Tác giả |
|
wzfj Hội viên
Đã tham gia: 16 May 2005 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 41 of 53: Đã gửi: 29 June 2005 lúc 1:56pm | Đã lưu IP
|
|
|
ThienSu đã viết:
Nhưng nó lại hoàn toàn logic khi nước Văn Lang:
Bắc giáp Đông Đình hồ; nam giáp Hồ Tôn; tây giáp Ba Thục; đông giáp Đông Hảị
|
|
|
..
Xin giải thích dùm, 5000 năm trước, vua Hùng làm sao cai trị xứ Văn Lang rộng mênh mông, gấp 4-5 lần xứ Pháp ngày nay ?
Bằng cách nào ? phương tiện gì ?
Nếu chỉ tin vào chuyện cổ tích thì .. miễn bàn
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Ðặc Biệt
Đã tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 42 of 53: Đã gửi: 30 June 2005 lúc 8:20am | Đã lưu IP
|
|
|
wzfj thân mến!
Câu hỏi của bạn cũng là một câu mà "hầu hết các nhà khoa học trong nước và cộng đồng khoa học quốc tế" đặt ra khi hoài nghi về một nước Văn Lang vào thời cổ tại sao lại rộng như vậy?!
Tôi xin trả lời bạn:
1) Câu hỏi trên là một tồn nghi chứ không phải là sự phản biện cho cội nguồn dân tộc Việt 5000 văn hiến và lãnh thổ ở Nam Động Đình Hồ.
2) Vào thời đại đó cũng có nhiều quốc gia có lãnh thổ rất rộng: Như Ai Cập; Hoa Hạ.... chứ không chỉ một mình Văn Lang.
3) Tất nhiên Thiên Sứ tôi không bao giờ căn cứ vào truyện cổ tích để minh chứng cho lãnh thổ Văn Lang. Nếu tôi chỉ căn cứ vào cổ tích mà chứng minh cho lãnh thổ Văn Lang; chắc tôi đang ở nhà thương Chợ Quán. Chuyện cổ tích về thời Hùng Vương chỉ có tính hướng dẫn tìm về cội nguồn dân tộc thôi. Cũng như những huyền thoại vế Atlantic khiến cho các nhà khoa học khám phá ra lục địa này là có thật.
Có lẽ bạn nhận xét tôi không có chút kiến thức nào về khoa học lịch sử nên có câu:
Nếu chỉ tin vào chuyện cổ tích thì .. miễn bàn. Kèm theo là một cái nháy mắt rất ư là tình tứ.
Bởi vậy; tôi ko thể trả lời bạn được vì nó là một sự tổng hợp của nhiều hiện tượng để chứng minh. Bạn nên tham khảo các sách như: "Địa đàng phương Đông"; hoặc các tài liệu của giáo sư Trần Đại Sỹ; của Nguyễn Vũ Tuấn Anh....
Cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 30 June 2005 lúc 8:24am
|
Quay trở về đầu |
|
|
wzfj Hội viên
Đã tham gia: 16 May 2005 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 43 of 53: Đã gửi: 03 July 2005 lúc 9:36am | Đã lưu IP
|
|
|
Những câu trả lời của ông TS thường mang tính cách chung chung + thêm con số 5000 cố hữu nên chẳng thuyết phục được ai .
++ Xứ AiCập cổ không có "lớn" như ông nói, chỉ nằm bên 2 bờ vùng hạ lưu sông Nil, dù sau này bị những đế quốc Ba Tư, Hy Lạp, La mã, Á rập, Ottoman, Anh & Pháp cai trị, nhưng vẫn tìm được những dấu tích một nền văn minh, chính trị, quân sự, chữ viết, văn hóa, .. rõ ràng, không như xứ Văn Lang mà ông tả !
++ Về truyền thuyết Atlantic , dù người ta có tìm ra những thớt đá khổng lồ "chìm" dưỚi biển, ..thì cho tới bây giờ cũng chưa có gì gọi là "thật" cả !
++ Những sách mà ông "giới thiệu" của TĐS, NVTA, .. cũng chỉ là những bài viết chứa nhiều sự suy luận tùy tiện, kết luận chủ quan, .. vậy mà có người tin được để du`ng la`m những tài liệu trích dẫn ?
Thật ra thì ai cũng có "quyền" tin vào truyền thuyết như ông . Thế kỷ 21 này cũng còn cả khối người tin vào chuyện God sáng tạo trái đất 6 ngày + 1 ngày nghỉ xã hơi, chuyện Adam & Eva và con rắn biết nói ...
cu~ng chịu thôi ..
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Ðặc Biệt
Đã tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 44 of 53: Đã gửi: 03 July 2005 lúc 11:08am | Đã lưu IP
|
|
|
THIÊN SỨ ĐÃ VIẾT:
Trích:
wzfj thân mến!
Câu hỏi của bạn cũng là một câu mà "hầu hết các nhà khoa học trong nước và cộng đồng khoa học quốc tế" đặt ra khi hoài nghi về một nước Văn Lang vào thời cổ tại sao lại rộng như vậy?!
Tôi xin trả lời bạn:
1) Câu hỏi trên là một tồn nghi chứ không phải là sự phản biện cho cội nguồn dân tộc Việt 5000 văn hiến và lãnh thổ ở Nam Động Đình Hồ.
2) Vào thời đại đó cũng có nhiều quốc gia có lãnh thổ rất rộng: Như Ai Cập; HOA HẠ.... chứ không chỉ một mình Văn Lang.
3) Tất nhiên Thiên Sứ tôi không bao giờ căn cứ vào truyện cổ tích để minh chứng cho lãnh thổ Văn Lang. Nếu tôi chỉ căn cứ vào cổ tích mà chứng minh cho lãnh thổ Văn Lang; chắc tôi đang ở nhà thương Chợ Quán. Chuyện cổ tích về thời Hùng Vương chỉ có tính hướng dẫn tìm về cội nguồn dân tộc thôi. Cũng như những huyền thoại vế Atlantic khiến cho các nhà khoa học khám phá ra lục địa này là có thật.
Có lẽ bạn nhận xét tôi không có chút kiến thức nào về khoa học lịch sử nên có câu:
Nếu chỉ tin vào chuyện cổ tích thì .. miễn bàn. Kèm theo là một cái nháy mắt rất ư là tình tứ.
Bởi vậy; tôi ko thể trả lời bạn được vì nó là một sự tổng hợp của nhiều hiện tượng để chứng minh. Bạn nên tham khảo các sách như: "Địa đàng phương Đông"; hoặc các tài liệu của giáo sư Trần Đại Sỹ; của Nguyễn Vũ Tuấn Anh....
Cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Hết trích
THEO BẠN THÌ VÀO THỜI ĐIỂM ĐÓ CHỈ CÓ LÃNH THỔ HOA HẠ THÌ MỚI LỚN CÒN VĂN LANG KHÔNG THỂ LỚN NHƯ CỔ SỬ GHI CHÉP SAO?
Bạn có quyền không tin. Tôi cũng không cố gắng thuyết phục bạn.
Nhưng khi các vấn đề còn tồn nghi thì tôi nghĩ :
Nên tôn trọng chính sử và truyền thống.
Thiên Sứ
Thiên Sứ
Sửa lại bởi ThienSu : 03 July 2005 lúc 11:10am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThiênVu'o'ng Hội viên
Đã tham gia: 09 December 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3
|
Msg 45 of 53: Đã gửi: 09 December 2006 lúc 11:51am | Đã lưu IP
|
|
|
TV cảm thấy bất b́ình dùm cho bạn Thiên Sứ nên tiện tay ghi vài nhận xét sau đây.
1. Bạn Thiên Sứ đã có nhã ý trả lời giúp wzfj, dù đúng hay sai, trước tiên Wzfj phải cảm ơn sự nhiệt t́ìnhh của người ta. Như vậy mới phù hợp với tư cách của một người có ăn học, biết lễ độ.
2. Đừng nói ǵì đến chuyện chân, giả của thời đại hoang sơ vài ngàn năm về trước, ngay cả các luận điểm về từ nguyên của tiếng Việt hiện hành hãy c̣òn là vấn đề chưa ai dám khẳng định quan điểm của ḿình là tuyệt đối chính xác. Do vậy, những thông tin của bạn Thiên Sứ nói riêng, và của tất cả các bạn khác nói chung, đều có tính cách cung cấp thêm thông tin để chúng ta cùng t́ìm hiểu mà thôi. Nếu Wzfj có thực tài th́ì hãy phản biện lại các câu trả lời của bạn Thiên Sứ. C̣òn nếu mù tịt th́ì hãy hỏi thêm cho lễ độ. Đừng dùng những thái độ và từ ngữ của những kẻ hàm hồ, vô học, làm cho mất đi tư cách của ḿình như vậy.
Thân ái,
-Thiên Vương-
Sửa lại bởi ThiênVu'o'ng : 09 December 2006 lúc 11:55am
|
Quay trở về đầu |
|
|
chauphihwangza Hội viên
Đã tham gia: 27 June 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 46 of 53: Đã gửi: 07 February 2007 lúc 10:44pm | Đã lưu IP
|
|
|
Bac Thien Su cung theo thuyet DONG DINH HO phai khong?
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Ðặc Biệt
Đã tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 47 of 53: Đã gửi: 08 February 2007 lúc 12:03am | Đã lưu IP
|
|
|
chauphihwangza thân mến .
Thực tình tôi không theo thuyết của ai cả . Chỉ vì là người Việt - từ nhỏ vốn tâm niệm từ ông cha để lại là dân Việt có gần 5000 năm văn hiến . Lớn lên thấy truyền thống này bị phủ nhận thì tôi ngạc nhiên và tự mày mò tìm đường minh chứng cho lịch sử Việt theo cách của tôi và góp nhặt các chứng cứ của những người có tâm huyết .
