saodem Hội viên


Đă tham gia: 18 January 2006 Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 36
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 5:43am | Đă lưu IP
|
|
|
BỐ-THÍ BA-LA-MẬT
BỐ-THÍ BA-LA-MẬT
A. MỞ-ĐỀ:
Đạo Phật thường được gọi là Đạo Từ-bi, v́ t́nh thương trong Đạo Phật rất bao-la, sâu rộng. Đức Phật-tổ v́ từ-bi mà đă xuất-gia để t́m đạo cứu khổ cho chúng-sinh. Vậy người Phật-tử, khi noi theo dấu chân Phật, cũng phải lấy từ-bi làm động tác chính cho sự tu-hành của ḿnh.
Nhưng làm thế nào để thể-hiện được ḷng từ-bi và làm cho nó tăng-trưởng? Phương-pháp mầu-nhiệm nhất là thực-hành pháp-môn Bố-thí Ba-la-mật, một trong sáu pháp-môn (lục-độ) mà đức Phật đă chế ra cho kẻ tu-hành có tâm trí rộng lớn thực-hành để độ ḿnh và độ người ra khỏi biển sanh-tử luân-hồi và đến bờ giác-ngộ.
B. CHÁNH-ĐỀ:
I. ĐỊNH NGHĨA VỀ BỐ-THÍ BA-LA-MẬT
Bố là cùng khắp; Thí là cho, là trao tặng. Bố-thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.
Ba-la-mật, nguyên âm tiếng Phạn là Paramita. Người Trung-hoa dịch nghĩa là “Bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”.
Bố-thí Ba-la-mật, tức là một môn tu-hành bằng phương-pháp bố-thí, có công-năng như một chiếc thuyền, đưa ḿnh và người từ bờ mê lầm của chúng-sinh sang bờ giác-ngộ của chư Phật.
II. THÀNH PHẦN CỦA BỐ-THÍ BA-LA-MẬT
Bố-thí Ba-la-mật gồm các loại sau đây: Tài-thí, Pháp-thí, Vô-úy-thí. Dưới đây chúng ta lần lượt t́m hiểu ư-nghĩa của các loại bố-thí ấy.
1. Tài-thí.
Tài-thí tức là đem tiền-bạc, của cải, vật thực của ḿnh ra cho. Tài-thí có 2 loại:
a) Nội-tài. – Là những vật chí thân quí-báu nhất của ḿnh như thân-mạng, đời sống của ḿnh. Thí nội-tài ở đây tức là hy-sinh thân-mạng để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy-nan. Trong các chuyện tiền thân của đức Phật Thích-ca, chúng ta đă thấy nhiều gương thí nội-tài, như câu chuyện người lái-buôn kia, trong khi đi biển bị thuyền ch́m đă tự hy-sinh thân-mạng bằng cách buông tay khỏi cột buồm mà ḿnh đang bám vào, để nhường chỗ cho những hành-khách xấu số khác khỏi chết đuối.
Thí nội-tài là một cử-chỉ hy-sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu ḷng từ-bi, bác-ái mới làm được. Nếu c̣n xem thân mạng ḿnh là quư, là trọng hơn thân mạng kẻ khác th́ chắc-chắn không bao giờ thực-hiện được loại bố-thí này.
b) Ngoại-tài. – Là những vật thường dùng của ḿnh như thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v… Đem những vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ th́ gọi là thí ngoại-tài.
2. Pháp-thí.
Đem lời hay, lẽ phải, những chân-lư đúng-đắn, những lời dạy quư-báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo giới-luật của Phật tu-hành thành thật để làm khuôn-mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà qui-chánh đều là pháp-thí. Pháp-thí có một giá-trị rất lớn-lao hơn cả tài-thí, v́ tài-thí chỉ giúp người khác đỡ túng thiếu về phương-diện vật-chất trong một thời-gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp-thí giúp-đỡ người rất nhiều về phương-diện tinh-thần, không riêng ǵ đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức-tước; không phải chỉ có ảnh-hưởng tốt trong một giai-đoạn, mà c̣n gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. V́ những lẽ đó, nên người Phật-tử chân-chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm pháp-thí, cả về phương-diện khẩu-giáo (dùng lời-lẽ đúng Phật-pháp để chỉ dạy) lẫn phương-diện thân-giáo (dùng đời sống chân-chính hợp đạo để chỉ dạy).
