Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 346 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Ăn Để Mà Sống Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 1 of 5: Đă gửi: 26 April 2006 lúc 5:10am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

Ăn Để Mà Sống


Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, vấn đề mọi người thường lưu tâm hàng đầu chính là việc ăn uống. Nếu con người không cần phải ăn uống, chắc là trên đời không có chuyện đấu tranh giành giựt, không có chiến tranh xâm lăng, v́ quyền lợi của dân tộc mạnh, cuộc sống của nhân loại sẽ thái b́nh, an ninh, vui tươi, và hạnh phúc. Đó là phạm vi chung của nhân loại. Với quan niệm ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, th́ chúng ta thấy rằng thức ăn tuy có nhiều thứ, nhưng dầu sao đi nữa cũng không ngoài bốn loại đó là: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.
01- Đoàn Thực:
Loại thức ăn thứ nhất là Đoàn Thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Loại ăn nầy được chia thành hai khuynh hướng đó là: Ăn Mặn và Ăn Chay.
a- Ăn mặn là từ ngữ chỉ việc ăn uống thông thường, b́nh thường, thường nhựt của bất cứ người nào trên thế gian, không quan hệ với bất cứ phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng nào. Nói một cách khác:
- Ăn mặn có nghĩa là ăn tất cả các loại thực phẩm có thể ăn được, trên trái đất này, bao gồm thịt động vật, trứng, sữa, và các loại thực vật, rau cải trái cây ...
b- Ăn chay là từ ngữ có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng. Có nhiều nơi ăn chay có nghĩa là:
- Không ăn thịt heo, hay cữ thịt ḅ.
Có nhiều nơi, ăn chay có nghĩa là:
- Không ăn các loại thịt động vật, sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại sinh vật, sống ở dưới nước.
Như vậy với quan niệm ăn chay có hai lư do chính:
- Một là, v́ lư do phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là, v́ lư do sức khỏe.
Đối với người Phật Tử đại thừa chúng ta, loại thức ăn đoàn thực nầy được nói một cách đơn giản đó là ăn chay. Ăn chay có nghĩa là:
- Ăn tất cả các thức ăn, thực phẩm không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh.
Theo các nhà dinh dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, muốn có đủ năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng ta phải lưu tâm đến việc ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh dưỡng. Sách có câu:
- Tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.
Chúng ta thường được chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt, chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố, trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách tốt đẹp, và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh.
Theo các báo cáo khoa học, rau cải, ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ chất dinh dưỡng cho sức khỏe, cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống của con người. Các người ăn chay vẫn sống khỏe sống thọ, không khác những người ăn mặn. Ăn chay c̣n có ích lợi như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn. Trên thế giới ngày nay, Tây Phương cũng như Đông Phương, số người ăn chay, v́ lư do sức khỏe ngày càng nhiều hơn. Theo khuyến khích của giới y khoa và số người ăn chay, v́ lư do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.
Những người phát tâm ăn chay, v́ ḷng từ bi, không cứ phải là người theo đạo Phật, nhưng bất cứ một ai khi đă phát tâm ăn chay th́ thường cảm thấy an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông với các loài sinh vật khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm nhận được vũ trụ vạn vật đều đồng nhứt thể. Những người ăn chay, v́ lư do sức khỏe, cũng như lư do tâm linh, thường hiền lành hơn, ít náo động hơn, tâm tánh dễ dăi hơn, nhưng vẫn sinh hoạt b́nh thường, như bao nhiêu người khác. Những người chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi với những người ăn chay.
Như chúng ta đă biết, ngoài những ích lợi về phương diện sức khỏe về thể chất, ăn chay trong đạo Phật có mục đích cốt yếu là:
- Tránh nghiệp sát sinh và trưởng dưỡng tâm từ bi.
Thực vậy, v́ con người không có tâm từ bi thực sự, cho nên con người c̣n ám hại con người, con người c̣n ganh tỵ đố kị con người, con người c̣n muốn thấy người khác đọa địa ngục v́ không theo tôn giáo ḿnh, không cùng môn phái, không cùng pháp tu, không đồng quan điểm với ḿnh về một vấn đề nào đó. Nếu một người như thế th́ làm sao có thể biết, và nghĩ đến việc ban vui cứu khổ cho muôn loài. Do vậy mà nếu chúng ta là người biết tự nguyện phát tâm ăn chay, th́ chúng ta là người đó có tâm từ bi và coi muôn loài như bản thân ḿnh, không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nh́n thấy một sinh vật nào đau khổ, để thỏa măn dục vọng của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật Tử phải căn cứ trên hạnh từ bi, b́nh đẳng và lợi tha, trong mỗi hành động, lời nói và ư nghĩ. Vi cổ nhân đă từng có nói:
- Nhứt thiết chúng sinh vô sát nghiệp,
Hà sầu thế giới động đao binh.
Nghĩa là:
- Nếu tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau,
Th́ lo ǵ thế giới có chiến tranh.
Ḷng từ bi của những người ăn chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các loài sinh vật. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, đều b́nh đẳng trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như loài người, không khác. Chứ không phải, người ăn chay chỉ v́ lư do sức khỏe, không thể ăn thịt được, hoặc ăn chay với tâm mong cầu được sống lâu hơn, được lên thiên đàng, được về cực lạc. Bởi v́, con trâu con ḅ, con lừa, con ngựa cũng là ăn chay, v́ chỉ biết ăn cỏ, không ăn thịt được. Nhưng, đời sống của những loài nầy rất là đau khổ.
Trong đạo Phật có hai hệ phái:
- Hệ phái nguyên thủy
- Và hệ phái phát triển.
Hệ phái Nguyên Thủy, c̣n gọi là Nam Tông, chủ trương giữ y nguyên truyền thống Phật giáo, từ thời nguyên thủy, cho nên quư sư là các vị khất sĩ, mang b́nh bát đi khất thực, thiên hạ bố thí cúng dường vật thực ǵ, các ngài dùng như vậy, không chọn lựa. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Đó là hệ phái truyền từ miền nam nước Ấn Độ, sang Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia này đều là quốc giáo.
C̣n hệ phái Đại Thừa, c̣n gọi là Bắc Tông, được truyền từ miền bắc nước Ấn Độ, sang Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi Phật giáo du nhập vào các quốc gia này, tùy thuận văn hóa địa phương cho nên dễ dàng hội nhập một cách ḥa b́nh, và phát triển một cách nhanh chóng trong ḷng các dân tộc đó, biến thành Phật giáo địa phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân bản xứ. Chẳng hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có những nét đặc thù, riêng của từng nơi. Ở các quốc gia này, chỉ trừ Việt Nam có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni không đi khất thực mà chỉ trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi chùa nào đó, tự lo việc ăn uống. Cho nên các ngài ăn chay, chỉ nhận cúng dường và dùng các thức ăn, không có liên quan đến mạng sống của các sinh vật. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
Điều đó chứng tỏ rằng, vấn đề ăn uống hay một từ ngữ chuyện môn đó là loại ăn đoàn thực để chỉ cho hai quan niệm ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không phải thực sự là vấn đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không phải là vấn đề trực tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Điều quan trọng trong đạo Phật chính là:
- Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần. Nếu tâm dính mắc gọi là tâm loạn động. Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh.
Tâm từ bi là điều kiện hàng đầu của người tiến tu theo đạo Phật, cho nên đối với hàng Phật Tử tại gia, người nào phát tâm ăn chay trường được, th́ thực là đáng quư, đáng trân trọng. Đó là nhân duyên tốt để tiến tu trên đường đạo, rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với những người, không ăn chay trường, lư do hoàn cảnh, v́ lư do sức khỏe, cũng đừng cố chấp, gây thêm rắc rối ở trong gia đạo. Có thể ăn chay, vài ngày trong tháng, v́ mục đích ăn chay là nhắc nhở chính ḿnh, phải luôn luôn nhớ, những lời Phật dạy, áp dụng hằng ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất tốt. Tự nhắc nhở ḿnh:
- Tu là phải hiền, phải có ḷng từ bi, đối với tất cả mọi loài chúng sinh, bắt đầu từ loài người cho đến loài vật, bắt đầu từ người thân cận, cho đến người ở phương xa, mới là phải đạo vậy.
Nếu chúng ta là người chưa thể ăn chay được theo nghĩa đen, v́ lư do sức khỏe, v́ lư do hoàn cảnh, hay v́ bất cứ lư do nào, th́ chúng ta cũng có thể ăn chay qua ba nghiệp thân, miệng, ư. Nghĩa là:
a- Thân
- Không sát sinh,
- Không trộm cướp,
- Không tà dâm,
b- Miệng
- Không nói dối,
- Không nói lời dua nịnh,
- Không đâm bị thóc thọc bị gạo,
- Không nói lời thô tục độc ác.
c- Ư
Không nghĩ cách vu oan giá họa, không tức giận thù oán người, không chứa chấp ḷng ganh tị đố kỵ người khác.