Rất cảm ơn sự quan tâm của bạn.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
chauphihwangza Hội viên
Đã tham gia: 27 June 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 48 of 53: Đã gửi: 08 February 2007 lúc 1:50am | Đã lưu IP
|
|
|
Vâng, tôi cũng quan niệm như ông Thiên Sứ, vua Kinh Dương lên ngôi vua năm 2879 TCN ở vùng Động Đình hồ (tỉnh Hồ Nam Trung Hoa ngày nay), xét ra nước Việt Nam có gần 5000 năm văn hiến. Nhưng không biết ông quan niệm 18 đời (mỗi đời có các ông vua Hùng khác nhau) hay là 18 ông vua Hùng?
Theo vậy, mẹ Âu cơ, cha Lạc Long quân cũng gặp nhau ở vùng Động Đình hồ, nhưng Hùng vương sau này lại ở Phong châu (miền Bắc Việt Nam ngày nay). Vậy theo ông, có cuộc di cư của người Lạc Việt và các vua Hùng từ vùng Động Đình hồ xuống Phong châu không?
Sửa lại bởi chauphihwangza : 08 February 2007 lúc 2:23am
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đã tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 49 of 53: Đã gửi: 10 March 2007 lúc 2:36am | Đã lưu IP
|
|
|
Tôi đồng ý với những ý kiến của ông VDTT, solyvitu:
- Các chữ dùng đặt TÊN, hay HỌ của TQ ngày xưa không nhất thiết là chữ đẹp. Phong tục chọn những chữ đẹp để đặt tên mãi về sau mới thành thông dụng.
Cách đây khá lâu, có cuộc tranh luận khá sôi nổi về tên gọi của ông NGUYỄN DỮ (t/g cuốn "Truyền kỳ mạn lục" khá nổi tiếng của ta) nên đọc là DỮ hay là DƯ hay là TỰ (Bản tôi có - một bản của Trung tâm học liệu, Sài Gòn trước 1975 - thì dịch giả phiên âm là TỰ). Có người nói nếu để là TỰ thì không có ý nghĩa cụ thể gì đẹp cho lắm. Nhưng luận điểm này không thuyết phục. Thời xưa, thiếu gì những tên người xét ra không đẹp gì (cả HỌ cũng thế), VD thời Tôn Tẫn có tướng quân ĐIỀN KỊ (tên là KỴ là chữ rất xấu, tang tóc nữa).
Còn việc tên gọi SI VƯU có hàm ý chê bai gì không, chúng tôi không khẳng định.
2. Chữ Nho (chiết tự chữ Hán: chữ (bộ) Nhân (Nhân đứng) bên phải, bên trái là chữ Nhu).
Trước 1945, Trần Trọng Kim cho rằng Nho = Nhân + Nhu, và "giải thích" là : Nho = Những "người" (Nhân) mà xã hội luôn "cần" (Nhu) có.
Ngô Tất Tố phản biện: Nho = Nhân + Nhu chẳng qua là phép "hình thanh" (1 trong 6 phép cấu tạo chữ viết của chữ Hán). Như sau: Chữ Nho = chữ Nhân chỉ nghĩa (1 loại người) + chữ Nhu chỉ âm (vì âm Nho và Nhu na ná nhau, nên mượn chữ Nhu để chỉ âm đọc sẽ ang áng như thế). Giải thích như thế (bằng phép "hình thanh") rất hợp lí theo cấu tạo của chữ Hán. (Mặc dầu cách giải thích của Trần Trọng Kim cũng dựa trên 1/6 phép cấu tạo của chữ Hán - cụ thể ở đây là phép "hội ý" - nhưng thiếu thuyết phục)
Phép "hình thanh" là một phép cấu tạo chữ Hán chiếm số lượng từ cao nhất, phần lớn chữ Hán vốn được cấu tạo theo phép này. Phép này về sau cũng được người Việt Nam áp dụng để "dùng chữ Hán ghi âm Việt" (chữ Nôm): dùng một chữ Hán có âm đọc na ná với từ tiếng Việt đó + một chữ để chỉ ý nghĩa.
VD: chữ Nôm "năm" năm tháng) = 2 chữ Hán ghép lại
+ chữ "nam" (chỉ âm)
+ chữ "niên" (chỉ nghĩa)
Như chúng tôi đã nói, chữ "NHO" không phải đến đời Khổng Tử mới có. Trước Khổng, Nho là "cái học do Nhà nước quy định" (sách có câu rằng "cái học của nhà Nho là do từ quan tư đồ mà ra). Đến Khổng Tử, thì Khổng chủ trương đem Nho học dạy ra ngoài, cho bất kì người nào, kể cả những người không xuất thân quý tộc. Ông thâu thập sách vở cũ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc), đem vào đó một số ý kiến chính trị - đạo đức của ông nữa, truyền dạy ra thành môn phái Nho giáo về sau.
Trước Khổng Tử, nước Lỗ nổi tiếng không phải vì lớn hay mạnh, mà vì giữ được nhiều truyền thống Nho (và văn hóa Chu) hơn các nước khác, không ngẫu nhiên mà Khổng Tử sinh ra ở Lỗ. Sinh ở đó, Khổng đã bị ảnh hưởng nặng của truyền thống Nho - Chu này, lại có điều kiện về sách vở các loại mà Lỗ gìn giữ được đầy đủ hơn các nước chư hầu khác vốn lúc này ham tranh đấu và áp dụng những chính sách xã hội thực dụng như của Thương Ưởng, Hàn Phi, Lý Tư... Nước Lỗ và Tống đều nổi tiếng về kiểu cách xử sự "nho" này. Có câu chuyện: vua Tề nghe nói vua Lỗ vốn có truyền thống "nho", chắc "giữ lễ", phép tắc lịch sự, gặp vua Lỗ thì vua Tề lạy trước, tưởng vua Lỗ lạy lại đáp lễ (theo đúng lễ nghĩa). Nhưng vua Lỗ không lạy, nói chỉ lạy trước thiên tử (vua Chu) mà thôi. Bận đó, Tề thù Lỗ lắm. Sau sang đánh Lỗ trả thù. Lỗ thua, vua Tề bắt vua Lỗ phải lạy cho hả. Tề có câu tục ngữ châm biếm Lỗ "người Lỗ thanh cao, khăng khăng theo phép Nho của họ, làm họ bị nhục". (Lỗ tuy có truyền thống thi thư, nhưng kinh tế - quân sự kém. Mạnh nhất là Tần (về sau), tuy kém văn hóa nhưng cực kì giàu mạnh vì nghe theo những lí thuyết thực dụng như "Pháp gia").
Bởi thế nên nói từ NHO này không phải đến đời Khổng mới có, và từ trước đời Khổng Tử cũng đã có nho sĩ. Cùng lắm, Khổng Tử chi thu thập và cách tân một chút. Ông là nhà cải lương chứ không phải cách mạng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đã tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 50 of 53: Đã gửi: 10 March 2007 lúc 3:37am | Đã lưu IP
|
|
|
Còn việc con số gần 5000 năm lịch sử, chỉ là dựa theo cuốn "Đại Việt sử kí" (DVSK) của sử thần Ngô Sỹ Liên soạn. Một sử liệu như vậy vẫn có thể sai lầm. DVSK là một cuốn sử ra đời khá muộn, sau sự kiện lập quốc hằng cả ngàn năm. Ông dựa vào tư liệu nào để viết? Nguồn tư liệu đó là sách nào, hay là lời truyền dân gian? Nguồn đó có chính xác như sự thật không? Điều gì đảm bảo nó tuyệt đối chính xác?
Trông sang thế giới, thì ngay cả những nước không bị ai xâm lược và có chữ viết để ghi lại sử sách của họ, thì quan niệm của họ về "những ngày đầu lịch sử" của mình vẫn có khuynh hướng "phóng đại".
Như sử Ai Cập ghi về mốc niên đại của nước Cổ Ai Cập, các nhà khoa học vẫn nghi ngờ và "cắt bớt" đi nhiều. Bộ "Cổ Sự Ký" (ghi phép việc xưa) của Nhật Bản chắc cũng không ngoại lệ . Nghe nói có truyền thuyết cho lịch sử Nhật Bản có đến 9000 năm, không rõ có đúng không? Chính người Trung Quốc cũng đưa ra những con số phóng đại về sử của chính họ . Chính người Trung Quốc cũng phóng đại những con số lịch sử của họ, VD con số niên đại của Hoàng Đế, chẳng ai dám quyết được đó là thật, mà phần không thật là phần nhiều. Sử của tộc Do Thái (kinh Cựu Ước) cũng đưa ra nhiều con số lịch sử từ Adam, Eve cho đến khi có "nước" Do Thái đấy thôi.
Vậy, có thể nói:
- Không riêng gì nước ta, tựu trung đối với nhiều nước, những mốc niên đại về thời điểm tối cổ, thời điểm lập quốc của họ, được bắt đầu ghi ở những bộ sử sau đó đến hàng ngàn năm, thường là những con số ước lệ, hoặc phóng đại, nếu không phóng đại thì cũng chưa dễ tin là thật. Viết về thời điểm bắt đầu này luôn là những thông tin khó dám chắc chắn.
- Những con số họ đưa ra có ý nghĩa thể hiện lòng tự hào dân tộc của tác giả, cũng như của nhân dân. Điểm đó rất đáng trân trọng. Nhưng nếu quyết những con số họ đưa ra là sự thật, và chính xác như số toán học,thì chưa chắc.
- Khi đưa ra những con số đó, họ cũng được thôi thúc bằng lòng tự hào dân tộc. Tinh thần này rất đáng khen, nhưng nó cũng có thể là nguyên nhân khiến tác giả ghi vào sách những thông tin từ truyền thuyết hoặc từ một nguồn sách vở nào đó không tin cậy mà chưa được nghiên cứu, phản biện kĩ.