3. Vô-úy-thí.
Vô-úy-thí nghĩa là không sợ. Vô-úy-thí là làm cho người khác không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe th́ tưởng như là không quan-trọng ǵ cả. Nhưng nếu suy-nghĩ một cách chín-chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô cùng thâm-thúy khi chế ra pháp thí này.
Chúng ta hăy nghĩ lại mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đă chiếm quá nửa cuộc đời rồi không? Khi nhỏ, chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập, sợ ma quỉ… khi tráng-niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc, sợ thiếu công-danh, sự-nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ chết… Chỉ toàn sợ và sợ. Đó là chưa nói đến gặp thời buổi loạn-lạc, c̣n phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan tham, lại nhũng, sợ trộm cướp, lưu-manh, sợ tù, sợ tội, sợ chém, sợ giết… Bao nhiêu thứ sợ chồng-chất lên đầu người, làm cho đầu họ không dám ngửng lên, lưng họ c̣m xuống, đầu gối họ sắp qụy. Muốn có một h́nh-ảnh tượng trưng cho sự sợ-hăi, th́ hăy lấy h́nh-ảnh người dân quê Việt-nam trong thời Pháp-thuộc th́ rơ: Hai tay họ sẵn-sàng để chắp lạy, mắt không dám nh́n lên, lưng c̣ng xuống và hai đầu gối sẵn-sàng để qùy mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay ông thực-dân hống hách.
Đời sống đă khổ, lại càng khổ thêm v́ sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là đă cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong kiếp sống. Ḷng từ-bi của đức Phật không nỡ thấy chúng-sinh khổ sở v́ sợ, nên đă chế ra phép thí vô-úy.
Muốn thực hành pháp môn này, hành-giả trước tiên phải luyện cho ḿnh một đức-tính đừng sợ ǵ cả. Mà kẻ tu-hành chân-chính, hiểu rơ giáo lư của Phật, th́ c̣n sợ nỗi ǵ? Tiền của, họ không tham cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không màng, nên không sợ thiếu; sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lư đó mà cơi ḷng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn b́nh-tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian-nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô-úy sẵn-sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết ch́m, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gơ cửa công, minh oan cho người vô tội…
Tóm lại, người tu hạnh thí vô-úy, hễ đi đến đâu th́ đem đến đó một nỗi b́nh-tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.
III. PHẢI BỐ-THÍ NHƯ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG CHÍNH-PHÁP?
Chúng ta đă biết qua các lối bố-thí Ba-la-mật. Đến đây, chúng ta cũng cần biết rơ thái-độ của người tu hạnh bố-thí phải như thế nào.
Sự bố-thí như đă nói trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu-có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố-thí, có nhiều người bỏ cả tài-sản ra lập nhà thương, kư-nhi viện, trường học, có nhiều người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu với bọn xăm-lăng để giữ ǵn đất nước.
Về phương-diện thí pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo-lư ra giảng nói, đi đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.
Nếu nh́n bề ngoài, th́ những hành-động ấy đều là bố-thí cả. Nhưng nếu xét về tâm-lư và động lực thúc đẩy bên trong, th́ có thể có hai trường hợp khác xa nhau.
1. Bố-thí chấp tướng.
Nghĩa là bố-thí với một dụng tâm không trong sạch. Chúng ta đă biết bố-thí là do từ tâm mà ra. Bố-thí là một pháp môn để tự-độ và độ-tha. Nhưng nếu bố-thí với một dụng tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả lại nhiều), hoặc v́ ganh đua, hoặc v́ muốn làm nhục người chịu ơn, hoặc v́ bị ép buộc, hoặc cho với một tâm-lư khinh rẽ, hối tiếc hoặc cho với một tâm-lư lừa lộc, bất công, thiên-vị; nếu bố-thí với một tâm-lư, một thái-độ như thế, th́ tất cả là bố-thí chấp-tướng.
Chẳng hạn đem tiền của ra lập nhà thương, trựng học để được nêu trên mặt báo, để được nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được “người đẹp” tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được tấm huy chương, hoặc giảng nói đạo-lư để tỏ ra ḿnh học rộng biết nhiều. Những hành-vi bên ngoài đẹp-đẽ ấy, bên trong thật không có giá-trị ǵ.
Bố-thí với tâm-lư, với động-lực như thế, không phải là bố-thí Ba-la-mật; và phước-đức của những hành-động ấy thuộc về hữu-lậu rất mơng-manh, như mây nổi giữa hư-không, gặp gió thổi liền tiêu tan.
2. Bố-thí không chấp tướng.
Nghĩa là bố-thí với một dụng ư trong sạch, đúng với ư nghĩa của nó.
Trong khi bố-thí, hành-giả v́ tâm từ-bi b́nh-đẳng, xem chúng-sinh như con, nên không sinh tâm vị-kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành-giả v́ biết tài-sản cũng như thân-mạng ḿnh đều giả tạm, vô thường, nên không tham-lam, tiếc-nuối. Hành-giả v́ biết cái “ngă” không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại.
Bố-thí với một tâm-địa trong sạch như trên sẽ được phước vô-lậu thanh-tịnh, mới đúng là bố-thí Ba-la-mật.
IV. CÔNG-ĐỨC BỐ-THÍ BA-LA-MẬT
Pháp bố-thí là cái nhân lành của quả phúc ở thế-gian và xuất thế-gian. Trong lục-độ vạn-hạnh, pháp bố-thí đứng đầu, v́ nó tương đối dễ làm hơn tất cả các pháp, mà công-đức lại lợi lạc được cả đôi bên người nhận và kẻ cho:
1. Đối với người nhận.
Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này th́ thiếu phần khác; kẻ được vật-chất th́ mất tinh-thần, kẻ đầy đủ tinh-thần lại thiếu thốn vật-chất.
Kẻ đang thiếu ăn mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà được vỗ-về, an-ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm-bọc che-chỡ th́ thật là may mắn sung-sướng vô cùng. Trong một xă-hội có được nhiều người giàu ḷng từ-bi bác-ái, luôn luôn t́m cách giúp người, th́ xă-hội ấy chắc-chắn sẽ được an vui thịnh đạt.
2. Đối với người cho.
Sự bố-thí đă đành là lợi lạc cho người nhận, nhưng đối với người cho cũng không kém phần quư báu. Ngoài sự sung-sướng được thấy ḿnh làm việc phải được thấy quần sinh sung-sướng, vui mừng, hành-giả c̣n nhờ bố-thí mà tiến mau, tiến xa trên đường đạo. Mỗi khi đem của-cải ra cho, là hành-giả có một dịp để chiến-thắng ḷng tham-lam, bỏn-sẻn, ích-kỷ và nới rộng ḷng từ-bi; mỗi khi hy-sinh tánh-mạng để cứu giúp người, là hành-giả có dịp để thử thách ḷng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức tánh lợi-tha, b́nh-tĩnh. Mỗi khi cho mà không kể kẻ thân người thù, là hành-giả có dịp để chiến-đấu với ḷng sân-hận, và trau dồi thêm đức tính từ-bi, b́nh-đẳng. Mỗi khi cho mà không nghĩ đến kẻ cho hơn người nhận, là hành-giả có một dịp để chiến-đấu với ngă-chấp, ngă-ái, ngă-mạn. Nếu hành-giả thí pháp, th́ đó là những cơ hội để ḿnh tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời đức Phật đă dạy, những công-đức mà Ngài đă làm để noi theo.
C. KẾT-LUẬN:
Chúng ta đă thấy rơ giá-trị của pháp Bố-thí Ba-la-mật. Công-đức của nó không những chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ ḿnh. Nó có công năng đưa ḿnh và người từ bờ mê lần đến bờ giác-ngộ, từ địa vị phàm-phu đến quả vị Bồ-tát.
Vậy xin khuyên các Phật-tử đều phát tâm Bồ-đề, tu hạnh bố-thí Ba-la-mật, để trên cầu thành quả Phật, dưới hóa-độ chúng-sinh, đền ơn Tam-Bảo.
__________________ Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
|