Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 328 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Tử Vi (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Tử Vi
Tựa đề Chủ đề: Mệnh Lư Thám Nguyên - Trịnh Công Sơn Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
HoaCai01
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 April 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3743
Msg 21 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 12:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn HoaCai01

Kiếm ai ra sao, dài ngắn, sắc bén tới đâu, chắc chỉ có ḿnh tự biết, ngay cả thiên hạ có chê khen cũng là chuyện vô thường.

Sai 1 bước, tiến măi về hướng "mê ngạn" sẽ không thấy bến bờ.  Sai số của dữ liệu (data error) sẽ bị khuếch đại (propagation) qua thời gian thành tập quán sẽ thành vĩnh cửu khó sửa.

Số mệnh ắt có nhưng điều kiện đủ đến đoán cho trúng, đâu dễ cho người b́nh thường đắc được công phu vững vàng để tránh sai trái trong định giờ và phân định đi  từ tổng thể cho tới vi tế.

Trong trường hợp của TCS, lá số phản ảnh sắc nét con người của ông từ tư tưởng cho đến hành động - đó là phần lư, c̣n xét phần t́nh, chắc chắn lư số gia có thiên vị khó tránh khỏi ở mức độ ít nhiều như trời nắng hay trời mưa mà có người vui buồn trái ngược nhau ở cùng 1 thời điểm.

Lăo HC tài sức có giới hạn, chỉ xin nghiệm lư , ngay cả như thế đă mang tính tuơng đối chủ quan phân biệt, nói chi đến đoán tuơng lai rất nhiều may rủi khó lường.



Sửa lại bởi HoaCai01 : 17 August 2009 lúc 12:05pm


__________________
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
Quay trở về đầu Xem HoaCai01's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi HoaCai01
 
longtaithien
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 01 May 2007
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1128
Msg 22 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 12:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn longtaithien

longquang đă viết:

Hoa cái đă sẵn sàng bài luận về trịnh công Sơn chưa? Chúng ta hăy so kiếm một phen xem sao?

hoacai đă viết:
Kiếm ai ra sao, dài ngắn, sắc bén tới đâu, chắc chỉ có ḿnh tự biết, ngay cả thiên hạ có chê khen cũng là chuyện vô thường.

Kiếm dù sắc cũng đắc dụng với vài trường hợp thôi, kiếm dài th́ hợp tấn công từ xa ( khi dùng phóng cũng dễ v́ như phi tiêu khó đi chệch hướng), kiếm một bên lưỡi sắt một bên răng cưa th́ lưỡi dùng cắt da thịt c̣n phía kia để làm hư vũ khí đối phương, kiếm ngắn và nhỏ dễ giấu, dùng pḥng thủ hay...dễ chơi lén. Kiếm lưỡi to th́ không dùng đâm mà dùng chém, kiếm kiểu Nhật thuận tiện đâm và cắt... nhất. Không ai dùng kiếm sắt để giết gà mà cũng không ai dùng gươm cùn để đốn củi cả.

 

Mr LNQ tuổi trẻ tài cao, học đạo từ rất trẻ ( thời học sinh), chiêu thức ḱ ảo, huyền bí. Mr HOA CÁI tài như thâm cung bí sử, kinh nghiệm đầy ḿnh, quyết tâm rất cao, tuổi tuy hơi lớn mà c̣n rất sung sức, biến ảo vô cùng, cả hai đều rất tài hoa...Long hết lời cổ động rồi, thôi so kiếm cho quần hùng rửa mắt đi nào đại ca và đại lăo ca

 

 



Sửa lại bởi longtaithien : 17 August 2009 lúc 12:32pm


__________________
if this unexpected meeting brings success, it must be fate
http://vn.360plus.yahoo.com/huonggiang21776
Quay trở về đầu Xem longtaithien's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi longtaithien
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 23 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 12:28pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

     TCS không học chính thống xong Tú tài, mà là loại phó Tú tài. Nhưng theo ông NTT (bạn học TCS ở Sư phạm Quy Nhơn), th́ trường này chỉ lấy tiêu chuẩn Tú tài I, song đa số giáo sinh đă có Tú tài II, một số đă có bằng Đại học.

     Pờ-rô-vi-đoong (c̣n gọi trường Thiên Hựu) không bằng Quốc học Huế. Nhưng thấy một số trí thức ở VN cũng ra ḷ từ đây. Một số thích học ở đây v́ Pháp ngữ và muốn có kỷ luật (trường ḍng mà) và tiếp thu Tây phương.

     Trịnh chỉ học xong Tú tài I. Chuyện Tú tài ban Triết Lát-xơ-lúp Lô-ba tôi nghĩ là bịa. Có lẽ do tin dồn thổi hoặc những hồi kí của người nọ người kia không nhớ chính xác.





Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
HoaCai01
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 April 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3743
Msg 24 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 12:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn HoaCai01

À hôm qua dự lễ Luơng Hoàng Sám, theo đại chúng đọc các chú có nhắc đến Sử Tử ǵ đó, ḷng thắc mắc tại sao lại như vậy. Nghiên cứu thêm về Hoa Nghiêm Tông thấy Tông này dùng biểu tượng của Văn-thù-sư-lợi Bồ Tác làm bậc tổ sư hướng dẫn Phật Giáo tại Trung Quốc. Vào WIKI t́m hiểu mới biết ư nghĩa của con sư tửn oai nghiêm và thanh kiếm trí huệ Bát Nhă Ba La Mật chém tan màn vô minh.

Kiếm th́ vô t́nh nhưng người sử kiếm lại có trí th́ đây là Trí Huệ Kiếm.

Chỉ có người trong cuộc mới biết người nào đó có kiếm hay không, cho dù xưng xuống núi Hoa Sơn, lưng đeo nhiều kiếm cũng là không có kiếm v́ người đó HOK ... có kiếm.  Hiểu rồi chứ ǵ ?



Sửa lại bởi HoaCai01 : 17 August 2009 lúc 12:45pm


__________________
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
Quay trở về đầu Xem HoaCai01's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi HoaCai01
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 25 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 12:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

     Voi hay Sư Tử cũng chỉ là biểu tượng tôn giáo thôi bác. Hoa Nghiêm Tông không thiên về tịnh độ, cầu chú nhiều sẽ hợp với những người thích tu trí tuệ. Kiếm thủ cao nhất là kiếm thủ trong vỏ không có kiếm (chỉ có cái cán).

     Nhân ông DVT nhắc mấy chuyện mật thám, tôi cũng nhớ (không nhớ nghe từ đâu) là thân sinh ông làm Bưu điện chứ mật thám ǵ. Lại nhớ có người nói Trịnh có bằng đai đen Nhu đạo (Judo), đă dạy vơ cho Sở Hiến binh Tây. Sau này v́ tập vơ bị thương nên "quên" hết vơ. Cái này tôi đoán là bịa. Thường thường xung quanh những người nổi tiếng, có vô vàn những chuyện hư hư thực thực. Người ghét th́ tin vào thông tin xấu. Người chuộng th́ tin vào những lời bốc đồng khen xổi. Chuyện TCS học Tú tài Xát-xơ-lúp Lô-ba cũng vậy, nghe nói, TCS v́ hoàn cảnh, chỉ học hết Tú tài I và phải chuyển ra trường ngoài, th́ lư ǵ mà học Lô-ba?

     Thế đấy, ngay cả công tŕnh nghiêm túc của giới khoa học như thế, mà thông tin chưa xác thực c̣n có.



     

Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 17 August 2009 lúc 1:10pm
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
dinhvantan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 September 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 6262
Msg 26 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 2:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn dinhvantan

TCS không có thắt lưng đen nhu đạo (người ốm nhom học nhu
đạo ǵ nổi) . Ông Cậu ruột của TCS thắng lưng đen 4 vạch
th́ có , người dạy nhu đạo cho Cậu của TCS nay c̣n sống,
người sinh năm Ất Sửu mà tôi nói trong TVLS đó .
Quay trở về đầu Xem dinhvantan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dinhvantan
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 27 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 2:37pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

     Có cái này th́ tôi nghĩ đáng tin hơn, dầu không được đồn đăi nhiều, không tạo x́-ken-đồ:

     Trịnh - như những đám nghệ sỹ khác - yêu khá sớm (ví dụ như Diễm xưa) nhưng sau này, không rơ v́ lư ǵ, ông ko thể kết hôn được. Ông đă 2 lần tí nữa đi đến gia đ́nh, riêng 1 lần đă làm đám cưới (không tổ chức rầm rộ nên ko thành sự kiện). Đó là đám cưới với 1 Á hậu VN, khi tiệc tan, những bạn bè cuối cùng bắt tay xin về hết, th́ chú rể hoảng quá "chuồn" mất tiêu ngay trước đêm tân hôn. Không rơ sau đó ông giải thích ra sao với "người vợ" của ḿnh và để cho "nàng" về dinh? Sau vụ ấy th́ không có đính hôn nào nữa.

     Xin kể lại câu chuyện trên, không biết có giúp ích ǵ cho việc nghiệm lư (quên mất năm nào).

     Chuyện đai đen Nhu đạo là tôi nghe ông Tạ Tỵ nói trong sách. Nhưng tôi không tin. Sau này vẫn có người nhắc lại. Nguồn gốc tin này không rơ đâu ra.

     Dù sao, tôi cho TCS tuy có tinh thần vị nhân sinh. Thực tế chứng minh ông đă 1 hiện tượng khó lặp lại trong lịch sử tân nhạc VN. Nhưng theo đánh giá riêng của tôi, ông có thể chất yếu đuối (cả tinh thần và thể xác), hơi thiên về những cảm nhận buồn bă, có nhiều suy nghĩ hơi trừu tượng. Nhưng cũng khó nói, v́ mỗi người một cách đi trong nghệ thuật.

      Không hiểu những người nào trùng lá số ông này sẽ ra sao. Theo LS trên (do TTP cung cấp), giả sử LS là chính xác, th́ những người sinh 28/02 năm 1999 AL, giờ Th́n, có thể nghiệm xem có mấy phần giống với đời TCS? Giống được 50 % không nhỉ?

     Tương lai không biết có vấn nạn LS giờ Th́n 28/2 năm 1999 AL không?

     Có ai đó có thể nói: Tôi biết đây là LS TCS, vậy anh chắc chắn phải lấy LS khác, bất kể anh sinh đúng vào giờ Th́n ngày hôm đó!

