kimlong Hội viên


Đă tham gia: 21 October 2005 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:37am | Đă lưu IP
|
|
|
MẬT TÔN
I. DUYÊN KHỎI LẬP TÔN
Tôn này thuộc về Đại-thừa, thờ Đức Đại Nhựt Như Lai (T́ Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, v́ thế cho nên tôn này gọi là Mật Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).
Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Uĩy Tam tạng và Ngài Kim Cang Trí Tam tạng.
Vào đầu đời Đường, hai Ngài Vô Uĩy và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.
Ngài Vô Úy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Đại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rơ rệt ở Trung Hoa. C̣n Ngài Kim Cang Trí th́ truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam Tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Ḥa thượng, Ngài Huệ Quả truyền cho Ngài Không Hải là một Đại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.
Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Đông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật.
Kinh điển của Mật tôn. - Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh Kim Cang Đảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du kư và Yếu lược niêm tụng, th́ thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đă thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Đỏa) băng phương pháp quán đảnh đă nhận lănh pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn này.
Nhưng Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?
- Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1. - Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai, làm sở y b́nh đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh thân tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh b́nh đẳng của hết thảy các pháp.
2. - Báo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành trăi qua ba đại kiếp mà được.
3. - Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cơi Ta-bà này. Vậy đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích-Ca như một số người lầm tưởng, mà chính là Pháp-thân Phật.
Theo các tôn phái khác th́ pháp thân không có h́nh tướng, không thuyết pháp chỉ báo thân và ứng thân, như đức Phật Thích-Ca mới có h́nh tướng và nói pháp.
Theo Mật tôn th́ có chia ra làm hai loại giáo pháp: Hiển giáo và Mật giáo.
Những lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca th́ tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển giáo.
C̣n Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lănh được của pháp thân Phật, như Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na).
Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí mật là Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay pháp thân Phật). C̣n vị sơ tổ của tôn này là Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa là vị Bồ tát đă chép lại kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh.
II. TÔN CHỈ VÀ GIÁO LƯ CĂN BẢN
1.-Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục đại là: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục đại là bản nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu xuất ra).
Trong lục đại th́ năm đại trước thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sáu đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.
Lục đại bao hàm 3 phương diện:
- Thể đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ.
- Tướng đại, tức là h́nh tướng của sự vật và chúng sanh.
- Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động tác, công dụng của mỗi sự vật.
Vũ-trụ vạn-hữu không có cái ǵ ra ngoài Thể-đại, Tướng-đại, Dụng-đại.
Thể, Tướng, Dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ ra như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài Thể-đại, th́ Tướng-đại và Dụng-đại cũng không thể có được; ngoài Tướng-đại th́ Thể-đại và Dụng-đại cũng không thể có được. V́ vậy xét một phương diện th́ rơ được cả ba.
Như chúng ta đă thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: thế, tướng, dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn h́nh vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lư dung thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lư tánh hay chơn như. Lư tánh hay chơn như là ṇng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, th́ chơn như hay lư tánh cũng không thể biểu dương được. Lư tánh và sự tướng là hai khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lư tức có sự, có sự tức có lư. Lư tánh của vũ-trụ vạn-hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi chúng sanh, trong mọi h́nh thức.
Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước tiên phải quan sát sự tướng, sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây, tức là bốn Mạn-trà- la.
2.- Bốn Mạn trà-la: Mạn-trà-la nghĩa là tṛn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn pháp Mạn-trà-la, hay gọi tứ Mạn-tướng-đại, là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn-trà-la là:
a) Đại Mạn-trà-la. – Nghĩa rộng là thân của các loài hữu t́nh trong mười pháp giới, là sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, y theo lục đại mà hiện.
Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ v.v...
b) Tam muội gia Mạn-trà-la. - Nghĩa rộng là hết thải các cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ... Nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quư Ngài trong việc cứu độ chúng sanh.
c) Pháp Mạn-trà-la. Nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, h́nh ảnh, tên gọi, kư hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ Cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Đại Nhựt Như Lai (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). C̣n chơn ngồn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong các kinh điển.
d) Yết-ma Mạn-trà-la. - Yết-ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết-ma Mạn-trà-la là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và muôn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp độ sinh.
Bốn Mạn-trà-la này đồng thời tồn tại, đă có một Mạn-trà-la, tức phải có ba Mạn-trà-la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ-tát và chúng sanh đều có. Bốn mạn của Phật không ĺa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không ĺa bốn mạn của Phật. V́ thế, kinh thường gọi là bốn mạn không ĺa nhau.
III. – PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành của Phật tôn có hai phương diện: Sự và Lư, hay nói theo danh từ của Mật tôn là Giáo-tướng và Sự-tướng.
Sự tướng là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn ... Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ư riêng mà làm càn được.
Giáo tướng là tất cả những ư nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đă rút ra trong sự-tướng để dạy chúng ta.
Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy, không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo-tướng thời không lănh hội được ư nghĩa của sự-tướng để làm cho đúng. Không học sự-tướng th́ hết thảy đều là nói suông. Giáo-tướng th́ có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; c̣n sự-tướng th́ phải có các bậc A-xà-lê, tức các vị truyền đạo của Mật-tôn, truyền cho mới biết được.
Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.
Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân, ngữ, ư. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mật ) và ư mật.
Như trên đă nói, chúng sanh và đức Như Lai đều có sáu đại làm thể, bốn pháp Mạn-trà-la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh th́ thể-tướng mật. Như đức Đại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ mật. Cái thức lớn bao khắp tất cả là ư-mật. C̣n chúng sanh, th́ tay bắt ấn là thân-mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ-mật, tâm chuyên vào tam-ma-địa (thiền định) là ư-mật.
Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnh và nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậy muốn được như Phật, phải tu hành theo phép tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thân nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trí quán tưởng đức Đại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ư nghiệp được thanh tịnh. Sự tu hành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
Giai đoạn đầu gọi là Tam-mật gia-tŕ. Trong giai đoạn này, sau khi hành-giả đă làm chủ được thân, ngữ, ư rồi th́ tâm thủy ( tâm vắng lặng như nước đứng yên) cả ḿnh được ánh sáng mầu nhiệm của Địa Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là "Gia"; và tâm thủy ḿnh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu nhiệm ấy tức là "Tŕ". Một bên th́ "Gia", một bên th́"Tŕ", hai bên thừa tiếp nhau nên gọ là Tam-mật gia-tŕ.
Giai đoạn thứ hai gọi là Tam-mật du-già. Khi giai đoạn Tam-mật gia-tŕ đă thuần thục, th́ ánh sángcủa đưc Đại Nhựt Như Lài là ánh sáng trong tâm thủy của hành-giả hiệp nhau (du già) không sai không khác, th́ gọi là "Tam-mật du-già". Đến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đă thành tựu.
IV. - QUẢ VỊ TU CHỨNG
Hành-giả sáu khi đă thành tựu Tam-mật hữu tướng, thông suốt được ư nghĩa mầu nhiệm của bốn Mạn-trà-la, th́ nhất cử, nhất động đều rập khuôn đúng theo oai nghi của Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Đó tức là vô tướng tam mật.
Đến độ vô tướng tam mật th́ mọi hành vi cử động đều toàn là ấn cả, hết thăy lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thăy ư nghĩ đều là diệu quán cả. Do đó mà trong kinh có câu nói sau đây để h́nh dung hạng người đă chứng được vô tướng tam mật: "mỡ miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay động chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành".
Đó cũng là ư nghĩa của bốn chữ "tức thân thành Phật "; nghĩa là hiện đời thành Phật.
V. - KẾT LUẬN
Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tột cũng đồng một mục đích như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thân ngồi tŕ chú, tay bắt ấn, nên thân không làm các việc tội ác, v́ thế mà thân nghiềp được thân tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các điều tội lỗi, v́ thế mà khẩu nghiệp được thanh tịnh (ngữ mật). Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều tội lỗi, v́ thế nên ư nghệp được thanh Ttịnh (ư mật). Kinh chép: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật văng Tây phương". Nghĩa là:nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnh th́ được về tây phương đồng ở với Phật.
Tŕ chú có rất nhiều lợi ích, như tŕ chú Văng-sanh sẽ nhỗ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướng và được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản, đắc sanh Tịnh độ Đà-la-ni); tŕ chú Lăng-nghiêm sẽ được tiêu trừ các oan gia nghiêp chướng và t́nh ái-dục nặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A-nan và bà Ma-Đăng-Già ( xin quư vị xem quyển Đại cương Lăng nghiêm về đoạn nói lợi ích tŕ chú Lăng nghiêm); tŕ chú Phổ-am sẽ tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch; tŕ Ngũ-bộ chú hay Đại-bi Thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm hành-giả cầu như thế nào, sẽ được măn nguyện như thế ấy.
HOẰNG-PHÁP
__________________ Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
|