Nói chung, không ăn chay được bằng phương tiện vật chất, người Phật Tử tại gia nên cố gắng giữ ǵn thân, miệng, ư cho được thanh tịnh, trong bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu. Đó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy.
Hơn thế nữa, người biết tu tâm dưỡng tánh, không bao giờ gây đau khổ cho bất cứ ai, dù là người thân hay kẻ thù qua các hành động đánh đập, hăm hại. Hoặc không bao giờ gây năo loạn cho người khác, qua việc thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian. Hoặc không bao giờ gây tổn hại thanh danh và hạnh phúc gia đ́nh người khác, qua những lời nói ác độc có chủ ư, đặt điều thêm bớt, có nói không, không nói có, kết án bừa bải, bóp méo sự thực, ... lợi ḿnh hại người, trong khi đó người khác sống chết, đau khổ như thế nào, th́ cũng mặc kệ họ là không nên!
Những người có bàn thờ Phật tại gia, dù có ăn chay trường hay ăn chay kỳ, dù có thọ bồ tát giới, tu bát quan trai giới, hay tu thập thiện giới, nhưng tâm không thanh tịnh, vẫn c̣n tiếp tục những hành động, những lời nói, và những ư nghĩ, lợi ḿnh hại người, vẫn muốn người khác chết để ḿnh sống, vẫn muốn người khác nhục để ḿnh vinh, vẫn muốn người khác thua để ḿnh thắng, lợi dụng ḷng tốt của mọi người, để sung sướng tấm thân, th́ thực là uổng công vô ích. Như thế không ích lợi ǵ cho việc trở về nguồn cội, cho việc thoát ly sanh tử luân hồi, cho việc dứt trừ phiền năo khổ đau của chúng ta! Trong kinh sách có câu:
- Sân si nghiệp chướng không chừa.
Bo bo mà giữ tương dưa làm ǵ?
Nghĩa là:
- Người nào vẫn tiếp tục tạo nghiệp chướng, tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê, vẫn c̣n y nguyên,
Như vậy, th́ dù có thờ Phật tại gia, ăn chay lễ lạy, tụng kinh bái sám th́ cũng chẳng có ích lợi ǵ.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy những h́nh ảnh đó hiện tiền, trên truyền h́nh, qua các chương tŕnh dạy nấu ăn, hay qua các màn ăn uống trong nhà bếp tại gia, hay bếp của các nhà hàng, trong khi các con vật vẫn c̣n sống, ngo ngoe giẫy giụa trên tấm thớt, dưới con dao phay, hoặc ḅ lăn ḅ càng trên chảo nóng, hoặc vùng vẫy trong nồi nước sôi, hoặc bị cột trói cứng ngắc, chịu đớn đau vô cùng tận. Thực là cảnh tượng địa ngục ở trần gian, vô cùng khủng khiếp, mà những người có tâm từ bi tránh được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
Dĩ nhiên, người Phật Tử chân chánh tuyệt đối không bao giờ nên bày đặt cách ăn uống cầu kỳ quái dị, vui thú trên sự đau đớn rên la của các sinh vật c̣n sống ngay tại bàn tiệc, như bậc vua chúa, trưởng giả giàu sang, thường hay hưởng thụ. Chúng ta nên biết rằng những vị vua chúa, hay các nhà giàu sang quyền quư, là những người có rất nhiều phước báo, từ nhiều đời nhiều kiếp trước, nên đời này kiếp này mới được như vậy.
Phước báo ví như tiền tiết kiệm dành dụm từ trước, không biết làm việc thiện tạo thêm phước, lại tiêu xài phung phí nhiều quá, cũng có ngày cạn hết. Cho nên khi hưởng hết phước báo, v́ trong kiếp này, không biết tu tâm dưỡng tánh, lại c̣n tạo tội nghiệp như vậy, th́ có lẽ cuộc đời của họ sẽ kết thúc hết sức bi thảm. Chúng ta đọc sách báo xưa nay thường thấy các vị vua chúa, bị ám sát chết, bị lật đổ không chỗ chôn thân, các nhà giàu sang quyền quư, khánh tận tài sản, đến nỗi phải quyên sinh, kết thúc mạng sống của chính ḿnh. Các vị hoàng gia hoàng tử, công chúa quận nương, bị tai nạn thảm khốc, chết không toàn thây, ở trên xa lộ, hoặc dưới biển sâu. Chúng ta là những người thực sự kém phước báo hơn các vị đó nhiều lắm, v́ thế chớ nên tạo thêm tội nghiệp, bằng cách này hay cách khác, mà phải tu và nhiếp phục các căn nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học Chánh Pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của ḿnh, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn thận trong cách hành xử hằng ngày trong cuộc sống.
Muốn được gặp Phật, phải bỏ tâm ma. Điều nầy thực là đơn giản, không t́m đâu xa mà chúng ta phải vận dụng chánh kiến để biết phân biệt những loại đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại. Chúng ta phải biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự điều ḥa trong cơ thể. Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bổ dưỡng th́ chúng ta cũng biết. Đó gọi là chánh kiến. Chúng ta thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hằng ngày, trên bàn ăn và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền đường mà thôi. Do vậy trước khi ăn chúng ta nói:
- Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.
Đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu ăn. Nói về đoàn thực, Phật đă dùng h́nh ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con.
Hai vợ chồng này mang đứa con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực đem theo là đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đă hết thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói. Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để sống mà ra khỏi sa mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. Khi kể câu chuyện nầy xong Đức Phật hỏi rằng:
- Này các thầy, khi hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con th́ họ có thấy thích thú ǵ không?
Các thầy thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, làm sao thích thú được khi biết ḿnh đang ăn thịt con.
Phật dạy:
- Trong đời sống hằng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của ḿnh đă có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh vật khác.
Do vậy trong chiều hướng tưởng niệm đến công lao cực khổ của người khác, mỗi khi chúng ta dùng nên thường quán niệm:
- Thức ăn nầy là tặng phẩm của đất trời
Và công phu lao tác của mọi người.
Hoặc là:
- Hai tay nâng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Do vậy mà ăn không có chánh niệm, chúng ta sẽ tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính bản thân chúng ta. Cho nên khi chúng ta hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là chúng ta đang ăn bộ phổi của chúng ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, chúng ta tự đang ăn thịt chúng ta.
Qua câu chuyện Đức Phật kể cha mẹ ăn thịt con để sống trong lúc đi qua sa mạc, nếu là cha, là mẹ th́ lúc đó chúng ta đang ăn thịt con chúng ta tại v́ các con cần có để nuôi dưỡng cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui. Và nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính ḿnh th́ chính cha mẹ đă và đang giết con. Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng tạo khổ đau cho chính ḿnh, đó là chánh niệm và chánh kiến. Đạo Phật trong cả hai trường phái Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ đời này sang đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ, anh em ḍng họ của nhau. V́ vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hăy có ư thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay chồng vợ, con cái, anh em của chúng ta. Do đó chúng ta đă tập ăn chay và tập không sát sanh.
02- Xúc Thực
Loại thức ăn thứ hai là xúc thực, tức là loại ăn qua các căn trần thức. Chúng ta có sáu căn là:
- Mắt,
- Tai,
- Mũi,
- Lưỡi,
- Thân
- Và ư.
Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Chúng ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào trong con người chúng ta hay không. Ví dụ như khi chúng ta xem truyền h́nh, mắt ta tiếp xúc với h́nh sắc. Phải thực tập chánh kiến xem chương tŕnh truyền h́nh kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hăi, căm thù và bạo động hay không. Có những phim mang lại cho chúng ta sự hiểu biết, ḷng từ bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi, chúng ta biết chúng ta có thể xem phim đó. Đó là cách mà chúng ta thực tập chánh kiến. Người lớn cũng như trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến. Phải biết rằng có những chương tŕnh truyền h́nh chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng. Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng hay sợ hăi của người ta. Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố. Đọc xong ta có thể mệt nhoài v́ những điều chúng ta đọc có thể khiến chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố. Đó là xúc thực.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. Chúng ta biết rằng nh́n, nghe và tiếp xúc với những ǵ th́ thân tâm chúng ta sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và chúng ta quyết định mỗi ngày nên tiếp xúc với những chất liệu đó. C̣n những thứ làm chúng ta mệt, buồn, lo, giận th́ chúng ta nên tránh không tiếp xúc. Đó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực. Phật dạy rằng:
- Con người rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn.