- Là những sử gia phong kiến, tư tưởng ảnh hưởng từ Nho gia, phương pháp biên soạn, kỹ năng sử học, đầu óc khoa học và khách quan, thói quen tư duy khoa học, phương pháp lịch sử của họ chắc chắn có điểm lạc hậu, không thể có được như hiện nay. Nếu có sự nhầm lẫn do truyền thuyết hoặc một số nguồn tư liệu nào đó cũng vẫn thường tình (mà đáng tiếc là ta cũng không biết, để đưa ra con số này, Ngô Sỹ Liên dựa vào các tài liệu nào? hay từ truyền thuyết? T/g "ghi lại" nguyên xi từ những tài liệu đó? Hay suy luận của chính tác giả (mà tác giả thấy có lý)? Những điều rất quan trọng như vậy, nhưng lại không thấy nói gì cả. Ngay cả khi tác giả có nguồn tài liệu, thì tài liệu đó đã được xử lí, nghiên cứu chưa? Nếu đã được nghiên cứu, xử lí, thì là một sử gia phong kiến cách nay gần cả ngàn năm, cách xử lí của tác giả có đảm bảo tuyệt đối chính xác?
- Sử gia, dù là sử gia phong kiến, nhưng Nho gia cũng chủ trương ghi lại lịch sử chân thực. Nhưng một sử gia XƯA thì tất cả những điều đó (phương pháp lịch sử, óc phê phán, phản biện lịch sử và tư liệu) ắt hạn chế. Với những sự kiện gần gũi, có đủ tư liệu ghi chép (mà nguồn tư liệu này cũng chính xác nữa) thì chắc họ ít khi sai lầm. Nhưng cái khó khăn ở đây là khi họ viết về hàng ngàn năm đã trôi qua, tư liệu không đủ, truyền thuyết thì rất tốt ở lòng tự hào dân tộc, nhưng lại khó chính xác như sự thật, nên hiểu truyền thuyết khác với những câu chuyện kể những con số có thật.
- Óc khoa học của nhà Nho có tính nửa vời, khó được như khoa học hiện nay, dưới sự thôi thúc của lòng tự hào dân tộc cộng với tư duy cũ, họ có thể chép lại cả những điều chính họ cũng chưa thật tin, hay nửa tin nửa ngờ. (Vả lại, nếu họ không tin truyền thuyết thì cũng khó có đủ khả năng phản biện lại truyền thuyết. Khổng cũng không mê tín lắm, nhưng đâu đủ để phủ dịnh mê tín dưới ánh sáng khoa học, đành chấp nhận một thái độ lưng chừng)
- Có lẽ là vì thế, nên tác giả (Ngô Sỹ Liên) đã xếp phần này vào Ngoại Kỉ và có viết là "chép lại để nghi dĩ truyền nghi". Dẽ dĩ nhiên, t/g có muốn cũng không
có quyền gì áp buộc chúng ta phải công nhận điều tác giả ghi, nhưng chính tác giả cũng không muốn điều ấy.
- Bởi vậy, thiết tưởng những người nghiên cứu SỬ hiện nay nên "ghi nhận" những điều Ngô Sỹ Liên viết trong SKTT như những "nghi dĩ truyền nghi", khảo cứu lại xem con số này là thật hay không. Vừa đúng ý tiền nhân, cũng lại đúng với tinh thần khoa học.
TÓM LẠI, CHO DÙ NGÔ SỸ LIÊN CÓ VIẾT TRONG ĐVSK NHỮNG THÔNG TIN VỀ GIAI ĐOẠN LẬP QUỐC CỦA NƯỚC TA, NHƯNG KHÔNG CÓ ĐIỀU GÌ KHẲNG ĐỊNH ĐÓ LÀ SỰ THẬT MÀ CHÚNG TA BẮT BUỘC PHẢI TIN THEO.
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 10 March 2007 lúc 3:42am
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên
Đã tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 51 of 53: Đã gửi: 10 March 2007 lúc 3:57am | Đã lưu IP
|
|
|
- Trên tinh thần đó, những cố gắng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu cố mở lại vấn đề là rất đáng ghi nhận. Vả lại,nó chẳng có gì là không được xét trên tinh thần khoa học cả.
- Kể cả khi những kết quả nghiên cứu hiện thời của chúng ta cũng chưa chắc đã đúng hết sự thật. Nhưng như quý vị biết, chắc không có cơ sở nào để tuyên bố "những nhà sử học trong và ngoài nước, không công nhận Việt Nam có 5000 năm lịch sử, là một lỡ ngu xuẩn, nhân danh khoa học" cả.
- Nếu nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ tin vào câu tuyên bố trích dẫn ở trên thật, vậy những nhà nghiên cứu, những học giả, có thể cả những sử gia, mà ông đã từng gặp gỡ trong các cuộc gặp gỡ hay hội thảo khoa học (mà chắc chắn đã có, theo chính thông tin của tác giả Thiên Sứ) có nhất thiết ai ai cũng công nhận con số 5000 năm lịch sử? trong đó có nhà nghiên cứu nào thuộc số những nhà sử học trong và ngoài nước không công nhận con số 5000 năm? hay đó chỉ bao gồm những người công nhận con số này?
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhienthien Hội viên
Đã tham gia: 10 February 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 4
|
Msg 52 of 53: Đã gửi: 04 April 2007 lúc 7:46am | Đã lưu IP
|
|
|
Các vua Hùng chỉ quản lý về quốc phòng, ngoại giao, tôn giáo vv. Còn về hành chính, tư pháp, trật tự trị an thì theo kiểu "Phép vua thua lệ làng". Quản lý kiểu này thì các vua Hùng dư sức.
__________________ nature
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đã tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 53 of 53: Đã gửi: 08 April 2007 lúc 6:30am | Đã lưu IP
|
|
|
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (16): HIÊN VIÊN, XUY VƯU VÀ THẦN NÔNG
Nguyên Nguyên
Nước Trung Hoa vào cuối thế kỷ 19 là một nước rất yếu ớt, bạc nhược ‘hết xí quách’, bởi triều đình nhà (Mãn) Thanh đang lâm vào cảnh thoái hoá suy tàn, nhất là sau cuộc chiến tranh Nha Phiến xảy ra vào hai thập niên 1840’s và 1850’s. Thêm vào đó Thanh triều đã phải chia cắt đất ở vùng biển Đông, nhượng lại cho rất nhiều cường quốc như: Vương quốc Anh, Pháp, Nga Sô, Nhật, và Hoa Kỳ.
Ước muốn độc lập, giành lại chủ quyền đất nước đã dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi, 10 tháng 10 năm 1911, chấm dứt chế độ phong kiến nhà Thanh trên toàn lãnh thổ nước Tàu. Bác Sĩ Tôn Dật Tiên, tức nhà cách mạng Tôn Trung Sơn, tạm ngưng cuộc sống lưu vong bên Nhật trở về nước và đảm nhận chức vụ Đại Tổng Thống lâm thời của Cộng Hoà Trung Quốc vào ngày 1 tháng Giêng năm 1912. Ngoài việc đề xuất chủ nghĩa Tam Dân, dựa trên ý tưởng của Alexander Hamilton và Abraham Lincoln (1), Tôn Dật Tiên còn rất nổi tiếng khi chủ xướng rằng dân Trung Hoa hiện đại bao gồm 5 tộc người chính: Hán, Mông, Mãn, Tạng, và Hồi. Hoàn toàn sát nhập Việt tộc (tộc riêng của Tôn Văn) vào chung với Hán tộc thành một mối. Tiếp theo Tôn Dật Tiên là công trình nghiên cứu của học giả La Hương Lâm (Luo Xiang Lin), đặc biệt về người Khách Gia (Hakka) (2) tức người Hẹ. Học giả họ La đại khái cũng đồng ý với Tôn tiên sinh, cho rằng Việt (Yue) không khác gì Hán qua mấy ngàn năm lịch sử với nhau. Bởi cả hai vị, Tôn và La, đều là những người miền Hoa Nam, nhưng lại cổ vũ chuyện Hán-Việt đề huề, nên từ dạo đó (đầu thế kỷ 20), trên toàn cõi nước Tàu, người Hoa thường chỉ phân biệt chủng tộc theo 5 phân loại chính như trên. Như đã âm-vọng qua ngòi bút của Kim Dung — sinh trưởng tại Chiết Giang, địa bàn của Việt Vương Câu Tiễn năm xưa - trong ‘Lộc Đỉnh Ký’ và ‘Thiên Long Bát Bộ’. Cái gốc Yue-tộc của những người thuộc khối Bách Việt ở thời xa xưa hoàn toàn được xoá bỏ và sát nhập thẳng vào Hán tộc. Hoặc ngược lại, Hán tộc của những vị thánh hiền năm xưa, đã được ‘bổ xung’ vào khối Việt tộc thuở cổ thời ở Hoa Nam.
Từ đó đưa đến những thứ lý thuyết và tiền đề xây dựng chung quanh chuyện Hán-Yue đề huề như một tộc người duy nhất, có một thứ ngôn ngữ chung, xưa cùng một gốc theo phân loại: nhóm ngữ Hán-Tạng. Dù rằng bất cứ người Hoa nào cũng đều biết rõ cách đây hai ngàn năm, họ là tập hợp của hằng ngàn bộ tộc khác nhau, mà tiếng nói và nhân dạng vẫn còn hiện rất rõ nét cho đến ngày nay. Có lẽ cũng do ở công đề xuất việc nhất thống hai tộc Hán và Yue, Tôn tiên sinh luôn luôn được sùng bái như một quốc tổ hiện đại ở cả hai nơi: Trung Hoa lục địa và Đài-Loan (Taiwan).