     Đă có ai phát hiện ra một người sinh giờ Th́n, 28/2 năm 1999 (AL), công bố lên để làng Tử vi theo dơi?



Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 17 August 2009 lúc 3:03pm
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
dinhvantan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 September 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 6262
Msg 28 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 8:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn dinhvantan

Quyển sách dày 282 trang, nhưng thật ra trong đo phần luận
văn chỉ có 65 trang, c̣n bao nhiêu là trích lại nhưng bài
ca của TCS .
Một bài luận văn nhỏ, thật ra tôi thấy không đến nổi ǵ mà
phải cấm phát hành (sau khi đă được phép in), nếu nh́n về
khía cạnh chính trị .
Quay trở về đầu Xem dinhvantan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dinhvantan
 
tieuthiphi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 April 2009
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 124
Msg 29 of 41: Đă gửi: 17 August 2009 lúc 11:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn tieuthiphi

TCS sinh giờ th́n là chính xác!
Tieuthiphi đang chờ anh longquang và anh hoacai xuất kiếm để mà học hỏi!
Chứ TCS th́ ai cũng biết mà tŕnh độ muội thấp kém sợ luận dựa mà không đúng cách cục ǵ sợ 2 anh và các bác` khác cười
Thôi đành chờ ngóng xem sao!

Quay trở về đầu Xem tieuthiphi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieuthiphi lần thăm tieuthiphi's Homepage
 
thaiduong271
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 21 July 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 235
Msg 30 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 7:08am | Đă lưu IP Trích dẫn thaiduong271

  TCS làm ǵ mà biết nhu đạo.....

nói TCS từng tập nhu đạo như thế hệ thanh thiếu niên ngày nay vài tháng hè tranh thủ tập chút cho khỏe người th́ c̣n tin được.Người tập nhu đạo lâu năm lên mức đai đen th́ tương mạo,vóc dáng sẽ có nét rất đặc thù của dân judo lâu năm....nh́n tướng đi và cơ thể của TCS th́ lam ǵ biết vơ vẽ.....



__________________
trăm năm một kiếp anh tài
giai nhân sắc nước trần ai sánh cùng
Quay trở về đầu Xem thaiduong271's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaiduong271
 
Capuchino
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 909
Msg 31 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 7:29am | Đă lưu IP Trích dẫn Capuchino

Tập nhu đạo có thời chứ đâu phải hết cả đời mà nh́n vào vóc dáng đoán này nọ được . Tư liệu đây tự xem đi rồi nghĩ xem cố nhạc sĩ họ Trịnh có tập nhu đạo hay ko nhá 

 http://vietbao.vn/Van-hoa/Mieng-don-khien-Trinh-Cong-S on-tro-thanh-nhac-si/11045009/104/


 http://www.toquoc.gov.vn/Print/Article/Neu-Nhu-Thetrin h-Cong-Son-Chet-Tan-2-Lan/pdf


__________________
Lữ hành đối với ta là một cách lánh đời theo lối vật chất,c̣n học hành là thoát tục bằng con đường trí tu
Quay trở về đầu Xem Capuchino's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Capuchino
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 32 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 7:39am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

    Chuyện đồn TCS có đai đen Nhu đạo được ghi hẳn hoi trong sách. Và không phải chỉ đc ghi bởi 1 lần, 1 người. Ngay như chuyện học Tú tài ban Triết Xát-xơ-lúp Lô-ba cũng vậy. Được ghi nhiều lần, bởi những người và sách uy tín (ít nhất uy tín hơn công bố trên diễn đàn tự do). V́ vậy, khó mà trách chị Ban Mai, khi chị cũng vin vào những cuốn sách mà chị cho là uy tín.

    Nhưng thử hỏi ai tin được người như thế có một chút vơ nghệ? Một người trói cẳng gà không chặt?

    Bởi vậy, v/đ đặt ra là: Đánh giá nguồn thông tin, đối chiếu, nghiên cứu, xác minh nguồn tin để có được một thông tin khả dĩ tin cậy. Bởi v́ ngay cả những cuốn sách rất đàng hoàng và những tác giả có tên tuổi phải chịu trách nhiệm của ḿnh trong những điều họ viết ra, vẫn có những cái sai rành rành.

     Vấn đề này chưa được các website lư số quan tâm. Và đuơng nhiên là cũng không hi vọng ǵ nó sẽ được quan tâm.

     Chúng ta nên nghĩ như thế nào trước các nguồn tin như trên?

    
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
dinhvantan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 September 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 6262
Msg 33 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 9:08am | Đă lưu IP Trích dẫn dinhvantan

Capuchino đă viết:

Tập nhu đạo có thời chứ đâu phải hết cả đời mà nh́n vào
vóc dáng đoán này nọ được . Tư liệu đây tự xem đi rồi
nghĩ xem cố nhạc sĩ họ Trịnh có tập nhu đạo hay ko
nhá   http://vietbao.vn/Van-hoa/Mieng-don-khien-
Trinh-Cong-S on-tro-thanh-nhac-si/11045009/104/
 http://www.toquoc.gov.vn/Print/Article/Neu-Nhu-Thetrin
h-Cong-Son-Chet-Tan-2-Lan/pdf


Có tập th́ đi theo Ông Cậu tên Lê Văn Tông, vợ lai Pháp,
tập chơi th́ có, có bị vật ngă bị thuơng rồi bỏ cuộc th́
có . Đai đen th́ không . Tôi biết cả Thầy dạy Judo cho Lê
Văn Tông và Lê văn Tông . Hồi đó chỉ có 1 nơi duy nhất
dạy Judo Huế là Lớp dạy Judo của người tuổi Ất Sữu mà tôi
có nói trong nầy .
Quay trở về đầu Xem dinhvantan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dinhvantan
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 34 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 10:10am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

    Thởi trẻ, c̣n chưa chín muồi, dễ ham thích cái này cái kia. Tập chơi, chứ đai đen ǵ mà đai đen. Đai đen đă có thể làm vơ sư. Nh́n ảnh TCS hồi trẻ đi.

    Tập chơi th́ được. Chứ người như thế mà mơ làm vơ sư th́ tôi nghĩ KHÔNG THÔNG MINH. Mà tôi chắc TCS chắc không thể KHÔNG THÔNG MINH.

     Nhu đạo th́ tên là "nhu" là mềm mại. Tên thế nhưng môn này cực mạnh. Ḱ thực môn này đối kháng cao, va chạm cực ḱ (c̣n mạnh mẽ hơn cả Không Thủ Đạo - bạn tôi là Huấn luyện viên Vơ thuật ở Trung tâm TDTT nói với tối). Người tập ngoài nhanh nhẹn, khéo léo, phải có sức và trọng lượng cơ thể khá nặng, chứ không như vơ Tàu, nếu không th́ không thể tận dụng những cú quật người, choàng vai hay làm mất trọng tâm của đối phương. Nh́n cơ thể ông Sơn th́ biết. Nói ông ta tập vơ Thiếu Lâm, Karatedo th́ c̣n may ra tin.
     
      Trong khi đó, Tạ Tỵ và Ng Tr T đều nói rơ "đai đen" (cái này phải thi đấu mới lên đai được). Lời đồn là thế, đôi khi khuyếch trương sự thật. C̣n thời trẻ dại, nghe thấy vơ là táy máy tập chơi. Cái này th́ có nhiều.




Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 18 August 2009 lúc 10:16am
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
tieuthiphi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 April 2009
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 124
Msg 35 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 10:29am | Đă lưu IP Trích dẫn tieuthiphi

Tặng anh longquang và anh hoacai để cuộc chiến đấu thêm sôi động thấy các anh lơ đ̣n hết!

Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong một gia đ́nh gốc Huế. Hai năm trước đó, bố mẹ ông lên đây lập nghiệp. Năm sau, sinh con trai đầu ḷng, không nuôi được. Năm tiếp theo, Trịnh Công Sơn chào đời, xem như con trưởng. Ông là anh cả của 8 người em trai và gái, người thừa kế quan trọng trong một gia đ́nh trung lưu. Cha ông là một doanh nhân yêu nước và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là một người đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế.

Năm 1943, khi ông lên bốn, gia đ́nh về lại Huế, ở tại vùng Bến Ngự, một vùng đất xanh tươi, bên ḍng sông An Cựu, nơi có nhiều chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời cầu kinh thấm vào hồn ông từ tuổi thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu v́ sao những ca từ của ông về sau mang đậm dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.



Khi ông được 8 tuổi, gia đ́nh ông có cửa hàng buôn bán xe đạp và xe máy tại Sài G̣n. Ông thường xuyên vào ra Sài G̣n – Huế. Lên trung học, Trịnh Công Sơn học ở Huế là trường Lycée Français, rồi đổi sang trường Providence, và tốt nghiệp tú tài ban Triết tại trường Chasseloup-Laubat, Sài G̣n. Điều đó chứng tỏ ông là một trong những trí thức thấm nhuần nền văn minh Pháp ngay từ khi c̣n rất trẻ, phần nào lư giải ảnh hưởng nền triết học phương Tây hiện đại, như Albert Camus, J. P. Sartre…, lên cuộc sống tâm thức ông. Người có công rất lớn trong việc đem triết học phương Tây hiện đại vào Việt Nam, gây nhiều ấn tượng và ảnh hưởng đối với thanh niên miền Nam Việt Nam những năm 50 là Gs. Nguyễn Văn Trung du học từ Bỉ về [1; 16-19].

Năm 1955, khi ông 15 tuổi, cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái chết đột ngột thảm khốc của người cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thường trực. Từ đấy, ông luôn suy nghĩ về sự sống và cái chết.

Hẳn người ta rất ngạc nhiên khi xem ảnh thời thơ ấu của ông. Chàng trai vui vẻ và khỏe mạnh giành nhiều giải thưởng khi thi đấu thể thao (chạy, cử tạ, judo) này là ai vậy? Điều ǵ sau đó đă đưa ông trở thành một nhà thơ – nhạc sĩ buồn bă và ốm yếu?

Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18 tuổi. Một tai nạn bất ngờ đă thay đổi tất cả cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học trung học, vào một ngày khi đang tập judo với người em trai, ông bị thương nặng ở ngực, suưt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Không ngờ thời gian nằm dưỡng bệnh này ông có nhiều th́ giờ rảnh rỗi, suy nghĩ về kiếp người, cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên. Để khuây khỏa nỗi buồn ông đọc ngấu nghiến Apollinaire, Marcel Pagnol, Jacques Prévert, Rabindranath Tagore, Marcel Proust, Nietzsche, Nikos Kazantzakis, Albert Camus, Jean Paul Satre… ông đặc biệt yêu thích những tác phẩm của Albert Camus, Truyện Kiều của Nguyễn Du và triết lư Phật giáo. Ông không chỉ tiếp cận với văn học, thi ca mà c̣n mày ṃ, t́m hiểu dân ca Việt Nam, âm nhạc của người da đen: blues, gospel v.v. [2]. Trịnh Công Sơn quyết định chơi đàn guitare và bắt đầu sáng tác. Những ca khúc đầu tiên mang tên “Sương đêm” và “Chơi vơi” đều chưa ấn hành [1; 18].

Ông từng thổ lộ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đă có một niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy h́nh như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đă ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy”[2].

Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhưng là một cái may cho nền âm nhạc Việt Nam. Nếu như không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông đă tiếp tục chơi thể thao, đi học tiếp và không chừng đă trở thành một ông bác sĩ, hay kỹ sư nào đó… và chúng ta sẽ không bao giờ có được một nhạc sĩ tài hoa như ngày nay.

Ca khúc được ấn bản đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài “Ướt mi”, sáng tác vào năm 1958 và công bố năm 1959, nói về giọt nước mắt thuần khiết của một người con gái. Đó là một cô ca sĩ mới 16 tuổi, xuất hiện về đêm ở pḥng trà Văn Cảnh – Sài G̣n, đi hát để nuôi mẹ. Mẹ cô bị bệnh lao nặng nên đêm nào khi hát bài “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong cô cũng khóc. Điều ấy đă gợi nguồn cảm hứng cho ông sáng tác “Ướt mi”. Tác phẩm này cho thấy sự thành công qua số lượng đĩa nhạc bán được. Người hát bài này đầu tiên cũng chính là cô ca sĩ ấy - ca sĩ Thanh Thúy – người mà sau này cũng rất nổi tiếng trong sự nghiệp ca hát trước năm 1975. Gs. Nguyễn Văn Trung đă từng viết bài “Ảo ảnh Thanh Thúy” để ca ngợi giọng ca đầy chất liêu trai của cô [3; 469].

Sau đó, đầu thập niên 60 là thời kỳ Trịnh Công Sơn sáng tác rất nhiều bản nhạc t́nh và đă trở thành những kiệt tác của ông. Ở Huế, thời gian này Trịnh Công Sơn lại rung động theo h́nh ảnh một thiếu nữ mảnh mai, con của một vị giáo sư dạy Pháp văn: Ngô Vũ Bích Diễm. H́nh ảnh này sẽ vương lại măi trong trái tim ông như một vết thương không bao giờ lành hẳn. Ca khúc nổi tiếng “Diễm xưa” ra đời, một ca khúc đánh dấu đặc biệt trong đời ông và có hậu vận bền lâu.

Những năm 62-64, chiến tranh Việt Nam ngày càng tàn khốc, thanh niên hầu hết đều bị bắt đi lính. Để hoăn quân dịch, Trịnh Công Sơn rời Huế thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn, trường mới thành lập và đây là khóa đầu tiên đào tạo giáo sinh trong hai năm. Nơi thành phố biển hiền ḥa, yên tĩnh này, Trịnh đă sáng tác những t́nh ca nổi tiếng như “Biển nhớ”, “Nh́n những mùa thu đi”, “Nắng thủy tinh”, “Chiều một ḿnh qua phố”, “Vết lăn trầm”, “Dă tràng ca”, “Cát bụi" [4; 33]. Những t́nh ca của Trịnh Công Sơn đă gây kinh ngạc cho mọi người thời đó, khi mà cả miền Nam c̣n quen với ḍng nhạc tiền chiến sướt mướt với “Kiếp hoa”, “Nỗi ḷng”, “Khúc nhạc tương tư” hay “Lá thư”, “Tạ từ”… th́ những h́nh ảnh mang đậm nét siêu thực, với những ca từ lạ hóa. Lạ từ nhan đề tới h́nh ảnh tân kỳ trong lời ca như: Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Lời buồn thánh. Rồi những h́nh ảnh mắt xanh xao, hồn xanh buốt, hai bàn tay đói, bàn tay chăn gió mưa… quả là độc đáo, mang nhiều màu sắc mới lạ, đă gây sự chú ư và liền chinh phục người nghe.

Năm 1964, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn, ông được điều lên Bảo Lộc dạy học. Thời gian này, cuộc chiến ở Việt Nam đă trở nên ác liệt. Năm 1965 quân Mỹ đặt bước chân đầu tiên lên miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của cả nước dâng cao. Giai đoạn 1965 – 1972, “nhạc phản chiến” trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài hát về thân phận con người trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn, kinh hoàng đầy chết chóc hàng ngày của người dân, từ những người mẹ, người vợ cho đến cụ già, em bé. Những bài hát của ông là tiếng kêu than thống thiết của con người trong cuộc chiến. Tiêu biểu như “Gia tài của mẹ”, “Hát trên những xác người", “Đàn ḅ vào thành phố”, “Người già em bé”, “Người con gái Việt Nam”, “T́nh ca người mất trí”… Cuối cùng có lệnh tổng động viên toàn quốc, không thể trốn tránh chui rúc măi, ông bắt buộc t́m cách làm cho ḿnh không đủ sức khỏe để đi lính. Hàng ngày ông phải nhịn ăn, và uống thêm diamox, một thứ thuốc rút bớt nước trong cơ thể làm cho sút kư nhanh, và ông đă “thành công” khi tự hủy hoại bản thân ḿnh với trọng lượng cơ thể không đầy 30kg. Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, chứng tỏ quyết tâm không tham chiến của ông, ông chống chiến tranh và phản đối nó [3; 180].

Dường như không khí thời đại đă thôi thúc ông trong việc sáng tác, và một gặp gỡ định mệnh giữa ông với ca sĩ Khánh Ly, người thể hiện tuyệt vời những nhạc phẩm của ông, đă làm nên tên tuổi ông từ đó. Theo tài liệu của ông Bửu Ư, vào năm 1965 tại Đà Lạt t́nh cờ Trịnh Công Sơn nghe Khánh Ly hát trong hộp đêm Tulipe Rouge. Ông biết ngay giọng hát của cô ca sĩ này phù hợp với những bản nhạc của ḿnh nên mời cô tham gia. Thời gian sau, Khánh Ly rời Đà Lạt và theo ông xuống Sài G̣n. Từ đó cô đă trở thành “Ca sĩ chuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn”. Hăy nghe ông nói về cuộc gặp gỡ này:

“Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn t́nh cờ, không phải riêng cho tôi mà c̣n cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của ḿnh đang viết và lúc đó tôi chưa t́m ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đă mời Khánh Ly hát và rơ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của ḿnh. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lư do cho phép ḿnh tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly” [5; 522].

Vào cuối năm 1965, buổi ra mắt đầu tiên của ông trước công chúng Sài Ṣn là khoảnh sân sau Trường Đại học Văn khoa, với hàng ngàn sinh viên và trí thức. Bằng chiếc đàn thùng đơn giản và giọng ca huyền thoại Khánh Ly, những bài t́nh tự quê hương và thân phận con người được hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt đêm đó.

Tác phẩm đă ḥa nhập vào quần chúng, là tiếng ḷng của quần chúng.

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng và rồi trở thành thần tượng của lớp trẻ lúc bấy giờ.

Trịnh Công Sơn, với dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng trí thức, giọng Huế nhỏ nhẹ, với cuộc sống bất định. Đêm đi hát, khuya về kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Quán Văn hay Hội Họa sĩ Trẻ. Bên cạnh đó h́nh ảnh Khánh Ly, khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất của một thời – giọng hát da diết diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”. Hai người đi với nhau tạo nên h́nh ảnh “đôi lứa”, một đôi trai-gái trong t́nh bạn hồn nhiên, trong sáng. Tạo thành một đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân c̣n đè nặng lên xă hội Việt Nam. Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, ṭ ṃ... Những tâm hồn phóng khoáng và “hiện đại” th́ gạt phăng đi loại “ṭ ṃ bệnh hoạn ấy” [12]. Và đặc biệt, Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Sơn nói: “Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn. Thương nhau vô cùng, trên t́nh bạn” [5; 529]. Khánh Ly viết: “Một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những t́nh cảm đời thường” [5; 112].

Nhưng trên hết, chính h́nh ảnh Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, trường học, đă tạo ra một h́nh ảnh lư tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lư tưởng nhân đạo và t́nh yêu thể hiện sự dấn thân của người nghệ sĩ. Trong khi đó, đa số các ca sĩ, nhạc sĩ khác hát để lấy tiền. Trong một lần trả lời phỏng vấn nhà báo Bùi Văn Phú, Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực đói khổ nhưng đầy hạnh phúc những năm 60 ấy: “Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát th́ tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy ḿnh thực là hạnh phúc, cảm thấy ḿnh sống khi ḿnh được hát những t́nh khúc của Trịnh Công Sơn” [16].

Năm 1969 nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng khắp thế giới, ông được xem là một Bob Dylan của Việt Nam. Năm 1970 Bài “Diễm xưa” được vào chung kết cuộc thi các bài hát nước ngoài ở Nhật, bài “Ngủ đi con” chiếm “đĩa vàng” và đă phát hành trên hai triệu đĩa [1; 27].

Trịnh Công Sơn từ đó trở thành thần tượng - kẻ du ca bất khuất - trên đất nước đầy bom đạn. Những sáng tác tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ, trong tập Kinh Việt Nam hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân danh Việt Nam là tiếng kêu gọi ḥa b́nh và thống nhất đất nước. Những tác phẩm của ông bị chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cấm phát hành. Bản thân ông bị truy lùng, bắt bớ. Nhưng ông được nhiều trí thức và quần chúng cưu mang. Trong đó có đại tá Lưu Kim Cương một sĩ quan cao cấp trong không quân miền Nam Việt Nam đă che chở và giúp đỡ ông rất nhiều trong thời gian khốn khó ấy. Sau khi đại tá Lưu Kim Cương mất, ông viết bài “Cho một người nằm xuống” để tri ân một người bạn đă từng cưu mang ḿnh và chính bài hát này về sau là nỗi khổ của ông.