V́ thế mà Đức Phật đă dùng h́nh ảnh một con ḅ bị lột da dẫn xuống sông. Dưới sông có hàng vạn loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con ḅ. Và khi chúng ta đưa con ḅ tới đứng gần một bức tường hay một cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con ḅ để hút máu. Từ khuynh hướng nầy, nếu chúng ta không giữ ǵn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm th́ các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm chúng ta cũng như vậy. Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành tŕ là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn chúng ra. Nếu không hành tŕ năm giới là chúng ta không thực tập chánh kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đă có sẵn hạt giống của chánh niệm. Thực tập chánh niệm, cũng là cách chúng ta tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố từ bên ngoài đưa vào.
03- Tư Niệm Thực
Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực. Đó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời của chúng ta. Mong muốn làm giám đốc một hăng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến sĩ ... Những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn. Mong muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm thực. Ước muốn lành mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài băo, nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời. Như danh, lợi, tài và sắc ... Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đỡ cho gia đ́nh và xă hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, th́ chúng ta phải tu tập để chuyển hóa, để thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời. v.. v.. Đó là loại tư niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.
Về tư niệm thực, Đức Phật kể chuyện một người bị hai lực sĩ khiêng ném xuống hầm lửa đang bốc cháy. Phật nói rằng khi chúng ta bị những tư niệm thực bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn th́ cũng như chúng ta bị những anh chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa. Do đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm thực trong chúng ta là loại nào.
04- Thức Thực
Loại thức ăn thứ tư là thức thực. Chúng ta hiệc có mặt và được xử dụng đầy đủ các tiện nghi như hiện nay là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và chánh báo. Chánh báo là con người gồm năm uẩn của chúng ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta. V́ hành động từ nhiều kiếp xa xưa, cho nên bây giờ chúng ta có chánh báo này, với y báo này. Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. Khi làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn. Nếu trong quá khứ, tâm thức chúng ta đă tiếp nhận những thức ăn độc hại, th́ ngày nay tâm thức chúng ta biểu hiện ra những y báo và chánh báo không lành. Những ǵ chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, tưởng tượng, tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức. Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của chúng ta đều trở về biển cả của tâm thức ta. V́ vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những món ăn nào. Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giăi đăi, phóng dật?
Về thức thực, Phật đă dùng h́nh ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưởi dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi chiều vua hỏi:
- Người tù đó bây giờ sao?
Những người cận vệ trả lời:
- Tâu bệ hạ, nó c̣n sống.
Nhà vua nói:
- Vậy th́ đem nó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần nữa.
Và buổi tối, vua hỏi:
- Kẻ đó bây giờ ra sao?
Cận Vệ đáp:
- C̣n sống.
Nhà Vua nói:
- Hăy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!
Phật dùng ví dụ đó để nói cho chúng ta biết là chúng ta cũng đă và đang hành hạ tâm thức của chúng ta y như thế. Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh...
Bốn loại thức ăn trên là bốn ví dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải tỉnh táo giữ ǵn chánh kiến và có một khái niệm khá rơ ràng về vấn đề này, để có thể áp dụng vào trong đời sống thực tế hằng ngày. V́ thế mà cổ nhân có dạy:
- Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.
Nghĩa là:
- Con người sanh ra, trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống, để giữ mạng sống, bồi dưỡng sức khỏe, chúng ta c̣n nhiều, chuyện khác để làm, đem lại ích lợi, cho người cho đời, và chính bản thân.
Nói tóm lại, trong đạo Phật, vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay, cần nên giản dị, không nên cầu kỳ, mà chúng ta phải dành nhiều thời giờ, cho những việc làm có ích lợi cho bản thân, đối với cuộc sống tâm linh, và đời sống tinh thần. Chính chuyện tu tâm dưỡng tánh mới đáng làm chúng ta bận tâm, và phải thực hành hằng ngày. Chuyện ăn uống tuy là chúng ta cần phải sống, nhưng nó thuộc về phạm vi thể chất, bồi bổ cho tấm thâm tứ đại giả tạm này, để làm phương tiện cho việc tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát, cho nên chúng ta không v́ vậy mà lăng phí th́ giờ và tạo nghiệp ác sâu nặng. Do vậy chư Tổ có dạy:
- Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Nghĩa là:
- Đói đến th́ ăn, mệt ngủ kḥ.
Lúc chúng ta đói bụng, một củ khoai nhỏ, cũng tạm ấm ḷng. Khi ăn quá no, căng bụng tràn họng, lúc đó món nào, dù mặn hay chay, cũng chẳng c̣n ngon. Sách có câu:
- No mất ngon, giận mất khôn.
Nói tóm lại, tất cả mọi người chúng ta ai cũng muốn sống một cuộc đời an nhàn tự tại, v́ thế chúng ta không nên chú tâm, không nên lệ thuộc quá nhiều về sự ăn uống. Việc học hiểu để phát triển trí tuệ, và thực hành Chánh Pháp, ngay trên cuộc đời, tại thế gian này, cho đến khi được viên măn, mới thực sự là việc quan trọng của người Phật Tử, tại gia và xuất gia. Đó mới thực sự là mục đích cứu kính của Đạo Phật, cho nên ăn uống chỉ là một phương tiện, trong bao nhiêu phương tiện khác, mà thôi.
Một thực tế khác về vấn đề ăn mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết. Đó là các thứ nông phẩm dùng để ăn chay như cơm gạo, rau cải, hoa quả, trái cây ... thu hoạch được sau khi trải qua quá tŕnh trồng trọt, tưới nước, bón phân và trừ khử các loại sâu rầy phá hoại mùa màng. Nghĩa là các nông gia phải lao động khổ nhọc và phải sát trùng, để mùa màng được tươi tốt, thu hoạch được cao trong lúc tăng gia sản xuất. V́ thế khi dùng các nông phẩm đó, để gọi là ăn chay, tránh nghiệp sát sinh, trưởng dưỡng tâm từ bi, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta đă không tránh được sát giới, một cách hoàn toàn dù không trực tiếp, cũng là gián tiếp, cũng chịu cộng nghiệp với các nông gia. Cho nên, người Phật Tử tại gia hay xuất gia mỗi khi thọ thực, chúng ta cần phát tâm từ bi, thương xót những người chưa thể ăn chay được, v́ bất cứ lư do ǵ, hoặc là các nông gia phải phạm sát giới, để làm nên các nông phẩm chúng ta đang dùng, bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước khi ăn, để hồi hướng phước báu ăn chay, hay công đức tŕ giới của ḿnh đến tất cả chúng sinh, trong khắp pháp giới. Hoặc chúng ta chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, ít ra cũng đều có những bữa cơm đạm bạc như chúng ta:
- Hai tay bưng bát bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.


__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 2 of 5: Đă gửi: 26 April 2006 lúc 5:12am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

Cơ Hội Ngàn Vàng



Chúng ta biết rằng ḍng đời luôn luôn trôi chảy như ḍng thác lũ, nó cuốn phăng tất cả mọi thứ có mặt trong cuộc đời. Chúng ta là một phần tử đă và đang sống trong đó, do vậy ít nhiều chúng ta cũng bị ảnh hưởng, v́ thế mà chúng ta phải chọn cho ḿnh một hướng đi. Một khi chúng ta đă có hướng đi th́ chúng ta cứ thế mà đi đừng thối lui, đừng thắc mắc. Lúc đó chúng ta tự biết được những ǵ mà chúng ta làm th́ đương nhiên chúng ta sẽ cảm thấy tâm ḿnh nhẹ nhàng, thảnh thơi và hạnh phúc. Lúc mà tâm chúng ta nhẹ nhàng th́ ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh không thể xuất hiện. Nhưng chúng ta phải biết là những nẻo đường đen tối đó có thể phát hiện trong chúng ta bất cứ lúc nào nếu ta đánh mất niệm, định và tuệ. Nghĩa là bất cứ lúc nào chúng ta nổi giận lên là lửa địa ngục bừng dậy đốt cháy chúng ta. Địa ngục mà có mặt th́ những thanh tịnh tự nhiên biến mất. Điều này rất rơ. Bóng tối mà phát hiện th́ ánh sáng không c̣n. Tịnh Độ cơi mà chúng ta hằng mơ ước cũng vậy. Khi địa ngục biến đi th́ Tịnh Độ hiển hiện. Ở trong mỗi người chúng ta ai cũng có hạt giống của Tịnh Độ, và ở trong mỗi người chúng ta cũng có hạt giống của ba nẻo về xấu ác. Nếu muốn có Tịnh Độ th́ chúng ta có thể làm cho Tịnh Độ hiển hiện trong hiện tại. Và nếu muốn có ba ác đạo, th́ chúng ta cũng có thể làm cho địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh hiển hiện trong hiện tại.
