào. Vậy, nếu bạn hy vọng
trở nên giàu có, hãy dành hết mọi nỗ lực của bạn để
làm việc từ thiện và cúng dường!
Châu
Diêm Phù Đề này (Jambudvipa – cõi người) là nơi có thể
tạo được những điều kiện đặc biệt 60 dành cho quả
báo trổ sinh từ những hành động của ta trong quá khứ, khiến
những gì chúng ta làm trong đời khi trước thì về sau có
khả năng trổ quả cũng trong đời này – hay thậm chí ngay
lập tức nếu những việc ta làm đã được tạo trong những
hoàn cảnh đặc thù nào đó. Vì thế dùng tới cách trộm
cướp, lừa gạt hay những phương cách khác để lấy đi những
gì không được cho với hy vọng làm giàu thì điều này hoàn
toàn ngược lại với những gì chúng ta dự định. Nghiệp
báo sẽ giam giữ chúng ta trong thế giới ngạ quỷ trong nhiều
đại kiếp. Thậm chí cho đến cuối đời này, quả báo sẽ
bắt đầu có ảnh hưởng và sẽ làm chúng ta ngày càng nghèo
khổ, ngày càng khó khăn. Chúng ta sẽ bị tước mất sự kiểm
soát trên một số ít của cải còn sót lại của mình. Cho
dù chúng ta giàu có tới đâu, tính tham lam sẽ làm chúng ta
càng ngày càng cảm thấy thiếu thốn và mất mát. Của cải
của chúng ta sẽ trở thành nguyên nhân của những ác hạnh.
Ta sẽ giống như những ngạ quỷ canh giữ kho tàng nhưng không
thể sử dụng những gì chúng sở hữu. Hãy để ý kỹ những
người bên ngoài có vẻ giàu có. Nếu họ không biết phát
triển lòng quảng đại hay bố thì tài sản của họ một
cách rộng rãi cho Giáo Pháp – nguồn gốc của hạnh phúc
và an lành trong đời này và trong những đời kế tiếp --
hoặc ngay cả họ không biết rộng rãi trong việc mua thực
phẩm và quần áo, thì họ thực sự còn nghèo hơn cả những
người nghèo khó. Kinh nghiệm tương tự như kiếp ngạ quỷ
của họ ngay bây giờ là quả tương tự với nhân, và điều
này xảy ra là do việc bố thí bất tịnh của họ trong quá
khứ.82
Tà
dâm. Ta được biết rằng việc thả mình trong các hành động
tà dâm sẽ làm chúng ta có một người vợ (hay chồng) chẳng
những không duyên dáng mà còn có lối cư xử phóng đãng hay
thù địch nữa. Khi những cặp vợ chồng không thể ngưng
tranh cãi hoặc đánh nhau, mỗi người thường đổ lỗi cho
những tánh xấu của người kia. Trong thực tế, mỗi người
trong những cặp vợ chồng đó đang kinh nghiệm hậu quả tương
tự với nguyên nhân, là quả báo của sự tà dâm của họ
trong quá khứ. Thay vì thù ghét nhau, họ nên nhận ra rằng
đó là kết quả của những hành vi bất thiện trong quá khứ
của họ và nên nhẫn nhịn lẫn nhau. Ngài Padampa Sangye có
nói:
Gia
đình thì thoáng qua như đám đông trong phiên chợ;
Dân
chúng xứ Tingri, đừng nên cãi vã hay đánh nhau!
Nói
dối. Kinh nghiệm tương tự với nguyên nhân gây ra từ sự
nói dối trong những đời quá khứ là chúng ta không những
thường bị chỉ trích hay xem thường mà còn hay bị người
khác nói dối ngược lại. Nếu bây giờ bạn bị kết tội
và chỉ trích không đúng, thì đó là kết quả của việc
bạn đã từng nói dối trong quá khứ. Thay vì nổi giận và
lăng mạ những người đã nói những điều như thế về bạn,
hãy biết ơn họ vì họ đã giúp bạn làm cạn kiệt những
quả báo của nhiều hành động bất thiện. Bạn nên cảm
thấy hạnh phúc. Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:
Kẻ
thù đáp trả việc tốt của bạn bằng việc xấu giúp bạn
tinh tấn trong thực hành.
Lời
buộc tội sai lầm là một ngọn roi dẫn bạn tới đức hạnh.
Kẻ
ấy là vị thầy tiêu diệt tất cả bám chấp và tham dục
trong bạn.
Hãy
nhìn vào tấm lòng tử tế to lớn của hắn mà bạn không
bao giờ có thể đền đáp!
Gieo
mối bất hoà.
Kết
quả tương tự với nguyên nhân của việc gieo mối bất hoà
trong đời trước là không chỉ những người cộng sự và
tôi tớ của ta không thể thuận thảo với nhau mà họ còn
hay tranh cãi và chống đối chúng ta. Phần nhiều, các vị
thị giả của các lạt ma, những người tuỳ viên của các
vị lãnh đạo hay những người phục vụ cho chủ nhà, giữa
họ lại không hòa thuận với nhau, và tuy nhiều lần được
yêu cầu làm việc gì đó, họ từ chối không nghe lời và
còn bướng bỉnh tranh cãi. Những kẻ đầy tớ của người
bình thường thì giả vờ như không nghe thấy khi được chủ
yêu cầu làm những việc vặt, ngay cả những việc dễ làm.
Chủ nhà phải lập lại mệnh lệnh hai, ba lần; và sau cùng
chỉ khi ông ta nổi giận và nói nặng với họ thì họ mới
chịu làm những gì đã được yêu cầu một cách chậm chạp
và miễn cưỡng. Ngay cả khi làm xong việc họ cũng chẳng
nghĩ tới chuyện quay trở lại báo cho chủ biết. Họ thường
ở trong một tâm trạng không tốt. Nhưng người chủ chỉ
đang gặt hái kết quả của sự bất hòa mà chính ông đã
gieo trong quá khứ. Do đó, ông ta nên hối tiếc những hành
vi bất thiện của chính mình, và giải hòa những mối bất
đồng của riêng ông và những người khác.
Nói
cay nghiệt. Việc nói cay nghiệt trong những đời quá khứ
sẽ không chỉ khiến mọi điều người khác nói với chúng
ta là những lời công kích và sỉ nhục, mà hơn nữa, kết
quả của việc này là mọi điều ta nói ra cũng đều gây
nên những sự tranh cãi.
Lời
nói cay nghiệt thì tệ hại nhất trong bốn hành vi bất thiện
của khẩu. Như tục ngữ có nói:
Lời
nói không có cung tên cũng không đao kiếm, nhưng xé rách tâm
người ta thành từng mảnh.
Việc
đột ngột kích động sự hận thù nơi người khác, hay –
còn tệ hơn nữa – thậm chí chỉ nói một lời công kích
một bậc hiền thánh sẽ khiến ta phải trải qua nhiều đời
trong những cõi thấp mà không có bất kỳ cơ hội nào để
giải thoát. Có lần một người bà la môn tên là Kapila lăng
mạ những tu sĩ của Đức Phật Ca Diếp (Kasyapa), gọi họ
là “đầu ngựa,” “đầu bò” và nhiều tên khác giống
như vậy. Ông ta bị tái sinh thành con yêu quái giống-như-cá
ở biển với mười tám cái đầu. Ông không thoát khỏi trạng
thái đó trong suốt một kiếp và thậm chí sau đó còn bị
tái sinh trong địa ngục. Một ni cô gọi một vị ni khác là
chó cái, bản thân cô bị tái sinh làm chó cái năm trăm đời.
Có nhiều câu chuyện tương tự như thế. Vậy hãy học cách
luôn nói năng dịu dàng. Ngoài ra, vì bạn không bao giờ biết
được ai là một bậc Thánh hay Bồ Tát, hãy tu tập bản thân
để thấy tất cả chúng sinh đều thanh tịnh. Hãy học cách
tán thán họ và ca tụng những thành tựu và phẩm hạnh tốt
lành của họ. Người ta nói rằng chỉ trích hay nói công kích
một vị Bồ Tát thì còn tệ hại hơn việc giết hại tất
cả chúng sinh trong tam giới:
Phỉ
báng một Bồ Tát là một trọng tội,
Nặng
hơn cả việc giết hại tất cả chúng sInh trong tam giới;
Tất
cả những lỗi lầm lớn nhỏ như thế mà con từng tích lũy,
con xin phát lồ sám hối.
Nói
chuyện tầm phào vô ích. Kết quả tương tự với nguyên nhân
của việc nói chuyện tầm phào vô ích không chỉ làm cho những
gì ta nói không có giá trị, mà còn làm chúng ta thiếu cương
quyết và tự tin. Không ai tin chúng ta ngay cả khi ta nói sự
thật, và chúng ta sẽ thiếu tự tin khi nói trước đám đông.
Tham
lam. Hậu quả của sự tham lam không chỉ ngăn trở không cho
ta đạt được những gì mong muốn nhất, mà còn gây ra tất
cả những tình huống mà ta ít ưa thích nhất.
Mong
ước làm tổn hại người khác. Như kết quả của ước muốn
làm hại người khác, chúng ta sẽ không chỉ sống trong nỗi
sợ hãi liên tục mà sẽ còn phải chịu đựng sự tổn hại
thường xuyên.
Tà
kiến. Hậu quả của việc nuôi dưỡng tà kiến là chúng ta
sẽ không chỉ khăng khăng cố chấp trong những tin tưởng
có hại như vậy, mà tâm ta cũng sẽ bị những điều dối
gạt và những nhận thức sai lầm làm cho rối loạn.
2.3
QUẢ TRỔ SANH NGHIỆP CẢNH
Quả
trổ sinh thành nghiệp cảnh là tác động của quả trên môi
trường sống của chúng ta. Việc sát sinh đưa đến sự tái
sinh vào những nơi hiểm trở, tăm tối, gồm toàn những khe
núi và vách đá đầy sự nguy hiểm rình rập. Việc lấy những
gì không được cho đưa đến sự tái sinh vào những miền
tả tơi nghèo đói, ở đó sương muối và mưa đá hủy diệt
các vụ mùa và cây cối không sinh trái quả. Sự tà dâm buộc
chúng ta phải sống ở những nơi kinh tởm đầy phân và những
chất thải, những đầm lầy, v.v. Việc nói dối sẽ
đem tới cho chúng ta vật chất bấp bênh, thường xuyên hoảng
loạn thần kinh và hay gặp những sự việc và hoàn cảnh khủng
khiếp. Việc nói gây bất hoà khiến chúng ta phải cư trú
ở những vùng khó đi lại, bị cắt xẻ với những hẻm núi
sâu, những ngọn đèo lởm chởm đá và những nơi tương tự.
Việc nói lời cay nghiệt đưa đến sự tái sinh trong một
miền đất ảm đạm, toàn đá và gai góc. Việc nói chuyện
tầm phào vô ích sẽ khiến ta tái sinh vào miền đất trơ
trụi và cằn cỗi, mặc dù làm việc cật lực cũng không
sản xuất được gì; thời tiết không thích hợp và không
dự đoán được. Tánh tham lam sẽ gây nên những vụ mùa kém
cỏi và tất cả những thứ bệnh tật khác tại những nơi
chốn và thời đại khó sống. Việc mong muốn làm tổn hại
người khác dẫn tới việc tái sinh vào những nơi đầy rẫy
sự ghê sợ khủng khiếp với nhiều nỗi khổ khác nhau. Tà
kiến khiến tái sinh vào những hoàn cảnh bần cùng không nơi
nương tựa hay người che chở.
2.4
QUẢ TĂNG TRƯỞNG LIÊN TỤC
Quả
tăng trưởng liên tục là chúng ta sẽ có khuynh hướng lập
đi lập lại nhiều lần bất kỳ hành động nào ta đã làm
trước đó trong đời trước. Điều này đem lại một chuỗi
đau khổ vô tận trong suốt tất cả những đời sau của chúng
ta. Khi đo,ù những hành vi bất thiện của chúng ta sinh sôi
nẩy nở nhiều hơn nữa và khiến chúng ta phải lang thang vô
tận trong luân hồi.
II.
NHỮNG THIỆN HẠNH NÊN LÀM (Thập
thiện)
Nói
một cách tổng quát thì mười hành động tích cực hay thập
thiện bao gồm việc sau khi đã hiểu rõ những hậu quả tai
hại của ác hạnh, ta hứa nguyện là sẽ dứt khoát không
bao giờ phạm phải bất cứ hành động bất thiện nào, chẳng
hạn như sát sinh, lấy những gì không được cho và v.
v…
Thọ
một giới nguyện như vậy trước mặt một vị Thầy hay một
vị giáo thọ thì không nhất thiết phải buộc là như vậy;
mặc dù bản thân bạn quyết định từ nay sẽ tránh tất
cả những việc sát sinh, chẳng hạn thế – hoặc tránh sát
sinh ở một nơi đặc biệt hoặc vào những thời điểm đặc
biệt, hay tránh giết những súc vật nào đó – thì tự chính
điều này đã là một hành vi tích cực rồi. Tuy nhiên, nếu
bạn hứa nguyện dưới sự chứng giám của một vị Thầy,
một bằng hữu tâm linh hay một biểu tượng của Tam Bảo
thì sẽ khiến cho việc hứa nguyện đó trở thành đặc biệt
mạnh mẽ.
Việc
bạn ngẫu nhiên chấm dứt việc sát sinh hay ngừng làm những
hành động bất thiện khác thì chưa đủ. Hãy đếm thử xem
đã bao nhiêu lần bản thân bạn hứa nguyện là sẽ tránh
làm những ác hạnh, dù cho có điều gì xảy ra chăng nữa.
Do đó, ngay cả người thường, không thể hoàn toàn kiêng
cữ việc sát sinh, vẫn có thể rút ra được lợi ích to lớn
từ việc thọ giới không sát sinh trong một thời kỳ nào
đó hằng năm, hoặc là trong tháng giêng là Tháng Huyền Nhiệm;
hoặc trong tháng tư, được gọi là Vaisakha – tháng Tam Hiệp
(đức Phật đản sinh, thành đạo và nhập diệt cùng một
ngày); hoặc vào mỗi ngày rằm hay mồng một, hay trong một
năm, tháng hay ngày đặc biệt nào đó.
Ngày
xưa, một người đồ tể trong làng lập một lời nguyện
trước sự chứng giám của Ngài Katyayana tôn quý rằng ông
sẽ không sát sinh vào ban đêm. Ông ta bị tái sinh vào một
trong những địa ngục Cô Độc, ở đó mỗi ngày ông ta bị
hành hạ suốt ngày trong một căn nhà bằng kim loại nóng chảy.
Nhưng mỗi đêm ông ta lại được nghỉ ngơi thật hạnh phúc
và thoải mái trong một cung điện cùng với bốn thiên nữ.
Như
vậy, mười thiện hạnh bao gồm việc từ bỏ mười hành
vi bất thiện cùng với việc thực hành thập thiện như là
những pháp tốt lành để đối trị lại với thập ác.
Ba
hành vi tốt lành của thân là: (1) từ bỏ sát sinh, thay vào
đó là bảo vệ mạng sống của chúng sinh; (2) từ bỏ việc
lấy những gì không được cho, và thay vào đó là hành hạnh
bố thí (rộng lượng); và (3) từ bỏ sự tà dâm, và thay
vào đó là tuân theo những giới luật.
Bốn
hành vi tốt lành của khẩu là: (1) từ bỏ việc nói dối,
thay vào đó là nói sự thật, (2) từ bỏ việc gieo mối bất
hoà; thay vào đó là giải hòa các cuộc tranh luận; (3) từ
bỏ việc nói những lời cay nghiệt, thay vào đó nói những
lời êm tai; và (4) chấm dứt nói chuyện tầm phào vô ích,
thay vào đó là trì tụng những lời cầu nguyện.
Ba
hành vi tốt lành của ý là: (1) từ bỏ lòng tham, thay vào
đó là học cách bố thí; (2) từ bỏ việc mong muốn làm hại
người khác, thay vào đó là nuôi dưỡng ước muốn giúp đỡ
họ; và (3) đoạn diệt những tà kiến, thay vào đó củng
cố cho mình quan điểm chân chính và xác thực.
Quả
chín muồi trổ sinh của những hành vi này là bạn sẽ được
tái sinh vào một trong ba cảnh giới cao.
Quả
tương tự với nhân, hay với hành vi tạo tác, là bạn sẽ
vui thích trong khi làm những thiện hạnh trong tất cả những
đời sau, và nhờ đó, công đức của bạn càng ngày càng
tăng trưởng.
Quả
tương tự với nhân, trên phương diện kinh nghiệm phải trải
qua, được mô tả như sau đối với mỗi một hành vi thiện
lành trong mười thiện hạnh: đối với việc từ bỏ sát
sinh, bạn sẽø có một cuộc đời trường thọ ít bệnh tật;
đối với việc từ bỏ trộm cướp, bạn sẽ không bị những
kẻ thù hay bị ai cướp đoạt mất tự do, thịnh vượng;
đối với việc từ bỏ tà dâm, sẽ có một người được
phối ngẫu duyên dáng và ít gặp phải các tình địch; đối
với việc từ bỏ nói dối là được mọi người tán thán
và thương yêu; đối với việc từ bỏ gieo mối bất hoà
là được bạn bè và những người hầu hạ tôn kính; đối
với việc từ bỏ những lời nói cay nghiệt, bạn sẽ chỉ
nghe những lời êm ái dễ chịu; đối với việc từ bỏ việc
nói chuyện tầm phào vô ích, bạn sẽ được người khác
lắng nghe một cách nghiêm trang; đối với việc từ bỏ lòng
tham muốn, bạn ta sẽ được thỏa mãn những ước nguyện;
đối với việc từ bỏ những tư tưởng ác hại, bạn sẽ
không gặp phải những hoạ hại; và đối với việc từ bỏ
các tà kiến thì chánh kiến trong tâm bạn sẽ tăng trưởng.
Quả
dẫn đến nghiệp cảnh là, trong mỗi trường hợp bạn làm
việc thiện lành, nơi chốn bạn sinh vào sẽ trái ngược lại
với nơi chốn của những quả bất thiện: nghĩa là bạn sẽ
được sinh vào những nơi có tất cả những hoàn cảnh hoàn
hảo nhất.
Quả
tăng trưởng liên tục là bất kỳ những thiện hạnh nào
bạn làm cũng sẽ được nhân lên gấp bội, đem tới cho bạn
sự may mắn không bao giờ dứt…
III.
TÍNH CHẤT HOÀN TOÀN QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁC HÀNH VI TẠO NGHIỆP
Trong
sự muôn màu muôn vẻ không thể nghĩ bàn, những niềm vui
và nỗi khổ mà mỗi chúng sinh phải kinh qua – từ những
cõi giới cao nhất xuống tới địa ngục sâu thẳm nhất –
tất cả những quả vui và khổ ấy cũng chỉ phát sinh từ
những hành vi thiện và bất thiện mà mỗi cá nhân đã tích
lũy trong quá khứ. Điều này đã được nói đến trong Kinh
Bách Nghiệp:
Mọi
hoan hỷ và phiền não của chúng sinh
Đều
đến từ những hành nghiệp của họ,
Đức
Phật đã dạy như thế.
Hành
nghiệp đa dạng như thế nào
Tạo
nên chúng sinh đa dạng như thế ấy,
Và
thúc đẩy những cuộc lang thang đa dạng của họ.
Quả
thực mạng lưới của hành nghiệp bao la xiết bao!
Bất
kỳ sức mạnh, quyền lực, của cải, hay tài sản nào mà
giờ đây có thể chúng ta đang tận hưởng, chẳng có thứ
gì trong những thứ ấy đi theo chúng ta khi ta chết. Chúng ta
chỉ có thể mang theo những hành vi thiện và ác mà chúng ta
đã tạo ra trong đời mình, là những thứ sẽ đẩy chúng
ta tới những cảnh giới luân hồi cao hay thấp. Trong Thắng
Quân Vương Sở Vấn Kinh, chúng ta đọc được những câu sau
đây:
Khi
tới lúc phải ra đi, Ôi Bệ Hạ,
Chẳng
có bạn bè, của cải, hay gia đình đi theo được.
Nhưng
cho dù chúng sinh từ đâu đến, và dù họ đi về đâu,
Hành
nghiệp của họ sẽ theo họ như hình với bóng.
Kết
quả của những hành vi thiện và bất thiện của chúng ta
có thể không biểu hiện ra ngay lập tức và không dễ dàng
nhận thấy được, nhưng chúng cũng không hoàn toàn biến mất.
Chúng ta sẽ kinh nghiệm quả báo của từng hành vi một khi
hội đủ những nhân duyên thích hợp.
Ngay
cả sau một trăm kiếp
Hành
nghiệp của chúng sinh sẽ không bao giờ mất đi.
Khi
hội đủ các nhân duyên
Quả
hoàn toàn chín muồi sẽ trổ.
như
trong Kinh Bách Nghiẹâp đã nói. Và trong bản văn Kho Báu Thiện
Đức, chúng ta đọc thấy như sau:
Khi
chim đại bàng cất cánh bay cao vút,
Thời
gian trôi qua, chẳng thể nào thấy bóng nó đâu;
Nhưng
chim và bóng vẫn còn nối kết.
Hành
nghiệp của ta cũng thế:
Khi
hội đủ nhân duyên, quả sẽ hiển hiện.
Khi
một con chim cất cánh và bay cao lên bầu trời, cái bóng của
nó dường như biến mất. Nhưng điều này không có nghĩa là
cái bóng không còn hiện hữu. Sau cùng, bất cứ nơi nào con
chim đáp xuống thì ở đó lại có bóng của nó, hoàn toàn
sẫm màu và rõ ràng như trước. Tương tự như vậy, cho dù
trong chốc lát không thể thấy được những hành vi thiện
hay ác của ta trong quá khứ nhưng những hành nghiệp ấy chắc
chắn đến một lúc nào đó sẽ quay trở lại với ta vào
lúc kết thúc.
Thật
vậy, làm sao những điều này lại không xảy đến đối với
những người bình thường như chúng ta, khi ngay cả chư Phật
và các bậc A La Hán, là những bậc đã thoát khỏi mọi chướng
ngại của hành nghiệp và cảm xúc, vẫn còn phải chịu nhận
những hậu quả của các hành vi trong quá khứ.
Một
ngày nọ, quân đội của Virudhaka, quốc vương xứ Sravasti,
tấn công thành phố của bộ tộc Sakya (Thích Ca)* và tàn sát
80.000 người. Vào lúc đó, Đức Phật bị nhức đầu. Khi
các đệ tử của Ngài hỏi tại sao có chuyện như thế thì
Ngài trả lời:
“Nhiều
kiếp trước, những người Sakya đó là ngư phủ sống bằng
nghề đánh bắt và ăn nhiều cá. Một hôm họ bắt
*
Bộ tộc của Đức Phật, ngày nay sống ở biên giới Ấn
Độ và Nepal.
được
hai con cá lớn, và thay vì giết ngay thì họ lại cột chúng
vào một cái cọc. Khi hai con cá bị mắc cạn quằn quại vì
đau đớn, chúngï nghĩ: “Những người này đang giết chúng
ta, mặc dù ta chẳng làm điều gì hại họ. Để báo thù,
cầu mong có ngày chúng ta giết được họ, dù họ không làm
gì hại ta.” Kết quả ý nghĩ của hai con cá lớn là chúng
tái sinh làm vua Virudhaka và tể tướng Matropakara, trong khi tất
cả những con cá khác bị ngư phủ giết trở thành quân đội
của họ. Ngày nay họ đã tàn sát những người của bộ tộc
Sakya.
“Vào
lúc đó, ta là con của một trong những ngư phủ đó và ta
đã cười vui khi thấy hai con cá bị cột đang quằn quại
đau đớn. Hậu quả của hành vi đó là ngày nay ta bị nhức
đầu. Nếu ta không thành tựu được những phẩm hạnh ta
hiện có, thì ta cũng đã bị quân đội của vua Virudhaka giết.”
Trong
một dịp khác, chân của Đức Phật bị thương vì mảnh cây
keo 84 – là hậu quả của việc Ngài đã giết hại một chiến
sĩ mang giáo đen trong một đời trước khi Ngài là một Bồ
Tát.
Trong
tất cả các đệ tử Thanh Văn của Đức Phật thì Ngài Mục
Kiền Liên (Maudgalyayana) là bậc có oai lực thần thông đệ
nhất. Tuy nhiên, Ngài vẫn bị Parivrajikas giết hại, bởi nghiệp
lực chiêu cảm của những hành vi trong quá khứ
của Ngài. Chuyện xảy ra như sau:
Ngài
Xá Lợi Phất (Sariputra) siêu phàm và Ngài Đại Mục Kiền
Liên thường du hành đến những thế giới khác như các cõi
địa ngục hay ngạ quỷ để làm lợi ích cho chúng sinh ở
đó. Một ngày kia, trong lúc ở địa ngục, các Ngài đi ngang
một vị thầy ngoại đạo tên là Purnakasyapa bị tái sinh ở
đó và phải chịu vô số nỗi đau khổ khác nhau.
Ông
ta nói với các Ngài: “Các bậc Tôn Quý, khi các Ngài trở
về cõi người, làm ơn nói với những đệ tử trước đây
của tôi là đạo sư Purnakasyap của họ đã bị đọa địa
ngục. Hãy nói với họ dùm tôi là con đường của các Parivrajika
không phải là con đường đạo đức. Con đường đạo đức
nằm trong giáo lý của Đức Phật Thích Ca. Con đường của
chúng tôi thì sai lầm; họ nên từ bỏ nó, hãy học hỏi để
đi theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Và đặc biệt, xin nói với
họ là bất cứ khi nào họ hành lễ cúng dường trước lăng
mộ mà họ xây để chứa xương cốt của tôi thì một cơn
mưa kim loại nóng chảy lại đổ xuống người tôi. Tôi van
các Ngài, xin nói với họ đừng cử hành các lễ cuộc cúng
dường như vậy nữa.”
Hai
Ngài trở về cõi người. Xá Lợi Phất tới trước tiên và
đưa cho những người ngoại đạo thông điệp của vị thầy
của họ nhưng vì thiếu những nhân duyên thuộc nghiệp tất
yếu nên họ không nghe Ngài. Khi Mục Kiền Liên tới, Ngài
hỏi Xá Lợi Phất đã trao cho những người ngoại đạo thông
điệp của Purnakasyapa chưa.
“Rồi,”
Xá Lợi Phất trả lời, “nhưng họ không nói một lời nào.”
Mục
Kiền Liên nói: “Vì họ không hiểu được những gì ông
nói, tự tôi sẽ nói với họ.” Và Ngài ra đi để thuật
lại với họ những điều Purnakasyapa đã nói.
Nhưng
những kẻ ngoại đạo nổi giận: “Không chấp nhận được
kẻ sỉ nhục chúng ta, hắn đang chỉ trích Đạo Sư (Guru)
của chúng ta!” họ nói. “Hãy đánh hắn!” Họ tấn công
Ngài, đánh Ngài mềm người và bỏ Ngài nằm đó.
Cho
đến lúc đó, ngay cả một tập hợp tấn công của cả tam
giới cũng không thể làm tổn hại tới một sợi tóc trên
đầu Ngài Mục Kiền Liên, huống chi là sự đánh đập của
những người ngoại đạo. Nhưng vào lúc đó, vì hành nghiệp
của quá khứ đè trĩu lên Ngài để cho quả được trổ nên
Ngài đành bó tay như bất kỳ một người phàm phu nào khác.
Ngài
nói: “Ngay cả việc chỉ suy nghĩ xem làm sao để sử dụng
thần thông mà tôi còn không làm được, thì nói chi tới chuyện
làm được điều đó,” Ngài Xá Lợi Phất bọc Ngài trong
chiếc y và vác Ngài đi.
Khi
họ đi tới Rừng Kỳ Thọ (Rừng Jeta ï), Ngài Xá Lợi Phất
la lên, “Tôi không thể chịu nổi ngay cả việc nghe tả lại
về cái chết của bạn tôi! Làm sao tôi có thể nhìn chuyện
đó xảy ra?” và Ngài nhập niết bàn cùng với nhiều vị
A La Hán khác. Lập tức sau đó, Ngài Mục Kiền Liên cũng siêu
vượt nỗi đau khổ.
Có
lần, có một vị tăng sống ở Kashmir tên là Ravati, là người
có nhiều đệ tử. Ông ta là một nhà thấu thị và có thần
thông. Một ngày nọ, ông đang nhuộm màu vàng nghệ chiếc
y tu sĩ của mình trong một khu rừng rậm. Cùng lúc đó, một
người thế tục sống gần đó đang tìm con bò đi lạc. Anh
ta thấy khói bốc lên từ cánh rừng già bèn đi tới xem chuyện
gì xảy ra.
Thấy
vị tăng đang đun lửa, anh ta hỏi: “Ông đang làm gì vậy?”
“Tôi
đang nhuộm y,” vị tu sĩ trả lời.
Người
đàn ông nhấc nắp vạc nhuộm lên và nhìn vào trong.
“Đó
là thịt!” anh ta la lên, và quả thực khi vị tăng nhìn vào
trong vạc thì cũng thấy là thịt.
Người
đàn ông bèn dẫn vị tu sĩ giao cho nhà vua, và nói: “Thưa
Ngài, vị sư này ăn trộm con bê của tôi. Hãy trừng phạt
ông ta.” Nhà vua đem Ravati quăng vào hầm.
Tuy
nhiên vài ngày sau, con bò mẹ của người đàn ông tự tìm
thấy ra con bê con đi lạc của nó. Anh ta trở lại gặp nhà
vua và nói: “Thưa Ngài, nhà sư này hoàn toàn không ăn trộm
bò của tôi; làm ơn thả ông ta ra.”
Nhưng
nhà vua đãng trí quên thả Ravati. Suốt trong sáu tháng nhà
vua không nhớ gì về việc đó.
Sau
đó, một ngày nọ, một nhóm nhiều đệ tử của vị tu sĩ
mà bản thân họ đã đạt được thần thông, họ bay trên
không gian và hạ xuống trước mặt nhà vua.
“Ravati
là nhà sư thanh tịnh và vô tội ,” họ nói với nhà vua.
“Xin thả Ngài ra.”
Nhà
vua đi thả vị sư, và khi thấy tình trạng suy yếu của Ravati,
lòng nhà vua tràn đầy sự hối hận.
“Tôi
định đến sớm hơn, nhưng đã để lâu quá,” nhà vua kêu
lên, “Tôi đã phạm một tội khủng khiếp.”
“Ngài
chẳng làm gì ác cả,” vị sư nói. “Đây hoàn toàn là kết
quả những hành nghiệp của riêng tôi.”
“Đó
là hành động nào?”, nhà vua hỏi.
“Trong
một đời quá khứ, tôi là kẻ trộm, và có lần tôi ăn trộm
một con bê. Khi người chủ đuổi theo, tôi bỏ chạy, để
lại con bê kế bên một vị Độc Giác Phật đang ngẫu nhiên
thiền định trong một bụi cây. Người chủ bắt vị Độc
giác Phật ném vào hố trong sáu ngày. Khi hậu quả hành vi
của tôi đã hoàn toàn chín muồi, tôi phải trải qua nhiều
đời đau khổ trong những cõi thấp. Những đau khổ mà giờ
đây tôi vừa chịu đựng trong đời này là đau khổ cuối
cùng trong số đó.”
Một
ví dụ khác là câu chuyện người con trai của Surabhibhadra,85
một vị Vua Ấn Độ. Một ngày nọ, hoàng tử được mẫu
hậu đưa cho một áo lụa không có đường nối. Hoàng tử
không muốn mặc ngay và nói: “Con sẽ mặc vào ngày thừa
kế vương quốc.”
“Con
sẽ không bao giờ được thừa kế vương quốc,” mẫu hậu
nói. “Điều đó chỉ có thể xảy ra khi nào phụ vương con
chết. Nhưng phụ vương của con và Thầy Long Thọ (Nagarjuna)
có cùng một loại sinh lực,86 như vậy không có khả năng
phụ vương chết trong khi Ngài Long Thọ Bồ Tát vẫn còn sống.
Và vì Ngài Long Thọ Bồ Tát có năng lực kéo dài thọ mạng
của Ngài nên phụ vương của con sẽ không bao giờ chết.
Đó là điều tại sao những người anh của con đã chết mà
không thừa kế được vương quốc.”
“Vậy
con có thể làm được gì?” hoàng tử hỏi.
“Hãy
đến gặp Thầy Long Thọ hỏi xin cái đầu của Ngài. Ngài
sẽ đồng ý vì Ngài là một Bồ Tát. Ta thấy không còn giải
pháp nào khác.”
Hoàng
tử tới gặp Long Thọ Bồ Tát và hỏi xin cái đầu của Ngài.
“Hãy cắt lấy nó và đem đi,” Đạo sư nói. Hoàng tử dùng
kiếm chém vào cổ Ngài Long Thọ Bồ Tát. Nhưng không có chuyện
gì xảy ra. Như thể lưỡi kiếm của hoàng tử chặt vào không
khí.
“Vũ
khí không thể làm tổn thương ta,” Đạo sư giải thích,
“vì năm trăm đời trước ta đã hoàn toàn tự tịnh hóa
tất cả những quả hoàn toàn chín muồi của việc sử dụng
vũ khí. Tuy nhiên, có một ngày ta đã giết một côn trùng
khi cắt cỏ kusa. Hậu quả chín muồi của hành động đó
chưa cắt được đầu ta, vậy nếu ngươi dùng cỏ kusa làm
kiếm thì ngươi có thể cắt được đầu ta.”
Vì
vậy, hoàng tử nhổ một lá cỏ kusa và cắt đầu Ngài Long
Thọ. Đầu liền rơi xuống đất. Ngài Long Thọ nhập Niết
Bàn và hát:
Bây
giờ ta rời bỏ thế gian để đến cõi Cực Lạc;
Sau
này, ta sẽ quay lại ngay chính trong thân này.87
Nếu
ngay cả những con người phi thường như vậy vẫn còn phải
kinh nghiệm quả báo của những hành vi trong quá khứ của
các Ngài thì làm thế nào chúng ta - là những kẻ mà những
hành động bất thiện, hoàn toàn không thể tính đếm, đã
được tích luỹ từ vô thủy trong những cuộc lang thang của
chúng ta qua các cõi của luân hồi – lại có thể hy vọng
giải thoát khỏi luân hồi trong khi chúng ta vẫn còn tích lũy
ác hạnh? Ngay cả việc thoát ra khỏi những cõi thấp cũng
cực kỳ khó khăn. Vậy, bằng mọi giá, chúng ta hãy tránh
làm những hành động xấu ác nhỏ bé nhất dù chỉ trong phút
giây, và chuyên chú làm bất kỳ điều gì tốt lành mà chúng
ta có thể làm, cho dù những điều tốt lành ấy có vẻ tầm
thường vô nghĩa. Chừng nào chúng ta còn chưa nỗ lực tinh
tấn, thì mỗi một khoảnh khắc của ác hạnh sẽ tiếp tục
dẫn dắt chúng ta đọa xuống nhữõng cõi thấp trong nhiều
kiếp. Đừng bao giờ xem thường những hành động xấu ác
dù nhỏ nhặt nhất, và cho rằng chúng không thể gây tổn
hại lớn lao. Như Bồ Tát Tịch Thiên (Santideva) có nói:
Ác
hạnh, dù chỉ trong khoảng khắc
Cũng
đủû dẫn tới một kiếp trong địa ngục A-Tì,
Bao
ác hạnh tôi đã từng tạo từ vô thủy –
Chẳng
cần nói cũng biết, chúng ngăn cản không cho tôi đến được
các cõi cao!
Và
trong Kinh Hiền Ngu, chúng ta thấy có nói:
Đừng
xem thường ác hạnh dù nhỏ bé,
Và
tin rằng chúng không tác hại:
Ngay
cả một tia lửa nhỏ xíu,
Cũng
có thể thiêu rụi một núi cỏ.
Tương
tự như thế, ngay cả những thiện hạnh nhỏ bé nhất cũng
đem lại lợi ích to lớn. Chớ có xem thường, đừng cho rằng
những thiện hạnh nhỏ bé là việc không đáng làm.
Trong
một đời quá khư,ù vua Mandhatri là một người nghèo khó.
Một ngày nọ, trên đường đi dự một đám cưới với một
nắm đậu trong tay, ông gặp Đức Phật Ksantisarana đang du
hành qua làng. Được thúc đẩy bởi lòng sùng kính mãnh liệt,
ông tung nắm đậu vào Ngài. Bốn hạt đậu rơi vào bình bát
và hai hạt khác chạm vào ngực Ngài. Việc trổ quả của
hành động này khiến ông tái sinh làm đại đế cai trị châu
Diêm Phù Đề. Vì bốn hạt đậu rơi vào bình bát của Phật
nên ông được cai trị bốn trung châu trong tám vạn năm. Bởi
một trong hai hạt đậu chạm vào tim Phật, ông trở thành
Hoàng Đế cai quản cảnh giới của Tứ Thiên Vương trong tám
vạn năm khác; và do hạt đậu thứ hai, ông được liên tiếp
chia đồng đều chủ quyền với ba mươi bảy vị Trời Đế
Thích trên cung Trời thứ Ba Mươi Ba.
Người
ta có nói ngay cả quán tưởng Đức Phật và tung một đoá
hoa vào hư không cũng dẫn tới việc bạn được chia vương
quyền của Vua Trời Đế Thích trong một thời gian dài khó
tưởng tượng nổi. Đây là điều tại sao Kinh Hiền Ngu nói:
Không
làm những thiện hạnh nhỏ bé,
Vì
tin rằng chẳng lợi lạc gì:
Tuần
tự từng giọt nước một
Khi
đến lúc,
Có
thể làm đầy một hồ lớn.
Và
Kho Báu Thiện Đức có nói:
Từ
những hạt giống không lớn hơn hạt mù tạt,
Mọc
thành những cây ashota bát ngát
Chỉ
trong một năm
Có
thể vươn cành rộng hàng lý.
Sự
tăng trưởng của thiện và ác
Thậm
chí còn nhanh hơn thế.
Hạt
của cây ashota không lớn hơn hạt cây mù tạt, nhưng cây ashota
thì phát triển nhanh tới nỗi cành lá của chúng lớn hàng
lý chỉ trong một năm. Tuy nhiên ngay cả hình ảnh này cũng
chưa đủ mô tảû sự lớn mạnh khủng khiếp của những
hành vi thiện và ác.
Cũng
thế, dù phạm phải giới luật nhỏ bé nhất cũng gây nên
những điều xấu ác to lớn. Một ngày kia Long Vương Elapatra
đội lốt một vị Chuyển Luân Thánh Vương và đến gặp
Đức Phật.
Đức
Phật khiển trách: “Sự tổn hại mà người tạo ra cho giáo
lý của Đức Phật Ca Diếp (Kasyapa) đối với ngươi còn chưa
đủ hay sao mà bây giờ lại còn muốn làm tổn hại giáo lý
của ta? Hãy hiện nguyên hình mà lắng nghe Giáo Pháp!”
“Nếu
làm như vậy, nhiều người sẽ hại con,” Long Vương trả
lời; vì thế Đức Phật bèn đặt Long Vương dưới vòng gia
hộ của đức Kim Cương Thủ (Vajrapani), Long Vương bèn biến
thành một con rắn khổng lồ dài vài lý (một lý khoảng 4,8km).
Trên đầu rắn mọc một cây elapatra lớn, đè bẹp con rắn
với sức nặng của nó, rễ cây nhung nhúc côn trùng chúng
làm cho con rắn đau đớn khủng khiếp.
Đức
Phật hỏi tại sao Long Vương lại như thế này, Long Vương
trả lời rằng, “Xưa kia, vào thời đại giáo lý của Đức
Phật Ca Diếp (Kasyapa), khi ấy con là một tu sĩ. Một hôm áo
của con bị vướng vào một cây elapatra lớn mọc bên đường
và bị kéo tuột ra. Con giận dữ điên cuồng và liền phạm
giới luật,88 con đã đốn ngã thân cây. Những gì Ngài thấy
hôm nay là hậu quả của hành vi đó.”
Đối
với tất cả những hành vi thiện hay ác, động cơ thúc đẩy
(tác ý) là yếu tố quan trọng nhất để quyết định những
hành vi ấy mang tính chất thiện hay bất thiện, nặng hay nhẹ.
Điều này cũng giống như một cái cây: nếu rễ của nó có
dược tính, thì thân và lá của nó cũng sẽ có dược tính.
Nếu rễ độc hại thì thân và lá cũng độc. Lá thuốc không
thể phát triển từ một rễ độc. Tương tự, nếu một động
cơ (hay tác ý) phát triển từ sự kích động hay bám chấp,
và do đó không hoàn toàn thanh tịnh, thì hành vi theo sau bắt
buộc phải tiêu cực, mặc dù mang vẻ tích cực. Trái lại,
nếu động cơ thanh tịnh, thì cho dù hành vi có vẻ tiêu cực
nhưng trong thực tế lại là tích cực. Trong Kho Báu Thiện
Đức có nói:
Nếu
rễ là thuốc thì đọt mầm cũng thế.
Nếu
rễ độc thì khỏi cần nói, đọt mầm cũng độc.
Điều
làm cho một hành vi thành thiện hay ác không phải
ở
chỗ bề ngoài ra sao
Hoặc
kích thước thế nào, mà dựa trên động cơ phiá sau
là tốt hay xấu.
Vì
lý do này, thậm chí đã có thời chư vị Đại Bồ Tát, những
bậc Trưởng Tử của các Đấng Chiến Thắng, được phép
vi phạm bảy hành vi bất thiện của thân và khẩu với điều
kiện là tâm của các Ngài thanh tịnh và thoát khỏi mọi tham
muốn ích kỷ. Điều này được minh họa bằng những ví dụ
của Thuyền Trưởng Đại Bi Tâm giết Chiến sĩ Giáo Đen,
hay của thanh niên bà la môn Tình Nhân Thiên Tú đã phạm giới
hạnh với một thiếu nữ bà la môn.
Có
lần, trong một đời trước, Đức Phật là một thuyền trưởng
tên là Đại Bi Tâm. Ngài đang vượt biển với năm trăm
thương nhân thì tên cướp biển ác độc tên là Chiến Sĩ
Giáo Đen xuất hiện, đe dọa giết tất cả mọi người. Thuyền
trưởng nhận thấy những lái buôn này đều là những vị
Bồ Tát* không còn phải trở lại luân hồi, và nếu một
người nào đó giết họ thì người ấy sẽ phải chịu đau
khổ trong địa ngục trong vô số kiếp. Được thúc đẩy
bởi một cảm xúc bi mẫn mãnh liệt, Ngài nghĩ: “Nếu ta
giết hắn, hắn sẽ không phải xuống địa ngục. Do đó ta
chẳng còn chọn lựa nào khác, dù rằng điều đó có nghĩa
là chính ta phải đọa địa ngục.” Với lòng can đảm phi
thường, Ngài đã giết tên cướp biển, và khi làm hành động
này Ngài đã tích tập được một lượng công đức tương
đương với công đức tích tập trong bảy mươi ngàn kiếp
theo cách bình thường. Nhìn bề ngoài của việc làm đó
thì đây là một ác hạnh, bởi Bồ Tát đang phạm vào hành
vi sát sinh. Nhưng điều ấy đã được thực hiện mà không
có chút động cơ ích kỷ nào. Nhìn gần, việc ấy cứu mạng
sống của 500 người lái buôn. Và trong phạm vi xa rộng hơn
thì việc ấy cứu Chiến Sĩ Giáo Đen khỏi phải chịu đau
*
Các Bồ Tát là những bậc đã đạt tới một quả vị mà
ở đó các Ngài không còn bị bắt buộc phải quay trở lại
vòng luân hồi nữa.
khổ
trong địa ngục. Vì vậy, trên thực tế thì hành động đó
chính là một thiện hạnh vô cùng mạnh mẽ.
Lại
có một người bà la môn tên là Tình Nhân Thiên Tú sống lâu
năm trong rừng, giữ giới nguyện trong sạch. Một ngày nọ,
anh ta đi khất thực trong một ngôi làng. Một thiếu nữ bà
la môn thất tình với anh, tuyệt vọng tới nỗi sắp tự tử.
Được thúc đẩy bởi lòng bi mẫn đối với cô ta, chàng
thanh niên đã cưới cô, và hành động này đã đem lại cho
anh bốn mươi ngàn kiếp công đức.
Đối
với những người như vậy thì việc giết hại hay phá vỡ
giới nguyện trong sạch được cho phép. Trái lại, những hành
vi tương tự nhưng lại làm với động cơ ích kỷ do bởi
sự tham dục, sân hận hay vô minh thì đều không được phép
đối với bất kỳ ai.
Một
Bồ Tát với tâm rộng lớn bao la, không một dấu vết tham
dục cá nhân, cũng có thể lấy trộm của những người giàu
mà keo kiệt, và nhân danh họ, cúng dường của cải cho Tam
Bảo hay cho những người nghèo túng.
Việc
nói dối để che chở người nào đó sắp bị giết, hay để
bảo vệ tài sản thuộc về Tam Bảo thì cũng được cho phép
làm. Nhưng lừa dối người khác vì lợi lạc của mình thì
không bao giờ là điều đúng đắn…
Việc
gieo sự bất hoà, chẳng hạn như giữa hai người bạn thân
– trong đó có một người chuyên làm điều xấu trong khi
người kia yêu thích làm việc tốt lành – thì điều này
cũng được cho phép, đó là nếu có nguy cơ tính khí mạnh
mẽ của người xấu sẽ làm hư hỏng người tốt. Tuy nhiên,
tuyệt đối không được phép chia rẽ hai người đang hoà
thuận với nhau.
Lời
nói cay nghiệt có thể được dùng, ví dụ thế, như một
phương tiện mạnh mẽ hơn để đem Giáo Pháp tới với
những người mà cách răn dạy mềm mỏng không tạo được
ấn tượng cho họ – hoặc có thể dùng khi cần răn dạy
một đệ tử nhằm phô bày lỗi lầm tiềm ẩn của anh ta.
Như Ngài Atisa có nói:
Vị
Thầy tốt nhất là người tấn công vào những lỗi lầm tiềm
ẩn của bạn;
Giáo
huấn tuyệt hảo nhất là lời chỉ dạy nhắm thẳng tới
những lỗi lầm tiềm ẩn ấy.
Tuy
nhiên, nói lời cay nghiệt chỉ để sỉ nhục người khác
thì không được cho phép.
Nói
chuyện phiếm vô ích có thể được sử dụng như một phương
tiện để giới thiệu Giáo Pháp cho những người thích trò
chuyện và những người mà ta không có cách nào khác đem Giáo
Pháp lại cho họ. Nhưng hoàn toàn không được dùng chuyện
phiếm để làm cho chính mình và những người khác bị xao
lãng.
Đối
với ba hành vi bất thiện của ý thì không ai được phép
vi phạm, bởi đứng về mặt của động lực (tác ý) thì
không có cách nào để chuyển hoá những động cơ này thành
động cơ tốt lành. Một khi tư tưởng xấu ác đã khởi lên,
thì việc ấy sẽ luôn luôn phát triển thành một điều gì
đó không tốt lành.
Tâm
thức là người duy nhất khởi xướng điều tốt và điều
xấu. Có nhiều trường hợp khi những tư tưởng khởi lên
trong tâm, cho dù chúng không được chuyển hoá thành lời nói
hay hành động thì vẫn có một hậu quả tốt hay xấu hết
sức mạnh mẽ trổ ra. Vì thế, hãy luôn luôn kiểm soát tâm
bạn. Nếu tư tưởng của bạn tốt lành, hãy hoan hỷ và làm
nhiều điều tốt lành hơn nữa. Nếu chúng tiêu cực, hãy
sám hối lập tức, cảm thấy xấu xa và tủi hổ rằng bạn
vẫn còn nuôi dưỡng những tư tưởng như vậy mặc dù đã
tiếp nhận mọi giáo lý, và hãy tự nhủ từ giờ trở đi
bạn phải nỗ lực hết sức không để cho những tư tưởng
như thế xuất hiện trong tâm. Ngay cả khi bạn làm điều thiện,
hãy quán sát động lực (tác ý) của bạn thật kỹ lưỡng.
Nếu ý hướng của bạn tốt, hãy thực hiện điều bạn suy
nghĩ. Nếu động cơ của bạn là để gây ấn tượng cho mọi
người, hoặc được đặt trên nền tảng của sự ganh đua
hay khao khát danh vọng thì hãy cương quyết chuyển hóa tác
ý để cho tác ý ấy được thấm đẫm Bồ Đề Tâm. Nếu
bạn hoàn toàn không chuyển hoá được động cơ thúc đẩy
bạn, thì tốt hơn hết là bạn nên trì hỗn không nên
thực hiện việc thiện lành đó.
Một
ngày nọ, Geshe đang mong đợi một nhóm đông thí chủ của
Ngài tới thăm. Sáng hôm đó, Ngài sắp xếp đồ cúng dường
trên bàn thờ trước hình tượng của Tam Bảo hết sức ngăn
nắp. Khi quán sát động cơ thúc đẩy mình, Ngài nhận ra là
chúng không thanh tịnh, và điều Ngài đang làm chỉ là để
tạo sự chú ý cho các vị tín chủ hảo tâm của Ngài; vì
thế Ngài hốt một nắm đất và ném lên toàn bộ các thức
cúng dường, Ngài nói: “Này ông Tỳ Khưu, hãy ở yên ở
đó và đừng có màu mè!”
Khi
Padampa Sangye nghe được chuyện này, Ngài nói: “Trong cả xứ
Tây Tạng, nắm bụi mà Ben Kungyal ném là món cúng dường tuyệt
hảo nhất!”
Vì
thế, hãy luôn cẩn trọng canh chừng tâm của bạn. Ở
trình độ của chúng ta, là những người tầm thường,
ta không thể không có những tư tưởng và hành động bị
thôi thúc bởi những động cơ xấu ác. Nhưng nếu chúng ta
có thể lập tức nhận ra điều sai lầm, rồi sám hối
và nguyện không tái phạm nữa thì chúng ta sẽ cắt đứt
mối ràng buộc với động cơ xấu ác.
Một
ngày khác, Geshe Ben đang ở nhà của một vài tín chủ. Lúc
gia chủ ra khỏi phòng, Geshe Ben nghĩ: “Ta không còn trà. Ta
sẽ lấy trộm một ít để nấu khi trở về thiền thất.”
Nhưng
lúc đặt tay vào túi trà của họ, đột nhiên Ngài nhận ra
điều mình đang làm và lên tiếng gọi các tín chủ lại:
“Hãy lại đây nhìn xem tôi đang làm gì! Chặt tay tôi đi!”
Ngài
Atisa nói: “Từ khi thọ giới nguyện Biệt Giải Thoát (Pratimoksa),
ta chưa từng bị ô nhiễm ngay cả bởi một lỗi lầm nhỏ
nhất. Trong khi thực hành giới luật Bồ Đề Tâm, ta đã vi
phạm một hay hai lỗi nhỏ bé. Và từ khi thọ giới của Kim
Cương
Mật Thừa, mặc dù thỉnh thoảng còn vấp ngã, nhưng ta không
để những lỗi lầm hay những sa sút này lưu lại trong ta
quá một ngày.”
Khi
đi du hành, ngay khi khởi lên bất kỳ niệm xấu nào trong tâm,
Ngài lấy đế mạn đà la bằng gỗ89 luôn mang theo trong người
ra và sám hối tư tưởng xấu của mình, nguyện rằng không
bao giờ tái phạm.
Một
ngày nọ, Geshe Ben đang tham dự một hội chúng đông đảo
gồm các vị tiến sĩ Phật Học tại Penyulgyal. Một lát sau
món sữa đông được mang ra mời khách. Geshe Ben ngồi ở một
hàng giữa và nhận thấy những vị tăng ngồi ở hàng đầu
nhận được khẩu phần lớn.
“Món
sữa đông trông thật ngon lành,” Ngài tự nghĩ, “nhưng ta
không nghĩ mình sẽ được phần tốt như thế.”
Ngay
lập tức Ngài tự nhận ra: “Mi ghiền sữa đông chua rồi!”
Ngài nghĩ thế, và lật úp bình bát của mình. Khi người có
nhiệm vụ phân phối sữa tới hỏi Ngài có muốn dùng
không thì Ngài từ chối.
“Tâm
thức xấu xa này đã có một phần ăn rồi.” Ngài nói.
Mặc
dù hoàn toàn không có gì sai trái khi muốn được nhận phần
bằng nhau của bữa tiệc cùng những vị tu sĩ thanh tịnh khác,
nhưng chính tánh tự cho mình là quan trọng trong tư tưởng
mong cầu được nhận món sữa chua ngon lành đã khiến Ngài
từ chối nó.
Nếu
bạn luôn quán sát tâm bạn như vậy, tuân theo những gì lành
mạnh và từ bỏ những gì độc hại, tâm bạn sẽ nhu nhuyễn
và mọi tư tưởng của bạn sẽ trở nên tốt lành.
Ngày
xưa, có một người bà la môn tên là Ravi, là người luôn
kiểm soát tâm mình. Bất cứ khi nào một niệm xấu khởi
lên, ông để một viên sỏi đen sang một bên và khi khởi
lên một niệm tốt, ông đặt một viên sỏi trắng. Thoạt
tiên, tất cả đều là những hòn sỏi đen. Sau đó, khi ông
kiên trì trong việc phát triển các pháp đối trị và làm
những thiện hạnh, từ bỏ những ác hạnh, một thời gian
sau, số lượng sỏi trắng và đen bằng nhau. Cuối cùng thì
ông có toàn sỏi trắng. Đây là cách thức bạn nên phát triển
hành động tốt lành như một phương pháp đối trị, cùng
với sự tỉnh thức và cảnh giác, và chớ làm ô nhiễm bản
thân ngay cả bằng những hành động bất thiện nhỏ bé nhất.
Cho
dù bạn không tích tụ những hành vi bất thiện trong đời
này, bạn cũng không thể thấu biết được sự rộng lớn
của tất cả những hành động mà bạn từng tích lũy trong
vòng luân hồi vô thủy, hoặc không thể hình dung ra được
hậu quả của những ác hạnh mà bạn phải trả quả. Vì
thế có những người mặc dù giờ đây hoàn toàn hiến mình
cho đức hạnh và tu tập tánh Không, nhưng họ vẫn tràn đầy
đau khổ. Có những quả không trổ sanh lập tức mà ngủ ngầm,
chờ ngày đưa đến việc trổ sanh trong những cõi thấp. Nhưng
những quả thuộc loại hậu nghiệp này lại xuất hiện nhờ
vào những pháp tu đối trị mà họ áp dụng trong cuộc đời
để giúp cho những quả ấy trổ ngay trong đời này. Kinh Kim
Cương có nói:
Các
vị Bồ Tát hành trì trí tuệ bát nhã siêu việt vẫn bị
đau khổ – quả thực, họ sẽ bị đau khổ khủng khiếp
– bởi những hành nghiệp trong quá khứ, thay vì sẽ gây đau
khổ trong những đời sau, thì đã trổ quả ngay trong đời
này.
Ngược
lại, có những người chỉ làm ác hạnh mà vẫn kinh nghiệm
được ngay lập tức kết quả của một vài thiện hạnh;
những thiện hạnh này, lẽ ra phải chờ thêm một thời gian
lâu sau mới trổ. Điều này đã xảy ra trong xứ Aparantaka.
Một trận mưa toàn đá quý đã đổ xuống trong bảy ngày
liền, sau đó bảy ngày mưa quần áo, và bảy ngày nữa mưa
ngũ cốc. Cuối cùng là một trận mưa đất. Mọi người đều
bị đè chết và bị tái sinh trong địa ngục.
Những
tình huống như thế, khi người làm tốt phải chịu đau khổ,
người làm ác lại hưởng sự thành công thịnh vượng, là
những tình huống luôn luôn xảy ra như là nghiệp báo của
những hành vi đã làm trong quá khứ. Hành động hiện nay của
bạn, dù xấu hay tốt, sẽ đem đếùn quả trổ sanh trong đời
kế tiếp hay những đời sau nữa. Vì lý do này, thật là điều
hết sức cần thiết để phát triển một lòng tin vững chắc
vào nghiệp báo là cái gì không thể nào tránh khỏi của những
hành động mà bạn đã tạo tác và luôn luôn hành sử một
cách phù hợp.
Không
nên sử dụng loại ngôn ngữ Phật Học của những kiến giải
của chân lý tối hậu (tánh Không) để xem thường luật nhân
quả. Đạo Sư Vĩ Đại xứ Oddiyana đã nói:
Hỡi
Đại Vương, trong Mật Thừa của tôi, kiến (cái Thấy) là
điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, đừng để hành động của
Ngài sa sẩy theo chiều hướng của cái thấy. Nếu làm như
vậy, Ngài sẽ rơi vào tà kiến của ma quỷ, sẽ bày trò phiếm
luận rằng thiện thì không mà ác cũng không. Nhưng cũng đừng
để cái thấy của Ngài sa sẩy theo chiều hướng của những
hành động tạo tác, nếu không, Ngài sẽ bị mắc kẹt vào
duy vật và hệ tư tưởng giáo điều,* và như vậy, thì giải
thoát sẽ không bao giờ tới. ... Đó là điều tại sao cái
thấy của tôi cao hơn bầu trời, mà sự chú tâm của tôi
dành cho mọi hành động tạo tác và cho kết quả của những
hành động tạo tác ấy thì còn tinh nhuyễn hơn cả bột mì.
**
*
dngos po dang mtshan ma, nghĩa đen: vật chất và các đặc
tánh của vật chất.
Điều
này có nghĩa là ta sẽ không bao giờ vượt được khỏi những
khái niệm tạo
tác.
**
zhib có nghĩa là mịn (như bột mì) và cũng có nghĩa là vô
cùng tỉ mỉ, chính
xác.
Vậy,
cho dù trong cái thấy, bạn có hoàn toàn chứng ngộ được
bản tánh của thực tại như thế nào chăng nữa thì bạn
cũng phải hết sức chú tâm tới những hành vi của bạn và
kết quả của những hành vi ấy.
Có
lần, có một người hỏi Ngài Padampa Sangye rằng: “Một khi
chúng ta đã chứng ngộ tánh Không, việc phạm những ác hạnh
có còn tác hại chúng ta hay không?”
“Một
khi các ông chứng ngộ tánh Không,” Ngài Padampa Sangye trả
lời, “thì thật là vô lý khi làm việc bất thiện. Khi các
ông chứng ngộ tánh Không thì lòng đại bi xuất hiện hết
sức tự nhiên cùng lúc với tánh Không.”
Do
đó, nếu bạn muốn hành trì Giáo Pháp một cách đích thực,
bạn nên dành ưu tiên lựa chọn làm những việc gì phù hợp
với luật nhân quả. Cái thấy (kiến) và hành động phải
được nuôi dưỡng song hành với nhau. Dấu hiệu cho thấy
bạn đã thấu suốt giáo lý về nghiệp quả phải giống như
Ngài Jetsun Milarepa đã thấy.
Một
ngày nọ, một đệ tử hỏi Ngài: “Thưa Ngài Jetsun, mọi
hành vi chúng con thấy Ngài làm đều vượt lên sự hiểu biết
của những người bình thường. Ngài Jetsun tôn quý, phải
chăng ngay từ lúc khởi đầu, Ngài đã là một hoá thân của
Đức Kim Cương Trì (Vajradhara), hay của một vị Phật hoặc
Bồ Tát?”
“Nếu
các con coi ta là một hoá thân của Đức Kim Cương Trì, hay
của một vị Phật hoặc Bồ Tát,” Ngài Jetsun trả lời,
“thì điều này cho thấy các con có lòng tin nơi Ta – nhưng
tuy vậy, các con khó có thể nào có được một cái thấy
nào sai lầm to tát hơn là như thế về Giáo Pháp! Khởi đầy,
ta đã chất chồng những hành động cực kỳ ác hại, sử
dụng chú thuật và tạo ra mưa đá. Ta cũng sớm nhận ra rằng
mình không có cách nào thoát khỏi cảnh đọa sinh vào địa
ngục. Vì thế, ta đã thực hành Giáo Pháp với lòng nhiệt
thành không ngơi nghỉ. Nương vào những phương pháp sâu xa
của Mật Thừa, ta đã phát triển được những phẩm tính
đặc biệt trong chính ta. Giờ đây, nếu các con không thể
phát triển bất kỳ quyết tâm chân thực nào để thực hành
Giáo Pháp, thì đó là vì các con không tin vào luật nhân quả.
Bất cứ ai với chút ít quyết tâm, có thể phát triển lòng
dũng cảm như ta đã làm nếu họ có được sự xác tín chân
thật và chân thành tin tưởng vào nghiệp báo của những hành
vi của họ. Khi đo,ù họ sẽ đắc được những quả vị
thành tựu tương tự như ta – và rồi, người khác cũng sẽ
nghĩ rằng những kẻ ấy là hiện thân của Đức Kim Cương
Trì, hay của một vị Phật hoặc Bồ Tát nào khác.”
Chính
niềm tin vào nhân quả của Jetsun Milarepa đã hoàn toàn thuyết
phục Ngài rằng khi đã phạm phải những ác hạnh trong thời
niên thiếu thì chắc chắn Ngài sẽ bị đoạ sinh trong cõi
địa ngục. Do lòng xác tín này, Ngài đã miên mật tu tập
với một sự quyết tâm khó tìm thấy được trong bất kỳ
câu chuyện nào ở Ấn Độ hay Tây Tạng – không có câu chuyện
nào có thể so sánh được với câu chuyện kể về những
thử thách và nỗ lực miên mật của Ngài.
Như
vậy, tận đáy lòng bạn, hãy khơi dậy lòng xác tín nơi điểm
cực kỳ trọng yếu này, là nguyên lý nhân quả. Hãy luôn
luôn thực hiện càng nhiều càng tốt các thiện hạnh bất
cứ khi nào bạn có thể thực hiện được, cho dù chúng nhỏ
bé tới đâu chăng nữa; trong khi thực hiện các thiện hạnh
này thì phải áp dụng ba phương tiện thiện xảo tối thượng.*
Hãy tự hứa là sẽ không bao giờ lập lại những hành vi
xấu ác tiêu cực cho dù nhỏ bé nhất và cho dù mạng sống
của bạn bị đe dọa đi chăng nữa.
*
Xem Phần Một, Chương Một, Mục II, tiết 4.
Khi
thức giấc vào buổi sáng, đừng bất thần nhảy xuống giường
như con bò hay cừu phóng ra khỏi chuồng của nó. Trong lúc
vẫn còn ở trên giường, hãy thư dãn tâm thức bạn, xoay
nhìn vào trong tâm và quán sát tâm ấy thật kỹ càng. Nếu
bạn đã làm bất kỳ điều bất thiện nào vào ban đêm trong
giấc mộng thì hãy ân hận và sám hối. Trái lại, nếu bạn
làm điều gì đó tốt lành thì hãy hoan hỷ và hồi hướng
công đức để đem đến lợi lạc của tất cả chúng sinh.
Hãy khơi dậy Bồ Đề Tâm, và nghĩ rằng: “Hôm nay tôi sẽ
làm bất cứ hành động tốt lành, tích cực nào mà tôi có
thể làm được, sẽø hết sức tránh bất kỳ hành động
tiêu cực hay xấu ác nào, khiến cho tất cả chúng sinh vô
biên đều đạt được Phật Quả viên mãn.”
Buổi
tối, lúc đi ngủ, đừng vội rơi vào trạng thái vô giác.
Hãy sử dụng chút ít thời gian để thư dãn trên giường
và quán sát chính mình trong cách thức tương tự như trên:
“Ta đã vận dụng ngày hôm nay như thế nào? Ta đã có làm
điều gì tốt lành không?” Nếu bạn đã thực hiện một
số điều thiện lành thì hãy hoan hỷ và hồi hướng công
đức để tất cả chúng sinh để họ đều đạt được Phật
quả. Nếu bạn làm điều gì sai, bạn nên nghĩ: “Thật là
tồi bại! Ta đã vừa tự hủy hoại chính mình!” Hãy sám
hối việc làm đó và nguyện không bao giờ tái phạm.
Trong
mọi lúc, hãy tỉnh thức và cảnh giác để không bám
chấp vào những nhận thức về vũ trụ và về tất cả những
chúng sinh sống ở trong đó như là thực có và đặc chắc.
Hãy tu tập bản thân để nhìn mọi sự như trò nô đùa của
những màn huyễn hoá. Hãy làm cho tâm bạn nhu nhuyễn bằng
cách luôn gìn giữ tâm ấy trên một tiến trình tốt lành
và chân thật. Đây chính là mục tiêu cũng như kết quả của
những gì mà ta đãõ giảng giải, đó là việc thực hành
bốn pháp chuyển tâm để không còn đắm nhiễm luân hồi.
Theo các pháp này thì tất cả những thiện hạnh bạn làm
sẽ tự động kết nối với ba phương tiện thiện xảo tối
thượng. Như có câu nói rằng:
Người
làm việc thiện cũng giống như cây dược thảo;
Ai
nương cậy vào anh ta cũng đều được lợi lạc.
Người
làm điều ác thì giống như cây tẩm độc;
Ai
nương cậy vào hắn cũng đều bị hủy hoại.
Nếu
bản thân bạn có tâm thái đúng đắn, bạn sẽ có thể chuyển
tâm của tất cả những ai liên hệ với bạn91 hướng về
Giáo Pháp chân thật. Vô lượng công đức cho chính bạn và
người khác sẽ gia tăng không bờ bến. Bạn sẽ không bao
giờ còn tái sinh vào những cõi thấp, là nơi mà viễn
ảnh của bạn ngày càng tệ mạt hơn, và bạn sẽ luôn luôn
có những nhân duyên đặc biệt để có được một cuộc
đời sinh ra trên cõi Trời hay trong cõi người. Ngay cả những
miền đất nào là nơi trú ngụ của những vị trì giữ một
giáo lý như thế thì vùng đất ấy cũng sẽ có được phước
báu, có được sự may mắn và sẽ luôn luôn được chư Thiên
bảo vệ.
Con
biết hết tất cả về nghiệp, nhưng con không thực sự tin
tưởng.
Con
đã nghe nhiều Giáo Pháp, nhưng chưa từng đưa Giáo Pháp vào
thực hành. Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ tạo ác nghiệp
giống con,
Khiến
tâm chúng con có thể chan hoà với Pháp.
Drom
Tošnpa (1005 – 1064)
Geshe
ToŠnpa là một trong những đại đệ tử của Atisa và là vị
sáng lập trường phái Kadampa, chú trọng vào một lối sống
giản dị và tu tập tâm thức qua việc phát triển lòng từ
bi.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 7 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:07pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
NĂM
LỢI ÍCH CỦA
GIẢI THOÁT
Được
chư thiện tri thức và thành tựu giả siêu phàm dẫn dắt,
Ngài
đã tu tập và trực nghiệm giáo huấn của chư Bổn Sư.
Ngài
chỉ ra con đường cao cả không sai trật cho kẻ khác.
Bậc
Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
Cách
thức lắng nghe giáo lý về sự lợi lạc của giải thoát
trong chương này, và về cách thức theo chân một vị Thầy
tâm linh trong chương sau thì cũng giống như cách thức đã
được giải thích trước đây.
Giải
thoát là gì? Đó là tìm được tự do thoát khỏi đại dương
đau khổ được gọi là luân hồi này, và đạt được quả
vị của một Thanh Văn (Sravaka), một vị Độc Giác Phật (Pratyekabuddha),
hay một vị Phật Toàn Giác.
I.
NHỮNG NHÂN TỐ ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT
Những
nhân tố đưa bạn đến được với giải thoát gồm có như
sau: (1) trước tiên, hãy làm cho tâm bạn nhu nhuyễn nương
vào bốn pháp chuyển tâm để bạn có thể xoay lưng lại với
luân hồi, bắt đầu bằng những hiểu biết về sự khó khăn
để tìm được những điều kiện tự do và những thuận
duyên (của đời người hiếm quý); và (2) thứ hai, là
thực hành tất cả những pháp tu, bắt đầu bằng pháp quy
y, vì đây làø nền tảng của mọi con đường tu, cho
đến khi nào hoàn tất trọn vẹn pháp môn chính yếu.92
Lợi
lạc của mỗi một pháp tu đã được giải thích trong những
chương có liên quan đến những pháp tu này.
II.
KẾT QUẢ: BA QUẢ VỊ GIÁC NGỘ
Dù
bạn sẽ chứng đắc trong quả vị của một Thanh Văn, một
vị Phật Độc Giác, hay một vị Phật Toàn Giác, thì kết
quả sẽ là một sự an lạc, khinh an, thoát khỏi những nẻo
đường tràn đầy nguy hiểm và đau khổ của cõi luân hồi.
Thật là sung sướng xiết bao!
Trong
số tất cả những con đường tu khác nhau thì mục đích duy
nhất của con đường tu theo Đại Thừa mà bây giờ bạn đang
dấn bước là làm sao đạt được Phật Quả viên mãn. Trên
con đường tu theo Đại Thừa này, nhất nhất các pháp tu phải
đều lấy Phật Quả viên mãn làm mục đích duy nhất – từ
thập thiện, cho đến bốn tâm vô lượng, cho đến sáu pháp
toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), bốn trạng thái
định (chỉ), bốn trạng thái của vô sắc giới, an trụ,
và của tuệ minh sát (quán). Ngoài những pháp kể trên thì
còn có ba pháp tu tối thượng: (1) phát khởi Bồ Đề Tâm
như là một pháp tu dự bị, (2) giữ tâm không tạo tác trong
thời gian hành trì pháp môn tu tập chính yếu, và (3) kết
thúc bằng những lời nguyện hồi hướng. Tất cả các
pháp này, đều phải lấy Phật Quả viên mãn làm mục đích
duy nhất.
Milarepa
(1040 – 1123)
Hành
giả du già (yogi) nổi tiếng nhất của Tây Tạng, lừng danh
qua lối sống khổ hạnh trong những rặng núi ở miền Nam
Tây Tạng, qua sự kiên trì trong thiền định, và qua những
bài đạo ca được Ngài hát lên một cách tự nhiên để giảng
dạy cho những người thợ săn cũng như dân làng.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 8 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:08pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
SÁU
LÀM THẾ NÀO
ĐỂ THEO CHÂN
MỘT VỊ THẦY
TÂM LINH
Không
có Kinh điển (Sutra), Mật điển (Tantra), hay Luận (Sastra) nào
nói rằng đã từng có người đạt được Phật quả viên
mãn mà không cần phải theo chân một vị Thầy tâm linh. Chúng
ta có thể tự mình nhận ra rằng chưa từng có ai đạt được
thành tựu của hai giai đoạn tu tập bằng phương tiện thiện
xảo và lòng can đảm của riêng họ. Thực vậy, tất cả
chúng sinh bao gồm chúng ta, đã phô bày rất nhiều tài năng
đặc biệt trong việc khám phá ra những con đường sai lạc
để noi theo – còn trong khi đi trên con đường dẫn đến
giải thoát và toàn giác thì chúng ta lại bối rối như một
người mù cô độc lang thang giữa bãi hoang.
Không
ai có thể đem được châu báu về từ một kho tàng trên hải
đảo mà không nhờ vào một hoa tiêu lão luyện (ám chỉ những
nhà thám hiểm thời xưa khi đi tìm châu báu nơi những hòn
đảo xa xôi). Tương tự như thế, một vị Thầy tâm linh,
hay bạn đồng hành, là người hướng đạo đích thực có
thể đưa chúng ta đạt đến giải thoát và toàn giác, và
chúng ta phải đi theo Ngài với lòng tôn kính. Điều này có
thể được noi theo trong ba giai đoạn: trước tiên, hãy quán
sát vị Thầy, sau đó hãy theo chân Ngài, và cuối cùng, hãy
noi gương những chứng ngộ và công hạnh của Ngài.
I
. QUÁN SÁT THẦY
Phần
lớn người bình thường như chúng ta dễ dàng bị ảnh hưởng
bởi hoàn cảnh và những người quanh ta. Đó là lý do tại
sao chúng ta phải luôn theo chân một vị Thầy, một thiện
hữu tri thức.
Nơi
khu rừng đàn hương trong rặng Malaya, khi một thân cây bình
thường đổ xuống, gỗ của nó được thấm đẫm dần dần
mùi hương dịu dàng của cây đàn hương. Sau vài năm, thân
gỗ tầm thường đó có mùi thơm dịu như những cây đàn
hương quanh nó. Cũng tương tự như thế, nếu bạn sống và
học tập với một vị Thầy toàn hảo có đầy đủ những
phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ được thấm nhuần hương thơm
của những phẩm tính đó và tất cả những gì bạn làm cũng
sẽ trở nên giống như Ngài.
Giống
như một thân cây tầm thường
Trong
rừng núi Malaya
Thấm
đượm mùi đàn hương từ những cành lá ẩm,
Cũng
thế, bạn tương ưng được với bất kỳ ai bạn theo
chân.93
Trong
thời đại suy đồi này, ta khó có thể tìm được một vị
Thầy có tất cả mọi phẩm hạnh được mô tả trong những
Mật điển quý báu. Dù thế nào chăng nữa thì vị Thầy mà
chúng ta đi theo phải có ít nhất những thiện đức sau đây:
Ngài
phải thanh tịnh, chưa từng phạm những giới cấm liên quan
đến ba loại giới nguyện – giới nguyện bên ngoài của
Biệt Giải Thoát, giới nguyện bên trong của Bồ Tát, và giới
nguyện bí mật của Kim Cương Thừa. Ngài phải uyên bác, thấu
suốt Mật điển, Kinh điển và Luận, không hề sai sót. Đối
với chúng sinh vô biên, trái tim Ngài phải tràn đầy lòng
bi mẫn khiến Ngài thương yêu mỗi người trong số đó như
yêu thương đứa con duy nhất của Ngài. Ngài phải thông thạo
cách thực hành các nghi lễ – Tam Tạng kinh điển, và nội
điển là bốn cấp độ của Mật điển. Bằng cách đưa yếu
nghĩa của giáo lý vào thực hành, Ngài phải tự thể nhập
những thành tựu phi thường của sự giải thoát và chứng
ngộ. Ngài phải rộng lượng, ngôn từ dễ nghe, dạy dỗ mỗi
người theo căn cơ của họ, và phải hành động phù hợp
với những gì đã giảng dạy. Bốn cách quy phục chúng sinh
này có thể giúp vị Thầy tập hợp được những đệ tử
may mắn chung quanh Ngài.
Tất
cả những phẩm hạnh toàn hảo noi theo Giáo Pháp thuần tịnh
nhất
Khó
tìm thấy được trong thời buổi suy đồi này.
Nhưng
hãy tin tưởng vào vị Thầy, là vị tuyệt đối tuân giữ
ba giới nguyện,
Với
sở học uyên bác, lòng đại bi sâu thẳm,
Ngài
thiện xảo trong nghi thức của vô lượng Tạng Kinh và Mật
điển,
Trí
tuệ bát nhã của Ngài đến từ những xả bỏ và chứng
ngộ,
như quả ngọt trổ sanh,
Bốn
phẩm hạnh rực rỡ của Ngài, như đoá hoa quyến rũ,
Những
đệ tử may mắn sẽ tụ hội quanh Ngài như những đàn ong.
Đặc
biệt hơn nữa, đối với giáo lý tinh tuý thâm diệu của
những giáo huấn cốt lõi của Kim Cương Thừa thì vị Đạo
Sư mà chúng ta nên nương tựa phải giống như sau. Như đã
trình bày trong những Mật điển quý báu, Ngài phải đạt
được thành tựu nương vào những pháp quán đảnh đã được
truyền xuống đến Ngài từ một dòng truyền thừa liên tục
không gián đoạn. Ngài không vi phạm giới nguyện hoặc mật
nguyện đã thọ nhận lúc nhận quán đảnh. Không bị những
cảm xúc và tư tưởng bất thiện quấy rối, Ngài phải giữ
tâm an định và tuân giữ giới luật. Ngài phải thấu suốt
toàn bộ ý nghĩa của các Mật điển thuộc nền tảng, đạo
và quả của Kim Cương Thừa. Ngài phải đạt được tất
cả những dấu hiệu thành tựu trong những giai đoạn phát
triển và viên mãn của các pháp môn hành trì, như thấy được
linh kiến của các Bổn Tôn. Bản thân Ngài đã phải chứng
nghiệm được chân như – bản tánh của thực tại, và chính
Ngài đã có thể đạt được giải thoát. Sự an vui của người
khác phải là mối quan tâm duy nhất của Ngài, trái tim Ngài
tràn đầy lòng bi mẫn. Ngài phải ít ưu tư lo lắng, bởi
Ngài đã từ bỏ được tất cả mọi bám chấp vào những
sự việc tầm thường của cuộc đời này. Mối quan tâm duy
nhất của Ngài đối với những đời vị lai thì không là
gì khác hơn ngoài cái tâm kiên định hướng về Pháp. Nhìn
thấy cõi sinh tử luân hồi chỉ là khổ đau, Ngài phải cảm
nhận được một nỗi buồn vô hạn, và phải khuyến khích
những người khác cũng cảm nhận như thế. Ngài phải thiện
xảo trong việc chăm sóc các đệ tử và phải sử dụng những
phương pháp thích hợp phù hợp với căn cơ của từng người.
Sau khi đã hoàn tất các huấn lệnh bổn sư của Ngài, Ngài
phải trì giữ những năng lực gia trì của dòng truyền thừa.
Bậc
Thầy phi thường – trao truyền những giáo huấn cốt
tủy
Đã
thọ quán đảnh, gìn giữ mật nguyện, và luôn an bình;
Thấu
suốt ý nghĩa của các Mật điển nền tảng, đạo và quả;
Có
mọi dấu hiệu của phát triển và thành tựu, và đạt được
giải
thoát nương vào chứng ngộ;
Có
lòng bi mẫn vô hạn và chỉ quan tâm đến người khác;
Ít
các hoạt động thế tục và chỉ kiên quyết nghĩ tưởng
về Pháp;
Lão
luyện trong phương tiện và nhận được những gia hộ của
dòng truyền thừa.
Hãy
đi theo một vị Thầy như thế, và đạo quả thành tựu sẽ
đến thật chóng vánh.
Mặt
khác, có vài loại Thầy mà ta nên tránh. Những đặc tính
của họ như sau.
Vị
Thầy như cối xay bằng gỗ. Những vị Thầy này không
có dấu hiệu của những phẩm hạnh phát khởi từ sự học
hỏi, quán chiếu, và thiền định. Cho rằng mình là con hay
cháu tôn quý của một lạt ma nào đó nên họ và con cháu
họ phải siêu việt hơn bất kỳ ai khác, và họ bảo vệ
giai cấp của họ như những người bà la môn. Ngay cả nếu
họ đã học hỏi, quán chiếu và thiền định chút ít, họ
không làm những điều đó với bất kỳ ý hướng thanh tịnh
nào để đem lại lợi lạc cho những đời tương lai mà làm
vì những lý do thế tục nhiều hơn. Riêng khả năng của họ
đối với việc đào tạo đệ tử thì họ cũng gần giống
như một chiếc cối xay bằng gỗ.
Vị
Thầy giống như ếch ngồi đáy giếng. Những vị Thầy
thuộc loại này không có bất kỳ phẩm hạnh đặc biệt nào
để có thể phân biệt với người thường. Nhưng người
khác lại sùng bái họ với lòng tin mù quáng, hoàn toàn không
quán sát họ. Dương dương tự đắc bởi thanh danh và lợi
dưỡng nhận được, bản thân họ hoàn toàn không biết tới
những phẩm tính thực sự của một vị Thầy vĩ đại. Họ
như con ếch sống trong một cái giếng.
Một
ngày nọ, một con ếch sống trên bờ một đại dương tới
thăm con ếch già luôn luôn sống trong một cái giếng.
“Bạn
từ đâu đến?” con ếch sống trong giếng hỏi.
“Tôi
từ đại dương tới,” ếch khách trả lời.
“Đại
dương của bạn lớn như thế nào?” con ếch dưới giếng
hỏi.
“Thật
vĩ đại,” con ếch kia trả lời.
“Có
bằng một phần tư cái giếng của tôi không?” ếch dưới
giếng hỏi.
“Ồ!
Lớn hơn nhiều!” con ếch ở đại dương kêu lên.
“Bằng
phân nửa không?”
“Không,
lớn hơn vậy,”
“Vậy
bằng cái giếng này không?”
“Không,
không, lớn hơn nhiều, hơn nhiều lắm!”
“Không
thể được!” con ếch sống dưới giếng nói. “Tôi phải
thấy tận mắt.”
Vì
thế, hai con ếch cùng đi, và câu chuyện tiếp tục rằng khi
con ếch ở giếng nhìn thấy đại dương, nó ngất đi, bể
đầu ra mà chết.
Những
người dẫn đường điên rồ. Đó là những vị Thầy
có rất ít kiến thức, chưa bao giờ nỗ lực theo chân một
vị Thầy uyên bác nào và chưa tu tập các pháp môn theo Kinh
điển và Mật điển. Những cảm xúc bất thiện cùng với
chánh niệm và tỉnh giác rất yếu ớt của họ khiến họ
lơ là trong việc gìn giữ giới nguyện. Mặc dù trí lực thấp
kém hơn người thường, họ bắt chước những vị thành tựu
giả và cư xử như thể hành động của họ còn cao hơn bầu
trời.94 Tràn ngập sân hận và ghen tị, họ phá vỡ huyết
mạch của lòng từ bi. Những thiện hữu tri thức tâm linh
như thế được gọi là những người hướng dẫn điên rồ,
và đưa dẫn bất kỳ ai theo họ rơi xuống con đường lầm
lạc.
Những
người hướng dẫn mù quáng. Đặc biệt, một vị Thầy
mà phẩm hạnh không hơn được bạn và thiếu lòng từ bi
của Bồ Đề Tâm thì sẽ không bao giờ có thể khai mở cho
bạn về những gì nên làm và không nên làm. Các vị Thầy
như vậy được gọi là những người hướng dẫn mù quáng.
Giống
như người Bà la môn, một số bảo vệ giai cấp của họ,
Hoặc
trong vực thẳm lo âu cho sự sống còn của danh vọng,
Họ
tự đắm mình trong cái học và cái quán chiếu hư ngụy;
Những
người dẫn đường như vậy giống cái cối xay bằng
gỗ.
Một
số người, dù chẳng khác gì những kẻ bình thường,
Sống
dựa trên niềm tin ngu dại của người khác,
Kiêu
căng vì lợi lộc, phẩm vật cúng dường và danh tiếng,
Những
người bạn như vậy giống như ếch ngồi đáy giếng.
Một
số người, có rất ít hiểu biết, lại bỏ bê những mật
nguyện và giới nguyện của họ,
Trí
lực thấp kém mà hành xử lại cao hơn trái đất,
Họ
phá vỡ huyết mạch của lòng từ và bi –
Những
người dẫn đường điên rồ như vậy chỉ có thể truyền
bá cái ác nhiều hơn.
Đặc
biệt nếu đi theo những người chẳng hơn gì chính bạn,
Những
kẻ không có Bồ Đề Tâm, bị thu hút chỉ bởi danh vọng
-
Sẽ
là một lỗi lầm to lớn; nhận những kẻ gian manh như vậy
Làm
những người dẫn đường mù quáng, bạn sẽ lang thang vào
sâu hơn trong vũng lầy bóng tối.
Bậc
Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana đã răn dạy rằng:
Không
quán sát vị Thầy
Thì
giống như uống thuốc độc;
Không
quán sát đệ tử
Thì
giống như lao xuống từ vách đá.
Bạn
đặt niềm tin vào vị Thầy tâm linh cho tất cả những đời
sau của bạn. Chính Ngài là người sẽ dạy cho bạn những
gì nên làm và không nên làm. Nếu bạn gặp một vị Thầy
giả mạo mà không quán sát đúng đắn, bạn sẽ ném đi cơ
hội của một người có khả năng tích lũy công đức trong
suốt cả đời, và những điêàu kiện tự do và thuận duyên
của đời người mà bạn đang có sẽ bị phí hoại. Điều
đó cũng giống như chỉ vì lầm tưởng là cái bóng cây nên
bạn bị một con rắn độc cuộn tròn dưới một thân cây
giết chết khi bạn tới gần.
Bởi
không quán sát vị Thầy một cách cẩn trọng
Những
kẻ sùng kính đã lãng phí công đức tích lũy,
Giống
như nhận lầm rắn độc là bóng cây,
Bị
lừa gạt, họ đánh mất tự do mà cuối cùng họ đã tìm
thấy.
Sau
khi quán sát vị Thầy cẩn thận và có được những đánh
giá không sai lạc, từ lúc bạn nhận ra rằng Thầy có tất
cả những phẩm hạnh tốt lành như đã được đề cập tới
thì bạn phải luôn luôn không ngừng nghỉ xem Ngài như là
một vị Phật trong thân tướng con người.95 Tất cả những
phẩm hạnh trong Thầy đều toàn thiện. Ngài là hiện thân
của trí tuệ bi mẫn của thập phương chư Phật, xuất hiện
trong thân tướng của một con người bình thường chỉ để
làm lợi lạc cho chúng sinh.
Vị
Thầy với trọn vẹn những phẩm hạnh vô lượng,
Chính
là trí tuệä và lòng đại bi của tất cả chư Phật,
Xuất
hiện trong thân người để phổ độ chúng sinh.
Ngài
là suối nguồn vô song của thành tựu.
Vì
vậy, một vị Thầy chân chính như thế có thể khéo léo hướng
dẫn những người bình thường cần Ngài giúp đỡ, cách hành
xử hàng ngày của Ngài thích ứng với hành xử của những
người bình thường. Nhưng trong thực tế, tuệ giác của Ngài
là trí tuệ của một vị Phật, vì thế Ngài hoàn toàn khác
biệt với mọi người. Mỗi hành động của Ngài đơn thuần
là công hạnh của một bậc giác ngộ thuận theo những người
mà Ngài muốn đem lại lợi lạc cho họ. Do đó, Ngài là đấng
tôn quý độc nhất vô nhị.
Khéo
léo chặt đứt những do dự và nghi ngờ, Ngài kiên nhẫn chịu
đựng tất cả sự bội ơn và ngã lòng của đệ tử, giống
như một người mẹ xử sự với đứa con duy nhất của mình.
Để
dẫn dắt chúng sinh, Ngài hành xử linh hoạt hoàn toàn
giống
tất cả chúng ta.
Nhưng
thực ra Ngài hoàn toàn khác biệt.
Sự
Giác Ngộ của Ngài khiến Ngài là bậc tôn quý nhất.
Khéo
léo chặt đứt những hoài nghi của chúng ta, Ngài
chịu
đựng với sự nhẫn nại
Mọi
sự ngã lòng và vô ơn của chúng ta.
Vị
Thầy với tất cả những phẩm hạnh này cũng giống như một
chiếc thuyền lớn vượt qua đại dương luân hồi mênh mông.
Giống như một hoa tiêu lão luyện, Ngài luôn luôn vạch ra
con đường dẫn tới giải thoát và toàn giác cho chúng ta.
Như một giọt cam lồ, Ngài dập tắt ngọn lửa dữ của ác
nghiệp và của cảm xúc bất thiện. Giống như mặt trời
và mặt trăng, Ngài chiếu rọi ánh sáng của Giáo Pháp và
xua tan bóng tối dầy đặc của vô minh. Giống như đất, Ngài
kiên nhẫn chịu đựng sự vô ơn, ngã lòng, và năng lực của
Kiến và Hành của Ngài thì hết sức bao la. Như một cây như
ý, Ngài là suối nguồn của tất cả những sự giúp đỡ
trong đời này và tất cả hạnh phúc trong những đời sau.
Giống như một chiếc bình toàn hảo, Ngài là một kho tàng
của tất cả các Thừa và các giáo lý mà người ta từng
mong ước. Giống như ngọc như ý, Ngài hiển lộ những khía
cạnh không thể nghĩ bàn của bốn công hạnh phù hợp với
căn cơ của chúng sinh. Giống như người mẹ hay cha, Ngài yêu
thương mỗi một chúng sinh trong vô lượng chúng sinh một cách
bình đẳng, không có bất kỳ tham luyến nào với những người
thân cận Ngài và ghét bỏ những người khác. Giống như một
con sông lớn, lòng đại bi của Ngài bao la tới nỗi dung chứa
được tất cả chúng sinh vô tận như không gian, và nhanh chóng
tới nỗi cứu giúp được tất cả những chúng sinh đang đau
khổ và không người che chở. Như sơn vương, tâm hoan hỷ
của Ngài trước hạnh phúc của người khác thì kiên cố
tới nỗi không thể chuyển dời bởi tâm ghen tị, hay bị
dao động bởi những ngọn gió của hiện tượng. Giống như
trận mưa đổ xuống từ một đám mây, tâm vô phân biệt
của Ngài không bao giờ bị xáo trộn bởi sự bám chấp hay
ganh ghét.
Ngài
là con thuyền lớn chở chúng ta vượt qua biển luân hồi,96
Là
vị hoa tiêu lão luyện, không chút sai lạc vạch ra con
đường vi diệu,
Là
trận mưa cam lồ làm mát dịu bao phiền não của những
xúc
cảm và hành động bất thiện,
Là
mặt trời, mặt trăng xua tan bóng tối vô minh.
Ngài
là mặt đất, nhẫn nại vô biên,
Là
cây như ý, suối nguồn của mọi ơn gia trì và hạnh
phúc,
Là
chiếc bình toàn hảo chứa đựng kho tàng Giáo Pháp.
Ngài
ban cho tất cả, còn hơn cả một viên ngọc như ý.
Ngài
là cha và mẹ, yêu thương tất cả ngang bằng.
Lòng
đại bi của Ngài bao la và thần tốc như con sông lớn.
Tâm
hoan hỷ thì bất biến như vị sơn vương.
Không
gì có thể nhiễu loạn tâm vô phân biệt của Ngài,
giống
như trận mưa đổ xuống từ một đám mây.
Một
vị Thầy như thế ngang bằng với tất cả chư Phật nhờ
bởi lòng bi mẫn và năng lực gia hộ của Ngài. Những người
có mối liên hệ tốt lành với Ngài sẽ đạt được Phật
Quả chỉ trong một đời. Ngay cả những người đã tạo một
mối liên hệ bất thiện với Ngài cuối cùng cũng sẽ được
dẫn dắt ra khỏi luân hồi sinh tử.
Một
vị Thầy như vậy ngang bằng với tất cả chư Phật.
Nếu
ngay cả những kẻ gây tổn hại cho Ngài vẫn được
dẫn
dắt trên con đường hạnh phúc,
Thì
đối với những người chân thành tin tưởng nơi Ngài
Sẽ
có những cõi tịnh độ và giải thoát ban rải như mưa.
II.
THEO CHÂN THẦY
Hỡi
thiện nam tử, con phải nghĩ rằng chính mình đang bị bệnh...
Đây
là câu đầu tiên khởi đầu cho một loạt các ẩn dụ được
nhắc tới trong [một phẩm trong] Kinh Hoa Nghiêm. Những bệnh
nhân tự đặt mình dưới sự chăm sóc của một vị y sĩ
khéo léo. Những lữ khách trên con đường nguy hiểm đặt
niềm tin nơi những người bảo vệ can trường. Đối mặt
với hiểm nguy từ những quân thù, kẻ trộm cướp, hay dã
thú…, người ta mong đợi có một người bạn đồng hành
để được bảo vệ. Những thương nhân vượt đại dương
hướng tới đất liền giao phó thân mạng của mình cho vị
thuyền trưởng. Những lữ khách dùng thuyền phà qua sông giao
phó bản thân cho thuỷ thủ. Cũng thế, để được che chở
trước cái chết, trước sự tái sinh trong luân hồi và trước
những cảm xúc ô nhiễm, chúng ta phải đi theo chân một vị
Thầy, một thiện hữu tri thức.
Như
bệnh nhân nương cậy nơi thầy thuốc,
Lữ
khách nương cậy người bảo vệ,
Kẻ
khiếp sợ nương cậy bạn đồng hành,
Thương
nhân nương cậy nơi thuyền trưởng,
Và
khách qua sông nương cậy người lái đò -
Nếu
sinh tử và cảm xúc ô nhiễm là kẻ thù mà bạn sợ hãi,
Hãy
giao phó chính bạn cho một vị Thầy.
Một
đệ tử can đảm được trang bị đầy đủ bằng lòng quả
quyết sẽ không bao giờ làm Thầy phiền lòng, cho dù phải
trả giá bằng cuộc đời của họ. Tâm họ kiên cố tới
nỗi không bao giờ bị lay động trước những hoàn cảnh khắc
nghiệt, họ phụng sự Thầy mà không cần quan tâm tới sức
khỏe hay mạng sống của mình, và tuân thủ mọi huấn lệnh
của Thầy không thiếu một điểm nào vàø quy ngưỡng Thầy.
Những
người được trang bị đầy đủ và có lý trí kiên định,
Phụng
sự Thầy mà không màng đến sức khỏe hay mạng sống của
mình,
Tuân
theo những giáo huấn của Ngài không màng tới bản thân,
Sẽ
được giải thoát chỉ nhờ năng lực của lòng quy ngưỡng.
Để
theo chân vị Thầy, bạn phải có nhiều lòng tin nơi Ngài tới
nỗi bạn xem Ngài đích thật là một vị Phật. Bạn phải
có sự phân định và thấu suốt giáo lý tới nỗi bạn có
thể nhận ra được trí tuệ ẩn tàng dưới những hành động
thiện xảo của Ngài, và nắm bắt bất kỳ những gì Ngài
truyền dạy cho bạn. Bạn phải cảm thấy lòng bi mẫn bao
la đối với tất cả những ai đang đau khổ vì không được
che chở. Bạn phải tôn kính những giới nguyện và mật nguyện
mà đạo sư dạy bạn phải giữ gìn, và phải an định và
tự chủ trong mọi hành vi, ngôn ngữ và tư tưởng của bạn.
Quan điểm của bạn phải rộng lớn tới nỗi có thể chấp
nhận bất kỳ những gì Thầy và những thiện hữu tri thức
có thể làm. Bạn phải quảng đại rộng rãi tới nỗi có
thể cúng dường Thầy bất kỳ những gì bạn sở hữu. Nhận
thức của bạn về tất cả mọi sự phải thanh tịnh, tránh
chỉ trích và để cho bị nhiễm ô. Bạn phải tự chế không
làm bất kỳ điều ác hại hay bất thiện nào, và e sợ khi
làm Ngài không hài lòng.
Hãy
có niềm tin, sự phân định, hiểu biết và lòng bi mẫn lớn
lao.
Hãy
tôn kính giới nguyện và mật nguyện.
Hãy
làm chủ thân, khẩu, ý.
Hãy
khoáng đạt và quảng đại.
Hãy
có thị kiến thanh tịnh và một ý thức tự chế.
Kinh
Hoa Nghiêm và những bản văn khác cũng dạy rằng khi theo chân
một vị Thầy, chúng ta phải giống như con ngựa hoàn hảo,97
luôn luôn hành động phù hợp với ý muốn của Ngài trong
mọi tình huống, khéo léo tránh làm tất cả những việc gì
có thể khiến Ngài phật lòng, và không bao giờ giận dữ
hay phẫn uất ngay cả khi bị Ngài quở trách nặng nề. Giống
như một con thuyền, chúng ta không nên mỏi mệt khi tới lui
mang những thông điệp hay làm những công việc khác để phục
dưỡng Ngài. Giống như một cây cầu, không gì mà chúng ta
không thể đảm đương dù những nhiệm vụ Ngài yêu cầu
chúng ta làm có dễ chịu hay không. Giống như một cái đe
thợ rèn, chúng ta phải chịu đựng nóng, lạnh và mọi nỗi
gian khó khác. Giống như một người hầu, chúng ta tuân theo
mọi mệnh lệnh của Ngài. Giống như một người phu quét
đường,* đừng bao giờ kiêu căng mà hãy giữ vị trí thấp
nhất. Giống như một con bò bị gẫy sừng, chúng ta nên từ
bỏ kiêu mạn và hãy kính trọng mọi người.
*
Trong chế độ giai cấp của Ấn Độ, người phu quét đường
ở trong một giai cấp xã hội thấp nhất, và buộc phải hành
xử một cách (thấp kém) rất chênh lệch so với những giai
cấp khác.
Hãy
khéo léo đừng bao giờ làm phật lòng Thầy,
Đừng
phẫn uất vì bị Ngài khiển trách, hãy như con ngựa hoàn
hảo,
Như
một con thuyền, đừng bao giờ mệt mỏi khi qua lại.
Hãy
chịu đựng tất cả những gì xảy đến, dù xấu hay tốt,
giống như một chiếc cầu. Hãy chịu đựng nóng, lạnh và
bất kỳ gian khó nào khác, như một cái đe.
Hãy
tuân theo mọi mệnh lệnh của Ngài, giống như một người
hầu.
Hãy
vứt bỏ mọi sự tự phụ, như một người phu quét đường,
Và
thoát khỏi mọi kiêu mạn, như con bò gẫy sừng.
Tam
Tạng Kinh điển đã nói rằng đó là cách thức để theo chân
Thầy.
Có
ba cách làm hài lòng Thầy và phụng dưỡng Ngài. Cách tốt
nhất được biết đến là cúng dường công phu hành trì,
bao gồm việc đưa vào thực hành bất kỳ điều gì Ngài đã
dạy bảo với sự quyết tâm bất chấp mọi gian khổ. Cách
thức trung bình là phụng dưỡng bằng thân, khẩu, có nghĩa
là hầu cận Ngài và thực hiện bất kỳ những gì Ngài muốn
bạn làm xuyên qua thân, khẩu, hay ý. Cách thấp nhất là cúng
dường vật chất, có nghĩa làm Thầy của bạn vui lòng bằng
cách dâng lên Ngài của cải vật chất, thực phẩm, tiền
bạc, v.v..
Của
cải bạn có thể có, hãy cúng dường cho đệ Tứ Bảo,*
Tôn
kính và phụng dưỡngï Ngài với thân và ngữ,
Cả
ba phương cách này, không hề có cách nào là lãng phí.
Nhưng
trong ba cách làm Ngài hoan hỉ, công phu thực hành là tuyệt
vời nhất.
*
Vị Thầy, hiện thân của Tam Bảo, được xem như là viên
ngọc quý thứ tư- đệ Tứ Bảo. Xem Phần II, Chương
1.
Cho
dù vị Thầy có thể hành xử một cách khó hiểu như thế
nào chăng nữa thì bạn hãy luôn luôn duy trì một tri kiến
thanh tịnh, và hãy nhận thức ra rằng cách hành xử của Ngài
chính là những phương pháp thiện xảo.
Đại
học giả Naropa đã là một học giả uyên thâm và đại thành
tựu giả. Nhưng Bổn Tôn của Ngài bảo Ngài rằng vị Thầy
trong những đời trước của Ngài là Ngài Tilopa vĩ đại,
và Naropa nên đi tới miền đông Ấn Độ để tìm gặp Thầy
mình. Naropa lập tức lên đường, nhưng khi tới miền Đông
Ấn thì Ngài không biết phải tìm Tilopa ở đâu. Ngài hỏi
những người dân địa phương nhưng họ cũng không biết.
“Trong
vùng này, có ai tên Tilopa không?” Ngài nài nỉ.
“Có
một người tên là Tilopa thuộc Tiện Cấp (giai cấp bần cùng
nhất), hay là Tilopa Hành Khất.”
Naropa
nghĩ, “Công hạnh của những bậc thành tựu thì không thể
nghĩ bàn. Chắc hẳn đây là Ngài rồi.” Ngài bèn hỏi Tilopa
Hành Khất sống ở đâu.
“Ở
bức tường đổ đằng kia, nơi có khói bốc lên,” họ trả
lời.
Khi
đến nơi được chỉ thì Ngài thấy Tilopa ngồi trước một
cái chậu gỗ đựng cá, một số con còn sống và một số
đã chết. Tilopa lấy một con cá đem nướng, và cho vào miệng,
trong khi búng những ngón tay. Naropa đảnh lễ và xin Tilopa nhận
Ngài làm đệ tử.
“Ông
nói gì?” Tilopa nói. “Ta chỉ là một kẻ hành khất!”.
Nhưng Naropa nài nỉ nên Tilopa nhận Ngài.
Lúc
đó Ngài Tilopa giết những con cá hoàn toàn không phải vì
Ngài đói hay không tìm được thứ gì khác để ăn. Loài cá
hoàn toàn vô minh không biết điều gì nên làm và điều gì
nên tránh, là những sinh vật có nhiều hành vi bất thiện,
và Tilopa có năng lực giải thoát chúng. Khi ăn thịt cá, Tilopa
đã nối kết được với tâm thức của chúng; nhờ đó Ngài
có thể chuyển thức của chúng vào cõi Phật thanh tịnh.1
Tương tự, Ngài Saraha làm thợ rèn mũi tên, Savaripa là một
thợ săn, và phần lớn những thành tựu giả vĩ đại khác
của Ấn Độ cũng đã chấp nhận những cách sống rất thấp
kém, thường là trong đẳng cấp bần cùng nhất. Do vậy, điều
quan trọng là ta không cho rằng bất kỳ hành động nào của
Thầy ta là sai lạc; hãy tu tập bản thân để chỉ có tri
kiến thanh tịnh.
1
Việc búng những ngón tay là một phần của pháp chuyển di
tâm thức của những chúng sinh khác vào một cõi tịnh độ.
Pháp thực hành chuyển di tâm thức (‘pho-ba) được giảng
dạy trong Phần Ba của tập sách này. 2 Pitakas: ba phân loại
trong những giáo lý của Đức Phật. Xem Tripitaka (Tam Tạng)
trong phần Thuật Ngữ.
Đừng
ngộ nhận hành động của vị Thầy.
Hầu
hết những thành tựu giả Ấn Độ đã sống
Như
những kẻ dung tục làm điều ác, thuộc giai cấp cùng đinh
Còn
tệ hại hơn cả những kẻ bần cùng nhất trong giai cấp bần
cùng.
Những
kẻ không biết đến điều này, tiếp tục ngộ nhận và chỉ
trích những gì Thầy của họ làm, thì như Kinh văn có nói,
họ sẽ tìm thấy ra lỗi lầm ngay cả trong một vị Phật
nếu họ sống với Ngài trong một thời gian đủ dài lâu.
Nhà
sư Sunaksatra là anh em cùng cha khác mẹ của Đức Phật. Ông
đã phụng dưỡng Đức Phật trong hai mươi bốn năm ròng,
và thuộc lòng tất cả mười hai loại giáo lý trong Tam Tạng
kinh điển.2 Nhưng ông ta lại cho rằng tất cả những gì Đức
Phật làm là giả dối, và cuối cùng đi đến kết luận sai
lầm là giữa ông ta và Đức Phật không có gì khác biệt.
Ngoại
trừ vầng hào quang rộng sáu bộ quanh Ngài,
Suốt
hai mươi bốn năm làm thị giả, tôi chưa từng thấy trong
Ngài
Những tánh đức đặc biệt nào, ngay cả chỉ đáng bằng
một hạt mè.
Về
Giáo Pháp, tôi cũng biết nhiều như Ngài – nên tôi sẽ
chẳng làm thị giả cho Ngài nữa!
Nói
như thế xong, ông ta bỏ đi. Sau đó, Ngài Ananda trở thành
thị giả riêng của Đức Phật. Ngài hỏi Phật rằng Sunaksatra
sẽ tái sinh ở đâu.
“Trong
thời gian một tuần,” Đức Phật trả lời, “Sunaksatra sẽ
chết và tái sinh làm một ngạ quỷ trong một vườn hoa.”
Ngài
Ananda đến gặp Sunaksatra và thuật lại những gì Đức Phật
đã nói. Sunaksatra tự nghĩ: “Đôi khi những lời dối trá
đó của Đức Phật trở thành sự thật, vì thế tốt hơn
hết là ta phải hết sức thận trọng trong bảy ngày. Đến
cuối tuần ta sẽ bắt ông ta nuốt lại những lời này.”
Ông ta chay lạt trong một tuần. Vào buổi chiều của ngày
thứ bảy, ông cảm thấy họng rất khô nên uống một ít
nước. Nhưng nước uống vào không tiêu được nên ông ta
chết và bị tái sinh làm một ngạ quỷ trong vườn hoa với
đầy đủ chín dị tướng xấu xí.
Bất
cứ khi nào bạn nhận thấy những lỗi lầm trong bất kỳ
điều gì vị Thầy siêu phàm của bạn làm thì bạn phải
tự cảm thấy ngượng ngùng và xấu hổ một cacùh thật sâu
sắc trong lòng. Hãy quán chiếu rằng chính cái thấy của tâm
thức bạn là bất tịnh, và tất cả mọi hành động của
Ngài đều không có tì vết và không sai trái; hãy làm cho tri
kiến thanh tịnh này trở nên vững chắc và làm tăng trưởng
tín tâm của bạn.
Chưa
làm chủ được những tri kiến riêng,
Mà
tìm kiếm những lỗi lầm nơi người khác,
Đây
là một sai lầm vô hạn.
Mặc
dù thuộc lòng mười hai loại giáo lý,
Tỳ
kheo Sunaksatra bị năng lực của cái ác chế ngự,
Và
nhìn thấy hành động của Đức Phật là giả dối.
Hãy
cẩn thận suy ngẫm về điều này và chỉnh sửa bản
thân.
Khi
vị Thầy có vẻ giận dữ với bạn thì bạn không được
tức giận. Thay vào đó, hãy tự nhắc rằng hẳn là Ngài đã
thoáng nhận ra một lỗi lầm nào đó trong bạn và qua cơn
thịnh nộ của Thầy thì hãy thấy rằng đây là lúc để
chỉnh sửa lỗi lầm của mình. Khi cơn giận của Ngài giảm
đi, hãy tới sám hối những lỗi lầm của bạn và hứa với
Ngài là bạn sẽ không tái phạm nữa.
Nếu
Thầy của bạn nổi cơn thịnh nộ, hãy kết luận rằng
Ngài
đã nhìn thấy một lỗi lầm trong bạn.
Đã
tới lúc phải sửa sai bằng lời khiển trách của Ngài.
Hãy
sám hối và nguyện không bao giờ tái phạm.
Như
thế, người minh trí sẽ không rơi vào ảnh hưởng của Ma
vương.
Khi
có mặt Thầy thì thay vì cứ ngồi yên vị, hãy lập tức
đứng lên bất cứ khi nào Ngài còn đứng. Khi Ngài ngồi xuống,
hãy vấn an sức khoẻ của Ngài. Khi bạn nghĩ có thể Ngài
cần một điều gì đó, ngay lập tức hãy đem lại những
gì làm Ngài vui lòng.
Khi
làm một thị giả đi theo vị Thầy, hãy tránh đừng đi phía
trước Ngài bởi như thế bạn sẽ quay lưng của bạn lại
với Ngài. Tuy nhiên không nên đi phía sau Ngài vì bạn có thể
đạp lên dấu chân Ngài.* Bạn cũng không nên đi phía bên
phải Ngài, vì đó là vị trí dành cho sự tôn kính. Thay vào
đó, hãy kính cẩn đi bên trái và hơi lui lại phía sau Ngài.
Nếu đường đi có nguy hiểm, thì lúc đó sẽ không có gì
sai trái nếu bạn xin phép Ngài được vượt lên trước.
*
Bởi vị Thầy tâm linh được xem là một vị Phật nên nơi
naò Ngài bước chân lên (in dấu chân của Ngài) thì nơi đó
được gia hộ.
Đối
với toà ngồi và chỗ giảng dạy của Ngài, đừng bao giờ
dẫm lên tấm nệm và không được leo lên, hoặc cưỡi ngựa
của Ngài. Không nên đóng hay mở cửa mạnh tay; hãy làm nhẹ
nhàng. Hãy hạn chế tất cả mọi biểu lộ phù phiếm hay
bất mãn khi có mặt Ngài. Cũng tránh nói lời dối trá, thiếu
cân nhắc hay nói những lời không thành thật, cười giỡn,
làm trò hề, và nói chuyện vãn không cần thiết hay không
thích hợp. Hãy học cách cư xử trong một thái độ tự chế,
đối xử với Ngài bằng lòng tôn kính, và không bao giờ buông
thả tùy tiện.
Không
nên ngồi yên khi Thầy đứng dậy;
Khi
Ngài ngồi, hãy quan tâm đem lại mọi thứ Ngài cần.
Không
nên đi bộ phía trước, phía sau hay bên phải Ngài.
Không
tôn kính cương ngựa hay toà ngồi của Ngài sẽ khiến công
đức của bạn bị hao tổn.
Không
nên đóng sầm cửa; đừng ra vẻ tự phụ hay cau có;
Tránh
nói dối, cười đùa, nói năng thiếu thận trọng và không
chính đáng.
Hãy
phụng dưỡng Ngài với sự điềm tĩnh, chuẩn mực của thân,
khẩu, ý.
Nếu
có người chỉ trích hay thù ghét Thầy của bạn thì không
nên cư xử với họ như những người bạn. Nếu bạn có khả
năng thay đổi thái độ của bất cứ những người nào không
có niềm tin hay xem thường Thầy thì bạn nên kết bạn với
họ. Nhưng nếu không thể làm được chuyện này thì hãy tránh
nói chuyện quá cởi mở hay thân mật với những người như
thế.
Không
nên làm bạn với những người chỉ trích, hay thù ghét Thầy
của bạn.
Hãy
chuyển hoá tâm họ nếu bạn có thể.
Nếu
bạn trò chuyện thoải mái với họ,
Ảnh
hưởng mạnh mẽ của những hành động sai lầm của họ
Sẽ
làm tổn hại mật nguyện của riêng bạn.
Dù
có phải tốn nhiều thời giờ với giáo đoàn của Thầy hay
với những huynh đệ, tỉ muội kim cương của bạn, thì cũng
đừng bao giờ cảm thấy mệt mỏi buồn chán hay cáu kỉnh
với họ, hãy dễ chịu thoải mái như một sợi dây lưng.
Hãy kềm chế tánh tự tôn của bạn và hội nhập trong mọi
hoạt động, hoà hợp dễ dàng như muối tan trong thức ăn.
Khi người ta nói nặng lời hay gây chuyện với bạn, hoặc
khi bạn phải đảm nhậm trách nhiệm quá lớn, hãy sẵn sàng
chịu đựng bất cứ cái gì giống như một cột trụ.
Giống
như sợi dây lưng, hãy là một người bạn đồng hành dễ
chịu;
Giống
như muối, hãy dễ dàng hoà hợp;
Giống
như cột trụ, hãy chịu đựng không mỏi mệt bất kỳ gánh
nặng nào;
Vì
thế, hãy phụng dưỡng chư huynh đệ kim cương và các thị
giả của Thầy
III.
NOI GƯƠNG CHỨNG NGỘ 98
VÀ
CÔNG HẠNH CỦA THẦY
Khi
bạn hoàn toàn thuần thục trong cách thức theo chân một vị
Thầy, bạn phải giống như một con thiên nga lướt nhẹ nhàng
trên mặt hồ tinh khiết, vui đùa trong nước mà không làm
nước vẩn đục; hay giống như một con ong trong vườn hoa,
hút mật từ những đoá hoa nhưng không làm tổn hại màu sắc
hay hương thơm của chúng. Hãy làm bất cứ điều gì Ngài
dạy bảo mà không bao giờ cảm thấy chán nản hay mệt mỏi.
Hãy lãnh hội từ vị Thầy của bạn, và bằng niềm tin và
sự kiên định, hãy quyết tâm thấm nhuần tất cả những
phẩm tính trí tuệ, quán chiếu và thiền định của Ngài,
giống như những gì chứa đựng trong một cái bình hoàn hảo
được rót sang một chiếc bình khác.
Giống
như một con thiên nga bơi trên mặt hồ tuyệt hảo.
Hay
con ong nếm hưởng mật hoa,
Không
bao giờ phàn nàn, mà luôn luôn lãnh hội lời Ngài,
Hãy
luôn hầu hạ Thầy trong cung cách mẫu mực.
Nhờ
lòng sùng kính như vậy, bạn sẽ trực nghiệm tất cả
mọi
phẩm hạnh của Ngài.
Bất
cứ khi nào vị Thầy siêu phàm của bạn tích lũy được những
cơn sóng phước tuệ vĩ đại qua những công hạnh Bồ Tát
của Ngài, thì việc chính bạn tham gia vào công đức tích
lũy công đức đó – bằng những phẩm vật cúng dường tối
thiểu hay qua những nỗ lực của thân hay khẩu, hoặc thậm
chí chỉ với vật cúng dường là tâm hoan hỷ của bạn trước
sự việc nhỏ bé nhất mà Ngài đã làm – thì điều này
cũng sẽ đem lại cho bạn nhiều công đức như những công
đức đã phát sinh ra từ chính tác ý vô song của Ngài.
Một
lần kia có hai người du hành đến trung tâm Tây Tạng. Thực
phẩm duy nhất của một trong hai người là một nhúm bột
tsampa nâu làm bằng đậu. Ông ta đưa bột cho người bạn
đồng hành, trộn nó với một số lượng rất nhiều bột
tsampa làm bằng lúa mạch trắng của người kia. Vài ngày sau,
người khá giả hơn trong hai người nói với bạn rằng: “Có
lẽ bây giờ bột tsampa của anh đã hết.”
“Hãy
nhìn xem,” người kia nói. Họ nhìn thấy vẫn còn một ít
bột tsampa làm bằng đậu. Mặc dù họ kiểm điểm nhiều
lần, bột tsampa làm bằng đậu vẫn không hết, nên cuối
cùng họ phải chia đều tất cả bột tsampa ra.
Cũng
thế, chỉ nhờ cúng dường một phần các đóng góp nhỏ bé
cho những hành động thiện lành của người khác, hay bằng
cách tham gia bằng thân hay khẩu, bạn cũng có thể đạt được
nhiều công đức như họ. Đặc biệt hơn nữa, nếu bạn phụng
dưỡngï cho những nhu cầu hàng ngày của Thầy, đi đưa tin
cho Ngài hoặc thậm chí chỉ quét dọn phòng Ngài là cũng một
cách tích lũy công đức không thể sai lầm; vì thế hãy nỗ
lực làm những việc như vậy càng nhiều càng tốt trong khả
năng của bạn.
Mọi
hành động phù hợp với mục đích của một vị thánh
sư,
Được
thật sự tiến hành trong Bồ Đề Tâm hạnh,
Sự
tích lũy công đức và trí tuệ,
Tất
cả mọi nỗ lực phụng dưỡng Thầy, đưa tin, hoặc ngay
cả
quét dọn phòng Ngài,
Tất
cả sẽ trổ quả lành – đây là con đường tích lũy
công
đức tốt lành nhất.
Trong
tất cả những suối nguồn cao cả nhất của quy y hay của
những cơ hội để tích tụ công đức thì không có thứ gì
lớn lao hơn vị Thầy. Đặc biệt là trong khi Ngài ban một
lễ quán đảnh hay giảng dạy, lòng bi mẫn và năng lực gia
trì của tất cả chư Phật và Bồ Tát trong mười phương
rót vào thân tướng vi diệu của Ngài, và Ngài trở nên bất
khả phân với tất cả chư Phật. Vì thế, trong một thời
điểm như vậy, việc cúng dường Ngài một miếng nhỏ thực
phẩm vào lúc ấy còn giá trị hơn hàng trăm hay hàng ngàn
vật cúng dường vào những lúc khác.
Trong
giai đoạn phát triển của pháp Bổn Tôn du già (deity yoga),
có rất nhiều hình tướng khác nhau của những vị
Bổn
Tôn để ta có thể thiền quán, nhưng bản tánh của tất cả
các Ngài không là gì khác hơn ngoài chính vị Bổn Sư hay vị
đạo sư gốc của bạn. Nếu biết được điều đó, năng
lực gia trì sẽ đến thật nhanh chóng. Trong giai đoạn toàn
thiện, tất cả những cách thức phát triển trí tuệ đều
tuỳ thuộc duy nhất vào năng lực của lòng quy ngưỡng Bổn
Sư của bạn và vào năng lực gia trì của Ngài. Điều này
bao gồm cả việc trí tuệ sẽ sinh khởi ngay trong bạn từ
chính sự chứng ngộ của Thầy. Như vậy, tinh túy của những
gì được chứng ngộ trong tất cả những giai đoạn hành
trì, bao gồm những chứng ngộ trong hai giai đoạn phát triển
và toàn thiện, tất cả đều được thể hiện trong chính
vị Thầy. Đó là điều tại sao tất cả Kinh điển và Mật
điển đều mô tả Ngài như một vị Phật trong thân tướng
của con người.
Vì
sao Ngài là nơi nương tựa và là ruộng công đức?
Do
bởi những pháp du già nội và ngoại để thành tựu Bổn
Sư
Chứa
đựng tinh túy của những chứng ngộ trong các giai đoạn phát
triển và toàn thiện.
Đó
là lý do tại sao tất cả Kinh điển và Mật điển đều nói
Ngài chính là một vị Phật.
Mặc
dù trí tuệ bát nhã của một vị Thầy siêu phàm thì đồng
nhất với tất cả chư Phật, nhưng Ngài đã xuất hiện trong
thân tướng của một người bình thường để dẫn dắt chúng
ta là những đệ tử ô trược của Ngài. Vì thế, trong lúc
chúng ta có được Ngài ở đây trong thân tướng con người,
chúng ta phải nỗ lực hết mức để thực hiện bất kỳ
điều gì Ngài dạy bảo và để hợp nhất tâm chúng ta với
tâm Ngài qua ba loại phụng dưỡng khác nhau.
Có
những người, thay vì phụng dưỡng, tôn kính và vâng lời
Thầy khi Ngài còn sống, thì giờ đây lại tự cho là Ngài
đã viên tịch để ngồi thiền định trước một tấm hình
ai đó đã họa Ngài. Có những người cho là đã an trụ được
trong những quán chiếu về chân như và họ đi tìm kiếm tất
cả những gì uyên áo cao siêu ở nơi đâu khác thay vì cầu
nguyện với lòng quy ngưỡng để có thể đón nhận được
những phẩm hạnh cao cả của giải thoát và chứng ngộ
được trí tuệ bát nhã của Thầy. Điều này được gọi
là “thực hành mâu thuẫn với pháp hành trì.”
Việc
được gặp gỡ Thầy và được Ngài dẫn dắt trong trạng
thái trung ấm chỉ có thể xảy ra do một sự nối kết tâm
thức đã được thiết lập trước đó nương vào lòng sùng
kính vô biên của chúng ta và vào năng lực của lòng từ bi
và cầu nguyện của vị Thầy. Không phải là Thầy sẽ đến
trong thân vật lý. Vì vậy, nếu bạn thiếu lòng quy ngưỡng
thì cho dù vị Thầy có thể toàn thiện tới đâu chăng nữa,
Ngài sẽ không hiện diện ở đó để dẫn dắt bạn trong
trạng thái trung ấm.
Hầu
hết những kẻ xuẩn ngốc sử dụng hình Thầy để thiền
định
Mà
không tôn kính Ngài khi Ngài hiện diện trước mặt.
Họ
quả quyết là thiền định về chân như, mà không thấu hiểu
tâm của Thầy.
Thật
là một tai hoạ khi thực hành mâu thuẫn với pháp hành trì!
Không
có lòng quy ngưỡng mà gặp được Thầy trong trạng
thái
trung ấm thì quả là phép lạ!
Trước
hết, bạn phải cẩn thận quán sát vị Thầy. Điều này có
nghĩa là trước khi cam kết đi theo Ngài qua những lễ quán
đảnh và những giảng dạy, bạn phải quán sát Ngài thật
kỹ lưỡng. Nếu bạn nhận ra rằng Ngài có tất cả những
phẩm hạnh và tánh đức của một vị Thầy, thì hãy theo
chân Ngài. Nếu vị Thầy thiếu một số phẩm hạnh thì đừng
nên theo. Nhưng, từ lúc bắt đầu theo Ngài trở đi, hãy học
tập để có niềm tin nơi
Ngài
và nhìn Ngài với một tri kiến thanh tịnh, chỉ nghĩ tưởng
tới những công hạnh của Ngài và thấy rằng tất cả những
gì Ngài làm là thiện lành. Việc đi tìm những sai lầm nơi
Ngài sẽ chỉ đem lại cho bạn những bất hạnh không thể
suy lường.
Quán
sát vị Thầy theo ý nghĩa chung có nghĩa quán sát xem Ngài có
tất cả những phẩm hạnh đã được mô tả trong các Kinh
điển và Mật điển hay không. Điều tối quan trọng là Ngài
phải có Bồ Đề Tâm hay tâm giác ngộ. Như vậy thì việc
quán sát một vị Thầy có thể cô đọng thành một điểm
duy nhất: Ngài có Bồ Đề Tâm không? Nếu Ngài có Bồ Đề
Tâm, Ngài sẽ làm bất cứ những gì tốt nhất cho đệ tử
trong đời này và cho những đời tương lai, và việc họ đi
theo Ngài không thể mang lại điều gì khác ngoài sự lợi
ích. Giáo Pháp mà một vị Thầy như thế giảng dạy được
nối kết với Đại Thừa, và đưa tới con đường chân
chính. Trái lại, một vị Thầy thiếu Bồ Đề Tâm vẫn còn
những tham muốn ích kỷ, và vì thế không thể chuyển hóa
đúng đắn những quan điểm của đệ tử. Giáo Pháp mà họ
giảng dạy dù có vẻ sâu xa và kỳ diệu cũng chỉ đem lại
lợi ích cho những mối quan tâm tầm thường trong đời này.
Đối với những điểm cần phải quán sát về một vị Thầy
thì đây là điểm cô đọng tột yếu. Nếu trái tim của Thầy
tràn đầy Bồ Đề Tâm thì hãy theo chân Ngài, cho dù ở vẻ
bề ngoài Ngài có thể hiển lộ ra sao chăng nữa. Nếu vị
thầy không có Bồ Đề Tâm thì đừng nên theo, dù cho thoạt
đầu ta nhìn thấy tâm chán ghét thế gian, tâm cầu tìm giải
thoát hay công phu hành trì miên mật và cung cách hành xử của
vị thầy có ra vẻ tuyệt vời tới đâu chăng nữa.
Tuy
nhiên, với những người bình thường như chúng ta, không thể
có một khối lượng quán sát kỹ lưỡng nào có thể giúp
chúng ta tìm ra được những phẩm hạnh phi thường của những
bậc siêu phàm đó, là những vị luôn che ẩn chân tánh của
mình. Trong lúc đó, lại nhan nhản những kẻ bất tài bịp
bợm giả đò làm các bậc thánh, khéo léo trong nghệ thuật
lừa gạt. Bậc vĩ đại nhất trong tất cả những vị Thầy
là người mà chúng ta được có duyên nối kết với Ngài
từ những đời trước (duyên tiền kiếp). Đối với Ngài
thì việc quán sát thật không cần thiết. Hãy chỉ đơn giản
được diện kiến Ngài, chỉ lắng nghe giọng Ngài nói –
hoặc thậm chí chỉ nghe danh hiệu của Ngài – là mọi sự
có thể được chuyển hóa trong chốc lát và khơi dậy một
niềm tin đến nỗi chúng ta phải dựng tóc gáy.
Ngài
Rongton Lhaga nói với Ngài Milarepa* rằng: “Vị Lạt Ma mà ông
đã có duyên từ những kiếp trước là bậc tối hảo trong
tất cả muôn loài, là vua của các dịch giả, có danh
hiệu là Marpa. Ngài sống ẩn tu tại Trowolung ở miền Nam.
Hãy đi và tìm gặp Ngài!”
Chỉ
nghe tới tên của Ngài Marpa không thôi là cũng đã đủ để
khơi dậy trong Milarepa một niềm tin phi thường tận sâu thẳm
tâm hồn. Ngài nghĩ: “Ta phải tìm gặp vị Lạt Ma này và
trở thành đệ tử của Ngài, dù phải trả giá bằng cả
cuộc đời ta.” Ngài kể lại với chúng ta rằng vào ngày
hai thầy trò gặp nhau, Marpa đã ra đến tận ngoài đường
để ngóng tìm Milarepa nhưng giả vờ như đang cày ruộng. Khi
thoạt nhìn thấy Marpa, Milarepa không nhận ra được đó là
vị Đạo Sư của mình. Tuy nhiên, trong chốc lát, mọi niệm
tưởng lăng xăng tầm thường của Milarepa ngưng bặt và Milarepa
đã đứng sững cả người.
*
Tiểu sử Ngài Milarepa được thuật lại chi tiết hơn ở cuối
chương này.
Nói
chung, vị Đạo Sư mà chúng ta được gặp là do ở tri kiến
thanh tịnh hay bất tịnh của chúng ta, và do năng lực của
những hành nghiệp của ta trong quá khứ. Vì vậy, cho dù Ngài
có thể là người như thế nào chăng nữa thì cũng không bao
giờ được ngừng coi Ngài như là một vị Phật đích thực
mà nhờ vào thiện tâm của Ngài, bạn mới nhận được Giáo
Pháp và những chỉ dạy riêng. Nếu không nhờ những nhân
duyên tốt lành được tạo nên bởi những hành nghiệp của
bạn trong quá khứ thì bạn sẽ không bao giờ có may mắn gặp
được vị Thầy tuyệt hảo. Hơn nữa, nếu tri kiến của
bạn bất tịnh, thì cho dù bạn có thể gặp được Đức
Phật trong thân người, bạn cũng vẫn không thể nhận ra được
những phẩm tính phi thường của Ngài. Vị Thầy mà bạn gặp
nhờ vào năng lực của những hành nghiệp trong quá khứ, là
người đã gia hộ từ bi cho bạn, vị Thầy đó chính là vị
Thầy quan trọng nhất trong tất cả các vị Thầy.
Trong
giai đoạn ở giữa, hãy thực sự theo chân Thầy, tuân lời
Ngài trong tất cả mọi việc và bất chấp mọi gian khổ,
nóng, lạnh, đói, khát. Hãy khẩn cầu Ngài với niềm tin và
lòng quy ngưỡng. Hãy thỉnh cầu lời khuyên của Ngài về
bất kỳ những gì bạn làm. Bất kể điều gì Ngài nói với
bạn, hãy đưa vào thực hành, hoàn toàn nương tựa nơi Ngài.
Vào
giai đoạn cuối, hãy noi gương sự chứng ngộ và hành động
của vị Thầy, kể cả trong việc quán sát kỹ lưỡng cách
xử sự của Ngài và hãy làm đúng như Ngài đã làm. Như tục
ngữ có nói: “Mỗi hành vi là một sự noi gương; ai noi gương
giỏi nhất, thì đó là người hành xử tốt nhất.” Có thể
nói việc thực hành Giáo Pháp là sự noi gương chư Phật và
Bồ Tát trong quá khứ. Khi người đệ tử đang học tập để
trở thành giống như Thầy mình, anh ta cần phải thực sự
đồng nhất với sự chứng ngộ và phương cách hành xử của
vị Thầy. Người đệ tử phải giống như một (bức tượng)
tsa-tsa sản xuất ra từ cái khuôn của vị Thầy. Giống như
tsa-tsa tái tạo lại một cách trung thực tất cả những hoa
văn được chạm khắc trên khuôn mẫu, thì cũng thế, người
đệ tử phải quyết tâm đạt cho bằng được những phẩm
hạnh y hệt như của Thầy, hay tối thiểu thì cũng gần giống
được bất kỳ phẩm hạnh nào màThầy có.
Bất
kỳ người nào trước tiên khéo léo quán sát vị Thầy, sau
đó khéo léo theo chân của Ngài, và cuối cùng khéo léo noi
gương sự chứng ngộ và hành động của Ngài, thì người
ấy sẽ luôn luôn ở trên con đường chân chánh, dù có thế
nào đi nữa.
Lúc
ban đầu, khéo léo quán sát Thầy;
Vào
lúc giữa, khéo léo theo chân Ngài;
Vào
lúc cuối, khéo léo noi gương chứng ngộ và hành động
của Ngài.
Làm
được như vậy thì người đệ tử đang đi trên con đường
chân chánh.
Một
khi bạn gặp được vị Thầy tâm linh cao quý, là người có
được tất cả những phẩm hạnh cần thiết, thì hãy theo
chân Ngài mà không cần phải quan tâm tới bất kỳ một sự
an nguy nào khác – y như khi Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita)
đã đi theo Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata), như khi đại học
giả Naropa đi theo Ngài Tilopa tối thượng, và như khi Ngài
Jetsun Mila đi theo Ngài Marpa xứ Lhodrak.
Trước
tiên, đây là câu chuyện làm thế nào Thường Đề Bồ Tát
(Sadaprarudita) đi theo Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata).* Ngài Thường
Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) đang cầu tìm Bát Nhã Ba La Mật
(Prajnaparamita), là giáo lý của trí tuệ siêu việt.
Một
ngày nọ, trong lúc đi tìm kiếm, Ngài đến một nơi hoang vắng
cô tịch, ở đó Ngài nghe một tiếng nói từ không trung: “Ôi,
hỡi đứa con may mắn, hãy đi về hướng Đông và con sẽ
được nghe. Hãy đi dù ngày hay đêm, bất kể nhọc nhằn,
ngủ nghỉ hay mê mệt, nóng hay lạnh của thân xác. Chớ nhìn
qua trái hay phải. Chẳng mấy chốc con sẽ nhận được Bát
Nhã Ba La Mật. Giáo lý này sẽ đến từ trong Kinh sách hoặc
được một nhà sư, hiện thân của Giáo Pháp, sẽ giảng dạy
cho con. Vào khi đó, hỡi đứa con may mắn, hãy đi theo và trung
thành với vị Thầy đã dạy con Bát Nhã Ba La Mật, hãy nhận
Ngài làm Thầy và tôn kính Giáo Pháp của Ngài. Ngay cả nếu
con nhìn thấy Ngài hưởng thụ năm khoái lạc giác quan, hãy
nhận thức rằng các vị Bồ Tát luôn luôn thiện xảo khi
sử dụng phương tiện, và đừng bao giờ đánh mất lòng tin
của con.”
*
Danh hiệu Sadaprarudita có nghĩa là “Thường Xuyên Than Khóc.”
Dharmodgata có nghĩa là “Giáo Pháp Vi Diệu.”
Nghe
được những lời đó, Thường Đề Bồ Tát (Saraprarudita)
bắt đầu đi về hướng Đông. Nhưng chưa đi được bao xa
thì Ngài nhận ra rằng đã quên hỏi giọng nói trên không
trung kia là Ngài phải đi bao lâu nữa – và vì vậy Ngài không
nghĩ ra được cách làm thế nào để tìm ra cho ra được
vị thầy sẽ giảng dạy về Bát Nhã Ba La Mật. Ngài than khóc
và thệ nguyện rằng sẽ không quản ngại gian khổ, đói khát
và ngủ nghỉ, ngày cũng như đêm cho đến khi nào nhận được
giáo lý. Ngài đã bị rúng động một cách mãnh liệt, như
một người mẹ lạc mất đứa con độc nhất của mình. Ngài
bị ám ảnh thường xuyên bởi một câu hỏi duy nhất là khi
nào thì Ngài sẽ được nghe Giáo Lý Bát Nhã Ba La Mật.
Ngay
lúc đó, Như Lai thị hiện trong một thân tướng trước mặt
Ngài và tán thán việc cầu Pháp của Ngài. Đức Như Lai nói
thêm rằng: “Cách đây năm trăm lý (1 lý khoảng 4,8km), có
một thành phố tên là Thành Phố Thoảng Hương. Thành phố
này được xây dựng bằng bảy chất liệu quý giá, có năm
trăm công viên bao quanh và có mọi phẩm tính tốt đẹp. Ở
trung tâm thành phố, nơi giao nhau của bốn đại lộ, là trú
xứ của Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata). Nó cũng được xây
dựng bởi bảy loại chất liệu quý giá, có chu vi khoảng
một lý. Ở đó, trong các khu vườn và những trụ xứ hỉ
lạc khác là nơi cư ngụ của Đại Bồ Tát Pháp Khởi cùng
tăng thân của Ngài. Cùng với sáu mươi tám ngàn nữ nhân,
Bồ Tát thụ hưởng lạc thú của năm dục lạc là những
dục lạc mà Ngài đã hoàn toàn làm chủ, hoan hỉ làm bất
cứ điều gì Ngài ưa thích. Suốt trong ba thời quá khứ, hiện
tại và vị lai, Pháp Khởi Bồ Tát giảng dạy Giáo Pháp Bát
Nhã Ba la mật cho những ai cư trú ở đấy. Hãy tới trụ xứ
của Ngài, và ông sẽ được nghe giáo lý Bát Nhã Ba La Mật
từ Ngài.”
Giờ
đây Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) không thể nghĩ được
gì ngoài những điều Ngài vừa nghe thấy. Ngay tại nơi đang
đứng, Ngài đã có thể nghe được Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata)
giảng dạy Bát Nhã Ba La Mật (Prajnaparamita). Ngài đã trải
nghiệm vô số trạng thái thiền định. Ngài nhận ra được
những cõi giới khác nhau trong mười phương thế giới, và
nhìn thấy hằng hà sa chư Phật đang giảng dạy Bát Nhã Ba
la mật. Chư Phật đang tán thán Pháp Khởi Bồ Tát trước
khi biến mất. Tràn đầy hoan hỷ, niềm tin và lòng quy ngưỡng
đối với Pháp Khởi Bồ Tát, Bồ Tát Thường Đề tự hỏi
làm cách nào có thể diện kiến được Pháp Khởi Bồ Tát.
Ngài
nghĩ: “Ta nghèo quá, không có gì để dâng cúng Ngài, không
y áo hay châu báu, không dầu thơm hay vòng hoa, cũng chẳng có
bất kỳ vật gì khác để tỏ lòng tôn kính một vị thầy.
Vậy ta sẽ bán thịt của mình, rồi lấy số tiền đó cúng
dường cho Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata). Từ vô thuỷ, trong
vòng luân hồi, ta đã từng bán thịt của mình không biết
bao nhiêu lần; cũng vô số lần ta đã bị chặt thành
từng mảnh và bị thiêu hủy trong những địa ngục là nơi
ta bị tham dục lôi kéo xuống – nhưng chưa bao giờ ta thọ
nhận được một Giáo lý như thế này hay tôn kính một vị
Thầy cao cả như vậy!”
Thường
Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) đi đến giữa khu chợ và bắt đầu
kêu lên, “Ai cần người? Ai muốn mua một con người?”
Nhưng
những tinh linh xấu ác vì ghen tức với Thường Đề Bồ Tát
đang được trải qua những thử thách để làm lợi lạc cho
Giáo Pháp, chúng tinh linh này đã làm cho mọi người ở trong
chợ không nghe được những gì Ngài nói. Không tìm thấy người
mua thịt của mình, Thường Đề Bồ Tát đi tới một góc
chợ và ngồi xuống khóc than, nước mắt rơi lã chã.
Sau
đó vua Trời Đế Thích (Indra) quyết định thử thách quyết
tâm của Ngài. Trong hình tướng của một người bà la môn
trẻ, Thiên Vương xuất hiện trước mặt Thường Đề Bồ
Tát và nói: “Ta không cần cả một thân người. Ta chỉ cần
một ít thịt, ít mỡ và một ít tủy xương của một người
để cúng dường. Nếu ngươi có thể bán cho ta những thứ
đó, ta sẽ trả tiền cho ngươi.”
Vui
mừng khôn xiết, Thường Đề Bồ Tát lấy một con dao bén
cắt vào tay phải cho đến khi máu phun ra. Rồi Ngài lóc tất
cả thịt ở đùi phải, và khi đang chuẩn bị đập xương
vào tường thì cô con gái của một thương gia giàu có từ
tầng trên cùng ngôi nhà của cô đã nhìn thấy Ngài, bèn chạy
bổ xuống.
“Bậc
tôn quý, vì sao ngài lại gây đau đớn như thế trên thân
thể của mình?” cô ta hỏi.
Ngài
giải thích rằng Ngài muốn bán thịt của mình để có thể
thực hiện cúng dường cho Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata).
Khi
cô gái trẻ hỏi Ngài sẽ được lợi ích gì từ lòng tôn
kính như vậy, Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) trả lời:
“Ngài sẽ dạy cho tôi những phương tiện thiện xảo của
chư vị Bồ Tát và giáo lý Bát Nhã Ba la mật. Sau này nếu
tôi tu tập Giáo Pháp đó, tôi sẽ đạt được toàn giác,
có được nhiều phẩm hạnh phi thường của một vị Phật
và có thể chia xẻ Giáo Pháp quý báu với tất cả chúng sinh.”
Cô
gái nói: “Chắc chắn là mỗi một phẩm hạnh trong những
phẩm hạnh [của một vị Phật] hoàn toàn xứng đáng với
sự cúng dường thân mạng nhiều như cát sông Hằng. Nhưng
đừng nên làm tổn hại thân Ngài như vậy! Con sẽ dâng tặng
Ngài bất cứ thứ gì Ngài cần để tỏ lòng tôn kính Pháp
Khởi Bồ Tát và sẽ đi cùng với Ngài tới gặp Bồ Tát.
Khi làm như vậy, con sẽ vun trồng cội công đức, và công
đức này cũng giúp cho con đạt được những phẩm hạnh tương
tự.”
Khi
cô nói xong, vua trời Đế Thích thị hiện trong hình tướng
của mình và nói với Thường Đề Bồ Tát, “Ta là vua trời
Đế Thích, vua của chư Thiên. Ta đến đây để thử thách
sự quyết tâm của ông. Chỉ cần ông yêu cầu là ta sẽ ban
cho ông bất kỳ những gì ông muốn.”
”Xin
ban cho tôi những tánh đức không thể nghĩ bàn của chư Phật!”
Thường Đề Bồ Tát trả lời.
“Ta
không thể cho ngươi điều đó,” vua trời Đế Thích nói,
“Những điều như thế không nằm trong phạm vi của ta.”
“Nếu
thế thì Ngài không cần phải nhọc sức làm cho thân tôi toàn
vẹn trở lại,” Thường Đề Bồ Tát nói. “Tôi sẽ khẩn
cầu năng lực gia trì của chân lý. Nhờ sự gia trì của lời
tiên tri của chư Phật mà tôi sẽ không bao giờ quay trở lại
vòng luân hồi, nhờ chân lý của sự quyết tâm siêu phàm
và bất thối chuyển của tôi, cầu mong thân tôi hồi phục
như cũ!”
Với
những lời này, thân Ngài trở nên hoàn toàn như trước. Và
vua trời Đế Thích biến mất.
Thường
Đề Bồ Tát đi cùng cô con gái của vị thương gia tới nhà
cha mẹ cô và kể lại cho họ câu chuyện của mình. Họ cung
cấp cho Ngài nhiều phẩm vật cần thiết để cúng dường.
Sau đó, ngài cùng với cô con gái và cha mẹ cô cùng với năm
trăm thị nữ và toàn bộ đoàn tuỳ tùng của họ khởi hành
bằng xe ngựa đi về hướng Đông, và tới Thành Phố Thoảng
Hương. Ở đó, Ngài nhìn thấy Pháp Khởi Bồ Tát đang thuyết
Pháp cho hàng ngàn người. Ngài tràn đầy lòng quyết tâm và
hỉ lạc của một vị sự khi an trú trong định. Tất cả
xuống xe và đi tới diện kiến Ngài Pháp Khởi Bồ Tát.
Vào
lúc đó, Pháp Khởi Bồ Tát đã xây dựng một điện thờ
để tàng chứa và giảng Bát Nhã Tâm Kinh. Điện thờ
được làm bằng bảy vật liệu quy giáù, tô điểm bằng
gỗ đàn hương đỏ phủ một lớp chạm trổ bằng những
viên ngọc. Ở mỗi một phương trong bốn hướng có đặt
những viên ngọc như ý giống như những ngọn đèn và những
lư hương bạc, từ đó những nén nhang cúng dường làm bằng
gỗ lô hội đen toả hương nhẹ nhàng. Ở chính giữa điện
là bốn tủ ngọc đựng những quyển kinh Bát Nhã Ba la mật,
được làm bằng vàng và viết bằng mực lưu ly xanh biếc.
Nhìn
thấy cả hai loài Trời và người đang hành lễ cúng dường,
Thường Đề Bồ Tát bèn hỏi thăm rồi cùng với cô con gái,
thương gia và năm trăm thị nữõ cùng nhau trang nghiêm cúng
dường.
Sau
đó, họ tiến tới gần Pháp Khởi Bồ Tát, người đang ban
truyền giáo lý cho các đệ tử, và tỏ lòng tôn kính Bồ
Tát bằng tất cả những phẩm vật cúng dường của họ.
Con gái của vị thương gia và những thị nữ của cô đã
thọ giới của Bồ Đề Tâm tối thượng. Thường Đề Bồ
Tát (Sadaprarudita) hỏi Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata) là chư
Phật mà Thường Đề Bồ Tát đã thấy trước đó,ù từ
đâu đến và các Ngài đi về đâu. Pháp Khởi Bồ Tát trả
lời bằng cách giảng dạy một chương về đề mục chư Phật
không đến cũng không đi.* Sau đó Pháp Khởi Bồ Tát rời
pháp toà và đi tới khu vực riêng, ở đó Bồ Tát an trú trong
trạng thái thiền định nhất như trong bảy năm.
Suốt
trong thời gian đó, Thường Đề Bồ Tát, con gái vị thương
gia và năm trăm thị nữ không nằm hoặc ngồi nữa, mà thường
xuyên đứng thẳng. Khi đứng yên hay đi kinh hành, họ chỉ
đặt hết chú tâm vào thời điểm mà Pháp Khởi Bồ Tát sẽ
xuất định và giảng Pháp một lần nữa.
Khi
bảy năm gần kết thúc, Thường Đề Bồ Tát nghe chư Thiên
thông báo là trong bảy ngày nữa, Pháp Khởi Bồ Tát sẽ xuất
định và bắt đầu giảng dạy trở lại. Cùng với năm trăm
thị nữ, Thường Đề Bồ Tát quét dọn trong phạm vi rộng
một lý tại địa điểm mà Pháp Khởi Bồ Tát sắp đăng
đàn thuyết pháp. Khi Ngài bắt đầu rải nước trên nền
đất cho khỏi bụi, Ma Vương làm cho tất cả những nước
ấy biến mất. Vì vậy, Thường Đề Bồ Tát đã cắt mạch
máu và rải máu mình trên mặt đất, con gái vị thương gia
cùng năm trăm thị nữ cũng làm như vậy. Vua trời Đế Thích
biến máu của họ thành gỗ đàn hương đỏ của những cõi
Trời.
*
Điều này có nghĩa là chư Phật không bị những khái niệm
về nơi chốn trói buộc.
Cuối
cùng, Pháp Khởi Bồ Tát (Dharmodgata) đã đến và ngự trên
ngai sư tử mà Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) và những
người khác đã chuẩn bị thật hoàn hảo, ở đó Pháp Khởi
Bồ Tát thuyết giảng Bát Nhã Ba la mật. Thường Đề
Bồ Tát đã trực nghiệm sáu triệu trạng thái định khác
nhau và có linh kiến về vô số chư Phật – một linh kiến
không bao giờ xa lìa Ngài, ngay cả trong những giấc mơ. Người
ta nói rằng giờ đây Thường Đề Bồ Tát đang an trụ trong
trụ xứ của đức Phật toàn giác có danh hiệu là Diệu Âm
Phật.
Trong
lúc đi theo Ngài Tilopa, đại học giả Naropa cũng phải trải
qua vô vàn gian khó. Như chúng ta đã thấy trước đây, Naropa
gặp Ngài Tilopa, lúc đó Ngài đang sống như một người hành
khất, và Naropa xin Ngài Tilopa nhận mình làm đệ tử. Tilopa
chấp nhận lời khẩn cầu này và đem Naropa theo bất cứ chỗ
nào Ngài đi tới, nhưng chẳng bao giờ dạy cho đệ tử bất
kỳ Giáo Pháp nào.
Một
ngày kia, Tilopa đem Naropa lên đỉnh một ngọn tháp chín tầng
và hỏi: “Có ai tuân lời Thầy mà nhảy xuống từ ngọn
tháp này không?”
Naropa
tự nghĩ, “Ở đây chẳng còn ai khác, vậy chắc Ngài muốn
nói đến ta.” Ông bèn nhảy xuống từ tháp, thân đổ
sầm xuống đất khiến ông cực kỳ đau đớn.
Tilopa
đi xuống và hỏi, “Ngươi có đau không?”
“Không
chỉ đau,” Naropa rên rỉ. “Con chẳng hơn gì một xác chết
…” Nhưng Tilopa từ bi gia hộ cho ông, và thân ông lại hoàn
toàn lành lặn. Sau đó Ngài Tilopa lại dẫn Naropa cùng đi trong
chuyến du hành.
Một
ngày nọ, Ngài Tilopa ra lệnh cho ông, “Naropa, hãy nhóm lửa
lên!”
Khi
lửa đã bốc cháy, Ngài Tilopa đã chuẩn bị nhiều mảnh tre
dài, tẩm dầu và đưa vào lửa để làm cứng chắc.
“Nếu
ngươi vẫn tiếp tục vâng lời Thầy, ngươi cũng phải trải
qua những thử thách như thế này,” Ngài nói và thọc các
mảnh tre vào dưới móng tay và chân của Naropa.
Mọi
khớp xương của Naropa hoàn toàn co cứng và ông kinh nghiệm
nỗi đau đớn và khổ sở không thể chịu đựng nổi. Rồi
vị Đạo Sư bỏ đi. Vài ngày sau, khi Ngài trở lại, Ngài
rút những mảnh tre ra, rất nhiều máu mủ tuôn ra từ những
vết thương của Naropa. Một lần nữa, Ngài từ bi gia hộ
và lại cùng ông lên đường.
Một
ngày khác Ngài nói: “Naropa, ta đói. Hãy đi xin một ít thức
ăn cho ta!”
Naropa
đi đến một nơi rất đông nông dân đang bận rộn ăn uống,
ông xin được món súp đựng đầy trong một bình bát làm
bằng sọ người* và mang về cho Thầy. Tilopa ăn hết sức
ngon lành và dường như Ngài rất hài lòng.
Naropa
nghĩ, “Ta đã phụng dưỡng Ngài trong suốt một thời
gian dài, chưa bao giờ ta thấy Thầy ta hạnh phúc như vậy.