Tháng 4/1975, chiến tranh chấm dứt, ông là người đầu tiên lên Đài Phát thanh Sài G̣n hát vang bài “Nối ṿng tay lớn”, một bài hát nói lên niềm khao khát ḥa b́nh, thống nhất. Ước mơ ḥa hợp dân tộc hai miền Nam-Bắc, được ông viết từ năm 1968.

Ngày 30/4 người thân ông ra đi, bạn bè ông ra đi, Khánh Ly rời đất nước trước ngày Sài G̣n sụp đổ. Ông ở lại, bởi v́ đó là logic của một con người ước mơ được nh́n thấy: ngày ḥa b́nh thống nhất trên quê hương.

Bàn tay thân ái
Ḷng không biên giới
Anh em ơi lắng nghe t́nh nhau
Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu
Mẹ dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu
Cho hai miền trùng phùng ḷng thấy nao nao
Ngày Nam đêm Bắc
T́nh chan trong mắt
Sẽ thấy trăm b́nh minh ngọt ngào

(“Huế-Sài G̣n-Hà Nội")

Tại sao ông ở lại Việt Nam?

Trước ngày 30/4/1975 có nhiều lời mời đưa ông ra nước ngoài của các hăng Thông tấn quốc tế. Ông nói: “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể sống và sáng tác. Ở nước ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu ḿnh, tôi không nghe được câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nước ngoài, nhưng nếu ở lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống như nước cần thiết cho hoa vậy” [1; 140].

Thế nhưng, t́nh h́nh của Trịnh Công Sơn thật khá tế nhị trong thời kỳ sau 1975. Những ngày đầu sau cuộc chiến, không khí chính trị c̣n ấu trĩ, tả khuynh quá đà của một số người trong chính quyền Cách mạng. Ông bị coi là một nghệ sĩ của chế độ “mục nát” của miền Nam.

Theo nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân, giai đoạn sau tháng 4/1975 “Đối với lănh đạo th́ không có vấn đề ǵ, nhưng có nhiều ‘anh em phong trào’ ở Sài G̣n không thích quan điểm lập trường chung chung của Trịnh Công Sơn trước đây” [4; 97]. V́ vậy, để thoát khỏi “không khí nghi kỵ” ở Sài G̣n lúc ấy, Trịnh Công Sơn về Huế. Thế nhưng, thời gian đó một số phần tử quá khích theo phong trào “Vệ binh đỏ” của Trung Quốc đă kích động sinh viên treo một tấm banderole to tướng mang ḍng chữ xanh rờn: “Hạ bệ Phạm Duy – Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn” trước trường Đại học Sư phạm Huế. Ông sững sờ và câm lặng. Không ngờ về quê hương ông lại bị giội một gáo nước lạnh như thế. Và tiếp theo là cuộc tọa đàm luận tội “Trịnh Công Sơn có công hay có tội” tại Hội Văn nghệ Thừa Thiên – Huế. Hôm ấy có cả Trần Hoàn, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Viết Ngạc và vài người nữa… Có người lên án, nhưng cũng có người bảo vệ. “Tội” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là ông đă làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng dân tộc trong bài “Gia tài của mẹ” với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Thậm chí ông c̣n làm nhạc ca ngợi địch trong bài “Cho một người nằm” xuống thương tiếc đại tá không quân Sài G̣n Lưu Kim Cương tử trận – người đă từng cưu mang ông. Nhiều người phát biểu biện hộ cho Trịnh Công Sơn: “Đúng là Trịnh Công Sơn đă làm nhiều bản nhạc phản chiến, anh được mệnh danh là người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy giống như Bob Dylan, Joan Baez ở bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do, anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc trong vùng tạm chiếm, người nghe nhạc phản chiến của anh là lính Cộng ḥa. Rất nhiều lính của Thiệu đă bỏ ngũ v́ nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh. Chẳng có người lính cách mạng nào bỏ ngũ v́ nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả. Cũng như ngày xưa bên Trung Quốc, Trương Lương thổi sáo đâu phải để cho quân ḿnh buông kiếm! Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu ra lệnh tịch thu những bài hát của Sơn” [4; 98-101]. Và chính xấp tài liệu đăng lệnh của cựu Tổng thống Thiệu cấm phổ biến nhạc Trịnh Công Sơn, lệnh cấm mang số 33 ngày 8.2.1969, đă có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự tọa đàm. Sau cuộc tọa đàm, Trịnh Công Sơn phải viết kiểm điểm. Hồi ấy, những bản kiểm điểm nói không đúng vấn đề thường bị viết lại. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh hoạt này nên rất đau khổ và tuyệt vọng, chán chường.

Trong thời hậu chiến này, cả nước rất khó khăn và như bao người Việt khác, Trịnh Công Sơn cũng được điều đi lao động sản xuất, khi th́ trồng khoai lang, lúc cấy lúa trên những cánh đồng đầy bom đạn chưa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác được, làm sao một người làm t́nh ca mang tính triết lư trừu tượng nổi tiếng lại một sớm một chiều có thể chuyển mạch bắt sáng tác theo “hiện thực xă hội chủ nghĩa được” [4; 103].

Bên cạnh thực tế ấy, Trịnh Công Sơn lại không đủ sức chống đỡ với những thế lực khác kèn cựa tài năng ḿnh. Có người c̣n tuyên bố xanh rờn: “Ca khúc mà như của Trịnh Công Sơn th́ một ngày ḿnh có thể làm đến mười bài!” [4; 115].

Hiểu được bi kịch của ông, và biết rơ tài năng, nhân cách của người nhạc sĩ tài hoa này, một nhà lănh đạo nổi tiếng ở phía Nam đă đánh tiếng gọi ông về lại Sài G̣n. Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giă Huế vào Sài G̣n [4;113].

Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng như: “Chiều trên quê hương tôi”, “Em c̣n nhớ hay em đă quên”, “Huyền thoại mẹ”, “Hà Nội mùa thu”, “Tiến thoái lưỡng nan”, “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, “Lặng lẽ nơi này”, “Xin trả nợ người", “Lời thiên thu gọi"… Những sáng tác này thường là t́nh ca, không có bài hát nào liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho các phim. Những tác phẩm sau này thường nói lên thân phận con người, kiếp người trong cơi tạm, mang đậm chất Thiền.

Năm 1983, Trịnh Công Sơn chuẩn bị cưới vợ lần thứ nhất, người phụ nữ ấy có tên là C.N.N sống ở Paris, Pháp. Thư từ Sài G̣n gửi cho Bửu Ư ngày 30.7.1983 Trịnh viết: “Moi sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Cố gắng vào th́ vui hơn” nhưng dự định cưới vợ không thành [1; 33].

Tháng 5.1985 Trịnh Công Sơn sang thăm Moskva.

Năm 1989, ông sang Pháp theo lời mời của Nhà Việt Nam tại Paris. Tại đây, ông tham dự các chương tŕnh giới thiệu tác phẩm của ḿnh, ông b́nh luận và hát một vài đoạn nhạc. Ông đă gặp Khánh Ly tại Paris sau 14 năm xa cách, tuy nhiên không thể tổ chức được ǵ dù có sự hiện diện của hai nhân vật nổi tiếng một thời này, v́ ở hải ngoại một số người cực đoan cũng bài xích ông là “kẻ hèn nhát, kẻ phản bội quốc gia” [6; 270-283].

Năm 1990, Trịnh Công Sơn chuẩn bị cưới vợ lần thứ hai, người phụ nữ này là V.A, lễ cưới đă chuẩn bị xong, cô dâu đă may áo cưới, nhưng đến phút cuối ông lại khước từ hạnh phúc. Trong t́nh yêu ông vẫn là chàng lăng tử cô độc “Từng người t́nh bỏ ta đi như những ḍng sông nhỏ”… cho đến cuối đời.

Năm 1992, sau khi mẹ mất, ông suy sụp hoàn toàn, ông sang Canada thăm những người em, để mong t́m chút hơi ấm t́nh thân. Trịnh Công Sơn viết: “Khi một người mất mẹ ở tuổi 50 điều ấy có nghĩa là không c̣n ǵ có thể dàn xếp được. Cái sa mạc để lại trong ḷng bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cơi ḷng bạn th́ tan nát như một cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn băo lớn” [14; 9].


Những năm 90 sau thời kỳ đổi mới của đất nước, nhạc của ông lại được hát rất nhiều trong các chương tŕnh ca nhạc, chủ yếu là những bản t́nh ca. Những bài hát phản chiến rất hay của ông vẫn là điều tế nhị cấm lưu hành. Năm 1995, ông sáng tác bài “Sóng về đâu” một bài hát nói về t́nh yêu lấy cảm hứng từ câu kinh đạo Phật mà ông rất thích. “Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha” (Yết đế, Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha). Trịnh Công Sơn dịch ra chữ quốc ngữ đại để là: “Vượt qua, vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ” [7].

Cuối năm 1999, sau 36 năm ra trường, lần đầu tiên ông trở lại Trường Sư phạm Quy Nhơn cùng nhóm “Những người bạn” dịp Quy Nhơn tổ chức kỷ niệm Thành phố 400 năm tuổi. Cùng đi với ông lúc ấy có các nhạc sĩ tên tuổi khác như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Thanh Tùng, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên… Đó là một đêm đầy cảm động. Cả hội trường Đại học Quy Nhơn nghẹt kín sinh viên. Có những bài ông vừa hát, khán giả phụ họa hát theo như một dàn đồng ca đă được tập dượt trước. 12 giờ đêm chương tŕnh chấm dứt nhưng các sinh viên vẫn quây lấy ông chụp h́nh kỷ niệm. Ông xúc động kể lại những năm tháng ông học tại Sư phạm Quy Nhơn thời 62-64, và hát say sưa không biết mệt.

“Festival Huế 2000” là một sự kiện văn hóa của cả nước, Trịnh Công Sơn về Huế tham dự. Trở lại Sài G̣n, ông ngă bệnh phải đưa vào bệnh viện. Những năm sau này ông thường xuyên bị bệnh. Sức khỏe giảm sút rơ rệt.

Ca khúc cuối cùng ông sáng tác trên giường bệnh là bài “Biển ngh́n thu ở lại". Và ngày 01/4/2001 Trịnh Công Sơn qua đời, “con chim nhỏ hát chơi trên đầu ngọn lau” không c̣n nữa, vết chim hạc để lại trên cơi trần đúng 62 năm.

Cái chết của Trịnh Công Sơn làm chấn động những người dân Việt cả trong nước và ngoài nước. Hàng triệu trái tim lặng lẽ khóc thương, hàng ngàn người đi sau linh cữu ông, chưa có một đám tang nào mà mọi người lại yêu thương nhau đến vậy, tất cả cùng nắm tay và hát trong nước mắt bài “Cát bụi" và “Một cơi đi về” theo tiếng kèn thống thiết của Trần Mạnh Tuấn.

Người đời tinh lắm, Trịnh Công Sơn đă cho cuộc đời trái tim ông, ngày ông mất người đời đă cho lại ông tất cả.

“Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh này tiếng hát sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay qua các lục địa, các đại dương, mang trong ḷng nó t́nh yêu và t́nh nhân ái. Cái sứ mệnh huy hoàng nhất của nó là phải mang được cái thông điệp ấy đến với từng con tim. Không những chỉ với những tâm hồn vốn yêu chuộng ḥa b́nh mà cả những con tim đang ngộ độc bởi những ng̣i thuốc nổ” [4; 189-190].

2. Vết chân dă tràng ngàn năm in dấu

Ngày tôi chào đời, nhạc của Trịnh Công Sơn đă nổi tiếng khắp miền Nam. Ngay từ thời thơ ấu, tôi đă thuộc ḷng những bài hát của ông. Ngày ấy, dù không hiểu ǵ về ca từ bài hát nhưng qua tiếng hát của những người chị ngâm nga, hàng ngày, hàng ngày nó thấm vào tim tôi “Mẹ ngồi ru con/Đong đưa vơng buồn/Đong đưa vơng buồn/ Mẹ ngồi ru con/ Mây qua đầu ghềnh/Lạy trời mưa tuôn”… “Đại bác ru đêm dội về thành phố / Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe/”. Thời ấy, thế hệ chúng tôi ai lại không thuộc nhạc của ông, khi hàng đêm chúng tôi vẫn thường nghe tiếng súng nổ, tiếng hỏa châu rơi… giai điệu buồn bă, đều đều như tiếng cầu kinh ấy, đă quá quen thuộc. Đến khi lớn lên, khi bắt đầu hiểu biết và trải nghiệm cuộc đời, những ca từ thấm đẫm t́nh yêu thương và thân phận con người của Trịnh Công Sơn đă là người bạn đồng hành cùng tôi trong từng chặng đời. Nó như một thứ bùa mê mà mỗi con người đều mang theo để làm cứu cánh khi thấy ḷng cô đơn, buồn khổ, hay trong những lúc hân hoan, say đắm.

Không chỉ riêng tôi, trên đất nước Việt Nam này, ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn rất to lớn, gần như người dân Việt nào cũng đều thấy ḿnh trong từng bài hát của ông. Ông nói hộ cho con người những âu lo, những ṿ xé, những thao thức, những đớn đau, những tiếc nuối, những ngỡ ngàng và cả những hoài nghi, những mê đắm… về thân phận con người, về chiến tranh nhân loại, về t́nh yêu thương gắn bó, về sự tan nát chia xa… ông đi cùng với họ, an ủi, tâm t́nh bên họ. Có ông cuộc đời như vơi bớt niềm đau, cái chết cũng không c̣n ghê gớm nữa. V́ ông đă giúp họ hiểu ra sự thật của kiếp người. Vậy th́, tại sao không sống thanh thản cho đời nhẹ nhàng hơn.

Trước năm 1975, mặc dù nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn bị chính quyền miền Nam cấm đoán, nhưng nhạc của ông vẫn được hát không chính thức trên các giảng đường, trường học, hộp đêm. Những bài t́nh ca, những bài t́nh tự quê hương dân tộc vẫn được thu băng và bày bán khắp các đường phố. Có không ít người miền Nam Việt Nam vào thời đó thuộc bài hát của ông, từ người già đến em bé, từ trí thức đến người b́nh dân.

Để hiểu rơ điều đó, hăy nghe nhận định của Hoàng Nguyên Nhuận: “… nếu Huế là thánh địa của Phật giáo và nếu bản nhạc Phật giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, th́ Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động ḥa b́nh, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại tại các thành phố miền Nam …” [8; 180].

Trong luận văn viết về đề tài “Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn”, cô Yoshii Michiko có đề cập đến một tư liệu của Kondo Koichi, đặc phái viên chiến tranh tờ SanKei của Nhật - có văn pḥng tại Sài G̣n trước 1975 - đă từng nhắc đến hiện tượng này: “Diễm xưa”: thiên tài Trịnh Công Sơn đă soạn ra giai điệu của bài hát này, bài hát đă được cả miền Nam Việt Nam yêu thích. Người ta nói rằng nữ ca sĩ Khánh Ly, cũng là một trong những tài năng mà người ta chỉ gặp một lần trong suốt 100 năm. Bài hát này bị cấm dưới chế độ ông Thiệu sau khi phát hành không lâu. Lối ẩn dụ chống chiến tranh ở đây quá đặc biệt. Và trong số họ có một người cấp bậc đại úy dường như anh đă có lư khi chứng tỏ sự hiểu biết của ḿnh về điều đó. Thực tế, một vị đại tá của một trung đoàn có nhiệm vụ bảo vệ Đà Lạt đă nói: “Nghệ thuật là nghệ thuật. Phản chiến hay không, người ta không cần biết”. Và đă không nghe theo lệnh của tổng hành dinh. Ngược lại, ông đă khích lệ cả những binh lính của ông, hát những kiệt tác của “thiên tài duy nhất mà miền Nam Việt Nam có thể ca ngợi với thế giới.”

Một nhà báo Nhật khác thường lui tới hộp đêm của Khánh Ly trên đường Tự Do kể: “Hàng đêm vào đầu giờ, người ta chỉ nghe những bài hát cho phép, nhưng đêm gần tàn, Khánh Ly bắt đầu hát những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, và trên thực tế, công chúng chỉ đến để nghe những bài hát này” [9].

Điều đó chứng tỏ, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn dù đă bị cấm đoán trong thời chiến tranh nhưng người dân vẫn hát vang trên khắp phố phường, làng mạc. Vẫn được đánh máy, in ronéo chuyền tay nhau trong các phong trào thanh niên và ngay cả trong những sĩ quan cao cấp của chính quyền miền Nam.

Nhạc Trịnh Công Sơn ảnh hưởng rộng răi ở miền Nam trước 1975 chúng ta đă biết, thế c̣n ở miền Bắc th́ sao? Những nhân chứng dưới đây giúp chúng ta sáng tỏ:

Văn Cao viết: “…tôi đă gặp Sơn từ những ngày đất nước c̣n chia hai miền và c̣n ch́m trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn… Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu?) hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi–ta duy nhất có trong nhà” [10; 17].

Nhà thơ Nguyễn Duy kể rằng, ở dọc Trường Sơn, bộ đội Miền Bắc cũng đă từng nghe t́nh ca của Trịnh: “Mặt trận Đường Chín–Nam Lào (1971)… trong căn hầm kèo bên ḍng sông Sêbănghiêng… Nghe, nghe trộm – vâng, lúc đó gọi là nghe trộm đài Sài G̣n, t́nh cờ “gặp” Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly… Diễm xưa… Mưa vẫn mưa rơi… làm sao em biết bia đá không đau… Quỷ thật! Giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên “ghim” lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như cánh vạc bay… Quái thật!… Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy… ừ th́ có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy… nhưng c̣n là cái ǵ lành mạnh nảy nở trong đó. H́nh như là cái đẹp. Cái đẹp trong câu nhạc. Cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn thơ. Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rơ ràng là đẹp, đẹp làm sao… và để lại cái ám ảnh thẩm mỹ” [11; 44].

Nhà văn Nguyễn Văn Thọ, trước đây là bộ đội miền Bắc, hiện ở Berlin viết: “Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt. Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài G̣n. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lăng đăng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau ḥa b́nh. Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một t́nh yêu đồng loại, giống ṇi, yêu bè bạn, ḥa b́nh, đạo lư. Nó lạ, v́ lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó.”

Và đáng quư hơn nữa, nhà văn này đă ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài G̣n trưa ngày 30/4/1975, ông nghe Trịnh Công Sơn đang hát bài “Nối ṿng tay lớn” trên đài phát thanh Sài G̣n: “Mặt đất bao la… anh em ta về… gặp nhau trong băo lớn quay cuồng trời rộng… Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường thấy của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài G̣n… Nối ṿng tay lớn. Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô h́nh đă làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đóa. Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh” [12].

Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao? Văn học nghệ thuật Việt Nam đă bao nhiêu lần đóng vai tṛ đó? [12]

Sau năm 1975, một thời gian dài nhạc Trịnh bị cấm biểu diễn kể cả những bài t́nh ca và những bài t́nh tự quê hương, dân tộc. Cho đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 - thời mở cửa, nhạc Trịnh Công Sơn mới được chính thức phổ biến. Tuy nhiên, trong những năm chính quyền không cho phép, mặc nhiên người dân ở cả hai miền Nam – Bắc vẫn nghe nhạc của ông trên khắp nẻo đường đất nước, từ những nơi núi rừng heo hút cho đến chốn thị thành.

Nhạc của ông cũng truân chuyên như cuộc đời ông vậy.

Nguyễn Đắc Xuân kể lại rằng: “Sau ngày thống nhất đất nước, cùng với hàng hóa tiêu dùng của miền Nam, các băng nhạc của Trịnh Công Sơn bắt đầu xâm nhập giới trí thức miền Bắc. Đứng trên lầu 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội) – Cơ quan Văn nghệ miền Bắc, tôi nghe vang vọng từ phía Nhà xuất bản Văn học một gia đ́nh nào đó mở “Gia tài của mẹ”, “Nối ṿng tay lớn”… của Trịnh Công Sơn” [4; 123].

Đi từ Nam ra Bắc, chúng ta dễ dàng bắt gặp những quán cà phê mang tên “Nhạc Trịnh” hay mang tên tựa đề bài hát của ông: “Hạ trắng”, “Diễm xưa”, “Biển nhớ”… Dấu ấn ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn c̣n bàng bạc trên văn chương của người đương thời.

Ngày nay, đi đến bất cứ nơi đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng người Việt sinh sống, th́ nơi đó có nhạc Trịnh Công Sơn. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết: “Hơn mười năm qua, đi đâu, bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước, nơi nào có người Việt Nam, là nơi đó tôi được nghe nhạc Sơn. Nhớ năm 1987, trong dịp sang Đông Berlin, khi tôi vừa ngồi yên trong xe, th́ anh bạn lái cho tôi bảo: “Nghe Trịnh Công Sơn nhé?”. “Có à?”. Tôi ngạc nhiên. “Sao lại không!” và giọng của Khánh Ly “Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ…” lại cùng tôi vang trên các nẻo đường Đông Berlin trong đêm thu.”

Tại Paris, quận 13… Một hôm tôi đến, vào một quán phở, một cái quán có nhiều khách chống Sơn: lạ, tôi lại nghe họ mở nhạc của Sơn. Rồi đầu tháng 7.1989 ngồi trong một quán ăn Việt Nam ở New York, trong ánh đèn mờ, tôi cũng lại nghe nhạc của Sơn… Hóa ra người ghét Sơn, chống Sơn vẫn không thể không nghe nhạc Sơn. Từ đó, có thể nói, nghệ thuật của Trịnh Công Sơn đă vượt qua khỏi sự hằn thù…” [6; 273-274].

Hăy nghe những lời phát biểu về tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật: Gần nửa thế kỷ sáng tác ca khúc, hành tŕnh của Trịnh Công Sơn là hành tŕnh của một trái tim yêu người, yêu giống ṇi, luôn luôn t́m cách trả lời những câu hỏi không phải của khối óc mà là câu hỏi của chính trái tim anh đặt ra, trong đó, sự trăn trở giữa cái bản ngă và phi bản ngă là sự trăn trở thường trực… các nhà thơ từ Nam đến Bắc đều coi anh là thi sĩ [13; 455].

Nhà văn Phạm Thị Hoài: Thế kỷ vừa rồi hiếm khi cho chúng ta một nghệ sĩ đặc biệt như thế. Ông không phải là một trong những nhạc sĩ lỗi lạc nhất, song hầu như không ai khác từ lúc sinh thời đă để lại một ảnh hưởng rộng răi như vậy với người làm nhạc và người nghe nhạc Việt Nam. Ông không phải là một ca sĩ trứ danh, song ông đă được so với Bob Dylan, và đem lại cho danh hiệu kẻ du ca một ư nghĩa hiện đại. Ông không phải là một trong những nhà thơ sáng giá nhất, song cách ông đặt lời bài hát đă thành một trường phái và dựng nên một phong cách ngôn ngữ xứng đáng được ghi nhận trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông không phải là một trong những chiến sĩ của ḥa b́nh, tự do và nhân phẩm kiên cường nhất, song với đông đảo bạn hữu và quần chúng, ông đă tượng trưng cho những giá trị ấy… [13; 457].

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bài “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người t́nh lăng du của nhiều thế hệ”, đă tự hỏi: “… v́ sao mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của anh không chỉ là giàu chất thơ người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lư về cuộc sống, về t́nh yêu, về sự sinh ra và trở về cát bụi của phận người ngắn ngủi… Khi được nhờ chọn một số bài thơ t́nh hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đă tâm đắc tiến cử lời bài ca “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn. Nhưng những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, th́ nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và t́nh yêu” [19; 171].

Đó là nhận định của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Và chúng ta hăy nghe t́nh cảm chân thành của những con người b́nh thường khác, đó là những người mẹ nhọc nhằn, những cô gái ăn sương, những em bé không hề biết ông là ai, nhạc Trịnh Công Sơn đă ảnh hưởng họ như thế nào:

“Bà mẹ vợ của tôi, chồng bị bệnh nằm một chỗ đă nhiều năm, một tay nuôi 8 đứa con dại. Mùa hè năm 1975, cậu con trai thứ hai lại bị mất tích trên đường theo bộ đội vào giải phóng Sài G̣n. Bà hết sức đau khổ. Hằng ngày đứng nấu cơm rửa chén phục vụ gia đ́nh bà tự an ủi ḿnh với “Cỏ xót xa đưa”. Bà mẹ đẻ của tôi ở Đà Lạt, hơn nửa đời người vất vả nuôi con, cuối đời rất sùng đạo Phật. Bà thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn v́ bà cho rằng nhạc Trịnh Công Sơn có hơi hám “cát bụi giải thoát”. Người ta nói âm nhạc Trịnh Công Sơn chỉ thích hợp với tuổi trẻ. Các bà mẹ tôi không c̣n trẻ nữa mà cũng thích nhạc Trịnh Công Sơn. Các bà thích không v́ tuổi c̣n yêu mà chính là nhạc Sơn đă nói hộ các bà về thân phận của kiếp người sống trong cơi tạm. Các bà mẹ tôi thích nhạc Trịnh Công Sơn khi chưa biết Trịnh Công Sơn là ai. Cũng giống như các em bé trên miền núi huyện Hướng Hóa (Quảng B́nh) vào những đêm trăng quây quần giữa sân hát vang “Em sẽ là mùa xuân của mẹ, em sẽ là màu nắng của cha…”, các em không biết tác giả bài ca ấy là ai. Các em cũng không cần biết tác giả làm ǵ. Các em chỉ cần biết lời của bài ca đó chính là ước mơ của các em” [4; 123-124]. Ngoài ra, c̣n có một chứng từ khác của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về các cô gái ăn sương: “Cách đây mấy năm, một đêm khuya tôi vừa uống rượu về, ngang qua công viên nhà thờ Đức Bà, Sài G̣n; từ sau một gốc cây, một cô gái mặc áo hồng bước ra, kéo tay tôi. Tôi ôn tồn từ chối. Liền sau đó, một cô áo đỏ, rồi áo lục… toàn là nhan sắc hương phấn, giống như trong Hồng lâu mộng. Tôi liền khoát tay ra hiệu ḿnh bị nhiễm HIV nặng, các em lập tức dăn ra… Lúc này tôi mới để ư tới giọng hát khe khẽ từ bóng tối bên vệ đường… một cô gái áo đen… vẫn ngồi đấy từ đầu. Không thèm bận tâm ǵ tới cuộc ríu rít của những “đồng nghiệp” của cô vây quanh tôi, chỉ mải ch́m đắm trong giai điệu của bài hát mà cô yêu thích, và tôi nghe rơ: “Đi về đâu hỡi em. Hăy lau khô ḍng nước mắt. Đời gọi em biết bao lần”. Tôi thầm hiểu rằng đến với cô gái bất hạnh trong phận người lúc này, quả không thể là Phạm Duy hoặc bất cứ nhạc sĩ nào khác, mà chính là Trịnh Công Sơn” [14; 93-94].

Những bài hát của Trịnh Công Sơn đă phổ biến và ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong ḷng người dân Việt Nam, mà c̣n lan xa trên thế giới.

Ở Mỹ, người ta coi ông như là một Bob Dylan của người Việt và ông được mời sang sống ở đó như là một người dân di tản với mức thu nhập bảo đảm cuộc sống an nhàn.

Ở Pháp, Mỹ, Nga, Đức, Nhật có nhiều bài báo viết về Trịnh Công Sơn như nhà báo Jean- Claude Pomonti, Jacques Boyer (Pháp), Murray Hiebert, Jon Liden, John Schafer (Mỹ), Frank Gerke (Đức), Irina Zisman (Nga)… và nhiều bài hát được dịch sang tiếng Pháp, Nhật [1; 123 -146].

Năm 1970 ở Nhật Bản, bài “Diễm xưa” được tuyển vào ṿng chung kết những bài hát hay của nước ngoài và bài “Ca dao Mẹ” được giải “đĩa vàng” và bán được hai triệu bản. Tiếp theo thành công này, vào năm 1972, Mainichi Broadcasting đă đề nghị Trịnh Công Sơn sáng tác một bài hát đặc biệt dành tặng cho Hiroshima và Nagasaki. Và Trịnh đă sáng tác ca khúc “Như tiếng thở dài” [9]. Nhạc Trịnh đặc biệt được người Nhật yêu thích, v́ những giai điệu bài hát của ông như những lời ru rất gần gũi, quen thuộc với người Nhật.

Năm 1980 ca khúc “Diễm xưa” và bản dịch Utsukushii Mukashi được đài truyền h́nh lớn nhất ở Nhật NHK chọn làm nhạc phẩm chính cho một bộ phim nội dung tŕnh bày những khác biệt văn hóa giữa một người Nhật có vợ Việt Nam. Tháng 7/2004 “Diễm xưa” trở thành nhạc phẩm châu Á đầu tiên được Viện đại học Kansai Gakuin đưa vào chương tŕnh giáo dục của Viện đại học trong bộ môn Văn hóa và Âm nhạc [18].

Năm 2004, “Giải thưởng âm nhạc ḥa b́nh thế giới” (WPMA) được trao cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn v́ lư tưởng ḥa b́nh mà ông đă đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại.

Tên ông được ghi trong bộ bách khoa Le Million của Pháp (tập 8 trang 122, Genève 1973).

Tại sao âm nhạc của Trịnh Công Sơn lại có sức sống, sức lan tỏa vượt thời gian và không gian như vậy?

Viết về nhạc Trịnh Công Sơn, Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra”. Nhạc sĩ Phạm Duy: “… toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối v́ nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại”. Các nhạc sĩ phần đông cùng nhận xét, nhạc của Trịnh Công Sơn rất đơn giản, không có ǵ chuyên môn, chủ yếu là hai gam La và Mi. Vậy th́, chỉ với nhạc không, ta sẽ chỉ có một Trịnh Công Sơn nhạc sĩ b́nh thường, không trở thành một hiện tượng độc đáo nhất trong lịch sử ca nhạc và cả trong lănh vực văn học như hiện nay.

Vậy th́ tại sao là nhạc Trịnh Công Sơn?

Một nghịch lư là ở đây: “Nhạc của Trịnh Công Sơn hay là nhờ ở ngôn ngữ Trịnh Công Sơn. Nếu không thích hát, ta có thể dở bất cứ một bài hát nào của Trịnh Công Sơn và đọc, y như đọc thơ. Ta sẽ thưởng thức các ca từ đó như bài thơ. Và thế cũng đủ.” [15; 55]. Trịnh Công Sơn được xem là phù thủy ngôn ngữ, tiếng Việt qua thơ ông trở nên mới lạ và độc đáo.

Ở đây, chúng ta lại có một câu hỏi, thơ hay th́ không chỉ có Trịnh Công Sơn, trước năm 1975 và hiện nay chẳng hạn, tại sao chúng không nổi tiếng bằng Trịnh Công Sơn?

Điều đó dẫn đến một nghịch lư thứ hai: thơ Trịnh Công Sơn hay là v́ chúng biến thành âm nhạc, thành nhạc và phổ biến rộng khắp [15; 55]. Chúng ta biết, nhiều bài thơ hay, trở thành phổ biến và được công chúng đón nhận là nhờ được phổ nhạc, nghĩa là biến thành âm thanh. Chẳng hạn bài thơ “Đưa em t́m động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư. Bài thơ “Ngậm ngùi” của Huy Cận, mấy ai biết. Vậy mà đến khi Phạm Duy phổ nhạc hai bài thơ trên trở thành những bài hát nổi tiếng một thời trước 1975. Hay bài thơ “Cuối cùng cho một T́nh yêu” của Trịnh Cung ít ai biết, thế nhưng khi Trịnh Công Sơn phổ nhạc th́ được phổ biến rộng răi.

Ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn là những bài thơ. Y như bất cứ một bài thơ nào khác. Có điều chúng tự biến thành âm thanh cùng lúc sáng tác. Đó là những “bài thơ âm” (Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ v́ vậy). Chúng có cùng với nhạc. Có thể nói chúng là nhạc. Chúng được sáng tác cho nhạc, nhưng không phải là những bài thơ phổ nhạc.

Trịnh Công Sơn tự nhận xét: “Ca khúc đối với tôi là một mô h́nh gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc”. Đúng, một cuộc hôn phối giữa thi ca và âm nhạc thật nhuần nhuyễn, diệu kỳ.

Theo ông Trần Hữu Thục, nó c̣n là một cuộc hôn phối khác, hôn phối giữa Trịnh Công Sơn và thời đại của ông. Đó là một giai đoạn bùng vỡ mọi mặt. miền Nam Việt Nam từ cuối 1963 đến tháng 4/1975 không khi nào yên tĩnh. Bom đạn, biểu t́nh, đảo chánh, pháo kích, giới nghiêm, băi khóa, hội thảo. Các phong trào, đảng phái mọc lên như nấm. Các xu hướng chính trị, tôn giáo, triết học phát triển rầm rầm rộ rộ: hiện sinh, cộng sản, Phật giáo, Thiên chúa giáo, tả khuynh, hữu khuynh, phân tâm, thiền, cách mạng tính dục. Cả một xă hội trần truồng phô bày toang hoác. Các tệ nạn xă hội được dịp phát triển kinh khiếp: tham nhũng, đĩ điếm, ăn cắp, giết người… Thời đại tướng lĩnh sợ sinh viên, bộ trưởng sợ thầy chùa. Một giai đoạn lịch sử tự do bung phá. Mọi tháp ngà bị đạp vỡ, mọi đường ranh bị băng qua. Tất cả các tiêu chuẩn chân lư bị xét lại. Tuổi trẻ đứng cheo leo trên đường biên. Đó là thời kỳ của khai mở và bi kịch. Trịnh Công Sơn đớn đau nhận lănh và thừa hưởng để biến tất cả thành nghệ thuật [15].

Trịnh Công Sơn là một hiện tượng đặc biệt trong nền văn hóa Việt Nam thế kỷ XX. Có thể nói: ca từ của Trịnh Công Sơn là một hôn phối giữa nhiều “nỗi” “niềm” khác nhau: hôn phối giữa thi ca và âm nhạc, hôn phối giữa tác giả và thời đại của ḿnh. Ông đă nói hộ cho nhân loại nỗi tuyệt vọng nhân sinh, nỗi phẫn nộ về chiến tranh, niềm ước mơ về ḥa b́nh, nỗi băn khoăn siêu h́nh, niềm vui về t́nh yêu, đoàn tụ và nỗi buồn của thân phận con người.

Suốt đời ông măi là con dă tràng xe cát biển Đông.

Sinh thời, Trịnh Công Sơn từng hỏi:

Ngày sau c̣n ai nhắc tên ḿnh không?

(“Dă tràng ca”)

Câu hỏi đầy chất tâm linh của Trịnh Công Sơn măi măi là nỗi băn khoăn của nhân loại. Và có lẽ Trịnh Công Sơn cũng không ngờ, ngày ông mất người đời đă trao cho ông định mệnh ấy: Sự bất tử.

Tài liệu tham khảo

[1] Bửu Ư, Một nhạc sĩ thiên tài, NXB Trẻ 2003.
[2] Sâm Thương, “Thời thanh xuân Trịnh Công Sơn”, http://www.tcs-forum.org
[3] Văn xuôi Trịnh Công Sơn, “Bài hát đầu tiên bài hát cuối cùng”, in trong Một cơi đi về, NXB Thuận Hóa, 2004, tr. 469.
[4] Nguyễn Đắc Xuân, Có một thời như thế, NXB Văn học 2003.
[5] Văn xuôi Trịnh Công Sơn, “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” (trả lời phỏng vấn VCH), in trong Một cơi đi về, NXB Thuận Hóa 2004, tr. 522.
[6] Nguyễn Quang Sáng, “Paris, tiếng hát Trịnh Công Sơn”, in trong Một cơi đi về, NXB Thuận Hóa, 2004, tr. 270 – 283]
[7] Vơ Xuân Hân, “Đóa hoa vô thường”, http://www.tcs-forum.org
[8] Đặng Tiến, “Trịnh Công Sơn, tiếng hát ḥa b́nh”, TC Văn Học số 10&11/2001 Cali, tr. 180.
[9] Yoshii Michiko, Luận văn cao học về nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn.
[10] Văn Cao, “Trịnh Công Sơn người thơ ca”, in trong Một cơi đi về, NXB Thuận Hóa, 2004, tr. 17.
[11] Nguyễn Duy, “Ngày sau sỏi đá”, in trong Một cơi đi về, NXB Thuận Hóa, 2004, tr. 44.
[12] Đặng Tiến, “Đời và nhạc Trịnh Công Sơn”, http;;//www.tcs-forum.org
[13] “Nhớ người trong cơi” (Trích các bài viết về Trịnh Công Sơn) in trong Một cơi đi về, NXB Thuận Hóa, 2004, tr. 455.
[14] Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé, NXB Trẻ 2004.
[15] Trần Hữu Thục, “Một cái nh́n về ca từ Trịnh Công Sơn”, TC Văn Học tháng 10&11/2001 Cali.
[16] TC Văn (Cali) số 92, tháng 8/2004.
[17] Một tài liệu khác trong băng Thúy Nga, Khánh Ly nói rằng năm 1962 Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly ở Đà Lạt rủ về Sài G̣n đi hát nhưng Khánh Ly không về. Măi đến 1965 Khánh Ly mới về Sài G̣n và cùng Trịnh Công Sơn đi hát.
[18] Nguồn http://www.tcs-forum.org Nhạc Trịnh Công Sơn trên xứ Phù Tang.
[19] Nhiều tác giả, Trịnh Công Sơn người hát rong qua nhiều thế hệ, NXB Trẻ 2003.


Ban Mai

Quay trở về đầu Xem tieuthiphi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieuthiphi lần thăm tieuthiphi's Homepage
 
HoaCai01
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 April 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3743
Msg 36 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 11:40am | Đă lưu IP Trích dẫn HoaCai01

Nhạc sĩ yêu mến của lăo HC biểu hiện sự biến đổi theo từng thời kỳ gộp lại thành 1 cá thể rất đại chúng, đầy chân thật với thân phận suy tư, dùng lời ca và âm điệu diễn tả tâm sự rất tài t́nh rất độc đáo.  Đó là

    T̀NH YÊU  - QUÊ HUƠNG - THÂN PHẬN

Ai nói ông để lại những vết chân của dă tràng không biết mệt se cát biển Đông cũng không sai, ai nói ông đâu có chết, chỉ là biến đi tức thân th́ mất nhưng linh hồn c̣n sống măi trong các ca khúc tuyệt vời đă trở thành bất hủ, cũng rất đúng.

Bàn về TCS biết vơ, học trường nào chỉ là những thứ vụn vặt. Tư tưởng và thân phận của ông hiện ra trong các tác phẩm từ ư đến điệu, đó là điều chắc chắn. Duy con nhà lư số c̣n thấy được nhiều thứ Thâm Cung mà ngay cả TCS cũng không cần thiết nói ra, ai có duyên khéo diễn dịch sẽ đọc được các thứ thầm kín từ trong lá số Tử Vi của ông. 

Tưởng nhớ đến thời xa xưa 1971, 72: người yêu đầu đời của lăo HC hay hát bài Như Cánh Vạc Bay, c̣n lăo th́ thích bài Mây Hồng.

Mây Hồng

Trời ươm nắng cho mây hồng
Mây qua mau em nghiêng sầu
C̣n mưa xuống như hôm nào em đến thăm
Mây âm thầm mang gió lên

Người ngồi đó trông mưa nguồn
Ôi yêu thương nghe đă buồn
Ngoài kia lá như vẫn xanh
Ngoài sông vắng nước dâng lên hồn muôn trùng

Nay em đă khóc chiều mưa đỉnh cao
C̣n ǵ nữa đâu sương mù đă lâu
Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau

Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ



Sửa lại bởi HoaCai01 : 18 August 2009 lúc 11:44am


__________________
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
Quay trở về đầu Xem HoaCai01's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi HoaCai01
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 37 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 11:53am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

    Đồng ư là vụn vặt. Chỉ để nói xung quanh những ng nổi tiếng, thường có những chuyện thực hư.
    3 chủ đề của TCS: Quê hương (Chiến tranh cũng trong này) - TY - Thân phận.

    Xin bạn TTP đừng hiểu lầm. Bạn có thể cho biết, LS bạn lấy từ nguồn nào (nếu khó nói th́ thôi, nói th́ cho thật).

     Các bác cứ mở màn!

     Wellcome!
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienlong24
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 29 July 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1147
Msg 38 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 12:40pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienlong24

      đây là lá số giáo sư dạy bộ môn sinh ngữ thời trung học của thienlong, biết khoa bói bài, tử vi, xem chỉ tay, đệ nhị đẳng đai đen là huấn luyện viên môn vơ Hàn Quốc của trường.nhờ các bạn link giùm lên để có chút khái niệm về cách vơ thuật
      Nữ - sinh ngày 29 dl tháng 5 ( 21 - 4 al ) - năm 1948 - hồi 20h35 (giờ tuất)


__________________
thanks
Quay trở về đầu Xem thienlong24's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienlong24
 
TTHD
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 27 March 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 393
Msg 39 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 7:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn TTHD

Lá số nữ vơ sư:

(Không biết có phải điều chỉnh ngày giờ ǵ không ạ?)