Thật ra, dưới góc nhìn tổng quan, vấn đề phân biệt hai tộc Hán-Yue, nhất là sau thời Chu Nguyên Chương đánh đuổi được quân Nguyên, thiết lập nhà Minh, từ lâu đã trở nên hết sức phức tạp và khó khăn. Khó khăn và lộn xộn cũng từng thể hiện ngay từ cái thời Nghiêu Thuấn và Đông Châu Liệt Quốc, đối với những đám man di ở miền Hoa Bắc. Đáng kể nhất là nhóm Lạc bộ Trãi mà chúng tôi đã minh giải rất nhiều lần chính là tiền thân nhóm người Khách Gia (Hakka), tiếng Việt gọi là Hẹ. Bởi địa bàn sinh sống giữa các bộ tộc thường đan xen và lẫn lộn với nhau. Thí dụ tại nước Sở, với vua mang họ Hùng, hầu hết thư tịch cổ người Hoa đều ghi đó một nước chứa rất nhiều ‘rợ’. Triều đình nước Sở cũng có rất nhiều vị, kể cả các Sở Vương, mang hai giòng máu Hoa và Việt. Vua Thuấn cũng có nhiều giả thiết (4) cho mang dòng máu Việt. Các nước Lỗ, Tấn, Trịnh, Vệ, Trâu, v.v. ở miệt Sơn Đông, Hà Bắc, Sơn Tây, v.v. đều mang tiếng chứa rất nhiều đám rợ Đông Di, bao gồm phần lớn nhóm Miêu tộc (Hmong-Dao), và nhóm Lạc bộ Trãi, tức chữ Lạc ‰ viết theo họ của ‘thái quốc tổ’ Lạc Long Quân. Câu nói phổ biến ‘Trên Bộc, dưới dâu’ (Bộc thượng tang gian) ngày xưa được dùng để châm biếm lối sex hết sức ‘tự nhiên’ của người man-di nước Trịnh và Vệ bên bờ sông Bộc và trong ruộng dâu gần đó. Tên sông Bộc, tại thành phố Bộc Dương (Pu-Yang) ngày nay, đã cho ra ‘dân’ Bách Bộc hay Bộc Việt, theo minh giải của loạt bài này, tiền thân của dân Hakka (Hẹ) sau này. Có lẽ đã có một gián đoạn nào đó trong cổ sử Tàu. Hoặc người Hoa đã không ghi lại lịch sử liên tục trong thời Tần Thủy Hoàng kéo đến nhà Hán, nhà Đường, đối với đám Đông Di xưa ở miệt Sơn Đông. Hoặc cũng có thể người Hoa cho rằng tất cả đám Đông Di ở khu vực đó đều đã di tản sang xứ Triều Tiên (bán đảo Cao Ly) dưới tên ‘rợ’ Tam Hàn. Cho nên trong ký ức của họ nhiều thế kỷ về sau, họ thường đinh ninh rằng nhóm Lạc bộ Trãi đã biến đi đâu mất hết. Từ hiểu biết sai lầm kéo dài nhiều thế kỷ đó, sau thời Thập triều-Ngũ đại (thế kỷ 10) cho đến lúc quân Mông Cổ chiếm đóng nước Tàu thiết lập nên nhà Nguyên (1279-1368), người Hoa thường có quan niệm ‘chắc nịch’ rằng hễ tộc người nào xuất xứ từ miền Hoa Bắc, bắt buộc tộc đó phải thuộc thứ tộc Hán thuần túy, hay ít lắm một bộ tộc riêng rẽ có cùng thứ huyết thống với những bộ tộc tiền thân của Hán tộc. Theo quan điểm riêng chúng tôi, được chứng minh dài dài trong loạt bài này, người Hakka (Hẹ), với nhiều danh nhân thế kỷ 20 như: Đặng Tiểu Bình, Lý Quang Diệu, Tôn Dật Tiên, Châu Nhuận Phát, v.v., đã rơi vào loại tư duy này của người Hoa - và trở thành Hoa tộc thuần túy nhất, mặc dù thật sự họ chính là hậu duệ của đám Bộc Việt lưu lạc sống cuộc đời du mục ở miền Hoa Bắc ngày xưa (2).
Quan điểm ‘chắc nịch’ Hoa-Việt đề huề ở miền Hoa Bắc thật ra bắt nguồn ngay giữa giòng cổ sử Trung Hoa. Một tiền đề rất ‘Tàu’ ngay từ thời ‘lập quốc’: Ở miền Hoa Bắc, ngày xưa thật xưa, chỉ có Hoa tộc mà thôi, dù định nghĩa Hoa tộc lúc ban đầu vẫn chịu khó gộp luôn một vài tộc người khác như các tộc người Bắc Địch thông minh, Khương và Việt. Đặc biệt siêu tộc Khương, với xuất xứ từ miền Tây nước Tàu, khu vực Tây Tạng. Vấn đề nguồn gốc Hoa tộc thật ra cũng hết sức rối rấm đối với chính người Hoa do ở ảnh hưởng chính trị trong suốt những thế kỷ cận đại.
Nói chung có vẻ họ tránh né đề cập đến 2 tộc người chính, trong số chừng 4 tộc người, là tiền thân của Hoa tộc hiện đại: Người Hung Nô và người Nguyệt-Chi tức Tocharians hay Turkestans (tức Thổ tối-cổ) (3). Đặc biệt thị tộc Nguyệt Chi / (Yue Zhi) là một thứ tộc người Ấn Âu, da trắng mắt xanh (3), có địa bàn ban đầu là khu vực Cam Túc ở sát phía Tây của tỉnh Thiểm Tây, ngày xưa là địa bàn của nhà Tây Châu và nhà Tần. Người Hoa mặc dù có lẽ vì lý do chính trị, chưa thừa nhận tộc Nguyệt Chi là 1 tộc thủy tổ, nhưng trong những năm gần đây họ ra công nghiên cứu rất nhiều về tộc người da trắng này trong lòng Hoa tộc. Gần như nghiên cứu để sẵn đó, chờ khi có cơ hội thuận tiện, hoặc tự tin dân tộc hơn, có thể họ sẽ thừa nhận đàng hoàng. Mặt khác, bởi Hoa chủng cũng mang gốc Hung Nô - Mông Cổ cho nên các nhà dân tộc học phân loại ra chủng Mông-gô-loiđ dùng để chỉ Hoa chủng. Cổ sử chính thống cho rằng người Hoa bắt nguồn từ những bộ tộc dưới sự lãnh đạo của Hiên Viên Hoàng Đế (Xuan Yuan Huang Di), về sau gọi tộc người Hoa Hạ. Để ý ‘Hoàng Đế’ mang nghĩa sơ khởi ‘vua cai trị đất màu Vàng’, bên sông Hoàng Hà. Đất màu vàng chính là ‘hoàng thổ’ tức đất ‘loess’ do phù sa bồi đắp nhiều năm, được vận tải bằng gió bão từ hướng Tây. Ở nhiều nơi độ dày lớp đất vàng, phì nhiêu này có thể lên đến 3 mét tây.
Thư tịch cổ của Tàu có chép vào thuở cổ thời Hoàng Đế sinh tại Thọ Khâu (phía bắc Sơn Đông ngày nay), và lớn lên ở gò Hiên Viên, nên mang tên Hiên Viên Hoàng Đế. Cũng có sách chép Hoàng Đế sinh ở hang Hiên Viên thuộc tỉnh Cam Túc. Cách đây khoảng 4400 năm, tức thế kỷ 24 trước Công Nguyên.
Thuở cổ thời có 3 bộ lạc thật lớn ở miền Hoa Bắc: Viêm, Hoàng, và Lê. Viêm tộc còn gọi là Thần Nông Thị, với lãnh tụ Thần Nông, mà chúng tôi cho rằng thánh tổ của Việt tộc, đặc biệt nhánh Âu Việt, tức Thái cổ. Hoàng tộc chính là Hoa tộc, dưới sự lãnh đạo của Hiên Viên. Lê tộc, còn gọi Cửu Lê, tiền thân người Hmong-Mien (Miêu-Dao), với lãnh tụ Xi Vưu (Chi You), ngày nay được dân Triều Tiên thờ như một thánh tổ. Cổ sử của Tàu có vẻ đều nhất trí với nhau rằng: Hiên Viên và bộ tộc ông ta, chỉ choảng nhau một sống một còn với Xy Vưu và nhóm đệ tử Cửu Lê (Miêu-Dao) tại trận Trác Lộc ở gần sông Bộc mà thôi. Tại Trác Lộc Xy Vưu đại bại, bị bắt và chặt đầu. Dân Cửu Lê tản mác khắp nơi. Một số lớn chạy qua bán đảo Triều Tiên với đám Lạc bộ Trãi, trở thành một trong 3 đám rợ Tam Hàn.
Liên hệ giữa đám Yuệt-tộc theo Thần Nông, tức thị tộc Viêm, và chủng Hoa Hạ của Hiên Viên có vẻ phức tạp hơn. Hiên Viên cũng có choảng với Thần Nông, và khắc phục được thị tộc này. Sau kết nghĩa ‘anh em’ với nhau. Thần Nông Thị, tức thị tộc mang tên hoặc có lãnh tụ tên Thần Nông, theo chính sử Tàu có vẻ thuộc siêu tộc Khương, hoặc một nhánh Thái cổ, bà con hoặc tiến hoá từ siêu tộc Khương. Hiên Viên Hoàng Đế được người Hoa nhớ đến như thánh tổ của tộc người Trung Hoa cũng nhờ ở việc chính Hiên Viên là người đầu tiên đề xướng hôn nhân dị chủng với nhau. Đề huề giữa hai tộc Hoa và Việt có lẽ bắt đầu từ lúc đó, ở thời tiền sử. Giữa Hoàng tộc (Hoa Hạ) và Viêm tộc (Khương / Thái / Việt). Để ý trong trí nhớ người Hoa, tộc người Việt Nam vẫn dính liền với Thần Nông của chủng Thái-cổ (7). Cao Xuân Dục (8) đã ghi lại phán quyết Thanh Triều dùng hai từ ‘Viêm Giao’ (9), để chỉ tộc người nước Việt khi họ từ chối quốc hiệu Nam Việt do triều Nguyễn cầu xin (năm 1802), và thay vào đó bằng: ‘Việt Nam’.
Chúng ta có thể để ý, toàn thể thị tộc Thần Nông (Shen Nong) đều viết tên theo như cú pháp văn phạm của tộc Âu Việt và Lạc Việt: ‘Thần’ đi trước ‘Nông’, y hệt như: ‘người đẹp’ chứ không ‘mỹ nhân’ (‘nhân’ sau ‘mỹ’) theo kiểu chữ Hán. Những vị ‘vua’ theo dòng Yuệt-tộc cũng viết y hệt như vậy. Đó là những vị như Đế Nghi, Đế Minh, v.v. Trong phiên âm (pinyin) quanthoại tìm thấy trên internet người ta vẫn thường viết Di (Đế) trước tên riêng của những vị vua thuộc Việt tộc. Thí dụ: Di-Ku theo pinyin (phiên âm) dùng để chỉ Đế Cốc (vua Cốc), (Di) viết trước (Ku). So sánh với Hoa tộc, vua đất màu vàng họ gọi Hoàng Đế, chứ không ‘Đế Hoàng’. Trong khi bất kì vị vua nào của Việt tộc, họ gọi đúng cách, đặt ‘Đế’ trước tên riêng. ‘Minh Đế’ viết thành ‘Đế Minh’. Theo đúng văn phạm tiếng Việt, tiếng Thái.