Nếu hỏi xin nữa thì có lẽ ta sẽ được thêm một ít.”
Cầm
bình bát sọ người trong tay, ông lên đường đi khất thực
lần nữa. Vào lúc này những người nông dân đã trở lại
cánh đồng của họ, để lại món súp dư thừa ở chỗ cũ.
“Việc
duy nhất làm được là lấy trộm món súp,” Naropa tự nghĩ,
rồi lấy súp và bỏ chạy.
Nhưng
những người nông dân thấy được. Họ túm bắt và đánh
đập ông, bỏ mặc cho ông chết. Trong nhiều ngày, ông đau
đớn tới nỗi không gượng dậy nổi. Một lần nữa vị
Thầy lại đến, từ bi gia hộ và cùng ông lên đường như
trước.
*
thod phor (Phạn: kapala). Một bình bát làm bằng sọ người.
Đỉnh của một sọ người được các hành giả du già dùng
làm bình bát. Bình bát này tượng trưng cho vô ngã.
Một ngày khác Ngài Tilopa lại nói: “Naropa, ta cần rất nhiều
tiền,99 hãy lấy trộm về cho ta một ít.”
Naropa
bèn đi ăn trộm tiền của một người giàu có, nhưng bị
bắt tại trận. Ông bị túm lấy, bị đánh đập và lại
bị bỏ mặc cho chết. Vài ngày sau Tilopa tới và hỏi ông:
“Ngươi có đau không?” Khi nhận được câu trả lời như
lần trước, Ngài Tilopa lại từ bi gia hộ cho Naropa, và lại
cùng nhau lên đường.
Naropa
đã phải trải qua mười hai thử thách chính và mười hai
thử thách phụ như thế – đây là hai mươi bốn thử thách
mà ông phải chịu đựng trong một đời. Cuối cùng họ cũng
đi tới chỗ kết thúc.
Một
hôm, Tilopa nói, “Naropa, hãy đi lấy ít nước. Ta sẽ ở đây
nhóm lửa.”
Khi
Naropa mang nước trở về, Tilopa nhảy ra từ đống lửa và
dùng tay trái tóm lấy đầu Naropa.
“Đưa
ta xem trán của ngươi,” Ngài ra lệnh.
Ngài
lấy tay phải cởi dép ra và đánh vào trán của đệ tử.
Naropa ngã ra bất tỉnh. Khi ông tỉnh dậy, tất cả những
phẩm hạnh của trí tuệ bát nhã của vị Thầy đã phát khởi
trong ông. Đạo Sư và đệ tử đã trở thành hợp nhất trong
chứng ngộ.
Tóm
lại, hai mươi bốn thử thách mà đại học giả Naropa phải
trải qua chính là những giáo huấn của Thầy cho nên những
thử thách này đã trở thành các phương tiện thiện xảo
mà qua đó các chướng nghiệp của ông đã được đoạn diệt.
Bởi những thử thách này hiện ra giống như là những kinh
nghiệm gian khó hoàn toàn vô nghĩa lý, khiến cho không ai nghĩ
rằng đó chính là Giáo Pháp. Quả thực là vị Thầy đã không
hề thốt ra một lời giảng dạy nào và đệ tử cũng chẳng
thực hành một giây phút nào, ngay cả một lễ lạy duy nhất
cũng không có. Tuy nhiên, một khi Naropa đã gặp được một
vị Thành Tựu Giả đắc đạo, ông đã tuân theo tất cả
những huấn lệnh của Ngài bất chấp mọi khó khăn, và khi
làm như thế thì ông đã hoàn tất việc tịnh hóa tất cả
những chướng ngại của mình khiến kinh nghiệm chứng ngộ
phát khởi trong ông.
Không
có một thực hành Giáo Pháp nào lớn lao hơn việc tuân theo
lời Thầy. Những lợi lạc của điều này thì vô lượng
như chúng ta có thể thấy ở đây. Trái lại, nếu không tuân
lời Ngài dù chỉ một chút thôi cũng là một lỗi lầm cực
kỳ nghiêm trọng.
Có
lần Tilopa cấm Naropa không được nhận trách nhiệm của một
vị học giả trưởng lão trì giữ các “cánh cổng” (phân
khoa) tại đại học viện Vikramasila.100 Nhưng ít lâu sau đó,
khi Naropa đến Ma Kiệt Đa (Magadha), một trong những học giả
giữ chức vụ đó đã chết. Vì không ai có khả năng tranh
luận với những kẻ ngoại đạo nên tất cả các học giả
van nài Naropa nhận nhiệm vụ bảo vệ cổng phía Bắc, và
khăng khăng thúc bách cho đến khi ông chấp thuận. Tuy nhiên,
khi một kẻ ngoại đạo xuất hiện để tranh luận, Naropa
đã tranh luận trong nhiều ngày mà cuối cùng không thể đánh
bại ông ta. Naropa cầu nguyện Thầy mình cho tới khi cuối
cùng một ngày kia Tilopa thị hiện và nhìn Naropa bằng cái
nhìn như muốn xuyên thủng ông.
“Ngài
quá ít lòng từ bi - sao Ngài không tới sớm hơn?” Naropa than
vãn.
“Không
phải ta đã cấm ông nhận chức vụ trưởng lão trì giữ
cổng viện hay sao?” Tilopa hỏi vặn lại.
“Tuy
vậy, trong khi tranh luận, hãy quán tưởng ta ở trên đầu
ông và kết ấn phẫn nộ (hàng phục) trước người ngoại
đạo!”
Naropa
làm theo lời Ngài, thắng thế trong cuộc tranh luận, và chấm
dứt được tất cả luận cứ của những kẻ ngoại
đạo.
Cuối
cùng, đây là cách thức Jetsun Milarepa đi theo Ngài Marpa xứ
Lhodrak. Trong vùng Ngari Gungthang có một người giàu có tên
là Mila Sherab Gyeltsen. Ông có một con trai và một con gái, người
con trai tên là Mila Thopa-ga, “Mila Hoan Hỷ Khi Nghe Đến,”
mà sau này trở thành Ngài Jetsun Milarepa. Khi hai người con còn
nhỏ thì cha chúng mất. Người chú tên là Yungdrung Gyaltsen
đã chiếm đoạt tất cả của cải và tài sản. Hai đứa
bé và mẹ chúng bị bỏ mặc không tiền bạc và thực phẩm,
buộc phải trải qua nhiều gian khổ. Mila đã học chú thuật
và cách tạo mưa đá từ nhà huyền thuật Yungton Throgyal
ở xứ Tsang và Lharje Nupchung. Bằng cách làm sập nhà, Mila
gây nên cái chết cho con trai và con dâu của người chú cùng
với ba mươi ba người khác. Khi tất cả dân chúng trong làng
trở nên giận dữ chống lại Mila thì ông đã tạo ra một
trận mưa đá dữ dội tới nỗi lớp nước đá phủ trên
mặt đất dày bằng ba lớp tường đất sét.101
Sau
đó, hối hận về những ác hạnh đã tạo, Mila quyết định
tu theo con đường Phật Pháp. Nghe lời khuyên của Lạt Ma Yungton,
ông đi tìm gặp một vị thầy tinh thông Pháp Đại Viên Mãn
tên là Rongton Lhaga, và xin được chỉ dạy.
Vị
Lạt Ma trả lời: “Giáo Pháp ta dạy là Đại Viên Mãn. Gốc
của Pháp ấy là sự chiến thắng của nguyên sơ, ngọn của
Pháp ấy là sự chiến thắng của giai đoạn thành tựu và
quả của Pháp ấy là sự chiến thắng của pháp môn du già.102
Nếu hành giả thiền định về Pháp ấy trong ngày, hành giả
có thể thành Phật trong ngày đó; nếu thiền định về Pháp
ấy trong đêm, hành giả có thể thành Phật ngay trong đêm
đó. Những người may mắn mà hành nghiệp trong quá khứ
của họ đã tạo nên những thiện duyên thích hợp thì thậm
chí không cần phải thiền định; họ sẽ được giải thoát
chỉ nhờ nghe được Pháp ấy. Vì Pháp ấy là Giáo Pháp dành
cho những người có căn cơ lỗi lạc xuất chúng nên Ta sẽ
dạy Pháp ấy cho ngươi.”
Sau
khi nhận được quán đảnh và những giáo huấn, Mila tự nghĩ:
“Ta đã mất hai tuần để đạt được những dấu hiệu
thành công quan trọng trong việc sử dụng bùa chú. Bảy ngày
đủ để làm được mưa đá. Giờ đây là một giáo lý còn
dễ hơn cả bùa chú và mưa đá – nếu bạn thiền định
trong ngày, bạn sẽ thành Phật ngay trong ngày đó; nếu thiền
định vào ban đêm bạn sẽ thành Phật ngay trong đêm đó –
và nếu hành nghiệp trong quá khứ của bạn đã tạo ra những
thiện duyên thích hợp, thì thậm chí bạn hoàn toàn chẳng
phải cần thiền định gì hết! Nhìn thấy cách ta đã gặp
được giáo lý này như thế nào thì rõ ràng ta phải là một
trong những người có những thiện hạnh trong quá khứ.”
Vì
thế, Ngài cứ ngồi ở trên giường mà không thiền định,
do đó hành giả và giáo lý tách lìa nhau.
Vài
ngày sau vị Lạt Ma nói với Ngài: “Những gì ta nói với
người đều là sự thật. Ngươi thực sự là kẻ đại tội
lỗi, và ta đã tán thán giáo lý của ta hơi thái quá. Vì thế
bây giờ ta sẽ không dẫn dắt ngươi nữa. Ngươi nên đi đến
ẩn thất Trowolung ở Lhodrak, ở đó có một đệ tử chân
truyền của thành tựu giả Ấn Độ Naropa. Ngài là Marpa, bậc
xuất sắc nhất trong các vị Đạo Sư, vua của các dịch giả.
Ngài là một thành tựu giả của Truyền Thống Tân Mật,103
và khắp tam giới không ai sánh bằng. Vì ngươi và Ngài có
mối liên kết bắt nguồn từ các hành nghiệp trong những
đời trước (có nhân duyên tiền kiếp), nên ngươi hãy đi
tìm gặp Ngài!”
Chỉ
cần nghe tới âm thanh danh hiệu của Dịch Giả Marpa là cũng
đủ làm cho tâm thức Milarepa tràn ngập niềm an lạc vô tả.
Ngài hoan hỷ tới nỗi mọi lỗ chân lông trên thân Ngài đều
dựng đứng, và cảm thức sùng kính bao la ngập đầy khiến
mắt Ngài đẫm lệ. Milarepa lên đường, tự hỏi bao giờ
mới được diện kiến vị Thầy của mình.
Lúc
bấy giờ Marpa và vợ Ngài có nhiều giấc mơ lạ thường,
và Marpa biết rằng Jetsun Mila đang trên đường đi tới chỗ
Ngài. Ngài đi xuống thung lũng để chờ Mila tới, giả vờ
như đang cày ruộng. Thoạt tiên Mila gặp con trai của Marpa
là Tarma Dode đang chăn trâu. Tiếp tục đi xa hơn một chút,
Mila thấy Marpa đang cày ruộng. Lúc Mila nhìn thấy Ngài Marpa,
Mila kinh nghiệm trạng thái hỷ lạc mãnh liệt vô tả; trong
chốc lát, mọi niệm tưởng tầm thường ngưng bặt. Tuy nhiên,
Mila không nhận ra được rằng đây là một Lạt ma bằng xương
bằng thịt, và giải thích với người rằng mình tới đây
để tìm gặp Marpa.
“Ta
sẽ dẫn mi tới gặp Ngài,” Marpa trả lời. “Hãy cày đám
ruộng này cho ta.” Để lại cho Mila một bình bia, Marpa bỏ
đi. Mila uống cạn bia rồi làm việc. Khi Mila hoàn tất công
việc, con trai của vị Lạt ma tới gọi và cả hai cùng đi.
Khi
Mila được đưa tới trước mặt vị Lạt Ma, Mila đặt hai
lòng bàn chân Marpa trên đỉnh đầu mình và kêu lên:“Ôi,
Đạo sư! Con là một kẻ đại tội lỗi ở phương tây! Con
xin cúng dường Ngài thân, khẩu và ý của con. Xin nuôi dưỡng,
cho quần áo mặc và dạy con Giáo Pháp. Xin dạy cho con cách
thức để thành Phật trong đời này!”
“Không
phải là lỗi của ta khi mi tự cho mình là một kẻ xấu xa
như thế,” Marpa trả lời. “Ta không yêu cầu mi tích luỹ
những ác hạnh vì lợi ích của ta! Vậy mi đã làm những
điều gì sai trái?”
Mila
thuật lại cho Ngài toàn bộ chi tiết câu chuyện.
“Tốt
lắm,” Marpa ưng thuận, “trong bất kỳ trường hợp nào,
việc cúng dường thân, khẩu và ý của mi là một điều tốt.
Tuy nhiên, về phần quần áo, thực phẩm và Giáo Pháp thì
mi không thể có cả ba. Hoặc ta cho mi quần áo và thực phẩm
còn Giáo Pháp thì mi phải đi tìm ở nơi khác, hoặc mi nhận
Giáo Pháp của ta và tìm phần còn lại ở nơi nào đó. Hãy
quyết định đi. Và nếu chọn Giáo Pháp, thì việc mi
có đạt được Phật Quả trong đời này hay không sẽ tùy
thuộc vào hạnh nhẫn của bản thân mi.”
Mila
nói: “Nếu đúng như thế thì con sẽ tìm lương thực và
quần áo ở nơi khác bởi con tới đây chỉ vì Pháp.”
Mila
ở lại vài ngày và đi xin khắp xứ Lhodrak thượng và hạ
được hai mươi mốt thùng lúa mạch. Ông dùng mười bốn
thùng để mua một ấm đồng có bốn quai. Đổ sáu bình lúa
vào một cái bao, ông trở về cúng dường ấm và lúa cho Marpa.
Khi
Mila đặt bao lúa mạch xuống, ông làm căn phòng rung chuyển,
làm cho Marpa thức giấc.
“Mi
là một tên pháp sư trẻ có sức mạnh, phải vậy không?”
Ngài nói. “Bộ mi định giết chết cả nhà ta bằng cách
làm sập nhà với hai tay trần của mi chắc? Đem bao lúa mì
đó ra khỏi đây ngay!” Ngài đá cái bao, và Mila phải đem
nó ra ngoài. Lát sau, Mila đưa cho Ngài Marpa cái ấm rỗng.104
Một
ngày nọ, Marpa nói với Mila: “Những người xứ Yamdrok Taklung
và Lingpa đang tấn công những đệ tử trung thành ở U và
Tsang tới thăm ta, và trộm cướp lương thực cùng đồ cúng
dường của họ. Hãy trút mưa đá xuống chúng! Vì đó cũng
là một loại Pháp, sau đó ta sẽ ban cho mi những giáo huấn.”
Mila
gây ra những trận mưa đá tàn phá cả hai vùng này và sau
đó đi cầu giáo lý.
“Mi
nghĩ ta sắp trao cho mi giáo lý đem về từ Ấn Độ có giá
trị to lớn như vậy để đổi lấy ba hay bốn trận mưa đá
hay sao? Nếu mi thật sự mong cầu Giáo Pháp, hãy làm mê hoặc
dân
chúng ở ngọn đồi Lhodrak. Họ tấn công những đệ tử xứ
Nyaloro của ta và luôn cư xử với ta bằng thái độ xem thường
ra mặt. Khi có dấu hiệu cho thấy thần chú của mi đã có
tác dụng, ta sẽ ban cho mi giáo lý khẩu truyền của Naropa,
giáo lý ấy sẽ dẫn đến Phật Quả chỉ trong một thân và
một đời người duy nhất.”
Khi
những dấu hiệu thành công của ác chú xuất hiện, Mila xin
được ban Giáo Pháp.
“Hả!
Phải chăng để tỏ lòng tôn kính những ác hạnh mi đã tích
lũy mà mi đòi các giáo huấn khẩu truyền còn ấm hơi thở
của những vị Không-Hành nữ (dakini) này, là những gì ta
đã phải tìm cầu bất chấp những hiểm nguy tới tính
mạng và cuộc đời ta hay sao? Ta nghĩ rằng mi cợt đùa, nhưng
ta thấy mình đã phải tự chế quá nhiều. Chính ta chứ không
ai khác sẽ giết mi! Bây giờ hãy làm những người trên đồi
sống lại và trả lại mùa màng cho dân xứ Yamdrok. Nếu làm
được, mi sẽ nhận được giáo lý – còn không, đừng quanh
quẩn bên ta nữa!”
Hoàn
toàn kiệt sức bởi những lời quở trách này, Mila ngồi khóc
nức nở. Sáng hôm sau, Marpa đến gặp Thầy.
“Tối
qua ta có hơi cộc cằn với mi,” Ngài nói. “Thôi đừng buồn.
Ta sẽ ban cho mi giáo huấn từng ít một. Hãy kiên nhẫn! Vì
mi là một người thợ giỏi, ta muốn mi xây cho ta một căn
nhà để cho Tarma Dodé. Khi nào mi hoàn tất, ta sẽ ban cho mi
những giáo huấn, và cũng sẽ cung cấp cho mi thực phẩm và
quần áo.”
“Nhưng
nếu con chết trong thời gian đó, con sẽ làm được gì khi
không có Giáo Pháp?” Mila hỏi.
“Ta
bảo đảm rằng điều đó sẽ không xảy ra,” Marpa nói, “giáo
lý của ta không chỉ để khoe suông, và bởi rõ ràng là mi
có hạnh nhẫn thật phi thường nên khi mi áp dụng những giáo
huấn của ta vào thực hành, chúng ta sẽ chờ xem mi có đạt
được Phật Quả chỉ trong một đời hay không.”
Sau
khi khuyến khích đệ tử nhiều hơn nữa theo cách thức tương
tự, Ngài bảo Mila xây ba căn nhà, cái này sau cái kia: một
căn hình tròn ở chân ngọn đồi phía đông, một căn hình
bán nguyệt ở phía tây và một căn hình tam giác ở hướng
bắc. Nhưng mỗi lần khi căn nhà xây được phân nửa thì
Marpa lại nhiếc móc Mila dữ dội, bắt ông phá hủy những
gì đã xây và đem đất đá hoàn trả trở lại nơi Mila đã
lấy chúng.
Một
vết thương mở hoác trên lưng Mila, nhưng ông nghĩ: “Nếu
đưa cho Thầy xem, Ngài sẽ chỉ quở mắng ta một lần nữa.
Ta có thể cho sư mẫu thấy, nhưng điều đó chỉ gây thêm
ồn ào rắc rối.” Thế nên, không đưa cho sư mẫu xem vết
thương, ông khóc lóc và van xin bà giúp ông thỉnh cầu giáo
lý.
Bà
yêu cầu Marpa truyền dạy cho Mila, và Marpa trả lời: “Hãy
cho nó được ăn ngon và đem nó tới đây!” Ngài ban cho Mila
khẩu truyền và những giới nguyện quy y.
Ngài
nói: “Tất cả những điều này được gọi là Giáo Pháp
nền tảng. Nếu mi muốn những giáo huấn phi thường của
Mật Thừa thì những loại việc mà mi sẽ phải trải
qua là như thế này...” và Ngài đọc một bài kệ tóm tắt
về cuộc đời và những thử thách của Naropa. “Mi khó có
thể làm được như vậy,” Ngài kết luận.
Nghe
những lời này, Mila cảm thấy niềm sùng kính mãnh liệt đến
nỗi nước mắt ông tuôn chảy mãi không thôi, và với một
quyết tâm mạnh mẽ, ông nguyện làm bất cứ những gì Thầy
ông yêu cầu.
Vài
ngày sau, Marpa đi dạo và đem Mila theo như thị giả của Ngài.
Marpa đi về hướng đông-nam và tới một miếng đất có vị
trí thuận lợi. Ngài nói: “Hãy xây cho ta một tháp màu xám,
có góc vuông và cao chín tầng ở đây, thêm một đỉnh nhọn
nữa thì thành mười tầng. Mi không được hạ thấp tháp
xuống, và khi hoàn tất ta sẽ ban cho mi những giáo huấn. Ta
cũng sẽ cho mi lương thực khi mi nhập thất tu tập.”
Mila
đã đào xong phần móng và bắt đầu xây cất thì có ba đệ
tử cao cấp của Thầy tới. Để đùa giỡn, họ lăn tới
cho ông một tảng đá lớn và Mila dùng nó làm móng nhà. Khi
ông hoàn tất hai tầng dưới cùng, Marpa tới thăm và hỏi
tảng đá ở đâu tới. Mila kể với Ngài sự việc xảy ra.
“Những
đệ tử của ta đang thực hành pháp du già trong hai giai đoạn,
họ không phải là những người hầu của mi!” Marpa la hét:
“Hãy lấy tảng đá đó ra khỏi đây ngay và trả nó về
chỗ cũ!”
Mila
phá bỏ toàn bộ cái tháp, bắt đầu từ đỉnh. Ông lôi tảng
đá làm móng ra và đem đặt lại chỗ cũ.
Sau
đó Marpa lại bảo ông: “Bây giờ đem nó tới đây và đặt
nó trở lại vào đây.”
Vì
thế, Mila lại phải lăn tảng đá trở lại và đặt đúng
vào chỗ trước đó. Ông tiếp tục xây dựng cho đến khi
hoàn tất tầng thứ bảy, vào lúc này ông bị một vết thương
ở bên hông.
Marpa
nói: “Bây giờ hãy bỏ việc xây tháp, thay vào đó hãy xây
cho ta một ngôi đền với một đại sảnh mười hai cột và
một điện thờ cao.”
Thế
là Mila xây ngôi đền, và khi hoàn thành thì một vết thương
phía dưới lưng ông bị bể ra.
Vào
lúc đó, Meton Tsonpo xứ Tsangrong thỉnh cầu Marpa ban quán đảnh
“Người Chặn Đứng Bánh Xe Luân Hồi” (Samvara hay Chakrasamvara),
và Tsurton Wangé xứ Dol thỉnh cầu ban quán đảnh “Bí Mật
Tập Hội” (Guhyasamaja). Trong cả hai dịp này, Mila hy vọng
rằng nhờ công việc xây cất mà ông được có quyền thọ
nhận quán đảnh, có được một chỗ ngồi trong hội chúng,
nhưng những gì ông nhận được từ Marpa chỉ là những cú
đánh và những lời mắng nhiếc, và cả hai lần ông đều
bị Thầy ném ra ngoài. Lưng ông giờ đây là một vết thương
khổng lồ với máu và mủ chảy ra từ ba chỗ. Tuy nhiên ông
vẫn tiếp tục làm việc, thay vì đeo giỏ đất ở lưng thì
ông đeo ở phía trước ngực.
Khi
Ngokton Chodor xứ Shung tới thỉnh cầu ban quán đảnh “Hô
Kim Cương” (Hevajra), vợ Ngài Marpa đưa cho Mila một viên lam
ngọc lớn là vật thừa kế của riêng bà. Mila dùng nó như
món cúng dường cho lễ quán đảnh, ông ngồi vào hàng những
người dự lễ, nhưng như lần trước, Thầy ông đã trách
mắng và đánh đập ông một trận, và ông lại không được
ban cho quán đảnh.
Lần
này ông cảm thấy là không còn hoài nghi gì nữa: ông sẽ
không bao giờ nhận được bất kỳ giáo lý nào. Ông đi lang
thang vô phương hướng. Một gia đình ở Lhodrak Khok thuê ông
đọc cả bộ Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh. Ông
đọc đến truyện của Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita),
và câu chuyện này làm ông phải suy nghĩ.
Ông
nhận ra rằng để nhận được lợi lạc của Giáo Pháp, ông
phải chấp nhận mọi gian khổ và làm hài lòng Thầy bằng
cách làm bất cứ những gì Ngài ra lệnh.
Vì
thế ông quay trở lại, nhưng một lần nữa Ngài Marpa chỉ
đón chào ông bằng sự thóa mạ và những cú đánh. Mila quá
tuyệt vọng đến nỗi vợ Ngài Marpa phải gởi ông tới Lạt
Ma Ngokpa, vị này ban cho ông một số giáo huấn. Nhưng khi thiền
định thì chẳng có điều gì xảy ra, vì Mila không được
Thầy cho phép. Marpa ra lệnh cho ông phải đi về cùng với
Lạt Ma Ngokpa.
Một
ngày nọ, trong một tiệc cúng dường, Marpa khiển trách Lạt
ma Ngokpa và những đệ tử khác thậm tệ và sắp sửa tấn
đánh họ.
Mila
tự nghĩ: “Với ác nghiệp của ta, không chỉ mình ta đau
khổ vì những lỗi lầm trầm trọng và những chướng nghiệp
sâu dày, mà giờ đây ta còn gây những khó khăn cho Lạt Ma
Ngokpa và phối ngẫu của Đạo sư. Bởi ta chỉ đang chồng
chất càng lúc càng nhiều ác hạnh mà chẳng được nhận
bất kỳ giáo lý nào, nên cách tốt nhất là ta nên chết đi
cho rảnh.”
Mila
chuẩn bị tự tử. Lạt ma Ngokpa đang cố ngăn cản ông thì
Marpa dịu xuống và gọi cả hai tới. Ngài chấp nhận Mila
làm đệ tử, ban cho ông nhiều lời khai thị quý báu và đặt
danh hiệu cho ông là Mila Dorje Gyaltsen, “Mila Kim Cương Ngọn
Cờ Chiến Thắng.” Khi Ngài ban quán đảnh Samvara cho ông,
Ngài cho thị hiện một mạn đà la với sáu mươi hai Bổn
Tôn thật rõ ràng. Rồi Mila nhận danh hiệu bí mật là Shepa
Dorje, “Kim Cương Hỷ,” và Marpa ban tất cả những quán đảnh
và giáo huấn cho ông giống như rót từ bình này sang chiếc
bình khác. Sau đó, Mila đã hành trì trong những điều kiện
khắc nghiệt nhất, và đạt được tất cả những thành tựu
thông thường và siêu việt.105
Cũng
giống như thế, đó chính là cách mà tất cả những học
giả, thành tựu giả và trì minh vương (vidyadhara) trong quá
khứ của Tây Tạng lẫn Ấn Độ đã theo chân một vị Thầy
tâm linh đích thực, và bằng cách làm bất cứ những gì vị
Thầy dạy bảo, các Ngài đã đạt được sự chứng ngộ
bất khả phân với chứng ngộ của vị Thầy.
Trái
lại, là một lỗi lầm hết sức trầm trọng nếu không theo
chân Thầy với một tâm thức hoàn toàn chân thật, không chút
giả dối. Đừng bao giờ cho rằng bất kỳ hành động
nào của Ngài là một hành động tiêu cực. Chớ bao giờ nói
dối Ngài dù chỉ một điều nhỏ bé nhất.
Một
lần kia, có đệ tử của một đại thành tựu giả đang giảng
Pháp cho một nhóm đệ tử. Khi ấy, vị Thầy của ông ta đi
tới, ăm mặc như một người ăn mày. Người đệ tử quá
bối rối nếu phải quỳ lạy Ngài trước đám đông, nên
ông giả vờ như không thấy. Chiều hôm đó, khi đám đông
đã giải tán, ông đi gặp Thầy mình và đảnh lễ.
“Tại
sao trước đây ngươi không đảnh lễ?” vị Thầy hỏi.
“Con
không thấy Ngài,” ông ta nói dối.
Lập
tức, hai mắt ông rơi xuống đất. Ông cầu xin được tha
thứ và nói ra sự thật, và Thầy ông đã từ bi gia trì để
giúp phục hồi lại đôi mắt cho ông.
Có
một câu chuyện tương tự như vậy về đại thành tựu giả
Ấn Độ Kan-ha-pa Kiêu Mạn (Krsnacarya). Một ngày kia, khi đang
đi tàu trên biển với nhiều đệ tử, tâm ông khởi niệm:
“Thầy của ta thực sự là một thành tựu giả, nhưng theo
quan điểm thế gian thì ta xuất sắc hơn Ngài vì ta giàu có
và có nhiều thị giả hơn.”
Ngay
lập tức chiếc tàu chìm xuống biển. Ngụp lặn vô vọng
trong nước, ông khẩn nguyện Thầy mình; Ngài xuất hiện trong
thân người phàm và cứu ông khỏi chết chìm.
“Đó
là phần thưởng cho cái kiêu mạn vĩ đại của ngươi,”
vị Thầy nói. “Nếu ta nỗ lực tích lũy của cải và thị
giả thì ta cũng sẽ có được những thứ đóù. Nhưng ta đã
quyết không làm như vậy.”
Vô
lượng chư Phật không thể nghĩ bàn đã thị hiện, nhưng
lòng đại bi của các Ngài không đủ để cứu chúng ta: chúng
ta vẫn còn ở trong đại dương đau khổ của vòng sinh tử
luân hồi. Từ xa xưa, vô lượng không thể nghĩ bàn những
bậc Đạo Sư vĩ đại đã xuất hiện, nhưng chúng ta không
đủ may mắn để được thọ hưởng sự chăm sóc đầy bi
mẫn của các Ngài, hay ngay cả được gặp mặt các Ngài.
Ngày nay, giáo lý của Đức Phật sắp kết thúc. Năm tình
trạng suy đồi càng ngày càng hiển nhiên, và mặc dù có được
một đời người hiếm quý, chúng ta vẫn hoàn toàn nằm trong
móng vuốt của những ác hạnh của mình, và lầm lạc không
biết điều gì nên làm và điều gì nên tránh. Khi chúng ta
lang thang như một kẻ mù loà lẻ loi trong cánh đồng hoang
thì những thiện hữu tri thức tâm linh của chúng ta, những
vị Đạo Sư siêu việt đã nghĩ tưởng tới chúng ta với
lòng bi mẫn vô biên, và tuỳ theo nhu cầu (căn cơ) của mỗi
người trong chúng ta mà các Ngài thị hiện trong thân tướng
con người. Mặc dù trong chứng ngộ thì các Ngài là những
vị Phật, nhưng trong hành động thì các Ngài lại hoà hợp
với hoàn cảnh của chúng ta. Bằng những phương tiện thiện
xảo, các Ngài nhận chúng ta làm đệ tử, giới thiệu cho
ta về Giáo Pháp chân chánh tối thượng, khai thị cho ta về
những gì nên làm và không nên làm, và chỉ bày chính xác
con đường tu tột cùng thâm diệu dẫn tới ï giải thoát
và giác ngộ. Quả thật, các Ngài không khác gì chính Đức
Phật; nhưng khi so sánh với Đức Phật thì thiện tâm của
các Ngài khi từ bi quan tâm tới chúng ta thậm chí còn vĩ đại
hơn. Vì thế, hãy luôn cố gắng theo chân Thầy trong cách thế
đúng đắn, với ba loại niềm tin (tín tâm).*
*
Những loại tín tâm này được giảng dạy ở phần đầu
trong chương kế tiếp.
Con
đã được gặp một vị Thầy cao cả,
nhưng
lại để cung cách hành xử tiêu cực làm mình sa ngã.
Con
đã tìm được con đường thiện lành nhất,
nhưng
lại lang thang khắp nẻo chông gai.
Xin
tư bi gia hộ cho con và tất cả những ai có tánh khí xấu
xa như con,
Khiến
tâm chúng con có thể được thuần hóa nương nơi Giáo Pháp.
Dilgo
Khyentse Rinpoche (1910-1991)
Một
trong những hoá thân của Đức Jamyang Khyentse Wangpo. Ngài đã
tu học với một trăm hai mươi vị Thầy và trải toàn bộ
hai mươi năm trong thiền thất. Ngài thường ban các giáo
lý, kể cả giáo pháp Đại Viên Mãn, cho Đức Đạt Lai
Lạt Ma. Nhiều hậu thế các Lạt Ma Tây Tạng coi Ngài như
vị Thầy gốc của họ. Ngài cũng giảng dạy rộng rãi ở
Âu Châu và Bắc Mỹ.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 9 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:11pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
PHẦN HAI
NHỮNG PHÁP
TU DỰ BỊ PHI THƯỜNG
HAY NHỮNG CHUẨN
BỊ BÊN TRONG
QUY
Y: NỀN TẢNG CỦA MỌI CON ĐƯỜNG
KHƠI
DẬY BỒ ĐỀ TÂM, GỐC RỄ CỦA ĐẠI THỪA
THIỀN
ĐỊNH VÀ TRÌ TỤNG VỀ BỔN SƯ
NHƯ
ĐỨC KIM CANG TÁT ĐỎA
ĐỂ
TỊNH HÓA NGHIỆP CHƯỚNG
CÚNG
DƯỜNG MẠN ĐÀ LA ĐỂ VUN BỒI PHƯỚC TUỆ
KUSALI
-PHÁP TÍCH TỤ CÔNG ĐỨC:
DIỆT
TRỪ BỐN MA VƯƠNG BẰNG MỘT ĐỘC CHIÊU
BỔN
SƯ DU GIÀ, CÁNH CỔNG DẪN ĐẾN
NĂNG
LỰC GIA TRÌ, PHƯƠNG PHÁP TỐI HẬU
ĐỂ
CHỨNG NGỘ TUỆ GIÁC
Các
Bổn Tôn Quy Y
Quán
tưởng ruộng công đức để quy y theo giáo lý
CHƯƠNG
I
QUY Y, NỀN
TẢNG CỦA MỌI CON ĐƯỜNG
Đặt
Tam Bảo lên đầu, là quy y bên ngoài,
Ngài
thực sự chứng ngộ Ba Nguồn Gia Trì, là quy y bên trong;
Ngài
đã hoá hiện ba Thân, là quy y tối thượng.
Bậc
Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
Quy
y là nền tảng của tất cả mọi con đường (của tất cả
mọi pháp tu), và được giải thích dưới ba đề mục như
sau: làm sao để đến với quy y, quy y như thế nào, và những
giới luật và lợi ích của quy y.
I.
LÀM SAO ĐỂ ĐẾN VỚI QUY Y
1.
Tín Tâm
Quy
y mở ra cánh cửa đi vào tất cả những giáo lý và phương
pháp hành trì. Cũng như thế, chính tín tâm mở ra cánh
cổng đưa ta đến với quy y. Do vậy, bước đầu quan trọng
trong việc quy y là phải phát triển một tín tâm kiên cố
và lâu dài. Tín tâm hay niềm tin gồm có ba loại: niềm tin
sống động (vivid faith), niềm tin tha thiết, và niềm tin kiên
định.
1.1
NIỀM TIN SỐNG ĐỘNG
Niềm
tin sống động là niềm tin được thôi thúc trong chúng ta
qua việc chúng ta nghĩ tưởng về lòng bi mẫn bao la của chư
Phật và những bậc Thầy vĩ đại. Chúng ta có thể kinh nghiệm
loại tín tâm này khi viếng thăm một ngôi chùa có nhiều biểu
tượng cho thân, khẩu, ý của chư Phật, hoặc sau một cuộc
gặïp gỡ một vị Thầy hay một thiện tri thức vĩ đại
mà ta vừa đích thân diện kiến, hoặc khi nghe về những phẩm
hạnh hay tiểu sử của những vị Thầy.
1.2
NIỀM TIN THA THIẾT
Niềm
tin tha thiết là lòng nhiệt thành của chúng ta muốn thoát
khỏi những đau khổ của ba cõi thấp khi chúng ta được nghe
mô tả về những cõi thấp; sự nhiệt thành của chúng ta
muốn vui hưởng hạnh phúc của những cõi cao và của con đường
giải thoát khi chúng ta được nghe về những cõi cao và về
con đường giải thoát; sự nhiệt thành của chúng ta để
dấn mình vào những thiện hạnh khi ta nghe nói về những lợi
ích mà những thiện hạnh này sẽ mang lại cho chúng ta; và
sự nhiệt thành của chúng ta để tránh xa ác hạnh khi ta hiểu
được về những tổn hại mà những hành vi bất thiện
sẽ gây ra.
1.3
NIỀM TIN KIÊN ĐỊNH
Niềm
tin kiên định là niềm tin vào Tam Bảo khởi lên từ đáy
lòng ta một khi chúng ta thấu hiểu được những đức tánh
phi thường và năng lực gia hộ mà Tam Bảo có thể đem đến
cho chúng ta. Đây chính làø toàn bộ niềm tin duy nhất nơi
Tam Bảo xuất phát từ nhận thức rằng Phật, Pháp, Tăng là
nơi nương tựa duy nhất không bao giờ vơi cạn, mãi mãi muôn
đời và trong tất cả mọi hoàn cảnh, cho dù chúng ta đang
hạnh phúc, buồn bã, đau đớn, bệnh tật, dù sống hay chết.*
Đức
Tôn Quý xứ Oddiyana đã nói rằng:
Sự
chí tâm chí thành cho phép lực gia trì thấm nhập vào hành
giả.
Khi
tâm thoát khỏi mọi nghi ngờ, thì bất kỳ điều gì các con
mong muốn cũng có thể thành tựu.
Do
đó, tín tâm giống như một hạt giống, từ đó mọi điều
thiện có thể tăng trưởng. Nếu thiếu tín tâm, hạt giống
như thể bị thiêu đốt. Trong kinh có nói:
Đối
với những người thiếu tín tâm
Không
có điều thiện nào được phát triển,
Cũng
như từ một hạt giống đã bị thiêu đốt
Sẽ
chẳng bao giờ có chồi xanh nào mọc được.
Trong
bảy báu vật cao quý (thất thánh bảo), tín tâm là điều
quan trọng nhất. Có câu nói rằng:
Bánh
xe quý báu của tín tâm
Cả
ngày lẫn đêm lăn trên con đường đức hạnh.
Tín
tâm là nhiên liệu quý báu nhất trong tất cả những tài nguyên
mà chúng ta có được. Tín tâm đem lại một nguồn đức hạnh
vô tận, giống như một kho tàng. Tín tâm cưu mang chúng ta
suốt trên con đường giải thoát giống như đôi chân, và
thâu thập mọi điều tốt đẹp cho chúng ta như đôi tay.
*
Điều này có nghĩa là tín tâm của chúng ta đối với pháp
môn quy y sẽ khiến cho chúng ta có khả năng đối phó với
những kinh nghiệm xảy ra trong thân trung ấm (bardo) sau
cái chết.
Tín
tâm là tài sản và kho tàng vĩ đại nhất, là đôi chân tốt
đẹp nhất;
Là
nền tảng để thâu thập mọi đức hạnh, giống như đôi
tay.
Lòng
bi mẫn và lực gia trì của Tam Bảo ban cho chúng ta thì thật
không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên năng lực gia trì này có thể
thấm nhập một cách sâu đậm trong ta hay không thì hoàn toàn
tùy thuộc vào tín tâm và lòng quy ngưỡng của ta đối với
Tam Bảo. Nếu bạn có tín tâm và lòngï quy ngưỡng bao la,
thì lực gia trì và lòng bi mẫn mà bạn nhận được từ vị
Thầy của bạn và từ Tam Bảo cũng sẽ bao la tương đương
như vậy. Nếu tín tâm và lòng quy ngưỡng của bạn chỉ ở
mức độ trung bình thì lòng bi mẫn và lực gia trì mà bạn
nhận được cũng sẽ trung bình. Nếu tín tâm và lòng quy ngưỡng
của bạn thật ít ỏi, thì chỉ có rất ít lòng bi mẫn và
lực gia trì sẽ đến với bạn. Nếu bạn hoàn toàn không
có lòng tin và sự quy ngưỡng nào thì bạn sẽ tuyệt đối
không nhận được gì cả. Nếu không có lòng tin thì ngay cả
việc được gặp Đức Phật và được Ngài nhận làm đệ
tử cũng hoàn toàn chẳng có ích lợi gì, giống như đối
với nhà sư Thiện Tinh (Sunaksatra) mà câu chuyện của ông đã
được kể ở chương trước, và với người anh em bà con
của Đức Phật là ông Devadatta (Đề Bà Đạt Đa).
Ngay
cả ngày nay, bất kỳ khi nào Đức Phật được khẩn cầu
với tín tâm và lòngï quy ngưỡng chân thành, thì Ngài hiện
diện ở đó và gia hộ cho ta. Đối với lòng bi mẫn của
Đức Phật thì không có chuyện gần hay xa.
Đối
với tất cả những ai nghĩ tưởng tới Ngài với tín tâm
Đức
Phật hiện diện ở đó trước mặt họ
Và
sẽ ban truyền quán đảnh và từ bi gia hộ cho họ.
Và
Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana có nói:
Đối
với tất cả thiện nam tín nữ có lòng tin nơi ta,
Ta,
Liên Hoa Sanh,
Chưa
hề rời xa – Ta ngủ bên cửa nhà họ.
Với
Ta, không có cái chết;
Trước
mặt mỗi người có tín tâm,
đều
có một Liên Hoa Sanh.
Khi
ta có niềm tin kiên cường, lòng bi mẫn của Đức Phật có
thể hiện diện trong bất kỳ sự việc gì. Điều này được
minh họa qua câu chuyện của một bà lão sùng tín được cứu
giúp để đạt được Phật Quả nhờ vào một cái răng của
một con chó.
Ngày
xưa có một bà cụ, con trai bà là một thương gia. Anh ta thường
đi Ấn Độ buôn bán. Một hôm bà cụ nói với con: “Ở Bồ
Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ có Đức Phật Toàn Giác. Con
hãy đem về cho mẹ một vài thánh tích đặc biệt từ Ấn
Độ để mẹ có thể đảnh lễù.” Bà lập lại lời thỉnh
cầu nhiều lần, nhưng người con thường quên lãng và chẳng
bao giờ đem về cho bà những gì bà yêu cầu.
Một
hôm, khi người con đang chuẩn bị đi Ấn Độ thêm một lần
nữa, bà mẹ nói: “Lần này, nếu con không đem về vật gì
để mẹ đảnh lễ thì mẹ sẽ tự sát trước mặt con!”
Người
con đi Ấn Độ, kết thúc việc mua bán như đã dự định
và lên đường trở về nhà, một lần nữa lại quên điều
yêu cầu của mẹ. Chỉ khi về gần tới nhà anh ta mới chợt
nhớ ra.
“Nay
ta sẽ phải làm gì?” anh tự nghĩ. “Ta đã không mang được
thứ gì về để cho mẹ già của ta đảnh lễ. Nếu ta về
nhà tay không, bà sẽ tự sát!”
Nhìn
quanh, anh ta thấy một cái đầu chó đang nằm trên đất gần
đó. Anh ta nhổ một cái răng và dùng miếng lụa gói lại.
Về
đến nhà, anh đưa nó cho mẹ và nói: “Đây là một trong
những răng nanh của Đức Phật. Mẹ có thể dùng nó để
trợ giúp cho mẹ khi cầu nguyện.”
Bà
lão tin lời con. Bà có lòng tin mãnh liệt nơi chiếc răng,
hoàn toàn như thể đó thực sự là chiếc răng của Phật.
Bà luôn luôn cúng dường và đảnh lễ, và từ chiếc răng
chó xuất hiện nhiều hạt ngọc kỳ diệu.* Khi bà lão chết,
một vòm ánh sáng cầu vồng xuất hiện quanh bà cùng những
dấu hiệu khác của sự thành tựu.
*
ring bsrel: những vật thể hình tròn giống như những hạt
ngọc tí hon xuất hiện từ xá lợi của các hành giả chứng
đắc.
Một
cái răng chó thì không chứa đựng chút lực gia trì nào. Nhưng
lòng tin của bà lão mãnh liệt tới nỗi bà đoan chắc rằng
nó thực sự là răng của Đức Phật. Nhờ niềm tin của bà,
chiếc răng thấm đẫm ơn gia hộ của Đức Phật, cho tới
cuối cùng thì cái răng chó không khác gì chiếc răng Phật
thực sự.
Xưa
kia, trong tỉnh Kongpo, có một người chất phác mà sau này
được biết với cái tên Jowo Ben. Ông làm một cuộc hành
trình tới miền Trung Tây Tạng để gặp Jowo Rinpoche.**
**
Pho tượng Đức Phật nổi tiếng ở Lhasa. Xem chú thích 295
Thoạt
đầu khi ông tới trước tượng thì quanh đó không có người
giữ chùa hay bất kỳ ai khác. Thấy thực phẩm cúng dường
và đèn bơ ở trước pho tượng, ông tưởng tượng thấy
Jowo Rinpoche nhúng bánh cúng vào bơ chảy lỏng trong các ngọn
đèn và ăn chúng. Ông tin rằng những ngọn tim đèn cháy sáng
là để làm cho bơ tan lỏng.
“Ta
nghĩ rằng tốt hơn mình nên ăn một ít giống như Jowo Rinpoche,”
ông tự nghĩ và nhúng một miếng bánh bột lấy từ bánh torma
cúng dường vào trong bơ rồi ăn. Ông nhìn vào khuôn mặt đang
tươi cười của Ngài Jowo.
“Ngài
thật là một Lạt Ma tốt bụng,” ông nói. “Ngay cả khi
chó đến ăn trộm thực phẩm được cúng dường của Ngài,
Ngài cũng mỉm cười; khi gió lùa làm những ngọn đèn của
Ngài kêu xèo xèo, Ngài vẫn mỉm cười. Đây, tôi gởi Ngài
đôi giàøy ủng. Làm ơn trông chừng chúng một lát dùm tôi
trong khi tôi đi nhiễu quanh Ngài.”***
***
Việc ăn những món cúng dường và dựng đôi giày của ông
ta trước pho tượng được coi là một hành vi phạm thượng,
khiếm nhã.
Ông
cởi giày đặt trước tượng. Trong lúc ông đang đi nhiễu
quanh con đường chính chạy quanh ngôi chùa thì người giữ
chùa nhìn thấy đôi giày ủng. Ông ta sắp ném đôi giày ra
ngoài thì bức tượng nói:
“Không
được ném chúng đi. Kongpo Ben đã gởi đôi giày này cho ta!”
Cuối
cùng Ben trở lại và lấy đôi giày.
“Người
ta gọi Ngài là một Lạt Ma tốt bụng quả là không sai”,
ông nói với pho tượng. “Sang năm Ngài lại đến thăm chúng
tôi nữa nhé. Tôi sẽ giết một con heo già để nấu cho Ngài
và đãi Ngài ít bia lúa mạch đã được cất lâu năm, rất
hấp dẫn.”
Ngài
Jowo nói: “Ta sẽ đến.”
Ben
trở về nhà và nói với vợ: “Tôi đã mời Ngài Jowo Rinpoche,
thế nhưng tôi không biết chính xác chừng nào Ngài tới, vậy
làm ơn đừng quên để mắtù đến Ngài.”
Một
năm trôi qua. Một ngày nọ, khi đang kéo nước trên sông, vợ
của Ben thấy rõ ràng bóng phản chiếu của Ngài Jowo Rinpoche
trên mặt nước.
Bà
lập tức chạy về nhà nói với chồng “Có cái gì ở dưới
đó, trong con sông…tôi không rõ đó có phải là người mà
ông mời không.”
Ben
chạy ra sông và thấy Jowo Rinpoche sáng ngời trong nước. Cho
là Ngài bị chìm xuống sông, Ben nhảy xuống. Khi chộp được
linh ảnh, ông thấy là có thể thực sự nắm được linh ảnh
ấy và đem linh ảnh đi theo.
Khi
gần đến nhà Ben, họ tới trước một tảng đá khổng lồ
bên đường. Ngài Jowo không muốn đi xa hơn nữa.
“Ta
không vào nhà của cư sĩ,” Ngài nói, và biến mất vào tảng
đá.
Địa
điểm mà người ta nhìn thấy Ngài Jowo hiện đến nay được
gọi là Jowo Dolé, còn dòng sông nơi linh ảnh của Ngài xuất
hiện thì có tên là Sông Jowo. Thậm chí ngày nay, người ta
nói rằng địa điểm mà Ngài Jowo hiện ra cũng có thể ban
ơn gia hộ cho chúng ta tương tự như tượng Ngài Jowo ở Lhasa,
và mọi người đều đến nơi đây để đảnh lễ và cúng
dường. Chính nhờ sức mạnh của niềm tin kiên định mà
Ben đã trực nhận được lòng từ bi của Đức Phật. Mặc
dù ông ăn bơ từ các ngọn đèn và ăn thực phẩm lấy từ
các món cúng dường, lại đặt đôi giày trước tượng Ngài
Jowo – bình thường thì những hành vi này toàn làø điều
sai trái – nhưng sức mạnh của niềm tin của ông đã làm
cho những việc làm này trở nên hoàn toàn tốt đẹp.
Thêm
nữa, cũng chỉ duy nhất nương nơi tín tâm mà việc ta thực
chứng được chân lý tuyệt đối - trạng thái như nhiên –
sẽ được phát sinh. Trong một quyển Kinh có nói:
Ô,
Xá Lợi Phất, chân lý tuyệt đối chỉ được chứng ngộ
nương nơi tín tâm.
Khi
bạn phát triển được một tín tâm hoàn toàn siêu vượt
những gì tầm thường, thì nhờ năng lực của tín tâm siêu
phàm ấy mà lực gia trì của Thầy của bạn và của Tam Bảo
sẽ thấm nhập vào bạn. Sau đó, bạn sẽ đạt được những
chứng ngộ đích thực và sẽ trực nhận đượïc trạng thái
như nhiên. Khi điều đó xảy ra, bạn sẽ cảm thấy một niềm
tin mãnh liệt và có được lòng xác tín thậm chí còn phi
thuờng và kiên cố hơn nữa, nơi Thầy của bạn và nơi Tam
Bảo. Theo đó, tín tâm và việc đạt đuợc trạng thái như
nhiên hỗ trợ lẫn nhau.
Trước
khi từ giã Ngài Jetsun Mila, Dagpo Rinpoche hỏi Ngài khi nào ông
nên bắt đầu giảng dạy.
Ngài
Jetsun trả lời: “Một ngày kia con sẽ chứng ngộ được
cái thấy trong sáng phi thường về bản tánh của chân tâm
của con, hoàn toàn khác biệt với cái thấy con hiện có. Vào
lúc đó, niềm tin kiên định sẽ xuất hiện trong con và con
sẽ nhận ra ta, người cha già của con, như một vị Phật
đích thực. Đó là lúc con nên bắt đầu giảng dạy.”
Do
đó, khả năng ta có được để đón nhận lòng từ bi và
lực gia trì từ Thầy của ta và từ Tam Bảo hoàn toàn phụ
thuộc vào lòng quy ngưỡng và tín tâm.
Có
lần một đệ tử thỉnh cầu đạo sư Jowo Atisa: “Ngài Jowo,
xin ban phước cho con”
“Đệ
tử giải đãi,” Ngài Atisa trả lời: “hãy cho ta lòng
quy ngưỡng của ngươi...”
Như
thế, thật vô cùng cần thiết để có lòng tin cậy kiên cố
và tuyệt đối, phát sinh từ một tín tâm và lòng quy ngưỡng
phi thường. Điều đó mở ra cánh cửa để thọ nhận quy
y.
2.
Nguyện Lực
Có
ba mức độ nguyện lực khác nhau để thọ quy y với tín tâm
như trên.
2.1
NGUYỆN LỰC QUY Y CỦA NHỮNG NGƯỜI HẠ CĂN
Ta
sợ hãi phải chịu đựng những đau khổ của ba cõi thấp
– cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và cõi súc sinh – và niềm
sợ hãi này thúc đẩy chúng ta quy y với ý hướng đơn giản
là đạt được hạnh phúc của cõi Trời và người.
2.2
NGUYỆN LỰC QUY Y CỦA NHỮNG NGƯỜI TRUNG CĂN
Ta
nhận thức rằng cho dù ta tái sinh ở bất kỳ cõi giới cao
hay thấp nào trong vòng luân hồi, ta đều không thể thoát
khỏi đau khổ, và nhận thức này đã thúc đẩy chúng ta quy
y Tam Bảo với mục đích duy nhất là bản thân ta đạt được
Niết Bàn, được an lành và thoát khỏi tất cả đau khổ
trong luân hồi.
2.3
NGUYỆN LỰC QUY Y CỦA CÁC BẬC THƯỢNG CĂN
Cảnh
tượng của tất cả chúng sinh đắm chìm trong đại dương
vĩ đại của luân hồi sinh tử, của đau khổ triền miên,
qua nhiều loại đau khổ khác nhau không thể tưởng tượng
nổi, chính những điều này thúc đẩy chúng ta quy y với chí
nguyện có thể an lập tất cả chúng sinh trong trạng thái
toàn giác vô song của Phật Quả viên mãn và toàn thiện.
Đối
với ba mức độ động lực và tác ý trên đây, thì riêng
chúng ta nên chọn con đường của những bậc thượng căn
vĩ đại, có chí nguyện muốn quy y vì mong muốn an lập toàn
thể vô lượng chúng sinh không sót một ai trong trạng thái
Phật Quả viên mãn.
Thoạt
nhìn thì hạnh phúc của chư Thiên và thế gian loài người
có vẻ là niềm hạnh phúc chân thật. Tuy nhiên, trên thực
tế, chúng sinh trong cõi Trời và cõi người vẫn không thể
thoát khỏi đau khổ; và ngay khi phước báu của những thiện
hạnh mà họ đã gieo trồng bị cạn kiệt thì họ sẽ rơi
trở lại vào những cõi thấp. Vậy tại sao lại nỗ lực
đạt được hạnh phúc của những cõi cao nếu như những
hạnh phúc này chỉ kéo dài trong khoảnh khắc? Cõi Niết Bàn
của những vị Thanh Văn và Độc Giác Phật đem lại sự an
bình và hạnh phúc nhưng chỉ cho độc nhất chúng ta; trong
khi tất cả chúng sinh – là cha và mẹ của chúng ta từ
vô thủy – đang đắm chìm trong đại dương đau khổ vô tận
của vòng luân hồi. Nên nếu ta không nỗ lực cứu giúp
họ thì đó sẽ là điều sai lầm to lớn. Do đó, quy y Tam
Bảo với ước nguyện tất cả chúng sinh có thể đạt đến
Phật Quả là con đường của những bậc thượng căn vĩ đại
và là cánh cổng dẫn tới công đức vô biên. Đó cũng là
con đường chúng ta nên đi theo. Trong Vòng Hoa Châu Báu có nói:
Bởi
chúng sinh thì bao la vô tận
Nên
ước nguyện cứu giúp họ cũng bao la vô tận như vậy.
II.
QUY Y NHƯ THẾ NÀO
Theo
Phật Giáo Nguyên Thủy, ta quy y (nương tựa) nơi Đức Phật
như vị Thầy, nơi Giáo Pháp như con đường, và nơi Tăng Đoàn
như những bạn đồng hành trên suốt con đường.
Phương
pháp tổng quát của Mật Thừa phi thường là quy y bằng cách
cúng dường thân, khẩu và ý cho Thầy của ta, cung nghinh các
Bổn Tôn như những vị hộ trì, và cung nghinh các Không-Hành
nữ hay Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) như những người bạn đồng
hành.
Phương
pháp tối cao, đặc biệt của Tâm Yếu Kim Cương là quy y nơi
con đường thần tốc, nhờ đó hành giả sử dụng những
kinh mạch (channels) như đây chính là các Hoá Thân, tu luyện
các năng lượng (energies), như đây chính là các Báo Thân và
tịnh hóa những tinh túy (essences), như đây chính là Pháp Thân.
Khi
ta nhất tâm, một mực nương tựa vào trạng thái như nhiên
bất hoại bên trong ta thì việc nương tựa này phải được
đặt nền tảng trên trí huệ nguyên sơ vốn sẵn có trong
quy y. Bản chất cốt lõi của trí huệ đó là tánh Không (emptiness);
biểu lộ tự nhiên của trí huệ đó là tánh sáng (clarity);
và lòng từ bi của trí huệ này là sự tỏa rạng khắp nơi
(all pervasive).111 Quy y ở đây có nghĩa là với tất cả lòng
tin, ta ý thức ra được trong dòng tâm thức của chính chúng
ta về sự bất khả phân vĩ đại của ba yếu tánh trên đây
của trí huệ nguyên sơ.
Khi
đã có một hiểu biết rõ ràng như vậy về tất cả con đường
cần thiết để thọ giới quy y, giờ đây chúng ta tiếp tục
đi tới việc thật sự thực hành quy y. Trước hết, hãy quán
tưởng ruộng công đức – đây chính là đối tượng mà
bạn quán tưởng trước mặt trong khi thọ lễ quy y.
Hãy
xem nơi bạn đang ở là một Phật điền hoàn toàn đẹp đẽ
và thật vừa ý, được làm bằng đủ loại chất liệu quý
báu. Mặt đất bóng láng như mặt gương, không có bất kỳ
núi đồi, thung lũng hay bất cứ cảnh tượng thiếu sự hài
hòa nào. Ở chính giữa, phía trước bạn, mọc lên một
cây như ý với năm cành lớn tỏa ra từ thân cây. Lá, hoa
và trái hoàn hảo của cây như ý vươn tới bốn hướng Đông,
Tây, Nam, Bắc, xa rộng tới nỗi làm tràn ngập cả bầu trời,
và mỗi cành, nhánh treo vô số ngọc quý rất đẹp và những
cái chuông đủ loại.
Trên
cành chính là một cái ngai bằng ngọc được tám con sư tử
lớn nâng lên. An toạ trên ngai, trên một chỗ ngồi gồm một
bông sen nhiều màu sắc, một mặt trời và một mặt trăng,
là vị Bổn Sư hay Đạo Sư Gốc (root lama) của bạn, suối
nguồn không gì sánh được của lòng bi mẫn, hiện thân của
tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai; vị
Đạo Sư Gốc xuất hiện trong hình tướng của Đức Kim Cang
Trì vĩ đại xứ Oddiyana. Thân Ngài mang sắc màu trắng quyến
rũ pha sắc hồng. Ngài có một mặt, hai tay, hai chân114 và
ngồi trong tư thế vương giả.* Tay phải Ngài cầm một chày
vajra (kim cương) năm chấu bằng vàng với ấn phẫn nộ. Trong
tay trái với ấn thiền định, Ngài cầm một bình bát làm
bằng sọ người đựng đầy chất cam lồ trí tuệ bất tử.
Trên nắp bình là một cây như ý. Ngài mặc một áo choàng
bằng gấm thêu kim tuyến, khoác thêm y áo của một tu sĩ và
một áo thụng tay dài màu xanh dương, trên đầu Ngài là một
vương miện hoa sen. Ngồi trong tư thế hợp nhất với Ngài
là vị phối ngẫu của Ngài, Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini)
*
rgyal po’I rol stabs: tư thế du hí vương giả, với chân phải
duỗi ra một nửa và chân trái xếp vào.
I.
QUY Y - NỀN TẢNG CỦA MỌI CON ĐƯỜNG
Yeshe
Tsogyal thân trắng, đang cầm một lưỡi dao cong và một bình
bát làm bằng sọ người.
Hãy
quán tưởng Ngài như vậy trong không gian phía trước, mặt
hướng về bạn. Trên đỉnh đầu Ngài là tất cả những
Lạt Ma của dòng truyền thừa, vị này ngồi trên vị kia,
người ngồi phía trên không chạm vào người phiá dưới.
Những vị Thầy của truyền thống Mật điển thông thường
thì nhiều vô số, nhưng ở đây chúng ta đặc biệt quán tưởng
những nhân vật chính của dòng truyền thưà Tâm-Yếu của
Đại Viên Mãn: Đức Phật Phổ Hiền, Pháp Thân; Đức Phật
Kim Cang Tát Đỏa, Báo Thân; Ngài Garab Dorje, Hóa Thân; Đạo
Sư Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu); Guru Sri Simha (Cát Tường
Sư Tử); Ngài Jnanasutra (Kỳ Na Tu Đa La) uyên bác; đại học
giả Vimalamitra; đức Liên Hoa Sinh xứ Oddiyana và ba đệ tử
thân cận của Ngài, Đức Vua, Thần dân và vị Phối ngẫu
– tức là vị Pháp Vương Trisong Detsen, đại dịch giả Vairotsana
và Thiên Nữ Trí Tuệ Yeshe Tsogyal; đức Longchen Rabjampa toàn
trí; và đức Rigdzin Jigme Lingpa. Mỗi người trong số các Ngài
phải được quán tưởng với những bảo vật trang sức và
các biểu tượng riêng. Tất cả được vây quanh bởi vô số
Bổn Tôn (Yidam) của bốn phân loại Mật điển và bởi các
vị Không-Hành nam (daka) và Không-Hành nữ (dakini).
Trên
cành phía trước là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đấng Chiến
Thắng, được bao quanh bởi một ngàn lẻ hai vị Phật Toàn
Giác của Hiền Kiếp này cùng tất cả chư Phật trong quá
khứ, hiện tại, và vị lai trong mười phương. Tất cả các
Ngài có hình tướng Hoá Thân siêu việt, đắp y tu sĩ, có
đầy đủ ba mươi hai tướng hảo của Phật Quả – nhục
kế nhô cao, lòng bàn chân có in dấu các luân xa, v.v… - và
tám mươi tướng phụ. Tất cả các Ngài an toạ trong tư thế
kim cương. Một số vị có sắc trắng, một số sắc vàng,
một số sắc đỏ, một số sắc xanh lục, và một số có
sắc xanh dương. Những tia sáng tuyệt diệu toả chiếu ra từ
thân tướng các Ngài.
Trên
cành bên phải, hãy quán tưởng tám Đại Đệ Tử, dẫn đầu
bởi các Bồ Tát Pháp Vương Tử của Ba Phật Bộ – Văn Thù,
Kim Cương Thủ, và Quán Tự Tại – và được bao quanh bởi
toàn thể Tăng Đoàn tôn quý gồm chư vị Bồ Tát. Các Ngài
có sắc trắng, vàng, đỏ, xanh dương, xanh lục. Tất cả đều
mang mười ba món trang sức của Báo Thân, và đứng trên hai
chân.
Trên
cành bên trái hãy quán tưởng hai vị Thanh Văn (Sravaka) chính
yếu là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên, được
tăng đoàn cao quý gồm chư vị Thanh Văn và Độc Giác Phật
bao quanh. Tất cả các Ngài có sắc trắng, và đắp ba y tu
sĩ. Các Ngài cũng đêàu đứng, tay cầm tích trượng và bình
bát.
Trên
cành phía sau, hãy quán tưởng Pháp bảo trong hình dạng những
chồng sách. Trên cùng là sáu triệu bốn trăm ngàn Mật điển
(tantra) của Đại Viên Mãn, được bao bọc bởi một lưới
ánh sáng, tựa đề của mỗi quyển sách hướng về phía bạn.*
Tất cả những quyển sách này xuất hiện rất rõ ràng và
minh bạch, và ngân vang giai điệu tự nhiên của những nguyên
âm và phụ âm.
Giữa
những cành cây là tất cả chư Hộ Pháp quang vinh, là những
vị vừa là Hộ Pháp trí tuệ lẫn những vị Hộ Pháp đã
được nhiếp phục do nghiệp quả của những hành động trong
quá khứ của họ.118 Tất cả những nam Hộ Pháp đều hướng
mặt ra ngoài; hoạt động của họ là ngăn ngừa những chướng
ngại từ bên ngoài thâm nhập vào trong, bảo vệ chúng ta khỏi
những chướng ngại và những trở ngại để chúng ta có thể
thực hành Giáo Pháp và đạt được giác ngộ. Tất cả những
nữ Hộ Pháp đều hướng mặt vào trong; hoạt động của
họ là giữ gìn những thành tựu bên trong không để cho hé
lộ ra ngoài.
*
Đây là những quyển sách Tây Tạng bằng lá rời và dài,
được bọc trong vải, với một tiêu đề bằng vải được
gắn ở cuối sách bên tay trái.
Hãy
nghĩ tưởng về tất cả chư vị này của lễ quy y, là những
vị với phẩm hạnh cao quý của trí tuệ. Hãy nghĩ tưởng
đến lòng bi mẫn và năng lực vô lượng, họ đang dẫn dắt
bạn như người dẫn đường vĩ đại duy nhất của bạn.
Hãy
hình dung ở bên phải bạn là người cha và bên trái là người
mẹ trong hiện đời của bạn. Phía trước bạn, một đám
đông trùng trùng điệp điệp cùng tụ hội che kín mặt đất
– đó làø tất cả chúng sinh trong ba cõi và trong sáu nẻo
luân hồi; hàng thứ nhất gồm tất cả những người thù
ghét bạn và tất cả những kẻ gây chướng ngại hoặc làm
tổn thương bạn. Cùng với bạn, tất cả những người này
đều đứng với hai bàn tay chắp lại. Khi bày tỏ lòng tôn
kính bằng thân bạn, hãy gieo mình xuống đất lễ lạy. Khi
bày tỏ lòng tôn kính với khẩu của bạn, hãy tụng đọc
lời nguyện quy y. Khi bày tỏ lòng tôn kính bằng ý của bạn,
hãy nuôi dưỡng tư tưởng như sau:
“Ô,
Đạo Sư và Tam Bảo, bất kỳ điều gì xảy đến với con,
dù thuận lợi hay bất lợi, hạnh phúc hay đau khổ, tốt hay
xấu, bất kỳ bệnh tật hay đau khổ nào xảy ra cho con, con
không có sự nương tựa hay che chở nào khác ngoài Ngài.
Ngài là bậc gia trì duy nhất, người hướng dẫn duy nhất,
nơi trú ẩn duy nhất và là niềm hy vọng duy nhất của con.
Từ bây giờ cho đến khi con đạt được tâm-yếu của Giác
Ngộ, con đặt mọi sự trông cậy và niềm tin của con vào
Ngài. Con sẽ không tìm kiếm những lời khuyên dạy của cha,
không thỉnh cầu lời chỉ dạy của mẹ, cũng không tự mình
quyết định. Chính Ngài, vị Thầy và Tam Bảo của con, mà
con nhận làm nơi nương tựa. Chính Ngài là đối tượng đểø
con thực hiện các lễ cúng dường. Con tự cam kết chỉ với
một mình Ngài. Con không có nơi nương tựa nào khác, không
còn hy vọng nào khác ngoài Ngài!”
Với
sự xác tín nồng nhiệt này, hãy đọc tụng bản văn sau đây:
Cho
tới khi đạt được tâm-yếu của Giác Ngộ,121 con luôn luôn
nương tựa
Nơi
những Đấng Thiện Thệ của Ba Lựïc Gia Trì, là Tam Bảo
chân thực,
Nơi
Bồ Đề Tâm, là chân tánh của kinh mạch (channels), năng lực
(engergies) và tinh túy (essences),
Và
nơi mạn đà la tinh yếu của chân tánh, của sự hiển lộ
tự nhiên và của lòng bi mẫn.
Trong
mỗi thời khoá, nếu có thể thì hãy đọc bài này càng nhiều
lần càng tốt. Cho tới khi bạn đọc xong câu nguyện
này ít nhất một trăm ngàn lần, thì bạn hãy dụng công tụng
đọc câu nguyện này trong những thời khoá riêng biệt và
hãy để cho công phu này trở thành là một công phu liên tục
và quan trọng nhất của bạn.
Có
thể bạn ngạc nhiên tại sao kẻ thù và những người gây
chướng ngại cho bạn lại được ưu tiên hơn cả cha mẹ
bạn trong lúc quy y vì kẻ thù thì được quán tưởng ở phía
trước đám đông, trong khi cha và mẹ bạn lại ở phía sau
bên cạnh bạn. Lý do là vì chúng ta, những người bước trên
con đường Đại Thừa, phải có lòng từ bi đối với toàn
thể chúng sinh vô tận một cách đồng đều không phân biệt.
Đặc biệt hơn nữa, cách duy nhất để tích lũy một khối
lượng công đức vô biên và không lãng phí tất cả những
gì ta đã vun bồi là hãy lấy hạnh nhẫn nhục làm phần thực
hành chính yếu của ta. Có câu nói rằng:
Làm
sao chúng ta có thể thực hành nhẫn nhục nếu không có ai
làm ta nổi giận.
Chính
những họa hại gây nên bởi kẻ thù và những kẻ tạo ra
chướng ngại đã ban cho bạn cơ hội phát triển hạnh nhẫn
nhục. Từ quan điểm này của Giáo Pháp, nếu bạn quán chiếu
sâu sắc thì bạn sẽ thấy ra được rằng kẻ thù và những
kẻ gây ra chướng ngại còn tử tế với bạn hơn cả cha
mẹ bạn. Cha mẹ bạn, khi dạy cho bạn mọi thủ đoạn và
cách thức lọc lừa cần thiết để bạn thành công trong thế
gian này, họ là những người có thể tạo nên chướng ngại
khiến bạn không thể thoát ra khỏi đáy sâu của những cõi
thấp trong các đời vị lai. Vì thế lòng tốt của họ không
vĩ đại như ta tưởng. Trái lại, kẻ thù và những kẻ gây
chướng ngại thì cực kỳ tử tế với bạn. Chính nghịch
cảnh mà kẻ thù gây ra cho bạn đã cung cấp cho bạn đúng
căn nguyên để thực hành nhẫn nhục. Dù bạn có thích hay
không thì kẻ thù của bạn cũng đã chia cắt bạn ra khỏi
của cải và tài sản của bạn – mà của cải và tài sản
chính là những ràng buộc ngăn cản không cho bạn thoát khỏi
luân hồi và vì the,á chúng chính là nguồn gốc của mọi
đau khổ. Những thế lực tiêu cực và những kẻ gây chướng
ngại cũng cung cấp cho bạn sự tập trung để thực hành nhẫn
nhục. Nhờ bệnh tật và đau khổ do họ gây ra mà nhiều hành
động sai lầm trong quá khứ được tịnh hóa. Hơn nữa, kẻ
thù và chướng ngại đem bạn tới với Giáo Pháp, giống như
kẻ thù và chướng ngại đã đưa Ngài Jetsun Milarepa và sư
cô Palmo đến với Giáo Pháp, khi cô chú của Ngài Jetsun Milarepa
cướp đi tất cả tài sản của Ngài và khi sư cô Palmo bị
mắc bệnh phong cùi do loài thuỷ long (naga) gây ra; cô đã hiến
mình cho việc thực hành tu tập theo pháp môn Thiên Thủ Thiên
Nhãn Quán Thế Âm (Avalokiteshvara) và sau đó đạt được thành
tựu siêu việt. Đấng Toàn Giác, Pháp Vương Longchenpa
đã nói:
Bị
đau khổ tấn công, ta phát hiện Giáo Pháp
Và
tìm ra con đường giải thoát.
Xin
cảm ơn những thế lực xấu ác!
Khi
phiền muộn tràn ngập tâm tưởng, ta phát hiện Giáo Pháp.
Và
tìm thấy hạnh phúc vĩnh cửu.
Xin
cảm ơn những muộn phiền!
Nhờ
thương tổn gây ra bởi các tinh linh, ta phát hiện Giáo Pháp.
Và
tìm thấy sự vô úy.
Xin
cảm ơn những bóng ma và quỷ dữ!
Nhờ
lòng thù hận của con người mà ta phát hiện Giáo Pháp
Và
tìm được lợi lạc và hạnh phúc.
Xin
cám ơn những kẻ thù ghét ta!
Nhờ
nghịch cảnh tàn bạo mà ta phát hiện Giáo Pháp
Và
tìm thấy con đường bất biến.
Xin
cảm ơn nghịch cảnh!
Nhờ
bị người khác thúc ép mà ta phát hiện Giáo Pháp
Và
tìm thấy ý nghĩa tinh yếu.
Xin
cảm ơn tất cả những kẻ xô đẩy ta!
Để
đáp đền lòng tốt, ta hồi hướng công đức cho tất cả
các ngươi.
Vì
vậy, kẻ thù không chỉ rất tử tế với bạn trong đời
này, mà họ còn là cha mẹ bạn trong những đời quá khứ.
Đây là điều tại sao bạn nên dành cho họ một vị trí quan
trọng trong khi hành trì pháp tu quy y.
Khi
tới lúc kết thúc thời công phu quy y, hãy quán tưởng lòng
khát khao, quy ngưỡng của bạn tạo ra vô số những tia sáng
phóng ra từ những Bổn Tôn quy y. Những tia sáng này phóng
tỏa vào bạn và tất cả chúng sinh, và giống như bầy chim
bị một viên đạn bắn làm cho tan tác, tất cả chúng sinh
và bạn vù vù bay lên và hoà nhập vào các Bổn Tôn.
Sau
đó những Bổn Tôn chung quanh tan thành ánh sáng, từ ngoài
vào trong và tan biến vào vị Thầy ở trung tâm là hiện thân
của ba đối tượng quy y. Tất cả những Bổn Tôn ngự trên
đầu của vị Thầy cũng tan biến vào Ngài. Sau đó vị Thầy
hoà tan và biến vào ánh sáng. Hãy ngơi nghỉ trong trạng thái
nguyên sơ của Pháp Thân trong thời gian ngắn dài tùy sức,
thoát khỏi tất cả mọi tạo tác, không vướng mắc vào bất
kỳ vọng niệm nào.
Khi
bạn xả thiền, hãy hồi hướng công đức cho vô lượng chúng
sinh bằng những lời như sau:
Nương
nơi công đức của công phu hành trì này,
Xin
cho con nhanh chóng chứng đắc ngôi Tam Bảo
Và
xin cho con an lập mỗi một chúng sinh
Không
sót một ai, tùy vào căn cơ của họ.
Hãy
luôn nghĩ tưởng đến những Bổn Tôn của Giáo Pháp quy y
trong mọi tình huống. Khi bạn đi, hãy quán tưởng các Ngài
trong không gian trên vai phải của bạn và hình dung rằng bạn
đang đi nhiễu quanh các Ngài. Khi ngồi, hãy quán tưởng các
Ngài trên đầu như nơi nương tựa của những lời nguyện
cầu của bạn. Khi ăn, hãy quán tưởng các Ngài ở cổ họng
và cúng dường các Ngài phần đầu tiên của thức ăn hay
đồ uống. Khi ngủ, hãy quán tưởng các Ngài ở giữa tim
bạn. Pháp tu này chủ yếu để bạn có thể giải thể những
mê lầm, giúp cho mê lầm tan hoà vào với tịnh quang.
Bất
cứ bạn làm gì, đừng bao giờ xa lìa hình ảnh trong sáng
của các Bổn Tôn của giáo pháp quy y trong dòng tâm thức.
Hãy giao phó bản thân bạn với toàn bộ tín tâm cho Tam Bảo
và hoàn toàn hiến mình để thọ nhận quy y.
III.
GIỚI LUẬT VÀ LỢI ÍCH CỦA QUY Y
1.
Giới Luật Của Quy Y
Giới
luật bao gồm ba điều phải từ bỏ, ba điều nên làm và
ba thái độ bổ sungï phải được tuân giữ.
1.1
BA ĐIỀU PHẢI TỪ BỎ
Sau
khi đã quy y với đức Phật, chớ tôn thờ những thần thánh
trong vòng luân hồi. Nói khác đi, những vị Trời của các
kẻ ngoại đạo như Isvara hoặc Visnu cũng như những vị thần
địa phương, các thổ địa, hay bất kỳ những vị trời
hay tinh linh thế tục mạnh mẽ nào khác, bản thân họ chưa
giải thoát khỏi những đau khổ của luân hồi, nên bạn chớ
coi họ như chỗ nương tựa của mình trong những đời sau,
đừng cúng dường hay đảnh lễ họ.
Đã
quy y Pháp, đừng làm tổn hại người khác, ngay cả trong giấc
mơ của bạn. Hãy quyết lòng nỗ lực che chở họ với khả
năng tốt nhất của bạn.
Đã
quy y Tăng, đừng dính líu với những kẻ ngoại đạo và những
người như thế, là những kẻ không tin tưởng vào giáo lý
của các Đấng Chiến Thắng hay không tin Đức Phật Toàn Giác
là đấng đã giảng dạy những điều đó. Mặc dù không thật
sự có những kẻ ngoại đạo ở Tây Tạng, bạn cũng nên
tránh dính líu với bất kỳ người nào hành động như một
kẻ ngoại đạo (tirthika) – ví dụ như khi họ sỉ nhục và
chỉ trích vị Thầy và Giáo Pháp của bạn, hoặc phỉ báng
giáo lý sâu xa của Mật Thừa.
1.2
BA ĐIỀU NÊN LÀM
Đã
quy y Đức Phật, hãy tôn kính ngay cả một mảnh nhỏ của
pho tượng đã vỡ tượng trưng cho Ngài. Hãy đặt tượng
lên đầu bạn,* để ở nơi tinh sạch, có lòng tin, có nhận
thức và tri kiến thanh tịnh, xem pho tượng như Trân Bảo thật
sự của Đức Phật.
Đã
quy y Pháp, hãy tôn kính ngay cả một mảnh giấy chỉ hiện
có một chữ của Kinh điển trên đó. Hãy đặt mảnh
giấy ấy lên đầu bạn và xem đó là Trân Bảo thật sự
của Pháp.
*
Đặt vật gì lên đầu mình là một dấu hiệu của sự tôn
kính.
Đã
quy y Tăng, hãy coi bất kỳ những gì biểu tượng cho các Ngài,
dù chỉ là một mảnh vải nhỏ có màu đỏ hay vàng, như Trân
Bảo đích thực của Tăng Đoàn. Hãy tôn kính những biểu
tượng ấy, đặt lên đầu, để ở nơi sạch sẽ và nhìn
những biểu tượng đó với niềm tin và tri kiến thanh tịnh.
1.3
BA GIỚI LUẬT BỔ SUNG
Hãy
coi Thầy của bạn, bậc thiện tri thức đã giảng dạy cho
bạn ở nơi đây và ngay bây giờ điều gì nên làm và không
nên làm, như là Trân Bảo đích thực của Đức Phật. Thậm
chí không dẫm lên bóng của Thầy, và hãy nhiệt tình phụng
dưỡng và tôn kính Ngài.
Hãy
coi từng lời nói của vị Thầy cao cả của bạn như Trân
Bảo đích thực của Giáo Pháp. Hãy chấp nhận mọi điều
Ngài nói không bất tuân một điểm nhỏ nào.
Hãy
coi đoàn thị giả, đệ tử của Ngài và những bằng hữu
tâm linh của bạn là những người với giới hạnh thuần
khiết như Trân Bảo đích thực của Tăng Đoàn. Hãy tôn kính
họ với thân, khẩu, ý của bạn và không bao giờ làm họ
phải phiền não dù chỉ trong chốc lát.
Đặc
biệt, trong Mật Thừa, vị Thầy là đối tượng quy y chính
yếu: thân Ngài là Tăng; khẩu Ngài là Pháp và ý Ngài là Phật.
Do vậy, hãy nhận thức rằng Ngài không khác gì sự hợp nhất
tinh túy của Tam Bảo và hãy nhìn thấy mọi hành động của
Ngài đều trọn vẹn, không gì sai suất. Hãy đi theo Ngài với
lòng tin tuyệt đối và nỗ lực cầu nguyện Ngài trong mọi
lúc. Nên nhớ rằng khi bạn làm phật lòng Ngài bằng bất
kỳ những gì đến từ thân, khẩu, ý, đó là bạn đãø từ
bỏ toàn bộï quy y. Vì vậy hãy quyết tâm vàø nỗ lực
làm hài lòng Ngài trong mọi lúc.
Cho
dù điều gì xảy tới với bạn, vừa ý hay khó chịu, tốt
hay xấu, bệnh tật hay đau khổ, hãy hoàn toàn giao phó bản
thân bạn cho Thầy của bạn. Hãy nhận thức rằng mọi hạnh
phúc đều xuất phát từ lòng từ bi của Tam Bảo. Có câu
nói rằng mọi sự vừa ý và tốt đẹp trong thế gian này,
ngay cả một cơn gió nhẹ thoảng qua trong một ngày nóng bức,
đều xuất phát từ lòng từ bi và lực gia trì của Đức
Phật. Cũng thế, thiện niệm nhỏ bé nhất xuất hiện trong
tâm bạn bắt nguồn từ năng lực không thể nghĩ bàn của
lực gia trì từ Ngài. Trong Nhập Bồ Tát Hạnh, Ngài Santideva
có nói:
Giống
như khi một tia chớp xé toang màn đêm,
Ánh
sáng ấy phơi bày tất cả những đám mây đen đang ẩn trốn,
Cũng
thế, hiếm hoi biết bao, nhờ năng lực của chư Phật,
Mà
những thiện niệm chóng vánh khởi lên và thoáng qua trong thế
giới này.
Thế
nên, việc nhận ra lòng bi mẫn của chư Phật trong mọi sự
việc sẽ cứu giúp bạn và đem lại hạnh phúc cho bạn.
Bất
cứ khi nào bạn đối mặt với bệnh tật hay đau khổ, khi
gặp ma quỷ và khi những kẻ thù gây nên chướng ngại, hoặc
bất kỳ việc gì khác có thể xảy đến với bạn, thì bạn
hãy chỉ cầu nguyện Tam Bảo và không dựa vào bất kỳ phương
pháp nào khác để đối phó những khó khăn như thế. Nếu
bạn phải trải qua việc chữa trị hay sử dụng một nghi
thức chữa bệnh, thì hãy làm những việc đó trong niềm nhận
thức rằng chính các sự việc đó cũng là hoạt động của
Tam Bảo.
Hãy
học hỏi để có niềm tin và tri kiến thanh tịnh bằng cách
nhận thức được rằng tất cả mọi việc đã xuất hiện
đều là do Tam Bảo làm cho hiển lộ. Khi bạn lên đường
đi tới một nơi nào đó, dù để làm việc hay vì một vài
lý do nào khác, hãy kính lễ Phật, Pháp và Tăng ở hướng
đó. Hãy trì tụng lời nguyện quy y liên tục hàng ngày, hoặc
bạn dùng bài nguyện Tâm-Yếu đã trích dẫn ở trên, hoặc
tụng đọc bài nguyện dưới đây có tên là Tứ Quy Y, thông
dụng cho tất cả các Thừa:
Con
quy y Đạo Sư,
Con
quy y Phật.
Con
quy y Pháp.
Con
quy y Tăng.
Hãy
khuyên bảo người khác quy y và khuyến khích họ thực hành
pháp môn quy y. Hãy giao phó bản thân bạn và những người
khác cho Tam Bảo trong cả đời này lẫn những đời sau, và
hãy thực hành pháp môn quy y [tụng lời nguyện quy y và quán
tưởng ruộng công đức quy y] một cách siêng năng.
Khi
bạn đi ngủ, hãy quán tưởng những Bổn Tôn của ruộng công
đức, như đã mô tả ở trên, nhưng đặt tất cả những
vị ấy trong tim bạn, và rơi vào giấc ngủ trong khi dồn hết
tâm thức tập trung vào các Ngài. Nếu không thể làm
như vậy, hãy nghĩ tưởng đến Thầy của bạn và đến Tam
Bảo như đang thực sự hiện diện bên gối của bạn, tràn
đầy lòng từ bi với bạn. Sau đó đi vào giấc ngủ với
niềm tin và tri giác thanh tịnh không đánh mất niệm tưởng
về Tam Bảo.
Khi
bạn ăn hay uống, hãy quán tưởng Tam Bảo trong cổ họng và
cúng dường các Ngài mọi thứ mà bạn ăn hay uống. Nếu bạn
không làm được điều đó, hãy cúng dường các Ngài ngụm
nước hay miếng ăn đầu tiên, và nghĩ: “Con cúng dường
những món này lên Tam Bảo.”
Khi
bạn có quần áo mới, trước khi mặc vào lần đầu tiên,
hãy nâng chúng lên và thầm cúng dường chúng cho Tam Bảo.
Sau đó hãy mặc vào với niệm tưởng rằng Tam Bảo đã ban
chúng cho bạn.
Bất
cứ khi nào bạn thấy điều gì đem lại cho bạn sự hoan hỷ
hay lòng khao khát, hãy thầm cúng dường điều ấy lên Tam
Bảo trân quý: những khu vườn đáng yêu đầy hoa, những giòng
suối trong trẻo, những ngôi nhà xinh đẹp, những vườn cây
tươi mát, những tài sản và của cải vô tận, những người
đàn ông và phụ nữ ăn mặc đẹp đẽ.
Khi
rót nước, hãy tung vài giọt vào không trung và nói: “Con
cúng dường nước này cho Tam Bảo,” trước khi rót nước
vào bình chứa.
Tất
cả những hoàn cảnh tốt đẹp và đáng ao ước trong đời
này – mọi tiện nghi, hạnh phúc, sự mến mộ, thuận lợi
hay bất cứ điều gì bạn có được– cũng đều phát xuất
từ lòng từ bi của Tam Bảo. Với lòng quy ngưỡng và tri kiến
thanh tịnh, hãy nghĩ rằng: “Con cúng dường tất cả những
điều này cho các Ngài”. Hãy cúng dường lên các Ngài bất
kỳ nguồn công đức nào mà bạn tạo được – lễ lạy,
cúng dường, thiền định về Bổn Tôn, tụng niệm các câu
minh chú (mantra), v.v... - và hãy hồi hướng tất cả những
nguồn công đức này vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Hãy thường xuyên cúng dường Tam Bảo khi bạn có thể làm
được, vào ngày mồng một, ngày rằm và sáu thời trong ngày
(ba thời vào ban ngày, ba thời vào ban đêm).* Luôn tuân theo
những thời điểm đặc biệt này để cúng dường Tam Bảo.
Bất
kỳ điều gì xảy tới, dù xấu hay tốt, đừng bao giờ quên
quy y Tam Bảo. Hãy tu tập bản thân cho đến khi ngay cả cảm
giác sợ hãi trong một cơn ác mộng cũng không làm bạn quên
quy y, bởi điều đó có nghĩa là bạn cũng sẽ nhớ để quy
y như thế trong thân trung ấm. Tóm lại, hãy đặt toàn bộ
niềm tin của bạn nơi Tam Bảo và không bao giờ từ bỏ việc
quy y cho dù phải trả giá bằng cả cuộc đời bạn.
Xưa
kia, ở Ấn Độ, có một hành giả cư sĩ Phật Giáo bị một
số người ngoại đạo (tirthika) bắt giam, họ nói với
ông: “Nếu ngươi từ bỏ quy y Tam Bảo, chúng ta sẽ không
giết. Nếu không, chúng ta sẽ giết chết ngươi.”
*
dus drug, sáu thời: ba thời ban ngày và ba thời ban đêm.
Ông
ta trả lời: “Tôi chỉ có thể từ bỏ quy y bằng miệng,
tôi không bao giờ có thể làm điều đó bằng tâm.” Vì thế
họ giết ông.
Chúng
ta nên thực sự giống như vị cư sĩ đó. Một khi ta từ bỏ
quy y Tam Bảo, thì dù những pháp tu mà chúng ta thực hành có
sâu xa tới đâu chăng nữa, ta có thể không còn là một phần
tử của cộng đồng Phật giáo nữa. Có câu nói rằng:
Chính
việc quy y Tam Bảo cho ta thấy sự khác biệt giữa một Phật
tử và một người không phải là Phật tử.
Có
nhiều kẻ ngoại đạo tránh làm những hành vi ác hại, thiền
định về các Bổn Tôn, thực hành nương vào những kinh mạch
và năng lực, và đạt được những thành tựu thông thường.
Nhưng bởi không biết quy y Tam Bảo, họ không ở trên con đường
đi tới giải thoát và sẽ không thoát khỏi luân hồi.
Không
có duy nhất một điều nào trong tất cả những giáo lý Kinh
điển và Mật điển mà Ngài Jowo Atisa không biết hay chưa
từng đọc. Nhưng Ngài cho rằng trong tất cả những giáo lý
đó, quy y Tam Bảo có tầm quan trọng bậc nhất khiến Ngài
đã lấy đó làm một chủ đề để dạy đệ tử – tới
nỗi người ta đặt biệt danh cho Ngài là “Học Giả Quy Y.”
Vậy,
từ giây phút bạn đi vào con đường giải thoát và trở thành
một Phật tử, hãy thực hành quy y cùng với các giới luật
của việc quy y, và đừng bao giờ từ bỏ giới luật cho dù
mạng sống của bạn đang bị lâm nguy. Như trong một Kinh điển
có ghi:
Những
người quy y Phật
Là
những đệ tử cư sĩ chân chính;
Họ
không nên tìm kiếm quy y
Nơi
bất kỳ thần thánh nào khác.
Những
người quy y Thánh Pháp
Không
nên có các tư tưởng ác hại.
Những
người quy y Tăng Đoàn cao quý
Không
nên kết giao với những kẻ ngoại đạo.
Ngày
nay, một số người khẳng định mình là đệ tử của Tam
Bảo nhưng lại không có sự tôn kính tối thiểu đối với
những đại diện của Tam Bảo. Họ coi những tranh tượng
tượng trưng cho Đức Phật hay những pho sách chứa đựng
những lời dạy của Ngài là những món hàng bình thường
có thể được mang ra rao bán hay cầm cố. Điều này gọi
là “sinh sống bằng cách bắt giữ Tam Bảo để đòi tiền
chuộc” và là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọng. Chỉ
ra chỗ khiếm khuyết của một bức vẽ hay tượng của một
vị Phật hoặc chỉ trích bức tranh hay bức tượng Phậtùù,
thì trừ khi bạn ước định được sự cân xứng để sửa
chữa bức tượng hay bức tranh đóù, còn bằng không thì đó
cũng là một lỗi lầm nghiêm trọng và nên tránh. Đặt Kinh
sách trực tiếp trên sàn nhà, bước qua chúng, thấm nước
bọt vào ngón tay để lật trang sách và những cư xử thiếu
tôn kính khác cũng đều là những lỗi lầm nghiêm trọng.
Chính Đức Phật đã nói:
Sau
khi năm trăm năm chấm dứt
Ta
sẽ hiện diện trong Kinh điển.
Hãy
xem Kinh điển chính là Ta
Và
tỏ lòng tôn kính.
Một
câu châm ngôn để dùng mỗi ngày nói rằng chúng ta không nên
đặt những hình ảnh lên trên Kinh điển. Thay vì tượng trưng
cho thân hay ý của Đức Phật thì Kinh điển tượng trưng
cho ngữ của Ngài, dạy chúng ta điều gì nên làm và điều
gi không nên làm và cũng bảo đảm tính liên tục của giáo
lý của Ngài. Do đó, kinh điển không khác với bản thân Đức
Phật, và thiêng liêng một cách đặc biệt.
Ngoài
ra, phần lớn mọi người nghĩ rằng chuông và chày* là những
đồ vật bình thường. Họ không hiểu rõ rằng chúng là những
bảo vật tượng trưng cho Tam Bảo. Chày tượng trưng cho tâm
Phật, cho năm trí huệ. Chuông mang hình ảnh của một khuôn
mặt, theo ngoại Mật điển thì đó là Đức Tỳ Lô Giá Na
(Vairochana), và theo quan điểm của các Mật điển thượng
thừa thì đó là Đức Vajradhatvishvari. Nói khác đi, chuông
mang hình ảnh của thân Phật. Những chữ chạm khắc trên
chuông là tám chủng tự của tám vị phối ngẫu, và bản
thân của chuông tượng trưng cho ngữ của Phật, âm thanh của
Giáo Pháp. Như vậy, chuông và chày đồng thời đáp ứng mọi
tiêu chuẩn đại diện cho thân, khẩu và ý của Đức Phật.
Đặc biệt hơn, đây là hai đối tượng bao gồm tất cả
các mạn đà la của Kim Cương Mật Thừa, và vì thế được
coi là những đối tượng mật nguyện phi thường. Như vậy,
nếu bạn thiếu tôn kính với những pháp bảo này thì đó
là một lỗi lầm nghiêm trọng. Hãy luôn luôn tôn kính các
pháp bảo.
2.
Lợi Ích Của Quy Y
Quy
y là nền tảng của mọi công phu tu tập. Chỉ bằng việc
quy y là bạn đã gieo trồng hạt giống của giải thoát trong
bản thân bạn. Bạn tự rời xa mọi ác hạnh đã tích lũy,
và ngày càng phát triển những thiện hạnh. Quy y là nơi nương
tựa cho mọi giới nguyện, là suối nguồn của mọi phẩm
tánh tốt đẹp. Cuối cùng, quy y sẽ dẫn bạn đến Phật
Quả. Và trong suốt thời gian từ nay cho đến ngày đạt được
Phật Quả, quy y sẽ bảo đảm cho bạn là bạn sẽ nhận được
sự che chở của những vị Trời từ tâm và thực hiện được
mọi điều bạn mong ước; bạn sẽ không xa rời tư tưởng
của Tam Bảo; bạn sẽ nhớ đến các Ngài từ đời này sang
đời khác và tìm được hạnh phúc và an lành trong đời này
và trong những kiếp tái sinh tương lai. Lợi ích của quy y
được coi là vô lượng.
*Chuông
và chày là những “đối tượng mật nguyện (samaya),” những
linh vật cần thiết trong những pháp tu của Kim Cương
Thừa (xem Thuật ngữ).
Trong
Bảy Mươi Đoản Kệ Quy Y có nói:
Thật
ra, ai cũng có thể thọ giới nguyện,
Ngoại
trừ những người không quy y.
Quy
y là nền tảng cần thiết cho tất cả các giới nguyện Biệt
Giải Thoát (Pratimoksa), những giới nguyện của một hành giả
cư sĩ, một sa di, một tu sĩ v.v... Trước khi phát triển Bồ
Đề Tâm, nhận quán đảnh của Kim Cương Thừa hay Mật Thừa,
và nhận quán đảnh của tất cả những pháp hành trì khác,
quy y là yếu tố cần thiết để nhận giới nguyện đầy
đủ và xác thực. Nếu trước tiên không thọ giới quy y thì
không có cách nào để bắt đầu ngay cả việc hành trì pháp
tịnh hóa và chuyển hoá hằng ngày. Quy y sẽ hỗ trợ cho tất
cả những giới nguyện và mọi đức tánh tốt lành.
Việc
quy y với một lòng tin, thấu hiểu một cách sâu sắc về
những phẩm tánh cao quý của Tam Bảo, sẽ đem lại lợi ích
không còn phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng thậm chí chỉ đơn
giản nghe được danh từ “Phật,” hoặc tạo được bất
kỳ mối liên kết nào, dù có thể rất mỏng manh, với bất
kỳ đại diện nào của thân, khẩu và ý của Đức Phật,
là có thể gieo trồng hạt giống của giải thoát, và cuối
cùng sẽ dẫn đến trạng thái siêu vượt đau khổ. Trong Tạng
Luật (Vinaya) có một câu chuyện kể về một con chó săn đuổi
một con heo quanh một bảo tháp. Nhờ kinh nghiệm “nhiễu quanh”
này, hạt giống giác ngộ đã được gieo trồng trong cả hai
con vật.
Theo
một câu chuyện khác, có ba người đạt được Phật Quả
chỉ nhờ một bức tượng tsa tsa bằng đất sét. Một hôm
có một người thấy tượng tsa tsa nhỏ bằng đất sét nằm
trên mặt đất ngay bên lề đường.
Ông
ta nói: “Nếu để tượng nằm đó, trời mưa sẽ làm hỏng
nó; tốt hơn ta nên làm điều gì cho nó.” Vì vậy, trước
khi đi, ông ta lấy một miếng đế giày da cũ có ai bỏ gần
đó che tượng lại.
Một
người khác tự nghĩ khi đi qua chỗ đó: “Thật sai lầm khi
dùng một đế giày cũ che tượng tsa tsa kia”, và vì
thế ông ta bỏ cái đế đi.
Nhờ
vào quả lành của ý hướng thiện lành của họ mà cả người
dùng đế giày che tượng tsa tsa lẫn người bỏ cái đế ra
đều được thừa hưởng những vương quốc trong các đời
sau.
Với
tâm ý thanh tịnh,
Người
che đầu tượng Phật bằng một đế giày
Và
người sau đó lại lấy đếù đi
Cả
hai đều thừa hưởng một vương quốc.
Ba
người – người đầu tiên đã nặn bức tượng tsa tsa, người
thứ hai che tượng lại bằng một cái đế giày, và người
cuối cùng lấy đế giày ra – tất cả đều đạt được
hạnh phúc ở những cõi cao, được thừa hưởng vương quốc
như một lợi lạc nhất thời, và cùng lúc đã tiến tới
Phật Quả bằng cách gieo trồng trong tâm thức chính mình chủng
tử của sự giải thoát tối hậu.
Nhờ
quy y mà bạn đã tự tách mình khỏi mọi hành động bất
thiện. Quy y Tam Bảo với tín tâm chân thành và mãnh liệt
sẽ làm suy giảm và cạn kiệt ngay cả những hành động xấu
ác mà bạn đã tích tập trong quá khứ. Và từ lúc đó trở
đi, những năng lực gia hộø tràn đầy bi mẫn của Tam Bảo
sẽ đáp trả lại tất cả những niệm tưởng thiện lành
của bạn, tới nỗi bạn sẽ chẳng còn làm bất kỳ điều
tổn hại nào nữa.
Một
ví dụ khác là Vua A Xà Thế (Ajatasatru), người đã giết cha
mình nhưng về sau quy y Tam Bảo. Ông đã chịu đựng những
thống khổ của địa ngục trong một tuần lễ và sau đó
được giải thoát.
Và
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), người đã phạm ba tội ác dẫn
tới quả báo tức thời, thậm chí đã phải chịu đựng lửa
địa ngục ngay khi còn sống. Nhưng vào lúc đó ông có niềm
tin vào giáo lý của Đức Phật và gào lên: “Tôi quyết định
quy y Đức Phật từ tận trong xương tủy của tôi!” Đức
Phật đã giảng rằng nhờ những lời này mà Devadatta sẽ
trở thành một vị Phật Độc Giác có danh hiệu là Dũng Khí
Phật. Như thế, giờ đây nhờ thiện tâm của một vị Thầy
hay thiện tri thức, bạn đã nhận được Giáo Pháp đích thực
và phát khởi một chút ý nguyện mỏng manh muốn làm điều
tốt lành và ngưng làm điều sai trái. Nếu bạn nỗ lực thực
hành quy y Tam Bảo, tâm thức bạn sẽ nhận được nhiều sự
gia trì và bạn sẽ phát triển mọi phẩm hạnh tốt lành của
con đường đạo, chẳng hạn như bạn sẽ phát triển được
niềm tin, có được tri giác thanh tịnh, không còn mang đầy
ảo tưởng về sinh tử luân hồi và sẽ quyết định tìm
giải thoát, hoặc sẽ phát triển được niềm tin vào luật
nhân quả, v.v... Trái lại, cho dù giờ đây sự chán ghét luân
hồi hay quyết tâm đạt được giải thoát của bạn có mãnh
liệt tới đâu chăng nữa, nhưng nếu bạn không hết lòng
quy y Thầy của bạn và quy y Tam Bảo, hay không cầu nguyện
các Ngài, thì bạn sẽ bị sắc tướng bên ngoài quyến rũ.
Bạn sẽ trở thành cuồng tín và những niệm tưởng lọc
lừa sẽ mau chóng xuất hiện tới nỗi việc này dễ dàng
biến thành ác hạnh, ngay cả trong khi bạn đang làm điều
tốt. Vì thế, thật vô cùng cần thiết để bạn phải hiểu
rằng không có gì tốt đẹp hơn việc quy y để cắt đứt
sự vận hành của những việc bất thiện trong tương lai.
Bây
giờ nói đến một vấn đề quan trọng khác. Có câu nói rằng:
Ma
quỷ đặc biệt thù ghét những người kiên trì trong tu tập.
Và:
Càng
tu tập mãnh liệt thì ma quỷ càng mạnh mẽ.
Chúng
ta đang ở trong một thời đại suy đồi, những người thiền
định về ý nghĩa sâu xa và những người tràn đầy năng
lực thiện hạnh, chính họ lại dễ bị những cám dỗ của
đời sống thế tục đánh lừa. Họ bị gia đình và bạn
bè cản trở. Họ đau khổ bởi những nghịch cảnh như bệnh
tật và bị nhiễu loạn bởi những mầm mống tiêu cực. Tâm
thức họ bị tràn ngập bởi thất niệm và luôn đắn đo,
do dự. Dưới nhiều hình thức phóng tâm như thế, những chướng
ngại cho việc thực hành Giáo Pháp xuất hiện và tiêu hủy
tất cả công đức của họ. Nhưng, để đối trị với những
nguy hiểm này, nếu bạn thực sự nỗ lực chân thành quy y
Tam Bảo thì tất cả những gì gây trở ngại cho việc
tu tập của bạn sẽ được chuyển hoá thành ra những hoàn
cảnh thuận lợi, và công đức của bạn sẽ tăng trưởng
liên tục.
Ngày
nay, khi những gia chủ loan báo rằng họ đang tự bảo vệ
bản thân và gia đình họ khỏi bị bệnh tật trong năm, họ
đã mời thỉnh một số Lạt Ma và đệ tử của các vị này
– trong khi không một ai trong số các Lạt Ma đó đã từng
nhận lãnh quán đảnh cần thiết hay từng nhận khẩu truyền,
cũng không thực hành những tụng niệm căn bản. Các gia chủ
thỉnh mời các vị này khai mở mạn đà la của một vài Bổn
Tôn phẫn nộ.126 Không kinh qua giai đoạn phát triển (generation
stage) và giai đoạn toàn thiện (completion stage), họ trợn tròn
đôi mắt như những chiếc đĩa nhỏ và thả mình vào một
cơn giận dữ điên cuồng nhắm vào một hình nhân bằng bột
nhào.* Họ luôn thực hiện những lễ “cúng dường đỏ”
gồm máu và thịt, và họ lên tiếng kêu gào “Đem chúng tới!
Giết chúng! Liệu hồn đấy! Đánh chúng!” để khơi dậy
trong lòng bất cứ ai nghe thấy những lời này những cảm
xúc khích động dữ dội. Điều Ngài Milarepa nói dưới đây
cho ta có một cái nhìn rõ ràng hơn về những nghi lễ như
thế :
*
Hiểu một cách đúng đắn thì một hình nhân như thế tượng
trưng cho khái niệm sai lạc rằng bản ngã thực sự hiện
hữu. Ở đây nghi thức linh thiêng đang được sử dụng trong
một cách thế hời hợt bề ngoài, đối nghịch với ý hướng
của pháp môn hành trì.
Cầu
thỉnh những Bổn Tôn trí tuệ để bảo vệ chúng sinh thế
tục chẳng khác nào lôi một vị vua từ ngai vàng xuống và
bắt quét nhà.
Ngài
Padampa Sangye nói:
Họ
làm một mạn đà la Mật Chú trong một chuồng dê
trong
làng và tuyên bố đó là một hình thức giải độc!
Những
pháp thực hành thuộc loại này làm nhiễm độc Mật Thừa
và biến Mật Thừa thành pháp tu hành của những người theo
đạo Bưn. Những người thực hiện những pháp tu “giải
thoát” phải vượt lên mọi tư lợi. Chỉ có những người
như thế, hành động trên một phạm vi rộng lớn vì lợi
ích của chúng sinh và vì giáo pháp, mới có thể có đủ phẩm
tính để giải thoát những địch thủ và những người gây
chướng ngại là những kẻ đang phạm mười ác hạnh. Nhưng
khi một pháp tu như thế được thực hiện với tâm sân hận
thông thường, với đầu óc phe phái, thì pháp hành trì ấy
không những sẽ không có năng lực để giải thoát các chúng
sinh liên hệ, mà còn gây ra việc phải bị đọa xuống địa
ngục cho người hành trì pháp ấy.
Đối
với những người không thành tựu những giai đoạn phát triển
(generation stage) và giai đoạn toàn thiện (completion stage) và
những người không tuân theo các mật nguyện, việc thực hiện
những nghi lễ “cúng dường đỏ” gồm máu và thịt không
đem lại kinh nghiệm chứng ngộ nào từ các
Bổn
Tôn trí tuệ lẫn những Hộ Pháp. Thay vào đó, những vị
Trời và ma quỷ ác độc sẽ tụ hội lại để cùng hưởng
thụ những vật thực cúng dường và bánh cúng (torma). Dường
như họ có thể mang lại một số lợi ích tức thời, nhưng
kết quả sau cùng sẽ là vô số những hậu quả không ai mong
muốn.
Sự
che chở gia hộ tốt nhất là bạn hãy đặt niềm tin nơi Tam
Bảo. Hãy thỉnh cầu những vị Thầy và những tăng sĩ là
những người đã an định và kiểm soát được tâm thức
của mình để xin các Ngài tụng một trăm ngàn lần bài nguyện
quy y. Bạn sẽ nhận được lực gia hộ từ Tam Bảo; sẽ không
có điều gì bất như ý xảy ra cho bạn trong đời này và
mọi ước muốn của bạn sẽ được thực hiện một cách
tự nhiên. Những Thiện Thần sẽ bảo vệ bạn, và thậm chí
tất cả những ai có thể làm hại bạn – ma quỷ và những
kẻ gây chướng ngại – sẽ không tới gần bạn được.
Có
lần, một số người bắt được một tên trộm và đánh
cho hắn một trận, mỗi lần đánh một gậy là họ niệm
một câu trong bài nguyện quy y:
“Tôi
quy y Phật,” chát! “Tôi quy y Pháp,” chát! ..v..v...
Sau
khi đã khắc sâu những lời này vào tâm thức tên trộm, họ
thả hắn đi. Tên trộm ngủ đêm dưới một cây cầu, tâm
thức hắn tràn đầy lời lẽ của bài nguyện quy y, cùng với
ký ức về trận đòn đau đớn mà hắn đã nhận. Trong khi
hắn nằm ở đó thì một nhóm quỷ ma kéo tới gần cây cầu.
Nhưng sau đó chúng la lên: “Ở đây có người quy y Tam Bảo!”
và tất cả bỏ chạy, la hét inh ỏi.
Để
diệt trừ những ác hạnh của cuộc đời này thì không có
cách nào tốt hơn việc quy y Tam Bảo tận đáy lòng bạn. Và
trong những đời tương lai, quy y Tam Bảo sẽ đem tới cho bạn
giải thoát và giác ngộ. Thậm chí khó có thể hình dung được
tất cả những lợi ích của việc quy y.
Kinh
Vô Nhiễm có nói:
Nếu
tất cả công đức của quy y
Có
hình tướng,
Thì
toàn thể không gian sẽ hoàn toàn tràn ngập,
Không
đủ sức dung chứa.
Và
trong Bát Nhã Tập Kệ có nói:
Nếu
công đức của quy y có hình tướng,
Thì
cả ba cõi cũng không thể chứa được.
Làm
sao đo lường nước bốn biển
Chỉ
bằng một chiếc muỗng nhỏ?
Thêm
nữa, như Đại Nhật Tâm Kinh có nói:
Người
coi Đức Phật là nơi nương tựa
Mười
triệu ma quỷ cũng không thể hãm hại;
Dù
họ vi phạm giới nguyện hay đau khổ trong tâm,
Chắc
chắn họ sẽ siêu vượt tái sinh.
Do
đó, hãy nhiệt thành, tận tụy hành trì pháp môn quy y, đây
là nền tảng của tất cả những pháp tu của Giáo Pháp, bởi
lẽ lợi ích của quy y thì thật vô biên vô tận.
Con
đã thực hiện ba bước quy y nhưng ít lòng tin chân thành,
Con
đã thực hành ba bước hướng dẫn nhưng để cho
giới
nguyện lơi lỏng.
Xin
từ bi gia hộ cho con và những kẻ bạc nhược như con
Khiến
niềm tin của chúng con kiên cố và bất thối chuyển.
Tịch
Thiên (Santideva) (thế kỷ thứ 7- 8)
Tác
giả của Nhập Bồ Tát Hạnh
(Bodhicaryavatara),
một tác phẩm
cổ
điển vĩ đại của văn học Đại Thừa Ấn Độ.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 10 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:14pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
2
KHƠI DẬY BỒ
ĐỀ TÂM, GỐC RỄ CỦA ĐẠI THỪA
Nhờ
trí tuệ vĩ đại, Ngài đã chứng ngộ Niết bàn.
Nhờ
lòng đại bi, Ngài sẵn lòng ôm trọn sinh tử.
Nhờ
phương tiện thiện xảo, Ngài trực ngộ sinh tử niết bàn
vốn
không hai
Bậc
Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
Chương
này gồm có ba phần: rèn luyện tâm thức nương nơi Tứ Vô
Lượng; khơi dậy Bồ Đề Tâm (bodhicitta) -- tức tâm thức
hướng tới Giác Ngộ siêu việt; và tu tập theo giới luật
của Bồ Đề Tâm trên hai phương diện phát nguyện và thực
hành.
I.
RÈN LUYỆN TÂM NƯƠNG NƠI TỨ VÔ LƯỢNG
Bốn
phẩm hạnh vô lượng là lòng từ, bi, hỷ, và xả vô lượng.
Lòng từ thường được đề cập đến trước tiên. Nhưng
khi ta tuần tự thực hành bốn hạnh này như một phương cách
rèn luyện tâm thức, thì chúng ta nên bắt đầu bằng việc
phát triển tâm xả (tâm bình đẳng) trước nhất. Nếu không
làm như vậy thì bất kỳ lòng từ, bi và hỉ nào mà chúng
ta phát triển được cũng sẽ có khuynh hướng thiên lệch
và không hoàn toàn thanh tịnh. Do đó, trong trường hợp này,
chúng ta bắt đầu bằng thiền định về phẩm tính của tâm
xả.
1.
Thiền Định Về Tâm Xả
Xả
(tiếng Tây Tạng là tang nyom) có nghĩa là từ bỏ (tang) sự
thù ghét kẻ thù và sự bám luyến bằng hữu, và giữù một
thái độ bình thản (nyom) đối với tất cả chúng sinh, thoát
khỏi tâm trạng dính mắc với những người thân cận và
lòng ác cảm với những người không thân thiết.
Như
hoàn cảnh hiện nay, chúng ta rất gắn bó với những người
mà ta nghĩ ù là thành viên của tập thể của riêng ta –
cha, mẹ, những người thân thuộc, v.v... - trong khi chúng ta
thù ghét thậm tệ kẻ thù của ta và những người liên kết
với kẻ thù của ta. Đây là một lỗi lầm, và điều này
xuất phát từ việc thiếu truy xét.
Trong
những đời trước, những người mà giờ đây chúng ta coi
như kẻ thù chắc chắn đã từng thân thiết với ta, luôn
yêu thương, kề cận, chăm sóc chúng ta với thiện ý, và hiến
tặng cho ta mọi sự giúp đỡ và nâng đỡ ta không cách gì
có thể tưởng tượng nổi. Trái lại, nhiều người mà giờ
đây ta gọi là bạn bè chắc chắn đã từng chống lại ta
và làm hại ta. Như chúng ta thấy trong chương viết về vô
thường, điều này được minh họa bởi những lời của Ngài
Katyayana siêu phàm:
Hắn
ăn thịt cha, đánh đuổi mẹ,
Hắn
nâng niu trong lòng kẻ thù mà hắn đã giết;
Người
vợ đang gặm xương chồng.
Ta
bật cười khi chứng kiến màn sinh tử hiển bày!
Một
ví dụ khác là câu chuyện của Công Chúa Pema Sel, con gái của
vị Pháp Vương Trisong Detsen. Khi cô chết vào tuổi mười bảy,
cha cô tới hỏi Đạo Sư Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) làm sao
một việc như vậy có thể xảy ra.
“Tôi
nghĩ con gái tôi phải là người có những hành vi thanh tịnh
trong quá khứ,” nhà vua nói. “Nó đã sinh ra làm con gái của
Vua Trisong Detsen. Nó đã gặp tất cả các Ngài, là những dịch
giả và học giả chẳng khác nào những vị Phật đích thực.
Như vậy làm sao cuộc đời của nó lại ngắn ngủi như thế?”
“Hoàn
toàn không phải do những hành vi thanh tịnh trong quá khứ mà
công chúa sinh làm con Ngài,” Đạo Sư trả lời. “Xưa kia,
Ta; Liên Hoa Sanh, cùng Ngài, Pháp Vương vĩ đại, và Đại Bồ
Tát Tu viện trưởng bị sinh ra làm ba đứa trẻ thuộc giai
cấp hạ tiện. Chúng ta đang xây dựng Đại Bảo Tháp Jarung
Khashor.
Lúc đó công chúa sinh làm một côn trùng chích vào cổ Ngài.
Ngài lấy tay gạt đi và ngẫu nhiên giết chết nó. Vì món
nợ Ngài vay trong kiếp đó, con côn trùng đã tái sinh làm con
gái của Ngài.”129
Pháp
Vương Trisong Detsen là người được xem là Hóa Thân của Bồ
Tát Văn Thù mà con gái của Ngài lại có thể sinh làm con Ngài
theo con đường tái sinh như vậy, do nghiệp chín muồi trổ
quả từ một hành vi tạo tác trong quá khứ – như vậy thì
ta còn có thể nói gì hơn về trường hợp của những chúng
sinh khác?
Hiện
nay, ta có một mối liên hệ hết sức thân thiết với cha
mẹ và con cái chúng ta. Ta cảm thấy hết sức thương yêu
họ và có những ước nguyện lạ thường đối với họ.
Khi họ đau khổ, hay bất kỳ điều gì không vừa ý xảy ra
với họ thì chúng ta bối rối lo âu còn hơn là khi điều
đó xảy ra với cá nhân ta. Tất cả những điều này chỉ
là sự đền trả cho điều ác mà chúng ta đã gây ra cho nhau
trong những đời quá khứ.
Trong
tất cả những người mà giờ đây chúng ta coi là kẻ thù,
không ai chưa từng là cha hay mẹ trong một chuỗi dài những
đời trước của ta. Ngay cả giờ đây, việc ta coi họ như
những người chống lại ta không nhất thiết có nghĩa là
họ thực sự làm điều ác đối với ta. Đối với một số
người, chúng ta coi họ là những đối thủ, nhưng từ phía
họ, họ lại hoàn toàn không nhìn thấy chúng ta theo cách đó.
Một số khác có thể cảm thấy rằng họ là kẻ thù của
ta nhưng hoàn toàn không có khả năng làm hại ta. Cũng có những
người vào một lúc nào đó có vẻ như đang gây tổn
hại cho ta, nhưng trong một thời gian dài, lại có những điều
họ làm có thể đem lại cho ta một nhận thức và cảm kích
sâu sắc nào đó trong đời này, hoặc khiến ta chuyển tâm,
hướng tâm về Pháp, và vì thế đem lại cho ta nhiều lợi
lạc và hạnh phúc. Còn những người khác, nếu ta có thể
khéo léo thích nghi với tánh khí của họ và khuyến dụ họ
với lời lẽ dịu dàng cho tới khi chúng ta đạt được một
vài thỏa thuận nào đó, thì ta có thể dễ dàng chuyển hoá
họ thành bạn của ta.
Mặt
khác, có những người mà chúng ta thường xem là thân thiết
nhất với mình, chẳng hạn như con cái ta. Nhưng đã có những
đứa con từng lừa gạt hay thậm chí giết cả cha mẹ chúng.
Đôi khi con cái đứng về phe những người đang có tranh chấp
với cha mẹ, hợp lực với họ để gây xung đột cho chính
gia đình mình và cướp đoạt tài sản của cha mẹ. Ngay cả
khi chúng ta sống thuận thảo với những người thân thiết
với ta, những phiền muộn và rắc rối của họ cũng đem
đến những ảnh hưởng không tốt đẹp đối với chúng ta,
thậm chí còn ảnh hưởng ta mạnh mẽ hơn là những khó khăn
của chính mình. Để giúp đỡ bạn bè, con cái và những người
thân khác của ta, chúng ta tích lũy đầy rẫy những hành động
bất thiện là những hành động sẽ đọa ta vào các tầng
địa ngục trong đời sau. Khi ta thực sự muốn thực hành
Pháp một cách đúng đắn thì họ lôi kéo chúng ta lại. Khi
không thể thoát khỏi nỗi lo lắng về cha mẹ, con cái, và
gia đình, chúng ta trì hỗn việc tu tập, thực hành Pháp, và
vì thế không bao giờ tìm ra được thời gian để thực hành
công phu tu tập này. Tóm lại, những người như vậy có thể
làm hại ta thậm chí còn hơn cả những kẻ thù.
Hơn
nữa, không có gì bảo đảm là những người chúng ta coi là
đối thủ hôm nay lại không phải là con cái chúng ta trong
những đời sau, hay bạn bè hiện tại sẽ không tái sinh làm
kẻ thù của chúng ta trong kiếp tới, v.v... Chỉ vì trong một
thoáng, ta chấp nhận rằng nhận thức của chúng ta về “kẻ
thù” và “bạn bè” là thật có, nên ta tích tập nhiều
hành động bất thiện qua lòng tham luyến và sân hận. Tại
sao ta lại ôm chặt gánh nặng này để chúng lôi kéo ta, đọa
ta xuống những cõi giới thấp?
Vì
thế, hãy đi đến một quyết định mãnh liệt và hãy ý thức
rằng tất cả chúng sinh bao la vô tận là cha mẹ và con cái
của chính bạn. Như thế, hãy rèn luyện tâm ta giống như
những bậc vĩ đại trong quá khứ đã làm, như ta đã có thể
đọc thấy trong tiểu sử cuộc đời của các Ngài -- hãy
coi tất cả bằng hữu và kẻ thù đều tương tự như nhau.
Trước
hết, đối với tất cả những người mà bạn hoàn toàn không
ưa thích – những người khơi dậy lòng sân hận và thù ghét
trong bạn – hãy rèn luyện tâm thức bạn bằng nhiều phương
tiện khác nhau để lòng sân hận và thù ghét mà bạn cảm
thấy đối với họ không còn xuất hiện. Hãy nghĩ về họ
như thể bạn nghĩ về một người nào đó một cách chung
chung, không làm điều tốt cho bạn mà cũng chẳng làm hại
bạn. Sau đó hãy quán chiếu rằng vô số chúng sinh mà bạn
cảm thấy chung chung về họ, từ vô thủy đã từng là cha,
mẹ bạn một lúc nào đó trong những đời quá khứ. Hãy thiền
định về đề mục này, rèn luyện bản thân cho tới khi bạn
cảm thấy thương yêu họ, tương tự như bạn yêu thương
cha mẹ hiện thời của bạn. Cuối cùng, hãy thiền định
cho tới khi bạn cảm thấy có đuợc lòng từ bi vô phân biệt
đối với tất cả chúng sinh – dù bạn coi họ là bạn bè,
kẻ thù hay không thù không bạn – nhưng đây chính là bạn
đang phát triển lòng bi mẫn đối với cha mẹ nhiều đời
kiếp của chính bạn.
Bây
giờ, nếu bạn chỉ đơn thuần nghĩ đến mọi người, thù
và bạn đều như nhau, trong lòng không có mảy may một cảm
xúc đặc biệt nào, không cảm thấy từ bi, cũng không cảm
thấy thù ghét hay cảm thấy bất cứ gì khác -- nếu chỉ
đơn thuần nghĩ như vậy thì tâm xả đó vẫn không thể nào
thay thế được cho tâm xả vô lượng [mà chúng ta muốn phát
khởi]. Loại tâm xả chung chung đó là thứ tâm xả không có
chánh niệm, không gây ra điều ác nhưng cũng không đem lại
lợi lạc. Hình ảnh được dùng để miêu tả một tâm xả
chân chính vô lượng vô tận là hình ảnh một bữa tiệc
do một hiền nhân vĩ đại chiêu đãi. Khi những đại hiền
giả ngày xưa cúng dường những bữa tiệc, các Ngài sẽ mời
tất cả mọi người, dù cao hay thấp, mạnh hay yếu, tốt
hay xấu, đặc biệt hay bình thường, mà không có bất kỳ
phân biệt nào. Tương tự như thế, thái độ của ta đối
với tất cả chúng sinh khắp hư không phải là một cảm thức
bao la của lòng từ bi, dung chứa tất cả một cách bình đẳng.
Hãy rèn luyện tâm thức bạn cho tới khi bạn đạt tới một
trạng thái của tâm xả vô lượng y như thế.
2.
Thiền Định Về Tâm Từ
Qua
công phu thiền định về tâm xả vô lượng đã được mô
tả như trên, bạn hãy quan tâm tới tất cả chúng sinh trong
tam giới với lòng từ rộng lớn tương tự. Lòng từ ái mà
bạn cảm thấy đối với tất cả chúng sinh phải giống như
lòng từ của những bậc cha mẹ chăm sóc con cái mình. Cha
mẹ không để ý tới sự vô ơn bạc nghiã của con cái, họ
gánh chịu mọi gian khổ, hoàn toàn hiến dâng mọi tư tưởng,
lời nói, và hành động chỉ để những đứa con của họ
được hạnh phúc, sung túc và thoải mái. Cũng thế, trong đời
này và tất cả những đời sau của bạn, hãy hiến dâng mọi
việc bạn làm, lời nói, hay suy nghĩ của bạn cho sự an lành
và hạnh phúc của tất cả chúng sinh.
Tất
cả những chúng sinh đó đều cố gắng để đạt được
hạnh phúc và an nhàn. Tất cả đều muốn được sống hạnh
phúc và nhàn nhã; không một ai trong số đó muốn hứng chịu
bất hạnh hay đau khổ. Tuy nhiên, họ không hiểu được rằng
nguyên nhân của hạnh phúc là những thiện hạnh, thay vào
đó họ đắm mình trong mười hành vi bất thiện. Do đó, ước
muốn sâu xa nhất (được hạnh phúc) và hành động của họ
lại mâu thuẫn nhau: trong nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc, họ
chỉ mang lại đau khổ cho chính mình.
Hãy
liên tục thiền định về tư tưởng này “thật tuyệt diệu
biết bao nếu mỗi người trong những chúng sinh đó có thể
thọ hưởng tất cả nìềm hạnh phúc và an nhàn mà họ mong
muốn.” Hãy thiền định về điều đó cho tới khi lòng mong
cầu cho người khác được hạnh phúc cũng mãnh liệt giống
như bạn đang mong muốn cho bản thân bạn được hạnh phúc.
Kinh
điển nói về “những hành vi nhân từ của thân, những hành
vi nhân từ của khẩu, những hành vi nhân từ của ý.” Điều
này có nghĩa là tất cả những gìï bạn nói ra bằng miệng,
làm bằng tay, thay vì nói và làm những điều tổn hại người
khác, thì hãy chỉ nói và làm những điều thẳng thắn và
tốt lành. Như trong Nhập Bồ Tát Hạnh có nói:
Bất
cứ khi nào bạn nhìn người khác,
Hãy
nhìn họ với tấm lòng yêu thương rộng mở.
Ngay
cả khi bạn chỉ nhìn một ai khác, hãy nhìn họ với nét tươi
cười, vui vẻ, thay vì nhìn họ bằng một cái nhìn chòng chọc
đầy gây hấn hay biểu lộ sự thù ghét. Có nhiều câu chuyện
nói về điều này, giống như câu chuyện về một nhà cai
trị đầy uy quyền nhìn mọi người với cái nhìn phẫn nộ.
Chuyện kể rằng người đó bị tái sinh làm một ngạ quỷ
sống nhờ thức ăn thừa dưới bếp lò của một căn nhà,
và sau đó, cũng vì đã nhìn một thánh nhân theo lối đó,
ông ta bị đọa vào địa ngục.
Bất
cứ hành động nào bạn làm bằng thân, hãy gắng làm một
cách dịu dàng và vui vẻ, cố gắng không làm hại người
khác mà là để giúp đỡ họ. Lời nói của bạn không nên
biểu lộ những thái độ như khinh miệt, chỉ trích hay ghen
tị. Hãy làm sao để mỗi lời bạn nói đều vui vẻ và chân
thật. Đối với thái độ của tâm, khi bạn giúp đỡ người
khác, chớ mong chờ bất kỳ sự đền đáp tốt đẹp nào.
Đừng làm một kẻ đạo đức giả và cố làm cho người
khác coi bạn như một vị Bồ Tát bằng những lời nói và
hành động tử tế của bạn. Tận đáy lòng bạn, hãy hoàn
toàn mong ước hạnh phúc cho người khác và chỉ quan tâm tới
những gì lợi lạc nhất cho họ. Hãy lập đi lập lại những
lời cầu nguyện này: “Trải dài suốt tất cả các kiếp,
nguyện xin cho tôi không làm tổn hại dù chỉ một sợi tóc
trên đầu người khác, và nguyện xin cho tôi luôn luôn giúp
đỡ mỗi người trong tất cả mọi người.”
Điều
đặc biệt quan trọng là tránh làm cho những người dưới
quyền của bạn đau khổ bằng cách đánh đập, ép buộc họ
làm việc cực nhọc, v.v… Điều này áp dụng cho người
giúp việc cũng như cho những thú vật của bạn, xuống tới
con chó giữ nhà khiêm tốn nhất. Luôn luôn, trong mọi hoàn
cảnh, bạn hãy tử tế với họ trong tư tưởng, lời nói
và hành động. Bị tái sinh như một người hầu, hay một
con chó giữ nhà, bị mọi người coi thường và khinh rẻ,
là nghiệp trổ quả do những hành vi đã tạo trong quá khứ.
Đó là quả hỗ tương của việc xem thường và khinh rẻ người
khác khi bạn có một địa vị quyền uy trong một đời quá
khứ. Nếu bây giờ vì giàu có và quyền thế mà bạn xem thường
người khác, bạn sẽ phải trả món nợ này trong vài kiếp
tới bằng cách phải tái sinh làm những người hầu của họ.
Vì thế, hãy đặc biệt tử tế với những người đang ở
vị trí thấp hơn bạn.
Bất
kỳ những gì bạn có thể làm bằng thân, khẩu hay ý để
giúp đỡ mọi người, đặc biệt là cha mẹ của bạn, hay
những người bị bệnh kinh niên, sẽ đem lại những lợi
ích không thể nghĩ bàn. Ngài Jowo Atisa nói:
Tử
tế đối với những người từ phương xa tới, những người
bị bệnh lâu năm, hay cha mẹ trong tuổi già, tương đương
với việc thiền định về tánh Không mà tinh tuý của tánh
Không ấy chính là lòng từ bi.
Cha
mẹ chúng ta đã tỏ cho ta thấy tình yêu thương và tâm từ
ái bao la tới nỗi nếu chúng ta làm cho cha mẹ mình phải đau
khổ lúc về già thì đây là một ác hạnh. Bản thân Đức
Phật, để đền đáp lòng tốt của thân mẫu, Ngài đã đi
tới tầng Trời thứ Ba Mươi Ba để giảng Pháp cho bà. Có
câu nói rằng cho dù chúng ta hầu hạ cha mẹ bằng cách đưa
họ đi khắp thế giới trên đôi vai của mình, thì việc ấy
vẫn không đền đáp được lòng tốt của cha mẹ. Tuy nhiên,
chúng ta có thể đền đáp lòng tốt này bằng việc hướng
dẫn cha mẹ đếùn với giáo lý của Đức Phật. Vì thế,
hãy luôn luôn phụng sự cha mẹ bằng tư tưởng, lời nói,
và hành động, và cố gắng tìm cách đưa cha mẹ mình đến
với Giáo Pháp.
Đạo
Sư Vĩ Đại xứ Oddiyana đã nói:
Không
nên làm cho người già buồn khổ; hãy chăm sóc họ với lòng
quan tâm và tôn kính.
Trong
bất cứ những gì bạn nói và làm, hãy tỏ ra tử tế với
tất cả những người lớn tuổi hơn bạn. Hãy quan tâm tới
họ và làm bất kỳ những gì bạn có thể làm được khiến
cho họ vui lòng.
Ngày
nay, hầu hết mọi người đều nói rằng không có cách nào
sống trong cõi luân hồi mà không làm tổn hại người khác.
Nhưng điều này không đúng.
Ngày
xưa, ở Khotan, hai vị sa-di đang thiền định về Đức Văn
Thù (Manjushri) siêu phàm.
Một
hôm, Ngài hiện ra với họ và nói: “Giữa ta và các ngươi
không có duyên nghiệp với nhau. Vị Bổn Tôn mà các ngươi
có liên hệ trong những đời quá khứ là Đức Quán Tự Tại
vĩ đại. Hiện Ngài được tìm thấy ở Tây Tạng, là vị
vua đang cai trị xứ này.* Các ngươi nên tới đó gặp Ngài.”
*
Nhà vua có danh hiệu là Songtsen Gampo, vị vua Phật tử đầu
tiên của Tây Tạng, Ngài được coi là một hoá thân của
Đức Quán Tự Tại.
Khi
hai vị sa-di tới Tây Tạng và đi vào vòng thành Lhasa, họ
thấy rất đôâng người bị hành hình hay bị giam giữ. Họ
hỏi điều gì đang xảy ra.
“Đó
là những người bị vua ra lệnh trừng phạt,” họ được
cho biết như vậy.
“Vị
vua này chắc chắn không phải là Đức Quán Tự Tại,” họ
tự nhủ, và sợ cũng bị trừng phạt như vậy nên họ quyết
định bỏ đi.
Vị
vua biết họ bỏ đi nên phái một sứ giả đi theo mời họ
tới gặp Ngài.
“Đừng
sợ,” Ngài bảo họ. “Tây Tạng là một vùng đất hoang
dã, khó thuần phục. Vì lý do đó ta đã phải tạo ra ảo
ảnh những tội nhân bị hành hình, bị chặt tay chân, và
v.v. Nhưng trong thực tế, ta chưa từng làm tổn hại ai cho
dù chỉ một sợi tóc.”
Vị
vua đó là người cai trị toàn xứ Tây Tạng, Xứ Tuyết, và
đã khiến các vị vua khắp bốn phương phải phục tùng Ngài.
Ngài đánh bại những đội quân xâm lược và giữ yên ổn
khắp biên cương. Mặc dù Ngài buộc lòng phải chiến thắng
quân thù và bảo vệ thần dân của mình trên một phạm vi
rộng lớn như vậy nhưng Ngài hoàn toàn tự chế ngự được
để không làm tổn hại một sợi tóc trên đầu người. Vì
thế, làm sao chúng ta không thể không làm như vậy để tránh
việc gây tai hại cho người khác khi ta đang chăm sóc nơi trú
ẩn bé xíu của ta, là những thứ mà nếu so sánh thì không
lớn hơn những tổ côn trùng?
Gieo
gió thì gặt bão. Việc làm hại người khác chỉ tạo nên
đau khổ vô tận cho đời này và những đời kế tiếp. Chẳng
có điều tốt lành nào có thể phát sinh từ ác hạnh, ngay
cả trong những việc lặt vặt của đời này. Chưa từng có
ai trở nên giàu có nhờ giết chóc, trộm cướp và những
điều tương tự. Cuối cùng họ phải gánh chịu quả báo
và thất thoát toàn bộ tiền bạc và của cải trong khi thực
hiện ác hạnh.
Hình
ảnh được đưa ra để minh họa cho lòng từ ái bao la là
một con chim mẹ săn sóc những đứa con. Nó bắt đầu bằng
việc làm một cái tổ mềm mại, ấm cúng. Chim mẹ che chở
và ủ cho thật ấm những con chim con bằng đôi cánh của nó.
Nó luôn dịu dàng và che chở chim con cho tới khi chúng có thể
chắp cánh bay xa. Giống như con chim mẹ đó, hãy học cách
tử tế trong tư tưởng, lời nói, và hành động với tất
cả chúng sinh trong ba cõi.
3.
Thiền Định Về Tâm Bi
Thiền
định về tâm bi là hình dung chúng sinh bị hành hạ bởi nỗi
đau khổ khủng khiếp và mong muốn họ được giải thoát
khỏi những đau khổ đóù. Có câu nói rằng:
Hãy
nghĩ về một người nào đó bị đau khổ dữ dội, như một
người bị ném vào ngục tối sâu thẳm chờ đợi cuộc hành
hình, hay một con vật sắp bị làm thịt đang đứng trước
kẻ đồ tể. Hãy cảm nhận lòng từ ái đối với chúng sinh
đó như thể họ là mẹ hay con của chính bạn.
Hãy
hình dung một tù nhân bị nhà cầm quyền kết án tử hình
và đang bị dẫn tới nơi hành quyết, hoặc một con cừu bị
người đồ tể bắt trói lại.
Khi
bạn nghĩ tới một tù nhân bị kết án, thì hãy hình dung
con người đau khổ đó là chính bạn thay vì là một người
nào khác. Hãy tự hỏi mình sẽ làm gì trong tình huống đó.
Làm thế nào bây giờ? Không biết chạy nơi đâu. Không nơi
ẩn trốn. Không chốn nương tựa và không ai che chở bạn.
Bạn không có phương tiện để đào thoát. Bạn không thể
bay xa. Bạn không có sức mạnh, không có quân đội để bảo
vệ. Ngay chính lúc đó, mọi tri giác về cuộc đời này sắp
bị cắt đứt. Bạn sẽ phải bỏ lại ngay cả thân thể của
chính mình mà bạn đã từng bảo vệ, chăm chút từng chút
một, và phải bắt đầu lên đường đi đến cuộc đời
kế tiếp. Đau đớn làm sao! Hãy rèn luyện tâm thức bằng
cách nhận lãnh vào mình nỗi đau khổ của tù nhân bị kết
án đó.
Và
khi bạn nghĩ tới một con cừu bị dẫn đi giết thịt, đừng
nghĩ nó chỉ là một con cừu. Thay vào đó, hãy cảm thấy
một cách chân thành rằng đó chính là người mẹ già của
mình sắp bị giết, và hãy tự hỏi phải làm gì trong tình
huống đó. Giờ đây bạn định làm gì khi họ sắp giết
người mẹ già của bạn, mặc dù bà chẳng làm điều gì
tổn hại đến ai? Hãy kinh nghiệm từ tận đáy lòng bạn
nỗi khổ mà mẹ bạn phải trải qua. Khi tâm bạn nóng lòng
muốn làm một điều gì ngay lập tức để người mẹ già
của bạn không bị giết chết tại chỗ, hãy quán chiếu dù
sinh loài đang đau khổ này không thực sự là cha hay mẹ bạn
trong đời này, nhưng chắc chắn họ đã từng là cha hay mẹ
bạn trong một thời điểm nào đó trong những đời quá khứ
và đã từng nuôi dưỡng bạn với thiện tâm lớn lao giống
hệt như cha mẹ trong đời này của bạn đã làm. Vì thế
không có gì khác biệt giữa cha mẹ đời này với cha mẹ
của vô lượng kiếp. Thương thay cho cha mẹ khốn khổ của
bạn đang chịu đau khổ quá nhiều! Giá như họ có thể lập
tức thoát khỏi nỗi khổ của họ, không chút trì hỗn –
ngay giây phút này! Với những niệm tưởng này trong lòng,
hãy thiền định với lòng bi mẫn không thể chịu đựng nổi
đến nỗi đôi mắt bạn trở nên đẫm lệ.
Khi
lòng bi của bạn được đánh thức, hãy thấu hiểu rằng
tất cả những đau khổ này là hậu quả của các ác hạnh
đã phạm trong quá khứ. Tất cả những chúng sinh khốn khổ
giờ đây đang đắm mình trong những ác hạnh cũng sẽ phải
chịu đau khổ không cách nào tránh khỏi. Để cho điều này
hiện rõ trong tâm, hãy thiền định với lòng bi về tất cả
những chúng sinh đang tạo nhân đau khổ cho bản thân họ bằng
việc sát sinh và bằng những hành vi bất thiện khác.
Sau
đó hãy quán sát sự đau khổ của tất cả những chúng sinh
bị tái sinh trong các cõi địa ngục, giữa những ngạ quỷ
và những cõi giới đau khổ khác. Hãy đồng nhất với họ
như thể họ là cha mẹ bạn, hay là chính bạn, và thiền quán
về lòng bi với một năng lực vĩ đại.
Cuối
cùng, hãy quán chiếu sâu xa về tất cả chúng sinh trong tam
giới. Bất kể ở đâu có không gian là ở đó có chúng
sinh. Nơi nào có chúng sinh là nơi đó có ác hạnh và có quả
khổ. Những chúng sinh đáng thương chỉ toàn dính mắc trong
tất cả những ác hạnh và đau khổ! Tuyệt diệu biết bao
nếu như mỗi chúng sinh trong sáu cõi có thể thoát khỏi mọi
tri kiến gây ra bởi những hành vi trong quá khứ, thoát khỏi
mọi đau khổ và những khuynh hướng bất thiện đó, và đạt
được hạnh phúc vĩnh cửu của Phật Quả viên mãn.
Khi
bạn bắt đầu thiền định về tâm bi, điều quan trọng trước
tiên là hãy chú tâm vào nỗi khổ của một cá nhân, từng
người một, và sau đó từng bước một, tu tập bản thân
cho tới khi bạn có thể thiền định về tất cả chúng sinh
như một toàn thể đồng nhất. Nếu không như thế, lòng từ
bi của bạn sẽ rất mơ hồ và chỉ là lý thuyết suông. Tâm
bi ấy sẽ không phải là một tâm bi chân chính, xác thực.
Hãy
đặc biệt quán chiếu về những đau khổ và khó nhọc của
trâu bò, cừu, ngựa thồ và những gia súc khác của bạn.
Chúng ta chế ra đủ loại hình thức hành hạ dã man những
sinh loài như thế, có thể so sánh với những hành hạ trong
địa ngục. Chúng ta xỏ mũi, thiến, vặt lông, lấy máu sống
những con thú.* Chúng ta chẳng suy xét trong bất kỳ phút giây
ngắn ngủi nào để thấy rằng những con vật này có thể
bị đau đớn. Nếu suy nghĩ về điều đó một cách sâu xa,
ta sẽ thấy ngay vấn đề đáng tiếc là ở chỗ chúng ta đã
không nuôi dưỡng lòng bi mẫn. Hãy quán chiếu về điều này
thật kỹ lưỡng: ngay giờ đây,
*
Gù lông mềm trên lưng bò yak được dùng làm len, người ta
thường vặt nó ra hơn là xén.
nếu
có ai chỉ nhổ một sợi tóc của bạn, bạn sẽ la lên vì
đau đớn – bạn sẽ hoàn toàn không tha thứ cho việc đó.
Thế mà chúng ta lại vặt tất cả lông-gù dài của những
con bò yak của ta, để lại lớp da thịt trần trụi đỏ tấy
lên mà nơi mỗi sợi lông tứa ra một giọt máu. Mặc dù con
vật kêu rên vì đau đớn nhưng chúng ta chẳng mảy may quan
tâm tới nỗi khổ của nó.
Chúng
ta chẳng thể đứng yên khi bị một vết phỏng dộp trên
bàn tay. Đôi khi mông đít ta bị đau do du hành trên lưng ngựa,
ta không thể ngồi trên yên mà phải ngồi lệch một bên.
Nhưng chúng ta không làm thế khi con ngựa bị kiệt sức hay
đau đớn. Khi nó không thể đi tiếp được nữa và bị vấp
ngã, thở hổn hển, ta vẫn cho là tại nó cứng đầu. Chúng
ta mất bình tĩnh và quất nó không chút thương xót.
Hãy
nghĩ về cá nhân một con vật, chẳng hạn một con cừu bị
giết thịt. Trước tiên, khi bị lôi ra khỏi bầy, con vật
tê liệt vì sợ hãi. Một vết thương tươm máu phồng lên
ngay chỗ bị túm chặt. Nó bị quẳng nằm ngửa trên mặt
đất; chân bị cột lại với nhau bằng một sợi dây da và
mõm bị ràng cho tới khi chết ngạt.** Nếu con vật kéo dài
thời gian hấp hối trong cơn đau dữ dội thì kẻ đồ tể,
người làm những ác hạnh, hết sức giận dữ:
“Con
này không muốn chết!” hắn nói, và đánh con vật túi bụi.
Con
cừu này khó chết hơn cừu bị lột da và moi ruột. Cùng lúc
đó một con vật khác bị rút máu cho tới khi không còn
đứng vững được nữa. Máu của con vật đã chết được
hoà chung với máu con vật còn sống và hỗn hợp này được
nấu chín trong bộ ruột của một con vật đã bị mổ bụng
để làm món xúc xích.* Bất cứ ai có thể ăn những thứ
như thế về sau hẳn phải là một kẻ ăn thịt người thật
sự.
**
Ở Tây Tạng, người ta thường giết súc vật bằng cách làm
cho nó ngạt thở.
*Như
huyết-xúc xích. Điều này làm theo một niềm tin của địa
phương là một hỗn hợp gồm máu của một con vật còn sống
và máu một con vật đã chết làm tăng cường sinh lực.
Hãy
suy nghĩ kỹ càng về nỗi khổ của những con vật này. Hãy
hình dung chính bạn đang trải qua nỗi khổ đó và xem xét
coi chúng ra sao. Hãy lấy tay bịt miệng bạn lại và ngừng
thở. Hãy ở trong tình trạng như thế trong một lát. Bạn
hãy kinh nghiệm sự đau đớn và hoảng sợ. Khi bạn đã thực
sự quán sát điều đó, hãy nghiền ngẫm kỹ lưỡng rằng
thật đáng buồn biết bao khi toàn thể chúng sinh đó bị dằn
xé bởi những nỗi khổ khủng khiếp như thế mà không có
lúc nào được ngơi nghỉ. Giá như bạn có năng lực để
ban tặng chúng nơi ẩn náu thoát khỏi mọi thống khổ này!
Các
Lạt Ma và tu sĩ là những người được mọi người tin tưởng
là có lòng từ bi rộng lớn nhất. Nhưng họ lại chẳng có
chút xíu nào tấm lòng ấy. Nói đến chuyện làm cho chúng
sinh đau khổ thì quả là họ còn tệ hại hơn cả các gia
chủ. Đây là dấu hiệu cho thấy thời đại giáo lý của
Đức Phật đang thực sự tới lúc kết thúc. Chúng ta đã
đi tới một thời kỳ khi mà những quỷ ma ăn thịt và các
yêu tinh hoàn toàn được tôn kính. Trong quá khứ, Bậc Thầy
của chúng ta, Đức Thích Ca Mâu Ni, đã từ bỏ vương quốc
của một vị Chuyển Luân Thánh Vương.130 Cùng với những
đệ tử A La Hán của Ngài, Ngài đi chân trần, khất thực
với bình bát và cây gậy trong tay. Không những các Ngài đi
khất thực mà không có lừa hay ngựa thồ, mà ngay cả Đức
Phật cũng không có ngựa để cưỡi. Đó là bởi Ngài cảm
thấy rằng làm cho chúng sinh đau khổ không phải là con đường
của giáo lý đạo Phật. Không lẽ Đức Phật không đủ tháo
vát để tìm cho bản thân mình một con ngựa già để cưỡi?
Tuy
nhiên, khi những vị tôn kính của chúng ta tổ chức một buổi
lễ trong làng, họ xỏ một mẩu dây bện tròn qua cái lỗ
được đục ở mõm con trâu yak. Khi được đỡ lên yên, họ
kéo bằng cả hai tay mạnh tới nỗi có thể nắm được sợi
dây làm bằng lông yak, nó thọc sâu vào mũi con trâu yak, làm
con vật đáng thương này đau đớn khủng khiếp đến độ
phải chồm lên và phóng vọt tới. Vì thế người ngồi trên
lưng nó, với tất cả sức mạnh của mình, đánh nó bằng
roi. Không chịu nổi chỗ đau mới bên hông, con trâu yak bắt
đầu chạy – nhưng mũi lại bị sợi dây kéo lại. Bây giờ
lỗ mũi bị đau quá khiến con yak đứng lại, và lại bị
roi quất. Bị trì kéo phía trước, bị roi quất phía sau cho
tới khi chẳng mấy chốc con vật đau đớn và kiệt sức.
Mồ hôi toát ra từ mỗi sợi lông, lưỡi nó thè ra, hơi thở
khò khè, và nó không thể đi được nữa.
“Chuyện
gì xảy ra với nó? Nó vẫn không chịu đi cho đàng hoàng,”
người cưỡi trâu yak nghĩ như vậy và nổi giận, dùng cái
tay nắm của sợi dây thúc vào sườn con vật cho tới khi trong
cơn giận dữ, hắn thúc mạnh tới nỗi tay nắm bể làm hai.
Hắn nhét những miếng bị bể vào thắt lưng, nhặt một cục
đá nhọn và, xoay tròn trên yên, đâm mạnh xuống mông con
trâu yak già nua… Tất cả những điều này xảy ra là bởi
hắn không cảm thấy một chút xót thương nào đối với con
vật.
Hãy
hình dung chính bạn là con trâu yak già nua, lưng bạn oằn xuống
vì bị chồng chất quá nặng, một sợi dây trì kéo bạn ở
lỗ mũi, hông bạn bị quất, sườn bạn thâm tím vì cái bàn
đạp. Bạn chỉ cảm thấy đau rát ở phía trước, phía sau,
và hai bên sườn. Không một giây ngưng nghỉ, bạn leo lên
những sườn núi dài, đi xuống những con dốc sâu, vượt
qua các con sông rộng và những cánh đồng mênh mông. Không
được nuốt dù chỉ một muỗng thức ăn, bạn bị dẫn đi
trái với ý muốn của bạn từ sáng sớm cho tới chiều tối
khi những tia nắng sau cùng của mặt trời tà đã biến mất.
Hãy quán chiếu về nỗi đau đớn và kiệt lực của con vật
như thế nào, sự đau đớn, đói khát mà bạn trải nghiệm
ra sao, và sau đó, hãy nhận vào mình nỗi đau khổ đó. Bạn
không thể cảm thấy điều gì khác ngoài lòng bi mẫn mãnh
liệt và không thể nào chịu đựng nổi.
Thông
thường, những người mà chúng ta gọi là Lạt Ma hay tu sĩ
phải là nơi nương tựa và người trợ giúp – là những
vị hộ trì và dẫn dắt tất cả chúng sinh với một tấm
lòng vô phân biệt. Nhưng trong thực tế, họ thiên vị những
vị thí chủ, những người bảo trợ họ, những người
tặng cho họ thức ăn, nước uống và cúng dường họ. Họ
cầu nguyện để những cá nhân đặc biệt này có thể được
che chở và bảo vệ. Họ ban cho những người này các lễ
quán đảnh và phước lành. Và trong thời gian đó, họ kết
bè kết bạn để trục xuất tất cả những ngạ quỷ và
những tinh linh ác hại mà sự tái sinh vào đường dữ là
kết quả của nghiệp bất hạnh của chúngï. Chư vị Lạt
Ma cử hành những buổi lễ như vậy tới lúc nổi cơn thịnh
nộ, làm ra vẻ muốn đánh đập và kêu lên: “Giết, giết!
Đánh, đánh!”
Giờ
đây, chắc chắn rằng nếu bất kỳ ai coi những tinh linh ác
hại như đối tượng để đánh hoặc giết thì hẳn đó là
vì tâm thức họ đang bị đè nặng bởi năng lực của sự
tham luyến và thù hận, và họ chưa từng phát khởi lòng bi
mẫn bao la, vô phân biệt. Khi bạn suy nghĩ sâu xa về điều
này, bạn sẽ thấy rằng những tinh linh ác hại này cần đến
lòng từ bi hơn bất kỳ ân nhân, tín chủ nào. Họ trở thành
những tinh linh nhiễu hại là bởi ác nghiệp của họ. Khi
bị tái sinh làm ngạ quỷ với một thân thể khủng khiếp,
họ đau đớn và sợ hãi không thể tưởng tượng nổi. Họ
không kinh nghiệm được điều gì khác ngoại trừ sự đói,
khát, và kiệt quệ kéo dài vô tận. Họ nhận thấy mọi sự
chỉ là sự đe dọa. Khi tâm họ tràn đầy thù hận và gây
hấn, nhiều người trong số họ bị đọa địa ngục ngay
khi chết. Như vậy ai xứng đáng được thương xót hơn? Những
vị thí chủ có thể đau yếu và khổ sở, nhưng điều đó
sẽ giúp cho ác nghiệp của họ cạn kiệt và không còn tạo
tác thêm nữa. Trái lại, những tinh linh xấu ác đó đang làm
tổn hại những người khác với những ý định xấu ác,
và bởi những ác hạnh của họ, họ sẽ bị lộn nhào xuống
đáy sâu của các cõi thấp.
Nếu
Đấng Chiến Thắng, thiện xảo trong các phương tiện và tràn
đầy lòng từ bi, đã giảng dạy cách khử trừ hay đe dọa
những tinh linh gây tổn hại này bằng những phương pháp hung
nộ thì cũng chỉ là vì lòng bi mẫn đối với chúng tinh linh,
giống như một người mẹ phát vào đít đứa trẻ không nghe
lời.
Ngài
cũng cho phép một số người thực hiện các nghi lễ giải
thóat bằng cách là những người có năng lực được ngăn
chận dòng tạo tác ác nghiệp của những kẻ chuyên gây tổn
hại, và chuyển tâm thức chúng tới một cõi thanh tịnh. Nhưng
ngược lại, đối với việc cố tình làm thoả mãn yêu cầu
của những tín chủ, làm thoả mãn các tu sĩ, và thoả mãn
những người mà chúng ta coi là đứng về phe ta để hắt
hủi chúng quỷ ma và hắt hủi những người làm điều sai
trái, rồi coi họ như những kẻ thù đáng ghét – bảo vệ
một bên và tấn công bên kia do lòng tham luyến và thù hận
– thì đó có phải là do Đấng Chiến Thắng đã giảng dạy
những thái độ như thế hay không? Chừng nào chúng ta còn
bị dẫn dắt bởi những cảm xúc tham luyến và thù hận như
vậy, thì thật vô ích khi cố gắng loại bỏ hay tấn công
bất kỳ tinh linh ác hại nào. Thân thể họ chỉ thuần là
tâm thức nên họ sẽ không tuân lệnh chúng ta. Ngược lại
họ sẽ chỉ gây thêm hoạ hại chúng ta. Quả thực – chưa
cần phải nói tới chuyện tham luyến và thù hận – chừng
nào chúng ta còn tin rằng những vị Trời và tinh linh như thế
thực sự hiện hữu và muốn họ biến đi cho khuất mắt
thì chúng ta sẽ không bao giờ thuần phục được họ.
Khi
Ngài Jetsun Mila sống trong Động Pháo Đài Kim Xí Điểu ở
thung lũng Chong, thì Vinayaka, chúa tể của những kẻ gây chướng
ngại, thi triển một ảo giác siêu nhiên. Trong hang đá của
mình, Jetsun Mila nhìn thấy năm atsara* (nhà tu khổ hạnh) với
đôi mắt to như cái đĩa nhỏ. Ngài cầu nguyện vị Thầy
và Bổn Tôn của Ngài, nhưng những con quỷ vẫn không bỏ
đi. Ngài thiền định quán tưởng Bổn Tôn và niệm các thần
chú phẫn nộ, nhưng chúng vẫn không đi.
Cuối
cùng Ngài nghĩ: “Ngài Marpa xứ Lhodrak đã dạy ta rằng tất
cả mọi sự việc trong vũ trụ đều chính là do tâm tạo,
và bản tánh của tâm thì rỗng rang và chói ngời. Tin rằng
ma quỷ và những kẻ gây chướng ngại này đều đến từ
bên ngoài và muốn họ đi chỗ khác là điều vô nghĩa.”
*
a tsa ra là một sửa đổi sai lạc của từ Phạn ngữ acarya,
và ở đây có nghĩa là những sự xuất hiện mang hình tướng
của các nhà tu khổ hạnh Ấn Độ.
Cảm
nhận một xác tín mạnh mẽ như thế giúp Ngài thấu suốt
được rằng những tinh linh và ma quỷ chỉ là những tri giác
của chính mình, Ngài trở lại hang động. Trợn tròn
đôi mắt kinh hãi, những nhà tu khổ hạnh vụt biến mất.
Đây
cũng là điều mà Nữ Yêu Tinh ở Tảng Đá muốn nói tới
khi nó hát cho Milarepa nghe:
Quỷ
ma ta đây là huân tập của riêng Ngài biến hiện trong
tâm
Ngài;
Nếu
Ngài không nhận ra bản tánh thật của tâm,
Thì
ta sẽ chẳng đi đâu chỉ vì Ngài bảo ta đi.
Nếu
Ngài không nhận ra được tâm Ngài rỗng rang,
Thì
ngoài ta ra, còn rất nhiều quỷ ma nữa!
Nhưng
nếu Ngài nhận ra bản tánh thật của tâm,
Thì
nghịch cảnh sẽ hộ trì Ngài chứ chẳng thể làm gì khác
Và
ngay cả ta, Nữ Yêu Tinh ở Tảng Đá, sẵn sàng
đợi
lệnh Ngài.
Như
vậy, thay vì có sự xác tín để thấu hiểu rằng tất cả
tinh linh và ma quỷ chính là bản tâm của ta, thì làm sao chúng
ta có thể khuất phục được chúngï bằng cách lên cơn giận
dữ phẫn nộ?
Khi
các tăng sĩ tới thăm các vị thí chủ của họ, các tăng
sĩ nàyï vui vẻ không chút do dự ăn hết con cừu đã bị
giết để phục vụ họ. Khi các tăng sĩ ấyï thực hiện
những nghi thức đặc biệt để cúng dường các vị Hộ Pháp,
họ tuyên bố rằng món thịt thanh tịnh là một phần cần
thiết. Đối với họ, món này có nghĩa là thịt và mỡ còn
ướt máu của một con vật bị giết chết tươi, và với
máu và mỡ đó, họ dùng để trang trí tất cả các bánh cúng
(torma) và những món cúng dường khác. Những phương pháp đe
dọa ghê sợ như thế chỉ có thể là những nghi thức của
các kẻ ngoại đạo hay những người theo đạo BoŠn – chúng
chắc chắn không phải là nghi thức Phật Giáo. Trong Phật
Giáo, một khi đã quy y Pháp, chúng ta phải từ bỏ việc làm
hại người khác. Làm thế nào mà việc giết một con thú
ở mỗi nơi chúng ta đến, thưởng thức máu và thịt của
nó, lại không là việc phạm giới nguyện quy y? Đặc biệt
hơn nữa, trong truyền thống Bồ Tát của Đại Thừa, chúng
ta được coi là nơi nương tựa và là người bảo vệ cho
tất cả chúng sinh bao la vô tận. Nhưng đối với chính những
chúng sinh có nghiệp bất hạnh mà ta được coi như đang che
chở
cho chúngï thì ta lại không cảm thấy chút xíu lòng bi mẫn
nào. Thay vào đó, những chúng sinh nằm dưới sự che chở
của chúng ta đã bị giết hại, thịt và máu nấu chín của
chúngï được bày ra trước mặt ta, và những người bảo
vệ họ – là chúng ta, những Bồ Tát – lại hân hoan ngấu
nghiến món thịt rồi chép môi hả hê thoả mãn. Còn điều
gì có thể xấu xa và ác độc hơn nữa không?
Những
bản văn của Kim Cương Mật Thừa có nói:
Cho
dù chúng ta có làm điều gì khiến simha và tramen* khó chịu
Chẳng
hạn như việc không thọ dụng các phẩm vật cúng dường
gồm máu và thịt y cứ theo văn bản,
Chúng
ta hãy cầu xin các Không Hành nữ (dakini) ở những chốn linh
thiêng tha thứ.
Vậy
ở đây, “thọ dụng các phẩm vật cúng dường gồm máu
và thịt y cứ theo văn bản” có nghĩa là thọ dụng những
món này như đã được giải thích trong những bản văn Mật
điển của Mật Thừa. Những hướng dẫn trong các bản văn
đó là gì?
Năm
loại thịt và năm cam lồ
Là
thức ăn và nước uống cho bữa tiệc hội bên ngoài.
*
Những bổn tôn tượng trưng của mạn đà la.
Do
đó, “cúng dường một tiệc máu và thịt y cứ theo các bản
văn” có nghĩa là cúng dường năm loại thịt được coi là
những chất liệu mật nguyện (samaya) có giá trị đối với
Mật Thừa – đó là thịt người, ngựa, chó, voi, và trâu
bò. Năm loại thịt này không bị ô nhiễm bởi những ác hạnh
vì đây là toàn thể những sinh vật không bị giết để làm
thực phẩm.131 Điều này hoàn toàn trái ngược với việc
chúng ta dựa vào khái niệm tịnh và bất tịnh—đối với
khái niệm này thì thịt người, thịt chó… được xem là
bất tịnh, kém tệ, trong khi loại thịt bổ béo của một
con vật vừa bị giết để làm thực phẩm lại được coi
là thanh tịnh. Những thái độ như thế được đề cập tới
như là:
Xem
chất liệu của năm mật nguyện thọ dụng
Là
tịnh hay bất tịnh, hoặc thọ dụng trong lơ đễnh.
Nói
khác đi, khi có những ý niệm tịnh hay bất tịnh là đã vi
phạm những mật nguyện của việc thọ dụng, ngay cả khi
năm loại thịt được chấp nhận kia chỉ có thể được
sử dụng nếu bạn có năng lực chuyển hóa thực phẩm bạn
ăn thành chất cam lồ và đang ở trong tiến trình tu tập để
đạt tới những thành tựu đặc biệt ở một nơi ẩn dật.
Nếu bạn ăn những món thịt này một cách ngẫu nhiên tình
cờ trong làng xóm, chỉ vì bạn thích mùi vị của món thịt
thì đây chính là ý nghĩa của câu “thọ dụng trong lơ đễnh,
trái ngược với những mật nguyện của việc thọ dụng,”
và đấy cũng là một sự vi phạm các giới mật nguyện.
Do
đó, “thịt thanh tịnh” không có nghĩa là thịt của một
con vật bị giết để làm thực phẩm, mà là “thịt của
con vật bị chết vì hành nghiệp của nó trong quá khứ.”
Có nghĩa là thịt của một con vật chết già, chết bệnh,
hoặc chết vì những nguyên nhân tự nhiên khác, và những
nguyên nhân này không là gì khác hơn ngoài ác báo phải trả
cho những hành nghiệp của chính con vật ấy trong quá khứù.
Ngài
Dagpo Rinpoche vô song nói rằng đem thịt và máu còn ấm của
một con vật bị giết chết tươi và đặt nó trong mạn đà
la thì việc làm ấy sẽ làm tất cả chư Bổn Tôn trí tuệ
chết ngất. Cũng có câu nói rằng cúng dường chư vị Bổn
Tôn trí tuệ máu và thịt của con vật bị giết thì cũng
giống như giết chết một đứa con trước mặt bà mẹ. Nếu
bạn mời người mẹ dùng bữa và sau đó đặt trước mặt
bà ta món thịt của đứa con ruột của bà, thì liệu bà ta
thích hay không thích? Chính bằng tình thương của bà mẹ đối
với đứa con duy nhất của mình mà Chư Phật và Bồ Tát đã
hướng nhìn về tất cả chúng sinh trong ba cõi. Như vậy, giết
thịt một sinh vật vô tội mà nó là nạn nhân của những
hành vi bất thiện của chính nóù, rồi cúng dường thịt,
máu của nó cho các Ngài thì không cách nào có thể làm cho
các Ngài hài lòng. Như Bồ Tát Tịch Thiên có nói:
Không
niềm vui nào có thể mang lại sự hài lòng
Cho
những người mà thân thể họ đang bị thiêu đốt,
Các
đấng bi mẫn vĩ đại cũng không thể hài lòng
Khi
chúng sinh bị hãm hại.
Nếu
bạn chỉ dùng thịt và máu của những con vật bị giết để
cử hành những nghi thức như nghi thức cầu nguyện những
vị Hộ Thần, thì cố nhiên những vị Bổn Tôn trí tuệ và
những vị Hộ Pháp, là những bậc Bồ Tát thuần tịnh, sẽ
không bao giờ chấp nhận vật thực cúng dường là thịt của
chúng sinh bị giết, được bày ra giống như được bày bán
trên quầy thịt. Thậm chí các Ngài sẽ không bao giờ lại
gần những nơi như thế. Thay vào đó, những tinh linh xấu
ác đầy năng lực là những kẻ thích thịt và máu tươi,
luôn luôn hăm hở trong việc hãm hại kẻ khác, chúng sẽ tụ
hội quanh nơi cúng dường và dự tiệc.
Chỉ
một thời gian ngắn sau khi một hành giả của những “cúng
dường đỏ” như thế thực hiện công việc của mình, người
ta có thể thấy được một vài lợi ích nho nhỏ. Nhưng bởi
những tinh linh này đang thường xuyên làm hại người khác,
nên chúng có thể gây ra những khó khăn và bệnh tật bất
ngờ. Một lần nữa, hành giả của những nghi thức “đỏ”
sẽ lại xuất đầu lộ diện và cúng dường thịt và máu,
và một lần nữa việc đó sẽ giúp ích trong một thời gian
ngắn. Đây là cách thức những tinh linh xấu ác và các hành
giả của những nghi thức “đỏ” trở thành bạn đồng
hành không thể chia cách, luôn luôn hỗ trợ lẫn nhau. Giống
như những thú săn mồi rình mò, chúng đi loanh quanh vơ vẩn,
hoàn toàn bị ám ảnh bởi nỗi khát khao nhai thịt, gặm xương
và luôn luôn tìm kiếm thêm nạn nhân. Bị những tinh linh mê
hoặc, các hành giả của những nghi thức như thế sẽ đánh
mất ý niệm về sự huyễn ảo của vòng sinh tử luân hồi,
đánh mất niềm khao khát giải thoát nào mà có thể họ đã
có từ trước. Bất kểø niềm tin, tri kiến thanh tịnh hay
mối quan tâm nơi Giáo Pháp nào mà một thời họ đã có, tất
cả những phẩm tính này sẽ mờ nhạt dần, tới độ ngay
cả nếu chính Đức Phật hiện ra bay bổng giữa bầu không
trung trước mặt thì điều này cũng chẳng đánh thức được
niềm tin trong họ; thậm chí khi thấy một con vật với bộ
ruột lòng thòng ra ngoài, việc ấy cũng không thể khơi được
chút lòng từ bi nào trong tâm của họ. Họ luôn dáo dác tìm
mồi, giống như những kẻ sát nhân la-sát (raksasa) lên đường
đi chinh phạt, mặt họ hừng hực, rung lên trong cơn thịnh
nộ và tỏ vẻ khiêu chiến hung hăng. Họ kiêu căng về năng
lực và ân phước của ngôn ngữ của họ, nó xuất phát từ
việc họ thân thiết với những tinh linh xấu ác. Ngay khi chết,
họ bị hút thẳng vào địa ngục – trừ phi những ác nghiệp
của họ chưa đến lúc hoàn toàn trổ quả đề họ phải
chịu quả báo như vậy. Trong trường hợp này, họ bị tái
sinh vào hàng ngũ của một số tinh linh xấu ác chuyên đi săn
bắt sinh lực của những người khác, hay tái sinh làm diều
hâu, chó sói và những dã thú khác.
Trong
triều đại của Pháp Vương Trisong Detsen, những người theo
đạo Bošn cúng dường máu và thịt vì lợi ích của nhà vua.
Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyana (Đức Liên Hoa Sanh), Đại học
giả Vimalamitra, Đại Bồ Tát Tu Viện Trưởng và những dịch
giả, học giả khác, tất cả hoàn toàn bị xúc phạm trước
cảnh tượng cúng dường của những kẻ BoŠnpo. Các Ngài nói:
Một
giáo lý duy nhất không thể có hai vị Thầy; Một tôn giáo
duy nhất không thể có hai phương pháp tu tập. Truyền thống
của đạo Bošn đối nghịch với giới luật của Giáo Pháp;
Cái xấu ác của nó còn đồi bại hơn những việc làm sai
quấy của người bình thường. Nếu quý vị cho phép tu tập
như vậy, chúng tôi sẽ quay về nhà.
Tất
cả những vị học giả cùng chung một ý kiến, thậm chí
không cần phải bàn luận với nhau. Khi nhà vua thỉnh cầu
các Ngài thuyết Pháp, không một ai bước lên. Ngay cả khi
nhà vua mời họ dùng bữa, các Ngài đều từ chối.
Nếu
chúng ta, tự cho là đang đi theo dấu chân của những học
giả, thành tựu giả và Bồ Tát trong quá khứ, mà giờ đây
lại thực hiện những nghi lễ sâu xa của Mật Thừa theo cung
cách của những kẻ tu theo đạo BoŠn và gây tổn hại cho
chúng sinh, điều này sẽ hủy hoại tính chất siêu phàm của
Giáo Pháp, làm ô danh Tam Bảo, và sẽ quăng ném cả chúng ta
lẫn những người khác vào địa ngục.
Hãy
luôn luôn ngồi ở vị trí thấp nhất. Hãy mặc y phục giản
dị. Hãy giúp đỡ tất cả những người khác càng nhiều
càng tốt trong khả năng của bạn. Trong tất cả mọi công
việc, hãy chỉ làm với mục đích phát triển lòng từ và
bi cho tới khi chúng trở thành một phần căn bản của con
người bạn. Điều đó sẽ đáp ứng cho mục đích tu hành,
cho dù bạn không thực hành những hình thức nổi bật bề
ngoài và dễ nhìn thấy của Giáo Pháp như việc cầu nguyện,
làm các hạnh lành hay các hoạt động vị tha. Trong Phật Thuyết
Pháp Tập Kinh có nói:
Hãy
để những người khao khát Phật Quả không phải tu
tập
nhiều Pháp trừ một Pháp duy nhất
Pháp
đó là gì? Là lòng đại bi.
Những
người có lòng đại bi sở hữu tất cả giáo lý của Đức
Phật
như thể trong lòng bàn tay.
Có
lần Geshe Tongpa được một vị tăng đến thăm, ông ta là
đệ tử của Ba Anh Em và Ngài Khampa Lungpa.*
“Dạo
này Potawa đang làm gì?” Ngài Tonpa hỏi vị sư.
“Ngài
đang giảng dạy cho Tăng chúng hàng trăm người.”
“Rất
tốt! Còn Geshe Puchungwa thì thế nào?”
“Ngài
dùng toàn bộ thời giờ để sáng tạo những biểu tượng**
cho thân, khẩu và ý của Đức Phật từ những vật liệu
mà Ngài và những người khác cúng dường”.
“Rất
tốt!” Ngài Geshe Tonpa lập lại. “Còn Gonpawa thì thế nào?”
“Ngài
không làm gì hết, chỉ thiền định”
“Rất
tốt! Hãy nói cho ta về Khampa Lungpa.”
“Ngài
sống ở nơi cô tịch, dấu mặt và khóc liên miên.”
*Xem
Thuật ngữ. ** Nghĩa đen: sự hỗ trợ. Những biểu tượng
cho thân Phật ám chỉ các pho tượng và tranh vẽ, những biểu
tượng cho ngữ của Phật ám chỉ các Kinh văn linh thánh
và những bản văn khác, và những biểu tượng cho tâm Phật
ám chỉ các bảo tháp (stupa).
Nghe
nói tới đây Ngài Tonpa dở nón, chắp tay giữa ngực và rơi
nước mắt, kêu lên, “Ô, vị ấy thật tuyệt diệu! Ngài
đang thật sự thực hành Giáo Pháp. Ta có thể nói một ít
cho ngươi biết là Ngài tốt lành ra sao, nhưng ta biết Ngài
sẽ không thích đâu.”
Lý
do khiến Ngài Khampa Lungpa dấu mặt và khóc suốt ngày là bởi
Ngài thường xuyên nghĩ tới chúng sinh bị hành hạ bởi những
nỗi thống khổ trong vòng luân hồi, và Ngài thiền định
về lòng từ bi đối với họ.
Một
hôm Ngài Chengawa đang giảng về những lý do tại sao lòng từ
và bi trở nên hết sức quan trọng, thì Langri Thangpa đảnh
lễ trước mặt Ngài và nói rằng từ lúc đó trở đi, ông
sẽ không thiền định về điều gì khác ngoại trừ hai điều
này. Ngài Chengawa giở nón ra và nói ba lần “Thật là một
tin lành tuyệt hảo!”
Không
gì có thể hữu hiệu hơn lòng từ bi để tịnh hóa ác nghiệp
và chướng ngại của chúng ta. Thời xa xưa ở Ấn Độ, giáo
lý A Tỳ Đàm bị thử thách trong ba dịp khác nhau và sắp
bị biến mất. Nhưng một nữ tu sĩ Bà la môn tên Prakasasila
nghĩ rằng :“Ta sinh ra làm thân nữ. Bởi địa vị thấp kém
nên bản thân ta không thể làm cho kinh điển của Đức Phật
chói sáng được. Vì thế, ta sẽ phối hợp với những người
đàn ông để sinh ra những người con trai để có thể phổ
biến giáo lý A Tỳ Đàm.”
Cùng
với chồng là một người trong giai cấp chiến sĩ (ksatriya),
bà sinh Ngài Asanga (Vô Trước) cao quý, và với một người
bà la môn, bà đã sinh ra Ngài Vasubhandhu (Thế Thân). Khi mỗi
một trong hai con trai bà tới tuổi trưởng thành, họ hỏi
cha họ làm gì.
Người
mẹ bảo với từng đứa con: “Ta sinh ra con không phải để
đi theo dấu chân của cha con. Con được sinh ra để phổ biến
giáo lý của Đức Phật. Con phải học Giáo Pháp, và trở
thành vị thầy của giáo lý A Tỳ Đàm.”
Ngài
Vasubhandhu (Thế Thân) rời nhà tới Kashmir để học giáo lý
A Tỳ Đàm. Ngài Asanga (Vô Trước) tới Núi Kukkutapada, ở đó
Ngài bắt đầu thực hành pháp tu của Đức Phật Di Lặc với
hy vọng có linh kiến về Ngài và có thể thỉnh cầu giáo
huấn từ Ngài. Sáu năm trôi qua, mặc dù thiền định gian
khổ, Ngài chẳng có được một giấc mộng lành nào.
“Có
lẽ ta chẳng bao giờ thành công” Ngài nghĩ, và bỏ đi, cảm
thấy ngã lòng. Dọc đường, Ngài đi ngang qua một người
đang chà xát một thỏi sắt khổng lồ bằng một miếng vải
mềm.
Ngài
hỏi người đàn ông: “Ông đang gắng làm cái gì mà chà
xát như thế?”
Ông
ta trả lời: “Tôi cần một cây kim, nên tôi đang làm nó
bằng cách chà xát thanh sắt này.”
Ngài
Asanga nghĩ, “Ông ta sẽ không bao giờ làm được một cây
kim bằng cách chà xát thỏi sắt khổng lồ đó với một miếng
vải mềm. Cho dù nó có thể được làm trong một trăm năm,
liệu ông ta có sống được tới đó không? Nếu chỉ vì một
lý do quá nhỏ nhoi mà người bình thường còn nỗ lực như
thế thì ta có thể thấy là mình chưa bao giờ thực sự thực
hành Pháp với bất kỳ lòng kiên trì nào.”
Vì
thế Ngài thực hành pháp tu trở lại. Ngài thực hành hơn
ba năm mà vẫn không thấy dấu hiệu nào.132
“Lần
này, ta hoàn toàn chắc chắn là ta không thể thành công,”
Ngài nói, và lại lang thang lần nữa. Cuối cùng Ngài đi tới
một tảng đá cao tới nỗi dường như chạm tới các tầng
trời. Dưới chân tảng đá, một người đàn ông đang quất
một miếng da nhúng nước vào tảng đá.
“Ông
làm gì vậy?” Ngài Asanga hỏi ông ta.
Người
đàn ông nói: “Tảng đá này cao quá, chẳng có chút nắng
nào vào nhà, nhà tôi ở phía tây tảng đá nên tôi muốn làm
tảng đá mòn đi cho tới khi nó biến mất”.
Với
những suy tưởng như ba năm trước, Ngài Asanga quay trở lại
và thực hành trong ba năm nữa, nhưng vẫn không có một giấc
mộng lành nào.
Hoàn
toàn thất vọng, Ngài nói: “Như vậy ta chẳng bao giờ thành
công được điều gì!” và một lần nữa lại ra đi.
Dọc
đường, Ngài đi qua một con chó cái với hai chân sau bị què
và toàn bộ phần sau của nó nhung nhúc dòi. Tuy thế, nó vẫn
đầy vẻ gây hấn và cố cắn Ngài khi trườn mình bằng hai
chân trước, thân sau của nó kéo lê trên mặt đất. Asanga
vô cùng xúc động, Ngài cảm nhận một lòng bi mẫn sâu xa
không thể chịu đựng nổi. Ngài cắt một miếng thịt của
mình cho con chó ăn. Sau đó Ngài quyết định giúp nó thoát
khỏi những con dòi ở phần thân sau của nó. Vì sợ rằng
có thể giết chết những con dòi nếu Ngài bốc chúng ra bằng
tay, Ngài nhận thấy cách duy nhất để làm điều đó là dùng
lưỡi. Nhưng mỗi khi nhìn vào toàn thân con chó đã quá thối
rữa và đầy mủ thì Ngài lại không thể làm được. Do vậy,
Ngài nhắm mắt lại và thè lưỡi ra.
Thay
vì chạm vào thân con chó cái thì lưỡi Ngài lại chạm đất.
Ngài
mở mắt ra và thấy con chó đã biến mất. Đức Phật Di Lặc
(Maitreya) có hào quang bao quanh đang đứng ở chỗ của nó.
“Ngài
tàn nhẫn làm sao,” Asanga kêu lên, “suốt thời gian qua Ngài
không cho con nhìn thấy mặt!”
“Không
phải là ta không hiện ra cho con thấy. Ta và con chưa bao giờ
xa cách nhau. Nhưng vì những ác nghiệp và chướng ngại của
con quá mạnh nên con không thể thấy được ta. Nhờ con đã
thực hành suốt mười hai năm ròng nên ác nghiệp và chướng
ngại đã suy giảm được một ít nên con mới có thể nhìn
thấy con chó cái. Ngay bây giờ, nhờ lòng đại bi của con,
các chướng ngại của con đã hoàn toàn được tịnh hóa và
con có thể thấy ta bằng đôi mắt của con. Nếu không tin,
hãy mang ta trên vai và cho mọi người quanh đây nhìn thấy!”
Vì
thế Asanga đặt Đức Di Lặc trêân vai phải và đi vào chợ,
ở đâu Ngài cũng hỏi mọi người: “Ông thấy cái gì trên
vai tôi?”
Ngoại
trừ một bà lão mà tri giác ít bị những tư tưởng huân
tập ngăn che, còn thì mọi người đều trả lời là không
có gì trên vai Ngài. Bà ta nói: “Ông đang mang thây một con
chó thối”
Sau
đó Đức Maitreya mang Asanga lên cõi trời Đâu Suất, ở đó
Ngài ban cho Asanga Di Lặc Ngũ Luận (Năm Giáo Lý Của Di Lặc)
và những giáo huấn khác. Khi trở về cõi người, Ngài Asanga
(Vô Trước) truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa.
Bởi
không có thực hành nào như lòng từ bi để tịnh hóa tất
cả những hành vi gây tổn hại của chúng ta, và chính vì
lòng bi mẫn chưa từng thất bại trong việc giúp cho chúng
ta phát triển Bồ Đề Tâm phi thường, nên chúng ta phải kiên
nhẫn thiền định về lòng bi mẫn.
Hình
ảnh được đưa ra để thiền định về lòng từ bi là hình
ảnh của một người mẹ cụt tay, mà đứa con của bà bị
một con sông cuốn đi. Một bà mẹ như thế sẽ đau khổ biết
chừng nào. Tình thương của bà dành cho đứa con quá mãnh
liệt, nhưng vì không thể dùng đôi tay nên bà không thể chụp
đứa con lại được.
“Tôi
có thể làm gì bây giờ? Tôi có thể làm gì?” bà tự hỏi.
Suy nghĩ duy nhất của bà là tìm ra phương tiện nào đó để
cứu con. Trái tim bà tan nát, bà vừa khóc vừa chạy theo sau
đứa con.
Hoàn
toàn giống như vậy, tất cả chúng sinh trong tam giới đang
bị giòng sông đau khổ cuốn trôi vào biển luân hồi. Mặc
dù ta cảm nhận một lòng bi mẫn không thể chịu đựng nổi,
nhưng chúng ta không có cách gì cứu thoát họ khỏi nỗi khổ
của họ. Hãy thiền định về điều này, hãy nghĩ: “Giờ
đây tôi có thể làm được gì?” và hãy khẩn gọi Thầy
và Tam Bảo từ tận sâu thẳm trái tim bạn.
4.
Thiền Định Về Tâm Hỷ
Hãy
hình dung một người được sinh ra sống một đời sống cao
quý, mạnh mẽ, thịnh vượng, đầy quyền thế, một người
khác sống trong những cõi cao đang trải qua sự nhàn nhã, hạnh
phúc, trường thọ, giàu có và được nhiều người hầu hạ.
Không có bất kỳ cảm thức ghen tị hay ganh đua nào, hãy phát
khởi niềm ước muốn rằng thậm chí những người này có
thể trở nên vinh quang hơn nữa, vui hưởng sự thịnh vượng
của những cõi cao hơn nữa, thoát khỏi mọi hiểm nguy, và
luôn luôn phát triển một bộ óc thông minh và những tài năng
hoàn hảo khác hơn nữa. Sau đó hãy thường xuyên tự nhủ
rằng thật tuyệt vời biết bao nếu tất cả chúng sinh khác
cũng có thể sống trong một hoàn cảnh sung sướng y như vậy.
Hãy
bắt đầu công phu thiền định của bạn bằng cách suy nghĩ
về một người có thể dễ dàng làm khơi dậy những cảm
xúc tốt lành tích cực – như một người bà con, một người
bạn thân hay một người mà bạn yêu mến – là người thành
đạt, bằng lòng và an lạc, và hãy cảm thấy sung sướng
rằng bạn đang như thế. Khi bạn đã tạo ra được cảm giác
hạnh phúc đó, hãy cố gắng nuôi dưỡng cảm giác tương
tự đối với những người bạn cảm thấy lãnh đạm. Sau
đó tập trung cảm giác đó trên tất cả những loại kẻ
thù đã làm tổn thương bạn, và đặc biệt với những người
mà bạn cảm thấy ghen tị. Hãy nhổ tận gốc tâm thức xấu
ác không chịu đựng nổi khi thấy ai đó được hưởng sự
hoàn toàn sung túc, và hãy nuôi dưỡng một cảm giác vui thích
đặc biệt đối với mỗi loại hạnh phúc mà họ có thể
hưởng thụ. Hãy kết thúc bằng sự ngơi nghỉ trong trạng
thái vô niệm.
Ý
nghĩa của tâm hoan hỷ là có được một tâm thức thoát khỏi
mọi ganh tị. Do đó, bạn nên cố gắng rèn luyện tâm bạn
với đủ loại phương thức để ngăn chận những tư tưởng
ganh tị vô cùng tai hại, không để cho chúng phát sinh. Đặc
biệt, một vị Bồ Tát, người đã phát khởi Bồ Đề Tâm
vì lợi ích của tất cả chúng sinh, phải cố gắng an lập
tất cả chúng sinh đó trong hạnh phúc vĩnh cửu của Phật
Quả, và trong hạnh phúc nhất thời của những cõi Trời và
Người. Vậy, làm sao một vị Bồ Tát như thế lại có thể
cảm thấy không hài lòng khi một số người, nhờ nghiệp
lực của những hành vi trong quá khứ của họ, được sở
hữu một vài điều kiện xuất chúng hay giàu có?
Một
khi người ta bị thiên lệch bởi lòng ghen tị, họ không còn
thấy cái tốt của người khác, và những hành vi tiêu cực
hay ác hạnh của họ gia tăng một cách đáng báo động.
Khi
danh tiếng và hoạt động của Ngài Jetsun Milarepa lan rộng,
một luận sư tên Tarlo trở nên ghen tị và bắt đầu tấn
công Ngài. Mặc dù Ngài Jetsun đã thể hiện cho ông thấy về
năng lực thần diệu và khả năng thấu thị (thần nhãn) của
Ngài, Tarlo không có niềm tin nơi Ngài và chỉ phản ứng lại
bằng sự chỉ trích và tà kiến. Sau đó ông ta tái sinh thành
một đại ác quỷ.
Có
nhiều ví dụ khác về những điều có thể xảy ra dưới
mãnh lực của lòng ghen tị, giống như cách luận sư Geshe
Tsakpuwa đã cố tình đầu độc hãm hại Ngài Jetsun Mila.
Cho
dù chính Đức Phật hiện diện trong thân người, Ngài cũng
không thể làm được gì để dẫn dắt một người ghen tị.
Một tâm thức bị ô nhiễm bởi ghen tị không thể nhìn thấy
bất kỳ điều gì tốt đẹp nơi người khác. Vì không thể
thấy điều gì tốt trong họ, nên không thể phát sinh ngay
cả một chút niềm tin yếu ớt. Không có niềm tin, ta không
thể nhận được lòng bi mẫn lẫn những ân phước. Devadatta
và Sunaksatra là anh em họ của Đức Phật. Cả hai bị dày
vò bởi sự ghen tị và không có chút lòng tin nào đối với
Ngài. Mặc dù họ sống cả đời với Đức Phật nhưng Ngài
hoàn toàn không thể chuyển hóa được tâm họ.*
*
Xem Phần Một, Chương Sáu và Phần Hai, Chương Một.
Ngoài
ra, ngay cả khi những tư tưởng ác độc về người khác không
thật sự dẫn đến việc làm tổn hại đồ vật hay thân
thể, nhưng chúng vẫn tạo ra những hậu quả tiêu cực to
lớn cho người có tư tưởng đó. Ngày trước, có hai vị
tiến sĩ học giả Phật Giáo (geshe) nổi tiếng đang kình địch
nhau. Một ngày nọ, một người biết rằng người kia có tình
nhân.
Vị
geshe nói với người hầu: “Hãy chuẩn bị ít trà ngon, vì
ta có một số tin tức rất hay ho.”
Người
hầu pha trà, và khi dâng trà, anh ta hỏi: “Tin tức gì?”
Vị
geshe trả lời: “Người ta nói rằng đối thủ của ta có
tình nhân!”
Khi
Ngài Kunpang Trakgyal nghe chuyện này, người ta nói rằng mặt
Ngài sạm lại và Ngài hỏi: “Trong hai vị geshe, người nào
vi phạm hành vi tệ mạt hơn?”
Việc
liên tục chú tâm vào những cảm xúc như ghen tị và tranh
đua không giúp gì cho sự nghiệp của riêng ta mà cũng không
làm hại sự nghiệp các đối thủ của ta. Nó chỉ dẫn đến
việc tích lũy các ác hạnh tiêu cực vô nghĩa. Hãy từ bỏ
loại thái độ, tâm tư xấu xa này. Hãy luôn chân thành hoan
hỷ về những thành tựu và hoàn cảnh thuận lợi của người
khác, bất kể địa vị xã hội, thân tướng, tài sản, học
vấn hay bất kỳ những gì khác của họ ra sao. Hãy suy đi
nghĩ lại nhiều lần rằng bạn thật sự vui mừng biết bao
bởi có được những người tuyệt vời như thế, thành công
và may mắn đến thế. Hãy nghĩ rằng sẽ kỳ diệu biết bao
nếu thậm chí họ còn trở nên phong lưu hơn bây giờ, và
đạt được tất cả sức mạnh, của cải, học vấn và những
phẩm tánh tốt đẹp mà họ có thể có được. Hãy thiền
định về điều này từ đáy lòng bạn.
Hình
ảnh được đưa ra cho tâm hoan hỷ vô lượng là hình ảnh
một con lạc đà mẹ đi tìm đứa con thất lạc của nó. Trong
tất cả các thú vật, lạc đà được coi là những bà mẹ
âu yếm con nhất. Do đó nếu một lạc đà mẹ bị mất con
thì nỗi đau buồn của nó sẽ rất dữ dội. Khi tìm lại
được con thì nó vui mừng vô hạn. Đó là loại hoan hỷ mà
bạn nên cố gắng phát triển.
Bốn
phẩm tính Tứ Vô Lượng không bao giờ đem đến thất bại
khi giúp ta phát triển Bồ Đề Tâm chân thật. Do đó, rất
cần nuôi dưỡng tâm Tứ Vô Lượng cho tới khi bốn tâm ấy
thật sự bén rễ trong ta.
Để
cho dễ hiểu hơn, chúng ta có thể tóm tắt bốn tâm vô lượng
trong một cụm từ duy nhất, “một tấm lòng nhân từ.”
Hãy tu tập bản thân để bạn luôn luôn có một trái tim nhân
từ trong mọi tình huống.
Một
hôm, bàn tay của đức Atisa bị thương, và vì thế Ngài đặt
nó trong lòng của Drom Tonpa và nói: “Ông là người có lòng
nhân từ, hãy ban phước cho bàn tay ta!”
Ngài
Atisa luôn luôn chỉ nhấn mạnh tới tầm quan trọng của lòng
từ ái, và thay vì hỏi mọi người “Bạn có khỏe không?”
thì Ngài sẽ hỏi “Trái tim bạn có nhân từ không?” *
Bất
cứ khi nào Ngài giảng dạy, Ngài đều thêm vào “Hãy có
một trái tim nhân từ!”
Chính
năng lực của những tác ý tốt lành hay bất thiện sẽ làm
cho một hành vi trở nên là một thiện hạnh hay là một ác
hạnh, mạnh hay yếu. Khi tác ý đằng sau những việc làm này
là tốt, thì mọi hành vi của thân hay ngữ đều tốt lành,
như đã được minh họa trong câu chuyện của một người
lấy đế da che tsa- tsa. Khi tác ý ở phía sau là xấu, thì
bất kỳ hành vi nào, dù nhìn có vẻ tốt nhưng thực ra sẽ
là xấu. Vì thế hãy học tập để luôn luôn có những tác
ý thiện lành, bất kể trong hoàn cảnh nào. Có câu nói rằng:
Nếu
tác ý tốt đẹp thì quả vị [Bồ-Tát địa] và con đường
tu sẽ tốt. Nếu tác ý xấu, những quả vị và con đường
tu sẽ xấu.133
Bởi
mọi sự đều tùy thuộc vào tác ý,
Phải
luôn luôn giữ vững tất cả những tác ý thiện lành.
Con
đường tu và quả vị sẽ tốt nếu tác ý tốt nghĩa là như
thế nào?
*
Thông thường, người ta hay hỏi xin các vị Lạt Ma đã chứng
ngộ thổi vào vết thương để giúp cho vết thương được
lành.
Có
một lần, một bà lão và cô con gái đang vượt qua một con
sông rộng, bà nắm lấy tay con, và cả hai bị dòng nước
cuốn trôi.
Người
mẹ nghĩ: “Ta có bị nước cuốn trôi thì cũng chẳng quan
trọng gì, miễn là con ta được cứu sống!”
Cùng
lúc đó, người con gái nghĩ: “Cho dù tôi có bị cuốn trôi
thì cũng chẳng sao, miễn là mẹ tôi không bị chết đuối!”
Cả
hai người đều chết chìm, và là kết quả do những tư tưởng
thiện lành cho lẫn nhau, cả hai mẹ con được tái sinh vào
cõi Trời Phạm Thiên (Brahma).
Trong
một trường hợp khác, sáu vị tăng sĩ và một người đưa
thư lên đò để qua sông Jasako. Chiếc đò rời bến.
Đi
khoảng được một phần tư đường, người lái đò nói:
“Chúng ta quá nặng. Nếu ai biết bơi thì xin nhảy xuống
nước. Nếu không, tôi sẽ nhảy xuống và một người trong
quý vị có thể cầm chèo.”
Không
một ai biết bơi; và cũng chẳng có ai biết chèo.
Vì
thế người đưa thư nhảy ra khỏi con thuyền, kêu lên: “Tốt
nhất là tôi chết một mình để cho mọi người sống!”
Ngay
lập tức một cầu vồng xuất hiện và một trận mưa hoa
rơi xuống. Mặc dù người đưa thư không biết bơi nhưng ông
đã được đưa vào bờ an toàn. Ông ta chưa từng thực hành
Giáo Pháp. Đây là lợi ích trực tiếp phát xuất từ một
tư tưởng tốt lành duy nhất.
Con
đường và công hạnh sẽ xấu nếu những tư tưởng xấu
là như thế nào?
Có
một lần, một người hành khất nằm ngay cổng hoàng cung
và nghĩ: “Ta ước mong nhà vua bị cắt đầu, và ta có thể
chiếm trọn nơi này!”
Tư
tưởng này không ngừng quay cuồng trong tâm ông suốt đêm
dài. Đến sáng ông ta rơi vào giấc ngủ và trong khi ông ngủ,
nhà vua ngồi trên xa mã đi ra. Một bánh xe cán ngang cổ người
hành khất và cắt đứt đầu ông ta.
Trừ
phi bạn nhớ tới mục đích của việc tìm kiếm Giáo Pháp
của bạn trong chánh niệm và cảnh giác, và luôn luôn theo
dõi tâm bạn, nếu không thì những cảm xúc mãnh liệt của
tham ái và thù ghét có thể dễ dàng dẫn tới việc tích lũy
những nghiệp ác rất nghiêm trọng. Mặc dù những mong ước
của ông lão hành khất không bao giờ có thể trở thành sự
thật nhưng hậu quả của những tư tưởng của ông ta đã
đưa tới việc trổ quả của ác nghiệp, làm cho chuyện ấy
trở thành sự thật ngay lập tức. Có thể xảy ra việc nhà
vua đang ngủ thoải mái trên giường ngọc trong cung điện
lại bị mất đầu không? Cho dù nhà vua bị mất đầu, thì
chuyện vị thái tử sẽ thừa kế vương quốc chẳng là một
chuyện hợp lý hơn sao? Ngay cả nếu vì một lý do nào đó
thái tử không lên ngôi, thì liệu có thể có việc một ông
lão hành khất sẽ thừa kế ngai vàng bất chấp tất cả các
vị thừa tướng là những người như những con cọp, beo và
gấu? Tuy nhiên, trừ phi bạn tự kiểm soát tư tưởng mình
một cách thận trọng, còn thì ngay cả những tư tưởng tiêu
cực lố bịch như vậy cũng có thể xuất hiện. Vì thế,
Geshe Shawopa nói:
Đừng
cai trị vương quốc mộng tưởng của những triển vọng tương
lai, lúc nào cũng như đang nảy nở vô tận!
Một
hôm Đức Phật và các vị tăng sĩ của Ngài được mời đến
thọ trai tăng do một thí chủ cúng dường tại nhà của ông
ta. Ở đó cũng có hai người hành khất trẻ tuổi, một người
thuộc giai cấp chiến sĩ (ksatriya), còn người kia là một
người Bà la môn (brahmin). Người Bà la môn đi tới xin trước
khi Đức Phật và các tăng sĩ được cúng dường nên không
nhận được gì. Người chiến sĩ đợi tới khi mọi người
được cúng dường xong mới đến xin và nhận được nhiều
thực phẩm ngon lành được để lại trong bình bát của các
Ngài.134 Trưa hôm đó, trên đường đi, hai người nói chuyện
với nhau về những suy nghĩ của họ.
Người
chiến sĩ trẻ nói: “Nếu tôi giàu có, tôi sẽ cúng dường
y phục và vật thực cho Đức Phật và các tu sĩ của Ngài
cho tới cuối đời tôi. Tôi tôn kính các ngài bằng cách cúng
dường tất cả những gì tôi có.”
Người
Bà la môn trẻ tuổi nói: “Và nếu tôi là một vị vua đầy
uy quyền, tôi muốn cái đầu cạo trọc của kẻ mê tín kia
sẽ bị chặt và cả nhóm bị xử tử cùng với ông ta!”
Người
chiến sĩ trẻ tới một xứ khác và cư ngụ dưới bóng của
một thân cây lớn. Khi những bóng cây khác di chuyển, thì
bóng của thân cây đặc biệt này vẫn đứng yên. Vị vua
xứ đó vừa băng hà, và vì nhà vua không có người thừa
kế nên dân chúng quyết định rằng người nào xứng đáng
và dũng cảm nhất xứ sẽ được tôn làm vua của họ. Khi
tiến hành tìm kiếm vị tân vương, họ chợt thấy người
chiến sĩ trẻ đang ngủ dưới gốc cây, vẫn ở dưới bóng
cây mặc dù quá ngọ đã lâu. Họ đánh thức anh ta dậy và
tôn anh lên làm vua. Sau đó, vị vua này đã bày tỏ sự tôn
kính Đức Phật và các tăng sĩ của Ngài như đã ước nguyện.
Về
phần người Bà la môn trẻ, câu chuyện kể rằng khi nằm
nghỉ ở ngã tư đường, đầu của anh ta bị bánh của một
chiếc xe ngựa cán đứt.
Nếu
bạn học tập để luôn luôn chỉ có những tư tưởng tốt
lành, mọi mong ước của bạn trong đời này sẽ trở thành
hiện thực. Những vị Trời nhân đức sẽ bảo vệ bạn và
bạn sẽ nhận được ân phước từ tất cả chư Phật và
Bồ Tát. Mọi việc bạn làm sẽ tốt đẹp, và vào lúc
chết bạn sẽ không bị đau khổ. Trong những đời tương
lai bạn sẽ luôn luôn được tái sinh vào cõi Trời hay người
cho tới khi cuối cùng bạn đạt được Phật Quả viên mãn.
Đừng
chỉ biết vội vã mà không thẩm xét những tư tưởng và
cảm xúc của bạn, và cũng đừng thực hiện một cuộc phô
bày vĩ đại các hoạt động đức hạnh như: lễ lạy, đi
nhiễu, cầu nguyện, tụng niệm thần chú v.v… Thay vào đó,
điều quan trọng là luôn kiểm soát thái độ [động lực]
của bạn và trau dồi lòng nhân ái.
II.
KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
1.
Phân Loại Bồ Đề Tâm Dựa Trên Ba Mức Độ Dũng Cảm
1.1
SỰ DŨNG CẢM CỦA MỘT VỊ VUA
Ưu
tiên hàng đầu của một vị vua là chiến thắng tất cả
quân địch, thăng chức cho những người đã giúp đỡ ngài,
và tuyên bố rằng quyền bính thuộc về mình. Chỉ sau khi
thực hiện xong những việc đó thì ước nguyện chăm lo cho
thần dân của Ngài mới có kết quả. Tương tự như vậy,
trước tiên bạn có ước nguyện mong muốn bản thân mình
đạt đến Phật Quả và sau đó, sẽ đưa những người khác
đến quả vị Phật, ước nguyện như thế này thì được
gọi là phương thức khơi dậy Bồ Đề Tâm của một quân
vương.
1.2
SỰ DŨNG CẢM CỦA NGƯỜI CHÈO THUYỀN
Mục
đích của người chèo thuyền là cùng đi tới bờ bên kia
với tất cả những người khách của ông. Tương tự, mong
ước đạt được Phật Quả cho mình cùng lúc với tất cả
chúng sinh được gọi là phương cách khơi dậy Bồ Đề Tâm
của người chèo thuyền.
1.3
SỰ DŨNG CẢM CỦA NGƯỜI CHĂN CỪU
Những
người chăn cừu lùa bầy cừu của họ đi phía trước để
biết chắc rằng chúng tìm được cỏ và nước, và cũng không
bị chó sói, chó rừng hay những thú dữ khác tấn công. Bản
thân người chăn cừu thì đi theo sau bầy cừu. Tương tự
như thế, thái độ của những người mong muốn dẫn dắt
tất cả chúng sinh khắp ba cõi đến bờ giác ngộ viên mãn
trước khi bản thân họ đạt được Phật Quả thì đây được
gọi là cách khơi dậy Bồ Đề Tâm của người chăn cừu.
Cách
thức của vị vua, được gọi làï “khơi dậy Bồ Đề Tâm
với ước nguyện lớn lao,” là cách ít can đảm nhất trong
ba phương cách. Cách của người chèo thuyền, gọi là “khơi
dậy Bồ Đề Tâm với trí tuệ thiêng liêng” thì dũng cảm
hơn. Người ta nói Đức Di Lặc (Maitreya) khơi dậy Bồ Đề
Tâm theo cách này. Cách của người chăn cừu, được gọi
là “khơi dậy Bồ Đề Tâm không gì so sánh được” là
cách dũng đảm nhất. Người ta nói đó là cách Đức Văn
Thù (Manjusri) đã khơi dậy Bồ Đề Tâm.
2.
Phân Loại Theo Các Địa Bồ Tát
Trên
con đường vun bồi tích lũy công đức và hợp nhất phước
huệ, khơi dậy Bồ Đề Tâm được gọi là “phát khởi Bồ
Đề Tâm bằng cách phát nguyện.” Từ sơ địa cho tới địa
Bồ Tát thứ bảy, cách thức khơi dậy Bồ Đề Tâm được
gọi là “phát khởi Bồ Đề Tâm nương vào tác ý hoàn toàn
thanh tịnh.” Trên ba địa thanh tịnh, khơi dậy Bồ Đề Tâm
được gọi là “phát khởi Bồ Đề Tâm hoàn toàn thuần
thục,” và ở địa Phật Quả, là “phát khởi Bồ Đề
Tâm vô chướng ngại”
3.
Phân Loại Theo Tính Chất Của Bồ Đề Tâm
Có
hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm tương đối và Bồ Đề
Tâm tối thượng.
3.1
BỒ ĐỀ TÂM TƯƠNG ĐỐI:
Bồ
Đề Tâm tương đối có hai khía cạnh: tác ý và áp dụng
thực hành.
3.1.1
Tác Ý (Bồ Đề Tâm Nguyện):
Trong
Nhập Bồ Tát Hạnh, Ngài Tịch Thiên (Santideva) có nói về
hai khía cạnh của Bồ Đề Tâm:
Có
ước muốn khởi hành và thực sự bước chân lên
con
đường,
Hãy
nhận biết sự khác biệt giữa hai điều đó.
Người
minh triết và uyên bác nên hiểu rõ
Sự
khác biệt này, cần thiết phải có và tuần tự phát triển.
Hãy
lấy một ví dụ về một cuộc du hành tới Lhasa. Bước đầu
tiên là có ý định: “Tôi sắp đi tới Lhasa.” Niệm tưởng
ban đầu tương ứng với ý định: “Tôi sắp làm bất cứ
điều gì để bảo đảm rằng tất cả chúng sinh sẽ đạt
được trạng thái Phật Quả viên mãn,” làø phương diện
ý định của việc khơi dậy Bồ Đề Tâm.136
3.1.2.
Áp dụng thực hành (Bồ Đề Tâm Hạnh):
Sau
đó bạn chuẩn bị ngựa và lương thực cần thiết, bắt
đầu lên đường và thực sự du hành tới Lhasa. Tương tự
như thế, bạn quyết định thực hành bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tu tập tâm bạn trong
trí tuệ vô phân biệt để đưa tất cả chúng sinh đến Phật
Quả viên mãn. Đó chính là bạn thực sự đưa con đường
tu của sáu pháp toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật) vào
thực hành. Điều này tương ứng với chuyến du hành thực
sự, và là phương diện áp dụng Bồ Đề Tâm.137
3.2
BỒ ĐỀ TÂM TỐI THƯỢNG
Cả
hai phương diện ý định và áp dụng thực hành đều là Bồ
Đề Tâm tương đối.138 Nhờ tu tập một thời gian dài nương
nơi Bồ Đề Tâm tương đối trên con đường tích lũy và
hợp nhất, cuối cùng bạn đi tới con đường của cái thấy
(kiến), ở đó bạn có một trực nghiệm chân thực về chân
như, trạng thái như nhiên của vạn pháp. Đây là trí
tuệ siêu vượt mọi tạo tác, là chân lý của tánh Không.
Vào lúc đó, bạn khơi dậy Bồ Đề Tâm tối thượng hay Bồ
Đề Tâm viên mãn.139
4.
Thọ Giới Nguyện Bồ Đề Tâm140
Nhờ
năng lực của thiền định mà ta đạt được Bồ Đề Tâm
tối thượng đích thực, và điều này không tuỳ thuộc vào
các nghi thức. Tuy nhiên, để phát triển Bồ Đề Tâm tương
đối, là người sơ cơ, chúng ta cần phải tuân theo một số
thủ tục, một số nghi thức mà qua đó chúng ta có thể thọ
giới nguyện trong sự hiện diện của một vị Thầy tâm linh.
Sau đó, chúng ta cần liên tục làm tươi mới giới nguyện
đó qua các công phu và nghi thức thọ giới tương tự, và
lập đi lập lại nhiều lần khiến cho Bồ Đề Tâm mà chúng
ta đã khơi dậy không bị tàn lụi, trở nên càng lúc càng
mãnh liệt hơn.
Hãy
quán tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát và những Bổn Tôn
khác trong không gian trước mặt bạn, như bạn đã làm trong
khi thực hành pháp quán tưởng quy y. Hãy coi các Ngài như là
những nhân chứng trong công phu phát Bồ Đề Tâm của bạn
và suy nghĩ như vầy:
“Trong
toàn thể vô số sinh loài khắp vũ trụ bao la, không ai chưa
từng là cha mẹ của tôi trong tiến trình tiếp nối của những
kiếp sống của tôi từ vô thủy. Tôi có thể quyết chắc
rằng, là cha mẹ tôi, họ đã hết lòng chăm sóc tôi với
tất cả sự dịu dàng âu yếm mà họ có thể có được,
đã cho tôi thức ăn và quần áo tốt nhất trong số thực
phẩm và quần áo của họ, đãø nuôi dưỡng tôi với tất
cả tình thương, giống như cha mẹ hiện tại của tôi đã
làm. Bây giờ, tất cả những bậc cha mẹ nhân từ đó đang
đắm chìm trong những cơn sóng của đại dương sinh tử luân
hồi đau khổ. Họ bị nhận chìm trong bóng tối sâu dày nhất
của vô minh. Họ không có ý niệm về con đường chân chiùnh
để thực hành, cũng như không biết con đường sai lầm để
tránh bỏ. Họ không có người bạn tâm linh chân chiùnh nào
để hướng dẫn. Họ không có nơi nương tựa hay sự che chở,
không người dẫn dắt hay bạn đồng hành, không hy vọng và
không có ai để hướng tới, họ lạc loài như một người
mù lang thang không bạn hữu giữa một cánh đồng hoang. Những
bà mẹ già của tôi, làm sao tôi có thể tự giải thoát một
mình mình và bỏ mặc các vị trong luân hồi? Vì lợi ích
của tất cả chúng sinh, tôi sẽ đánh thức Bồ Đề Tâm tối
thượng. Trong khi học tập để noi gương những hành động
phi thường của những bậc Bồ Tát trong quá khứ, tôi sẽø
nỗ lực bằng mọi cách làm bất cứ điều gì cần thiết
cho tới khi không còn một chúng sinh nào bị bỏ lại trong
luân hồi!”
Với
thái độ này, hãy tụng bài kệ sau đây càng nhiều càng tốt
khi có thể:
Ô!
Do lầm lạc của sắc tướng -- những ánh trăng phản
chiếu
dưới nước,
Chúng
sinh lang thang trong chuỗi luân hồi vô tận;
Để
cho họ được an nghỉ trong không gian chói ngời của
giác
tánh,
Với
bốn đại hạnh vô lượng, con xin phát khởi Bồ Đề Tâm141
.
Vào
lúc kết thúc thời công phu, hãy quán tưởng rằng, nương
vào năng lực của lòng quy ngưỡng nhiệt thành của bạn đối
với các Bổn Tôn trong ruộng công đức, toàn thể thánh chúng
tan thành ánh sáng, bắt đầu từ bên ngoài, và cuối cùng
hoà tan vào vị Thầy ở chính giữa; vị Thầy chính là sự
hợp nhất của cả tam quy y (Tam Bảo). Tới lượt vị Thầy
tan thành ánh sáng và hòa tan vào bạn, nhờ đó, Bồà Đề
Tâm tối thượng hiện diện trong tâm của các Bổn Tôn quy
y sẽ hiển lộ rõ ràng trong tâm bạn. Hãy tụng lời nguyện
ước này:
Nguyện
cho Bồ Đề Tâm, trân quý và tối thượng,
Nơi
nào chưa hiện diện, xin tâm ấy phát khởi,
Nơi
nào đã phát khởi, xin không hề mai một
Mà
lớn mạnh, nở rộ, mỗi ngày mỗi hơn lên.
Sau
đó hồi hướng công đức với những câu như sau:
Khi
noi gương Đấng anh hùng Văn Thù,
Phổ
Hiền, cùng tất cả những bậc đại trí,
Con
cũng xin hồi hướng toàn bộ công đức
Của
tất cả những việc làm thiện lành.
Việc
phát khởi Bồ Đề Tâm, là tinh tuý của tám vạn bốn ngàn
pháp môn mà Đấng Chiến Thắng đã chỉ dạy. Đây là giáo
huấn bạn cần phải có, ngay cả chỉ một giáo huấn đó
thôi cũng đãø đủ rồi. Nhưng nếu thiếu Bồ Đề Tâm thì
tất cả mọi thứ khác cũng thành ra vô ích. Đây là món thuốc
trị bá bệnh, chữa lành mọi bệnh tật. Tất cả những con
đường khác của Giáo Pháp, chẳng hạn như việc tích lũy
[hai bồ công đức], việc tịnh hóa những ô nhiễm, thiền
định về các Bổn Tôn, và việc trì tụng các câu thần chú,
đơn thuần chỉ là những phương pháp giúp cho viên-ngọc-như-ý-Bồ-Đề-Tâm
phát khởi trong tâm thức của bạn. Không có Bồ Đề Tâm
thì không phương pháp nào trong những phương pháp tu tập kia
tự chúng có thể đưa dẫn bạn tới Phật Quả viên mãn.142
Nhưng một khi Bồ Đề Tâm đã được khơi dậy trong bạn,
thì bạn có hành trì bất kỳ pháp tu tập nào, pháp ấy cũng
sẽ dẫn bạn tới Phật Quả viên mãn. Hãy luôn luôn học
tập để sử dụng bất kỳ phương tiện nào bạn có thể
sử dụng được để giúp cho Bồ Đề Tâm phát khởi trong
bạn, ngay cả nếu đó chỉ là một tia lửa nhỏ bé nhất
mà thôi.143
Vị
Thầy ban cho bạn những giáo huấn cốt tuỷ của con đường
phát khởi Bồ Đề Tâm đang dìu dắt bạn bước đi trên con
đường Đại Thừa, vì thế lòng tốt của Ngài thì vĩ đại
hơn lòng tốt của những vị Thầy ban cho bạn bất kỳ những
giáo huấn nào khác. Khi Ngài Atisa nhắc tới danh hiệu của
những vị Thầy của Ngài, Ngài thường chắp tay trước ngực.
Nhưng khi Ngài nói tới Đức Suvarnadvipa, Ngài chắp tay đặt
lên đầu và mắt Ngài đẫm lệ. Chúng đệ tử hỏi Ngài
tại sao có sự phân biệt như vậy.
“Thực
sự có một sự khác biệt nào giữa những phẩm hạnh tâm
linh hay thiện tâm của những vị Thầy này không?” họ hỏi.
“Tất
cả những vị Thầy của ta đều là những bậc tu chứng đích
thực,” Ngài Atisa trả lời, “và phẩm hạnh của các Ngài
đều đồng nhất. Nhưng có một số điểm khác biệt trong
thiện tâm của các Ngài. Chút ít Bồ Đề Tâm mà ta có được
đến từ thiện tâm của Đức Suvarnadvipa. Đó là lý do tại
sao ta cảm thấy biết ơn Ngài nhiều hơn hết cả.”
Có
một câu nói rằng, điều quan trọng nhất về Bồ Đề Tâm
không phải là việc khơi dậy tâm ấy, mà đúng hơn là tâm
ấy đã thực sự phát khởi. Lòng từ và bi của Bồ Đề
Tâm phải thực sự sống động mãnh liệt trong chúng ta. Do
đó, trì tụng nghi thức nhiều hằng trăm ngàn lần mà không
thâu nhận được ý nghĩa vào trong tâm thì hoàn toàn vô ích.
Thọ nhận giới nguyện Bồ Đề Tâm trước sự hiện diện
của Chư Phật và Bồ Tát, và sau đó không trì giữ lời nguyện
ấy thì đúng là lừa gạt các Ngài. Không có lỗi lầm nào
tệ hại hơn thế. Vì thế cũng đừng lừa gạt chúng sinh
– hãy luôn cố gắng nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm.
III.
RÈN LUYỆN THEO GIỚI LUẬT CỦA BỒ ĐỀ TÂM
Đối
với Bồ Đề Tâm nguyện [là tác ý muốn phát triển Bồ Đề
Tâm], việc tu tập gồm có ba giai đoạn: coi người khác ngang
bằng với mình, hoán đổi mình và người khác, và coi người
khác quan trọng hơn chính mình. Đối với Bồ Đề Tâm hạnh,
việc tu tập bao gồm việc thực hành sáu pháp toàn thiện
siêu việt (lục độ ba la mật).
1.
Bồ Đề Tâm Nguyện và Giới Luật
1.1
COI NGƯỜI KHÁC NGANG BẰNG VỚI MÌNH
Lý
do khiến chúng ta lang thang trong biển luân hồi đau khổ từ
vô thủy là bởi ta tin vào một cái “tôi” ở nơi không
có cái tôi, tin vào một cái “ngã” ở nơi không có cái
ngã, và bởi ta làm cho cái ngã đó trở thành đối tượng
duy nhất của tình yêu thương của chúng ta. Thay vào đó, hãy
quán chiếu như sau:
Chúng
ta luôn luôn muốn được hạnh phúc và không bao giờ muốn
đau khổ. Khi có bất kỳ điều khó chịu nào xảy tới cho
ta, chúng ta cảm thấy không thể chịu đựng nổi. Ngay cả
cái kim châm hay một tia lửa nhỏ cũng làm chúng ta kêu la đau
đớn - chúng ta hoàn toàn không thể đương đầu được với
những điều đó. Nếu một con rận nhỏ cắn trên lưng chúng
ta cũng khiến ta nổi cơn thịnh nộ. Chúng ta bắt con rận
đó, nghiền nát nó trong hai móng tay, và mãi sau đó chúng ta
vẫn cứ tiếp tục chà xát móng tay trong sự giận dữ. Đa
số mọi người thời nay coi việc giết con rận là vô hại.
Nhưng vì nó luôn luôn được làm trong cơn giận dữ, nên đó
là một nguyên nhân chắc chắn để tái sinh trong Địa Ngục
Vây Bắt và Nghiền Nát. Chúng ta phải xấu hổ khi nhận ra
rằng ngay cả những khó chịu nhỏ bé như thế mà ta cũng
không chịu được và phản ứng bằng cách gây ra đau khổ
cho chúng sinh khác.
Giống
như chúng ta, tất cả chúng sinh trong tam giới cũng muốn hạnh
phúc và thoát khỏi mọi đau khổ. Nhưng mặc dù muốn được
hạnh phúc, họ lại không biết rằng hạnh phúc chỉ đến
từ việc thực hành thập thiện. Dù không muốn đau khổ,
họ dâng hiến mọi nỗ lực cho mười ác hạnh khiến đem
lại đau khổ. Điều họ ước muốn và những nỗ lực đạt
được những điều đó lại hoàn toàn trái ngược nhau, và
họ luôn luôn đau khổ. Trong tất cả những chúng sinh đó,
không ai không từng là cha mẹ của chúng ta trong một khoảng
thời gian nào đó từ vô thủy. Giờ đây chúng ta đã được
một vị Thầy tâm linh chân chính nhận làm đệ tử, giờ
đây chúng ta đã nhận lãnh Giáo Pháp chân chính và có thể
phân biệt được điều gì có lợi và cái gì có hại.
Với tình thương tràn đầy, chúng ta phải quan tâm chăm sóc
tất cả những bà mẹ già (chúng sinh) đang bị trói buộc
bởi chính màn lưới vô minh của họ, và nên chấm dứt bất
kỳ việc tạo tác tâm phân biệt nào giữa họ và chúng ta.
Kiên nhẫn trước sự vô ơn và trước thành kiến của họ,
chúng ta nên thiền định về sự vắng bóng của bất kỳ
ý niệm đối đãi nào giữa thù và bạn.
Luôn
luôn giữ điều này trong tâm, hãy thiền quán về tâm vô phân
biệt nhiều lần.
Bất
cứ những gì tốt lành hay ích lợi mà bạn muốn cho chính
mình, thì người khác cũng mong muốn y như vậy. Do đó, giống
như bạn siêng năng làm việc để đem lại hạnh phúc và tiện
nghi cho bạn, thì bạn cũng hãy luôn luôn cần mẫn làm việc
vì hạnh phúc và tiện nghi cho người khác. Cũng như bạn cố
gắng tránh cả những đau khổ nhỏ nhoi nhất cho chính mình,
cũng hãy nỗ lực để ngăn ngừa cho người khác khỏi phải
đau khổ dù là do một tổn hại nhỏ bé nhất. Giống như
bạn cảm thấy hài lòng về hạnh phúc và sự thịnh vượng
của riêng bạn, bạn hãy hoan hỷ tận đáy lòng khi người
khác cũng được hạnh phúc và thịnh vượng như vậy. Tóm
lại, khi thấy không có khác biệt nào giữa bạn và tất cả
những chúng sinh trong tam giới, hãy lấy đó làm sứ mệnh
duy nhất của bạn để tìm ra những phương cách giúp từng
người trong tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bây
giờ và mãi mãi.
Khi
được Trungpa Sinachen thỉnh cầu một giáo huấn đầy đủ
tóm gọn trong một câu duy nhất, Ngài Padampa Sangye trả lời:
“Bất cứ những gì ông muốn, tất cả người khác cũng
muốn như thế; hãy hành động dựa trên điều đó!”
Hãy
hoàn toàn diệt trừ tận gốc tất cả những thái độ sai
lầm được đặt nền tảng trên sự tham luyến và thù hận,
khiến bạn loại bỏ những người khác và chỉ quan tâm tới
chính mình, và hãy nghĩ tưởng rằng bản thân bạn và những
người khác hoàn toàn bình đẳng.
1.2
HOÁN ĐỔI MÌNH VÀ NGƯỜI
Hãy
quan sát một người đang thật sự đau khổ vì bệnh tật,
đói, khát hoặc vì một số những phiền não khác. Hoặc,
nếu việc đó không thể làm được thì hãy tưởng tượng
một người như thế đang ở trước mặt bạn. Khi thở ra,
hãy tưởng tượng rằng bạn đang cho người đó tất cả
hạnh phúc của bạn và những điều tốt đẹp nhất mà bạn
có, thân thể bạn, tài sản và suối nguồn công đức của
bạn, như thể bạn đang cởi bỏ quần áo của mình và mặc
vào người họ. Sau đó, khi hít vào hãy tưởng tượng rằng
bạn đang nhận vào mình tất cả những đau khổ của người
đó, và kết quả là người đó trở nên hạnh phúc và thoát
khỏi mọi phiền não. Hãy bắt đầu phương pháp thiền định
này để ban tặng hạnh phúc và nhận lãnh đau khổ đối với
một cá nhân, sau đó dần dần mở rộng để bao gồm tất
cả chúng sinh.
Bất
kỳ những điều gì bạn không mong muốn hoặc khi đau khổ
xảy đến với bạn, hãy phát khởi lòng trắc ẩn chân thành,
chan chứa đối với tất cả chúng sinh trong tam giới của
luân hồi, là những chúng sinh giờ đây đang chịu đựng đau
khổ giống như đau khổ của bạn. Hãy phát khởi ước nguyện
mạnh mẽ rằng tất cả những đau khổ của họ có thể trổ
quả trong bạn thay vì trong họ, và họ có thể hoàn toàn thoát
khỏi đau khổ và được hạnh phúc. Bất cứ khi nào bạn
cảm thấy hạnh phúc hay cảm thấy mọi chuyện tốt đẹp,
hãy phát khởi mong ước rằng hạnh phúc của bạn có thể
trải rộng ra và đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.
Phương
pháp thực hành Bồ Đề Tâm hoán chuyển ngã tha – hoán đổi
mình và người khác – là tinh tuý của thiền định tối
thượng và phương pháp này sẽ không bao giờ vơi cạn
cho tất cả những ai đã khởi hành trên con đường của giáo
lý Đại Thừa. Nếu bạn thật sự kinh nghiệm sự hoán đổi
này dù chỉ một lần, kinh nghiệm này sẽ tịnh hoá những
ác hạnh và những chướng ngại trong nhiều kiếp, và sẽ
giúp bạn tích tụ được hai bồ phước huệ vô biên. Kinh
nghiệm ấy sẽ cứu bạn thoát khỏi những cõi thấp và thoát
khỏi bất kỳ con đường tái sinh nào dẫn bạn tới những
cõi thấp đó.
Trong
một đời trước, Đức Phật bị đọa vào một địa ngục,
ở đó những tội nhân bị buộc phải kéo những toa xe. Ngài
phải kéo một toa xe cùng một người khác tên là Kamarupa,
nhưng cả hai người quá yếu nên không làm cho xe di chuyển
được, lính canh hối thúc và đánh họ bằng những vũ khí
nóng-đỏ, khiến họ đau đớn vô tả.
Vị
Phật tương lai nghĩ: “Ngay cả hai chúng ta cùng nhau kéo cũng
không thể làm cho toa xe di chuyển, mà mỗi người lại chịu
đau khổ như nhau. Tôi sẽ kéo và chịu đau khổ một mình
để Kamarupa có thể được nhẹ bớt.”
Ngài
nói với lính canh: “Hãy đặt dây cương của anh ta lên vai
tôi, mình tôi kéo được rồi.”
Nhưng
những tên lính canh nổi giận: “Ai có thể làm được bất
kỳ điều gì để tránh cho người khác khỏi phải kinh qua
những hậu quả của những hành vi của chính họ?” họ nói,
và đánh tới tấp lên đầu Ngài bằng dùi cui.
Tuy
nhiên, nhờ thiện niệm này, Đức Phật lập tức thoát khỏi
cuộc sống địa ngục và được tái sinh vào một cõi Trời.
Người ta nói đây là cách thức mà Ngài khởi đầu làm lợi
lạc cho người khác.
Một
câu chuyện khác kể về bằng cách nào mà Đức Phật, trong
một tái sinh ở đời trước là “Ái Nữ” của thuyền trưởng
Vallabha, có lần được giải thoát khỏi những cõi thấp ngay
khi Ngài thực sự kinh nghiệm sự hoán chuyển này của Ngài
với những người khác. Có lần, một gia chủ tên là Vallabha,
tất cả những con trai của ông đều chết cả. Do đó, khi
sinh đứa con trai khác, ông quyết định đặt tên cho nó là
Ái Nữ với hy vọng điều này sẽ làm cho nó được sống
sót. Sau đó, Vallabha vượt biển để tìm châu báu, nhưng thuyền
chìm và ông ta bỏ mạng.
Khi
người con trai trưởng thành, anh hỏi mẹ rằng trước đây
cha mình thuộc giai cấp nào. Sợ rằng nếu nói ra sự thật
thì đứa con cũng có thể lại đi biển, nên người mẹ bảo
với con rằng cha anh thuộc giai cấp thương nhân buôn gạo.
Vì thế Ái Nữ trở thành một người buôn bán gạo và chăm
sóc mẹ với bốn đồng xu của một karsa kiếm được trong
ngày. Nhưng một người buôn gạo khác nói với anh rằng anh
không thuộc giai cấp của họ, vì thế anh làm nghề buôn bán
như họ là không đúng. Anh bị bắt buộc phải ngưng công
việc.
Anh
trở về với mẹ và hỏi bà lần nữa. Lần này mẹ anh nói
rằng cha anh là một người bán hương liệu. Anh bắt đầu
bán hương liệu, và chăm sóc mẹ với tám karsa kiếm được
mỗi ngày.
Nhưng
Ái Nữ bị bắt phải ngưng công việc một lần nữa, và lần
này mẹ anh nói rằng cha anh đã buôn bán quần áo. Anh bắt
đầu làm người buôn quần áo, và chẳng mấy chốc đã có
thể đưa cho mẹ mười sáu karsa mỗi ngày. Nhưng một lần
nữa anh bị buộc bỏ việc vì những người buôn quần áo
khác.
Khi
được biết cha thuộc giai cấp buôn châu báu, anh bắt đầu
buôn ngọc và đem về cho mẹ ba mươi hai karsa mỗi ngày. Sau
đó, những người buôn ngọc khác nói với anh là anh thuộc
giai cấp những người đi tìm ngọc từ những chuyến đi biển
và đây mới là công việc mà anh được sinh ra để làm.
Khi
về nhà ngày hôm đó, anh nói với mẹ: “Con thuộc về giai
cấp những người đi tìm châu báu. Vì thế con quyết định
vượt đại dương để tiếp tục công việc buôn bán của
riêng con!”
“Đúng
là con thuộc giai cấp những người đi tìm châu báu,” bà
mẹ nói, “nhưng cha con và tất cả tổ tiên của con đều
chết trên biển trong khi đi tìm ngọc. Nếu con đi, con cũng
sẽ chết. Thôi con đừng đi! Hãy ở lại nhà và buôn bán
tại đây.”
Nhưng
Ái Nữ không thể vâng lời mẹ. Anh chuẩn bị mọi thứ cần
thiết cho chuyến đi. Khi bắt đầu lên đường, mẹ anh không
thể nào chia tay với anh được, bà nắm lấy viền áo anh
và khóc. Anh ta nổi giận.
Anh
la lên: “Nước mắt của mẹ sẽ đem lại vận rủi cho con
trong chuyến vượt đại dương!” anh đá vào đầu mẹ rồi
bỏ đi.
Trong
cuộc hành trình dài, tàu của anh ta bị đắm và hầu như
toàn bộ thủy thủ bị chết đuối, nhưng Ái Nữ nhanh tay
nắm được một miếng ván và bị đánh dạt vào bờ trên
một hòn đảo. Anh đi tới một thành phố tên là Hoan Hỉ.
Trong một ngôi nhà đẹp làm bằng kim loại và ngọc quý, bốn
vị thiên nữ xinh đẹp xếp những tấm nệm lụa cho anh ngồi
và dâng cho anh ba loại thực phẩm trắng và ba thực phẩm
ngọt.
Khi
anh chuẩn bị về, họ cảnh báo, “Đừng đi về hướng Nam.
Đại bất hạnh sẽ xảy ra cho anh nếu anh cứ đi!” Nhưng
Ái Nữ không nghe và lên đường.
Anh
đến một thành phố gọi là Hân Hoan, thậm chí còn đẹp
hơn thành phố trước. Ở đây tám phụ nữ xinh đẹp phục
vụ anh. Như lần trước, họ báo cho anh biết rằng đại hoạ
đang đe doạ anh nếu anh đi về hướng Nam nhưng anh không chú
ý và lên đường lần nữa.
Ở
một thành phố được gọi là Nhiễm Độc thì còn hoàn hảo
hơn những nơi khác, anh được mười sáu thiên nữ cực kỳ
xinh đẹp chào đón, họ phục dịch anh và cũng như những
lần trước, họ cảnh báo anh, nhưng một lần nữa lời cảnh
báo ấy chẳng có hiệu quả gì.
Anh
tiếp tục cuộc du hành và chợt nhìn thấy một pháo đài
trắng mà chóp đỉnh của nó vươn tới tận trời cao. Nó
được gọi là Lâu Đài của Đạo Sư Phạm Thiên (Guru Brahma),
và ở đó ba mươi hai thiên nữ xinh đẹp mê hồn mời anh
vào. Họ sửa soạn cho anh một giường có nệm bằng lụa,
phục vụ ba món thực phẩm trắng và ba món thực phẩm ngọt
và van nài anh ở lại. Nhưng anh vẫn muốn đi.
Khi
anh bắt đầu lên đường, họ nói: “Cho dù Ngài đi đâu,
hãy tránh hướng Nam! Tai họa sẽ giáng xuống Ngài.”
Nhưng anh cảm thấy một sự thôi thúc phải đi về phương
Nam, và anh đi về hướng đó.
Chẳng
bao lâu một tòa thành bằng sắt hiện ra trước mặt anh, những
tháp của nó cao vút lên tận bầu trời. Tại cổng, anh thấy
một người da đen với đôi mắt đỏ ngầu đáng sợ, tay
cầm thanh sắt dài. Ái Nữ hỏi ông ta trong lâu đài có gì,
nhưng người đàn ông chỉ im lặng. Khi đến gần hơn, anh
thấy nhiều người đàn ông giống người đầu tiên. Một
cảm giác khủng khiếp lan khắp thân thể làm tóc anh dựng
lên.
Anh
tự bảo: “Nguy hiểm! Đây hẳn là sự nguy hiểm mà họ đã
báo cho ta.”
Anh
đi vào trong. Ở đó anh thấy một người mà óc bị nghiền
thành bột bởi một bánh xe thép đang quay trên đầu anh ta.
“Anh
làm điều gì mà phải chịu trừng phạt như vậy?” Ái Nữ
hỏi.
“Tôi
đã đá vào đầu mẹ tôi, và đây là nghiệp trổ quả. Nhưng
còn bạn? Tại sao không hưởng hạnh phúc mà người ta dâng
tặng anh ở Lâu Đài Đạo Sư Phạm Thiên? Tại sao lại đến
đây để tìm kiếm đau khổ?”
“Tôi
tin rằng mình bị đẩy đến đây cũng là do nghiệp của tôi,”
Ái Nữ nghĩ.
Vào
lúc đó, từ trên bầu trời có một giọng nói lớn: “Hãy
để những người đang bị trói được tự do, và những kẻ
tự do bị trói lại!”
Bánh
xe thép bất ngờ quay trên đầu Ái Nữ. Giống như người
kia, óc anh bị vỡ nát thành bột nhão và anh chịu đựng nỗi
đau đớn và khốn khổ không tả xiết. Sự đau khổ này đánh
thức trong lòng anh một cảm thức bi mẫn mãnh liệt đối
với tất cả những người đang ở trong tình trạng như
anh.
Anh
nghĩ: “Trong các cõi luân hồi có những chúng sinh khác đang
chịu đau khổ như tôi vì họ cũng đã đá vào đầu mẹ của
họ. Cầu mong nỗi khổ của họ trổ quả trong tôi và cầu
mong chỉ một mình tôi chịu đựng nỗi khổ đó thay cho tất
cả. Cầu mong sẽ không còn ai phải trải qua nỗi đau khổ
như thế trong bất kỳ đời nào trong chuỗi tái sinh liên tục
của họ.”
Đột
nhiên, bánh xe bay lên không trung, nỗi thống khổ của anh chấm
dứt và anh bay lên tới độ cao của bảy cây dừa trong một
trạng thái đại lạc.
Thực
hành Bồ Đề Tâm bằng phương pháp hoán đổi mình với người
khác là phương pháp tối cao và hết sức cần thiết để
đạt được giác ngộ. Thật vậy, các Đạo Sư Kadampa trong
quá khứ thường lấy đó làm pháp tu tập chính yếu. Có lần
Geshe Chekawa, bậc thông suốt nhiều giáo lý của cả hai truyền
thống Tân và Cựu và là bậc đã nhập tâm nhiều bản văn
luận lý, tới thăm Geshe Chakshingwa. Ở trên gối của vị này,
ông nhìn thấy một bản văn nhỏ, và khi mở nó ra ông tình
cờ đọc được câu này:
Hãy
hiến tặng lợi lạc và vinh quang cho người khác.
Hãy
nhận lãnh thua thiệt và thất bại cho chính mình.
“Thật
là một giáo lý tuyệt vời!” Chekawa nghĩ, và hỏi Chakshingwa
giáo lý này tên gì.
“Đó
là Tám Bài Kệ Luyện Tâm của Langri Thangpa,”
Chakshingwa
nói.
“Ai
đã thuyết những giáo huấn này?”
“Chính
Ngài Langri Thangpa.”
Chekawa
quyết định thọ lãnh những giáo lý này. Trước hết, ông
tới Lhasa và dùng một vài ngày để đi nhiễu quanh những
thánh địa. Một buổi chiều, một người cùi ở Langthang
nói với ông rằng Langri Thangpa đã viên tịch. Chekawa hỏi
ai là người thừa kế dòng truyền thừa và được cho biết
là hai người có khả năng kế vị, đó là Shangshungpa và Dodepa,
nhưng họ có thể không đồng ý về chuyện này. Tuy nhiên
họ không cãi cọ vì tranh giành nhau.
Shangshungpa
nói với Dodepa: “Ông là người lớn tuổi hơn, ông nên kế
vị. Tôi sẽ phụng dưỡng ông như thể ông chính là
Ngài Langri Thangpa!”
Nhưng
Dodepa trả lời: “Ông uyên bác hơn. Ông nên làm người kế
vị!”
Mặc
dù cả hai nhìn nhau bằng tri giác thanh tịnh, Chekawa giải thích
việc họ không tán thành việc kế thừa là một sự thiếu
sót và cho rằng cả hai đều không phải là người trì giữ
giáo lý của Ngài Langri Thangpa. Ông cố gắng tìm cho ra người
trì giữ xuất sắc nhất, và mọi người nói với ông rằng
người đó là Sharawa.
Sharawa
đang ban một giáo lý gồm nhiều quyển sách cho hàng ngàn người
trong Tăng đoàn. Chekawa lắng nghe Ngài trong vài ngày, nhưng
không nghe Ngài nói một lời nào về giáo lý mà ông đang tìm
kiếm.
“Dường
như vị này cũng không có được giáo lý đó,” ông nghĩ,
“nhưng ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài có giáo lý này, ta sẽ
ở lại. Còn không, tốt hơn ta nên đi.”
Vì
thế Chekawa tới gặp Sharawa, Ngài đang nhiễu quanh một bảo
tháp. Ông trải một tấm vải lên mặt đất và mời Sharawa
ngồi một lát và nói: “Con có một số việc muốn hỏi Ngài.”
“Đại
Đức,” Sharawa nói, “ông cần hỏi vấn đề gì? Về phần
ta, ta luôn tìm mọi câu trả lời trên gối thiền của mình.”
“Con
đọc được những lời này trong một bản văn: ‘Hãy hiến
tặng lợi lạc và vinh quang cho người khác. Hãy nhận lãnh
thua thiệt và thất bại cho chính mình.’ Con rất thích những
lời này. Đây có phải là một giáo lý sâu xa hay không?”
“Đại
Đức,” Ngài Sharawa trả lời, “dù thích hay không thích giáo
lý này, nhưng nếu ông muốn đạt được Phật Quả thì ông
không thể bỏ qua giáo lý ấy.”
“Có
phải Ngài đang trì giữ giáo lý này?”
“Đúng,
đó là pháp tu chính yếu của ta,” Ngài Sharawa trả lời.
“Vậy
thì con cầu khẩn Ngài dạy cho con,” Chekawa nói.
“Ông
có thể ở lại đây với ta trong một thời gian dài hay không?”
Ngài Sharawa hỏi, “Nếu ông có thể ở lại thì ta sẽ dạy
cho ông.”
Từ
Ngài, Chekawa nhận được những hướng dẫn dựa trên kinh
nghiệm của Ngài144 trong một tiến trình liên tục huấn luyện
tâm thức kéo dài sáu năm. Qua việc thực hành giáo lý trên,
ông đã có thể giải thoát hoàn toàn khỏi mọi dấu vết
của tâm vị kỷ.
Để
xua tan bệnh tật và những đau khổ trong đời này và để
chế ngự những tinh linh, những thế lực xấu ác và những
kẻ gây nên chướng ngại, không có giáo huấn nào tốt hơn
phương pháp thiền định Bồ Đề Tâm hoán đổi mình và người
khác. Hãy thiền định về điều này với sự kiên trì, luôn
luôn từ bỏ thuốc độc tâm thức tiêu cực, thứ thuốc độc
đem lại cho bạn quá nhiều tánh tự kiêu cho mình là quan trọng.
1.3
COI NGƯỜI KHÁC QUAN TRỌNG HƠN MÌNH
“Tôi
có thể ở trong vòng luân hồi, tôi có thể bị đọa vào
trong địa ngục, tôi có thể bị bệnh tật, bồn chồn xúc
động, hay đau khổ vì bất kỳ sự bất hạnh nào khác, nhưng
tôi sẽ chịu đựng tất cả những điều đó. Cầu mong cho
đau khổ của người khác trổ quả trong tôi! Cầu mong những
chúng sinh khác có được mọi hạnh phúc và mọi quả tốt
của những thiện hạnh của tôi!”
Hãy
khơi dậy tư tưởng này từ tận sâu thẳm trong tâm bạn và
hãy thực sự đưa chúng vào thực hành, noi theo gương của
những vị Thầy của Ngài Atisa, là các Ngài Maitriyogi và Dharmaraksita,
và của Đạo Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta trong những kiếp
tái sinh làm Vua Padma, làm một con rùa và làm Vua Manicuda.
Có
lần, Ngài Maitriyogi, Thầy của Atisa, đang thuyết giảng Giáo
Pháp thì một người đàn ông ở gần đó ném đá vào một
con chó. Vị Đạo Sư đang ngồi trên ngai la lên đau đớn và
ngã xuống đất. Những người hiện diện không nhìn thấy
việc xảy ra cho con chó nên nghĩ rằng Ngài giả vờ. Nhưng
Ngài Maitriyogi biết được điều họ đang nghĩ, Ngài cho họ
thấy trên lưng Ngài rõ ràng có một vết sưng do hòn đá ném
vào con chó. Chứng cớ này đã thuyết phục được mọi người
có mặt ở đó: Ngài đã nhận vào thân mình nỗi đau đớn
của con chó khi bị ném đá.
Khởi
đầu, Đạo Sư Dharmaraksita là một học giả Thanh Văn của
phái Vaibhasika. Mặc dù vào lúc đầu đời, Ngài chưa bao giờ
được nghe giáo lý Đại Thừa, nhưng Ngài phát khởi lòng
mến mộ tự nhiên đối với truyền thống Đại Thừa, và
Ngài tràn đầy lòng bi mẫn mà không cần bất kỳ nỗ lực
hay dụng công nào.
Một
lần kia, một người trong vùng Ngài đang sống lâm trọng bệnh
mà thầy thuốc bảo rằng chỉ có thể được chữa lành bằng
một loại thuốc – đó là thịt tươi. Nếu không tìm được
nó thì không hy vọng gì.
“Nếu
thế thì tôi sẽ cho thịt của tôi,” Dharmaraksita nói, và
cắt một ít thịt ở đùi đưa cho người bệnh; họ ăn và
khỏi bệnh.
Kết
quả là bởi vì chưa chứng ngộ tánh Không nên Dharmaraksita
bị đau đớn dữ dội, nhưng tâm đại bi của Ngài đã chặn
đứng bất kỳ cảm giác hối tiếc nào của Ngài.
“Bạn
có cảm thấy khoẻ hơn không?” Ngài hỏi người bệnh.
“Vâng,
tôi khoẻ rồi, nhưng hãy nhìn những đau đớn khổ sở tôi
đem lại cho Ngài!”
“Thậm
chí tôi sẵn sàng chịu chết nếu điều đó có thể đem lại
hạnh phúc cho bạn,” Ngài Dharmaraksita nói.
Tuy
nhiên Ngài đau đớn tới nỗi không ngủ được. Cuối cùng,
Ngài lơ mơ ngủ được một lát và có một giấc mơ.
Một
người đàn ông màu trắng toát hiện ra nói với Ngài: “Bất
kỳ ai muốn đạt được giác ngộ đều phải trải qua những
thử thách như ngươi. Hoàn hảo! Hoàn hảo!” rồi người
đàn ông nhổ vào vết thương và lấy tay chà xát. Vết thương
biến mất, hoàn toàn không để lại dấu vết.
Khi
Dharmaraksita thức dậy, Ngài thấy vết thương đã hoàn toàn
lành lặn. Người đàn ông màu trắng chính là Đức Đại
Bi.145 Sau đó, sự chứng ngộ đích thực về trạng thái bản
nhiên đã ló rạng trong tâm Dharmaraksita và những lời vàng
của Trung Quán Luận của Đức Long Thọ luôn ở trên
môi Ngài.
Thời
xa xưa, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong một đời trước
là một vị Vua tên là Padma, có một trận dịch trầm trọng
bột phát trong đám thần dân của Ngài và nhiều người đã
chết. Nhà vua mời những vị thầy thuốc tới và hỏi họ
cách chữa trị ra sao.
“Bệnh
này chỉ có thể chữa khỏi bằng thịt cá rohita,” họ nói.
“Nhưng cơn bệnh đã che mờ tâm trí chúng tôi tới nỗi chúng
tôi không thể nghĩ ra cách chữa trị nào khác.”
Vào
buổi sáng của một ngày tốt lành, nhà vua tắm rửa, mặc
quần áo mới và cử hành một nghi lễ sám hối và tịnh hóa.
Ngài thực hiện lễ cúng dường thịnh soạn cho Tam Bảo và
cầu nguyện nhiệt thành, Ngài nói: “Ngay khi con chết, cầu
mong con được lập tức tái sinh thành một con cá rohita sống
trong sông Nivritta!”
Sau
đó, Ngài lao mình xuống từ cung điện cao một ngàn cubit (khoảng
450m) – và ngay lập tức được tái sinh thành một con cá,
thét lên bằng giọng người: “Ta là một con cá rohita, hãy
lấy thịt ta và ăn đi!”.
Mọi
người đến để ăn. Ngay khi một bên thân nó đã được
ăn, con cá liền lật sang và mời họ ăn tiếp thân bên kia.
Khi họ đang cắt thịt, phần thân đầu tiên trở lại đầy
như cũ. Bằng cách này, khi tuần tự ăn từng bên thân cá,
những ai bị bệnh đều có thể được chữa khỏi. Sau đó,
con cá nói với tất cả mọi người rằng:
“Ta
là Padma, vua của các người. Ta đã từ bỏ thân mạng để
tái sinh thành một con cá rohita cứu các người khỏi bệnh
dịch. Để biểu lộ lòng biết ơn của các người đối với
ta, hãy từ bỏ những hành động xấu ác và làm mọi điều
thiện mà các người có thể.”
Tất
cả đều vâng lời Ngài và từ đó không bao giờ còn rơi
vào vòng tái sinh ở các cõi thấp nữa.
Một
lần khác, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái sinh làm một con rùa
khổng lồ, lúc đó một chiếc thuyền chở năm trăm nhà buôn
bị đắm giữa biển.
Tất
cả đều sắp chết đuối thì con rùa gọi họ bằng giọng
người: “Hãy trèo lên lưng ta! Ta sẽ đưa tất cả các ngươi
tới nơi an toàn!”.
Con
rùa đem những nhà buôn này đến vùng đất khô ráo, sau đó
kiệt sức qụy ngã bên bờ biển, và ngủ thiếp đi. Nhưng
khi nó ngủ, một đám mây gồm tám mươi ngàn con ruồi ketaka
bay đến và bắt đầu hút máu con rùa. Khi tỉnh dậy, nó nhìn
thấy ruồi đông vô kể và nhận ra rằng nếu nó lặn xuống
nước trở lại hay bò lên mặt đất thì những con ruồi sẽ
chết. Vì thế nó cứ nằm yên đó, hiến tặng thân mạng
nó cho những con ruồi.
Sau
này khi con rùa đã thành Phật thì đàn ruồi ấy trở thành
tám mươi ngàn vị Trời lắng nghe giáo lý của Ngài và lãnh
hội được chân lý.
Trong
một dịp khác, Đức Phật tái sinh ở xứ Saketa thành con trai
của vị Vua Chỏøm Vàng cùng hoàng hậu Sắc Đẹp Làm Hoan
Hỷ. Nơi đỉnh đầu của cậu bé là một nhục kế146 chứa
một viên ngọc báu, từ đó chảy ra một chất cam lồ có
năng lực biến sắt thành vàng. Vì lý do này cậu được gọi
là Manicuda, “Chỏm Ngọc.” Khi cậu bé sinh ra, một trận
mưa gồm đủ loại châu báu đổ xuống. Trong số của cải
của cậu có một con voi lộng lẫy tên là Núi Tuyệt Hảo.
Là vua, Ngài chỉ đạo những công việc thế gian phù hợp
với Giáo Pháp, luôn phân phát của bố thí cho người nghèo,
nhờ đó chấm dứt được sự nghèo khổ và ăn xin.
Một
nhà hiền triết (risi) tên là Brighu gả con gái cho Ngài. Cô
sinh ra từ hoa sen và có mọi điềm lành. Từ sự kết hợp
này, một đứa con trai giống như cha ra đời, và người ta
gọi cậu là Chỏm Hoa Sen.
Atisa
(982 - 1054)
Học
giả Ấn Độ vĩ đại của đại học viện Vikramasila, đã
trải qua mười năm cuối đời mình tại Tây-Tạng, ở đó
Ngài giảng dạy giáo lý chú trọng vào hai pháp môn căn bản
là (1) quy y và (2) rèn luyện tâm thức nương vào lòng từ
và bi.
Một
ngày nọ, nhà vua quyết định tổ chức một lễ cúng dường
lớn và mời nhiều vị khách, trong số họ có risi Brighu và
một vị vua tên Dusyanta, Khó-Kham Nhẫn. Khi ấy Vua Trời Indra
(Đế Thích) muốn thử ý định của Vua Chỏm Ngọc nên mang
thân tướng của một Dạ Xoa (raksasa). Ông nhảy ra khỏi đồ
cúng lửa và đi tới nhà vua, yêu cầu thực phẩm và nước
uống. Nhà vua tặng Ông đủ loại món ăn và thức uống, nhưng
Ông từ chối tất cả.
“Tất
cả những cái tôi cần,” Ông nói với nụ cười mỉm, “là
thịt và máu còn ấm của một người vừa bị giết!”
Nhà
vua hơi giật mình. “Ta không thể làm được việc này mà
không làm tổn hại người khác,” Ngài nghĩ. “Cho dù ông
ta giết ta, ta sẽ không bao giờ làm hại người khác. Tuy nhiên,
trừ khi ta cho ông ta những gì ông ta cần, còn không thì mọi
hy vọng của ông ta sẽ bị đổ vỡ. Ta sẽ làm gì?”
Lúc
đó, Nhà vua quyết định đã tới lúc cúng dường chính máu
và thịt của mình và nói: “Tôi sẽ cho ông máu và thịt
của chính tôi.”
Sự
hoảng loạn lan khắp tập hội và họ cố gắng thuyết phục
Vua, nhưng không có hiệu quả. Nhà vua cắt tĩnh mạch cổ để
cho máu. Dạ Xoa uống máu no nê rồi cắt những miếng thịt
của Vua và quỷ ma ăn thịt cho đến tận xương. Quyến thuộc
của Nhà vua buồn bã. Hoàng hậu ngã bất tỉnh trên mặt đất.
Nhưng Nhà vua vẫn làm chủ được năng lực của mình và Trời
Indra trở nên cực kỳ hoan hỷ.
“Ta
là Vua Trời Đế Thích,” Ông ta nói. “Ta không cần thịt
và máu vì thế Ngài có thể ngưng hành vi nhân đức của Ngài
lại.” Ông bôi chất cam lồ linh thánh lên những vết thương
trên thân nhà vua khiến vua hồi phục như trước.
Về
sau, Vua Chỏm Ngọc ban con voi Núi Tuyệt Hảo cho quan thượng
thư của Ngài tên là Cỗ xe của Brahma. Vào lúc đó một trong
những đệ tử của risi Marici tới, risi Marici là người đã
thành tựu trong thiền định. Nhà vua đón tiếp ông ta với
lòng tôn kính sâu xa và hỏi ông ta cần gì.
“Để
tỏ lòng biết ơn vị thầy đã dạy tôi kinh Veda, tôi muốn
dâng cho thầy tôi một người hầu, vì hiện tại thầy tôi
đã già và không còn ai. Tôi tới xin vợ và con Ngài.”
Vì
thế nhà vua để cho vợ con của mình đi. Người đệ tử
cùng đi với họ và dâng họ cho thầy mình.
Trong
lúc đó, Vua Khó-Kham Nhẫn thèm muốn con voi. Khi về tới vương
quốc của mình, Vua gởûi một thông điệp yêu cầu rằng
con voi phải được đem trình diện vua. Vua được trình báo
kịp thời là con voi đã được đem cho một người bà la môn.
Nhưng nhà vua không nghe và đe dọa sẽ có chiến tranh nếu
không giao voi. Khi địch quân tiến đến, Vua Chỏm Ngọc cảm
thấy một nỗi buồn sâu xa trong lòng.
“Đáng
buồn biết bao tính tham lam có thể biến người bạn thân
nhất thành kẻ thù dữ dội nhất chỉ trong chốc lát!” Ngài
nghĩ. “Nếu ta chuẩn bị chiến đấu, ta có thể dễ dàng
đánh bại ông ta. Nhưng nhiều người sẽ đau khổ, vì thế
ta phải trốn đi!”
Bốn
vị Phật Độc Giác xuất hiện và nói: “Đại Vương, đã
đến lúc Ngài vào rừng.”
Vì
thế Ngài đi tới Rừng Niềm Say Mê Của Người Khác, trong
khi những vị thượng thư của Ngài tới gặp Marici và hỏi
xin vị hoàng tử trẻ là người đã được tặng cho ông ta.
Marici trả lại hoàng tử và hoàng tử nắm quyền chỉ huy
quân đội và lâm chiến. Vua Khó-Kham Nhẫn bị thua trận và
bị buộc phải lui về, và những tư tưởng cùng những hành
vi xấu ác đã mang lại bệnh tật và đói kém cho vương quốc
của nhà vua.
Khi
vua Khó-Kham Nhẫn hỏi những người bà la môn của ông ta điều
gì có thể làm cho những tai họa này chấm dứt, họ nói:
“Phương thuốc đó là những viên ngọc của Vua Chỏm Ngọc.
Ngài nên xin nhà vua viên ngọc đó.”
“Nhưng
chắc chắn là ông ta sẽ từ chối,” Vua Khó-Kham Nhẫn nói.
Tuy
nhiên, những người bà la môn cứ khăng khăng nói rằng Vua
Chỏm Ngọc sẽ cho – bởi vua đã chẳng nổi danh là không
bao giờ từ chối một lời thỉnh cầu nào đó sao? Một người
bà la môn được phái đi để xin vua viên ngọc.
Vua
Chỏm Ngọc đang đi dạo trong rừng, nhìn quanh quẩn, và tới
gần ẩn thất của Marici. Cùng lúc đó, hoàng hậu ¬vợ Ngài
– đang tìm rễ và lá trong rừng không xa nơi đó, bị một
thợ săn tấn công.
“Vua
Chỏm Ngọc cứu tôi!” bà la lên.
Tiếng
kêu khóc từ xa của bà vang tới tai Vua Chỏm Ngọc, Ngài tự
hỏi điều gì xảy ra và đi tới xem. Người thợ săn thấy
Ngài đến gần, tưởng là vị risi. Sợ bị nguyền rủa, hắn
bỏ chạy. Một người như Hoàng hậu trước đây từng thụ
hưởng vô số tiện nghi của hoàng cung mà nay lâm vào cảnh
khốn cùng đến nỗi Vua Chỏm Ngọc phải bàng hoàng khi Ngài
nhìn thấy bà. “Buồn làm sao!” Ngài nghĩ. “Mọi sự duyên
hợp chẳng có gì xác thực.”
Đúng
lúc đó sứ giả bà la môn của Vua Khó-Kham Nhẫn đi tới.
Ông ta thuật lại cho Ngài câu chuyện và hỏi xin nhục kế
trên đầu Ngài.
“Hãy
cắt nó và lấy đi,” nhà Vua nói.
Người
bà la môn làm theo và ra đi. Mọi bệnh tật và đói kém đã
chấm dứt trong vương quốc của Vua Khó-Kham Nhẫn.
Khi
Vua Chỏm Ngọc chịu đựng nỗi đau đớn do vết thương của
Ngài gây ra, nó khơi dậy trong Ngài lòng đại bi đối với
tất cả chúng sinh trong các địa ngục nóng. Sau đó Ngài bất
tỉnh.
Trong
lúc đó, được thúc đẩy bởi những điềm lành xuất hiện,
nhiều người trong triều đình cũng như các vị trời đi tới.
“Ôi,
Đức Vua,” họ nói, “điều gì đã xảy ra?”
Nhà
vua ngồi dậy và chùi những vết máu trên mặt Ngài.
“Vua
Khó-Kham Nhẫn cho người tới xin ta nhục kế trên đầu vì
thế ta đã tặng nó cho ông ta,” Ngài trả lời.
“Điều
gì khiến Ngài làm như vậy?” họ hỏi.
“Ta
không cố giữ bất kỳ điều gì cho mình. Mong ước duy nhất
của ta là xứ sở của Vua Khó-Kham Nhẫn phải được cứu
thoát khỏi bệnh tật và nạn đói kém. Nhưng ta còn muốn
một điều nữa..”
“Đó
là gì?” họ hỏi.
“Có
khả năng che chở tất cả chúng sinh,” Ngài trả lời.
“Nhưng
Ngài không cảm thấy hối tiếc chút nào chứ?” họ hỏi.
“Không,
hoàn toàn không,” nhà vua nói.
“Nhìn
vẻ đau đớâøäå
n
tren mặt Ngai thì that khó có the tin điều Ngài nó
i.”
“Tốt”
nhà vua nói, “nếu ta thật sự không hối tiếc về việc
tặng nhục kế cho Vua Khó-Kham Nhẫn và quần thần của ngài,
thì cầu mong thân ta trở lại y như trước!”
Và
đó là điều đã xảy ra. Quần thần của Ngài van nài Ngài
trở lại cung điện, nhưng Ngài từ chối. Vào lúc đó, bốn
vị Phật Độc Giác lại xuất hiện.
“Bởi
Ông đã giúp cho kẻ thù quá nhiều rồi, thì tại sao lại
không giúp cho những bạn hữu?” các Ngài nói. “Bây giờ
ông nên trở về cung điện của mình.”
Nhà
Vua trở về cung điện, và đem lại lợi ích và hạnh phúc
cho thần dân của Ngài.
2.
Bồ Đề Tâm Hạnh:
Nương
Theo Giới Hạnh
Của
Sáu Pháp Toàn Thiện Siêu Việt (Lục độ ba-la-mật)
Năm
pháp đầu tiên trong sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ
ba-la-mật hay sáu ba-la-mật) – bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định – bao gồm tất cả các phương tiện
thiện xảo khác nhau.
Pháp
thứ sáu, trí tuệ, thuộc về pháp vun bồi trí huệ nguyên
sơ.147
2.1
BỐ THÍ SIÊU VIỆT (Bố thí ba-la-mật)
Bố
thí có thể áp dụng qua ba hình thức: bố thí vật chất (tài
thí), bố thí Pháp (Pháp thí), và bố thí sự che chở thoát
khỏi sợ hãi (vô uý thí).
2.1.1
Bố thí vật chất (Tài thí)
Có
ba loại bố thí vật chất: bố thí thông thường, đại bố
thí và đại bố thí phi thường.
Bố
thí thông thường. Điều này ám chỉ việc bố thí bất kỳ
vật chất nào, cho dù nó không nhiều hơn một nhúm trà hay
một chén bột lúa mạch. Nếu nó được bố thí với một
tác ý hoàn toàn thanh tịnh thì số lượng không quan trọng.
Sự Sám Hối Những Sa Sút nói về “kết quả tốt lành trong
tương lai của việc bố thí dù chỉ một muỗng thực phẩm
cho một chúng sinh trong cõi súc sinh.” Ta được biết rằng
Các Đấng Chiến Thắng, khéo léo lão luyện trong phương tiện
và với lòng đại bi quảng đại, có thể cứu giúp ngạ quỷ
nhiều như cát sông Hằng (Gange) chỉ với một giọt nước
hay một hạt lúa mạch bằng cách sử dụng oai lực của các
dharani,* các thần chú và những phương tiện khác.
Những
lễ cúng dường lửa -- đỏ và trắng, đem lại lợi ích to
lớn cho ngạ quỷ di chuyển khắp hư không. Mặt khác, những
tinh linh được nuôi dưỡng trên sự sống của những chúng
sinh khác có thể tạm thời thỏa mãn bằng mùi vị của thực
phẩm cúng dường được thiêu hoá (cúng dường lửa) và tâm
họ được giải thoát nhờ tặng phẩm của Giáo Pháp.** Kết
quả là những tinh linh đó không còn làm tổn hại người
khác, và do đó nhiều chúng sinh khác được bảo vệ, thoát
khỏi hiểm họa của cái chết. Điều này dẫn đến
pháp bố thí sự che chở thoát khỏi sợ hãi (vô uý thí),
vì thế thực hành cúng dường lửa bao gồm cả ba loại bố
thí.
*Một
loại thần chú dài được tìm thấy trong các Kinh điển. **
Trong nghi thức của một lễ cúng dường lửa (xem Thuật ngữ),
“bố thí Pháp” thường được bao gồm trong hình thức của
bài kệ tóm tắt giáo lý của Đức Phật, “Hãy từ bỏ ác
hạnh…,” được trích dẫn ở tiết 2.1.2 Bố thí Pháp trong
Chương này.
Vì
cả hai việc cúng dường lửa và torma nước đều dễ thực
hiện và rất hiệu quả nên hãy cố gắng thực hành đều
đặn và không gián đoạn. Thật là vô cùng tốt lành nếu
mỗi năm chúng ta cúng dường một trăm ngàn torma nước.
Khi
người ta nhận được một ít thực phẩm hay một ít tiền,
họ nắm chắc chúng trong tay bằng cái siết chặt của một
người đang hấp hối, và chẳng thể dùng chúng cho đời này
hay những đời sau. Cho dù họ có nhiều tới đâu chăng nữa
thì họ vẫn nghĩ là họ không có gì, và rên rỉ như thể
họ sắp chết đói. Cách cư xử như vậy có thể tức khắc
tạo nên một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm của cõi ngạ
quỷ, qua kết quả tương đồng với nguyên nhân.#
#
xem Phần Một, Chương Bốn, Mục I, tiết 2.2.2 Những kinh nghiệm
tương tự với nguyên nhân.
Hãy
tránh những thái độ như vậy và cố gắng rộng rãi quảng
đại, qua những hoạt động như cúng dường Tam Bảo và bố
thí cho các hành khất. Như Ngài Jetsun Mila đã nói:
Hãy
moi thực phẩm ra từ miệng bạn và cho đi như của bố thí.
Mặt
khác, nếu bạn để cho mình trở thành kẻ nô lệ cho tính
tham lam ích kỷ, thì cho dù bạn có tất cả của cải trong
thế gian nhưng dường như của cải đó vẫn không đủ cho
một người. Ngoài ra, không dám buông bỏ những gì bạn có,
bạn tự nhủ rằng bất kỳ những gì bạn sắp sử dụng
để cúng dường hay bố thí cho người nghèo khó, sau này bạn
sẽ phải tìm kiếm ra lại để bù đắp vào, hoặc tiền của
ấy phải đến từ một nơi nào khác.
Nói
chung, Đức Phật dạy pháp bố thí vật chất và pháp bố
thí sở hữu vật chất chủ yếu là để cho giới Bồ Tát
cư sĩ. Nếu bạn là một vị tăng hay ni, điều quan trọng
là đơn thuần giảm thiểu lòng ham muốn, học cách bằng lòng
với những gì bạn có, và thực hành tu tập ba nhánh của
con đường cao cấp (three-fold training of the higher path), quyết
tâm ẩn thất trên núi cao và ở những nơi cô tịch, vui vẻ
chấp nhận mọi gian khổ.
Một
số hành giả từ bỏ những tu tập tâm linh để lao mình vào
việc buôn bán, nông nghiệp hay những phương tiện sinh nhai
khác, và chất đống của cải qua thủ đoạn quỷ quyệt và
gian xảo. Họ chống chế rằng họ đang thực hành Pháp qua
việc cúng dường và đóng góp vào các chương trình từ thiện
bằng của cải mà họ đã kiếm được. Nhưng người ta nói
về những người ấy như sau:
Khi
Pháp không được thực hành phù hợp với Pháp thì ngay chính
Pháp có thể gây ra việc tái sinh vào đường dữ.
Cách
tiếp cận Pháp hay đến với Pháp của họ hoàn toàn vô giá
trị. Vì thế, điều tối ư quan trọng là luôn hài lòng với
những gì mình có.
Đại
bố thí. Điều này có nghĩa cho người khác bất cứù
thứ gì cực kỳ hiếm hoi hay quý báu đối với cá nhân bạn,
chẳng hạn như ngựa hay voi, hay thậm chí con trai hay con gái
của riêng bạn.
Đại
bố thí phi thường. Điều này ám chỉ việc hiến tặng
tứ chi, thân thể hay cuộc sống của chính bạn. Những tấm
gương sáng là Hoàng Tử Đại Dũng Cảm hiến thân mạng cho
một cọp cái đói khát. Tổ Long Thọ (Nagarjuna) cắt đầu
cho con trai vua Surabhibhadra,* và Công Chúa Mandabhadri cũng hiến
thân mạng cho một con cọp cái. Tuy nhiên, loại bố thí này
chỉ được thực hành bởi những vị đã đạt được một
trong những địa của Bồ Tát. Những người bình thường
không thể làm nổi những việc như thế.148 Tạm thời, trong
tâm thức bạn, hãy dâng hiến thân thể, cuộc sống và tài
sản của bạn cho lợi ích của những người khác, trong lòng
không chút mảy may tham luyến, và cầu nguyện rằng một ngày
nào đó bạn sẽ có đủ khả năng để thực sự bố thí
như vậy.
*
Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục III.
2.1.2
Bố thí Pháp (Pháp thí)
Điều
này có nghĩa là dẫn dắt người khác đến với việc thực
hành tâm linh bằng cách ban những quán đảnh, giảng Pháp,
trao truyền kinh văn và v.v.. Tuy nhiên, làm điều tốt cho người
khác trong khi tánh tham dục ích kỷ của chính mình vẫn chưa
biến mất thì sẽ chẳng khác nào một màn trình diễn.
Các
đệ tử của Ngài Atisa hỏi Ngài khi nào thì họ có thể giảng
dạy cho người khác, làm việc vì lợi ích của người khác
hay thực hiện pháp chuyển di thần thức cho người vừa mới
chết. Ngài trả lời như sau:
Ông
có thể dẫn dắt người khác một khi ông đã chứng ngộ
tánh
Không và phát triển khả năng thấu thị.
Ông
có thể làm việc vì lợi ích của người khác một khi
chẳng
còn gì để làm đối với lợi lạc của riêng ông.149
Ông
có thể thực hiện pháp chuyển di cho người chết một
khi
ông đã đi vào con đường của cái Thấy (Kiến
Đạo).
Ngài
cũng nói:
Thời
buổi suy đồi này không phải là lúc để khoe khoang;
Đã
tới lúc khơi dậy lòng cương quyết.
Không
phải là lúc để nắm giữ những địa vị cao;
Đã
tới lúc giữ một vị trí khiêm tốn.
Không
phải là lúc để có người hầu và đệ tử;
Đã
tới lúc sống trong cô tịch.
Không
phải là lúc để chăm sóc đệ tử;
Đãõ
tới lúc tự chăm sóc chính mình.
Không
phải là lúc để phân tích những ngôn từ;
Đãõ
tới lúc để quán chiếu yếu nghĩa.
Không
phải là lúc để đi rong;
Đãõ
tới lúc ở yên một chỗ.
Ba
Anh Em hỏi Geshe Tonpa rằng tu tập trong cô tịch hoặc giúp
đỡ
ngươi
khác bằng Giáo Pháp, cái nào quan trọng hơn. Geshe Tonpa trả
lời:
Đối
với một người sơ cơ không có kinh nghiệm tu tập lẫn kinh
nghiệm chứng ngộ thì thật vô ích khi cố gắng giúp đỡ
người khác bằng Giáo Pháp. Họ chẳng gia hộ được cho bất
kỳ một ai, giống như không có gì để rót ra từ một chiếc
bình rỗng. Những giáo huấn của họ vô vị và không có thực
chất, giống như ủ bia mà không nén hạt.
Một
số người ở giai đoạn phát nguyện, là những người đã
có hơi ấm150 của công phu tu tập nhưng chưa được kiên cố
vững chắc trong việc tu tập cho lắm, thì họ không thể
làm việc vì lợi ích của chúng sinh. Lực gia trì của họ
giống như thứ gì đó được rót từ bình này sang bình khác:
họ chỉ có thể đổ đầy cho người khác bằng cách làm
cạn kiệt chính mình. Những giáo huấn của họ giống như
một ngọn đèn được chuyền từ tay này qua tay khác: nếu
họ cho người khác ánh sáng thì họ sẽ ở trong bóng tối.
Nhưng
người đã đạt được một trong những quả vị của Bồ
Tát thì sẵn sàng làm việc vì lợi ích chúng sinh. Lực gia
trì của các vị ấy giống như năng lực của một chiếc
bảo bình như ý: họ có thể giúp tất cả chúng sinh mà không
bao giờ trở nên khô cạn. Những giáo huấn của các
vị ấy giống như một ngọn đèn đặt ở ngay trung tâm, từ
đó mọi người có thể bắt lấy ánh sáng mà ngọn đèn không
bao giờ bị lu mờ.
Do
đó, thời đại suy đồi này không phải là lúc để những
người bình thường giúp đỡ người khác một cách hời hợt
bề ngoài, mà đúng hơn là lúc để họ sống ở những nơi
cô tịch và tu luyện tâm thức trong lòng từ và bi của Bồ
đề Tâm. Đây là lúc tránh xa những cảm xúc ô nhiễm tiêu
cực. Khi một cây thuốc quý151 vẫn còn là một cây non chưa
tới lúc thu hoạch, thì đó là lúc phải bảo vệ nó.
Vì
những lý do này, thật là khó khăn để thực sự bố thí
Pháp cho người khác. Thuyết giảng một giáo lý cho người
khác mà bản thân chưa từng có kinh nghiệm về giáo pháp đó
thì sẽ chẳng giúp được gì cho họ. Đối với việc góp
nhặt những phẩm vật cúng dường và tài sản bằng việc
giảng Pháp, Ngài Padampa Sangye gọi đó là “sử dụng Pháp
như món hàng để làm giàu.”
Trừ
phi bạn đã vượt qua niềm ước muốn bất kỳ điều gì
cho chính bản thân mình, còn thì sẽ chẳng tốt lành gì hơn
khi vội vã lao vào những hoạt động vị tha. Thay vào đó,
hãy cầu nguyện rằng tâm thức của những tinh linh có thiện
căn có thể được giải thoát khi nghe bạn cầu nguyện, trì
tụng thần chú hay tụng đọc kinh điển. Hãy suy xét kỹ lưỡng
điều đó để có thể tụng những bài nguyện bố thí Pháp
được tìm thấy ở phần cuối của các bản văn nghi thức
torma nước hay cúng dường thân,152 chẳng hạn như:
Hãy
từ bỏ điều xấu
Năng
làm các hạnh lành.
Thường
làm chủ tâm mình.
Đây
là lời Phật dạy.
Khi
những tham dục ích kỷ của bản thân bạn đã cạn kiệt,
thì sẽ tới lúc để bạn hoàn toàn dâng hiến bản thân cho
người khác, không chút bận tâm về sự an toàn và hạnh phúc
của riêng mình và không lơi lỏng nỗ lực của bạn dù chỉ
trong giây lát.
2.1.3
Bố thí sự che chở khỏi sợ hãi (Vô Uý thí)
Điều
này có nghĩa là thực sự làm bất kỳ điều gì bạn có thể
làm được để giúp đỡ người khác trong lúc khó khăn. Chẳng
hạn, vô úy thí bao gồm việc cung cấp nơi trú ẩn cho những
người không có bất kỳ nơi nào an toàn, ban tặng sự che
chở cho những người không có bất kỳ sự che chở nào, và
đến với những người không có ai làm bạn đồng hành. Vô
uý thí đặc biệt đề cập tới những hành động như cấm
săn bắn và đánh bắt cá bất kỳ nơi nào bạn có khả năng
làm việc đó, hoặc mua lại những con cừu đang bị mang đi
làm thịt, và cứu mạng những con cá, những con sâu, ruồi
muỗi và những sinh vật sắp chết khác. Bởi Đức Phật đã
dạy rằng trong tất cả những hành vi tương đối tốt, cứu
mạng sống của chúng sinh là điều tốt đẹp nhất.
Việc
đồng loạt thực hiện những loại bố thí khác nhau tạo
thành một giới nguyện quan trọng nhất của các giới nguyện
của Mật Thừa. Trong Những Giới nguyện của Ngũ Bộ Phật
có nói:
Như
mật nguyện của Bảo Sanh Bộ,
Hãy
luôn thực hành bốn loại bố thí.
2.2
TRÌ GIỚI SIÊU VIỆT (Giới ba-la-mật)
Trì
Giới siêu việt bao gồm việc tránh làm những hành vi bất
thiện, quyết làm điều thiện, và đem lại lợi ích cho người
khác.
2.2.1
Tránh những hành động bất thiện
Điều
này có nghĩa là loại bỏ như loại bỏ thuốc độc tất cả
muời ác nghiệp của thân, khẩu và ý là những gì không nhắm
tới lợi ích cho người khác.153
2.2.2
Quyết làm việc thiện Điều này có nghĩa luôn tạo ra càng
nhiều càng tốt những hạt nhân tốt lành cho tương lai bằng
cách luôn làm bất kỳ thiện hạnh nào khi bạn có thể làm,
bất luận chúng có vẻ tầm thường vô nghĩa tới đâu chăng
nữa.
Như
tục ngữ bình dân có nói: “Thiện hạnh chỉ xảy ra khi miệng
và tay ta được giải phóng, còn ác hạnh xảy ra khi ta ngồi
một chỗ hay đi lòng vòng.” Chỉ bằng cách luôn luôn kiểm
soát tâm ta bằng chánh niệm, tỉnh giác, bằng sự chú tâm
cao độ, và bằng nỗ lực làm điều thiện, tự chế không
làm điều ác, là bạn có thể tránh không mắc phạm nhiều
ác hạnh trầm trọng – ngay cả khi bạn đang thuần túy mua
vui cho chính mình.
Làm
những ác hạnh nhỏ bé nhất,
Vì
tin rằng chúng không thể tác hại:
Nhưng
ngay cả một tàn lửa nhỏ
Có
thể đốt cháy một núi rơm.
Hãy
luôn luôn đưa lời khuyên này vào thực hành, áp dụngï chánh
niệm và tỉnh giác liên tục, và cuối cùng bạn sẽ tích
lũy được một khối lượng không thể tưởng tượng những
thiện hạnh trong tiến trình sinh hoạt hàng ngày của bạn.
Việc hoàn toàn tỏ lòng tôn kính khi đi ngang qua một đống
đá mani bằng cách giởû nón và nhiễu quanh đó theo chiều
kim đồng hồ, và ứng dụng ba phương pháp tối cao, những
điều này có thể đưa dẫn ta tới Toàn Giác chứ không còn
gì phải nghi ngại. Có câu nói rằng:
Không
làm những thiện hạnh nhỏ bé nhất,
Vì
tin rằng chúng khó giúp ích được ai:
Nhưng
từng giọt nước rơi
Sớm
hay muộn cũng làm đầy một hồ lớn.
Có
câu chuyện về một con heo bị con chó rượt chạy quanh một
bảo tháp, và câu chuyện khác về bảy con sâu bướm rơi khỏi
chiếc lá xuống một con suối và được dòng nước dẫn trôi
quanh tháp: rốt cuộc những sự kiện như thế đủ để đưa
những chúng sinh đó đi tới giải thoát.
Vì
thế hãy luôn từ bỏ hành vi ác hại nhỏ bé nhất; hãy làm
bất kỳ điều thiện nào bạn có thể làm và hồi hướng
tất cả công đức cho lợi lạc của chúng sinh. Điều này
bao gồm tất cả mọi giới luật của Bồ Tát nguyện.
2.2.3
Đem lại lợi lạc cho người khác
Như
chúng ta đã thấy, khi bạn hoàn toàn thoát khỏi lòng ham muốn
bất kỳ điều gì cho bản thân thì sẽ tới lúc để bạn
trực tiếp làm việc vì lợi ích của người khác, sử dụng
bốn cách nhiếp phục người khác (tứ nhiếp pháp). Nhưng
là một kẻ sơ cơ, cách đem lại lợi ích cho người khác
là hồi hướng mọi công phu thực hành của bạn trong khi thực
hiện các thiện hạnh và tránh làm những ác hạnh cũng vì
lợi lạc của tất cả chúng sinh. Tất cả những điều này
được thực hiện bằng cách áp dụng ba phương pháp tối
cao.
2.3
NHẪN NHỤC SIÊU VIỆT (Nhẫn ba-la-mật)
Nhẫn
nhục bao gồm ba phương diện: nhẫn nhục khi gặp bất công,
nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Giáo Pháp, và nhẫn
nhục đối mặt với chân lý sâu xa với tâm vô úy.
2.3.1
Nhẫn nhục khi gặp bất công
Loại
nhẫn nhục này nên áp dụng bất cứ khi nào bạn bị tấn
công, mất trộm hay thất bại, bị sỉ nhục vào mặt hay nói
xấu sau lưng. Thay vì khó chịu và phản ứng một cách giận
dữ thì bạn nên đáp lại một cách tốt lành với lòng từ
và bi. Nếu mất kiên nhẫn và chịu thua cơn giận dữ, thì
dù chỉ một lóe nhỏ thịnh nộ nổi lên là có thể hủy
hoại hết các quả lành của những thiện hạnh mà bạn đã
tích lũy trên một ngàn kiếp, như đã được đề cập trong
Nhập Bồ Tát Hạnh:
Thiện
hạnh tích lũy trong một ngàn kiếp,
Chẳng
hạn hạnh bố thí,
Hay
cúng dường các bậc đã chứng đại lạc:
Chỉ
một tia giận dữ loé lên là thiện hạnh bị thiêu huỷ. 154
Ngoài
ra:
Không
xấu ác nào như sân hận,
Không
khổ hạnh nào sánh được nhẫn nhục.155
Vì
thế, hãy tắm mình trong nhẫn nhục -
Bằng
mọi cách với lòng nhiệt thành khẩn thiết.
Hãy
nhớ tới những tật bệnh mà sân hận mang lại, hãy nỗ lực
vun bồi nhẫn nhục trong mọi hoàn cảnh. Ngài Padampa Sangye
nói:
Thù
ghét kẻ địch là một mê lầm gây ra bởi nghiệp. Hãy chuyển
hóa tư tưởng xấu xa của quý vị, hỡi dân chúng xứ Tingri!
Và
Ngài Atisa nói:
Không
nên tức giận những người làm hại bạn.
Nếu
nổi giận với những người làm hại mình,
Thì
khi nào bạn mới trau dồi được nhẫn nhục?
Bất
cứ khi nào có ai làm hại bạn, lăng mạ hay buộc tội bạn
một cách sai lầm, nếu bạn không bị mất bình tĩnh hay để
tâm thù hằn người đó, thì kết quả là nhiều ác hạnh
và chướng ngại trong quá khứ của bạn sẽ vơi cạn. Nhờ
phát triển tánh nhẫn nhục trong những tình huống như thế,
bạn có thể tích lũy được rất nhiều công đức. Vì thế
hãy coi những người đã đối xử bất công với bạn như
những vị thầy của mình. Có câu nói rằng:
Nếu
không có người làm bạn nổi sân, thì bạn có thể trau dồi
hạnh nhẫn nhục với ai?
Ngày
nay, chúng ta thường nghe nói rằng một người nào đó là
một Lạt Ma hay một vị tăng sĩ chân chính nhưng lại có một
tính khí kém tệ. Nhưng trong thế gian không có điều gì tệ
hại hơn sân hận – vì thế làm sao có thể có người rất
tốt đồng thời lại có một tính khí kém tệ? Ngài Padampa
Sangye nói:
Bạn
không biết rằng một hành động phát sinh từ sân hận dù
trong khoảnh khắc thì còn tệ hại hơn một trăm hành vi phát
sinh từ tham dục.
Nếu
thực sự thấm nhuần giáo lý một cách đúng đắn, thì mọi
việc bạn làm, nói, và suy nghĩ phải mềm mại như bước
chân trên vải len và dịu nhẹ như súp tsampa hoà với bơ.
Nhưng rất có thể việc bạn có thể nhẫn nhục trở thành
một điều nghịch, và việc thực hành đức hạnh nhỏ bé
nhất mà bạn làm được, hoặc giới nguyện mà bạn giữ
được, sẽ khiến bạn cảm thấy rất hài lòng với chính
mình và bạn sẽ thổi phồng bạn lên với lòng kiêu hãnh.
Hoặc mỗi khi có ai nói với bạn chỉ một lời nhưng bạn
lại cực kỳ nhạy cảm với cách họ nói lên lời đó, và
bạn lại giận sôi lên bất kỳ lúc nào bạn nghĩ mình đang
bị nhục mạ hay chỉ trích. Tánh khí tự ái đó là một dấu
hiệu cho thấy tâm bạn và Pháp đi theo hai con đường riêng
rẽ và Giáo Pháp hoàn toàn không chuyển hoá được tâm bạn.
Geshe Chengawa nói:
Khi
chúng ta học tập, quán chiếu và thiền định, nếu bản
ngã
của chúng ta phát triển ngày càng lớn hơn, sự nhẫn
nại
của ta trở nên còn mỏng manh hơn cả da non của
một
đứa trẻ, và chúng ta cảm thấy dễ cáu kỉnh thậm chí
còn
hơn cả quỷ Tsang Tsen, thì đây chắc chắn là những
dấu
hiệu cho thấy công phu học tập, thiền định và quán
chiếu
của chúng ta đã đi sai hướng.
Hãy
luôn luôn khiêm tốn, ăn mặc giản dị, và đối xử tôn kính
với mọi người dù họ tốt, xấu hay tầm thường. Hãy điều
phục tâm bạn bằng Giáo Pháp, lấy từ và bi của Bồ Đề
Tâm làm nền tảng của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây
là điểm tối trọng yếu của tất cả con đường tu tập,
còn tốt lành gấp ngàn lần những cái thấy “tối thượng”
hay những loại thiền định “sâu xa nhất” mà chẳng làm
được điều gì tốt đẹp cho tâm thức.
2.3.2
Nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Đạo Pháp (Pháp
Nhẫn)
Vì
lợi ích của việc thực hành Đạo Pháp, bạn nên quên đi
cái nóng, lạnh và mọi khó khăn khác. Trong các Mật điển
có nói:
Ngay
cả phải đi qua hỏa ngục hay biển dao kiếm sắc nhọn,
Hãy tìm cầu Giáo Pháp cho tới khi bạn tắt hơi.
Phái
Kadampa cổ có bốn mục tiêu như sau:
Hãy
đặt tâm của bạn trên Pháp,
Hãy
đặt Pháp của bạn trên một cuộc đời khiêm tốn,
Hãy
đặt cuộc đời khiêm tốn của bạn trên sự suy nghiệm
về
cái chết,
Hãy
đặt cái chết của bạn trên một lỗ hang trống không,
trơ
trụi.
Ngày
nay, song song với những hoạt động thế gian, chúng ta nghĩ
là mình có thể thực hành Giáo Pháp mà chẳng cần chút xíu
quyết tâm hay kinh nghiệm gian khó nào, tiếp tục hưởng thụï
tiện nghi, sự trọng vọng và hạnh phúc. “Những người
khác có thể thực hiện được điều đó,” chúng ta kỳ
kèo như vậy, và nói một cách thán phục rằng “Đó là một
Lạt Ma xuất sắc, Ngài biết cách kết hợp Giáo Pháp và đời
sống thế gian.”
Nhưng
làm sao có thể có một cách thức kết hợp chặt chẽ Giáo
Pháp với đời sống thế gian? Những người tuyên bố là
mình đang làm điều đó có thể đang trải qua một cuộc sống
thế gian tốt đẹp, nhưng bạn có thể tin chắc rằng hiện
tại họ đangï không thực hành Giáo Pháp thuần tịnh. Tuyên
bố rằng bạn có thể vừa thực hành Giáo Pháp và vừa sống
cuộc sống thế gian cùng một lúc thì cũng giống như nói
bạn có thể may vá bằng một cây kim có hai mũi, đặt lửa
và nước vào chung một bình chứa, hay cưỡi hai con ngựa ở
hai hướng khác nhau. Tất cả những điều này hoàn toàn không
thể thực hiện được.
Đã
có một người bình thường nào vượt trội hơn đức Phật
Thích Ca Mâu Ni chưa? Ngay cả chính Ngài cũng không tìm ra cách
thức để thực hành Giáo Pháp và sống cuộc sống thế tục
song hành với nhau. Thay vào đó, Ngài bỏ lại vương quốc
sau lưng giống như nhổ bãi nước bọt, và đến sống ở
bờ Sông Ni Liên Thiền (Nairanjana), ở đó Ngài tu tập khổ
hạnh trong sáu năm, chỉ tự nuôi sống bằng một giọt nước
và một hột lúa mạch mỗi năm.
Còn
về Ngài Jetsun Milarepa? Trong lúc tu tập, Ngài không có thực
phẩm lẫn y phục. Ngài chẳng có gì để ăn ngoài rau tầm
ma, và toàn thân Ngài trở nên như bộ xương phủ một lớp
lông xanh lợt. Ai nhìn thấy Ngài cũng đều không hiểu Ngài
là người hay là quỷ. Việc Ngài thực hành tu tập Giáo Pháp
tới mức độ đó, thật kiên cường, hoàn toàn vui lòng chấp
nhận gian khổ, đã chứng minh một cách chắc chắn rằng không
thể đồng thời theo đuổi Giáo Pháp lẫn đời sống thế
gian cùng một lúc. Không lẽ nào Ngài Milarepa đã quá tuyệt
vọng đến nỗi không biết cách kết hợp tu tập và thế
tục hay sao?
Đại
thành tựu giả Melong Dorje đạt được thành tựu sau khi tu
luyện trong chín năm, không có gì để ăn ngoài vỏ cây lakhe.
Ngài Longchen Rabjam, Pháp Vương Toàn Trí của Giáo Pháp, chỉ
sống bằng hai mươi mốt viên thủy ngân trong nhiều tháng.*
Khi trời đổ tuyết, Ngài thường chui vào một bao vải thô
nhám mà Ngài vừa dùng làm nệm vừa làm quần áo.
*
Thuỷ ngân được dùng trong pháp tu bcud len (phápï trích chiết
tinh chất). Độc chất của nó được làm trung hoà và người
ta làm thành các viên thuốc. Các thiền giả sống bằng những
viên thuốc này, không dùng tới thực phẩm thông thường.
Tất
cả những bậc thành tựu giả trong quá khứ đạt được
thành tựu chỉ bằng cách tu tập với quyết tâm, bằng lòng
chấp nhận tất cả gian khổ, vứt bỏ mọi hoạt động thế
gian. Không một ai trong các Ngài đạt được giác ngộ bằng
cách thực hành Pháp song song với những hoạt động thông
thường của đời sống hàng ngày, hưởng thụ tiện nghi,
hạnh phúc và danh vọng. Ngài Rigdzin Jigmed Lingpa nói:
Khi
bạn gầy dựng cho mình một chỗ ở tiện nghi, thực phẩm
dồi dào, áo quần ấm cúng và có một đại thí chủ quảng
đại, thì bạn đã hoàn toàn nuôi dưỡng quỷ ma thậm chí
còn trước cả việc bắt đầu trau dồi Giáo Pháp.
Ngài
Geshe Shawopa nói:
Để
tu tập Pháp với lòng chân thành thì tham vọng trong đời sống
của bạn phải cùng kiệt. Vào lúc cuối của một cuộc đời
nghèo túng, bạn phải biết cách đối phó với cái chết của
mình. Nếu bạn có thái độ này, bạn có thể đoan chắc rằng
không có vị trời, ma quỷ hay con người nào còn có thể gây
ra những khó khăn cho bạn.
Ngài
Jetsun Milarepa đã từng hát:
Không
ai hỏi thăm nếu tôi bệnh;
Không
ai than khóc khi tôi chết:
Chết
cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là
tất cả những gì một yogi (hành giả du già) mong ước.
Không
một dấu chân ngoài cửa thất,
Không
dấu vết thịt thà bên trong:
Chết
cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là
tất cả những gì một yogi mong ước.
Không
ai tự hỏi tôi đã đi đâu,
Chẳng
có nơi chốn riêng biệt nào để đi.
Chết
cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là
tất cả những gì một yogi mong ước.
Thân
xác tôi có thể thối rữa và bị côn trùng ăn thịt,
Xương
cốt tôi bị ruồi nhặng rút rỉa;
Chết
cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là
tất cả những gì một yogi mong ước.
Do
đó, điều tối quan trọng là xem thường mọi ham muốn của
đời sống thế tục và tu tập bất chấp nóng, lạnh hoặc
bất kỳ những khó khăn nào khác.
2.3.3
Nhẫn nại đối mặt chân lý sâu xa với tâm vô uý
Bạn
nên cố gắng thọ nhận các giáo lý về trạng thái như nhiên
của tánh Không sâu xa, hay đặc biệt hơn, giáo lý trọng yếu
của Đại Viên Mãn Như Nhiên siêu việt mọi hoạt động và
mọi nỗ lực, hay giáo lý Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương
siêu việt về nhân quả của các thiện hạnh và ác hạnh,
hoặc giáo lý Tám Bài Kệ Vĩ Đại Tuyệt Vời... Hãy cố gắng
lãnh hội chân nghĩa của những giáo lý này mà không phát
sinh tà kiến.
Có
tà kiến hay chỉ trích những giáo lý này là điều được
gọi là “ác hạnh xoay lưng lại với Giáo Pháp.” Làm như
vậy, ta có thể bị đọa xuống đáy sâu của địa ngục
trong vô lượng kiếp. Như một bản văn sám hối có ghi:
Con
luôn sám hối vì đã phạm một hành vi thậm chí còn nguy hại
Hơn cả năm hành vi bị quả báo tức thời: đó là việc từ
bỏ Giáo Pháp.
Một
ngày nọ, hai vị tăng Ấn Độ có mười hai phẩm tính của
công phu tu tập chân chính tự đến trình diện trước Ngài
Atisa. Khi Atisa giảng cho họ rằng bản ngã là không có sự
hiện hữu nội tại [không có tự tánh], họ đều hài lòng.
Nhưng
khi Ngài giảng rằng các hiện tượng cũng không có hiện hữu
nội tại156 [không có tự tánh] thì họ kêu lên: “Thật kinh
khủng! Đừng nói những điều như thế!” và khi Ngài đọc
Tâm Kinh, họ bịt chặt tai lại.
Ngài
Atisa buồn bã nói với họ: “Trừ phi các ông tự tu tập
bằng lòng từ và bi của Bồ đề Tâm và sau đó phát triển
niềm xác tín về giáo lý sâu xa này, còn không thì chỉ với
những giới nguyện thanh tịnh của các ông sẽ chẳng dẫn
các ông tới đâu.”157
Vào
thời của Đức Phật, có nhiều vị tăng vô cùng kiêu mạn,
khi nghe Ngài giảng về tánh Không sâu xa đã ói máu ra mà chết,
và bị đọa vào các địa ngục. Một số những chuyện khác
đã kể lại những việc xảy ra tương tự.
Điều
quan trọng là phải có một mối quan tâm chân thành và tôn
kính nơi Giáo lý sâu xa và nơi những bậc thầy giảng dạy
những giáo lý này. Cho dù những giới hạn của tâm thức
bạn khiến bạn dửng dưng, nhưng tối thiểu bạn cũng đừng
bao giờ phê bình những giáo lý đó.
2.4
TINH TẤN SIÊU VIỆT (Tinh tấn ba-la-mật)
Có
ba loại tinh tấn: tinh tấn như áo giáp, tinh tấn trong hành
động và tinh tấn không thể ngưng nghỉ.158
2.4.1
Tinh tấn như áo giáp
Khi
bạn nghe những câu chuyện về cuộc đời của những bậc
Thầy vĩ đại, về chư Phật và Bồ Tát, về những công hạnh
các Ngài đã làm và những nỗi gian nan mà các Ngài đã trải
qua vì Giáo Pháp, bạn đừng để bị thối chí. Đừng bao
giờ nghĩ rằng các Ngài có thể thành tựu được tất cả
những gì các Ngài làm chỉ vì các Ngài là những vị Phật
và Bồ Tát, và bạn sẽ chẳng bao giờ làm được như vậy.
Thay vào đó, hãy nhớ rằng, chỉ bằng cách hành động theo
phương thức này mà tất cả các Ngài đã thành tựu như thế.
Vì bạn là đệ tử của các Ngài, cho dù bạn không thể làm
điều gì tốt hơn những gì các Ngài đã làm, bạn cũng không
có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo dấu chân của các
Ngài.
Nếu
vô cùng gian khó và kiên trì lại là điều cần thiết với
các Ngài như vậy, thì làm sao những điều như thế lại có
thể không khẩn thiết với chúng ta, trong khi chúng ta không
có được công phu tu tập liên tục từ vô thuỷ như các Ngài
và hiện nay lại còn đang bị đè nặng bởi những ác nghiệp
từ quá khứ?
Chúng
ta có tất cả những điều kiện tự do và thuận lợi của
kiếp hiện tại làm người. Chúng ta đã gặp được những
vị Thầy tâm linh chân chính và đang thọ nhận những giáo
huấn sâu xa. Giờ đây khi có được cơ hội này để thực
hành chân pháp một cách đúng đắn, chúng ta phải hứa nguyện
tự đáy lòng mình để thực hiện được như thế, và sẵn
sàng chấp nhận những gian khổ, gánh vác những gánh nặng,
và sẵn sàng hy sinh tính mạng mà không chút quan tâm đến
máu thịt của chính mình. Điều đó được gọi là tinh tấn
như áo giáp.*
*
“Cốt tuỷ của tinh tấn là hoan hỷ trong khi làm các thiện
hạnh.”NT
2.4.2
Tinh tấn trong hành động
Mỗi
lúc có ý định học tập và thực hành Giáo Pháp, có thể
bạn sẽ cứ trì hỗn việc đó tới ngày mai hay ngày mốt,
ngày này qua ngày khác suốt cả đời bạn. Bạn không thể
lãng phí cả một đời người chỉ toàn với những dự tính
thực hành. Ngài Druk Pema Karpo nói:
Kiếp
người giống như ở trong chuồng thú của kẻ đồ tể:
Cái
chết đến gần trong từng giây phút.
Nếu
bạn cứ chậm rãi trì hỗn hôm nay chờ qua ngày mai,
Thì
coi chừng niềm ân hận và nước mắt sẽ đến với bạn
bên
tử sàng!
Không
nên chờ đợi một lúc nào khác để thực hành. Hãy làm điều
gì đó để tu tập ngay lập tức, giống như một người nhát
gan nhìn thấy con rắn trong vạt áo mình, hay một vũ nữ có
mái tóc bị bén lửa. Hãy hoàn toàn từ bỏ những hoạt động
thế gian và tự hiến dâng cho việc thực hành Pháp ngay bây
giờ. Nếu không, bạn sẽ không bao giờ tìm ra thời gian –hoạt
động thế tục này sẽ tiếp theo sau bằng một hoạt động
thế tục khác, sẽ bất tận, giống như những gợn sóng trên
mặt nước. Chúng sẽ chỉ dừng lại khi bạn quyết định
dứt khoát dập tắt chúng. Như Đấng Toàn Giác Longchenpa nói:
Những
mối bận tâm thế gian không bao giờ chấm dứt cho tới khi
ta chết. Nhưng chúng chấm dứt khi ta buông bỏ chúng – bản
chất của chúng là như vậy.
Và:
Những
hoạt động của chúng ta giống như trò chơi con nít. Chúng
tiếp diễn chừng nào ta còn tiếp tục, chúng chấm dứt ngay
khi ta ngừng chơi.
Một
khi bạn cảm thấy muốn thực hành Giáo Pháp, đừng để sự
lười biếng và trì hỗn làm chủ bạn dù chỉ trong khoảnh
khắc. Hãy thực hành tu tập ngay lập tức, luôn thôi thúc
với những quán chiếu suy niệm về lẽ vô thường. Điều
đó gọi là tinh tấn trong hành động.
2.4.3
Tinh tấn không ngưng nghỉ
Không
nên cảm thấy thỏa mãn khi chỉ mới thực hiện một khóa
nhập thất nhỏ bé, hay thực hành được một vài pháp tu
hay đạt được một vài thành tựu, tụng đọc được một
ít bài cầu nguyện hay làm được một, hai việc tốt. Ngày
nào mà bạn còn sống, hãy hứa nguyện thực hành pháp, và
quyết định duy trì những nỗ lực của bạn với tất cả
sức mạnh bền bỉ của một dòng sông lớn cho tới khi bạn
đạt được Phật Quả viên mãn.
Những
bậc siêu phàm trong quá khứ đã nói rằng ta phải thực hành
giống như trâu yak đói đang ăn cỏ. Khi một con trâu yak giựt
mạnh một bụi cỏ thì mắt nó đã bị gắn dính vào bụi
kế tiếp. Cũng thế, trước khi bạn chấm dứt tu tập một
Pháp nào, hãy tự nhủ rằng ngay sau khi bạn kết thúc tu tập
pháp môn ấy, bạn sẽ bắt đầu một pháp môn mới.
Mỗi
ngày hãy cố gắng miên mật tu tập càng lúc càng mãnh liệt;
trong mọi lúc, không bao giờ để thân, khẩu và ý bạn rơi
vào sự lười nhác hay xa lìa Pháp dù chỉ trong chốc lát.
Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:
Khi
càng tới gần cái chết mà càng thực hành Pháp một
cách kiên định thì đó là dấu hiệu của một hành giả
không bị nhiễm sương giá.*
*
Sương giá, là thứ phá hoại vụ thu hoạch cây trái của ta,
tượng trưng cho những chướng ngại ngăn cản chúng ta không
đạt được mục đích.
Ngày
nay, có những người nổi tiếng là đại thiền giả hay Lạt
Ma xuất sắc, thường được nghe người ta nói: “Giờ đây
Ngài không còn cần lễ lạy, tụng đọc những bài cầu nguyện,
tích tập công đức và trí tuệ, hay cần tịnh hoá những
chướng ngại và những thứ tương tự.”
Chẳng
bao lâu, bản thân họ bắt đầu tin vào điều đó, và tự
coi mình là người rất quan trọng, không còn cần tới việc
tu tập này nữa. Nhưng, như Ngài Dagpo Rinpoche vô song nói:
Nghĩ
rằng mình không cần những điều như vậy chứng tỏ rằng
họ lại cần chúng hơn bao giờ hết.
Mỗi
ngày, Đại Sư Ấn Độ Dipamkara** đều bắt tay vào việc nhào
nặn các tsa-tsa. Chẳng mấy chốc tay Ngài dính đầy đất
sét.
**
Một danh hiệu khác của Ngài Atisa.
Những
đệ tử của Ngài nói: “Người ta đang bàn tán vì một bậc
thầy vĩ đại như Ngài mà tay lại dính bùn. Hơn nữa, bản
thân Ngài đang mệt mỏi. Sao không để cho chúng con làm việc
đó cho Ngài?”
Ngài
Dipamkara nói: “Các ông nói gì? Các ông cũng sắp bắt đầu
ăn dùm tôi phải không?”
Cho
tới khi bạn đạt được Phật Quả viên mãn, bạn vẫn còn
có những khuynh hướng và hành vi huân tập trong quá khứ cần
loại bỏ, và vẫn còn cần đạt được càng lúc càng nhiều
hơn những phẩm tính tâm linh. Vì thế không nên rơi vào biếng
nhác và tu tập một cách lơ là. Hãy tinh tấn thực hành Giáo
Pháp từ đáy lòng bạn, đừng bao giờ có cảm tưởng là
mình đã thực hành đầy đủ rồi.
Nói
chung, việc bạn có đạt được Phật quả hay không chỉ tùy
thuộc vào hạnh tinh tấn của bạn. Vì thế, hãy sử dụng
mọi nỗ lực để hành trì ba loại tinh tấn. Một người
với trí thông minh ngoại hạng nhưng chỉ có một chút tinh
tấn sẽ chỉ là một hành giả hạng thấp. Nhưng một người
ít thông minh mà lại tinh tấn phi thường thì sẽ trở
thành một hành giả thượng thừa. Không có chút tinh tấn
nào thì mọi phẩm hạnh sẽ trở thành vô dụng. Đấng Toàn
Giác Jigme Lingpa nói:
Không
có sự thông minh hay năng lực,
Chẳng
có của cải hay sức mạnh nào có thể giúp được
một
người không chút tinh tấn –
Anh
ta giống như một người chèo thuyền mà thuyền của
anh
Có
đủ mọi thứ trừ mái chèo.
Hãy
luôn luôn điều độ trong việc ăn uống. Hãy ngủ nghỉ quân
bình. Hãy miên mật, bền bỉ và liên tục. Hãy dụng tâm bạn
như một dây cung tốt, không chùng quá mà cũng không căng quá.
Nó sẽ giúp bạn thực hành tu tập thường xuyên.
2.5
THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆT (Định ba-la-mật)
Không
thể phát triển thiền định nếu trước tiên không từ bỏ
nhữngï kích động, từ bỏø những mối bận tâm làm ta sao
lãng, và không sống ở nơi cô tịch. Vì thế vào lúc ban đầu,
điều quan trọng là phải từ bỏ những xao lãng.
2.5.1
Từ bỏ những phóng dật
Bất
cứ những gì tụ rồi cũng sẽ tán. Cha mẹ, anh em, vợ chồng,
bạn bè và những mối liên hệ khác, thậm chí cả thịt,
xương của thân thể mà ta đã nhận lúc sinh ra – tất cả
sẽ đều đi tới chỗ ly tán. Hãy thấu suốt sự vô ích của
việc bám luyến vào những người thân yêu và bằng hữu phù
du, và hãy luôn luôn an trú trong cô tịch. Ngài Repa Shiwa O nói:
Phật
Quả chỉ hiện diện trong chúng ta chứ không ở đâu khác.
Mặc dù bằng hữu tâm linh hỗ trợ cho việc tu tập của chúng
ta, Nhưng nếu có hơn ba hay bốn người họp lại thì họ sẽ
đem tới tham luyến và sân hận.
Vì
vậy tôi sẽ chỉ ở một mình.
Mong
muốn cái này cái nọ là điều gây ra mọi phiền não cho chúng
ta. Chúng ta không bao giờ hài lòng với những gì mình có,
và càng giàu có thì chúng ta lại càng tham lam hơn. Như tục
ngữ có nói: “Đang giàu có nghĩa là đang nghèo túng.” Hoặc:
“Giống như những người giàu, càng có nhiều thì càng cần
nhiều,” và “Đánh mất kẻ thù, là đánh mất chính tài
sản của bạn.” Bạn càng sở hữu nhiều nguồn lợi, tiền
bạc và tài sản, thì bạn càng phải đối mặt với những
nguy hiểm do kẻ thù, kẻ trộm và v.v.. gây ra. Bạn có
thể tiêu phí cả cuộc đời bạn để thâu hoạch, bảo vệ
và gia tăng tài sản của mình. Điều này chỉ dẫn tới đau
khổ và những ác hạnh. Ngài Long Thọ (Nagarjuna) siêu phàm
đã nói:
Tích
lũy, bảo vệ và phát triển của cải sẽ khiến bạn kiệt
sức;
Hãy
hiểu rằng giàu có
chỉ
đem lại hư hoại và sự hủy diệt không cùng.
Cho
dù một người sở hữu tất cả những của cải và tài sản
trong thế gian, thì điều đó cũng chẳng làm thay đổi được
sự thực là họ chỉ cần thực phẩm và y phục đủ dùng
cho một người. Không chú ý tới những hành vi sai trái hay
đau khổ, không biết tới mọi lời phẩm bình, họ bỏ thí
cuộc đời hiện tại và ném bỏ những đời tương lai cho
gió cuốn đi; đối với của cải vật chất tầm thường
nhất, họ coi thường bất kỳ cảm giác xấu hổ, coi thường
sự thẳng thắn trung thực, bỏ qua tất cả mọi tư tưởng
khôn ngoan, thận trọng, bỏ qua mọi tôn kính Giáo Pháp hay
mật nguyện của họ. Sử dụng tất cả thời gian có được,
họ chạy theo thực phẩm, lợi nhuận và địa vị xã hội,
giống như những tinh linh lang thang săn tìm các bánh cúng (torma);
họ lãng phí toàn bộ cuộc đời họ mà chưa từng kinh nghiệm
ngay cả một ngày giải thoát, an lành hay hạnh phúc. Cuối
cùng, khi đã chất đống tất cả tài sản đó, họ có thể
phải trả một giá rất đắt cho nó bằng cả cuộc đời
họ và bị đâm hay bị bắn chết chỉ vì tiền bạc của
họ. Rồi thì những gì họ đã một đời tích lũy lại bị
kẻ thù và người khác tiêu xài. Tất cả là một sự lãng
phí. Nhưng hàng đống những ác hạnh cao như Núi Tu Di mà họ
tích luỹ để làm giàu thì vẫn còn dành riêng cho họ, và
sẽ khiến cho họ phải lang thang trong đáy sâu của những
cõi thấp, không bao giờ được tự do. Vì thế trong khi bạn
vẫn còn cơ hội, hãy sử dụng một ít sở hữu mà bạn có
thể có trong đời này để cung cấp cho những đời tương
lai. Hãy bằng lòng với một lượng thực phẩm đạm bạc
và quần áo đủ để tránh gió.
Những
người mà tham vọng của họ bị giới hạn vào cuộc đời
hiện tại, trong kinh văn gọi là “những người bạn ấu
trĩ”. Họ không hề biết ơn đối với bất kỳ sự giúp
đỡ nào mà bạn có thể dàn trải ra cho họ, và ngược lại
còn có thể làm hại bạn. Bất kỳ những gì bạn làm cho
họ đều không bao giờ đúng. Họ rất khó hài lòng. Nếu
bạn có nhiều hơn họ, họ ganh tị; nếu bạn có ít hơn,
họ khinh khi. Càng gần họ lâu thì những ác hạnh của bạn
càng gia tăng và thiện hạnh suy yếu dần. Hãy từ bỏ những
người bạn như vậy và hãy tránh họ thật xa.
Những
nghề nghiệp như thương mại, nông nghiệp, kỹ nghệ và nghiên
cứu thu hút bạn vào nhiều hoạt động, và cung cấp những
nguồn xao lãng vô tận. Những theo đuổi tầm thường này
làm bạn bận rộn thường xuyên vì những mục tiêu vụn vặt.
Dù bạn có nỗ lực tới đâu chăng nữa, chẳng cái nào trong
số đó có chút ý nghĩa nào. Trong tiến trình chiến thắng
đối thủ và biệt đãi bạn bè, sẽ không bao giờ có được
chấm dứt.
Hãy
từ bỏ tất cả những hoạt động và những xao lãng vô cùng
tận này, giống như nhổ nước bọt vào bãi rác. Hãy rời
bỏ quê nhà của bạn và hướng về những vùng đất xa lạ.
Hãy sống ở chân những vách đá với bạn đồng hành duy
nhất là những thú hoang. Hãy an định thân và tâm bạn trong
một trạng thái thư thản.159 Hãy chấm dứt tất cả mọi
quan tâm tới thực phẩm, quần áo hay bất kỳ những gì người
ta nói đến. Hãy trải cuộc đời của bạn ở chốn hoang
vắng nơi không có một bóng người. Ngài Jetsun Milarepa nói:
Trong
động đá ở nơi hoang dã
Nỗi
buồn của con không sao khuây khoả.
Hỡi
bậc Thầy của con, vị Phật trong ba thời,
Con
mong tưởng Ngài không phút nào ngơi nghỉ.
Nếu
bạn làm như Ngài đã làm, bạn sẽ nhận ra rằng, như tục
ngữ nói: “Ở những nơi bạn cảm thấy cô độc, thiền
định sẽ phát sinh.” Ở những nơi đó, ảo tưởng về luân
hồi sẽ tan vỡ, quyết tâm tự giải thoát khỏi luân hồi,
lòng tín tâm, tri giác thuần tịnh, thiền định và thể nhập,
tất cả những phẩm tánh tốt đẹp của con đường đạo
sẽ xuất hiện một cách tự nhiên. Hãy làm bất cứ những
gì bạn có thể làm để sống một cuộc đời như vậy.
Trong
những khu rừng hẻo lánh, là những nơi mà chư Phật và Bồ
Tát trong quá khứ đã tìm thấy sự an bình, không điều gì
làm bạn bận rộn, không có những xao lãng, không có việc
mua bán, không có những cánh đồng để làm việc, không có
đám bạn bè ấu trĩ. Chim muông và hươu nai hoang dã dễ
dàng kết bạn, nước suối và lá cây cung cấp thực phẩm
khổ hạnh ngon lành. Giác tánh sẽ trở nên sáng tỏ một
cách tự nhiên và thiền định tự động phát triển. Không
kẻ thù, không bạn hữu, bạn có thể giải thoát khỏi những
sợi dây xích của tham luyến và sân hận. Những nơi như vậy
có đủ mọi thuận lợi. Trong Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh
và những Kinh khác, Đức Phật nói rằng chỉ đơn thuần có
ước muốn tới những chốn hoang vắng và đi bảy bước hướng
về những nơi đó thì đáng giá hơn cả việc cúng dường
tất cả mười phương chư Phật trong nhiều kiếp nhiều như
cát sông Hằng. Và còn giá trị hơn nữa nếu bạn thực sự
sống ở những nơi như vậy. Cũng có câu nói rằng:
Ở
nơi hoàn toàn hẻo lánh, ẩn sâu trong những rặng núi,
Mọi
việc người ta làm đều tốt lành.
Thậm
chí không cần chút nỗ lực tinh tấn nào để thực hành,
ở những nơi như vậy, ảo tưởng về sinh tử luân hồi sẽ
tan vỡ, quyết tâm giải thoát khỏi luân hồi, lòng từ,
bi và tất cả những phẩm tánh tuyệt hảo khác của đường
tu sẽ phát sinh một cách tự nhiên. Kết quả là toàn bộ
cách sống của bạn trở nên lành mạnh. Lòng tham luyến, sân
hận và tất cả những cảm xúc tiêu cực ở những nơi chốn
sinh hoạt rộn ràng mà bạn đã cố gắng kiểm soát nhưng
không có kết quả thì nay tự chúng sẽ suy giảm đi, chỉ
vì giờ đây bạn đang sống trong cô tịch. Bạn sẽ dễ dàng
phát triển tất cả những đức tánh của đường tu.
Những
vấn đề này là những chuẩn bị sơ khởi cho thiền định,
và là sự quan trọng sống còn, không thể bỏ qua.
2.5.2
Thiền định thực sự
Thiền
định có ba loại: thiền định do những người bình thường
thực hành, thiền định có nhận thức phân biệt rõ ràng
(clearly discerning concentration), và thiền định siêu việt của
các Đấng Như Lai.
Thiền
định do những người bình thường thực hành. Khi bạn chấp
vào những kinh nghiệm hỷ lạc, trong sáng và vô niệm trong
thiền định và cố tình tìm kiếm chúng, hoặc công phu thực
hành của bạn bị bóp méo bởi lòng ham thích bất kỳ một
kinh nghiệm nào, thì điều đó được gọi là thiền định
được thực hành bởi những người bình thường.160
Thiền
định có nhận thức phân biệt rõ ràng. Khi bạn thoát khỏi
bất kỳ dính mắc nào về kinh nghiệm thiền định và không
còn bị quyến rũ bởi thiền định nữa, nhưng vẫn bám lấy
tánh Không như cách đối trị, điều đó được gọi là thiền
định có nhận thức phân biệt rõ ràng.
Thiền
định siêu việt của các Đấng Như Lai. Khi bạn không còn
bất cứ khái niệm nào về tánh Không như một cách đối
trị nữa, mà an trụ trong một trạng thái thiền định phi
khái niệm về chân tánh như thị, điều đó được gọi là
thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai.
Bất
cứ khi nào bạn thực hành thiền định, điều quan trọng
là ngồi trong“tư thế bảy điểm của Tỳ Lô Giá Na (Vairocana)”161
với đôi mắt ngó ra xa trong một cách thức thích hợp. Có
câu nói rằng:
Khi
thân thẳng, các kinh mạch đều thẳng;
Khi
kinh mạch thẳng, các năng lực đều thẳng;
Khi
các năng lực thẳng thì tâm thức thẳng.162
Không
nên nằm hay dựa vào bất cứ cái gì, mà hãy ngồi thẳng,
tâm trí thoát khỏi bất kỳ niệm tưởng nào, và nghỉ ngơi
thư thản trong trạng thái không bám chấp vào bất kỳ điều
gì. Đó là cốt tủy của thiền định siêu việt.
2.6
TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT (Tuệ ba-la-mật)
Trí
tuệ siêu việt có ba phương diện: trí tuệ hình thành nhờ
lắng nghe, trí tuệ hình thành nhờ quán chiếu, và trí tuệ
hình thành nhờ thiền định.
2.6.1
Trí tuệ nhờ lắng nghe Điều này có nghĩa là lắng nghe tất
cả những ngôn từ và ý nghĩa của Pháp do một vị Thầy
tâm linh nói ra, và hiểu được ý nghĩa của những ngôn từ
đó khi chúng được nói ra.
2.6.2
Trí tuệ nhờ quán chiếu
Điều
này có nghĩa là không chỉ lắng nghe những gì vị Thầy giảng
dạy và hiểu được những lời dạy mà rồi sau đó phải
xem xét lại trong tâm bạn và củng cố ý nghĩa của những
lời dạy này qua công phu quán chiếu, khảo sát và phân tích,
cũng như đặt câu hỏi về những điều bạn không thấu suốt.
Nếu bạn tin rằng bạn hiểu biết hay thấu suốt một vài
vấn đề đặc biệt nào đó thì điều này hoàn toàn không
đủ. Bạn phải tuyệt đối đoan chắc rằng khi tới lúc để
bạn tu tập ở nơi cô tịch, bạn sẽ có thể tự lo liệu
cho mình mà không cần tham khảo bất kỳ người nào để hiểu
rõ về một số vấn đề trong tu tập.
2.6.3
Trí tuệ nhờ thiền định
Nhờ
thiền định, khi bạn trực nhận được kinh nghiệm của những
gì trước đây bạn hiểu được bằng trí thông minh thì trạng
thái chứng ngộ tâm thức bản nhiên sẽ phát triển một cách
tự nhiên không chút sai lạc. Lòng xác quyết sẽ nảy sinh
ra từ sâu thẳm bên trong bạn. Giải thoát khỏi những nghi
ngờ và lưỡng lự đầy giới hạn, bạn thấy được chân
tánh của trạng thái bản nhiên.
Trước
tiên, khi đã diệt trừ mọi nghi ngờ qua lắng nghe và quán
chiếu, bạn sẽ có những kinh nghiệm trực nhận qua thiền
định, và thấy tất cả vạn pháp và tất cả mọi hình tướng
chỉ là rỗng không huyễn ảo, chẳng có bất kỳ thực chất
nào. Chẳng hạn như trong tám tỉ dụ về ảo giác:
Như
trong một giấc mơ, tất cả những đối tượng bên ngoài
đến từ cảm nhận của năm giác quan đều không hiện hữu;
chúng xuất hiện từ sự mê lầm.
Như
trong một màn biểu diễn ảo thuật, mọi thứ được « làm
cho xảy ra » (giả hợp) nhưng tựu chung những màn ảo thuật
này chỉ xuất hiện do sự kết hợp tạm thời của hoàn cảnh
và các nhân duyên tương khởi.
Như
trong một cái nhìn sai lạc, sự vật xuất hiện ở đó, nhưng
lại không có gì.
Như
trong một ảo ảnh, sự vật xuất hiện nhưng không có thực.
Như
trong một tiếng vang, sự vật có thể được nhận biết nhưng
không có gì ở đó, dù bên ngoài hay trong.
Như
trong một thành phố của các gandharvas (thần hương ấm sống
nhờ mùi hương), chẳng có nhà cũng không có người ở.
Như
trong một phản chiếu, một vật xuất hiện, nhưng tự nó
không thực có.
Như
trong một thành phố được tạo bởi ma thuật, có đủ mọi
thứ hình tướng nhưng chúng thực sự không có ở đó.
Nếu
bạn nhìn tất cả mọi đối tượng nhận thức của bạn
theo cách này, bạn sẽ hiểu được rằng tất cả những gì
xuất hiện đều là hư ảo vì bản tánh đích thực của chúng
(là tánh Không). Khi bạn nhìn vào chân tánh của cái « chủ
thể » đã nhận ra đựơc những đối tượng này – tức
là nhìn vào chính tâm của bạn – thì những đối tượng
xuất hiện trong tâm của bạn sẽ không ngừng xuất hiện,
nhưng những « khái niệm» cho rằng những đối tượng này
thực sự hiện hữu, những khái niệm đó sẽ lắng xuống.
Hãy để tâm an trụ trong cái nhận biết về chân tánh, rỗng
rang nhưng sáng tỏ như bầu trời, đó chính là trí tuệ siêu
việt.
Để
giải thích thật chi tiết sáu pháp toàn thiện siêu việt (sáu
ba la mật), mỗi một pháp toàn thiện được chia làm ba, tổng
cộng là mười tám phần. Tự phạm trù bố thí vật chất
có ba phần, cả thảy là hai mươi phần. Nếu chúng ta thêm
vào phương tiện siêu việt, thành hai mươi mốt phần; năng
lực siêu việt, thành hai mươi hai; ước nguyện siêu việt,
thành hai mươi ba và trí tuệ nguyên sơ siêu việt, thành hai
mươi bốn.163
Đi
sâu vào từng chi tiết, mỗi một pháp toàn thiện siêu việt
(ba la mật) được chia làm sáu, làm thành ba mươi sáu phần.
Chúng ta có thể thấy được điều này xảy ra như thế nào
bằng cách khảo sát về phần bố thí Pháp (Pháp thí)
thuộc bố thí ba la mật.
Khi
vị Thầy giảng dạy, Giáo Pháp được giảng dạy và những
đệ tử được truyền dạy giáo lý này tập hợp lại cùng
một lúc, thì việc giảng dạy giáo lý là bố thí siêu việt.
Việc vị Thầy giảng dạy không tìm kiếm lợi lộc hoặc
thanh danh trong việc giảng Pháp, và không làm ô nhiễm điều
Ngài đang dạy bằng cách tự thổi phồng mình lên (do bực
bội với địa vị của những người khác), hay bằng bất
kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác, thì đây chính là trì giới
siêu việt. Việc vị Thầy lập đi lập lại ý nghĩa của
một lời giảng và không quan tâm tới những khó khăn và mệt
nhọc chính là nhẫn nhục siêu việt. Việc vị Thầy giảng
dạy đúng giờ đã định, không lười biếng giải đãi hay
trì hỗn chính là tinh tấn siêu việt. Việc vị Thầy thuyết
giảng chủ đề đang giảng mà không cho phép tâm xao lãng xa
rời ngôn từ và ý nghĩa của chủ đề, không tạo ra bất
kỳ sai sót nào và không thêm thắt hay bỏ sót bất kỳ điều
gì, đó là thiền định siêu việt. Trong khi giảng dạy, vị
Thầy an trụ, thấm đẫm trí tuệ, thoát khỏi tất cả mọi
khái niệm về chủ thể, đối tượng, và hành động, đây
chính là trí tuệ siêu việt. Vì thế tất cả các ba la mật
hay các pháp toàn thiện siêu việt đều hiện diện đầy đủ.
Bây
giờ hãy nhìn vào việc bố thí vật chất – ví dụ bố thí
thực phẩm hay thức uống cho một hành khất. Khi vật cho,
người cho và người nhận tất cả cùng hội hợp lại và
hành động bố thí xảy ra, đó chính là bố thí. Việc đem
cho thức ăn hay đồ uống của chính bạn, chứ không cho thực
phẩm dở hay hư thối chính là trì giới. Việc không bao giờ
nổi giận ngay cả khi bị hỏi
xin
liên tục, đó là nhẫn nhục. Việc sẵn sàng bố thí, không
bao giờ nghĩ tưởng tới sự mệt nhọc hay khó khăn ra sao,
là tinh tấn. Việc không để bản thân bạn bị xao lãng bởi
những niệm tưởng khác, đó là thiền định. Việc biết
được ba yếu tố chủ thể, đối tượng và hành động không
có thực tánh là trí tuệ. Một lần nữa ở đây cũng bao
gồm sáu hoàn thiện siêu việt. Những phân chia tương tự
cũng được định rõ cho giới luật, nhẫn nhục, và v.v..
Khi
tóm tắt tinh tuý của nhữngï pháp toàn thiện siêu việt,
Ngài Jetsun Milarepa nói:
Hoàn
toàn từ bỏ niềm tin chấp «có»
Không
có bố thí nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn từ bỏ mọi thủ đoạn và xảo trá,
Không
giới luật nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn vượt lên mọi sợ hãi về chân nghĩa,
Không
có nhẫn nhục nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn an trú không tách biệt với thực hành,
Không
có tinh tấn nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn an trụ trong dòng chảy tự nhiên,
Không
thiền định nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn chứng ngộ trạng thái bản nhiên,
Không
trí tuệ nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn thực hành Giáo Pháp trong mọi việc làm,
Không
phương tiện nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn chiến thắng bốn quỷ ma,
Không
có sức mạnh nào hơn được điều này.
Hoàn
toàn thành tựu mục đích (vun bồi hai bồphước huệ),
Không
có nguyện ước nào cao xa hơn điều này.
Nhận
biết nguồn gốc thật sự của những cảm xúc ô nhiễm,
Không
có trí tuệ nguyên sơ nào hơn được điều này.
Có
lần khi Khu, Ngok, và Drom* hỏi Ngài Atisa điều nào là tốt
nhất trong tất cả các yếu tố của đường tu, Ngài trả
lời:
*
Ba đệ tử chính của Ngài Atisa (xem Thuật ngữ).
Học
giả lỗi lạc nhất là người trực hiểu rằng chẳng có
gì thực sự hiện hữu.
Tu
sĩ xuất sắc nhất là người đã điều phục được tâm
mình.
Phẩm
tánh tốt nhất là lòng khát khao vĩ đại làm lợi lạc cho
người khác.
Giáo
huấn tuyệt diệu nhất là luôn quán sát tâm.
Phương
thuốc hay nhất là hiểu rằng không sự vật nào có tự tánh.
Cách
sống lý tưởng nhất là cách sống không hợp với phương
cách thế gian. Thành tựu tốt đẹp nhất là những cảm xúc
tiêu cực từ từ giảm thiểu.
Dấu
hiệu tốt lành nhất của công phu tu tập là những ham muốn
từ từ giảm thiểu.
Bố
thí tốt nhất là không vướng mắc.
Trì
giới tốt nhất là làm an bình tâm thức.
Nhẫn
nhục tốt nhất là giữ một vị trí khiêm tốn.
Tinh
tấn tốt nhất là từ bỏ mọi hoạt động.
Thiền
định hoàn hảo nhất là tâm không biến đổi.164
Trí
tuệ tuyệt vời nhất là hoàn toàn không coi bất kỳ điều
gì thực sự hiện hữu.
Và
Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:
Bố
thí siêu việt được tìm thấy ở sự hài lòng,
Tinh
túy của bố thí là hoàn toàn buông bỏ.
Giới
luật là không làm phật lòng Tam Bảo.165
Nhẫn
nhục tốt nhất là chánh niệm và tỉnh giác không bao
giờ vơi cạn.
Tinh
tấn rất cần thiết để duy trì tất cả các pháp toàn
thiện siêu việt khác.
Thiền
định là để kinh nghiệm rằng tất cả mọi hình tướng
mà ta bám chấp vào đều chính là các vị Bổn Tôn.166
Trí
tuệ là tự giải thoát khỏi đắm nhiễm và bám chấp.
Trong
đó không có việc suy nghĩ và người nghĩ tưởng.
Đây
không phải là tầm thường.
Đây
là thoát khỏi những xác tín chết cứng.167
Đây
là siêu vượt đau khổ.
Đây
là an bình tối thượng.
Không
nên tiết lộ điều này cho mọi người –
Hãy
thành kín giữ gìn trong tâm của chính bạn.
Để
đúc kết toàn bộ con đường bao la của giáo lý Bồ Tát,
bao gồm sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật),
thì toàn bộ con đường này có thể được trình bày một
cách cô đọng là “tánh Không mà cốt tuỷ đích thực
chính là lòng từ bi.” Ngài Saraha có nói trong các Doha (đạo
ca) của Ngài:
Không
có lòng từ bi, thì cái thấy của tánh Không
Sẽ
không bao giờ dẫn bạn tới được con đường siêu phàm.
Nhưng
chỉ thiền định duy nhất về lòng từ bi, bạn sẽ vẫn kẹt
trong luân hồi sinh tử.
Vậy
thì làm sao có thể giải thoát được?
Người
có đủ cả hai điều này (lòng từ bi và tánh Không)
Sẽ
không ở trong sinh tử mà cũng chẳng trụ ở Niết bàn.
Không
trụ trong luân hồi lẫn Niết bàn là “Niết Bàn vô-trụ”
của Phật Quả viên mãn. Như Đức Long Thọ đã nói:
Tinh
tuý đích thật của tánh Không là lòng từ bi
Chỉ
dành cho những người cầu tìm giác ngộ.
Có
lần, Drom Tonpa hỏi Ngài Atisa trong tất cả các giáo lý, cái
nào là tuyệt hảo nhất.
“Trong
tất cả các giáo lý, giáo lý tuyệt hảo nhất là tánh Không
mà lòng từ bi lại chính là cốt tuỷ của tánh Không
ấy,” vị Thầy trả lời. “Nó giống như một loại thuốc
cực mạnh, một loại thuốc trị bá bệnh, một loại thuốc
có thể chữa lành mọi bệnh tật trên thế gian. Và cũng giống
như loại thuốc chữa bá bệnh đó, việc nhận ra chân
lý của tánh Không, bản tánh của thực tại, là phương thuốc
cho tất cả những cảm xúc ô nhiễm tiêu cực khác nhau.”
Drom
Tonpa tiếp tục: “Như vậy thì tại sao rất nhiều người
tuyên bố rằng mình đã chứng ngộ tánh Không nhưng họ vẫn
không bớt được tham luyến và sân hận?”
“Đó
là bởi sự chứng ngộ của họ chỉ là ngôn từ,” Ngài
Atisa trả lời. “Nếu họ thực sự nắm được chân nghĩa
của tánh Không, thì tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi của họ
phải mềm mại như bước đi trên thảm len hay như súp tsampa
được trộn bơ. Đạo sư Aryadeva nói rằng ngay cả việc tự
hỏi mọi sự có rỗng rang hay không cũng sẽ làm luân hồi
tan rã.168 Do đó,ï thực sự chứng ngộ tánh Không là phương
thuốc tối hảo trị bá bệnh bao gồm mọi yếu tố của
con đường tu.”
“Làm
sao tất cả mọi yếu tố của con đường tu lại có thể
được bao gồm trong sự chứng ngộ tánh Không?” Drom Tonpa
hỏi.
“Tất
cả mọi yếu tố của con đường tu đều được chứa đựng
trong sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật).
Vì vậy nếu ông thực sự chứng ngộ tánh Không, ông sẽ
tự giải thoát khỏi những tham luyến. Khi ông không cảm thấy
khao khát, bám chấp hay ham muốn bất kỳ điều gì, dù bên
trong hay bên ngoài, ông sẽ luôn có bố thí siêu việt. Giải
thoát khỏi bám chấp và tham luyến, ông không còn bị ô
nhiễm bởi những việc làm bất thiện nên ông luôn có trì
giới siêu việt. Không có bất cứ khái niệm về “tôi”
và “của tôi,” ông không còn sân hận, vì thế ông luôn
có nhẫn nhục siêu việt. Nhờ chứng ngộ tánh Không, tâm
ông thực sự hoan hỷ nên ông luôn có tinh tấn siêu việt.
Thoát khỏi những phóng dật xao lãng xuất phát từ việc bám
chấp cho rằng mọi vật là thường hằng bền vững, nên ông
luôn có thiền định siêu việt. Khi ông không khái niệm hóa
bất kỳ việc gì trong các phạm vi chủ thể, đối tượng
và hành động, ông luôn có trí tuệ bát nhã siêu việt.”
“Có
phải những người đã chứng ngộ chân lý đều thành Phật
chỉ nhờ thấy được tánh Không và nhờ thiền định hay
không?” Drom Tonpa hỏi.
“Trong
tất cả những gì chúng ta thấy biết chẳng hạn như hình
tướng và âm thanh, thì không gì không xuất hiện từ tâm.
Nhận ra rằng tâm là sự tỉnh giác bất khả phân với tánh
Không, đây chính là cái Thấy (kiến). Luôn luôn trì giữ nhận
thức này trong tâm và không bao giờ xao lãng cái thấy ấy
chính là thiền. Thực hành hai tích tập (vun bồi phước huệ)
không khác chi thực hành một việc huyễn hóa trong trạng thái
của cái thấy, đó là hành. Nếu ông có một kinh nghiệm sống
động về việc thực hành này, kinh nghiệm đó sẽ tương
tục trong các giấc mộng của ông. Nếu kinh nghiệm đóù đi
vào trạng thái mộng, kinh nghiệm đó sẽ đến vào lúc chết.
Nếu kinh nghiệm đó hiện diện trong trạng thái trung ấm,
ông có thể chắc chắn rằng ông sẽ đạt được thành tựu
tột bực nhất.”
Như
thế tám mươi bốn ngàn cánh cửa dẫn tới Giáo Pháp mà Đấng
Chiến Thắng đã giảng dạy là tất cả những phương tiện
thiện xảo để phát khởi Bồ Đề Tâm – là tánh Không mà
cốt tủy đích thật của tánh Không chính là lòng bi mẫn.
Không
có Bồ Đề Tâm, giáo lý về cái thấy và thiền định dù
có vẻ uyên thâm tới đâu chăng nữa cũng sẽ không lợi ích
chút nào để đạt được Phật Quả viên mãn. Những pháp
tu của Kim Cương Thừa như giai đoạn phát triển, giai đoạn
thành tựu v.v., được thực hành trong phạm vi của Bồ Đề
Tâm, sẽ dẫn đến Phật Quả viên mãn chỉ trong một đời.
Nhưng nếu không có Bồ Đề Tâm thì chúng chẳng khác với
những pháp môn của các tirthika. Những người tirthika cũng
có nhiều thực hành liên quan tới thiền định về các Bổn
Tôn, tụng niệm các thần chú và tu tập sử dụng các kinh
mạch và năng lực; họ cũng hành xử phù hợp với luật nhân
quả. Nhưng chỉ vì họ không quy y và khơi dậy Bồ Đề Tâm
nên họ không thể giải thoát khỏi các cõi luân hồi. Đó
là lý do tại sao Ngài Geshe Kharak Gomchung nói:
Chẳng
ích lợi gì khi thọ mọi giới nguyện, từ giới nguyện quy
y cho tới những mật nguyện của Kim Cương thừa, trừ phi
bạn chuyển tâm ra khỏi những sự việc
c̗ 1;a thế gian.
Chẳng
ích lợi gì khi cứ liên tục thuyết giảng Giáo Pháp cho người
khác, trừ phi bạn an định được tánh ngã mạn (tự phụ)
của riêng mình.
Chẳng
ích lợi gì để thăng tiến trong tu tập nếu cuối cùng bạn
từ bỏ những giới luật quy y.
Chẳng
ích lợi gì khi thực hành cả ngày lẫn đêm trừ phi
bạn kết hợp công phu tu tập với tâm Bồ Đề.
Trước
tiên, nếu bạn không tạo được một nền tảng đúng đắn
để có thể quy y và nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm, thì cho dù
bạn có tỏ ra học tập, quán chiếu và thiền định mãnh
liệt tới đâu chăng nữa, điều đó cũng sẽ hoàn toàn không
ích lợi gì hơn việc xây lâu đài chín tầng trên mặt hồ
đóng băng vào mùa đông và việc vẽ tranh bích họa trên tường
thạch cao. Rốt cuộc sẽù chẳng có chút ý nghĩa nào.
Đừng
bao giờ xem thường các pháp thực hành quy y và Bồ Đề Tâm,
cho rằng những điều này thấp bé hay chỉ để dành cho những
người sơ cơ. Hãy hoàn thành pháp quy y và Bồ Đề Tâm thật
đầy đủ, trong khuôn khổ của các pháp môn chuẩn bị, trong
các pháp môn thực hành chính yếu cũng như trong phần kết
thúc, vì quy y và Bồ Đề Tâm là hai pháp tu thích hợp với
bất kỳ con đường nào [mà bạn lựa chọn để tu tập].
Điều hết sức quan trọng cho tất cả mọi người, dù xấu
hay tốt, cao hay thấp, là tập trung các nỗ lực chân thành
nhất vào những pháp tu này.
Trong
trường hợp đặc biệt của những Lạt Ma và tăng sĩ, là
những người nhận của cúng dường từ các thí chủ, nhận
tài vật nhân danh người chết, hay là những người cử hành
các buổi lễ dẫn dắt người chết, điều tuyệt đối mà
họ không thể thiếu là Bồ Đề Tâm chân thật. Không có
Bồ Đề Tâm thì chẳng có nghi lễ và pháp tịnh hóa nào của
họ đem lại được lợi ích nhỏ bé nhất cho người sống
hay người chết. Đối với những người khác, họ có thể
xuất hiện để cứu giúp, nhưng tận sâu thẳm bên trong thì
sự giúp đỡ này luôn bị pha trộn với những động cơ ích
kỷ. Đối với chính họ, họ sẽ bị ô nhiễm bởi việc
thọ nhận những vật cúng dường đó, và sẽ gây ra vô số
lỗi lầm có thể dẫn họ tới những cõi thấp trong đời
kế tiếp.
Ngay
cả người nào đó có thể bay như chim, di chuyển dưới mặt
đất như chuột, đi qua núi đá không bị ngăn trở, để lại
những dấu tay và chân trên đá, người nào đó có khả năng
thấu thị không giới hạn và có thể thực hiện đủ mọi
loại huyền thuật – nếu một người như vậy mà không có
Bồ Đề Tâm, thì họ chỉ có thể là một tirthika hay đã
bị một vài quỷ ma đầy năng lực nào đó ám nhập. Thoạt
tiên, họ có thể lôi cuốn một số người ngây thơ bị cảm
kích và đem cúng dường. Nhưng về lâu dài thì họ chỉ đem
lại sự hủy hoại cho chính họ và những người khác. Trái
lại, một người có Bồ Đề Tâm thật sự, thì cho dù không
có bất kỳ phẩm tánh nào khác, họ cũng sẽ làm lợi ích
cho bất kỳ ai đến tiếp xúc với họ.
Bạn
không biết được ở nơi đâu có thể có một vị Bồ Tát.
Người ta nói nhiều Bồ Tát sử dụng những phương tiện
thiện xảo, thậm chí được tìm thấy trong số những kẻ
sát sinh thú vật và gái điếm. Thật khó có thể nói người
nào đó có Bồ Đề Tâm hay không. Đức Phật có nói:
Ngoài
bản thân ta và những người giống ta, không ai có thể phán
xét người khác.
Vì
thế, hãy coi bất kỳ ai khơi dậy được Bồ Đề Tâm trong
bạn là một vị Phật đích thực, hoặc một Bổn Tôn, một
vị Thầy, một thiện tri thức hay bất kỳ vị nào khác.
Bất
cứ khi nào bạn cảm thấy mình đã đạt được một vài
phẩm tánh nào đó chẳng hạn như những dấu hiệu tiến bộ
trên con đường tu, bất kỳ chúng có thể là gì – chứng
ngộ trạng thái bản nhiên, thần nhãn, thiền định, hoặc
có được các linh kiến của Bổn Tôn v.v. – bạn có
thể tin chắc rằng những dấu hiệu này thực sự là những
phẩm tánh đích thực nếu lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm
liên tục tăng trưởng thật vững chắc như là kết quả của
kinh nghiệm tu tập kia. Tuy nhiên, tương tự như vậy, nếu
kết quả của những kinh nghiệm như trên chỉ làm suy giảm
lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, thì bạn có thể tin chắc
rằng những gì có vẻ giống như là một dấu hiệu của sự
thành công trên con đường tu thực ra chỉ là một chướng
ngại của ma quỷ, hoặc một chỉ dấu cho thấy bạn đang
đi lạc đường.
Đặc
biệt hơn nữa, khi bạn chứng ngộ được trạng thái chân
như đích thực thì bạn không thể nào không phát khởi một
tín tâm phi thường và một nhận biết thanh tịnh về
những bậc toàn thiện hơn bản thân bạn. Song song với
kinh nghiệm chứng ngộ đó, bạn cũng sẽ phát khởi lòng
từ và bi phi thường đối với những người kém toàn thiện
hơn mình.
Ngài
Dagpo Rinpoche vô song có lần hỏi Ngài Jetsun Mila: “Khi nào
con có thể dẫn dắt người khác?”
Ngài
Jetsun trả lời: “Một ngày nào đó, con sẽ có một thị
kiến phi thường trong sáng về chân tánh của tâm con, nó hoàn
toàn khác với thị kiến mà con hiện có, và thoát khỏi mọi
ngờ vực. Vào lúc đó, trong một tâm trạng hoàn toàn khác
thường, con sẽ nhận ra được ta, người cha già của con,
như một vị Phật thật sự và chắc chắn con sẽ cảm thấy
một cách rất tự nhiên lòng từ và bi đối với tất cả
chúng sinh. Đó là lúc con nên bắt đầu giảng dạy.”
Vì
thế, hãy học tập, quán chiếu và thiền định về Giáo Pháp,
trên nền tảng vững chắc của lòng từ và bi của Bồ Đề
Tâm, không tách riêng cái này với cái khác. Trước tiên nếu
không loại bỏ những nghi ngờ qua việc học tập, bạn sẽ
không bao giờ có thể thực hành pháp. Có câu nói rằng:
Thiền
định mà không học tập
Giống
như leo núi mà không có đôi tay.
Loại
bỏ những nghi ngờ qua việc học tập không có nghĩa bạn
phải thông suốt vô số những vấn đề rộng lớn. Trong thời
buổi suy đồi này, sẽ không thể làm được điều đó trong
một đời người ngắn ngủi. Điều quan trọng là bất
kỳ giáo lý nào mà bạn sắp đưa vào công phu thực hành thì
bạn nên biết chính xác phải làm những gì để thực
hành pháp tu đó từ đầu tới cuối mà không phạm lỗi lầm.
Nếu có bất kỳ do dự nào thì bạn nên loại bỏ ngay lòng
ngờ vực này bằng cách quán chiếu về các giáo lý đó.
Khi
Ngài Atisa ở Nyethang, Nachung Tonpa xứ Shan, Kyung Tonpa, và Lhangsang
Tonpa xin Ngài dạy cho họ về những hệ thống luận lý khác
nhau.
Ngài
Atisa trả lời: “ Những người ngoại đạo phi-Phật-Giáo
và bản thân những Phật Tử có nhiều hệ thống giáo lý,
nhưng chúng hoàn toàn chỉ là những chuỗi tư tưởng lan man.
Không cần tới hằng hà sa số tư tưởng đó: cuộc đời
quá ngắn ngủi không thể thấu biết hết những điều này
được. Giờ đây là lúc cắt giảm những điều này cho tới
tận cốt lõi của chúng.”
“Làm
thế nào để cắt giảm cho tới cốt tủy của chúng?”
“Bằng
cách tu tập Bồ Đề Tâm với lòng từ và bi đối với tất
cả chúng sinh đầy khắp không gian. Bằng cách thực hiện
những nỗ lực tích cực trong việc tích tụ hai bồ công đức
vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bằng cách hồi hướng
tất cả suối nguồn của những điều tốt lành của đời
vị lai -- những điều tốt lành này đã được tạo ra [để
hồi hướng] cho giác ngộ viên mãn của mỗi chúng sinh và
cho tất cả chúng sinh. Và, cuối cùng, bằng cách nhận ra rằng
tất cả những điều này đều rỗng rang tự bản chất, giống
như những giấc mộng hay những trò huyễn hóa.”
Nếu
bạn không biết làm cách nào để cắt giảm bất kỳ pháp
môn nào cho tới phần tinh tuý, thì sẽ chẳng có số lượng
thông tin, kiến thức và sự hiểu biết thông tuệ nào có
thể đem lại lợi ích gì cho bạn.
Khi
Ngài Atisa đến Tây Tạng, Ngài được mời tới thăm đại
dịch giả Rinchen Zangpo. Ngài hỏi vị dịch giả về những
giáo lý mà ông biết, liệt kê một danh sách dài, tuần tự
từng cái một. Hoá ra không giáo lý nào Rinchen Zangpo không
biết. Ngài Atisa đặc biệt hài lòng.
“Tuyệt
vời!” Ngài nói. “Sự kiện đã có một bậc uyên thâm như
ông sống ở Tây Tạng có nghĩa là cuộc thăm viếng của tôi
hoàn toàn không cần thiết. Vậy làm cách nào ông kết hợp
tất cả những giáo lý này khi ông ngồi xuống thực hành?”
“Tôi
thực hành từng thứ như được giảng trong bản văn,” Rinchen
Zangpo nói.
“Lão
dịch giả vô dụng!” Ngài Atisa kêu lên trong thất vọng.
“Như vậy rốt cuộc việc ta tới Tây Tạng là cần thiết”!
“Nhưng
thay vào đó tôi nên làm gì?” vị dịch giả hỏi.
“Ông
phải tìm ra điểm cốt lõi chung cho tất cả các giáo lý và
thực hành theo cách đó,” Ngài Atisa bảo với ông ta.
Rất
cần thiết phải tìm ra điểm trọng yếu của các pháp thực
hành là những phương pháp được đặt trên nền tảng của
những giáo huấn tinh tuý của vị Thầy. Một khi bạn thấu
suốt được điểm trọng yếu, bạn phải đưa điều ấy
vào thực hành, nếu không sẽ hoàn toàn vô ích. Ngài Jetsun
Mila nói:
Người
đói bụng sẽ không thỏa mãn bằng cách nghe nói về thực
phẩm; điều mà họ cần là ăn. Tương tự như thế, chỉ
hiểu biết suông về Pháp thì không có gì ích lợi; Pháp
phải được thực hành.
Mục
đích của tất cả các pháp tu là khi chính việc tu tập trở
thành cách đối trị cho những cảm xúc ô nhiễm tiêu cực
và tâm chấp ngã. Ngài Jetsun Mila lại nói:
Người
ta nói rằng bạn có thể khẳng định một người nào đó
có phải là vừa mới ăn hay không bằng cách nhìn coi mặt
họ đỏ như thế nào. Tương tự như thế, bạn có thể cả
quyết người nào đó có hiểu và thực hành Giáo Pháp đúng
đắn hay không bằng cách xem Pháp có là một phương thuốc
chữa lành những cảm xúc tiêu cực và chấp ngã của họ
hay không.
Potowa
hỏi Geshe Tonpa đâu là ranh giới giữa Pháp và phi-Pháp. Vị
geshe trả lời:
Nếu
chống lại những cảm xúc tiêu cực thì đó là Pháp.
Nếu
không, đó là phi- Pháp.
Nếu
không thích hợp với những phương cách của thế gian thì
đó là Pháp.
Nếu
thích hợp, đó là phi-Pháp.
Nếu
phù hợp với kinh điển và những giáo huấn của bạn thì
đó là Pháp.
Nếu
không phù hợp, đó là phi-Pháp.
Nếu
để lại dấu ấn tích cực thì đó là Pháp.
Nếu
để lại dấu ấn tiêu cực, đó là phi-Pháp.
Đạo
Sư Chegom nói:
Tin
vào nhân quả của mọi hành động là chánh kiến dành cho
những người có căn cơ bình thường.
Nhận
ra mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong là sự hợp nhất
của cả sắc lẫn tánh Không, và của giác tánh và tánh Không,
là chánh kiến dành cho những người có căn cơ cao hơn.
Nhận
ra rằng cái thấy, người có cái thấy và chính sự trực
nhận cái thấy đều bất khả phân169 , đó là chánh kiến
dành cho những người có căn cơ cao nhất.
Giữ
tâm hoàn toàn tập trung trên đối tượng là thiền định
đúng đắn dành cho những người có căn cơ bình thường.
Trụ
tâm trên bốn sự hợp nhất 170 là thiền định đúng đắn
dành cho những người có căn cơ cao hơn.
Một
trạng thái vô niệm trong đó không có đối tượng của thiền
định, không có người thiền định và không có kinh nghiệm
thiền định là thiền định đúng đắn dành cho những người
có căn cơ cao nhất.
Thận
trọng về những kết quả của các hành động của mình như
người ta cẩn thận bảo vệ con mắt mình là hành vi đúng
đắn dành cho những người có căn cơ bình thường.
Hành
động trong khi kinh nghiệm được tất cả giống như giấc
mơ và ảo ảnh là hành vi đúng đắn dành cho những người
có căn cơ cao hơn.
Hoàn
toàn không hành động (không tạo tác)171 là hành vi đúng đắn
dành cho những người có căn cơ cao nhất.
Không
ngừng giảm thiểu tâm chấp ngã, giảm thiểu các cảm xúc
và niệm tưởng tiêu cực là dấu hiệu của “hơi ấm”
dành cho tất cả hành giả, dù họ có căn cơ bình thường,
trung bình hay cao nhất.
Những
lời tương tự như trên được tìm thấy trong Con Đường
Trân Quý Siêu Việt của Ngài Dagpo vô song. Vì thế, khi học
Giáo Pháp, bạn nên biết cách rút ra được tinh túy của Giáo
Pháp. Ngài Longchenpa vĩ đại có nói:
Kiến
thức thì vô tận như sao trên trời;
Tất
cả những vấn đề có thể học được thì vô cùng tận.
Tốt
hơn nên lập tức nắm lấy tinh tuý tối hậu của cái học–
Thành
trì bất biến của Pháp Thân.
Sau
đó, khi bạn quán chiếu về Pháp, bạn nên thoát khỏi mọi
nghi ngờ. Ngài Padampa Sangye nói:
Hãy
tìm kiếm những giáo huấn của vị Thầy giống như chim ưng
mẹ săn mồi. Hãy lắng nghe các giáo lý như một con nai đang
nghe nhạc; Hãy thiền định về giáo lý như một người ngu
thưởng thức món ăn; Hãy suy niệm về giáo lý như một người
du mục phương Bắc xén lông cừu; Hãy đạt được kết quả
của giáo lý, giống như mặt trời nhô khỏi vầng mây.
Việc
lắng nghe Pháp, quán chiếu và thiền định về Pháp phải
được thực hành chặt chẽ với nhau. Ngài Dagpo vô song nói:
Hoà
nhập sự học tập, quán chiếu và thiền định về Pháp là
điểm trọng yếu không thể sai lầm.
Kết
quả của việc học tập, quán chiếu và thiền định phải
là sự phát triển vững chắc và chân thật của lòng từ
và bi của Bồ Đề Tâm, cũng như phải là sự giảm thiểu
vững chắc và chân thật của tâm chấp ngã và những cảm
xúc ô nhiễm tiêu cực khác.
Giáo
huấn này, về việc làm thế nào khơi dậy Bồ Đề Tâm, là
tinh túy của tất cả các Giáo Pháp và là yếu tố cốt
tủy của tất cả những con đường tu. Đây là giáo lý tối
hậu, có được giáo lý này thì dứt khoát tự thân một mình
giáo lý ấy thôi đã là đầy đủ, còn nếu thiếu giáo lý
ấy thì chắc chắn sẽ khiến cho tất cả mọi pháp tu đều
thành vô dụng. Không nên hài lòng với việc chỉ lắng nghe
và hiểu biết về giáo lý ấy. Tận trong đáy lòng của
bạn, hãy đưa giáo lý ấy vào thực hành!
Con
quả quyết là đang khơi dậy Bồ Đề Tâm, nhưng Bồ Đề
Tâm trong con vẫn chưa phát khởi. Con đã tu tập trên con đường
của sáu pháp toàn thiện siêu việt, nhưng vẫn còn ích kỷ.
Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ có tâm lượng nhỏ hẹp
như con, Để chúng con có thể rèn luyện được Bồ Đề Tâm
cao cả.
Đức
Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva)
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 11 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:20pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
3
TRÌ TỤNG VÀ
THIỀN QUÁN VỀ BỔN SƯ NHƯ ĐỨC KIM CANG TÁT ĐỎA (Vajrasattva)
ĐỂ TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI 172
Đã
vượt khỏi hai chướng ngại ô nhiễm,*
Ngài
vẫn giả như đang tịnh hóa chúng.
Chắc
chắn đã đạt tới Đạo Quả cuối cùng của con đường
cao cả,
Ngài
vẫn tự nhận là đang học hỏi.
Đã
vượt khỏi hai cực đoan đắm nhiễm Sinh Tử và Niết bàn,
Ngài
vẫn hoạt hiện trong vòng quay luân hồi.
Bậc
Thầy Vô Song, con xin đảnh lễ dưới chân Ngài.
Hãy
lắng nghe chương này với thái độ tương tự như ở các
chương trước.
I.
LÀM THẾ NÀO TỊNH HOÁ CHƯỚNG NGẠI NƯƠNG VÀO PHÁP SÁM HỐI
Ác
hạnh, chướng nghiệp và tập khí** là các chướng ngại chính
yếu ngăn trở sự hiển lộ của tất cả những kinh nghiệm
và chứng ngộ phi thường trên con đường đạo thâm sâu.
Giống như mặt gương phải lau sạch mới soi rõ, chướng nghiệp
phải được diệt trừ thì chứng ngộ mới có thể xuất
hiện, giống như sự phản chiếu trên tấm gương Tạng Thức.***Để
đạt được mục đích này thì Đức Phật đã dạy vô vàn
phương pháp tịnh hóa, nhưng phương pháp tốt nhất vẫn là
pháp trì tụng và thiền quán vị Bổn Sư của mình như là
đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva)173 .
*
Những chướng ngại của các cảm xúc tiêu cực và các chướng
ngại thuộc ý niệm (phiền não chướng và sở tri chướng).
“Những chướng ngại” có nghĩa là những yếu tố trùm
lấp và ngăn che Phật tánh của ta (xem Thuật ngữ). ** Các
tập khí được tạo nên bởi những hành động quen thuộc
trong quá khứ.
***
Phạn. Alaya [A Lại Da Thức]. Thức tiềm ẩn, trong đó những
dấu vết của nghiệp được tàng trữ. Xem thuật ngữ.
Không
có ác hạnh nào mà không thể tịnh hóa được nhờ vào sám
hối. Các bậc Thầy vĩ đại xưa kia đã khẳng định rằng:
Không
có gì là tốt đẹp trong các ác hạnh – trừ việc ác hạnh
có thể được tịnh hóa nhờ vào pháp sám hối.
Trong
tất cả các ác hạnh – dù là các vi phạm bên ngoài liên
quan đến các giới Biệt Giải Thóat - Ba La Đề Mộc Xoa (Pratimoksa),
hay các vi phạm bên trong của Bồ Đề Tâm, hoặc những vi
phạm bí mật của các thệ nguyện của Mật thừa (tantric
samayas) – thì không có ác hạnh nào dù trầm trọng tới đâu
mà không thể tịnh hóa được nương vào pháp sám hối.
Trong
Kinh điển, Đức Phật đã kể lại vài câu chuyện để minh
chứng cho điều này. Ví dụ, có câu chuyện về người Bà
la môn Atapa, được gọi là Angulimala, “Xâu Chuỗi Ngón Tay.”
Angulimala giết chết chín trăm chín mươi chín người,174 nhưng
về sau đã tự thanh tẩy được những ác hạnh đó nhờ pháp
sám hối, và đã đạt được quả vị A La Hán ngay chính trong
đời đó. Ngoài ra còn có câu chuyện của Vua A Xà Thế (Ajatasatru);
Ngài giết hại cha mình, nhưng về sau đã chuộc lại tội
lỗi của mình bằng pháp sám hối và đã đạt được giải
thoát. Trước khi được giải thoát, nhà vua chỉ phải kinh
qua những đau khổ của địa ngục trong thời gian dài bằng
một trái banh nẩy lên một lần mà thôi. Đấng hộ pháp Long
Tọï (Nagarjuna) đã nói rằng:
Những
kẻ đã hành động buông thả
Nhưng
về sau trở nên nghiêm cẩn và chú tâm
Thì
tươi đẹp như vầng trăng sáng nhô lên từ những đám mây,
Như
Nanda, Angulimala, Darsaka và Sankara. 175
Tuy
nhiên, nghiệp chướng chỉ được tịnh hóa nếu ta chân thành
sám hối một cách đúng đắn, sử dụng bốn lực tịnh hoá
nghiệp (tứ lực tịnh nghiệp) làm pháp đối trị. Quá trình
tịnh hóa sẽ không bao giờ thực hiện được nếu ta để
mắt và miệng sao lãng vào việc khác, hoặc nếu ta chỉ đọc
to những từ như “Con thú nhận.. Con sám hối...” trong khi
tâm thì bận theo đuổi những niệm tưởng khác. Còn
khi sám hối, nếu nghĩ rằng: “Trong tương lai, cho dù
mình có làm điều quấy quá cũng không sao vì sau đó mình
có thể sám hối được hết,” thì suy nghĩ đó sẽ làm cho
nghiệp chướng không thể thanh tịnh hóa được, cho dù có
phát lồ sám hối đi chăng nữa.
Ngài
Jetsun Mila đã nói rằng:
Con
có thể nghi ngờ rằng sám hối không thể thực sự tịnh
hoá các ác hạnh,
Nhưng
nếu tâm thức của con trở nên thuần thiện, thì con đã được
tịnh hoá rồi.
Điều
tuyệt đối căn bản của bất cứ pháp sám hối nào là cần
phải dựa trên tất cả bốn ‘lực’ tịnh hoá nghiệp như
là phương pháp đối trị.
II.
TỨ LỰC TỊNH HOÁ NGHIỆP(Bốn Lực Tịnh Hoá Nghiệp)
Tứ
lực tịnh hoá nghiệp bao gồm (1) lực hỗ trợ (nương vào
quy y và phát tâm Bồ Đề), (2) lực ân hận đã hành ác hạnh,
(3) lực quyết chí chuyển tâm và (4) lực quyết chí hành thiện
hạnh. Tứ lực tịnh hoá nghiệp này là các phương pháp đối
trị.
1.
Lực Hỗ Trợ
Trong
trường hợp này, lực hỗ trợ có được là nhờ ta phát
tâm quy y Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) và phát Bồ Đề
Tâm cùng với việc thực hành các hạnh Bồ Tát. Trong các
trường hợp khác, sức mạnh hỗ trợ có thể đến từ đối
tượng đặc biệt mà ta phát lộ sám hối với. Ví dụ như
khi ta trì tụng bài sám hối trong Tam Tụ Kinh (Đại Thừa Sám
Hối Tam Tụ Kinh), sức mạnh hỗ trợ đến từ Ba Mươi Lăm
vị Phật. Lực gia hộ đó cũng có thể đến từ một
vị Thầy, hoặc một biểu tượng cho thân, khẩu và ý của
chư Phật – nói tóm lại, có thể là bất kỳ ai hay đối
tượng nào mà trước sự hiện diện các vị ấy hay các biểu
tượng ấy, ta phát lồ sám hối.176
Trước
khi thực hiện bất kỳ sự sám hối nào, việc phát khởi
Bồ Đề Tâm và thực hành các hạnh Bồ Tát là việc
không thể thiếu được. Đức Phật đã dạy rằng khi sám
hối các ác hạnh và các giới đã phạm mà không phát khởi
tâm Bồ Đề, thì cho dù có áp dụng bốn lực tịnh hoá nghiệp,
nghiệp chướng chỉ có thể giảm thiểu, nhưng không thể
được tịnh hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu tâm Bồ Đề được
khởi phát một cách chân thành, thì tự bản thân việc ấy
sẽ tịnh hóa được tất cả các ác nghiệp trong quá khứ,
cho dù nghiệp tội có nặng đến đâu.177 Trong Nhập Bồ Tát
Hạnh, ngài Santideva nói về Bồ Đêà Tâm như sau:
Họ
đi qua hiểm nguy như được anh hùng che chở,
Ngay
cả những kẻ bị trọng tội khủng khiếp đè trĩu
Sẽ
lập tức được giải thoát nhờ có Bồ Đề Tâm.
Như
thế ai không đặt niềm tin nơi đóù ?
Như
các cơn bão lửa cuối thời đại,
Bồ
Đề Tâm sẽ hoàn toàn thiêu hủy trọng tội.
2.
Lực Ân Hận Đã Hành Ác Hạnh
Lực
ân hận đã hành ác hạnh có được khi ta ăn năn hối hận
về các việc lầm ác đã làm trong quá khứ. Không thể tịnh
hóa được nếu ta không thấy ra rằng các ác hạnh của mình
là sai lầm, và phát tâm sám hối với lòng ân hận sâu xa,
không che đậy giấu giếm bất cứ điều gì.178 Trong Tam Tụ
Kinh (Đại Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh), chúng ta trì tụng như
sau:
Con
xin sám hối tất cả (các ác nghiệp), không giấu giếm hay
che đậy bất cứ điều gì.
Bậc
thiện tri thức và thành tựu giả Karma Chagme đã có nói:
Ác
nghiệp của quá khứ giống như một độc tố tiềm tàng,
Nếu
sám hối mà không hối hận thì không thể tịnh hóa được.
Vì
thế các con hãy sám hối với sự hổ thẹn, sợ hãi và lòng
ân hận sâu xa.
3.
Lực Quyết Chí Chuyển Tâm
Lực
quyết chí chuyển tâm có được khi ta nhớ lại các lỗi lầm
đã phạm phải và quyết tâm từ giờ trở đi không sẽ bao
giờ tái phạm một lần nữa, cho dù có phải trả giá bằng
mạng sống quí báu của mình. Trong Tam Tụ Kinh (Đại Thừa
Sám Hối Tam Tụ Kinh), chúng ta tụng như sau:
Từ
giờ về sau, con nguyện quyết chấm dứt phạm ác hạnh.
Và
trong Bài Nguyện Vãng Sanh Vào Cõi Cực Lạc có viết rằng:
Nếu
không lập thệ nguyện từ nay đến mãi về sau, thì không
có tịnh hóa,
Vì
thế con lập lời thệ nguyện này, quyết từ nay cho đến
mãi về sau
Dù
phải trả giá bằng mạng sống của mình, con quyết không
phạm điều bất thiện.
4.
Lực Quyết Chí Hành Thiện Hạnh
Lực
tịnh hoá nghiệp này đòi hỏi phải hoàn thành thật nhiều
điều thiện, như liều thuốc để giải các ác nghiệp trong
quá khứ. Lực này đặc biệt bao gồm các hạnh như lễ lạy
chư Phật và Bồ Tát, hoan hỉ trước công đức của người
khác, hồi hướng các công đức trong tương lai của mình để
đạt được Giác Ngộ, nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm và hành các
hạnh Bồ Tát, cũng như an trụ trong trạng thái như nhiên bất
biến [của chân tâm].
Một
ngày kia, có một thiền giả là đệ tử của Ngài Dagpo Rinpoche
vô song, nói với thầy mình rằng, ông cảm thấy rất ân hận
mỗi khi nhớ lại việc mình đã kiếm sống bằng cách bán
các Kinh điển.
“Vậy
hãy đi in sách,” Đạo Sư bảo ông ta.179
Thế
là ông lao vào việc in sách, nhưng rồi ông nhận ra rằng công
việc này khiến ông bị phân tâm rất nhiều. Thất vọng,
ông trở lại gặp thầy mình.
“Việc
in ấn kinh sách này làm con bị phân tâm quá nhiều,” ông
nói. “Không có phương pháp sám hối nào sâu xa hơn việc
an trụ trong chân tánh*, điều này không đúng sao ?”
*
Sự an trụ trong trạng thái nhận biết bản tánh của tâm.
Ngài
Dagpo Rinpoche rất vui mừng và nói rằng ông hoàn toàn đúng.
“Cho dù con phạm vào các ác hạnh khổng lồ như Núi Tu Di,”
Ngài nói, “chúng sẽ được tịnh hóa ngay khi con nhận ra
được chân tánh đó.”
Quả
thực, để tẩy sạch các ác hạnh quá khứ thì không có cách
thức nào sâu sắc hơn sự thiền định về Bồ Đề Tâm và
giữ cho tâm an trụ trong bản tánh như nhiên bất biến.
Hai điều này phải được ghi rõ trong tâm khảm khi thực hành
các chi tiết thiền quán về đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva),
chẳng hạn như khi [quán tưởng là mình đang được tịnh
hoá bằng] giòng suối cam lộ, hay khi trì tụng bách tự minh
chú, vân vân. Để thực hành chính pháp thiền quán và trì
tụng, hãy noi theo các chỉ dẫn dưới đây, trong lòng luôn
luôn ghi nhớ những ý nghĩa thuần tịnh đặc biệt180 của
mỗi một chi tiết trong khung cảnh của bốn lực tịnh hoá
nghiệp.
III.
PHÁP THIỀN QUÁN KIM CANG TÁT ĐỎA (Vajrsattva)
Trong
những phần quán tưởng sau đây, hãy quán bản thân mình trong
thân tướng bình thường.181 Lơ lửng giữa không gian cách
chừng một mũi tên trên đỉnh đầu, hãy quán tưởng một
toà sen trắng ngàn cánh mở lớn và ở trên toà sen là một
đài trăng tròn đầy. Khi nói “đài trăng tròn đầy”,
điều đó không có nghĩa là đài trăng phải lớn cỡ nào,
mà chỉ để biểu thị rằng nó tròn trịa, đều đặn thật
toàn hảo và giống như mặt trăng tròn đầy vào ngày rằm
âm lịch. Trên đài trăng, hãy quán tưởng một chữ hum** màu
trắng sáng chói. Theo các truyền thống khác thì chữ hum này
phóng toả ánh sáng rồi lại thu nhiếp ánh sáng ấy trở lại,
nhưng theo phương pháp quán tưởng ở đây thì không phải
quán như vậy.
**
Chữ hūm Tây Tạng được tìm thấy ở Chương Ba, Phần III.
Trong
giây khắc, chữ hum chuyển hóa thành vị Bổn Sư vinh quang,
là nguồn bi mẫn vô song; tự bản chất, Ngài chính là chân
tánh của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương
lai cùng hội tụ lại. Ngài xuất hiện trong thân tướng của
Báo Thân Phật,182 là đức Kim Cang Tát Đoả, mang sắc trắng,
sáng chói như đỉnh núi phủ tuyết được trăm ngàn mặt
trời chiếu sáng.
Ngài
có một mặt và hai tay. Ở trước ngực, tay phải Ngài cầm
chùy Kim Cang năm ngặc, tượng trưng cho giác tánh và tánh Không.
Dựa bên hông trái, tay trái Ngài cầm chuông, tượng trưng
cho sắc tướng và tánh Không.183 Hai chân Ngài bắt chéo trong
thế kiết già; Ngài đeo mười ba châu báu trang sức của
Báo Thân – năm trang phục bằng lụa và tám món châu báu.
Năm
trang phục bằng lụa là: 1/ dải buộc đầu, 2/ thượng y,
3/ khăn choàng dài, 4/ dây lưng và 5/ hạ y.
Tám
món châu báu là: 1/ vương miện, 2/ hai hoa tai, 3/ một chuỗi
hạt ngắn, 4/ hai vòng đeo ở hai cánh tay, 5/ hai chuỗi hạt
dài, một cái dài hơn cái kia,184 6/ hai vòng ở hai cổ tay,
7/ hai chiếc nhẫn ở hai bàn tay và 8/ hai vòng đeo ở hai cổ
chân.
Đức
Kim Cang Tát Đoả ngự trên đầu ta, quay mặt cùng hướng với
ta. Ngài ôm vị phối thân Vajratopa cũng sắc màu trắng, trong
sự hợp nhất bất khả phân.185 Thân tướng các Ngài là sự
hoạt hiện từ tánh Không, tuy hiện diện sống động nhưng
phi vật chất, giống như ánh trăng phản chiếu trong nước
hay hình sắc phản chiếu trên gương.
Quán
tưởng như vậy đem lại cho ta lực hỗ trợï. Hình ảnh quán
tưởng này không bằng phẳng như một bức hoạ Phật (tangka)
hay như một tranh bích họa. Hình ảnh này không bất động
vàø vô hồn như một bức tượng đấùt sét hay vàng, những
vật thể mang tính chất đặc rắn và cụ thể. Mỗi một
chi tiết xuất hiện rõ ràng và sống động, kể cả con ngươi
và lòng trắng của mắt. Tuy thế hình ảnh (của đức
Kim Cang Tát Đỏa) lại là mang tánh Không: không mang thể
đặc rắn, không thịt, không máu, không các cơ quan nội tạng.
Hình ảnh quán tưởng ấy giống như cầu vồng hiển hiện
trong không trung hay giống như một cái bình pha lê trong suốt.
Và hình ảnh ấy thấm đẫm trí tuệ: đức Kim Cang Tát
Đoả mang bản chất đồng nhất với vị Bổn Sư bi mẫn của
ta, và tâm của Ngài trải tới ta và tất cả chúng sinh với
lòng từ bi vô hạn.
Nói
về lực ân hận đã hành ác hạnh thì trước sự hiện diện
của Ngài, hãy tưởng nghĩ đến tất cả những ác hạnh mà
bạn cóù thể nhớ được, những ác hạnh mà bạn đã tích
tụ từ đời đời kiếp kiếp vô thỉ cho đến ngày nay: mười
ác hạnh của thân, khẩu và ý, năm trọng tội với quả báo
tức thời, bốn trọng tội, tám hành động lầm lỗi, tất
cả những vi phạm các giới Biệt Giải Thoát thuộc về bên
ngoài, các giới luật Bồ Tát bên trong, hay các thệ nguyện
Mật Thừa của các bậc Trì Minh Vương (Vidyadhara), cùng tất
cả các lời hứa thông thường mà bạn không giữ được,
tất cả mọi điều dối trá mà bạn đã nói và tất cả
mọi điều đáng hổ thẹn và ô nhục mà bạn đã làm. Hãy
nghĩ rằng mình đang sám hối tất cả những lỗi lầm ấy
trước sự hiện diện của vị tôn sư Kim Cang Tát Đỏa, toàn
thân bạn nổ tung, da sởn gai ốc, vì xấu hổ, sợ hãi
và ân hận. Bạn có thể tin chắc rằng, trải qua vô lượng
kiếp trong luân hồi, bạn đã từng phạm nhiều ác hạnh không
thể nhớ hết, vì thế hãy sám hối tất cả và nói rằng:
“Con
không giữ điều gì bí mật, con không che dấu điều gì hết.
Con xin thành tâm sám hối và xin được lượng thứ. Xin Ngài
hãy thương xót con! Ngay giờ đây, ngay lúc này và chính nơi
đây, xin hãy tẩy sạch và tịnh hóa con khỏi mọi ác nghiệp
và khỏi mọi che chướng của con, khiến không còn sót lại
bất kỳ một điều ác nào!”
Đối
với lực quyết chí chuyển tâm thì hãy nghĩ rằng: “Bởi
sự vô minh và mê lầm của con, cho tới lúc này đây, con đã
tích lũy tất cả các ác hạnh đó. Nhưng giờ đây, nhờ lòng
bi mẫn của bậc Bổn Sư từ ái của con, con đã hiểu ra được
đâu là điều lợi lạc và đâu là điều ác hại. Con sẽ
không bao giờ tái phạm ác hạnh nữa, cho dù phải trả giá
bằng mạng sống của con.”
Ghi
nhớ trong tâm ý nghĩa thanh tịnh của phương cách quán tưởng,180
rồi hãy trì tụng bản văn gốc, bắt đầu từ câu:
Ah!
Con đang ở trong thân tướng bình thường của con, và trên
đỉnh đầu con
xuống
tới những chữ sau đây:
..Xin
hãy tịnh hóa con cho tới khi không còn sót lại bất kỳ
một điều ác nào!
Tiếp
theo, nơi trái tim của đức Kim Cang Tát Đỏa khi ấy đang hợp
nhất bất khả phân với vị phối thân của Ngài, hãy quán
tưởng một đài trăng phăúng lì, kích cỡ không lớn hơn
một hột giống mù tạc, và trên đài trăng đó là một chữ
hum trắng, cực kỳ mảnh, như thể chữ ấy được vẽ bằng
một sợi tóc vậy. Trong khi đọc bài bách tự minh chú “Om
Vajrasattva Samaya...”, hãy quán tưởng các ký tự của minh
chúù được xếp quanh chữ hum theo vòng tròn. Không có chữ
nào chạm và
o
nhau, như những sừng trâu khi chúng đứng sát liền nhau.* Sau
đó hãy trì tụng bài bách tự minh chú để cầu nguyện, đồng
thời hãy tưởng tượng rằng nước cam lộ đại bi đại
giác đang nhỏ xuống từ mỗi kýù tự, từng giọt từng giọt
lấp lánh, giống như nước nhỏ xuống từ băng đá khi nó
tan chảy gần lửa vậy. Ào chảy qua thân của đức Kim Cang
Tát Đoả, nước cam lộ thoát ra từ điểm hợp nhất của
Ngài với vị phối thân, và xuyên qua đỉnh đầu bạn, chảy
vào bạn và cũng chảy vào tất cả chúng sinh khác.
*
Đó là, sát liền nhau không bị vướng
Như
bụi đất được gội sạch bởi giòng suối ồ ạt, mọi
bệnh tật của thân thể ta được trục ra trong hình thức
của máu mủ hôi thối. Mọi tà lực đều bị trục xuất
trong hình thức của những con nhện, bọ cạp, cóc, cá, rắn,
nòng nọc, chấy rận và những sinh vật cùng loại. Mọi ác
hạnh và nghiệp chướng được thải ra dưới dạng của chất
lỏng, bụi đất, khói, mây và hơi nước màu đen. Tất cả
các chất thải này bị dòng thủy triều cam lồ cuốn đi không
thể cưỡng lại được và chảy tràn ra ngoài thân thể bạn
như một trận mưa rào màu đen qua các lỗ phía dưới (cửa
mình và hậu môn), qua gót chân và mọi lỗ chân lông trên
da ban. Mặt đất dưới chân bạn mở ra và tận đáy sâu,
Thần Chết - hiện thân của các hành nghiệp của bạn trong
quá khứ ¬xuất hiện. Chung quanh Thần Chết là tất cả các
chúng sinh nam nữ mà bạn mắc nợ nghiệp, và tất cả những
chúng sinh này đang cố đòi bạn món nợ máu. Khi trì tụng
bách tự minh chú, hãy quán tưởng tất cả những chất bất
tịnh đó trút xuống những cái miệng đang mở ra của những
chúng sinh kia, và xuống các bàn tay và cánh tay mong đợi của
họ đang giang về phía bạn.
Nếu
có thể, hãy quán tưởng tất cả các chi tiết của toàn bộ
pháp tu này cùng một lúc. Nếu không thì có thể quán tưởng
một cách tuần tự [từng chi tiết một]. Khi trì tụng bài
minh chú, có thể khi thì tập trung nơi sắc tướng của đức
Kim Cang Tát Đỏa, nơi khuôn mặt, đôi bàn tay Ngài và v.v..,
khi thì tập trung trên các món châu báu trang sức và y phục
của Ngài; hay trên dòng cam lồ đang tịnh hóa các bệnh tật,
các tà lực, các ác hạnh và che chướng; hoặc tập trung vào
cảm xúc hối hận về những gì bạn đã từng làm và quyết
tâm không bao giờ lặp lại những việc đó nữa.
Sau
cùng, hãy tưởng tượng rằng Thần Chết – hiện thân của
các ác hạnh trong quá khứ, và các chúng sinh dưới mặt đất
– tất cả các oan gia này, và những kẻ đang cố gắng đòi
bạn trả món nợ máu, đều được mãn nguyện. Các vết tích
quá khứ được thanh toán, nợ nần được trang trải và hận
thù được tẩy sạch. Bạn được thanh lọc, mọi hành động
bất thiện trong quá khứ và các che chướng được tẩy tịnh.
Thần Chết khép miệng cùng hai tay lại và hạ hai tay xuống.
Mặt đất cũng khép lại.
Hãy
tưởng tượng rằng giờ đây bên trong và bên ngoài thân thể
bạn trở nên trong suốt, và thân bạn là thân ánh sáng. Hãy
quán tưởng đường kinh mạch trung ương chạy thẳng trong
thân bạn, ở bốn điểm dọc theo bề dài của đường kinh
mạch này là bốn luân xa**-- nơi bốn luân xa này, các kinh
mạch (phụ)186 tỏa ra hết cỡ như những nan của một cái
dù. Ở ngang rốn bạn là luân xa hiển lộ, với sáu mươi
tư đường kinh mạch tỏa ra hướng lên trên. Ở ngang tim bạn
là luân xa Pháp, với tám kinh mạch tỏa ra hướng xuống dưới.
Trong cổ họng bạn là luân xa hỉ lạc, với mười sáu kinh
mạch tỏa ra hướng lên trên. Trên đỉnh đầu bạn là luân
xa đại lạc, với ba mươi hai kinh mạch tỏa ra hướng xuống
dưới.
**
Phạn. Cakra
Sau
đo, chất cam lồ lại bắt đầu chảy xuống như trước. Bắt
đầu với luân xa đại lạc trên đỉnh đầu bạn, nước
cam lồ làm ngập đầy kinh mạch trung ương và ngập đầy
mỗi một trong bốn luân xa rồi tràn ra ngoài, đầy ngập toàn
thân bạn cho tới đầu các ngón tay và bàn chân bạn. Tràn
ngập chất cam lồ trắng, bạn giống như một cái bình pha
lê đựng đầy sữa.
Hãy
quán tưởng rằng bạn đang nhận lãnh bốn nghi thức quán
đảnh hay gia trì:187 gia trì tịnh bình (hay gia trì thân) (vase
empowerment), gia trì ẩn mật, gia trì trí tuệ và gia trì ngôn
từ quí báu. Bạn cũng tịnh hóa được bốn loại chướng
ngại: các chướng ngại về nghiệp (nghiệp chướng), các
chướng ngại thuộc về những cảm thọ tiêu cực (phiền
não chướng), các chướng ngại thuộc về ý niệm (sở tri
chướng) và các chướng ngại thuộc về tập khí (khuynh hướng
quen thuộc). Trí tuệ của bốn trạng thái hỉ lạc xuất hiện
trong bạn: hỉ lạc, hỉ lạc tối thượng, hỉ lạc phi thường
và hỉ lạc nguyên sơ. Bốn Thân Phật, trong các quả vị chứng
đắc khác nhau, được an lập trong bạn: Hóa Thân, Báo Thân,
Pháp Thân và Tự Tánh Thân.
Sau
đó hãy trì tụng bài cầu nguyện, bắt đầu bằng câu:
Ôi
Bậc Hộ Trì, trong vô minh và mê lầm..
và
chấm dứt ở câu:
...Con
khẩn nguyện Ngài, xin tẩy sạch và tịnh hóa con!
Hãy
tưởng tượng rằng vào giây phút bạn trì tụng những giòng
này, đấng Đạo Sư Kim Cang Tát Đoả vui lòng, mỉm cười,
và ban cho sự cầu nguyện của bạn những lời sau đây:
Hỡi
kẻ may mắn, tất cả mọi ác hạnh, chướng ngại, phá rối
và vi phạm của con đã được tịnh hoá.
Rồi
Ngài tan ra thành ánh sáng và tan hòa vào bạn, khiến cho bây
giờ bản thân bạn được chuyển hóa thành đức Kim Cang Tát
Đỏa, giống như bạn đã quán tưởng Ngài trước đây.
Hãy
quán tưởng ở trong tim của Ngài một đài trăng, kích cỡ
chỉ bằng một hột giống mù tạc đập dẹp . Ở giữa đài
trăng là một chữ hum màu xanh dương. Phía trước chữ hum
là chữ om màu trắng; bên trái là chữ vajra màu vàng; phía
sau là chữ sa màu đỏ; và bên phải là chữ tva màu xanh lá
cây.
sa
tva
hum vajra
om
Khi bạn
trì tụng “Om Vajra Sattva Hum,” năm tia sáng trắng, vàng, đỏ,
xanh lá cây, và xanh dương phát ra từ những chữ tương ứng
theo một hướng đi lên. Tận cùng các tia sáng này là Thiên
Nữ Nhan Sắc và các thiên nữ đang cúng dường khác. Từ bàn
tay của họ hiện ra vô số phẩm vật cúng dường, như tám
món biểu tượng tốt lành và bảy báu vật tượng cho trưng
vương quyền, những cánh dù có diềm xung quanh, những tràng
phan chiến thắng, màn trướng, luân xa ngàn nan hoa nạm vàng,
các vỏ ốc xà cừ màu trắng xoắn về bên phải và v.v...
Các phẩm vật cúng dường này làm vui lòng tất cả chư Phật
và Bồ Tát trong hằng hà sa số các cảnh giới thanh tịnh
không thể nghĩ bàn ở khắp mười phương, giúp bạn hoàn
tất việc tích lũy công phu cúng dường vàø tịnh hóa những
chướng nghiệp của mình. Lòng đại bi và sự gia trì của
tất cả chư Phật phóng toả ngược lại về bạn dưới hình
thức của các tia sáng nhiều màu khác nhau và những ánh sáng
này hoà tan vào bạn. Nương vào đó, kết quả là bạn đạt
được các thành tựu siêu việt và các thành tựu thông thường;
đạt được bốn cấp bậc của Trì Minh Vương có liên hệ
đến con đường tu, và kết quả cuối cùng là quả vị Chánh
Đẳng Chánh Giác (kết hợp giữa Pháp Thân và Sắc Thân).188
Sự quán tưởng này tạo những giềng mối để giúp bạn
chứng đắc Pháp Thân và đem lại lợi lạc cho chính mình.
Sau
đó, hãy quán tưởng rằng hằng hà sa số các tia sáng muôn
màu phóng toả từ năm ký tự, chạm tới tất cả chúng sinh
đang cư trú trong sáu cõi của tam giới, và tịnh hóa mọi
ác hạnh, mọi che chướng, đau khổ và mọi tập khí, giống
như ánh sáng mặt trời rạng đông xua tan bóng tối. Toàn thể
thế giới trở thành Điều Hỷ Quốc (Abhirati - Cõi Tịnh Độ
của Bất Động Phật Akshobhya). Mọi chúng sinh trong đó được
chuyển hóa thành các đức Kim Cang Tát Đoả màu trắng, vàng,
đỏ, xanh lá cây và xanh dương. 189 Hãy trì tụng minh chú và
quán tưởng rằng tất cả chúng sinh cũng đang tuyên đọc
minh chú “Om Vajra Sattva Hum” với âm thanh rền vang xa rộng.
Sự quán tưởng này tạo những giềng mối giúp bạn đạt
được Rupakaya*(Sắc thân) và làm lợi lạc những người khác.
*
Rupakaya, gzugs sku: Sắc thân (xem Thuật ngữ)
Về
cách thức quán tưởng này, trong Pháp Hành Trì Giải Thoát
Tức Thời Các Tập Khí Bám Chấp có nói rằng:
Khi
đem lại lợi lạc cho chính mình và những chúng sinh khác bằng
cách phóng tỏa và thu nhiếp lại ánh sáng, ta được
tẩy tịnh khỏi các sở tri chướng.
Khi
áp dụng pháp quán tưởng như thế, các phương tiện thiện
xảo của Kim Cương Thừa giúp ta tích lũy, trong khoảnh khắc,
một số lượng công đức và trí tuệ không thể nghĩ bàn,
và đồng thời lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh khắp
các cõi.
Hãy
trì tụng bài minh chú càng nhiều lần càng tốt, và khi kết
thúc thời khóa, hãy quán tưởng toàn thể thế giới mà bạn
cảm nhận chính là cõi Phật Điều Hỷ Quốc hòa tan vào các
chúng sinh đang cư trú trong đó – các chúng sinh này (thể
hiện trong sắc tướng của) đức Kim Cang Tát Đoả thuộc
năm Phật Bộ. Rồi các vị Hộ Phật này (trong sắc tướng
của Kim Cang Tát Đoả) từ từ tan thành ánh sáng và tan
hòa vào bạn. Sau đó bản thân bạn tan thành ánh sáng từ
ngoài vào trong, và ánh sáng đó hòa tan thành chữ om trong tâm
điểm của bạn. Chữ om hòa tan thành chữ vajra, vajra tan thành
sa, sa tan thành tva, tva tan thành shapkyu của chữ hum, shapkyu
tan thành a nhỏ, a nhỏ tan thành thân của ha, thân tan vào đầu,
đầu tan vào mặt trăng lưỡi liềm, trăng lưỡi liềm tan
vào (giọt) bindu và bindu tan vào (dấu móc) nada.
Sau
đó (dấu móc) nada, giống như một chiếc cầu vồng tan vào
không gian, tan hoà thành một (trạng thái) đơn thuần, không
đắm nhiễm bất kỳ ý niệm hay sự tạo tác nào. Hãy an trụ
trong trạng thái đó trong một khoảng thời gian.
Khi
các niệm tưởng bắt đầu xuất hiện, hãy quán tưởng rõ
ràng rằng toàn thể thế giới và chúng sinh trong đó như là
Cõi Tịnh Độ của đức Kim Cang Tát Đoả.
Sau
hãy hồi hướng công đức bằng những lời tụng như sau:
Nhờ
công đức của công phu hành trì này, xin cho con mau chóng đạt
được quả vị của đức Kim Cang Tát Đỏa.
và
v.v... và tụng đọc những lời cầu nguyện thiết tha khác.
Trong
khi thực hành bất kỳ pháp thiền định và trì tụng nào,
kể cả việc thực hành và trì tụng Kim Cang Tát Đoả, không
bao giờ được để tâm sao lãng khỏi pháp hành trì, và không
được gián đoạn việc trì tụng bằng việc sử dụng ngôn
ngữ bình thường. Trong các Mật điển có nói rằng:
Trì
tụng mà không chú tâm
Thì
giống như ngâm một hòn đá tận cùng đáy sâu của đại
dương;
Cho
dù cả một đại kiếp cũng chẳng mang lại kết quả.*
và:
Thanh
tịnh thì một ngàn lần tốt hơn bất tịnh,190
Chú
tâm thì trăm ngàn lần tốt hơn không chú tâm.
*
Dù hòn đá nằm ở đó bao lâu chăng nữa, nước sẽ chẳng
bao giờ thấm vào nó.
Vàng
hay bạc, dù chỉ chứa chút xíu đồng thau hay đồng đỏ,
cũng bị coi là “không phải vàng thật” hoặc “bạc giả”.
Cũng như vậy, nếu trộn lẫn chuyện tầm phào phàm tục khi
đang trì tụng các câu minh chú hoặc khi đang thực hành thì
sẽ làm cho minh chú trở thành bất tịnh. Đó là lý do tại
sao Đại Đạo Sư xứ Oddiyana có nói:
Một
tháng trì tụng không pha lẫn ngôn từ nào khác
Thì
tốt hơn một năm trì tụng mà bị ô nhễm.
Tương
tự như vậy, đối với những người cử hành các nghi lễ
trong các ngôi làng thì trong khi đang trì tụng những lời cầu
nguyện và minh chú thì quan trọng nhất là cần kiềm chế,
không nói chuyện phiếm trong vòng những người của hội chúng.
Nếu những câu trì tụng như vậy bị trộn lẫn với ngôn
ngữ bình thường, lời trì tụng sẽ mất đi mọi ý nghĩa.
Đặc biệt
hơn
nữa, khi một buổi lễ được cử hành cho một người đã
chết thì kẻ đó, trong nỗi khiếp sợ và đau khổ của trạng
thái trung ấm, sẽ chạy xô tới vị mạnh thường quân, tới
các nhà sư đã được thỉnh mời và các Lạt Ma đang hành
lễ, hy vọng tìm được sự cứu giúp. Chúng sinh trong trạng
thái trung ấm biết rõ những gì đang xảy ra trong tâm người
khác. Nếu những người hành lễ không tập trung cao độ,
nếu họ không giữ các giới nguyện và mật nguyện, hoặc
nếu những điều họ nói và nghĩ xuất phát từ sự ham muốn
và thù hận, thì chúng sinh trong trạng thái trung ấm sẽ cảm
thấy giận ghét họ, hoặc có cái nhìn không tốt về họ,
và kết cục là sẽ rơi vào những cảnh giới thấp. Các chúng
sinh sẽ thanh thản hơn khi không có sự giúp đỡ của những
loại người như thế.
Trong
các nghi lễ hay Mật Pháp của Mật Tông Kim Cương Thừa có
nói rằng: “Trì tụng các nghi quỹ quán tưởng của giai đoạn
phát triển (generation phase) là phương pháp sử dụng ngôn từ
để tiếp cận.” Các ngôn từ dùng trong nghi quỹ quán tưởng
là nhằm mục đích giúp cho tâm ta hồi nhớ lại các chi tiết
của giai đoạn phát khởi.191 Tuy nhiên đối với nhiều người
cử hành các buổi lễ như vậy thì mục đích thực sự của
việc quán tưởng, vốn là ý nghĩa của giai đoạn phát triển
và thành tựu, lại chẳng mảy may xuất hiện trong tâm trí
họ. Họ chỉ thốt ra những ngôn từ của các nghi lễ một
cách vô tâm, như “quán tưởng,” “thiền định,” và “chú
tâm,” sử dụng mọi loại ngôn từ hoa mỹ, thổi kèn trum-pét,
đánh các xập xõa và trống. Cuối cùng, đến thời điểm
quan trọng nhất, giai đoạn thực hành khi mà họ cần phải
trì tụng minh chú, thì vào lúc đó, họ lại cảm thấy như
vừa thoát xong trách nhiệm của mình. Họ không còn cố gắng
nữa dù chỉ để ngồi thẳng lưng. Họ bắt đầu hút thuốc
lá, nguồn gốc của hàng trăm hành động sai trái,192 và tuôn
ra một kho đầy ắp những lời huyên thuyên vô ích, bàn cãi
không dứt mọi chuyện ở địa phương từ các đỉnh núi
tới đáy thung lũng, từ các đường đèo tới những vùng
đất trũng. Trong khi huyên thuyên, họ dùng thì giờ lần chuỗi
bằng các ngón tay với tốc độ cao nhất, như thể họ đang
làm xúc xích. Về chiều, liếc nhìn bầu trời và ngó chừng
vị trí mặt trời, họ bắt đầu hát cùng với tiếng loảng
xoảng huyên náo của các xập xõa “Vajra puspe dhupe...”193
và v.v… Hành lễ như vậy không phải là hành lễ đúng
đắn, thậm chí không cả được là sự phản chiếu của
một sự phản chiếu của một buổi lễ. Thật không có gì
phải nghi ngờ rằng việc trì tụng chỉ một lần Kinh Sám
Hối hoặc bài Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán, với tâm nguyện
hoàn toàn thanh tịnh, còn có lợi lạc hơn nhiều [so với những
nghi lễ được cử hành không đúng đắn].
Khi
trì tụng một cách bất tịnh và cử hành các nghi lễ một
cách bôi bác thì các Lạt Ma này khiến cho người chết bị
tái sinh vào những cõi thấp kém hơn. Tương tự như vậy,
đối với người sống, họ cũng sẽ chỉ làm hại nhiều
hơn là đem lại lợi ích với cách thức hành lễ của họ.
Hơn nữa, việc lạm dụng các cúng dường của người khác
theo cách này hoàn toàn giống như “nuốt những viên kim khí
nóng đỏ.”194
Các
Lạt Ma và nhà sư hưởng lợi lạc từ những cúng dường
của thí chủ và từ những tài sản của người đã chết,
cho nên việc hành trì của họ, từ trong tâm khảm, phải mang
một ý nghĩa nào nhiều hơn là chỉ đơn thuần lượng định
về khối lượng thịt, về độ dày của miếng phó mát, và
về chất lượng của các phẩm vật cúng dường mà họ nhận
được. Dù họ cử hành nghi lễ cho người đang bệnh hay người
đã mất, thì đối với những chúng sinh này, những giây phút
hành lễ này thật là vô cùng quan trọng. Đối với những
người đã chết không biết nương tựa nơi đâu, để thoát
khỏi đau khổ, họ cần được quan tâm và bảo vệ bằng
lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, cùng ước nguyện chân thành
của vị Lạt Ma hành lễ muốn cứu giúp họ. Một cách chân
thành và không sao lãng, các vị Lạt Ma phải cố gắng hết
sức để thực hành bất kỳ pháp nào mà họ biết về giai
đoạn phát khởi và thành tựu. Nếu họ không biết chút gì
về các pháp này thì họ chỉ nên cố gắng tập trung tư tưởng
vào ý nghĩa của các ngôn từ mà họ đang trì tụng. Và ít
nhất, họ nên tập trung toàn thể thân, khẩu, ý họ vào lòng
từ và bi đối với các chúng sinh đang đau khổ, và tập trung
lòng tin của họ vào năng lực không thể nghĩ bàn của Tam
Bảo. Nếu họ cũng có thể đảm bảo được rằng họ thực
hiện nghi lễ một cách đúng đắn nhờ vào việc đã trì
tụng các văn bản và các câu minh chú khác nhau một cách chính
xác, thì chắc chắn rằng nhờ vào lòng bi mẫn của Tam Bảo,
nhờ năng lực không thể nghĩ bàn của các quả thiện hạnh
và nhờ lợi lạc vô biên của Bồ Đề Tâm, họ thực sự
có thể giúp đỡ được người bệnh hoặc người chết.
Đó là tất cả những gì các Lạt Ma nên cố gắng thực hiện.
Như trong câu nói “làm tan biến các chướng ngại của riêng
mình trên nệm ngồi của người khác,”* họ sẽ đồng thời
hoàn tất hai phần tích lũy công đức cho chính họ và cho
những người khác. Họ cũng gia hộ tất cả những ai có
liên hệ với họ đến với con đường giải thoát.
*
Điều này có nghĩa là bất kỳ cơng phu hành trì nào được
thực hiện với động cơ giúp đỡ người khác sẽ làm lợi
lạc không chỉ người đó mà cả cho người đang hành trì
công phu.
Ngày
nay, có những Lạt Ma và nhà sư được coi là ít nhiều giỏi
hơn những người khác, và là những người hiểu biết nguyên
lý nhân quả, đã quá sợ hãi các ô nhiễm liên quan đến
các phẩm vật cúng dường đến nỗi họ từ chối ngay cả
việc phải gia trì hay hồi hướng cho những chúng sinh đau
khổ đang bệnh tật hoặc đang sắp chết. Hành động như
vậy thì họ đã chặt đứt gốc rễ từ và bi của Bồ Đề
Tâm.
Nhưng
đa số đều cực kỳ ích kỷ. Họ tham dự vào các buổi lễ
theo lời thỉnh cầu của những thí chủ. Nhưng thay vì trì
tụng điều gì mà gia đình hữu sự câàn, thì họ lôi những
kinh sách cầu nguyện của riêng mình ra, đây là những kinh
sách cáu bẩn và sờn rách vì đã sử dụng lâu ngày, và như
là một cách bào chữa, các Lạt Ma này nói rằng không ai được
làm gián đoạn sự liên tục trong công phu hành trì riêng của
các Lạt Ma ấy. Rồi họ trì tụng kinh sách của riêng họ
trong khi những người khác thì lại đang đọc các bài cầu
nguyện.195 Bất kỳ lúc nào, cho dù họ đọc các bài nguyện
ngắn nhất để cầu xin cho bản thân mình được tốt
lành, thì họ cũng vô cùng thận trọng, và tuyên bố rằng
họ đang tịnh hóa các chướng ngại của riêng mình hay tịnh
hoá việc họ đã lạm dụng các vật cúng dường. Nhưng họ
lại coi việc cầu nguyện trong những hội chúng đông đảo
vì lợi lạc của những thí chủ là những việc vặt vãnh
làm họ mệt nhọc. Họ luôn nhìn vơ vẩn, muốn gì nói nấy
vàø thậm chí chẳng màng tưởng nghĩ gì đến người đã
chết hay người còn đang sống mà họ có nhiệm vụ phải
che chở gia hộ. Những việc làm này chặt đứt tận gốc
rễ lòng từ bi của Bồ Đề Tâm. Sau này, cho dù họ có nỗ
lực tự tịnh hóa sự lạm dụng các vật cúng dường đi
nữa, thì thái độ xấu xa và ích kỷ của họ sẽ khiến
việc tịnh hoá của họ rất khó thành công.
Thay
vào đó, ngay từ đầu hãy lấy lòng từ và bi của Bồ Đề
Tâm làm nền tảng căn bản. Đừng bao giờ từ bỏ ước nguyện
giúp đỡ người khác. Hãy nỗ lực chân thành để tận tụy
áp dụng mọi hiểu biết của mình về hai giai đoạn phát
khởi và thành tựu. Như vậy, việc thiền định về giai đoạn
phát khởi và thành tựu, cùng việc trì tụng minh chú ở nhà
người khác sẽ không có gì khác biệt với việc công phu
hành trì tại nhà mình. Trong cả hai trường hợp, việc gạt
bỏ các tư tưởng ích kỷ và việc quan tâm giúp đỡ người
khác đều cần thiết như nhau. Ta cần phải có cả hai
thái độ này.
Nếu
giữ cho tâm không sao lãng và không trộn lẫn những câu trì
tụng với ngôn ngữ tầm thường, thì chắc chắn rằng, việc
tụng đọc không gián đoạn bài bách tự minh chú một trăm
lẻ tám lần sẽ tịnh hóa tất cả các ác hạnh, tất cả
các chướng ngại cùng tất cả các bội tín và các vi phạm
giới nguyện và vi phạm mật nguyện. Hứa nguyện của Kim
Cang Tát Đoả là như vậy. Trong Diệt Tội Trang Nghiêm
Sám Hối Mật Điển có nói:
Bách
tự minh chú là tinh túy của tâm Giác Ngộ của tất cả các
Đấng Thiện Thệ. Bài minh chú này tịnh hóa mọi sự
phá giới, mọi vi phạm, mọi chướng ngại thuộc ý niệm
(sở tri chướng).
Bách
tự minh chú là pháp sám hối siêu việt, và việc trì tụng
bài minh chú này một trăm lẻ tám lần không gián đoạn sẽ
chữa lành được mọi sự phá giới, vi phạm, và sẽ cứu
ta khỏi bị đoạ vào ba cõi thấp.
Chư
Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai sẽ nhìn kẻ hành
giả trì tụng bài minh chú này trong công phu hằng ngày như
là đứa con xuất sắc nhất của các Ngài, ngay cả trong chính
đời này, và sẽ che chở và gia hộ kẻ ấy.
Vào
lúc chết, chắc chắn người ấy sẽ trở thành người xuất
chúng nhất trong những bậc trưởng tử của tất cả chư
Phật.
Đối
với sự bội ước hay vi phạm mật nguyện nào mà ta có thể
mắc phải sau khi đã bắt đầu bước trên con đường Kim
Cương Thừa, thì việc trì tụng mỗi ngày hai mươi mốt biến
bách tự minh chú trong khi thiền quán về đức Kim Cang Tát
Đoả sẽ tạo nên nhiều lợi lạc gọi là “năng lực gia
trì cho những sa ngã.” Trì tụng như vậy hằng ngày
sẽ ngăn cản không để cho hậu quả của những sa ngã này
phát triển hoặc tăng trưởng. Trì tụng một trăm ngàn lần
bài ấy sẽ hoàn toàn tịnh hóa mọi sa ngã. Trong Bảo Trang
Tối Yếu có nói:
Trì
tụng đúng đắn hai mươi mốt biến bách tự minh chú,
Trong
khi quán tưởng rõ ràng đức Kim Cang Tát Đoả
Ngự
trên toà sen trắng và đài trăng,
Tạo
thành năng lực gia trì nâng ta khỏi sa ngã,
Can
ngăn không cho sa ngã tăng trưởng.
Các
Đại Thành Tựu Giả đã dạy như thế.
Vì
thế, hãy luôn luôn hành trì pháp môn này.
Nếu
trì tụng bách tự minh chú một trăm ngàn lần,
Con
sẽ trở thành hiện thân đích thực của sự cực kỳ thuần
tịnh.
Ngày
nay ở Tây Tạng không có một Lạt Ma, một vị sư, cư sĩ
nam hay nữ nào mà chưa từng thọ nhận một lễ quán đảnh
và vì thế không ai không hành trì Mật Tông. Giờ đây, một
khi ta đã đi vào Mật Thừa, nếu không giữ các mật nguyện
thì ta sẽ đi xuống địa ngục, và nếu trì giữ mật nguyện
thì ta sẽ đạt được Phật Quả viên mãn. Không có con đường
thứ ba. Giống như đối với một con rắn bò theo bề dài
trong thân cây tre, có thể nói rằng chỉ có hai cách để chui
ra – thẳng lên hoặc thẳng xuống. Trong Kho Báu Thiện Đức
có nói:
Một
khi đã ở trong Mật Thừa, con chỉ có thể hoặc đi xuống
các cõi thấp,
Hoặc
đạt tới Phật Quả; không có hướng thứ ba.
Các
mật nguyện trong Kim Cương Thừa thì sâu sắc, rất nhiều
và khó giữ. Ngay cả đại đạo sư như Ngài Atisa đã nói
rằng sau khi bắt đầu tu tập trên con đường Kim Cương Thừa,
ngài đã liên tục mắc phạm hết lỗi lầm này đến lỗi
lầm khác. Đối với chúng ta ngày nay có rất ít cách đối
trị. Sự tỉnh giác của ta thì yếu ớt và ta lại không có
sự cẩn mật. Thậm chí chúng ta không thực sự hiểu rõ các
loại sa ngã khác nhau là gì. Bởi vì những sa ngã của chúng
ta chắc chắn lúc nào cũng nhiều như mưa rơi trút xuống đầu
nên điều tối quan trọng để chữa trị làø ta cần thực
hành thiền quán và trì tụng Kim Cang Tát Đỏa hằng ngày,
hoặc ít ra nhất định phải trì tụng bài bách tự minh chú
hai mươi mốt lần mỗi ngày.
Ngay
cả đối với người đã nắm vững được những điểm tinh
yếu của hai giai đoạn phát khởi vàø thành tựu, vốn là
những người, nương vào sự tỉnh giác, tính cẩn mật và
v.v... đã tránh không vi phạm các mật nguyện, thì việc sám
hối và tịnh hóa vẫn là điều cần thiết. Bởi vì
trên thực tế, bất kỳ tiếp xúc nào qua lời nói hoặc hành
động với một người đã từng phá vỡ các mật nguyện
gốc (root samayas) – cho dù ta chỉ uống nước trong cùng một
thung lũng với người phạm lỗi đó thì cũng đủ để
tạo thành các lỗi lầm được gọi là “sự vi phạm qua
giao tiếp” hoặc “sự vi phạm ngẫu nhiên”. Các Mật điển
có nói:
Khi
kết giao với những người vi phạm mật nguyện hay đáp ứng
các ước muốn của họ,
Khi
giảng Pháp cho họ hoặc cho những người không thích hợp
để nghe,
Khi
không tránh được tất cả những kẻ vi phạm giới nguyện,
chúng con biết chúng con cũng bị ô nhiễm
Bởi
các chướng ngại của những vi phạm đó,
Sẽ
đem lại nghịch cảnh trong đời này và các chướng ngại
trong đời sau,
Tràn
đầy hối hận, chúng con xin bày tỏ và sám hối tất cả
những lồi lầm này.
Nếu
chỉ một người trong đại chúng vi phạm mật nguyện, thì
một trăm hay một ngàn người khác đã giữ các thệ nguyện
riêng của họ sẽ bị ô nhiễm tới mức họ sẽ không nhận
được sự lợi lạc từ công phu hành trì của họ. Cái đó
cũng giống như chỉ một giọt sữa chua biến toàn thể hũ
sữa tươi thành chua, hoặc một con ếch bị đau làm rầu cả
bầy ếch. Như có câu nói rằng:
Một
giọt sữa chua
Làm
cả bầu sữa thành chua.
Một
hành giả suy đồi
Làm
hư hại tất cả các hành giả du già khác.
Hơn
nữa, không có vị Thầy nào, dù là đại Đạo Sư hay
thành tựu giảû, có thể thoát khỏi ô nhiễm do những vi
phạm mật nguyện này. Câu chuyện của đại Đạo Sư Lingje
Repa minh chứng điều này. Khi Ngài đang ở trong thánh địa
Tsari, Thiên Nữ Shingkyong bắt đầu gây các chướng ngại cho
Ngài. Vào buổi trưa, bà đem xuống một bóng tối dày đặc
đến nỗi các vì sao xuất hiện và sáng rực trên bầu trời.
Tuy thế không gì có thể ngăn cản việc Ngài đi tới bờ
Hồ Máu Đỏ Sẫm, ở đó Ngài múa hát một bài ca Kim Cương,
và để lại các dấu chân trên tảng đá mà ngày nay vẫn
còn có thể thấy được. Tuy nhiên, về sau trong cuộc đời
Ngài, khi một đệ tử đã phá vỡ mật nguyện đến thăm
Ngài – thì ngay cả một Đạo Sư đã thành tựu như Ngài
vẫn có thể bị ô nhiễm. Ngài trở nên cuồng giận và bị
cấm khẩu.
Tương
tự
như vậy, chúng ta thấy trong các bài ca Kim Cương của Thành
Tựu Giả Urgyenpa hát rằng:
Ta,
Rinchen Pel, kẻ hành khất từ Xứ Tuyết,
Bị
đánh bại không bởi kẻ thù nào khác ngoài sự ô nhiễm của
việc vi phạm mật nguyện,
Và
đã được che chở không bởi bằng hữu nào khác ngoài vị
Thầy của ta.
Vi
phạm các giới mật của Kim Cương Thừa là một lỗi lầm
lớn lao, và trì giữ các giới ấy thì cực kỳ khó khăn.
Khi ta không tự kiểm soát một cách thận trọng mà cho rằng
mình đang trung thành trì giữ các giới nguyện và cảm thấy
tự hào về điều này thì đây cũng là một điều sai lầm
cực kỳ nghiêm trọng.
Các
Mật điển đã từng giảng dạy rằng chỉ lãng quên trong
giây lát sự hợp nhất [thân, khẩu, ý của ta với] thân,
khẩu, và ý của ba mạn đà la196 đã là một vi phạm các
giới mật của Kim Cương Thừa rồi. Vì thế việc trì giữ
các mật giới thì thật khó khăn. Nói một các tường tận
hơn, có tới một trăm ngàn mật nguyện khác nhau – một
con số hết sức lớn. Theo các Mật điển, việc vi phạm các
giới nguyện này sẽ đem đến cho chúng ta các bất hạnh như
sau:
Yêu
quái Kim Cương sẽ uống tâm huyết 197 của con,
Đời
sống sẽ ngắn ngủi và bệnh hoạn, tài sản sẽ tan biến,
kẻ thù sẽ khủng bố,
Trong
Địa Ngục A Tìø cực kỳ kinh khiếp
Con
sẽ trải qua những đau khổ dằng dặc và không thể chịu
đựng nổi.
Vì
thế, để cứu chữa tất cả mọi vi phạm, lỗi lầm, và
các sa ngã chìm nổi, hãy luôn luôn làm tất cả những gì
mình có thể làm được để hành trì pháp môn thiền quán
và trì tụng Kim Cang Tát Đoả, cùng sám hối tất cả các
lỗi lầm đó bằng bài bách tự minh chú. Như các bậc Thầy
vĩ đại ngày xưa thường nói:
Trước
hết, tốt nhất la giữ cho không bị nhơ bẩn bởi các ác
hạnh, nhưng một khi ác hạnh đã xảy ra, thì điều quan trọng
là phải sám hối.
Việc
vi phạm các mật nguyện Kim Cương Thừa thì dễ sửa chữa,
bởi lẽ chúng có thể được tịnh hóa bằng pháp sám hối.
Trong truyền thống Thanh Văn, mắc phạm một tội của giới
Ba La Đề Mộc Xoa198 thì giống như đập vỡ một cái bình
bằng đất nung: đơn giản là không có cách để vá sửa được
nữa. Còn làm vỡ bể các giới nguyện Bồ Tát thì giống
như làm bể một đồ vật bằng kim loại quí. Một đồ vật
như thế có thể được vá lành nếu giao được cho một thợ
vàng khéo léo. Tương tự như vậy, việc các vi phạm giới
nguyện có thể được tịnh hóa với sự trợ giúp của một
bậc thiện tri thức. Đối với các giới nguyện Kim Cương
Thừa, việc mắc phạm vào các sa ngã thì giống như việc
làm mẻ một vật bằng kim khí quí báu. Ta có thể hoàn toàn
tự tịnh hóa việc sai phạm đó, chỉ đơn giản bằng cách
sám hối, dựa vào sự hỗ trợ của Bổn Tôn, câu minh chúù,
và định. Nếu lỗi lầm được sám hối ngay lập tức thì
việc tịnh hóa thật dễ dàng. Nếu trì hỗn càng lâu dài
thì lỗi lầm càng lớn, và sự sám hối càng thêm khó khăn.
Nếu trì hỗn hơn ba năm, thì không sám hối được sa ngã
đó. Ngay cả nếu có sám hối thì cũng không tịnh hoá được.
Một
số người có khả năng thiên phú, có thể sử dụng năng
lực và phước báu của lời nói của mình để làm lợi lạc
cho họ lẫn những người khác bằng cách che chở [cho mình
và cho người], như chặn đứng sương giá, ngăn ngừa mưa
đá, chấm dứt dịch hạch, chữa lành bẹânh người lớn
và trẻ em và v.v.. Ngay cả những người như thế, để có
thể duy trì khả năng và các phước báu đo,ù cũng cần tịnh
hóa các chướng ngại của ngôn ngữø. Để làm điều đó,
không có phương tiện nào tốt hơn việc trì tụng bách tự
minh chú. Khi trì tụng minh chú thì phải cần trì tụng một
cách chân thành và liên tục.
Bổn
Sư đáng kính của tôi thường nói đùa rằng những kẻ có
thể che chở những người khác và sử dụng các vật cúng
dường chắc chắn cần phải bắt đầu tịnh hóa các chướng
ngại thuộc về ngôn ngữ (khẩu) bằng cách hoàn tất việc
trì tụng mười triệu lần bài bách tự minh chú. Trong thực
tế, nhiều đệ tử của Ngài đã thực sự trì tụng bài
bách tự minh chú mười hoặc thậm chí hai mươi triệu lần,
và không có một ai trong số họ không hoàn tất ít nhất hai
hoặc ba trăm ngàn lần trì tụng.
Đạo
Sư Kim Cang Tát Đoả là hiện thân một trăm vị Phật. Ngài
được gọi là “Kim Cang Tát Đoả - Vajrasattva, Vị Hộ Phật
Duy Nhất Của Đại Ẩn Mật.” Trong toàn thể hằng hà sa
số không thể nghĩ bàn của các Bổn Tôn (yidam) an bình và
phẫn nộ, không có vị nào mà Ngài không ứng thân vào. Khi
thiền định về Ngài, hãy xem Ngài là một với bản tánh
của Bổn Sư gốc của mình. Đây là phương thức thực hành
pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) “theo phương cách của viên
ngọc quý bao gồm tất cả.”199 Đây làø phương pháp tối
hậu, thâm diệu nhất trong tất cả các pháp tu. Bởi lẽ,
như tôi đã nói, bách tự minh chú là minh chú siêu vượt,
cần phải hiểu rõ rằng không có pháp hành trì nào vi diệu
hơn pháp hành trì này.
Con
từng nghe giáo huấn lợi lạc, nhưng đã bỏ mặc qua bên như
những ngôn từ.
Con
từng hành trì chút ít, nhưng đã bị tật sao lãng phỉnh lừa.
Xin
từ bi gia hộ cho con và tất cả chúng sinh quỷ quái như
con,
Để
chúng con có thể rút tỉa được tinh yếu của hai giai
đoạn phát triển và thành tựu.
Mạn
Đà La của Vũ Trụ
Đây
là một biểu tượng ba chiều trình bày toàn thể thế giới
theo vũ trụ quan của Ấn Độ cổ, được quán tưởng trong
một mạn đà la cúng dường. Ngọn núi Tu Di vuông vức,
bề ngang chóp núi rộng hơn chân núi, ở trên cùng được
điểm bằng cung điện của Vua Trời Đế Thích (Indra), chung
quanh bao gồm bốn trung châu và các tiểu trung châu. Trên cao
hơn nữa là những cõi Trời thuộc sắc giới và vô sắc giới.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 12 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:22pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
BỐN
CÚNG DƯỜNG
MẠN ĐÀ LA ĐỂ
VUN BỒI PHƯỚC
TUỆ
Ngài
hiểu rõ những gì tương đối đều là dối gạt, nhưng Ngài
vẫn vun bồi (hai bồ công đức). Ngài thấu suốt rằng trong
viên mãn chẳng có gì để thiền định, nhưng Ngài vẫn thực
hành thiền định. Ngài thấy tương đối và viên mãn thảy
hợp nhất,* nhưng Ngài vẫn tinh tấn thực hành. Đạo Sư Vô
Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
*
Theo nghĩa đen. “Ngài đã thể nhập trạng thái hợp nhất
bất khả phân.”
I.
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC VUN BỒI HAI BỒ CÔNG ĐỨC
Ta
không thể đạt được sự thuần tịnh hỗ tương200
của Phật Quả hoặc hoàn toàn thấu suốt chân lý của tánh
Không mà không hoàn tất việc vun bồi hai bồ công đức
(phước đức và trí tuệ). Như trong Kinh điển có nói:
Chừng
nào ta chưa hoàn tất vun bồi hai bồ công đức thiêng
liêng,
Ta
sẽ không bao giờ chứng ngộ được tánh Không vi diệu.
Và:
Trí
tuệ nguyên sơ tối thượng chỉ có thể hình thành
Như
là dấu hiệu của công đức đã được tích lũy và chướng
ngại
đã được tịnh hóa,
Cũng
như nhờ lực gia trì của một bậc Thầy chứng ngộ.
Hãy
biết rằng đặt niềm tin vào bất kỳ phương tiện nào khác
là điều điên rồ.
Ngay
cả những người đã thực sự chứng ngộ tánh Không cũng
cần duy trì những bước tiến của họ trên con đường
tu cho tới khi họ đạt được Phật Quả viên mãn, và vì
thế họ vẫn cần nỗ lực vun bồi công đức. Đức Tilopa,
Pháp Vương của các hành giả du già, đã nói với Naropa rằng:
Naropa,
con ta, cho tới khi con chứng ngộ được rằng Mọi hình tướng
–những gì xuất hiện do duyên tương khởi Thực ra không
bao giờ sinh khởi, không bao giờ xa lìa, Thì hai bánh xe cho
cỗ xe của con, là sự tích lũy công đức.
Bậc
hành giả du già vĩ đại Virupa đã nói trong Doha (bài chứng
đạo ca) của Ngài:
Bạn
có thể có sự xác tín vĩ đại không mong cầu Phật Quả
tương đối * Nhưng đừng bao giờ từ bỏ việc vun bồi công
đức vĩ đại; hãy nỗ lực tối đa trong khả năng của bạn.
*
Điều này ám chỉ một trạng thái tu chứng, có lòng tin không
thể lay chuyển nơi Phật tánh đã vẫn từng hiện diện trong
bản tâm.
Và
Đức Dagpo Rinpoche vô song nói:
Ngay
cả khi sự chứng ngộ của bạn siêu vượt các ý niệm cho
rằng chẳng có gì để vun bồi hay tịnh hóa,201 hãy cứ tiếp
tục tích tụ ngay cả những lượng công đức nhỏ bé
nhất.
Đấng
Chiến Thắng, nương nơi lòng đại bi và nương nơi các phương
tiện thiện xảo, đã giảng dạy vô số phương pháp để
giúp ta thực hiện việc tích tụ công đức. Phương pháp tốt
nhất trong các phương pháp này là cúng dường mạn đà la.
Trong một Mật điển có nói:
Cúng
dường chư Phật trong tất cả các cõi Phật
Toàn
thể tam thiên đại thiên thế giới
Tràn
đầy tất cả những gì có thể ao ước,
Sẽ
làm viên mãn trí huệ nguyên sơ của chư Phật.**
**
Có nghĩa là sự tích tụ công đức qua pháp tu này sẽ cho
phép trí huệ viên mãn của Phật tánh của ta hiển lộ.
Theo
truyền thống này, khi cử hành cúng dường mạn đà la như
thế, chúng ta sử dụng hai mạn đà la riêng rẽ: mạn đà
la thành tựu và mạn đà la cúng dường.
Vật
liệu nào có thể dùng để làm mạn đà la thì tùy thuộc
vào khả năng tài chánh của bạn. Loại đế mạn đà la (mandala
base) tốt nhất được cấu tạo bằng các chất liệu quý
như vàng và bạc. Một đế mạn đà la chất lượng trung bình
làm bằng thứ kim loại để đúc chuông hoặc một vài vật
liệu tốt khác. Trong trường hợp tệ nhất, bạn có thể
sử dụng ngay cả một phiến đá nhẵn phẳng hoặc một miếng
gỗ.
Những
phẩm vật cúng dường lý tưởng nhất được đặt trên đế
(base) củïù ù
a
mạn đà la gồm có các loai đaquy: ngọc lam, san hô, ngọc bích,
ngọc trai và những thứ khác. Tốt bậc nhì là các loại trái
cây có dược tính như arura, và kyurura. Bình thường thì chúng
gồm có các loại hạt như lúa mạch, lúa mì, gạo hay các
hạt đậu, nhưng trong trường hợp tệ nhất thì bạn cũng
có thể sử dụng ngay cả đá cuội, sỏi, cát và v.v… - đây
chỉ đơn thuần là một sưhỗ trơ cho công phu quán tưởng
của bạn. Dù đế mạn đà la của bạn được làm bằng bất
kỳ vật liệu gì, hãy lau chùi sạch sẽ với sự cẩn trọng
cao độ.
II.
MẠN ĐÀ LA THÀNH TỰU202
Hãy
khởi sự bằng cách xếp đặt năm tụ (pile) trên mạn đà
la thành tựu.203
Hãy
đặt một tụ nhỏ ở giữa tượng trưng cho Đức Phật Tỳ
Lô Giá Na (Vairocana) có các Bổn Tôn trong Phật Bộ vây quanh.
Đặt một tụ khác ở hướng đông - có nghĩa là hướng về
phía bạn204- tượng trưng cho Đức Phật Vajra A Súc Bệ (Aksobhya)
được vây quanh bởi các Bổn Tôn thuộc Kim Cương Bộ. Rồi
đặt một tụ ở phương nam tượng trưng cho Đức Phật Bảo
Sanh (Ratnasambhava) được vây quanh bởi các Bổn Tôn của Bảo
Sanh Bộ, đặt một tụ ở phương tây tượng trưng cho Đức
Phật A Di Đà (Amitabha) được vây quanh bởi các Bổn Tôn thuộc
Liên Hoa Bộ, và một tụ ở phương bắc tượng trưng cho Đức
Phật Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi) có các Bổn Tôn thuộc
Nghiệp Bộ vây quanh.
Cũng
có thể quán tưởng ruộng công đức như trong phần thực
hành quy y. Thêm vào đó, tụ trung tâm (central pile) tượng trưng
cho Đại Đạo sư xứ Oddiyana, bất khả phân với vị Thầy
gốc của bạn cùng tất cả các bậc Thầy của dòng Đại
Viên Mãn ở trên Ngài, được sắp xếp trật tự, vị này
trên vị kia. Tụ phía trước (front pile) tượng trưng cho Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, được vây quanh bởi một ngàn lẻ hai
Đức Phật của Hiền Kiếp này. Tụ bên phải (right pile) sẽ
tượng trưng cho Tám Trưởng Tử Vĩ Đại (Tám Đại Bồ Tát)
của Đức Thích Ca, vây quanh bởi Tăng đoàn cao quý của chư
vị Bồ Tát, và tụ bên trái (left pile) tượng trưng Hai Thanh
Văn trưởng tử, được Tăng đoàn cao quý gồm các Thanh Văn
và Phật Độc Giác vây quanh. Tụ phía sau sẽ là Viên Ngọc
Quý của Pháp (Pháp Bảo), trong hình thức các quyển sách dựng
lên được bọc trong một cái lưới bằng tia sáng.
Trong
bất kỳ cảnh ngộ nào, hãy đặt ‘mạn đà la thành tựu’
này trên bàn thờ hoặc trên một giá đỡ thích hợp khác.
Nếu có thể có được thì bạn hãy đặt năm vật cúng dường
sau đây (hoa, hương nhang, đèn, dầu thơm, và thực phẩm) quanh
mạn đà la và đặt mạn đà la ấy trước các biểu tượng
thân, khẩu và ý của Đức Phật. Nếu không thể làm được
như vậy, thì cũng có thể bỏ qua mạn đà la thành tựu, và
chỉ cần quán tưởng ruộng công đức.
III.
MẠN ĐÀ LA CÚNG DƯỜNG
Dùng
tay trái cầm đế của mạn đà la cúng dường, còn cổ tay
phải liên tục lau mặt đế trong khi tụng bài thất chi
nguyện (seven-lined prayer) và những bài nguyện khác, không được
sao lãng khi đang quán tưởng.
Việc
lau chùi đế mạn đà la này không chỉ tẩy sạch bất kỳ
bụi bậm nào trên đế. Đây cũng là một cách nỗ lực
dụng công để tự giải thoát khỏi hai chướng ngại ngăn
che tâm thức chúng ta. Chuyện kể rằng các hành giả Kadampa
vĩ đại trong quá khứ đã lau chùi mạn đà la của các Ngài
bằng mặt dưới cổ tay cho tới khi da mòn đi và bắt đầu
làm thành các vết thương. Các Ngài vẫn tiếp tục và dùng
tới cạnh của cổ tay. Khi vết thương hình thành ở đó,
các Ngài thay thế bằng lưng cổ tay. Vì vậy khi tẩy chùi
đế mạn đà la, bạn đừng dùng khăn len hay vải mà chỉ
dùng cổ tay giống như các hành giả Kadampa vĩ đại trong quá
khứ.
Khi
xếp đặt những tụ cúng dường trên cái đế, hãy làm trong
lúc tụng bài nguyện tên là Mạn Đà La Ba Mươi Bảy Cúng
Phẩm, do Ngài Chogyal Pakpa, bậc Gia Hộ Chúng Sinh của phái
Sakya soạn ra. Phương pháp này dễ thực hành, và vì thế được
mọi truyền thống cũ và mới chấp nhận không phân biệt.
Ở đây chúng ta bắt đầu bằng việc cúng dường mạn đà
la theo cách này bởi đó cũng là truyền thống của ta.
Cả
Cổ phái lẫn Tân phái đều có những phương pháp khác nhau,
mỗi phương pháp phù hợp với tập quán riêng của truyền
thống đó. Quả thật, mỗi kho tàng tâm linh của truyền thống
Nyingma có cách cúng dường mạn đà la riêng. Trong truyền thống
đặc biệt này của chúng ta có một vài bài nguyện cúng dường
mạn đà la chi tiết của ba Thân được Đức Toàn Giác Longchenpa
giảng dạy trong các tài liệu Tâm-Yếu205 khác nhau. Một vài
tâm yếu trong số này có thể được chọn lựa.
1.
Cúng Dường Mạn Đà La Ba Mươi Bảy Cúng Phẩm
Hãy
bắt đầu bằng cách đọc câu minh chú:
Om
Vajra Bhumi Ah Hum
đồøng
thời cầm mạn đà la trong bàn tay trái và với bàn tay phải,
bạn rắc nước hoa có chứa bajung** lên đó. Sau đó, với
ngón tay cái và ngón đeo nhẫn, hãy lấy một nhúm hạt và
đọc:
Om
Vajra Rekhe Ah Hum,
hãy
xoay bàn tay phải trên đế mạn đà la theo chiều kim đồng
hồ và sau đó đặt nhúm hạt ở chính giữa. Nếu bạn có
một “hàng rào núi sắt”206 được làm sẵn thì bây giờ
là lúc đặt nó trên mạn đà la và đọc:
Núi
Tu Di, Vua của các Núi,
đặt
một tụ lớn hơn ở giữa. Để sắp đặt bốn đại châu,
hãy đọc:
*
ba byung, một chuẩn bị có tính cách nghi lễ làm bởi năm
chất liệu khác nhau lấy từ một con bò.
Ở
phương Đông, cõi Đông Thắng Thần Châu
(Purvavideha)...
và
đặt một tụ nhỏ ở phương đông, nó có thể ở về phía
bạn, hoặc ở phía đối nghịch hướng về những vị mà
bạn đang cúng dường.207 Rồi đặt ba tụ cho các châu lục
khác, xoay tròn theo chiều kim đồng hồ bắt đầu từ phương
đông.
Để
biểu tượng cho các trung châu, Deha, Videha và v.v... lần lượt
đặt một tụ ở mỗi bên của từng đại châu.
Kế
đó, đặt Núi Báu ở phương đông, Cây Như Ýù ở phương
nam, Bò Cái Dồi Dào Vô Tận ở phương tây và Mùa Thu Hoạch
Tự Nhiên ở phương bắc.
Sau
đó đến Bảy Báu Vật tượng trưng của Vương Quyền cộng
thêm Bảo Bình Châu Báu Vĩ Đại, chúng được lần lượt
đặt ở bốn hướng chính và bốn hướng phụ (kèm giữa
các hướng chính).
Kế
đó, đặt bốn thiên nữ bên ngoài ở mỗi hướng chính, bắt
đầu là Thiên Nữ Sắc Đẹp; và bốn Thiên Nữ bên trong ở
bốn hướng trung gian, bắt đầu với Thiên Nữ Tràng Hoa...
Đặt
Mặt Trời ở phương đông và Mặt Trăng ở phương tây. Đặt
Bảo Cái ở phương nam và Phướn Chiến Thắng Toàn Phương
ở phương bắc.
Trong
khi bạn đọc,
Tất
cả tài sản của Chư Thiên và loài người,
khôn g sót thứ gì...
thì
hãy đổ thêm hạt trên phần còn lại khiến không chỗ nào
là không đầy tràn. Nếu bạn có một vật trang hoàng trên
đỉnh, bây giờ hãy đặt lên đỉnh và đọc:
Con
dâng cúng mạn đà la này lên tất cả các bậc Bổn Sư
quang vinh và cao cả của dòng truyền thừa, và lên tất cả
chư Phật và Bồ Tát.
Ở
điểm này, một vài người thêm vào những lời như: “..tất
cả mọi phần đều xinh tươi vàø đầy đủ, không thiếu
món gì,” nhưng theo Đạo Sư của tôi, đó là một thêm thắt
không được tìm thấy trong nguyên bản.
Đối
với những gì cần được quán tưởng trong mỗi cúng phẩm,
Đạo Sư của tôi khi ban giáo lý đã không nói thêm bất kỳ
điều gì ngoài điều này, vì thế bản thân tôi sẽ không
viết gì thêm ở đây. Tuy nhiên, đối những ai muốn hiểu
thêm chi tiết thì nên tham khảo Yếu Nghĩa Mật Kinh, như
đã được đề nghị trong bản văn căn bản dùng để giảng
giải về các pháp thực hành dự bị này.208
2.
Cúng Dường Mạn Đà La Của Ba Thân Theo Bản Văn Này
2.1.
MẠN ĐÀ LA THÔNG THƯỜNG209 CỦA HOÁ THÂN
Bốn
trung châu (lục điạ) được đề cập ở trên được
sắp xếp theo cách sắp xếp các tụ vật cúng dường, với
Núi Tu Di ở giữa và các cõi trời Phạm Thiên (Brama) ở trên,
tạo thành một thế giới. Một ngàn thế giới này tạo thành
cái được gọi là “một thế giới bậc nhất gồm một
ngàn thế giới.” Lấy một thế giới gồm một ngàn thế
giới như thế, mỗi thế giới với bốn trung châu, và nhân
một ngàn thế giới này lên một ngàn lần, chúng ta có một
cái gọi là “một thế giới trung gian bậc hai gồm một ngàn
lần một ngàn thế giới,” hay một thế giới gồm một triệu
thế giới. Lấy một thế giới gấp triệu lần như thế và
lại nhân nó lên một ngàn lần cho ta “một hệ thống thế
giới vĩ đại bậc ba gồm một ngàn triệu thế giới,” hay
một vũ trụ gồm cóù một tỉ thế giới. Một thế giới
ở bậc này, tạo bởi một ngàn triệu thế giới, mỗi thế
giới có bốn trung châu, nằm dưới sự cai quản của một
Hóa Thân Phật duy nhất - chẳng hạn Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, mà cõi Phật của Ngài được gọi là Thế Giới Kham Nhẫn.210
Hãy
tưởng tượng trong khắp hằng hà sa sốø thế giới không
thể nghĩ bàn này, tất cả những kho tàng tuyệt hảo nhất
được tìm thấy trong các cõi người hay cõi Trời, như bảy
báu vật tượng trưng cho vương quyền và v.v... cho dù những
kho tàng hay châu bảo này có thuộc quyền sở hữu hay không
thuộc quyền sở hữu của bất kỳ ai. Thêm vào những thứ
này là thân thể, tài sản, cuộc đời, vận may, năng lực
và sức mạnh của riêng bạn, cũng như tất cả các nguồn
công đức mà bạn đã tích tụ trong mọi lúc và sẽ tích
tụ trong tương lai, cùng tất cả những gì đã từng có thể
đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bạn. Hãy chất đầy
tất cả những gì tốt đẹp nhất và đáng ao ước nhất,
ngay cả một tham muốn hay bám luyến nhỏ bé như hạt mè cũng
không thiếu, hãy cúng dường đầy đủ và tất cả những
cúng phẩm này không thiếu thứ gì cho Thầy của bạn và các
Bổn Tôn Hóa Thân. Đây là pháp cúng dường mạn đà la thông
thường của Hóa Thân.
2.2.
MẠN ĐÀ LA PHI THƯỜNG CỦA BÁO THÂN
Trên
tất cả những thứ đó, hãy tưởng tượng vô vàn các cõi
Trời và cung điện không thể nghĩ bàn trong năm cõi Phật
vĩ đại,211 tất cả được các Thiên Nữ Tuyệt Mỹ gia trì,
được các thiên nữ khác cúng dường bao niềm vui của các
cảm thọ, tất cả những năng lực gia hộ và niềm vui này
được nhân lên vô hạn. Hãy cúng dường tất cả những thứ
này cho Thầy của bạn và các Bổn Tôn Báo Thân. Đây là pháp
cúng dường mạn đà la phi thường của Báo Thân.
2.3.
MẠN ĐÀ LA ĐAËC BIỆT CỦA PHÁP THÂN
Trên
cái đế mạn đà la tượng trưng cho Pháp Giới vô sanh tuyệt
đối, hãy đặt các tụ tượng trưng cho bốn thị kiến cũng
như cho bất kỳ tư tưởng tạo tác nào. Hãy cúng dường tất
cả cho vị Thầy và các Bổn Tôn Pháp Thân. Đây là pháp cúng
dường mạn đà la đặc biệt của Pháp Thân.
Đối
với pháp cúng dường mạn đà la này của ba Thân, hãy duy
trì một ý niệm trong sáng về tất cả những giáo huấn thực
hành này và với lòng quy ngưỡng, hãy lập lại lời cầu
nguyện, bắt đầu bằng:
Om
Ah Hum. Tam thiên đại thiên thế giới, cõi giới gồm một
ngàn triệu thế giới...
...Trong
khi bạn tính đếm (counting) các cúng phẩm bạn đang dâng cúng,
hãy cầm cái đế của mạn đà la trong bàn tay trái, để
nguyên các vật cúng dường lần đầu trên đó, và cứ mỗi
lần trì tụng bản văn thì bạn lại đặt thêm một tụ lên
trên bằng bàn tay phải. Hãy thực hành với lòng kiên nhẫn,
đưa đế mạn đà la lên cho tới khi tay bạn đau tới độ
không còn cầm được nữa. “Chịu đựng gian khổ và kiên
nhẫn một cách dũng cảm vì Pháp” thì có ý nghĩa hơn việc
hoàn toàn nhịn đói.212 Đó có nghĩa là luôn luôn quyết
tâm hoàn tất bất kỳ pháp hành trì nào cho dù pháp ấy có
khó làm chăng nữa, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào đi
nữa. Hãy thực hành như thế này, và trong khi làm thế, bạn
sẽ tích lũy được một số lượng khổng lồ công đức
nhờ vào sự kiên trì và nỗ lực của bạn.
Khi
thực sự không thể cầm mạn đà la được nữa, hãy đặt
mạn đà la xuống bàn trước mặt bạn và tiếp tục chồng
lên đó các tụ cúng dường và đếm số lần. Khi bạn dừng
nghỉ, chẳng hạn để uống trà, hãy gom mọi thứ bạn đã
cúng dường lại, và khi bắt đầu trở lại, hãy khởi sự
với mạn đà la ba mươi bảy cúng phẩm trước khi tiếp tục
như trước.
Hãy
quả quyết thực hiện ít nhất một trăm ngàn lần công phu
cúng dường mạn đà la theo cách này. Nếu bạn không kham nổi
số lượng đó khi sử dụng mạn đà la chi tiết của ba Thân,
thì thay vào đó có thể tụng câu kệ bắt đầu bằng:
Mặt
đất được tịnh hóa với nước thơm...
trong
khi cúng dường mạn đà la bảy cúng phẩm.213
Bất
kỳ bạn dùng hình thức cúng dường nào, điều quan trọng
là áp dụng ba phương pháp siêu việt như trong bất kỳ pháp
môn thực hành nào khác. Hãy bắt đầu bằng việc phát khởi
Bồ Đề Tâm, sau đó thực hiện chính pháp môn hành trì mà
không để cho bất kỳ ý niệm tạo tác nào khởi lên,
và niêm phong pháp hành trì cho thật hoàn hảo vào lúc cuối
bằng việc hồi hướng công đức.
Nếu
đang dùng lúa mạch, lúa mì, hoặc loại hạt khác để cúng
dường mạn đà la, chừng nào mà bạn có thể lo liệu được
phí tổn thì hãy luôn luôn cúng dường hạt mới và không
dùng cùng một hạt hai lần. Những vật đã cúng dường thì
bạn có thể đem cho chim muông, phân phát cho những hành khất,
hoặc xếp chồng lên trước một biểu tượng của Tam Bảo.
Nhưng đừng bao giờ nghĩ rằng đó là của riêng bạn hoặc
sử dụng cho bạn. Nếu bạn thiếu tài lực để sắm sửa
lại các hạt cúng dường mỗi lần thực hành pháp hành trì
này thì hãy cố gắng sắm sửa các hạt mới mỗi khi điều
kiện cho phép. Nếu quá nghèo, bạn cũng có thể dùng
đi dùng lại số lượng hạt đó.
Tuy
nhiên, bạn hãy thường thay đổi hạt, làm sạch các hạt
này trước khi cúng dường bằng cách nhặt ra các vật lạ,
bụi đất, vỏ trấu, rơm, phân chim và những thứ tương tự,
và tẩm hạt bằng nghệ hoặc loại nước hoa khác.
Cho
dù giáo lý cho phép dùng vật cúng dường bằng đất và đá,
nhưng đây là vì lợi lạc cho những người quá nghèo khó
đến nỗi không có chút sở hữu nào, hoặc để dành cho những
người có năng lực siêu việt đến nỗi chỉ với một hạt
bụi duy nhất, tâm họ có thể tạo nên các cõi Phật nhiều
như tất cả những hạt bụi trên toàn thể thế giới. Còn
bản thân bạn tuy có thể thực sự có được đầy đủ những
gì cần thiết, nhưng lại không thể buông bỏ và cúng dường
một cách rộng rãi. Bạn có thể quả quyết bằng đủ loại
loại lý lẽ đã được cân nhắc và có vẻ rất hợp lý
– thậm chí tự thuyết phục mình – rằng bạn đang
thực hiện cúng dường bằng cách trì tụng thần chú hoặc
bằng quán tưởng. Nhưng bạn sẽ chỉ tự lừa gạt mình.
Hơn
nữa, tất cả các Mật điển và giáo huấn cốt tủy đều
nói về “các cúng phẩm trong sạch, được chuẩn bị sạch
sẽ” hoặc “những cúng phẩm đã được chuẩn bị sạch
sẽ.” Các Mật điển không bao giờ khuyên nên dùng “các
cúng phẩm dơ bẩn, được chuẩn bị một cách dơ bẩn.”
Vì thế đừng bao giờ cúng dường các đồ thừa hay thực
phẩm bị ô nhiễm bởi tính keo kiệt hay bụi bẩn. Đừng
dành riêng cho mình phần lúa mạch tốt nhất và dùng phần
còn lại để cúng dường hoặc làm các bánh cúng (torma) bằng
món bột lúa mì xay nhuyễn (tsampa). Các hành giả Kadampa thuở
xưa thường nói:
Giữ
phần tốt nhất cho bạn và cúng dường phó mát mốc meo và
rau quả héo úa cho Tam Bảo là điều không nên làm.
Đừng
làm các bánh cúng hoặc đèn cúng dường với những vật liệu
hư ôi hoặc thối rữa, trong khi dành những thứ hảo hạng
cho mình. Lối hành xử đó sẽ làm cạn kiệt công đức của
bạn.
Khi
làm shelze214 hay các torma, hãy chuẩn bị bột nhào cho vừa
vặn (không quá đặc cũng không quá lỏng), với chính độ
vừa mà chính bản thân bạn cũng sẽ ưa thích. Thật
sai lầm
nếu
bạn đổ thêm nhiều nước vào bột nhào chỉ để cho
dễ làm hơn.
Ngài
Atisa thường nói: “Những người Tây Tạng này sẽ không
bao giờ có thể giàu có, họ làm bánh cúng bằng bột nhào
mỏng teo!”
Ngài
cũng nói: “Ở Tây Tạng, chỉ cúng dường nước thôi cũng
đủ tích lũy công đức. Ở Ấn Độ trời quá nóng và nước
chẳng bao giờ tinh sạch được như ở Tây Tạng đây.”
Như
một cách tích lũy công đức, cúng dường nước tinh trong,
thanh tịnh sẽ cực kỳ hiệu quả nếu bạn có thể thực
hiện việc này thật tinh tấn. Hãy rửa sạch bảy chén cúng
dường hoặc các đồ đựng khác và đặt chúng cạnh nhau,
đừng quá sát và không quá xa. Chén phải được đặt thẳng
tắp, không chén nào trong số đó lệch khỏi hàng. Nước phải
tinh khiết không lẫn các hạt, tóc, bụi hoặc các côn trùng
nổi ở trong đó. Phải thận trọng khi rót đầy các chén,
nhưng đừng quá đầy tới miệng chén, không làm đổ chút
nước nào trên bàn cúng dường. Đây là cách thực hiện cúng
dường nước tốt đẹp và hoan hỉ.
Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Tán có nói về các phẩm vật cúng dường
“được sắp xếp hoàn hảo, đặc biệt và tuyệt vời...”
Cho dù bạn thực hiện hình thức cúng dường nào, nếu bạn
làm thật tốt đẹp và hoan hỉ, thì ngay cả trong cách thức
sắp đặt, lòng tôn kính mà bạn biểu lộ đối với chư
Phật và Bồ Tát trong khi cúng dường sẽ đem lại một lượng
công đức bao la. Vì thế hãy nỗ lực chuẩn bị thật chu
đáo các phẩm vật cúng dường của bạn.
Nếu
bạn thiếu tài lực hoặc không thể thực hiện các pháp cúng
dường, thì ngay cả việc cúng dường những vật dơ bẩn
hay thô xấu cũng không có gì sai miễn là tác ý của bạn
hoàn toàn trong sạch. Chư Phật và Bồ Tát không có ý niệm
sạch hay dơ. Có những ví dụ về những sự cúng dường như
thế trong các truyện kể, như câu chuyện về một người
đàn bà nghèo khó có tên Người Bới Rác Thành Phố cúng dường
Đức Phật một ngọn đèn bơ. Và có câu chuyện về người
đàn bà cùi hủi cúng dường Ngài Đại Ca Diếp một chén
cháo gạo mà bà đã nhận trong buổi khất thực. Khi bà đang
cúng dường Ngài thì một con ruồi rơi vào chén. Bà cố lấy
con ruồi ra và ngón tay bà cũng nhúng vào trong chén. Dù thế
nào đi nữa, Ngài Đại Ca Diếp đã dùng nó để hoàn thành
ý hướng tốt đẹp của bà, và vì vật cúng dường của
bà đã cung cấp thực phẩm trọn ngày cho Ngài nên bà tràn
ngập niềm vui. Bà đã được tái sinh ở cõi Trời thứ Ba
Mươi Ba.
Nói
tóm lại, khi bạn cúng dường mạn đà la, dù cúng dường
thứ gì đi nữa thì món ấy cũng cần phải tinh sạch, được
cúng dường trong một cách thế hoan hỉ, và ý hướng của
bạn phải hoàn toàn thanh tịnh.
Trong
bất cứ giai đoạn nào của đường tu, bạn không nên ngưng
nỗ lực thực hiện các pháp hành trì để tích lũy công đức,
chẳng hạn cúng dường mạn đà la. Như các Mật điển
có nói:
Chẳng
có chút công đức nào thì làm gì có thành tựu;
Người
ta không thể ép cát để lấy dầu.
Hy
vọng vào bất kỳ một thành tựu nào mà không lo tích lũy
công đức thì giống như cố gắng ép cát ở bờ sông để
lấy dầu thực vật. Cho dù bạn ép bao nhiêu triệu hạt cát,
bạn sẽ chẳng bao giờ lấy được chút xíu dầu nào. Nhưng
muốn tìm kiếm các thành tựu bằng việc tích lũy công đức
thì giống như nỗ lực lấy dầu bằng cách ép các hạt mè.
Bạn càng ép mè thì bạn càng lấy được nhiều dầu. Cho
dù chỉ ép một hạt mè duy nhất trên móng tay bạn cũng sẽ
làm toàn thể móng tay mình bóng dầu. Có một câu tục ngữ
tương tự:
Trông
chờ các thành tựu mà không tích lũy công đức thì giống
như cố gắng khuấy nước để làm bơ.
Mưu
cầu các thành tựu sau khi vun bồi công đức thì giống như
khuấy sữa làm bơ.
Không
còn nghi ngờ gì rằng việc đạt được mục đích tối hậu
của thành tựu siêu việt cũng là kết quả của việc hoàn
tất tốt đẹp việc tích lũy hai bồ công đức. Chúng ta đã
thảo luận về việc không thể nào đạt được hai thân thuần
tịnh của Phật Quả nếu không thành tựu việc vun bồi tích
lũy phước đức và trí tuệ. Đức Long Thọ đã có nói:
Nhờ
những thiện hạnh này mà mọi chúng sinh có thể Thành tựu
vun bồi phước đức và trí tuệ Và đạt được hai Thân
siêu việt Đến từ công đức và trí tuệ.
Nhờ
thành tựu vun bồi công đức là một việc tuy vẫn còn bao
hàm các ý niệm (tạo tác),215 bạn đạt được Sắc Thân
(rupakaya) siêu việt. Nhờ thành tựu vun bồi trí tuệù siêu
vượt các ý niệm, bạn đạt được Pháp Thân siêu việt.
Các
thành tựu nhất thời của cuộc đời bình thường cũng có
thể được tạo ra bởi việc tích lũy công đức. Nếu chẳng
có chút công đức nào thì mọi nỗ lực của ta dù to dù lớn
đến đâu cũng sẽ thất bại. Ví dụ có những người chưa
từng nỗ lực chút nào mà chẳng bao giờ thiếu thực phẩm,
tiền bạc hay tài sản trong hiện tại là nhờ kho công đức
họ đã tích lũy trong quá khứ. Những người khác tiêu phí
cả đời đâm đầu vào mọi chỗ, cố làm giàu bằng thương
mại, trồng trọt v.v... nhưng chúng không đem lại ngay cả
chút lợi ích nhỏ bé nhất, và cuối cùng phải chết đói.
Đây là những điều mà mọi người có thể tự thấy cho
chính mình.
Thậm
chí điều này cũng thích hợp trong việc làm nguôi dịu các
vị thần tài bảo, các Hộ Pháp và v.v... với hy vọng có
được một thành tựu siêu nhiên tương ứng. Những Bổn Tôn
như thế không thể ban cho ta điều gì trừ phi ta có thể thu
hoạch được hoa trái (quả) đến từ hạnh bố thí (nhân)
của chính ta trong quá khứ.
Có
một lần một ẩn sĩ không có gì để sống, vì thế ông
bắt đầu thực hiện thực hành pháp tu Damchen.* Ông trở nên
lão luyện trong pháp tu đến nỗi có thể trò chuyện với
vị Hộ Pháp như thể nói với một người khác, nhưng ông
vẫn chưa đạt được thành tựu.
Damchen
nói với ông: “Ông không có ngay cả chút kết quả ít ỏi
nhất đến từ bất kỳ hành động bố thí nào trong quá khứ,
vì thế ta không thể đem lại cho ông một thành tựu nào.”
Một
hôm nhà ẩn sĩ đứng vào hàng cùng một vài hành khất và
được bố thí một tô súp đầy. Khi ông về nhà, Damchen hiện
ra và nói với ông: “Hôm nay ta đã ban cho ông một vài thành
tựu. Ông có nhận thấy không ?”
“Nhưng
tất cả các hành khất đều nhận một tô súp, đâu phải
chỉ mình tôi,” nhà ẩn sĩ nói. “Tôi không thấy (dấu hiệu)
thành tựu đến từ Ngài ra sao.”
Damchen
nói “Khi ông nhận súp, một miếng mỡ lớn đã rơi vào tô
ông, đúng không ? Đó là thành tựu đến từ ta!”
Không
thể khắc phục sự nghèo khổ bằng các pháp tu tài bảo và
những pháp tu tương tự mà không có một vài tích tụ công
đức trong những đời quá khứ. Nếu có những vị như các
vị Trời tài bảo thực sự có khả năng ban cho các thành
tựu tài bảo siêu nhiên thì chư Phật và Bồ tát, với khả
năng và năng lực có thể thực hiện các điều huyền nhiệm
còn lớn hơn hàng trăm, hàng ngàn lần, và là những bậc Giác
Ngộ đã hoàn toàn hiến mình để giúp đỡ chúng sinh ngay
cả khi không được thỉnh cầu, thì chắc chắn chư Phật
và Bồ Tát sẽ trút xuống thế giới này một khối lượng
dồi dào của cải khiến tất cả mọi sự cùng khổ đều
được giải trừ trong giây lát. Nhưng điều này đã không
xảy ra.
* Damchen
Dorje Lekpa, Phạn: Vajrasadhu, một trong những Hộ Pháp chính.
Bởi
bất kỳ những gì ta có chỉ là kết quả của công đức
ta từng tích tụ trong quá khứ, nên một chút công đức thì
đáng giá hơn một trái núi nỗ lực. Ngày nay khi những người
thấy được chút ít của cải hay quyền lực ít ỏi nhất
trong xứ sở man dại này của chúng ta, họ hoàn toàn sửng
sốt và tán thán: “Ôi chao, ôi chao! Có thể có được chuyện
này sao?” Thật ra có được của cải này cũng chẳng
cần phải đòi hỏi gì nhiều trong cách tích tụ công đức.
Khi tác ý của người cúng dường và đối tượng được
cúng dường đều thanh tịnh, thì kết quả của hành động
cúng dường này được minh chứng bởi câu chuyện của Mandhatri.**
Bằng hành động cúng dường bảy hạt đậu, ông đạt được
vương quyền tối cao tận Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba. Rồi có
trường hợp của Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) mà quyền lực của
ngài là kết quả của hành động cúng dường một đĩa thực
phẩm nóng sốt không muối.
Khi
Ngài Atisa đến Tây Tạng, xứ ấy giàu và lớn hơn ngày nay.
Và tuy thế Ngài nói: “Tây Tạng thực sự là một vương
quốc gồm các thành phố ngạ quỷ. Ở đây ta không thấy
ai đang hưởng quả của việc đã từng cúng dường, thậm
chí chỉ một lượng lúa mạch duy nhất cho một đối tượng
thanh tịnh!”
Nếu
người ta thực sự cho rằng của cải hoặc một chút quyền
lực tầm thường là cái gì thật kỳ diệu và tuyệt vời,
thì trước hết đó là một dấu hiệu cho thấy tâm hồn họ
nhỏ bé biết bao; thứ đến, điều này chứng tỏ họ bám
chấp vào các hình tướng phàm tục ra sao; và thứ ba, họ
không hiểu biết đúng đắn sự đơm hoa kết trái của tất
cả mọi hành động, như đã được minh họa trước đây
bằng hạt giống của cây asota – hoặc cho ta thấy họ không
tin vào kết quả này cho dù họ có hiểu biết về điều đó.
Nhưng
bất kỳ ai có được sự xả bỏ chân thành và chân
thật thì họ sẽ hiểu rằng trong tất cả những sự kiện
hoàn hảo hiển nhiên được tìm thấy trong thế gian này –
ngay cả việc giàu có như một long vương, có một địa vị
cao như bầu trời, mạnh mẽ như sấm sét hoặc tươi đẹp
như một ánh cầu vồng – không điều gì trong những thứ
này có chút gì thường hằng, bền chắc hoặc có được
chút thực chất nào. Những thứ như thế chỉ khơi dậy sự
nhờm tởm, giống như một đĩa thức ăn béo ngậy được
đem mời một người mắc bệnh vàng da.
**
Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục III.
Việc
tích lũy phước đức với hy vọng được giàu có trong đời
này thì là điều hoàn toàn tốt lành đối với người thế
gian bình thường, nhưng điều này khác xa Phật Pháp chân chính,
vì Phật Pháp chân chính được đặt nền tảng trên quyết
tâm giải thoát khỏi sinh tử. Như tôi đã nhắc đi nhắc lại
nhiều lần, nếu bạn đang tìm kiếm một Chân Pháp đưa tới
giải thoát, bạn phải từ bỏ mọi tham luyến với đời sống
thế tục như thể có quá nhiều nước bọt trong bụi đất.
Bạn phải lìa bỏ quê hương và hướng về những miền đất
vô danh, luôn luôn ở những nơi cô tịch. Bạn phải phấn
khởi tu tập khi đối diện với bệnh tật và vui vẻ đương
đầu với cái chết.
Một
lần kia, một đệ tử của đức Dagpo Rinpoche vô song hỏi
Ngài: “Trong thời đại suy thoái này thật khó tìm ra thực
phẩm, áo quần và những thứ cần thiết khác để thực hành
chân Pháp. Vậy con phải làm gì ? Con cần nỗ lực để làm
nguôi dịu phần nào các Bổn Tôn tài bảo, hay học một phương
pháp hữu hiệu để trích ra các tinh chất,216 hoặc cam chịu
một cái chết nào đó?”
Bậc
Đạo Sư đáp: “Dù con hết sức nỗ lực, nhưng nếu không
có bất kỳ hoa trái nào của hành động bố thí trong quá
khứ thì việc làm lành với các Bổn Tôn tài bảo sẽ rất
khó khăn. Ngoài ra, việc tìm kiếm giàu sang trong đời này
thì mâu thuẫn với việc chân thành thực hành Pháp. Việc
thực hành pháp trích xuất tinh chất ra từ các bất động
vật thì bây giờ không còn phải như là trong đại kiếp tăng
tiến nữa,217 khi mà tinh chất của đất, đá, nước, thảo
mộc, v.v... đã tiêu tán. Bây giờ việc đó chẳng còn hiệu
nghiệm nữa. Tự buông mình vào một cái chết nào đó thì
cũng chẳng tốt. Sau này, sẽ rất khó khăn để có thể có
lại được một thân người với đầy đủ tự do và thuận
lợi như con hiện có. Tuy nhiên, nếu con có niềm tin chắc
chắn tận đáy lòng rằng con có thể thực hành mà không quan
tâm đến việc con sống hay chết, thì con sẽ chẳng bao giờ
thiếu thực phẩm và quần áo.”
Trước
giờ, chưa từng bao giờ có một ví dụ nào về một hành
giả chết vì đói. Đức Phật đã từng tuyên bố rằng ngay
cả trong thời gian có nạn đói vô cùng thảm khốc, khi mà
muốn mua được một lượng bột sẽ phải trả giá bằng
một lượng ngọc, thì ngay cả lúc đó, đệ tử của Đức
Phật cũng sẽ không bao giờ phải thiếu thực phẩm và quần
áo.
Tất
cả các pháp hành trì mà chư Bồ Tát thực hiện để vun bồi
công đức và trí huệ hay để giải trừ các chướng nhiễm
chỉ có một mục đích duy nhất: đó là hạnh phúc của tất
cả chúng sinh đầy khắp không gian. Bất kỳ ước muốn nào
hầu đạt được Phật Quả viên mãn chỉ cho riêng bạn thì
chẳng dính dáng gì tới Đại Thừa, huống hồ là thứ thực
hành nhắm tới việc thành tựu các mục đích tầm thường
của đời này. Cho dù bạn có thể hành trì bất cứ loại
pháp môn nào, dù là thực hành tích lũy phước đức và trí
tuệ hay thực hành pháp tịnh hóa các chướng nhiễm, hãy thực
hiện các pháp ấy vì sự lợi lạc của toàn thể chúng sinh
vô biên, và đừng trộn lẫn pháp hành trì với bất kỳ thứ
tâm tham luyến chấp ngã nào. Ngay cả khi bạn không ước muốn
những điều này, thì như một tác dụng phụ, tất cả các
lợi lạc, tiện nghi và hạnh phúc của riêng bạn trong đời
này sẽ được đầy đủ, giống như khói tự xuất hiện
khi bạn thổi vào một ngọn lửa, hay chồi lúa mạch tất
nhiên sẽ nảy nở khi bạn gieo hạt. Nhưng đối với bất
kỳ sự thôi thúc nào khiến bạn hiến mình cho riêng những
điều đó (lợi lạc, tiện nghi và hạnh phúc) thì hãy vứt
bỏ hết những thôi thúc này như vứt bỏ thuốc độc đi.
Machik
Labdron (1031 - 1129)
Là
vị phối ngẫu của Padampa Sangye và người trì giữ chính
yếu của dòng truyền thừa Chư. Bà cầm cái trống-đôi lớn
được dùng trong pháp môn này để thỉnh mời tất cả những
vị khách tới dự bữa tiệc tượng trưng.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 13 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:24pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
NĂM
KUSALI
PHÁP TÍCH TỤ
CÔNG ĐỨC CỦA KẺ HÀNH KHẤT:
DIỆT
TRỪ (*) BỐN MA VƯƠNG
BẰNG
MỘT ĐỘC CHIÊU
Bây
giờ hãy nói đến một pháp tu ngắn gọn là pháp cúng dường
chính thân thể của ta, cũng còn được gọi là kusali, pháp
tích tụ công đức của kẻ hành khất. Bởi pháp tu này được
nối kết với pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) trong tập luận
giải An Trú Trong Chân Tánh nên việc kết hợp pháp tu kusali
với Guru Yoga là việc có thể chấp nhận được. Theo một
phương thức khác, và phương thức này cũng không có gì mâu
thuẫn với phương thức kết hợp như đã nói bên trên, pháp
kusali cũng có thể được thực hành như là một phần của
công phu tích lũy công đức, song song với việc cúng dường
mạn đà la. [Kết hợp với pháp cúng dường mạn đà la] sẽ
là cách thức pháp kusali này được giảng dạy ở đây, phù
hợp với truyền thống khẩu truyền đã từng giảng dạy
về pháp ấy.
*
Tên của pháp thực hành được bàn đến ở đây là gcod,
phiên âm là “Chư” (âm Việt: sẽ rất gần với âm ‘chút’).
Ý nghĩa căn bản của “Chư” là “chặt đứt.” Trong chương
này, “Chư” luôn luôn được dùng với ý nghĩa riêng biệt
là tiêu diệt, chặt đứt, tiệt trừ, cắt đứt các ý niệm.
Chúng tôi đã dịch từ này trong nhiều cách khác nhau tùy theo
văn cảnh. Khi “Chư” xuất hiện như tên của phápï thực
hành, chúng tôi để mặc mà không dịch, người đọc
cần thấu hiểu phạm vi ý nghĩa hàm ý trong đó.
I.
THÂN THỂ NHƯ MỘT PHẨM VẬT CÚNG DƯỜNG
Từ
“kusali” có nghĩa là người hành khất. Để vun bồi phước
đức và trí huệ, các hành giả du già (yogi) – chẳng hạn
như là những ẩn sĩ sống trong núi non – là những vị
đã từ bỏ cuộc đời bình thường, họ dùng hình thức quán
tưởng để cúng dường thân thể của chính họ khi không
có được các vật sở hữu nào khác để có thể dâng
lên cúng dường.
Tất
cả những sở hữu vật chất khác mà chúng ta đã lo lắng
và nỗ lực thâu thập cho bản thân ta, thật ra chỉ là để
chăm chút cho thân xác của chúng ta, và khi so sánh với bất
kỳ tài sản nào khác thì rõ ràng là thân xác của chúng ta
là vật sở hữu mà ta yêu quý nhất. Như thế, so với việc
cúng dường bất kỳ tài sản nào khác, việc chúng ta cắt
đứt lòng mê đắm thân xác mình và sử dụng thân xác này
như một phẩm vật cúng dường* thì điều này thật lợi
lạc hơn nhiều. Có câu nói rằng: *
Đây là phần thực hành căn bản của pháp Cho.
Cúng
dường ngựa hay voi của bạn thì giá trị bằng hàng trăm
các phẩm vật cúng dường khác; Cúng dường con cái hay vợ
(chồng) bạn thì tương đương hàng ngàn các phẩm vật cúng
dường khác; Cúng dường thân thể của chính bạn thì giá
trị bằng hàng trăm ngàn lần các phẩm vật cúng dường khác.
Machik
Labdron có nói:
Bởi
không hiểu rằng việc từ bỏ thân xác không chút tham luyến
Là tích lũy phước đức và trí huệ,
Nên
con đã bám luyến vào thân xác yêu quý này.218
Con
sám hối điều này với Hóa Thân của Mẹ.219
II.
PHÁP TU CÚNG DƯỜNG THÂN XÁC
Trước
tiên, nếu bạn quen thuộc với pháp quán tưởng, bạn có thể
chọn cách phóng tâm thức của bạn thẳng vào không gian và
quán tưởng tâm thức của bạn lập tức hiện ra như là Bà
Mẹ Chân Chính Sắc Đen Phẫn Nộ.220 Nếu bạn không quen quán
tưởng thì hãy tưởng tượng trong trái tim bạn giọt tinh
túy của tâm thức bạn trong thân tướng của Bà Mẹ
Phẫn Nộ. Bà đang nhảy múa lắc lư, bàn tay phải vung cao
một lưỡi dao cong lên không trung, và bàn tay trái cầm một
bình bát làm bằng sọ người đầy máu, giơ cao ở phiá trước
ngực ngay khoảng trái tim. Cái đầu kêu eng éc của một con
lợn cái màu đen nhô ra từ phía sau tai phải của Bà.
Bà mặc y phục của một thiên nữ phẫn nộ.
Khi
bạn phát ra âm “P’et”221 thì Bà Mẹ Phẫn Nộ bay lên qua
kinh mạch trung ương của bạn. Ngay vào giây phút Bà phóng
vọt qua cửa Phạm Thiên trên đỉnh đầu bạn, thân bạn trở
thành một tử thi và ngã qụy xuống. Ở đây, đừng nghĩ
rằng thân bạn có một hình tướng thông thường. Thay vì
thế, hãy hình dung thân thể ấy béo mập, khổng lồ, to lớn
như toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới.
Với
một độc chiêu duy nhất bằng lưỡi dao cong trong bàn tay phải,
Bà Mẹ Sắc Đen Phẫn Nộ – là tâm thức bạn mà bạn
quán tưởng trong sắc tướng Bà Mẹ Phẫn Nộ - lập tức
lạng một nhát trên đỉnh sọ của thân thể vô tri ở khoảng
cặp chân mày để làm thành một cái bình bát bằng sọ
người. Một lần nữa, hãy thiền định rằng bình bát bằng
sọ người này không lớn như bình thường trong thực tế,
mà lớn như thể toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới.
Bằng bàn tay trái, Bà Mẹ Phẫn Nộ nhặt bình bát sọ người
và đặt bình bát ấy với cặp lông mày của bình bát nhìn
về phía Bà trên một chiếc kiềng ba chân làm bằng ba cái
sọ người, mỗi cái sọ lớn như Núi Tu Di. Rồi với lưỡi
dao có hình móc câu trong bàn tay phải, bà nâng toàn thân tử
thi và đặt vào trong bình bát sọ người trên chiếc kiềng
ba chân.
Bây
giờ hãy quán tưởng trong không gian trên cái sọ một chữ
hang màu trắng với bản chất là cam lồ, và dưới cái sọ
là nét vạch thẳng đứng của một chữ A,222 màu đỏ, có
bản chất là lửa:
Khi
bạn đọc “Om Ah Hum,” lửa cháy bùng lên từ vạch thẳng
của chữ A và đun nấu bình bát sọ người cho tới khi tử
thi cháy xèo xèo và tan ra thành cam lồ, nước cam lồ sôi lên
và tràn đầy cả cái sọ. Mọi thứ hôi thối và bất tịnh
tràn ra ngoài dưới hình thức của một thứ váng bọt. Hơi
bốc lên từ nước cam lồ và chạm vào chữ hang; nhờ sự
va chạm này mà chữ hang như được hun nóng. Chữ hang rỉ
ra những giòng cam lồ đỏ và trắng, nhỏ xuống và hòa trộn
nhau trong một hợp thể bất khả phân ở trong cái sọ. Bản
thân chữ hang tan ra thành ánh sáng và cũng tan thành chất cam
lồ. Khi quán tưởng tất cả những điều này, bạn hãy tụng:
P’et!
Tự giải thoát tôi ra khỏi mê đắm xác thân...
và
v.v... Sau đó, khi bạn lập lại “Om Ah Hum,” hãy quán tưởng
rằng chữ om tịnh hóa chất cam lồ gồm tất cả những gì
bất toàn thiện của màu sắc, hương, vị và v.v....; chữ
ah làm chất cam lồ tăng trưởng gấp nhiều lần; và chữ
hum chuyển hóa chất cam lồ thành tất cả những gì mà ta
có thể ước muốn. Chất cam lồ này biến thành bản chất
của chất cam lồ tuyệt hảo 223 của trí huệ nguyên sơ, hiển
lộ trong dạng những đám mây cuồn cuộn và có thể thỏa
mãn bất cứ điều gì bạn đang khao khát.
Hãy
quán tưởng trên bầu trời trước mặt bạn một chiếc ngai
chất đầy những chiếc nệm bằng lụa, ngự trên đó là
vị Thầy gốc (Bổn Sư) tôn quý của bạn trong thân tướng
của con người. Ở trên Ngài là các Đạo Sư dòng truyền
thừa, xung quanh Ngài là tất cả các Bổn Tôn (Yidam), và phía
dưới trong khoảng không phía trên bình bát sọ người là
Bảy Mươi Lăm Vị Hộ Pháp Vinh Quang224 cùng tất cả tập
hội những Hộ Pháp khác, cả những vị Hộ Pháp trí tuệ
lẫn những Hộ Pháp bị nhiếp phục do nghiệp quả của các
hành động trong quá khứ của họ, cùng với các vị thổ
thần, thổ địa.
Phía
dưới bình bát sọ người, hãy quán tưởng tất cả mọi
chúng sinh trong sáu cõi và tam giới– trong số ấy có các
vị khách chính của bạn là tám mươi ngàn loại chúng sinh
gây ra chướng ngại, mười lăm đại ma quỷ săn bắt trẻ
con, và tóm lại, tất cả những kẻ gây ra chướng ngại và
những người mà bạn mắc nợ nghiệp, ngập đầy như vô
lượng vô số những hạt bụi trong một tia nắng.
1.
Bữa Tiệc Trắng Dành Cho Thượng Khách
Bây
giờ hãy quán tưởng rằng vị Thầy gốc của bạn, các Đạo
Sư dòng truyền thừa và tất cả thánh hội chư Phật và Bồ
Tát ở trên đầu vị Thầy, tất cả đều hút lấy chất
cam lồ bằng lưỡi của các Ngài – lưỡi ấy có hình dạng
như những cái ống chày kim cương rỗng.225 Kết quả
của việc quán tưởng này là bạn thành tựu pháp tu tích
lũy công đức, giải thoát khỏi các chướng ngại và những
giới nguyện mà bạn đã vi phạm hay những thệ nguyện mà
bạn đã phá vỡ sẽ được tịnh hóa, cũng như bạn sẽ đạt
được các thành tựu thông thường lẫn thành tựu siêu việt.
Các
Bổn Tôn (yidam) và các vị Hộ Phật (deity) của bốn và sáu
cấp Mật điển, đang vây quanh vị Thầy, cũng đang thọ dụng
chất cam lồ, hút chất cam lồ ấy bằng những chiếc lưỡi
rỗng – những chiếc lưỡi này có hình dạng tương ứng
với biểu tượng của từng vị một như chày kim cang, bánh
xe pháp, ngọc quý, hoa sen, hoặc chày kim cang đôi.*
Kết quả là bạn thành tựu pháp tu tích lũy công đức, tẩy
sạch các chướng ngại của bạn, tịnh hóa những giới nguyện
mà bạn đã vi phạm và những thệ nguyện mà bạn đã phá
vỡ, đạt được các thành tựu thông thường và siêu việt.
Bây
giờ các vị Không Hành nam (daka), Không Hành nữ (dakini), Bảy
Mươi Lăm Vị Hộ Pháp Vinh Quang và tất cả các vị Hộ Pháp
khác cũng hút phần cam lồ dành riêng cho họ qua những chiếc
lưỡi rỗng bằng ánh sáng của họ. Bạn thành tựu pháp tu
tích lũy công đức và thoát khỏi mọi chướng ngại; tất
cả các chướng ngại và hoàn cảnh bất lợi đối với Pháp
và đối với những thành tựu giác ngộ thảy đều được
tẩy trừ. Tất cả những hoàn cảnh thuận lợi và những
điều tốt đẹp mà bạn tìm kiếm được nhân bội phần
lên.
2.
Bữa Tiệc Trắng Dành Cho Các Vị Khách Ởû Dưới Thấp
Kế
đó, nếu bạn đã thuần thục trong việc quán tưởng như
trên thì hãy tiếp tục quán tưởng chính bạn là Bà Mẹ Chân
Chính Sắc Đen Phẫn Nộ, và từ trái tim bạn phóng tỏa ra
vô số những vị Không Hành nữ (dakani) đang biểu dương các
hoạt động -các dakini này có sắc trắng, vàng, đỏ, xanh
lá cây và xanh dương, giống như vô số những hạt bụi nhảy
múa trong những tia nắng mặt trời. Hãy tưởng tượng các
vị ấy giúp cho tất cả chúng sinh khắp sáu cõi và trong tam
giới được an dịu và hài lòng, vì các vị ấy đã
ban tặng cho mỗi chúng sinh một bình bát trí tuệ làm bằng
sọ người chứa đầy chất cam lồ tinh khiết.
Nếu
bạn thiếu kinh nghiệm trong việc quán tưởng, hãy tưởng
tượng rằng chính bạn là Bà Mẹ Sắc Đen Phẫn Nộ – bạn
sử dụng bình bát sọ người trong bàn tay trái của bạn để
múc nước cam lồ ra khỏi chiếc sọ lớn rồi tung rải nước
cam lồ ấy như mưa, cho những giọt cam lồ rơi xuống khắp
nơi trong sáu cõi và trong tam giới của sinh tử luân hồi.
Tất cả mọi chúng sinh đều uống nước cam lồ ấy và cảm
thấy hoàn toàn thỏa mãn.
3.
Bữa Tiệc Đa Dạng Cho Thượng Khách
Một
lần nữa, hơi bốc lên từ chất cam lồ được nấu sôi,
tạo ra những đám mây cúng dường không thể nghĩ bàn. Hãy
cúng dường những đám mây ấy cho các thượng khách: nước
tinh khiết để uống và rửa chân, hoa, hương nhang, đèn, nước
hoa, thực phẩm và âm nhạc, tám biểu tượng kỳ diệu và
bảy báu vật tượng trưng của vương quyền, các dù lọng,
cờ chiến thắng, màn trướng, bánh xe vàng với một ngàn
cây căm, các ốc xà cừ trắng xoắn về bên phải, và
thêm nhiều thứ nữa. Kết quả là bạn và tất cả chúng
sinh thành tựu các pháp tích lũy công đức và tất cả mọi
chướng ngại đều được tẩy sạch.
4.
Bữa Tiệc Đa Dạng Dành Cho Các Vị Khách Ở Dưới Thấp
Bây
giờ đến các vị khách ở dưới thấp, là tất cả chúng
sinh ở sáu cõi luân hồi sinh tử. Bất kỳ thứ gì mà mỗi
chúng sinh trong số đó ham muốn, bất kỳ điều gì mỗi chúng
sinh ao ước, tất cả những điều ấy trút xuống họ như
mưa, làm cho họ thỏa mãn và khiến họ tràn ngập niềm vui.
Hãy
đặc biệt nghĩ tưởng tới chúng sinh mà bạn từng mắc nợ
trong tất cả các kiếp đã qua của bạn cho tới tận ngày
nay trong vòng sinh tử vô thủy vô chung. Chúng ta có đủ
thứ loại nghiệp nợ do các hành vi trong quá khứ: các món
nợ thâu ngắn đời ta bởi ta từng sát sinh; các món nợ khiến
ta nghèo khổ bởi ta từng trộm cắp; các món nợ gây tai họa
bệnh tật bởi ta đã tấn công và đánh đập người khác;
các món nợ do người quyền thế hơn ta ban cho ta, các món
nợ do người thấp hơn ta cung phụng ta, và các món nợ tình
cảm bạn bè của những người ngang hàng ta; các món nợ đối
với những chúa công và những bộ hạ,226 đối với những
người thân yêu, với bạn bè, thần dân, con cái và gia súc;
các món nợ của thực phẩm chúng ta đã ăn và quần áo chúng
ta đã mặc, của tiền bạc chúng ta đã vay mượn, sữa chúng
ta đã vắt, của các gánh nặng mà ta khiến những người
khác phải mang vác, các món nợ của các cánh đồng ta đã
cày, và của bất kỳ thứ gì khác mà chúng ta có thể đã
từng sử dụng.
Tất
cả những chủ nợ hay oan gia đó, dù nam hay nữ, đều mong
muốn đòi bạn món nợ xương máu, thâu ngắn thọ mạng của
bạn và vồ chụp sinh lực của bạn. Họ vác những cái thùng
tròn để chưá, chạy theo sau bạn và đòi bạn phải trang
trải món nợ đã vay. Phẩm vật cúng dường (chất cam lồ)
được chuyển hóa thành một kho tàng vô tận gồm tất cả
những gì có thể ước muốn, tất cả trút như mưa xuống
họ, đem đến cho từng chúng sinh trong số đó bất kỳ những
gì mà họ ao ước nhất. Đem thực phẩm đến cho những ai
muốn thực phẩm, quần áo cho những ai cần quần áo, của
cải cho những người muốn của cải, vườn tược cho những
ai muốn vườn tược, ngựa cho những người muốn ngựa, nhà
để ở cho những ai muốn nhà cửa, bạn bè và những người
thân yêu cho những ai muốn bạn bè và những người thân yêu.
Khi
mỗi chúng sinh trong bọn họ vui hưởng những điều này thì
bạn được giải thoát khỏi những món nợ ơn nghĩa của
bạn. Các món nợ của bạn đều được trang trải. Bạn được
giải thoát khỏi những kẻ tử thu,ø và tất cả mọi hành
vi ác hại và những chướng ngại của bạn đều được giải
thoát. Tất cả đều nguôi ngoai và hài lòng.
Sau
đó hãy tưởng tượng rằng những người có thể bị bỏ
quên - người tầm thường, người yếu đuối, người què
cụt, người mù lòa, người điếc, người câm và tất cả
chúng sinh trong sáu cõi bị hành hạ và kiệt lực bởi nỗi
khổ – hãy nghĩ đến họ và quán tưởng phẩm vật cúng
dường (chất cam lồ) biến thành bất kỳ điều gì mà họ
có thể cần đến. Thành một nơi nương tựa cho những ai
không chỗ nương tựa, một vị mạnh thường quân cho những
ai không người bảo trợ, một sự giúp đỡ thân thiết cho
những ai không được trợ giúp, người thân và bạn bè cho
người cô độc, một vị trí trong xã hội cho người bị
tước đoạt, thuốc men để cứu chữa người bệnh, thuốc
hồi sinh cho người hấp hối, đôi chân thần kỳ cho người
què, đôi mắt minh triết cho người mù, đôi tai thần tình
cho người điếc, những cái lưỡi trí tuệ cho người câm,227
và v.v… Hết thảy chúng sinh vui hưởng các món quà tặng
và cảm thấy hài lòng, được giải thoát khỏi nghiệp báo,
khỏi những đau khổ và khỏi các thói quen huân tập của
mỗi một cõi trong sáu cõi luân hồi. Tất cả những chúng
sinh nam đạt tới thành tựu của đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara)
cao cả, tất cả những chúng sinh nữ đạt tới được thành
tựu của đức Quan Âm (Tara) cao quý, và ba thế giới của
luân hồi sinh tử (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) được
giải thoát khỏi vực thẳm cùng cực.
Tiếp
tục trì tụng “Om Ah Hum” cho tới khi bạn hoàn tất toàn
bộ công phu quán tưởng này. Rồi đọc đoạn sau đây:
P’et!
Các vị khách của pháp cúng dường cao...
xuống
tới những chữ:
..Đại
Viên Mãn không tạo tác. Ah!
Sau
đó hãy an trụ trong trạng thái siêu vượt bất kỳ ý niệm
nào về phẩm vật cúng dường, người cúng dường và người
thọ nhận cúng dường.
Trong
các bản văn Chư thường có bốn đại tiệc: trắng, đỏ,
lốm đốm nhiều màu và đen. Trong luận giải này, có các
bữa tiệc trắng và lốm đốm màu, không có các bữa tiệc
đỏ và đen.
Điều
mà những người tạm gọi là hành giả Chư ngày
hôm nay, họ coi Chư như là một tiến trình rùng rợn hủy
diệt các tinh linh hiểm ác bằng cách giết, quất, chặt, đánh
hay săn đuổi những tinh linh này. Ý niệm của họ về
pháp thực hành Chư bao gồm cả việc luôn luôn giận dữ.
Việc làm ra vẻ can đảm của họ không là gì khác hơn ngoài
lòng thù ghét và kiêu ngạo. Họ tưởng tượng rằng họ phải
hành xử như những thuộc hạ của Thần Chết. Ví dụ, khi
thực hành Chư cho một người bệnh, họ tự đưa mình vào
một màn phô diễn điên cuồng, nhìn chòng chọc với đôi
mắt lớn như những cái đĩa tròn ngập đầy thù hận, nắm
chặt tay lại, cắn chặt môi dưới, bất thần đấm mạnh
và túm lấy bệnh nhân thật dữ dội đến nỗi lưng áo người
bệnh bị rách bươm ra. Họ gọi việc này là sự chế ngự
các tinh linh, nhưng thực hành Pháp như thế là việc hoàn toàn
sai lầm. Machik Labdron nói:
Từ
vô thủy, các tinh linh độc hại đã từng sống trong một
cơn lốc ảo giác và đau khổ vô tận, là nghiệp chướng
họ phải chịu do các ác hạnh chính họ đã gây trong quá
khứ, và bởi các hoàn cảnh bất hạnh này đã cuốn họ đi
như một cơn gió. Khi chết, họ không thể tránh khỏi việc
bị đọa sâu vào trong vực thẳm của các cõi thấp. Với
cái móc của lòng bi mẫn, ta thâu tóm được những tinh linh
xấu ác đó. Khi cúng dường cho họ thịt và máu ấm của
chính ta để làm thực phẩm, nương vào lòng từ ái và đại
bi của Bồ Đề Tâm, ta chuyển hóa cách thức họ nhìn mọi
sự và khiến họ trở thành những đệ tử của ta. Đối
với ta, những tinh linh hiểm ác đó là phần thưởng ta có
được với cái móc của lòng bi mẫn - nhưng những người
lão luyện vĩ đại của pháp Chư trong tương lai sẽ lấy làm
kiêu hãnh về việc giết hại, trục xuất hay đánh đập những
tinh linh này. Đó sẽ là dấu hiệu cho thấy các giáo thuyết
sai lầm về pháp thực hành Chư, các giáo lý của quỷ ma,
đang lan rộng.
Tất
cả các pháp thực hành Chư sai lầm mà nữ hành giả (Machik
Labdron) tiên đoán, chẳng hạn như pháp Chư Đen Chín Phẩm
– pháp ấy chỉ là kết quả của cái nhìn cho rằng người
ta có thể chế ngự các tinh linh bằng bạo lực, không có
chút xíu lòng từ và bi nào của Bồ Đề Tâm.
Một
người sử dụng các pháp thực hành đó có lẽ cũng có thể
hoàn toàn chiến thắng một hoặc hai tinh linh yếu nhỏ, nhưng
nếu người ấy gặp phải bất kỳ tinh linh thực sự xấu
ác nào thì chúng sẽ đe dọa mạng sống của người ấy để
trả đũa như đã từng thấy xảy ra trong nhiều trường hợp.
Đối
với các hành giả, thật là đặc biệt khó khăn để có thể
biết được những dấu hiệu thành công xảy ra trên đường
tu – như việc chế ngự quỷ ma, hoặc một kinh nghiệm được
nhận được lực gia trì nào đó – không biết được đây
làø những dấu hiệu xác thực của tiến bộ trong tu tập,
hay thực ra cũng chỉ là các chướng ngại gây ra bởi các
thế lực ma vương.
Thường
thường, những người bị ám nhập bởi các tinh linh hiểm
độc dường như có tài thấu thị cùng các năng lực siêu
nhiên. Nhưng càng lúc họ càng xa rời Chánh Pháp cho tới khi
họ chẳng còn chút gì tốt lành trong họ. Những phẩm vật
cúng dường cao như núi có thể được chất chồng trên người
họ, hoàn toàn chỉ là những món nợ nghiệp trong tương lai,
và thậm chí cũng không đem lại cho họ điều gì tốt lành
trong đời này. Cuối cùng họ nhận ra rằng ngay cả việc
tích cóp để đủ ăn đủ mặc cũng là việc rất khó. Rồi
những gì họ có thì họ không thể nào đem ra sử dụng. Khi
chết, chắc chắn họ sẽ tái sinh trong một địa ngục phù
du hay một vài cảnh giới như thế, như chúng ta đã đề cập
đến (trong các chương trước).228
III.
Ý NGHĨA CỦA PHÁP Cho
Những
chúng sinh gọi là tinh linh bị tiêu diệt trong pháp Chư không
ở đâu xa. Họ ở trong chúng ta. Tất cả mọi ảo tưởng
mà chúng ta nhận thấy xuất hiện ra, trong hình thức của
các tinh linh bên ngoài chúng ta (ngoại ma), là bởi chúng ta
không diệt trừ được tánh tự phụ (hay ngã mạn) 229 trong
việc tin tưởng ở một cái “tôi” và chấp vào cái “ngã.”
Như Machik đã có nói:
Ma
quỷ hữu hình, ma quỷ vô hình,
Ma
quỷ hả hê và ma quỷ tự phụ -
Tất
cả chúng ma đến từ ma vương ngã mạn.230
Cái
mà chúng ta gọi là một tinh linh thực ra là ma vương
tự phụ, hay là ma chấp ngã, chấp có cái tôi. Machik cũng
nói:
“Nhiều
tinh linh” có nghĩa là nhiều ý niệm;
“Tinh
linh mạnh mẽ” có nghĩa là tin vào một bản ngã;
“Các
tinh linh man dã” có nghĩa là các vọng tưởng.
Người
tiêu diệt được các tinh linh này sẽ là một hành giả
lão
luyện của pháp thực hành Cho.
Cuộc
đối thoại giữa Ngài Jetsun Mila với Nữ Yêu Tinh Ở Tảng
Đá có những lời như sau:
Việc
tin vào một cái “tôi” thì mạnh mẽ hơn cả ngươi, hỡi
nữ yêu tinh.
Các
ý niệm thì còn nhiều hơn cả ngươi, hỡi nữ yêu tinh.
Các
vọng tưởng bị những thói quen huân tập cướp phá
còn
nhiều hơn cả bị ngươi cướp phá, hỡi nữ yêu tinh.
Ngài
cũng phân loại các loại pháp môn Cho khác nhau sau đây:
Cho
bên ngoài là lang thang trong những nơi chốn đáng
sợ
và núi non cô tịch;
Cho
bên trong là quăng ném thân xác hành giả làm thực
phẩm;
Cho
tối thượng là chặt đứt gốc rễ một lần và mãi mãi.
Ta
là một hành giả du già sở hữu ba loại Cho này.
Như
thế tất cả các pháp thực hành Cho là để chặt đứt ma
chấp ngã, chặt đứt niềm tin vào bản ngã, vì cái ngã
là gốc rễ của mọi vô minh và mọi tri kiến lầm lạc. Đây
là điều được nói tới qua câu “Cho tối thượng là chặt
đứt gốc rễ một lần và mãi mãi.” Các ma quỷ bên ngoài
chỉ là những nhận thức lầm lạc, và chừng nào mà bạn
không tiêu diệt hết niềm tin của bạn nơi ma chấp ngã [nội
ma] thì việc cố gắng tiêu diệt chúng [ngoại ma] sẽ không
làm chúng chết được. Đánh đập chúng sẽ không có kết
quả. Dẫm nát chúng sẽ không làm chúng tiêu tan. Săn đuổi
chúng sẽ không làm chúng bỏ đi. Trừ phi bạn chặt đứt
gốc rễ là cái ngã mạn ở trong bạn thì khả năng bạn có
thể hủy diệt các tinh linh huyễn ảo -- là biểu hiện bên
ngoài của tánh tự phụ -- sẽ không hơn gì việc muốn hết
khói mà không dập tắt ngọn lửa. Nữ Yêu Tinh Ở Tảng Đá
đã nói với Jetsun Mila:
Nếu
Ngài không biết rằng quỷ ma đến từ bản tâm Ngài,
Thì
sẽ có những quỷ ma khác chứ chẳng riêng tôi!
Tôi
sẽ không ra đi chỉ vì Ngài bảo tôi đi.
và
Ngài Jetsun Mila đã nói:
Coi
một quỷ ma như một quỷ ma thì nó sẽ làm hại ông;
Biết
rõ con quỷ trong tâm ông thì ông sẽ giải thoát khỏi nó;
Biết
được rằng quỷ ma là trống rỗng thì ông sẽ hủy diệt
được nó.
và
lại còn nói:
Các
ngươi xuất hiện như các tinh linh họa hại và các dạ xoa
đực hay cái,
Chỉ
khi người ta không hiểu rõ, các ngươi mới là ma quỷ,
Đem
lại tất cả những điều xấu ác và chướng ngại.
Nhưng
một khi người ta thấu hiểu, thì ngay cả quỷ ma các
ngươi
cũng là các Bổn Tôn,
Và
trở thành suối nguồn của mọi thành tựu.
Pháp
Cho là sự diệt trừ bất kỳ sự tin tưởng nào vào các quỷ
ma đến từ bên trong, chứ không phải pháp Cho là để
tiêu diệt chúng, đánh đập, trục xuất, đè bẹp và huỷ
diệt chúng. Chúng ta phải hiểu rằng cái cần phải bị tiêu
diệt thì không ở bên ngoài; nó ở ngay trong chúng ta.
Nói
chung, phần lớn các truyền thống tôn giáo khác giảng dạy
những phương cách có tính gây hấn với các thế lực thù
địch bên ngoài, và với các tác nhân của các chướng ngại
từ bên ngoài, sử dụng những phương pháp bạo động sắc
bén, dữ dội và mãnh liệt, các đầu tên mũi giáo, tất cả
đều hướng ra bên ngoài. Nhưng truyền thống của chúng ta
thì như Jetsun Mila nói:
Hệ
thống giáo lý của ta nhằm diệt trừ sự tin tưởng vào một
bản ngã, ném phăng tám mối quan tâm thế tục ào theo cơn
gió, và khiến bốn ma vương cảm thấy
bối rối.
Hãy
hướng tất cả mọi công phu tu tập của bạn vào bên trong
và huy động toàn bộ sức mạnh, phương tiện thiện xảo
và các năng lực của bạn để chống lại niềm tin rằng
có một bản ngã tồn tại trong bạn. Nếu nói được một
lần: “Hãy ăn nuốt tôi! Hãy mang tôi đi!” thì còn tốt
hơn gấp trăm lần khi kêu gào: “Xin che chở tôi! Xin hãy cứu
vớt tôi!” Cúng dường bản thân bạn để làm thực phẩm
cho một trăm tinh linh thì có giá trị hơn việc kêu gọi một
trăm vị Bổn Tôn che chở cứu giúp cho bạn.
Chúng
ta giao phó bệnh nhân cho ma quỷ.
Chúng
ta nương cậy vào kẻ thù để dẫn dắt ta
Một
lần nói: “Hãy nuốt tôi đi! Hãy chiếm đoạt tôi đi!”
Thì
tốt gấp trăm lần “Xin che chở tôi! Xin cứu vớt tôi!”.
Đây
là truyền thống của Bà Mẹ 231 tôn kính.
Nếu
bạn chặt đứt tận gốc niềm tin có quỷ ma bên trong lòng
bạn thì bạn sẽ nhận thức được rằng mọi sự đều thanh
tịnh, và như có câu tục ngữ nói rằng:
Quỷ
ma trở thành các Hộ Pháp, và khuôn mặt của các
Hộ
Pháp trở thành khuôn mặt của Hóa Thân.
Ngày
nay những người tự cho là các hành giả của Chư lại không
hiểu chút gì về điều này, và khăng khăng cho rằng các tinh
linh là cái gì ở ngoài bản thân họ. Họ tin tưởng vào quỷ
ma, và tiếp tục nhận ra chúng trong mọi thời điểm; trong
mọi sự việc đang hay đã xảy ra, họ nhìn thấy có một
con ma hay gyalgong nào đó. Bản thân họ không có sự an bình
trong tâm, và luôn luôn làm người khác bối rối với những
tin tưởng sai lầm của họ, được họ bày tỏ với sự quyết
đoán khoác lác rằng:
“Có
một con ma ở trên kia! Và một tinh linh dưới kia nữa! Một
con ma đấy! Một con quỷ kìa! Một tsen đấy! Tôi có thể
thấy nó... Ha! Tôi bắt được nó rồi! Tôi đã giết nó!
Coi chừng, có một con ma đang rình anh đó! Tôi đã đuổi nó
đi! Kìa - nó nhìn lại kìa!”
Các
tinh linh và quỷ đói biết rõ những người như thế đang
làm gì, và quanh quẩn bên họ bất kỳ nơi nào họ đến.
Chúng chiếm hữu tài sản của những người đàn bà dễ rơi
vào hôn mê, chẳng hạn là như vậy, và dùng mọi loại luận
điệu khẳng định và có vẻ hợp lý như sau: ”Ta là một
vị Trời,” “Ta là một con ma,” “Ta là người đã chết,”
“Ta là cha trong tiền kiếp của ngươi,” “Ta là mẹ trong
tiền kiếp của ngươi,” và v.v... Đôi khi họ tuyên bố:
“Ta là Bổn Tôn, ta là một Hộ Pháp. Ta là Damchen,” và nói
về các thị kiến siêu nhiên hay đưa ra các tiên đoán sai
lạc.
Quỷ
ma lừa gạt các Lạt Ma và các Lạt Ma lừa gạt các thí chủ,
hoặc như tục ngữ có nói: “Đứa con trai lừa phỉnh cha
nó trong khi kẻ thù lừa phỉnh đứa con trai.” Đó là những
dấu hiệu hiển nhiên của thời đại suy thoái, và chỉ ra
rằng chúng quỷ ma đang kế tục sự nghiệp. Như Đại Đạo
sư xứ Oddiyana đã tiên đoán:
Trong
thời đại suy đồi, các tinh linh đực sẽ nhập vào tim những
người nam,
Tinh
linh cái sẽ nhập vào tim những người nữ;
Yêu
tinh sẽ nhập vào tim trẻ con;
Những
kẻ vi phạm mật nguyện sẽ nhập vào trái tim của giới tăng
lữ.
Sẽ
có một tinh linh trong mỗi trái tim người Tây Tạng.
Và:
Khi
các yêu tinh được coi như các vị Trời, một thời đại
đau khổ sẽ tấn công xứ Tây Tạng.
Các
tiên tri này đã xảy ra.
Đừng
để bị lừa gạt bởi tri kiến sai lầm khiến cho các vị
Trời, tinh linh và những kẻ gây chướng ngại có cơ hội
xuất hiện ở bên ngoài bạn; điều đó sẽ chỉ tăng thêm
sức mạnh cho tri kiến sai lầm của bạn. Hãy tu tập bản
thân để nhận ra rằng mọi sự đều là một phô diễn như
mộng hay như ảo ảnh. Các hiện tượng có tinh linh ở một
phía và có người bệnh ở phía bên kia đang xuất hiện chốc
lát, như có kẻ gây hấn và có một nạn nhân, cả hai đều
phát sinh từ những hành vi xấu ác, và rồi các tri kiến lệch
lạc liên kết với nhau trong cách thức đó. Đừng đứng về
phe nào, đừng yêu thích người này và ghét bỏ người khác.
Hãy phát khởi lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm tới cả hai
bên. Hãy chặt đứt tận gốc mọi mối quan tâm tới bản
ngã và chặt đứt mọi tin tưởng vào một cái “tôi” của
bạn, và hãy hiến tặng thân thể và đời sống bạn để
làm thực phẩm cho các tinh linh không chút do dự. Hãy cầu
nguyện từ tận đáy lòng bạn rằng những chúng sinh này có
thể được lợi lạc trong Giáo Pháp chân chính và hãy làm
an dịu lòng thù ghét và ác tâm của chúng, và sau đó hãy
giảng giải giáo lý cho chúngï.232
Sau
cùng, khi bạn chặt đứt tận gốc tất cả mọi sự tin tưởng
sai lạc vào tính nhị nguyên của kẻ gây hấn và của nạn
nhân, chặt đứt mọi sự tin tưởng sai lạc vào nhận thức
đây là Bổn Tôn và kia là ma quỷ, đây là mình và kia làø
người - và vào tất cả mọi ý niệm phân chia đối đãi
đến từ hy vọng và sợ hãi, từ tham luyến và thù ghét,
từ cái tốt và cái xấu, từ niềm vui và nỗi khổ – thì
rồi ra, bạn sẽ nhận ra được rằng:
Không
Bổn Tôn, cũng không quỷ ma: sự xác tín của cái Thấy.
Không
phóng tâm, cũng không bám luyến: điểm trọng yếu của
thiền định. Không chấp nhận, cũng không phủ nhận:
điểm trọng yếu của hành động.
Không
hy vọng, cũng không sợ hãi: điểm trọng yếu của đạo
quả.
Khi
mọi ý niệm (tạo tác) về bất cứ điều gì đều được
cắt đứt và người thực hiện việc cắt đứt ấy tan hòa
vào cái bao la của thực tại tuyệt đối nơi mà mọi sự
đều bình đẳng, thì tinh linh hãm hại bên trong của tánh
tự phụ hay ngã mạn sẽ bị chặt đứt tận gốc rễ. Đó
là dấu hiệu bạn đã chứng ngộ pháp Chư tuyệt đối
và tối hậu:
Con
hiểu ra rằng không có bản ngã, nhưng vẫn còn có các ý niệm
khổng lồ về cái “tôi”.
Con
từng quyết định từ bỏ tâm đối đãi, nhưng bị bao vây
bởi hy vọng và sợ hãi.
Xin
từ bi gia hộ cho con và những kẻ chấp ngã như con
Để
chúng con có thể chứng ngộ trạng thái như nhiên, vắng bặt
bản ngã.
Dudjom
Rinpoche (1904-1987)
Một
học giả và Đạo Sư kiệt xuất của dòng Đại Viên Mãn,
Ngài trì giữ tất cả các Giáo Pháp chính yếu của dòng
Nyingma, khám phá nhiều kho tàng tâm linh, là một tác giả và
vị Thầy có sức trước tác vô cùng sung mãn. Ngài trở thành
vị lãnh đạo trường phái Nyingma tại hải ngoại, và đã
giảng dạy rộng rãi ở Tây Phương và Viễn Đông cũng như
tại khắp các miền núi Hy Mã Lạp Sơn. Bức ảnh này được
chụp tại Tây Tạng. Ngài qua đời tại trụ xứ ở Dordogne,
Pháp Quốc, năm 1987.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 14 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:25pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TƠI
PATRUL
RINPOCHE
Nhĩm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Tồn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHƯƠNG
6
PHÁP BỔN SƯ
DU GIÀ,233
CÁNH
CỔNG DẪN ĐẾN NĂNG LỰC GIA TRÌ,
PHƯƠNG
PHÁP TỐI HẬU ĐỂ CHỨNG NGỘ TUỆ GIÁC
Trước
tiên, Ngài đã theo chân một Đạo Sư siêu việt và tuân
lời Thầy;
Ngài
đã tu tập trải qua bao gian khổ lớn lao;
Cuối
cùng, tâm Ngài và tâm của Đạo Sư đã hợp nhất,
và
Ngài thừa kế dịng truyền thừa.
Bậc
Thầy Vơ Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
I.
LÝ DO CĨ PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ (Guru Yoga)
Để
cĩ thể thực hành Chân Pháp, điều tối quan trọng trước
tiên là phải đi tìm một vị thiện tri thức chân chính, một
vị Chân Sư với tất cả các phẩm hạnh cần thiết. Sau đĩ
bạn cần tuân theo từng giáo huấn của Ngài, khẩn cầu Ngài
từ tận đáy lịng bạn và coi Ngài như một vị Phật đích
thực. Như một trong các Kinh điển cĩ nĩi:
Chính
nhờ cĩ tín tâm mà chân lý tuyệt đối được chứng ngộ.
Tương
tự, Ngài Atisa đã nĩi:
Các
bạn, cho tới khi đạt được giác ngộ, các bạn cần một
vị Thầy, vì thế hãy đi theo một vị thiện tri thức siêu
việt.
Cho
tới khi chứng ngộ trạng thái như nhiên, các bạn cần phải
học hỏi, vì thế hãy lắng nghe các giáo huấn của Ngài.
Tất
cả hạnh phúc là năng lực gia trì của Thầy, vì thế hãy
luơn luơn tưởng nhớ đến lịng tốt của Ngài.
Geshe
Kharak Gomchung cũng nĩi:
Ta
cần ý thức được rằng vị Thầy giống như suối nguồn
của mọi thành tựu thế gian lẫn các thành tựu xuất thế
gian.
và
cũng nĩi:
Bạn
cĩ thể thơng hiểu tồn bộ Tam Tạng, nhưng nếu khơng
cĩ lịng quy ngưỡng đối với Thầy của bạn thì những
thứ đĩ sẽ chẳng cĩ ích lợi gì cho bạn.
Điểm
đặc biệt là trong tất cả các con đường của Mật Thừa,
bậc Thầy cĩ một tầm quan trọng vơ song và tột bậc. Vì
lý do này, tất cả mọi Mật điển đều dạy phương pháp
thực hành Bổn Sư Du Già, và dạy rằng pháp này siêu vượt
tất cả các pháp hành trì khác trong các giai đoạn phát triển
và thành tựu. Trong một Mật điển cĩ nĩi:
Lợi
lạc hơn cả cơng phu thiền định về một trăm ngàn Bổn
Tơn
trong
mười triệu kiếp
Là
việc ta nghĩ tưởng về Thầy mình trong một khắc giây.
Điều
ấy đặc biệt đúng trong Thừa này, là tâm yếu của Đại
Viên Mãn như nhiên, là giáo lý kim cương cốt lõi. Ở đây
ta khơng được dạy rằng chân lý thâm diệu phải được
thiết lập trên nền tảng của phân tích và luận lý, như
các pháp thực hành trong các Thừa thấp hơn đã dạy.234
[Theo các chỉ dạy trong pháp Bổn Sư Du Già], ta khơng
cần phải sử dụng các thành tựu thơng thường để cuối
cùng mới đạt đến được các thành tựu tối cao như trong
các Mật điển cấp thấp đã dạy. Thơng thường, qua lễ
quán đảnh thứ ba – tức lễ quán đảnh về tâm của
các Mật điển thượng thưà, ta sẽ được chỉ cho thấy
đâu là Giác tánh nguyên sơ qua những dẫn dụ về tâm, và
xuyên qua đĩ, ta sẽ đến gần hơn với Giác tánh nguyên sơ
đích thực. 235 Nhưng trong pháp mơn Guru Yoga thì cách thức
quán đảnh và dẫn dụ như trên khơng phải là điều được
chú trọng đến. Điều được dạy trong truyền thống
Guru Yoga là hãy hướng tâm ta đến một vị Thầy đã chứng
ngộ siêu việt và cầu nguyện Ngài với lịng quy ngưỡng nhiệt
thành và với một tín tâm tuyệt đối. Vị Thầy ấy phải
là người xuất thân từ một giịng truyền thừa khơng bị
hoen ố vì bất cứ một vi phạm thệ nguyện nào, giống như
một sợi giây xích bằng vàng rịng – hãy nương cậy nơi
Ngài, chỉ độc nhất một mình Ngài, và hãy coi Ngài đích
thực là một vị Phật.236 Qua phương cách này, tâm bạn
sẽ hồn tồn hịa nhập với tâm Ngài. Nhờ năng lực gia hộ
mà Ngài trao truyền cho bạn, kinh nghiệm chứng ngộ sẽ nảy
sinh.237 Như chúng ta đã trích dẫn trước đây:
Tuệ
giác bẩm sinh viên mãn chỉ cĩ thể hình thành
Như
là dấu hiệu của cơng phu tích lũy cơng đức và tịnh hĩa
chướng ngại,
Và
nhờ vào năng lực gia trì của một bậc Thầy chứng ngộ.
Hãy
hiểu rằng nương tựa vào bất kỳ phương tiện nào khác
là điên rồ.
Và
Ngài Saraha cĩ nĩi:
Khi
lời dạy của Thầy đi vào trái tim của bạn,
Bạn
sẽ thấy chẳng khác nào cĩ một kho tàng trong lịng bàn tay.
Ngài
Longchenpa, Pháp Vương Tồn Giác, trong tác phẩm luận giải
An Trú Xa Lìa Ảo Giác ,238 đã viết:
Trong
các pháp thực hành chẳng hạn như những pháp tu tập trong
giai đoạn phát triển và thành tựu, khơng phải tự bản chất
của những pháp tu này sẽ đem lại giải thốt, bởi vì điều
đĩ cịn tùy thuộc vào những yếu tố khác, chẳng hạn như
là việc làm thế nào để ta cĩ thể biến kinh nghiệm tu tập
thành kinh nghiệm sống thực, giúp cho cơng phu thực hành của
ta thêm phần sâu sắc. Tuy là như vậy nhưng trong pháp Bổn
Sư Du Già (Guru Yoga), tự ngay bản chất của con đường này
đã cĩ khả năng làm sống dậy kinh nghiệm chứng ngộ trạng
thái chân như trong ta, và đem lại cho ta giải thốt. Bởi vì
lý do như thế mà Guru Yoga là con đường thâm diệu nhất trong
tất cả mọi con đường [trong tất cả các pháp tu].239
Trong
Mật Điển Trình Tự Giới Nguyện cĩ nĩi:
Lợi
lạc hơn cả việc thiền định trong một trăm ngàn đại kiếp
Về
một Bổn Tơn với tất cả các tướng chánh và phụ
Là
việc ta hướng tâm về Thầy mình trong giây khắc.
Lợi
lạc hơn cả một triệu câu trì tụng của các pháp tu trong
giai
đoạn
phát triển và thành tựu (của Bổn Sư Du Già).
Là
một lời cầu nguyện độc nhất gửi tới Thầy ta.
Và
trong Mật Điển Trình Tự Pháp Tu A-Ti Du Già cĩ nĩi:
Bất
kỳ ai thiền định về bậc Thầy từ ái của mình
Trên
đỉnh đầu họ,
Nơi
giữa trái tim họ
Hoặc
trong lịng bàn tay,
Sẽ
cĩ được các thành tựu của một ngàn vị Phật.
Bậc
tơn kính Gotsangpa đã nĩi:
Thực
hành pháp tu Bổn Sư Du Già
Làm
cạn kiệt mọi khiếm khuyết và hồn thiện mọi thành tựu.
và
cũng cĩ nĩi:
Cĩ
vơ số các pháp tu trong giai đoạn phát triển,
Nhưng
khơng cĩ pháp nào trong số đĩ vượt qua pháp thiền
định
về Thầy.
Cĩ
vơ số các pháp tu trong giai đoạn tồn thiện,
Nhưng
khơng cĩ pháp nào vượt qua niềm tin tuyệt đối và lịng quy
phục kia.
Drikung
Kyobpa Rinpoche nĩi:
Trừ
phi mặt trời của lịng quy ngưỡng chiếu sáng
Trên
đỉnh núi tuyết của bốn Thân của Thầy (four kayas),
Thì
lực gia trì của Ngài sẽ khơng bao giờ tuơn chảy.
Vì
thế, hãy hết lịng khơi dậy lịng quy ngưỡng trong tâm con!
Và
Ngài Jetsun Rangrik Repa nĩi:
Muốn
cho trí tuệ nguyên sơ siêu vượt tri thức lĩ rạng
Mà
khơng cĩ lịng tin nhiệt thành nơi Thầy
Thì
giống như mong chờ ánh nắng mặt trời trong một cái hang
quay về hướng bắc.
Theo
đĩ, tướng và tâm sẽ khơng bao giờ hịa hợp được.240
Pháp
tu quy ngưỡng của Bổn Sư Du Già là con đường duy nhất đánh
thức được trong bạn trạng thái chứng ngộ như nhiên phi
tạo tác. Khơng phương pháp nào khác cĩ thể đem lại sự
chứng ngộ như thế.
Ngài
Naropa là một học giả hết sức uyên bác trong cả ba Thừa,
và sau khi đánh bại mọi thách thức của những kẻ ngoại
đạo (tirthika), Ngài được ban cho tước vị của một vị
Hộ Thần của các học giả ở cổng phía bắc của Vikramasila.100
Nhưng
một ngày kia một Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) bảo Ngài: “Ơng
uyên bác trong ngơn từ, chứ khơng thâm nhập ý nghĩa của
chúng. Ơng vẫn cần phải theo chân một vị Thầy.”
Tuân
theo những giáo huấn trên, Ngài đi theo Tổ Tipola và chịu
đựng nhiều thử thách, cho tới một hơm Tilopa bảo Ngài:
“Mặc dầu ta dạy ơng mọi sự, ơng vẫn chẳng hiểu gì
cả!” và đánh một chiếc dép lên trán Ngài. Ngay khi đĩ,
Naropa chứng ngộ bản tánh như nhiên và trí huệ của Ngài
trở nên đồng nhất với trí huệ của Thầy.* *
Để biết thêm chi tiết xin xem thêm Phần Một, Chương Sáu,
Mục III.
Cũng
cĩ truyện kể lại rằng Ngài Nagabodhi đã đạt được thành
tựu tối cao bằng cách chộp lấy và nuốt một bện nước
mũi nhỏ xuống của Đạo Sư cao quý Nagarjuna. Và Rigdzin Jigme
Lingpa nĩi:
Khi
tơi xem các tác phẩm của Ngài Longchenpa, một vị Phật Thứ
Hai - thì trong trí tơi lĩe lên tư tưởng rằng Ngài đích thật
là một vị Phật, và tơi cầu nguyện Ngài với lịng chí thành
mãnh liệt. Ngài đã thị hiển trong một linh kiến và đã
chấp nhận [lời khẩn cầu] của tơi. Kinh nghiệm chứng ngộ
tự nhiên phát sinh trong tơi và từ ngày hơm đĩ trở về sau,
tơi đã cĩ thể dẫn dắt trên một trăm đệ tử. Những đệ
tử tinh tấn lẽ ra khơng vượt quá khả năng nhập định
tầm thường, những đệ tử thơng minh lạc lối lẽ
ra đã cĩ thể lạc vào lối mịn trí thức; nhưng họ đã chứng
ngộ được chân lý tuyệt đối vì họ được lịng quy ngưỡng
dẫn dắt như một năng lực đối trọng [để đem lại cho
họ sự quân bình trong tu tập].
Suốt
thời kỳ tha hương ở Gyalmo Tsawarong, đại dịch giả Vairotsana
đã dạy cho cụ già Pang Mipham Gonpo cách vận dụng năng lực
gia trì của bậc Thầy như một con đường tu. Mipham Gonpo đã
tám mươi tuổi và thân thể trì trệ vì tuổi già. Vì thế
Ngài Vairotsana đã giúp ơng giữ thân thể ngồi thẳng bằng
một dây-đai-thiền-định và dựa đầu trên một giá-đỡ-thiền
định.** Mipham Gonpo đã chứng ngộ kinh nghiệm thuần
tịnh nguyên thủy của trekcho khơng chút sai lạc. Thân ơng
hịa tan thành vơ lượng những hạt cực vi (infinitestimal particles)
và đã đạt được Phật Quả.241 **
Dây-đai-thiền-định là một dây thắt lưng dài giúp thiền
giả duy trì trong một tư thế ngay ngắn suốt thời gian dài
ngồi thiền. Giá- đỡ- thiền-định là một cây gậy dài
khum lại ở một đầu dùng như một giá đỡ cằm.
Bạn
cĩ thể so sánh giáo lý này với bất kỳ giáo lý nào khác
của tất cả chín Thừa, nhưng bạn sẽ khơng bao giờ tìm
ra được một con đường tốt đẹp hoặc thâm diệu nào hơn
giáo lý này. Pháp tu Guru Yoga này cĩ thể được gọi là một
pháp tu sơ đẳng nhưng thực ra đây là chìa khĩa then chốt
tối hậu của tồn thể các pháp tu chính yếu. Trong bất kỳ
tình huống nào cũng vậy, nếu bạn luơn lấy pháp tu này làm
cốt tủy cho việc tu hành của bạn, thì chỉ mình pháp ấy
thơi là đã đủ – ngay cả nếu bạn khơng thực hành pháp
nào khác nữa. Vì thế, điều cực kỳ quan trọng là bạn
hãy hiến mình cho pháp tu này từ tận đáy lịng sâu thẳm.
II.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
Phần
thực hành chính yếu của pháp tu Bổn Sư Du Già thâm diệu
gồm cĩ ba giai đoạn: quán tưởng ruộng cơng đức, cúng dường
thất chi phổ hiền (seven-branch offering) và cầu nguyện với
lịng tin chí thành.
1.
Quán Tưởng Ruộng Cơng Đức
Để
cĩ thể chuyển hĩa nhận thức của bạn về thế giới này,
việc ấy địi hỏi một tâm thức mạnh mẽ và khai phĩng.
Vì thế hãy bắt đầu bằng việc quán tưởng tất cả mọi
thứ mà bạn cĩ thể nhìn thấy trong tầm nhìn xa rộng của
bạn chính là Cung Điện Liên Hoa Quang, với đầy đủ
những đường nét đặc thù của một cung điện.
Hãy
quán tưởng chính bạn ở ngay trung tâm của cung điện, và
thấy rằng bạn đang hiển lộ những đặc tánh tự nhiên
của Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) Yeshe Tsogyal. Việc quán tưởng
như trên đảm bảo rằng bạn sẽ là một bình chứa thích
hợp cho các lễ quán đảnh, sẽ giúp khơi dậy trí huệ nguyên
sơ của đại lạc và tánh Khơng, và sẽ liên kết được
với những hướng dẫn mà vị Thiên Nữ ấy đã được thọ
nhận từ bậc Sư Phụ.242 Theo hình tướng thì thật ra, bạn
phải quán chính bản thân bạn là vị Hộ Phật Kim Cang Thủ
(Vajrayogini). Đấng Vajrayogini cĩ sắc tướng màu đỏ, với
một khuơn mặt, hai tay và ba mắt. Vajrayogini đang tha thiết
hướng mắt nhìn vào trái tim của vị Thầy –“tha thiết”
ở đây diễn tả một cảm giác nĩng lịng, khơng thể kiên
nhẫn chờ đợi trong việc hồ nhập với Thầy. Ngài là suối
nguồn duy nhất của mọi hỉ lạc. Sử dụng bàn tay phải,
Vajrayogini
đang đánh vào một cái trống nhỏ làm sọ người được
giơ cao lên trong khơng trung, đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc
ngủ vơ minh và lầm lạc. Bàn tay trái đặt lên hơng, và cầm
một lưỡi dao cong chặt đứt gốc rễ của tam độc. Vajrayogini
khơng mặc y phục ngoại trừ những vật dụng bằng xương
và các vịng hoa. Vajrayogini thị hiện ra trước mặt ta nhưng
đĩ chỉ là giả hợp, khơng cĩ thực chất, giống như một
chiếc cầu vồng ở giữa bầu trời.
Lơ
lửng trong khơng gian trên đầu vị ấy cách khoảng một mũi
tên là một hoa sen trăm ngàn cánh làm bằng nhiều loại châu
báu đang nở rộ. Trên (đố sen) đĩ là một đĩa mặt trời,
trên nữa là một đĩa mặt trăng. Trên pháp tồ này, cĩ vị
Thầy gốc hay Bổn Sư vinh quang của bạn đang an tọa.
Ngài thị hiện trong hình tướng của đại Đạo Sư xứ Oddiyana,
là kho tàng của lịng đại bi vơ song, là hiện thân của chư
Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ngài
mang sắc trắng, pha đỏ. Ngài cĩ một khuơn mặt, hai tay và
hai chân. Ngài ngồi trong tư thế vương giả và chồng một
vuơng vải bằng gấm thêu kim tuyến, đắp thêm chiếc y của
một vị tăng, cùng một áo chồng xanh lam dài tay, trên đầu
đội một chiếc mũ hoa sen.
Cĩ
cả thảy ba chiếc mũ khác nhau cĩ liên hệ với Guru Rinpoche.
Ngài cũng được gọi là Đức Phật Thứ Hai của xứ Oddiyana.
Chiếc mũ thứ nhất được các dakini cúng dường cho Ngài
khi Ngài sinh ra đời. Ngài khơng được thụ thai bởi
một người cha hay được sinh ra từ một người mẹ, mà được
đản sinh ở phương tây-nam, trên Hồ Sữa, giữa một bơng
sen. Việc đản sinh này của Ngài đã xảy ra thình lình,
là một nảy nở tự nhiên của giác tánh, là kinh nghiệm chứng
ngộ rằng vạn pháp hữu vi đều phát sinh từ nền tảng nguyên
sơ. Chiếc mũ miện mà các dakini cúng dường Ngài để tơn
phong ngài như Pháp vương của họ, chiếc mũ miện ấy được
gọi là Nụ-Sen.
Về
sau, khi Ngài thực hành các hoạt động phi thường243 nơi Tám
Mộ Địa Vĩ Đại và siêu vượt mọi hành động tốt hoặc
xấu, các vị Khơng-Hành nữ (dakini) đã hiến dâng cho
Ngài chiếc mũ gọi là Mũ Da-Hươu 244 như một biểu tượng
cho sự vĩ đại của Ngài.
Chiếc
mũ thứ ba do Arsadhara, Vua xứ Zahor cúng dường Ngài. Vua đã
quyết tâm thiêu sống Đạo Sư, nhưng ơng khám phá ra thân
kim cương của Ngài khơng bị ngọn lửa làm cho tổn hại,
thân này đang ngồi trần trụi, hồn tồn tươi tắn, mát mẻ
giữa một đố sen kỳ diệu. Nhà vua hết sức kinh ngạc và
đức tin xuất hiện trong lịng Ngài.
“Hãy
mở kho quần áo lụa mới của ta ra,” vua ra lệnh, “và đem
cho ta tất cả những mũ miện và y phục.” *Xem
Thuật ngữ.
Cái
mũ mà vua cúng dường (cho đức Liên Hoa Sanh) vào lúc đĩ,
khơng những được cúng dường cùng với những của cải
khác của nhà vua, mà cịn cùng với quyến thuộc, vương quốc
và thần dân của vua nữa. Mũ ấy được gọi là Hoa
Sen Giải thốt Nương Nơi Cái Thấy, cũng được gọi là Mũ
Cánh Hoa Thuộc Ngũ Bộ Phật. Chính cái mũ đặc biệt này
là cái mũ mà chúng ta quan tâm đến ở đây. Mũ này cĩ hai
lớp, trong và ngồi, tượng trưng cho sự hợp nhất của các
giai đoạn phát triển và thành tựu. Mũ cĩ ba chỏm, tượng
trưng cho ba Thân (three kayas). Năm màu của mũ tượng trưng
cho năm Thân* làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Mũ được
trang trí với một mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho
các phương tiện thiện xảo và trí tuệ. Mũ cịn cĩ thêm một
viền xanh dương tượng trưng cho các mật nguyện vơ giới
hạn. Trên chĩp đỉnh cĩ một chiếc chày kim cương (vajra)
là biểu tượng của cơng năng thiền định cao độ khơng
gì lay chuyển được, và thêm một chiếc lơng chim kên kên,
tượng trưng cho kinh nghiệm chứng ngộ của cái thấy
cao tột và là cực điểm của cơng phu tu hành.
Bàn
tay phải của Ngài đặt nơi khoảng trái tim, phơ diễn ấn
phẫn nộ và trong tay cĩ cầm một chiếc chày kim cang bằng
vàng. Bàn tay trái đặt trong lịng trong ấn thiền định và
trong tay cĩ cầm một bình bát làm bằng sọ người. Bình
bát chứa đầy nước cam lồ bất tử của trí tuệ và [bên
trong bình bát cĩ đặt] một bình trường thọ, trên bình trường
thọ cĩ cắm một chồi non của cây ước nguyện. Trong vịng
tay trái, Đạo Sư (Guru Rinpoche) cầm cây chĩa ba khatvanga**—
cây khatvanga này là biểu tượng bí mật của Mandarava, là
vị Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) thủ hộ đứng đầu tất cả
các Thiên Nữ. Ba ngạnh của khatvanga tượng trưng cho chân
tánh tinh yếu, cho sự biểu lộ tự nhiên, và cho lịng bi mẫn,
và ở dưới ba ngạnh này là là ba thủ cấp: một đầu đã
khơ tượng trưng Pháp Thân, một đầu thối rữa, tượng trưng
Báo Thân, và một đầu mới cắt tượng trưng Hĩa Thân. Chín
vịng kim khí mĩc trên những ngạnh của khatvanga tượng trưng
cho chín thừa; những giải cờ lụa năm màu tượng trưng cho
năm trí tuệ. Khatvanga cũng được trang điểm bằng những
mảng tĩc của các mamo *** hoặc đã chết hoặc cịn sống
và của những vị Thiên Nữ, như một dấu hiệu cho thấy
Đạo Sư đã nhiếp phục được họ trong suốt thời gian Ngài
đã thực hành các hoạt động phi thường trong Tám Mộ Địa
Vĩ Đại.245 **Một loại đinh
ba đặc biệt *** Phạn: matrika, một loại thiên nữ (dakini)
phẫn nộ
Khắp
chung quanh Ngài, trong một khối cầu vồng chĩi lọi được
vây quanh bởi một mạng lưới gồm vơ số những tụ điểm
ánh sáng năm màu, hãy quán tưởng Tám Vị Trì Minh Vương (Vidyadhara)
của Ấn Độ, Hai Mươi Lăm Đại Đệ tử của Tây Tạng,
cũng như hằng hà sa số các vị Bổn Tơn của Ba Nguồn
Guru Rinpoche
và dịng truyền thừa
Tâm-yếu của
Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik)
Jnanasutra &n bsp;
Samantabhadra  ; Trisong Detsen
Vajrasattva Garab Dorje
Sri
Simha &n bsp; &n bsp; &n bsp; &n bsp;
Manjusrimitra
Yeshe
Tsogyal &nbs p;
Guru Rinpoche
Vairotsana
Longchenpa &n bsp;
Vimalamitra & nbsp; & nbsp;
Jigme Lingpa
Gia
Trì (Three Roots) cùng các vị Hộ Pháp trung thành. Các
ngài phải thật sự hố hiện [trước mặt bạn] như thế
nào để chính sự hiện hữu ấy cĩ thể chặt đứt
được những tư tưởng phàm tục trong bạn.
Nĩi
rộng ra thì cĩ ba phương cách khác nhau để quán tưởng dịng
truyền thừa. Trong phần thực hành quy y, chúng ta đã quán
tưởng các Lạt Ma vị này ở trên vị kia. Tất cả các Lạt
Ma của dịng đại Viên Mãn xuất hiện vị này trên vị kia
trên đỉnh đầu của Đạo Sư xứ Oddiyana. Cịn cách thức
chúng ta quán tưởng khi thiền định và trì tụng pháp Kim
Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) cịn được biết đến như làø viên
ngọc dung chưá tất cả. Tất cả các Lạt Ma gốc và các
Lạt Ma thuộc dịng truyền thừa cùng xuất hiện trong hình
tướng của duy nhất của đức Kim Cang Tát Đoả. Nhưng bây
giờ, khi thiền định về Guru Yoga, chúng ta quán tưởng các
Lạt Ma như một tổng hợp [cùng hội tụ lại]. Tất cả các
Lạt Ma của dịng Đại Viên Mãn, đại dương của Ba Nguồn
Gia Trì, cùng với các vị Hộ Pháp trung thành, tất cả
đều tụ hội lại thành một thánh chúng xung quanh đại Đạo
Sư xứ Oddiyana.
Hãy
trì tụng bản văn quán tưởng, chú ý tới ý nghĩa của các
ngơn từ:
Emaho!
246 Tất cả những gì con cảm nhận đều là một Phật cảnh
đang được hình thành tự nhiên, thanh tịnh và vơ tận...
xuống
tới:
...được
quán tưởng trong sự đồng nhất vĩ đại, bất khả phân
của tánh sáng (clarity) và tánh Khơng (emptiness).
Rồi
với lịng quy ngưỡng mãnh liệt, hãy trì tụng những giịng
này:
Hum!
Nơi biên địa Tây Bắc xứ Oddiyana..
xuống
tới:
..Guru
Padma Siddhi Hum.247
Khi
bạn tụng đọc những dịng này, hãy tưởng tượng rằng tất
cả các Bổn Tơn và Cung Điện Liên Hoa Quang ở Núi Đồng
Đỏ Huy Hồng như thực sự xuất hiện và tan hồ vào các
Bổn Tơn thệ nguyện và vào cung điện 248 mà bạn đã quán
tưởng, tất cả trở thành một như nước đổ vào với
nước.
2.
Cúng Dường Thất Chi Phổ Hiền
Con
đường Kim Cương Thừa bao gồm nhiều phương pháp tu tập
đa dạng, và khơng phải trải qua các gian khổ lớn lao. Con
đường này được dành cho những người cĩ căn cơ sâu sắc.
Nếu chúng ta bền bỉ tu luyện bản thân để tích lũy cơng
đức và trí tuệ với một quyết tâm mạnh mẽ, mọi sự
lẽ ra phải mất cả một đại kiếp để tích lũy qua con
đường hành trì sáu ba la mật, nhưng nay theo con đường của
Kim Cương Thừa thì ta cĩ thể thành tựu chỉ trong khoảnh
khắc, và cĩ thể đạt được giải thốt chỉ trong một đời.
Khơng
cịn gì phải nghi ngại vì thửa ruộng cơng đức tối hảo
duy nhất, bí mật và vơ song ấy chính là bậc Đạo Sư Kim
Cương.249 Đĩ là lý do vì sao pháp vun bồi cơng đức được
kết hợp với pháp tu Bổn Sư Du Già (Guru Yoga). Thất
chi phổ hiền của pháp cúng dường cũng bao gồm tồn thể
rất nhiều các phương pháp tích lũy cơng đức và trí tuệ.
2.1
LỄ LẠY,250 PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TRỊ TÁNH KIÊU NGẠO
Đối
với pháp mơn lễ lạy này, hãy quán tưởng là bạn đang phân
thân thành một trăm, một ngàn, rồi thành ra vơ số thân thể
như thân thể bạn hiện nay, nhiều như vơ lượng những
hạt bụi trong thế giới. Đồng thời hãy quán tưởng rằng
tất cả chúng sinh vơ lượng như khơng gian vơ lượng đang
lễ lạy cùng bạn. Những câu tụng đọc được sử dụng
trong phần này là:
Hrih!
Con xin quy mạng lễ, hố hiện thành nhiều thân,
Nhiều
như những vi trần trong tồn thể thế giới.
Nĩi
chung, khi bạn thực hành tồn bộ “năm trăm ngàn pháp tu chuẩn
bị”,251 bạn cĩ thể kết hợp phần lễ lạy với pháp thực
hành quy y, làm như vậy là đúng chứ khơng sai, và truyền
thống kết hợp cả hai phương pháp đĩ cũng thường được
[các hành giả] noi theo. Nhưng riêng trong giáo lý giảng dạy
về pháp lễ lạy được cắt nghiã ở đây thì việc
kết hợp phần lễ lạy với pháp hành trì Bổn Sư Du Già
mới chính là một phương pháp tuyệt hảo để tu tập.
Điều
quan trọng cần chú ý khi thực hành pháp mơn lễ lạy là phải
liên kết thân, ngữ, và ý. Khi bạn lễ lạy bằng thân,
hãy trì tụng lời cầu nguyện lễ lạy bằng ngữ của bạn.
Trong khi đĩ, hãy dùng tâm để nhận biết rằng bạn đang
thực hành lễ lạy cùng tất cả chúng sinh và thực hành lễ
lạy với lịng tơn kính và quy ngưỡng, hồn tồn nương tựa
vào Thầy của bạn và hồn tồn quy phục Ngài. Mặt khác,
bạn sẽ phải hồn tồn dứt bỏ việc phát ngơn bừa bãi
theo sở thích, hoặc ngĩ quanh ngĩ quất khắp mọi nơi trong
khi tâm bạn tiếp tục theo đuổi đủ loại hiện tượng đang
xảy ra bên ngồi. Cĩ một kẻ nào đĩ đi ngang qua, hay một
người nào đĩ đang nĩi chuyện ở phía bên phải của bạn
thì bạn sẽ chú ý về phía đĩ và đơi mắt bạn sẽ bị
lơi kéo về phía đĩ, và bạn sẽ thấy mình đang chắp đơi
bàn tay lại ép lên má trái. Khi cĩ ai đĩ xuất hiện ở bên
phiá trái của bạn, bạn sẽ nhìn quanh, lắng nghe về phía
đĩ và đơi bàn tay chắp lại của bạn cuối cùng lại chạm
vào má bên phải. Bạn phải hiểu rằng nếu bạn chỉ trình
diễn bề ngồi bằng cách lễ lạy như thế, để cho tâm buơng
lung phĩng dật trong khi thân bạn tự lắc lư lên xuống thì
đĩ chỉ là một thứ thử thách cho xác thân mà khơng đem
lại bất kỳ lợi lạc nào.
Khi
lạy, bạn hãy chụm hai bàn tay lại trong hình dạng của một
búp sen sắp nở, cịn chừa một khoảng trống ở giữa [hai
lịng bàn tay]. Khơng được ép sát hai bàn tay lại với nhau
mà khơng để chừa khoảng khơng ở giữa, cũng như khơng được
chắp hai tay bằng cách chỉ chạm các đầu ngĩn tay lại với
nhau mà thơi. Kinh Đại Giải Thốt cĩ nĩi:
Đơi
bàn tay chắp lại trên đầu
Như
một búp sen hé nở,
Và
với vơ lượng thân này tụ hội giữa trời mây
Con
quỳ lạy mười phương chư Phật.
Và
Kho Báu Thiện Đức cĩ nĩi:
Hãy
làm một biểu hiện tơn kính nơi tim,
Thân
cúi xuống thấp, tâm khơng phĩng dật,
Đơi
bàn tay chụm lại như một búp hoa
Và
gắn liền với nhau như chiếc hộp đựng xá lợi.
Hãy
chắp hai bàn tay lại và đặt trên đỉnh đầu bạn, rồi
đặt ở yết hầu (cổ họng) và đặt nơi tim bạn để tịnh
hĩa các chướng ngại của thân, khẩu và ý của bạn. Rồi
bạn hạ người xuống trên nền nha,ø chạm vào nền nhà ở
năm điểm trên thân thể là trán, hai lịng bàn tay và hai đầu
gối,252 để tịnh hĩa các chướng ngại của ngũ độc và
nhận được năng lực gia trì cho thân, khẩu, ý, phẩm hạnh
và hoạt động. Sau đĩ hãy đứng thẳng lên, lại chắp
tay lại và tiếp tục thực hành lễ lạy theo phương cách
như trên.
Việc
đong đưa hai cánh tay mà khơng chắp hai bàn tay lại là việc
sai trái. Cịn nếu bạn chỉ cúi xuống phía trước mà đầu
gối và trán khơng chạm đất thì cũng khơng đúng. Cũng khơng
đúng nốt nếu khi đứng dậy, bạn cứ lom khom mà khơng đứng
thẳng người lên. Lễ lạy như thế là thiếu tơn kính. Người
ta nĩi rằng nghiệp trổ quả của việc lễ lạy mà khơng
đứng thẳng là kẻ thực hành lễ lạy sẽ bị tái sinh làm
một người lùn gù lưng. Chúng ta thực hiện việc lễ lạy
với hy vọng cơng phu tu tập này sẽ đem đến cho ta lợi lạc
– vì thế, chẳng cĩ ý nghĩa gì trong việc thực hành lễ
lạy nếu kết quả của việc làm ấy chỉ đem đến cho ta
một thân thể méo mĩ biến dạng.
Ngay
cả nếu bạn khơng thể lễ lạy được nhiều lần, thì hãy
nỗ lực bằng mọi cách để bảo đảm rằng bất kể cái
lạy nào của bạn cũng sẽ là một cái lạy hồn hảo, khơng
thể chê vào đâu được. Thật là vơ nghĩa nếu bạn cố
tình làm cho cơng việc lễ lạy trở nên dễ dàng hơn bằng
cách thực hiện lễ lạy trên một chỗ dốc, chẳng hạn ở
sườn một ngọn đồi, hoặc bằng bất kỳ phương pháp nào
khác.
Hơn
nữa, ngày nay khi người ta tỏ lịng tơn kính một ai, ví dụ
như khi viếng thăm một Lạt Ma, họ thi lễ và lạy một cái
lạy tạm coi như là đúng cách, và rồi sau đĩ bồi thêm hai
cái lạy nữa chẳng khác nào hai cái « nghiêng mình ».
Đại khái cứ cho như đĩ là cách lễ lạy của những kẻ
cĩ tầm vĩc quan trọng đi - và hầu hết những kẻ ngu dốt
lại noi theo gương của họ. Nhưng đĩ là một cách lễ lạy
cực kỳ thơ tục. Mục đích của việc thỉnh cầu giáo lý,
ngay cả trong những sự việc đơn giản như cách quỳ lạy
ra sao, là để nghe Đạo Sư giảng dạy bất kỳ điều gì
ta khơng biết, và sau đĩ luơn luơn đưa những giáo huấn đĩ
vào thực hành mà khơng bỏ quên bất kỳ chi tiết nào. Nếu
ta khơng thể đưa vào thực hành ngay cả một điều thật
dễ học và dễ làm thì việc học hỏi về Phật Pháp sẽ
trở nên hồn tồn vơ nghĩa và khơng đem lại kết quả nào.
Những người đã từng nghiên cứu Phật Pháp phải giỏi giang
thành thạo hơn những người khơng nghiên cứu Pháp, kể cả
trong cách thức họ thi lễ, cách lạy những cái lạy thật
đơn giản.
Khi
Ngài Jetsun Mila đến cầu Pháp với Lạt Ma Ngokpa, Ngài tới
vào lúc Lạt Ma Ngokpa đang giảng Mật điển Hơ Kim Cương (Hevajra
Tantra) cho một tập hội tăng sĩ đơng đảo. Ngài Mila tỏ
lịng tơn kính bằng cách quỳ lạy từ xa. Vị Lạt Ma rất
hài lịng.
Bỏ
mũ miện xuống khỏi đầu, vị Lạt Ma lạy trả ngài Mila
và nĩi: “Đây thật là một việc gián đoạn tốt lành! Người
quỳ lạy đằng kia đang lạy theo cung cách của các đệ tử
của Ngài Marpa xứ Lhodrak.* Hãy hỏi xem ơng ta là ai.” *
Vị thầy gốc (bổn sư) của Milarepa, và cũng là bổn sư của
Ngokpa.
Bất
kỳ ai đi theo một vị Thầy nào và nhận giáo lý của Ngài
thì cũng phải giống như một miếng vải được ngâm trong
thuốc nhuộm. Khi anh ta học tập để noi theo những hành động
của vị Thầy đáng kính của mình, thì chắc chắn sẽ cĩ
một vài chuyển biến đáng lưu ý xảy ra so với anh ta trước
kia. Khi một miếng vải được nhuộm màu, thể nào màu mới
cũng sẽ ít nhiều ngấm vào miếng vải— làm sao mà miếng
vải đĩ lại khơng thay đổi màu sắc chút xíu nào cho được?
Ngày nay, cĩ những người từng thọ nhận Pháp hàng trăm lần,
nhưng họ vẫn khơng cải thiện bản thân được chút nào,
và xử sự hồn tồn như một người thế tục trên mọi phương
diện. Tất cả những gì Giáo Pháp sản sinh ra lại chỉ là
những hành giả trơ lì, là những kẻ vi phạm mật nguyện.
Cĩ câu nĩi rằng:
Đạo
Pháp cĩ thể là nguồn cảm hứng khiến những kẻ xấu ác
biến đổi, nhưng khơng thể truyền cảm hứng cho những hành
giảû trơ lì đối với Pháp – giống như mỡ cĩ thể làm
loại da cứng trở nên mềm mại, nhưng khơng thể làm mềm
da của túi đựng bơ.253
Một
khi bạn đã học hỏi về lợi lạc của các thiện hạnh,
về tai hại của các ác hạnh và về phẩm hạnh của chư
Phật, thì điều đĩ sẽ khơng bao giờ đủ nếu bạn chỉ
đơn thuần tán đồng tin tưởng ; bạn cịn phải khơi dậy
sự xác quyết và lịng tín tâm để cĩ thể thực sự
chuyển hố cái nhìn của bạn. Nếu khơng thì ngay cả vị
Phật Tồn Giác bằng xương bằng thịt cũng sẽ chẳng thể
nào cứu giúp bạn. Đấng Vĩ Đại xứ Oddiyana đã ban lời
cảnh cáo sau đây:
Đừng
tham dự vào giữa đám đơng những kẻ đệ tử lạc lối
chuyên bàn suơng về Giáo Pháp trong khi tâm họ đã trở nên
trơ lì với Pháp.
Đừng
liên kết với những bằng hữu nào muốn giới hạn các mật
nguyện của họ.
Cho
dù bạn chỉ hiểu một chữø duy nhất của Giáo Pháp thì
bạn cần nhận biết ra được cách nào để cho chữ ấy chan
hồ trong tâm bạn và đưa được chữ ấy vào trong thực hành.
Mục đích của việc đi theo một vị Thầy là quan sát tư
tưởng, lời nĩi và hành động của Ngài và học cách hành
pháp như Ngài hành pháp. Như tục ngữ cĩ câu:
Mọi
hành động chỉ là noi gương: Những người hành động tuyệt
hảo là những người noi gương giỏi nhất.
Theo
cách này, bạn nên để cho những phẩm hạnh bên ngồi, bên
trong và ẩn mật của Thầy in dấu lên bạn, giống như một
mẫu tượng tsa-tsa hình thành từ chính cái khuơn của nĩ.
“Lễ
lạy” là một từ tổng quát mơ tả một cử chỉ tơn trọng
và kính phục. Cĩ nhiều cách khác nhau để lễ lạy, và những
tập tục lễ lạy biến đổi từ nơi này sang nơi khác. Tuy
nhiên, trong trường hợp này, Thầy của bạn đã hướng dẫn
bạn cách thức lễ lạy cho phù hợp với lời dạy của Đấng
Chiến Thắng. Vì thế, nếu bạn cố ý lễ lạy theo một
cách thức sai lầm, dù bởi kiêu ngạo hay dù để giúp cho
việc lễ lạy dễ dàng hơn, thì cả hai đều là một hành
vi thiếu tơn kính và là một biểu hiện của sự khinh thường.
Bạn cũng cần phải hiểu rõ rằng nếu chỉ thực hành lễ
lạy như thể để thanh tốn một mĩn thuế thì việc làm này
sẽ khơng cĩ nghiã lý gì cả và chỉ đem lại những kết
quả sai lầm.
Trái
lại, nếu lễ lạy đúng đắn thì việc này đem lại vơ lượng
lợi lạc. Một lần, khi một nhà sư đang lễ lạy một cái
tháp đựng những mẩu tĩc và mĩng chân tay của Đức Phật,
Ngài Ananda hỏi Đức Phật một hành động như thế cĩ thể
cĩ lợi lạc gì. Đức Phật đáp:
Kết
quả gặt hái được từ một cái lạy duy nhất cĩ oai lực
khủng khiếp nhiều đến nỗi nếu như ta được trở thành
một vị đại đế vơ lượng lần nhiều bằng số lượng
hạt bụi ở dưới thân ta xuống cho đến vực sâu nhất của
trái đất,254 thì lợi lạc của cái lạy đĩ vẫn khơng cạn
kiệt.
Và
trong Kinh điển cĩ nĩi:
Nhục
kế khơng thể nghĩ bàn trên đầu Đức Phật hình thành từ
việc Ngài đã lễ lạy Đạo Sư của Ngài với tất cả lịng
tơn kính.
Cuối
cùng, lễ lạy cũng sẽ dẫn dắt chúng ta đến việc cĩ được
nhục kế (usnisa) khơng thể nghĩ bàn trên đỉnh đầu của
chư Phật Tồn Giác.
2.2
CÚNG DƯỜNG 255
Hãy
sắp đặt những phẩm vật cúng dường trong khả năng tài
chánh của bạn cho phép, như đã được giảng dạy trong chương
viết về cúng dường mạn đà la – nĩi cách khác, hãy cúng
dường các phẩm vật trong sạch, hồn tồn thanh tịnh, và
khơng để cho mình vướng mắc vào tính keo kiệt, đạo đức
giả hay tính khoe khoang. Các phẩm vật cúng dường này chỉ
là phương tiện hỗ trợ cho cơng phu thiền định của bạn.
Sau
đĩ, hãy cúng dường trong tâm tưởng theo cách thức của Bồ
Tát Phổ Hiền (Samantabhadra),256 để cho tồn thể thế giới
và tồn bộ khơng gian tràn ngập với tất cả những phẩm
vật cúng dường của các cõi người và Trời: hoa, hương,
đèn, nước hoa, thực phẩm, cung điện, phong cảnh, lâu đài,
lạc viên, bảy vật tượng trưng cho vương quyền và tám biểu
tượng tốt lành, với mười sáu Thiên Nữ kim cương nhảy
múa và ca hát, mỗi vị sử dụng một nhạc cụ riêng của
mình.
Nhờ
năng lực của thiền định, Bồ Tát Phổ Hiền phĩng ra hàng
trăm triệu tia sáng đủ màu sắc từ tim Ngài, như vơ số
những hạt bụi trong hằng hà sa số các cõi Phật. Ở cuối
mỗi tia sáng, Ngài phĩng ra một thân tướng đồng nhất với
bản thân Ngài, rồi cũng phĩng ra các tia sáng đồng nhất
từ tim của các thân tướng đĩ. Ở cuối mỗi tia sáng đĩ,
cịn lần lượt xuất hiện thêm các đức Phổ Hiền, và như
thế tiếp tục tăng trưởng vơ hạn, cho tới số thân tướng
hiển lộ thì hồn tồn khơng thể nghĩ bàn. Mỗi một vị
trong những thân tướng Phổ Hiền này đang cúng dường chư
Phật và chư Bồ tát khắp mười phương vơ số những phẩm
vật cúng dường vơ vàn đủ thứ loại. Đây là cái được
gọi là “những đám mây cúng dường của đức Phổ Hiền
cao quý.” Hãyï cúng dường bằng cách quán tưởng nhiều
Hố Thân hiển lộ trong tâm bạn tuỳ theo mức độ quán tưởng
mà bạn cĩ thể đạt được theo cách này, vừa quán tưởng
vừa đọc những lời tương ứng như sau:
Với
những phẩm vật cúng dường được chuẩn bị bằng cả vật
chất lẫn quán tưởng, Con cúng dường tất cả mọi thứ
trong vũ trụ như một động tác cúng dường bao la.
Dù
khả năng cúng dường của ta ra sao thì chư Phật và Bồ Tát
vẫn cĩ đủ oai lực để thu nhiếp. Vì vậy, trong tâm tưởng,
hãy vận dụng tất cả của cải khơng cĩ sở hữu chủ trong
tồn thể các cõi người và trời khắp thế giới, và dâng
cúng tất cả. Sau đĩ, bằng trí tưởng tượng, hãy tưởng
tượng ra thật nhiều của cải càng tốt trong mức độ bạn
cĩ thể tưởng tượng ra được, và hãy cúng dường
tất cả. Theo cách này bạn cĩ thể vun bồi cơng đức
tương đương với lượng cơng đức mà bạn cĩù thể cĩù
được nếu như những vật cúng dường đĩ là tài sản của
riêng bạn. Đừng bao giờ cho rằng bạn khơng cĩ gì để cúng
dường. Bất kỳ thứ gì bạn hay những người khác cĩ và
bất cứ điều gì bạn thấy, hãy để cho ý nghĩ đầu tiên
của bạn luơn luơn là ý nghĩ cúng dường những phẩm vật
đĩ cho Tam Bảo, cho các Bổn Sư và các Đạo Sư thuộc dịng
truyền thừa. Bằng chính tâm bạn, hãy cúng dường cho Tam
Bảo bất kỳ điều gì bạn thấy đẹp đẽ khi đi ngang qua,
thậm chí một dịng nước trong trẻo hay những cánh đồng
hoa, như thế bạn sẽ hồn thiện cơng phu vun bồi cơng đức
và trí tuệ ngay giữa các hoạt động thường nhật của bạn.
2.3
SÁM HỐI ÁC HẠNH 257
Trước
tiên, hãy sám hối bằng việc suy tưởng như sau: “Với lịng
hổ thẹn và ân hận mãnh liệt, con phát lồ sám hối việc
con đã phá giới và sám hối những ác hạnh của con, những
gì con cịn nhớ và những gì con đã quên, tất cả những hành
vi tiêu cực khơng thể tưởng tượng nổi mà con đã từng
làm trong tất cả các kiếp sống trong vịng sinh tử từ vơ
thủy: mười ác hạnh của thân, khẩu và ý, năm tội bị
quả báo tức thời (ngũ nghịch trọng tội) và năm tội nặng
gần bằng ngũ nghịch trọng tội, bốn lỗi lầm nghiêm trọng,
tám hành vi độc ác, tội lạm dụng tiền của được
hiến cúng cho Tam Bảo và v.v... Từ giờ trở đi, con sẽ khơng
bao giờ lập lại những hành vi xấu ác này.”
Với
những ý nghĩ như trên, hãy sám hối như đã được giảng
dạy trong chương viết về Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), trong
khi ghi nhớ trong tâm cách đối trị của bốn cơng năng sám
hối. Rồi hãy tưởng tượng rằng tất cả những hành động
sai lầm và những chướng ngại của bạn cùng tập hợp lại
trong hình dạng một nhúm đen trên lưỡi bạn. Hãy quán tưởng
các tia sáng đang tuơn chảy ra từ thân, khẩu, ý* của các
Bổn Tơn trong ruộng cơng đức, chạm vào chỗ nhúm đen, và
tẩy sạch tất cả các ơ nhiễm của bạn như thể tất cả
bụi đất đều được cuốn trơi đi. Hãy tụng đọc những
lời này: * Ánh sáng trắng từ giữa
trán, tượng trưng cho thân; ánh sáng đỏ từ giữa cổ họng,
tượng trưng cho ngữ; ánh sáng xanh dương từ giữa trái tim
tượng trưng cho tâm.
Trong
Pháp Thân chĩi lọi
Con
sám hối mọi tư tưởng, lời nĩi và hành vi sai trái.
2.4
HOAN HỈ, PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TRỊ TÁNH GANH TỊ
Hãy
phát tâm hoan hỉ sâu xa và chân thành trước cơng cuộc chuyển
Pháp Luân Vĩ Đại đã được các Đấng Chiến Thắng khởi
động vì lợi lạc của chúng sinh. Hãy hoan hỉ trước các
hoạt động bao la, đầy uy dũng của chư Bồ Tát, và trước
các thiện hạnh của chúng sinh là những việc đáng tán thán
và đưa tới giải thốt.258 Hãy hoan hỉ trước bất kỳ điều
tốt lành nào mà bản thân bạn đã làm trong quá khứ, đang
làm trong hiện tại và chắc chắn sẽ làm trong tương lai.
Hãy tụng đọc:
Con
hoan hỉ trước tất cả các thiện hạnh
Được
gĩi trọn trong hai chân lý (chân đế và tục đế)
Chúng
ta hoan hỉ trước tất cả các thiện hạnh bao gồm trong hai
chân lý,259 dù được thực hiện bởi chúng ta hay bởi người
khác, dù bị các cảm xúc làm cho ơ nhiễm hay dù thanh tịnh
hồn tồn, bởi vì khơng một giáo lý nào trong tất cả chín
Thừa mà khơng được bao gồm trong chân lý tương đối (tục
đế) hay chân lý tuyệt đối (chân đế).
Việc
phát khởi tâm hoan hỉ theo cách này sẽ đem đến lợi lạc
vơ hạn. Cĩ một lần vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) thỉnh mời
Đức Phật và chúng đệ tử của Ngài dùng bữa hằng ngày
tại cung điện trong thời gian bốn tháng. Trong thời gian
này ơng đã cúng dường hội chúng tất cả tài sản của
mình. Một bà lão hành khất đi ngang qua đĩ tràn ngập lịng
hoan hỉ trước hành động này.
“Vua
Ba Tư Nặc đã đạt được mọi của cải này nhờ cơng đức
vua đã tích tập trong quá khứ,” bà lão nghĩ, “và giờ
đây vua đã được gặp Đức Phật. Đức Phật là người
mà nhà vua chú tâm gửi đến hết tất cả mọi cúng dường,
và cơng phu tích lũy cơng đức của nhà vua thực là cực kỳ
to lớn. Kỳ diệu thay!”
Nhờ
lịng hoan hỉ chân thành và hồn hảo mà bà lão đã tạo được
vơ lượng cơng đức. Đức Phật thấu suốt điều này.
Chiều
hơm đĩ, khi đến lúc hồi hướng cơng đức, Đức Phật nĩi
với vua: “Ngài muốn ta hồi hướng nguồn mạch cơng đức
mà Ngài đã thâu đạt được cho Ngài, hay muốn ta sẽ hồi
hướng cơng đức ấy cho người xứng đáng hơn Ngài ?”
Nhà
vua đáp: “Xin hồi hướng cơng đức cho bất kỳ ai cĩ
nguồn mạch cơng đức to lớn nhất.”
Vì
thế Đức Phật đã hồi hướng cơng đức cho bà lão hành
khất. Việc này xảy ra trong ba ngày liền. Quá bực tức, nhà
vua thỉnh ý các thượng thư để tìm cách chấm dứt tình
trạng này.
“Đức
Vua quyết định về việc này thế nào ?” họ hỏi. “Ngày
mai, khi thỉnh mời đức Thế Tơn và các đệ tử của Ngài
đến để cúng dường, chúng ta sẽ đánh đổ một số thực
phẩm và thức uống quanh những cái nồi. Khi những người
hành khất đến nhặt thực phẩm rơi rớt, chúng ta sẽ đánh
họ thật nghiêm khắc để ngăn cản họ.”
Và
họ đã làm như thế. Khi bà lão hành khất hoan hỉ đến nhặt
thực phẩm bị đánh đổ, họ ngăn lại và đánh bà. Bà trở
nên giận dữ, vì vậy tiêu hủy nguồn mạch cơng đức của
bà.
Như
tơi đã lập lại ở đây nhiều lần, chỉ duy nhất tác ý
của người thực hiện cơng việc ấy sẽ quyết định được
là các hành động người đĩ làm là hành động tích cực
hay tiêu cực – chứ khơng phải việc thật sự thực
hiện cơng việc bằng vật chất hay bằng những lời lẽ dựa
vào tác ý trên. Vì lý do này, trong Thắng Quân Vương Sở Vấn
Kinh, Đức Phật đã giảng giải tỉ mỉ rằng việc chỉ đơn
thuần nhìn thấy điều tốt người khác đã làm với một
tâm thức thanh tịnh, chân thành hoan hỉ trước điều đĩ
và hồi hướng năng lực của việc làm đĩ cho Giác Ngộ viên
mãn của tất cả mọi chúng sinh, thì hạnh hoan hỉ ấy sẽ
đem lại cơng đức cịn nhiều hơn những hành vi tốt đẹp
cĩ tính phơ trương, là những hành vi đã bị tám mối quan
tâm thế tục làm cho băng hoại, bị ơ nhiễm bởi các tham
vọng đối với cuộc đời này, bởi tánh kiêu ngạo về các
hành vi tốt đẹp của mình, bởi ước muốn ganh đua với
đức hạnh của người khác và v.v... Chagme Rinpoche cĩ nĩi:
Khi
nghe nĩi về điều tốt của người khác,
Nếu
như ta đuổi được đi mọi niệm tưởng ganh tị tiêu cực
Và
thực sự hoan hỉ tận sâu thẳm trong tim ta,
Thì
cơng đức của ta sẽ ngang bằng cơng đức của họ.
Bát
Nhã Tập Kệ cũng cĩ nĩi:
Sức
nặng của tất cả các núi Tu Di trong một tỉ thế giới cĩ
thể cân đo được, Nhưng khơng thể đo lường được với
cơng đức của việc tùy hỉ cơng đức.
Hãy
luơn luơn hoan hỉ trước điều tốt mà những người khác
đã làm, vì hạnh hoan hỉ rất dễ thực hiện và thật lợi
lạc.
2.5.
KHẨN CẦU CHƯ PHẬT CHUYỂN PHÁP LUÂN260
Hãy
tưởng tượng trước mặt bạn hiện ra tất cả chư
Phật và Bồ Tát, chư Đạo Sư và tất cả những bậc thầy
cĩ thể đảm đương gánh nặng to lớn để làm lại lợi
lạc cho chúng sinh. Hãy tưởng tượng rằng các Ngài đã chán
ngán vì thái độ vơ ơn và ngã lịng của những chúng sinh
đo,ù và các Ngài khơng cĩ ý định giảng dạy gì nữa hết
mà sẽ an trụ vĩnh viễn trong trạng thái an bình. Bạn hĩa
hiện thành hàng trăm và hàng ngàn triệu thân, hãy cúng dường
bánh xe, châu báu và các báu vật khác cho tồn thể chư vị,
và khẩn thiết kêu nài các Ngài hãy chuyển Pháp Luân với
những lời nguyện sau đây:
Con
khẩn nài các Ngài chuyển Pháp Luân của ba Thừa.
Phật
Pháp được phân chia tổng quát thành ra ba Thừa: Thanh Văn
Thừa, Độc Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa. Hợp nhất lại thì
ba Thừa này bao gồm tồn thể giáo lý của Đức Phật. Nhưng
Giáo Pháp ấy cũng cĩ thể được chia nhỏ thành chín Thừa:
ba Thừa bên ngồi là các Thừa của chư vị Thanh Văn, Phật
Độc Giác và Bồ Tát, với giáo lý giải thốt gốc rễ của
đau khổ;* ba Thừa bên trong, Kriya, Upayoga và Yoga cĩ liên quan
tới các pháp tu khổ hạnh giống như theo truyền thống Vệ
Đà;** và ba Thừa bí mật, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga, hướng
dẫn các phương pháp mãnh liệt để chuyển hĩa. Khi chúng
ta thỉnh cầu các Ngài chuyển Pháp Luân, điều ta đang cầu
khẩn là khẩn cầu Giáo Pháp của ba Thừa này, Giáo Pháp ấy
được phân chia xa hơn nữa thành chínThừa, và chín Thưà
ấy cĩ thể cung cấp các giáo lý thích hợp cho đệ tử [với
nhiều loại căn cơ khác nhau]. *Theo
một cách hiểu khác: “giáo lý này dẫn dắt chúng ta biết
cách vận dụng nhân đau khổ như một khởi điểm [để giúp
ta tu tập].” ** Trong đĩ cĩ một điểm nhấn mạnh rất quan
trọng về sự sạch sẽ thuần tịnh cĩ tính cách nghi lễ
và về cung cách cư xử bên ngồi.
2.6.
KHẨN CẦU CHƯ PHẬT ĐỪNG NHẬP NIẾT BÀN 261
Hãy
hướng những lời khẩn cầu của bạn đến chư Đạo
Sư, chư Phật và chư Bồ Tát là những bậc đã hồn thành
cơng hạnh của các Ngài vì lợi ích của chúng sinh, hiện
đang ở trong cõi Phật này và những cõi Phật khác, và
giờ này các Ngài đều muốn nhập Niết Bàn. Giống như
cư sĩ Cunda262 đã làm trong quá khứ, hãy nài xin các Ngài bằng
cách quán tưởng trong tâm bạn hiện ra nhiều Hĩa Thân của
chính mình. Hãy thỉnh nài như sau:
Cho
tới khi vịng luân hồi trở nên trống rỗng,
Xin
ở lại với chúng con và đừng nhập Niết Bàn!
Rồi
hãy nghĩ tưởng rằng do cơng phu cầu nguyện của các bạn
mà tất cả chư Phật đều ở lại trụ thế để làm việc
lợi lạc cho chúng sinh cho tới khi vịng luân hồi trở thành
trống rỗng!
2.7.
HỒI HƯỚNG 263
Hãy
theo gương mẫu của Đức Văn Thù bằng cách hồi hướng cho
tất cả chúng sinh bất kỳ cơng đức nào bạn hay bất kỳ
ai khác đang tích lũy qua hành động mà giờ đây bạn và những
người ấy đang làm. Hãy niêm phong bằng dấu niêm của
trí tuệ vơ niệm. Hãy tụng đọc những dịng dưới đây:
Tất
cả những thiện căn đã được tích lũy trong suốt quá khứ,
hiện tại và vị lai, Con hồi hướng như là một hạt
nhân đưa đến đại Giác Ngộ.
Đừng
quên hồi hướng vào lúc cuối, trước khi bất kỳ hành động
đáng khen nào chấm dứt, dù lớn hay nhỏ. Bất kỳ thiện
căn (nguồn mạch cơng đức) nào khơng được hồi hướng
theo lối này thì sẽ chỉ kết trái một lần và sau đĩ sẽ
bị cạn kiệt. Nhưng bất cứ điều gì được hồi hướng
cho Giác Ngộ tối hậu thì sẽ khơng bao giờ bị khơ cạn,
thậm chí khi đã kết trái một trăm lần. Thay vào đĩ, cơng
đức đĩ sẽ tăng trưởng và phát triển cho tới khi bạn
thành tựu được Phật Quả tồn hảo. Trong Kinh Sagaramati cĩ
nĩi:
Giống
như một giọt nước rơi vào đại dương
Sẽ
khơng bao giờ biến mất cho tới khi đại dương khơ cạn,
Cơng
đức được hồn tồn hồi hướng cho Giác ngộ
Sẽ
khơng bao giờ biến mất cho tới khi đạt được Giác Ngộ.
Bạn
cĩ thể ước muốn đạt được mức độ tu chứng của một
vị Thanh Văn hay Phật Độc Giác, hay đạt được thành tựu
Tồn Giác. Bạn cĩ thể chỉ ước muốn được tái sinh trong
các cõi giới cao, như một vị Trời hay một con người. Hoặc
bạn cĩ thể chỉ ước muốn một kết quả nhất thời như
một cuộc đời trường thọ hoặc dồi dào sức khỏe. Nhưng
khi bạn làm điều gì đáng khen, thì dù trong cái nhìn của
bạn cĩ mục đích nào chăng nữa, điều quan trọng là hãy
hồi hướng việc ấy cho mục đích Giác Ngộ. Ngài Drikung
Kyobpa Rinpoche cĩ nĩi:
Trừ
phi bạn nguyện cầu
Bằng
cách xoa tay vào viên ngọc như ý của hai cơng
năng
tích tụ (hai bồ cơng đức),
Thì
kết quả bạn mong ước sẽ khơng bao giờ xuất hiện:
Vì
vậy, khi kết thúc, hãy phát tâm hồi hướng với tất cả
tấm lịng.
Chính
cơng năng hồi hướng sẽ quyết định được xem những thiện
hạnh mà bạn đã làm cĩ sẽ dẫn tới Tồn Giác hay khơng.
Cịn những hành động tạo tác thiện lành mà bạn tích lũy
dù cĩ khổng lồ đến đâu chăng nữa, cũng khơng thể dẫn
tới giải thốt trừ phi bạn giúp cho những hành động này
cĩ được một hướng đi tốt bằng cách hồi hướng hết
thảy mọi việc. Geshe Khampa Lungpa cĩ nĩi:
Khơng
một thiện hạnh nào do tạo tác cĩ được một định hướng
riêng,264 Vì thế hãy phát tâm nguyện rộng lớn vì lợi lạc
của chúng sinh.
Tương
tư như vậy, đối với một hành động tích cực hay một
hạnh lành mà bạn cĩ thể thực hiện nhân danh cha, mẹ hoặc
nhân danh những người thân yêu của bạn, hoặc cho người
đã chết, thì bạn cũng phải phát tâm hồi hướng y như trên.265
Khơng hồi hướng thì hành động đĩ khơng cĩ hiệu quả.
Nhưng nếu bạn hồi hướng việc đã làm thì những người
mà bạn muốn hướng tâm đến sẽ được lợi lạc một cách
tương ứng.
Một
lần kia những cư dân ở Vaisali đến mời Đức Phật tới
dùng bữa vào ngày hơm sau.
Sau
khi họ ra về, năm trăm quỷ đĩi đến và khẩn cầu Ngài:
“Xin hồi hướng cho chúng tơi cơng đức bố thí mà dân chúng
ở Vaisali sắp cúng dường cho Ngài và cho chúng đệ tử
của Ngài vào ngày mai.”
“Các
ơng là ai ?” Đức Phật hỏi, mặc dù Ngài đã biết câu
trả lời. “Tại sao nguồn cơng đức của dân chúng ở Tỳ
Xá Li (Vaisali) lại phải hồi hướng cho các ơng?”
“Chúng
tơi là cha mẹ họ,” các quỷ đĩi đáp. “Chúng tơi bị
tái sinh làm quỷ đĩi là hậu quả của thái độ bủn xỉn
của chúng tơi.”
Đức
Phật nĩi: “Trong trường hợp này, hãy đến đĩ trong phần
hồi hướng và ta sẽ làm như các ơng yêu cầu.”
“Điều
đĩ khơng thể được,” họ nĩi. “Chúng tơi rất xấu hổ
vì thân hình xấu xí của mình.”
Đức
Phật đáp: “Các ơng nên xấu hổ khi làm những hành động
xấu ác đĩ. Lúc ấy khơng cảm thấy xấu hổ thì cĩ gì là
khơn ngoan đâu, nhưng bây giờ lại thấy xấu hổ khi các ơng
đã bị tái sinh trong thân tướng khốn khổ này ư ? Nếu các
ơng khơng đến, ta sẽ khơng thể hồi hướng cơng đức cho
các ơng.”
“Nếu
thế chúng tơi sẽ tới,” họ nĩi và cáo biệt.
Ngày
hơm sau, khi đã đến lúc, chúng quỷ đĩi tới để nhận hồi
hướng. Những cư dân ở Vaisali khiếp sợ và bắt đầu chạy
trốn.
“Khơng
cĩ lý do gì phải sợ,” Đức Phật trấn an họ. Đây là
cha mẹ quý vị đã bị tái sinh làm quỷ đĩi. Chính họ đã
nĩi với ta như thế. Ta cĩ nên hồi hướng nguồn cơng đức
của quý vị cho họ hay khơng ?”
“Tất
nhiên là Ngài nên làm như vậy!” họ la to lên.
Đức
Phật liền nĩi:
Nguyện
xin hồi hướng cơng đức của hạnh cúng dường cho chúng
quỷ đĩi này.
Cầu
mong họ thốt khỏi thân tướng xấu xí
Và
đạt được hạnh phúc của những cõi cao hơn!
Vừa
khi đức Phật mở lời nĩi thì tất cả quỷ đĩi đã lăn
ra chết. Đức Phật giảng rằng họ đã được tái sinh ở
cõi Trời thứ Ba Mươi Ba.
Ngài
Jetsun Mila nĩi:
Giữa
một ẩn sĩ thiền định trong núi non
Và
kẻ cúng dường cung cấp lương thực cho Ngài
Cĩ
một mắt xích đưa họ cùng nhau đến bờ Giác Ngộ.
Việc
hồi hướng cơng đức chính là tinh túy của mắt xích đĩ.
Muốn
cho bất kỳ cơng phu hồi hướng cơng đức nào đưa dẫn tới
Tồn Giác thì việc hồi hướng ấy phải được đi kèm với
trí huệä, hồn tồn tách khỏi ba ý niệm [đối đãi].
Nếu ta bám chấp vào các ý niệm đĩ như thật cĩ thì việc
ta hồi hướng cơng đức sẽ bị ơ uế và việc hồi hướng
đĩ sẽ bị gọi là hồi hướng độc hại. Bát Nhã Tập Kệ
cĩ nĩi:
Đấng
Chiến Thắng đã dạy rằng ta làm việc tốt chung với các
ý niệm tạo tác
Thì
giống như ăn thực phẩm dinh dưỡng pha lẫn thuốc độc.
Ba
ý niệm được đề cập ở đây là các ý niệm sau đây:
cĩ một nguồn mạch cơng đức (thiện căn) để hồi hướng,
cĩ người được hồi hướng và cĩ mục đích mà ta nhắm
tới cho việc hồi hướng. Nếu ta cĩ thể hồi hướng cơng
đức trong trạng thái trí tuệ, hồn tồn thấu hiểu rằng
ba điều trên khơng thực sự hiện hữu, thì việc hồi hướng
đĩ quả thực khơng cĩ pha lẫn chất độc. Điều đĩ cĩ
lẽ vượt quá khả năng của những người bình thường với
căn cơ như của chúng ta. Tuy nhiên, nếu ta chỉ đơn giản
nghĩ rằng ta đang hồi hướng cơng đức theo đúng phương
cách mà chư Phật và chư Bồ tát trong quá khứ đã làm thì
cơng phu hồi hướng của ta sẽ hồn tồn thốt khỏi ba ý
niệm tạo tác. Trong Kinh Sám Hối (một tên khác của Đại
Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh) cĩ nĩi:
Giống
như tất cả chư Phật Thế Tơn trong quá khứ đã hồi hướng
cơng đức một cách tồn hảo; giống như tất cả chư Phật
Thế Tơn chưa xuất hiện sẽ hồi hướng cơng đức một cách
tồn hảo; và giống như tất cả chư Phật Thế Tơn trụ thế
đang hồi hướng cơng đức một cách tồn hảo; thì cũng như
thế, con cũng xin hồi hướng tất cả mọi cơng đức một
cách tồn hảo.
và
trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán cĩ nĩi:
Noi
gương đấng anh hùng Văn Thù,
Phổ
Hiền và tất cả những Bậc đại trí,
Con
cũng xin hồi hướng thật tồn hảo
Tất
cả mọi hành động thiện lành.
Bất
cứ lúc nào cũng phải luơn luơn niêm phong các hành động
thiện lành của bạn bằng việc hồi hướng đúng đắn, bởi
đĩ là phương pháp duy nhất khơng thể sai lầm để bảo đảm
rằng cơng đức ấy sẽ dẫn tới Tồn Giác.
3.
Khẩn
Cầu266 Với Lịng Tin Kiên Quyết Chí Thành
Điều
này giúp cho tâm ta đạt được chân tánh của bốn Pháp Thân
kim cương267 qua việc ta khẩn cầu Đạo Sư với lịng
tin kiên quyết chí thành.
Hãy
quán chiếu rằng bậc Thầy đáng kính của bạn, bậc Hộ
Thần vinh quang, bậc quyền uy tồn hảo như cĩ mang trong
mình bản tánh uy mãnh của Heruka268 trong mỗi mạn đà
la của các Bổn Tơn. Chỉ đơn thuần nhìn thấy Ngài, nghe
Ngài nĩi, chạm được đến Ngài hay nghĩ tưởng về Ngài
là đã gieo trồng hạt giống giải thốt. Bởi những việc
làm của Ngài cũng tương tự như việc làm của tất cả chư
Phật
nên Ngài là viên Ngọc Quý thứ tư (đệ tứ Bảo). Đối với
bạn, lịng tốt của Ngài vĩ đại hơn lịng tốt của tất
cả chư Phật. Nương vào lực gia trì đến từø lịng từ
bi của Ngài và nương vào con đường tu thâm diệu nay đang
trổ quả và đưa bạn đến giải thốt, Ngài đã nhanh
chĩng dẫn dắt bạn – trong một đời duy nhất và trong chính
thân xác này – đạt đến quả vị của Kim Cương Trì (Vajradhara).
Đối với các phẩm hạnh của Ngài, kinh nghiệm chứng
ngộ của Ngài thì bao la như bầu trời, trí tuệ và từ tâm
của Ngài thì vơ hạn như đại dương. Lịng bi mẫn của
Ngài mãnh liệt như một con sơng lớn. Chân tánh của Ngài
vững chắc như Núi Tu Di. Ngài như một người cha và một
người mẹ của tất cả chúng sinh, bởi trái tim Ngài thương
yêu tất cả đồng đều khơng phân biệt. Bất kỳ một
khiá cạnh nào trong mỗi một phẩm hạnh của Ngài đều khơng
thể đo lường. Ngài giống như một viên ngọc như ý. Bạn
chỉ cần đặt niềm tin trên Ngài và khẩn cầu Ngài, và bất
kỳ thành tựu nào mà bạn đang tìm kiếm sẽ xuất hiện mà
khơng phải dụng cơng.
Với
nước mắt của lịng quy ngưỡng, hãy nghĩ tưởng rằng: “Con
hồn tồn nương cậy Ngài, con đặt hết thảy hy vọng nơi
Ngài, con phĩ mạng con chỉ duy nhất nơi Ngài!” Hãy đọc
những giịng này khi thực hành pháp thọ nhận các thành tựu,
bắt đầu từ câu:
Đức
Bổn Sư Tơn Quý (Guru Rinpoche),
Trong
tất cả chư Phật, Ngài là..
cho
tới câu:
...Con
xin nương cậy nơi Ngài, đức Liên Hoa Sanh vĩ đại!
Kế
đĩ, hãy tập trung tư tưởng trì tụng thần chú Vajra Guru
(Đạo Sư Kim Cương), như một lời khẩn cầu. Sau mỗi một
trăm lần trì tụng câu chú thì hãy đọc bài cầu nguyện
“Đức Bổn Sư Tơn Quý...” thêm một lần nữa. Khi đã qua
được một nửa thời gian bạn dành cho việc trì tụng này,
thì sau mỗi lần hồn tất một chuỗi trì tụng, hãy khẩn
cầu [để được thọ nhận] cơng năng thành tựu bằng cách
tụng đọc bài cầu nguyện bắt đầu bằng câu dưới nay:
Con
khơng hy vọng vào ai khác ngồi Ngài...
và
chấm dứt:
Ơi,
đấng vĩ đại, xin tịnh hĩa con khỏi hai chướng ngại!
4.
Thọ Nhận Bốn Pháp Quán Đảnh (Bốn pháp gia lực)
Khi
đã đến lúc để khẩn cầu những thành tựu, bạn hãy tự
thọ nhận bốn pháp quán đảnh hay gia lực bằng cách quán
tưởng chữ om ở giữa cặp lơng mày của đức Bổn Sư Guru
chiếu sáng như một vầng trăng-pha lê, phĩng toả ánh sáng
thấm nhập vào đỉnh đầu bạn và tịnh hĩa hết nghiệp
quả của ba ác hạnh thuộc về thân –sát sinh, lấy cắp
thứ gì khơng được cho, và tà dâm – và tịnh hĩa mọi che
chướng của các đường khí mạch của bạn, từ đĩ thân
(kim cương) sẽ phát khởi.269 Hãy đọc những giịng chữ bắt
đầu bằng câu:
Năng
lực gia trì của thân kim cương tan hồ trong con...
và
hãy nghĩ tưởng rằng tiềm năng để thành đạt quả vị
tu chứng của Hĩa Thân (nirmānakāya) đã được thiết lập
trong bạn.
Rồi
từ trong cổ họng đức Bổn Sư Guru, một chữ ah, chĩi lọi
như một viên hồng ngọc phĩng toả ánh sáng vào cổ họng
bạn, tịnh hĩa nghiệp quả của bốn hành động ác hại thuộc
ngữ - nĩi dối, gieo mối bất hịa, nĩi ác và nĩi tầm phào
– và tịnh hĩa mọi chướng ngại trong năng lực của bạn,
từ đĩ ngữ hay khẩu (kim cương) sẽ phát khởi. Đọc tụng
những giịng chữ bắt đầu bằng câu sau đây:
Năng
lực gia trì của ngữ kim cương tan hồ trong con…
và
nghĩ tưởng rằng tiềm năng để đạt được quả vị tu
chứng của Báo Thân (sambhogakāya) đã được thiết lập trong
bạn.
Rồi
chữ hum màu xanh dương đậm trong tim Đạo Sư phĩng toả ánh
sáng vào tim bạn, tịnh hố nghiệp quả của ba ác hạnh thuộc
về ý - tham lam, ước muốn làm hại người khác và tà kiến
- và tịnh hố mọi chướng ngại trong phần tinh túy của
bạn, từ đĩ tâm thức (kim cương) sẽ phát khởi. Hãy trì
tụng những giịng chữ bắt đầu bằng câu:
Năng
lực gia trì của tâm kim cương tan hồ trong con…
và
nghĩ tưởng rằng tiềm năng đạt được quả vị tu chứng
của Pháp Thân (dharmakāya) đã được thiết lập trong bạn.
Rồi
từ chữ hum trong tim Đạo Sư một chữ hum thứ hai, giống
như một ngơi sao băng, phĩng vụt xuống và hồn tồn hịa lẫn
với tâm bạn, tịnh hĩa mọi chướng ngại của nghiệp và
của vọng niệm, là những chướng ngại đã ngăn che thức
nền tảng A-lại-da (the ground of all), là thức nền tảng của
thân, khẩu, và ý. Hãy đọc những giịng bắt đầu bằng:
Năng
lực gia trì của trí tuệ kim cương nguyên thuỷ tan hồ trong
con...
và
nghĩ tưởng rằng từ giây phút đĩ, tiềm năng để đạt
được kết quả tối hậu, quả vị tu chứng của Tự Tánh
Pháp Thân (svabhavikakāya), được thiết lập trong bạn.
Sau
cùng, hãy hồn tồn hồ lẫn tâm bạn với tâm Đạo Sư, và
an trụ ở trong trạng thái đĩ. Vào cuối thời khĩa, hãy trì
tụng với lịng quy ngưỡng và khao khát mãnh liệt bài cầu
nguyện bắt đầu bằng câu:
Khi
cuộc đời con đến lúc kết thúc..
và
chấm dứt với câu:
...xin
gia hộ cho con viên thành ước nguyện, con khẩn cầu Ngài.
Đức
Bổn Sư Tơn Quý (Guru Rinpoche) mỉm cười, đơi mắt Ngài tràn
đầy lịng bi mẫn. Từ tim Ngài, một tia sáng màu đỏ ấm
áp chiếu tỏa ra. Cho tới bây giờ bạn vẫn quán tưởng chính
mình là Vajrayogini (Nữ Kim Cang Du Già)ø – và ngay giây khắc
tia sáng này chạm vào người bạn, bạn chuyển hĩa thành ra
một viên ánh sáng màu đỏ cĩ kích thước bằng một hạt
đậu. Hạt đậu màu đỏ đĩ phĩng vọt hướng về Guru Rinpoche
như một tia lửa xẹt, và tan hịa vào tim của Ngài. Hãy an
trụ trong trạng thái đĩ.
Sau
cùng, hãy nhìn thấy tất cả những gì hiện hữu đều khơng
khác gì là những hố hiện của Đạo Sư, và hãy kết thúc
bằng cách trì tụng bài kệ hồi hướng sau đây:
Nhờ
cơng đức của pháp tu này, nguyện con nhanh chĩng đạt được
Quả
vị của Đạo Sư vinh quang, vị Hộ Thần của con..
cũng
như đọc tụng bài Nguyện Vãng Sanh Quốc Độ Đồng Sơn (nguyện
tái sinh vào cõi Núi Đồng Đỏ của đức Liên Hoa Sanh).
Bất
kỳ khi nào bạn đang đi tới đi lui đây đĩ, bạn vẫn cĩ
thể thực hành pháp Bổn Sư Du Già bằng cách quán tưởng
Thầy của bạn hiện ra trên trời ở trên vai phải của bạn
và tưởng tượng rằng bạn đang đi nhiễu quanh Ngài.
Bất kỳ khi nào bạn ngồi xuống, hãy quán tưởng Ngài ở
trên đầu để hướng tâm và hướng lời cầu nguyện của
bạn đến Ngài. Khi bạn đang ăn uống, hãy quán tưởng Ngài
ngự ở nơi cổ họng và cúng dường Ngài phần đầu
tiên của thức ăn hay thức uống của bạn. Khi đi ngủ, hãy
quán tưởng Ngài ở giữa trái tim bạn: đây là tinh tuý của
kỹ thuật thực hành du già trong giấc ngủ (sleep yoga), “rĩt
đầy mọi sự cĩ thể biết được vào chiếc bảo bình.”270
Tĩm
lại, hãy khơi dậy lịng quy ngưỡng của bạn trong mọi lúc,
trong mọi tình huống. Hãy vững tâm tin tưởng rằng cho
dù bạn đang ở bất kỳ nơi đâu thì nơi đĩ cũng thực sự
là núi Huy Hồng Màu Đồng Đỏ, và hãy tịnh hĩa tất cả
mọi quan kiến bằng cách nhìn thấy tất cả chính là thân
tướng của Đạo Sư.
Bất
cứ khi nào bệnh tật, các chướng ngại từ các thế lực
tiêu cực hay những hồn cảnh bất như ý khác xuất hiện,
đừng cố gắng vùng vẫy để thốt ra. Hãy hoan hỉ nghĩ rằng
bệnh tật, chướng ngại và mọi sự bất như ý đang được
Đạo Sư đem đến cho bạn trong tình thương yêu của Ngài
như một phương cách giúp cho các ác hạnh trong quá khứ của
bạn phải cạn kiệt. Bất cứ khi nào niềm hạnh phúc, sung
sướng thoải mái và đức hạnh của bạn trội vượt thì
hãy nhận thức rằng bạn cĩ được những điều này cũng
là nhờ vào lịng từ bi của Đạo Sư, và đừng kiêu ngạo
hay kích động thái quá. Trong khi thiền định, bất cứ khi
nào bạn cảm thấy sự xuất hiện của các tâm thái như ngã
lịng, mệt mỏi, hơn trầm và trạo cử (kích động), hãy hợp
nhất tâm tỉnh giác của bạn vào với tâm của Đạo Sư.
Hãy an trụ trong cái thấy của trạng thái như nhiên, duy trì
tánh sáng nguyên sơ của tâm tỉnh giác ấy. Đồng thời, hãy
đọc thần chú Vajra Guru như một phương pháp cầu nguyện
và trì tụng. Theo phương cách này, mọi sắc tướng sẽ xuất
hiện như đây chính là Đạo Sư và các Bổn Tơn. Tất cả
những gì bạn làm sẽ trở nên tốt lành tích cực. Như Ngài
Jetsun Mila cĩ nĩi:
Khi
tơi đi, tơi dùng mọi tri giác như con đường ;
Đĩ
là cách đi thế nào để cho sáu thức tự giải thốt.271
Khi
tơi nghỉ, tơi nghỉ ngơi trong trạng thái tự nhiên bất biến;
Đĩ
là phương cách tinh chuyên và tuyệt đối để nghỉ ngơi.
Khi
tơi ăn, tơi ăn thực phẩm của tánh Khơng;
Đĩ
là cách ăn khơng cĩ ý niệm đối đãi.
Khi
tơi uống, tơi uống nước của chánh niệm và cẩn mật;
Đĩ
là cách uống bất tận khơng bao giờ dứt.
Hơn
nữa, một khi bạn đi vào Kim Cương Thừa, điều thiết yếu
là phải thọ nhận các lễ quán đảnh hay gia lực (empowerment),
vì các pháp ấy sẽ ngày một tăng trưởng và đem lại giải
thốt.272 Các pháp gia lực sẽ hàn gắn các vi phạm mật nguyện,
và khiến bạn cĩ thể thiền định về tất cả các pháp
tu của giai đoạn phát triển, của giai đoạn thành tựu, và
của Đại Viên Mãn. Các pháp ấy sẽ ngăn ngừa những chướng
ngại và khơng để cho lỗi lầm sinh khởi, giúp cho tất cả
những thành tựu của bạn phát triển thêm mãi. Cĩ câu nĩi
rằng:
Trong
Mật Thừa, khơng thể cĩ thành tựu mà khơng cần quán đảnh,
Bởi
điều ấy cũng giống như người lái đị khơng cĩ mái chèo.
và
cũng cĩ câu nĩi:
Khơng
cĩ quán đảnh thì khơng cĩ thành tựu;
Bạn
khơng thể ép cát để lấy dầu.
Pháp
quán đảnh (điểm đạo hay gia lực) mà ta nhận lãnh trước
tiên khi chúng ta mới bước chân vào một mạn đà la do một
vị Đạo Sư Kim Cương chân chính ban truyền thì đĩ gọi là
gia lực nền tảng (ground empowerment). Pháp quán đảnh bốn
năng lượng (fourfold empowerment) mà ta tự thọ nhận khi chính
ta thực hành pháp mơn Bổn Sư Du Già mà khơng cần lệ thuộc
vào bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì khác, đĩ là gia lực
đường tu (path empowerment). Pháp quán đảnh mà ta cĩ được
vào giây phút của thành tựu tối hậu được gọi là “ánh
sáng vĩ đại của gia lực tịnh quang” (great ray of light empowerment)
hay “gia lực của tánh vi diệu và tánh sáng bất khả phân,”
(empowerment of indivisible profundity and radiance), đây chính là
gia lực quả vị thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác (fruit empowerment,
perfect and total Buddhahood).273
Các
pháp quán đảnh (điểm đạo hay gia lực) này cĩ ba đặc điểm
sâu xa khơng thể nghĩ bàn: đĩ là tịnh hĩa, tồn thiện hố
và trổ quả . 274 Ngay cả khi bạn đang thực hành một pháp
mơn chính yếu nào đĩ, nếu bạn bỏ qua bất kỳ một pháp
tu dự bị căn bản nào thì đĩ làø một việc sai lầm. Điều
đặc biệt quan trọng là khi bạn đang thiền định về các
pháp mơn tu tập, chẳng hạn như các pháp mơn trong giai đoạn
phát triển và thành tựu, thì hãy luơn luơn bắt đầu
mỗi thời khĩa với pháp gia lực đường tu (path empowerment)
của Bổn Sư Du Già.
Bất
kỳ một ai cĩ lịng quy ngưỡng và cĩ mật nguyện hồn hồn
thanh tịnh và đã hồn tất con đường tu đến giai đoạn
Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) thì ngay cả khi khơng thực hành các
pháp mơn chính yếu, họ cũng sẽ được tái sinh nơi núi Huy
Hồng ở đại châu Tây Nam.275 Trong cõi Phật thanh tịnh đo,ù
họ sẽ bước trên con đường của bốn đạo quả của bậc
Minh Trì (Vidyādhara), cịn nhanh chĩng hơn cả những chuyển động
của mặt trời và mặt trăng, và họ sẽ đạt tới
quả vị của đức Phật Phổ Hiền.
III.
LỊCH SỬ CHÀO ĐỜI CỦA CỰU PHÁI DỊCH THUẬT
Ngay
bây giờ, để giúp người nghe cĩ thêm chút vui vẻ thư giãn
cũng như vì một số lý do khác, những giải thích về lịch
sự chào đời của giáo pháp nĩi chung, và của ba pháp tu “nội
du già” (inner yogas) nĩi riêng, thường thường được đem
ra trình bày ở đây một cách khơng quá vắn tắt mà cũng
khơng quá tỉ mỉ. Do đĩ, bây giờ tơi sẽ giải thích một
cách vắn tắt về lịch sử ra đời và truyền thưà của
ba pháp tu “nội du già (inner yogas) của Cựu Phái Dịch Thuật
(Old Translations), gồm cĩ Mahāyoga, Anuyoga và Atiyoga, và làm
thế nào mà ba pháp tu này – tương ứng với các giai đoạn
phát triển, thành tựu và Đại Viên Mãn, đã được truyền
xuống đến tận chúng ta ngày hơm nay. Cĩ tất cả ba dịng
truyền dạy khác nhau: (1) dịng tâm truyền (mind lineage) [hay
biệt truyền] của các Đấng Chiến Thắng, (2) dịng truyền
dạy qua biểu tượng (symbol lineage) của các bậc Minh Trì (Vidyādhara)
và (3) dịng nhĩ truyền (hearing lineage) (hay khẩu truyền) của
các chúng sinh bình thường.
1.
Dịng Tâm Truyền (Biệt Truyền) Của Các Đấng Chiến Thắng
Đức
Phật Phổ Hiền* đã giác ngộ từ vơ thủy. Những cõi tịnh
độ của tồn thể chư Phật, những nơi chốn mà giáo lý
được giảng dạy và tồn thể chư đạo sư của tất cả
bốn Thân Phật (four kāyas), tất cả đều đã xuất hiện
nhờ vào vơ lượng vơ số những hố hiện nhiệm mầu phát
xuất từ lịng từ bi của đức Phật Phổ Hiền. Tập hội
những đệ tử của Ngài bao gồm những vị Minh Trì (Vidyadhara)
của năm Thân Phật và của hằng hà sa số các Đấng Chiến
Thắng khơng thể nghĩ bàn; khơng cĩ gì khác biệt giữa các
vị ấy và bản thân của đức Phật Phổ Hiền. Đức
Phật Phổ Hiền giảng dạy khơng qua giáo lý; ngài truyền
dạy tất cả các giáo thuyết khơng qua ngơn từ hay qua các
biểu tượng thơng thường mà truyền dạy một cách hết sức
tự nhiên khơng cần dụng cơng hay tạo tác, qua tánh sáng rất
tự nhiên của lịng đại từ bi đến từ tuệ giác nguyên
sơ của Ngài. Chúng đệ tử của Ngài tự thể nhập yếu
nghĩa của giáo lý viên mãn này khơng chút sai lạc, và
phẩm hạnh cùng quả vị tu chứng và giải thốt của các
vị ấy 276 trở thành nhất như với phẩm hạnh và quả vị
tu chứng và giải thốt của đức Phật Phổ Hiền. *
Tây Tạng: kun tu bzang po, xem Dẫn nhập: Đại Viên Mãn
Đối
với những ai khơng cĩ may mắn thấu hiểu được dịng truyền
dạy đầu tiên này thì đã cĩ những Thừa khác hướng dẫn
họ tu theo một con đường tiệm tiến hay con đường tuần
tự tu chứng (progressive path). Đức Phật Phổ Hiền đã truyền
dạy những Thừa này bằng cách hĩa hiện ra thành vơ số thân
tướng trong hằng hà sa số các thế giới khơng thể nghĩ
bàn trong vũ trụ để làm lợi lạc cho chúng sinh, dẫn dắt
từng chúng sinh một bằng phương tiện thiện xảo thích hợp
nhất. Ngài đã dạy dỗ sáu lồi chúng sinh qua sáu thân tướng
đặc biệt gọi là Sáu Đức Mâu Ni. Trong cõi Diêm Phù Đề
này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân ở ba
mức độ khác nhau cho các vị Trời và người. Ngài đã giảng
dạy Quả Thừa, bao gồm Luật (Vinaya), Kinh (Sūtra) và A-tì-đàm
Luận (Abhidharma), và truyền dạy ngoại Mật Thừa (outer Mantrayana)
gồm cĩ Tác
Mật
điển (Kriya Tantra), Hạ Du Già Mật điển (Upayoga Tantra), Du
Già Mật điển (Yoga Tantra), v.v…
Để
đối trị cảm xúc tham đắm
Đức
Phật dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Luật Tạng;
Để
đối trị cảm xúc sân hận
Ngài
dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Kinh Tạng ;
Để
đối trị cảm xúc u mê
Ngài
đã dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Luận Tạng;
Để
đối trị và điều phục tam độc cùng một lúc
Ngài
đã dạy hai mươi mốt ngàn phẩm của Tứ Tạng
(Fourth
Pitaka).
2.
Dịng Truyền Dạy Qua Biểu Tượng Của Các Bậc Minh Trì (Vidyadhara)
Vào
thời điểm Ngài nhập Niết Bàn, chính Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã tiên đốn về sự hình thành của giáo thuyết Mật
Thừa vơ song:
Hai
mươi tám năm
Sau
khi ta ngừng xuất hiện trong thế giới này,
Tinh
túy tột vời của Giáo Pháp,
Được
tơn vinh khắp ba cõi vi diệu,
Sẽ
được giảng dạy ở phương Đơng cõi Diêm Phù Đề
Cho
một người được gọi là đức Vua Ja,
Một
người cao quý và may mắn,
Được
báo trước bởi các điềm lành.
Và
trên đỉnh núi mang tên Đáng Sợ
Đức
Kim Cương Thủ sẽ truyêàn dạy
Cho
vị Pháp Vương của Lanka
Cùng
với bằng hữu dưới quyền và những người khác.
Sau
khi ban phát lời tiên tri này, Đức Phật đã thị hiện nhập
Niết Bàn. 227 Sau đĩ, ba pháp du già của giáo thuyết nội
điển (inner doctrine) vơ song, cùng các giai đoạn phát triển,
thành tựu và Đại Viên Mãn đều xuất hiện như Đức Phật
đã tiên tri.
2.1
CÁC MẬT ĐIỂN ĐẠI DU GIÀ (MAHAYOGA)
Hai
mươi tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Vua Ja nhận được
bảy điềm triệu trong các giấc mơ của mình. Sau đĩ, trên
mái cung điện, nhà vua tìm thấy một số lượng to lớn gồm
các pho sách quý báu của các kinh Mật điển (tantra), được
viết bằng bột đá màu xanh biếc trên các phiến vàng, cũng
như tìm thấy một pho tượng Kim Cương Thủ (Vajrapani) cao một
cubit (khoảng 46cm). Nhà vua đã hết lịng cầu nguyện và sau
đĩ đã cĩ thể thơng hiểu được phẩm viết về Linh Kiến
của Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Nhà vua đã hành trì pháp
mơn này trong sáu tháng rịng, vận dụng những giảng dạy
trong phẩm đĩ và bức tượng Kim Cương Thủ như Pháp bảo
hỗ trợ cho cơng phu thiền định của mình. Sau đĩ, nhà vua
đã cĩ được một linh kiến của Kim Cang Tát Đoả, Ngài đã
gia lực cho nhà vua khiến vua hồn tồn thơng suốt ý nghĩa
của tồn bộ ba pho Giáo Pháp này. Từ đĩ trở đi, các giáo
pháp ấy dần dần lan rộng.
2.2
LỊCH SỬ TRUYỀN DẠY A-NẬU DU GIÀ (ANUYOGA)
Trong
cùng thời gian đĩ, trên đỉnh núi Malaya,278 Năm Đấng Tuyệt
Hảo Cao Quý Siêu Phàm279 đã định tâm hướng về tất cả
chư Phật ở mười phương và tụng đọc một bài kệ ai ốn
gồm hai mươi ba câu, bắt đầu bằng câu:
Than
ơi! Than ơi! Than ơi!
Giờ
đây mặt trời của đức Phật đã biến mất
Ai
sẽ xua tan bĩng tối của thế gian?
Tất
cả chư Như Lai đồng khẩn cầu vị Pháp Vương của Mật
Pháp, đức Kim Cương Thủ:
Xin
hãy lắng nghe, Pháp Vương của Mật Pháp, chúng con
khẩn
cầu Ngài! Lẽ nào Ngài đã quăng bỏû áo giáp thuở xa xưa?
Lẽ đâu ngài khơng thấy khổ đau của thế giới ? Xin Ngài
xĩt thương và nhập thế, Xua tan bao thống khổ của thế gian!
Pháp
Vương của Mật Pháp ưng thuận:
Khơng
bắt đầu và khơng chấm dứt
Khơng
bao giờ từ bỏ thệ nguyện,
Đáp
ứng bất kỳ khi được khẩn cầu,
Ta
khai mở những hiển bày kỳ diệu.
Ngay
lúc đĩ, ngay trên đỉnh núi Mālaya, Ngài đã giảng dạy Yếu
Nghĩa Mật Kinh 280 và các giáo lý khác cho năm Đấng Cao Quý
kia. Tại Dhanakośa ở phía Tây xứ Oddiyāna, đức Vajrapani đã
giảng dạy Mật điển Bí Mật Tập Hội 281 cùng với các
giáo huấn tinh túy của Ngài và các giáo huấn Mật điển
thuộc hệ Kila, Mamo và những giáo huấn khác cho vị hĩa thân
Garab Dorje.282 Tất cả các truyền dạy này được Ngài Padma
Thotrengtsel xứ Oddiyāna (Đức Liên Hoa Sanh) thọ nhận và sau
đĩ những giáo huấn này ngày càng lan rộng.
2.3
CÁC GIÁO HUẤN TÂM YẾU CỦA ĐẠI VIÊN MÃN
Atiyoga
(A Đề Du Già, A Tì Du Già) tức Đại Cứu Kính hay Đại Viên
Mãn, trước tiên được dạy cho những vị Trời. Trong cõi
Trời thứ Ba Mươi Ba, cĩ một vị trời tên là Devabhadrapala,
ơng cĩ năm trăm người con trai, tất cả được đản sanh
ra từ trong tâm của ơng.* Người lớn nhất cĩ tên là Ānandagarbha,
thơng minh và cĩ sức mạnh phi thường hơn hẳn các em. Ngài
thích hành trì tụng đọc các bài kệ kim cương, một mình
đơn độc trong tịnh thất. Ngài được gọi là Devaputra Adhicitta,
“thiên tử với tâm siêu việt.”
Vào
năm Nữ Ngưu thuộc mạng thủy, Ngài nằm mơ bốn giấc mơ
với nhiều biểu tượng. Trong giấc mơ thứ nhất, tất cả
chư Phật đang phĩng toả hào quang khắp mười phương, và
thân tướng của Sáu Đức Mâu Ni được tạo bởi các luồng
ánh sáng đang xoay quanh chúng sinh trước khi tan lẫn vào Ngài
qua đỉnh đầu. Trong giấc mơ thứ hai, Ngài nuốt trọn Brama,
Visnu và Pasupati.* Trong giấc mơ thứ ba, mặt trời và mặt
trăng trong bầu trời xuất hiện trong đơi bàn tay của Ngài
khiến cho tồn thể thế giới tràn đầy ánh sáng. Trong giấc
mơ thứ tư, một trận mưa cam lồ rơi xuống từ một đám
mây mang màu châu ngọc, và đột nhiên hiện ra những khu rừng,
những lồi cây quý, các thứ hoa, trái và quả mọng của cây
dâu dại. * Họ được sinh ra một
cách thần diệu chỉ nhờ vào ước muốn của ơng ta. * Đây
là ba vị thần chính yếu của đạo Bà-La-Mơn (Hindu gods).
Pasupati là một tên khác của Siva.
Hơm
sau, Ngài đến kể về các giấc mơ cho Kausika, vua các vị
Trời nghe. Nhà vua liền phát ra lời tán tụng này:
Emaho
(Kỳ diệu thay)!
Bây
giờ là lúc để giáo pháp tâm yếu xuất hiện mà khơng phải
dụng cơng!
Hĩa
Thân của Chư Phật, Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại và vị
lai,
Pháp
Vương của thập địa – Ngài sẽ thắp sáng tồn thể thế
giới. Thật là một tơ điểm kỳ diệu cho các cõi Trời!
Giấc
mơ đầu tiên là dấu hiệu cho thấy Ngài sẽ nhiếp thụ trí
huệ của tồn thể chư Phật và trở thành vị đại diện
cho chư Phật. Giấc mơ thứ hai biểu thị rằng Ngài sẽ nhiếp
phục được tất cả ma quỷ và đoạn diệt tam độc. Giấc
mơ thứ ba cĩ ý nghĩa là Ngài sẽ xua tan bĩng tối trong tâm
chúng sinh và soi sáng tâm họï bằng các giáo pháp. Giấc mơ
thứ tư tượng trưng cho sự dập tắt những nỗi thống khổ
mãnh liệt do các cảm xúc tiêu cực gây ra, dập tắt bằng
giịng cam lồ của giáo lý Ati tự nhiên hiển lộ và bằng
quả vị thành tựu khơng cần dụng cơng của thừa Ati.
Một
lần nữa, tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và
vị lai cùng tụ hội lại và nĩi:
Chúng
tơi khẩn cầu đấng quang vinh Kim Cang Tát Đoả:
Là
đấng sở hữu viên ngọc phương tiện kỳ diệu,
Xin
mở cánh cửa đến với tất cả những gì chúng sinh ước
muốn.
Xin
ban cho họ viên ngọc siêu vượt mọi dụng cơng.
Từ
tim của đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva) xuất hiện một
bánh xe nạm ngọc rực rỡ-- Ngài tặng bánh xe đĩ cho Sattvavajra**
Một
tên khác của Vajrapani (Kim Cương Thủ). và
nĩi:
Trí
huệ bát nhã siêu vượt nhị nguyên, siêu vượt thực tại
bị che chắn,
Đức
Phật nguyên sơ, khơng dụng cơng và khơng tạo tác:
Con
đường này được gọi là Trung Đạo Vĩ Đại.
Hãy
khai mở cho tập hội các đệ tử.
Sattvajra
hứa sẽ giảng dạy như sau:
Kim
Cang Tát Đoả, bao la như bầu trời,283
Siêu
vượt phạm vi ngơn từ,
Thật
khĩ để diễn tả.
Nhưng
với những ai chưa chứng ngộ, ta sẽ sử dụng ngơn từ
Chỉ
ra yếu nghĩa khiến họ cĩ thể chứng ngộ,
Và
sẽ sử dụng bất kỳ phương tiện nào giúp giải thốt các
hành giả.
Ở
Vajraloka, cõi Phật phía đơng, đức Kim Cang Thủ đã tham vấn
đức Phật Vajraguhya và chư Như Lai của Kim Cương Bộ (Vajra
Family). Ở Ratnaloka, cõi Phật phía nam, Ngài tham vấn đức
Như Lai Ratnapada và chư Như Lai của Bảo Sanh Bộ (Jewel Family).
Ở Padmakata, cõi Phật phía tây, Ngài tham vấn đức Thế Tơn
Padmaprabha và tất cả hằng sa chư Như Lai của Liên Hoa Bộ
(Lotus Family)ä. Ở Visuddhasiddha, cõi Phật phía bắc, Ngài tham
vấn đức Như Lai Siddhyaloka và hằng sa chư Như Lai của Hạnh
Bộ (Action Family).Ở Viyoganta, cõi Phật ở trung tâm, Ngài tham
vấn đức Như Lai Tỳ Lơ Giá Na (Vairocana) và nhiều Đấng
Chiến Thắng khác của Như Lai Phật Bộ (Tathāgata Family).
Như
thế đức Vajrapani đã chắt lọc tinh tuý trí huệ của tất
cả các đấng Chiến Thắng và giải tan mọi hiểu biết sai
lầm về mỗi một khía cạnh của Đại Viên Mãn (Atiyoga),
là tinh túy tuyệt diệu của Giáo Pháp, là kinh nghiệm chứng
ngộ tự nhiên khơng cần dụng cơng, siêu vượt nhân quả.
Ngài biết rằng Adhicitta, bậc thiên tử, đã cĩ thiện nghiệp
và phước duyên, và Ngài biết phải tìm Adhicitta ở Cõi Trời
thứ Ba Mươi Ba, trong gian chính của Cung Điện Tồn Thắng,
nơi đỉnh cĩ đặt một cây sinh lực, trên ngọn cĩ đặt
một chày kim cương chín chấu. Đức Kim Cang Thủ đi tới đĩ
để gặp Adhicitta và ngự trên một chiếc ngai khảm ngọc
chĩi ngời trên chĩp đỉnh của chày kim cang này.
Adhicitta
mở rộng tấm màn che làm bằêng đủ loại châu báu và cúng
dường cho đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) nhiều phẩm vật linh
thiêng. Rồi đức Kim Cang Thủ truyền cho Ngài, qua phương tiện
của những biểu tượng, tồn thể năng lực gia hộ bằng
cách trực tiếp“rĩt đầy phương tiện của các Đấng Chiến
Thắng.”284 Đức Kim Cang Thủ cũng ban truyền cho Ngài mười
giáo huấn tâm yếu kỳ diệu, bảy pháp quán đảnh, năm giáo
huấn tâm yếu và một số rất nhiều các Mật điển và giáo
huấn tâm yếu khác, tồn bộ đã được trao truyền chỉ trong
một giây khắc. Đức Kim Cang Thủ gia hộ và ấn chứng cho
Ngài là vị đại diện lỗi lạc nhất của chư Phật và tuyên
bố những lời này:
Cầu
mong yếu nghĩa kỳ diệu này của Giáo Pháp
Được
biết đến khắp ba cõi vi diệu
Và
được truyền bá giữa cõi Diêm Phù Đề
Bởi
một trưởng tử là hĩa thân của một Hĩa Thân.285
Theo
đĩ, Giáo Pháp đã lan truyền khắp ba cõi linh hiển.
2.4
GIÁO PHÁP ĐẠI VIÊN MÃN ĐẾN VỚI CÕI NGƯỜI
Nằm
ở phía tây Ấn Độ là Oddiyāna, xứ sở của các vị Khơng
Hành nữ hay Thiên Nữ Trí Tuệ. Ở đĩ, trong miền Dhanakośa,
cĩ một hồ nước tên là Kutra. Trên bờ hồ, trong một rừng
cây tươi đẹp đầy hoa cỏ xinh tươi cĩ một cái hang tên
là Cung Điện Kim Cương, và đây là nơi cư ngụ của một
thiếu nữ tên là Hoa Tươi, con gái của Vua Uparāja và Hồng
hậu Ālokabhāsvati. Cơ mang trên người tất cả những dấu
hiệu tồn thiện, cĩ một trái tim đức hạnh và tâm Bồ Đề
bao la. Từ bỏ thĩi đạo đức giả và phĩng dật, cơ được
thọ giới làm tỳ kheo ni và giữ mọi giới nguyện thật tồn
hảo khơng một lỗi lầm. Cơ cĩ một chúng đệ tử gồm năm
trăm vị ni.
Vào
năm Mộc Ngưu, ngày mồng tám tháng hai của mùa hạ, khi bình
minh vừa lĩ dạng, cơ nằm mơ một giấc mơ trong đĩ cơ nhìn
thấy tất cả chư Như Lai phát hào quang, những luồng ánh
sáng biến thành mặt trời và mặt trăng. Mặt trời tan vào
cơ qua đỉnh đầu, di chuyển xuống phiá dưới. Mặt trăng
tan vào cơ qua các gĩt chân, di chuyển lên phiá trên. Sáng
ra, kinh nghiệm chứng ngộ của cơ tăng trưởng, và cơ đi
ra lau rửa trên bờ Hồ Kutra. Trong lúc đĩ, đức Vajrapani trong
thân tướng của một con thiên nga, vua của các lồi chim; Ngài
biến Adhicitta thành một chữ hūm và sau đĩ tự biến mình
thành bốn con thiên nga. Bốn con thiên nga từ trên trời cao
hạ cánh xuống dầm mình trong nước hồ. Rồi ba con trong số
đĩ lại cất cánh bay lên giữa bầu trời, nhưng một trong
những hiện thân này của Pháp Vương Mật Pháp (đức Kim Cang
Thủ -Vajrapani), trước tiên đã chạm mỏ vào tim cơng chúa
ba lần, và một chữ hūm sáng chĩi tan vào tim cơ. Rồi con
thiên nga ấy cũng bay đi.
Quá
kinh ngạc, cơng chúa báo lại cho phụ thân và chúng đệ tử
biết chuyện gì đã xảy ra. Trong lịng tràn đầy xúc cảm
kỳ diệu, vua cha rất hoan hỷ.
“Đây
cĩ phải là điềm báo trước sự chào đời của hĩa thân
của một vị Phật ?” nhà vua hỏi.
Nhà
vua tiến hành tổ chức nhiều đại tiệc và lễ lạc. Mặc
dù cơng chúa khơng cĩ dấu hiệu gì chứng tỏ cờ đang mang
thai, nhưng khi gần đến thời kỳ ở cữ, một chày kim
cang chín chấu lấp lánh phĩng ra từ tim cơ. Rồi chày kim cang
ấy biến mất, để lại ở ngay vị trí đĩù một em bé với
những tướng chính và phụ của Phật Quả, em cầm một chày
kim cang trong bàn tay phải và tay trái cầm một cây gậy bằng
vật liệu quý. Em đang tụng đọc những lời nguyện bắt
đầu bằng câu: “Đức Kim Cang Tát Đoảû (Vajrasattva), mênh
mơng như bầu trời...” Mọi người thảy đều hoan hỉ. Họ
đưa em tới gặp một người Bà la mơn thơng thạo nghệ thuật
lý giải những dấu hiệu kỳ lạ. Hết sức kinh ngạc, người
Bà la mơn tuyên bố em bé là một hĩa thân hiển lộ, bậc
nắm giữ các giáo lý của Thừa tối thượng (highest vehicle).
Vì mọi người đang hết sức sung sướng hoan hỉ và em bé
đang cầm một cái chày trong tay nên họ gọi em là Garab Dorje,
cĩ nghĩa là Kim Cương Cực Hỉ. Vì mọi người đang rất vui
mừng, họ cũng gọi em là Kim Cương Niềm Vui. Và vì họ tràn
đầy tiếng cười nên họ cũng gọi em là Kim Cương Tiếng
Cười.
Khi
Garab Dorje lên ngơi, đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) xuất hiện
trong thân tướng con người và trực tiếp ban cho ngài pháp
gia trì viên mãn bằng cách rĩt đầy những yếu nghĩa của
các Đấng Chiến Thắng cũng như rĩt đầy các pháp gia lực
khác. Chỉ trong giây khắc, đức Vajrapani cũng truyền cho ngài
tồn bộ các Mật điển (tantra) và các giáo huấn tinh túy,
chẳng hạn như hai mươi ngàn pho Cửu Phương Quảng Trí (Nine
Expanses) v.v.., và trao quyền cho Ngài làm người trì giữ
giáo pháp. Đức Kim Cang Thủ chỉ định các vị hộ pháp trung
thành làm bạn đồng hành với Garab Dorje để bảo vệ Giáo
Pháp. Khơng cần phải dụng cơng và chỉ trong khoảnh khắc,
Garab Dorje đạt được Phật Quả thuộc quả vị Đại Viên
Mãn.
Vào
lúc đĩ, ở tại xứ Ấn Độ cao quý, người Bà la mơn Sukhapāla
và vợ ơng là Kuhanā sinh hạ một bé trai, là một hĩa thân
của đức Văn Thù (Mađjuśrī) cao quý. Em bé Bà la mơn được
đặt tên là Sārasiddhi, và cũng cịn được gọi là Samvarasāra.
Về sau em trở thành một tu sĩ,ø là người đứng đầu năm
trăm vị học giả và được nhận lãnh danh hiệu Đạo sư
Diệu Đức Hữu (Mađjuśrīmitra).
Trong
một linh kiến, đức Văn Thù cao quý bảo Ngài Mađjuśrīmitra:
“Hãy đi về phía tây xứ Oddiyāna. Quanh bờ Hồ Kutra, cĩ
một mộ địa tên là Cung Điện Mahahe Vàng. Ở giữa là một
cái hang gọi là Cung Điện Kim Cương, ở đĩ cĩ hoạt hiện
một hĩa thân được gọi là Garab Dorje. Ngài là một Hĩa Thân
của đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Ngài nắm giữ Giáo
Pháp khơng cần dụng cơng của tất cả chư Phật, và tất
cả chư Phật đã gia lực cho Ngài. Hãy đi đến gặp Ngài
và khẩn cầu yếu nghĩa phi thường của các giáo lý, là pháp
Atiyoga mà Ngài đang nắm giữ và nhờ đĩ cĩ thể đạt được
Phật Quả mà khơng cần dụng cơng. Ơng phải là người biên
soạn lại Giáo Pháp đĩ của Ngài.”
Mađjuśrīmitra
nĩi với những người bạn học giả của Ngài: “Ở phương
tây trong xứ Oddiyana cĩ một Đạo Sư đang giảng dạy một
giáo thuyết siêu vượt nguyên lý nhân quả. Chúng ta phải
lên đường và đánh đổ ơng ta bằng luận lý.”
Họ
bàn cãi về vấn đề và bảy người trong số đĩ, gồm cả
bậc huynh trưởng Rajahasti, đã du hành gian khổ đến xứ Oddiyāna.
Nhưng mặc dù họ tranh luận gay gắt đến đâu với Garab Dorje
chăng nữa, tranh luận về các giáo lý đặt trên nền tảng
nhân quả, hoặc tranh luận về các giáo lý của ngoại hay
nội Mật Thừa (outer or inner Mantrayana) thì họ vẫn khơng thể
đánh bại Ngài.
Rồi
Mađjuśrīmitra hỏi các học giả khác: “Chúng ta cĩ nên cầu
hỏi vị ứng hiện hĩa thân này về giáo pháp siêu vượt
nguyên lý nhân quả của Ngài khơng?”
Huynh
trưởng Rajahasti muốn thỉnh cầu Giáo Pháp nhưng lại tuyên
bố: “Tơi khơng dám, bởi chúng ta đã tỏ ra thiếu tơn kính
với Ngài.”
Một
số người khác cảm thấy rằng họ cĩ thể thỉnh cầu Giáo
Pháp vì giờ đây họ đã được Ngài thuyết phục. Họ cùng
nhau quyết định sám hối với bậc Đạo Sư. Một số bắt
đầu lễ lạy và đi nhiễu quanh Ngài. Những người khác bắt
đầu kêu khĩc.
Mađjuśrīmitra
quỳ lạy trước mặt Ngài và nĩi: “Bậc ứng hiện Hĩa Thân,
bằng cách tuơn ra những luận cứ khơng sao kìm hãm được,
con đã xử sự bất kính đối với Ngài.”
Với
ý định cắt đứt lưỡi mình để bày tỏ sự thống hối,
ơng bắt đầu đi tìm kiếm một lưỡi dao cạo. Nhưng Ngài
Garab Dorje đọc được tâm ơng.
“Ơng
sẽ khơng bao giờ tịnh hĩa các hành động xấu ác của ơng
bằng cách cắt đứt lưỡi được!” Ngài nĩi. “Hãy biên
soạn một giáo pháp siêu vượt các giáo pháp dựa trên nguyên
lý nhân quả. Việc làm đĩ sẽ tịnh hĩa chính ơng.”
Tất
cả những học giả cịn thiếu thiện nghiệp cần thiết và
thiếu phước duyên, họ đều quay trở về nhà. Nhưng Mađjuśrīmitra
đã thâu hĩa tồn bộ Giáo Pháp, đạt được chứng ngộ tức
thời chỉ nhờ thấy được một cử chỉ của Đạo Sư. Để
giúp cho Giáo Pháp được hồn tồn viên mãn, Garab Dorje ban
cho Ngài pháp gia lực trực tiếp bằng cách rĩt đầy những
phương tiện thiện xảo của các Đấng Chiến Thắng,
rĩt đầy tất cả các Mật điển (tantra) và các giáo huấn
tâm yếu khơng thiếu thứ nào, gồm cả hai mươi ngàn pho sách
của Cửu Đại Quảng Trí (Nine Expanxes). Chính vào lúc này
Ngài ban cho ơng danh hiệu Mađjuśrīmitra. Bậc ứng hiện Hố
Thân Garab Dorje đã ghi chép ý nghĩa của các giáo huấn này
và ban cho Mađjuśrīmitra Giáo Pháp sau đây:
Từ
vơ thủy, bản tánh của tâm là Phật.
Khơng
sinh cũng khơng diệt, tựa khơng gian.
Khi
ơng liễu ngộ chân nghĩa, thấy ra tánh của vạn pháp vốn
đồng đẳng,
Hãy
an trụ trong trạng thái đĩ, đừng kiếm tìm 286 thì đĩ là
thiền định.
Mađjuśrīmitra
hồn tồn thấu suốt, hiểu rõ Giáo Pháp này muốn nĩi gì
và diễn tả kinh nghiệm chứng ngộ của riêng Ngài như sau:
Ta
là Mađjuśrīmitra,
Ta
đã thành tựu quả vị Yamāntaka.
Ta
đã liễu ngộ tánh đại bình đẳng giữa sinh tử Niết Bàn;
Tuệ
giác nguyên sơ đã phát khởi.
Ngài
đã viết Giáo Huấn Về Bồ Đề Tâm Khắc Bằng Vàng Trên
Đá 287 để ăn năn sám hối, và ghi lại hết các giáo
huấn của Garab Dorje.
Kế
đo,ù các Giáo Pháp này được truyền cho Śri Simha, là người
đã ra đời tại Trung Hoa ở một nơi cĩ tên là Shosha, cha
Ngài tên là Đức Hạnh và mẹ tên là Tri Giác Trong Sáng. Ngài
trở nên tinh thơng năm mơn khoa học (ngũ minh khoa học), gồm
cĩ ngơn ngữ, luận lý, chiêm tinh học và v.v.., các mơn này
ngài học với Đạo sư Hastibhala. Năm hai mươi lăm tuổi, Ngài
gặp Đạo Sư (Ācārya) Diệu Đức Hữu (Mađjuśrīmitra), và
từ bậc Đạo Sư này, Ngài đã nhận lãnh tồn bộ Giáo Pháp
Đại Viên Mãn thâm diệu, với những Mật điển, khẩu truyền,
cùng với những giáo huấn tâm yếu, và Ngài đạt được
chứng ngộ tối thượng, giải thốt khỏi mọi tạo tác trong
tâm thức.
Từ
Śri Simha, các Giáo Pháp này đã được trao truyền tới
Đức Phật Thứ Nhì ở xứ Oddiyāna* và sau đĩ tới học giả
Jđānasūtra, đại học giả Vimalamitra, và đại dịch giả
Vairotsana. Dịng truyền thừa cho tới thời điểm này là dịng
truyền thừa qua biểu tượng của các đấng Minh Trì (Vidyadhara).
*
Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).
Tu
viện Samye
Tu
viện đầu tiên ở Tây Tạng, được khởi cơng xây dựng
vào đầu thế kỷ thứ 9, kiến trúc tượng trưng cho thế
giới theo vũ trụ quan của Ấn Độ cổ. Tu viện bị phá hủy
trầm trọng trong cuộc Cách Mạng Văn Hố, nhưng từ đĩ tới
nay ngơi chùa chính đã được trùng tu kỹ lưỡng và được
ngài Dilgo Khyentse Rinpoche hiến cúng lại vào năm 1990.
IV.
LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ TÂM-YẾU Ở XỨ TUYẾT TÂY TẠNG
Vào
thời Đức Phật, Tây Tạng khơng cĩ cư dân là con người.
Về sau, cĩ một bộ lạc con người phát xuất từ sự kết
hợp giữa một lồi vượn (là Hĩa Thân của đức Quán Thế
Âm Avalokiteśvara cao quý) cùng với một nữ tinh linh núi**ù.
Trong thời kỳ phơi thai này, Tây Tạng ở trong một tình trạng
hỗn loạn khơng tơn giáo, khơng luật lệ, khơng người cai
trị. ** Cĩ chỗ nĩi rằng đĩ là
một hĩa thân của Đức Quan Âm (Tara).
Trong
lúc đĩ ở Ấn Độ, một vị vua tên là Śatānīka sinh hạ
được một bé trai. Bàn tay và bàn chân của đứa trẻ cĩ
màng giống màng của một con thiên nga và mí mắt của em khép
lại hướng lên trên như mí mắt của một con chim. Cha em cho
rằng đứa trẻ hẳn cĩ nguồn gốc quái thai khơng phải là
người, tuyên bố là em phải bị trục xuất khỏi vương quốc.
Ngay khi vừa lớn lên một chút, em bé đã bị đuổi đi.
Do nghiệp lực dẫn dắt, em bé đã lang thang vơ định và cuối
cùng thì đến Tây Tạng. Ở đĩ em tình cờ gặp một vài
người chăn cừu. Khi họ hỏi em từ đâu tới và là
ai, em chỉ lên bầu trời. Những người chăn cừu cho
rằng em bé phải là một vị Trời từ các cõi Trời hạ sinh,
và tơn em làm thủ lãnh của họ. Họ làm cho em một chiếc
ngai bằng đất và đá, và họ khiêng chiếc ngai đĩ trên vai,
và vì thế em được gọi là Nyatri Tsenpo Cổ thời – Nyatri
Tsenpo cĩ nghĩa là “Đế Vương Của Chiếc Ngai Trên Vai.”
Đây là vị vua đầu tiên, 288 và là một Hĩa Thân của Bồ
Tát Sarvanivāranaviskambhin.
Nhiều
đời sau đĩ, trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen, Ngài là
một Hĩa Thân của Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra), hiện ra
trên mái Cung Điện Yumbu Lakhar cùng với một số các bảo
vật linh thiêng:289 gồm cĩ một tơn tượng được gọi là
Cintāmani,290 tượng trưng cho thân tướng của chư Phật; Đại
Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh 291 và Kinh Bách Nguyện Bách
Bái,292 tượng trưng cho ngữ của chư Phật ; và một tháp
pha lê cao một cubit (khoảng 46cm), tượng trưng cho tâm của
chư Phật.
Đây
là khởi đầu lịch sử của Giáo Pháp ở Tây Tạng.
Trải
qua năm đời sau đĩ đến triều đại của vua Songtsen Gampo293
là một Hĩa Thân của đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara). Ngài
xây dựng tất cả các điện thờ Thadul và Yangdul và cung điện
chính ở thủ đơ Lhasa294 và kết hơn với cơng chúa Kongjo
(Văn Thành Cơng Chúa) xứ Trung Hoa – một Hĩa Thân của đức
Quan Âm (Tara) – và với cơng chúa Tritsun xứ Nepal – một
Hĩa Thân của Thiên Nữ Bhrikutī. Mỗi cơng chúa đều cĩ đem
theo một pho tượng của Đức Phật, như một phần thuộc
của hồi mơn. Hai pho tượng này được biết đến như là
Jowo.295
Lần
đầu tiên một hệ thống chữ cái Tây Tạng được Thomi Sambhota
khai lập; ơng nghiên cứu ngơn ngữ dưới sự dạy dỗ của
học giả Ấn Độ Devavit Simha, và sau đĩ đã bắt đầu dịch
Bảo Vân Kinh và một số các Kinh điển khác. Vua Songtsen Gampo
đã phĩng toả ra một tu sĩ tên là Akarmati từ giữa cặp lơng
mày của ngài. Vị tu sĩ này đi nhiếp phục các vị vua
phi Phật Giáo ở Ấn Độ, và tìm thấy năm bức tượng Quán
Thế Âm tự hố hiện cĩ tên là Năm Anh Em Cao Quý ngay
trong thân của một loại cây đàn hương gọi là “Mãng Xà
Tâm Yếu,” ở ngay Cung Điện Cát nằm giữa Ấn Độ và Tamradvipa.
Ngài cũng đã tạc pho tượng Quán Thế Âm Avalokitesvara mười
một khuơn mặt (Quán Tự Tại Thập Nhất Diện hay Thiên Thủ
Thiên Nhãn) đặc biệt linh thiêng hiện cịn ở Lhasa.296 Chính
trong triều đại này mà Phật Pháp thực sự bắt rễ ở Tây
TaÏng.
Trải
qua năm đời nữa, đến đời vua Trisong Detsen,297 một Hĩa
Thân của đức Văn Thù Cao Quý được sinh ra đời. Khi Ngài
lên mười ba tuổi thì thân phụ mất. Trước tiên Ngài chinh
phục một số các xứ sở bằng vũ lực sau khi đã tham khảo
ý kiến với các quan thượng thư như Ngam Tara Lugong và Lhazang
Lupel.
Sau
đĩ, lúc mười bảy tuổi, khi tham khảo các tài liệu lưu
trữ của tổ tiên, Ngài nhận ra rằng trước tiên Phật Pháp
đã tới xứ Tây Tạng trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen
và được vua Songtsen Gampo củng cố. Khi nhận thức được
tổ tiên Ngài nhất tâm làm việc vì Pháp ra sao, Ngài cảm
thấy chính mình cũng phải đặt hết mối quan tâm vào việc
truyền bá giáo thuyết. Ngài hỏi ý kiến thượng thư Bộ
Tơn Giáo của mình là Go Pema Gungtsen và khéo léo thỉnh ý các
vị thượng thư khác khiến họ nhất trí xây dựng một ngơi
chùa. Khi phải đi tìm một vị Thầy về để tổ chức tế
lễ, làm an định (tức tai) thổ địa,298 họ hỏi ý kiến
Nyang Tingdzin Zangpo, là vị Thầy rất được nhà vua tơn kính,
khi đĩ đang ở Samye Chimpu.
Dựa
vào cơng phu thiềøn quán, Ngài Tingdzin Zangpo biết rằng ở
Zahor miền đơng Tây Tạng cĩ một đại Tu Viện Trưởng tên
là Santaraksita, con trai của Pháp Vương Gomadeviya. Ngài báo tin
này cho nhà vua, và vị Tu Viện Trưởng được mời sang Tây
Tạng.
Sau
đĩ Ngài Santaraksita cố gắng hiến cúng địa điểm của ngơi
chùa. Nhưng một lồi rồng nước (naga) sống trong một cung
điện tên là Aryapalo, biết rằng bụi cây nơi ơng ta sống
sắp bị đốn hạ, đã kêu gọi tất cả các tinh linh tới
trợ giúp ơng. Hai mươi mốt genyen được người và các chúng
phi-nhân (non-humans) hộ tống, cùng tập hợp thành một đội
quân, và khi đêm đến, các tinh linh phá hủy bất kỳ những
gì được con người xây dựng vào ban ngày, đưa mọi thứ
đất đá trở về lại nơi xuất phát.
Nhà
vua đến gặp Tu Viện Trưởng và yêu cầu một lời giải
thích: “ Cĩ phải bởi vì các chướng duyên của trẫm quá
sâu dày? Hay tại Ngài đã khơng gia hộ cho mảnh đất? Phải
chăng kế hoạch của trẫm vẫn chưa thực hiện được ?”
“Tơi
đã thấu suốt Bồ Đề Tâm,” vị Tu Viện Trưởng đáp,
“nhưng khơng thể điều phục các vị Trời và quỷ ma bằng
các pháp an bình như thế. Chỉ cĩ các pháp uy nộ mới đem
lại kết quả. Hiện nay tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya)
ở Ấn Độ cĩ một Đạo Sư tên là Liên Hoa Sanh xứ Oddiyāna.
Ngài đến với thế giới này bằng một phương tiện thầân
kỳ. Ngài tinh thơng ngũ minh khoa học và đã làm chủ được
năng lực của [kiến giải] tuyệt đối.299 Ngài đã đạt
được các thành tựu thơng thường lẫn siêu việt. Ngài đã
dẹp tan ma quỷ, và buộc tám loại tinh linh phải quy phục
Ngài. Ngài đã làm tất cả các vị Trời và ma quỷ phải
run sợ và cĩ thể điều phục các tinh linh mạnh mẽ. Nếu
nhà vua thỉnh Ngài đến đây, sẽ khơng tinh linh nào cĩ thể
chống lại Ngài và mọi ước nguyện của nhà vua sẽ được
mỹ mãn.”
“Lỡ
khơng thể thỉnh mời được người như thế thì sao ?” nhà
vua hỏi. Tu Viện Trưởng đáp: “Khơng đâu, Ngài sẽ cĩ thể
mời được vị ấy do bởi các lời cầu nguyện mà Ngài
đã phát nguyện trong quá khứ. Thời xa xưa ở Nepal, cĩ một
người đàn bà tên là Samvari, con gái của người chủ trại
gà Salé, bà ta cĩ bốn con trai do sống chung với một người
nuơi ngựa, một người nuơi heo, một người nuơi gà vịt
và một người nuơi chĩ,” và Ngài kể cho vua câu chuyện
tháp Jarung Khashor300 đã được xây dựng thế nào và những
lời cầu nguyện đã được phát nguyện như thế nào vào
lúc đĩ.
Nhà
vua phái Ba Trisher, Dorje Dudjom Chim Śakyaprabha và Shubu Palgyi Senge
tới Ấn Độ, mỗi vị mang một số lượng bụi vàng và một
cái nơ vĩnh cửu bằng vàng. Các vị ấy giải thích cho Đạo
Sư rằng Ngài cần cĩ mặt ở Tây Tạng để gia trì cho địa
điểm của một ngơi chùa.
Đạo
Sư hứa sẽ đến. Ngài lên đường, dừng lại trên đường
để buộc mười hai tenma, mười hai vị nữ hộ thần, hai
mươi mốt genyen, cùng tất cả các vị Trời và tinh linh của
Tây Tạng phải tuyên thệ.
Cuối
cùng Ngài đến Trakmar để gia trì mảnh đất, và tu viện
Samye Tự Hiển Lộ đã được xây dựng. Tu viện cĩ một dinh
thự ở giữa cao ba tầng, được bao quanh bởi những tịa nhà
tượng trưng cho bốn đại châu và các trung châu. Hai điện
Yaksa, một cao và một thấp tượng trưng cho mặt trời và
mặt trăng. Tồn bộ tu viện được một bức tường bao quanh.
Tu Viện Trưởng Santaraksita, Đạo Sư Padma (Liên Hoa) và Vimalamitra
tung hoa lên để cúng dường và làm an định cả thảy ba lần
và người ta đã nhìn thấy nhiều dấu hiệu phi thường và
kỳ diệu nhiệm mầu hiện ra.301
1.
Dịng Nhĩ Truyền Của Những Chúng Sinh Bình Thường*
Sau
đĩ Tu Viện Trưởng Śantaraksita đã giảng dạy về các truyền
thống của Luật tạng và Kinh tạng, trong khi Đạo Sư Liên
Hoa Sanh và Ngài Vimalamitra thiết lập các giáo lý Mật Thừa.
Chính vào lúc này Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna tức Đạo
Sư Padma và đại học giả Vimalamitra đã truyền dạy cho ba
đệ tử tâm yếu – gồm cĩ Đức Vua, Thần Dân và Hiền
Hữu**– cũng như dạy cho Nyangwen Tingdzin Zangpo và các đệ
tử may mắn khác là những chiếc bình chứa thích hợp để
đĩn nhận Giáo Pháp. Đối với những đệ tử này các Ngài
đã chuyển Pháp Luân gồm ba nội du già (inner yogas), kể cả
Atiyoga của Đại Viên Mãn, và chỉ rõ ba điểm trọng yếu:
phân biệt, xác quyết và tự giải thốt (distinguishing, clear
decision and self-liberation).302 Bắt đầu từ đĩ trở đi, dịng
truyền thừa này được gọi là “dịng truyền thừa qua lắng
nghe hay dịng nhĩ truyền của những chúng sinh bình thường.”
*
Đề mục này được đưa vào trong bản dịch để thêm sáng
nghĩa. ** Trisong Detsen, Yeshe Tsogyal và Vairotsana.
Đức
Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna cũng ban Giáo Pháp thích hợp cho
mỗi một người trong Hai Mươi Lăm Đại Đệ Tử của Ngài,+
là những vị cĩ được phước duyên cần thiết để đĩn
nhận bất kỳ Giáo Pháp nào trong vơ số Giáo Pháp của Đức
Phật miễn là Giáo Pháp đĩ phù hợp với thiện nghiệp của
họ. Sau đĩ, những bản văn Mật Thừa này đã được viết
trên “các cuộn giấy vàng” 303 và được cất dấu như
những kho tàng tâm linh hay tàng bảo kinh.++ Đạo Sư đã cầu
nguyện và cất dấu những bản văn này như những di sản
vì lợi lạc của chúng đệ tử trong tương lai. Về sau, vào
những thời điểm đã được tiên tri, Hĩa Thân của
những vị thành tựu giả trong số chúng đệ tử đĩ, là
những người mà trước đây Đạo Sư đã hướng lời cầu
nguyện đến, họ sẽ tái sinh trong hồn cảnh tốt đẹp
để làm nhiệm vụ khai quật những kho tàng tâm linh thâm diệu
này. Nhiều đệ tử với nghiệp lực thích ứng đã đi theo
các vị này, hoằng hĩa làm lợi lạc chúng sinh và lập nên
các dịng truyền thừa thường được gọi là những dịng lục
truyền hay cửu truyền (those lineages with six or nine transmissions).304
Trong
vơ số các vị Hĩa Thân và những vị khai quật tàng bảo
kinh, cĩ một vị cĩ rất nhiều liên hệ với chúng ta ở đây,
đĩ là ngài Rigdzin Jigme Lingpa. Ngài đích thực là đức Quán
Thế Âm An Trụ Trong Bản Tánh Của Chân Tâm,# và ngài hố
hiện trong hình tướng của một vị thiện tri thức. Cùng
một lúc, Ngài nhận lãnh những giáo huấn của tồn thể ba
dịng truyền thừa - dịng truyền tâm, dịng truyền qua biểu
tượng và dịng nhĩ truyền qua sự lắng nghe - từ Đức Phật
Thứ Hai xứ Oddiyāna, đại học giả Vimalamitra và bậc Tồn
Giác Longchen Rabjam. 305 Ngài là một vị Phật Tồn Giác. Ngài
đã chuyển pháp luân của Giáo Pháp Viên Mãn cho những chúng
sinh nào cĩ được nhiều may mắn và thuận duyên. Như
tục ngữ cĩ nĩi:
Dù
sắc thân Ngai là của một vị Trơi hay con nguời phàm tục
Nhưng tâm thức tồn hảo của Ngài đích thật là Phật.
+
rje `bango, nghĩa đen là “đức vua và thần dân,” gồm cĩ
đức vua Trisong
Detsen
và các thần dân là hai mươi bốn đệ tử khác.
++
Xem Thuật Ngữ: kho tàng tâm linh.
#
sems nyid ngal gso: một hiện thân của đức Quán Thế Âm Avalokitesvara
Vì
lý do này, vị Thầy tơn kính** của tơi thường nĩi: “Đối
với những ai cĩ khả năng tu tập vàø cầu nguyện thì
Bổn Sư của ta, đấng Kim Cương Trì 306 (Vajradhara) --
vị Pháp Vương và Hộ Thần của tồn thể chúng sinh, Ngài
thực sự là một vị Phật Tồn Giác. Ta khơng nĩi thế chỉ
vì muốn tán thán hay tơn kính Ngài. Ngài thực sự là đức
Kim Cương Trì Tồn Giác Vĩ Đại, đã hạ sinh để làm lợi
lạc chúng sinh trong thân tướng của người phàm. Trong dịng
truyền thừa này, giữa Ngài và các con khơng cĩ ai khác ngồi
ta. Và đối với ta, ngay từ lần đầu tiên gặp Ngài,
ta đã thọ trì tất cả những gì Ngài dạy bảo. Ta đã phụng
sự Ngài theo ba phương cách+ và khơng bao giờ làm điều gì
khiến Ngài phải phiền lịng hay thậm chí làm Ngài phải
cau mày. Vì thế các con cĩ thể tin chắc rằng, các mật nguyện
tuyệt đối chưa hề bao giờ bị suy đồi khiến cho sợi dây
xích vàng của dịng truyền thừa này phải bị ơ uế. Suối
nguồn năng lực gia hộ của dịng truyền thừa này thật khác
biệt với suối nguồn của bất kỳ dịng truyền nào khác.”
**
Bổn Sư của Patrul Rinpoche, Ngài Jigme Gyalwai Nyugu, là một trong
trưởng tử của Ngài Ridzin Jigme Lingpa. Xem Dẫn Nhập.
+
Xem Phần Một, Chương Sáu, Mục II.
Mật
điển Nhật Nguyệt Hợp Nhất cĩ nĩi:
Nếu
bạn khơng giải thích lịch sử nguồn gốc (của dịng
truyền thừa),
Người
ta sẽ phạm phải lỗi lầm
Khơng
tin tưởng vào Chân Pháp tột cùng ẩn mật.
Chính
vì cần phải đem đến nguồn cảm hứng giúp cho chúng đệ
tử phát khởi niềm tin, bằng cách giảng dạy cho họ biết
nguồn gốc xác thực của dịng truyền thừa, và bằng cách
thuật lại chi tiết lịch sử nguồn gốc đĩ, nên ta
đã làm cơng việc giảng dạy những điều như thế này
trong phạm vi của pháp mơn Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).
Trong
pháp Bổn Sư Du Già, điều tối quan trọng là phải trì tụng
câu minh chú mười triệu lần. Một số người khơng trì tụng
câu minh chú trong thời gian đủ dài (cho mười triệu lần),
và cho rằng các tu pháp dự bị này khơng thực sự quan trọng.
Hoặc cĩ lẽ sau khi nghe giảng rằng giáo lý của pháp thực
hành chính yếu thật sự thâm diệu như thế nào thì họ nảy
sinh ra rất nhiều kỳ vọng cao xa. Nhưng hãy thử tưởng tượng
xem, việc họ cĩ thể thực hiện các pháp tu thuộc hai giai
đoạn phát triển và thành tựu mà khơng bỏ thời gian ra để
thực hành đúng đắn các pháp tu dự bị thì cũng giống như
tục ngữ phổ thơng cĩ nĩi:
Thè
lưỡi ra trước khi cái đầu được nấu chín,307
Duỗi
chân ra trước khi chỗ nằm được hơ ấm.
Thực
hành các pháp tu dự bị mà khơng đi cho tới kỳ cùng thì
sẽ khơng cĩ bất kỳ ý nghĩa nào cả. Cho dù cĩ được một
vài dấu hiệu nhỏ bé nhất thời như “hơi ấm” xuất hiện,
nhưng những dấu hiệu này cũng khơng cĩ gì là bền vững
giống như một tịa nhà khơng cĩ nền mĩng.
Một
phần của một tư tưởng sai lạc tương tự khác là việc
buơng bỏ các pháp tu dự bị một khi bạn bắt đầu thực
hành các pháp tu chính yếu, cho rằng bạn đã thực hành các
pháp tu dự bị đầy đủ đúng đắn rồi – thầm nhủ rằng
các pháp tu dự bị chỉ là dự bị, và bây giờ đến lúc
các pháp tu dự bị ấy khơng cịn cần thiết nữa. Nếu bạn
bỏ rơi các pháp tu dự bị, là nền tảng của đường tu,
là bạn đã chặt đứt gốc rễ rốt ráo nhất của Chân Pháp.
Việc bỏ rơi các pháp tu dự bị cũng giống như việc cố
gắng vẽ một tấm tranh bích họa ở nơi khơng cĩ ngay cả
một bức tường. Hãy luơn luơn dụng cơng tu tập cho tới
khi bạn khơi dậy được lịng tin chân thành nơi các pháp tu
dự bị. Hãy đặc biệt tập trung tu tập pháp Bổn Sư Du Già,
là cánh cổng mở vào năng lực gia trì, và hãy để cho pháp
ấy trở thành nền tảng đích thực của cơng phu tu tập của
bạn. Đây chính là vấn đề cốt tủy.
Con
nhận ra vị Thầy từ ái của con đích thực là một vị Phật,
Nhưng
với bản tánh ngoan cố, con bất tuân những chỉ dạy của
Ngài.
Con
biết rằng tất cả chúng sinh trong ba cõi đã từng là cha
mẹ,
Nhưng
với tính khí xấu xa, con vẫn sỉ nhục các Pháp hữu.
Xin
từ bi gia hộ cho con và những ai cĩ ác nghiệp như con,
Để
chúng con cĩ thể, trong đời này và tất cả những đời khác,
Khiêm
tốn, vững chãi trong giới hạnh, mềm mỏng trong tâm
hồn và hành động, Bước theo chân vị Đạo Sư tâm linh của
mình.
Đức
Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) và mười hai hố thân
Những
thân tướng khác nhau của Đức Liên Hoa Sanh được mơ tả
dựa trên hệ giảng “Phá Tan Chướng Ngại” (Parché Kunsel),
một kho tàng tâm linh do hai vị đồng thời vơiù Patrul Rinpoche
là Chogyur Dechen Lingpa và Jamyang Khyentse Wangpo khám phá.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 15 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:36pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
Phần Ba
PHÁP CHUYỂN
DI THẦN TỐC
Kangyur
Rinpoche (1898 -1975)
Một
học giả và hành giả vĩ đại – cho dù Ngài có thể
tiếp tục giữ những chức vụ cao cấp tại đại tu viện
Riwoche ở miền Đông Tây Tạng, nhưng Ngài đã chọn lựa để
sống cuộc đời rày đây mai đó để hành trì và dạy dỗ
đệ tử, tránh xa những liên lụy dính mắc tại các trung
tâm tôn giáo. Khởi sự từ khi còn thơ ấu, Ngài đã thấy
linh ảnh của đức Liên Hoa Sanh và khám phá ra được một
số tàng bảo kinh tại Tây Tạng, Bhutan và Ấn Độ.
CHƯƠNG
MỘT
PHÁP CHUYỂN
DI TÂM THỨC,
GIÁO
HUẤN DÀNH CHO NGƯỜI HẤP HỐI:
PHẬT
QUẢ KHÔNG CẦN THIỀN ĐỊNH
Cao
cả thay hành động bi mẫn của Ngài đối với chúng sinh vô
minh.
Cao
cả thay cách thức Ngài gia hộ những kẻ đại ác như chung
đệ tử.
Cao
cả thay phương pháp thiện xảo
Ngài
ban cho những kẻ khó điều phục.
Đạo
Sư Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
I.
PHÂN LOẠI NĂM PHÁP CHUYỂN DI
Có
năm loại chuyển di tâm thức khác nhau:
Chuyển
di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy (kiến)
Chuyển
di trung bình tới Báo Thân nhờ hợp nhất các giai đoạn phát
triển và toàn thiện.
Chuyển
di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn vô lượng.
Chuyển
di thông thường nương vào ba ẩn dụ.
Chuyển
di thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.
1.
Chuyển Di Siêu Việt Tới Pháp Thân Nhờ Dấu Ấn Của Cái
Thấy (Kiến)
Đối
với những người khi còn sống đã tu tập thuần thục và
kinh qua được một cái thấy (kiến) không hề sai lầm về
chân tánh vô tạo tác, thì vào lúc lìa đời, họ có thể
đưa không gian (space) và tánh giác (awareness) vào con đường
tu tập ẩn mật của pháp trekcho thuần tịnh nguyên sơ, và
có thể chuyển di tâm thức của họ vào đại-phương quảng-trí
của Pháp Thân.308
2.
Chuyển Di Trung Bình Tới Báo Thân Nhờ Hợp Nhất Hai Giai Đoạn
Phát Triển Và Toàn Thiện
Đối
với những người đã quen thuộc với công phu hành trì các
pháp tu của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, kết
hợp cả hai như một pháp môn du già bất khả phân, cũng như
đã tu tập thuần thục để có thể nhìn thấy sắc tướng
của vị Hộ Phật (deity) chẳng khác gì một cảnh trí hoá
hiện thần diệu, thì khi những ảo giác của trạng thái trung
ấm xuất hiện vào giây phút lìa đời, họ có thể chuyển
hoá tâm thức của họ thành Thân trí tuệ hợp nhất (the union
wisdom kāya).309
3.
Chuyển Di Thấp Tới Hoá Thân Nhờ Lòng Bi Mẫn Vô Lượng
Những
người đã nhận các lễ gia lực của Kim Cương - Mật Thừa,
những người đã trì giữ mật nguyện không hề sai trái,
những người có thiên hướng nghiêng về các pháp tu trong
hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, và những người
đã thọ lãnh những giáo huấn về trạng thái trung ấm, họ
có thể:
Hãy
gián đoạn việc nhập thai, hãy nhớ quay ngược lại:*
Đây
là lúc đòi hỏi một quyết định và thị kiến thuần tịnh.
*
Điều này ở đây có nghĩa là quay ngược lại trước khi
thần thức nhập thai.
Những
người đang thực hành pháp chuyển di này phải chặn đứng
bất kỳ lòng tham cầu muốn nhập vào một thai tạng bất
tịnh nào. Được lòng đại bi dẫn dắt cũng như mong muốn
thực hiện được ước nguyện tái sinh như một Hoá Thân,
họ chuyển di tâm thức và tái sinh vào một trong những cõi
tịnh độ.310
4.
Chuyển Di Thông Thường Nuơng Vào Ba Ẩn Dụ
Người
ta cũng có thể thực hành pháp chuyển di này bằng cách tưởng
tượng đường khí mạch trung ương (trong thân thể) như con
đường, giọt tinh chất (bindu) của tâm thức như người lữ
khách, và cõi tịnh độ Cực Lạc như là đích đến.311
5.
Chuyển Di Thực Hiện Cho Người Chết Với Cái Móc
Của
Lòng Bi Mẫn
Pháp
chuyển di này cũng được thực hiện cho người đang hấp
hối, hay cho người đã ở trong trạng thái trung ấm. Pháp
này có thể được thực hiện bởi một hành giả du già (yogi)
với mức độ tu chứng sâu dầy, có khả năng làm chủ được
tâm và tri giác, và có khả năng nhận ra được tâm thức
của người chết trong trạng thái trung ấm. Nói chung, để
thực hiện pháp chuyển di cho người chết, ta cần phải chứng
đắc được Kiến Đạo, Con đường của Cái Thấy (Path of
Seeing). Như ngài Jetsun Mila có nói:
Không
được thực hành pháp chuyển di cho người chết,
Trừ
phi đã trực nhận được chân lý của Kiến Đạo.
Tuy
nhiên, bất cứ những ai là người thực sự biết được
đích xác thời điểm nào là thời điểm để thực hiện
pháp chuyển di -- là khi hơi thở bên ngoài (outer breath) đã
ngưng và hơi thở bên trong (inner breath) vẫn còn tiếp tục312
– thì họ cũng đều có thể thực hiện pháp chuyển di ngay
vào lúc ấy nếu như họ có được chút ít kinh nghiệm về
các giáo huấn chuyển di. Điều này cực kỳ lợi lạc cho
người đang hấp hối, và giống như một lữ khách được
bạn mình dẫn đi trên đúng con đường, việc ấy có khả
năng ngăn chặn việc tái sinh vào các cõi thấp.
Sẽ
khó khăn hơn để có thể thực hiện pháp chuyển di một khi
tâm và thân đã hoàn toàn tách rời. Vì thế, cần có một
hành giả du già (yogi) có khả năng làm chủ được bản tâm,
có thể nhận ra được người chết trong trạng thái trung
ấm. Tác động tới người không còn thân xác vật lý
nữa là điều dễ dàng, và khi được thực hiện bởi một
hành giả du già như thế thì tự việc chuyển di ra khỏi trạng
thái trung ấm cũng có năng lực chuyển đẩy tâm thức chúng
sinh tới một cõi tịnh độ. Tuy nhiên, thật là một điều
hoàn toàn vô nghĩa khi cho rằng pháp chuyển di có thể được
thực hiện bằng cách triệu thỉnh tâm thức quay trở lại
thân xác sau khi chết.313
Ngày
nay, nhiều người thực hành các nghi lễ chuyển di cho dù họ
chỉ là các Lạt Ma hay tulku** trên danh nghĩa. Nếu họ thực
hiện các pháp chuyển di này với lòng từ bi của Bồ Đề
Tâm và không có chút tính toán vị kỷ nào, thì may ra chân
tánh của họ sẽ không bị ngăn che khiến họ có thể thực
sự giúp đỡ người chết. Điều này chỉ có thể được
thực hiện với động lực của Bồ Đề Tâm. Còn bất kỳ
ai khác thực hiện pháp chuyển di vì lợi ích cá nhân, chỉ
biết cách đọc tụng một mớ chữ nghĩa rồi sau đó nhận
thù lao là một con ngựa hay một thứ gì đáng giá khác, thì
những kẻ ấy thật đáng khinh miệt. **sprul
sku, nghĩa đen: Hoá Thân. Một Lạt Ma hoá thân. Những Lạt
Ma như thế thường được coi như là hiện thân
của một Đại Bồ Tát. Tuy nhiên, có nhiều ảnh hưởng xã
hội trong việc tuyển chọn một tulku, và có nhiều trường
hợp mà tính xác thực của việc tuyển chọn rất đáng nghi
ngờ.
Là
người chỉ đạo và bậc Thầy của kẻ khác,
Mà
tự bản thân chưa tới được bến bờ giải thoát,
Thì
cũng mâu thuẫn như đưa tay cho người chết đuối
Trong
khi chính mình đang bị nước lũ cuốn trôi.
Một
lần kia, khi đại Đạo Sư Tendzin Chopel đang ở Tsari, Ngài
có một thị kiến về một người mà có lần ngài thực hành
pháp chuyển di cho ông ta và nhận thù lao một con ngựa. Tất
cả những gì Ngài có thể thấy là cái đầu người nhô lên
từ một cái hồ máu đỏ thẫm. Vật ấy gọi tên Tendzin Chopel
và yêu cầu Ngài làm một điều gì đó.
Tendzin
Chopel cảm thấy sợ hãi. Ngài đáp lại: “Ta tặng ngươi
cuộc hành hương tới Tsari của ta,”* và ảo cảnh biến mất.
*
Đó là công đức của cuộc hành hương của ngài.
Ngay
cả đối với một vị Thầy vĩ đại có mức độ chứng
ngộ sâu dầy, việc nhận các món cúng dường nhân danh người
chết mà không thực hiện một nghi lễ hay một việc gì đó
tương tự để đem lại lợi lạc cho người đã chết thì
việc này sẽ gây nên những trở ngại trên con đường tu.
Khi
vị Hoá Thân Tu Viện Trưởng Dzogchen, Ngài Gyurme Thekchok Tendzin
thị tịch, thì Ngài Trime Shingkyong Gonpo được mời tới
dự tang lễ. Suốt cả ngày Ngài chỉ cử hành các nghi lễ
tịnh hoá và triệu thỉnh thần thức, cử hành đi cử hành
lại pháp chuyển di, giống như Ngài đã làm sau cái chết của
một người bình thường. Các nhà sư hỏi Ngài tại sao
làm vậy.
Ngài
giải thích: “Cách đây đã lâu, Dzogchen Rinpoche quên không
cử hành các nghi lễ và cầu nguyện hồi hướng cho một người
quá cố trong khi có một con ngựa đen đã được đem đến
cúng dường cho Ngài nhân danh người đó. Người quá
cố đó là một kẻ đại ác và vì thế Rinpoche đã gặp phải
một ít chướng ngại trên các địa (trên quả vị tu chứng
của Bồ Tát) và trên con đường tu. Giờ đây Ngài và ta đã
phối hợp năng lực và giải quyết vấn đề xong rồi.”
Kẻ đại ác được kể trong câu chuyện này có tên là Golok
Tendzin.
Thật
là sai lầm khi những người ở địa vị đại Lạt Ma hay
Hoá Thân lại đón nhận cúng dường nhân danh người quá cố,
suy nghĩ một cách đơn thuần rằng: “Ta là một bậc vĩ đại
nào đó,” mà không áp dụng Bồ Đề Tâm hay không thực hiện
việc cầu nguyện, thực hiện các nghi lễ cùng hồi hướng
một cách đúng đắn và có hiệu quả. Các vị tulku quan trọng
được tuyên nhận là những Hoá Thân chính thức của các
bậc Thầy vĩ đại trong quá khứ, họ vẫn cần phải học
đọc lại từ đầu, và phải bắt đầu trở lại học các
mẫu chữ cái như những người bình thường. Bởi các Ngài
đã quên mất cách đọc mà các Ngài đã biết từ những đời
trước nên chắc chắn là các Ngài cũng đã quên mất mọi
thứ mà các Ngài đã từng biết về các pháp tu du già của
hai giai đoạn phát triển và toàn thiện. Tôi tự hỏi không
biết các Ngài có thể khá được ra hơn không nếu như các
Ngài chịu khó bỏ chút thời giờ ra để rèn luyện tâm Bồ
Đề và học hỏi về các pháp môn tu tập và đi nhập thất,
hơn là đi tới đi lui tìm kiếm cúng dường vừa ngay khi các
Ngài [đủ lớn] để leo lên cưỡi trên một con ngựa.
II.
CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG NƯƠNG VÀO BA ẨN DỤ
Bây
giờ tôi sẽ mô tả về loại chuyển di được gọi là “chuyển
di thông thường nương vào ba ẩn dụ” hay “chuyển di tâm
thức vào tâm thức của Đạo Sư.” Pháp chuyển di này cũng
phù hợp với điều mà Diệt Tội Trang Nghiêm Sám Hối Mật
Điển gọi là “pháp chuyển di trái cầu ánh sáng (ball of
light) nương vào âm thanh vào lúc lìa đời.” Đối với những
vị hành giả đã có một mức độ chứng đắc sâu dầy thì
pháp chuyển di này không cần thiết. Đối với những vị
này, như trong Mật điển đã có nói:
Điều
gọi là cái chết chỉ là một ý niệm,
Đưa
dẫn tới các cõi tịnh.314
Và,
trong đó cũng còn nói,
Cái
chết, hay cái mà chúng ta biết tựa hồ như cái chết,
Là
một tiểu ngộ đối với một hành giả du già.
Đối
với những vị đã đạt được kinh nghiệm tối thượng một
cách thật vững chãi trong khi họ còn sống và có thể làm
chủ được sinh tử thì những vị ấy vẫn phải trải qua
một cái gì có vẻ tựa hồ giống như là cái chết.
Nhưng đối với họ, cái chết không khác gì việc di chuyển
từ một nơi này sang nơi khác. Như chúng ta đã có đề cập
đến trước đây, đối với những vị đã có kinh nghiệm
về các pháp tu tâm yếu trong các giai đoạn phát triển và
toàn thiện, các vị này có thể vận dụng một trong ba pháp
tu liên hệ đến ba giai đoạn của (1) cái chết, (2) thân trung
ấm hoặc (3) tái sinh, để chuyển di tâm thức của họ tới
một trong ba Thân (kāya). Ngược lại:
Những
kẻ không dầy công tu tập vẫn có thể được đón
nhận nhờ vào pháp chuyển di.
Pháp
môn này vô cùng cần yếu đối với những hành giả không
có được thành tựu vững chắc trên con đường tu, hay đối
với những người đã phạm phải nhiều ác hạnh. Đối với
bất kỳ ai nắm giữ được những giáo huấn đặc biệt này
thì cánh cửa dẫn tới các cõi thấp sẽ được đóng lại
cho dù những ác hạnh mà họ đã tạo có nặng nề tới đâu
chăng nữa. Thậm chí đối với những kẻ đã từng phạm
phải một trong những ác nghiệp bị quả báo tức thời, và
lẽ ra phải bị đoạ thẳng xuống địa ngục thì chắc chắn
kẻ ấy cũng sẽ không phải bị tái sinh trong các cõi thấp
nếu họ biết vận dụng Giáo Pháp này. Các tài liệu Mật
điển có nói:
Bạn
có thể từng giết mỗi ngày một vị Bà la môn
Hay
từng phạm phải năm ác hạnh bị quả báo tức thời,
Nhưng
bạn vẫn sẽ được giải thoát nhờ con đường này.
Sẽ
không có tội lỗi nào làm ô nhiễm bạn.
Và:
Bất
kỳ ai thực hành pháp chuyển di,
Tập
trung nơi cửa Phạm Thiên cao hơn chín cửa kia*
Thì
sẽ không ác hạnh nào làm cho ô nhiễm,
Và
sẽ được tái sinh trong một cõi Phật thanh tịnh.
*
Cửa Phạm Thiên (Brahma) hay lỗ thoát trên đỉnh đầu nơi
tâm thức có thể thoát ra ngoài khi lìa đời.
Và
thêm nữa:
Dưới
chân vị cha già -- bậc Thầy đầy đủ phẩm hạnh Được
tôn vinh trên pháp toà nhật nguyệt nơi đỉnh đầu bạn, Hãy
bước theo con đường lụa trắng là đường kinh mạch trung
ương,
Và
bạn sẽ được giải thoát, cho dù đã từng mắc phạm ngũ
nghịch trọng tội với quả báo tức thì.
Do
đó, những giáo huấn về con đường chuyển di sâu xa là phương
cách dẫn tới Phật Quả mà không cần thiền định, một
con đường bí mật đem đến giải thoát một cách quyết liệt,
ngay cả cho những kẻ phạm trọng tội. Đức Phật Kim Cang
Trì (Vajradhara) đã nói:
Bạn
có thể từng giết mỗi ngày một người Bà la môn Hoặc
mắc phạm năm ác hạnh bị quả báo tức thời, Nhưng một
khi bạn được thọ nhận giáo huấn này Thì không cần nghi
ngờ nữa, bạn sẽ được giải thoát.
Và
chính Đại Đạo sư xứ Oddiyāna đã nói:
Mọi
người đều thấu suốt Phật Quả nhờ thiền định Nhưng
ta thấu suốt một con đường phi thiền định.
Đại
học giả Naropa có nói:
Chín
cánh cửa (chín khiếu) mở ra sinh tử luân hồi
Nhưng
một cửa khai mở lối vào Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā).
Hãy
đóng lại chín cửa và mở ra một cửa;
Chớ
nghi ngờ cửa ấy sẽ đưa đến giải thoát.
Và
Marpa, đại dịch giả xứ Lhodrak có nói:
Cho
tới nay ta đã từng thực hành pháp chuyển di,
Miên
mật, miên mật và miên mật thêm nữa.
Ta
có thể chết một cái chết bình thường, nhưng chẳng
cần
lo lắng; Công phu thuần thục đem lại cho ta niềm xác
tín tuyệt hảo.
Jetsun
Shepa Dorje cũng nói:
Những
giáo huấn này, hợp nhất, chuyển di và nối kết,*
Là
cẩm nang để vượt qua thân trung ấm.
Ai
có được một con đường như thế?
Kẻ
ấy sẽ hạnh phúc biết bao khi sinh lực đi vào đường
khí mạch trung ương –
Kỳ
diệu thay! Đã đi đến một Pháp Giới viên mãn!
*Chúng
ta nối kết với các cõi tịnh độ nương vào phápï chuyển
di tâm thức bằng cách hợp nhất với vị thầy.
Các
giáo huấn này có hai phần: phần đầu là thực tập [khi còn
sống], và sau đó là phần thực hành thực sự [vào lúc lìa
đời].
1.
Thực Tập Pháp Chuyển Di
Khi
nương vào những hướng dẫn về pháp chuyển di mà bạn đã
được thọ nhận, bản thân bạn hãy miên mật tu tập và
hãy tinh tấn thực hành pháp chuyển di cho tới khi có những
dấu hiệu thành tựu xuất hiện.
Hiện
nay, trong khi toàn thể các đường khí mạch, năng lực và
tinh chất của bạn vẫn còn nguyên vẹn và sung mãn, bạn sẽ
thấy rằng việc chuyển di thực sự rất khó khăn. Nhưng một
khi đã tới giờ phút cuối cùng của cuộc đời, hay vào lúc
đã quá già yếu, thì việc chuyển di sẽ trở nên rất dễ
dàng. Giống như trái cây trên cành, khó hái vào mùa hè khi
trái non ấy còn đang phát triển. Nhưng vào mùa thu, một khi
nó đã chín nhũn và sẵn sàng rụng xuống, thì chỉ cần áo
quần của bạn chạm nhẹ vào thôi là cũng đủ làm cho nó
rụng xuống rồi.
2.
Chuyển Di Thực sự
Thời
điểm để thực sự thực hành pháp chuyển di là sau khi những
dấu hiệu hấp hối của cái chết bắt đầu xuất hiện,
khi mà bạn có thể biết chắc rằng không còn có thể quay
ngược lại nữa và tiến trình tan rã đã bắt đầu.
Không được làm như vậy vào bất kỳ thời điểm nào khác.
Như trong các Mật điển có nói:
Chỉ
thực hành pháp chuyển di khi thời điểm thích hợp
đã đến, Nếu không, chẳng khác nào giết chết các Bổn
Tôn.** ** Theo Kim Cương Thừa, thân
thể con người được coi như một mạn đà la thần diệu
của các Bổn Tôn. Trong ý nghĩa này, thu ngắn mạng sống của
ta bằng cách thực hành pháp chuyển di sớm hơn thời điểm
đồng nghiã với việc phá huỷ mạn đà la của các Bổn Tôn.
Có
nhiều giai đoạn trong tiến trình tan rã hay phân tán nhưng
để cho dễ hiểu thì tiến trình này có thể được chia ra
thành bốn giai đoạn: giai đoạn tan rã của năm giác quan,
giai đoạn tan rã của tứ đại (đất, nước, gió, lửa),
và thêm ba giai đoạn của tánh sáng (clarity), tăng trưởng
(increase) và thành tựu (attainment).
Giai
đoạn tan rã của năm giác quan bắt đầu, ví dụ như khi tiếng
trì tụng của chư tăng tụ họp quanh tử sàng của bạn chỉ
còn là những âm thanh giống như một thứ tiếng rì rầm lộn
xộn rối rắm. Bạn không còn có thể phân biệt được
các âm tiết. Hoặc ví dụ như khi bạn nghe âm thanh giọng
nói của con người như thể đến từ rất xa, và không thể
nhận ra được lời lẽ gì nữa. Đó là khi nhĩ thức của
bạn đến lúc chấm dứt. Nhãn thức của bạn cũng đến lúc
kết thúc khi bạn chỉ có thể nhìn thấy cảnh tượng lờ
mờ thay vì nhìn thấy hình tướng thật sự của mọi vật.
Khi những kinh nghiệm của khứu giác, nếm biết, và xúc chạm
cũng chấm dứt và đi tới giai đoạn phân rã sau cùng thì
dứt khoát là đã tới thời điểm thích hợp để có thể
tiến hành pháp chuyển di.
Sau
đó, khi yếu tố bên trong của da thịt tan rã thành yếu tố
bên ngoài của đất,315 bạn sẽ kinh nghiệm một cảm giác
giống như rơi xuống một cái hố. Bạn cảm thấy nặng nề,
như thể bị đè bẹp bởi sức nặng của một trái núi. Đôi
khi, người hấp hối yêu cầu hãy nâng người họ lên hay
yêu cầu hãy đỡ cao chiếc gối của họ lên. Khi máu
tan rã thành yếu tố nước bên ngoài, bạn sẽ chảy nước
miếng và nước mũi. Khi yếu tố nhiệt của thân tan rã thành
yếu tố lửa bên ngoài, miệng và lỗ mũi bạn cảm thấy
ráo khô và thân bạn bắt đầu mất nhiệt, bắt đầu từ
chân, tay (starting with the extremeties).*
Extremeties là một thuật ngữ tiếng Anh có nghĩa là chân, tay,
các bộ phận nhô ra ngoài của thân thể. Trong
một vài trường hợp, hơi (vapour) bốc lên từø đỉnh đầu
vào giai đoạn này. Khi hơi thở bên trong, tức yếu tố năng
lực (energy) tan rã thành yếu tố khí (air) bên ngoài, thì các
năng lực khác nhau của bạn – năng lực đi lên (ascending
energy), năng lực bài tiết (energy of evacuation), năng lực nồng
nhiệt (fiery energy) và năng lực tỏa khắp (pervading energy)
– tất cả đều tan hoà vào năng lực hỗ trợ sinh lực (life-supporting
energy). Thở vào trở nên rất khó khăn. Thở ra thì hổn hển,
giống như đang đổ dôàn hết cả hai lá phổi qua cổ họng.
Rồi tất cả máu trong thân bạn hội tụ lại trong đường
khí sinh lực và có ba giọt tinh chất sẽ nhỏ giọt vào
trung tâm của trái tim bạn, giọt này sau giọt kia. Rồi với
ba hơi thở hắt thì sau đó hơi thở ra của bạn sẽ đột
nhiên tắt ngúm.
Vào
lúc đo,ù yếu tố trắng hay “tinh dịch” mà bạn đã nhận
được từ cha sẽ nhanh chóng từ đỉnh đầu bạn di chuyển
xuống phía dưới [xuống đến luân xa tim]. Như một dấu hiệu
bên ngoài, bạn trải qua một kinh nghiệm màu trắng giống
như một bầu trời không mây được ánh trăng chiếu sáng.
Như một dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm tánh sáng (clarity)
trong tâm thức bạn và ba mươi ba loại thức (niệm tưởng)
liên hệ đến tâm thù nghịch sẽ tuyệt dứt. Trạng thái
này được gọi là “tánh sáng.”
Yếu
tố đỏ hay “máu” mà bạn đã nhận được từ mẹ sẽ
nhanh chóng từ vùng rốn (đan điền) của bạn di chuyển lên
trên [lên đến luân xa tim]. Như một dấu hiệu bên ngoài,
bạn nhận thức kinh nghiệm màu đỏ giống như một bầu trời
trong trẻo được ánh sáng rực rỡ của mặt trời thắp sáng.
Như một dấu hiệu bên trong, bạn sẽ có một kinh nghiệm
hỉ lạc rất lớn lao trong tâm thức và bốn mươi loại thức
(niệm tưởng) liên hệ đến tham dục sẽ tuyệât dứt.
Trạng thái này được gọi là “tăng trưởng.”
Khi
hai yếu tố đỏ và trắng hội tụ lại nơi [luân xa] tim của
bạn, thì giọt tâm thức của bạn sẽ tiến vào nằm ở giữa
hai yếu tố trắng và đỏ kia. Dấu hiệu bên ngoài là một
nhận thức về màu đen giống như màu đen của một bầu trời
trong trẻo hoàn toàn ngập trong bóng tối. Dấu hiệu bên trong
là tâm thức bạn kinh nghiệm một trạng thái vô niệm, vắng
bặt mọi niệm tưởng, và bạn ngất đi, rơi vào một trạng
thái hoàn toàn tối nghịt. Điều này được gọi là giai đoạn
“thành tựu.”
Sau
đo, bạn sẽ bước ra khỏi trạng thái kích ngất và bước
vào một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm về một bầu trời,
nhưng bầu trời này hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì của
ba bầu trời mà bạn đã kinh nghiệm qua trước đây. Đây
chính là khi “thanh tịnh quang của chân tánh”316 đang xuất
hiện. Việc nhận thức ra được rằng thanh tịnh quang này
chính là chân tánh của bạn và an trụ trong trạng thái đó,
điều này được gọi là “chuyển di siêu việt tới Pháp
Thân.” Đây là Phật Quả không kinh qua bất kỳ trạng thái
trung gian nào [của thân trung ấm].
Sau
thời điểm trên thì giai đoạn trung ấm của chân tánh và
giai đoạn trung ấm của sự hình thành sẽ tuần tự hiển
lộ, nhưng những giai đoạn đó sẽ không được miêu tả
ở đây bởi những giai đoạn này sẽ được thuật lại trong
các giáo huấn của phần thực hành chính yếu.
Đối
với những người không có kinh nghiệm gì đáng kể về con
đường tu chứng 317 thì giây phút tốt đẹp nhất để
thực hiện pháp chuyển di là lúc tiến trình tan rã vừa mới
bắt đầu. Vào lúc đó, hãy hoàn toàn cắt đứt mọi bám
luyến với cuộc đời này và hãy làm sống dậy lòng can đảm
của bạn bằng cách nghĩ tưởng như sau: “Bây giờ tôi đang
hấp hối, tôi sẽ nương cậy vào các giáo huấn của thầy
tôi và bay vút tới các cõi tịnh độ giống như một mũi
tên được kẻ khổng lồ bắn vọt ra. Điều này thật
là hỉ lạc biết bao!”
Vào
lúc đó, bạn sẽ khó có thể nhớ lại một cách rõ ràng
tất cả những đề mục và những gì phải quán tưởng
trong pháp chuyển di, vì thế nếu bạn có một bằng hữu nào
đó có thể nhắc nhở bạn về những điều này thì hãy yêu
cầu người ấy làm công việc đó. Nhưng dù sao đi nữa, vào
thời điểm đó, khi biết nương cậy vào công phu tu tập trước
đây của bạn và biết đem giáo huấn của pháp tu sâu xa này
vào thực hành, thì nay đã tới lúc bạn phải thực sự làm
sao để cho pháp chuyển di này đem lại kết quả hữu hiệu!
Và
sau đây là những bước thực hành chính yếu của pháp chuyển
di; cho dù là bạn tu tập cho bản thân bạn [khi đang còn sống]
hay là đem pháp tu này vào thực hành [khi lìa đời] thì những
bước thực hành cũng đều giống như nhau.
3.
Trình tự của pháp thiền định chuyển di
Hãy
ngồi thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư
thế kim cương, giữ cho lưng hoàn toàn thẳng.
1.1
PHÁP CHUẨN BỊ
Trước
tiên, hãy hoàn tất toàn thể các pháp tu dự bị cho thật
rõ ràng, chi tiết, bắt đầu bằng bài tụng đọc Gọi Thầy
Từ Chốn Xa và tiếp tục cho tới phần tan hoà (dissolution)
trong pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).
1.2
PHÁP QUÁN TƯỞNG CHÍNH YẾU
Hãy
quán tưởng xác thân phàm của bạn,318 trong một khoảnh khắc,
trở thành thân tướng của Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī).
Vajra Yoginī mang sắc màu đỏ, có một khuôn mặt và hai cánh
tay, đang đứng bằng cả hai chân, bàn chân phải giở lên
trong “tư thế đang bước.” Ba con mắt của Vajra Yoginī nhìn
lên trời. Những hướng dẫn này nhằm mục đích chuyển di
nên hãy quán tưởng Ngài với nét quyến rũ, an bình đồng
thời hơi phẫn nộ. Bàn tay phải của Ngài giơ lên trong không
trung, khua lách cách một cái trống nhỏ làm bằng sọ người
đánh thức chúng sinh khỏi giấc ngủ của vô minh và lầm
lạc. Trong bàn tay trái, Ngài cầm một lưỡi dao lưỡi liềm
ngang hông để cắt đứt tận gốc tam độc tham sân si. Thân
mình của Ngài trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các
vật trang sức bằng xương [đeo trên người]. Như một căn
lều bằng lụa đỏ, Ngài hiển lộ nhưng không có thực chất
hay thực sự có ở đó. Tất cả những điều này là áo giáp
hư huyễn bên ngoài (outer empty enclosure) của thân tướng.
Ở
ngay trung tâm, suốt dọc thân thẳng đứng của bạn [nay trong
hình tướng của Vajra Yoginī], hãy quán tưởng đường kinh
mạch trung ương giống như một cây cột trong một ngôi nhà
trống. Được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi đường
khí ấy nằm ngay nơi trục của thân, không nghiêng sang trái
hay sang phải. Đường kinh mạch trung ương có bốn đặc tính.
Thứ nhất, mang màu xanh biếc như một phim ảnh màu chàm (indigo),
tượng trưng cho Pháp Thân bất biến. Thứ nhì, kết cấu của
đường khí ấy vi tế giống như một cánh hoa sen, tượng
trưng cho tính chất mỏng manh của những bức màn che chắn
xuất hiện từ những thói quen huân tập. Thứ ba, đường
khí ấy sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng
trưng cho bóng tối vô minh đã được xua tan. Thứ tư, đường
khí ấy thẳng như một khúc tre, là biểu hiện sẽ không bao
giờ dẫn tới những con đường xấu thấp hoặc sai lạc.
Đầu trên của đường kinh trung ương mở thẳng vào
cửa Phạm Thiên nơi đỉnh đầu [nơi tâm thức có thể thoát
ra], giống như một cửa sổ mở toang trên mái nhà, biểu hiệu
cho con đường đưa tới giải thoát và những cõi tái sinh
cao hơn, trong khi đầu dưới của đường kinh trung ương đóng
kín lại không có lỗ mở nào, dưới rốn khoảng bốn ngón
tay, biểu hiện rằng những lối trở lại vào vòng luân hồi
sinh tử và các cõi tái sinh thấp đã được đóng kín. Tất
cả những điều này là áo giáp rỗng rang bên ngoài (outer
empty enclosure) của đường kinh mạch trung ương.
Bây
giờ hãy quán tưởng bên trong đường kinh mạch trung ương
ở khoảng ngang tầm trái tim, chỗ đó như hơi phồng ra, giống
như một cái mắt trong một thân tre. Phía trên chỗ cái mắt
phồng ra này, hãy quán tưởng giọt tinh chất (bindu) của năng
lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay
trên đó là tinh tuý của tâm thức của bạn, một chữ hrih
màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế
cho visarga,* lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió.
*
Đây là một dấu hiệu của Phạn ngữ được phát âm như
một âm “h” nặng. Theo cách phát âm của tiếng Tây Tạng
thì chỉ cần kéo dài âm tiết, và được viết bằng
hai vòng tròn nho,û cái này trên cái kia, tượng trưng cho trí
tuệ và phương tiện.
(Chữ
hrih được quán tưởng theo cách này) tượng trưng cho Giác
tánh của bạn.319
Trong
không gian trên đầu bạn một cubit (khoảng 46 cm), hãy quán
tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công vĩ đại nâng
lên. Trên đó là một hoa sen nhiều màu, cùng với hai đĩa
mặt trời và mặt trăng, cái này nằm trên cái kia, tạo thành
một tấm nệm ba lớp [xếp chồng lên nhau]. An toạ trên
toạ cụ ấy là Bổn Sư vinh quang của bạn, là kho tàng bi
mẫn không gì sánh bằng, hiển lộ trong thân tướng cửa tất
cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, và trong
thân tướng của đức Phật Thế Tôn và đức Hộ Phật A
Di Đà (Amitabha). Ngài mang sắc màu đỏ, giống như một
trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc.
Ngài có một khuôn mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế
thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất
tử của trí tuệ. Ngài đắp tam y, là y phục của một Hoá
Thân siêu phàm320 tuân giữ phạm hạnh thanh tịnh. Thân Ngài
mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng
hạn như nhục kế nhô cao (usnisa) trên đỉnh đầu và các
luân xa in dấu trên lòng bàn chân-- toàn thân Ngài được bao
phủ trong ánh hào quang rực rỡ đến từ muôn ngàn tia
ánh sáng đang phóng toả.
Bên
phải đức A Di Đà là đấng Quán Thế Âm (Avalokitesvara) cao
quý, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật --
đức Quán Thế Âm mang sắc trắng, với một khuôn mặt và
bốn cánh tay. Đôi bàn tay ở phía trên chắp lại nơi tim,
lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải ở phiá dưới đang lần
một chuỗi tràng pha lê màu trắng, và bàn tay trái phiá dưới
đang cầm một cành sen trắng, bông hoa nằm sát tai Ngài, tất
cả các cánh hoa đều nở bung ra.
Bên
trái đức A Di Đà là Kim Cương Thủ (Vajrapani), Pháp Vương
của các pháp ẩn mật, hiện thân của thần uy và oai lực
của tất cả chư Phật. Ngài mang sắc màu xanh dương, hai bàn
tay bắt chéo trước ngực; trong tay Ngài cầm một cái chày
kim cang và một cái chuông.
Cả
hai vị Bổn Tôn (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) đều mang
mười ba vật trang sức** Xem Phần
Hai, Chương Ba, Mục III. của Báo
Thân. Đức Phật A Di Đà an tọa, hai chân xếp chéo trong tư
thế Kim Cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn
an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử
lẫn Niết Bàn. Còn hai vị Bồ Tát (Quán Thế Âm và Kim Cương
Thủ) trong tư thế đang đứng thẳng, điều này tượng trưng
việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi
ích của chúng sinh.
Xung
quanh ba vị Hộ Phật và Bổn Tôn chính yếu này, là tất cả
các bậc Thầy của dòng truyền thừa của pháp chuyển di thâm
diệu. Tất cả các Ngài hội tụ lại như những đám mây
trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt
tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả các chúng
sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với những đôi mắt
ánh lên nụ cười, nghĩ tưởng về bạn với niềm hoan hỉ.
Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những người đưa đường
vĩ đại giúp giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi
những thống khổ của vòng sinh tử và các cõi thấp, đưa
dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng
theo văn bản, bắt đầu từ câu:
Thân
xác phàm 318 của con trở thành sắc tướng của Thánh
Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī)...
xuống
tới câu:
...Ba
con mắt Ngài ngước nhìn lên bầu trời.
Rồi
từ câu:
Đường
khí mạch trung ương chạy dọc suốt giữa
thân Ngài...
cho
tới câu:
...Thân
Ngài thật toàn mỹ với tất cả các tướng chính và phụ...
Sau
đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn như
bừng bừng lên và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng
nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện sau đây:
Đức
Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, đấng Hộ
Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ. Con xin cúng dường lên
Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Rồi
hãy tụng đọc đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần,
bắt đầu từ câu:
Emaho
(Kỳ diệu thay)! Nơi chốn này, cõi Sắc Cứu Cánh Thiên viên
mãn đã hiển hiện tự nhiên...
cho
tới câu:
...
Nguyện cho con nắm giữ được đại-phương quảng-trí
của Pháp Thân!
Kế
đó hãy tụng ba lần phẩm cuối cùng, bắt đầu từ câu:
Với
lòng quy ngưỡng trong tâm...
Cuối
cùng, tụng ba lần dòng cuối cùng sau đây:
...
Nguyện
cho con an trụ trong đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!
Trong
khi bạn cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm vào chữ hrīh, là biểu
tượng của Giác tánh của bạn, và cầu nguyện với lòng
quy ngưỡng hướng về bậc Thầy và đấng Hộ Phật của
bạn, tức đức Phật A Di Đà, tới nỗi đôi mắt bạn trở
nên đẫm lệ.
Sau
đây là đến phần nghi thức phóng xuất thần thức. Khi bạn
tụng “Hrīh, Hrīh,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ
hrīh màu đỏ, tượng trưng cho Giác tánh của bạn, được
giọt tinh lực (bindu of energy) rung động màu xanh lá cây nhạt
321 nâng bổng lên, càng lúc càng được nâng bổng lên cao
và luôn luôn rung động [tất cả đều nằm ở giữa đường
khí mạch trung ương]. Khi giọt tinh lực hiện ra ở cửa Phạm
Thiên trên đỉnh đầu bạn, hãy hô lớn “Hik!” và quán
tưởng giọt tinh lực ấy phóng vút lên, giống như một mũi
tên được tên khổng lồø bắn đi, và tan hoà vào trái
tim đức Phật A Di Đà.
Hãy
thực hành nghi thức trên bảy lần, hai mươi mốt lần hoặc
nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrīh trong tim bạn
và lập lại tiếng hô “Hik!” như trước đó. Trong các truyền
thống khác, người ta hô “Hik!” khi phóng tâm thức lên và
hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống, nhưng theo
truyền thống này chúng ta không hô “Ka” khi thả cho thần
thức rơi trở xuống.
Sau
đó, hãy hành trì nghi thức như trên càng nhiều lần càng
tốt, số lần nhiều ít tuỳ nghi sao cho phù hợp với bạn,
và bắt đầu với câu:
Đức
Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà...
Sau
đó tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật
phóng xuất tâm thức và những nghi thức còn lại. Rồi một
lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần câu:
Đức
Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà...
xuống
tới câu:
...Con
xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Hãy
thực hành theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển
di cô đọng được gọi là Cắm Cọng Cỏ, được vị tôn
giả khai quật tàng kinh Nyi da Sangye322 biên soạn và trao truyền
qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen:
Đức
Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ trước Pháp toà;
Đức
Liên Hoa Sanh xứ Oddiyāna, con khẩn cầu Ngài;
Bổn
Sư từ ái, xin che chở con bằng lòng bi mẫn của Ngài!
Chư
vị Bổn Sư và Tôn Sư thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt
con trên con đường tu.
Xin
gia hộ cho con để con có thể thành tựu con đường chuyển
di thâm diệu.
Xin
gia hộ cho con để con đường chuyển di thần tốc này có
thể đưa con tới cõi tịnh độ.323
Xin
gia hộ cho con và những chúng sinh khác để ngay khi cuộc đời
này chấm dứt,
Xin
cho chúng con được vãng sinh nơi cõi Cực Lạc!
Hãy
tụng lời cầu nguyện này ba lần, và sau đó lập lại ba
lần dòng cuối cùng. Hãy tiếp tục thực hành kỹ thuật phóng
xuất thần thức như đã được giảng dạy trước đây, trong
một khoảng thời gian lâu hay mau sao cho phù hợp với bạn.
Rồi lại bắt đầu từ câu:
Đức
Thế Tôn, Như Lai...
và
tụng đọc lời cầu nguyện chuyển di theo Giáo Lý Hư Không,
được truyền dạy qua dòng truyền thừa của Tu viện Palyul:324
Emaho!
Đức Phật A Di Đà, đấng Hộ Phật kỳ diệu nhất,
Đức
Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi và đức Kim Cang Thủ đầy
uy lực,
Vì
lợi lạc của bản thân cùng những chúng sinh khác, con
xin
chí tâm chí thành khẩn cầu chư vị:
Xin
gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu
con
đường chuyển di thâm diệu.
Xin
gia hộ cho chúng con để vào giây phút lìa đời,
Tâm
thức của chúng con sẽ được chuyển di tới Pháp Giới Cực
Lạc!
Hãy
tụng đọc lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng
sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng
xuất tâm thức như đã được giảng dạy trước đó.
Hai
lời cầu nguyện sau cùng này không có trong những văn bản
ghi chép giáo huấn Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí và không
được Ngaiø Rigdzin Jigme Lingpa truyền dạy, nhưng được truyền
xuống từ Ngài Dzogchen Rinpoche qua Tu viện Gochen, và qua các
vị Đạo Sư kế thừa khác. Những lời cầu nguyện trên trở
thành một phần trong những khẩu truyền được Ngài Kyabe
Dodrup Chen Rinpoche thọ nhận, và Ngài đã hợp nhất tất cả
những lời cầu nguyện thành một dòng pháp duy nhất. Bản
thân Ngài đã sử dụng những lời cầu nguyện này, cũng giống
như Bổn Sư tôn kính của tôi đã làm. Dodrup Chen Rinpoche
cũng được kế thừa những giáo huấn về pháp chuyển di
được truyền xuống từ Ngài Gampopa thuộc dòng Kagyu. Bởi
thế, một số lời cầu nguyện của Ngài Gampopa được tìm
thấy trong bản văn cầu nguyện chuyển di do Dodrup Chen Rinpoche
biên soạn, mặc dù những lời cầu nguyện đặc biệt này
không phải là những gì Bổn Sư của tôi thường trì tụng.
Dù sao đi nữa, tiến trình quán tưởng của tất cả những
truyền thống khác nhau vẫn hoàn toàn giống nhau, nên không
còn phải nghi ngờ gì nữa mà phải hiểu là những suối nguồn
giáo huấn này đã được hợp nhất để trở thành một con
sông lớn. Vị Thầy tôn kính của tôi đã nhiều lần thọ
nhận những giáo huấn này từ Kyabje Dodrup Chen Rinpoche. Tôi
cho rằng tất cả những ai đã từng thọ nhận những giáo
huấn chuyển di này từ Ngài cũng đã đồng lúc nhận được
những giáo huấn về pháp chuyển di của truyền thống Kagyu,
và vì thế, được cho phép trì tụng những lời cầu nguyện
của dòng truyền thưà tương ứng cùng với những lời cầu
nguyện khác. Cho dù hai lời cầu nguyện cô đọng được
tôi ghi ra ở đây có đồng nhất với những lời cầu nguyện
được ghi trong tuyển tập cầu nguyện của Ngài Dodrup Chen
Rinpoche hay không chăng nữa, thì chúng cũng chỉ khác biệt
rất tối thiểu nếu đem so với những văn bản khác, và vì
thế tôi đã ghi lại theo đúng hệt như những gì mà vị Thầy
tôn kính của tôi đã giảng dạy.
Có
lần Thầy tôi đang truyền dạy pháp chuyển di theo truyền
thống của Giáo Lý Hư Không. Trong khi Ngài đang thực hành
(hướng dẫn) pháp chuyển di cho một đám đông khổng lồ
thì một vài người đã không bắt kịp được câu sau đây
mà Ngài đã thêm vào “...tất cả những điều này (di nam),
khi giây phút lìa đời đến với họ;” và vì thế mà
bây giờ một vài người thường nói: “...những nhận thức
của cuộc đời này (dir nang)..,” và những người khác thì
lại nói “...bởi thế (di ne)..,” nhưng theo ý kiến của
tôi thì cả hai lối nói trên đều có phần hơi sai trật.
Khi
bạn đã hoàn tất pháp môn chuyển di nhiều lần và đến
lúc kết thúc thời khóa, hãy niêm phong pháp môn lại trong
đại-phương quảng-trí của năm Thân (expanse of the five kāyas)
bằng cách hô lên tiếng “P’et” năm lần. Sau đó, hãy an
trú trong trạng thái an tịch tự nhiên không tạo tác bất
kỳ điều gì.
Sau
đó, tất cả những vị Thầy của dòng truyền thừa trên
đỉnh đầu bạn sẽ tan hòa vào ba vị thượng thủ (A Di Đà,
Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ); rồi hai vị Bồ Tát
Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ tan hòa vào đức Phật A Di
Đà; và đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang)ø tan thành ánh
sáng và sau đó tan hòa vào bạn. Hãy quán tưởng chính
bạn ngay lập tức hoá hiện thành ra vị Hộ Phật Vô Lượng
Thọ (Amitayus) trong sắc màu đỏ, với một khuôn mặt, hai
tay và hai chân. Ngài toạ thiền trong tư thế Kim Cương (Vajra).
Hai tay ngài bắt ấn thiền định, cầm một bình bát sinh lực
tràn đầy cam lồ của trí tuệ bất tử và trên đỉnh bình
bát có một nhánh cây như ý. Ngài mang trên mình mười
ba bảo vật trang sức của Báo Thân.
Hãy
tụng câu “Om Amarani Jīvantiye Svāhā” (minh chú
của đức Amitayus Vô Lượng Thọ) một trăm lần, sau đó hãy
tụng đà ra ni trường thọ và những câu minh chú khác. Điều
này ngăn ngừa giúp cho thọ mạng của bạn không bị ảnh
hưởng bởi pháp thực hành chuyển diø – và nhờ vào chân
lý của duyên tương khởi này – sẽ tẩy trừ bất kỳ chướng
ngại nào có thể đe dọa đến thọ mạng của bạn.325 Phần
hành trì minh chú và quán tưởng Vô Lượng Thọ này không
cần thiết khi bạn thực hành pháp chuyển di tâm thức cho
một người hấp hối hay cho người đã chết, và cũng không
cần thiết khi bạn đang thực sự thực hành pháp chuyển di
cho chính bản thân bạn vào lúc lìa đời.
Những
dấu hiệu thành tựu trong pháp chuyển di được mô tả trong
bản chánh văn như sau:
Đầu
đau nhức; một giọt huyết thanh (serum) lóng lánh
như sương xuất hiện; Có thể từ từ cắm sâu một cọng
cỏ [vào trên đỉnh đầu].
Hãy
miên mật hành trì cho đến khi những dấu hiệu này xuất
hiện.
Để
kết thúc, hãy hồi hướng công đức và trì tụng Bài Nguyện
Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc và những bài nguyện khác. Khác
với những pháp môn hành trì khác của hai giai đoạn phát
triển và toàn thiện, những giáo huấn về con đường thâm
diệu của pháp chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập
lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy
đến sau một tuần lễ thực tập miên mật. Đó là điều
tại sao phương pháp này được gọi là “Giáo Pháp đem lại
Phật Quả phi thiền định,” và đó là điều tại sao mọi
người nên lấy con đường tắt vô song này làm pháp môn hành
trì hằng ngày.
Không
thể tự lo cho mình, con lảm nhảm lung tung với người quá
cố.
Không
tu hành, nhưng con trải rộng vòm Giáo Pháp vô tận.
Xin
từ bi gia hộ cho con và những kẻ gian xảo như con,
Để
chúng con có thể tinh tấn, hành trì miên mật.
Các
hang động gần Tu Viện Dzogchen
Tại
những hang động này, Patrul Rinpoche đã trải qua nhiều năm
trong thiền định. Hang động phía dưới mang tên “Cung Điện
Kinh Hoàng của Yamantaka” là nơi đại sư Patrul Rinpoche
đã trú ngụ trong thời gian biên soạn tác phẩm “Lời Vàng
Của Thầy Tôi.”
KẾT LUẬN
Những
giáo huấn dưới đây, gồm mười hai đề mục chính yếu,
với sáu đề mục đầu tiên liên quan tới những pháp tu dự
bị thông thường bên ngoài:
1.
Sử dụng đời người cho những điều thật sự quan trọng
bằng cách quán chiếu về những điều kiện tự do và những
thuận duyên rất khó tìm.
2.
Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về
lẽ vô thường của cuộc đời.
3.
Phát khởi quyết tâm cầu tìm giải thoát cùng với tâm từ
bi nhờ vào việc nhận biết ra được bản chất của toàn
bộ vòng sinh tử luân hồi là đau khổ.
4.
Từ bỏ những điều xấu ác và noi theo những điều tốt
lành trong bất kỳ việc gì nhờ vào những hiểu biết rốt
ráo về những hậu quả của việc làm của mình.
5.
Càng ngày càng thiết tha với kết quả thành tựu bằng cách
nhớ đến những lợi lạc của giải thoát.
6.
Bằng cách theo chân một vị Thầy tâm linh chân chính, tự
rèn luyện bản thân để tích cực theo gương những chứng
nghiệm và thiện hạnh của Ngài.
Năm
đề mục kế tiếp bao gồm những pháp tu dự bị phi thường
hay những chuẩn bị bên trong:
1.
Đặt ý nguyện tìm cầu giải thoát trên nền tảng của quy
y Tam Bảo.
2.
Thiết lập một cái khung vững chắc cho vô lượng công hạnh
của một vị Bồ Tát bằng cách khơi dậy tâm Bồ Đề tối
thượng.
3.
Sám hối những ác hạnh và những vi phạm giới hạnh, là
gốc rễ của tất cả những gì bất thiện, và nương vào
bốn lực tịnh hoá nghiệp, thực hành thiền định và trì
tụng về Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva).
4.
Tích lũy công đức và trí tuệ, là suối nguồn của tất
cả những tiến triển tâm linh, bằng cách cúng dường những
cõi Tịnh Độ của ba Thân (kāyas) trong hình thức của một
mạn đà la.
5.
Tự khơi dậy tuệ giác tối thượng trong bản thân bằng cách
khẩn nguyện Bổn Sư, là suối nguồn của mọi năng lực gia
trì.
Cuối
cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước
khi bạn có thể hoàn tất con đường tu, hãy nương vào pháp
chuyển di tâm thức để nối kết với các cõi tịnh độ,
dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định.
Những
pháp tu dự bị này cũng có thể được trình bày như sau.
(1) Nhờ vào bốn tư tưởng quán chiếu chuyển tâm giúp bạn
quay lưng lại với cõi sinh tử luân hồi và nhờ vào những
hiểu biết về lợi ích của giải thoát, bạn có thể làm
sống dậy lòng cương quyết tìm cầu giải thoát, và chính
lòng cương quyết chí thành này sẽ mở ra một lối vào cho
toàn bộ con đường tu. (2) Nhờ theo chân một vị Thầy tâm
linh, suối nguồn của mọi phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ
tạo được những thuận duyên cho con đường tu. (3) Nhờ quy
y Tam Bảo làm nền tảng, và nhờ khơi dậy được tâm
Bồ Đề, tu tập hành trì theo sáu pháp toàn thiện siêu việt
(lục độ ba la mật) mà bạn sẽ được dẫn dắt đi trên
con đường chánh đạo của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác.
Có
những giáo huấn khác cũng được biết tới qua những giải
thích dựa trên ba loại tri giác,326 ba loại căn cơ của chúng
sinh, hoặc dựa trên pháp tu Đại Thủ Ấn theo truyền
thống Kinh điển327... nhưng tất cả những điểm trọng yếu
của những con đường đó đều được hợp nhất ở đây
trong tác phẩm luận giải này.
Tuy
nhiên, tất cả những Giáo Pháp như pháp tịnh hóa và tích
lũy (hai bồ phước tuệ), vận dụng hai phương pháp tối cao
là (1) pháp môn hành trì Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) và (2)
pháp cúng dường Mạn đà la; (3) pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga),
con đường bí mật dẫn đến năng lực gia trì thâm diệu;
và (4) những giáo huấn về pháp chuyển di tâm thức dẫn đến
Phật Quả mà không cần thiền định – tất cả những Giáo
Pháp trên đều là những Giáo Pháp vô song, được cắt nghĩa
giảng giải một cách đặc biệt theo đúng truyền thống tu
tập của riêng dòng truyền thừa này.
Sau
những pháp môn hành trì này, ta sẽ bước vào con đường
chính yếu phi thường, là tinh tuý của Giáo Pháp kim cương
Tâm-Yếu (Heart Essence), gồm có những pháp tu dự bị
đặc biệt dẫn đến ba Thân (kāya), đến chân tâm, và đến
giác tánh. Sau đó, một khi nương vào pháp gia trì của giác
tánh năng hoạt 328 mà ta được chỉ cho thấy lối vào chân
như, thì rồi ta cũng sẽ nhận được thêm những hướng dẫn
trực chỉ chân tâm, dựa trên chính những kinh nghiệm tuần
tự tu chứng của riêng ta.* Đoạn
này ám chỉ các pháp thiền đặc biệt của Đại Viên Mãn.
Khi
biên soạn những giáo huấn này, tôi gần như không để cho
những cân nhắc về mỹ học hay văn chương lôi kéo. Mục
đích chính của tôi là chỉ ghi chép một cách trung thực những
giáo huấn truyền khẩu của vị Thầy tôn kính của tôi theo
một cách trình bày dễ hiểu và có lợi lạc cho tâm thức.
Tôi đã cố gắng bằng hết khả năng của mình để không
làm hư hoại những giáo huấn ấy bằng cách pha trộn vào
đó những ngôn từ và ý tưởng của riêng tôi.
Trong
một số trường hợp riêng biệt, Thầy tôi cũng thường ban
nhiều giáo huấn đặc biệt chỉ dạy cách phơi bày những
lỗi lầm tiềm ẩn, và tôi đã thêm vào bất kỳ những gì
tôi nhớ được về những điều này trong những đoạn văn
thích hợp nhất. Đừng nên coi những giáo huấn phơi bày lỗi
lầm này như một cánh cửa sổ để qua đó bạn có thể xem
xét lỗi lầm của người khác, mà phải coi đó là một tấm
gương để quán sát chính bạn. Hãy xem xét kỹ lưỡng trong
bản thân bạn để xem mình có hay không có những lỗi lầm
tiềm ẩn đó. Nếu có, hãy nhận ra chúng và hãy trục xuất
chúng. Hãy chỉnh sửa tâm bạn và thanh thản đặt tâm ấy
trên con đường tu đúng đắn. Như Ngài Atisa đã nói:
Vị
Thầy tâm linh tuyệt vời nhất là người tấn công vào những
lỗi lầm tiềm ẩn của bạn. Giáo huấn xuất sắc nhất là
giáo huấn đánh trúng vào những lỗi lầm đó. Những người
bạn tuyệt hảo nhất là chánh niệm và tỉnh giác. Sự
khích lệ tốt lành nhất là kẻ thù, chướng ngại và đau
khổ của bệnh tật. Phương pháp thiện xảo nhất là không
tạo tác bất kỳ điều gì.
Điều
cực kỳ quan trọng là hãy làm sao để cho những giáo huấn
ấy tác động được tới những lỗi lầm tiềm ẩn của
bạn, vận dụng Giáo Pháp để sửa chữa tâm bạn, luôn luôn
duy trì chánh niệm và tỉnh giác, nhận về mình toàn bộ trách
nhiệm khi có bất kỳ điều gì xảy ra, thậm chí không bao
giờ để cho dù chỉ một tư tưởng bất thiện phát khởi,
và hãy nương vào Giáo Pháp để điều phục tâm bạn. Nếu
bạn có thể làm được tất cả những điều này, bạn sẽ
ban cho chính bạn một đặc ân. Giáo Pháp sẽ trở nên vô
cùng lợi lạc cho tâm bạn, và việc bạn theo chân một vị
Thầy sẽ bắt đầu có ý nghĩa thật sự. Ngài Atisa cũng có
nói:
Cách
tốt nhất bạn có thể giúp đỡ người khác là dẫn dắt
họ đến với Pháp. Cách tốt nhất họ có thể đón nhận
sự giúp đỡ là chuyển tâm hướng về Pháp.
Tóm
lại, giờ đây bạn đã có được những điều kiện tự
do và thuận lợi của đời người. Bạn đã gặp một vị
chân sư và nhận được những giáo huấn thâm diệu. Duyên
may để đạt được Phật Quả bằng cách đưa giáo pháp của
chín thừa vào thực hành giờ đây là của bạn. Bây giờ
là lúc bạn có thể vạch ra một con đường cho tất cả những
đời vị lai của bạn – hoặc bây giờ cũng là lúc bạn
có thể phó mặc đời mình cho định mệnh. Giờ đây là lúc
bạn có thể chuyển tâm hướng về những điều thiện –
hoặc giờ đây là lúc bạn từ bỏ điều thiện để đến
với những gì xấu ác. Chính giây phút này là bước ngoặt
giữa hai hướng đúng và sai của toàn bộ sự sống của bạn.
Phước duyên này giống như việc bạn tìm được một chút
thức ăn khi bạn chỉ mới ăn được một bữa trong một trăm
bữa suốt cuộc đời bạn. Vì thế hãy tận dụng Giáo Pháp
để tự giải thoát bản thân trong khi bạn còn có thể làm
được điều đó, hãy để cho cái chết trở thành một thôi
thúc, (thúc đẩy bạn tu tập) trong bất kỳ giờ phút nào.
Hãy cắt bớt những hoạch định thế tục của bạn trong
đời này, và hãy tinh tấn thực hành những thiện hạnh và
từ bỏ những ác hạnh – cho dù phải trả giá bằng cả
cuôc đời mình. Hãy theo học một vị Thầy chân chính
và chấp nhận không chút do dự bất cứ điều gì Ngài khuyên
bảo bạn. Hãy dâng hiến thân và tâm của bạn cho Tam Bảo.
Khi hạnh phúc đến, hãy nhận ra đó là lòng từ bi của các
Ngài. Khi đau khổ xảy ra, hãy nhận ra đó là kết quả của
những nghiệp đã tạo trong quá khứ của chính bạn. Hãy chuyên
chú hành trì các pháp tích tập công đức và pháp tịnh hóa
với tác ý hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Đề Tâm. Cuối cùng,
nhờ vào lòng quy ngưỡng và mật nguyện thanh tịnh, hãy hợp
nhất tâm bạn với tâm của vị Thầy cao cả của dòng truyền
thừa chân chính, mãi mãi hợp nhất, không bao giờ chia cắt.
Hãy chiếm giữ thành lũy của chân như ngay trong đời này,
can đảm nhận lãnh trách nhiệm giải thoát tất cả chúng
sinh, là những bà mẹ già nua của chúng ta ra khỏi ngục tối
luân hồi. Điều này bao gồm tất cả những giáo huấn cốt
tủy trọng yếu nhất.
Giáo
huấn cốt tủy của dòng truyền thừa ba chi phái
giữa
con sông cam lồ,
Hương
vị dịu ngọt từ môi Thầy thuộc truyền thống chân
chính,
Những
điểm trọng yếu trong các pháp tu của chín thừa,
Tất
cả được đúc kết ở đây, không lỗi lầm hay pha tạp.
Những
lời tốt lành này giống như thực phẩm khéo nấu,
Mọi
hí luận của lời lẽ hoa mỹ đều đã được sàng lọc,
Được
nêm bằng tinh túy thơm ngon của pháp hành trì
thâm
diệu nhất,
Trong
nước cốt của giáo huấn đặt trên nền kinh nghiệm.
Những
lời tốt đẹp này giống như một nông dân thiện nghệ
Khắp
mảnh đất hoang của tâm xấu ác, tam độc mọc tràn lan,
Đã
đào xới mọi lỗi lầm tiềm ẩn bằng lưỡi cày kim cương
của giáo lý,
Và
khéo léo tưới tẩm đất hoang bằng nước mát của Chân Pháp.
Những
lời tốt đẹp này giống như một vụ mùa bội thu.
Trên
mảnh đất phì nhiêu của quyết tâm thoát khỏi luân hồi,
Hạt
giống Bồ Đề Tâm được gieo trồng cẩn thận,
Được
nuôi dưỡng bằng công đức, cùng tẩy tịnh, sinh ra
trái
quả của thành tựu tâm linh.
Những
lời tốt đẹp này giống một vú em tử tế.
Xem
xét lỗi lầm tiềm ẩn và nhổ bật tận gốc rễ,
Khéo
léo thúc đẩy hãy tốt lành hơn một trăm lần như thế,
Luôn
quan tâm giúp đỡ chỉ vì muốn trẻ thơ thêm toàn thiện.
Không
chỉ là ngôn từ mà là yếu nghĩa thâm sâu;
Còn
nồng ấm hơi thở của vị Thầy vô song của tôi.
Ai
coi những lời này như viên ngọc quý trong tâm họ
Chắc
chắn đang bước đi trên con đường thuần khiết chân chính.
Những
giáo huấn tốt lành này là phương tiện thiện xảo
đặc
biệt của chư Bồ Tát,
Một
bản văn linh hiển được viết ra, không tao nhã, không
văn thơ
Mà
sử dụng ngôn ngữ thông thường để giảng dạy con đường
chân chính,
Để
mọi lợi lạc và các pháp tu có thể thâm nhập đáy lòng.
Những
bình giảng rộng rãi đầy ắp chi tiết Không dễ thích
hợp trong không gian tù túng của tâm thức hạn hẹp. Những
luận giảng cao xa về các quan điểm triết học và giáo thuyết
thâm sâu Khó đưa vào thực hành đối với những kẻ trí
tuệ thấp kém trong thời đại suy đồi.
Đó
là lý do tại sao bản văn này cô đọng và dễ hiểu,
Là
thần dược quý báu thấm nhập khe hở tí hon trong tâm trí
chật hẹp,
Một
ngọn đèn soi sáng bóng tối cho những kẻ độn căn,
Một
ông giáo điềm tĩnh, tự truyền đạt rõ ràng yếu nghĩa đúng
đắn.
Đối
với bậc thông thái yêu thích luận thuyết dông dài,
Đối
với vị thầy vĩ đại không tìm được điều gì để áp
dụng cho chính mình, trong văn bản, và trong truyền thống khẩu
truyền,
Khi
được uống giòng cam lồ giáo huấn tâm yếu tuyệt hảo này
Sẽ
làm hồi sinh tinh túy của công phu hành trì, không còn gì nghi
ngại.
Đối
với người ẩn tu, thiền định thiếu hướng dẫn như thể
ném đá vào bóng tối,
Đối
với kẻ lão luyện, kiêu căng về tất cả các pháp hành
trì,
Đối
với những kẻ thành tựu hư giả chưa từng đương đầu
với giới hạn của bản thân,
Con
đường này sẽ chữa lành tật bệnh trong tâm họ.
Bản
văn này không pha chế những câu cú vẽ vời, phức tạp,
Không
là cầu vồng tô vẽ khéo léo bằng ngôn từ kỳ dị
Bởi
một số kẻ tinh thông uyên bác nhưng hời hợt trong văn điển,
Chúng
chẳng là gì cả so với những lời vàng của vị Thầy từ
ái của tôi.
Chư
huynh đệ kim cương của tôi vẫn còn có thể làm chứng,
Về
thời đại hiện hữu của bậc Toàn Giác, vị Thầy vô song
của
tôi Bởi thời đại tốt đẹp đó đâu đã là một quá khứ
xa xăm,
Một
thời đại may mắn cho cả Tây Tạng và thế giới -
Công
hạnh của bậc tôn quý ấy là nguồn cảm hứng cho tôi,
Để
biên soạn một trước tác những lời chân thật của Ngài.
Là
dấu ấn của lòng quy ngưỡng và thiện ý của tôi,
Đáng
được chư huynh đệ và ngay cả chư Thiên hoan hỉ tán thán.
Những
kẻ may mắn sống trong đời vị lai cũng thế:
Hãy
phát khởi lòng quy kính tương tự khi đọc bản văn này
Chẳng
khác nào được giáp mặt vị Thầy giác ngộ của tôi,
Tôi
tin rằng những lời này chuyên chở tinh hoa giáo huấn của
Ngài
không sai lạc.
Bất
kỳ công đức nào có được từ tác phẩm này
Tôi
hồi hướng đến tất cả chúng sinh, những bà mẹ của tôi
trong
quá khứ,
Nguyện
xin họ được một vị Thầy tâm linh tối thắng gia hộ,
Đem
giáo huấn toàn hảo của Ngài vào thực hành, và hưởng được
quả lành.
Đặc
biệt nguyện cho tất cả những ai được nuôi dưỡng bằng
cam lồ này,
Đến
từ đôi môi của vị Phật toàn giác, bậc Thầy vô song của
tôi,
Nguyện
tất cả đồng trọn thành Phật Quả viên mãn;
Nguyện
thấy họ lên đường và dẫn dắt chúng sinh.
Nguyện
những bậc Trưởng Tử của vị Thầy từ ái nhất của tôi,
Những
vị đã uống lời cam lồ toàn thiện của Ngài,
Đã
thu phục những kẻ may mắn, làm cho họ say đắm những bài
ca giáo huấn.
Nguyện
xin gót sen của chư vị an tru bền vững tren toà kim cương.*
Từ
nay trở đi, nguyện xin trong mọi kiếp vị lai của tôi
Được
phụng dưỡng Thầy tôi và những ai theo bước chân Ngài;
Nguyện
đáp ứng bất kỳ những gì được yêu cầu, làm vui lòng
tất cả.
Nguyện
cho tôi được Ngài dẫn dắt như đệ tử.
Cho
tới khi luân hồi tuyệt dứt, đối với mỗi một chúng sinh,
Nguyện
cho tôi tích lũy thân thể, vật dụng và công đức;
Nguyện
cho tôi phụng dưỡng chúng sinh, những bà mẹ già
chìm
đắm trong đau khổ,
Và
nguyện cho họ cùng tu tập Giáo Pháp của đấng Thế Tôn.
Trong
khi đó, nguyện cho lực gia hộ của dòng truyền thừa tôn
quý
Ló
rạng trong tâm chúng sinh như vầng dương tuyệt hảo.
Sau
khi hiến dâng cuộc đời hành trì nơi ẩn thất,
Nguyện
cho họ đời đời núp dưới bóng của vị Thầy vô
song.
*Một
biểu lộ thi vị thường được dùng để cầu chúc các vị
Thầy tâm linh được trường thọ và dồi dào sức khoẻ.
Những
hướng dẫn tổng quát bên ngoài và bên trong dẫn đến Tâm-Yếu
của Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik), tất cả đều rất
trung thực với những lời giảng dạy của vị Thầy vô song
của tôi. Trước tác này đã xuất hiện do sự khẩn cầu
bền bỉ của Dronma Tsering, một đệ tử tinh tấn và nghiêm
trì giới luật, là người đã đưa tặng lại một số ghi
chép mà ông đã ghi lại những gì có thể nhớ được. Ông
ta nài nỉ tôi viết một giảng văn dựa trên những ghi chú
này, ghi chép thật trung thực những giảng dạy của Thầy
của chúng tôi. Ngoài ra, Kunzang Thekchok Dorje, một vị Hoá Thân
tôn quý, là người đại diện của Đạo sư tôn quý và là
bậc nắm giữ giáo lý tăng trưởng và giải thoát này, đã
lập đi lập lại hai ba lần lời khẩn nài tương tự – thậm
chí còn cung cấp cho tôi rất nhiều tấm giấy để ghi chép.
Sau
này lại tới phiên Ngài Kushab Rinpoche Changchub Dorje329 - vị
Pháp Vương của tất cả mọi giáo thuyết, bậc lỗi lạc
nhất trong tất cả những trưởng tử tâm linh là những bậc
nắm giữ dòng truyền thừa của truyền thống khẩu truyền
của vị Thầy siêu phàm của tôi – Ngài Kushab Rinpoche đã
khuyến khích tôi, nói rằng tôi phải dứt khoát viết ra những
lời dạy của vị Thầy đáng kính của chúng tôi đúng như
những lời mà Ngài đã dạy các vị ấyï, bởi điều đó
sẽ giúp tất cả chúng tôi giữ được Ngài trong tâm tưởng
và làm sống lại lòng sùng kính quy ngưỡng của chúng tôi
đối với Ngài. Tôi cũng được một số pháp hữu kim cương
thân yêu khuyến khích và truyền cảm hứng; đây là những
người bạn mà tôi yêu quý chẳng khác nào chính đôi mắt
của mình, và chắc chắc họ sẽ vẫn tiếp tục gần gũi
thân thiết với tôi như ngọn lửa và tim đèn, cho tới khi
tất cả chúng tôi cùng đến được bên kia bờ giác.
Vì
thế, đây là nguyên bản của trước tác này, được viết
ra bởi một người mà Ngài Rigdzin Changchub Dorje,330 bậc trưởng
tử của hàng trăm vị thành tựu giả vô song, đã ban cho danh
hiệu Orgyen Jigme Chokyi Wangpo – tuy nhiên, phía sau danh hiệu
đẹp đẽ đó, thực ra chỉ là Abu Rách Rưới,331 thô lỗ,
và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của năm độc.
Bản
văn này được hoàn tất tại nơi ẩn tu, còn hẻo lánh hơn
cả tu viện trực thuộc tên là Rudam Samten Choling* hẻo lánh.
Nơi đây được gọi là Cung Điện Kinh Hoàng Của Yamantaka
– một nơi tráng lệ được trang hoàng bằng tất cả những
dáng vẻ cô tịch; ở đó những tàng cây tắm mình trong tinh
chất ấm áp của ánh nắng mặt trời, trong lúc bộ rễ của
chúng hấp thụ những giọt cam lồ mát lạnh; nơi mà những
giàn cây, những lùm rậm, những bụi thấp, những cành, lá,
những hoa và trái, cùng với những tràng hoa, đủ mọi loại
trải dài sặc sỡ, chắt lọc chất cam lồ từ nụ cười
rạng rỡ của Thiên Nữ Cung Trời Xanh Biếc** khi giòng cam
lồ ấy chảy xuống làm cho trái tim cực kỳ mãn nguyện.
Nhờ
công đức của việc hoàn thành tốt đẹp tác phẩm này, nguyện
tất cả vô lượng chúng sinh sẽ đi theo con đường tối thượng
này và hoàn toàn được giải thoát vào pháp giới nền tảng
của Đức Phật nguyên sơ!
*
Tu viện Dzogchen
**
Mặt trời. Cách hành văn trau chuốt ở đây được mượn
từ truyền thống thi ca Ấn Độ, dùng để làm lời bạt ở
cuối tập sách theo đúng truyền thống thông thường.
Thung
lũng nhìn xuống Tu Viện Dzogchen
Là
nơi Patrul Rinpoche thường ngồi trên một tảng đá lớn (gần
địa điểm trong hình này) trong khi biên soạn Lời Vàng Của
Thầy Tôi.
LỜI
BẠT
Của
Jamgon Kongtrul Lodro Thaye332
Om
Swasti Siddham
Kho
tàng trí tuệ Phổ Hiền này, với sáu phương pháp giải thoát,333
Được
hiển lộ nương vào đại ấn Du Già Pháp Giới của + Đại-Phương
Quảng-Trí.
Lừng
lẫy với danh hiệu Tâm-Yếu của Đại- Quảng-Trí, vinh quang
với hai quả vị thành tựu,
Năng
lực vĩ đại sẽ gia hộ cho mọi ước nguyện viên thành.
Chỉ
cần nghe giảng giải về giáo lý của những pháp tu dự
bị,
Là
có đủ năng lực để bất thần chuyển hoá tâm thức chúng
sinh.
Tuân
theo những khẩu truyền của Đạo Sư Jigme Gyalwai Nyugu,
Về
tất cả những điều mà Ngài Orgyen Chokyi Wangpo đã khai thị,
ấy là điều tâm yếu.
Hãy
hiến tặng món quà Giáo Pháp này, không đắm nhiễm ý niệm
về chủ thể, đối tượng và hành động,
Pema
Lekdrup, sở hữu tín tâm lẫn tài sản hoàn hảo,
+
klong chen nam mkha’i rnal ‘byor, tức Jigme Lingpa.
Vị
thượng thư tâm linh và thế tục của xứ Dergé cao
quý,
nơi có bốn vùng và mười thiện hạnh,
Qua
tác phẩm này, Ngài đã trút xuống một trận mưa
Pháp
vô tận.
Nhờ
công đức này, nguyện giáo lý tịnh quang kim cương tột bậc
Sẽ
tồn tại lâu dài, lan truyền và trải rộng khắp ba cõi.
Nguyện
tất cả chúng sinh có thiện duyên với giáo lý
này,
sẽ nhanh chóng thọ hưởng vương quốc
nguyên
sơ vĩ đại,
Và
thoạt nhiên đạt được thành tựu phúc lạc cho mình và cho
người.
Vào
lúc hoàn tất bản hiệu đính đầu tiên của tác phẩm này,
Ngài Lodro Thaye – người có tri kiến thanh tịnh về tất cả
những bậc Đạo Sư, tâm không mảy may có chút thành kiến
nào về các bộ phái – đã soạn ra lời bạt trên đây. Nguyện
thiện hạnh tăng trưởng!
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 16 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:38pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
CHÚ THÍCH
Những
chữ viết tắt:
DKR
Dilgo Khyentse Rinpoche
ZR
Zenkar Rinpoche
PWR
Pema Wangyal Rinpoche
NT
Chú Thích Lời Vàng Của ThầyTôi (xem danh mục
Tài
Liệu Tham Khảo)
HIST
Tác phẩm “Trường Phái Nyingma Phật Giáo Tây Tạng:
Nền Tảng và Lịch Sử của Dudjom Rinpoche
DICT
Đại Tự Điển Tạng-Hoa
AT
Một cách phiên dịch khác
Skt.
Phạn ngữ (Sanskrit)
lit.
literally (nghĩa đen)
1.
Với những người sơ cơ, điều này có nghĩa là tránh một
thái độ duy vật hay tâm tham vọng khi thực hành Phật Pháp.
Trong thực tế, chỉ những hành giả chứng ngộ mới có thể
hành trì với tâm không đắm nhiễm (hoàn toàn xa lìa mọi
khái niệm), nhưng khi công phu tu tập của ta trở nên thuần
thục thì tâm không đắm nhiễm sẽ ngày càng tăng trưởng,
giúp ta ngày càng xa lìa được bám chấp.
2.
Năng lực tích cực của công phu hành trì cũng có thể bị
chuyển dịch từ trạng thái Giác Ngộ vào những sự thể
khác. NT có đề cập tới bốn hoàn cảnh có thể phá hủy
cội nguồn công đức của ta. (dge rtsa): 1) Không hồi hướng
hành động nhắm tới quả vị Phật viên mãn tối thượng
vì lợi ích của người khác. 2) Sân hận: người ta nói rằng
một giây khắc sân hận có thể hủy hoại những hành nghiệp
thiện lành trong nhiều kiếp. 3) Hối tiếc: hối tiếc những
hành vi lợi ích mà ta đã làm, dù chỉ một phần nào. 4) Khoe
khoang những hành vi thiện lành đã làm cho người khác.
3.
NT giải thích rằng cũng như khi một giọt nước trở thành
một phần của đại dương, giọt nước ấy sẽ tiếp tục
hiện hữu chừng nào đại dương còn hiện hữu. Khi công đức
của các hành nghiệp của ta hoàn toàn được hồi hướng
cho “Đạo Quả hay đại dương của quả vị Toàn Giác,”
thì công đức ấy sẽ không bị mất đi cho tới khi ta thành
tựu Phật Quả viên mãn.
4.
“Đối tượng của cái thấy (lta yul) của các Kinh điển
(sutra) và Mật điển (tantra) đều như nhau, tức là Pháp Giới
tuyệt đối (chos kyi dbyinsg, Phạn: dharmadhatu – Pháp Giới).
Nhưng đối với chính cái thấy (kiến), thì ta có thể thiết
lập một sự phân biệt, như khi ta nói rằng ta nhìn thấy
một hình tướng ‘rõ ràng’ hay nhìn thấy ‘lờ mờ.’
Khế Thừa (Vehicle of Characteristics - the sutras) có thể tạo
được sự hỗ trợ, [giảng dạy và trực nhận về] tinh túy,
về chân lý tuyệt đối, cũng như về tánh Không vĩ đại
siêu vượt tám thái cực của các khái niệm đắm nhiễm
(spros mtha’), nhưng không thể nhận ra được rằng chân tánh
của tánh Không vĩ đại ấy là sự hợp nhất bất khả phân
của Pháp Giới và trí tuệ nguyên sơ (dbying ye zung ‘jug).
Đối với những hiện tượng của thực tại tương đối,
Khế Thừa cho rằng hiện tượng này là một cái gì tương
thuộc (duyên sinh) và giống như một tuồng huyễn hóa. Nhưng
Thừa này không đi xa hơn việc cho rằng tất cả các hiện
tượng chỉ là sự phô bày huyền diệu bất tịnh, để có
thể thiết lập các Thân (kaya) và các trí tuệ. Trái lại,
Mật Thừa thiết lập một Pháp Thân (dharmakaya) vĩ đại cao
cả hơn như thế, là một sự trùng điệp của các Thân và
các trí tuệ, không bao giờ có thể phân tách, như là hai chân
lý tuyệt đối.”NT
5.
“Trong Khế Thừa không dạy rằng ta có thể đạt được
Giác Ngộ mà không cần từ bỏ năm đối tượng của tham
dục (‘dod pai yon tan lnga). Nhưng ở đây [trong Quả Thừa –
Resultant Vehicle], ta ứng phó với tâm một cách mau lẹ và dễ
dàng, đưa tâm ấy vào những con đường tu mà không cần phải
từ bỏ năm đối tượng này, và ta có thể đạt được quả
vị Hợp Nhất, quả vị của đức Kim Cương Trì (Vajradhara),
trong một đời người và trong một thân người duy nhất.”
6.
Những người có căn cơ nhạy bén là người: “ùđủ thông
tuệ để có thể chứng ngộ cái thấy sâu xa của Kim Cương
Mật Thừa và là những người có đủ tín tâm không e sợ
những hành động mạnh mẽ và lớn lao.”
7.
Theo Mật Thừa, ta không tạo tác hay phát khởi bất kỳ điều
gì bằng cách đi theo con đường tu tập. Ta chỉ đơn giản
làm hiển lộ điều đã sẵn có – đó là Phật tánh của
chính mình.
8.
Ta không nên coi các Ngài như là những chúng sinh bình thường
(rags pa) mà phải coi các Ngài như là những hiện thể vi tế
(phraba) hoặc cực kỳ vi tế (shin tu phra ba).” DKR “Tất cả
các vị trong tăng đoàn, cho dù các vị ấy có nhận ra điều
đó hay không, nhưng các Ngài được tắm đẫm trong Phật tánh
giống như những hạt mè tràn ngập bởi dầu... Vì thế tất
cả chúng sinh đều là những vị Phật, bản tánh thanh tịnh
tuyệt đối của chúng sinh là bản tánh của Phật Quả, tinh
túy nguyên sơ của chúng sinh là tinh tuý nguyên sơ của Phật
Quả, và những phẩm hạnh bẩm sinh trong họ là những phẩm
hạnh của Phật Quả... tất cả là những vị Phật đích
thực, được quán tưởng như những Không Hành nam và Không
Hành nữ (daka và dakini) thuộc các Phật Bộ thích hợp. Nếu
cả vị Thầy lẫn tăng thân đều là những vị Phật, thì
cõi Phật của các Ngài cũng thanh tịnh và phải được quán
tưởng như cõi Sắc Cứu Cánh Thiên (Akanistha) hay một cõi
tịnh độ khác.” NT
9.
gsal btab pa có nghĩa là quán tưởng, nhưng cũng có nghĩa là
lưu tâm, nhận biết một cách trong sáng tâm thức ta, làm tươi
mới ký ức của ta. “Quán tưởng theo cách này không có nghĩa
là tự nhủ rằng con lừa là con ngựa, hay một cục than là
cục vàng; chỉ có nghĩa là nhận biết một cách sinh động
trong tâm ta những gì luôn luôn hiện hữu như thế từ vô
thủy, là những hình tướng và hiện thể xuất hiện từ
nền tảng nguyên sơ, là trạng thái của Phật Quả.”NT
10.
“Trong kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện. Tuy nhiên,
chúng ta đã không gặp được những vị Phật đã xuất hiện
– hay nếu như ta đã có gặp các Ngài thì các Ngài đã không
thành công trong việc dẫn dắt chúng ta đến bờ giải thoát.
Đối với chư Phật trong tương lai thì việc chúng ta gặp
các Ngài vẫn còn quá sớm. Vì thế nếu không có những vị
Thầy tâm linh thì sẽ chẳng có một ai cứu giúp ta.” DKR
11.
Ba niềm tin đầu tiên được giải thích trong Phần Hai, Chương
Một. Niềm tin thứ tư, tín tâm bất thối chuyển, đôi khi
được thêm vào để ám chỉ tuyệt đỉnh của lòng tin, khi
mà lòng tin ấy đã trở thành một phần không thể thiếu
bên trong chính ta.
12.
NT nói: “Dù ta có nhận lãnh Giáo Pháp hay không, nếu ta không
quan tâm tới Pháp thì ta sẽ giống như một con ngựa được
ban cho một cục xương, hay một con chó được cho một nắm
cỏ.” don gnyner, “sự quan tâm,” cũng có nghĩa là “nỗ
lực tinh tấn,” không chỉ là sự quan tâm trong tâm thức
mà còn phải tham gia tích cực.
13.
Những ví dụ này lấy ra từ những câu chuyện tiền kiếp
của Đức Phật để minh họa mức độ thệ nguyện của Ngài,
và không nên coi đó đơn thuần như là những câu chuyện giới
thiệu về phái tu khổ hạnh cực đoan.
14.
Giác quan thứ sáu là thức, bởi vì những phản ứng tâm lý
tương tự là do những đối tượng xuất hiện trong tư tưởng
tạo ra, cũng giống như những đối tượng của tri giác xuyên
qua năm giác quan vật lý.
15.
Điều này ám chỉ những người Tây Tạng bình thường, là
những người có niềm tin thật đặc trưng nơi Giáo Pháp và
thường tụng niệm câu minh chú nổi tiếng: Om mani padme hum,
nhưng họ lại có thể không có chút hiểu biết cặn kẽ nào
về giáo lý của Đức Phật. Ở đây, Gyalse Rinpoche đang sử
dụng thuật ngữ theo một cách thức hơi xúc phạm để khích
động thính giả của Ngài.
16.
grims kyis sgrim la lhod kyis glod. “Điều này có nghĩa là không
sao lãng, nhưng đồng thời hết sức thư thái.” DKR. Ngoài
ra, trước tiên, phải kiểm soát những niệm tưởng lộn xộn
để đạt được sự an định (zhi gnas), sau đó phải buông
lỏng tâm để phát triển những kinh nghiệm nội quán sâu
xa (lhag mthong).
17.
“Cách giáo lý được biểu lộ hoàn toàn là đến từ những
ngôn từ và vì thế, không cần thiết – đó là lối nói
của những người nghĩ mình là những thiền giả Nyingma vĩ
đại. Họ nghĩ rằng họ có thể nắm bắt ý nghĩa cốt tủy,
nắm bắt được chân nghĩa mà không cần bận tâm về ngôn
từ. Khi chỉ thẳng vào trái tim của họ, họ nói rằng những
giảng giải này chỉ là những ngôn từ không có thực chất,
và điều cần thiết chỉ là thấu hiểu chân tánh của tâm.”
18.Ý
nghĩa chân thực diễn tả chân lý từ quan điểm của những
bậc Giác Ngộ. Ý nghĩa thích hợp ám chỉ các giáo lý được
đề ra để dẫn dắt những người chưa giác ngộ hướng
đến chân lý, là những người không thể chấp nhận hay thấu
hiểu giáo lý nếu giáo lý này được thuyết giảng một cách
trực tiếp thẳng thừng. Ý nghĩa gián tiếp (dụ nghĩa) ám
chỉ những giáo lý được ban cho chúng sinh nhằm giới thiệu
với họ một cách gián tiếp một ý nghĩa nào đó không được
trực tiếp nói ra.
19.
“Đó là sự ngộ nhận về ý nghĩa, chẳng hạn như tưởng
tượng rằng từ giây phút ta thọ nhận giáo lý của Mật
Thừa thì ta có thể hưởng thụ rượu chè và tình dục, và
hành trì những pháp môn liên quan đến sự hợp nhất và giải
thoát. Để tránh các lỗi lầm này, cách hành xử của ta phải
hợp thời (có nghĩa là phù hợp với mức độ tu chứng của
tâm linh mà chúng ta thực sự đạt được trong giây phút hiện
tại).”
20.
AT “một niềm hứng khởi tốt lành hay xấu xa vĩnh viễn.”
Ở đây chúng ta theo giải thích của DKR.
21.
Điều này ám chỉ một pháp môn tịnh hóa dành cho người
chết trong đó người chết được tượng trưng bằng một
tấm bìa ghi tên của họ.
22.
Thành ngữ thod pa bor chog ma nghĩa đen là “tống khứ cái sọ
người,” có nghĩa là loại bỏ thân xác ta, trong ý nghĩa
giải thoát chính mình khỏi những cảnh tái sinh trong tương
lai. DKR
23.
‘du shes med pa. AT “không có tri giác.” Chúng ta theo giải
thích của DKR: “Chư Thiên phi tưởng (vô tưởng) đã tạo
ra một trạng thái trống rỗng trong tâm thức họ và không
nhận thức được bất cứ điều gì cả, như trong trạng
thái ngủ sâu không nằm mộng.”
24.
klo kha khra ám chỉ vùng rộng lớn mà những cư dân bộ lạc
cư trú ở miền nam của trung phần và ở miền đông Tây Tạng.
Ngày nay bao gồm Arunachal Pradesh, Nagaland và những phần của
Assam ở đông-bắc Ấn Độ, cũng như những phần của tây-bắc
Miến Điện.
25.
Những người Tây Tạng quen gọi Bồ Đề Đạo Tràng là rdo
rje ldan, hay Toà Kim Cương, ám chỉ nơi Đức Phật ngồi khi
Ngài đạt được Giác Ngộ. Đây cũng được coi là trung tâm
của thế giới.
26.
Xem chú thích 295.
27.
Những ngôi chùa này được xây dựng tại những địa điểm
chính xác được chuẩn định cốt để chế ngự những tà
lực ở Tây Tạng. Ở giữa tập hợp những ngôi chùa này
là Rasa Trulnang, là tên thuởû ban đầu của chùa Jokhang. Xem
Phần II, Chương Sáu, mục IV và chú thích 294.
28.
Theo NT, Đức Liên Hoa Sanh muốn nói rằng chỉ trong ba thời
kỳ này mà Kim Cương Thừa được khám phá trong một phạm
vi rộng lớn.
29.
Nghĩa đen: “những niên lịch (năm),” nhưng điều này không
ám chỉ những đơn vị thời gian chính xác mà muốn nói tới
những thời kỳ phát triển hay suy tàn gây ra bởi những nguyên
nhân khác nhau chẳng hạn như sự xuất hiện của một thánh
nhân hay, ngược lại, ảnh hưởng có hại của những tinh
linh xấu ác. DKR
30.
Trong thời kỳ lập tức theo sau thời kỳ giáo lý được truyền
bá, những người thực hành Giáo Pháp hầu như đắc quả
tức thời.
31.
Trong thời kỳ thành tựu thì có những người thực hành Giáo
Pháp, nhưng có ít người hơn, và kết quả của họ tới chậm
hơn.
32.
NT giải thích rằng những hiện tượng này có thể nảy sinh
bất ngờ ở khoảng giữa một thời khoá thực hành và thời
khoá kế tiếp, hay nảy sinh ngay giữa một thời khoá, và hủy
hoại một hay vài yếu tố trong số mười tám điều kiện
tự do và thuận duyên, giống như một con sói đi vào bãi nhốt
cừu và tha đi một hoặc hai con trong số mười tám con cừu.
33.
“Những điều này tách rời tâm thức ta khỏi giải thoát
và Toàn Giác. Khi một trong những điều này xảy ra, sẽ làm
khô héo chồi Giác Ngộ và cắt lìa ta khỏi Phật Bộ của
giải thoát.” NT
34.
Một cái lọng nghi lễ được mang đi trước một vị Lạt
Ma trưởng lão như là một biểu tượng của sự tôn kính.
35.
“Đại dương tượng trưng cho đáy sâu và sự bao la vô tận
của ba cõi tái sinh thấp và cho những đau khổ vô biên của
chúng sinh trong các cõi này. Con rùa mù tượng trưng chúng sinh
trong ba cõi thấp, họ không có mắt để biết tuân theo những
gì ích lợi và từ bỏ những điều có hại. Việc con rùa
mù chỉ nổi lên mặt biển một trăm năm một lần tượng
trưng cho một sự việc rất hiếm khó để có thể thoát khỏi
những trạng thái của ba cõi thấp. Một cái lỗ trong cái
ách tượng trưng cho sự hiếm hoi của việc được sinh làm
người và Trời. Gió xô dạt cái ách theo cách này và điều
đó tượng trưng cho sự phụ thuộc vào những hoàn cảnh thuận
lợi.”
36.
Chúng ta đã chọn ‘Surabhibhadra’ như một sự tái tạo có
thể chấp nhận được từ Phạn ngữ của tiếng Tây Tạng
bde spyod bzang po, là danh hiệu của vị vua mà Ngài Long Thọ
viết tặng bản văn này. Thực ra, mặc dù đa số những bài
tường thuật đều đồng ý Ngài là bạn thân và là một
đại thí chủ của Ngài Long Thọ, nhân dạng của vị vua trong
phạm vi lịch sử vẫn còn mù mờ. Có thể Ngài là dòng dõi
Satavahana của các vị vua ở Andhra, và trong khi một số học
giả đồng nhất Ngài với Gautamiputra Satakarni, người trị
vì vào đầu thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên; những người
khác gọi Ngài là Udayana hay Udayi, hoặc coi Ngài là các vua
Yajnasri hay Vikramaditya.
37.
Điều này ám chỉ một thứ bia Tây Tạng được chuẩn bị
bằng cách đổ nước nóng lên những loại hạt đã lên men.
Theo cách này thì thùng chứa vật liệu này sẽ đầy ngập
hạt.
38.
“Một nửa” ám chỉ triều đại của vua Mune Tsenpo, ông
mất đi khi mới trị vì một năm chín tháng.
39.
Ông ta có thể điều phục tâm mình cóù nghĩa là ông có thể
phát triển ‘định’ nhưng không có nghĩa là đã điều phục
được các cảm xúc tiêu cực hay chứng ngộ được bản tánh
của tâm. Trên quan điểm của Pháp, thiền định mà không
có một sự định hướng đúng đắn thì là điều vô ích.
40.
lam du ’khyer ba: nghĩa đen là đưa vào con đường. Điều này
có nghĩa là sử dụng mọi tình huống trong đời sống hàng
ngày như là một phần của các pháp tu. Nếu Gelong Thangpa đưa
những tư tưởng tiêu cực của ông vào con đường tu, ví
dụ sử dụng lòng từ như là một pháp đối trị thái độ
thù nghịch, hoặc bằng cách nhận ra được tánh Không của
một niệm tưởng ngay khi nó sinh khởi, thì điều ấy không
dẫn tới bất kỳ tai hại nào.
41.
rkyen: duyên hợp (hoàn cảnh). Nhân tố hỗ trợ để cho nguyên
nhân sâu xa (rgyu) trổ quả. Ví dụ, nếu người nào đó chết
trong một tai nạn, thì chính tai nạn, hoàn cảnh của cái chết
đó, là rkyen (duyên), và nguyên nhân sâu xa (rgyu) là hành nghiệp
xấu ác đã tạo trong quá khứ, và cái chết là nghiệp quả
của hành nghiệp đó.
42.
gyur dug: trong y khoa Tây Tạng, thành ngữ này ám chỉ các lương
thực có chất dinh dưỡng tốt lành, nhưng lại trở nên độc
hại hay khó tiêu khi được dùng chung với những thực phẩm
nào khác.
43.
sha sgren có nghĩa là thịt quá ôi thiu nhưng không hẳn là bị
thối rữa. Ở Tây Tạng, thực phẩm có thể được tích trữ
trong một thời gian dài nhờ điều kiện khí hậu hết sức
đặc biệt.
44.
Nếu như trong giấc ngủ, ta vẫn có thể chú tâm vào tịnh
quang là sự hiển lộ tự nhiên của giác tánh nguyên sơ, thì
mọi kinh nghiệm tâm linh của ta sẽ hòa trộn với Giác tánh
và ta sẽ không phải bị coi như là đang ở trong một trạng
thái mê lầm.
45.
Sau khi chết, sẽ không có trạng thái tái sinh (do nghiệp lực
chiêu cảm) diễn ra tiếp theo đó.
46.
Đây là ba loại tinh tấn đã được giải thích chi tiết ở
Phần Hai, Chương Hai. PWR viết thêm: Khi bạn có sự tinh tấn
như áo giáp thì không gì có thể ngăn cản bạn khởi đầu.
Khi bạn tinh tấn trong hành động, không gì có thể làm gián
đoạn điều bạn đang làm. Khi bạn có sự tinh tấn không
thể ngừng dứt, không gì có thể ngăn trở bạn đạt được
mục đích.
47.
Thuật ngữ Tây Tạng là chos dred, nghĩa đen là “Con gấu Pháp”.
DICT: “người không được điều phục bởi Pháp. Anh ta hiểu
Pháp nhưng không thực hành Pháp, tâm anh ta trở nên khô cứng.”
Nếu đến với Phật Pháp bằng một thái độ sai lạc, ta
có thể có một niềm tin giả tạo, khiến ta không nhạy cảm
đối với vị Thầy và giáo lý.
48.
Theo truyền thống thì những thân tướng thuộc thiên
giới (celestial bodies) được xem là nơi an trú của những chúng
sinh thuộc các cõi Trời nào đó mà người phàm không thể
thấy được.
49.
dkor za ba thường có nghĩa là sử dụng nguồn tài chính được
hiến cúng bởi tín tâm, trong ý nghĩa đặc biệt là sử dụng
chúng một cách không đúng đắn. Đôi khi còn ám chỉ việc
những người đang ở một địa vị quyền thế lạm dụng
của cải chung như tài sản của một quốc gia.
50.
Ở đây, ngữ (ngag) ám chỉ năng lực vi tế của ngữ (hay
khẩu). Khi được vận dụng bởi một người có khả năng
tu tập tâm linh nào đó hoặc bởi một người với một loại
nghiệp đặc biệt thì năng lực này là phương tiện để
biểu lộ âm thanh của các câu mật chú và có thể có năng
lực chữa lành, làm an bình, hàng phục...
51.
Pháp sư ném mạnh những vật tượng trưng khác nhau vào họ,
chẳng hạn như những bánh cúng torma, hạt mù tạt, hay bột,
là những thứ mà các ngạ quỷ nhận biết là những
vũ khí tiêu diệt thân thể họ.
52.
Các naga là một loại chúng sinh sống dưới mặt đất và
có năng lực phi thường. Mặc dù giống như những tinh linh,
chúng vẫn được xếp loại cùng với các súc sinh vì thân
chúng giống như rắn. Xin xem thêm Thuật ngữ: “garuda”
53.
Thành ngữ ‘du byed kyi sdug sngal mà chúng tôi đã dịch là
“nỗi khổ của tất cả những gì giả hợp” được giải
thích như sau: rgyu rkyen ‘du byed nas sdug sngal ‘byung, “khi
nhân và duyên cùng tụ hội thì sự đau khổ xuất hiện.”
Nỗi khổ này được coi là nguồn gốc của hai loại đau khổ
căn bản khác trong vòng sinh tử luân hồi, được mô tả là
khyab pa, có nghĩa là có mặt khắp nơi hay cùng khắp.
54.
Những hiện tượng tái sinh chính yếu khác xảy ra trong sáu
cõi luân hồi là sinh ra từ trứng (nỗn sanh), sinh ra từ hơi
nóng và sự ẩm ướt (thấp sanh), và đản sinh một cách kỳ
diệu (hoá sanh).
55.
Đây là cách dịch gần đúng được với những thuật ngữ
được dùng trong y khoa Tây Tạng đối với giai đoạn trong
năm tuần đầu tiên của sự phát triển của bào thai trong
thời kỳ trứng nước.
56.
las kyi rlung: nghiệp lực của những hành vi trong quá khứ,
thúc đẩy toàn bộ tiến trình của luân hồi.
57.
Một tấm kim loại có đục một lỗ qua đó kim loại được
kéo thành dây.
58.
Ở Tây Tạng, bơ được xoa trên đỉnh đầu trẻ sơ sinh để
giúp cho cái thóp mau đóng lại. Mặc dù việc này được coi
như có lợi cho sức khỏe của nó, nhưng trẻ sơ sinh nhạy
cảm tới nỗi những năng lực vi tế của thân nó cũng bị
kích động.
59.
Giống như trong những nền văn hóa Đông phương khác, đối
với người Tây Tạng thì việc bước qua đầu (hay thân) một
người nào là điều hết sức sỉ nhục và là một nguồn
nhiễm ô. Đối với những hành giả Kim Cương Thừa thì đó
là sự thiếu tôn kính mạn đà la của thân, là một cái gì
thiêng liêng. Tuy nhiên, với một hành giả du già đã chứng
ngộ được sự thanh tịnh tối hậu của tất cả mọi hiện
tượng trong lẽ tuyệt đối thì tất cả những loại kinh
nghiệm đều có cùng một vị của tánh Không.
60.
las kyi sa ba, một nơi mà nghiệp lực mãnh liệt hơn và những
hậu quả của hành nghiệp được chiêu cảm mạnh mẽ hơn,
và trong một vài trường hợp, sẽ xảy ra sớm hơn. Trong bốn
trung châu trong thế giới thuộc vũ trụ quan truyền thống
(của Phật Giáo), thì đặc biệt là trong châu Jambudvipa (Diêm
Phù Đề – cõi người), các hành nghiệp sẽ đưa đến quả
báo mạnh mẽ, và trong đó những kinh nghiệm cá nhân có thể
thay đổi nhiều hơn. Chúng sinh của những trung châu khác thì
thường phải chịu quả báo của những hành vi trong quá khứ
hơn là tạo ra những nguyên nhân mới. Kinh nghiệm quả báo
và thọ mạng của họ thì cố định hơn chúng sinh ở cõi
người.
61.
Nếu chúng ta không bị những hoàn cảnh thuận lợi đánh lừa,
mà nhận ra rằng chúng chỉ có tính cách xác thực tùy theo
mức độ cảm nhận của ta, thì những hoàn cảnh này có thể
trở thành một trợ lực giúp cho công phu thiền định của
chúng ta tiến bộ thay vì tạo nên những tham luyến gây nên
chướng ngại cho ta.
62.
Chính nhờ quán sát những vị Thầy cả tốt lẫn xấu mà
ta có thể nhận chân ra được những vị Thầy tốt.
Việc quán sát những hành giả tốt và xấu giúp ta học được
cách thức giúp mình tự hành xử.
63.
Cũng như cách thức các hiện tượng bên ngoài xuất hiện
và biến mất vào không gian, những hiện tượng của tâm khởi
lên từ bản tánh của tâm (sems nyid) và lại tan hòa trở lại
vào đó. Những hiện tượng ấy không có tự tánh độc lập.
64.
Một phần đặc tính của cõi Trời được mô tả như là
không có sự giận dữ và thù ghét. Vì thế ở đây, để
có thể chiến đấu, chư Thiên trong cõi Trời thứ Ba Mươi
Ba phải đi đến một khu rừng huyền bí, ở đó họ trở
nên hung hăng, thích gây hấn.
65.
Sắc giới và vô sắc giới. Xem thuật ngữ: “tam giới.”
66.
Nghĩa đen: “năm cõi:” một cách phân loại khác của sáu
cõi với chư Thiên và A Tu La nhập làm một.
67.
las su ‘char ba. Chúng tôi nhận được nhiều giải thích khác
nhau cho thành ngữ này. Chúng tôi đã dịch theo cách giải thích
của Ngài DKR là tương đương với las su rung ba, có nghĩa là
thích hợp hay có thể thực hiện được.
68.
Giống như một tháp canh giữ một vai trò hết sức trọng
yếu trong một trận chiến để quan sát kẻ địch và dành
phần chiến thắng,
samaya
(xem Thuật Ngữ) hay mật nguyện là điều cốt yếu trong Mật
Thừa để tránh các chướng ngại và đạt được Phật Quả.
69.
Noi theo tiến trình của các Thừa (Phạn: yana) có nghĩa là
bên ngoài ta theo giới luật của Tiểu Thừa trong khi bên trong
thực hành Đại Thừa, và một cách bí mật, ta thực hành
Kim Cương Thừa. Ở đây Ngài Patrul Rinpoche ngụ ý rằng Thầy
của Ngài dù tâm đã hoàn toàn vượt khỏi mọi đắm nhiễm
luân hồi, nhưng vẫn là một tấm gương hoàn hảo để soi
rọi cho đệ tử cách thức đi theo một tiến trình tu tập.
70.
Có thêm hai hành động có quả báo tức thời là tội gây
chia rẽ Tăng đoàn, và làm thân Phật chảy máu.
71.
Trong hầu hết xã hội Tây Tạng lúc đó, việc dùng thịt
trong mỗi bữa ăn được coi là dấu hiệu của giàu có sung
túc và vì vậy thuộc địa vị cao. Người khách đang khoe
khoang để người khác có cảm tưởng rằng ở nha,ø ngoài
món thịt ra, cô không quen ăn bất kỳ món gì khác.
72.
Ở đây Ngài Patrul Rinpoche phân biệt giữa hiện tượng tâm
lý không liên quan đến trí tuệ với tính siêu việt đích
thực của không gian và thời gian mà những bậc Giác Ngộ
đã chứng nghiệm; đây là những người đã đạt được
ba địa Bồ Tát cao nhất. Cái trước được mô tả là zag
bcas, “bị đắm nhiễm” (bởi những khái niệm), và cái
sau là zag med, “vô cấu nhiễm.”
73.
“Nghi lễ của những người Bà la môn” ám chỉ những nghi
lễ thực hiện không vì động lực muốn đạt được Giác
Ngộ cho tất cả chúng sinh. Mặc dù là những nghi lễ tôn
giáo, chúng vẫn không được coi là sẽ dẫn đến giải thoát
rốt ráo.
74.
dkor nag po: vì sự linh thiêng thật sự của Phật, Pháp, Tăng
nên lạm dụng các vật cúng dường sẽ gây nên cho họ nghiệp
quả hết sức nặng nề. Ở đây đặc biệt nói đến những
cúng dường của các thí chủ trong các nghi lễ được thực
hiện cho người chết, người bệnh, v.v…
75.
thar pa dang grol ba: chúng tôi đã dịch hai thuật ngữ ở đây
là giải thoát và tự do, gần như đồng nghĩa trong Anh ngữ.
PWR giải thích sự khác nhau trong văn cảnh này là: giải thoát
(thar pa) là thoát khỏi sinh tử luân hồi, đặc biệt là thoát
khỏi những cõi thấp, trong khi tự do (grol ba) là thoát khỏi
mọi chướng ngại đưa đến Toàn Giác hay Giác Ngộ. Trong
những văn cảnh khác, thar pa có thể bao hàm cả hai nghĩa này,
như trong Chương Sáu.
76.
Quan điểm này được coi là không đúng, không phải vì nó
phủ nhận một tác nhân, mà bởi nó phủ nhận tiến trình
nhân quả.
77.
Điều này không có nghĩa là ta không nên đặt câu hỏi hay
phân tích giáo lý. Thực ra Đức Phật khuyến khích những
câu hỏi như vậy. Dù thế nào đi nữa, việc để cho quan
điểm riêng của ta đóng chặt tâm ta đối với Phật Pháp;
việc đóng chặt tâm lại là việc ta phải thường xuyên đối
phó hằng ngày, nhưng việc này có thể thực sự ngăn trở
không cho ta bước đi trên con đường dẫn đến giải thoát.
78.
Bởi những bậc Thầy tâm linh, là những người hướng dẫn
chúng sinh, xuất hiện tùy theo những hành nghiệp trong quá
khứ của chúng sinh nên nhân duyên nối kết giữa vị Thầy
và đệ tử không thể chia cách được. Do đó, nếu đệ tử
cư xử không phù hợp thì những hậu quả sẽ phản nghịch
lại vị Thầy (trong lãnh vực tương đối), làm suy giảm thời
gian hoá thân của Thầy và gây chướng ngại cho những công
hạnh cốt đem lại lợi ích cho người khác của vị Thầy.
79.
Tà kiến sẽ làm cho quan điểm của ta trở nên chật hẹp.
Ngay cả quả lành của những hành động tốt lành của ta
cũng sẽ bị giới hạn bởi ta đã làm những nghiệp lành
này mà không có động lực đạt tới Giác Ngộ viên mãn vì
lợi ích của tất cả chúng sinh. Ngoài ra, nếu không tin vào
những bậc truyền dạy Giáo Pháp, ta sẽ không có được lực
hỗ trợ cho công phu sám hối đã được mô tả trong Phần
Hai, Chương Ba.
79.
Tà kiến sẽ làm cho quan điểm của ta trở nên chật hẹp.
Ngay cả quả lành của những hành động tốt lành của ta
cũng sẽ bị giới hạn bởi ta đã làm những nghiệp lành
này mà không có động lực đạt tới Giác Ngộ viên mãn vì
lợi ích của tất cả chúng sinh. Ngoài ra, nếu không tin vào
những bậc truyền dạy Giáo Pháp, ta sẽ không có được lực
hỗ trợ cho công phu sám hối đã được mô tả trong Phần
Hai, Chương Ba.
80.
Điều này ám chỉ thời điểm mà nghiệp lực chiêu cảm trổ
quả tối đa, nhưng quả ấy cũng có thể được thúc đẩy
để trổ ra nhanh hơn hay làm cho chậm lại tuỳ vào kết quả
của những hành động khác.
81.
Một bản dịch hơi khác biệt của trích dẫn này được đưa
ra trong ấn bản của Zenkar Rinpoche của bản văn Tây Tạng:
“Muốn biết nơi bạn sinh ra trước kia, hãy nhìn xem bây giờ
bạn là gì. Muốn biết nơi bạn sắp tái sinh, hãy nhìn xem
hiện bạn đang làm gì.”
82.
Bố thí bất tịnh là bố thí với thái độ chấp ngã, trong
kiểu cách bủn xỉn hay miễn cưỡng, hoặc cho đi xong rồi
sau đó lại hối tiếc. Kết quả của việc bố thí theo cách
này là ta sẽ được giàu có
nhưng
sẽ không hưởng được lợi ích từ sự giàu sang sung túc
này.
83.
Những phẩm tính của một vị Phật: gồm ba mươi hai tướng
chính, tám mươi tướng phụ, mười năng lực v.v...
84.
seng ldeng là một loại cây thân mộc, tức cây cao su Acacia
catechu, được tìm thấy khắp miền bắc Ấn Độ, Nepal và
những thung lũng ở Tây Tạng.
85.
Xem chú thích 36.
86.
Chúng tôi không thể làm cụm từ này dễ hiểu hơn. srog có
nghĩa là sinh lực, hỗ trợ cho hơi ấm (nhiệt) và cho ý thức
hoặc hơi thở. Dường như Surabhibhadra (xem chú thích 36) là
vị thí chủ của Nagarjuna, người cung cấp thuốc trường
sinh cho Surabhibhadra. Nếu đúng như thế thì có lẽ người
con muốn giết cha nên đã quyết định giết Nagarjuna để
ngăn trở việc Ngài đưa thuốc trường sinh cho cha mình.
87.
Theo truyền thuyết, đầu và thân Ngài Long Thọ (Nagarjuna) có
hình dạng hai tảng đá lớn bị tách rời (tại Nagarjunakonda
miền nam Ấn Độ) mà trải qua nhiều thế kỷ dần dần xích
lại gần nhau hơn. Khi chúng hợp nhất, Ngài Long Thọ sẽ hồi
sinh.
88.
Thêm vào những hành vi tiêu cực nói chung thì có những hành
động mà Đức Phật ngăn cấm những người đã thọ những
giới đặc biệt. Ở đây, vị tăng đang vi phạm một giới
luật ngăn cấm tu sĩ đã thọ cụ túc giới chặt phá cây
cối.
89.
Những cái đế hình tròn mà trên đó những nhúm gạo, v.v...
được đặt lên theo Mật pháp cúng dường mạn đà la. Cúng
dường mạn đà la là một phần của tiến trình tịnh hoá.
Pháp tu cúng đường mạn đà la đã được giải thích chi
tiết trong Phần Hai, Chương Bốn.
90.
Việc dùng ngôn ngữ của Giáo Pháp về hạ thấp hay xem thường
luật nhân quả có nghĩa là dùng giáo lý của chân lý tuyệt
đối như một cái cớ để làm bất kỳ điều gì mình mong
muốn, nói rằng không có khác biệt giữa thiện và ác, giữa
luân hồi và Niết Bàn, giữa chư Phật và phàm phu, v.v…
91.
Điều này có nghĩa là bất kỳ ai được tạo duyên nối kết
với một người theo bất cứ cách nào, dù là tích cực, tiêu
cực, hay hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngay cả một quan hệ nhỏ bé
tối thiểu với một vị Bồ Tát, qua việc thấy, nghe, chạm,
v.v. cũng có thể đem lại lợi lạc to lớn và dẫn đến giải
thoát.
92.
Xem Dẫn Nhập về một giải thích tóm tắt của phần thực
hành chính yếu. “Mặc dù tất cả những pháp tu của phần
chính yếu của con đường không được giải thích một cách
chính thức trong tập sách này, nhưng những điều ấy vẫn
hiện diện ở đó từ trong cốt tuỷ. Tập sách đầy đủ
bởi nó chứa đựng toàn bộ ý nghĩa của con đường tu.”
93.
Trong chương này, Ngài Patrul Rinpoche đưa ra một bài kệ tóm
tắt về từng vấn đề mà không trích dẫn từ bất kỳ nguồn
gốc đặc biệt nào. Những bài kệ này là để giúp người
đọc hay người nghe nhớ lại chúng. 94. Việc khẩu truyền
trực tiếp (từ Thầy xuống đến trò) luôn luôn đóng một
vai trò quan trọng trong Đạo Phật, và người Tây Tạng thường
xuyên ghi chép toàn bộ những pho Kinh điển vào trong ký ức.
Công năng tu tập này có thể giúp họ ghi nhớ từng chi tiết
một của những giáo lý khẩu truyền. Chẳng hạn, hệ thống
cấu trúc của bản văn này phần nào làm cho các hành giả
thường xuyên có sẵn những giáo huấn trong tâm thức.
Họ
hành động trái với thông lệ, bất chấp những phép tắc
cư xử theo tục lệ, như thể hành vi của họ được đặt
nền tảng trên trí tuệ không đắm nhiễm đích thực. Thật
ra, họ chỉ đang tự lừa gạt chính mình.
95.
NT chỉ rõ rằng để thấy vị Thầy tâm linh của ta như một
vị Phật, ta cần cảm thấy: 1) Ngài là một vị Phật trong
thân người trong cả hai ý nghĩa tương đối và tuyệt đối,
2) mọi hoạt động của Ngài dù thuộc tâm linh hay thế gian
đều là những công hạnh của một vị Phật, 3) thiện tâm
của Ngài đối với ta thì vượt trội thiện tâm của chư
Phật, 4) Ngài là hiện thân, là bậc vĩ đại nhất trong tất
cả những nơi nương tựa, và 5) nếu hiểu được điều này,
ta cầu nguyện Ngài mà không dựa vào bất kỳ sự trợ giúp
nào khác trên con đường tu thì ta vẫn sẽ phát triển được
trí tuệ của sự chứng ngộ.
96.
srid pa: nghĩa gốc là “triển vọng”-- nghĩa là bất cứ
những gì có thể chuyển hoá thành bất kỳ những cái gì
khác. Vì thế ở đây, ý này tượng trưng cho tất cả những
khái niệm mà chúng ta phóng vào thực tại, và là một cái
gì đã trở thành thế giới huyễn hóa mà chúng ta nhận thấy.
Vì thế điều này có thể được dịch là: trở thành (thành),
hiện hữu (trụ), luân hồi, thế giới.
97.
Con ngựa hoàn hảo (ngựa báu) là một trong những sở hữu
của Chuyển Luân Thánh Vương. Con ngưạ báu biết được những
ước muốn của Ngài trước khi Ngài trình bày về ước muốn
đó. Ở đây người đệ tử lý tưởng nhận biết được
ý định của Thầy mình và theo đó mà hành động thích hợp.
98.
“Học hỏi tư tưởng và hành động của Thầy có nghĩa là
đạt được tất cả những tánh đức của thân, khẩu, ý
của Thầy mình.” DKR. “Nếu trước tiên ta không đạt được
chứng ngộ của Thầy thì việc noi gương hành động của
Thầy chỉ là đạo đức giả.” NT
99.
nor rdzas: nghĩa đen: “tài sản vật chất.” Chúng ta thường
dịch thuật ngữ này là “tiền bạc,” mặc dù cũng có thể
có nghĩa là bất kỳ những gì quý báu và giá trị, không
phải chỉ là một vài hình thức tiền tệ đặc biệt.
100.
Một trong ba đại học tu viện lớn của Phật Giáo Ấn Độ,
hai đại học kia là Nalanda và Odantapuri. Nhiệm vụ “học
giả phân khoa trưởng (người giữ cổng)” của các “cánh
cổng,” hay các phân khoa, trong mỗi một địa hạt chính yếu,
đều được giao cho các học giả có khả năng nhất để
bảo vệ quan điểm triết học Phật Giáo, chống lại những
thách thức tranh luận của những tư tưởng gia phi Phật Giáo.
Việc tranh luận mãnh liệt, được đề ra giữa những người
đề xướng của những học phái tư tưởng khác nhau, là đặc
tính của thời kỳ văn minh cao độ ở miền Bắc Ấn Độ.
101.gyang
rim gsum: ba lớp tường đất sét,” khoảng ba mét. Trong nhiều
vùng của Tây Tạng, tường nhà được xây bằng đất sét
(gyang) được kết chặt khi còn ẩm giữa những khuôn gỗ
song song được đặt dọc theo tường và để cho khô. Cái
khuôn này sau đó được di chuyển lên trên để giữ những
lớp (rim) đất sét kế tiếp. Các bảng gỗ được sử dụng
như những cái khuôn thường rộng khoảng một mét. Thuật
ngữ gyang hoặc gyang rim thường được sử dụng như một
cách đo lường phỏng chừng chiều sâu của tuyết.
102.Có
thể giải thích về ba câu này như sau: “Gốc (của pháp tu
ấy) là sự chiến thắng của nguyên sơ,” có nghĩa rằng
Phật tánh là bản tánh nguyên sơ của chúng ta, không thể
bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nguyên nhân hay hoàn cảnh nào.
“Ngọn của pháp ấy
chính
là sự chiến thắng của quả vị thành tựu” có nghĩa là
ta có thể đắc được Đạo Quảû tối thượng. “Quả của
pháp ấy chính là sự chiến thắng của pháp môn du già”
có nghĩa là không có phương pháp du già (yoga) nào có thể
đem lại một kết quả tốt đẹp hơn.
103.Truyền
thống dựa trên những giáo lý ban đầu được đưa từ Ấn
Độ vào Tây Tạng trong thế kỷ thứ 8 được gọi là truyền
thống Cổ Mật (Cựu Phái) hay là Nyingma. Còn truyền thống
đặt nền tảng trên một trào lưu giáo lý mới, bắt đầu
từ thế kỷ 11 trở về sau gọi là Tân Dịch, hay Sarma. Vị
Thầy đầu tiên của Milarepa, Ngài Rongton Lhaga, thuộc về phái
Nyingma, trong khi Marpa là một dịch giả và hành giả thành
tựu của giáo lý Tân Phái.
104.Jetsun
Mila muốn cúng dường một bình đầy lúa mạch. Cúng dường
một bình rỗng được coi là điềm chẳng lành.
105.
Những thử thách mà Milarepa đã trải qua trước khi nhận giáo
lý từ Marpa cũng là để tịnh hoá ác nghiệp đã tạo trong
quá khứ, tích tụ công đức và là những chuẩn bị có tính
chất tâm lý. Những thử thách này cũng có một mối liên
hệ với tương lai của dòng truyền thừa của Ngài, mỗi chi
tiết đều có một biểu tượng đầy ý nghĩa mà theo lý duyên
sinh (rten ‘bral), sẽ ảnh hưởng tới tương lai của chính
Milarepa và những đệ tử của Ngài.
106.
Ý nghĩa căn bản là đi tìm sự che chở để thoát khỏi một
mối hiểm nguy, trong trường hợp này là những hiểm nguy của
vòng sinh tử luân hồi.
107.“Tại
sao tất cả mọi con đường? Bởi vì quy y là một phần quan
trọng trên mỗi một con đường tu theo Kinh điển và Mật
điển.” NT
108.Ở
đây niềm tin chỉ đơn giản là một sự đáp ứng tự nhiên.
“Trong trường hợp này, ta không nhất thiết phải hiểu lý
do vì sao mình tin.” NT
109.“Khi
ta có loại niềm tin này, ta biết lý do tại sao. Ta có niềm
tin bởi ta hiểu rằng Tam Bảo, và đặc biệt là vị Thầy
tâm linh, là nơi nương tựa không thể nào lầm lẫn được.”
NT
110.Từ
“cửa” (sgo) ở đây hoàn toàn ám chỉ cho niềm tin, đây
là yếu tố đưa ta đến với năng lực gia trì của Đức
Phật, hay của Đức Liên Hoa Sanh, hoặc của vị Thầy của
ta. PWR
111.Đây
là quy y ở trình độ tu tập của Đại Viên Mãn. 112.tshogs
zhing: “ruộng (tức là đối tượng) để tích lũy công đức
qua những pháp tu như lễ lạy, cúng dường và cầu nguyện.”
DICT.
Nhờ
những phẩm tánh Giác Ngộ của Phật, Pháp và Tăng mà kết
quả của bất kỳ hành động tốt lành nào hướng tới các
Ngài cũng đều có năng lực to lớn. Xem thêm ruộng công đức
trong Thuật Ngữ.
113.Hoa
sen biểu tượng cho sự thanh tịnh của tâm Giác Ngộ. Mặc
dù mọc trong bùn, hoa sen vẫn không bị nhiễm mùi bùn.
114.Số
chân tay được định rõ qua hình tướng được quán tưởng
của những vị Thầy và Bổn Tôn; thông thường các vị ấy
được quán tưởng với số lượng nhiều hơn một đầu và
hai tay hay chân, và mỗi một chi tiết đều có một ý nghĩa
biểu tượng đặc biệt.
115.Những
vị Pháp Vương Tử hay Đại Bồ Tát trong giáo đoàn của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni gồm có: Manjusri (Văn Thù), Avalokiteshvara
(Quán Tự Tại tức Quán Thế Âm), Vajrapani (Kim Cương Thủ
tức Đại Thế Chí), Maitreya (Di Lặc), Akasagarbha (Hư Không
Tạng), Ksitigarbha (Địa Tạng), Sarvanivaranaviskambhin (Trừ Cái
Chướng), và Samantabhadra (Phổ Hiền).
116.Mười
ba món trang sức của Báo Thân, xem Phần Hai, Chương 3, Mục
III.
117.Tích
trượng của tăng sĩ, được gọi là ‘khar gsil, nghĩa đen
là “trượng ngân vang,” gồm có một tay cầm bằng gỗ và
sắt, có hai cái tháp bọc ở trên; bên dưới cái tháp cao
nhất có treo bốn bánh xe và mười hai vòng kim loại, âm thanh
kêu vang của chúng báo hiệu sự hiện diện của vị tăng
sĩ. Bình bát thường bằng kim loại, được gọi là lhung bzed,
nghĩa đen là “vật chứa những thứ rơi rớt”.
118.Những
vị Hộ Pháp đôi khi là các Hóa Thân của Chư Phật hay Bồ
Tát, và đôi lúc là những tinh linh, các vị Trời hay ma quỷ
đã được một bậc Đạo Sư tâm linh vĩ đại nhiếp phục
và buộc phải giữ những lời thề. Những vị Hộ Pháp thuộâc
phân loại thứ nhất (Hoá Thân của Chư Phật hay Bồ Tát)
không còn vướng mắc bởi nghiệp, và hoàn toàn hành xử do
lòng bi mẫn. Những vị trong phân loại thứ hai (tinh linh hay
các vị Trời hay ma quỷ đã được nhiếp phục) là những
vị Hộ Pháp nương vào nghiệp duyên mà có.
119.“Vào
giây phút đó (giây phút đạt được Giác Ngộ), ta sẽ có
muời oai lực và được gia hộ mười thần lực, nhờ đó
ta thoát khỏi mọi sợ
hãi.
Khi ta có khả năng che chở người khác, ta không cần quy y
nữa”. NT
120.“Quy
y tối thượng duy nhất là quy y nơi trạng thái tối thượng
của Phật Quả. Giáo Pháp và Tăng đoàn chỉ là quy y tạm
thời. Pháp của sự truyền dạy là một yếu nghĩa mà ta phải
chứng ngộ. Một khi ta đã chứng ngộ được yếu nghĩa đó
một cách đúng đắn thì ta không còn cần tới quy y nữa,
giống như sau khi qua sông ta không còn cần tới đò. Đối
với Pháp của sự chứng ngộ thì một khi đã tiến bộ trên
con đường tu, ta phải bỏ lại phía sau những chứng ngộ
trước đó của mình; nói một cách khác, những chứng ngộ
trước đây cũng chỉ là mê ảo và không thường trụ. Đối
với Tăng đoàn, các vị Thanh Văn và Phật Độc Giác không
có những phẩm tính của các Bồ Tát đã đạt tới những
quả vị siêu việt, và những Bồ Tát siêu việt không có
những phẩm tính của Chư Phật; các vị Bồ Tát đang còn
là chúng sinh bình thường thì vẫn còn sợ hãi các cõi thấp.
Do đó, những bậc tuy đã đắc quả như vậy vẫn không phải
là nơi nương tựa lâu dài.”NT
121.Ở
đâyï, quy y được diễn tả theo ba giai đoạn khác nhau của
công phu hành trì chính yếu. Xin xem Dẫn Nhập.
122.Để
thực hành một cách có hệ thống, ta được khuyên là nên
phân chia một khoảng thời gian đều đặn, trong đó ta tập
trung vào công phu hành trì mà không bị gián đoạn (một thời
công phu). Có thể chỉ một thời trong một ngày, hoặc trong
một chương trình nhập thất liên tục thì một ngày có bốn
thời: sáng sớm, giữa sáng, chiều và tối, chẳng hạn là
như thế.
123.Thành
tựu thông thường (thun mong) bao gồm những năng lực kỳ diệu
v.v... và đối với Phật Giáo và những con đường du già
khác thì thành tựu này cũng giống nhau. Thành tựu tối thượng
(mchog) là Giác Ngộ viên mãn siêu vượt luân hồi.
124.rus
pa can, nghĩa đen là “nhiều xương,” ở đây ám chỉ thành
ngữ snying rus, nghĩa đen là “một cái xương trong tim,” có
nghĩa là một sự quyết định dũng mãnh và lòng can đảm
không bao giờ đầu hàng hay từ bỏ.
125.Một
yêu cầu căn bản trước khi cử hành các nghi lễ để trợ
giúp người khác là ta nên hành trì nhuần nhuyễn phần chính
yếu của nghi quỹ đang được bàn tới; hành trì nghi quỹ
bao gồm phần tụng niệm câu minh chú nhiều ngàn lần để
tịnh hóa chính tâm thức của ta.
126.“Mạn
đà la” trong văn cảnh này có nghĩa hội chúng các Bổn Tôn
được quán tưởng và thỉnh cầu cho công phu hành trì. Trong
truyền thống đạo Phật chân chính thì pháp tu này được
coi là một phương pháp để đánh thức tuệ giác của chính
ta. Ở đây pháp ấy bị lạm dụng như một nghi thức huyền
thuật thô thiển.
127.Mặc
dù có những giáo lý trí tuệ trong truyền thống đạo Bon
rất gần với Phật Giáo nhưng ở đây đang nói về đạo
Bon nguyên thuỷ của các phù thuỷ ở trong làng.
128.Sân
hận thực sự (zhe sdang rang mtshan pa) là một cảm xúc tiêu
cực được đặt nền tảng trên ý niệm đối đãi (nhị
nguyên) về “ta” và “người.” Loại sân hận này được
phân biệt qua cách biểu lộ một hình thức phẫn nộ của
những bậc đã thoát khỏi ý niệm đối đãi, vàø mỗi hành
vi của họ được đặt nền tảng trên lòng bi mẫn đối
với tất cả chúng sinh. Hình thức phẫn nộ này là một phương
pháp mãnh liệt để giúp cho những người vốn không nhạy
cảm với phương pháp an bình.
129.Ở
đây ám chỉ câu chuyện xây Đại Bảo Tháp ở Bodhnath, gần
Kathmandu của một người phụ nữ nuôi gia cầm và các con
trai của bà. Đây là kết quả của những nguyện ước họ
đã thực hiện vào lúc đó; ba người con trai được tái sinh
làm Đạo Sư Liên Hoa Sanh, vua Trisong Detsen, và Tu Viện Trưởng
Santaraksita. Các Ngài cùng chịu trách nhiệm đặt nền móng
vững chắc cho Giáo Pháp ở Tây Tạng. Bảo tháp nguy nga này
là một trung tâm đầy hấp lực đối với những người Tây
Tạng có tâm quy ngưỡng; họ biết đến nó với cái tên Jarung
Khashor. (Muốn xem toàn bộ câu chuyện, xin đọc Truyền Thuyết
Về Đại Bảo Tháp, Keith Dowman dịch, nhà Xuất bản Dharma,
Berkley, 1973).
130.
Theo những tiên tri của một nhà chiêm tinh Bà la môn thì sau
khi hoàng tử Tất Đạt Đa (Siddharta) hạ sinh, đứa trẻ sẽ
trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương hay một vị Phật.
131.
Những Mật điển khác thì có nhắc đến những con sư tử
và con công thay vì chó hay bò. Tất cả những loại thịt này
thường bị cấm kỵ, không được phép ăn theo lối suy nghĩ
của người bà la môn ở thời Ấn Độ thời cổ, vì họ
cho rằng loại thịt này quá thiêng liêng hoặc quá bất tịnh.
Do đó, những loại thịt này đã được chỉ định để được
sử dụng trong các pháp hành trì (của Mật Tông) cốt để
phá vỡ những khái niệm (bám chấp).
132.
Một vài kinh nghiệm chẳng hạn như linh kiến hay giấc mộng
v.v... có thể là những dấu hiệu của sự tiến bộ trong
công phu tu tập thực hành (tuy không nhất thiết là như vậy).
Những vị Thầy trong dòng truyền thừa của Ngài Patrul Rinpoche
nhấn mạnh rằng người ta không nên để cho những kinh nghiệm
như thế mê hoặc. Đúng hơn, ta nên đo lường sự tiến bộ
bằng cách phát triển lòng quy ngưỡng, phát triển tâm từ
bi và giải thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực trong tâm ta.
133.Mười
cấp độ tu chứng (Thập Địa) và năm con đường tu của
một vị Bồ Tát. Ở đây dường như có nghĩa là sự tiến
bộ trên con đường tu nói chung.
134.Từ
thời xa xưa, truyền thống của những tăng sĩ Phật Giáo là
dâng cúng phần đầu tiên của những gì họ nhận được
trong bữa khất thực hàng ngày cho Tam Bảo, họ ăn phần giữa
với tâm không phân biệt, và bố thí phần cuối cho người
nghèo khổ.
135.“Khơi
dậy Bồ Đề Tâm” chỉ là một cách dịch khả dĩ có thể
chấp nhận được của từ sems bskyed. Từ bskyed có nghĩa là
sinh ra, tạo nên, nhưng cũng có nghĩa là tăng trưởng, phát
triển. Từ sems là chữ viết tắt của byang chub kyi sems (Phạn
ngữ: bodhicitta, Bồ Đề Tâm), “tâm Giác Ngộ,” và từ này
có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau. Đối với người sơ
cơ, chỉ đơn giản là ý hướng giải thoát tất cả chúng
sinh. Tuy nhiên, trong một ý nghĩa sâu xa hơn, Bồ Đề Tâm đồng
nghĩa với Phật tánh (Phạn ngữ: Tathagatagarbha, Như Lai Tạng)
và với Giác tánh nguyên sơ (rigpa). Ở mức độ hiểu biết
này, tâm Bồ Đề không phải là điều gì được tạo mà
trước đó không có; tâm ấy được coi như làø bản chất
nền tảng của tâm ta, là cái gì luôn hiện diện cùng chúng
ta và chỉ cần được khám phá và làm hiển lộ ra thôi. Chúng
tôi chọn từ “khơi dậy” để cố gắng truyền đạt một
chút gì đó của cả hai khía cạnh trên.
136.
Điều này được NT định nghĩa là “hứa nguyện sẽ đạt
được kết quả”.
137.
NT nói: “Bồ Đề Tâm hạnh (Bodhicitta of application) là ý định
hành trì sáu pháp ba la mật, vì các pháp này là nguyên nhân
hay phương tiện để đắc quả.”
138.
“Bồ Đề Tâm tương đối được tạo nên nương vào sự
hỗ trợ của những ý niệm của ta”. NT
139.
“Bồ Đề Tâm viên mãn chính là trí tuệ, khi mà những hoạt
động của tư tưởng đã biến mất”. NT
140.
Ở đây để cho sáng sủa hơn, chúng tôi (Padmakara Translation
Group) đã thêm vào một tiêu đề mà trong nguyên bản không
có.
141.
Ánh trăng trong nước xuất hiện sống động nhưng không có
sự hiện hữu thực sự và độc lập. Cũng đúng như thế
đối với những gì chúng ta cảm nhận được qua các giác
quan, bởi vì những hiện tượng (mà ta cảm nhận được)
không có bất kỳ bản chất khách quan nào. Tuy nhiên, chúng
ta bị lạc lối vì tin rằng những hiện tướng đó là thật
có một cách khách quan. Chính sự vô minh căn bản này là nền
tảng cho những cảm xúc tiêu cực độc hại, khiến chúng
ta phải lang thang trong luân hồi sinh tử.
142.
Lý do khiến Bồ Đề Tâm là nền tảng tối yếu của con đường
đi tới Giác Ngộ là vì ở bình diện tuyệt đối, đấy chính
là Phật tánh, là tánh bẩm sinh trong tất cả chúng sinh, là
lòng từ và bi vô giới hạn một cách tự nhiên. Tiến trình
của Bồ Đề Tâm tương đối là làm cho chân tánh Bồ Đề
Tâm hiển lộ ra. NT nói về hai khía cạnh này như sau: “Cái
đầu tiên là nguyên nhân sâu xa của việc đạt được Phật
Quả, và cái thứ hai là nguyên nhân do hoàn cảnh.”
143.
NT giải thích rằng trước tiên ta phải cố gắng khơi dậy
Bồ Đề Tâm chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi nhất, rồi
hai khắc, rồi ba khắc và hơn nữa...
144.
Những hướng dẫn dựa trên kinh nghiệm, nyams khrid, là một
phương pháp giảng dạy mà trước tiên, vị Thầy chỉ ban
đôi chút giáo huấn cho đệ tử. Tiếp theo, người đệ tử
đưa giáo huấn vào thực hành rồi trình bày kinh nghiệm mà
mình chứng nghiệm được trong khi thực hành cho vị Thầy
nghe (trình pháp). Sau đó Ngài sẽ tiếp tục khuyên dạy
đệ tử hoặc ban cho một giáo huấn sâu xa hơn dựa trên căn
bản đó, và cứ tiếp tục theo tiến trình đó trong một sự
trao đổi liên tục…
145.
Một sắc tướng của Bồ Tát Avalokitesvara (Quán Thế Âm),
có màu trắng pha lê.
146.
Phạn ngữ, usnisa: chỗ nhô lên trên đỉnh đầu (nhục kế)
là một trong những tướng quý của một vị Phật. Trong trường
hợp của Vua Mão Ngọc, tướng này đã hiện diện cho dù Ngài
chưa là một vị Phật Toàn giác.
147.
Năm pháp toàn thiện (ba la mật) đầu tiên có liên quan tới
việc tích lũy “phước đức,” tuy nhiên những pháp toàn
thiện đó vẫn thấm nhuần “trí tuệ.” Chính điều này
giúp cho bố thí ba la mật và những ba la mật khác trở thành
là những pháp “toàn thiện siêu việt” (“bát nhã ba la
mật.”)
148.
Những vị Bồ Tát đạt được quả vị siêu việt đã chứng
ngộ tánh Không và có những ý hướng thanh tịnh và bao la,
không phải là trường hợp của chúng sinh bình thường.
149.
rang don, lợi ích của riêng ta hay tự lợi (AT: mục đích),
ngụ ý ám chỉ sự hoàn toàn chứng ngộ tánh Không, Pháp Thân
(dharmakaya), rồi từ đó Báo Thân và Hóa Thân mới hiển lộ
nhờ có lòng bi mẫn để thành tựu gzhan don, tức là thành
tựu lợi ích của những người khác hay lợi tha.
150.
Xem Thuật Ngữ: hơi ấm.
151.Cây
thuốc biểu tượng cho Bồ Đề Tâm, chữa lành mọi đau khổ
của bản thân ta và những người khác.
152.
Pháp môn cúng dường thân xác một cách tượng trưng, được
giải thích trong Phần Hai, Chương Năm.
153.
Điều này được giải thích trong Phần Một, Chương 4, mục
III.
154.
NT giải thích rằng những gì có thể bị huỷ hoại theo cách
này chính là kết quả của những hành vi tốt lành, là những
thiện nghiệp chỉ tạo ra công đức (bsod nams) -- nghĩa là
những gì được thực hiện không nương vào ba phương pháp
tối cao.
155.
“Trì giới trong một ngày thì có giá trị hơn một trăm năm
bố thí; vun bồi nhẫn nhục trong một ngày thì có giá trị
hơn một trăm năm trì giới.” NT
156.
Có lẽ họ là những đệ tử của một trong những phái Thanh
Văn khi tin rằng không thực sự có sự hiện hữu của bản
ngã (gang zag gi bdag med), nhưng họ lại không thừa nhận tánh
Không toàn diện của chính sự hiện hữu chân thật của các
hiện tượng (chos kyi bdag med).
157.Chính
sự rộng mở vô biên của lòng từ và bi đối với tất cả
chúng sinh là yếu tố cho phép tâm thức hoàn toàn mở ra trước
cái bao la rộng lớn của quan điểm Đại Thừa.
158.
Cũng xem chú thích 46.
159.
“Tránh rơi vào một thái cực nào vì điều này sẽ gây ra
những mệt mỏi quá mức, hoặc tránh thực hành một khổ
hạnh nào thái quá vì điều này sẽ kết thúc cuộc đời
bạn.” NT
160.
“Ta trở nên càng lúc càng bám chấp vào những kinh nghiệm
thiền định. Đây là kinh nghiệm về hỉ lạc, trong đó ta
cảm thấy hạnh phúc mà không cần có lý do; kinh nghiệm về
tánh sáng, khi sự vẩn đục của niệm tưởng đã lắng xuống
và ta cảm thấy như một căn nhà trống không, không trong không
ngoài; kinh nghiệm về vô niệm, trong đó, khi ta quán sát xem
có niệm tưởng nào khởi lên hay không, ta có cảm tưởng
rằng chẳng có gì xuất hiện. Ta vẫn chấp vào tính xác thực
của một cái “tôi,” (gang zag gi bdag) bằng cách nghĩ tưởng
về “kinh nghiệm của tôi.” Và ta cũng bám chấp vào tính
xác thực của đối tượng (chos kyi bdag) bằng cách nghĩ rằng
có những kinh nghiệm thực sự để bám víu. Điều này mâu
thuẫn với việc nhận ra tánh Không của thực tại, là suối
nguồn của giải thoát.” NT. Vào giai đoạn thiền định này,
ta chỉ đạt được trạng thái an định (zhi gnas, Phạn ngữ:
samatha, chỉ), chứ không có được kinh nghiệm nội quán sâu
xa (lhag mthong, Phạn ngữ: vipasyana, quán).
161.
Tư thế bảy điểm của Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) – mam snang
chos bdun, bảy điểm của tư thế thiền định lý tưởng:
chân xếp chéo theo tư thế kim cương (vajra), lưng thẳng, tay
kết ấn thiền định, mắt nhìn hướng về đầu mũi, cằm
hơi gấp vào, hai vai kéo ra sau “giống như cánh chim kên kên”
và đầu lưỡi chạm vòm họng.
162.
Việc giữ lưng thẳng cho phép năng lực vi tế (rlung) lưu thông
tự do trong các kinh mạch vi tế (rtsa). Đây là một mối liên
hệ mật thiết giữa cơ cấu vật lý vi tế này và những
hoạt động của tâm. Người ta nói rằng tâm cưỡi trên năng
lực này giống như một kỵ sĩ cưỡi ngựa.
163.
Những pháp toàn thiện siêu việt của phương tiện (thabs),
sức mạnh (stobs), nguyện lực (smon lam) và trí tuệ nguyên
sơ (ye shes) được cộng thêm vào với sáu pháp toàn thiện
siêu việt (lục độ ba la mật), làm thành mười pháp toàn
thiện siêu việt (thập độ ba la mật).
164.
Điều này có nghĩa là không đè nén các niệm tưởng mà cũng
không chạy theo chúng, không cố ý biến đổi trạng thái tâm
của ta hoặc cố đạt được một trạng thái thiền định
đặc biệt. Theo một nghĩa nào đó thì mọi niệm tưởng mê
lầm là những biến đổi của dòng tuôn chảy tự nhiên của
Giác tánh.
165.
Đó là không có gì để hổ thẹn khi đứng trước Tam Bảo.
166.
Định là sự vắng bặt của những sao lãng. Nguồn mạch của
sao lãng đến từ việc coi rằng các ảo tướng như thật
có. Thiền định về những ảo tướng như chính là các Bổn
Tôn (có nghĩa rằng đây là những hiển lộ của trí tuệ
thanh tịnh chứ không có một thể chất nội tại) sẽ giúp
ta tập trung tư tưởng, đạt được định.
167.
nges shes, nghĩa đen: “những điều chắc chắn,” được dùng
ở đây để chỉ những quan điểm cực đoan (biên kiến) như
là chủ nghĩa vĩnh hằng và chủ nghĩa hư vô; hai chủ nghĩa
này cho rằng các hiện tượng hoặc có hiện hữu, hoặc không
hiện hữu một cách dứt khoát.
168.
“Ở đây srid pa (vòng sinh tử luân hồi) ám chỉ bất kỳ
những gì người ta tin là thật có và bị dính mắc vào đó.”
DKR
169.
Bởi kiến - là sự nhận biết hay trực nghiệm tánh Không
- người nhận biết, cái được nhận biết và tiến trình
nhận biết được xem như là không có bất kỳ thực chất
nội tại nào. Tất cả chỉ xuất hiện như sự phô diễn
huyễn hóa của Giác tánh, rỗng rang và chói sáng tự nhiên.
170.
Sự hợp nhất của ảo tướng và tánh Không, Giác tánh và
tánh Không, hỉ lạc và tánh Không, và tánh sáng (clarity) và
tánh Không.
171.Điều
này có nghĩa là hành động mà không bị đắm nhiễm các vọng
niệm; có thể nhận biết ra được rằng người làm hành
động, chính hành động đó, và đối tượng mà hành động
đó hướng đến, cả ba đều hoàn toàn không có một thực
chất nội tại.
172.
Trước khi dấn mình vào pháp tu tập này, ta nên nhận lễ
quán đảnh Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) từ một bậc nắm
giữ dòng truyền thừa có đầy đủ phẩm hạnh. Nói chung,
từ quan điểm này, chỉ nên thực hiện các pháp tu tiếp theo
trong phần còn lại của bản văn này dưới sự dẫn dắt
của một vị Thầy có phẩm hạnh.
173.
Trong các pháp tu của Kim Cương Thừa, ta coi Bổn Tôn được
quán tưởng như vị Thầy gốc của ta, Ngài đại diện cho
tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
Vajrasattva hay Kim Cang Tát Đỏa (Tây Tạng: rdo rje sems dpa’)
là một vị Phật đặc biệt, như một vị Bồ Tát, Ngài đã
phát thệ nguyện rằng bất kỳ ai trì tụng minh chú của Ngài
sẽ tịnh hoá được mọi hành động xấu ác tiêu cực và
những che chướng của họ. Danh hiệu của Ngài ám chỉ sự
thuần tịnh không thể bị hủy diệt của chân tánh.
174.
Angulimala là người đã được truyền cho một giáo lý sai
lầm rằng ông ta sẽ được giải thoát bằng cách giết hại
một ngàn người và thâu thập một ngón tay từ mỗi người
do ông giết. Ông đã giết hại chín trăm chín mươi chín người,
và khi đang trên đường đi giết mẹ mình cho đủ số một
ngàn người thì gặp Đức Phật, và ông ta cố tình giết
Ngài để thay thế. Do thần lực của Đức Phật mà ông không
thể tấn công Ngài. Sau đó Đức Phật đã thuyết giảng cho
ông và chuyển tâm ông hướng về Pháp.
175.
Nanda là tiêu biểu cho loại người cực kỳ tham muốn đạt
được giải thoát; Angulimala là điển hình của những người
cực kỳ vô minh; Darsaka (tên khác của Ajatasatru, A Xà Thế)
là điển hình của tánh cực kỳ thù nghịch; Sankara là điển
hình của những người cực kỳ tham luyến và sân hận. Nanda
và Angulimala trở thành những vị A La Hán, Darsaka trở thành
một Bồ Tát, và Sankara được tái sinh trong một cõi Trời
và kết quả là đạt được Kiến Đạo – con đường của
cái thấy.
176.
NT mô tả điều này như sự hỗ trợ bên ngoài.
177.
NT mô tả quy y, phát khởi Bồ Đề tâm, và đặc biệt là
lòng bi mẫn như sự hỗ trợ bên trong.
178.
NT nói về sáu điều cần quán chiếu suy niệm trong khi phát
tâm ân hận: 1) Thời gian: ân hận về tất cả mọi hành động
tiêu cực mà ta đã làm từ vô thuỷ tới nay, trong đời này,
trong một tháng đặc biệt, hay trong một ngày, trong chốc lát,
và v.v... 2) Động lực: ân hận về tất cả mọi hành vi đã
mắc phạm dưới thế lực của tham, sân và si. 3) Sự tích
tụ: ân hận về bất kỳ những gì tiêu cực thuộc thân,
khẩu, ý ta đã tích tụ. 4) Bản chất của hành động: ân
hận về những hành động tự bản thân là tiêu cực (chẳng
hạn như mười ác hạnh, năm hành vi có quả báo tức thời,v.v...)
và những lỗi lầm đặc biệt, những vi phạm thệ nguyện
của ta và v.v... 5) Đối tượng: ân hận về tất cả mọi
tà hạnh, dù chúng được hướng đến sinh tử hay Niết Bàn.
6) Nghiệp (karma): ân hận về mọi hành vi ác hại và những
sa ngã là những điều khiến ta có một thọ mạng ngắn ngủi,
nhiều bệnh tật, nghèo túng, sợ hãi kẻ thù và lang thang
không dứt trong các cõi thấp.
179.
Việc in ấn và phát hành tài liệu kinh sách linh thiêng đều
được xem như một pháp tu mạnh mẽ để tích lũy công đức
và tịnh hoá những chướng ngại, với điều kiện là việc
này được thực hiện một cách thanh tịnh như một pháp cúng
dường không có chút tư lợi nào.
180.
dag pa dran pa: Thành ngữ Tây Tạng này có nghĩa đen là “nhớ
lại sự thuần tịnh.” Có nghĩa là mỗi yếu tố quán tưởng
không chỉ đơn thuần là một hình ảnh mà đều mang một
ý nghĩa đặc biệt, và khi thực hành thì ta cần giữ hiểu
biết về những ý nghĩa này. Trong những đoạn tiếp theo sau
đó, sẽ có những đoạn giảng giải về các yếu tố và
ý nghĩa của pháp tu này liên quan tới bốn lực tịnh nghiệp
như thế nào. Mặc dù ở đây chúng ta chỉ đang nói đến
những pháp tu dự bị, nhưng nhiều vấn đề được đề cập
tới trong chương này cũng hữu ích trong công phu hành trì chính
yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu.
181.
Trong phần thực hành chính yếu (xem Dẫn Nhập), ta thường
tự quán tưởng mình trong sắc tướng của một Bổn Tôn.
Ở đây trước tiên ta coi mình như người bình thường và
bất tịnh, và nhờ tu tập thực hành mà ta trở nên thanh tịnh.
Vì thế, lúc bắt đầu ta nghĩ tưởng thân mình như đang ở
trong thân phàm (trong thân tướng bình thường hàng ngày).
182.
ston pa: Danh hiệu phổ thông này của Đức Phật có nghĩa đen
là “người khám phá” (Thế Gian Giải) và có nghĩa là vị
Thầy giảng giải Pháp lần đầu tiên trong đại kiếp và
thế giới này của chúng ta. Đức Kim Cang Tát Đoả là vị
Thầy đầu tiên của nhiều truyền thống Kim Cương Thừa cũng
giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng tạo ra
Quả Thừa.
183.
Ở đây chày và chuông tượng trưng cho phương tiện thiện
xảo và trí tuệ.
184.
Chuỗi hạt ngắn xuống tới ngực, chuỗi dài xuống tới rốn.
185.
Nhân vật nữ tượng trưng cho trí tuệ, và nhân vật nam tượng
trưng phương tiện thiện xảo; ở một khía cạnh khác thì
nhân vật nữ tượng trưng tánh Không và nhân vật nam tượng
trưng sắc tướng, hoặc các nhân vật này lại có thể tượng
trưng Pháp giới tối thượng và trí tuệ nguyên sơ. Sự giao
hợp của các Ngài biểu thị rằng trong trạng thái Giác Ngộ,
tất cả những điều này được kinh nghiệm như là một sự
bất khả phân.
186.Đây
không phải là những kinh mạch vật chất mà là những đường
kinh nhỏ trong đó các năng lực vi tế trong thân lưu thông.
Tầm quan trọng của những kinh mạch này trở nên rõ ràng
khi ta thực hành các pháp tu du già của giai đoạn toàn thiện
trong phần thực hành chính yếu.
187.
Khi chất cam lồ tràn ngập từng luân xa, ta nhận lãnh một
năng lực gia trì tương ứng, như đã được đề cập tới
trong mỗi một pháp quán đảnh trong số bốn pháp quán đảnh
trong đoạn này.
188.
Nghĩa đen: “trạng thái hợp nhất siêu vượt cái học,”
“sự hợp nhất” ám chỉ sự hợp nhất của sắc thân và
Pháp Thân. Trong năm con đường tu của Bồ Tát, con đường
siêu vượt cái học là con đường thứ năm, và ám chỉ trạng
thái Phật Quả tối thượng.
189.
Năm màu sắc này tượng trưng cho năm Phật Bộ, mỗi màu tượng
trưng cho một khía cạnh đặc biệt của trí tuệ.
190.
Ở đây, những từ dag và ma dag cũng có thể được hiểu
trong phạm vi của việc trì tụng tất cả các âm tự của
câu minh chú một cách đúng đắn hay ngược lại. Nhưng theo
như giải thích trong đoạn theo sau nên hai từ này được dịch
là “thuần tịnh” và “bất tịnh”.
191.bskyed
rim gsal ‘debs, trước khi thực sự trì tụng câu minh chú thì
phải tụng đọc phần mô tả hình ảnh quán tưởng và mô
tả những tiến trình khác nhau của pháp thiền định. Đây
là cấu trúc tiêu chuẩn của những nghi quỹ sadhana (sgrub thabs,
nghĩa đen: phương tiện của sự thành tựu) được dùng cho
của bất kỳ Bổn Tôn nào. Những nghi quỹ như thế không
chỉ được sử dụng trong các buổi lễ cho một nhóm đông
vì các mục đích đặc biệt, mà cá nhân có thể sử dụng
để hành trì.
192.Việc
sử dụng thuốc lá gây ô nhiễm hệ thống kinh mạch và ô
nhiễm các năng lực vi tế và vì thế đưa đến một hậu
quả tai hại trong tâm thức ở một mức độ sâu xa.
193.
Đây là những từ ngữ của phần cúng dường trong nghi quỹ
sadhana, và được lập lại sau khi trì tụng minh chú và trước
khi kết thúc.
194.
Hình ảnh này cho thấy về mặt nghiệp báo, việc sử dụng
những vật cúng dường như thế thì rất nguy hiểm và có
thể dẫn tới việc tái sinh trong các địa ngục.
195.Khi
ta đã nhận một quán đảnh, năng lực của công phu hành trì
cần được duy trì bởi một thời công phu hằng ngày, ngay
cả chỉ ngắn gọn. Ở đây các vị Lạt Ma đang hành trì
các pháp tu như thế trong buổi lễ hơn là trong thời gian công
phu riêng của các Ngài.
196.
Ba mạn đà la của thân, khẩu và ý của vị Thầy.
197.“Uống
sức sống của bạn” có nghĩa là huỷ diệt sinh lực của
bạn. Mật Thừa khiến ta tiếp xúc với chân tánh và những
năng lực nền tảng nhất của ta. Nếu chúng ta giữ gìn các
mật nguyện thì nhờ đó ta sẽ tiến bộ nhanh chóng. Còn nếu
không, ta tạo nên một lực tự huỷ mạnh mẽ. Lực tự hủy
này được gọi là “yêu quái kim cương” và đối ngược
lại với các Bổn Tôn trí tuệ.
198.
Hoàn toàn mắc phạm một sa ngã tối quan trọng nghĩa là vi
phạm có chủ ý một trong những giới nguyện căn bản của
Tăng đoàn, trong một tình huống lẽ ra có thể làm khác được.
199.
Nghĩa là trong đó một nhân vật duy nhất là hiện thân của
tất cả các Bổn Tôn. Điều này được giảng đầy đủ
hơn trong chương Bổn Tôn Du Già (Guru Yoga).
200.
Hai chi thuần tịnh là trước hết, đạt được sự thuần
tịnh của Phật tánh, và sau đó đạt được sự thuần tịnh
của việc đắc được Phật tánh và thành tựu Phật Quả.
“Theo giáo lý của truyền thống Nyingma, bản tánh thuần tịnh
nguyên sơ là Phật Quả và những phẩm tính của ba Thân đã
an trú trọn vẹn trong chúng ta, và ta không cần tìm kiếm ở
đâu khác. Nhưng nếu ta không vận dụng hai phương pháp (tích
lũy phước tuệ) như những yếu tố hỗ trợ thì những phẩm
tính này sẽ không hiển lộ được. Cũng giống như mặt trời:
mặc dù tự thân những tia sáng của nó chiếu sáng bầu trời,
nhưng vẫn cần phải xua tan những đám mây che khuất bầu
trời.” NT
201.
bsags sbyang rang sar dag kyang, nghĩa đen: “ngay cả khi chính tự
hai pháp tích lũy công đức và tịnh hoá cũng đều là thuần
tịnh.”
202.
Những hướng dẫn tiếp theo sau đây đôi khi hoàn toàn có
tính chất kỹ thuật và có dụng ý để bổ sung cho những
giảng dạy khẩu truyền; thông thường, (trong phần khẩu truyền),
có kèm theo phần trình bày (vị Thầy sẽ biểu diễn và chỉ
cho cách làm).
203.
Chúng ta cúng dường trong sự hiện diện của một mạn đà
la thành tựu. Đúng hơn, mạn đà la này được sử dụng khi
người ta có thể dùng một tượng Phật. Đây là biểu tượng
của cõi Phật toàn hảo của năm vị Phật tượng trưng cho
năm trí tuệ. Bởi đây là năm trí tuệ ta muốn thành tựu
nên mạn đà la này được gọi là mạn đà la thành tựu.
204.
Quy ước trong một mạn đà la là: phía trước là phương đông,
phía sau là phương tây, và v.v… Ở đây mạn đà la được
xoay đối diện với hành giả, vì thế nên cạnh phía đông
thì gần nhất.
205.
Tâm.-Yếu của Đại-Quảng-Trí (klong chen snying thig / Longchen
Nyingtik) là một trong nhiều giáo lý Tâm-Yếu. Giáo lý tâm-yếu
quan trọng nhất trong số đó là Tâm-Yếu của Thiên Nữ Trí
Tuệ (Dakini) (mkha’ ’gro snying thig) và Tâm-Yếu của Vimalamitra
(bi ma snying thig), được trao truyền cho Yeshe Tsogyal và Vimalamitra
một cách tương ứng. Cả hai giáo lý này từng được truyền
xuống qua dòng truyền thừa của Longchenpa.
206.
Một “hàng rào sắt” được làm sẵn là một cái vòng,
thường bằng kim loại mà người ta dùng để đựng tầng
đầu tiên gồm những vật cúng dường mạn đà la. Cái vòng
này tượng trưng vòng núi bao quanh thế giới. Tiếp theo, một
vòng thứ hai đựng các vật cúng dường gồm tám thiên nữ
và vòng thứ ba gồm mặt trời, mặt trăng v.v… Vật
trang hoàng cho đỉnh mạn đà la được đề cập tới sau này
chỉ đơn giản là một vật trang hoàng có dáng một viên ngọc
mà người ta đặt trên đỉnh vào lúc cuối. Những phẩm vật
hỗ trợ này là những thứ thêm vào để giúp cho phần cúng
dường thêm trang nghiêm mà nếu không có chúng thì việc cúng
dường vẫn hoàn toàn đúng đắn.
207.
Nếu bạn sắp đặt mạn đà la để phương Đông hướng về
phía bạn thì khi tụng “Con xin cúng dường mạn đà la này...”
bạn có thể xoay tròn mạn đà la đã đầy đủ để cuối
cùng nó đối diện với mạn đà la thành tựu.
208.
Bản văn giảng dạy căn bản cho các thực hành sơ bộ này
là Luận Giải Về Pháp Tu Dự Bị của Giáo Lý Tâm-Yếu của
Đại-Quảng-Trí (Explanation of the Preliminary Practice of the Heart-Essence
of the Vast Expanse) do ngài Jigme Lingpa soạn. Mỗi
yếu
tố của mạn đà la có vài trình độ ý nghĩa khác nhau, tương
ứng với các trình độ thực hành khác nhau.
209.
Mặc dù phẩm vật cúng dường này còn bình thường hơn các
mạn đà la tiếp theo, tuy nhiên đây là việc cúng dường một
vũ trụ lý tưởng, như là những gì đã được các bậc tiến
hoá rất cao đón nhận được trong các linh kiến thuần tịnh.
Vũ trụ này không giống như vũ trụ hằng ngày tràn đầy
đau khổ mà người phàm phu nhìn thấy qua tri kiến mê lầm.
210.
mi mjed ’jig rten. Theo lời giảng dạy của DKR, có hàm ý của
một cách đánh vần khác (mi ’byed, không bị chia chẻ) thì
trong thế giới này, những cảm xúc có một sức mạnh kinh
hồn nên chúng sinh không thể nào xa lìa được những xúc
cảm đó.
211.
bkod pa chen po lnga, nghĩa đen là năm sự sắp xếp vĩ đại.
Đây là các cõi Phật của chư Phật trong năm Phật Bộ.
212.
Giống như Ngài Milarepa ở những chốn hẻo lánh trong núi non
nơi không có ai tiếp tế thực phẩm, và sống bằng cách ăn
rau tầm ma.
213.
Trong cách cúng dường mạn đà la đơn giản này, ta chỉ dùng
bảy nhúm (tụ) hạt để tượng trưng cho Núi Tu Di, bốn trung
châu, mặt trời và mặt trăng.
214.
zhal zas: một thuật ngữ tôn kính để gọi thực phẩm. Trong
trường hợp này, việc cúng dường thực phẩm được tượng
trưng bởi một loại bánh cúng torma mang tên này.
215.
Các ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động.
216.
Việc tinh chiết các tinh chất (bcud len) là một phương pháp
khiến ta có thể chỉ cần tiêu thụ một vài chất thể và
nguyên tố với một số lượng nhỏ xíu mà không phải dùng
thực phẩm thông thường. Đây là căn bản cho các pháp tu
vi tế để tịnh hoá thân thể và tinh lọc tâm thức.
217.
Đi lên hay đi xuống có thể được áp dụng cho những đặc
tính của các đại kiếp khác nhau, hoặc ám chỉ một khung
thời gian nhỏ bé hơn: ví dụ như thời đại hiện nay của
chúng ta là một kỷ nguyên suy thoái so với thời của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni.
218.
Thuật ngữ được dùng ở đây cho thân thể là phung po, cũng
ám chỉ các “uẩn”, có nghĩa là những thành phần tâm sinh
lý tạo nên một cách tương thuộc cái mà ta cho là bản thân
mình.
219.
Mẹ: người nữ tức là trí tuệ hay tánh Không; được mô
tả như mẹ của tất cả chư Phật bởi ta thành Phật khi
chứng ngộ tánh Không.
220.
ma cig khro ma nag mo, Phạn: Krodhakali.
221.
Âm p’et (thường được phát âm là “pay” hay “pet”, mặc
dù có nhiều biến cách) được hô lên một cách cộc lốc,
cốt để cắt đứt tiến trình tạo tác của vọng niệm.
222.
a thung được Patrul Rinpoche sử dụng ở đây so với a shad
quen dùng hơn, nghĩa là “vạch của a,” là một đường vạch
đơn giản, đậm ở một đầu và nhọn,(
) tạo thành một phần của mẫu tự A của Tây Tạng
. Trong pháp thực hành này, đường vạch này nằm lộn ngược
xuống, khiến nó có hình dáng của một ngọn lửa.
Trong nhiều pháp môn, chữ hang cũng nằm lộn ngược, mặc
dù điều đó không được đề cập tới trong bản văn này
của chúng ta.
223.
Chất cam lồ: Phạn: amrita, nghĩa đen: “kẻ bất tử,” được
dịch sang tiếng Tây Tạng là bdud rtsi, chất cam lồ (rtsi) chiến
thắng được ma quỷ (bdud) của cái chết. Đây là một biểu
tượng của trí tuệ. Tinh khiết (zag med) có nghĩa là “không
bị ô uế bởi những cảm xúc phiền não.”
224.
dpal mgon bdun cu rtsa lnga, một vài vị Hộ Pháp trong số những
Hộ Pháp danh tiếng nhất của Tây Tạng. Các Ngài được coi
là các Hoá Thân của Mahakala.
225.
Trong pháp môn này, lưỡi của chư Phật và Bồ Tát có hình
dạng tượng trưng của phân nửa của chày kim cang, và tượng
trưng cho thân trí tuệ bất hoại, chiếc lưỡi kéo dài thành
một ống ánh sáng, tượng trưng khả năng đón nhận các phẩm
vật cúng dường của các Ngài.
226.
Nghĩa
đen: “Móùn nợ cho các lâu đài ở trên và cho các cánh đồng
bên dưới,” có nghĩa là món nợ chúng ta nợ những chúa
công vì ta có được sự che chở của họ khi chúng ta làm
những người thuê mướn (dưới quyền của họ), và món nợ
chúng ta nợ
các
tá điền cho mùa màng mà ta đã nhận của họ khi chúng ta
là những chúa công.
227.
Bốn điều sau cùng này ám chỉ các thành tựu tâm linh.
228.
Xem Phần Một, Chương Ba, Mục II.
229.
snyems, nghĩa đen: tánh kiêu ngạo, tự phụ, được dùng trong
chương này với nghĩa rất đặc biệt là bám chấp tin tưởng
vào “cái tôi” (chấp ngã hay ngã mạn).
230.
“Theo Quả Thừa, bốn ma quỷ gồm có: 1/ Ma quỷ thuộc các
uẩn, phung po’i bdud, ám chỉ những gì phải chết hay hoại
diệt. (Không có năm uẩn thì sẽ không có sự hỗ trợ, hay
nền tảng, để cho những đau khổ của sinh tử luân hồi
trổ sinh). 2/ Ma quỷ thuộc các cảm xúc tiêu cực, nyon mongs
pa’i bdud, tức là tác nhân của cái chết. (Những cảm xúc
này phát sinh từ sự bám chấp tin tưởng vào một bản ngã,
gây nên các hành động tiêu cực. Hành động tiêu cực tạo
ra nghiệp và do nghiệp mà chúng ta phải sinh ra và chết đi
một cách bất lực). 3/ Ma quỷ thuộc Thần Chết, ‘chi bdag
gi bdud, chính là cái chết hay sự hoại diệt. (Đó có nghĩa
là cái chết được hiểu theo nghĩa thông thường, là cái
gì chắc chắn phải xảy ra theo sau sự sinh ra đời. Một cách
vi tế hơn, đây là sự vô thường xảy ra tự nhiên trong từng
giây phút, và tự bản chất, sự kiện này rất là đau khổ.)
4/ Ma quỷ thuộc những đứa con trai của các vị Trời. lha’i
bu yi bdud, là cái ngăn cản chúng ta đạt tới trạng thái an
bình siêu vượt cái chết. (Trong khi thực hành, điều này
ám chỉ sự phóng dật, các niệm tưởng tham đắm ngoại vật).
“Theo
Mật Thừa, bốn ma quỷ là: 1/ Ma quỷ hữu hình: những sự
vật và chúng sinh bên ngoài gây tác hại cho thân và tâm ta.
2/ Ma quỷ vô hình: tham, sân và si, và 84.000 loại cảm xúc
tiêu cực phiền não gây nên mọi đau khổ của sinh tử luân
hồi. 3/ Ma quỷ hả hê: có nghĩa là sự hả hê mà ta cảm
thấy khi nghĩ rằng vị Thầy tâm linh của riêng mình, các
giáo lý mình đã thọ nhận và các thực hành mình tham dự
vào thì thật là khác biệt, và cho rằng các huynh đệ và
tỉ muội Kim cương của mình thì siêu việt hơn của những
người khác. Đặc biệt hơn nữa, đó còn là sự mê đắm
mà người ta cảm thấy khi thành tựu “hơi ấm” hoặc thành
tựu một năng lực nhỏ bé nhất của công phu hành trì. 4/
Ma quỷ chấp ngã mạn là gốc rễ của ba loại ma quỷ kia:
đó là tin tưởng vào “tôi” và “của tôi;” sự tự phụ
này khiến chúng ta nhận năm uẩn là “tôi” và “của tôi:”
nếu ta tiêu diệt ma quỷ này, tất cả ma quỷ bên ngoài sẽ
tự diệt mà không cần làm bất kỳ điều gì để tiêu diệt
chúng.”
231.
“Bà Mẹ Tôn Kính“ tức là Machik Labdron, là vị đang được
nói đến trong đoạn trích dẫn này.
232.
Thường diễn đạt Giáo Pháp một cách tượng trưng với một
bài kệ bốn giòng.
233.
Ta thường dùng thuật ngữ Phạn bởi vì dễ sử dụng hơn
Tạng ngữ (bla ma’i rnal ’byor) hay Anh ngữ. Cũng như chỉ
đơn giản muốn nói “tu tập dựa trên vị Thầy,” thì thuật
ngữ có nghĩa là “hợp nhất với chân tánh của tâm Thầy.”
234.
Trong triết học Phật Giáo, tánh Không được thiết lập trên
căn bản của lý lẽ luận lý. Đây không phải là một sự
đeo đuổi thuần tuý trí thức nhưng là một thực tập tâm
linh, dùng ý niệm để bẻ gãy ý niệm.
235.
dpe’i ye shes. Chẳng hạn như trong Anuyoga (A-Nậu Du Già), qua
việc thực tập dựa vào các kinh mạch và năng lực (vi tế),
ta kinh nghiệm đại lạc tánh Không, điều đó cho ta một biểu
thị về hương vị của trí huệ nguyên sơ chân thật luôn
luôn an trú trong ta nhưng ta không thể nhận ra. Đúng hơn, đây
giống như là một bức tranh vẽ con voi khiến ta có thể nhận
ra con voi thực sự. Trong Đại Viên Mãn, bản tánh của tâm,
là trí huệ nguyên sơ chân thật, được trực chỉ (truyền
đạt trực tiếp).
236.
“Người ta nên coi Ngài như một vị Phật bằng cách nào?
Theo Tiểu Thừa thì thậm chí không nhất thiết phải coi vị
Thầy của mình là một người đặc biệt hay một vị Phật
Độc Giác. Chỉ cần coi Thầy như một người bình thường
có một số những phẩm hạnh nào đó là đủ. Đối với
con đường Bồ Tát thì phải coi Ngài như một vị tu chứng
đã đạt một trong những quả vị siêu việt, như Hoá Thân
của một vị Phật hay ít nhất là một vị Bồ Tát đang ở
trên con đường của công phu tích lũy (tshogs lam chen po).
Trong
truyền thống của Đại Viên Mãn, sẽ không thích hợp nếu
ta coi vị Thầy của mình như một người thông thái bình thường,
như một A La Hán, như một Bồ Tát đang ở trên một trong
những mức độ chứng đắc siêu việt, như Hoá Thân của
một vị Phật, hoặc ngay cả như một Báo Thân. Ta phải coi
Ngài như Pháp Thân. Nếu ta có thể nguyện cầu Ngài với một
niềm tin bền bỉ tuyệt đối thì ta có thể khơi dậy trí
tuệ của sự chứng ngộ sâu xa (tuệ giác) mà không cần nương
vào những con đường tu nào khác.” NT
237.
NT giảng chi tiết như sau: “Nếu ta có lòng quy ngưỡng
để nhìn vị Thầy của ta như một vị Phật, tuệ giác sẽ
phát sinh cho dù ta không thực hành các giai đoạn phát triển
và thành tựu. Tân Phái Dịch Thuật cũng chia sẻ quan điểm
này. Tuy nhiên, trong Mahayoga và Anuyoga, các giai đoạn phát triển
và thành tựu là các pháp thực hành chính yếu. Nếu ta không
có gì mâu thuẫn với vị Thầy cùng các bằng hữu tâm linh
của ta, và ta hành trì bằng cách coi Thầy mình như là tinh
túy của các Bổn Tôn thì sự thành tựu đã gần kề và năng
lực gia trì sẽ tới một cách nhanh chóng.”
2238.
sgyu ma ngal gso, tác phẩm thứ ba trong Luận Giải Ba Phương
Thức An Trú (ngal gso skor gsum) của Longchenpa. Chính Ngài Longchenpa
giảng rằng tựa đề của trước tác này không chỉ được
hiểu ở ý nghĩa đây là “tìm sự an trú từ ảo hoá,”
mà cũng được hiểu là “tìm sự an trú trong ảo hoá,”
– sự ảo hoá trong trường hợp sau được hiểu như đang
ám chỉ một cách nhìn cho rằng mọi sự tựa hồ như được
phô diễn một cách kỳ diệu, không có bất kỳ thực chất
cố hữu nào.
239.
Hoàn toàn quy phục chân tánh của trí tuệ do Thầy biểu hiện
sẽ cho phép ta đón nhận được một sự truyền đạt trực
tiếp của trí tuệ đó. Không có tiến trình quy phục này
thì không thể buông bỏ sự chấp ngã được. Nguyên tắc
này áp dụng cho tất cả các giai đoạn của con đường tu,
nhưng nó trở nên mãnh liệt và dứt khoát hơn trong pháp Bổn
Tôn Du Già. Hiệu quả của bất kỳ con đường tu nào cũng
tuỳ thuộc vào phạm vi rộng lớn của sự quy phục theo cách
được tiếp cận trong pháp Bổn Tôn Du Già này.
240.
Sự hoà hợp của sắc tướng và tâm thức (snang sems ’dres
pa) ám chỉ việc ta chứng ngộ được rằng tất cả mọi
sắc tướng được sinh ra là do bởi sự tạo tác của tâm
thức, và chân tánh của tâm là tánh Không; điều này đưa
dẫn ta tới kinh nghiệm rằng mọi sự trong một cách thế
nào đó, hoàn toàn siêu vượt bất kỳ một hiện tượng nhị
nguyên chủ thể đối tượng nào, và có đặc điểm là ‘trần
trụi’ và ‘sâu sắc’ (zang thal) không bị ngăn che. PWR
241.
Đây là một hình thức của hiện tượng được gọi là thân
cầu vồng (‘ja’ lus).
242.
Pháp quán tưởng chính mình là một Bổn Tôn khiến ta vượt
lên những giới hạn của các ý niệm quy ước tầm thường
không chỉ về vị Thầy mà còn về bản thân ta. NT nói: “
Nếu quán tưởng chính mình trong sắc tướng tầm thường
của ta, ý niệm này sẽ cản trở những năng lực gia trì
đến với ta.” Cũng thế, ta quán tưởng chính mình trong một
thân tướng nữ trong sự nối kết với thân tướng nam của
Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche), như thế kết hợp các khía
cạnh trí tuệ và phương tiện; và đặc biệt là bằng cách
nghĩ tưởng mình có bản tánh của Yeshe Tsogyal, đệ tử tâm
truyền nhất của Guru Rinpoche, ta tạo được một rten’brel
(liên kết tương thuộc hay nối kết tốt lành) với mối liên
hệ phi thường giữa Thầy và trò của các Ngài.
243.
brtul zhugs kyi spyod pa: lối sống trái với thông lệ được
những hành giả cao cấp nhất tuân theo như một phương tiện
để minh chứng một cách xác quyết cái thấy (kiến) của
các Ngài. “Khi đã vượt lên các hoạt động tầm thường,
dấn thân vào những hoạt động phi thường.” DICT
244.
Hươu nai là một biểu tượng của sự thanh bình. Đức Quán
Thế Âm (Avalokitesvara) thường được miêu tả khoác miếng
da hươu trên vai Ngài. Chiếc mũ này được tô điểm quanh
viền bằng da một con hươu nhỏ.
245.
Những năng lực mạnh mẽ kinh hồn ở những nơi như thế
đem lại một sự thách thức mà các hành giả có thể sử
dụng để đối diện với những sợ hãi của họ.
246.
Một thán từ chỉ sự ngạc nhiên. “Kỳ diệu xiết bao! Sự
thuần tịnh và bao la vô tận của các hiện tượng (các pháp
hữu vi).” NT
247.
Bài Nguyện Bảy Giòng (Thất chi nguyện) như sau:
Hum!
Đản sanh ở tây bắc xứ Oddiyana
Trong
nhụy một hoa sen,
Kỳ
diệu thay, Ngài đã đạt được thành tựu siêu việt.
Ngài
lừng danh là Đức Liên Hoa Sanh,
Giáo
đoàn gồm nhiều Thiên Nữ Diệu Không (dakini)
vây quanh.
Noi
gương Ngài, con sẽ hoàn thiện bản thân -
Con
khẩn nguyện Ngài, xin hãy đến và từ bi gia hộ.
Guru
Padma Siddhi Hum.
Đây
là bài cầu nguyện Đức Liên Hoa Sanh tôn kính nhất. Bài
này
có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau, và tự bài ấy cũng
tạo
thành
một con đường tu trọn vẹn.
248.Để
không cảm thấy rằng ta chỉ đang chế tác một sự quán tưởng
giả tạo, ta mời thỉnh Đức Liên Hoa Sanh “thật” cùng
giáo đoàn từ cõi Phật của Ngài là Núi Huy Hoàng Màu Đồng
Đỏ. Những Bổn Tôn Trí Tuệ này (ye shes sems dpa’, Phạn:
jnanasattva, trí tuệ tát đoả) tan hoà và gia trì cho các Bổn
Tôn Mật Nguyện (dam tshig sems dpa’, nguyện tát đoả) mà chúng
ta đã quán tưởng. Điều tương tự diễn ra đối với các
cung điện và các yếu tố khác của cõi Phật (ở đây, tất
cả các Bổn Tôn lẫn môi trường của các Ngài như cung điện,
được bao gồm trong thuật ngữ tam tshig pa). Như chúng ta đã
thấy, sự hiện diện của Đức Liên Hoa Sanh thì luôn luôn
ở đó. Những phương tiện này dùng để phát triển niềm
tin vững chắc về kinh nghiệm đó.
249.
“Ẩn mật” bởi vì Đạo Sư Kim Cương có một khả năng
tiềm tàng để có thể làm cho công đức của các hành nghiệp
tăng trưởng. Đối với “ruộng công đức”, xem chú thích
112 và Thuật Ngữ.
250
“Có ba loại lễ lạy:
Loại
lễ lạy cao nhất là ‘gặp được cái thấy.’ Lễ lạy
với cái thấy có nghĩa là thấu hiểu rằng không có chủ
thể, đối tượng hay hành động để sinh vọng tưởng.
Loại
lễ lạy bậc trung được gọi là ‘tu tập trong thiền định.’
Trong cách tu tập này chúng ta quán tưởng đang hiện ra thành
vô số thân người, mỗi thân đang hát tụng vô số bài ca
tán thán. Ta có thể nghĩ tưởng rằng đây là một pháp tu
của giai đoạn phát triển, nhưng không phải vậy, bởi vô
số thân đã phát khởi là những thân tướng bình phàm, bất
tịnh (và không phải là những Bổn Tôn).
Loại
lễ lạy bình thường là ‘lễ lạy của lòng quy kính:’
lễ lạy bằng thân ta, tụng những bài cầu nguyện với ngữ
của ta và kinh nghiệm lòng quy ngưỡng bằng tâm ta. Bởi lòng
quy ngưỡng là một điều kiện tối quan trọng nên ta cần
trì giữ phẩm hạnh của các đối tượng quy y bao la vô hạn
trong tâm khi ta lễ lạy.” NT
Một
cách lý tưởng, ta nên cố gắng kết hợp cái thấy của loại
lễ lạy đầu tiên và pháp quán tưởng của loại thứ hai
khi ta thực hành loại lễ lạy thứ ba.
251.
Nói chung, “năm trăm ngàn pháp tu dự bị” muốn nói tới
sự thuần thục của việc tụng bài nguyện quy y, bài nguyện
Bồ Đề tâm, bài bách tự minh chú (minh chú trăm âm), cúng
dường mạn đà la, và bài cầu nguyện của pháp Bổn Sư Du
Già một trăm ngàn lần. Tuy nhiên, có những cách khác trong
việc tính đếm năm pháp hành trì (bao gồm việc lễ lạy,
ví dụ thế), và các bài trì tụng bổ sung thường được
thêm vào cho năm pháp hành trì căn bản này.
252.
Trong công phu hành trì, người ta thường tích lũy số lượng
lễ lạy theo cách nằm dài toàn thân (toàn thân áp xuống đất).
253.
Loại túi thường được dùng để vận chuyển bơ đã nhiễm
đầy chất mỡ, vì thế một khi nó trở nên khô cứng thì
việc thêm mỡ vào sẽ không ích lợi gì. Cũng thế, loại
hành giả này nắm bắt giáo lý một cách thông tuệ, và trở
nên lừ đừ, vô cảm, có cảm tưởng trước đó đã từng
nghe tất cả các giáo lý nên việc nhận
thêm
giáo lý cũng sẽ không ảnh hưởng gì tới họ, mà chỉ khiến
họ trở nên kiêu ngạo hơn nữa.
254.
Nghĩa đen: “nền móng bằng vàng của thế giới,” là nền
tảng của thế giới trong vũ trụ quan truyền thống. DKR gợi
ý rằng trong giới hạn của vũ trụ quan hiện đại nơi đây
thì có thể được coi như là tâm điểm của trái đất.
255.
“Pháp cúng dường nên được dùng như một cách đối trị
tâm bám luyến, tham lam.”
256.
Một trong Tám Pháp Vương Tử (Tám Đại Bồ Tát) (xem Thuật
Ngữ), khác biệt với Đức Phật bản nhiên Phổ Hiền.
257.
“Pháp sám hối các hành vi tiêu cực là cách đối trị tánh
ganh ghét.” NT
258.
“Những việc đưa tới giải thoát” ám chỉ các thiện hạnh
được làm trong khi áp dụng ba phương pháp siêu việt. Những
hành động tích cực tốt lành khác chỉ dẫn tới các tái
sinh tốt đẹp hơn.
259.
Vài chi tiết được đưa ra trong NT: “Mọi suối nguồn công
đức phát sinh từ chân lý tuyệt đối không bị ô nhiễm
bởi các cảm xúc tiêu cực (zag med); mọi suối nguồn công
đức phát sinh từ chân lý tương đối đều bị ô nhiễm
(zag bcas). Mọi suối nguồn công đức được thành tựu trên
các con đường tích lũy hai bồ công đức và nối kết thì
đều bị ô nhiễm; mọi suối nguồn công đức thành tựu
trên các con đường của cái thấy (kiến đạo) và thiền
định thì không bị ô nhiễm. Mọi công phu tích lũy phước
đức đều bị ô nhiễm; mọi công phu tích lũy trí tuệ thì
không bị ô nhiễm.”
260.
“Cách đối trị vô minh.” NT
261.
NT mô tả điều này như cách đối trị tà kiến, và thêm
rằng cầu nguyện sự trường thọ cho vị Thầy hay các huynh
đệ và tỉ muội Kim Cương của ta là một pháp tu hết sức
sâu xa quét sạch các chướng ngại đe dọa đời sống của
riêng ta.
262.
“Nhập Niết Bàn” trong mạch văn này ám chỉ rằng chư Phật
hay Bồ Tát đang chấm dứt những hoạt động của các Ngài
trong thế giới chúng ta, và vì thế chúng ta khẩn cầu các
Ngài ở lại (trụ thế) và tiếp tục những công hạnh này
vì lợi lạc của chúng sinh, như cư sĩ Cunda đã làm trong trường
hợp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
263.
“Cách đối trị sự bất quyết.” NT. Nếu không hồi hướng
những hành động tích cực ta đã làm, ta không biết được
chúng sẽ có kết quả ra sao.
264.
Ví dụ như nếu ta thực hiện một hành động bác ái mà không
đưa tác ý của ta vào với hồi hướng và nguyện lực, thì
hành động đó được mô tả là “không có ý hướng” (lung
ma bstan). Không rõ điều lợi lạc nào sẽ đến từ loại
hành động này. Tuy nhiên ví dụ nếu ta phát sinh một ước
nguyện, chẳng hạn như nguyện không bao giờ phải thiếu thốn
những nhu yếu của đời sống trong khi thực hành Phật Pháp,
thì hành động ấy có được một ý hướng chính xác
và sẽ dẫn tới mục tiêu ao ước.
265.
Ta có thể hồi hướng kết quả của một hành động tốt
lành cho một người đặc biệt. Tuy nhiên, để hành vi đó
thực sự có hiệu quả, ta nên hồi hướng quả lành cho tất
cả chúng sinh kể cả người đó.
266.
Từ Tây Tạng gsol ba ’debs pa ở đây, như trong hầu hết các
trường hợp trong bản văn này, được dịch là “lời cầu
nguyện” hay “khẩn nguyện.” Tuy nhiên, cũng nên được
hiểu trong ý nghĩa sâu xa và rộng rãi nhất của từ Anh ngữ,
và có lẽ với những ý nghĩa hơi khác nhau. Từ đó có nghĩa
đen là đưa ra (‘debs) một sự thỉnh cầu (gsol), nhưng gsol
cũng bao hàm sự hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi một
điều gì đó không thể sai lầm, và ‘debs là một việc làm
mạnh mẽ, quả quyết (PWR). Như vậy điều ấy còn ám chỉ
thêm một tâm thái được cảm nhận - một tâm thái hoàn toàn
xác quyết, cởi mở và tin cậy – chứ không ám chỉ riêng
hình thức của sự thỉnh cầu; ta có thể hiểu ý nghĩa của
lời cầu nguyện trong đoạn này bao hàm việc thọ nhận bốn
quán đảnh.
267.
“Điều phải được thành tựu là quả vị của bốn Kim
Cương (vajra). Các kinh mạch được tịnh hoá là thân Kim Cương,
hay Hoá Thân; các năng lực được tịnh hoá là ngữ Kim Cương
hay Báo Thân; tâm được tịnh hoá là tâm Kim Cương hay Pháp
Thân; chân tánh được tịnh hoá (của ba thân trên) là sự
bất khả phân kim Cương hay Thân Tự Tánh.” NT
268.
Thuật ngữ heruka thường được dùng cho các Bổn Tôn phẫn
nộ, nhưng thực ra muốn nói tới bất kỳ sắc tướng nào
tượng trưng cho bản tánh tối hậu của ta. “He tượng trưng
cho Pháp Giới (có nghĩa là tánh Không), ka tượng trưng cho
trí tuệ, và ru tượng trưng cho sự hợp nhất của hai cái
trên” NT. Ý nghĩa của đoạn này trong bản văn là ý nghĩa
trong bất kỳ pháp tu Kim Cương Thừa nào mà ta có thể hành
trì, bản tánh của Bổn Tôn chính yếu bao giờ cũng là Thầy
của riêng ta, do đó Ngài luôn luôn là trọng tâm tối yếu
của lòng quy ngưỡng và là suối nguồn của các năng lực
gia trì.
269.
Sau sự hợp nhất của tinh tuý của mẹ và của cha lúc thụ
thai, luân xa hoạt hiện được hình thành (luân xa này, hay
cakra, có vị trí ở rốn khi thân thể được cấu tạo). Từ
đó xuất hiện ba kinh mạch chính mà sau đó chia nhỏ thành
hàng ngàn kinh mạch khác. Xem “kinh mạch” và “luân xa”
trong Thuật Ngữ.
270.
shes bya bum ‘jug, một trong những giáo huấn về pháp du già
(yoga) giấc ngủ được tìm thấy trong giáo lý Đại Viên Mãn.
271.
Ở mức độ này, dùng các tri kiến như con đường có nghĩa
là kinh nghiệm những cái thấy đó mà không có bất kỳ ý
niệm tạo tác nào về một thực tại nội tại của tri kiến
hay của người đang có tri kiến. Sáu thức và những đối
tượng của thức trở nên không thể nghĩ lường được,
giống như không gian (Pháp Giới). Những thức này không tạo
ra tham luyến nữa và do đó không còn là một nguồn mạch
của đau khổ.
272.
Pháp quán đảnh đưa ta tới giải thoát bằng cách giúp cho
dòng tâm thức ta được thuần thục.
273.
“Quán đảnh nền tảng là như sau. Nếu ta chứng ngộ bản
tánh của tâm, là Phật tánh của ta, thì đó là ‘quán đảnh’
Niết Bàn. Nếu không chứng ngộ thì đó là ‘quán đảnh’
sinh tử. Trên con đường, quán đảnh gồm có ba yếu tố:
1)
Quán đảnh nền tảng, trong đó ta được một vị Thầy tâm
linh chân chính dẫn dắt ta vào trong mạn đà la của một vị
Bổn Tôn. Vào lúc này, giỏi lắm là ta sẽ chứng ngộ được
cái thấy (kiến) của quán đảnh viên mãn. Trong trường hợp
trung bình, ta sẽ có kinh nghiệm về hỉ lạc, về tánh sáng
và trạng thái vô niệm. Kém nhất thì ta cũng nên kinh nghiẹäm
được một niềm tin vững chắc rằng thân, khẩu và ý của
ta là ba Kim Cương, với một tâm thức không bị lung lạc bởi
bất kỳ điều gì khác. Một lễ quán đảnh hay gia lực được
thọ nhận trong cách thức này sẽ là một hỗ trợ cho con
đường Kim Cương Thừa. Tuy nhiên, việc khẩn cầu thêm nhiều
lễ quán đảnh nữa cho tới khi đầu ta bị dẹt đi (bởi
những món đồ lễ đặt lên đỉnh đầú), trong khi tâm ta
không tiến bộ chút nào thì không thể được xem như một
quán đảnh chân thực.
2)
Quán đảnh con đường. Một khi ta đã nhận quán đảnh nền
tảng, thì bất kỳ quán đảnh nào được nhận sau đó, dù
ta nhận từ vị Thầy nào khác hay nhận từ chính mình, đều
là những quán đảnh trên con đường tu Kim Cương Thừa mà
diệu dụng của các lễ ấy là chỉnh sửa và tịnh hoá.
3)
Quán đảnh đạo quả là “quán đảnh đại tịnh quang,”
quán đảnh này có được nhờ sự bất khả phân của nền
tảng và tịnh quang, và nhờ năng lực trí tuệ của quán đảnh
viên mãn. Quán đảnh đại tịnh quang có thể tiêu trừ
mọi chướng ngại của các tập khí lâu đời, hoặc tiêu
trừ các khuynh hướng của ba tri kiến của ta về tánh sáng,
kinh nghiệm tăng trưởng, và kinh nghiệm thành tựu trong thời
gian chuyển di (vào lúc chết).”
274.
Các lễ quán đảnh giúp tịnh hoá những tham đắm của ta
đối với ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới, hoàn
thiện các phẩm tính của ba Thân (kaya) trong ta và làm chín
muồi trí tuệ tịnh quang trong chúng ta.
275.
Một tên khác của Núi Màu-Đồng Đỏ.
276.
spangs rtogs, những phẩm hạnh của một vị Phật -giải thoát
khỏi mọi chướng ngại mê lầm và tập khí, và chứng ngộ
hai loại hiểu biết thấu suốt -- thấu suốt tất cả những
gì phải thấu suốt và thấu suốt bản tánh của mọi hiện
tượng và sự việc (vạn pháp).
277.
Theo giáo lý Kim Cương Thừa, Đức Phật đã hoàn toàn giác
ngộ khi Ngài xuất hiện trong thế giới và mọi hoạt động
của Ngài chỉ là một sự phô diễn để giảng dạy cho chúng
sinh.
278.
Núi Malaya, hay Malayagiri (ri ma la ya), ở Sri Lanka và thường
được coi ngang hàng với ngọn núi thiêng Sumanakuta, hiện nay
được gọi là Đỉnh Adam, cũng là một nơi có dấu chân của
Đức Phật và đã được đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) viếng
thăm. Trong vài bài tường thuật, Núi Malaya được mô tả
là “chói lọi với những tảng thiên thạch” (gnam lcag ’bar
ba).
279.
Năm Đấng Tuyệt Hảo Cao Quý Siêu Phàm (dam pa’i rigs can dra
ma lnga) là một vị Trời (grags ldan mchog skyong, Phạn: Yasasvi
Varapala), một naga (long, rồng) (klu rgyal ‘jog po, long vương
Taksaka), một dạ xoa (skar mda’ gdong, Ulkamukha), một la sát
(blo gros thabs ldan, Matyaupayika) và một con người (dri med grags
pa, Ngài Vimalakirti); hoặc theo một vài nguồn tài liệu, vua
Trời Đế Thích (Indra) (rig ‘dzin lha dbang rgyal sbyin) được
đưa vào danh sách thay cho Vimalakirti.
280.
mdo dgongs ‘dus, cũng được biết là ‘dus pa mdo. Mặc dù được
gọi là một Kinh văn (sutra), thực ra bản văn này là một
trong bốn Mật điển gốc của Anuyoga. Kinh văn này được
La Sát Matyaupayika ghi lại trong chất khoáng beryl nấu chảy.
281.
rgyud gsang ba’i snying po, Phạn: Guhyagarbha, ở đây được gọi
là Mật điển Bí Mật Huy Hoàng (dpal gsang ba’i rgyud).
282.
Câu chuyện của Garab Dorje được kể trong đoạn kế. Mặc
dù Ngài có gốc gác Ấn Độ, chúng tôi giữ nguyên tên Tây
Tạng của Ngài, bởi trong truyền thống Tây Tạng, tên tiếng
Phạn (Pramodavajra hoặc Prahevajra) của Ngài ít được dùng
tới, và tên Tây Tạng của Ngài thì có vẻ quen thuộc với
độc giả hơn.
283.
Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), rdo rje sems dpa’: rdo rje sems
có nghĩa là tâm Kim Cương, và ở đây Vajrasattva có thể được
hiểu trong ý nghĩa tuyệt đối của Giác tánh nguyên sơ (rig
pa) bất hoại.
284.
rgyal thabs spyi lugs: pháp quán đảnh không có bất kỳ tiến
trình hữu hình hay nghi lễ nào, chỉ đơn giản là sự trao
truyền đầy đủ và trạng thái Giác Ngộ tức thời từ tâm
qua tâm. spyi lugs, “rót,” ám chỉ sự trao truyền trực tiếp
này, trong khi rgyal thabs, “phương tiện của các Đấng Chiến
Thắng,” có thể được hiểu là ám chỉ cho Phật Quả và,
như một ẩn dụ, cũng ám chỉ vương quyền được ban cho,
như do một vị vua truyền cho người kế tục.
285.
yang sprul: “Hoá Thân của một Hoá Thân” vì Garab Dorje là
một Hoá Thân của đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), mà chính
Kim Cang Tát Đỏa lại là Hoá Thân của đức Phật Phổ Hiền
(Samantabhadra).
286.
Bản văn có một cách giải thích khác, ma brtsol nghĩa là “không
dụng công.” Tuy nhiên cả hai có nghĩa là không có sự tạo
tác hay vận dụng trong tâm thức. ZR
287.
byang sems rdo la gser zhun.
288.
Nyatri Tsenpo được tôn phong trong thung lũng Yarlung, một trong
bảy lãnh địa nhỏ ở trung tâm Tây Tạng, có lẽ vào thế
kỷ thứ hai hay thứ ba trước Công nguyên. (HIST cho là năm
247 trước Công nguyên). Dòng dõi của Ngài trở nên nổi danh
là triều đại Chogyal, và về sau dần dần nắm được quyền
kiểm soát một phần trọng yếu của xứ sở.
289.
Lha-Thothori Nyentsen (374-? sau Công nguyên) là vị vua thứ 28 của
triều đại Chogyal, và sự kiện mô tả được cho là xảy
ra vào năm 433 sau Công nguyên. Những niên đại này được
cung cấp trong DICT và bởi Dudjum Rinpoche trong HIST, trong tác
phẩm này Ngài nói thêm rằng một biến thể của câu chuyện,
theo đó Kinh và các linh vật khác được mô tả là đã được
những học giả thăm viếng Ấn Độ mang tới Tây Tạng. Câu
truyện biến thể này cũng có thể rất xác thực.
290.
Danh hiệu có nghĩa là “viên ngọc như ý.” Để có thêm
chi tiết, xin coi HIST.
291.
mdo sde za ma tog bkod pa (Phạn: Aryakarandavyuha sutra), một bản
thảo về Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara được tìm thấy
trong Mani Kahbum của vua Songtsen Gampo).
292.
dpang skong phyag brgya pa’i mdo (Phạn: Saksipuranasudrakanama sutra).
293.
Niên đại cuộc đời Ngài Songtsen Gampo thường được cho
là vào khoảng 609-698, nhưng theo Gendun Chophel thì là 617-650
(xem Biên Niên Bạch Sử trang 13). HIST cũng cho là Ngài sinh năm
617, trong khi các tác giả khác thì cho là năm 629.
294.
gtsug lag khang hay điện thờ trung tâm ở Lhasa, Rasa Trulnang,
ngày nay được gọi là Jokhang, có thể chỉ được xây dựng
trên những vị trí quan trọng được tiên đoán quanh Tây Tạng
và những vùng biên giới sau khi bốn điện thờ Thadul (mtha’
‘dul) hay Thuần Hóa Biên Địa và bốn điện thờ Yangdul (yang’dul)
hay Thuần Hoá Ngoại Biên, cùng những điện thờ khác đã
được xây cất. Để biết chi tiết câu chuyện và các vị
trí, xin xem HIST, quyển 1, trang 510 và các chú thích.
295.
Công chúa Văn Thành (Wen-Ch’eng Kung-chu), (người Tây Tạng
gọi là Kongjo) là con gái của Hoàng đế Đường Thái Tông
đời Đường. Pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi, và từng được một vị vua
là Phật tử xứ Bengal tặng cho Hoàng đế Trung Hoa; điện
Ramoche được xây năm 641 để an vị pho tượng này nhưng về
sau được di chuyển sang điện Rasa Trulnang (Jokhang), là nơi
hiện nay có tượng Jowo Rinpoche nổi danh. Hoàng hậu Tritsun
là con gái vua Amsuvarman xứ Nepal; pho tượng bà đem theo là
tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tám tuổi hiện thờ trong
Điện Ramoche.
296.
Truyền thuyết kể lại rằng pho tượng này (nay vẫn có thể
thấy trong điện Potala ở Lhasa) được tạc từ gỗ cây đàn
hương thân tròn trong đó người ta tìm thấy năm hình ảnh.
297.
Theo DICT, hầu hết các học giả cho rằng niên đại của Trisong
Detsen là 790-844, mặc dù theo Buton thì Ngài sinh năm 718 và theo
quyển Baikar Yasel thì là năm 730. Xin coi chú thích 301 về những
vấn đề niên đại trong thời kỳ này.
298.
sa ‘dul: một nghi lễ để tịnh hoá đất đai và chế ngự
những thế lực của đất ở nơi đó, trước khi xây dựng
một dinh thự.
299.
Ngài có thể đương đầu với mọi tình huống xuyên qua cái
thấy tối hậu. ZR
300.
Stupa (tháp) tại Bodhnath, Nepal. Xem Phần Hai, Chương Hai, Mục
I và chú thích 129.
301.
Theo Khetsun Zangpo Rinpoche, niên đại trong việc xây dựng Samye
như sau: Năm 797, Khenpo Santaraksita cúng đất. Năm 798 Ngài bố
trí nền móng. Năm 802, Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) rời
Ấn Độ, tới Samye năm 809. Năm 810 Ngài cúng đất lần nữa,
và năm 811 bố trí lại đá móng. Năm 814, Samye hoàn tất. Niên
đại tương tự được đưa ra trong HIST nhưng với lời chú
giải là cũng có thể mọi việc xảy ra ít hơn cách tính truyền
thống một chu kỳ sáu mươi năm giữa 790 và 953; nói cách
khác, có lẽ tất cả những niên đại này nên được điều
chỉnh lại bằng cách trừ đi sáu mươi năm.
302.
Ba yếu tố của giáo lý Đại Viên Mãn (shan ‘byed, la bzla
ba, rang grol).
303.
Những cuộn giấy nhỏ trên đó những biểu tượng được
viết ra mà từ đó các vị khám phá kho tàng tâm linh có thể
phát lộ toàn bộ một giáo lý hay giáo khoá. Xem Tulku Thondup,
Giáo Lý Ẩn Tàng Của Tây Tạng.
304.
Ba dòng truyền thừa của sự truyền dạy “dài” bka’ ma
là dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng (rgyal ba dgongs
pa’i brgyud), dòng truyền thừa qua biểu tượng của các bậc
Minh Trì Vidyadhara (rig ‘dzin brda’i brgyud) và dòng truyền qua
sự lắng nghe của chúng sinh bình thường (gang zag snyan brgyud).
Sáu dòng truyền thừa “ngắn” gter ma hay sự truyền dạy
các kho tàng tâm linh cũng chính là ba dòng truyền thừa được
quán đảnh do cầu nguyện (smon lam dbang bskur ba’i brgyud), dòng
niêm phong và giao phó cho các vị Không Hành nữ (dakini) (mka’
‘gro gtad rgya’i brgyud), và dòng kế thừa được phó chúc
theo tiên tri (bka’ bab lung bstan gyi brgyud). Trong đoạn này,
Patrul Rinpoche mô tả vắn tắt sự liên tục của ba dòng sau
cùng này, là những dòng đặc trưng đối với các kho tàng
tâm linh. “Việc niêm phong và giao phó cho các Không Hành nữ
(dakini)” tương ứng với việc cất dấu kho tàng trên thực
tế. Để có thêm chi tiết, xin coi HIST quyển I, trang 745. Việc
sở hữu “chín” sự truyền dạy ám chỉ các dòng truyền
thừa bao gồm bka’ma (ba) và gter ma (sáu) phương pháp truyền
dạy.
305.
Tất cả những Đạo Sư này sống trước thời Jigme Lingpa
rất lâu. Ngài gặp các Đạo Sư này và nhận giáo lý chi tiết
từ các Ngài trong các linh kiến. Ngài được biết đến là
người có một hiểu biết phi thường thọ nhận được qua
linh kiến cho dù Ngài đã không phải nhọc công chút nào trong
việc học hỏi nghiên cứu.
306.Vajradhara
(rdo rje ‘chang) có nghĩa là “Bậc trì giữ Kim Cương” (Kim
Cương Trì). Vị Thầy nắm giữ chìa khoá để đi vào bản
tánh bất hoại của ta. Điều này thường được dùng như
một cách hết sức tôn kính khi nói tới một bậc Thầy vĩ
đại.
307.
Dòng đầu của câu tục ngữ này, mgo ma tshos gong lce snyabs,
có thể được hiểu theo nghĩa đen là để ám chỉ rằng không
nên nếm một cái đầu đang được nấu cho tới khi nó sẵn
sàng (việc nấu đầu những con trâu yak hay bò được phổ
biến ở Tây Tạng, đặc biệt là trong những người chăn
cừu du mục). Tuy nhiên, ‘thè lưỡi ra’ có thể ngụ ý biểu
lộ sự đồng ý hay bằng lòng, và ‘đầu được nấu’
thì đôi khi được dùng như một sự tiên tri về sự thấu
suốt. Như vậy, theo một cách dịch khác – nếu như kém màu
sắc hơn – sẽ là “chấp nhận trước khi bạn có được
sự thấu hiểu.”
308.
“Pháp chuyển di siêu việt được thực hành bởi chư Bồ
Tát, là những vị đã thiền định về chân lý của chân
như hay thực tại tuyệt đối (chos nyid kyi bden pa) trên Kiến
Đạo (Path of Seeing), là những bậc mà ngay trong đời này,
đã phát sinh được một cái nhìn đúng đắn về bản tánh
bất biến của chân như (gnas lugs) và giữ gìn cái nhìn đúng
đắn đó suốt ngày đêm không gián đoạn. Các Ngài thực
hành pháp chuyển di theo những giáo huấn cốt tủy về pháp
chuyển di từ thân này (grong ‘pho) sang thân khác (grong ‘jug)
theo pháp môn hành trì trekcho, hoặc theo các giáo
huấn
‘đi vào bên trong thanh tịnh quang’ của pháp môn hành trì
thogal.
“Rồi
có những người trì giữ mật nguyện rất trong sạch, là
những người làm chủ được sự tỉnh giác nhưng chỉ điều
phục được tri giác của họ vào ban ngày, và không thể kiểm
soát được tri giác của họ vào ban đêm. Khi họ chết và
tiến trình tan rã cũng như các hiện tượng của ‘tánh sáng,
tăng trưởng, và thành tựu” xảy ra, thì thanh tịnh quang
của thân tuyệt đối vào lúc chết xuất hiện. Đó là thanh
tịnh quang “mẹ”, là giây phút xuất hiện của (thức) nền
tảng. Họ được dẫn dắt bởi thanh tịnh quang “con”, là
kinh nghiệm tịnh quang mà họ đã được kinh nghiệm trong đời
này. Khi hai thanh tịnh quang gặp nhau thì họ được giải thoát
trong (thức) nền tảng nguyên sơ, thuần tịnh.
“Có
những người đã bắt đầu có được những kinh nghiệm về
‘sự phát triển kinh nghiệm và huyễn tướng’ trong pháp
hành trì thogal. Vào lúc chết, khi thanh tịnh quang của thời
điểm chết xuất hiện, họ không nhận ra được tịnh quang
bởi họ không có sự chứng ngộ để nhận ra điều đó,
và không thể được giải thoát. Nhưng khi trạng thái trung
gian (trung ấm) của chân tánh của thực tại (chos nyid bar do)
xuất hiện, họ nhận ra được chân tánh và an trú trong
sự nhất như và nhờ đó, được giải thoát trong sự hiển
lộ tự nhiên (của chân như).
“Cả
hai phương thức giải thoát: giải thoát siêu việt trong đời
này và giải thoát trung bình trong giai đoạn trung ấm đều
được coi là sự chuyển di siêu việt qua dấu ấn của Pháp
Thân. (Cũng xem chú thích 314).
309.
“Pháp chuyển di trung bình được thực hành bởi những người
bắt đầu có được trí tuệ ba la mật của giai đoạn toàn
thiện. Sau khi đạt được một trình độ trong sáng của con
đường hợp nhất, họ phát sinh trí tuệ của con đường
đó và có khả năng nhập vào và lìa bỏ một huyễn thân.
Một cách khác, họ bắt đầu có được những chứng ngộ
nào đó về một sự hiển lộ thanh tịnh (rtsal nang), về sự
hợp nhất bất khả phân của hai khía cạnh phát triển
(generation)
và toàn thiện (perfection) của các Bổn Tôn và đã tự quen
thuộc với sự biểu hiện này. Vào lúc chết, như ở trong
lúc tan rã của trong giai đoạn phát triển, họ hòa tan huyễn
thân vào thanh tịnh quang. Nếu trong đời này họ đã từng
phát triển thanh tịnh quang rạng ngời (dpe’i ‘od gsal), thì
họ sẽ nhận ra được thanh tịnh quang tối thượng trong trạng
thái trung ấm, và kết quả là họ sẽ hiện ra trong thân của
vị Bổn Tôn, là đại ấn của sự hợp nhất, tuy rằng điều
này chưa siêu vượt được yếu tố của việc nghiên cứu
học hỏi (slob pa’i zung ‘jug phyag rgya chenpo).” NT
zung
‘jug yeshes kyi sku (Phạn. Yuganaddha-Jnanakaya), “Thân trí tuệ
hợp nhất,” là sự hợp nhất của sắc thân và Pháp Thân,
hay nói khác đi là sự bất khả phân của huyễn tướng và
tánh Không, hoặc của giai đoạn phát triển và toàn thiện.
“Sự hợp nhất” (zung ‘jug) có nghĩa là sự nhận thức
ra được hai khía cạnh này của chân tánh của thực tại,
không phải là hai điều tách biệt, giống như hai sừng của
một con bò, nhưng hoàn toàn bất khả phân.
310.
Pháp chuyển di này được thực hành bởi những người mới
bắt đầu trên con đường vun bồi công đức, là những người
đã nhận quán đảnh, tôn trọng các mật nguyện và có một
sự hiểu biết thấu suốt về cái thấy (kiến). Pháp này
cũng được thực hành bởiø những người sử dụng giai đoạn
phát triển như con đường tu nhưng chưa thuần thục. Mặc
dù họ không thể được giải thoát trong thanh tịnh quang vào
giây phút lìa đời hay trong trạng thái trung ấm của chân
tánh, nhưng họ có thể đóng lại con đường dẫn đến một
tử cung nào không thuận lợi, và chọn một tái sinh thuận
lợi. Nhờ lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm của họ, họ được
dẫn dắt tới một cõi Phật thanh tịnh, hay tái sinh như một
Hóa Thân (xem Thuật Ngữ) từ những bậc cha mẹ đang thực
hành Giáo Pháp. Họ sẽ được giải thoát trong đời kế tiếp.
311.Pháp
chuyển di thông thường được thực hành bởi những người
sơ cơ chỉ có lòng quy ngưỡng chí thành vào Giáo Pháp và
đã không có được dấu hiệu thành công nào trên con đường
tu để có thể tự tiên đoán được việc giải thoát của
họ.
312.Lúc
hơi thở đã ngừng nhưng trái tim vẫn chưa ngưng đập
313.Đây
là trường hợp nếu ta không có năng lực trí tuệ cần thiết.
Một cách giải thích khác có nghĩa đây không phải là cách
thích hợp để trợ giúp cho người chết.
314.mkha’
spyod gnas su khrid par byed. Điều này không nên được hiểu
theo một cái nhìn quá duy vật. “Trong thực tế, không có
điều gì và không ai dẫn dắt hay được dẫn dắt. Đây
chỉ đơn giản là sự hội tụ của tịnh quang ‘mẹ’ và
‘con’.” DKR. Thanh tịnh quang ‘mẹ’ là chân tánh căn bản
của chúng ta và chân tánh này nằm ngay trong tất cả mọi
chúng sinh, là điều mà vị Thầy đã giới thiệu cho chúng
ta. Thanh tịnh quang ‘con’ là sự tương tục của việc nhận
ra bản tánh đó là việc mà chúng ta đã nuôi dưỡng trong
công phu thực hành của mình. (Cũng xem chú thích 308).
315.Những
thành phần của thân thể có thể được tập hợp lại thành
bốn (đôi khi là năm) yếu tố bên trong (khams): 1) thịt, 2)
máu, 3) nhiệt, 4) hơi thở hay năng lực (rlung), (và trong một
số luận thư y khoa, dù không có ở đây là 5) các xoang). Những
yếu tố này tương ứng với bốn (hay năm) yếu tố bên ngoài
là: 1) đất, 2) nước, 3) lửa và 4) gió hay khí (cũng là rlung),
(và trong nhiều trường hợp 5. hư không). Cả hai yếu tố
bên ngoài và bên trong được hiểu rõ nhất như là những
đặc tính hay những trạng thái của cả hai thế giới bên
ngoài và những thành phần của thân thể bên trong, gồm có
trạng thái đặc chắc, trạng thái lỏng, nhiệt độ, sự
chuyển động và chức năng. Những kinh nghiệm được mô tả
đã xảy ra khi mà những đặc tính (trong những vai trò
đặc biệt như là những thành phần cấu thành một cơ thể
sống động) bị hư hoại, và những đặc tính này lại hòa
nhập hay “phân rã” trở lại vào trong một tổng thể bao
la hơn.
316.“Vào
thời điểm của tánh sáng, ý thức của năm cánh cửa (của
các giác quan) (sgo lnga’i shes pa) tan hòa trong tâm thức (yid
shes). Vào giai đoạn tăng trưởng, tâm thức tan hòa vào trong
tâm của các cảm xúc (nyon yid). Vào lúc thành tựu, tâm của
các cảm xúc tan hoà vào thức nền tảng (kun gzhi). Khi ta phục
hồi được ý
thức
(thời điểm được gọi là cận kề sự thành tựu), thì
thức nền tảng tan hòa vào thanh tịnh quang.” NT. Vào lúc
này có một kinh nghiệm trực tiếp của thanh tịnh quang nền
tảng. Với những người đã chứng ngộ được phần nào
chân tánh của thức nền tảng đó như là Pháp Thân và từng
nắm vững được nhận thức đó, thì ngay lúc này, khi thanh
tịnh quang mẹ và con hội tụ, sẽ là một cơ hội để có
thể đạt được giải thoát tức thời. Đối với phần lớn
mọi người, giây khắc này vụt qua không thể nhận ra, nhanh
như một ánh chớp.
317.Họ
không có được sự vững chãi không gì lay chuyển được
trong công phu hành trì, và không có được niềm tin bất thối
chuyển về chánh kiến (một cái thấy chân chính); đây là
những yếu tố cần thiết để có thể thực hành những pháp
chuyển di như đã mô tả ở trên.
318.Ở
đây, đối với “thân phàm,” thay vì thuật ngữ tha mal lus
thường được sử dụng trong những chỉ dạy về quán tưởng,
thì bản văn này dùng thuật ngữ gzhi lus, nghĩa đen là thân
“căn bản” hay “nền tảng.” Trong những thuật ngữ nói
chung, ý nghĩa cũng tương tự – thân phàm của ta – nhưng
cũng có hàm ý là thân phàm của chúng ta thì cũng huyễn hoá.
Còn bar do’i sgyu lus, “thân huyễn hoá của trạng thái trung
ấm,” nền tảng hay căn bản của mọi kinh nghiệm huyễn
hoá mà chúng ta đang trải qua trong cuộc đời hiện tại này
– thân ấy không khác gì trạng thái trung ấm của giai đoạn
hình thành (srid pa’i bar do), và chính thân ấy cũng là một
trạng thái trung ấm (skye gnas bar do). PWR. Xem Thuật Ngữ ‘trạng
thái trung ấm.’
319.Ở
đây thuật ngữ này có thể được hiểu đơn giản là tâm
thức của ta. ZR
320.Ở
đây thành ngữ này có nghĩa là một vị Phật.
321.“Người
ta muốn nói gì qua từ năng lực (rlung được tượng trưng
bởi giọt tinh chất bindu xanh lục) và tâm (sems được tượng
trưng bởi chủng tử tự hrih)? Khía cạnh chuyển động chính
là năng lực
và
khía cạnh thấu biết chính là tâm thức, nhưng tự bản chất
thì năng lực và tâm thức chỉ là một và đồng nhất.”
NT
322.
Một vị tôn giả đã khám phá được những kho tàng tâm linh
ở thế kỷ thứ 14.
323.mkha
spyod: nói chung, là một cõi Trời. Ở đây một cõi Trời “vĩ
đại” (mkha spyod chen po) được ám chỉ như thế có nghĩa
là một loại cõi Phật, được hiển lộ vì lợi ích của
chúng sinh. Một cõi Trời “nhỏ” (mkha spyod chung ngu) có thể
ám chỉ bất kỳ cõi Trời nào. (Cũng xem chú thích 314.)
324.gnam
chos. Namcho hay Giáo Lý Hư Không là một tuyển tập giáo lý
mười ba cuốn mà Ngài Mingyur Dorje, là một vị khai quật tàng
kinh trứ danh, đã thọ nhận được trong một loạt các linh
kiến. Mingyur Dorje sinh năm 1645 và tịch năm 1668 lúc hai mươi
ba tuổi. Dòng Namcho là một trong những truyền thống tu tập
chính yếu của các tu viện Nyingma thuộc phái Palyul và Kathok
ở miền Đông Tây Tạng.
325.Những
chướng ngại như thế phát sinh chủ yếu do kỹ thuật sai
lạc khi hô tiếng “Hik” trong pháp môn này. “Hik là một
âm thanh làm rút ngắn thọ mạng. Khi sử dụng âm thanh này,
ta phải kéo hơi xuống dưới rốn, kéo dài khí của phần
trên cơ thể và nhướng mắt thật mạnh mẽ nhìn vào không
gian. Nếu các chướng ngại xuất hiện, hãy nén khí ở trên
xuống, xả khí ở dưới và trải rộng khí tại rốn, và
trì tụng ba âm Kim Cương (om ah hum, phối hợp với sự hít
vào, nín hơi, và thở ra), tập trung tâm bạn vào lòng bàn
chân và mắt nhìn xuống dưới. Các chướng ngại sẽ biến
mất.” NT
326.Những
pháp tu dự bị cho “Đạo và Quảû” (lam ‘bras) của truyền
thống Sakya được đặt nền tảng trên ba loại tri giác (snang
ba gsum): tri giác bất tịnh (ma dag pa’i snang ba), tri giác hỗn
hợp được các hành giả kinh nghiệm qua các pháp thực hành
(mal ‘byor nyams kyi snang ba), và tri giác thanh tịnh (dag pa’i
snang ba).
327.Như
trong “Đại Thừa Tối Thượng Luận” (rgyud bla ma, Phạn
ngữ: Uttaratantrasastra) và những bản văn khác. ZR
328.Tây
Tạng: rig pa rtsal gyi dbang bskur.
329.Kushab
Gemang, Gyalse Shenpen Thaye hay Gyalse Rigpa’i Dorje (sinh năm 1800),
là một trong những vị nắm giữ dòng truyền thừa chính yếu
của giáo lý Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí.
330.Changchub
Dorje (1745–1821), cũng được biết là Jigme Trinle Ozer, là vị
Dodrupchen Rinpoche đệ nhất, một trong những đệ tử chính
của Jigme Lingpa, và là người đã từ bi gia hộ cho Patrul Rinpoche
khi còn bé.
331.Orgyen
Jigme Chokyi Wangpo là tên riêng của Ngài Patrul Rinpoche. Lời
tự khẩn nguyện trong đoạn này noi theo một hình thức truyền
thống. Tuy nhiên lời nguyện này có một sức mạnh đặc biệt
phát xuất từ Ngài Patrul Rinpoche, là một người đã cho ta
thấy một sự khiêm cung tương tự, toát ra từ trong cách sống
của Ngài.
332.
Jamgon Kongtrul Vĩ Đại (xem Thuật Ngữ) là một vị Đạo Sư
cùng thời với Ngài Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Wangpo; cả
ba vị đều biết nhau rất rõ, cùng học vào lúc thiếu thời
tại tu viện Shechen ở tỉnh Kham. Ngài là nhà trước tác trứ
danh, đã biên soạn và biên tập nhiều tác phẩm, và Ngài
đã viết thêm lời bạt này sau khi hiệu đính theo đúng nguyên
văn trong nguyên cảo của Patrul Rinpoche, trong khi tài liệu này
đang được chuẩn bị in bản khắc gỗ tại nhà in lớn ở
Derge.
333.
Sáu phương cách để đạt được giải thoát (grol ba drug):
qua sự nhìn thấy, lắng nghe, hồi nhớ, xúc chạm, nếm vị
và trang phục.
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đã tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 17 of 17: Đã gửi: 21 March 2010 lúc 9:42pm | Đã lưu IP
|
|
|
LỜI
VÀNG CỦA THẦY TÔI
PATRUL
RINPOCHE
Nhóm
Longchenpa chuyển Việt ngữ năm 2004
Hiệu
Đính Toàn Bộ năm 2008 Việt Nalanda Foundation ấn tống
tại Hoa Kỳ 2008
|
|
THUẬT NGỮ
A La
Hán (Arhat) – dgra bcom pa. Trở thành một A La Hán là mục đích
cuối cùng của Thanh Văn Thừa. Đây là một loại Niết Bàn,
siêu vượt sinh tử (không phải bị tái sinh trở lại), nhưng
không đạt được Phật Quả. Nghĩa đen của từ Tây Tạng
muốn nói tới những bậc đã chế ngự được kẻ thù, tức
là chế ngự được những cảm xúc tiêu cực.
A
Tỳ Đàm hay Vi Diệu Pháp (Abhidharma) – mngon pa, Luận Tạng,
một trong Tam Tạng. Đây là nền tảng của khoa tâm lý và
luận lý học Phật Giáo. Luận này mô tả vũ trụ, những
loại chúng sinh dị biệt, những bước tuần tự trên con đường
đi tới giác ngộ, bác bỏ những luận cứ sai lầm, v.v.
A
Xà Lê (Acarya) – slod dpon, 1) vị Thầy. 2) tương đương với
Đạo Sư tâm linh hay Lạt Ma. Xem Đạo Sư Kim Cương.
A
Xà Lê Liên Hoa (Acarya Padma) – slod dpon padma, Đạo Sư
Liên Hoa Sanh, xem Padmasambhava.
Adhicitta
– sems lhag can, tiền thân của Garab Dorje trong các cõi Trời.
Akanistha
(Sắc Cứu Cánh Thiên) – ‘og min, nghĩa đen “tối thượng.”
Cõi Trời hay cõi Phật tối cao. Có sáu nơi khác nhau mang tên
này, từ cõi Trời thứ tám của các vị Trời thuộc
Tứ Thiền lên tới Cõi Akanistha tối thượng, là một cõi
Phật siêu vượt mọi nghĩ bàn.
Aksobhya
(Bất Động Như Lai) – mi bskyod pa, Đức Phật Bất Động
thuộc Kim Cương Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.
Ambrosia
(Cam Lồ) – bdud rtsi, Phạn. amrita, nghĩa đen: bất tử. Chất
cam lồ (rtsi) chiến thắng quỷ ma (bdud) của sự chết. Đây
là một biểu tượng của trí tuệ.
Amitabha
(A Di Đà – Vô Lượng Quang Phật) – ‘od dpag med, nghĩa đen:
vô lượng ánh sáng. Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thuộc
Liên Hoa Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.
Amitayus
(Vô Lượng Thọ Phật)– tshe dpag med, nghĩa đen: vô lượng
thọ mạng. Đức Phật của sự trường thọ.
Amoghasiddhi
(Bất Không Thành Tựu Phật) – don yod grub pa, nghĩa đen: đấng
thành tựu những điều có ý nghĩa. Đức Phật Bất Không
Thành Tựu thuộc Nghiệp Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.
An
định (chỉ) – zhi gnas, Phạn: samatha, căn bản của mọi pháp
tu thiền định. “Tâm sao lãng do những đối tượng khác
gây ra được làm cho an định (zhi), tâm an trụ (gnas) không
xao động trong thiền định.” DICT Ananda – kun dga’ bo, một
người em họ của Đức Phật, sau trở thành thị giả của
Ngài. Ananda có công trong việc giữ gìn giáo lý sau khi Đức
Phật tịch diệt, bởi ông có thể nhớ lại tất cả những
gì mà ông đã được nghe Đức Phật giảng dạy.
Anandagarbha
– bde mchog snying po, danh hiệu khác của Adhicitta (Garab Dorje).
Angulimala
– sor mo threng ba, một trong những đệ tử của Đức Phật,
mặc dù đã từng giết hại chín trăm chín mươi chín người,
nhưng nhờ tịnh hoá các ác hạnh của mình, Ngài đã đạt
được quả vị A La Hán. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tràng
hoa các ngón tay.”
Anuyoga
(A-nậu Du Già) – đứng thứ hai trong ba nội du già (inner
yogas) và thứ tám trong chín thừa, theo cách phân loại của
phái Nyingmapa. Trong phái du già này, điểm chính yếu được
nhấn mạnh được đặt trên giai đoạn toàn thiện (thành
tựu), đặc biệt là việc thiền định về các kinh mạch
và năng lực.
Arura
và kyurura – Terminalia chebula và Emblica officinalis, các dược
thảo. Arura là biểu tượng của Đức Phật Dược Sư.
Aryadeva
(Thánh Thiên) – ‘phags pa lha (thế kỷ thứ 2), vị đệ tử
nổi tiếng nhất của Nagarjuna (Long Thọ). Ngài đã bình giảng
giáo lý của Thầy mình trong số luận thuyết về triết học
Madhyamika. Xem Trung Đạo.
Asanga
(Vô Trước) – thogs med (thế kỷ thứ 4), một trong Lục Pháp
Bảo, là vị sáng lập phái Yogachara và tác giả của nhiều
bộ luận (sastra) quan trọng, đặc biệt là năm giáo lý mà
Ngài thọ nhận từ Đức Maitreya (Di Lặc).
Atisa
– (982-1054), cũng được gọi là Dipamkara hay Jowo Atisa (jo bo
a ti sha). Đạo sư và học giả Ấn Độ vĩ đại này là một
trong những vị Thầy trưởng lão ở tu viện nổi tiếng Vikramasila,
là một đệ tử trì giữ nghiêm cẩn giới luật tu viện.
Ngài thọ nhận các giáo lý Bồ Đề tâm từ nhiều bậc Đạo
Sư quan trọng, và đặc biệt là từ Pháp vương Suvarnadvipa
(Dharmakirti – Pháp Xứng), và học tập dưới chân vị Thầy
này ở Indonesia. Ngài trải qua mười năm ở Tây Tạng, giảng
dạy và tham gia phiên dịch các bản văn Phật Giáo. Chúng đệ
tử của Ngài lập nên phái Kadampa.
Atiyoga
(Đại Viên Mãn) – pháp du già cao nhất trong ba nội du già
(inner yogas), tột đỉnh của Chín Thừa theo cách phân loại
của phái Nyingmapa. Xem Đại Viên Mãn.
Avalokitesvara
(Quán Thế Âm/ Quán Tự Tại) – spyan ras gzigs (Chenrezi), một
trong Tám Trưởng Tử (của Đức Phật). Là tinh tuý của ngữ
của tất cả chư Phật, và là ứng thân của lòng bi mẫn
của các Ngài.
Ấn
phẫn nộ (đe doạ) – sdigs mdzubs, Phạn: tarjani mudra, cử chỉ
đe doạ, chỉ tay bằng cả ngón trỏ và ngón út.
Ba
Anh em – sku mched gsum, ba đệ tử chính của Drom Tonpa: Potowa,
Chengawa và Puchungwa.
Ba
quả vị thanh tịnh (địa)– dag pa sa gsum, các quả vị
(địa) Bồ Tát thứ tám, thứ chín và thứ mười; gọi như
thế là vì các Bồ Tát ở mức độ tu chứng này hoàn toàn
thoát khỏi các chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực (phiền
não chướng). (nyon sgrib).
Ba
Cõi – xem Tam Giới.
Ba
độc (Tam độc) – dug gsum, ba loại cảm xúc tiêu cực gồm
tham, sân và si. Xem năm độc.
Ba
giới nguyện – sdom pa gsum, Phạn: trisamvara, các giới nguyện
của Biệt Giải Thoát, các giới luật Bồ Tát và các mật
nguyện (samaya) của Mật Thừa.
Ba
la mật (Paramita) – xem pháp toàn thiện siêu việt.
Bà
la môn – bram ze, một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Ấn
Độ thời xa xưa, đẳng cấp tăng lữ.
Ba
mạn đà la – dkyil ‘khor gsum, các mạn đà la của thân, khẩu
và ý là những hiển lộ của bản tánh nguyên sơ: sắc tướng
như là Bổn Tôn, âm thanh như là câu minh chú và các niệm
tưởng như là trí tuệ.
Bà
Mẹ Chân Chính Sắc Đen Phẫn Nộ – ma cig khros ma nag mo, Phạn:
Krodhakali, nghĩa đen: bà mẹ sắc đen và phẫn nộ. Một hiển
lộ của Samantabhadri trong thân tướng của Báo Thân phẫn nộ,
một khía cạnh khác của Vajravarahi (rdo rje phag mo).
Ba
môn học – xem tam học.
Ba
mươi lăm vị Phật – sangs rgyas so lnga hoặc bde gshegs so lnga,
Ba mươi lăm vị Phật Sám hối, tượng trưng cho sự toàn trí
toàn giác của chư Phật, sẵn sàng tịnh hoá các tội nghiệp
trong tất cả ba mươi lăm phương hướng trong không gian (bốn
hướng chính, bốn hướng trung gian, tám và mười sáu hướng
phụ, trung ương, điểm thấp nhất và điểm cao nhất).
Ba
Nguồn Gia Trì (Ba Lực Gia Trì - Three Roots) – rtsa gsum, Lạt
Ma, là cội gốc hay suối nguồn của các năng lực gia trì;
Bổn Tôn, là suối nguồn của các thành tựu; và Dakini (Thiên
Nữ Trí Tuệ hay các vị Hộ Thần), là suối nguồn của tất
cả các công hạnh (hoạt động).
Ba
phương pháp siêu việt – dam pa gsum. Xem pháp chuẩn bị, công
phu chính yếu và kết thúc.
Ba
Thân (kaya) – sku gsum, Phạn: trikaya, nghĩa đen: Ba Thân: gồm
ba khiá cạnh của Phật Quả: Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân.
Ba
thực phẩm ngọt – mngar gsum, đường, mật đường và mật
ong.
Ba
thực phẩm trắng – dkar gsum, sữa, bơ và sữa đông, theo
truyền thống là những món được coi là những thực phẩm
rất thanh tịnh.
Ba
thời – dus gsum, Phạn: trikala, quá khứ, hiện tại và vị
lai.
Ba
ý niệm (tạo tác) – ‘khor gsum, chủ thể, đối tượng và
hành động, được nhìn như là có một sự hiện hữu
thực sự và độc lập.
Bách
Hộ Phật – xem Trăm Đấng Hộ Phật.
Bách
Tự Minh Chú (Một Trăm Âm) – yig brgya, bài chú của Đức
Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), tượng trưng cho tinh tuý của
Trăm Đấng Hộ Phật (Bách Hộ Phật).
Bài
ca Kim Cương – rdo rje mgur, bài ca (mgur) diễn tả những kinh
nghiệm nội tại của một hành giả du già (yogi) và sự chứng
ngộ của Ngài về bản tánh bất hoại (kim cương) tối hậu.
Bản
tánh chân không, tánh sáng và lòng bi mẫn – ngo bo, rang bzhin,
thugs rje. Cái thấy của Đại Viên Mãn: chân tánh cốt tuỷ
của tâm và tất cả các hiện tượng đều là tánh Không;
sự hiển lộ của chân tánh ấy là tánh sáng; lòng bi mẫn
của tánh ấy thì bao trùm rộng khắp.
Bảo
Sanh Như Lai (Ratnasambhava) – rin chen ‘byung gnas, Đức Phật
thuộc Bảo Sanh Bộ. Xem ngũ bộ Phật.
Báo
Thân (Sambhogakaya) – longs spyod rdzogs pa’i sku, Thân Thọ Dụng
Viên Mãn (Body of Perfect Enjoyment), thể tánh chói sáng tự nhiên
của Phật Quả, chỉ các bậc chứng ngộ cao mới nhận biết
được.
Bảy
báu vật cao quý (Thất thánh tài) – ‘phags pa’i nor bdun,
Phạn: saptadhanam, niềm tin, giới luật, rộng lượng (bố thí),
kiến thức, tận tâm, khiêm tốn và trí tuệ.
Bám
chấp – ‘dzin pa, nghĩa đen; nắm giữ, cũng có nghĩa là có
một sự tin tưởng. Vì thế “chấp ngã” cũng có thể được
hiểu là “tin vào một cái Tôi.”
Bậc
khám phá kho tàng tâm linh (Khai Mật Tạng Vương), xem kho tàng
tâm linh.
Bậc
siêu phàm – skyes bu dam pa, “bậc chứng ngộ có khả năng
hoạt động vì lợi lạc của những chúng sinh khác trong một
phạm vi rộng lớn.” DICT.
Bẩm
sinh (trí tuệ, hỉ lạc…) – lhan skyes, Phạn: sahaja, nghĩa
đen: đồøng sinh ra, có nghĩa là trí tuệ, tâm thái hỉ lạc,
và Niết Bàn nói chung đều hiện diện tiềm tàng trong ta cho
dù ta kinh qua vô minh, đau khổ và luân hồi sinh tử. Hai phương
diện của một bản tánh và cùng một bản tánh thì “đồng
sanh”, nhưng được xem như là như những gì đối nghịch
bởi những tâm thức không giác ngộ.
Bất
Động Phật – xem Aksobhya hay Điều Hỷ Quốc.
Bất
Không Thành Tựu Phật – xem Amoghasiddhi.
Bằng
hữu tâm linh – chos grogs, các đệ tử của cùng một vị
Đạo
Sư, hay của những vị mà ta đã nhận giáo lý. Có được
những mối liên hệ hài hoà với những người như thế được
coi là điều trọng yếu, nhất là trong Kim Cương thừa.
Bhagavan
(Thế Tôn) – bcom ldan ‘das, một danh hiệu của Đức Phật.
Ngài từng chế ngự bốn quỷ ma, sở hữu (ldan) mọi phẩm
tính của chứng ngộ, và siêu vượt (‘das) sinh tử và Niết
Bàn.
Brahma
(Phạm Thiên) – tshangs pa. Trong Phật Giáo, Brahma không được
coi là một vị Hộ Phật trường cửu mà chỉ như là một
vị cai quản chư Thiên của cõi Sắc Giới.
Bhrikuti
– jo mo khro gnyer can, một trong những thân tướng của Đức
Quan Âm (Tara), nữ Bồ Tát của lòng từ bi. Danh hiệu này có
nghĩa là “Ngườiø đàn bà với một cái chau mày trang nghiêm
phẫn nộ.”
Biển
hồ – rol pa’i mtsho chen, “bảy hồ nước bao quanh Núi Tu
Di, trong đó các Long Vương sinh sống và nô đùa.” DICT.
Biệt
Giải Thoát Giới (Ba la đề mộc xoa) – so sor thar pa, nghĩa
đen: giải thoát cá nhân. Phạn: Pratimoksha. Các giới nguyện
giải thoát cá nhân gồm có tám loại giới nguyện được
dạy trong Vinaya (Luật Tạng), từ giới nguyện đơn giản trong
một ngày cho tới các giới nguyện đầy đủ của các tăng
sĩ thọ cụ túc giới. Xem ba giới nguyện.
Bindu
(Giọt tinh chất) – thig le, nghĩa đen: một vòng tròn, quả
cầu, điểm tròn hay giọt, nhưng cũng cùng một loại với
những ý nghĩa trừu tượng hơn. Chúng tôi đã dùng Phạn ngữ
này trong chương viết về chuyển di tâm thức để nhấn mạnh
về việc các mức độä ý nghĩa của chữ này rất đa tạp;
trong những tình huống khác chúng tôi dịch cũng thuật ngữ
đó là tinh tuý.
Bình
bát bằng sọ người – thod phor, Phạn: kapala. Đỉnh của
một cái sọ được một vài hành giả du già dùng làm một
cái bát trong một số nghi lễ. Bình bát này tượng trưng
cho vô ngã.
Bình
đẳng – mnyam pa nyid, Phạn: samata. Vạn pháp cùng có bản
tánh của tánh Không.
Bảo
bình vĩ đại – gter chen po’i bum pa, một trong tám dấu hiệu
tốt lành. Dấu hiệu này tương ứng với cổ họng của Đức
Phật và tượng trưng các giáo lý đáp ứng mọi điều mong
cầu.
Bảo
Tháp (Stupa) – xem Bodhnath.
Bodhnath
– bya rung kha shor, được phát âm là “Jarungkashor”, một
trong hai đại bảo tháp trong thung lũng Kathmandu. Lịch sử của
việc xây dựng tháp này gắn liền với sự du nhập của Phật
Giáo ở Tây Tạng và được mô tả trong Lịch Sử Bảo Tháp
Jarungkhashor, trong một tàng kinh được Sakya Zangpo khám phá
(Keith Dowman phiên dịch là Truyền Thuyết của Đại Bảo Tháp,
Berkeley, Nhà Xuất bản Dharma, 1973).
Bonpo
– bon po, các tín đồ của đạo Bon, là truyền thống tôn
giáo thịnh hành ở Tây Tạng trước khi Phật Giáo du nhập
vào xứ này.
Bồ
Đề Tâm – byang chub kyi sems, nghĩa đen: tâm giác ngộ. Trên
bình diện tương đối, đây là ước muốn đạt được Phật
Quả vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Từ này cũng
bao gồm việc thực hành pháp tu của lòng từ, bi, sáu pháp
toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), v.v. là những
pháp tu cần thiết để đạt được mục đích của Phật
Quả. Trên bình diện tuyệt đối, đây là kinh nghiệm
nội quán sâu sắc, chứng ngộ trực tiếp bản tánh của chân
như tối thượng.
Bồ
Tát (Bodhisattva)– byang chub sems dpa’, 1) một hiện thân với
quyết tâm muốn đưa tất cả chúng sinh tới bờ giác ngộ
và đang thực hành con đường Bồ Tát. 2) một Bồ Tát siêu
phàm là bậc đã đạt được một trong mười quả vị (địa)
của Bồ Tát.
Bồ
Tát Tu Viện Trưởng – danh hiệu đôi khi được biết tới
của Ngài Tịch Hộ (Santaraksita).
Bốn
ẩn dụ – ‘du shes bzhi, Nghĩ tưởng về bản thân như người
bị bệnh, thiện tri thức như thầy thuốc, Pháp như phương
thuốc, và việc thực hành giáo huấn của Ngài như phương
pháp để hồi phục.
Bốn
cách để nhiếp thọï chúng sinh (Tứ nhiếp pháp) – bsdu ba’i
ngos po bzhi, Phạn: catuhsamgrahavastu, bốn cách trong đó một
vị Bồ Tát có thể thu phục (nhiếp thọ) các đệ tử: 1)
rộng lượng (sbyin pa, Phạn: dana), 2) biểu lộ bằng lời nói
một cách vui vẻ (snyan par smra ba, priyavadita), 3) giảng dạy
phù hợp với căn cơ của từng người (don mthun pa, samanarthata),
4) hành xử phù hợp với những gì Ngài giảng dạy (don spyod
pa, arthacarya).
Bốn
chướng ngại – sgrib bzhi, các chướng ngại của 1) các cảm
xúc tiêu cực (phiền não chướng), 2) các chướng ngại gây
ra bởi nghiệp (nghiệp chướng), 3) các chướng ngại gây bởi
ý niệm (sở tri chướng) và 4) các chướng ngại gây ra bởi
các tập quán quen thuộc. Xem hai chướng ngại.
Bốn
hỉ lạc – dga’ ba bzhi, Phạn: caturananda, bốn kinh nghiệm
vi tế tăng trưởng của lạc vượt lên trên các cảm xúc
bình phàm, được nối kết với công phu hành trì pháp quán
đảnh thứ ba, hay quán đảnh trí tuệ.
Bốn
hay sáu phân loại Mật điển (Tantra) – rgyud sde bzhi hay drug,
cách phân loại các Mật điển thành ra bốn phần: Kriya, Carya,
(hay Upa), Yoga và Anuttarayoga (sự phân loại này thường được
dùng trong các phái Tân Dịch - New Translations School); hay thành
sáu nhóm: Kriya, Upayoga, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga (thường
dùng trong Truyền thống Cổ Mật).
Bốn
công hạnh (Tứ chủng pháp) – phrin las bzhi, bốn loại hoạt
động được những bậc chứng ngộ thực hiện, để giúp
đỡ những người khác và tẩy trừ những hoàn cảnh
bất lợi: làm cho an bình (zhi ba), làm cho tăng trưởng (sgyas
pa), điều phục (dbang) và chế ngự một cách mãnh liệt (drag
po).
Bốn
nguồn đau khổ – sdug sngal gyi chu bo chen po bzhi, sanh, bệnh,
lão và tử.
Bốn
quán đảnh – dbang bzhi, quán đảnh tịnh bình, quán đảnh
ẩn mật, quán đảnh trí tuệ và quán đảnh ngôn từ cao quý.
Bốn
quỷ ma – bdud bzhi, xem chú thích 230. Cũng xem quỷ ma.
Bốn
Thân – ba Thân cộng thêm svabhavikakaya, ngo bo nyid kyi sku, Thân
Tự Tánh, tượng trưng tính chất bất khả phân của ba Thân
đầu tiên.
Bốn
linh kiến – snang ba bzhi, bốn giai đoạn liên tiếp trong pháp
hành trì thogal trong Đại Viên Mãn: 1) Pháp tánh (dharmata) thực
sự xuất hiện (chos nyid mngon sum), 2) sự phát triển của các
kinh nghiệm và các huyễn tướng (nyams snang gong ‘phel), 3)
Giác tánh đạt đến mức cao tột (rig pa tshad phebs), 4) sự
cạn kiệt của các hiện tượng siêu vượt tâm thức (chos
zad blo ‘das).
Bổn
Tôn – xem Yidam.
Bốn
trạng thái vô sắc – gzugs med bzhi, bốn phân loại của trạng
thái định, gồm có không vô biên xứ (nam mkha’ mtha’ yas),
Phạn: akasanantya), thức vô biên xứ (nam shes mtha’yas, vijnanasanantya),
vô sở hữu xứ (ci yang med pa, akimcanya), và phi tưởng phi phi
tưởng xứ(‘du shes med ‘du shes med min, naivasamjnasamjna); bốn
cõi Trời tương ứng với những loại định này.
Buddha
– xem Phật (Tạng: sangye).
Ca
Diếp – xem Kasyapa.
Camaradvipa
– rnga yab gling, một trong tám tiểu lục địa trong vũ trụ
quan Ấn Độ thời xa xưa, phía tây của Jambudvipa (cõi Diêm
Phù Đề). Đây là lục địa tây nam được ám chỉ là cõi
Phật mang tên Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.
Cảm
xúc (cảm thọ) – xem chướng ngại, chướng ngại thuộc cảm
xúc tiêu cực hay Bốn chướng ngại.
Cấp
độ (tu chứng) – xem địa Bồ Tát.
Cấp
độ siêu phàm – xem địa Bồ Tát.
Các
vị Trời phi tưởng – ‘du shes med pa’i lha, chư Thiên trong
cõi Vô sắc.
Các
vị Trời và quỷ ma – lha ‘dre, nói chung ám chỉ mọi loại
tinh linh khác nhau, dù có ích lợi (lha) hay là tai hại (‘dre).
Cái
thấy (kiến) – lta ba, Phạn: dristi, 1) quan điểm, lòng tin.
2) quan điểm chính xác, hiểu biết thấu suốt chân chính về
trạng thái tự nhiên nhất như của tất cả các hiện tượng.
Cây
Giác ngộ (cây Bồ Đề) – byang chub kyi shing, Đức Phật đã
đạt được giác ngộ ở cội cây này.
Cây
như ý – dpag bsam gyi shing, loại cây kỳ diệu có gốc rễ
ở cõi A Tu La nhưng lại kết trái trong cõi Trời thứ Ba Mươi
Ba (Đao Lợi Thiên hay Đế Thích Thiên).
Cam
lồ – xem ambrosia.
Cảm
xúc tiêu cực – nyon mongs pa, Phạn. klesa, “các hiện tượng
trong tâm tấn công thân và tâm, và đưa dẫn tới các hành
vi ác hại, gây nên một trạng thái đau khổ trong tâm thức.”
DICT. AT: các cảm xúc đau buồn, tham đắm, phiền não. Từ
đồng nghĩa với độc (dug). Xem năm độc.
Câu
Lưu Tôn Phật (Destroyer-of-Samsara Buddha) – xem Krakucchanda.
Chagme
Rinpoche – xem Karma Chagme.
Chakshingwa,
(Geshe) – lcags shing ba, một geshe Kadampa, đệ tử của Langri
Thangpa.
Chày
kim cương – xem vajra.
Chân
đế – xem Chân lý tuyệt đối.
Chân
lý tương đối (Tục đế) – kun rdzob bden pa, Phạn. samvriti
satya, chân lý hiển lộ bề ngoài được nhận thức và
coi như thực có bởi những tâm thức mê lầm.
Chân
lý tuyệt đối (Chân đế) – don dam bden pa, Phạn. paramartha
satya, chân lý đích thực được nhận thức bằng trí tuệ,
không có sự tạo tác của tâm thức. Tính chất của chân
đế hay chân lý tối thượng thì “siêu vượt tâm thức,
không thể suy lường, không thể diễn bày” (Patrul Rinpoche).
Cũng xem chân lý tương đối.
Chân
nghĩa (Liễu nghĩa) – nges don, Phạn: nitartha, cách diễn tả
trực tiếp chân lý từ quan điểm của những bậc chứng ngộ.
Xem phương tiện nghĩa.
Chấp
ngã – xem bám chấp.
Chekawa
Yeshe Dorje – ‘chad kha ba ye shes rdo rje (1101¬1175), một geshe
Kadampa nổi tiếng. Ngài đã hệ thống hoá các giáo lý Chuyển
Tâm thành bảy điểm, và làm cho giáo lý này dễ hiểu hơn.
Xem Đại Đạo Tỉnh Giác của Jamgon Kongtrul, Shambhala, 1987,
và Dũng Khí Toàn Giác, Dilgo Khyentse, Bản của Padmakara, 1992
(khắp thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ) và Snow Lion, 1993 (riêng
ở Bắc Mỹ).
Chengawa,
(Geshe) – spyan snga ba (1038-1103), đệ tử của Drom Tonpa, là
người bắt đầu truyền dạy các giáo huấn khẩu truyền
Kadampa.
Chenrezi
– spyan ras gzigs, danh hiệu Tây Tạng của Đức Avalokitesvara
(Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại).
Chín
Đại-Quảng-Trí (Nine Expanses) – klong dgu, chín phân loại của
Đại-Quảng-Trí (klong sde) trong giáo lý Đại Viên Mãn.
Chư
– gcod, nghĩa đen: cắt đứt, đoạn diệt. Phương pháp thiền
định trong đó ta cúng dường thân thể chính mình để cắt
đứt bốn quỷ ma trong ta. Machik Labdron đã thọ nhận các giáo
lý Chư từ vị Thầy Ấn Độ Padampa Sangye và từ Lạt Ma Kyoton
Sonam, và truyền bá giáo pháp này trong xứ Tây Tạng.
Chogyal
Pakpa – chos rgyal ‘phags pa (1235-1280), một trong tám đại học
giả của phái Sakya được gọi là Sakya Gongma. Ngài trở thành
vị giáo thọ của Hoàng Đế Mông Cổ Kublai Khan và quan Nhiếp
Chính của Tây Tạng.
Chuông
– dril bu, Phạn: ghanta. Xem vajra (kim cương).
Chủ
nghĩa hư vô (Thuyết hư vô)– chad par lta ba, Phạn: vibhava drsti,
thuyết duy vật, quan điểm phủ nhận sự hiện hữu của tiền
kiếp trong quá khứ hay các kiếp tương lai, phủ nhận nguyên
lý nhân quả, và v.v. (*Kinh văn Hán Việt thường gọi
là Đoạn kiến hay Đoạn chấp).
Chủ
nghĩa vĩnh cửu (Thuyết vĩnh cửu) – rtag par lta ba, Phạn:
atmadrsti, satkayadrsti, niềm tin nơi một thực thể hiện hữu
bất diệt, ví dụ như một linh hồn. Được coi như một khuynh
hướng triết học cực đoan. Xem chủ nghĩa hư vô. (*Kinh văn
Hán Việt thường gọi là Thường kiến hay Ngã kiến, Ngã
chấp).
Chuyển
luân vị (Chủ nhân mặt đất) – sa bdag, Phạn: bhumipati, một
tinh linh chiếm cứ một địa điểm.
Chuyển
Luân Thánh Vương – ‘khor lo sgyur ba’i rgyal po, Phạn: cakravartin,
1) một thiên vương cai quản một hệ trong thế giới (theo
vũ trụ quan của Phật Giáo). 2) một vị hoàng đế.
Chư
Thiên (các vị Trời) – lha, chúng sinh ở một trong sáu cõi,
bị chế ngự bởi tánh kiêu ngạo. Để tránh sự lầm lẫn
chúng tôi đã dịch lha là “Bổn Tôn” khi (được sử dụng
trong một ngữ cảnh) ám chỉ một vị Phật hay một vị Bổn
Tôn Trí Tuệ.
Chướng
ngại (chướng)– sgrib pa, Phạn: avarana, các yếu tố ngăn
che Phật tánh của ta. Cũng xem: hai chướng ngại, bốn chướng
ngại.
Chướng
ngại thuộc cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng)– nyon
mongs kyi sgrib pa Phạn: klesavarana, “các niệm tưởng (thù ghét,
tham luyến v.v..); chúng ngăn trở ta không đạt được sự
giải thoát.” DICT. Xem chướng ngại.
Chướng
ngại thuộc tập khí (nghiệp chướng)– bag chags kyi sgrib pa,
Phạn: vasanavarana, các khuynh hướng quen thuộc (tập khí) được
in dấu trên tạng thức (thức nền tảng). Xem chướng ngại.
Chướng
ngạïi thuộc ý niệm (sở tri chướng) – shes bya’i sgrib
pa, Phạn: jneyavarana “Đây là những ý niệm về chủ thể,
đối tượng và hành động, chúng ngăn cản ta không đạt
được Toàn Giác.” DICT. Xem chướng ngại.
Cõi
thấp – ngan song, các cõi địa ngục, các cõi của ngạ quỷ
và súc sinh.
Cõi
– xem sáu cõi luân hồi.
Cõi
Cực Lạc (Tịnh Độ) – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật
ở phương Tây của Đức Phật Amitabha (A Di Đà).
Cõi
Hỉ Túc – dga’ ldan, xem Cung Trời Đâu Suất.
Cõi
Phạm Thiên (Brahma) – tshang pa’i ‘jig rten, Phạn: brahmaloka,
nói chung, tất cả các cõi sắc và vô sắc.
Cõi
tịnh độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật
của Đức Amitabha (A Di Đà).
Cõi
Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên hay Đế Thích Thiên) –
gsum cu rtsa gsum, Phạn: Trayastrimsa, một cõi Trời trong Dục
giới, trụ xứ của vua Đế Thích (Indra) và ba mươi hai vị
đại thần. Xem tam giới.
Con
đường của cái thấy (Kiến đạo) (Path of Seeing) – mthong
lam, Phạn: darsanamarga, con đường thứ ba trong năm con đường
tu, trên con đường Bồ Tát Đạo. Được gọi là như vạây
là bởi trên con đường đo,ù ta thực sự trực nhận được
hai loại vô ngã (có nghĩa là vắng mặt của “bản ngã,”
vắng mặt của sự hiện hữu vững chắc, độc lập).
Hai loại vô ngã này gồm có vô ngã của một cá nhân và vô
ngã của các hiện tượng.
Con
đường của sự hợp nhất (Path of Joining) – sbyor lam, Phạn:
prayogamarga, con đường thứ hai trong năm con đường tu. Trên
con đường này, ta tự nối kết hay tự chuẩn bị để có
thể trực nhận hai loại vắng mặt của bản ngã.
Con
đường vun bồi công đức (Path of Accumulating) – tshogs lam,
Phạn: sambharamarga, con đường thứ nhất
trong
năm con đường tu hướng tới giác ngộ theo Bồ Tát Thừa.
Trên con đường này, ta tích lũy những nguyên nhân (công đức)
giúp ta có thể cất bước hướng tới giác ngộ.
Cổ
Mật – tức là truyền thống Nyingmapa. Xem Cựu Dịch, Cựu
Phái Dịch Thuật.
Cổ
phái – tức là truyền thống Nyingmapa. Xem Cựu Dịch, Cựu
Phái Dịch Thuật, Cổ Mật.
Cung
điện Liên Hoa Quang – padma ‘od kyi pho brang, cung điện của
Đức Padmasambhava trong cõi Phật Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.
Cung
điện Toàn Thắng – rnam rgyal pho brang, cung điện của cung
Trời Đế Thích (Indra).
Cung
Trời Đâu Suất – dga’ ldan, cõi (ở tầng quả thứ tư)
của các vị Trời thuộc Dục giới, trong đó Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni đã tái sinh lần cuối cùng trước khi xuất hiện
trong thế giới này. Hiện tại Đức Di Lặc (Maitreya), Đức
Phật vị lai, đang an trụ trong Cung Trời Đâu Suất giảng
dạy Đại Thừa. Phạn : Tush*ta. Xem ba cõi hay Tam giới.
Cung
Trời Tịnh Quang – ‘od gsal gyi lha, Phạn: Abhasvara, cấp độ
cao nhất của các vị Trời thuộc Nhị Thiền (trong Sắc Giới).
Cuộn
giấy vàng – shog ser, miếng giấy (không nhất thiết phải
là màu vàng) trên đó các bản văn của các kho tàng tâm linh
(tàng kinh) được ghi chép laiï.
Cúng
dường lửa – gsur, pháp cúng dường được thực hiện bằng
cách đốt thực phẩm trên than đá. Món cúng phẩm này
được dâng lên cúng dường cho chư Phật, các vị Hộ Pháp,
tất cả chúng sinh nói chung và đặc biệt là cho những tinh
linh lang thang và những oan gia mà ta có những món nợ nghiệp
với họ. gsur trắng thông thường được chuẩn bị với ba
thực phẩm trắng và ba thực phẩm ngọt. gsur đỏ được
chuẩn bị với thịt.
Cửa
Phạm Thiên – tshang pa’i bu ga, Phạn. brahmarandra, điểm tụ
ở trên đỉnh đầu nơi kinh mạch trung ương chấm dứt.
Cựu
Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật) – snga ‘gyur, danh hiệu được
ban cho các giáo lý đầu tiên được dịch ra từ Phạn ngữ
và truyền bá ở Tây Tạng, là giáo lý của phái Cổ Mật,
hay truyền thống Nyingmapa, ngược lại với các giáo lý được
chuyển dịch và truyền bá từ thế kỷ thứ mười trở đi
và là giáo lý sinh ra Tân Phái của Phật Giáo Tây Tạng.
Dạ
Ma (Yama) – ‘thab bral, Phạn: Yama, tên của một cõi Trời
trong Dục Giới, có nghĩa là “vô chiến” và được gọi
như thế là bởi vì các vị Trời ở đó không phải chiến
đấu với các A Tu La. Xem ba cõi.
Dagpo
Rinpoche – dwags po rin po che (1079-1153), cũng được gọi là
Gampopa, đệ tử nổi tiếng nhất của Milarepa và là vị khai
sáng dòng truyền thừa Kagyu.
Daka
– mkha ‘gro, nghĩa đen: du hành trong Pháp Giới (Không Hành),
hay dpa’ bo, vị anh hùng. Trong Kim Cương Thừa thì các vị
Không Hành nam tương đương với Bồ Tát. Các vị Không Hành
nam (Daka) tương đương với dakini (của phái nữ).
Dakini
(Nữ Không Hành, Thiên Nữ Trí Tuệ, Thiên Nữ Diệu Không)
– mkha’ ‘gro ma, nghĩa đen: du hành trong hư không. Nguyên
lý nữ được kết hợp với trí tuệ. Thuật ngữ này có
vài mức độ ý nghĩa khác nhau. Có những vị Không Hành nữ
hay Thiên nữ Diệu Không (dakini) bình thường, là những vị
với một mức độ chứng ngộ tâm linh nào đó, và các vị
dakini trí tuệ (Thiên Nữ Trí Tuệ) là những bậc hoàn toàn
chứng đắc. Xem Ba Nguồn Gia Trì.
Damchen
– dam chen (rdo rje legs pa), một vị Hộ Pháp, bị Đức Liên
Hoa Sanh (Padmasambhava) buộc phải hứa nguyện.
Darsaka
– mthong ldan, danh hiệu khác của Ajatasatru, nam tử của Vua
Bimbisara (Bình Sa), vua xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) và là vị thí
chủ quan trọng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc
dù ông đã giết hại thân phụ mình, về sau ông ăn năn và
tịnh hoá các hành nghiệp xấu ác của mình tới mức đạt
được địa của một Bồ Tát.
Dharmakaya
– chos sku, nghĩa đen: Pháp Thân. Đây là thể tính của tánh
Không của Phật Quả. Pháp thân cũng có thể được dịch
như là thân của chân đếù, một thể tính tuyệt đối.
Dharmata
(Pháp tánh) – chos nyid, “bản tánh rỗng rang.” DICT.
Dharmodgata
– chos ‘phags, “Pháp Khởi Siêu Phàm,” vị Bồ Tát mà Thường
Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) đã thọ nhận giáo lý về trí tuệ
bát nhã siêu việt.
Diêm
Phù Đề (Jambudvipa) – ‘dzam bu gling, lục địa phía nam, một
trong bốn “trung châu” (lục địa) chính trong vũ trụ quan
của Ấn Độ thời xa xưa, là nơi chúng ta đang sinh sống.
Trong một vài hoàn cảnh, danh hiệu này ám chỉ miền Nam Á,
và trong những hoàn cảnh khác, cõi này ám chỉ thế giới
theo một ý nghĩa thông thường.
Dipamkara
(Nhiên Đăng)– Pháp danh của Ngài Atisa.
Doha
– một bài đạo ca trong đó một thành tựu giả (ví dụ
như Ngài Saraha hay Virupa) diễn tả sự chứng ngộ của Ngài.
Dòng
truyền qua biểu tượng của các Vidyadhara – rig ‘dzin brda
yi brgyud, dòng truyền dạy các giáo lý bằng phương tiện
thiện xảo qua cử chỉ hay biểu tượng.
Dòng
nhĩ truyền hay truyền qua việc lắng nghe của chúng sinh bình
thường – gang zag snyan brgyud, dòng truyền dạy mà vị Thầy
cần phải sử dụng ngôn từ và đệ tử lắng nghe những
lời lẽ ấy, hơn là sự truyền dạy giáo lý bằng tâm truyền
tâm hay bằng cách dùng các biểu tượng.
Dòng
tâm truyền của các Đấng Chiến Thắng -rgyal ba dgongs brgyud,
dòng truyền dạy giáo lý tâm truyền tâm.
Drikung
Kyobpa – ‘bri gung skyob pa (1143-1217), vị sáng lập Tu viện
Drikung và tông phái Drikung Kagyu.
Drom
Tonpa – ‘brom ston pa, được gọi là ‘brom ston rgyal ba’i
‘byung gnas (1005-1064), đệ tử Tây Tạng chính yếu của Atisa,
một trong những vị Thầy đầu tiên của phái Kadampa và là
vị sáng lập Tu viện Radreng (rva sgreng) (thường được phiên
âm là “Reting”).
Druk
Pema Karpo – ‘brug padma dkar po (thế kỷ thứ 16), Drukchen Rinpoche
thứ 3, Đạo sư và tác gia vĩ đại của phái Drukpa Kagyu và
là vị sáng lập Tu viện Sangak Choling.
Du
Già – xem Yoga.
Duyên
hợp – ‘dus byas, Phạn: samskrita, được tạo nên (byas) do
sự kết hợp (‘dus) giữa nguyên nhân và điều kiện (duyên).
“Những hành vi thiện lành do duyên hợp có nghĩa là tất
cả những hành vi được thực hiện mà không có được sự
chứng ngộ tánh Không.” DKR
Đà
ra ni (Dharani)– gzungs, bài minh chúù được gia trì bởi một
vị Phật hay Bồ Tát, có diệu năng cứu giúp chúng sinh. Có
nhiều bài đà ra ni trong các Kinh điển (Sutra), thường khá
dài.
Đại
Ấn (Đại Thủ Ấn) – xem Mahamudra.
Đại
Ca Diếp – ‘od srung chen po, một trong những đệ tử Thanh
Văn xuất sắc nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và là
vị lãnh đạo trong số những người đầu tiên biên soạn
Abhidharma (Vi Diệu Pháp). Sau khi Đức Phật tịch diệt, Ngài
trở thành Giáo Chủ đầu tiên của Giáo Pháp, được giao
phó trọng trách hộ trì Giáo lý và Tăng Đoàn.
Đại
dương bên ngoài – phyi’i rgya mtsho chen po, những đại dương
bao quanh Núi Tu Di và bốn trung châu (lục địa) trong vũ trụ
học Ấn Độ thời xa xưa.
Đại
lạc và tánh Không – bde stong, đại lạc được trực chứng
mà không có sự bám luyến, rỗng rang như tánh Không.
Đại
Thế Chí – xem Vajrapani hay Tám Trưởng Tử Vĩ Đại.
Đại
Thành Tựu Giả – grub chen, một hành giả du già đã đạt
tới thành tựu tối thượng.
Đại
Thừa – theg pa chen po, Phạn: mahayana, thừa (cỗ xe) của các
Bồ Tát, “đại” là bởi cỗ xe này nhắm tới Phật Quả
viên mãn vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.
Đại
tiệc cúng dường – tshogs kyi ‘khor lo, Phạn: ganacakra, một
nghi lễ trong đó ta ban gia trì, cúng dường và thọ dụng thức
ăn và nước uống như chất cam lồ trí tuệ.
Đại
Viên Mãn (Dzogchen, Dzogpa Chenpo, Atiyoga) – dzogs pa chen po, tên
khác của Atiyoga, pháp tu tối thượng của chín thừa. Viên
Mãn có nghĩa là tâm thức, trong bản tánh của tâm, bao gồm
một cách tự nhiên tất cả mọi phẩm tính cao quý của ba
Thân: bản tánh của tâm ấy là tánh Không, Pháp Thân; biểu
lộ tự nhiên của tâm ấy là tánh sáng, Báo Thân, và lòng
bi mẫn của tâm ấy thì trùm khắp, Hoá Thân. Đại có nghĩa
là pháp viên mãn này chính là một duyên khởi tự nhiên của
vạn pháp. AT: đại toàn thiện. Giáo lý của Đại Viên Mãn
được phân loại thành ba phần: phần tâm (sems sde), phần
hư không (klong sde), và phần giáo huấn tâm yếu trực chỉ
(man ngag gi sde). Cũng xem phần Dẫn nhập và Atiyoga.
Đàm
– bad kan, một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng
xem gió, mật.
Đạo
Sư Kim Cương – rdo rje slod spon, Phạn. vajracarya, “Đạo Sư
tâm linh, người đã dẫn dắt ta đến trong một mạn đà la
của Mật Thừa và ban cho ta những giáo huấn giải thoát.”
DICT.
Đạo
Sư Tôn Quý xứ Oddiyana – o rgyan rin po che, một trong những
danh hiệu của Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).
Đấng
Bi Mẫn Siêu Phàm – ‘phags pa thugs rje chen po, một trong những
danh hiệu của Đức Avalokitesvara (Chenrezig), Bồ Tát của lòng
bi mẫn hay đại từ đại bi.
Đấng
Chiến Thắng – rgyal ba, Phạn: jina, một vị Phật.
Đấng
Đại Từ Bi (Đấng Bi Mẫn) – thugs rje chen po, danh hiệu của
Đức Avalokitesvara (Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại).
Đấng
Toàn Giác – kun mkhyen chen po, danh hiệu được biết tới rất
nhiều của Ngài Longchenpa.
Diệu
Âm Phật – sgra dbyangs mi zad pa sgrogs pa, danh hiệu của một
vị Phật (* dùng âm thanh du dương khai diễn Giáo Pháp làm
cho tất cả chúng sinh đều được nghe).
Đề
Bà Đạt Đa (Devadatta) – lhas byin, một người anh em họ của
Đức Phật; sự ganh tị của ông đã ngăn cản không
cho ông rút ra được bất kỳ lợi ích nào từ các giáo lý
(của Đức Phật).
Đế
Thích – xem Indra.
Đệ
tử cư sĩ (Ưu bà tắc, Cận sự nam)– dge bsnyen, Phạn: upasaka,
upasa người trì giữ các giới nguyện quy y và năm giới nguyện
khác (hay chỉ một vài giới nguyện trong số đó): không sát
sanh, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, và không
dùng chất gây say. Đây là một trong tám loại giới nguyện
của Biệt Giải Thoát (Pratimoksa).
Đức
vua, Thần dân và Thiện hữõu – rje ‘bangs grogs gsum, Vua Trisong
Detsen, đại dịch giả Vairotsana và thánh nữ Yeshe Tsogyal.
Dharma
– xem Pháp.
Đi
nhiễu (hành đạo) – skor ba, hành vi tôn kính trong việc đi
bộ theo chiều kim đồng hồ xung quanh một vật linh thiêng,
giữ tâm an định và tỉnh giác, ví dụ như một điện thờ,
bảo tháp, núi thiêng, hay ngôi nhà, và thậm chí một nhân
vật, như một vị Thầy tâm linh.
Địa
Bồ Tát – ‘phags pa’i sa, nghĩa đen: các cấp độ (tu chứng)
siêu phàm, Phạn: bhumi. Mười cấp độ (thập địa) của sự
chứng ngộ mà các vị Bồ Tát đạt tới trên các con đường
của cái thấy (kiến), của thiền định (thiền) và siêu vượt
cái học. Một vài cách phân loại khác đã thêm vào những
cấp độ phụ. “Những cấp độ này siêu phàm bởi chúng
vượt xa chúng sinh bình thường.” DICT.
Địa
ngục – dmyal ba, Phạn: naraka, một trong sáu cõi, trong đó
ta kinh nghiệm nỗi thống khổ mãnh liệt. Trong cõi địa ngục
ta thường phải kinh qua những hậu quả của các hành nghiệp
hơn là tạo ra những nguyên nhân mới.
Điều
Hỷ Quốc – mngon par dga’ ba, Phạn: Abhirati, tên của một
đại kiếp và của cõi tịnh độ của Đức Phật Aksobhya
(Bất Động Phật hay A Súc Bệ Phật).
Độc
Giác Phật (Pratyekabuddha) – rang sangs rgyas, “ người đạt
được khả năng chấm dứt luân hồi (đoạn diệt luân hồi)
mà không cần sự trợ giúp của một vị Thầy tâm linh. Bằng
cách quán sát bản tánh của nguyên lý duyên sinh, một vị
Độc Giác Phật có thể chứng ngộ vô ngã thực sự của
bản thân và chứng ngộ một-nửa vô ngã thực sự của các
hiện tượng.” DICT.
Đối
tượng mật nguyện – dam tshig gi rdzas, những đối tượng,
(hay vật dụng) hay những chất liệu cần thiết để giúp
cho các pháp hành trì của Kim Cương Thừa, hoặc để làm cho
các pháp hành trì Kim Cương Thừa thêm phần ý nghĩa.
Đức
Phật Thứ Hai (Đức Phật tái thế) – sangs rgyas gnyis pa, một
danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh.
Dzogchen
– xem Atiyoga, Đại Viên Mãn.
Gampopa
– sgam po pa, xem Dagpo Rinpoche.
Gandharva
(Càn Thát Bà, Hương Ấm) – dri za, nghĩa đen: ăn mùi hương.
Tinh linh sống bằng các mùi hương. Cũng được dùng cho chúng
sinh trong trạng thái trung ấm.
Garab
Dorje – dga’ rab rdo rje, danh hiệu Tây Tạng nổi tiếng hơn
các danh hiệu khác bằng Phạn ngữ của Ngài là Pramudavajra,
Prahevajra, Surativajra hay Prajnabhava. Bậc Thầy đầu tiên mang
thân tướng con người của dòng truyền thừa Đại Viên Mãn.
Garuda
(Kim xí điểu) – khyung, một con chim thần thoại có kích thước
rất lớn có thể bay ngay khi trứng nở, tượng trưng cho trí
tuệ nguyên sơ. Năm màu sắc trong thân chim đôi khi được
tượng trưng cho năm trí tuệ. Chim là địch thủ của các
naga (rồng), và được mô tả với một con rắn trong mỏ của
nó, tượng trưng cho việc đoạn diệt các cảm xúc tiêu
cực.
Gelugpa
(Trí Đức) – dge lugs pa, một trong các trường phái chính
của Tân Phái, được Ngài Je Tsongkhapa (1357¬1419) sáng lập
và lúc đầu được gọi là Gandenpa theo tên trụ xứ của
Ngài là ở tu viện Ganden.
Geshe
– dge bshes, thiện tri thức. Thuật ngữ thường dùng cho một
vị Thầy Kadampa. Về sau nó được dùng để chỉ một tiến
sĩ triết học trong phái Gelugpa.
Giác
ngộ – byang chub, Phạn: bodhi, tịnh hoá (byang) tất cả mọi
chướng ngại và chứng ngộ (chub) được tất cả các phẩm
hạnh.
Giác
tánh – rig pa, Phạn: vidya, trạng thái nguyên sơ của tâm,
tươi mới, bao la, chói ngời, và siêu vượt niệm tưởng.
Giai
đoạn phát triển (Generation stage) –bskyed rim, Phạn. utpattikrama
“thiền định du già mà qua đó ta tịnh hoá bản thân khỏi
các tham đắm quen thuộc đưa ta đến bốn trạng thái tái
sinh khác nhau và trong giai đoạn này, ta thiền định về sắc
tướng, âm thanh và tư tưởng giống như là những điều này
có đầy đủ chân tánh của các vị Hộ Phật (deities), của
các câu minh chú và của trí tuệ.” DICT.
Giai
đoạn toàn thiện (thành tựu) – rdzogs rim, Phạn. sampannakrama.
1. “với các đặc tính” (mtshan bcas), đó là pháp môn thiền
định dựa trên các kinh mạch và năng lực của thân, được
quán tưởng như là một thân kim cương. 2. “không có các
đặc tính” (mtshan med), đó là giai đoạn thiền định trong
đó các sắc tướng đã được quán tưởng trong giai đoạn
phát triển đều tan hoà, và ta an trụ trong kinh nghiệm về
tánh Không.
Giải
thoát (Liberation) – thar pa, Phạn: moksa, 1) đạt được sự
tự do, thoát khỏi luân hồi sinh tử, là một vị A La Hán
hay một vị Phật. 2) đôi khi, bsgral las byed pa, một pháp môn
giúp đem lại giải thoát, một pháp môn để giải thoát (dẫn
dắt) tâm thức của một chúng sinh hiểm ác vào một cõi Phật.
Cũng xem chú thích 75.
Giáo
huấn tâm-yếu – man ngag, Phạn. upadesa, các giáo huấn giảng
dạy về những chủ đề giáo lý sâu xa nhất, trong một phương
pháp cô đọng và trực tiếp vì mục đích của việc tu tập.
Gió
(khí) – 1) xem năng lực. 2) một trong ba thể dịch theo y khoa
Tây Tạng. Cũng xem mật, đàm.
Gọi
Thầy từ chốn xa – bla ma rgyang ‘bod, một thể loại cầu
nguyện khao khát vị Thầy tâm linh của ta.
Gotsangpa
(Gonpa Dorje) – rgod tshang pa mgon po rdo rje (1189-1258), Đạo sư
Kagyupa, đệ tử của Tsangpa Gyare, vị sáng lập một nhánh
của tông phái Drukpa Kagyu và của nhiều tu viện.
Guru
Rinpoche – guru rin po che, danh hiệu phổ thông nhất của Đức
Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) ở Tây Tạng.
Guru
Yoga (Bổn Sư Du Già) – bla ma’I rnal ‘byor, pháp môn hành
trì để hoà nhập tâm ta với tâm của vị Thầy.
Gyalse
Rinpoche – rgyal sras rin po che, nghĩa đen: Nam tử Tôn Quý của
các Đấng Chiến Thắng. Một danh hiệu được ban cho Thogme
Zangpo (1295-1369), một Đạo sư vĩ đại của các truyền thống
Nyingma và Sakya và là tác giả của trước tác có tên Ba Mươi
Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo (rgyal sras lag len).
Gyelgong
– rgyal ‘gong. Một loại tinh linh hiểm ác.
Hai
bồ công đức (two-fold accumulation) – tshogs gnyis, Phạn: sambharadvaya,
tích lũy phước đức (bsod nams, Phạn: punya) và tích lũy trí
tuệ (ye shes, jnana).
Hai
chân lý – bden pa gnyis, chân lý tuyệt đối (Chân đế) và
chân lý tương đối (Tục đế).
Hai
chướng ngại – sgrib gnyis, các chướng ngại của những cảm
xúc tiêu cực (phiền não chướng) và các chướng ngại thuộc
ý niệm (sở tri chướng). Cũng xem bốn chướng ngại.
Hai
Đấng Siêu Việt – mchog gnyis, Gunaprabha (yon tan ‘od) và Sakyaprabha
(sha kya ‘od).
Hai
mươi lăm đại đệ tử – rje ‘bang nyer lnga, các đệ tử
Tây Tạng vĩ đại nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).
Tất cả các Ngài đã đạt được thành tựu siêu việt. Những
vị nổi tiếng nhất là Vua Trisong Detsen, Yeshe Tsogyal, và Vairotsana.
Nhiều Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng là các Hoá
Thân của hai mươi lăm đệ tử này.
Hai
mươi mốt ‘Genyen’ – dge bsnyen nyer gcig, một nhóm tinh linh
bị Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) nhiếp phục và trở thành
các vị Hộ Pháp.
Hai
tánh thuần tịnh – dag pa gnyis, tánh thuần tịnh nguyên sơ
(rang bzhin ye dag), là Phật tánh trong mọi chúng sinh, và tánh
thuần tịnh thoát khỏi tất cả mọi ô nhiễm ngẫu nhiên
(blo bur phral dag). Chỉ duy một vị Phật là người vừa có
tánh thuần tịnh nguyên sơ thứ nhất và cũng có tánh thuần
tịnh thoát mọi đắm nhhiễm thứ hai.
Hành
giả chai lì – chos dred, nghĩa đen: “con gấu Pháp.” Người
không được Giáo Pháp điều phục, người hiểu biết Pháp
nhưng không thực hành, khiến tâm thức họ trở nên chai cứng...”
DICT. Người chỉ có hiểu biết lý trí mà không có chút kinh
nghiệm nào, nhưng lại cho rằng mình thấu suốt toàn bộ Giáo
Pháp.
Hành
giả du già – xem yogi hay yogini.
Hành
vi tích cực (thiện hạnh) – dge ba, Phạn: kusala. “ Những
gì tạo nên hạnh phúc” (Dudjom Rinpoche). AT: những hành vi
lợi lạc, đức hạnh.
Hành
vi tiêu cực (ác hạnh) – sdig pa hoặc mi dge ba, Phạn: asubha.
“Những gì tạo nên đau khổ” (Dudjom Rinpoche). AT: hành vi
ác hại, việc làm không lành mạnh, điều xấu ác.
Hạnh
đầu đà – xem mười hai giới khổ hạnh.
Hiền
kiếp – bskal pa bzang po, Phạn: bhadrakalpa, kiếp hiện tại,
được gọi là hiền (tốt lành) bởi đây là một kiếp trong
đó một ngàn vị Phật xuất hiện.
Hiện
tượng tan hoà trong chân tánh – chos nyid zad pa, một trong bốn
linh kiến hay kinh nghiệm tu chứng trên con đường tu tập pháp
Thogal (một trong các pháp của Đại Viên Mãn). “ Tất cả
mọi hiện tượng đều được tịnh hoá trong mạn đà la của
tinh tuý vĩ đại duy nhất, tất cả mọi tạo tác do tâm đều
tan biến vào chân tánh. Thậm chí cũng không bám chấp vào
chân tánh.” DICT.
Hình
thành – srid pa, tiến trình của luân hồi sinh tử. Từ Tây
Tạng này thường được dùng trong ý nghĩa của “triển vọng,”
là kết quả của tất cả những ý niệm mà ta phóng chiếu
lên thực tại -- những ý niệm này trở thành thế giới huyễn
hoá mà chúng ta nhìn thấy qua tri kiến. Từ hình thành này
thường được dùng như là một từ đồng nghĩa với
luân
hồi sinh tử (samsara), đối nghịch với zhi ba, sự an
tịch
của Niết Bàn.
Hộ
Thần – xem Hộ Pháp.
Hộ
Pháp – chos skyong, Phạn: dharmapala. Các vị Hộ Pháp bảo vệ
Giáo Pháp không bị suy vi và để cho sự truyền dạy Giáo
Pháp không bị quấy nhiễu, xuyên tạc. Đôi khi các Hộ Pháp
là Hoá Thân của chư Phật và Bồ Tát, và đôi khi là những
tinh linh, các vị trời hay quỷ ma đã được một Đạo Sư
tâm linh vĩ đại nhiếp phục và bị buộc phải hứa nguyện
(để trở thành Hộ Pháp).
Hộ
Pháp thuộc Tam Thánh Bộ – rigs gsum mgon po, các Bồ Tát Manjusri
(Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Thế Âm) và Vajrapani (Kim Cương
Thủ). Đây là những vị được tôn kính thuộc về thân,
ngữ và ý của Đức Phật.
Hộ
Phật Tài Bảo – nor lha, một vị Hộ Phật (deity) mà ta giữ
mối hoà hảo để tăng trưởng tài bảo.
Hoá
Thân (nirmanakaya) – sprul sku, thân hoá hiện, là một phần
của Phật Quả hiển lộ qua lòng bi mẫn để cứu giúp những
chúng sinh bình thường.
Hơi
ấm (dấu hiệu) – drod rtags, một dấu hiệu cho thấy công
phu thực hành đang bắt đầu tiến triển. (Khi một ngọn lửa
tạo nên nhiệt thì có nghĩa là nó đã bắt đầu cháy tốt.)
Thành ngữ này không đặc biệt nói tới một kinh nghiệm về
thân nhiệt.
Huyễn
tướng (hình tướng) – snang ba, xem tri giác (tri kiến).
Huynh
đệ và tỉ muội kim cương – rdo rje spun, các hành giả cùng
một Thầy, hoặc cùng học với những vị Thầy mà ta đã
từng thọ lãnh các giáo lý Kim Cương Thừa. Xem các bằng hữu
tâm linh.
Indra
(Đế Thích) – brgya byin, vua Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba.
Jamgon
Kongtrul (Vĩ Đại), Lodro Thaye – ‘jam mgon kong sprul blo gros
mtha’yas (1813-1899) là một vị Thầy vĩ đại của phong trào
bất bộ phái (Rimé) và cùng với Jamyang Khyentse Wangpo, chịu
trách nhiệm biên khảo một số tuyển tập vĩ đại, kể cả
Kho Báu Các Giáo Lý Được Tái Phát Hiện (rin chen gter mdzod),
trong đó bao gồm các giáo lý và pháp môn hành trì từ tất
cả mọi truyền thống.
Jetsun
Mila (Milarepa) – re brtsun mi la (1040-1123), hành giả du già và
thi sĩ vĩ đại của Tây Tạng mà tiểu sử và các bài ca tâm
linh của Ngài nằm trong số những tác phẩm được yêu quý
nhất trong Phật Giáo Tây Tạng. Là một trong những đệ tử
xuất sắc nhất của Marpa, Ngài ở trong số các Đạo Sư vĩ
đại nhất vào thời kỳ phôi thai của phái Kagyupa.
Jigme
Lingpa – ‘jigs med gling pa (1729-1798), xem dẫn nhập của sách
này. Ngài được coi là một hiện thân hợp nhất của cả
ba vị Vimalamitra, Vua Trisong Detsen và Gyalse Lharje. Patrul Rinpoche
thường được coi là hiện thân về ngữ của Jigme Lingpa.
Jowa
và Sakya – jo shag rnam gnyis, Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni,
hai pho tượng của Đức Phật đưa sang Tây Tạng một cách
thật trang trọng bởi hai vị công chúa xứ Nepal và Trung Quốc
mà Vua Songtsen Gampo đã kết hôn vào thế kỷ thứ 7.
Jowo
– jo bo, nghĩa đen: vương (lord). Một danh hiệu thường được
người Tây Tạng sử dụng đối với học giả Ấn Độ Atisa.
Jowo
Rinpoche – jo wo rin po che, một pho tượng tượng trưng cho Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni lúc 12 tuổi, trong điện Jokhang ở Lhasa.
Jungpo
– ‘byung po, một loại tinh linh hiểm ác.
Kadampa
– bka’ gdams pa, phái thứ nhất trong các trường phái thuộc
Tân Phái Dịch Thuật, thuận theo các giáo lý của Ngài Atisa.
Phái này chú trọng vào lòng bi mẫn, học tập và giới luật
thanh tịnh. Giáo lý của truyền thống Kadampa được tiếp
nối bởi tất cả các trường phái khác,
đặc
biệt là phái Gelugpa. Phái Gelugpa cũng được gọi là phái
Tân Kadampa.
Kagyupa
– bka’ brgyud pa, một trong những trường phái của Tân Phái,
thuận theo giáo lý được Dịch giả Marpa đem từ Ấn Độ
sang Tây Tạng và được truyền dạy tới Ngài Milarepa. Phái
này có nhiều tiểu phái.
Kalpa
– xem Kiếp.
Kapala
– ka pa la, một cái bình bát được làm bằng đỉnh sọ người.
Karma
Chagme – karma chags med (thế kỷ 16), Lạt Ma nổi tiếng của
phái Kagyupa, người hợp nhất giáo lý của phái Kagyupa với
giáo lý phái Nyingmapa và là giáo thọ của Namcho Mingyur Dorje,
một vị khai quật kho tàng tâm linh. Karmapa – kar ma pa,
danh hiệu của những đại Lạt Ma thuộc phái Kagyupa mà dòng
truyền thừa của các vị Hoá Thân của các Ngài bắt đầu
từ Ngài Dusum Khyenpa (Karmpa đời thứ Nhất) (1110-1193). Các
vị Karmapa là những vị Hoá Thân (tulku) đầu tiên được
tuyên nhận ở Tây Tạng.
Kasyapa
(Ca Diếp) – ‘od srung, vị thứ ba trong một ngàn vị Phật
trong kiếp hiện tại, là vị Phật xuất hiện trước Đức
Thích Ca Mâu Ni. Kasyapa cũng là tên của một trong những đệ
tử Thanh Văn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Katyayana–
Vị A La Hán Ấn Độ là một đệ tử của Đức Phật và
đã ghi chép lại một phần của Abhidharma (A Tỳ Đàm – Vi
Diệu Pháp).
Kaya
(Thân Phật) – sku, xem ba Thân, bốn Thân, năm Thân.
Kiếp
(Kalpa) – bskal pa. Một đại kiếp, tương ứng với một chu
kỳ hình thành và hoại diệt của một thế giới (theo vũ
trụ quan của Phật Giáo), được phân ra thành tám mươi trung
kiếp. Một trung kiếp bao gồm: một tiểu kiếp trong đó thọ
mạng v.v.. tăng trưởng và một tiểu kiếp trong đó thọ mạng
suy
giảm.
Kim
xí điểu – xem Garuda.
Khai
Mật Tạng Vương – xem Bậc Khám Phá Kho Tàng Tâm Linh.
Khampa
Lungpa – khams pa lung pa (sgang sha’kya yon tan) (1025-1115), một
Lạt Ma Kadampa, một trong những trưởng tử của Drom Tonpa.
Kharak
Gomchung, (Geshe) – kha rag sgom chung, một Lạt Ma Kadampa sống
vào thế kỷ thứ 11, đệ tử của Geshe Potowa. Danh hiệu của
Ngài có nghĩa là “Tiểu Thiền Giả Xứ Kharak,” và Ngài
nổi tiếng do tánh kiên trì và cách áp dụng giáo lý một
cách nghiêm cẩn. Được biết rằng Ngài đã thọ nhận giáo
lý Đại Viên Mãn và thành tựu thân cầu vồng.
Khatvanga
– một chĩa ba với nhiều vật trang sức có tính chất tượng
trưng.
Kho
tàng – xem kho tàng tâm linh.
Kho
tàng tâm linh – gter ma, các giáo lý, cùng những pho tượng
và những đồ vật khác đã được cất dấu bởi Đức Liên
Hoa Sanh (Padmasambhava), Yeshe Tsogyal và những vị khác. Những
kho tàng này được dấu trong đất, đá, hồ nước và cây
cối, hoặc ngay cả trong những nơi vi tế hơn chẳng hạn như
trong không gian hay trong tâm thức vì sự lợi ích cho các thế
hệ tương lai, và sau đó những kho tàng tâm linh này được
phát hiện lại bằng những cách thế phi thường bởi những
Hoá Thân của các vị đệ tử của Đức Liên Hoa Sanh, là
những bậc khai quật kho tàng (Khai Mật Tạng Vương).
Khởi
từ vô thủy – Chúng tôi đã dùng từ này để dịch ye trong
các thành ngữ như ye nas, “ngay từ lúc bắt đầu” hay ye
dag “thanh tịnh từ lúc khởi đầu.” Tuy nhiên phải hiểu
rằng từ này không nói tới một giây phút đầu tiên của
một sự
bắt
nguồn hay sáng thế từ trong quá khứ xa xôi, mà đúng hơn,
nói tới bản tánh thanh tịnh đã luôn luôn hiện diện bên
trong ta.
Khu,
Ngok và Drom – ba đệ tử chính của Atisa. Danh hiệu đầy
đủ của các Ngài là Khuton Tsondru Yungdrung, Ngok Lekpai Sherab,
và Drom Gyalwai Jungne (Drom Tonpa).
Khuynh
hướng quen thuộc (Tập khí)– bag chags, Phạn: vasana, những
tập khí quen thuộc của tư tưởng, ngôn ngữ hay hành động
được tạo nên bởi những gì ta từng làm trong những đời
quá khứ. AT: những tập quán, thiên hướng, sự tiêm nhiễm.
Kila
– phur ba, một vị Hộ Phật phẫn nộ, một khiá cạnh
của công hạnh của tất cả chư Phật, là một hoạt hiện
của Đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Pháp môn hành trì
liên quan tới vị Hộ Phật này được đặt nền tảng trên
bốn khiá cạnh khác nhau của Kila, đó là các bảo vật có
tính cách nghi lễ, lòng bi mẫn, Bồ Đề Tâm và tuệ giác.
Kim
cương – có các phẩm tính (bất hoại) của kim cương (vajra).
Kim
Cương Hỉ – bzhad pa rdo rje, danh hiệu khác của Garab Dorje.
Kim
Cương Hoan Hỉ – dgyes pa rdo rje, một danh hiệu của Garab Dorje.
Kim
Cang (Kim Cương) Thừa – xem Vajrayana hay Tantra.
Kim
Cang (Kim Cương) Trì – xem Vajradhara.
Kinh
(Sutra) – mdo, các bản văn súc tích do Đức Phật thuyết;
một trong Tam Tạng. Xem Tam Tạng (tripitaka).
Kinh
mạch – rtsa, Phạn. nadi, các kinh mạch vi tế trong đó năng
lực vi tế (rlung, Phạn. prana) lưu thông. Các kinh mạch vi tế
chính yếu ở bên trái và bên phải, chạy từ các lỗ mũi
tới phiá dưới rốn một chút (đan điền), ở đó chúng hợp
lại với đường kinh mạch trung ương.
Kinh
Mạch và Năng lực (các bài thực tập về) – rtsa rlung gi
‘phrul ‘khor, các bài thực tập kết hợp quán tưởng, thiền
định và các chuyển động của thân, trong đó sự luân chuyển
của các năng lực vi tế được kiểm soát và hướng dẫn.
Các pháp môn thực hành này chỉ nên được nỗ lực thực
hiện nương vào sự truyền dạy và hướng dẫn đúng đắn,
sau khi đã hoàn tất các pháp tu dự bị và đạt được một
vài kinh nghiệm vững chắc trong giai đoạn phát triển.
Kinh
mạch trung ương – rtsa dbu ma, Phạn. avadhuti, trục giữa của
thân vi tế. Đường kinh mạch trung ương này được mô tả
theo những cách thức thay đổi, tuỳ vào pháp môn thực
hành đặc biệt. Kinh mạch này tượng trưng cho trí tuệ
bất nhị.
Kinh
nghiệm (thiền định) – nyams, các kinh nghiệm về đại lạc,
tánh sáng, và vô niệm. Ta không nên dính mắc vào những kinh
nghiệm như thế hay lầm lẫn cho rằng đây là những mục
tiêu cuối cùng.
Krakucchanda
(Câu Lưu Tôn Phật)– ‘khor ba ‘jig, Đức Phật đầu tiên
của một ngàn vị Phật của Hiền Kiếp này (*Destroyer of Samsara
Buddha, còn có tên Hán Việt là Diệt Lũy Phật, Thành Tựu
Mỹ Diệu Phật hay Sở Ưng Đoạn Dĩ Đoạn Phật).
Krisnacarya
– nag po spyod pa, một trong tám mươi bốn Đại Thành tựu
giả của Ấn Độ.
Kriya
(yoga) – bya ba, pháp du già thứ nhất trong ba ngoại Mật điển
(tantra), và là thưà thứ tư trong chín thừa. Trong pháp tu tập
này, điểm trọng yếu được đặt trên cách hành xử đúng
đắn và sự tinh sạch.
Ksatriya
– rgyal rigs, một trong bốn giai cấp của hệ thống xã hội
Ấn Độ thời xa xưa, giai cấp của các vị vua và chiến sĩ
(giai cấp Sát-đế-lỵ).
Kusa
– ku sha, một loại cỏ được coi là tốt lành, bởi Đức
Phật đã an toạ trên một tấm nệm làm bằng loại cỏ này
khi Ngài đạt được Giác ngộ.
La
Sát – srin po, một loại tinh linh hiểm độc ăn thịt người.
Lạc
(kinh nghiệm) – bde nyams, một trong ba loại kinh nghiệm đạt
được trong thiền định. Xem kinh nghiệm. Lạc Biến Hoá
Thiên – ‘phrul dga’, Phạn: Nirmanarata, một cõi trời trong
Dục Giới (ở tầng thứ năm của các vị Trời Dục Giới)
trong đó các vị trời có thể tạo ra bất cứ những gì họ
cần một cách thần diệu. Xem ba cõi hay Tam giới.
Lạt
Ma – bla ma, Phạn: guru, 1) vị Thầy tâm linh, được giải
nghĩa là sự trái ngược với bla na med pa, “không có gì tối
thượng hơn” (“vô thượng”). 2) thường được dùng
một cách bao quát để chỉ các tăng sĩ hay cách hành giả
du già (yogi) Phật Giáo nói chung.
Lakhe
– gla khe, loại cây có vỏ ngọt.
Langri
Thangpa, (Geshe) – glang ri thang pa (1054-1123), Geshe phái Kadampa,
đệ tử của Geshe Potowa, tác giả của Tám Bài Kệ Luyện
Tâm và là vị sáng lập Tu viện Langthang.
Lâu
Chí Phật (Infinite Aspiration) – mos pa mtha yas, (Phạn: rucika),
một vị Phật vị lai, vị cuối cùng trong một ngàn vị Phật
sẽ xuất hiện trong Hiền Kiếp hiện tại này. (* Còn có tên
là Ái Lạc Phật, Đề Khốc Phật, Lư Già Phật, Lâu Do Phật)
Lễ
lạy – phyag ‘tshal ba, cử chỉ tôn kính, trong đó trán, hai
bàn tay và hai đầu gối đều chạm đất.
Liên
Hoa Sanh – xem Padmasambhava.
Lingje
Repa – gling rje ras pa (1128-1188), vị sáng lập phái Drukpa Kagyu.
Longchenpa
– klong chen rab ‘byams pa (1308-1363), cũng được gọi là Bậc
Toàn Giác hay Pháp Vương, một trong những Đạo Sư tâm linh
và học giả phi thường nhất của phái Nyingmapa. Ngài đã
biên soạn hơn 250 luận thuyết, bao trùm hầu hết tất cả
các lý thuyết và thực hành Phật Giáo cho tới pháp Đại
Viên Mãn; Ngài là một trong số những Luận Sư vĩ đại nhất
đã diễn giảng về pháp này. Trong số những luận thuyết
vẫn còn lưu truyền là các tác phẩm nổi tiếng: Bảy Kho
Báu (mdzod bdun), Nyingtk Yabzhi (snying tig ya bzhi), Ba Pháp An Trú
(ngal gso skor gsum), Ba Pháp Giải Thoát Như Nhiên (rang grol skor
gsum), Ba Pháp Phá Tan Bóng Tối (mun sel skor gsum) và Các Tác
Phẩm Góp Nhặt (gsung thor bu).
Long
Thọ – xem Nagarjuna.
Luân
xa – ‘khor lo, Phạn: cakra, một trong những trung tâm năng
lực ở những điểm khác nhau trên đường kinh mạch trung
ương, từ đó toả ra những kinh mạch nho,û vi tế đi tới
mọi cơ quan trong thân thể.
Luân
hồi – xem Samsara.
Luận
– xem Sastra.
Luật
(Vinaya) – ‘dul ba, một trong Tam Tạng (tripitaka), gồm có những
giáo lý về giới luật và đạo đức học của tu viện nói
chung.
Lục
độ ba la mật (six paramitas) – xem sáu pháp toàn thiện siêu
việt.
Lục
thức – xem sáu thức.
Ma
quỷ– ‘dre, tinh hồn của người chết hay tổng quát hơn
nữa, tinh linh hoạ hại.
Machik
Labdron – ma cig lab sgron (1031-1129), một đệ tử của Padampa
Sangye, Bà trở thành bậc trì giữ các giáo huấn về pháp
môn Chư của sư phụ.
Madhyamika
– xem Trung Đạo.
Maha
(yoga) (Đại du già) – pháp du già đầu tiên trong ba pháp du
già tối thượng theo cách phân loại Giáo Pháp
thành
chín thừa. Trong pháp du già này, chủ yếu được đặt trên
giai đoạn phát triển (bskyed rim).
Mahamudra
– phyag rgya chen po, nghĩa đen: Đại Ấn. Đại Ấn có nghĩa
là dấu ấn của chân tánh trên tất cả mọi sự và trên
tất cả mọi hiện tượng nằm trong mạn đà la trí tuệ.
Thuật ngữ này có thể được dùng để chỉ rõ giáo
lý, pháp thực hành thiền định hay quả vị thành tựu siêu
việt. (* Thường được dịch là Đại Thủ Ấn).
Mahayana
– theg pa chen po, xem Đại Thừa.
Mahasiddha
– xem Tám mươi Đại Thành Tựu Giả.
Mạn
đà la – dkyil ‘khor, nghĩa đen: trung tâm và chu vi. 1) Thế
giới với cung điện của Bổn Tôn ở trung tâm, như được
quán tưởng trong pháp môn tu tập của giai đoạn phát triển.
2) Thế giới lý tưởng được quán tưởng như một phẩm
vật cúng dường.
Mạn
đà la bảy cúng phẩm – mandal so bdun ma, mạn đà la gồm có
Núi Tu Di, bốn trung châu (lục địa), mặt trời và mặt trăng.
Maitreya
(Di Lặc) – byams pa, Đức Phật sắp xuất hiện, là vị Phật
thứ năm trong đại kiếp hiện tại. Ngài cũng là một trong
Tám Trưởng Tử (của Đức Phật Thích Ca).
Maitriyogi
– byams pa’i rnal ‘byor pa, một trong ba vị Thầy chính của
Atisa.
Mamo
– mamo, Phạn: matrika, một loại Không Hành nữ.
Mandarava
– một thiên nữ trí tuệ (dakini), con gái của Vua xứ Zahor
ở Ấn Độ. Một trong năm đệ tử và phối ngẫu chính của
Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và một trong những vị trì
giữ chính yếu những giáo lý của Ngài.
Mandhatri
– nga las nu, một Hoá Thân khi xưa của Đức Phật , đã trở
nên đầy uy lực nhờ vào sức mạnh của các công đức đã
tích lũy trong quá khứ, nhưng đã đánh mất hết các thần
lực này bởi một số tư tưởng xấu ác.
Mani
– minh chú của Đức Avalokitesvara (Chenrezi), om mani padme hum.
Manjusrimitra
(Diệu Đức Hữu) – ‘jam dpal bshes gnyen, Đạo sư thứ hai
trong nhân loại thuộc dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, một
đại học giả của Nalanda và đệ tử của Garab Dorje.
Màn
trướng quý báu – rin po che’i gdugs, một trong tám dấu hiệu
tốt lành, tương ứng với đầu của Đức Phật và tượng
trưng cho sự che chở thoát khỏi các hành vi xấu ác.
Ma
vương (Mara) – bdud, quỷ ma, xem chú thích 230; những gì quyến
rũ nói chung, tạo ra chướng ngại cho việc tu hành tâm linh
và quả vị Giác Ngộ.
Marpa
– lho brag mar pa (1012-1097), Đạo sư và dịch giả vĩ đại
của Tây Tạng, đệ tử của Drogmi, Naropa, Maitripa và các đại
thành tựu giả khác. Ngài mang nhiều Mật điển (tantra) từ
Ấn Độ về Tây Tạng và phiên dịch qua Tạng ngữ. Các giáo
lý này được truyền xuống cho Milarepa và các đệ tử khác
của Ngài, và là nền tảng của giáo lý dòng truyền thừa
Kagyu.
Mật
– mkhris pa, một trong ba thứ chất dịch của thân thể, sự
mất quân bình của mật tạo nên những loại bệnh tật
khác nhau. Cũng xem gió, đàm.
Mật
điển – xem Tantra.
Mật
nguyện (Hứa nguyện) – xem Samaya.
Mật
Thừa – gsang ngags kyi theg pa, một nhánh của Đại Thừa, thừa
này sử dụng các kỹ thuật đặc biệt của các Mật điển
để việc đeo đuổi con đường giác ngộ vì tất cả chúng
sinh có thể được hoàn tất nhanh chóng hơn.
Mâu
Ni (Muni) – thub pa, nghĩa đen: Đấng Vĩ Đại (Thánh Giả).
Một danh hiệu của một vị Phật.
Melong
Dorje – me long rdo rje (1243-1303), đại thành tựu giả Tây Tạng,
đạo sư của Kumaradza (Kumaradza là thầy của Longchenpa).
Milarepa
– xem Jetsun Mila.
Minh
chú (Mật Chú – Thần Chú - Mantra) – sngags, sự hiển lộ
của tâm thức giác ngộ siêu việt qua hình thức các âm thanh.
Các âm tiết trong các nghi quỹ (sadhana) của Mật Thừa bảo
vệ tâm thức hành giả khỏi những tri giác phàm tục và được
trì tụng để khẩn nguyện các Bổn Tôn Trí Tuệ.
Minh
Sát (Quán) – lhag mthong, Phạn: vipasyana, “nhìn với con mắt
trí tuệ để thấy ra được bản tánh riêng của tất cả
mọi sự việc (hay tất cả các pháp).” DICT.
Một
mục đích hai lợi lạc (Two-fold goal) – don gnyis, mục đích,
lợi ích hay hạnh phúc (rang don) của riêng ta, và mục đích,
lợi ích hay hạnh phúc của những chúng sinh khác (gzhan don).
Thường được hiểu trong ý nghĩa tối hậu rằng mục đích
cho bản thân sẽ đạt được nhờ chứng ngộ tánh Không hay
Pháp Thân, và mục đích cho các chúng sinh khác sẽ đạt được
nhờ vào lòng bi mẫn hoá hiện như Sắc Thân.
Mười
hai thể loại giảng dạy trong Tam Tạng (Thập nhị bộ kinh,
Thập nhị phần giáo) – sde snod bcu gnyis, nghĩa đen: mười
hai Tạng, cũng gọi là Mười hai Thuyết Ngôn Tuyệt Hảo (gsung
rab yan lag bcu gnyis). Mười hai thể loại giảng dạy do Đức
Phật tuyên thuyết tương ứng với mười hai loại Kinh: khế
kinh (mdo sde, Phạn: sutra), trùng tụng (dbyangs bsnyan, geya), thọ
ký (lung bstan, vyakarana), phúng tụng (tshigs bcad, gatha), tự thuyết
(ched brjod, udana), nhân duyên (gleng gzhi, nidana), tự truyện (skyes
rab, jataka), vị tằng hữu (rmad byung, adbhutadharma), luận nghĩa
(gtan babs, upadesa), ẩn dụ (rtogs brjod,
avadana),
bản sự (de ltar byung, itivrittaka), và phương quảng (shin tu
rgyas pa, vaipulya).
Mười
hai giới khổ hạnh (Hạnh đầu đà) – sbyangs pa’i yon tan
bcu gnyis, Phạn: dvadasadhutaguna, mười hai giới thực hành khổ
hạnh của các Thanh Văn và Phật Độc Giác, chẳng hạn như
ngày ăn một bữa, sống ở nơi cô tịch, chỉ sở hữu ba
tăng y, v.v..
Mười
Hai Tiếng Cười Kim Cương – rdo rje gad mo bcu gnyis, một giáo
lý của Đại Viên Mãn.
Mười
phương (thập phương) – phyogs bcu, bốn phương chính, bốn
phương trung gian, phương trên (thượng phương) và phương dưới
(hạ phương).
Mục
Kiền Liên (Maudgalyayana) – mo’u ‘gal gyi bu, một trong hai
đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Ngài được coi là bậc có oai lực thần thông vĩ đại
nhất.
Nada
– được định nghĩa là chos nyid kyi rang sgra, âm thanh tự
nhiên của Pháp Tánh (dharmata). Trong âm tự hum, nada được
tượng trưng bởi một ngọn lửa nhỏ nằm phiá trên vòng
tròn ở trên đỉnh, biểu tượng cho trạng thái giác ngộ,
là giác tánh, tinh tuý độc nhất.
Naga
(Long, Rồng) – klu, một sinh loài giống như rắn sống sâu
dưới nước hay dưới mặt đất. Mặc dù có các năng lực
kỳ diệu, chúng được xếp vào loài súc sinh. Xem Tam giới
hay ba cõi.
Nagarjuna
(Long Thọ) – klu sgrub (thế kỷ thứ 1-2), Đạo Sư Ấn Độ,
một trong Sáu Pháp Bảo. Ngài giảng dạy giáo lý Trung Đạo
và biên soạn nhiều luận thuyết triết học và y học.
Nalanda
– nơi sinh trưởng gần Rajagriha của đệ tử của Đức Phật
là Ngài Xá Lợi Phất, là nơi về sau trong thời của các vị
vua Gupta (thế kỷ thứ 5) trở thành một trong những
trung
tâm tu học vĩ đại nhất của Phật Giáo Ấn Độ. Tu viện
này đã bị phá huỷ khoảng năm 1200.
Namcho
Mingyur Dorje – gnam chos mi ‘gyur rdo rje, một vị khám phá được
các bảo tàng kinh (khai mật tạng) vào thế kỷ 16.
Nanda
– dga’bo, một người em họ của Đức Phật, về sau trở
thành một trong những đệ tử xuất sắc của Ngài.
Naropa
– na ro pa (1016-1100), họïc giả và thành tựu giả Ấn Độ,
là đệ tử của Tilopa và Đạo Sư của Dịch giả Marpa
Ngũ
Bôä Phật – rigs lnga , Phạn: pancakula, Phật, Kim Cương, Bảo
Sanh, Liên Hoa và Nghiệp Bộ. Năm Bộ Phật tượng trưng cho
chân tánh của vạn pháp. Ví dụ như, Năm Đấng Chiến Thắng
là chân tánh của năm uẩn, Năm vị Phối Ngẫu của các ngài
là chân tánh của năm yếu tố (ngũ đại), và năm trí tuệ
là chân tánh của năm độc, và v..v..
Năm
con đường – lam lnga, Phạn: pancamarga, năm giai đoạn liên
tiếp trên con đường tu dẫn tới giác ngộ: con đường vun
bồi công đức, con đường hợp nhất, con đường của cái
thấy (kiến), thiền định, và con đường siêu việt sở học.
Năm
khoa học (Ngũ minh) – rig gnas lnga, Phạn: pancavidya, năm khoa
học mà một đại học giả (pandita) phải thông suốt: 1) sự
chế tạo của các sự vật (gzo rig gnas, silpavidya), 2) tu sửa
các sự vật (bao gồm y khoa; gso ba’i rig gnas, cikitsavidya),
3) ngữ văn (sgra’ rigs gnas, Sabdavidya), 4) luận lý học (gtan
tshigs kyi rig gnas, hetuvidya) và 5) triết học (nang don rig gnas,
adhyatmavidya).
Năm
năng lực – xem năng lực.
Năm
độc (Ngũ độc) – dug lnga, năm cảm xúc tiêu cực: 1) si,
gti mug, Phạn. moha (AT: sự vô minh, lầm lạc), 2) tham, ‘dod
chags, raga (AT: dục vọng), 3) sân, zhee sdang, dvesa (bao gồm sự
thù ghét, giận dữ, v.v..), 4) ganh tị, phra dog, irsya, và 5)
kiêu ngạo, nga rgyal, mana.
Năm
mật nguyện thọ dụng – dang du slang ba’i dam tshig lnga, năm
mật nguyện (samaya) phụ thuộc trong pháp tu Đại Viên Mãn.
Những mật nguyện này có liên quan tới sự vui hưởng năm
loại thịt và năm chất cam lồ, là những chất thể được
các hành giả Mật Thừa sử dụng mà thông thường được
coi là bất tịnh hay bị cấm kỵ.
Năm
suy hoại – snyigs ma lnga, đó là sự suy hoại của 1) thọ
mạng 2) các cảm xúc tiêu cực (năm độc tăng trưởng) 3)
chúng sinh (khó có thể cứu giúp họ) 4) thời đại (chiến
tranh và nạn đói kém phát triển) 5) quan niệm (các niềm tin
sai lạc lan tràn).
Năm
Thân Phật (kaya) – sku lnga, Phạn: pancakaya, ba Thân Phật được
cộng thêm vào với Thân Kim Cương Bất Biến (mi ‘gyur rdo
rje’i sku, Phạn: vajrakaya) và Thân Toàn Giác (mngon par byang
chub pa’i sku, Phạn: abhisambodhikaya). Thành ngữ này cũng có
thể ám chỉ năm Bộ Phật: thân, ngữ, ý, các phẩm hạnh
và hoạt động của chư Phật. Xem ngũ bộ Phật.
Năm
trọng tội có quả báo tức thời (ngũ nghịch trọng tội
hay trọng nghiệp) – mtshams med lnga, Phạn: pancanantariya, 1)
giết cha hay 2) giết mẹ hay 3) giết một vị A La Hán; 4) gây
chia rẽ trong Tăng Đoàn; 5) làm một vị Phật chảy máu với
sự ác ý (hay báng bổ, làm dơ bẩn hình tượng Phật). Những
người mắc phạm một trong năm hành vi này bị tái sinh lập
tức trong địa ngục Vô Gián sau khi chết, mà không kinh qua
trạng thái trung gian.
Năm
nghiệp tội gần như trọng tội (gần như trọng nghiệp) –
nye ba’i mtshams med lnga, 1) hành xử bất tịnh với một vị
nữ A La Hán; 2) giết hại một vị Bồ Tát; 3) giết hại hành
giả đang tu tập hướng tới Phật Quả; 4) trộm cắp tài
sản của Tăng Đoàn; 4) phá huỷ bảo tháp (stupa).
Năm
trăm ngàn pháp tu dự bị – ‘bum lnga, năm pháp tu dự bị
theo truyền thống: quy y, Bồ Đề Tâm, Kim Cương Tát Đoả
(Vajrasattva), mạn đà la và Bổn Tôn Du Già (Guru yoga); mỗi
pháp tu phải được thực hiện một trăm ngàn lần.
Năm
yếu tố toàn hảo – phun sum tshogs pa lnga, vị Thầy toàn hảo,
giáo lý toàn hảo, nơi chốn toàn hảo, chúng đệ tử toàn
hảo và thời gian toàn hảo.
Ngũ
độc – xem năm độc.
Ngũ
trí (năm trí) – ye shes lnga, năm phương diện trí tuệ của
Phật Quả: trí tuệ của Pháp Giới tối thượng (Pháp Giới
Thể Tánh Trí, chos dbyings kyi ye shes, Phạn: dharmadhatujnana),
trí tuệ như tấm gương (Đại Viên Cảnh Trí, mee long gi ye
shes, adarsajnana), trí tuệ bình đẳng (Bình Đẳng Tánh Trí,
mnyam nyid kyi ye shes, samatajnana), trí tuệ biết phân biệt (Diệu
Quan Sát Trí, so sor rtog pa’i ye shes, pratyaveksanajnana), và trí
tuệ hoàn toàn thành tựu (Thành Sở Tác Trí, bya ba grub pa’i
ye shes, krityanusthanajnana). Xem ngũ bộ.
Năng
lực – rlung, Phạn: prana, vayu, nghĩa đen: gió (khí). Đặc
tính của gió là “nhẹ và chuyển động.” Tâm được mô
tả như cưỡi trên gió rlung giống như một kỵ sĩ trên lưng
ngựa. Năm loại gió rlung khác nhau giúp điều chỉnh các chức
năng của thân: 1) năng lực đi lên (gyen rgyu), 2) năng lực
đẩy xuống (thur sel), 3) năng lực nồng nhiệt (me mnyam),
4) năng lực toàn-khắp (khyab byed) và 4) sinh lực tức năng
lực duy trì sự sống (srog ‘dzin).
Ngạ
quỷ – xem preta.
Nghiên
cứu (văn) – thos pa, nghĩa đen: lắng nghe. Theo truyền thống,
lắng nghe giáo lý là cách thức chính yếu để học tập ở
Tây Tạng. Trước khi nghiên cứu một bản văn, điều quan
trọng là phải thọ nhận lời dạy của vị Thầy qua tai bằng
cách thực sự lắng nghe Pháp ngữ của vị Thầy.
Như
thế, “nghiên cứu” không chỉ thuần tuý là việc đọc
một bản văn.
Nghiệp
(Karma) – las. Chúng ta thường thích nói “kết quả của các
hành động,” “hành động và kết quả” hay “nguyên lý
nhân quả.” Theo nghĩa đen, Nghiệp chỉ có nghĩa đơn thuần
là “hành động,” nhưng thường được dùng một cách rộng
rãi để chỉ những kết quả do các hành vi trong quá khứ
tạo nên (las kyi ‘bras bu, Phạn: karmaphala).
Nghiệp
chướng – las kyi sgrib pa, Phạn: karmavarana, các che chướng
hay chướng ngại gây ra bởi các hành vi tiêu cực. Xem chướng
ngại.
Nghiệp
lực – las kyi rlung, năng lực do nghiệp chiêu cảm quyết định,
đối nghịch với ye shes kyi rlung, năng lực kết hợp với
trí tuệ.
Ngondro
– xem các pháp tu dự bị.
Ngũ
nghịch trọng tội – xem năm trọng tội có quả báo tức
thời.
Nguyên
lý nhân quả – las rgyu ‘bras, nghĩa đen: hành vi, nhân và
quả… Trong tiến trình nhân quả này, mỗi hành vi tạo
ra một kết quả tương ứng. Xem nghiệp.
Nhân
quả – xem nguyên lý nhân quả hay nghiệp.
Nhất
Lai Vương Phật (Once-Come King) – sngon byung gi rgyal po, Đức
Phật của kiếp (Kalpa) đầu tiên.
Nhị
nguyên – gnyis ‘dzin, nghĩa đen: sự bám chấp, đối đãi,
thấy có hai, Quan niệm về “ta” và “người.”
Như
Lai – xem Tathagata.
Như
nhiên – ma bcos pa, Phạn: naisargika, để yên trong trạng thái
nguyên sơ, không cố tình thay đổi hay tạo tác.
Như
thị – de bzhin nyid, Phạn: tathata, “bản tánh của vạn pháp,
tánh Không.” DKR.
Nhục
kế – gtsug tor, Phạn: usnisa, chỗ nhô lên trên đầu một
vị Phật, một trong ba mươi hai tướng chính.
Niết
bàn (Nirvana) – mya ngan las ‘das pa, trạng thái siêu vượt
đau khổ. Ý niệm về Niết Bàn không giống nhau trong
Thanh Văn Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa.
Núi
Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ – zangs mdod dpal ri, một cõi Phật
do Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) hoá hiện, Ngài tới đó
khi rời Tây Tạng và hiện vẫn an trụ ở đó.
Núi
Tu Di (Meru) – ri rgyal po ri rab, ngọn núi vĩ đại, đỉnh núi
rộng lớn hơn chân núi, bốn trung châu (lục địa) của thế
giới ấy được bố trí quanh núi, phù hợp với khoa vũ trụ
học của Ấn Độ thời cổ.
Nyingmapa
– xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật.
Oddiyana
– o rgyan, một trụ xứ của các Nữ Không Hành (dakini) là
nơi đản sinh của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Theo một
vài tài liệu thì nơi đây được xác định là ở giữa Afghanistan
và Kashmir ngày nay. Đây cũng là nơi sinh ra đời của Garab
Dorje. Việc dùng từ “Oddiyana” gắn liền với các danh hiệu
chẳng hạn như “Đấng Vĩ Đại,” “Đức Phật Thứ Hai,”
“Đạo Sư Vĩ Đại,” và
v.v.
luôn luôn ám chỉ Đức Liên Hoa Sanh.
Orgyenpa
(Rinchen Pal) – o rgyan pa rin chen dpal (1230¬1309), một đại thành
tựu giả của truyền thống Drukpa Kagyu, đệ tử của Gotsangpa.
Ngài du hành khắp nơi, thăm viếng Oddiyana, Bồ Đề Đạo Tràng
(Bodhgaya) và Trung Hoa. Trong số các đệ tử của Ngài có các
vị Karmapa Rangjung Dorje, Kharchupa và Dawa Senge.
Ô
nhiễm (hành vi) – zag bcas, Phạn: sasrava, được làm với ba
ý niệm (tạo tác) về chủ thể, đối tượng và hành động.
Padampa
Sangye – pha dam pa sangs rgyas (thế ky1-12), Thành tựu giả
Ấn Độ lập nên giáo lý của phái Shijepa (zhi byed pa). Ngài
là Đạo sư của Machik Labdron, Ngài đã trao truyền cho
Bà giáo lý Chư. Ngài đã du hành tới Tây Tạng vài lần.
Padma
– danh hiệu mà Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) dùng để chỉ
chính mình. Padma có nghĩa là “hoa sen.”
Padma
Thotreng – padma thod phreng rtsal, nghĩa đen: Hoa sen đeo vòng hoa
sọ người. Một trong những danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh
(Padmasambhava).
Padmasambhava
xứ Oddiyana (Liên Hoa Sanh) – o rgyan padma ‘byung gnas, Đạo
Sư đản sanh từ Hoa Sen ở xứ Oddiyana, Đức Liên Hoa Sanh,
thường được gọi là Guru Rinpoche (Đạo Sư Tôn Quý). Trong
triều đại của Vua Trisong Detsen, vị Đạo Sư vĩ đại này
đã chế phục các thế lực xấu ác chống đối lại việc
truyền bá Phật Giáo ở Tây Tạng, phổ biến giáo lý Phật
Giáo thuộc Kim Cương Thừa ở đất nước Tây Tạng và cất
dấu vô số kho tàng tâm linh vì lợi lạc của những thế
hệ tương lai. Ngài được tôn kính như Đức Phật Thứ Hai
mà sự xuất hiện của Ngài đã được vị Phật thứ nhất
là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phó chúc, để ban dạy các
giáo lý đặc biệt của Kim Cương Thừa.
Palmo
(ni cô) – dge slong ma dpal mo, ni cô Ấn Độ nổi tiếng đã
truyền bá pháp tu Nyung-ne (ăn chay một ngày, lễ lạy và giữ
giới im lặng) và đạt được thành tựu siêu việt nhờ vào
pháp hành trì nương nơi Đức Avalokitesvara.
Palyul
(tu viện) – dpal yul, một trong sáu đại tu viện của phái
Nyingmapa.
Pandita
– một học giả, bậc uyên bác thấu suốt năm khoa học truyền
thống (xem: năm khoa học – ngũ minh). Đặc biệt được dùng
để ám chỉ các học giả Ấn Độ.
Paramita
– xem pháp toàn thiện siêu việt (ba la mật).
Pháp
– chos. Thuật ngữ này có một số ý nghĩa khác nhau. Trong
ý nghĩa rộng lớn nhất thì Pháp có nghĩa là tất cả những
gì có thể biết được (vạn pháp). Trong bản văn này thì
thuật ngữ Pháp được dành riêng để chỉ giáo lý của Đức
Phật (Phật Pháp). Pháp gồm có hai phương diện: Pháp
của
sự truyền giảng (lung gi chos), đó là những giáo lý thực
sự được ban truyền, và Pháp của sự chứng ngộ (rtogs pa’i
chos), hay là các trạng thái trí tuệ, v.v. là những gì
đạt được nhờ vào việc áp dụng giáo lý. Pháp thường
được ám chỉ là “Pháp Tối Thắng” (siêu việt) bởi Pháp
có thể giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ. Pháp (Dharma) hay
chos cũng có thể chỉ đơn giản có nghĩa là “các hiện tượng”
(các pháp hữu vi). Khi mang ý nghĩa này thì Pháp được
dịch theo nghĩa hẹp.
Pháp
chuẩn bị, công phu chính yếu và kết thúc – sbyor dngos rjes
gsum, ba phương pháp siêu việt cho bất kỳ pháp môn tu tập
nào: 1) bắt đầu bằng cách kiểm soát xem ta có động lực
từ bi hay không, 2) thực hành công phu mà không để cho
các ý niệm hướng về của cải tài lộc xen vào, và 3) chấm
dứt bằng cách hồi hướng công đức cho đạo quả giác ngộ
của tất cả chúng sinh.
Pháp
chuyển di (Phowa) – ‘pho ba, 1) di chuyển từ nơi này sang nơi
khác, chuyển kiếp (sau khi chết). 2) pháp môn thực hành để
hướng dẫn tâm thức chuyển di vào lúc chết.
Pháp
Giới – chos dbyings, Phạn. dharmadhatu, AT: thực tại trải rộng.
Từ quan điểm của cái thấy chứng ngộ, mọi hiện tượng
xuất hiện như là sự trải rộng của tánh Không.
Pháp
luân – chos kyi ‘khor lo, Phạn: dharmacakra, biểu tượng của
Phật Pháp. Chuyển Pháp Luân có nghĩa là giảng dạy Giáo Pháp.
Trong đời Ngài, Đức Phật đã tuyên thuyết ba loạt giáo
lý chính yếu, được nhắc tới như là những lần chuyển
Pháp Luân thứ nhất, thứ nhì và thứ ba.
Pháp
toàn thiện siêu việt (Ba la mật) – pha rol tu phyin pa, Phạn:
paramita. Sáu phương pháp tu tập theo con đường của Bồ Đề
Tâm hạnh. Các pháp này siêu việt bởi được đi kèm với
trí tuệ của tánh Không. Cũng xem sáu pháp toàn thiện siêu
việt (Lục độ ba la mật).
Pháp
trì tụng Kim Cương – rdo rje bzlas pa, trì tụng các câu minh
chú trong khi phối hợp với việc hít vào, nín hơi và thở
ra.
Pháp
tu dự bị (Ngondro) – sngon ‘dro. Xem năm trăm ngàn các
pháp tu dự bị.
Pháp
Vương của những điều Mật diệu – gsang ba’i bdag po, một
danh hiệu của Vajrapani (Kim Cương Thủ).
Pháp
Vương Toàn Giác – danh hiệu của Ngài Longchenpa.
Phật
(Buddha) – sangs rgyas, “ Người đã đoạn diệt được (sangs)
bóng tối của hai chướng ngại và phát triển được (rgyas)
hai trí tuệ toàn giác (thấu suốt bản tánh của hiện tượng
và thấu suốt được các hiện tượng phức tạp đa
dạng.) DICT.
Phật
Pháp – xem Pháp (Dharma).
Phật
Tánh – de gshegs snying po, Phạn: tathagatagarbha, tiềm năng của
Phật Quả hiện diện trong mỗi chúng sinh. AT: tinh túy của
Phật Quả.
Phong
trào bất bộ phái – ris med (rimé), nghĩa đen: không phân biệt.
Phong trào tâm linh được phát động bởi các đại lạt ma
lừng danh Jamyang Khyentse Wangpo cũng như Jamgon Kongtrul Lodro Thaye,
Mipham, Chogyur Lingpa và Patrul Rinpoche. Đặc điểm của phong
trào Riméù là tôn trọng tất cả mọi giáo lý và trường
phái Phật Giáo.
Phowa
– xem Pháp Chuyển Di.
Phối
ngẫu – 1) yum, nữ Hộ Phật (deity) được mô tả trong sự
hợp nhất với một nam Hộ Phật (yab). Bà tượng trưng cho
trí tuệ bất khả phân với phương tiện thiện xảo, được
tượng trưng bởi nam Hộ Phật. Các Ngài cũng tượng trưng
cho Pháp Giới của tánh Không, bất khả phân với giác tánh.
2) gsang yum, nghĩa đen: bà mẹ bí mật. Vợ của một đại
Lạt Ma.
Phước
đức – bsod nams, Phạn: punya, thiện nghiệp, năng lực được
phát sinh bởi các hành vi thiện lành của thân, ngữ và ý.
Phướn
Toàn Thắng – phyogs las rnam par rgyal ba’I rgyal mtshan, một
trong tám dấu hiệu tốt lành. Phướn này tương ứng với
thân Phật và tượng trưng cho tính chất bất khả hoại của
Giáo lý của Ngài.
Phương
– xem mười phương.
Phương
tiện – thabs, xem phương tiện thiện xảo.
Phương
tiện nghĩa – drang don, Phạn: neyartha, ám chỉ các
giáo
lý với ý định thích hợp để dẫn dắt chúng sinh chưa chứng
ngộ đến được với chân lý của ý nghĩa rốt ráo hay chân
nghĩa.
Phương
tiện thiện xảo – thabs, Phạn: upaya, hoạt động tự nhiên,
vị tha, phát sinh từ trí tuệ.
Pitaka
(Tạng) – xem Tam Tạng (Tripitaka).
Pitaka
(thứ tư) – sde snod bzhi pa, pitaka (Tạng) của Mật Thừa.
Potowa,
(Geshe) – po to ba (1031-1105), một trong Ba Anh em, ba đệ tử
nổi tiếng của Drom Tonpa (vị sáng lập phái Kadampa).
Pratyekabuddha
– xem Độc Giác Phật.
Preta
(ngạ quỹ) – yi dvags, AT: tinh linh đói khát, tinh linh, quỷ
đói.
Puchungwa,
(Geshe) – phu chung ba, một trong Ba Anh em.
Purnakasyapa
– od srung rdzogs byed, một Đạo sư thủ lãnh những kẻ ngoại
đạo (tirthika) vào thời Đức Phật.
Quả
(kết quả của hành nghiệp) – las rgyu ‘bras, Phạn: phala.
Xem nghiệp (karma).
Quả
chín muồi (Quả báo thành thục) – rnam smin gyi ‘bras bu, Phạn:
vipakaphala, thời điểm một hành nghiệp trổ quả cực đại,
ví dụ như phải bị đoạ sanh vào trong địa ngục.
Quả
trổ sanh nghiệp cảnh – dbang gi ‘bras bu, tác dụng của các
hành nghiệp báo ứng vào hoàn cảnh sống của ta trong một
đời tương lai.
Quả
vị hợp nhất – zung ‘jug gi go ‘phang, quả vị của Kim
Cương Trì (Vajradhara). Sự hợp nhất của Pháp Thân và Sắc
Thân.
Quan
Âm – xem Tara. Quán – xem minh sát. Quán đảnh – dbang
bskur, Phạn: abhiseka, nghĩa đen: trao
truyền
năng lực (gia lực). Sự cho phép nghe, nghiên cứu và thực
hành giáo lý Kim Cương Thừa. Việc này xảy ra trong một nghi
lễ có thể hết sức phức tạp hoặc hoàn toàn đơn giản.
Xem bốn quán đảnh.
Quán
đảnh bí mật – gsang dbang. Quán đảnh thứ nhì, “quán đảnh
tịnh hoá những ô nhiễm của ngữ (khẩu), khiến ta có thể
thiền định về các kinh mạch và năng lực, có thể trì tụng
các câu mật chú, và gieo trồng hạt giống để đạt được
ngữ (khẩu) kim cương và Báo Thân.” DICT.
Quán
đảnh tịnh bình – bum dbang, quán đảnh thứ nhất “tịnh
hoá các ô nhiễm của thân, khiến ta có thể thiền định
về giai đoạn phát triển và gieo trồng hạt giống để đạt
được thân kim cương và Hoá Thân.”
Quán
đảnh quả vị – ‘bras bu’i dbang, quán đảnh xảy ra vào
lúc đạt được giác ngộ viên mãn.
Quán
đảnh ngôn từ quý báu – tshig dbang rin po che, quán đảnh
thứ tư “quán đảnh diệt trừ những ô nhiễm của thân,
ngữ, ý và các tập khí (các khuynh hướng quen thuộc), khiến
ta có thể thiền định về Đại Viên Mãn bẩm sinh và gieo
trồng hạt giống để đạt được trí tuệ kim cương và
Thân Tự Tánh.” DICT.
Quán
đảnh trí tuệ – shes rab kyi dbang, quán đảnh thứ ba “tịnh
hoá các ô nhiễm của tâm, giúp cho ta có khả năng
thiền
định về giai đoạn toàn thiện và gieo trồng hạt giống
để đạt được tâm kim cương và Pháp Thân.” DICT.
Quán
Thế Âm (Quán Tự Tại) – xem Avalokiteshvara hay Đấng Đại
Từ Đại Bi hay Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Quảng
đại (Rộng lượng) – sbyin pa, Phạn: dana, nghĩa đen: bố
thí.
Quy
y – 1) skyabs yul, đối tượng mà ta quy y. 2) skyabs ‘gro, sự
thực hành quy y.
Repa
Shiwa O – ras pa zhi ba ‘od, một trong những đệ tử chính
của Milarepa.
Rinchen
Zangpo – rin chen bzang po (958-1055), dịch giả nổi tiếng nhất
trong công cuộc truyền bá Phật Giáo lần thứ hai ở Tây Tạng,
khi phái Tân Dịch bắt đầu.
Risi
– drang srong, 1) nhà hiền triết, ẩn sĩ, thánh nhân, đặc
biệt là những hiền triết nổi tiếng của thần thoại Ấn
Độ, là những vị trường thọ và có oai lực thần thông
vĩ đại. 2) tên của một chòm sao.
Ruộng
công đức – tshogs zhing, trọng tâm, hoặc đối tượng của
việc cúng dường, quy ngưỡng, cầu nguyện, lễ lạy, v..v.
của ta, qua đó ta có thể thực hiện các pháp tích tập công
đức và trí tuệ cần thiết. Thuật ngữ thường hàm ý một
trọng tâm được quán tưởng trong các pháp môn hành trì chẳng
hạn như quán tưởng các Bổn Tôn quy y, vị Thầy trong pháp
Bổn Sư Du Già, v.v… Công phu hành trì và các hành động tốt
lành của ta nếu được hướng tới một hiện thân như thế
của Phật, Pháp và Tăng, sẽ đem lại cho công phu của ta một
năng lực to lớn hơn thế nữa.
Sa
di – dge tshul, Phạn: sramanera. Một sa di có ít giới để giữ
hơn một vị sư thọ cụ túc giới (dge slong, Phạn: bhiksu,
Tỳ kheo).
Sadaprarudita
(Thường Đề Bồ Tát) – rtag tu ngu, một vị Bồ Tát mà danh
hiệu có nghĩa là “Luôn Luôn Than Khóc”, vì lý do Ngài đã
phải đổ lệ khi tìm cầu giáo lý trí tuệ bát nhã.
Sắc
Thân (Rupakaya) – gzugs sku, Thân của sắc tướng, bao gồm Báo
Thân và Hoá Thân cùng một lúc.
Sakyapa
– sa skya pa, một trong các trường phái của Truyền Thống
Mới do Ngài Khon Konchok Gyalpo sáng lập (1034-1102).
Samantabhadra
(Phổ Hiền) – kun tu bzang po, 1) Đức Phật nguyên thuỷ (Adibuddha),
Đấng không bao giờ rơi vào mê lầm, Đức Phật Pháp Thân
hiện thân là một nhân vật trần trụi, sắc xanh dương đậm
như bầu trời, trong sự hợp nhất với Samantabhadri, như một
biểu tượng của giác tánh¬tánh Không, bản tánh thuần tịnh,
tối thượng, luôn luôn hiện diện và không bị ngăn che. Suối
nguồn của dòng truyền thừa Mật điển của trường phái
Nyingma. 2) Đại Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền), một trong
Tám Pháp Vương Tửû (của Đức Phật Thích Ca), mà qua
oai lực thiền định, Ngài nổi danh về phương thức làm gia
tăng bội phần những phẩm vật cúng dường do Ngài dâng
cúng một cách thật thần diệu.
Samaya
(Mật nguyện) – dam tshig, nghĩa đen: hứa nguyện, thệ nguyện.
Mối liên kết thiêng liêng giữa Thầy và trò, và giữa các
đệ tử với nhau trong Kim Cương Thừa. Từ Phạn ngữ samaya
có thể có nghĩa là: thoả thuận, cam kết, quy ước, giới
luật, ranh giới, v.v... Mặc dù có nhiều luật lệ rất chi
tiết, nhưng samaya tối quan trọng là coi thân, ngữ và ý của
vị Thầy là cái gì vô cùng thanh tịnh.
Samsara
(Luân hồi) – ‘khor ba, vòng luân hồi trong đó ta bị xô
đẩy không ngưng nghỉ bởi những cảm xúc tiêu cực và bởi
nghiệp lực của những hành vi tạo tác của chính ta, đưa
ta từ một trạng thái tái sinh này tới trạng thái tái sinh
khác.
Samvarasara
– bde mchog snying po, một trong những danh hiệu của Manjusri
(Văn Thù Bồ Tát).
Samye
– bsam yas, tu viện đầu tiên ở Tây Tạng, trong thung lũng
Tsangpo miền đông nam thủ đô Lhasa, được xây
dựng
trong thời Vua Trisong Detsen. Tên này có nghĩa là “không thể
nghĩ bàn.”
Samye
Chimpu – bsam yas mchims phu, tên của một tập hợp các tu viện
nằm ở trên sườn núi của Tu viện Samye, nơi nhiều Đại
Đạo sư Phật Giáo đã đạt được thành tựu.
Sang
Rinpoche – bla ma zhang rin po che (brtson ‘grus grags pa) (1121-1193),
một đại lạt ma dòng truyền thừa Kagyupa , vị sáng lập
phân phái Tsalpa Kagyu.
Sankara
– bde byed, ví dụ về một người mà dục vọng và sự thù
ghét của ông ta mạnh tới nỗi giết chết mẹ mình. Ông hối
hận và sau khi tịnh hoá những ác hạnh của mình, ông đã
được tái sinh ở một cõi trời.
Santaraksita
(Tịch Hộ) – zhi ba mtsho, cũng được gọi là Bồ Tát Tu viện
trưởng. Vị học giả (pandita) Ấn Độ vĩ đại của Đại
Thừa này là tu viện trưởng của Đại Học Viện Phật Giáo
Nalanda và là tác giả của một số các luận giảng triết
học, chẳng hạn như Vật Trang hoàng của Trung Đạo (dbu ma
rgyan, Phạn: Madhyamakalmkara-karika). Ngài được Vua Trisong Detsen
mời tới Tây Tạng để hiến cúng địa điểm của tu viện
Tây Tạng đầu tiên ở Samye và ban giới cho những tăng sĩ
đầu tiên ở Tây Tạng.
Santideva
(Tịch Thiên) – zhi ba lha (thế kỷ thứ 7), thi sĩ vĩ đại
và đại thành tựu giả Ấn Độ, là người đã làm kinh ngạc
các tu sĩ của tu viện Nalanda của Ngài bằng bài kệ nổi
tiếng về pháp tu Bồ Đề Tâm, Bodhicaryavatara (spyod ‘jug),
hay Nhập Bồ Tát Hạnh.
Saraha
– sa ra ha, đại thành tựu giả Ấn Độ, tác giả của ba
giáo khoáù của các bài đạo ca (doha).
Sarvanivaranaviskambhin
(Trừ Cái Chướng Bồ Tát)– sgrib pa rnam sel, một trong Tám
Trưởng Tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sastra
(Luận) – bstan bcos, luận giảng về giáo lý của Đức Phật.
Sattvavajra
(Tát Đoả Kim Cang) – sems dpa’ rdo rje, một danh hiệu được
ban cho Đức Kim Cang Thủ (Vajrapani).
Sáu
cõi luân hồi – ‘gro drug, Phạn: sadgati, sáu phương cách
hiện hữu được tạo ra và bị thống trị bởi một độc
tố đặc biệt trong tâm: cõi địa ngục (sân), cõi ngạ quỷ
(keo kiệt), cõi súc sinh (si mê), cõi người (tham ái), cõi bán
thiên (demi-gods) hay A tu la (ganh tị), và cõi trời (kiêu ngạo).
Các cõi này tương ứng với những tri kiến mê lầm được
tạo nên bởi nghiệp (karma) của chúng sinh và được nhận
thức như thật có. Người ta cũng nói năm cõi, tính chung chư
thiên và bán thiên vào một cõi.
Sáu
loại chúng sinh – ‘gro drug, xem sáu cõi luân hồi.
Sáu
thức (lục thức) – rnam shes tshogs drug, Phạn: sadvijnanakaya,
nghĩa đen: sáu sự tập hợp của thức, nghĩa là sự tập
hợp của đối tượng giác quan (trần), của giác quan (căn)
và của thức. Chúng là nhãn thức (nhìn), nhĩ thức (nghe),
tỉ thức (ngửi), thiệt thức (nếm), xúc thức (chạm) và
ý thức.
Sáu
pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) – pha rol
tu phyin pa drug, Phạn: sad paramita: bố thí siêu việt (dana¬paramita),
giới luật siêu việt (Sila-paramita), nhẫn nhục siêu việt
(ksanti-paramita), tinh tấn siêu việt (virya¬paramita), thiền định
siêu việt (dhyana-paramita) và trí tuệ siêu việt (prajna-paramita).
Cũng xem pháp toàn thiện siêu việt, ba la mật, paramita.
Sáu
Bảo Trang – rgyan drug, sáu luận sư vĩ đại của Phật Giáo:
Nagarjuna (Long Thọ), Aryadeva (Thánh Thiên), Asanga (Vô Trước),
Vasubandhu (Thế Thân), Dignaga (Trần Na) và Dharmakirti (Pháp Xứng).
Savaripa
– sha ba ri pa hoặc ri khrod dbang phyug, một trong tám mươi tư
đại thành tựu giả của Ấn Độ. Ngài là thợ săn ở một
bộ tộc vùng đồi núi xứ Bengal, và đã cùng hai người vợ
trở thành các đệ tử của Nagarjuna (Long Thọ).
Shapkyu
– zhabs kyu, nghĩa đen: chân móc. Một dấu hiệu có dáng của
một cái móc được đặt dưới một phụ âm để tượng
trưng cho âm u.
Sharawa
– shara ba (yon tan grags) (1070-1141), danh hiệu của một geshe
Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa.
Shubu
Palgyi Senge – shud bu dpal gyi seng ge, một trong hai mươi lăm
đại đệ tử của Padmasambhava.
Siddhi
(thành tựu) – dngos grub, xem thành tựu.
Six
Paramitas (Lục độ ba la mật) – xem Sáu Pháp Thành Tựu Siêu
Việt.
Smrtijnana
– (thế kỷ 10-11), Đạo sư và pandita (học giả) Ấn Độ
nổi tiếng, người góp phần vào việc phiên dịch sang tiếng
Tây Tạng và hiệu đính một số Mật điển và luận giảng.
Ở Tây Tạng, cái chết của Ngài đánh dấu sự chấm dứt
của giai đoạn Cựu Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật).
So,
Zur và Nub – so zur gnubs, ba Đạo Sư vĩ đại, là những bậc
trì giữ dòng truyền thừa Nyingma Kahma lúc ban đầu (sự truyền
dạy đầy đủ từ Đạo Sư sang đệ tử của giáo lý Nyingma,
tương phản với Terma (kho tàng tâm linh) được ẩn dấu, về
sau mới được khai quật, đôi khi sau một thời gian rất dài).
Tên họ của các Ngài là So Yeshe Wangchuk, Zur Shakya Jungne và
Nub Chen Sangye Yeshe.
Songtsen
Gampo – srong btsan sgam po (617-698), Vua thứ 33 của Tây Tạng
và một trong ba Pháp Vương vĩ đại. Chính trong thời của
Ngài mà những ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên được xây dựng.
Sri
Simha (Cát Tường Sư Tử) – dpal gyi seng ge (thế kỷ thứ 4),
vị Thầy thứ ba trong loài người thuộc dòng truyền thưà
Đại Viên Mãn, đệ tử của Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu).
Srona
(Sronajat) – gro byin skyes, một người chơi đàn vina sau trở
thành đệ tử của Đức Phật và đạt được oai thần có
thể viếng thăm các cõi khác, đặc biệt là các cõi ngạ
quỷ.
Stupa
(bảo tháp) – mchod rten, nghĩa đen: hỗ trợ cho việc cúng
dường, tượng trưng cho tâm Phật. Đài kỷ niệm tiêu biểu
nhất, thường có một đáy vuông rộng lớn, phần giữa tròn,
và một phần trên lớn, hình nón, trên đỉnh là một mặt
trời và mặt trăng. Bảo tháp thường chứa xá lợi của những
bậc chứng ngộ. Kích thước của bảo tháp biến đổi từ
những mô hình đất sét nhỏ xíu tới những bảo tháp rộng
mênh mông tại Borobodur ở Indonesia và Bodha (Bồ Đề Đạo
Tràng) ở Nepal.
Sugata
(Thiện Thệ) – bde bar gshegs pa, nghĩa đen: đạt được hạnh
phúc: một vị Phật, Đấng Thiện Thệ. “Đấng sử dụng
con đường hạnh phúc của Bồ Tát Thừa, đạt được kết
quả hạnh phúc là Phật Quả viên mãn.” DICT.
Sunaksatra
(Thiện Tú) – legs pa’i skar ma, anh em họ của Đức Phật,
là người mặc dù trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả
của Đức Phật và thấu hiểu tất cả giáo lý của Ngài,
nhưng vẫn không thể nhận thấy ra được bất kỳ phẩm tính
thiện lành nào nơi Ngài. Ông chết không lâu sau khi rời Đức
Phật và bị tái sinh làm một ngạ quỷ.
Suvarnadvipa
(Pháp Vương) – gser gling pa, một Đạo sư Phật Giáo, Pháp
Xứng (Dharmakirti), sống ở Sumatra vào thế kỷ thứ 10. Atisa
coi Ngài như bậc Thầy quan trọng nhất trong các vị Thầy.
Từ Ngài, Atisa thọ nhận giáo lý Bồ Đề Tâm.
Tà
kiến – log lta, Phạn: mithyadristi, AT: niềm tin sai lạc, đặc
biệt là một quan điểm sai lầm sẽ dẫn ta tới những tiến
trình hành động gây thêm nhiều đau khổ hơn nữa.
Tam
Bảo – dkon mchog gsum, Phạn: triratna, Phật, Pháp và Tăng đoàn.
Tam
độc – xem ba độc.
Tam
giới (Ba cõi) – 1) khams gsum, Dục Giới, Sắc Giới và Vô
Sắc Giới. Thế giới thứ nhất bao gồm chúng sinh ở
các cõi địa ngục , ngạ quỷ, súc sinh, người và A Tu La,
cùng một vài cõi Trời. Hai thế giới kế tiếp là các cõi
Trời với một kinh nghiệm tinh tế là kết quả của một
vài loại thiền định mãnh liệt (xem thiền định thế tục),
2) Đôi khi được dùng để dịch sa gsum, Phạn: tribhvana, nghĩa
đen là ba tầng lớp: phía trên mặt đất (sa bla), mặt đất
(sa steng) và bên dưới mặt đất (sa ‘og); được gọi là
cõi Trời, cõi người và cõi rồng.
Tam
học (Tam-yếu Pháp) – bsab pa gsum, Phạn: trisiksa, giới (tsul
khrims, sila), định (ting nges’ dzi, citta) và tuệ (shes rab, prajna).
Tam
Tạng (Tripitaka) – sde snod gsum, Ba tạng bộ Giáo lý của Đức
Phật, Sutra (Kinh) , Vinaya (Luật) , Abhidharma (Luận). Đôi khi
giáo lý Kim Cương Thừa được coi là pitaka (tạng) thứ tư
. Tripitaka có nghĩa là “ba cái giỏû” - được gọi như
thế là vì trước tiên Kinh điển được chép lại trên những
trang sách bằng lá cây cọ, được tập hợp lại và chứa
trong những cái giỏ (rổ).
Tam
thiên đại thiên thế giới – stong gsum, Phạn: trisahasra, vũ
trụ gồm có một tỉ thế giới giống như thế giới của
chúng ta và tương ứng với phạm vi hoạt động của một
vị Phật.
Tám
dấu hiệu cát tường (Eight auspicious signs) – bkra shis rtags
brgyad, tám biểu tượng (tương ứng với các bộ phận khác
nhau trên thân Phật): nút vĩnh cửu, hoa sen, màn trướng, ốc
xà cừ, bánh xe, cờ, bảo bình, và cá vàng.
Tám
hành vi sai lầm – log pa rgyad, 1) chỉ trích điều tốt, 2)
khen ngợi điều xấu, 3) làm ngưng trệ việc tích lũy công
đức của một người đức hạnh, 4) làm náo động tâm thức
của người có lòng quy kính, 5) từ bỏ vị Thầy tâm linh,
6) từ bỏ Bổn Tôn, 7) từ bỏ các huynh đệ và tỉ muội
kim cương, 8) phỉ báng một mạn đà la.
Tám
mối quan tâm thế tục – ‘jig rten chos brgyad, Phạn: astalokadharmah,
những mối bận tâm bình thường của những người chưa chứng
ngộ và không có được một nhãn kiến tâm linh trong sáng.
Đó là: được và mất, vui và buồn (khổ), khen và chê, vinh
và nhục.
Tám
Mộ Địa Vĩ Đại – dur khrod chen po brgyad, những nơi kinh
hoàng (mộ địa) mà các Không Hành nam (daka) và Không Hành
nữ (dakini) tụ hội. Trong ý nghĩa sâu xa thì những mộ điạ
này tương ứng với tám thức (rnam shes brgyad).
Tám
mươi Đại Thành Tựu Giả (Mahasiddha)– 1. tám mươi (hay tám
mươi tư) đại thành tựu giả của Ấn Độ thời cổ mà
cuộc đời các Ngài đã được Abhayadatta thuật lại (xem Sư
Tử của Đức Phật, Emeryville, Nhà Xuất bản Dharma, 1979).
2) tám mươi thành tựu giả xứ Yerpa ở Tây Tạng, các đệ
tử đạt được những thành tựu siêu việt của Đức Liên
Hoa Sanh (Padmasambhava).
Tám
Pháp Vương Tử Vĩ Đại (Tám Đại Bồ Tát) – nye ba’i sras
chen brgyad, các vị Đại Bồ Tát chính trong giáo đoàn của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Manjusri (Văn Thù)ø, Avalokitesvara
(Quán Tự Tại), Vajrapani (Kim Cương Thủ), Maitreya (Di Lặc),
Ksitigarbha (Địa Tạng), Sarvanivaranaviskambhin, và Samantabhadra
(Phổ Hiền). Mỗi vị đóng một vai trò đặc biệt để cứu
giúp chúng sinh. Các Ngài tượng trưng cho trạng thái thuần
tịnh của tám thức.
Tám
Thiên Nữ cúng dường – mchod pa’i lha mo brgyad: Thiên Nữ
Nhan Sắc (sgeg mo ma, Phạn: Lasya), Thiên Nữ Tràng Hoa (phreng
ba ma, Mala), Thiên Nữ Hát Ca (glu
ma,
Gita), Thiên Nữ Vũ Điệu (gar ma, Nrtya), Thiên Nữ Bông Hoa (me
tog ma, Puspa), Thiên Nữ Hương Đăng (bdug spos ma, Dhupa), Thiên
Nữ Nhiệt Đăng (snang gsal ma, Aloka) và Thiên Nữ Hương Thơm
(dri chab ma, Gandha). Trong mạn đà la của các Bổn Tôn Báo Thân
an bình, tám Thiên Nữ cũng là những vị phối ngẫu của tám
vị Đại Bồ Tát (xem Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại), và tượng
trưng, tương ứng cho trạng thái thuần tịnh của bốn đối
tượng của các giác quan (sắc tướng, âm thanh, mùi hương,
và mùi vị), cũng như của bốn khía cạnh của tư tưởng
(quá khứ, hiện tại, tương lai và thời gian không xác định).
Tangka
– thang ka, tranh vẽ (có thể cuộn lại) của Tây Tạng.
Tangtong
Gyalpo – thang stong rgyal po (1385-1509), thành tựu giả Tây Tạng
nổi tiếng, đã du hành khắp Trung Hoa, Tây Tạng và các quốc
gia miền đông khác, xây dựng nhiều ngôi chùa và các cây
cầu kim loại, và sáng lập các tu viện tại vùng Derge và
những nơi khác.
Tạng
Thức (Thức Nền Tảng hay A Lại Da Thức) – kun gzhi, Phạn:
alaya, hình thức ngắn gọn của kun gzhi mam par shes pa, là tạng
thức, tâm thức nền tảng trong đó các tập khí (khuynh hướng
quen thuộc) được tàng trữ. Tạng thức là nền tảng cho
những thức khác. Đôi khi, trong một vài giáo lý, kun gzhi được
dùng cho bản tánh nguyên sơ hay sự thuần tịnh nguyên sơ (ka
dag).
Tánh
sáng (kinh nghiệm) – gsal nyams, một trong ba loại kinh nghiệm
trong thiền định. Xem kinh nghiệm.
Tánh
sáng, tăng trưởng và thành tựu (Clarity, increase and attainment)
– snang mched thob, ba kinh nghiệm xảy ra liên tục cái này tiếp
cái kia vào lúc chết.
Tantra
(Mật điển) – rgyud, bản văn được đặt nền tảng trên
tánh thuần tịnh nguyên sơ của bản tâm, và kết quả chính
là sự chúng ngộ tánh thuần tịnh nguyên sơ đó. Các bản
văn gốc của giáo lý Vajrayana (Kim Cương Thừa).
Tantric
– có liên quan tới các Mật điển (tantra), liên quan tới
Kim Cang Thừa (Vajrayana).
Tara
(Quan Aâm) – sgrol ma, nữ Bồ Tát sinh ra từ một giọt nước
mắt của Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara); sự hiển lộ của
nữ tánh của lòng đại bi.
Tathagata
(Như Lai) – bde bzhin gshegs pa, đấng đã đạt được
chân tánh, một vị Phật.
Tánh
Không – stong pa nyid, Phạn: sunyata, tất cả mọi hiện tượng
đều không có sự hiện hữu thực sự.
Tánh
sáng tạo của Giác tánh (creativity of awareness) – rig pa’i
rtsal, năng lực bẩm sinh và tự nhiên của Giác tánh để làm
cho các hiện tượng hiển lộ.
Tân
Dịch (Tân Phái Dịch Thuật)– gsar ma pa, các tài liệu của
Mật điển được phiên dịch và truyền bá từ thời đại
của dịch giả Rinchen Zangpo (958-1055) trở đi. Tân Phái chỉ
tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng ngoại
trừ phái Nyingmapa, hay phái Cựu Dịch.
Tân
phái – xem Tân Dịch, Tân Phái Dịch Thuật hay Cổ phái.
Tập
khí – xem khuynh hướng quen thuộc.
Tăng
đoàn – dge ‘dun. Theo nghĩa rộng, tăng đoàn ám chỉ tất
cả những hành giả của Phật Giáo. Tăng đoàn có thể cũng
có một ý nghĩa giới hạn hơn phù hợp với văn cảnh, ám
chỉ những Tăng sĩ, A La hán, Bồ Tát, v.v.
Tenma
– rten ma bcu gnyis, mười hai nữ Hộ Thần địa phương phát
nguyện bảo vệ Giáo Pháp trước sự hiện diện của Đức
Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).
Thanh
Văn (Sravaka) – nyan thos, một đệ tử theo Thừa nguyên thuỷ
của Phật Giáo, có mục đích giải thoát khỏi đau khổ của
luân hồi sinh tử như một vị A La Hán. Không
giống
như các đệ tử của Đại Thừa, các vị Thanh Văn không khao
khát đạt được Toàn Giác vì lợi ích của tất cả
chúng sinh.
Thanh
Văn Thừa (Sravakayana) – nyan thos kyi theg pa, Thừa của các
Thanh Văn.
Thành
tựu giả – grub thob, nghĩa đen: bậc đã đạt được thành
tựu. Một số đã đạt được đạo quả nhờ vào các pháp
tu của Mật Thừa.
Thành
tựu – 1) dngos grub, Phạn: siddhi. “Kết quả mong muốn và
đạt được nhờ công năng tu tập hành trì các giáo huấn.”
DICT. Những thành tựu thông thường có thể chỉ là những
năng lực siêu nhiên, nhưng trong quyển sách này thuật ngữ
“thành tựu” luôn luôn ám chỉ thành tựu siêu việt, tức
là đạt được Giác Ngộ. 2) sgrub pa. Trong bối cảnh của
việc trì tụng các câu minh chú hay mật chú, xem triệu thỉnh
và thành tựu.
Thành
tựu siêu việt (thành tựu xuất thế)– mchog gi dngos grub,
xem thành tựu.
Thành
tựu thông thường (thành tựu thế gian) – thun mong gi dngos
grub, các năng lực siêu nhiên phát sinh từ kinh nghiệm tu chứng
trong thiền định, không dành riêng cho Phật Giáo mà cũng phổ
biến đối với những con đường tu khác. Xem thành tựu.
Thân
Tự Tánh (Svabhavikakaya) – ngo bo nyid kyi sku, Thân của Bản
Tánh Tâm Yếu; Thân (kaya) thứ tư, mang tính cách bất khả
phân của Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân.
Thân,
ngữ (khẩu), ý, các phẩm tính và hoạt động – sku, gsung,
thugs, yon tan, phrin las, năm phương diện của Phật Quả. Đôi
khi được ám chỉ như năm Thân (kaya). Cũng xem ngũ bộ Phật.
Thất
Bảo (Bảy đặc tính của vương quyền) – rgyal srid sna bdun,
Phạn: saptaratna, bảy tài sản của một vị Đế Vương hoàn
vũ, mỗi tài sản có một ý nghĩa tượng trưng. Đó là bánh
xe vàng quý báu, viên ngọc như ý, nữ hoàng tôn quý, thượng
thư tôn quý, voi quý, ngựa quý và đại tướng tôn quý.
Thế
giới Bất khả phân – mi ‘byed ‘jig rten, thế giới của
chúng ta, phạm vi hoạt động của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni.
Theurang
– the’u rang, một loại tinh linh xuất hiện giống như một
người lùn nhỏ bé chỉ có một chân.
Thích
Ca Mâu Ni – sha kya thub pa, Đức Phật của thời đại chúng
ta, Ngài sống vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.
Thiền
định (định, thiền na) – bsam gtan, Phạn: dhyana, nhập định,
một trạng thái của tâm không có bất kỳ xao lãng nào. Mặc
dù trạng thái này quan trọng đối với các pháp thiền định
của Phật đạo ở tất cả các cấp độ, nhưng tự trạng
thái ấy không đầy đủ mà phải được kết hợp với động
lực và cái thấy (kiến) đúng đắn. Cũng xem tứ thiền.
Thiền
định thế tục – xem tứ thiền bát định.
Thiền,
thiền định – sgom pa, để tâm an nghỉ dựa trên một đối
tượng của tư duy hoặc quán chiếu, hoặc duy trì sự vận
hành của một cái thấy (kiến) chân thực.
Thiện
tri thức – dge ba’i gshes gnyen, Phạn: kalyanamitra, một từ
đồng nghĩa của vị Thầy tâm linh.
Thuần
tịnh nguyên sơ – ka dag, bản tánh của Phật Quả, hiện diện
trong tất cả chúng sinh, sự thuần tịnh của bản tánh đó
không bao giờ bị hư hoại.
Thừa
(Cỗ xe) – theg pa, Phạn: yana, phương tiện để du hành trên
con đường dẫn tới Giác ngộ.
Thường
Đề Bồ Tát – Xem Sadaprarudita.
Tịch
Hộ – Xem Santaraksita.
Tiến
trình suy hoại (Tiến trình tan rã) – thim rim, một chuỗi
hiện tượng xảy ra vào lúc chết: sự suy hoại (tan rã) của
các đại và sự xuất hiện của ba kinh nghiệm được gọi
là kinh nghiệm của tánh sáng, tăng trưởng và thành tựu.
Tilopa
– ti lo pa, một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của
Ấn Độ. Sư phụ của Naropa.
Tingdzin
Zangpo (Nyang) – myang ting ‘dzin bzang po (thế kỷ thứ 9), đại
thành tựu giả Tây Tạng, đệ tử của Vimalamitra (từ vị
này Ngài nhận toàn bộ giáo lý Tâm-Yếu) và của Đức Liên
Hoa Sanh (Padmasambhava). Ngài được coi là người Tây Tạng đầu
tiên đạt được thân cầu vồng (rainbow body) của pháp đại
chuyển di siêu việt (‘ja’ lus ‘pho ba chen po), là một trong
những thành tựu vĩ đại nhất của pháp tu Đại Viên Mãn.
Tình
Nhân Thiên Tú – skar ma la dga’ ba, danh hiệu của một Bồ
Tát. Ngài là điển hình của một người mà nguyện lực vô
ngã đã khiến Ngài vun bồi công đức mặc dù Ngài đã phạm
phải một lỗi lầm mà thông thường được coi là một hành
vi xấu ác.
Tinh
tuý – thig le, nghĩa đen: giọt. “Tinh tuý hay chủng tử của
đại lạc; trong các kinh mạch có nhiều loại, thanh tịnh hay
suy hoại.” DICT. Thuật ngữ thig le có một số ý nghĩa khác
nhau phù hợp với hoàn cảnh và các pháp tu khác nhau.
Tịnh
Độ – dag pa’i zhing, một trụ xứ hay một thế giới được
hoá hiện nương vào những phẩm tính (thần lực) có được
do sự chứng ngộ của một vị Phật hay một vị Bồ Tát.
Ở đó chúng sinh có thể tiến xa trên con đường đi tới
Giác ngộ mà không sợ bị đọa những cõi thấp.
Tịnh
Độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật của
Đức Amitabha (A Di Đà).
Tịnh
quang – ‘od gsal, Phạn: prabhasvara, tích cách tự nhiên, chói
ngời (hay thấu suốt) của chân tâm – hay giác tánh.
Tịnh
Quang (cõi của chư Thiên) – ‘od gsal gyi lha, Phạn: Abhasvara,
tầng trời cao nhất của chư Thiên trong Nhị Thiền (thuộc
Sắc Giới).
Thanh
tịnh quang của giây khắc nền tảng (Clear light of the moment
of the ground) – gzhi dus kyi ‘od gsal, “bản tánh của tâm thức
tất cả chúng sinh, thanh tịnh từ vô thuỷ và chói ngời tự
nhiên; sự tương tục căn bản (của Giác tánh), tiềm năng
của Phật Quả.” DICT. Thanh tịnh quang có thể được
một vị Đạo Sư chứng ngộ “giới thiệu” (trực chỉ)
cho một đệ tử, và người đệ tử sau đó tiếp tục làm
cho thuần thục và phát triển kinh nghiệm này bằng những
pháp môn hành trì thâm diệu của Đại Viên Mãn. Chúng sinh
bình thường chỉ cảm nhận được tịnh quang trong một thời
khắc ngắn bằng một tia chớp vào lúc chết.
Tirthika
(Ngoại Đạo, Phi Phật Giáo) – mu stegs pa, kẻ đề xướng
những quan điểm triết học cực đoan chẳng hạn như thuyết
hư vô và thuyết vĩnh cửu. Thường được dùng cho các trường
phái tư tưởng triết học và tôn giáo ở Ấn Độ đối lập
với Phật Giáo.
Toà
Kim Cương – rdo rje gdan, Phạn: Vajrasana, địa điểm ở Ấn
Độ (ngày nay có tên là Bồ Đề Đạo Tràng - Bodh Gaya) nơi
tất cả chư Phật trong kiếp này sẽ đạt được Giác Ngộ.
Toàn
Giác – rdzogs pa’i byang chub, Phạn: sambodhi, Phật Quả viên
mãn.
Tonpa
(Geshe) (1005-1064), danh hiệu khác của Drom Tonpa.
Torma
– gtor ma, một cúng phẩm, thường được nặn từ bột mì
và bơ có thể là biểu tượng của một vị Bổn Tôn, một
mạn đà la, một vật cúng dường, hay đôi khi một vũ khí
để chiến đấu với các thế lực ác hại.
Torma
nước – chu gtor, một phẩm vật cúng dường làm bằng nước,
sữa và các loại hạt.
Tối
Thượng – ‘og min, Phạn: Akanistha, xem Akanistha (Sắc Cứu
Cánh Thiên).
Tha
Hoá Tự Tại Thiên – gzhan ‘phrul dbang byed, Phạn: Paranirmitavasavartin,
tầng Trời thứ sáu và là tầng cao nhất của các vị Trời
trong Dục giới, trong đó các vị Trời vui hưởng những gì
được những vị Trời tạo ra một cách thật phi thường.
khác. Xem ba cõi hay tam giới.
Thất
chi nguyện – yan lag bdun, Phạn: satanga, một hình thức cầu
nguyện gồm có bảy phần: lễ lạy, cúng dường, sám hối,
hoan hỉ, cầu thỉnh các vị Thầy chuyển Pháp luân, khẩn
cầu các Ngài không nhập Niết Bàn, và hồi hướng công đức.
Thiện
căn (căn lành) – dge ba’i rtsa ba, Phạn: kusalamula, những hành
vi tích cực giống như gốc rễ (căn) (rtsa ba) của công đức
hay của những điều tốt lành (dge ba).
Three
Roots – xem Ba Nguồn Gia Trì, Ba Lực Gia Trì.
Thuyết
ngôn – gsung rab, Skt. Pravacana, lời Đức Phật.
Trạng
thái như nhiên (Bản Tánh, Tự Tánh, Tự Tánh Đế) –
gnas lugs, Phạn: prakriti, nghĩa đen: cách thức an trụ. “Bản
tánh hay duyên sinh của vạn pháp.” DICT.
Trạng
thái trung ấm (Bardo) – bar do, Phạn: antarabhava, thuật ngữ
được dùng cho những giai đoạn kinh nghiệm khác nhau giữa
cái chết và giai đoạn tái sinh kế tiếp; với một lối giải
thích rộng lớn hơn bao gồm các trạng thái tâm thức khác
nhau trong cuộc đời. Bốn trạng thái trung ấm được phân
định như: 1) trạng thái trung ấm tự nhiên của đời này
(rang bzhin skyes gnas bar do), 2) trạng thái trung ấm của lúc
chết (‘chi kha’i bar do), 3) trạng thái trung ấm của thực
tại tối thượng (chos nyid bar do), và 4) trạng thái trung ấm
của sự hình thành (srid pa’i bar do); hoặc để tạo thành
sáu trạng thái trung ấm, hai trạng thái đặc biệt nữa được
thêm vào trạng thái thứ nhất: 5) trạng thái trung ấm của
giấc mộng (rmi lam bar do) và 6) trạng thái trung ấm của thiền
định (bsam gtan bar do).
Trạng
thái trung ấm của sự hình thành – srid pa’i bar do, trạng
thái trung ấm trong đó nghiệp lực xô đẩy ta tới sự tái
sinh kế tiếp trong luân hồi sinh tử. AT: trạng thái trung ấm
của những triển vọng, trạng thái trung ấm của sự hiện
hữu.
Trạng
thái trung ấm của chân tánh – chos nyid bar do, trạng thái
trung ấm khi mà chân tánh hiển lộ như những sắc tướng
thuần tịnh của hai tánh an bình và phẫn nộ, phù hợp với
các khuynh hướng cá nhân của riêng ta.
Trăm
Đấng Hộ Phật – rigs brgya, bốn mươi hai vị Hộ Phật
an bình (peaceful deity) và năm mươi tám vị Hộ Phật phẫn
nộ (wrathful deity).
Trakpa
Gyaltsen – grags pa rgyal mtshan (1147-1216), một trong năm đại
học giả của phái Sakya; năm đại học giả này được biết
đến như là Sakya Gongma (Năm Đại Trưởng Lão Dòng Sakya).
Tri
giác (Tri kiến) – snang ba, những gì xuất hiện trong mắt
của mỗi cá nhân tuỳ theo khuynh hướng (tập khí) hay sự
phát triển tâm linh của họ. NT, trích dẫn Patrul Rinpoche, nói
về ba loại tri giác (và tri kiến): 1) các tri kiến sai lầm
xuất hiện trong tâm thức của chúng sinh trong sáu cõi do sự
hiểu biết sai lạc; những tri kiến này được gọi là các
tri kiến mê lầm bất tịnh của thế giới và chúng sinh. 2)
các tri giác về duyên khởi (rten ‘brel), các ảo giác huyễn
hoặc (sgyu ma), tương ứng với tám ẩn dụ về ảo giác mà
ta không xem là thật có (xem Phần Một, Chương Hai, Mục III,
tiết 2.6. 3) đây là những tri giác của các Bồ Tát thuộc
mười địa trong trạng thái hậu-thiền định của các Ngài
(rjes thob). 3) các tri giác xác thực, toàn thiện của trí tuệ;
khi ta chứng ngộ trạng thái như nhiên của vạn pháp, chúng
sinh
và
toàn thể thế giới xuất hiện như là sự hiển bày của
các thân (kaya) và trí tuệ.
Tri
giác thanh tịnh (Tri kiến thuần tịnh) – dag snang, “tri giác
cho rằng toàn thể thế giới và những gì được chứa đựng
trong đó là một cõi Phật thuần tịnh, là sự hiển bày của
các Thân (kaya) và trí tuệ.” DICT
Trích
xuất tinh chất – bcud len, một phương pháp khiến ta có thể
chỉ dùng những chất thể hay yếu tố nào đó với một lượng
ít ỏi, mà không phải dùng thực phẩm thông thường.
Triệu
thỉnh và thành tựu – bsnyen sgrub, hai bước trong các pháp
hành trì liên quan tới việc trì tụng một mantra (minh chú).
Trong bước thứ nhất, các hành giả triệu thỉnh Bổn Tôn
mà họ đang quán tưởng bằng cách trì tụng câu minh chú của
Bổn Tôn. Trong bước thứ hai, họ đủ thuần thục để tự
đồng nhất với Bổn Tôn.
Tripitaka
– xem Tam Tạng.
Trisong
Detsen – khri srong sde’u btsan (790-844), vị vua thứ 38 của
Tây Tạng, là vị thứ hai trong ba vị Pháp Vương vĩ đại.
Nhờ nỗ lực của Ngài mà các Đại Đạo Sư từ Ấn Độ
đã tới và thiết lập một nền Phật Giáo thật vững chắc
tại Tây Tạng.
Trí
tuệ – shes rab, Phạn: prajna, khả năng thấu hiểu đúng đắn,
thường là với cảm thức đặc biệt của kinh nghiệm thấu
suốt tánh Không. AT: trí tuệ phân biệt. Cũng xem trí tuệ
nguyên sơ.
Trí
tuệ nguyên sơ – ye she, Phạn: jnana, “khả năng thấu suốt
(shes pa) đã luôn luôn hiện diện từ vô thuỷ (ye nas), giác
tánh, tánh sáng-tánh Không, an trụ tự nhiên trong dòng tâm
thức của tất cả chúng sinh.” DICT.
Trống
sọ người nhỏ – thod pa’i da ma ru, trống (damaru) nhỏ có
hai mặt làm bằng hai đỉnh sọ người.
Trung
Đạo (Madhyamika) – dbu ma’i lam, Phạn: madhyamika, giáo lý về
tánh Không được Ngài Long Thọ (Nagarjuna) giảng dạy trước
tiên và được coi như nền tảng của Mật Thừa. “Trung”
có nghĩa là vượt lên các quan điểm cực đoan của chủ nghĩa
hư vô và chủ nghĩa vĩnh cửu.
Tsampa
– tsam pa, bột mì làm bằng lúa mạch nướng hay các loại
hạt khác. Một loại thực phẩm chính ở Tây Tạng.
Tu
huệ (Illustrative wisdom) – dpe’i ye shes, trí tuệ đạt được
nhờ công phu tu tập tâm linh (thiền định), giống như là
một cái que để chỉ cho thấy trí tuệ nguyên sơ.
Tu
viện trưởng – mkhan po, nói chung có nghĩa là những vị có
thể ban các giới nguyện tăng sĩ. Danh hiệu này cũng được
ban cho một người đã đạt một mức độ hiểu biết cao
rộng, thấu suốt Giáo Pháp và đảm trách việc giảng dạy
Giáo Pháp. Cũng có thể chỉ là danh hiệu đuợc ban cho nhà
sư cao tuổi nhất trong một kỳ nhập hạ truyền thống.
Tục
đế – xem Chân lý tương đối.
Tulku
– sprul sku, từ Tây Tạng được dịch từ nirmanakaya (Hoá
Thân) trong Phạn ngữ, cũng được dùng như một danh hiệu
tôn kính và là một thuật ngữ thông thường đối với những
vị Hoá Thân đã được tuyên nhận là hoá thân của các Lạt
Ma, là những vị thường được tìm ra khi còn thơ ấu và
được dạy dỗ để kế tục dòng truyền thừa và trong nhiều
trường hợp, kế thừa tu viện của các vị tiền nhiệm.
Tư
thế kim cương – rdo rje dkyil krung, Phạn: vajrasana, tư thế
thiền định với chân xếp chéo và bàn chân đặt trên đùi.
Tư
thế đang bước – mnyam pa’i ‘dor stabs, thế đứng với
cả hai chân nhưng bàn chân phải hơi nhón tới (tượng trưng
cho nhiệt tâm cứu giúp chúng sinh).
Tư
thế vương giả – rgyal po’i rol stabs, thế ngồi với chân
phải duỗi nửa chừng và chân trái kéo vào.
Tư
tưởng (ý niệm) – rnam rtog, Phạn: vikalpana, nói chung bất
kỳ điều gì phát khởi trong tâm với tính cách đối đãi
nhị nguyên.
Tứ
Thiên Vương – rgyal chen rigs bzhi, Phạn: caturmaharajakayika, bốn
vị Trời mà theo truyền thống là những vị bảo vệ bốn
phương. Cõi giới của họ là cõi thứ nhất trong sáu cõi
Trời trong Dục Giới. Xem ba cõi hay Tam giới.
Tứ
thiền (tứ định) – bsam gtan bzhi, Phạn: caturdhyana, bốn mức
độä thiền định, kết quả của công phu hành trì thiền
định này là được tái sinh trong bốn loại cõi trời trong
Sắc Giới. Tuy nhiên tứ thiền cũng có thể được vận dụng
trên con đường dẫn tới giác ngộ.
Tứ
thiền bát định (thiền định thế tục) – những loại thiền
định không đưa tới giác ngộ mà chỉ dẫn tới sự tái
sinh trong các cõi Trời. Xem tứ thiền.
Tứ
Vô Lượng – tshad med bzhi, Phạn: caturaprameya, từ (byams pa,
Phạn: maitri), bi (snying rje, karuna), hỉ (dga’ba, mudita), và
xả (btang snyoms, upeksa) vô lượng.
Tử
Thần (Diêm Vương) – ‘chi bdag, Yama.
Tướng
chính và phụ – mtshan dang dpe byad, ba mươi hai tướng chính
(mtshan bzang, Phạn: mahapurusa laksana) và tám mươi tướng phụ
(dpe byad, anuvyanjana) của một vị Phật.
Tỳ
Bà Thi (Phật) – xem Vipasyin.
Tỳ
Lô Giá Na – xem Vairocana.
Vairocana
(Tỳ Lô Giá Na) – rnam par snang mdzad, Đức Phật thuộc Phật
Bộ. Xem năm bộ.
Vairotsana
– bai ro tsa na, dịch giả vĩ đại nhất của Tây Tạng và
là một trong bảy tăng sĩ đầu tiên được thọ giới ở
Tây Tạng. Ngài là một trong những đệ tử chính của Đức
Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và Cát Tường Sư Tử (Sri Simha).
Vaisakha
– sa ga zla ba, tháng thứ tư trong âm lịch Tây Tạng. Đức
Phật đản sanh, đạt được Giác ngộ và nhập Niết Bàn
vào
ngày rằm (ngày mười lăm) trong tháng đó. (*Người Tây Tạng
gọi là Saka Dawa)
Vaisravana
(Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Vương) – rnam thos sras, một
trong Tứ Thiên Vương (cõi Trời của Ngài là cõi thứ nhất
trong Dục Giới), là vị bảo vệ phương Bắc và vị
trời tài bảo.
Vajra
(Chày Kim Cương) – rdo rje, AT: kim cương, ánh sét kim cương.
Sự biểu tượng của trí tuệ bất biến và bất hoại có
thể xuyên thấu mọi sự. Pháp khí tượng trưng cho lòng bi
mẫn, phương tiện thiện xảo, giác tánh. Luôn luôn được
kết hợp với chuông, dril bu, Phạn: ghanta, biểu tượng của
trí tuệ, tánh Không. Đối với hình tướng của chày kim cương,
xin xem hình minh hoạ Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) cầm
chày kim cương trong tay phải và chuông trong tay trái.
Vajra
Yogini (Nữ Kim Cang Du Già) – rdo rje ‘ rnal ‘byor ma, một hình
thức Báo Thân nữ của Đức Phật.
Vajradhara
(Kim Cương Trì) – rdo rje ‘chang, nghĩa đen: bậc trì giữ
kim cương. Theo phái Tân Dịch, Ngài là Đức Phật nguyên sơ,
là nguồn mạch của tất cả các Mật điển. Trong phái Cựu
Dịch, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy, như
bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.
Vajradhatvisvari
– rdo rje dbyings ‘phugs ma, một trong những vị Phối ngẫu
của chư Phật trong Ngũ Bộ Phật.
Vajrapani
(Kim Cương Thủ) – phyag na rdo rje, một trong Tám Trưởng Tử
Vĩ Đại.
Vajrasattva
(Kim Cương Tát Đoả) – rdo rje sems dpa’, vị Phật hiện thân
Trăm Đấng Hộ Phật. Hành trì pháp Vajrasattva và trì tụng
thần chú của Ngài thì đặc biệt hữu hiệu để tịnh hoá
các ác hạnh. Theo dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, Ngài là
Báo Thân Phật.
Vajrayana
(Kim Cương Thừa)– rdo rje theg pa, xem Mật Thừa.
Văn
Thù (Manjusri) – ‘jam dpal dbyangs, một vị Bồ Tát thập địa.
Ngài hiện thân cho sự toàn giác và trí tuệ của tất cả
chư Phật.
Vidyadhara
(Trì Minh Vương) –rig ‘dzin, bậc trì giữ thấu suốt. “Bậc
trì giữ các Bổn Tôn, mật chú, và trí tuệ đại lạc bằng
những phương tiện thâm diệu.” DICT. Trong truyền thống Nyingmapa
có bốn cấp độ vidyadhara: 1) hoàn toàn thuần thục (rnam smin),
2) làm chủ thọ mạng của đời mình (tshe dbang), 3) Mahamudra
(Đại Ấn, phyag chen), và 4) thành tựu tự nhiên (lhun grub).
Viên
ngọc như ý – yid bzhin nor bu, Phạn: cintamani, một viên ngọc
tuyệt diệu được tìm thấy trong các cõi Trời hay rồng có
diệu năng đáp ứng được mọi ước muốn của ta.
Vikramasila
– một trong những Đại Học Viện Phật Giáo nổi tiếng
nhất ở Ấn Độ, bị phá huỷ vào thế kỷ thứ 12.
Vimalamitra
(Tì Ma La Mật Đa) – dri med bshes bnyen, một trong những Đạo
Sư Phật Giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài tới Tây Tạng
vào thế kỷ thứ 9, ở đó Ngài giảng dạy rộng rãi, biên
soạn và phiên dịch nhiều bản văn Phạn ngữ. Tinh hoa của
giáo lý của Ngài được gọi là Vima Nyingtig (Tâm-Yếu của
Vima), một trong các giáo lý Tâm¬yếu của Đại Viên mãn.
Vina
– một nhạc cụ Ấn Độ có dây.
Vipasyin
(Tỳ Bà Thi) – rnam par gzigs, vị thứ nhất trong sáu vị Phật
đã xuất hiện trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Virupa
– một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ.
Là suối nguồn của các giáo lý quan trọng của truyền thống
Sakyapa.
Vị
Thầy gốc (Bổn Sư) – rtsa ba’i bla ma, 1) vị Thầy tâm linh
chính yếu, hay vị Thầy đầu tiên mà ta nhận các quán đảnh,
các bình giảng và giáo huấn cốt tuỷ từ Ngaiø. 2) vị Thầy
đã trực chỉ cho ta bản tánh của tâm.
Vô
nhiễm (hành động) – zag med, Phạn: anasrava, được làm với
tâm không đắm nhiễm, không có các ý niệm (đối đãi) về
chủ thể, đối tượng và hành động.
Vô
ngã – bdag med, Phạn: anatman, nairatmya, sự vắng bặt của
cái ngã (*ngã là một sự hiện hữu độc lập và tin là có
thật) của bản thân, hay sự vắng bặt cái ngã của các hiện
tượng bên ngoài (chos kyi bdag med).
Vô
hành – hành động mà không có vọng tưởng, xuất phát từ
trạng thái chứng ngộ mà người làm hành động (tác
nhân), chính hành động ấy, và đối tượng mà hành động
ấy hướng tới đều hoàn toàn không có thực chất.
Vô
niệm – mi rtog pa’i nyams, Phạn: avikalpa, nirvikalpa, một trong
ba loại kinh nghiệm thiền định. Một trạng thái an tĩnh trong
đó không có các niệm tưởng. Xem các kinh nghiệm.
Vô
trụ Niết Bàn – mi gnas pa’i myang ‘das, Toàn Giác, siêu vượt
cả sinh tử lẫn Niết Bàn, không “trụ” trong cái nào trong
hai trạng thái trên.
Xá
Lợi Phất (Sariputra) – sha ri’i bu, một trong hai đệ tử
Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích ca Mâu Ni.
Xứ
biên địa – mtha’ ‘khob, một miền mà giáo lý (của Đức
Phật) không hề được biết tới.
Yaksa
(Dạ xoa) – gnod sbyin, một loại tinh linh.
Yama
– gshin rje, Tử Thần, Diêm Vương.
Yamantaka
– gshin rje bshed, hình tướng phẫn nộ của Manjusri (Văn Thù).
Yeshe
Tsogyal – ye shes mtsho rgyal, vị phối ngẫu huyền nhiệm và
đệ tử vĩ đại nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).
Bà phụng sự Ngài thật hoàn hảo, và hộ pháp cho Ngài trong
việc truyền bá giáo lý, đặc biệt là cất dấu những kho
tàng tâm linh để sau này các kho
tàng
tâm linh (tàng kinh) ấy được khám phá trở lại vì lợi lạc
của các đệ tử trong các đời tương lai.
Yidam
(Bổn Tôn) – yidam, Phạn: devata, istadevata, Bổn Tôn tượng
trưng cho sự giác ngộ, trong hình tướng nam hay nữ, an bình
hay phẫn nộ tương ứng với bản tánh riêng của ta. Yidam
là cội nguồn của những thành tựu. Xem Ba Nguồn Gia Trì,
Ba Lực Gia Trì.
Yoga
(Du già) – rnal ‘byor, pháp môn thực hành, nghĩa đen: một
phương pháp để hợp nhất (‘byor) với trạng thái như nhiên
(rnal ma).
Yogi
hay yogini (Hành giả du già) – rnal ‘byor pa hoặc rnal ‘byor
ma, những người thực hành các pháp du già (yoga), một hành
giả tâm linh.
Ý
niệm hay quan hệ thuộc ý niệm – dmigs pa, bất kỳ khái niệm
(tạo tác) nào về chủ thể, đối tượng và hành động.
Chú thích của TBĐ 2008
Để
giúp cho việc hiệu đính phần Thuật Ngữ, chúng tôi đã tra
cứu
thêm
các trang nhà và tài liệu sau đây:
Thư
Viện Hoa Sen (www.thuvienhoasen.org)
Đạo
Uyển (www.daouyen.org)
Đại
Tự Điển Phật Học Huệ Quang (Thích Minh Cảnh, 1999)
Phật
Học Từ Điển (Đoàn Trung Côn, 1963)
cũng
như tham khảo thêm ý kiến với các đạo hữu Nguyễn Minh
Tiến
và
Minh Không.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1.
Tài liệu do Patrul Rinpoche trích dẫn
An
Trú Lìa Xa Ảo Giác -Finding Rest from Illusion – sgyu ma ngal gso,
một tập luận do Ngài Longchenpa trước tác, chỉ cho thấy
tất cả các hiện tượng (vạn pháp) đều giống như những
ẩn dụ về ảo giác như thế nào. Đây là tập sách thứ
ba trong tập yếu Ba Phương Thức An Trú (Trilogy of Rest), ngal
gso skor gsum do Ngài biên soạn.
An
Trú Trong Chân Tánh -Finding Rest in the Nature of Mind – sems nyid
ngal gso, một trước tác của Ngài Longchenpa. Tập sách
đầu tiên trong tập yếu Ba Phương Thức An Trú (Trilogy of Rest),
ngal gso skor gsum do Ngài biên soạn
Bài
Nguyện Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc -Prayer of Sukhavati –
bde ba can gyi smom lam, một bài cầu nguyện để được vãng
sinh vào cõi tịnh độ của đức Phật A Di Đà (Amitabha).
Đây là bài cầu nguyện nổi tiếng nhất do Ngài Karma Chakme
biên soạn.
Bài
Nguyện Vãng Sanh Quốc Độ Đồng Sơn -Prayer of the Copper-coloured
Mountain – zings bdog dpal n’i smom lam, một bài cầu nguyện
để được vãng sinh vào cõi tịnh độ của đức Liên
Hoa Sanh (Padmasambhava).
Bảo
Hành Vương Chính Luận -Jewel Garland – Ratnavali, rin chen phreng
ba, tên của một bộ luận do Ngài Long Thọ (Nagarjuna) trước
tác.
Bản
Sanh Kinh (Truyện Tiền Thân Đức Phật) -Jatakas – skyes rabs,
một phần trong các giáo huấn của Đức Phật trong đó Ngài
thuật lại truyện tiền thân của Ngài trong những kiếp quá
khứ.
Bảo
Trang Tối Yếu -Essential Ornament – snying po’i rgyan, một Mật
điển.
Bát
Nhã Tập Kệ -Condensed Transcendent Wisdom – Prajnaparamita-samcayagatha,
phar phyin bsdus pa, tên của một tập luận của Ngài Thánh Dũng
(Aryasūra).
Bát
Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh -Transcendent Wisdom in Eight
Thousand Verses – Astasahasrika-prajna-paramita, shes rab skyi pha rol
tu phyin pa brgyad stong pa (được viết tắt là brgyad stong pa).
Bảy
Mươi Đoản Kệ Quy Y -Seventy Stanzas on Refuge – skyabs ‘gro
bdun bcu pa.
Bí
Mật Tập Hội Mật Điển -Tantra of the Secret Essence – Guhyagarbha-tantra,
rgyud gsang ba’i snying po, còn được gọi là dpal gsang ba’i
rgyud, Mật điển gốc của Đại Du Già (Mahayoga).
Chứng
Đạo Ca của Saraha -Dohas (of Saraha) – Dohakosa, do ha mdzod, những
bài chứng đạo ca của đại thành tựu giả Ấn Độ Saraha.
Chứng
Đạo Ca của Virupa - Dohas (of Virupa) – Dohakosa, do ha mdzod, những
bài chứng đạo ca của Virupa, một đại thành tựu giả Ấn
Độ.
Con
Đường Đạo Tôn Quý Tối Thượng -Precious Supreme Path – lam
mchog rin po che, một trước tác của Ngài Gampopa.
Di
Lặc Ngũ Luận hay Ngũ Bộ Đại Luận -Five Teachings of Maitreya
– byams chos sde lnga, năm bộ luận do Đức Phật Di Lặc tuyên
thuyết cho Ngài Vô Trước (Asanga) ở tại Cung Trời Đâu Suất
(Tusita) gồm có: Hiện Quán Trang Nghiêm Luận -Abhisamaya-alamkara
(mngon rtogs rgyan), Đại Thừa Kinh Trang Nghiêm Luận - Mahayana-sutra¬alamkara
(mdo sde rgyan), Trung Biên Phân Biệt Luận - Madhyanta-vibhanga (dbus
mtba’ mam ‘byed), Phật Pháp Tính Không Biệt Luận - Dharma¬dharmata-vibhanga
(chos dang chos nyid rnam ‘byed) và Đại Thừa Tối Thượng Luận
-Uttara¬tantra-sastra (rgyud bla ma).
Diệt
Tội Trang Nghiêm Sám Hối Mật Điển -Tantra of Immaculate Confession
– dri med gshags pa’i rgyud.
Đại
Bát Niết Bàn Kinh -Nirvana Sutra – Mahaparinirvana-sutra, mya ngan
las ‘das pa’i mdo.
Đại
Nhật Tâm Kinh - Sutra of the Heart of the Sun – nyi ma’i snying
po’i mdo.
Đại
Thừa Bảo Vân Kinh -Clouds of Jewels – Ratnamegha-sutra, mdo sde
dkon mchog sprin, được cho rằng đây là bản kinh đầu tiên
do dịch giả Thonni Sambhota chuyển qua Tạng ngữ.
Đại
Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh -Sutra Designed like a Jewel Chest
– Arya-ratna¬karandavyuha-sutra, mdo sde za ma tog bkod pa, (tìm thấy)
trong Mani Kahbum của đức vua Songtsen Gampo.
Giáo
Huấn Về Bồ Đề Tâm Khắc Bằng Vàng Trên Đá
-Instructions
on Bodhicitta Written on Stone in Gold – byang sems rdo la gser zhun,
có lẽ đây là tác phẩm có tên là rdo la gser zhun thuộc phần
viết về Tâm (sems sde) của giáo lý Đại Viên Mãn
(Great
Perfection), trong Mật Điển Tập Yếu của dòng truyền thừa
Nyingma (Cổ Mật) (rnying ma rgyud ‘bum).
Hô
Kim Cang Mật Điển - Hevajra tantra – Hevajra¬tantra-raja, rgyud
brtags guyis.
Kho
Báu Thiện Đức - Treasury of Precious Qualities – yon tan rin po
che’i mdzod, một luận giải rất nổi tiếng của Ngài Jigme
Lingpa, diễn giảng về toàn bộ con đường tu của Phật Đạo,
từ những giáo lý Thanh Văn (Sravakayana) cho đến giáo lý của
Đại Viên Mãn(Great Perfection).
Kinh
Bách Nghiệp - Sutra of a Hundred Actions – Karmasataka-sutra, mdo
sde las brgya pa.
Kinh
Bách Nghiệp Bách Bái -Sutra of a Hundred Invocations and Prostrations
– Saksi-purana¬sudraka-nama-sutra, dpang skong phyag brgya pa, tên
của một kinh trong King tạng (Kangyur), theo truyền thuyết cho
rằng đây là bộ kinh Phật Giáo đầu tiên đã xuất hiện
tại Tây Tạng (trên mái nhà của cung điện đức vua Lhathothori,
vào khoảng giữa thế kỷ thứ 5). Sau đó, kinh này đã được
Thonmi Sambhota dịch qua Tạng văn.
Kinh
Đại Giải Thoát -Sutra of Great Liberation – thar pa chen po’i
mdo.
Kinh
Hiền Ngu -Sutra of the Wise and the Foolish – Damomurkha-sutra, mdzangs
blun gy mdo.
Kinh
Hoa Nghiêm -Sutra Arranged like a Tree (Kinh Sắp Xếp Như Một Cái
Cây) – Gandhavyuha-sutra, sdong po bkod pa, một phẩm trong Kinh
Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra), phal po che.
Kinh
Kim Cang -Diamond Cutter Sutra – Vajracchedik¬sutra, rdo rje gcod pa.
Kinh
Sagaramati - Sutra Requested by Sagaramati – Sagaramati-paripriccha-sutra,
blo gros rgyz mtshos zhus pa’i mdo.
Kinh
Sám Hối Các Tội Phạm Giới -Confession of Downfalls – ltung
gshags, một tên khác của Tam Tụ Kinh (Sutra in Three Parts). Xem
Đại Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh.
Kinh
Vô Nhiễm -Immaculate Sutra – dri ma med pa’i mdo.
Liễu
Nghĩa Giáo Huấn Chân Pháp Mật Điển -Tantra of Thorough Comprehension
of the Instructions on all Dharma Practices – chos spyods thams cad kyi
man mngon par rtogs pa’i rgyud.
Linh
Ly Sầu Ưu -Letter of Consolation – Sokavinodana, mya ngan bsal ba’i
springs yig, một bộ luận do Ngài Mã Minh (Asvaghosa) trước tác.
Long
Thọ Bồ Tát Khuyến Giới Vương Tụng -Advice to King Surabhibhadra
– rgyal po bde spyod la gdams pa, một tên khác của trước tác
mang tên Suhrlleka hay Lá Thư Gửi Bạn của Ngài Long Thọ (bshes
sbring). (Xem chú thích 36).
Nhật
Nguyệt Hợp Nhất Mật Điển - Tantra of Union of Sun and Moon –
nyi zla kha sbyor.
Ngọn
Cỏ Cắm Thẳng -Inserting the Grass-stalk – ‘pho ba ‘jag ‘dzugs
ma, một bài cầu nguyện của Nyi Da Sangye, được tụng đọc
trong pháp môn thực hành chuyển di (tâm thức).
Nguyệt
Đăng Tam Muội Kinh -Moon Lamp Sutra – Candrapradipa-sutra, zla ba
sgron me’i mdo, một tên khác của Chính Định Vương Kinh (Sutra
of the King of Concentration), Samadhiraja-sutra, ting ‘dzin rgyal po.
Ngũ
Bộ Giới Nguyện - Vows of Five Families – rigs lnga’ sdom pa,
tên của một Mật điển.
Nhập
Bồ Tát Hạnh -Way of the Bodhisattva – Bodhicaryavatara, byang chub
sems dpa’i spyod pa la ‘jug pa, bộ luận nổi tiếng của Ngài
Śāntideva (Tịch Thiên) trình bày về con đường tu tập hay
hạnh nguyện của một vị Bồ Tát.
Như
Thật Luận (Tương Ưng Luận) -Well Explained Reasoning – Vyakhya-yukti,
rnam bshad rig pa, tên của một luận do Ngài Thế Thân (Vasubandhu)
trước tác.
Như
Ý Bảo Luận - Wish-granting Treasure – yid bzhin mdzod, tên tắt
của hai tập trong bộ đại luận Thất Bảo Luận (Seven Treasures)
(mdzod bdun) by Longchenpa (see above).
Oai
Mật Kinh -Powerful Secret – gnyan po gsang ba, Tên đầu tiên đặt
cho bộ kinh mà theo truyền thuyết, vua Lha-Thothori Nyentsten đã
khám phá ra trên mái nhà của cung điện của Ngài (vào năm
433 sau Công Nguyên). Sau này được đổi thành Kinh Bách
Nghiệp Bách Bái (Sutra of a Hundred Invocations and Prostrations).
Kinh này cũng thường được nhắc đến cùng với sự xuất
hiện của một số pháp bảo mà trong đó, Nhà Vua đã tìm
thấy bản kinh này. Sự xuất hiện của kinh này cùng
với các pháp bảo khác đánh dấu sự khởi đầu của Phật
Giáo tại Tây Tạng.
Pháp
Hành Trì Giải Thoát Tức Thời Các Tập Khí Bám Chấp - Practice
that Spontaneously Liberate Habitual Clingings – chos spyod bag chags
rang grol, một phần trong trước tác mang tên zhi khro của Ngài
Karma Lingpa.
Pháp
Tập Yếu Tụng Kinh -Collection of Deliberate Sayings – Udanavarga,
ched du brjod pa’i tshoms. Đây là kinh Đại Thừa tương ứng
với Kinh Pháp Cú tiếng Pali. Kinh này chứa đựng những thuyết
giảng do Đức Phật tuyên thuyết một cách tự nhiên, cốt
để gìn giữ giáo lý chứ không phải để trả lời câu hỏi
của những cá nhân riêng biệt.
Phật
Thuyết Pháp Tập Kinh - Sutra that Perfectly Encapsulates the Dharma
– Dharmasanglti-sutra, ches yang dag par sdud pa’i mdo.
Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Tán -Prayer of Good Actions
–
Bhadracaryapranidhana, bzang spyod smon lam, một bài nguyện do Đức
Phật tuyên thuyết trong Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka-Sutra), phal
po che
và
thường thường được tụng đọc vào lúc kết thúc
các
nghi lễ.
Tám
Bài Kệ (Luyện Tâm) của Langri Thanpa -Eight Verses of Langri Thangpa
– glang thang pa’i tshig brgyad, tám đoản kệ về pháp
luyện tâm dựa trên tâm Bồ Đề.
Tam
Pháp Tuệ Đăng Mật Điển -Torch of the Three Methods (Ngọn Đuốc
Của Ba Pháp Tu) – Nayatraya-pradipa, tshul gsum sgron me, tên của
một bộ luận do Ngài Tripitakamala trước tác.
Tám
Thi Kệ Vi Diệu - Eight Great Marvellous Verses – ngo tshar ba’i
tshig chen brygyad, tám bài kệ tán tụng của Mật điển Đại
Viên Mãn (Great Perfection) diêãn tả về chân tánh của Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tam
Tụ Kinh (Đại Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh) -Sutra in Three Parts
–Triskandha-sutra, phung po gsum.
Tâm-Yếu
(Giáo Lý) - Heart-essence - snying thig, những giáo huấn tâm-yếu
cực kỳ quan trọng trong những chương viết về giáo lý trực
chỉ (man ngag sde) thuộc giáo lý Đại Viên Mãn (Great Perfection).
Những giáo lý này bao gồm hai dòng truyền thừa đến từ
Ngài Tì La Đa Mật Đa (Vimalamitra) và từ đức Liên Hoa Sanh
(Padmasambhava). Những giáo lý Tâm-Yếu được biết đến nhiều
nhất là Tâm-Yếu Bi Ma (Bi- Ma Nyingthig - bi ma snying thig),
Tâm Yếu Kha-Dro (Khadro Nyingthig - mkha’ ’gro snying thig) và
Tâm-Yếu Long-Chen (Longchen Nyingthig -klong chen snyig thig).
Tâm-Yếu
của Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik)-Heart-essence of the Vast
Expanse – klong chen snying gi thig le, một bộ luận được Ngài
Jigme Lingpa khám phá, là một trong những bộ luận nổi danh
nhất thuộc hệ Tâm-Yếu. Do đại sư Lama Ngodrup ấn tống
dành cho đức Dilgo Khyentse Rinpoche, Paro, Bhutna, 1972, 4 bộ.
Thắng
Quân Vương Sở Vấn Kinh -Sutra of Instructions to the King – Rajavavadaka-sutra,
rgyal po la gdams pa (*Còn thêm các tên khác như: Giáo Thị Thắng
Quân Vương Kinh, Như Lai Thị Giáo Thắng Quân Vương Kinh, Gián
Vương Kinh).
Thất
Bảo Luận -Seven Treasures – mdzod bdun, tên của các trước
tác của Ngài Longchenpa gồm có: 1) Pháp Giới Bảo Luận -The
Precious Treasure of Absolute Space, chos dbyings rin po che’i
mdzod; 2) Như Ý Bảo Luận: Luận Giải Các Giáo Huấn Đại
Thừa Tinh Yếu - The Precious Wish-Fulfilling Treasure: a Commentary
on the Pith Instructions of the Great Vehicle, theg pa chen po’i man
ngag gi bstan bcos yid bzhin rin po che’i mdzod; 3) Mật Thừa Thắng
Bảo Luận - The Precious Treasure of the Supreme Vehicle, theg pa’i
mchog rin po che’i mdzod; 4) Yếu Nghĩa Bảo - The Precious Treasure
of Pith Instructions, man ngag rin po che’i mdzod; 5) Thắng Tự Yếu
Nghĩa Tam Mật Bảo Luận –The Precious Treasure of Words and Meaning
that Illuminate the Three Abodes of the Secret Unsurpassable Luminous Adamantine
Essence, gsang ba bla na med pa ‘od gsal rdo rje snying po’i gnas gsum
gsal bar byed pa’i tshig don rin po che’i mdzod’; 6) Thắng Nghĩa
Tam Thừa Bảo Luận ¬The Precious Treasure of Philosophical
Doctrines that Illuminate the Meaning of All Vehicles, theg pa mtha’
dag gi don gsa bar byed pa grub pa’i mtha’ rin po che’i mdzod; and
7) Chân Tánh Bảo Luận ¬The Precious Treasure of the Natural State,
gnas lugs rin po che’i mdzod.
Thất
Chi Nguyện - Prayers in Seven Lines – tshig bdun gsol ‘debs, bài
cầu nguyện nổi tiếng nhất khẩn cầu đức Liên Hoa Sanh
(Padmasambhava) và đã được các nữ Không Hành (dakini) xướng
tụng vào giờ phút đản sinh của Ngài. Bài này có nhiều
trình độ ý nghĩa khác nhau và chứa đựng tinh túy của tất
cả các giáo lý. Xem ghi chú 247.
Tịnh
Ức Diệu Pháp Kinh -Sutra of Sublime Dharma of Clear Recollection –
Saddharmanu-smrityu-paz¬thana-sutra, dam pa’i chos dran a nye
bar bzhag pa’i mdo.
Trình
Tự Giới Nguyện Mật Điển -Tantra of the Array of Samayas –
Samaya- vyuha, dam tshig bkod pa’i
rgyui,
một Mật điển rất phổ thông cho cả Mahayoga and Anuyoga.
Trình
Tự Pháp Tu A-Tì -Array of ati – a ti bkod pa, một Mật điển.
Trung
Quán Luận -Treatieses on Madhyamika – dbuj ma rig pa’i tshogs,
năm đạo luận về giáo lý Trung Quán (Madhyamika) của Ngài
Long Thọ (Nagarjuna) gồm có: Bát Nhã Căn Bản Trung Quán Luận
Tụng -Prajna-mula-madhyamaka-karika (dbus ma rtsa ba shes rab), Lục
Thập Tụng Như Lý Luận - Yukti-sastika-karika (rigs pa drug cu pa),
Quảng Phá Luận - Vaidalya-sutra (zhib mo mam ‘thag), Thất Thập
Không Tính Luận Tụng - sunyata-saptati-karika (stong nyid bdun cu
pa), và Hôài Tránh Luận Tụng - Vigraha-vyavartani-karika (rtsod
pa bzlog pa).
Yếu
Nghĩa Diễn Giải -Detailed Commentary on the Condensed Meaning –
dgongs’dus rnam bshad,
một
tập luận do Ngài Jigme Lingpa trước tác thuộc trong hệ của
các pháp môn hành trì có tên gọi là bla ma dgongs’dus của
Ngài Sangye Lingpa. Yếu Nghĩa Mật Kinh - Sutra of the Condensed Meaning
–
mdo dgongs pa ’ duspa, một trong những Mật điển gốc của
Anuyoga.
2.
Tài liệu tham khảo cho phần Chú Thích và Thuật Ngữ
rdzdogs
pa chen po klong chen snying thig gisgnon ‘gro’i kbrid yig kun
bzang nla ma’i shal lung gi bris (Ghi Chép Về Lời Vàng Của Thầy
Tôi - Notes on The
Words
ot my Perfect Teacher), Ngawang Pelzang (ngag dbang dpal zang), còn được
biết đến dưới tên Khenpo Ngakchung, trước kia là một đệ
tử chân truyền của Đạo Sư Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima, và
Đạo Sư Nyoshul Lungtok là một đại đệ tử của Ngài Patrul
Rinpoche, tác giả của Lời Vàng. Bản Tạng văn của những
ghi chép này đã được tái xuất bản bởi đại Đạo Sư
Thubten Nyima, Zenkar Rinpoche, Nhà Xuất Bản Minorities Publishing
House, Chengdu, Trung Hoa. Tuyển tập gồm những ghi chép giảng
giải chi tiết này, giảng giải sâu rộng về một số điều
được trích ra từ trong Lời Vàng, hiện đang được chuyển
dịch qua Anh ngữ dưới sự điều động của Alla Zenkar Rinpoche
(với sự hợp tác của các thành viên của Nhóm Dịch Thuật
Padmakara Translation Group) và dự trù sẽ được xuất bản trong
năm 1988 bởi Nhà xuất bản Dipamkara, 367 A Holloway Road, London
N7 ORN, U.K.
3.
Tác phẩm của Patrul Rinpoche
Các
Pháp Tu Mật Điển Của Trường Phái Nyingma -Tantric Practice
in Nying-ma, Khetsun Sangpo Rinpoche (Jeffrey Hopkins chuyển Anh ngữ),
Ithaca, Nhà xuất bản Gabriel/Snow Lion, 1982. (Để chuẩn bị
cho các thuyết giảng khẩu truyền dựa trên tác phẩm Lời
Vàng Của Thầy Tôi -Kunzang Lamai Shelung - của Patrul Rinpoche).
Con
Đường Đại Viên Mãn -Le chemin de la Grande Perfection, bản dịch
Pháp văn của Lời Vàng Của Thầy Tôi, kun bzang bla ma’i shal
lung, do
Padmakara
Translation Group chuyển dịch, Peyzac-le-Moustier, Ấn bản của
Padmakara, 1987, ấn bản thứ Nhì, 1977.
Kho
Tàng Tâm Của Các Bậc Giác Ngộ - Heart Treasure of the Enlightened
Ones (thog mtha’ gsum dge ba’i gtam lta sgom spyod gsum mnyams len
dam pa’i snying nor), Patrul Rinpoche, Dilgo Khyentse bình giải, (do
Padmakara Translation Gorup chuyển Anh ngữ), Boston, Nhà xuất bản
Shambhala, 1992. Có bao gồm một tiểu sử ngắn của Patrul Rinpoche.
Kun-ZangLa-May
Zhal Lung (Lời Vàng Của Thầy Tôi), Patrul Rinpoche (Kazi Sonam
Togpay chuyển Anh ngữ), Upper Montclair (New Jersey), Nhà xuất bản
Diamond Lotus Publishing, 1989¬1993, 3 tập.
Những
Lời Tốt Lành Ở Phần Đầu, Giữa và Cuối -Propitious Speech
from the Beginning, Middle and End (thog mtha’ gsum dge ba’i gtamlta
sgom spyod gsum mnyams len dam pa’i snying nor) Patrul Rinpoche, (Thinley
Norbu chuyển Anh ngữ), Nhà xuất bản Jewel Publishing House, 1984.
Rdzogs
pa chen po klong chen snying thig gi sgnon ‘gro’i khrid yig kun bzang
bla ma’i shal lung, (Bản Tạng văn được đóng bìa mỏng).
Do Thubten Nyima, Zenkar Rinpoche hiệu đính, si kron mi rigs
dpe skrun khang (Nhà xuất bản Ethnic Minorities Publishing House),
Chengdu, China, 1988.
Tập
Hợp Các Yếu Giải của Patrul Orgyan Jigme Chokyi Zangpo -Collected
Works of dPal sprul O rgyan ‘Jigs med Chos kyi dBang po, (Tạng văn),
gồm có 6 tập, được Sonam Kazi sao chép lại từ bản khắc
mộc trong bộ sưu tầm của đức Dudjom Rinpoche, tại Gangtok,
1971. Lời Vàng Của Thầy Tôi - kun bzang bla ma’i shal lung nằm
trong tập thứ 5 trong tập hợp các yếu giải này. Kho Tàng
Tâm Của Các Bậc Giác Ngộ, Một Luận Giảng Thiện Lành Ở
Phần Đầu, Giữa và Cuối - thog mtha’ bar gsum dge ba’I gtam
lta sgom spyod gsum mnyams len dam pa’I snying nor nằm trong tập
thứ 6, trang 195-209.
Tuyển
Tập Các Luận Giải của Patrul Orgyan Jigme Chokyi Zangpo -Collected
Works of dPal sprul O rgyan ‘Jigs med Chos kyi dBang po, (Tạng văn),
sao chép lại từ một bản thảo mới đây đã được ghi lại
bằng bút pháp (calligraphy), do Thubten Nyima, Zenkar Rinpoche hiệu
đính, si krom mi rigs dpe skrun khang (Nhà xuất bản Ethnic Minorities
Publishing House), Chengdu, China, 1988
4.
Tiểu Sử của Tác Giảø Patrul Rinpoche
Giọt
Cam Lồ - The Dew-Drop of Amrita (mtshungs bral rgyal-ba’I my-gu o-rgyan
jigs med chos-kyi dbang¬po’i rtogs-brjod tsam gleng-ba bdud rtsi’i
zil thig),
Dodrup
Chen đệ Tam, Tenpai Nyima (mdo-grub bstan-pa’i nyi-ma), tập thứ
Nhì, Tuyển Tập Các Trước Tác – Collected Writings, trang 101-136,
do Dodrup Sangye ấn hành, Gang-tok,Sikkim, 1972.
Tán
Thán Patrul Rinpoche -Praise to Patrul Rinpoche, (rgyal-ba’I my-gus-kyi
dbang-po rjes-su dran-pa’I ngag-gi’ phreng-ba bkra-shis bil-ba’I
ljong bzang ku tu dga’ba tshal), Jamyang Khyentse Wangpo
(‘jams dbyangs mkhyen-brtse’I dbang-po.) Được
bổ
sung vào tập thứ 6 của Tuyển Tập Các Luận Giải, trang 245-250.
Linh
Dược Của Tín Tâm - The Elixir of Faith (o-rgyan’ jigs-med chos
kyi dbang-po’I rnam-thar dad-paz gsos sman bdud rtsi’I bum bcud), Khenpo
Kunpel (mkhan-chen kun-bzang dpal-ldan), tập 2 of Tuyển Tập Các
Trước Tác - Collected Writings (gsung¬‘bum) của mKhan-cher. Kun-bzang
dPal-ldan, trang 353-484. Do đức Dilgo Khyentse Rinpoche ấn
hành, Bhutan, 1986. Bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp của
Nhóm Padmakara Translation Group sắp chào đời dưới tên Cuộc
Đời Và Những Giáo Huấn Của Patrul Rinpoche -The Life and Teachings
of Patrul Rinpoche.
5.
Sách Tham Khảo Phụ
Danh
mục này chỉ liệt kê những tài liệu đã được trích dẫn
cho riêng phần Chú Thích và Thuật Ngữ, chứ không phải là
một danh sách đầy đủ bao gồm tất cả những tài liệu
liên hệ.
Con
Đường Tỉnh Giác Vĩ Đại - Great Path of Awakening, Jamgon Kongtrul
(K. McLeod chuyển Anh ngữ), Boston, Nhà xuất bản Shambhala, 1987.
Dũng
Khí Giác Ngộ - Enlightened Courage, Dilgo Khyentse, Peyzac-le Moustier
(Pháp quốc), Ấn bản của Padmakara, 1992.
Huyền
Thoại Của Đại Bảo Tháp - Legend of the Great Stupa, Keith Dowman
chuyển Anh ngữ, Berkeley, Nhà xuất bản Dharma Publishing, 1973.
Những
Giáo Huấn Được Cất Dấu Của Tây Tạng: Giải Thích Về
Truyền Thống Tàng Bảo Kinh (Terma) Của Trường Phái Phật
Giáo Nyingma - Hidden Teachings of Tibet: An Explanation of the Terma
Tradition of the Nyingma School of Buddhism, Tulku Thondup Rinpoche, London,
Nhà xuất bản Wisdom 1986.
Pháp
Tu Dự Bị Tối Yếu Của Đại Viên Mãn - Dzogchen Innermost Essence
Preliminary Practice, Jigme Lingpa (Tulku Thondup chuyển Anh ngữ),
Dharamsala, Library of Tibetan Work and Archives, 1982.
Truyền
Thống Mật Điển Nyingmapa - Tantric Tradition of the Nyingmapa, Tulku
Thondup, Marion, Buddayana, 1984.
Trường
Phái Nyingma Của Phật Giáo Tây Tạng: Nền Tảng và Lịch Sử
- Nyingma School of Tibetan Buddhism: Its Fundamentals and History, Dudjon
Rinpoche (Dorje và Kapstein chuyển Anh ngữ), Boston, Nhà xuất bản
Wisdom, 1991.
Bồ
Đề Tâm Vương,
Tâm
tối thượng, tâm vô cùng trân quý,
Nơi
tâm ấy chưa sinh,
xin
cho tâm ấy nẩy sinh,
Nơi
tâm ấy đã sinh,
xin
cho tâm ấy đừng bao giờ thoái chuyển
Mà
vĩnh viễn mỗi ngày một vươn lên,
vươn
lên cao hơn…1
Lời
Vàng Của Thầy Tôi
Bản
Hiệu Đính Toàn Bộ - An Bản 2008
Viet
Nalanda Foundation ấn tống tại Hoa Kỳ
Mọi
sai sót là của người chuyển ngữ và hiệu đính.
Mọi
công đức xin hồi hướng lên quả vị Giác Ngộ
của
tất cả chư Đạo Sư
cùng
toàn thể pháp giới chúng sinh.
1 “Bodhicitta,
the Excellent and Precious Mind, where it is unborn, may it arise; where
it is born, may it not decline, but ever increase higher and higher…”
(Lời nguyện phát Bồ Đề Tâm - Nguyễn Hữu Hiệu dịch)
Viet
Nalanda Foundation (trước đây còn có tên là Viet Vajra Foundation)
là một tổ chức bất vụ lợi 501(c)3 được thành lập vào
năm 2006 tại Hoa Kỳ để tạo nhịp cầu kết nối giữa những
Phật tử người Việt có duyên với truyền thống Kim Cương
Thừa tại khắp nơi trên thế giới. Viet Nalanda Foundation
cổ súy tinh thần bất bộ phái, và tôn trọng chư Đạo Sư
cùng các Giáo Pháp đặc thù của tất cả bốn dòng truyền
thừa của Phật Giáo Tây Tạng gồm có Nyingma, Sakya, Kagyu và
Gelug.
Muốn
biết thêm chi tiết về tổ chức Viet Nalanda Foundation cũng
như tìm hiểu thêm về Kim Cương Thừa – Phật Giáo Tây Tạng,
xin vào xem trang nhà http://www.vietnalanda.org
hoặc gửi điện thư đến vietnalanda@ymail.com.
Muốn
phát tâm cúng dường cho quỹ ấn tống kinh sách của Viet Nalanda
Foundation, xin liên lạc địa chỉ: 14905 Coles Chance Road
North Potomac, MD 20878 USA
Tài
liệu Việt ngữ về Kim Cương Thừa – Phật Giáo Tây Tạng
cũng có thể được tìm thấy tại các trang nhà sau đây:
Thư
Viện Nalanda – http://www.nalanda.batnha.org
Thư Viện Hoa Sen – http://www.thuvienhoasen.org
Trang Nhà Quảng Đức – http://www.quangduc.org
Ghi
Chú của Viet Nalanda Foundation về
Phương
Danh ẤnTống và Tịnh Tài Cúng Dường
Trong
thời gian từ tháng 3 năm 2007 đến tháng 10 năm 2008, Viet Nalanda
Foundation (trước đây có tên là Viet Vajra Foundation) đã kêu
gọi quý đạo hữu phát tâm đóng góp cho chi phí ấn tống
của hai quyển sách “Lời Vàng Của Thầy Tôi” và “Phát
Tâm Bồ Đề.” Có nhiều đạo hữu đã gửi tịnh tài đến
đóng góp cho cả hai quyển sách cùng một lúc.
Dựa
trên chi phí ấn tống của mỗi quyển sách, chúng tơi đã
chia số tịnh tài đóng góp của quý đạo hữu theo tỷ
lệ 4/5 cho quyển “Lời Vàng Của Thầy Tôi” và 1/5 cho quyển
“Phát Tâm Bồ Đề.” Do đo, số tịnh tài được liệt kê
trong Phương Danh ẤnTống dưới đây phản ảnh đóng góp của
quý đạo hữu cho quyển “Lời Vàng Của Thầy Tôi.”
Tổng
số tịnh tài quyên góp được, sau khi trang trải chi phí ấntống
và cước phí, nếu còn tồn quỹ thì sẽ được chuyển qua
quỹ ấn tống các kinh sách của Viet Nalanda Foundation trong tương
lai.
Nguyện
xin chư Phật chư Bồ Tát chứng giám cho cơng đức ấn tống
kinh sách của quý đạohữu và nguyện cho những lời vàng
ngọccủa chư đạo sư sẽ đến được với tất cả chúng
sinh trong khắp sáu cõi.
Nguyện
hồi hướng tất cả cơng đức đến quả vị giác ngộ của
chư vị Đạo Sư cùng tồn thể pháp giới chúng sinh.
Viet
Nalanda Foundation
Hoa
Kỳ, tháng 10, 2008
Phương
Danh ẤnTống
Liêu
Tiết Mai Westminster, CA $20
Hồ
Kim Loan Westminster, CA $20
Nga
Đỗ Huntington Beach, CA $20
Phan
Tấn Hải Westminster, CA $80
Mai‐Thy
Trương Westminster, CA $100
Phạm
N. Ngọc Bảo Westminster, CA $40
Thanh
Diệp & Mai Thái Santa Ana, CA $16
Vũ
H. Đệ Santa Ana, CA $50
Khoa
Phạm Garden Grove, CA $100
Đức
Ngơ Garden Grove, CA $48
Trung
Nguyễn Sacramento, CA $100
Bích
Thủy San Jose, CA $200
Nguyễn
Thúy Mai San Jose, CA $25
Minh
Đỗ San Jose, CA $40
Võ
Kim Loan Long Beach, CA $400
Ni
sư Việt Giáo Houston, TX $1000
Vannessa
Nguyễn Seattle, WA $100
Lâm
N. Duyên Falls Church, VA $30
Nguyễn
Đỗ Như Virginia $50
Dr.
Gene Y Woo Falls Church, VA $160
Hoa
Thuy Burke Falls Church, VA $30
Kim
Bich D Pham Sterlings, VA $20
Michael
Scalia Leesburg, VA $30
Cô
Thân Nhẫn Virgina $40
Gia
đình bác Phước Minh Virgina $40
Bác
Chúc Diệu Virgina $40
Cô
Quảng Kiểng Virgina $40
Bác
Diệu Mỹ Virgina $16
Bác
Diệu Minh Virgina $24
Diệu
Xuân & Tường Minh Virgina $75
Cô
Diệu Đức, Chị Diệu Liên, Phương An & bạn Cô Diệu Hoa
Virgina
$24
Virgina
$15
Virgina
$80
Virgina
$24
Tâm
Diệu Phú & Nguyên Tuệ Virgina $160
Huỳnh
Tuyết Anh Như Sterling, VA $75
Lê
Thị Phượng Pittsburgh, PA $40
Brenda
Gaskill Takoma Park, MD $20
Anne
La, Bác Diệu Thiện & Maryland $40
Bác
Diệu Thắng
Cô
Từ Nguyên Maryland $50
Thắm
Nguyễn Germantown, MD $40
Lê
Giao Loan Toronto, Canada $50
Minh
Nguyễn Vancouver, Canada $100
Cao
Ngọc Tính Winnipeg, Canada $10
Lê
Thị Sỹ Karlsruhe, Germany $50
Ngơ
Vạn Châu Rosemead, CA $20
Vo
Huệ Nguyên San Diego, CA $100
Quảng
Anh Ngọc Hân Sydney, Úc $150
Tiên
Đồn Gilbert, AZ $75
Xin
hồi hướng cho Nathan Bates bệnh hoạn tiêu trừ, cầu siêu
thốt cho ông bà nội ngoại hai bên
Vu
Dong family Mesa, AZ $60
Xin
hồi hướng hương linh sư Tuệ Năng
Vũ
Huy Thơng Ammandale, VA $100
Xin
hồi hướng cho Vũ Huy Tú & Trịnh Thị Nghiêm
Trang
Phạm Ontario, Canada $254 Xin hồi hướng cho Phạm Văn Hịa &
Dương Thị Tư
Bác
Diệu Tịnh &Lưu family N. Potomac, MD $160 Xin hồi hướng cho
hương linh Cụ ông Bùi Thạnh
Ngô
Quang Thắng Brossard QC, Canada $56
Xin
hồi hướng cho Ngô Quang Sự, pháp danh Trí Đạt
Nguồn: thuvienhoasen.net
__________________ Phiền Não Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|