Sửa lại bởi TTHD : 18 August 2009 lúc 7:42pm
Quay trở về đầu Xem TTHD's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi TTHD
 
ĐaiCoViet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 July 2009
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 297
Msg 40 of 41: Đă gửi: 18 August 2009 lúc 9:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn ĐaiCoViet

TCS không hề tạo bất kỳ ảnh hưởng nào về triết Tây ở giới trẻ VN. Ông Nguyễn Văn Trung là một người chuyên môn về "học" triết Tâỵ Người tạo nên luồn gió Triết Tây ảnh hưởng mạnh lên giới trẻ là Phạm Công Thiện viết cuốn "Ư Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triê't Học " tuy nhiên người đă hài ḥa Triết Tây vào văn hóa Đông phương nói chung, văn hóa Việt nói riêng một cách độc dáo và lă lướt phải nói là Bùi Giáng qua tác phẩm "Tư Tưởng Hiện Đại" của ông.

Bài trích dưới dây của họa sĩ Trịnh Cung sẽ giúp thêm dũ kiện và căm nghĩ về TCS . Với tôi TCS không c̣n là TCS sau năm 1975 , cứ nh́n nội dung tác phẩm và số lượng sáng tác của họ Trịnh sau 1975 th́ rơ.

------------------


Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị

Trịnh Cung

LTS:
“Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị” của họa sĩ Trịnh Cung nhất định sẽ được đón nhận với nhiều phản ứng khác nhau từ nhiều tầng lớp độc giả. Bài viết đưa ra một số nhận xét của cá nhân Trịnh Cung về người nhạc sĩ tài hoa, sống và sáng tác trong một giai đoạn vô cùng điêu linh của đất nước, cùng với một số tư liệu đă được công bố ở một số nơị Tác giả Trịnh Cung tất nhiên đă dự kiến được những ǵ bài viết này có thể mang đến cho chính ông khi ông viết: “Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát t́nh cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, v́ một số những nhân vật được đề cập nay đang c̣n hiện diện trong cuộc đờị Sự thật bao giờ cũng gây mất ḷng, tôi đă tự hỏi ḿnh nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm quả Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù kư ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổị Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.”

Tạp chí Da Màu trân trọng ghi nhận tinh thần trách nhiệm của hoạ sĩ Trịnh Cung, và bài viết được đăng tải với ước muốn tạo cơ hội làm sáng tỏ những ngóc ngách trong đời sống của một nghệ sĩ tài hoa nay đă thành người thiên cổ.



Đă 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đă có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng nàỵ Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: t́nh yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đă minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Ḍng Sông của ḿnh nói về âm nhạc và t́nh người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản v́ anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà c̣n là một “đồng chí” (trong ư nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đă mất) đă viết: “Trong ḍng nhạc phản chiến của ḿnh, TCS đă chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài G̣n ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài G̣n mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đă có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Ǵ” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ư nghĩ tự đề nghị với ḿnh một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đă lỡ nhận chịu những cảm t́nh nồng hậu từ đám đông, th́ những t́nh cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lănh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đă bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ư thức làm chính trị chống chế độ Sài G̣n của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, th́ không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).


co-nghe-rađieu-gi
Thủ bút Trịnh Công Sơn trong bài “Có Nghe Ra Điều Ǵ”
gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973


Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nh́n rơ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rơ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và v́ sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của ḿnh là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu ḷng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngă tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với ḿnh đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Pḥng v́ được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người kư quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uư Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết ǵ về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc nàỵ Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt T́nh Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Tŕnh Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đă tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản v́ tôi rời Huế vào sống ở Sài G̣n sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một t́nh bạn văn nghệ thuần tuư. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con ḿnh vừa đầy năm, bà xă c̣n quá trẻ và yếu đuối, làm sao ḿnh bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa ḿnh không đồng ư cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của ḿnh?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đă bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát t́nh h́nh Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đă bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đă đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gă LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, th́ lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết ḿnh đă từng bị Ngô Kha dùng t́nh bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đă nói ở trên. May mà tôi đă từ chốị

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn c̣n hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ t́nh cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ư thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đ̣i hoà b́nh đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, th́ chi tiết sau đây đă được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đă xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần B́nh Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đă chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đă cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ư với 3 bạn đồng hành với ḿnh: “Không có con đường nào khác cho anh em ḿnh ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.
Vậy là đă quá rơ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài G̣n rơi vào t́nh trạng hỗn loạn. Người thân cộng th́ hí hửng, người quốc gia th́ lo âu và t́m đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để t́m một thông tin tốt lành v́ anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được ǵ v́ TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uư Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà b́nh với quân GP đang bao vây Sài G̣n và doạ sẽ tắm máu Sài G̣n nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công tŕnh sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đă vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáọ Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đă phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đă ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lư Quí Chung c̣n sống, tôi có hỏi về sự việc nàỵ Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lư Quí Chung đă xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đ́nh đă bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đă coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài G̣n khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết ǵ nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài G̣n liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đă vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài G̣n và t́m thăm tôị Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưạ Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh t́m thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những ǵ TCS và gia đ́nh không tiếp khi anh t́m đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấỵ Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ư: Một là: Ư tưởng và mô h́nh kiến trúc Ngôi Đền T́nh Yêu có h́nh quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ tŕ như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền T́nh Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ư cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đă được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài G̣n cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS th́ thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Vơ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xă Hội CSVN

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng v́ Sài G̣n của anh trong ngày 30-4-75 đă xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như băo cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đă nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài G̣n để hát bài Nối Ṿng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đă thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi pḥng thu: ”Mày có tư cách ǵ mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đ̣n khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hăi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà b́nh cho đất nước của ḿnh nay đă thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khóị Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như băo cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tṛn một ṿng Việt Nam…” (Nối Ṿng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đă có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đă kể lại rằng đă có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ tŕ của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài G̣n

Sự sợ hăi càng tăng cao khi TCS nhận được tin ḿnh sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đă âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài G̣n bằng xe đ̣, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những ”người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu th́ cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duỵ Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền h́nh Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh B́nh Trị Thiên. Thế là TCS đă tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đă kỳ vọng ở bạn ḿnh quá nhiều nhưng thực tế vai tṛ trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng th́ làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đă xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đă từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài G̣n?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa quạ T́nh bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đă đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh b́nh/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ B́nh Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn ǵ một người phải chịu cải tạọ

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi ḿnh từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài G̣n th́ càng nguy hiểm th́ một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Vơ Văn Kiệt - nhà lănh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài G̣n lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài G̣n sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh B́nh Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lăng mạn cách mạng này đă kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đă mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xă hộị
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lănh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đă tạo cho ḿnh điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đă được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhă cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ư thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đă nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không c̣n nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài G̣n, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều ǵ đó không ổn, h́nh như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không c̣n được TCS và gia đ́nh coi là người thân như ngày xưạ Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đă khiến tôi bị TCS và gia đ́nh tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đă bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đă chết) đă kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đă coi là bạn thân t́nh đă đem tôi ra để phê phán, tẩy chay v́ tôi đă không trốn lính và đứng về phía Quốc Giạ Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đă từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn pḥng anh Thọ đă thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một ḍng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài G̣n năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhă làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uư ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đă tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong ḷng, để ḷng ḿnh thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một t́nh bạn không hề có thật mà anh ấy đă dành cho tôi, mà tôi đă hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đ́nh Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem t́nh h́nh như thế nàọ Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn ḿnh. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đă chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồị Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi th́ đă có mặt của Bác sĩ Trương Th́n, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ư: “Ḿnh cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hăy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 ǵ họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đ́nh cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đị Nhưng tôi lại là một gă ngoan cố, tự cho ḿnh nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ư thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuư tổng hợp đang nhấn ch́m TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không t́m cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa c̣n trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông ch́ụ Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đă đến gơ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi b́nh minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ư kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài G̣n đă bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đă cúi ḿnh, ngoan ngoăn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đă làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho ḿnh con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy ḿnh thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn ḿnh: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô h́nh nhưng vĩnh cửu, v́ nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra th́ cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một ḥn đá tảng v́ cái giấc mơ hoà b́nh, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lư cũng đă ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô t́nh đồng loă với kẻ đă gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do th́ bạn cũng đáng được cảm thông… V́ tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đă mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đă tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà b́nh đất nước, cho dân tộc ấm no, b́nh đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nàọ Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đă nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng t́m lại cho ḿnh một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ư của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đă nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nh́n TCS như một kẻ xấụ

Dù ǵ th́ thế đứng chính trị của TCS cũng đă được tốt hơn trước rất nhiều, có phải v́ thế mà anh đă chủ quan nghĩ ḿnh là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ư định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng v́ ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới ṭ te c̣n ai coi trọng nữạ Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đă nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai tṛ chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lư TCS. Trong một lần bất b́nh vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đă chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt ***!”.

Đă không những không được vào đảng, TCS c̣n được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm th́ cái chết là một kết thúc hoàn hảọ Hay nói một cách khác, nó đă giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mờị Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về t́nh cảm của ḿnh với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đă phần nào ch́m lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát t́nh cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, v́ một số những nhân vật được đề cập nay đang c̣n hiện diện trong cuộc đờị Sự thật bao giờ cũng gây mất ḷng, tôi đă tự hỏi ḿnh nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm quả Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù kư ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổị Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, c̣n đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đă không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi h́nh ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong ḷng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn th́ sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên v́ một mục đích riêng. Đă đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đă, đang và sẽ măi c̣n coi nhạc Trịnh là lẽ sống của ḿnh, mang nó theo ḿnh như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nàọ

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những ǵ tôi đă trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đă công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và v́ thế chắc chắn c̣n thiếu sót tất yếu, v́ tôi biết c̣n nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ v́ những lư do nào đó chưa tiện nói rạ Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những ǵ giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đă trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong ḿnh những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hăy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế th́ tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng v́ điều này, cho tôi xin lỗi những ǵ mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là v́ không c̣n sự lựa chọn nào khác.

Sài G̣n 29/3/2009
TRỊNH CUNG
———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Ḍng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài G̣n, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều ǵ, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của ḿnh với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).


Sửa lại bởi ĐaiCoViet : 18 August 2009 lúc 9:56pm
Quay trở về đầu Xem ĐaiCoViet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ĐaiCoViet
 

<< Trước Trang of 3 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 4.2178 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO