naivang Hội viên
Đă tham gia: 03 August 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 117
|
Msg 172 of 174: Đă gửi: 29 December 2008 lúc 12:09am | Đă lưu IP
|
|
|
mới nhận được bài của người bạn gửi cho, nay đăng mọi người cùng đọc:
Giê-su qua cái nh́n của người Phật tử
[09.03.2008 11:31]
“Giê-su qua cái nh́n của người Phật tử” là một đề tài lư thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lư cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác.
Thứ đến, v́ h́nh thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, v́ sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những “cái nh́n về Giê-su” rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rơ về cái nh́n của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.
Trước khi t́m hiểu người Phật tử thực sự nghĩ sao, tôi thiết nghĩ cần phải xét xem, căn cứ theo giáo lư cơ bản của kinh điển Nguyên thuỷ, đă được ghi chép lại từ hơn 20 thế kỷ nay, người Phật tử sẽ phải nghĩ thế nào về người sáng lập đạo Ki-tô.
Như quư vị đă rơ, đạo Phật là một đạo có đặc điểm, rất khó hiểu cho người phương Tây chúng ta, là không những từ chối chấp nhận một Thượng đế độc nhất, thường hằng, quyền phép vô biên, tạo hoá mọi sự vật, chủ tể mọi loài trong vũ trụ, mà c̣n không chấp nhận một cá thể thường hằng tương đương với cái mà chúng ta gọi là linh hồn. Chính v́ phủ nhận nguyên tắc một cá thể thường hằng mà người Phật tử không thể chấp nhận một Đấng Tạo Hoá như người phương Tây chúng ta vẫn quan niệm.
Cần nói cho rơ: Đạo Phật chưa bao giờ phủ nhận sự hiện hữu của các thần linh, trái lại nữa là khác, theo đạo Phật có hằng hà sa số các vị Trời, hàng triệu thần tiên đủ loại, lớn nhỏ, thiên thần cũng như địa thần; có những vị thù thắng vi diệu, thân toàn ánh sáng sống bằng lạc thọ, có những vị thân thể thô thiển hơn nhưng người trần không thấy nổi, tất cả đều quyền phép oai vũ hơn người trần rất nhiều.
Các vị Trời và Thần này, dù oai linh quyền phép đến đâu đi nữa cũng vẫn bị hạn chế trong thời gian sống và trong quyền phép của ḿnh. Mỗi vị sinh ra bằng hoá hiện ra giữa các vị Trời, sống rất lâu, hàng tỷ năm (người Ấn Độ thường vẫn hay phóng đại khi phải vận dụng trí tưởng tượng vốn rất phong phú), sống sung sướng an lành, không đau đớn, không phiền năo lo âu, không bệnh tật, không chết chóc như những loài hữu t́nh khác, là loài người hay không phải loài người.
Nhưng đời sống này dĩ nhiên sẽ phải có kết thúc, cũng như mọi sự mọi vật đă có bắt đầu, đă được sinh ra. Một ngày kia, vị Trời này sẽ mất đi, bỗng nhiên biến đi, không đau đớn lo âu, và sẽ tái sinh như bất cứ một hữu t́nh nào khác, vào cơi trời, hoặc cơi người, hoặc cơi súc sinh, hoặc cơi ngạ quỷ, tùy theo nghiệp quá khứ của vị đó.
Vốn không thường hằng, vốn được sinh ra và mất đi như các hữu t́nh khác, dĩ nhiên vị Trời này không thể là đấng tạo ra vũ trụ và những loài sinh sống trong đó. Quyền phép dù rộng lớn đến đâu đi nữa nhưng vẫn có giới hạn, vị Trời này không thể là chủ tể mọi loài, mọi sự, mọi vật.
Không chấp nhận một Đấng Tạo Hoá, theo quan niệm chúng ta thường có bên phương Tây Ki-tô giáo, người Phật tử dĩ nhiên không thể chấp nhận tính thiên khải của Giê-su. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giê-su chỉ là một con người. Tuy nhiên, với tất cả những đức tính hiển nhiên của Ngài, chắc chắn sau đó Ngài đă sinh vào cơi trời dựa theo luật nhân quả, do sự “chín muồi” của các thiện nghiệp của Ngài.
Tóm lại, dưới con mắt của đạo Phật, con người Giê-su, sau khi chết, chắc đă trở thành một vị Trời, nghĩa là một loại siêu nhân của một đẳng cấp nào đó, biểu hiện bởi những tính chất, những quyền phép, với đời sống lâu dài, với sinh hoạt đặc biệt; sinh hoạt này có thể là sự quán chiếu chân lư (contemplation de la vérité) hay chỉ là quán trí tiếp cận chân lư (méditation d’approche), hay chỉ là hưởng thụ lạc thú của thiên giới dưới mọi h́nh thức khác nhau, có dục tính hay không dục tính, hoặc kiểm xét sinh hoạt của loài người.
Khi vị Giê-su trở thành Trời chết đi th́, trong một tương lai xa hay gần, tuỳ theo địa vị hiện tại của Ngài trên cơi trời, Ngài sẽ tái sinh lại, cũng như vô số lần khác trong quá khứ. Chắc Ngài sẽ sanh lại cơi trời hay cơi người tuỳ theo các đức tính và các thiện nghiệp của Ngài, Ngài sẽ không bị thu hút vào những cơi xấu xa như những kẻ tham ác, những loài súc sinh, ngạ quỷ.
Nói cách khác, trong đời sống tương lai, Giê-su có thể c̣n giữ được tính trời của ḿnh, theo ư nghĩa của đạo Phật, hay sinh vào cơi người, và trong trường hợp này sẽ hành động như một vị Cứu tinh (Messie), trong giới hạn mà đạo Phật đă định cho vai tṛ này. Như vậy, đạo Phật không phủ nhận tính Trời của Giê-su, tính trời được hiểu theo một ư nghĩa nào đó, cũng như không phủ nhận tính Người của Ngài; tuy nhiên hai tính này không thể tồn tại cùng một lúc mà phải kế tiếp nhau.
Nếu con người Giê-su sinh ra cách đây ngót hai mươi thế kỷ đă trở thành một vị Trời, người Phật tử có thể dễ dàng chấp nhận chuyện này, th́, cũng như mọi vị Trời khác, Ngài rất đáng được kính trọng, đáng được tôn sùng, v́ vô số thiện nghiệp của Ngài trong các đời sống trước; tính Trời của các vị chứng minh cho những thiện nghiệp của các vị trong các kiếp trước.
Hơn nữa, nghi lễ của đạo Ki-tô không đ̣i hỏi sát sinh, cũng giống như nghi lễ đạo Phật, v́ sát sinh để cúng tế là phạm vào một trong những giới cấm cơ bản chung cho cả hai đạo, người Phật tử không thể chê trách ǵ tín đồ Ki-tô khi những người này tôn thờ Thầy của họ, Chúa của họ.
C̣n hơn thế nữa, không ǵ ngăn cản người Phật tử tôn sùng Giê-su cũng như tôn sùng các vị thần linh khác xuất xứ từ Ấn Độ giáo; trong nhiều chùa ta thường gặp đền thờ các vị thần này.
Thật vậy, ngược với đạo Ki-tô, sinh ra trong những điều kiện hoàn toàn khác, đạo Phật không những chưa bao giờ phủ nhận sự hiện hữu hoặc phủ nhận tính trời của vô số vị Trời của Ấn Độ cổ xưa, hay của các xứ mà đạo Phật truyền tới, mà đạo Phật cũng không hạ thấp các vị Trời đó xuống hàng những loài quỷ, xấu xa và tàn bạo, hiện thân của mọi điều xấu.
Ngược lại, đạo Phật đă thu nhập tất cả những vị này, kể cả những vị vốn rất hung dữ cũng được mau chóng chuyển hoá. C̣n hơn thế nữa, đạo Phật đă nâng các vị thần này lên hàng mẫu mực cho Phật tử cư sĩ, nhưng không thể là mẫu cho hàng Tăng sĩ v́ đời sống quá sung sướng của các cơi trời khiến những vị trời không thể thành tu sĩ, không thể tŕ hành các giới luật nghiêm túc và khắc khổ, con đường duy nhất đưa đến giải thoát, Niết bàn.
Trong thiên giới phong phú và phức tạp được đạo Phật công nhận, rất hiếm có những vị trời c̣n giữ tính dữ dằn hoặc là căm thù đối với loài người. Nếu có, thường chỉ là những vị địa tiên thuộc những tầng thấp nhất, những vị tiểu thần của một thôn xóm nào đó, hay là Mâra, thần chết, đối thủ chính và dai dẳng của Đức Phật, v́ Ngài dạy cho muôn loài phương pháp để thoát khỏi sự chết, hay đúng hơn những sự chết kế tiếp nhau, hệ quả của những sự tái sinh.
Thật ra, Mâra là một h́nh ảnh có tính biểu tượng, chỉ được dùng trong đạo Phật, và theo truyền thuyết th́ thường thường lố bịch hơn là ghê gớm, ngay cả lúc vị thần này xua đoàn quân quỷ do ḿnh sinh ra để tấn công Đức Phật và Đức Phật đă xua tan chúng chỉ bằng chánh niệm của Ngài.
Những vị Trời, ngoại trừ một vài vị rất hiếm, đều là những hữu thể hiền hoà xứng đáng được tôn kính; theo giáo lư nhà Phật th́ đây là một chuyện rất dễ hiểu, v́ nếu các ngài hưởng được hạnh phúc của cơi Trời là v́ các ngài thừa hưởng quả báo của vô số thiện nghiệp trong những đời trước.
Trở lại đề tài của chúng ta, nếu con người Giê-su đă trở thành một vị Trời, và đứng trên quan niệm Phật giáo th́ chuyện này rất đáng tin, Ngài xứng đáng được mọi người tôn kính, không những chỉ tín đồ đạo Ki-tô, mà cả những người Phật tử và những người theo đạo khác cũng vậy.
Con người Giê-su trở thành một vị Trời do đó được kính trọng, phải chăng điều này có nghĩa là giáo lư của Ngài dạy cách đây hai ngàn năm cũng phải được trọng vọng như vậy? Nói cách khác, với người Phật tử, giáo lư của Giê-su, đạo Ki-tô, có đáng được trọng vọng bằng những thiện nghiệp của Ngài không?
Chắc chắn là đáng trong chừng mực mà giáo lư của Ngài phù hợp với lời dạy của Đấng Thế Tôn, nghĩa là có ích lợi cho con người, giúp con người tiến bộ trên con đường giải thoát hay ít ra giúp tái sinh trong cơi trời hay cơi người chứ không bị rơi vào những cơi xấu ác.
Trái lại, cũng không đáng, v́ giáo lư của Giê-su không dẫn con người tới Niết bàn, hay đúng hơn khiến con người ngừng lại dọc đường, chỉ dẫn đến tái sinh nơi thiên đàng của một vị Trời trong một thời gian có giới hạn, dù giới hạn này có dài lâu đến đâu đi nữa, và làm cho con người lầm tưởng rằng sẽ được ở đó vĩnh viễn.
Tóm lại, giáo lư của Giê-su chỉ dành cho cư sĩ, những người muốn có một đời sống tương lai càng sung sướng, càng lâu dài càng tốt, trong khi giáo lư của Đức Phật nhắm những tu sĩ, những người, sau khi thấu rơ tính chất vô thường, sự giới hạn trong không gian và thời gian, của vạn vật, kể cả hạnh phúc trong cơi trời, không vừa ḷng với hạnh phúc đó, quyết định đạt đến Niết bàn, chấm dứt mọi tái sinh, dù trong cơi nào đi nữa.
Hệ luân lư mà Giê-su truyền dạy cho tín đồ Ngài hầu như y hệt hệ luân lư Đức Phật dạy cho Phật tử. Không những cả đôi bên đều ngăn cấm làm điều ác, lớn hay nhỏ, như giết người, trộm cắp, tà hạnh, hưởng thụ, dối trá, phóng dật, v.v…, mà cả đôi bên cũng đều luôn luôn khuyên bảo tín đồ ḿnh nuôi dưỡng và thể hiện những đức tính như ḷng nhân ái, ḷng từ bi, tính kiên tŕ, ḷng từ thiện, ḷng khoan dung mỗi khi bị xúc phạm, …
Cả hai đều thấy rơ là sự thể hiện hệ luân lư chung này chỉ là bước đầu, rất cần thiết nhưng không đầy đủ, trên con đường dài đưa đến mục tiêu tối hậu do các vị sáng lập đạo giáo vạch ra cho tín đồ của ḿnh, Thiên đàng cho người theo đạo Ki-tô, Niết bàn cho Phật tử. Tóm lại, cùng truyền dạy một hệ luân lư chung như là bước đầu cơ bản, Giê-su và Đức Phật lúc đầu dẫn dắt tín đồ của ḿnh trên cùng một con đường, một con đường dài và khó khăn cho nhiều người nhưng không thể tránh khỏi để chuẩn bị cho chặng đường sau, cho một đời sống đạo hạnh, tu luyện tâm linh để đạt đến một quả vị nào đó.
Ngoài những điểm tương đồng kể trên, giáo lư của Giê-su và giáo lư của Đức Phật khác biệt nhau rất xa. Với Đức Phật, giáo lư của Giê-su sai lạc, không đúng với sự thật, không đúng với những Thánh đế mà tu sĩ Gotama đă “giác ngộ”. Như vậy, giáo lư đạo Ki-tô, dù với hệ luân lư cao đẹp, là dẫn dắt tín đồ ḿnh sinh vào một cơi trời, nhưng lại ngăn chặn không cho tiến xa hơn, tới sự giải thoát khỏi ṿng luân hồi, đạt đến Niết bàn, v́ làm cho tín đồ ḿnh hiểu sai lầm rằng hạnh phúc trên cơi trời là mục đích cao cả nhất.
Đối với người Phật tử, Giê-su đáng tôn kính v́ đă dẫn dắt, bằng hệ luân lư của Ngài, con người đến cơi sung sướng, nhưng Ngài cũng không hoàn hảo v́ đă truyền cho tín đồ một đạo lư sai lạc. Giáo lư này sai lạc v́ nó dựa lên ḷng tin nơi một vị Trời độc nhất, thường hằng và tạo hoá mọi vật, tin vào một linh hồn vĩnh cửu, ẩn trong mỗi con người.
Nó sai lạc v́ nó không chấp nhận lẽ vô thường, lẽ vô ngă, do đó đưa đến phiền năo khổ đau, của mỗi hữu t́nh. Nó c̣n sai lạc v́ nó khuyên dạy tín đồ phát triển ḷng sùng bái vị trời của họ và ḷng thương yêu những con người khác, cả hai tính này đều có cơ sở là tham ái, trong khi Đức Phật khuyên dạy phải xa ĺa tham ái dưới mọi h́nh thức v́ nó là một chướng ngại quan trọng trên con đường giải thoát, Ngài khuyên dạy phải phá chấp một cách triệt để, và trong tuyệt đối, không chấp trước cả đến những đức tính cao cả nhất, như ḷng nhân ái, ḷng từ bi, ḷng từ thiện, ḷng khoan dung.
Như vậy, đối với Phật tử, Giê-su là một con người đáng kính trọng, tôn dùng, là một vị thánh nhân và chắc đă trở thành Trời sau khi là một con người, cách đây ngót hai mươi thế kỷ.
Tuy vậy Ngài vẫn thua kém Đức Phật, dù Đức Phật vẫn c̣n là người trong kiếp sống cuối cùng, trong khi Giê-su có lẽ đă thành Trời trong đời sống đó. Thật ra, dưới con mắt những người Phật tử, tôn sư của họ, dù vẫn c̣n sống trong cơi người, đă tự nâng ḿnh lên cao hơn mọi vị Trời, đă “giác ngộ” Chân như, t́m ra con đường đưa đến Niết bàn, điều mà không một vị Trời nào có thể làm nổi chính v́ tính trời của họ.
Thật vậy, hạnh phúc vô hạn của các vị Trời khiến các ngài không thấu rơ được phiền năo khổ đau tiềm ẩn trong mỗi hữu t́nh, dù có mang h́nh thái nào đi nữa. Chính sự chứng ngộ khổ đau này, đối với người Phật tử, là bước đầu trên con đường rất dài và rất khó khăn đưa đến sự giải thoát khỏi ṿng luân hồi.
Sau khi đă t́m hiểu cái nh́n mà người Phật tử lẽ ra phải có về Giê-su, dựa trên giáo lư cơ bản mà người Phật tử đă học hỏi và tin theo, chúng ta xét trong thực tế họ nghĩ sao về Giê-su, lần này ta dựa trên những lời nói của chính họ.
Muốn như vậy, tôi đă dựa vào bốn trong những người cộng tác xuất sắc nhất của tôi, mỗi vị có một sự hiểu biết thấu đáo về quan niệm của những người Phật tử, trên mỗi khía cạnh khác nhau. Thầy Thích Thiện Châu, Tiến sĩ Văn chương, vốn là một vị tôn đức của Phật giáo Việt Nam. Ông Mohan Wijayaratna, sinh ra trong một gia đ́nh song giáo, Ki-tô và Phật, sắp tŕnh luận án tiến sĩ về một số khía cạnh của Phật giáo Tích Lan và cũng đă từng viết nhiều bài báo rất đáng chú ư, một trong những bài này nói về đề tài chúng ta bàn đến hôm nay, dưới con mắt người Tích Lan. Đức Cha Eugène Denis, Tiến sĩ Văn chương và nghiên cứu viên tại Viện nghiên Cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), sống tại Thái Lan từ hơn ba mươi năm nay và đang nghiên cứu đạo Phật xứ này. Ông Paul Magnin, nghiên cứu viên tại Viện nghiên Cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), đă từng sống lâu năm tại các xứ Viễn Đông, nhất là tại Đài Loan, chuyên nghiên cứu về đạo Phật Trung Quốc.
Tôi cũng phải nói đến quyển sách quư báu do đồng nghiệp và cũng là bạn thân của tôi, Giáo sư Jacques Gernet, xuất bản cách đây hai năm tại Nhà Xuất bản Gallimard dưới tựa đề “Trung Quốc và đạo Ki-tô, tác động và phản ứng” (Chine et Christianisme, action et réaction); tác phẩm này cho ta biết và hiểu quan niệm của người Trung Quốc, người Phật tử hay người theo đạo khác, về đạo Ki-tô và về Giê-su trong những thế kỷ XVII và XVIII.
Lẽ ra, trong chừng mực nào đó, ta phải gắn bó sự t́m hiểu cái nh́n của người Phật tử về Giê-su với cái nh́n của họ về đạo Ki-tô. Nhưng vấn đề này tự nó cũng rất phức tạp khiến ta không có th́ giờ bàn tới bữa nay.
Cái nh́n của Phật tử về Giê-su thay đổi tuỳ thời điểm lịch sử, tuỳ xứ, tuỳ tông phái. Nhưng ngày nay nó có xu hướng trở nên đồng nhất.
Người Trung Quốc vào thế kỷ XVII và XVIII có một cái nh́n nghiêm khắc nhất, tuy nhiên rất khó mà phân định đâu là phần của đạo Phật, đâu là phần của đạo Khổng hay đạo Lăo. Với người Trung Quốc, Giê-su chỉ là một người, bị kết án tử h́nh v́ làm loạn, làm xáo trộn trật tự xă hội, điều tối kỵ đối với truyền thống Á Đông.
Cái chết khổ nhục của Giê-su, bị hành h́nh trên cây Thập ác như một tên tội phạm, sự đau đớn phải trải qua, theo người Phật tử, chỉ là kết quả của ác nghiệp trong quá khứ, nghiệp càng ác, quả báo càng nặng. Thuyết nghiệp báo khiến một số Phật tử nghĩ rằng đời trước Giê-su đă giết người.
Hơn nữa, không đủ sức thoát khỏi cực h́nh, tự cứu thoát bằng phép tắc nhiệm mầu th́ làm sao Giê-su có thể cứu người khác? Nếu Giê-su là Thượng đế tối cao, khi Ngài đầu thai làm người, đất trời không ai cai quản, kết quả sẽ khủng khiếp vô cùng.
C̣n nếu Ngài giáng sinh từ Thượng đế th́ Ngài thua Đức Phật xa, v́ chẳng cần ai giúp sức, dù là thần thánh hay ǵ ǵ đi nữa, Đức Phật tự ḿnh đă t́m ra giáo lư giải thoát và tự lấy quyết định truyền bá giáo lư này. Dù sao đi nữa, nếu Giê-su là một vị Trời, Ngài chỉ có thể là một vị Trời như muôn ngàn vị khác, chịu theo quy luật nghiêm khắc của quả báo tái sinh, và do đó thấp hơn Đức Phật, người đă ra ngoài ṿng sinh tử luân hồi.
Sự kiện Giê-su giáng sinh chẳng có ǵ đáng chú tâm, v́ thực ra, nó chỉ là một hiện tượng mà người Phật tử coi là tương đối và tuỳ theo điều kiện mà sinh ra, trong ḍng sinh tử luân hồi vô thường của thế giới. Hơn nữa, sự giáng sinh này mâu thuẫn với tính Chúa-ba-ngôi mà giáo lư Ki-tô gán cho Ngài. C̣n các phép lạ của Giê-su chẳng thấm vào đâu so với các oai phép Phật, bao trùm cả vũ trụ vô thuỷ vô chung, bao gồm hằng hà sa số thế giới.
Thời nay, những mâu thuẫn cũ giữa hai đạo đă giảm bớt, cái nh́n của Phật tử về Giê-su cũng nhẹ nhàng hơn. Dĩ nhiên, người Phật tử không nh́n nhận, không thể nh́n nhận Giê-su là vị Cứu thế, hay là Đấng tạo hoá, thường hằng và tối thắng, v́ những danh hiệu này đối với Phật tử hoàn toàn vô nghĩa, hay chỉ định những ảo vọng do vô minh tạo ra.
Dĩ nhiên, người Phật tử cũng không thể đặt Giê-su cao hơn Đức Phật, như một nhà truyền giáo nọ đă vụng về cố gắng chứng minh rằng Đức Phật là kẻ đi trước chuẩn bị cho Giê-su xuất hiện. Và dĩ nhiên, người Phật tử không chấp nhận có sự phục sinh của Giê-su, v́ khái niệm phục sinh không có trong giáo lư đạo Phật, cũng như không có trong giáo lư Ấn Độ hay đạo Jaina. Sự tái sinh sau khi chết hoàn toàn khác với sự phục sinh của đạo Ki-tô.
Ngoài những giới hạn kể trên, giới hạn suy ra dựa vào lời dạy của Đức Phật, hầu như mọi người Phật tử thời nay đều có thiện cảm với Giê-su. Họ cảm mến Ngài, kính phục nữa, nhưng không phải v́ vậy mà họ mảy may có ư cải đạo theo đạo Ki-tô. Họ sẵn sàng nêu lên những điểm tương đồng giữa Giê-su và Đức Phật: Một đời sống trong sạch, được hướng dẫn bởi một hệ luân lư cao cả, vô vị lợi, thấm nhuần bởi ḷng nhân ái, ḷng từ bi, ḷng từ thiện, ḷng khoan dung, cho đến hy sinh cả tính mạng của chính ḿnh. Theo họ, cả Giê-su lẫn Đức Phật đều đáng kính, cả hai đều là những vị thánh nhân hiền đức như nhau.
Thầy Thích Thiện Châu có đưa thêm vài ư khá lư thú, dựa trên giáo lư đạo Phật Phát triển (Mahayana), một phong trào canh tân trong đạo Phật cách đây hai mươi thế kỷ; đạo Phật Việt Nam bắt nguồn từ đó, cũng như rất nhiều h́nh thái khác của đạo Phật tại Viễn Đông và Trung Đông. Giáo lư Ba thân Phật cho phép ta hiểu tính chất của Giê-su rơ hơn là giáo lư Nguyên thuỷ, hiện c̣n thịnh hành tại Tích Lan và Đông Nam Á.
Giáo lư Phát triển quan niệm là Đức Thế Tôn có ba thân: Hoá thân hay Ứng thân, người thường thấy được, với thân này Phật đă sinh ra, sống một đời sống b́nh thường của mọi người rồi chết đi; Báo thân, ngài dùng thân này để hiện ra giữa các vị Bồ tát, tức là những vị xả thân cứu đời để thành Phật trong một thời gian rất xa nữa; và Pháp thân, là thật thể của các pháp trong vũ trụ, thân như thật và vĩnh cửu, các hữu t́nh đều có thân này, nhờ thế mà trong tương lai, có thể rất xa, tất cả đều có thể thành Phật.
Ta có thể áp dụng lư Ba thân này vào trường hợp Giê-su để giải thích tính chất vừa trời vừa người của Ngài, giải thích cách nào Ngài vừa ở đời cứu nhân độ thế, vừa ngự trị trên ngôi tối thượng tuyệt đối. Thân thứ nhất có thể coi là thân mà mọi người b́nh thường trông thấy, là thân của Giê-su lịch sử, đă sinh ra, truyền đạo, đau khổ và chết đi trên cây Thập ác.
Thân thứ hai là báo thân huyền diệu mà ba đệ tử Pièrre, Jean và Jacques đă chiêm ngưỡng trên núi.
Thân thứ ba là thân Trời, người thường không thể nghĩ bàn, thân Cha trong quan niệm Ba Ngôi của đạo Ki-tô. Cách so sánh này, giữa hai giáo chủ, giúp cho người Phật tử hiểu biết dễ dàng hơn về Chúa cứu thế và Kinh thánh, và kính trọng Ngài hơn. Thầy Thích Thiện Châu đưa ra một h́nh ảnh tuyệt đẹp: “Ta có thể yêu mến sự tinh khiết của hoa sen, và cùng lúc thưởng thức cái đẹp của hoa huệ và hoa hồng”*.
Vị Tăng sĩ Việt Nam nêu ra một điểm gần gũi nữa, giữa đạo Ki-tô và tông Tịnh Độ, một tông phái ở Viễn Đông khá quan trọng chỉ tôn thờ Phật A Di Đà, hay “Vô lượng quang Phật”, một vị Phật trước đây đă nguyện đón về đất “Tịnh Độ” tất cả hữu t́nh niệm danh hiệu Ngài.
Phật A Di Đà có một vị cộng tác nổi tiếng nhất trong các hàng Bồ tát, đó là Bồ tát Quán Thế Âm, đại từ đại bi, luôn luôn sẵn sàng hiện ra cứu giúp những kẻ hoạn nạn và đă từ chối không thành Phật chừng nào tất cả hữu t́nh chưa đạt Niết bàn. H́nh ảnh Quán Thế Âm rất gần với h́nh ảnh Giê-su, do đó những người tu theo đạo Phật Phát triển, nhất là tông Tịnh Độ, có thể tôn kính Giê-su như một vị Bồ tát.
Đạo Phật Phát triển cho rằng các vị Phật tương lai này, ngoài những đức tính như ḷng từ bi, trí tuệ, ḷng nhân ái, kham nhẫn v.v… c̣n “giỏi về phương tiện” để cứu vớt hữu t́nh, làm những phép lạ, do đó Phật tử các tông phái Phát triển chấp nhận dễ dàng là Giê-su thực sự có phép lạ.
Tuy nhiên, Thầy Thích Thiện Châu nói thêm, Phật tử thuộc các tông phái Phát triển (với quan niệm tôn kính về Giê-su như đă nói ở trên) không tránh khỏi ngỡ ngàng trước những lời cuối cùng có lẽ Giê-su đă thốt ra trên cây Thập ác: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao lại bỏ rơi con?”.
Như vậy, trong các tôn giáo lớn, đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất, về mặt giáo lư cũng như phương cách hành đạo, nhưng, ngược lại, cũng là đạo biết đánh giá cao nhất giá trị tâm linh của đạo Ki-tô.
Điều đó càng đúng vào thời đại này, khi mà đạo Ki-tô đă từ bỏ thái độ thù địch cố hữu của ḿnh với mọi tín ngưỡng khác để chấp nhận rằng các đạo giáo đó không phải là âm mưu của quỷ dữ, mà là những cố gắng nhiều khi rất đáng quư nhằm xoa dịu phiền năo khổ đau của con người bằng cách hiến dâng họ những hy vọng vào một ngày mai xán lạn hơn.
Những quan hệ thường thường rất nồng hậu giữa Phật tử và tín đồ Ki-tô, và nhất là giữa những người đại diện của các cộng đồng đôi bên tại Trung Á và Đông Á, là những khích lệ lớn và có nhiều ư nghĩa. Trong các kết quả đáng chú ư nhất, phải kể cái nh́n kính trọng và có thiện cảm của đa số người Phật tử thời nay với con người Giê-su, dù là Phật tử xứ nào đi nữa, hay thuộc tông phái nào đi nữa.
GS. André Bareau (Theo Văn hóa Phật giáo)
__________________ Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên cái ǵ khô?
|