Siêu tộc Khương cũng đóng góp trực tiếp vào Hoa tộc ngay từ lúc ban đầu. Qua vị vua đầu đời nhà Hạ tên ‘Đại Vũ’ (Da Yu). Theo (5), vua Vũ vốn người Tây Di, xuất thân từ một địa điểm thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. Tây Di là một tên khác dùng để chỉ siêu tộc Khương, một tộc người thường được cho thủy tổ của rất nhiều tộc khác, trong đó có người Di, Thái cổ, và cũng có đề nghị: cả khối Bách Việt. Dân Tây Tạng nhiều khi cũng được xem như một hậu duệ của siêu tộc Khương (10). Tuy vậy để cho nghe hợp tai, sử Tàu viết cha của Vũ là Cổn đã tậu nhà mới dọn về cư ngụ tại khu vực Hoa tộc (tỉnh Hà Nam), khi thành thủ lĩnh của bộ lạc mang họ Sùng (họ hàng với thái quốc tổ Sùng Lãm tức Lạc Long Quân hay chăng?). Ông Vũ có lẽ là vị kỹ sư công chánh đầu tiên của Hoa tộc. Ông ta phát minh ra những biện pháp thủy lợi rất hay (bằng cách chia nhánh hạ lưu sông Hoàng (Hà)) để chế ngự nạn lũ lụt do Hoàng Hà gây nên.
Sau Hoàng Đế tới Chuyên Húc Cao Dương Thị. Chuyên Húc nhường ngôi cho Đế Cốc Cao Tân Thị (rất có thể thuộc Việt tộc: ‘Đế’ đứng trước ‘Cốc’). Đế Cốc truyền ngôi cho Nghiêu (Hakka gọi y hệt: Ngieu). Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn. Thuấn truyền lại cho một người gốc tộc Khương là Vũ, tức Đại Vũ, kỹ sư công chánh đầu tiên Á Châu. Đại Vũ (Da Yu) bắt đầu triều đại nhà Hạ, truyền đến 18 đời, thì được thay thế bằng nhà Ân (Thương). Triều đại nhà Hạ vẫn thuộc huyền sử, bắt đầu từ khoảng năm 2070 đến 1600 TCN, tức cách hiện tại lối 4000 năm.
Theo thiển ý, ‘siêu’ thị tộc người Tàu thường gọi ‘Khương’ chính là tộc các học giả Âu Mỹ thường gọi In-đô-nê-ziên, Malay (Mã Lai), hay đôi khi Nam-Á (Austro-asians). Cũng chính là siêu tộc khi định cư ở miền Hoa Nam ở thời xa xưa, chia ra hằng ngàn bộ lạc khác nhau, được tộc Hoa Hạ ở phía Bắc sông Dương Tử gọi nhóm ‘Bai Yue’ tức Bách Việt. Tộc Khương thường được xem như tiền thân của người Tây Tạng ngày nay. Như vậy, người Hoa cũng có lý lẽ riêng của họ khi họ phân loại nhóm ngôn ngữ của họ là Hán-Tạng (Sino-Tibetan). Nếu chúng ta tóm tắt những gì viết ở đây bằng đẳng thức ‘Tam Đoạn Luận’:
1. Khương = Tạng => Hán-Tạng = Hán Khương
2. Bởi siêu tộc Khương là tiền thân khối Bách Việt: Khương => Bách Việt
Khương = Việt. Do đó: Hán-Khương= Hán-Việt. Từ đó:
3. Hán-Tạng = Hán-Khương = Hán-Việt => Hán-Tạng = Hán Việt
Như vậy nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng của Hoa tộc hiện nay, chính thật có thể mang nghĩa ‘Hán-Việt’, là một nhìn nhận hợp chủng Hán-Việt đề huề trên toàn cõi Trung Hoa. Y như khởi xướng của Tôn Dật Tiên, từ thế kỷ 20 về sau, nước Tàu không còn phân biệt Hán và Việt nữa. Việt tức Hán, Hán bao gồm cả Việt. Một chân lý được hầu hết người Tàu ngày nay chấp nhận. Kể cả nhà ‘phát minh’ truyện chưởng nổi tiếng Kim Dung, đặc biệt trong các bộ ‘Lộc Đĩnh Ký’ và ‘Thiên Long Bát Bộ’.
Bí quyết thành công của Hoa tộc và nước Trung Hoa nói chung, đặc biệt trên vấn đề hợp chủng, như vậy đã dựa trên hai nhận thức có vẻ rất mâu thuẫn với nhau. Một mặt, ai cũng biết mỗi một phương ngữ tại Trung Hoa, thông thường tương ứng với một thứ tộc người khác nhau, ở thời xa xưa. Mặt khác, các tộc Việt-xưa tập trung ở miền Hoa Nam (phía Nam sông Dương Tử) ngày nay hoàn toàn được xem như người Hán 100%. Không có phân biệt Việt Hán trên toàn cõi nước Tàu. Có thể nói Việt đã đồng hoá Hán, hay ngược lại, Hán đồng hoá Việt. Việc này thật ra không quan trọng bằng: Trên toàn cõi nước Tàu, tộc người chủ lực chỉ mang một một nhãn hiệu chung: Hán, hay Hán tộc.
Đến đây, xin phép ghi lại một vài nhận xét sau:
(i) Để ý hai cường quốc lớn ở Á Châu, Nhật và Trung Hoa, đều biết rất rõ những tộc người nào đã tiến hoá nên dân Nhật và Tàu, ngày nay. Ở Nhật, có hai tộc chính Jomon và Yayoi, trên bối cảnh người Ainu. Ở Trung Hoa: Hung Nô, Mãn, Nguyệt Chi, Khương, Bách Việt, ... Nhưng vấn đề nguồn gốc ‘khởi thủy ban sơ’ của người Nhật, người Hoa, hãy còn vài điểm khá mù mờ.
(ii) Đối với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á, các học giả Âu Mỹ cho rằng tinh thần quốc gia hãy còn khá nóng bỏng, đã vô hình chung cản lại phần nào bước tiến những nổ lực tìm tòi khoa học, giống như tình trạng Âu Châu vào thế kỷ 18-19.
Trở lại chuyện Hán Việt đề huề trên toàn nước Tàu. Chúng ta xin hãy để ý đến một bí quyết thành công khác của họ. Đó là người Hoa nói chung, đều có những đồng ý đồng thuận với nhau, về những đóng góp văn hoá hay lịch sử của từng tộc người một, cũng như công tội của rất nhiều nhân vật lịch sử trong suốt chiều dài sinh hoạt quốc gia. Thí dụ: Khổng Tử, người Thầy muôn đời, họ nhìn nhận thuộc tộc Hoa Hạ. 12 con Giáp họ đồng ý với nhau xuất phát từ tộc Di, hay Thái cổ ở vùng Vân Nam (11). Những loại tôn giáo cổ, như đồng bóng, thờ cúng tổ tiên, thờ anh hùng dân tộc như Quan Công, Nhạc Phi, xuất phát từ các chủng Việt ở miền Hoa Nam (15). Nhất trí về anh hùng và nịnh thần, như: Nhạc Phi => công thần, Tần Cối => nịnh thần, đáng nguyền rủa.
Bảng tóm tắt ghi lại những danh nhân xuất thân từ những vùng thuộc tộc người khác với chủng Hoa Hạ ở thời cách đây trên 2000 năm, trích lược từ (5), cho thấy trong số 100 danh nhân tột chúng của nước Trung Hoa, do trên 50 học giả gạn lọc và soạn thảo trong vòng 10 năm ròng, đã có đến khoảng trên 30 vị mang gốc Hoa Nam, tức thuộc địa bàn các chủng Bách Việt ở thời xa xưa.
Danh sách này thật ra cũng không được hoàn toàn đầy đủ. Ở chỗ thiếu thốn những phát minh khoa học mang ảnh hưởng rất sâu đậm cho nhân loại như ‘xe kút kít’ (wheelbarrow) dựa trên nguyên tắc ‘đòn bẩy’ khoa vật lý của Newton, nhưng ra đời trước Newton cả ngàn năm, xuất hiện ở Tứ Xuyên (Sichuan) vào thời cổ đại. Tứ Xuyên thời xưa chính là địa bàn hai nước Ba và Thục, chứa nhiều tộc Khương và Thái-cổ, cũng như rợ Khuyển Nhung.
Nhìn vào bảng này và đọc qua quyển ‘100 Danh Nhân có ảnh hưởng đến Lịch Sử Trung quốc’ (5), chúng ta phải nhìn nhận đóng góp về tư tưởng, trong đó thường có lý thuyết chính trị và quyền bính, của những vị thuộc tộc người Hoa Hạ, như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử, Tuân Tử, v.v. thật sự hết sức siêu đẳng. Chúng tôi đã lưu ý, trong một bài trước, nền văn minh Trung quốc, ngay từ thời xa xưa, cách đây trên 2500 năm, đã có những cơ viện hết sức độc đáo. Điển hình những chức vụ như Quân Sư, hoặc những vị quan có nhiệm vụ can gián nhà vua, v.v. Chức vụ Quân Sư ngày nay hiện diện tại nhiều nước với tên gọi mới: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia.