Như vậy nếu như cơi Tịnh Độ biến mất trong đời sống của chúng ta, đó là v́ những hạt giống của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh đang biểu hiện trong lời nói, hành động và sự suy nghĩ của chúng ta. Do vậy mà ước muốn cao nhất của đời tu chúng ta là chỉ muốn cho cuộc đời b́nh ổn, b́nh ổn cho bản thân và xa hơn nữa nếu có thể được th́ chúng ta có thể kiến thiết một Tịnh Độ cho mọi người! Xây dựng Tịnh Độ để mời những người dễ thương đến sống chung và làm chỗ nương tựa cho nhau. Muốn được như thế th́ trước hết chúng ta phải thực tập cho nghiêm minh để trong tâm của chúng ta luôn luôn có cảnh giới an lành. Một khi trong tâm của chúng ta an lành th́ khi chúng ta đi đâu Tịnh Độ cũng hiển bày. Những người có Tịnh Độ trong tâm là những người có phẩm chất và nhân cách rất cao. Người nào có phẩm chất như vậy th́ được gọi là thượng thiện nhân hay là những người đạo cao đức trọng. V́ những người này có tâm trí vượt khỏi danh lợi. Trong cơi chúng ta đang sống, có một vị thượng thiện nhân là chúng ta có được một người dễ thương, có nhiều vị thượng nhân là chúng ta có nhiều người dễ thương.
Sự việc muốn kiến tạo một cảnh Tịnh Độ để cho mọi người về chung ở và tu học đây không phải là một ước mơ mà là chí nguyện của người thực tập chân đạo, tại v́ điều thích thú và hào hứng nhất của chúng ta là lập được một đạo tràng để những người dễ thương trên thế gian quy tụ lại sống với nhau một cách rất hạnh phúc, và để làm nơi nương tựa cho không biết bao nhiêu người khác. V́ vậy trong những ước muốn của chúng ta cũng có hạt giống của Phật A Di Đà. Hạt giống đó chính là ước muốn thành lập một trú xứ dễ thương, một hoàn cảnh thuận lợi cho sự tu học. Có nhiều vị thượng thiện nhân đến sống chung th́ tự nhiên chúng ta không cầu Tịnh Độ mà Tịnh Độ cũng vẫn hiển bày. Được ngồi gần bên một người dễ thương, chúng ta cảm thấy sung sướng. Huống hồ là ḿnh được bao bọc bởi biết bao nhiêu người dễ thương. Những người dễ thương đó đến với nhau, tuy chưa làm ǵ hết mà cảnh trí đă là cảnh Tịnh Độ rồi.Ơ
Những người không dễ thương ngồi bên nhau khoảng mười lăm phút th́ không khí đă thấy ngột ngạt. Địa ngục hiện ra ngay khi những người không dễ thương tụ tập đông đảo đến ba bốn trăm người. Ḿnh sẽ chết ngột. V́ vậy, cảnh Tịnh Độ và cảnh Địa ngục đều có thể phát hiện từ trong ḷng của chúng ta. Cho nên mỗi người tu đều có sự ước muốn thành lập một Tịnh Độ.
Tuy nhiên muốn kiến lập Tịnh Độ không phải là công tŕnh của một người, dù người đó là một bậc Toàn Giác. Tịnh Độ là công tŕnh của rất nhiều người, và những người đó được gọi là thượng thiện nhân. Chúng ta thấy cơi Cực Lạc không phải là công tŕnh riêng của một người, dù người ấy là Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta đừng nghĩ với tư cách riêng cá nhân chúng ta có thể tạo lập được Tịnh Độ.
Như tại chùa Dược Sư chúng ta muốn lập Tịnh Độ th́ cũng phải nhờ vào công sức Tăng thân của Chùa Dược Sư. Nếu chúng ta không dễ thương, không có khả năng lắng nghe, không có khả năng nói lời ái ngữ, không biết làm việc tập thể, th́ chắc chắn không có ai tới cộng tác với chúng ta, mà đă không có người cộng tác th́ chắc chắn chúng ta không thể tạo ra Tịnh Độ được.
Trong chiều hướng nầy, nếu các Thầy Cô chúng ta không sống hạnh phúc được với sư anh, chị và em của ḿnh, th́ chúng ta không thể nào thiết lập Tịnh Độ được. Ngay cả những người đến tu với chúng ta, họ cũng sẽ bỏ chúng ta mà đi th́ chúng ta sẽ cô đơn. Mà một người cô đơn th́ không bao giờ thiết lập được Tịnh Độ.
Chúng ta phải biết rằng chúng ta là những người có phúc đức mới gặp được Thầy dạy đạo, và được gần gũi với tăng thân. Phúc đức tức là những may mắn, những thiện duyên. Căn lành là những gốc rễ tốt đẹp. Trong ḷng chúng ta nếu những gốc rễ ấy hiếm hoi th́ chúng ta ít hy vọng được sanh về cơi cực lạc. Căn là gốc rễ, nhưng cũng có khi được hiểu là hạt giống. Có những lúc chúng ta trồng cây bằng rễ, có những lúc chúng ta trồng cây bằng hạt. Trồng bằng hạt cũng lên, trồng bằng rễ cũng lên. Như hoa sen vậy. Chúng ta trồng sen bằng hạt hay bằng củ th́ sen cũng đều lên được. Vậy muốn sanh về cơi Cực Lạc ta phải có hạt hoặc là rễ của Tịnh Độ. Nghĩa là những hạt giống tốt đẹp mà ta đă gieo vào trong tâm thức của ta, như chúng ta:
- Đă có lần đến chùa lạy Phật,
- Đă có lần bố thí cho một em bé mồ côi,
- Đă có lần cúng dường cho một vị xuất gia,
- Đă có lần đưa tay ra cứu một con kiến đang chết đuối.
Tất cả những hành động đó đều là những hành động gieo trồng căn lành. Hay chúng ta đă từng mở miệng đọc Nam Mô A Di Đà Phật. Tất cả những cử chỉ nho nhỏ đó đều là những căn lành đă gieo trồng. Điều này trong kinh Pháp Hoa có dạy:
             - Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo.
             Nghĩa là:
- Giả dụ có một người tâm ư tán loạn mà bước vào trong chùa, hoặc bước vào trong tháp, rồi mở miệng niệm lên một câu:
- Nam mô Phật
Th́ cái đó đă là một nhân duyên có thể đưa đến sự kiện người đó thành Phật sau này. Tuy là một hạt giống rất nhỏ, một cái rễ rất nhỏ, nhưng hành động ấy đă được gieo trồng vào trong tâm, và thế nào ngày mai nó cũng sẽ trở thành những nhân duyên đưa ḿnh đi đến với đạo và thành đạo. Đó chính là những căn lành, những phước đức.
Có tính cách tản mạn hơn về vấn đề phước đức, trong Kinh A Di Đà có câu kinh này nói rằng:
- Những người ít căn lành, ít phước đức th́ ít có hy vọng sanh về cơi Tịnh Độ.
Nói về ít căn lành, ít phước đức hay ít nhân duyên, như chúng ta biết tại Chùa Dược Sư, có những Thầy Cô đến từ những nơi rất xa xôi để xuất gia tu học, trong khi đó có những người sống ở Seattle, chỉ cần hai chục phút hay một giờ đồng hồ lái xe là có thể tới, vậy mà cả bao nhiêu năm nay, có người không bao giờ có cơ duyên bước đến Chùa Dược Sư. Tuy họ ở gần một bên mà họ cũng không biết sự có mặt của Chùa Dược Sư, v́ vậy, họ không có được cơ duyên tham dự vào những Phật sự cũng như những thời khóa tu học, có thể nói:
             - Hữu duyên thiên lư năng tao ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
             Nghĩa là:
- Có nhân, có duyên th́ dù cách xa ngàn dặm cũng có thể gặp nhau,
Mà vô duyên th́ ngồi đối diện nhau cũng chẳng gặp nhau được.
Vậy sự khác biệt giữa ít phước đức, có duyên và không có duyên là như thế nào?
- Sự khác biệt không phải do ở gần hay ở xa mà là chúng ta có nhân duyên hay không.
Thí dụ như nói Chùa Dược Sư là tịnh Độ, vậy sang Tịnh Độ không khó khăn ǵ, nếu chúng ta có một chút nhân duyên. Chỉ cần ta biết rằng Tịnh Độ đang có mặt ở đó, và chúng ta chỉ cần cầm điện thoại lên và nói:
- Tịnh Độ đó phải không? Tôi muốn được về tham dự tu học ba ngày. Các Thầy Cô sẽ trả lời:
- Dạ được, khóa tu c̣n chỗ.
Điều đó xét thấy không có ǵ khó khăn cả. Ăn thua là có phước hay có cái duyên hay không. Vô duyên th́ có gần sát bên cũng không gặp, có duyên th́ mấy ngàn cây số cũng gần. Chỉ cần e-mail, hay một cú điện thoại là ḿnh có thể bay sang Tịnh Độ ngay.
             Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự tu học, khi biết chúng ta ít phước đức nhân duyên, và ít hy vọng sanh về cực lạc, cho nên khi nghe nói đến những ǵ có thể tu tạo duyên là chúng ta nên nắm lấy cơ hội và coi đó như là một cơ hội ngàn vàng, để tu tạo duyên lành cho kỳ được như trong Kinh A Di Đà từng dạy:
- Xá Lợi Phất, những kẻ thiếu phúc đức và căn lành th́ ít hy vọng sanh về cơi ấy. V́ vậy Xá Lợi Phất! Người con trai lành, người con gái lành nào muốn sanh về cơi ấy th́ khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, phải nắm lấy danh hiệu ấy.
             Nghĩa là nghe danh hiệu th́ phải nắm lấy danh hiệu. Nắm lấy danh hiệu cũng giống như chúng ta nắm lấy địa chỉ. Nếu chúng ta biết nơi đó tốt đẹp chúng ta xin địa chỉ:
- Cho tôi địa chỉ đi, cho tôi số fax, số phone đi. Cho tôi đĩa chỉ điện thư.
Chúng ta phải nắm lấy chúng. Tại v́ danh hiệu hay địa chỉ ấy rất quan trọng. V́ cuộc đời dữ dằn lắm. Nó lôi kéo ḿnh đi theo như một ḍng thác. Và trong những khi bị ch́m đắm, trong khi bị lôi kéo như vậy mà giả sử ḿnh nhớ được cái tên của Đức Phật A Di Đà và cái địa chỉ là Tây Phương Cực Lạc, th́ chúng ta có thể nhờ đó mà được cứu thoát. C̣n nếu không biết, không ghi nhớ được tên của Đức Phật A Di Đà, hoặc chỉ nhớ mờ mờ cái tên th́ chúng ta không thể được cứu thoát. Do vậy chúng ta phải nhớ danh hiệu và địa chỉ thật rơ ràng. Muốn nhớ rơ ràng chúng ta phải coi là một cơ hội ngàn vàng khi những lúc nghe bất cứ ai nhắc nhở tới là chúng ta nắm lấy và hành tŕ. Nếu chúng ta ghi nhận và th́ chúng ta mới có cơ thoát ra khỏi cái trầm trệ khổ đau của chúng ta.
             Phải nắm lấy danh hiệu ấy mà hết ḷng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc trong ṿng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày...
             Nói đến đây chúng tôi liên tưởng đến kinh Bốn Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ là kinh căn bản của thiền tập nguyên thỉ. Đó là kinh mà các thầy và các sư cô thời nguyên thỉ học thuộc ḷng. V́ trong kinh này Phật dạy về quán niệm thân trong thân, quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán niệm tâm trong tâm, quán niệm pháp trong pháp. Đó là thiền của Phật. Đó là thiền mà Phật đă thực tập, các thầy, các sư cô học tṛ của Phật đă trực tiếp thực tập. Phật đưa ra những phương pháp rất cụ thể:
- Làm thế nào để quán niệm thân thể trong thân thể, cảm thọ trong cảm thọ, tâm ư trong tâm ư, và đối tượng tâm ư trong đối tượng tâm ư. Sự thực tập của các thầy và các sư cô là sự thực tập chính trong hàng ngày: Đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát... Cho nên kinh phải được học thuộc ḷng. Sự thuộc ḷng này đích thực là một trái tim, chứ không phải như một con vẹt. Con vẹt có thể học thuộc được nhưng không phải thuộc ḷng.
Trong kinh Niệm Xứ, có đoạn Đức Phật dạy rằng:
- Người nào thực tập được bảy năm th́ sẽ thành đạo. Rồi Bụt nói không cần bảy năm, ba năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần ba năm, một năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần một năm, nửa năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần nửa năm, một tháng cũng thành. Rồi Bụt nói không cần một tháng, bảy ngày cũng thành. Rồi Bụt nói không cần bảy ngày, một ngày cũng thành.
Khi chúng ta nghe nói bảy năm có người rất sung sướng:
- Dễ quá chỉ có bảy năm thôi.
Nhưng có người nói:
- Bảy năm lâu quá, sao tôi có thể làm được?
Nghe vậy, Phật lại nói không cần bảy năm, ba năm cũng được.
Ở điểm nầy chúng ta thấy ḷng thương đối với chúng ta của Phật bao la không bờ bến. Phật ngồi đó mà mặc cả với chúng sanh:
- Nếu con không làm bảy năm th́ ba năm cũng được, nếu không làm ba năm th́ một năm cũng được, rồi đến mức thấp nhất là tùy ư.
Rồi Kinh A Di Đà lại nói:
- Nếu niệm không được mười tiếng th́ một tiếng cũng được.
Chỉ có chư Phật mới có t́nh thương lớn đến như vậy. Nếu đọc kinh này mà không đọc bằng trái tim hiểu biết th́ làm sao thấy được điều đó. Có người khó có định, không có tuệ, nghĩ rằng ḿnh tu không được, người khác tu chắc cũng không được. Nhưng Đức Phật nói:
- Tất cả đều tu được. Con cứ tu đi, nếu con nghĩ rằng, con niệm mười tiếng không được th́ con niệm một tiếng cũng được.
Đoạn kinh Tứ niệm xứ ở trên tương tự như đoạn kinh A Di Đà này Phật duỗi cánh tay ra để cứu vớt những người trầm luân ở trong cuộc đời, và độ những người không có khả năng giới, định và tuệ. Phật nói:
- Con hăy làm đi, con sẽ làm được.
             Chúng ta biết rằng ở trong dược khoa, nhiều khi có những vị thuốc đắng nên những nhà bào chế phải đưa chất ngọt vào và làm cho thuốc đó trở thành ngọt. Những viên thuốc tể ở Đông Y cũng vậy. Người ta tán thuốc ra và trộn với mật ong để cho ḿnh cảm thấy ngọt mà uống được. Cũng như những bà mẹ bỏ viên thuốc kư ninh đắng vào trong một miếng chuối để cho ḿnh ngậm vào miệng, rồi bảo:
- Nuốt đi con.
Tất cả những cái đó đều từ ḷng thương mà ra. Ở đây cũng vậy, Đức Phật là một bà mẹ hiền, biết rằng con ḿnh, có những đứa mạnh giỏi, có ư chí cứng rắn, nhưng cũng có đứa con cũng yếu đuối, thành phải tạo ra những pháp môn phương tiện để các con có thể thâu thập một chút nào của chánh pháp. Nếu không thâu thập nhiều th́ thâu thập ít. Tất cả đều là do ḷng từ bi vô lượng của đức Phật đối với chúng sanh.
             Do vậy chúng ta tu và thực hành giáo pháp Phật, phải thực hành bằng trái tim của ḿnh, đừng chỉ đọc bằng trí năng, sự t́m ṭi, sự phân tích. Nếu thực hành được như vậy, th́ chúng ta cũng sẽ có t́nh thương giống như Đức Phật. Lúc đó chúng ta có khả năng ôm lấy tất cả mọi người, không chê bai một pháp môn nào, dẫu pháp môn đó rất dễ dàng. Nói dễ nhưng chưa chắc chúng ta đă hiểu được. Và nếu có hiểu được, nhưng chưa chắc chúng ta đă làm được. Trong chiều hướng tu tạo thiện duyên thiện căn, phước đức nhân duyên. Mỗi ngày chúng ta nên niệm một câu, mà ngày nào cũng niệm. Nếu giỏi th́ niệm hai câu hay mười câu, và mỗi ngày đều niệm như vậy. Đến khi lâm chung, tự nhiên ḿnh sẽ nhớ mà niệm. C̣n như nếu nói:
- Thôi, bây giờ chưa cần niệm, đợi đến phút gần lâm chung niệm một lần cho luôn th́ chúng ta sẽ mất cơ hội.
Vào giờ phút lâm chung, thân tứ đại của chúng ta sẽ đau nhức lắm, chúng ta chỉ nhớ tới cái đau, th́ làm sao nhớ tới Phật mà niệm. Quan trọng là ngày hôm nay. Chúng ta phải niệm, dù là niệm chỉ được một hoặc hai câu. Người ta có nói chúng ta mê tín, th́ chúng ta cũng cứ niệm, bởi v́ niệm như vậy chúng ta biết rằng chúng ta đă gieo một hạt giống tốt đẹp vào trong tâm thức. Nếu một ngày niệm một câu, hay mười câu, th́ thế nào đến giờ phút lâm chung, chúng ta cũng không c̣n sợ hăi nữa. Chúng ta có một quê hương, chúng ta không biết địa chỉ của quê hương th́ làm sao mà về được. Cho nên chúng ta phải thuộc nằm ḷng cái tên quê hương của chúng ta, cái địa chỉ quê hương của chúng ta, để những lúc thất điên bát đảo, những lúc bị ba đào sóng gió của cuộc đời cuốn theo, th́ chúng ta nhớ đến tên gọi quê hương, nhớ tới địa chỉ, chúng ta có thể t́m về. Mỗi ngày chúng ta đều có công phu, công phu ngồi, công phu kinh hành, hay công phu tụng niệm... đều là công phu. Tất cả những cái đó là những cái thực tập hàng ngày. Sự thực tập này hết sức quan trọng, và phương pháp này gọi là phương pháp tŕ danh. Tŕ danh không phải chỉ bằng miệng của ḿnh, mà c̣n bằng tâm của ḿnh. Nắm lấy là tŕ, hết ḷng là nhất tâm. Nắm lấy danh hiệu, không phải bằng trí năng, hoặc bằng miệng lưỡi, mà bằng trái tim. Tâm của chúng ta phải chuyên nhất. Chúng ta phải để tâm vào danh hiệu đó, phải làm cho danh hiệu của Phật có mặt trong tâm chúng ta. Khi niệm Nam Mô Phật A Di Đà mà tâm ta nghĩ đến chuyện khác, th́ đó là niệm danh hiệu suông, cũng giống như vỏ trấu không có hạt gạo ở trong. Đó là hạt lúa lép. Niệm Phật mà không có nội dung, gọi là niệm Phật không nhất tâm. Vỏ trấu không thể nấu thành cơm được. V́ vậy trong vỏ trấu phải có hạt gạo. Cũng vậy, niệm Phật có nhất tâm th́ gọi là niệm Phật có nội dung. Khi ḿnh niệm Phật chúng ta phải hiểu là:
- Con kính lạy Đức Thế Tôn, Bậc A La Hán, Bậc Ứ­ng Cúng, Bậc Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Niệm tưởng như vậy, chẳng hạn lúc đó chúng ta biết là đấng mà người đời tôn kính Ứ­ng Cúng là người xứng đáng được cúng dường. Chánh Biến Tri là bậc có sự hiểu biết chân thực và toàn vẹn... Khi niệm danh hiệu bằng một tâm t́nh chí thành, th́ trong ḷng chúng ta phải có sự rung động và tha thiết. Giống như chúng ta gọi tên của người thương vậy. Nghe tên người thương chúng ta cảm thấy rung động. Nó làm cho chúng ta khỏe, nó làm cho chúng ta có hy vọng. Niệm Phật cũng phải như vậy. Niệm Phật không phải chỉ là gọi tên một cách trống rỗng, mà phải làm cho ḷng chúng ta tràn đày sự tín kính và thương yêu. Có những người cũng niệm Phật, nhưng chưa kinh nghiệm cho nên không có nội dung.
Xin chia xẻ đến đại chúng một sự việc xảy ra tại trong một xóm nọ:
- Có một bà cụ niệm Phật rất siêng năng, sáng nào bà cũng lên hương đèn rồi niệm Phật, có mơ có chuông đàng hoàng. Nhưng bà đă niệm Phật như vậy trải qua mười năm mà tánh xấu của bà vẫn không thay đổi ǵ cả. Bà dữ lắm. Và hàng xóm ai cũng ngán cái khẩu nghiệp của bà. Có một người đàn ông trong làng muốn dạy cho bà một bài học. Buổi sáng hôm ấy, đúng lúc bà lên hương đèn niệm Phật, th́ ông ta đến đứng trước ngơ gọi tên của bà:
- Bà Ba ơi! Bà Ba à!
Nghe gọi tên ḿnh, bà Ba thầm trách là và ông hàng xóm không lịch sự nào đó đă tới sao không vào, lại c̣n đứng ngoài cửa mà kêu, và bà bắt đầu bực bội. Lúc đó Bà thỉnh chuông mơ lớn hơn và niệm Phật to hơn để gián tiếp nói với ông hàng xóm kia là bà đang niệm Phật. Nhưng khổ nổi ông hàng xóm giả bộ không nghe. Ông ta cứ đứng ngoài cổng tiếp tục gọi tên bà. Ở trong này bà lại càng niệm lớn giọng hơn. Hai bên đều lớn tiếng. Nhưng ông hàng xóm cứ giả bộ không nghe, vẫn tiếp tục gọi tên bà. Đến một lúc nào đó, bà chịu không nổi nữa, bà vứt chuông mơ, ra đường chống nạnh để chửi:
- Này cái anh kia, anh có biết giờ này là giờ người ta đang niệm Phật không? Đồ bất lịch sự, đồ khốn nạn.
Bây giờ ông nọ mới cười lớn và bảo:
- Chèn đét ơi! Tôi mới gọi bà mấy chục tiếng như vậy mà bà đă giận như thế, huống ǵ mỗi ngày bà gọi tên Đức Phật hơn cả một tiếng đồng hồ, chắc là Đức Thế Tôn giận bà lắm.
Qua câu chuyện bà Ba, chúng ta biết rơ cái vô ích của sự tŕ danh mà không có nội dung. Bởi vậy, trong kinh nói là phải nắm lấy danh hiệu Phật và coi đây như một cơ hội ngàn vàng để mà hết ḷng tŕ niệm. Thực tập chánh niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, là làm thế nào để trong khi chúng ta niệm Phật th́ tâm ta không nghĩ đến chuyện ǵ khác. Chỉ nghĩ đến Phật mà thôi. Pháp môn niệm Phật là một giáo lư nguyên thỉ của Phật giáo. Không phải chúng ta chỉ niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng trước khi văng sanh. Sau khi văng sanh, chúng ta vẫn tiếp tục niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng. Câu Nhất tâm bất loạn hết sức quan trọng. Niệm Phật phải đạt đến nhất tâm bất loạn. Nghĩa là lúc niệm Phật, tâm chúng ta ngưng tụ vào danh hiệu của Phật mà không nghĩ đến bất cứ chuyện ǵ khác, không nghĩ đến chuyện nấu cơm, chuyện nấu nước, chuyện thắp đèn, chuyện quá khứ, chuyện tương lai. Niệm Phật chỉ để niệm Phật mà thôi. Thành tựu sự niệm Phật nhất tâm bất loạn là một quá tŕnh thực tập lâu dài. Ban đầu tâm c̣n tán loạn, nhưng chúng ta đừng mất kiên nhẫn. Nhiều khi chúng ta niệm mười tiếng, mà chín tiếng lạc vào vọng tưởng, chỉ c̣n lại một tiếng có chánh niệm, cũng c̣n đỡ hơn không có tiếng nào. Ngày mai chúng ta niệm mười tiếng, th́ có thể có được hai tiếng trong chánh niệm, tám tiếng lạc vào vọng tưởng. Như vậy đă là tiến bộ rồi. Khi niệm Phật, chúng ta nên ngồi chung nhiều người để niệm, những người bạn cùng tu với ḿnh. Như ở đây Chùa Dược Sư là chỗ để chúng ta tu học thực tập niệm Phật và ngồi thiền. Chúng ta ngồi chung với nhiều người niệm Phật như vậy, th́ chúng ta có năng lượng nhiều hơn. Ban đầu chúng ta chỉ thành công được một phần mười, nhưng từ từ niệm và định tăng trưởng thành hai phần mười, rồi ba phần mười, bốn phần mười, cho đến một lúc nào đó, chúng ta niệm Phật mười tiếng th́ có chánh niệm cả mười. Đó là sự thành công lớn. Do vậy, khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà, th́ đó là cơ hội ngàn vàng, chúng ta phải nắm lấy danh hiệu ấy, mà hết ḷng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn hoặc ở trong ṿng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày. Những ai thực tập như vậy, người ấy đến khi lâm chung sẽ thấy được Phật A Di Đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt tiếp đón.
             Bằng cách tŕ niệm như vậy, chúng ta cũng có thể gọi là đó là phước đức tối thiểu mà khi lâm chung chúng ta được nương nhờ, v́ giây phút lâm chung là giây phút hết sức quan trọng và cực kỳ nguy hiểm của cuộc đời chúng ta. Lúc ấy chúng ta được dẫn dắt bởi năng lượng thiện hoặc ác do chúng ta tạo ra trong đời sống. Nếu chúng ta thường niệm Phật có chánh niệm th́ vào giờ phút lâm chung, tâm thức chúng ta sẽ vững vàng để đưa chúng ta đi về hướng thiện, và gặp được các bậc thượng thiện nhân. C̣n nếu không được như vậy th́ ta sẽ đi về ba đường dữ.
Giờ phút lâm chung ta cần có tăng thân bên cạnh để hộ niệm cho chúng ta, và chúng ta biết rằng, được hộ niệm như vậy th́ tâm chúng ta sẽ vững vàng để hướng về một cảnh giới tốt đẹp. Nếu thực tập giỏi th́ chúng ta không phải đợi giờ phút lâm chung mới đến được Tịnh Độ mà trong mỗi giây phút niệm Phật, chúng ta đă có Tịnh Độ bên ḿnh. Không phải niệm Phật th́ tới giờ phút lâm chung mới có định. Hễ có niệm là có định ngay lập tức. Và hễ có niệm và có định th́ cơi uế độ đă bắt đầu chuyển hóa để trở thành cơi Tịnh Độ. Như vậy cơi Tịnh Độ bắt đầu hiện tiền. Chúng ta không đợi đến khi lâm chung mới đi về Tịnh Độ, mà chúng ta về Tịnh Độ ngay khi ta đang niệm Phật. Điều này chúng ta phải thấy cho rơ v́ nó hết sức quan trọng, cho nên Đức Phật đă từng nói:
- Giáo pháp của Như Lai mầu nhiệm ngay từ lúc bắt đầu. Giờ phút mà chúng ta nắm lấy hơi thở và thực tập trong mỗi bước chân là chúng ta đă bắt đầu thấy có kết quả.
Cho nên Tịnh Độ không những sẽ biểu hiện ra lúc lâm chung, mà c̣n biểu hiện ra cho chúng ta lúc ta bắt đầu thực tập niệm Phật. Sử dụng tâm để niệm Phật, tâm chúng ta lúc ấy trở thành tâm của các bậc thượng thiện nhân. Khi chúng ta bắt đầu niệm Phật và niệm cơi Cực Lạc th́ tâm chúng ta lúc đó có Phật và có cơi Tây Phương Cực Lạc. Từ trong chiều hướng nầy, chúng ta có thể nói rằng, nếu quư vị đă có duyên về Chùa Dược Sư tu học, th́ quư vị đă có những hạnh phúc của Chùa Dược Sư, và khi quư vị rời Chùa Dược Sư th́ quư vị cũng mang hạnh phúc ấy của Chùa Dược đi theo về nơi trú xứ của quư vị. Nhiều lúc ở nơi trú xứ của quư vị, quư vị gặp nhiều khó khăn, nhưng khi nghĩ đến những h́nh ảnh, và hạnh phúc của Chùa Dược Sư, th́ h́nh ảnh và hạnh phúc ấy sẽ hiện tiền. Như vậy lúc đó là Chùa Dược Sư đang có mặt trong tâm của quư vị.
Tịnh Độ cũng vậy, không phải chúng ta đi tới Cực Lạc mới có Tịnh Độ, mà Tịnh Độ đi tới với chúng ta, Tịnh Độ có sẵn trong ḷng chúng ta. Dù chúng ta đang đứng ở chỗ trầm luân nhưng nếu ta nghĩ tới Phật và tới Tịnh Độ là chúng ta đă thấy khỏe khoắn trong ḷng. Những người không có chỗ để hướng về, không có chỗ để nhớ tưởng, là những người đă đánh mất chính ḿnh. Chúng ta đă có chỗ để về, có Phật để tưởng nhớ, là chúng ta đă có hạnh phúc lớn, có phước đức lớn. Chúng ta có tăng thân cùng tu học, có pháp Phật để hành tŕ, có môi trường để thực nghiệm, đó là những điều hết sức quư báu. Do vậy, chúng ta phải có bổn phận duy tŕ và phát triển những điều kiện ấy bất cứ nơi nào mà chúng ta có mặt. Nếu một người trong giờ phút lâm chung mà an trú được trong định, nếu người ấy không hề điên đảo và tán loạn th́ người ấy sẽ văng sanh ngay vào nước Cực Lạc.
Điên đảo có nghĩa là chúc đầu ngược lại. Không điên đảo gọi là chánh trực. Ḿnh biết trời là trời, đất là đất, Phật là Phật, ma là ma, cái biết đó là chánh trí. Nếu tâm ư chúng ta lộn xộn, không ổn định, cho trời là đất, đất là trời, Phật là ma, ma là Phật th́ đến lúc lâm chung, trong tâm trạng điên đảo đó, chúng ta sẽ rơi vào tam ác đạo. Lúc lâm chung mà chúng ta có định là nhờ chúng ta thực tập giới, niệm và định trong đời sống hàng ngày. Và v́ chúng ta có thực tập giới, niệm và định, cho nên chúng ta đă bắt đầu có hạnh phúc ngay trong đời sống hàng ngày rồi, chứ không phải đợi đến lúc lâm chung chúng ta mới có hạnh phúc. Sở dĩ chúng ta nói đến lúc lâm chung v́ lúc lâm chung là lúc sự tiếc nuối, những ân hận hay những ǵ mà chúng ta mong muốn nhưng chưa tṛn thường phát hiện. Do vậy, nếu mỗi hơi thở, mỗi bước chân mà chúng ta có niệm Phật th́ tâm chúng ta lúc nào cũng b́nh thản, là chúng ta có thể đem Tịnh Độ về cho chúng ta và chính là lúc chúng ta có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Điều này là điều chúng ta thấy được trong lúc hành tŕ.
             Trong giờ phút nói lên câu này, tâm lư Đức Phật cũng là tâm lư của chúng ta. Chúng ta cần có một khung cảnh an toàn và hạnh phúc để chuyển hóa khổ đau, cho nên khi chúng ta đă nghe rồi và hành tŕ có kết quả tốt đẹp, sau đó nếu có gặp ai đau khổ là chúng ta giới thiệu khung cảnh an toàn và hạnh phúc ấy cho họ để họ có dịp đến đó tu học. Kinh A Di Đà là kinh đức Phật giới thiệu quê hương Tịnh Độ cho chúng ta.
             Nói tóm lại đây là một cảnh giới hoàn toàn thánh thiện không phải chỉ có Đức Phật Thích Ca ở cơi Ta Bà giới thiệu và hết ḷng tán thán cảnh giới mầu nhiệm nầy, mà cả sáu phương cơi Phật đều hết ḷng ca ngợi xưng tán. Chúng ta có phước duyên được nghe và hành tŕ theo giáo Pháp Phật, do vậy nếu có lúc chúng ta hiểu được một điều ác nhỏ đến đâu chúng ta cũng không làm, và một thiện nhỏ đến đâu th́ chúng ta cũng phải làm, th́ khi nghe đến tên Đức Phật A Di Đà, chúng ta phải coi đó là một cơ hội ngàn vàng, chúng ta phải nắm lấy và thọ tŕ sao cho niệm niệm liên tục, cho đến trạng thái nhất tâm bất loạn th́ chính trong giây phút đó là giây phút chúng ta đang đi về cảnh Tây Phương hay đă sanh về Tây Phương Cực Lạc rồi.



__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 3 of 5: Đă gửi: 26 April 2006 lúc 5:14am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

DUY NGĂ HAY VÔ NGĂ

Mâu Thuẫn
             Giáo lư Phật Giáo từ đầu đến cuối mệnh danh là giáo lư vô ngă; thế nhưng cũng có một số người bị “lướng vướng” vào câu “Thiên thượng, thiên hạ duy ngă độc tôn” rồi bảo rằng giáo lư Nhà Phật là giáo lư Duy Ngă. Thậm chí c̣n bảo Đức Phật sao mà ngă mạn quá, dám tự cho ḿnh là người duy nhất không ai bằng. Nếu Đức Phật là tự tôn, tự đại và giáo lư do Ngài tuyên thuyết là duy ngă, th́ không có ǵ mâu thuẩn hơn. Hy vọng bài viết nhỏ bé này sẽ giải tỏa được một phần nào thắc mắc.
             Bài viết này được viết vào mùa Đản Sanh của Đức Từ Phụ; do vậy, thiết tưởng nên dành một đôi ḍng để ôn lại “tiểu sử” của Ngài.
