| Msg 118 of 206: Đă gửi: 30 July 2006 lúc 9:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
Dear young Brother, Lưu-Bị,
Đúng ra anh cũng không để mắt đến cái ''Mụt-đề '' Ngày càng Ngu này ( v́ trong Diễn-Đàn c̣n quá nhiều Mục-đề hay khác để '' học-lóm '' ) nhưng v́ thấy em posted bài trả lời ở trên, nên anh cũng phải ráng viết bài này để tặng cho Bị. Dưới đây anh xin phép được Lược-trích một đoạn ngắn trong loạt bài viết của Học-Giả PHẠM VĂN BÂN, về tiếng HÁN VIỆT anh thật sự không biết ông ta có phải là Nhà Ngôn-Ngữ Học hay không ( đang điều tra v́ thấy bài viết của ông rất hay ).
LỜI NÓI ĐẦU:
Loạt bài này nhằm tŕnh bài các vấn đề thực-tế của tiếng Hán-Việt trong ngôn tự Việt-Nam trên quan điểm thực-dụng đại-chúng; bỏ qua các liên quan lịch-sử cũng như lư-luận ngôn-ngữ-học khó căm nhận được. Với một vấn-đề rộng lớn và khó khăn như vậy th́ bắt buột phải xăy ra sai sót ! Kính mong quư-vị rộng ḷng tha thứ và bổ túc hoặc sửa sai cho các sơ-sót nếu có. Tôi xin thành thật căm-ơn trước.
Khi mới thấy cục xà-bông lần đầu tiên từ Pháp du-nhập vào, người Việt-Nam không có tiếng để gọi; V́ vậy đọc tiếng Pháp '' savon '' theo giọng Việt Nam là xà-bông. Tiếng xà-bông được gọi là tiếng Pháp Việt. Với thời gian xữ-dụng lâu dài, chữ xà-bông tự-nhiên hóa thành tiếng Việt, gọi là tiếng Việt có gốc Pháp....
Trong lĩnh-vực ngôn-tự không có vấn đề '' tự-ái dân-tộc '', cũng không có chuyện '' tiếng nước tôi giàu có, vẻ vang, hay hơn hẳn tiếng nước anh", mà chỉ là một phương tiện để thông đạt với nhau mà thôi. Lịch sử tiếng Việt Nam cũng na ná của các nước khắp nơi trên thế giới : Không có chữ th́ cứ tự nhiên mượn mà xài, đơn giản vậy thôi. Chính v́ thế mà khi xét lịch-sử ngôn-ngữ, người ta kết luận rằng không có thứ tiếng nào được gọi là thuần cả. Trăi qua khoảng 8000 năm tất cả các tiếng nói đều vai mượn lẫn nhau. Rồi với thời gian, tất cả đều phát triển, để trở nên phong phú và tiến bộ hơn.
Cũng nằm trong trường hợp đó tiếng Việt đă mượn rất nhiều chữ của tiếng Hán ( ở phía bắc ) và tiếng Mă-lai ( cá, đă, sẽ, đang )Môn Khmer ( đốt, cháy, mặn, chát, chua ) Thái Lan, Chiêm-Thành v.v..
Xét về tỷ-lệ mượn chữ, th́ việc mượn tiếng Hán nhiều khủng khiếp! Nhiều đến nỗi, hể cứ nói hoặc viết th́ người Việt Nam, dù có ư-thức hay không có ư-thức đều xữ-dụng rất nhiều tiếng Hán, được đọc theo khẩu âm của người Việt, gọi là tiếng Hán Việt.
Tiếng Hán Việt đă có trong tiếng Việt Nam ngay từ thuở ban đầu có chủng-tộc Việt Nam ( TRƯỚC thế-kỷ I ), sau đó là thời gian bị Trung-Quốc đô-hộ khoảng 1000 năm. Trong thời gian này, chữ viết cho cả nước là chữ Hán. Đến thời kỳ độc-lập khoảng 1000 năm ( trừ khoảng 20 năm bị nhà Minh đô-hộ vào đầu thế-kỷ XV và 100 năm bị Pháp chiếm làm thuộc địa )th́ chữ viết vẫn là chữ Hán. Người Việt dùng chữ Hán trong mọi lĩnh-vực phải dùng đến chữ : Công-Văn, Khoa-học, Lịch-Sử, Giáo-dục, Văn-chương v.v...Chỉ mới gần đây ( khoảng 100+ năm ) th́ mới có lối chữ A, B, C xuất hiện do công sức của các Giáo-sĩ truyền đạo Thiên-Chúa từ nhiều nước đến Việt Nam như: Tây-Ban-Nha, Bồ-Đào-Nha, Pháp, Ḥa-Lan v.v..
Trăi qua suốt một khoảng thời gian dài gần 2000 năm xữ-dụng chữ Hán liên tục như vậy, th́ lẽ tất nhiên ảnh-hưởng to lớn của chữ Hán là một sự kiện lịch-sử khách quan, trong tiếng nói và chữ viết Việt Nam.
Tiếng Việt Nam là thứ tiếng tổng-hợp rất nhiều thứ tiếng, trong đó tiếng Hán Việt được ước tính là chiếm hơn 70%. V́ tiếng Hán Việt nhiều quá, xữ-dụng lâu quá, phổ-thông quá và giọng đọc lại khác hẳn giọng Trung-Quốc cho nên có thể nói rằng đa số tiếng Hán Việt đă được Việt hóa rồi; hay nói cách khác đa số tiếng Hán Việt trong ngôn-tự Việt Nam là Tiếng Việt có gốc là tiếng Hán.
Đặc điểm của tiếng Hán Việt xét về âm:
Một câu hỏi tất nhiên chúng ta phải đặt ra là làm sao phân biệt được tiếng Hán Việt và tiếng Việt ? Đặc biệt đối với những người không học chữ Hán hoặc chỉ có tŕnh độ Trung-học Việt Ngữ ( ai kêu tui đó ?opps !! ) hoặc những người Việt quen dùng ngoại ngữ, lâu dần tŕnh độ hiểu biết tiếng Việt trở nên kém cỏi.( mà lại hay NÓI, lại ai kêu tui đó nữa he, he, he, nhột nha tám ). Có vài cách như sau:
Cách làm biếng là phàm khi gặp chữ Việt nào mà không hiểu nghĩa một cách rơ-ràng, hoặc không chắc ḿnh có viết đúng chính-tả hoặc ít nghe thấy th́ hầu chắc chữ đó là chữ Hán Việt ( theo cách này hồi-hộp quá bà con ). Thí dụ A Phú Hăn ( Afghanistan ) thị phi ( chuyện thị phi ở đời ), công xúc tu sỉ, bị vong lục, tối hậu thư, hàn thử biểu, đại chấn kư, kư âm pháp, trắc địa học, nhân sinh quan, vũ trụ quan, tiềm thủy đỉnh, nạn nhân măn, phiếm diện, hàn lâm viện, bộ nội vụ, bộ quốc pḥng, đức mô khắc lạp tây ( Democracy ), yên tư phi lư thuần ( Inspiration ), Ṭa Bạch Ốc, Nữu Ước, Ba-lê, Hoa Thịnh Đốn, Vọng Các ( Bangkok ) Cam Địa (Gandhi ), A Lư Sĩ Đa Đức ( Aristote ) Nă Phá Luân ( Napoléon ) v.v...
Cách ít làm biếng là ngẫm nghĩ nghĩa và cách dùng của chữ. Nếu một chữ nào đó đứng một ḿnh, có nghĩa nào đó nhưng không tạo thành từ ngữ được th́ chữ đó là chữ Hán Việt. Thí dụ: THIÊN = Trời. Người Việt nói tôi nh́n Trời KHÔNG NÓI TÔI NH̀N THIÊN. Tuy nhiên khi dùng với chữ cặp đôi, hoặc đồng nghĩa hoặc phản nghĩa, th́ có thể nói '' Của thiên trả địa '' Từ ngữ : Thiên tài, thiên tai, thiên tạo, thiên bẫm, thiên cơ, thiên hạ, thiên văn, thiên tính, thiên lôi ( ông ''quánh'' cho cái đầu nó sáng ra dùm tui đi ông ơi, để tui phải ngồi đây '' quánh '' máy mệt quá hè ) v.v..
ĐỊA = Đất. Người Việt nói: '' đất này mới được bón phân '' không ai nói '' ĐỊA này mới được bón phân '' ( ê! cũng có trường hợp ngoại lệ nha người ta là cocc th́ muốn nói cái ǵ không được hỉ ) Từ ngữ: địa cầu, địa dư, địa chấn kư, địa h́nh, địa vật, địa thế, địa chất học, địa chi, địa hạt, địa mạch, địa tự, v.v..(bỏ con Địa-Kiếp vô luôn )
Cách khó nhất là HỌC...tiếng HÁN ( không phải háng nha bà con ), nhờ đó mà tự khắc phân biệt được tiếng HÁN VIỆT và TIẾNG VIỆT THUẦN-TÚY. ( c̣n tiếp )
* Theo cái sự hiểu biết chưa đầy lá mít của anh ( chính v́ chổ đó anh mới lấy cái nick là Lắng_Nghe, để không khéo chổ nào cũng bô-bô cái mơm vào, thiên hạ lại bảo ḿnh là dốt mà hay nói.... bậy... th́ đau lắm-lắm ) th́ anh thấy cái '' Cái câu rồng bay phụng múa '' bên trên rất là Ư-NGHĨA để ca tụng T̀NH HỮU NGHỊ VIỆT-TRUNG ĐỜI ĐỜI BỀN VỮNG v́ rằng ở câu thứ nhất ba chữ đầu LÀM GIÀU TH̀ = Việt , rồi đến hai chữ sau BẤT NHÂN = Hán Việt. Câu thứ hai LÀM NHÂN = ( đến cái chữ này em phải cho anh xin 3 phút để chạy vào restroom ) chứ nếu mà hai câu trên được viết như dzầy nè:
'' Hán Việt...( từ-từ tra tự-điển Hán Việt nha )...BẤT NHÂN ''
'' Hán Việt (...khổ nữa )....BẤT PHÚ ''
th́ anh cũng ráng mang cái đầu Bự ra mà giăi nghĩa. Chúc Lưu-Bị một cuối tuần vui-vẻ, ngủ nghê đầy đủ nha.
|