Đóng góp danh-nhân đủ loại từ những khu vực thuộc địa bàn Bách Việt xa xưa, lên đến trên 1/3 (một phần ba) của tổng số danh nhân chọn lọc trên toàn lịch sử nước Tàu, đã đưa đến một lý do hết sức mạnh mẽ dẫn đến việc sát nhập tộc Hán vào Việt, hay Việt vào Hán, rồi gọi chung một tên: Hán tộc. Cũng cần để ý một điểm nhỏ: ‘Hán’ chỉ Hán tộc hoặc nhà Hán của Lưu Bang, bắt nguồn từ tên con sông Hán, ‘phụ lưu’ sông Dương Tử (Trường Giang) thuộc địa bàn nước Sở. Bên bờ sông Hán vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, có rất nhiều rợ Việt (Thái + Lạc) sinh sống (6).
Bên bờ sông Hán vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, có rất nhiều rợ Việt (Thái + Lạc) sinh sống (6).
Phân tích ý nghĩa ‘nhóm ngữ Hán Tạng’ đưa đến một nhận xét tương tự phù hợp với truyền thuyết Âu-Lạc được giải mã trong loạt bài này. Đó là lối phân loại tiếng Việt ngày nay thuộc nhóm ngữ ‘Việt Mường’.
‘Mường’ là gì? ‘Mường’ là lối phiên âm quốc ngữ của một từ tiếng Thái (Mwuang) mang nghĩa: Người, vùng, xóm làng, thị trấn.
Những người dân tộc ở miền đồi núi (12) tại Lào, Myanmar, Thái Lan, Vân Nam, thường gọi chính người Thái Lan bằng: (Kon Mwang). Trong đó: (Kon) cũng mang nghĩa ‘Người’ và (Mwang) mang nghĩa ‘Thái’. (Kon) truyền sang tiếng Việt lâu năm biến thái sang hai nghĩa: (Con) => con (children), (Con) : mạo từ => con người, con cá. Tức (Mwang) ngay trong cơ bản là một từ tiếng Thái (cổ và kim) chỉ Người (Thái).
Tại các bộ lạc Mường khác nhau, (Mwang) phát âm thành nhiều âm vị khác nhau (14): Mwan (Hoà Bình - Thanh Hoá), Mwon (Phú Thọ), và Mwai (Cổ Nam).
Đặc biệt (Mwai) bởi mang âm (W) rất dễ tiến thành (NG), giống như tiếng Tàu (wai) => (ngoại) => (ngoài). Do đó trong vài bộ tộc miền Thượng (Mwai) => (Ngai). ẶNgai) chính là ‘Ngài’ mang nghĩa, và biến thái thành: ‘người’. Theo một thói quen xưa chêm âm (i) sau phụ âm đầu: (ngiai). (Ngiai) tiến đến (người) rất dễ. Giống như (liạng) = (lạng) => (lượng). (Yang) = (Yiang) => (Yeung) => (Dương) (Quý Phi).
Vấn đề “Mường” là một từ tiếng Thái cho thấy “Mường” có thể được xem đồng nghĩa với tộc ‘chủ lực’ Thái-cổ, tức ÂU, theo lối gọi người Hoa thời xa xưa.
Còn “Việt” trong lối nói nhóm ngữ ‘Việt Mường’ nghĩa là gì? Đó chính là lối gọi lộn xộn của tiền nhân, theo thiển ý, dùng để chỉ các nhóm Lạc Việt từ vùng bờ biển Đông, như Hẹ-cổ (Bộc), Ngô, và Mân (Phúc Kiến). Thường gọi tắt là LẠC.
Theo đó:
- Việt = Lạc
- Mường = Âu.
Dẫn đến:
- Việt Mường => Âu Lạc
- Âu Lạc => phối hợp giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Chúng ta một lần nữa lại chứng minh được lý lịch căn cước tộc người Hoa và Việt, qua phân loại nhóm ngữ của các nhà ngôn ngữ học.
Trung Hoa: nhóm ngữ Hán Tạng => Hán-Việt
Việt Nam: nhóm ngữ Việt Mường => Âu Lạc
Khá chính xác, nhưng không tuyệt đối chính xác trong trường hợp Việt Nam. Bởi lý do giản tiện, đã lược bỏ bớt miêu tả đóng góp bản địa lâu đời nhất: ‘Môn Khmer’. Trước khoảng thập niên 1970, tiếng Việt (Nam) đã từng được xếp vào nhóm ngữ Môn Khmer. Cũng khá chính xác đối với gốc gác khởi thủy ban sơ. Điển hình những từ cơ bản, như mắt mũi mặt và tên gọi các số đếm từ 1 đến 10 hoàn toàn mang hình thái tiếng Môn Khmer.
Đến đây chúng tôi xin phép minh định một vấn đề hết sức quan trọng, rất dễ nhầm lẫn nếu truy cứu qua internet hay sách vở có sẵn từ xưa đến nay. Đó là chỉ một sự kiện, nhưng có hai quan niệm trái ngược nhau, giữa Hoa và Việt. Ở bên Tàu, khi họ nói (Luo Yue / Lạc Việt), họ thường liên kết với chủng Thái-cổ. Nhưng tại Việt Nam, khi dùng đến ‘Lạc Việt’, chúng ta thường mường tượng một chủng duy nhất tiền thân dân Việt Nam ngày nay, nhưng lại hậu duệ chung của dân Lạc. Nói cách khác, người Tàu khi nghĩ đến ‘Viêm tộc’ của xứ ‘Đồng Cổ’ (16) (18), họ nghĩ đó là hậu duệ tộc Thái-cổ (Âu), chủ nhân của những chiếc trống đồng. (‘Đồng Cổ’ (16) (18) mang nghĩa ‘trống đồng’ và có lẽ một tên gọi thật xưa cho vùng đất người Thái cổ sinh sống từ khu Lưỡng Quảng / Vân Nam đến Hoà Bình, bình nguyên sông Hồng (21)). Người Việt thông thường trong tiềm thức không phân biệt giữa Âu và Lạc, nhưng cũng có khuynh hướng dùng Lạc chỉ phần người Yue (Việt) từ biển Đông, và gồm luôn tộc Âu ở bên trong lục địa Trung Hoa.
Phân biệt Âu Lạc xem ra có vẻ tầm thường nhưng dễ đánh lạc hướng chuyện truy tầm nguồn gốc tộc người Việt Nam. Điển hình, trên hầu hết những bài khảo cứu của các học giả Âu-Mỹ về Yue tộc, về các phương ngữ gốc Việt, ở bên Tàu, họ luôn có khuynh hướng không phân biệt ra Yue tộc, tức Lạc Việt ở vùng biển Đông, một nhánh khác với chủng Thái-Kadai từ Giang Tây tiến về hướng Tây nước Tàu. Thí dụ: Khi nghiên cứu về tiếng Ngô (Chiết Giang - Thượng Hải), tiếng Hẹ, tiếng Mân (Phúc Kiến), tiền đề họ dựa vào là những phương ngữ đó thuộc, hay xuất phát từ, tiếng Thái-cổ, hoặc chỉ là các nhánh tiếng Thai-Kadai. Đối với họ, hoàn toàn không có các tộc Lạc Việt từ vùng biển Đông. Theo thiển ý, đó là một nhầm lẫn, dựa trên tiền đề của người Hoa.
Tẩu hỏa nhập ma về cổ sử có lẽ nước nào cũng có. Người Tàu có lẽ nhầm lẫn Lạc Việt với Âu Việt, từ bộ Hoài Nam Tử của Liu An. Liu An chính là cháu của Hán Cao Tổ Liu Bang, được phong vương (Hoài Nam Vương) ở vùng đất gần sông Hoài, phía gần Thượng Hải, rất xa mặt trận kháng chiến du kích (17) chống quân nhà Tần của người Tây Âu. Cả thời gian lẫn không gian. Liu An đã nhầm lẫn dùng từ ‘Lạc Việt’ để chỉ dân Tây Âu. Từ đó các bộ sử Việt có khuynh hướng chép y như vậy. Dẫn đến hậu quả: quên mất đám con đi theo bà Âu Cơ. Rồi lẫn lộn giữa Âu với Lạc.
Nhầm lẫn Âu với Lạc còn được thể hiện qua bộ ‘thư tịch’ cổ: Thủy Kinh Chú (18), trong đó có chú thích miêu tả về tộc Lạc Việt, được trích từ bộ ‘Từ Hải’:
‘Lạc Việt: một nhánh của người Việt cổ, là một bộ phận miền tây của Bách Việt, dân tộc cổ, thời Tần, Hán về trước đã phân bố rộng rãi ở phía nam vùng trung, hạ du sông Trường Giang, gồm nhiều bộ lạc, cho nên gọi là Bách Việt. Họ làm nghề đánh cá, săn bắn, làm ruộng, đã biết luyện kim loại, nổi tiếng về nghề đi sông, biển. Họ có tục cạo đầu, xăm mình. Thời Tần, Hán, chủ yếu phân bố ở 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc và vùng Bắc Bộ nước Việt Nam ngày nay. Có quan hệ nguồn gốc mật thiết với các dân tộc như Choang, Thái, Lê... (theo Từ Hải)’.
Miêu tả về tộc Lạc Việt như vậy, theo thiển ý, không được chính xác. Bởi hai lẽ. Thứ nhất, không để ý đến các nhóm Lạc Việt ở vùng biển Đông, từ trên xuống dưới, như: Bộc, Ngô, và Mân. Thứ hai, không phù hợp với hai tự dạng chữ Việt (Yue) khác nhau: µ Yue ‘Âu’ (Ou) và Š Yue ‘Lạc’ (Luo). Yue chỉ chủng Âu ngày nay vẫn còn dùng để chỉ dân Yue ở hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông. Yue dùng cho ‘Âu’ µ ngày nay cũng là tên gọi tắt của Quảng Đông. Yue ‘Lạc’ Š hiện được dùng cho nước ‘Việt Nam’: Š W. Theo thiển ý, người Hoa nhầm lẫn hai thứ ‘Việt’ với nhau do ở chuyện nước Việt của Câu Tiễn bị giải thể khá sớm (năm 333 TCN), tên Việt từ đó ít được dùng cho dân Việt ở biển Đông. Trong khi ‘Yue’ (Việt) ở khu Quảng Đông có ‘nhãn hiệu’ trademark ‘cầu chứng tại toà’ bằng vương quốc Nam Việt - Nan Yue) của Triệu Đà, gây nên dấu ấn rất đậm nét, kéo dài đến hằng ngàn năm sau.
Phát hiện về phân biệt Âu - Lạc ở trên cho thấy nếu có dịp đọc kỹ các thư tịch cổ của Tàu, dù trong những bản dịch, và sau khi đối chiếu với kiểm chứng khách quan, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy rất nhiều điểm lấn cấn mà hầu hết các tiền bối, kể cả các học giả phương Tây, bởi quá tôn trọng những gì người Tàu viết và có lẽ thiếu thốn trang bị những dụng cụ khoa học, đã thường xuyên vô tình lướt qua.
Để kết thúc bài này, xin xem lại hai phát hiện quan trọng:
(a) Một phần lớn tiếng Nôm có xuất xứ từ các phương ngữ của khối Bách Việt xa xưa; và
(b) Tiếng Hán-Việt có những lối phát âm giống y như phát âm phương ngữ bên Tàu ngày nay, đặc biệt tiếng Hẹ, Quảng Đông, Phúc Kiến, và Chiết Giang. Nói cách khác, những từ của tiếng Hán-Việt có lối đọc phát xuất từ các phương ngữ Hoa Nam.
Chúng ta hãy xem qua một vài từ cơ bản, có vẻ thuần Nôm để minh giải một lần nữa, cho thật ‘chắc ăn’:
1. Tiếng Nôm: Nôm chính là một biến thái của ‘Nam’. Tiếng Nôm là tiếng của người nước Nam. Kiểm chứng các phát âm Hoa Nam, ta thấy: Hẹ: (Lam) hay (Nam). Quảng: (laam) hay (nam). Mân: (lam). Đặc biệt, Ngô: (Nơô) hay (Nơôm). (Nôm) là một lối phát âm của (Nam) xuất xứ từ phương ngữ (Ngô) thuộc Chiết Giang - Thượng Hải - Giang Tô ngày nay. (Quảng Nam) có nhiều người phát âm rất đúng với giọng xưa, mang ảnh hưởng Ngô Việt: (Quảng Nôm). Gió Nồm chính là Gió Nam. ‘Nồm’ mang dấu (thanh điệu) huyền cũng giống như người ta thường gọi (Hải Nam) bằng (Hải Nàm).
2. Trâu = Sửu. (Trâu) đọc theo giọng Bắc chính là (zou) quan-thoại, hay (zeu) tức (sửu) theo phát âm Hakka. Quảng Đông phát âm (jau) rất giống (trâu) theo phát âm Bắc. Sở dĩ các tôn sư quốcngữ đưa ra ký âm (TR) cho (trâu) là để phối hợp với một âm gần giống tiếng Môn-Khmer được người Chăm dùng: (trây), cũng mang nghĩa ‘trâu’ như (kabau). Để ý, tiếng Hán Việt của ‘xấu’ (có âm rất gần với ‘trâu’) chính là (sửu), mang lối viết y hệt như (sửu) của địa chi số 2 thuộc 12 con Giáp. (Zou) (tchâu) hoặc (Chou) tiếng Hán có chừng 10 thứ chữ viết khác nhau. Các nghĩa thông thường: tên một Họ, nước Trâu của Mạnh Tử, huyện Trâu nước Lỗ - nơi sinh Khổng Tử, tham khảo ý kiến, địa chi số 2 của 12 con Giáp, xấu xí, ... Trong tiếng Hán Việt, lại có âm giống tiếng địa phương (trêy) nên dần dà (tchâu) mang nghĩa con Trâu. Điểm quan trọng: (Zeu) tức (Sửu) chính là lối phát âm tiếng Hẹ của ‘Trâu’. Trong bài trước, chúng tôi có ghi lại người Tàu xưa cũng dùng chữ (Zou) (tức Trâu) để chỉ tháng Giêng. Tức tháng Giêng là tháng Sửu. Tháng Giêng cũng là tháng Dần, và người Hẹ phát âm ‘Dần’ y hệt như (JIN). (Jin) rất dễ biến thái ra (Giêng) với trợ giúp của quốc-ngữ. Thế nhưng tại sao có sự lộn xộn giữa tháng Sửu (Zeu) và tháng Dần (Jin) - cả hai cùng chỉ tháng 1 (Giêng) theo lịch ngày nay? Sự thật Tàu cũng như Tây, có quá trình đổi lịch đổi tháng lung tung. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, miền Hoa Bắc có nước Tống theo lịch của nhà Thương (chấm dứt khoảng năm 1020 TCN) (20), trong đó họ dùng tháng 12 bây giờ là tháng Giêng. Tháng 12 tương ứng với tháng Sửu. Do đó tháng Giêng theo lịch nhà Thương chính là tháng Sửu. Trong khi đó nhà Châu dùng tháng Tý, tức tháng 11 bây giờ, như tháng Giêng. Từ đó chúng ta đã đưa ra giải thích tháng 11 còn gọi tháng Một, tức tháng Tý, tháng bắt đầu của chu kỳ 12 tháng. Trong khi đó, nước Tấn, ở vùng Sơn Tây bây giờ lại có tập tục theo lịch nhà Hạ, dùng tháng Giêng bây giờ như tháng 1. Tháng Giêng người Hẹ phát âm (Jin), phương âm của (Dần) theo tiếng Quảng và Việt. (Jin) dễ dàng tiến đến (Giêng) qua kí âm quốc-ngữ.
3. Trong Anh ngữ động từ ‘To Throw’ mang nghĩa ‘liệng’, ‘vứt’,... Có nhiều động từ tương đương mang nghĩa gần giống: cast, toss, eject, fling, hurl,... Trong Việt ngữ, động từ này có vẻ mang khá nhiều hình thái, mô tả những động tác có thể khác nhau chút ít: Liệng, quăng, vứt, chọi, ném, thẩy, đôi, phóng,... Xin thử xem có thể đối chiếu với các phương ngữ quen thuộc của lý thuyết ở đây. Xem từng từ một, đối chiếu với các từ mang cùng nghĩa, hoặc gần giống ‘to throw’, chú ý đến âm vận:
- LIỆNG: giống như hợp âm hay biến thái của: -- (lon) Hẹ, (lyun) Quảng, (luan) quanthoại, (loan) Mân; - (lot) Hẹ, (lat) Quảng; - (LEBDA) tiếng Mon-Khmer; - (LAIM) tiếng Hmong (Miêu). ẶĐọc như (lại) hay (lài)Ã
- QUĂNG: có thể xuất phát bằng hợp âm hoặc biến thái giữa các từ sau: - phát âm như: (kiong) Hẹ, (khong) Quan-thoại / Ngô / Mân; - (gwon) Hẹ, (gwaan) Quảng, (guan) quan-thoại, (koan) Mân; - KWAHNG) tiếng THÁI
- CHỌI: giống với hợp âm hay biến thái các từ sau: - (soi) Hẹ, (seui) Quảng, và (shuai) quan-thoại; - (JAOL) tiếng KHMER
- THẨY: - (tat) Hẹ, (taat) Quảng, (ta) quan-thoại; - (teu) Hẹ, (tou) quan-thoại, (tau) Quảng & Phúc Kiến (Mân); - (toi) Hẹ / Quảng, (tai) quanthoại, (thay) Hán-Hàn; - (TUDAQ) Mon-Khmer; - (TAORA) tiếng Tahiti
- VỨT: có thể liên hệ với âm vận (B) hay (P), hoặc thẳng với (W): - (puk) Hẹ, (puk) Quảng, (pu) hay (bao) quanthoại; - (wat) Quảng, (wu) quan-thoại
- NÉM: - (niam) Hẹ, (naam) Quảng, (nan) quan-thoại, - (naam) Quảng-Đông. (Giống cách viết ‘ném’ chữ Nôm)
- ĐÔI:- (dong) Quảng, (dang) quan-thoại,- (nDOR) tiếng Hmong,-• (DA?) hay (DAQ) tiếng Môn-Khmer
PHÓNG:- (pau) Hẹ, (paau) Quảng, (pao) quanthoại, (pho) Ngô, (pha) Mân; - (fung) Hẹ, (faan) Quảng, (feng) quan-thoại
4. GIÀU & NGHÈO. Có rất nhiều từ dùng để chỉ Giàu — Nghèo, nhưng xin để ý đến một hai từ cơ bản dùng tiếp tục minh giải phát hiện quan trọng của chúng tôi: ‘Cả hai thứ Hán-Việt và (phần lớn) Nôm đều mang xuất xứ từ bên Tàu’.
- GIÀU: Tiếng Hoa phổ biến nhất là (Fu), tức (Phú) Ì. Hai từ khác thường xem ‘thuần Nôm’ cũng xuất xứ từ Hoa Nam luôn: (Giàu) và (Sang). (Giàu) mang tương đương ‘Hán-Việt’ là (Nhiêu). Nhưng thật ra cả (Giàu) lẫn (Nhiêu) là hai cách phát âm khác nhau của cùng một từ Õ giữa hai phương ngữ Hoa Nam. Quảng Đông đọc Õ như (YIU). (Yiu) phiên âm sang quốc-ngữ chính là (Nhiêu). Trong khi Phúc Kiến (Mân) phát âm Õ như (Jau), đưa đến (Giàu) trong tiếng Việt. (Sang) cũng vậy. (Sang) là lối phát âm Quảng Đông (xang) cho ¹. Quan-thoại đọc (sheng). Hẹ đọc (xen). Âm (sh) của (sang) các tôn sư quốc ngữ dựa vào pinyin của quan-thoại.
- NGHÈO: Có 4 từ phổ biến, theo pinyin quan-thoại: (Ruan) ß, (Kun) ð, (Pin) §, và (Hon) Ị. Phát âm Hakka của (Ruan) ß chính là (Ngion), và theo Ngô-Việt (Ngio). (Ngion) và (Ngio) đã biến thái thành ra (Nghèo) quốc-ngữ. Phát âm tương đương cho quan-thoại (Kun) ð, trong tiếng Mân là (Khun) và Ngô (Chiết Giang) là (khuơng). (Khun) và (Khueng) đưa đến (Khốn) tiếng Việt. Quảng Đông phát âm (Pin)§ như (Pan), dẫn nhanh đến (Bần) tiếng Việt. (Hàn) Ị Việt ngữ phát âm y hệt như quan-thoại và Mân (Phúc Kiến). Hẹ đọc (Hon).
Nhìn qua biến thái (Ruan) quan-thoại => (Nghèo) quốc-ngữ, chúng ta có thể thấy phát âm họ NGUYỄN, một thứ họ lên đến gần 40% (40 phần trăm), đặc thù Việt Nam và còn sót lại nhiều nơi ở Hoa Nam, được kí-âm từ lối gọi ‘Nguyễn’ của người Hẹ (Hakka). Thật vậy, ‘Nguyễn’ . phát âm theo quan-thoại là (Ruan) hay (Yuan). Quảng Đông đọc (Yun) hoặc (Yuen). Mân (Phúc Kiến) cho âm (Goan). Nhưng Hẹ (Hakka) đọc (NGIEN).
Như một bài trước đã cho thấy âm (uyê) tiếng Việt có biến thái với (iê): (chuyện) <=> (chiện) vài nơi Nam Bộ và Mường, (NGUYỄN) đã biến thái từ (NGIEN) Hakka. Âm (UYÊ) đã len vào quốc ngữ do phối hợp (NGIEN) của Hẹ với các phương ngữ khác mang nhị âm (UY) hoặc gần giống: (Yuen) Quảng, (Yuan) quan-thoại, và (Goan) Mân.
Nguyên Nguyên
GHI CHÚ
(1) Bộ Trưởng Tài Chính đầu tiên & Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ.
(2) Để ý, người Hoa di tản sang nước An Nam, vào lúc quân Mãn Thanh sang chiếm nước Tàu, được gọi: ‘Khách Trú’ (tiến đến ‘Cắc Chú’), rất giống lối gọi ‘Khách Gia’ dành cho người Hakka tức Hẹ, khi họ chạy xuống định cư ở vùng Quảng Đông - Phúc Kiến trong đợt cuối cùng, vào khoảng thế kỷ 10-13.
(3) Có lẽ chính trong hợp chủng Hoa tộc có giống Tocharian (Nguyệt Chi) nên có nhiều truyền tích cho rằng Tần Thủy Hoàng và Vũ Tắc Thiên, có cặp mắt màu xanh. Thời thập niên 1960, các học giả Việt biết ít về giống Nguyệt Chi, nên có vị phiên thiết thành ra ‘Nhục Chi’ (6). Theo tài liệu internet, Quản Trọng viết ‘Nguyệt Chi’ theo âm (Niu Zhi) ngày nay. Có lẽ đó lý do (Niu) => (Nhục). Tuy nhiên âm (niu) pinyin ngày nay tương ứng với âm (ngưu). ‘Niu rou’ => ngưu dục (Thịt bò).
(4) Mạnh Tử từng cho rằng vua Thuấn có gốc rợ Đông Zi (6).
(5) Vương Tuệ Mẫn (chủ biên) (2002) 100 Danh Nhân có ảnh hưởng đến Lịch Sử Trung Quốc. Nxb Văn Hoá Thông Tin.
(6) Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu (tái bản tại Hoa Kỳ).
(7) Một số lớn mường bản của người Mường vẫn còn thờ Thần Nông như thánh tổ của nghề trồng trọt.
(8) Cao Xuân Dục (1908) Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu. Nxb Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa Việt Nam. Bản điện tử của: Lê Bắc, Doãn Vượng, Công Đệ. Đăng tải trên báo mạng Nhân Ái Charité: perso.wanadoo.fr/charite
(9) Theo thiển ý, hai chữ ‘Viêm Giao’ nhà Thanh dùng chỉ tộc người Việt bao gồm tộc Viêm, tức Thần Nông Thị ngày xưa, cộng với ‘tộc Giao’ (do kiến thức mơ hồ của người Hoa), có lẽ dùng để chỉ tộc người bản địa có sẵn ở xứ Giao Chỉ, hoặc các thị tộc Lạc Việt ở vùng biển Đông nước Tàu.
(10) Người Tàu xưa và nay ưa dùng hai từ ‘Di Qiang’ chung với nhau. ‘Di’ phiên âm theo ‘Hán Việt’ là (Để) hay (Địch). ‘Qiang’ tức là (Khương). Rất có khả năng, do đó (Di Qiang) là lối gọi người Hoa cho tộc người có mặt khắp miền Đông Nam Á: Môn-Khmer. Người Cam-Bốt hiện nay, theo Coedes (6), là một hợp chủng giữa các nhóm Môn-KHMER xưa và loại người Đa Đảo da đen Mê-La Nê-ziên. (Khương) ((Qiang)qt Œ ) là phiên âm ‘Hán-Việt quốcngữ’ dựa trên tổng hợp 3 âm: Hẹ (kiong) + Quảng (geung) + Mân (khong).
(11) Trong bài trước, chúng tôi cho biết tộc Di (thường được xem phát triển tử vi 12 con Giáp) có thể là Khương hoặc Thái cổ. Đó cũng là điểm bất nhất của các học giả người Hoa. Nghiên cứu riêng chúng tôi cho thấy tộc Khương có một đặc tính văn hoá có vẻ bất biến. Truyền đến tộc Chăm (Chiêm Thành) và Cam Bốt. Đó là lối hoả táng người chết. Tộc Thái-cổ và Lạc Việt đa số không có vụ này. Như vậy nếu tộc người nào đó phát triển ra Tử Vi 12 con Giáp nếu không thực hành lối ‘hoả táng’ chắc không phải thuộc tộc Khương.
(12) Người Thái Lan gọi người dân tộc bằng: ‘người bộ lạc miền đồi núi’.
(13) Trần Trí Dõi (2001) Ngôn ngữ và sự phát triển Văn Hoá Xã Hội. Nxb Văn Hoá Thông Tin. Quyển sách này trình bày những từ mang âm giống (Ngài) dùng chỉ (Người) trong các thứ tiếng của người dân tộc:
- tiếng Nguồn: ngàj
- tiếng Sách: ngàj
-- tiếng Mày: ngàj
- tiếng Rục: ngàj
- tiếng Xơ Đăng: mơngê
- tiếng Kơ Tua: moi ngàj
- tiếng Dêh: ngaj
- tiếng Triêng: ngaj
- tiếng Ba Na: ngaj (mơ-ngaj)
- tiếng Hrê: ma ngaj
- tiếng Gié Triêng: ma ngaj
- tiếng Việt: người, ngài
(14) Jeanne Cuisinier (1946) Les Mường, Géographie et Sociologie humaine. Institut d’Ethnologie.
(15) Tập tục thờ phượng ‘anh hùng dân tộc’ của các tộc Bai Yue cũng đã được mang sang nước Nam, qua việc thờ phượng đức Thánh Gióng, đức Trần Hưng Đạo, Thục Đế (tại các mường bản), Hai Bà, v.v.
(16) Xứ ‘Đồng Cổ’ tức ‘nước Trống Đồng’ chính là một từ tối cổ dùng để chỉ địa bàn nhóm dân bản địa bao gồm chủng chủ lực Thái-cổ, sinh sống từ miệt Vân Nam / Quảng Tây xuyên đến cả khu bình nguyên sông Hồng ngày nay. Cổ = (Gu) = trống // Đồng cổ = trống đồng. Ở Bắc Bộ hiện hãy còn một vài nơi có đền thờ ‘thần Đồng Cổ’ (6). Đặc biệt theo nguyên lý ngôn ngữ chúng tôi đã đề cập nhiều lần, cái tên gọi một sự vật rất thường có thể cho biết nơi xuất xứ đầu tiên của sự vật đó. (Cổ) là tiếng ‘Hán-Việt’ dùng để chỉ ‘trống’. (Cổ), quanthoại (Gu) –nhại theo phát âm của Hẹ: (ku) hay (gu). Mân: (kou), Quảng: (gu) hay (gwu). Có một thứ trống nhỏ người Hoa dùng chữ khác, với phát âm gần ‘trống’ hơn, chỉ ở âm (t) đầu: Hẹ: (tau), Quảng: (tou) và Quanthoại: (tao). Nhưng đặc biệt, để ý tiếng Ngô (Việt) ẶCâu Tiễnà không có từ tương đương với (gu) & (tao). Có vẻ như tộc Ngô ngày trước không có, hoặc ít dùng trống. ‘Đồng’ … đại khái cũng giống như vậy. Hẹ & Quảng: (tung). Quanthoại: (tong). Mân: (tang). Đặc biệt, Ngô cũng không thấy ghi âm cho từ chỉ Bronze, tức Đồng. NHƯNG tiếng Thái hiện vẫn dùng: (Klong dong) để chỉ ‘Trống đồng’. (Klong) theo quy luật cấu tạo quốc ngữ chính là âm xưa cũ của (trống) ở xứ An Nam trước thế kỷ 17. Giống như (Klu) => (klâu) => (trâu). Bronze tức Đồng là một hợp kim các chất: sắt (Fe), đồng (Cu) (copper), chì (Pb), thiếc (Sn).
(17) Dân Tây Âu, tiền thân người Tày Nùng ở Việt, và Choang ở Quảng Tây, thuộc chủng Thái cổ, có thành tích kháng chiến chống quân Tần bằng chiến tranh du kích. Có lẽ họ là tộc người phát minh ‘chiến tranh du kích’ còn dùng cho mãi đến ngày nay.
(18) Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ, Đoàn Hy Trọng điểm hiệu, Trần Kiều Dịch phúc hiệu (1999) Nguyễn Bá Mão dịch (2005). Thủy Kinh Chú Sớ. Nxb Thuận Hoá.
(19) Phạm Minh Huyền - Nguyễn Văn Huyên - Trịnh Sinh (1987) Trống Đông Sơn. Nxb Khoa-Học Xã-Hội.
(20) www.uglychinese.org/indx.htm
(21) http://www.hawaii.edu/cseas/pubs/explore/v2/han.html
Sửa lại bởi thiennhan : 08 April 2007 lúc 6:40am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|