Thân Thế:
             Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi chưa đi tu, chưa thành đạo có tên là Sĩ Đạt Ta hay Tất Đạt Đa (Siddhattha). Họ của Ngài Gotama ta đọc dưới tên phiên âm Hán Việt là Cồ Đàm. Thân phụ của Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và thân mẫu của Ngài là Hoàng hậu Đại Ma Gia (Mahà Màyà). Ngài sinh vào ngày trăng tṛn tháng 5 năm 624 trước tây lịch, nhằm ngày Rằm tháng 4 năm Tân Dậu.
             Sự Nghiệp:
             Ngài là con một, con cầu và đương nhiên là Đông cung Thái Tử. Ngôi vua chắc chắn nằm trong tay Ngài. Thế nhưng Ngài đă từ chối, không muốn làm Quốc Vương, Nhân Vương mà làm Pháp Vương hay Y Vương.
             Không có một sự nghiệp nào mà không ra công dồi mài cần khổ. Ngôi vị Pháp Vương lại cần phải miệt mài cần khổ nhiều hơn nữa. V́ vậy Ngài đă xuất gia để có nhiều th́ giờ hơn trong sự nghiệp “tôi kinh luyện sử”.
             Ước nguyện càng lớn th́ ư chí càng cần phải cao và phải đủ mạnh mới mong đạt được sự thành tựu viên măn. Thật vậy, Ngài đă phấn đấu mănh liệt, bất khuất mọi gian lao thử thách, chỉ 7 năm thôi, Ngài đă hoàn thành viên măn ư nguyện cao cả của Ngài. Ư nguyện đó là ư nguyện độ sanh hay nói rơ hơn Sự Nghiệp của đời Ngài là Sự Nghiệp Độ Sanh.
             Kinh Pháp Hoa trong phần mở đầu Ngài đă nhắc lại ư nguyện hay mục đích của đời Ngài là phơi bày (khai) và chỉ rơ (thị) cho chúng sanh nhận biết (ngoä) rằng ḿnh và Phật không khác (nhập) (Khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri kiến). Và, trước khi xả bỏ huyễn thân, một lần nữa, Ngài lại nhấn mạnh rằng “Ta là Phật đă thành, tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành”. Suốt gần 50 năm Ngài chỉ làm một việc đó thôi.
             Sau khi đă tuyên bày đầy đủ mọi phương pháp để giúp cho chúng sanh thực tập hầu đạt được kết quả mỹ măn như Ngài, Ngài đă nhập diệt vào ngày trăng tṛn tháng 3 năm 544 trước tây lịch; nhằm ngày Rằm tháng 2 năm Tân Tỵ. Tính theo tuổi thế nhân, Ngài thọ 80 tuổi.
             Năm 1951, các quốc gia theo Phật Giáo trên thế giới nhóm họp tại Tích Lan đă chọn ngày Niết Bàn của Đức Phật làm Phật lịch. Do vậy, Phật lịch tính đến Rằm tháng 2 vừa qua là 2546; và Phật Đản năm nay (2002) là lần thứ 2626.
              Duy Ngă Hay Vô Ngă?
             Cuộc hành tŕnh từ vô lượng kiếp của Đức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Đạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu; mỗi câu 4 chữ, tổng cọng 16 chữ: “Thiên thượng thiên hạ,ï duy ngă độc tôn. Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ!”
             “Ngă” đây phải được hiểu là chấp ngă, là dính mắc, là bị ràng buộc đủ mọi thứ. Chấp ngă có gốc rễ từ tham, sân, si. Tùy theo tham sân si nhiều hay ít, nặng hay nhẹ mà thọ sanh nơi các cơi trời (thiên thượng) hay đọa ở các cơi địa ngục (thiên hạ). Các cơi trời được xem như ở trên, các cơi địa ngục được xem như ở dưới; mặc dù không hẳn là vậy, nhưng chúng sanh đă hiểu vậy, Phật tùy theo đó để khai thị. Từ đó, câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngă độc tôn” có thể hiểu rằng : Ta từ vô lượng kiếp đến nay, nhiều khi sanh lên các cơi trời, lắm lần đọa vào các địa ngục, đầu dây mối nhợ không do đâu khác hơn là tham sân si đẩy đưa đến ngă chấp mà không thấy rơ bản chất vô ngă, duyên sanh từ thân tâm đến hoàn cảnh chung quanh. Đó là lời khai thị và cũng là lời cảnh cáo ngay từ buổi b́nh minh của đời Ngài.
             Đến đây duy ngă hay vô ngă có thể đă được vơi đi phần nào.
             “Ta đi lang thang trong ṿng luân hồi qua bao kiếp sống, t́m măi mà chưa gặp kẻ làm nhà. Nay ta đă gặp ngươi rồi, ngươi đừng ḥng cất nhà thêm được nữa, những đ̣n tay, những cột kèo, những rui mè... của ngươi đă bị mục ră cả rồi...” Pháp Cú câu 154.
             Kẻ làm nhà đây là tham lam ái dục, độc đầu tiên trong ba độc. Nhà là chiếc thân do ngũ uẩn chung hợp. Cột kèo... là những phiền năo nhiễm ô. Mục ră rồi tức Đức Phật đă chinh phục, đă vượt lên trên, đă đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nói rơ hơn là đă thành tựu tuệ giác siêu việt. Không c̣n bị nghiệp lực đẩy đưa đây đó mà chỉ có nguyện lực độ sanh. Do vậy Ngài tuyên bố:
“Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ” ([V́ chưa t́m ra nguyên nhân], nên trải qua vô số kiếp ta phải chịu sanh tử luân hồi. [Nay đă thấy rơ nguyên nhân và nhất là đă có phương pháp diệt trư]ø, th́ sanh tử luân hồi không c̣n chi phối ta được nữa).
             Để Chứng Ngộ:
             Đức Phật thuyết pháp là tuyên thuyết những phương pháp do chính bản thân Ngài thực tập và chứng nghiệm kết quả với tất cả thành tâm thiện ư là mong mỏi mọi người nổ lực thực tập như Ngài đă thực tập để rồi đạt ngộ những điều như Ngài đă đạt ngộ. Ngài không nhằm tŕnh bày một thứ triết lư cao siêu chỉ có trên lư thuyết trừu tượng mà không ăn nhập ǵ đến cuộc đời dẫy đầy khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, học Phật là học những phương pháp thực tập để được làm Phật chứ không phải học “giáo lư” để diễn tả, để tŕnh bày về Đức Phật hay Đạo Phật. Nếu không phải vậy th́ Ngài đă không tuyên bố “Ta là Phật đă thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vâng, chúng sanh là Phật sẽ thành với điều kiện là phải thực tập những phương pháp do chính Ngài tuyên thuyết. Thực tập một cách cần mẫn, chăm chỉ, không gián đoạn mới mong có kết quả.
             Thời cổ đại, người ta lấy lửa bằng cách dùng hai thanh gỗ cọ xát với nhau. Phải cọ xát cho đến khi nào lửa bật ra, lấy lửa được mới nghỉ chứ không thể nghỉ nửa chừng; v́ nếu chỉ nghỉ trong chốc lát thôi, th́ hai thanh gỗ nguội lại và như vậy không biết đến đời kiếp nào mới lấy được lửa. Cũng vậy, tham sân si của chúng ta cứ liên tục bốc cháy, nếu chúng ta lơ là th́ chỉ có làm mồi cho chúng thiêu đốt oan uổng mà thôi.
             Là Phật tử, là con Phật đă nguyện nương tựa nơi Ngài, đă nguyện nương tựa với những lời dạy của Ngài, và đă nguyện nương tựa vào đoàn thể đệ tử thanh tịnh của Ngài rồi, chúng ta cần làm ba việc : học hỏi chánh pháp, thực hành chánh pháp, chứng ngộ chánh pháp.
             Đó là cách báo đền công ơn hóa độ sâu dày của Phật và đó cũng là cách làm cho chánh pháp thường trú tại thế gian.


__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
vieclam
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 26 February 2007
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 204
Msg 4 of 5: Đă gửi: 07 July 2009 lúc 10:20am | Đă lưu IP Trích dẫn vieclam

Có duyên mới đọc được bài này

__________________
Bạn nên ghé qua:
http://tuvilyso.net/forum/forum_posts.asp?TID=22386&PN=1
Quay trở về đầu Xem vieclam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vieclam lần thăm vieclam's Homepage
 
nanhtrang135
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 July 2009
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 28
Msg 5 of 5: Đă gửi: 20 August 2009 lúc 9:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn nanhtrang135

 Có duyên đọc được là tốt nhưng hiểu được hay không lại là chuyện khác :D

__________________
Nguyen Viet Ha
Quay trở về đầu Xem nanhtrang135's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nanhtrang135
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.8672 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO