Tác giả |
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 1 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi mới nhận được một số dữ kiện về Phương Pháp dưỡng sinh ( luyện Tâm, Thân , Trí ) PHATHATA của thi sĩ Phạm Thiên Thư. Tôi sẽ đánh máy lên diễn đàn nạy Hy vọng các bạn gần xa ( nhất là ở SàiGon ) bổ túc thêm để chia xẻ với tất cả anh chị em đồng hương khap nới trên thế giợi
Thân
Thu
|
Quay trở về đầu |
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 2 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
Điện Công - Dưỡng Sinh PHATHATA của Thi Sĩ Phạm Thiên Thư:
Các phương pháp dưỡng sinh đang được phổ biến hiện nay hầu như đều xuất phát từ những quốc gia lớn và có truyền thống văn hóa lâu đời như Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên gần đây tại Việt Nam xuất hiện một phương pháp dưỡng sinh mới, thuần túy Việt nam. Đó là phương pháp Điện Công PHATHATA.
* Định danh và quá tŕnh h́nh thành.
– Định danh.
“Điện Công PHATHATA” là tóm gọn của cụm từ “Linh Điện Công Thông Pháp Thân Tâm”. Đây là những phương pháp tập luyện thân thể, tâm lư nhằm khai thông nguồn điện Tâm thể (hay Chân khí) làm bật lên khả năng Tự chỉnh (hay Siêu Thức). Khả năng linh diệu này giúp chúng ta phát triển các tiềm năng, tự điều chỉnh các mâu thuẫn, xáo trộn tạng phủ, tự thích ứng với nhịp sinh học, tự bảo tŕ sự sống và cuối cùng là thăng hoa bản thân, giao thoa với vô cùng. Luyện tập phương pháp dưỡng sinh Điện Công PHATHATA giúp con người được khỏe mạnh, tự chiến thắng bệnh khổ, tự tại trong t́nh cảm và tự chủ mọi hiểu biết.
Điện Công PHATHATA chia ra làm 5 ngành :
- Ngành Thể Dục Thân Tâm : Gồm những chương tŕnh tập luyện cho những người
khỏe mạnh nhằm mở rộng t́nh thương, củng cố dũng khí và hưng phấn trí lực.
- Ngành Dưỡng Sinh Pḥng Trị : Gồm những chương tŕnh huấn luyện cho người cao
tuổi, tiếp trị bệnh kinh niên.
- Ngành Tiếp Trị : Gồm những thủ pháp để cắt cơn đau, sơ cứu người bệnh để kịp
thời đưa tới các cơ quan chức năng điều trị.
- Ngành Vui Sống : Gồm những vũ điệu, tṛ chơi, thơ vui mang tính thể dục thư giăn,
đem lại niềm vui, sức khỏe cho đại chúng.
- Ngành Khoa Học Thông Linh : Nghiên cứu những phương pháp đánh thức tiềm
năng của con người, kết hợp Đạo học và Khoa học.
– Quá tŕnh h́nh thành.
Người đưa ra phương pháp này là nhà thơ Phạm Thiên Thư tác giả của những tác phẩm trước năm 1975 như : Động Hoa Vàng, Ngày Xưa Hoàng Thị, Đoạn Trường Vô Thanh, Kinh Ngọc v.v.. Ông Phạm Thiên Thư sau năm 1975 bị suy sụp tinh thần nặng đồng thời mắc nhiều thứ bệnh như sốt rét, đau dạ dầy, thấp khớp … Khoảng giữa thập niên 80, do cơ duyên đặc biệt, ông đă khám phá ra khả năng nhân điện của cơ thể rồi vận dụng tự chữa khỏi bệnh cho ḿnh. Ông trở nên khỏe mạnh, yêu đời và hăng say làm việc. Từ kinh nghiệm bản thân, ông giúp bạn bè, bà con thân thuộc thực tập phương pháp dưỡng sinh mới này. Ông gọi phương pháp đó là Điện Công PHATHATA. Ông tổ chức các buổi tập. Mỗi buổi tập có cả trăm người tham dự. Nói chung, đa số các học viên tham dự những lớp huấn luyện phương pháp dưỡng sinh mới này, đều cảm thấy khỏe mạnh, ăn ngon, ngủ yên, lạc quan yêu đời, một số trường hợp khỏi hẳn bệnh măn tính, một số ít tự nhiên nảy sinh khả năng đặc biệt.
Ông Phạm Thiên Thư đă truyền bá phương pháp dưỡng sinh mới này đến các tỉnh thành và vùng nông thôn. Sau đó, ông thử nghiệm chữa bệnh AIDS. Tuy đă thấy thành công trong vài trường hợp, nhưng những thành quả này chưa được giới y khoa xác nhận.
(C̣n Tiếp )
Sửa lại bởi ththu : 31 March 2006 lúc 4:55pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 3 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Môn dưỡng sinh Điện Công PHATHATA có nhiều pháp tập khác nhau, ở đây chỉ nêu hai bài tập cơ bản là : Chúc Lành và Hoàn Nguyên Diệu Lực
A – Chúc Lành ( hay Thân Sơ Thiện Chúc).
Có thể tập pháp này lúc nào cũng được nhưng nếu được lúc yên tĩnh như sáng sớm hoặc buổi tối trước khi đi ngủ th́ càng tốt.
- Hành giả có thể đứng thẳng hoặc ngồi trên ghế (lưng thẳng, chân buông thơng)
hoặc ngồi bán già, kiết già đều được hết.
- Nhấm đầu lưỡi.
- Hai bàn tay đan ngón vào nhau và để ngửa sát trước bụng.
- Mắt khép hờ.
Sau khi đă chuẩn bị tư thế xong, hành giả tập trung tinh thần, tưởng tượng ra khuôn mặt những người thân quen từ gia đ́nh, bà con đến bạn bè, hàng xóm v.v. rồi nh́n họ với đôi mắt thân ái nhất đồng thời đọc thầm, liên tục chữ “Lành”. Chúc hết người nọ tới người kia, càng nhiều người càng tốt.
Chúc xong rồi th́ nghỉ. Nếu cùng tập với nhiều người và có hướng dẫn viên th́ có thể lắng nghe ám thị do hướng dẫn viên đọc chậm 5 lần :
Ai cũng thọ thương cả
Ai cũng đáng thương nhiều
Chớ nh́n nhau xa lạ
Mà nh́n nhau thương yêu
Dù là người thấp kém
Dù là người cao siêu
Tật bệnh cùng khổ ách
Chẳng khác nhau bao nhiêu
Nên nhường cơm xẻ áo
Nên chia đồng làm đều
Sống một vừa hai phải
Biết cho rơ một điều :
Thân bệnh cùng tâm bệnh
Tự chỉnh th́ nạn tiêu
B – Hoàn Nguyên Diệu Lực.
Bài này gồm 3 pháp :
1 – Pháp Tự Động (hay Vô Vi Tự Chỉnh)
- Hành giả đứng hoặc ngồi thẳng lưng, không tựa lưng vào ghế (luyện đứng th́ tốt nhất).
- Hai bàn tay chắp hờ trước ngực cách nhau độ 1-2 cm, hai nách mở rộng.
- Mắt nhắm để tập trung.
- Nhấm đầu lưỡi.
- Từ từ đẩy hai bàn tay ra xa nhau khoảng 1 mét.
- Từ từ kéo hai bàn tay lại gần nhau và khép hờ trước mặt như cũ.
Lập lại động tác trên khoảng 10 lần. Nếu thấy các ngón tay như tê tê hoặc tự động mở rộng, hoặc tự động hút đẩy nhau như nam châm, hoặc thân thể lắc lư, chuyển động v.v. th́ để nguyên cho thân thể, tay chân tự chuyển động đồng thời đọc thêm nhiều lần ám thị “Minh-Minh-Minh … “ (nghĩa là sáng) hoặc bất kỳ một âm thanh nào khác cũng được để tập trung tư tưởng …
Nếu chưa thấy thân thể nhúc nhích th́ lại dang tay ra và lập lại động tác trên 10 lần nữa. Sau đó dừng tay để cảm nhận thể tự động. Làm khi nào thành công th́ thôi. Thời gian từ lúc chắp tay trước ngực tới lúc cơ thể tự chuyển động thay đổi lâu mau tùy người. Khi cơ thể đă bắt đầu chuyển động th́ đừng gồng cứng tay chân cưỡng lại, cứ để cho cơ thể tự vận hành miễn là đừng để bị ngă. Nếu tập đông người có hướng dẫn viên th́ hành giả lắng nghe ám thị sau đây do hướng dẫn viên đọc chậm và rơ.
- Quân b́nh sinh điện tâm thể; thông kinh hoạt lạc
- Giải tỏa mọi rối loạn bế tắc, thuyên giảm bệnh khổ
- Yêu đời lạc quan, ăn ngon ngủ yên
- Tiêu hóa thông suốt,. Khai mở t́nh thương và trí tuệ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 4 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vài ḍng về Thi Sĩ Phạm Thiên Thư:
PHẠM THIÊN THƯ tên thật Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia đ́nh Đông y. Quê cha: xă Đ́nh Phùng, Kiên Xương, Thái B́nh. Quê mẹ: xă Trung Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Pḥng. Trú quán: Trang trại Đá Trắng, Chi Ngăi, Hải Dương (1943-1951), Sài G̣n, TPHCM (1954- nay)
Từ 1964-1973: Tu sĩ PG, làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường Vô Thanh. Năm 1973 -2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ Pháp -Thân - Tâm)
Tác phẩm đă in: Thơ Phạm Thiên Thư (1968); Kinh Ngọc (Thi hoá Kinh Kim Cương); Động Hoa Vàng (Thơ) 1971); Đạo ca (Nhạc Phạm Duy); Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh, 1972; Kinh thơ (Thi hoá Kinh Pháp Cú); Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ); Kinh Hiếu; Kinh Hiền (Thi hoá Kinh Hiền Ngu) gồm 12.000 câu lục bát; Ngày xưa người tinh (thơ); Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ) 1975.
Các nhạc bản: Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa em t́m động hoa vàng, Gọi em là đóa hoa sầu, Em lễ chùa này, Huyềnthạoi trên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ (Nhạc Phạm Duy), Như cánh chim nay (Nhạc Cung Tiến), Guốc tía, Đôi mắt thuyền độc mộc (Nhạc Vơ Tá Hân); Độc Huyền (Nhạc Nguyễn Tuấn), Động Hoa vàng (Nhạc Trần Quang LOng)....
Tác phẩm dự định xuất bản: Hát ru lịch sử (Trường ca lục bát); Bốn chục ngàn câu châm ngôn; Tự điển cười (24.000 bài tứ tuyệt - tiếu liệu pháp); Huyền ngôn tâm bút; Điện cong Phathata dưỡng sinh, Vua núi vua nước (Sơn Tinh Thủy Tinh)
Nhà thơ Phạm Thiên Thư xuất hiện như một đạo sĩ xuống núi, ông trở thành người rao giảng về những Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ..., ông đă thi hóa Kinh Kim Cương Bát - Nhă của Phật giáo.
Trong lịch sử văn học, những nhà thơ Phật giáo, những thiền sư Việt Nam như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ, Măn Giác... đă góp phần không nhỏ làm phong phú, nâng cao giá trị cho văn học VN với những nét chấm phá ở mỗi thời điểm lịch sử tôn giáo và lịch sử dân tộc.
Bất ngờ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 1969 "Đoạn Trường Vô Thanh" của nhà thơ Phạm Thiên Thư với 3254 câu thơ được tác giả viết như là “hậu Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)” của thi hào Nguyễn Du. Những năm tiếp theo, Nguyễn Du có Văn Chiêu Hồn th́ Phạm Thiên Thư có Chiêu Hồn Ca. Phật giáo có Kinh Kim Cương, Kinh Hiền Ngu th́ Phạm Thiên Thư cũng có Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ...
.....
|
Quay trở về đầu |
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 5 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 5:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
Những tài liệu về phương pháp dưỡng sinh của Thi Sĩ Phạm Thiên Thự Bạn nào có phương tiện và thích nghiên cứu + phổ biến thêm có thể đến gạp Thi Sĩ ở SaiGon để có thêm tài liệu và phổ biến lên diễn đàn
....
1 – Phạm Thiên Thư, Thể Dục Thân Tâm Điện Công Phathata (Chương Tŕnh Phổ Cập), 1997
2 – Phạm Thiên Thư, Tiên Dung Liệu Pháp, 1993
3 – Phạm Thiên Thư, Tiếu Liệu Pháp, Tài liệu thể dục thần kinh, 1991
4 – Phạm Thiên Thư, Vận Dụng Lư Luận Với Thực Tiễn Trị Liệu Qua Vũ Trụ Nhân Sinh Theo Quan Điểm Phathata, 1990
5 – Phạm Thiên Thư, Phương Pháp Luyện Tập Điện Công Dưỡng Sinh Phathata, 1990
Sửa lại bởi ththu : 31 March 2006 lúc 5:05pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 6 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 5:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn có thể t́m ga85p Thi Sĩ PTT ở Quán Hoa Vàng ( SaiGon ) theo như lời của tác giả bài viết này :
..........................
Ta về rủ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gă từ quan
Lên non t́m động hoa vàng ngủ say
Rất nhiều màu vàng khác nhau của hoa lan, cúc, điệp… Vàng của lan vũ nữ khác lan hài, vàng của cúc gấm khác cúc vạn thọ… Chắc chắn phải có những quán nào đó trong thành phố điểm trang cho ḿnh các sắc vàng hoa đậm nhạt. Rất nhiều quán với hàng rào Loa Kèn, với bụi Trà, Hồng… Vô số hoa vàng nở khắp nơi nhưng chỉ duy nhất một Động Hoa Vàng thực sự ở Saigon. Bởi v́ chủ nhân của nơi ấy là một nhà thơ.
Đó là một quán nước xinh xắn, rất trang nhă nằm trên con đường vắng vẻ gần trung tâm thành phố. Tên quán là Hoa Vàng và mọi người đều kêu đúng như thế. Một dàn huỳnh anh trên lầu, cội mai tứ quư trước cửa như đóng con dấu “gia huy” cho quán cùng với chút cỏ xanh, rêu biếc, sỏi trắng và mây bay trên trời… Chỉ riêng ḿnh tôi vẫn thích gọi Động Hoa Vàng, mặc dù biết rằng giữa Động Hoa Vàng của ngày xưa và quán Hoa Vàng bây giờ thật khác xa, đă bao nhiêu nước chảy qua cầu, vật đổi sao dời suốt một quăng thời gian không ngắn. Dù sao, tên quán ngày nay cũng thoát thai từ Động Hoa Vàng ngày đó. Và chỉ là tên nói tắt cho tựa đề một bài thơ vốn đă được người yêu thơ ưa thích.
Chính là nhà thơ Phạm Thiên Thư. Tuy nhiên, những vần thơ đầu tiên của ông tôi được đọc trước kia lại không nằm trong cuốn sách nào riêng ông, mà là lời bạt cho một thi phẩm của Tuệ Mai. Tôi đọc hầu hết thơ Tuệ Mai v́ tủ sách gia đ́nh có gần đầy đủ các tác phẩm của bà gửi tặng cha tôi. B́a sau cuốn Bay Nghiêng Ṿng Đời là những ḍng giới thiệu đẹp: Thơ như gịng chim. Bay nghiêng ráng đỏ. Như chùm hương xưa. Cau thơm trải ngơ. Thơ như sợi gió. Đan thẫm ngàn cây. Như cánh tơ mây. Mang mang phiêu dạt. Thơ là hạt cát. Cuối băi sông Hồng. Như làn gió Đông. Giục đồi mai trắng. Thơ như suối lặng. Quạnh quẽ về xa. Như chim thiết tha. Trong vườn tịch mặc. Thơ là cỏ hạt. Vàng thẫm Xuân Thu. Như trăng trầm tư. Trên giàn thiên lư. Thơ là gợi ư. Mở cửa vào đời. Là biếc trùng khơi. Ươm xanh mùa hạ. Rồi trải trên những trang thơ ngọt ngào t́nh tự của Về Phía Trời Xanh sau đó vẫn luôn là bóng dáng nhà thơ họ Phạm. Người về gieo hạt nắng trong. Cho tôi chắp cánh mở ṿng chiêm bao. Cho tôi ḍng biếc trăng sao. Tin Yêu đă tự kiếp nào thưa anh… Tóc tơ này cũng tạ ơn. Giấc hoa vàng nở cung đàn đồng tâm… T́nh Yêu Mặt Trời đeo chuỗi âm thanh chim hót. Ngủ ngon lành trong tiếng hát ru em. C̣n cất dành những t́nh tự của chiều êm. Để ấm áp ngày mai khi mặt trời đi vắng… (thơ Tuệ Mai). Cùng lúc tôi bắt đầu đọc Đoạn Trường Vô Thanh, Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài, Kinh Ngọc (thi hóa Kinh Kim Cương), Kinh Thơ (thi hóa Kinh Pháp Cú)…
Buổi sáng chủ nhật khô ráo của mùa mưa, một người quen rủ tôi đến quán Hoa Vàng uống nước. Quán thuận đường tới từ nhiều phía nên luôn có đông đảo dân văn nghệ ghé chơi. Suốt từ sáng đến trưa, cứ người này đứng lên, người khác ghé vào lấp kín ghế của ba bốn chiếc bàn kê liền lại. Có mặt đủ cả: họa sĩ, làm phim, viết văn… nhưng đông đảo nhất bao giờ cũng là người làm thơ. Quả nơi mỗi người Việt Nam đều sẵn chất thơ chảy trong ḍng máu và sẵn sàng tuôn ra bất cứ lúc nào. Một vị ngồi cạnh đă đọc thơ của ông cho tôi nghe suốt mấy tiếng đồng hồ. Lần nào ghé tôi cũng được tặng mang về một, hai cuốn thơ. Đă qua thời chữ nghĩa bị in trên những tờ giấy Băi Bằng vàng xờm nḥe nhoẹt. Giờ đây các thi nhân đă có thể cho ra đời những cuốn thơ tŕnh bày trên giấy trắng láng, b́a cứng rất mỹ thuật và trang trọng. Cũng là một thú chơi tao nhă. Mọi người đọc thơ cho nhau nghe và tặng nhau những cuốn thơ mới ra mắt. Thơ thường chỉ để tặng bạn bè, có đâu bán được.
Hoa Vàng cũng như vài ba quán đặc biệt khác là nơi họp mặt bạn bè cùng giới. Tùy từng nhóm để chọn chỗ đóng đô, quận Một hay quận Ba, đầu này hay đầu kia thành phố. Thường là những quán vắng vẻ với chút ít bóng cây cối hiếm hoi của một thành phố ngày càng đông đúc chật chội. Quán hơi hẹp, chỉ kê được ba bàn kể luôn cả khoảnh sân nhỏ lộ thiên bên cạnh nên mọi người thường thích ngồi ở vỉa hè đối diện, rộng răi và mát mẻ dưới tàng cây xanh mướt nh́n sang bên kia đường là mặt tiền quán rất đẹp mắt, với tấm bảng tên khi nào cũng gợi nhớ đến những câu thơ đầy ắp hoa vàng. Nghiêng b́nh trà nhớ hương xưa. Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa… Ghé vào thế nào cũng gặp những khuôn mặt quen và Phạm Thiên Thư cùng ngồi đó. Đôi khi nhiều nhóm bạn đến cùng một lúc và ông phải đứng lên xách ghế, kê bàn, bưng thêm nước, ngồi với nhóm bạn này một lúc, tạt qua nhóm thơ kia một chốc. Chủ quán lúc nào cũng rất đỗi bận rộn thù tiếp khách thơ.
B́nh thường, nhà thơ họ Phạm an vị trên chiếc ghế mây nhỏ cạnh cửa quán dưới bóng cây nguyệt quư. Buổi sáng mùa mưa không có nắng gắt và gió lồng lộng thổi xao xác tán lá trên cao, không gian hiu hiu của thời tiết đang chuyển có vẻ dễ mang đến thi hứng dạt dào. Tôi ngồi đối diện nhưng không mường tượng ra được h́nh ảnh của nhà sư bắt bướm trong những giai thoại thi văn xưa. Phạm Thiên Thư có khổ người to ngang, tầm thước nhưng dáng điệu chậm răi, cử chỉ điềm đạm và giọng nói nhỏ nhẹ. Ông trầm ngâm với điếu thuốc thường xuyên trên môi, ánh mắt xa xăm và bao giờ cũng tập sách đặt trên gối, một quyển thơ vừa in hay tập bản thảo đang sửa. Nếu không có bạn bè ghé thăm, ông cứ ngồi như thế cả buổi, những điếu thuốc lá cháy đỏ liên tục, tách cà phê đen nguội ngắt tự bao giờ và thời gian lặng lẽ trôi qua trên những tờ giấy lật trước mặt. Ông rơi vào thế giới của câu, chữơ vần, điệu, có vẻ ông chỉ tồn tại trong thơ, nh́n đời qua cái nh́n của một nhà thơ và một người thấm nhuần Phật pháp, cơ hồ cuộc sống chỉ rọi đến ông qua tấm màng ấy.
Nhà thơ nh́n tôi một lúc, ông hỏi tôi đang làm thơ phải không, trông tôi có vẻ “thiền” lắm! Tôi mỉm cười, chắc là sức khỏe hao ṃn hiển hiện nên ông mới nhận xét thế chứ khỏe mạnh th́ vẻ mặt tôi chẳng tĩnh chút nào. Ông lại đoán thêm vài câu nữa nhưng đó là những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai và phải đợi đến hai năm nữa tôi mới nghiệm được sai hay đúng. Ông tự giới thiệu ḿnh là nhà ngoại cảm nên có thể đọc được quá khứ vị lai. Ông c̣n bày cách tập trung ư nghĩ để tạo nên luồng nhân điện, tôi thấy ḿnh thực hành không nổi. Những người quen hành thiền thường có khả năng tập trung cao độ, đầu óc tôi khi nào cũng lang bang ngoài đường ngoài phố, diệu vợi nơi góc biển chân trời làm sao túm nhốt. C̣n lâu tôi mới bắt được trâu, cưỡi được trâu… để thảnh thơi vào chợ.
Phạm Thiên Thư hỏi han bệnh t́nh của tôi, ông đưa hộp dầu cao nhỏ bảo tôi thoa lên một số huyệt. Vốn xuất thân trong gia đ́nh chuyên về Đông y, ông đă nghiên cứu để sáng lập ra một trường phái chữa bệnh bằng Nhân điện được mệnh danh là bộ môn Điện công Phathata (Pháp - Thân - Tâm). Ông đă chữa trị nhiều bệnh nhân với những chứng bệnh khác nhau, có thời gian báo chí từng đề cập đến, ông cũng đi nói chuyện các nơi để quảng bá cho phương pháp chữa bệnh mới mẻ này. Vốn là nhà thơ với sức làm thơ mạnh mẽ, ông đă viết bộ Từ Điển Cười, cứ mỗi từ là một bài thơ tứ tuyệt vui giỡn mà ông gọi là Tiếu Liệu Pháp, mang tiếng cười, niềm vui tới như liều thuốc bổ nhằm giải trí, thư giăn thần kinh, đẩy lùi bệnh khổ. Những độc giả từng quen thuộc với Em nghiêng nón hạ cầu mưa. Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về… có thể thấy hơi “chỏi” với những ḍng thơ trong tự điển, ví như tra đến từ BÁNH CANH. Bún lớn, gị heo, chan nước lèo. Sườn om mấy miếng, rắc hành theo. Lại thêm tiêu ớt – thơm từng bát. Trời lạnh, th́a đưa – ngốn hết vèo… Có đến bốn mươi lăm loại bánh ở đây. Quyển tự điển này chỉ mới từ vần A đến hết vần CH với năm ngàn ngữ nghĩa đă dày hơn chín trăm trang và sẽ tiếp tục in vài bộ nữa cho những vần tiếp theo.
Phạm Thiên Thư làm thơ ào ạt, thơ tuôn trào như không thể dừng lại. Ngoài Từ Điển Cười, đă tái bản Hội Hoa Đàm phổ thơ Kinh Hiền Ngu, Đoạn Trường Vô Thanh…, đồng thời xuất bản những tác phẩm sau này như Hát Ru Lịch Sử là trường ca lục bát thi hóa lịch sử Việt Nam, điện công Phathata dưỡng sinh, T́m Động Hoa Vàng, Từ Điển Chân Ngôn, Huyền Ngôn Xanh… tác phẩm cuối này là một loại thơ xuôi được chia thành nhiều phẩm, chuyên chở những suy tưởng mà tác giả chiêm nghiệm trong suốt cuộc đời ḿnh: …Kẻ đắc chí cả cười, mắt cũng rưng lệ. Người thất cơ thầm khóc, nước mắt ướt đẫm chéo khăn. Được – mất, khóc – cười, hạt nước mắt đều tṛn giống nhau… (phẩm Khóc Cười);… Những loài hoa không tranh căi nhau ngoài đồng về phẩm giá của ḿnh. Cái đẹp chỉ đẹp trong muôn ngàn hương sắc, huống chi chúng ta cứ muốn giành lấy sự toàn vẹn cho riêng ḿnh… Ai cũng giành trồng những loại hoa quư cho riêng ḿnh, chẳng ai chịu tưới xanh một thảm cỏ cho châu chấu cư ngụ. Chỉ có ḷng Trời là rộng lượng với muôn loài… (phẩm Hoa Hương).
Tác phẩm của Phạm Thiên Thư có thể chia thành sáu loại. Thơ phổ kinh Phật, thơ t́nh, thơ cười, chân ngôn, sử thi và dưỡng sinh. Riêng Chân Ngôn, Sử và Thơ Phạm Thiên Thư gồm một trăm hai mươi lăm ngàn câu. Đọc xong Vua Núi Vua Nước mà nhà thơ cho biết gói ghém nhiều tư tưởng, quan điểm của ông trong đó. Tôi hỏi ông c̣n làm thơ t́nh không. Phạm Thiên Thư cười nói vẫn c̣n, ông tặng tôi thêm photo bản thảo cuốn Những Lời Thược Dược, và nói thêm thơ t́nh chỉ là một phần của cuộc sống đa dạng, nên mới có chân ngôn, huyền ngôn, thơ cười… để thấy cuộc sống khác hơn, rộng và mới hơn. Ông không muốn chỉ gói gọn sự nghiệp thi ca trong Đoạn Trường Vô Thanh, Ngày Xưa Người T́nh…, ông mong được mọi người biết thêm ư nghĩ, tư tưởng của ḿnh dù vẫn qua h́nh thức thơ nhưng trên những địa hạt khác.
Nói chuyện với nhà thơ hồi lâu tôi mới nhận ra những câu chuyện của ông thường bị lẫn lộn các chi tiết. Càng gặng, ông trả lời càng rối rắm. Kiên nhẫn hỏi từng câu ngắn, một lúc sau tôi mới rơ. Một ngày cách đây năm năm, ông đột nhiên mất đi phần lớn khả năng ngôn ngữ. Ông vẫn khỏe mạnh, hiểu biết mọi chuyện, đầu óc vẫn tỏ tường minh bạch nhưng không thể diễn giải lời nói một cách trôi chảy, rơ ràng. Ông không nhớ tên người bạn thân bốn chục năm hàng ngày gặp mặt, không thể kư tặng sách nếu không nh́n vào tờ giấy viết sẵn để chép lại, thậm chí đôi khi không gọi được danh tính của chính ḿnh… Chứng này có thể dần dần hồi phục hoặc măi măi không khỏi, y nguyên t́nh trạng như vậy suốt đời..
Nhưng Phạm Thiên Thư không buồn. Miệng ông cười mở rộng, tươi vui nhẹ nhơm, ông bảo nhớ càng tốt, quên cũng chẳng sao. Những ǵ cần viết ông đă viết cả rồi, tất cả khối lượng tác phẩm đồ sộ kể trên đă được hoàn tất trước thời gian lâm bệnh. Bây giờ ông chỉ đọc để sửa chữa thôi. Năm năm nay ông không làm thơ, không viết ǵ cả. Một nhà thơ không c̣n thể làm thơ, chỉ là sự ngẫm ngợi…
Ông lại đốt điếu thuốc mới, ngọn thuốc theo nhau cháy đỏ giữa hai ngón tay. Chưa tàn tạ cuộc phù vân. Ông vẫn ngồi đó yên lặng với tập bản thảo trên tay, trở về vẻ trầm lắng như chỉ trong phút chốc khi qua câu chuyện, rời khỏi cuộc sống đời thường, ông lại đắm ch́m vào cơi thơ, vào những câu chữ vần điệu đă trở nên mờ ảo như làn khói sương tỏa ra từ đầu điếu thuốc. Cuối cùng, có lẽ như tấm bảng tên của quán nước phía trên, đọng lại nơi ông, trong ḷng người yêu thơ, vẫn măi là những vần thơ hoa vàng ngày ấy.
Nguyễn Thị Hàm Anh
|
Quay trở về đầu |
|
|
dungtuvi Thượng Khách

Đă tham gia: 21 June 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 423
|
Msg 7 of 11: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 8:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
tối hôm qua mới ngồi uống cà phê với anh PHẠM THIÊN THƯ tán chuyện đời tại quán HOA VÀNG quán nhà,nay vào mạng lại thấy mục anh PHẠM THIÊN THƯ sao có duyên thế nhỉ .
THTHU viết bài tả rất rơ và biết rất rơ anh PTT .chắc THTHU
thân lắm hả .
lúc trước anh PHẠM THIÊN THƯ tu đă lên chức đại đức rồi đó
quán HOA VÀNG có món kem và bánh chuối nướng do tự tay chị BÁU vợ PTT làm ngon hết biết .
dungtuvi
Sửa lại bởi dungtuvi : 31 March 2006 lúc 8:39pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 8 of 11: Đă gửi: 01 April 2006 lúc 6:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào Chi Dungtuvi,
Thưa Thu chưa gap Thi Si PTT bao gio, Thu chỉ đoc thơ cua Anh va nghe noi den gia đ́nh Anh PTT qua gioi Van Nghệ Si và báo chi ở bên này.
Mới đọc được bai viet ve Anh PTT , va ph/ pháp PHATHATA thay hay nên post lên diễn đan để anh chi em o ben mỹ ( + hai ngoai ) noi rieng va moi nơi biet den những sinh hoat (tuong doi ) moi cua Anh PTT nếu chưa biết, và để học hỏi chia xẻ về một môn dưỡng sinh của VV, do người Việt , mà lại là một nhà Thơ, nhà Thiền... khám phá ra
Khong biet Chi Dung co tập PHATHATA chưa, hay có kinh nghiem gi về PHATHATA xin Chị chỉ bảo thêm cho Thu và chia xẻ với anh chi em trên diễn đàn này.
Và Nếu Chi Dung nhan hộ được với Anh PTT về mục này mà Anh PTT có ḷng và th́ giờ lên diễn đàn chỉ bảo thêm cho Thu và đồng bào Việt ở khap nơi trên thế giớo tu tập PHATHATA thi quư hóa quá
Kính Thân,
Thu
Sửa lại bởi ththu : 01 April 2006 lúc 6:59pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 9 of 11: Đă gửi: 01 April 2006 lúc 9:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phạm Thiên Thư
KINH NGỌC (QUA SUỐI MÂY HỒNG)
Thi Hoá Tư Tưởng Kim Cang Kinh Vajracchedika Prajna Paramita Sutra
Chùa Khánh Anh Xuất Bản 1993
Nahi etehi yànehi gaccheyya agatam
disam yatthà ttanà sudantena danto
dantena gacchati
Dhammapada
nào nhờ xe mây biếc
ngựa hồng tới niết bàn
bè tâm trăng bát nhă
vượt bến hoặc mê sang
Thích Già Mâu Ni
LỜI GIỚI THIỆU
Thầy Tuệ Không Phạm Thiên Thư một sinh viên tốt nghiệp Phật Khoa Vạn Hạnh đă có sáng kiến và can đảm thi hóa Kinh Kim Cương để cúng dường chánh pháp.
Tôi nói sáng kiến v́ rất ít có Phật tử nếu không phải là chưa có, đă dùng thể thơ mà diễn đạt nghĩa chân không diệu hữu của Đại Thừa.
Tôi nói can đảm v́ chỉ có tuổi trẻ mới can đảm làm những chuyện phi thường và thật là phi thường khi cả gan thi hóa bản kinh "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Thật sự, xưa kia Đức Phật cũng đă dùng thể kệ (gàthà hay sloka) để thuyết pháp độ sanh. Thể kệ tức là thể thơ ngày nay vậy.
Gọi là để tán thán công đức thi hóa của thầy Tuệ Không, tôi ghi sau đây bài kệ bằng chữ Sanskrit. bản kệ này được dịch ra chữ Hán như sau:
Nhược dĩ sắc kiến ngă
Dĩ âm thanh cầu ngă
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như-Lai
Ye màm rùpena càdràksurye
Màm ghosena cànvaguh
Mithyàprahàna prasrtà
Na mà draksyatite janà
Thích Minh Châu
Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh
TỰA
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy ḿnh bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương th́ lại thấy tâm hồn dịu lại.
Mầu nhiệm thay Kim-Cương!
Lạ lùng thay Kim-Cương!
Ước ǵ ḷng tôi biến thành Kim-Cương để xóa tan biên giới Ta với phi Ta, để liễu ngộ sinh tử, để hết trụ vào Ta, cho cái tâm giải thoát.
Phải chăng đấy là cái Tâm "Ưng vô sở trụ mà sinh" nó đă dẫn dắt Huệ Năng về Tào Khê, nó đă làm cho Thái-Tông khoát nhiên tự ngộ vai tṛ lănh đạo nhân dân "dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục". Vào sinh ra tử suốt cả một đời ngơ hầu thực hiện cái nghĩa vô tâm:
"Lưu thủy hạ sơn phi hữu ư
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm"
Không có ư mà làm, với cái tâm không tâm! Thật khó lắm thay! Cao siêu thay!
Ở vào thời mạt pháp, chính là thời khắp mặt đất mong cầu thánh chúa ra đời, Di-Lạc giáng thế. Cho nên để dọn đường cho hành động vô tâm tưởng như chỉ c̣n tâm lư nghệ thuật họa may làm cho con người tin tưởng vào Đạo Vô Cầu ở thế giới. V́ chỉ có cảm xúc mỹ nghệ mới gợi đuợc ở ḷng người ư vị Trang Chu mộng làm hồ điệp, để nh́n thế giới với đôi mắt kim cương:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán
Vậy thầy Phạm Thiên Thư đă cảm ứng mà thi hóa kinh Kim Cương Bát Nhă.
Nên lắm thay!
Gia Định nay tựa mồng một, tháng tư, năm Canh Tuất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
Nguyên Khoa Trưởng Đại Học Văn-Khoa Saigon
Nguyện cúng dường kinh tạng thơ hoa
Trải tam thế mộng một ṭa sắc hương
Kiếp sau làm chim trong sương
Về bay hóa độ mười phương trời vàng
Phạm Thiên Thư
NGỢI KINH
thân như sương đầu cỏ
tụ mười cơi trăng sao
nhập ḍng thơ thâm diệu
mộng thức dưới hoa đào
DÂNG KINH
cánh lan ngọc cong cong
mười viền trăng thu khuyết
hoa khép tay trầm hương
qui-y tôn kính Phật
MỞ KINH
giấy cỏ hoa mây trắng
chép đôi ḍng kinh thơ
suối nào vi diệu tụng
trang nghiêm cơi Phật thừa
I
Mây hào quang về hội
hoa suối cũng yên nghe
pháp hội nhân do
con chim thu cơi tịnh
cũng về hội ta bà
trùng trùng mây mây biếc
hoa trải cúng dường hoa
trong khu vườn mai trắng
sương đọng mấy từng hoa
sao tụ nước xá-vệ
hương ngát mười cơi xa
trên trụ đá mây đỏ
trải chiếu cơi lưu ly
Phật kết kim cương tọa
chim tụng pháp diệu kỳ
hai ngàn năm trăm vị
tỳ-kheo rực pháp-y
dưới thềm đá mây nổi
dưới thềm hoa uy nghi
II
Giữa rừng hoa tịch mặc
Thoảng tiếng suối thần rơi
Thiện hiện khải thỉnh
giữa đại chúng tịch mịch
hiền giả tu-bồ-đề
đứng dậy chắp tay ngọc
hoa trắng trải hoàng-y
vô ngàn, vô ngàn năm
mây hương một lần tỏa
vô ngàn, vô ngàn năm
cơi ngọc nở sao lạ
đức vô thượng như-lai
chúng sanh cầu đạo cả
chí an trụ nơi đâu
pháp trừ tâm huyễn vọng ?
III
hoa vàng khe đá cũ
trang nghiêm cơi đại thừa
đại thừa chính tông
thiện nam như ngọc trên đài sen
như hoa mai đông một sớm nở
lắng nhuần sương tụ mười cơi sao
chúng sinh cầu đạo cả
như trăng hiện hư không
hào quang vô lượng biển
mười cơi sáng mênh mông
nguyện độ hết chúng sanh
loài sinh từ trứng ngọc
loài sinh từ thai hoa
loài sinh hồ suối nước
loài hóa sinh cơi trời
loài có sắc không sắc
lăng đăng bụi vàng rơi
loài có tưởng, không tưởng
tan hợp thoáng mây trôi
chúng sinh như sương tụ
chúng sinh như mây tan
mười cơi bóng mây nổi
nhập vô-dư niết-bàn
vô lượng, vô biên độ
mà không một chúng sanh
đồng cùng như tánh trí
từ biển lặng vô minh
bồ tát thiên chấp ta
của ta, rồi khác ta
chấp chặt thọ gỉa tướng
chúng sanh tướng hằng sa
chưa thành bồ tát đạo
IV
dặm mây hồng muôn cơi
nào v́ ngấn lệ hoa
diệu hành vô trụ
thực hành pháp bố thí
chẳng chấp thức căn trần
vô ngă vô sở trụ
vô ngại cơi phù vân
như mười phương sao biếc
mười phương cơi hư không
bố thí vô tướng trụ
công đức chẳng suy lường
bồ tát trụ tâm ta
như trăng tụ sương ngọc
như tĩnh lự mặt trời
mạch sống mười cơi nước
V
Phiến hoa mai trắng nở
cửa động khép xuân thu
như lư thực kiến
dùng tâm thân huyễn vọng
nh́n vạn pháp mây trôi
thấy chăng như lai tướng ?
chỉ thấy nước trăng xuôi
thân tướng không chân thực
gỉa dối bóng mây đưa
vượt qua vô chướng ngại
phương tiện như lai thừa
VI
ba cơi ngọc lưu ly
nở mặt rời không tiện
chính tín hy hữu
tu bồ đề tác bạch:
đứng vô thượng pháp vương
chúng sinh có tin thực
cửa trí huệ chân thường
người tu tŕ phước huệ
nguyện phát thanh tịnh tâm
tin pháp ngọc chân thực
muôn xưa thiện kiếp trồng
vô lượng kho châu ngọc
nghiệp đức tụ trăm sông
không chấp vạn hữu tướng
ngă, pháp, sạch tâm không
chính pháp như bè ngọc
dùng qua ngọn suối hồng
chân đến bờ vi diệu
bè cũng thả xuôi sông
VII
mây hồng kết giải suối
nào cần thuyền trăng đưa
vô đắc vô thuyết
nầy hiền gỉa bồ đề
diễn bầy ư chân thực
tôi được chính pháp chăng ?
và trao quyền pháp ư ?
không pháp nào vô thượng
phương tiện, phương tiện thôi!
ngài chưa thuyết một pháp
v́ tánh chẳng y lời
đạt ư, như thực ư
ĺa lời, như thực lời
đạt trí, như thực trí
ư, lời ngọn sóng khơi
vô lượng hiển thánh tăng
pháp vô vi tu hành
từ chân tâm vắng lặng
sái biệt độ quần sanh
VIII
tặng trùng hoa giọt ngọc
nào bằng thơ đại bi
y pháp xuất sinh
người đem biển châu ngọc
vô lượng núi lưu ly
rộng cho muôn cơi nước
khắp cỏ hoa phù đề
công đức vô biên lượng!
chưa bằng tụng một ḍng
kim cương biển trí tuệ
hoặc diễn vi diệu thơ
cúng dường nhất thiết tướng
v́ vô lượng Như-Lai
từ phẩm kinh ngọc này
chứng vô thượng chính giác
phật pháp, không phật pháp
mới tạm gọi phật thừa
thế gian tức phật pháp
nhuần làn giải thoát mưa
cỏ cây trổ hoa ngát
IX
cơi đất hồng mă năo
nở muôn chúng hoa thơm
nhất tướng vô tướng
thánh quả tu-đà-hoàn
gọi nhập ḍng giải thoát
chẳng gọi tu-đà-hoàn
v́ thực không quả đạt
như đầm sâu bùn tanh
ngại v́ hoa trổ ngát
thánh quả tư-đà-hàm
c̣n một lần sinh tử
chẳng gọi tư-đà-hàm
v́ chẳng nơi lai khứ
như ao bợn bùn nhơ
khóm sen xanh thường trụ
thánh quả a-na-hàm
chẳng trong ṿng dục-giới
không gọi a-na-hàm
v́ chẳng nơi ngăn ngại
muôn cơi một cơn mây
mưa từ vô lượng trải
thánh quả a-la-hán
bậc an trụ niết bàn
chẳng là a-la-hán
v́ ngă, pháp mây tan
như mặt trời thanh tịnh
muôn cơi giáp tâm đan
nay con tu tịch tịnh
vắng lặng như hư không
nên chẳng gọi tịch tịnh
v́ động tĩnh ngoài ṿng
X
một bông hồng tịnh mặc
trang nghiêm cơi bụt vàng
trang nghiêm phật độ
xưa hội Phật Nhiên Đăng
tôi đắc pháp nào chăng ?
ngài đắc vô sở đắc
vượt ngă, pháp tâm băng
vô lượng bồ-tát-hạnh
cơi Phật làm trang nghiêm
hạnh nguyện không sở nguyện
trang nghiêm thực trang nghiêm !
bồ tát khởi sinh tâm
thanh tịnh như hư không
vô nguyện, vô sở trụ
viên măn một tâm đồng
như mưa khắp phương cơi
riêng ǵ chốn tây đông
XI
cao cao từng mây biếc
sao kết ḍng thơ hoa
vô vi thắng phúc
người phát tâm bố thí
ngọc, sao đầy hư không
vàng, cuộn long giang cát
chưa bằng tụng kinh này
hoặc kết ḍng thơ ngọc
vào mật ư như lai
tạo vô lượng nghiệp đức
vô lượng trợ thần oai
vàng ngọc thêm chấp chặt
tham si lệ đổ hoài
thấm ḍng thơ giải thoát
cứu độ khắp trần ai
XII
trăng không ĺa đáy suối
sen trắng ngát đầm xanh
tôn trọng chính giáo
người diễn nói kinh này
dù một câu đạo vị
khắp cơi quỷ, trời, người
cúng dường như tháp Phật
tôn kinh này nơi đâu
đó hào quang chư Phật
tŕ tụng trang ngọc kinh
tựu thành pháp bậc nhất
XIII
y trụ trang diệu kinh
lắng tan ba nghiệp vọng
như pháp thụ tŕ
hiền giả tu-bồ-đề
dưới thềm mây đá biếc
tôn kinh này tên ǵ ?
phụng tŕ sao như thực ?
này hiền gỉa bồ đề
tên kinh gọi kim cương
bát-nhă ba-la-mật
thụ tŕ như danh trên
Phật thuyết ba-la-mật
chẳng phải ba-la-mật
mới thật ba-la-mật
ĺa tướng như thực tâm,
phương tiện lời biện biệt
chính pháp như bè ngọc
phương tiện vượt sông mê
bừng tự tánh bồ-đề,
bè sông như thực trí
vô cùng bụi nhỏ vàng
khắp đại-thiên thế-giới
ông nghĩ bụi nhiều chăng ?
vô lượng bụi vàng này
cũng không nhiều, không nhỏ
tạm gọi bụi vàng thôi
Như-Lai gọi thế giới
thế giới thực không nơi
tạm gọi là thế giới
như gợn mây đáy nước
ĺa bóng để nh́n trời
mây mười phương tan tụ
bóng nào có một nơi
ĺa kinh một chữ nhỏ
tức xa như thực lời
nệ chấp một câu nhỏ
chân tướng măi xa vời
chấp sóng chẳng thấy nước
vọng tâm măi nổi trôi
ĺa sóng để thấy nước
sóng, nước một trùng khơi
vào, ra không ngăn ngại
chân , vọng chẳng riêng nơi
ba mươi hai tướng quư
có thấy được Như-Lai
bóng hoa in đáy suối
nào biết thực hoa mai
chẳng nệ tướng mây nổi
sá ǵ nghĩa Như-Lai
người mang vô thủy kiếp
như đáy cát sông trong
phát đại nguyện bố thí
như người chuyển kinh này
in tụng ḍng thơ nhỏ
hoặc diễn giải thoát thơ
chúng sinh vô lượng độ
phúc đức ngút mây mờ
XIV
cánh cửa ngọc vi diệu
mở tụng mười cơi sao
ly tướng tịch duyệt
mười phương trời châu ngọc
thắp sáng từng lời kinh
xuôi về biển trí tuệ
hiền gỉa tu bồ đề
đức vô thượng Như-Lai
mở cửa ngọc vi diệu!
con từ vô thủy nay
mới nghe kinh mầu nhiệm
ư tuyệt vời mây bay!
có người nghe mật nghĩa
vào biển thanh tịnh tâm
khởi tướng vàng chân thực
tựu thành đức hy hữu
thật tướng, tức không tướng
mới là thâm mật thân
thật tánh, tức không tánh
thân, ư nắm phù vân
nay con được thụ tŕ
nương từ âm thần lực
thâm hiểu ngọc vàng kinh
để vào Như-Lai-Ư
vô lượng kiếp kiếp sau
người tụng đôi lời ngọc
phát tâm vô lượng từ
tựu thành nhất thiết đức
ĺa gỉa ngă huyễn vọng
chẳng nệ tướng tụ tan
chúng sinh nguyện độ hết
địa ngục chuyển niết bàn
sau nghiệp chúng sâu dầy
có người tụng kinh ngọc
sợ hăi chẳng sinh ḷng
v́ tịnh không ngă, pháp
hy hữu, hy hữu thay!
đệ nhất ba-la-mật
chẳng phải ba-la-mật
mới thật ba-la-mật
nhập thể tánh tṛn đầy
xa ĺa ngôn tự thuyết
nhẫn nhục ba-la-mật
mê, ngộ chẳng xa ĺa
ngă, pháp thể không lặng
cầu ǵ bên bờ kia
tiền thân tôi một kiếp
từng bị Ca-Lợi vương
hành hạ cắt thân thể
tâm chẳng sinh giận buồn
v́ ngă, pháp không lặng
lại nhớ thủa quá khứ
tôi là vị tiên tu
nhập đại hạnh nhẫn nhục
ngă, pháp tướng xa ĺa
người cầu đạo bồ đề
phát tâm vô lượng độ
ĺa gỉa tướng mây hồng
bố thí vô sở trụ
chư tướng, không thực tướng
chúng sinh, không chúng sinh
lời chân như b́nh đẳng
không dối trá mảy may
khởi hạnh nguyện bố thí
chưa ĺa tướng huyễn mê
như người trong ngục đất
quờ quạng có thấy ǵ !
khởi hạnh nguyện bố thí
chẳng v́ sự, tướng mê
như người mở mắt sáng
dưới mặt trời lưu ly
thấu rơ pháp chân, vọng
mai sau có người nào
thụ tŕ phẩm kinh ngọc
vào biển trí Như-Lai
tựu thành vô lượng đức
XV
giọt sương đọng đài sen
ảnh chiếu ba cơi bụi
tŕ kinh công đức
có người đem thân mệnh
như phù sa hồng hà
bố thí muôn ức kiếp
có người trộm nghe kinh
khởi ḷng tin thanh tịnh
đức vô lượng vô biên
hơn đại nguyện bố thí
trải thân ngọc tam thiên
vàng ngọc đắp ngục tối
ḍng kinh mở năo phiền
v́ người khởi đại tâm
phát nguyện tối thượng thừa
tôi mở pháp vi diệu
ai đọc tụng thọ tŕ
diễn giải chân thực ư
vào biển huệ lưu ly
tựu thành vô lượng đức
là chuyển đạo Như-Lai
cứu người trong lửa vực
người chấp trược ngă kiến
chúng sinh, thọ gỉa kiến
như tù ngục trong thân
đối với kinh ngọc này
không thụ tŕ tụng đọc
chẳng thấy pháp NhưLai
ch́m sâu ḍng suối độc !
nơi nào mở kinh này
ngâm tụng ḍng thơ nhỏ
khắp cơi quỉ trời người
cúng dường vô lượng độ
như kim thân Như-Lai
như tháp thờ xá lợi
thường tại giữa mây bay
XVI
vô cùng trăng sao vỡ
vô cùng bọt nước tan
năng tịnh nghiệp chướng
người tŕ tụng kinh này
bị người khác khinh chê
v́ nghiệp trước sâu dầy
nay nghiệp tội tiêu tan
khởi phát thanh tịnh tâm
chứng vô lượng đạo quả
như sen ướp, trầm xông
trải qua vô lượng kiếp
tôi theo Phật Nhiên Đăng
cúng dường vô lượng Phật
công đức chẳng so bằng
người tụng phẩm kinh ngọc
nghĩa thâm diệu suy tầm
ngă, pháp thể không tịch
thực chứng đạo viên dung
XVII
rửa tay tam giới mộng
sông cuộn bụi vàng rơi
cứu kinh vô ngă
Hiền gỉa tu-bồ-đề
trải tọa cụ lưu ly
chắp tay lan bạch ngọc
tán thán pháp diệu kỳ!
đức vô thượng Thế-Tôn
truyền tâm đạo Bồ-Đề
pháp nào ư an trụ ?
pháp nào đẹp huyễn mê ?
người thiện nam, thiện nữ
khởi tâm đại Bồ-Đề
hết thảy chúng sinh độ
chúng sinh diệt độ rồi
như không một chúng sanh
mê, ngộ vô sai biệt
đồng tánh trí tựu thành
tu-bồ-đề hiền gỉa
ư ông nghĩ thế nào ?
tôi theo Phật Nhiên Đăng
chứng đạo vàng vô thượng ?
như mật ư Như lai
xưa Nhiên Đăng Phật hội
chẳng một pháp ngoài tâm
không chính đẳng, chính giác
nếu một pháp ngoài tâm
tôi vào vô thượng giác
cổ Phật Nhiên Đăng nào
thụ kư sao thành Phật:
hiệu Thích Ca Mâu Ni
bồ tát chấp ngă tướng
huyễn tướng khởi trùng trùng
như mắt quáng hoa không
chưa thành bồ tát đạo !
thực ra không pháp nào
khởi tâm cầu vô thượng
thực ra không pháp nào
gọi chính đẳng chính giác
xưa nay đạo không lặng
mê, ngộ chẳng ngoài ṿng
một tâm giáp mười cơi
biển lặng bóng trăng trong
Như-Lai là diệu nghĩa
như như vạn pháp thường
xưa nay không một pháp
như bóng chớp hoa sương
không một pháp bồ tát
không ta cũng không người
không trang nghiêm cơi phật
mật nguyện hoa vàng tươi !
làm trang nghiêm cơi Phật
tức trang nghiêm cơi người
ngă, pháp bóng mây nổi
vào ra ḍng nước xuôi
XVIII
một thể nước thanh tịnh
mây sương suôí biển đông
nhất thể đồng quán
hiền giả tu-bồ-đề
diễn bày ư chân thực !
tôi có nhục nhăn chăng ?
quả ngài có nhục nhăn
hiền giả tu-bồ-đề
diễn bày ư chân thực !
tôi có thiên nhăn chăng ?
quả ngài được thiên nhăn
hiền giả tu-bồ-đề
diễn bày ư chân thực !
tôi có tụê nhăn chăng ?
quả ngài có tụê nhăn
hiền giả tu-bồ-đề
diễn bày ư chân thực !
tôi có pháp nhăn chăng ?
quả ngài chứng pháp nhăn
hiền giả tu-bồ-đề
diễn bày ư chân thực !
tôi có Phật nhăn chăng ?
quả ngài có Phật nhăn
vô lượng số sông hồng
vô lượng cát phù giang
như vô lượng cơi Phật
vô lượng tâm chúng sinh
tôi đều như thực quán
tướng đồng dị mang mang
hoá sinh vô lượng kiếp
không ngoài tâm viên đồng
thể không sanh, trụ, diệt
XIX
mặt trời trí huệ sáng
mười cơi một tâm không
pháp giới thông hóa
bố thí vô lượng ngọc
bằng tất cả tam thiên
phúc đức nhiều vô lượng
từ một đại nhân duyên
nếu như phúc thật có
chẳng thể lượng ít nhiều
v́ vốn không thật có
phương tiện nói bao nhiêu
nghiệp duyên như sóng nổi
phúc đức như bọt trôi
khi gío yên biển lặng
t́m đâu bọt giữa khơi
XX
ĺa sương un bọt nổi
tâm hiện một ḍng trong
ly sắc ly tưởng
nhờ kim thân đầy đủ
có thấy tướng Như-Lai
không qua thân mây nổi
mà thấy đức Như Lai
gọi sắc thân đầy đủ
nào phải sắc thân thường
mới gọt thân đầy đủ
huệ đức tạng Kim Cương
qua vạn tướng tốt đẹp
có thấy được Như-Lai ?
không qua tướng mây gấm
mà thấy dấu Như-Lai
đầy đủ tướng tốt đẹp
không phải tướng tṛn đầy
mới tạm gọi đủ tướng
như bóng suối chim bay
như hoa nổi hư không
như mây ch́m đáy nước
ĺa sắc tướng, tâm không
chẳng t́m đâu một bước
XXI
không lời vàng thức ngộ
tâm thể có mê đâu
phi thuyết sở thuyết
người chấp Như-Lai pháp
là không hiểu nghĩa mầu
nghe pháp không chấp pháp
cầu pháp không người cầu
tôi hằng phương tiện thuyết
mê ngộ có xa đâu
vô lượng kiếp kiếp sau
người khởi tâm thanh tịnh
biết cầu đạo nơi đâu ?
t́m mộng trong giấc mộng
người mê, chẳng thấy mê
xưa nay không ngă, pháp
t́m đâu lối bồ đề
XXII
mở mắt dứt mộng lớn
mê ngộ chẳng đôi bờ
vô pháp khả đắc
đức vô thượng Như-Lai
tâm không chỗ sở đắc
đạo cả chẳng trong ngoài
nào có được mảy may
không một pháp vô thượng
chẳng cho cũng chẳng cầu
không hư, cũng không thực
mới gọi pháp nhiệm mầu
XXIII
tâm mười cơi hư không
nẻo vào đâu lối ngơ
tịnh tâm hành thiện
pháp như như b́nh đẳng,
không thấp cũng không cao
vô ngă, vô thọ gỉa
vô nhân, vô chúng sanh
do tu vạn pháp lành,
nẻo vào vô thượng đạo
pháp lành, không pháp lành,
dùng pháp, không nệ pháp.
lợi lạc khắp chúng sinh
niết bàn vô thượng đạt.
XXIV
tiếng chuông vàng thức chúng
cơi mộng thoảng tơ sương
phúc trí vô tỷ
có người dùng báu ngọc,
góp triệu dăy trường sơn.
rộng cho đến côn trùng,
phúc đức vô lượng bể.
không bằng một ḍng kệ,
tŕ tụng hoặc diễn bầy,
ca ngâm kinh ngọc này,
khiến bừng tam giới mộng.
nghiệp đức nước ngh́n sông,
cứu độ nhất thiết khổ,
cúng dường Phật mười phương.
XXV
mưa ngọc trải mười cơi
vô lượng chúng hoa thơm
hóa vô sở hóa
các ông chớ bảo rằng
Như Lai độ chúng sinh
v́ ngă, pháp không tịch
nhân duyên tự độ ḿnh
ḿnh là đảo ngọc sáng
giữa biển vọng vô minh
ḿnh, mắt xích phiền năo
độ người tức độ ḿnh
Như Lai tạm nói ngă
chỉ phương tiện giải bày
kẻ mê chấp thật có
như lặng suối t́m mây
XXVI
vàng vàng hoa mướp nở
mang mang hạt bụi rơi
pháp thân phi tướng
ba mươi hai tướng ngọc,
chẳng quán được Như-Lai.
dùng sắc không thấy Phật,
pháp thân nào trong ngoài.
dùng thân vàng thấy Phật,
dùng khánh ngọc cầu ta,
người đó lạc tà đạo,
đũa ngọc gắp sao tà.
XXVII
ngọn suối sương un trắng
ŕ rào bọt nước xô
vô đoạn vô diệt
xa ĺa thân huệ ngọc,
nên chứng đạo bồ đề.
từ ư đó cầu đạo,
vạn pháp diệt tan đi.
v́ phát tâm vô thượng
không chấp pháp đoạn trừ
xá chi mây tan hợp,
chân thực tướng như như.
XXVIII
vào ra cơn mây nổi
áo rũ bụi vàng rơi
bất thụ bất tham
bồ tát dùng thơ ngọc,
như cát nổi cửu long,
vô lượng kiếp bố thí.
có vị chứng pháp không,
được tạo thành pháp nhẫn.
công đức kể vô cùng,
hơn núi vàng biển ngọc.
vạn pháp không thật ngă,
ḥa hợp đốm mây xanh.
chẳng tham chấp phước đức,
không hưởng phước quả sinh.
tâm ngọc không đắm nhiễm,
tṛn tịnh nhật quang minh.
XXIX
chân khỏa ngọn suối trong
tan mấy từng sao biếc
vô nghi vô tĩnh
có người chấp Như-Lai,
là như lui, như tới.
là như nằm, như ngồi,
thật không hiểu nghĩa nói,
Như-Lai không đâu lại,
không do nơi nào đi.
Như-Lai như thực trí,
v́ khởi ngộ tan mê.
ngă, pháp thể không tịch,
không đi cũng không về.
XXX
một ngọn suối cát trắng
thả mười cơi mây bay
nhất hợp ly tướng
nếu có người thiện nam,
đem đại thiên thế giới,
nghiền nát như bụi vàng.
ông nghĩ bụi nhiều chăng ?
tu-bồ-đề tác bạch:
vô cùng hạt bụi vàng
v́ nếu bụi có thực,
Như-Lai không nghĩ bàn.
thực tướng ĺa ngôn thuyết,
ẩn dụ ư mang mang.
những hạt bụi nhỏ đó,
tức không phải bụi vàng,
mới thật là bụi nhỏ.
Thực tướng khó suy bàn,
chẳng chấp phương tiện thuyết,
ba ngh́n cơi đại thiên.
không ba ngh́n thế giới,
mới gọi đại tam thiên.
vị thể không biện biệt.
nếu cơi kia có thực,
h́nh tướng hợp như mây,
một h́nh tướng hợp lại,
tức không phải tướng này.
mới gọi tướng hợp lại,
nhân duyên giấc mộng vầy,
như ánh chớp trời ngọc,
như thoảng nắm sương bay.
h́nh tướng mây tan hợp,
lời không thể nghĩ suy.
ḷng tham chấp sự tướng,
nghe thêm chẳng ích ǵ.
như dưới cầu nước chảy,
vừa đó đă qua đi.
tôi thuyết, phương tiện thuyết,
người nghe, không chấp nghe,
bỏ quên lời bặt ư,
tự hiện tâm bồ dề.
mười phương nào ngăn ngại.
XXXI
máu huyết cất nhật nguyệt
một cơi ánh lưu ly
trí kiến bất sinh
nếu có người cho rằng:
Phật nói ngă, nhân kiến,
chúng sanh, thọ, gỉa kiến,
có hiểu ư tôi chăng ?
người nào đó hiểu nghĩa,
phương tiện thuyết Như-Lai.
lời nói không trọn ư,
người nghe chẳng vẹn lời.
v́ tập kiến chấp chặt,
càng xa nghĩa diệu vời.
người phát tâm bồ đề,
tin, thấy, biết như thực.
chấp trược chẳng sinh ḷng,
thực chứng minh huệ đức.
viên ngọc dấu trong tay,
nghe lời, tin lời thế
chẳng khởi tâm giữ lời,
cốt ĺa xem ngọc thể.
niềm tin thoảng bóng mây.
XXXII
một cành hoa mai nở
trang nghiêm đồi thông hồng
vô hóa phi chân
có người dùng mưa ngọc,
rộng cho khắp tam thiên.
phúc đức vô lượng bể,
chưa bằng viết ḍng kệ.
tŕ tụng hoặc diễn bầy
ca ngâm kinh ngọc này,
khiến tỉnh tam giới mộng.
nghiệp đức nước trùng dương,
cứu độ nhất thiết khổ.
đền ơn Phật mười phương.
người nhập kinh diệu này,
xa ĺa huyễn ngă pháp,
vô ngại bóng mây bay,
cúng dường nhất thiết vật.
tự tại giữa vần xoay,
thể như như bất động,
trùng trùng pháp hữu vi,
như huyễn mộng bọt nước,
như bóng chớp sương mai,
thường quán tưởng như thị,
Phật nói kinh này rồi,
hoa cúng dường phơi phới.
chim tụng vi diệu âm,
mây về mười cơi giới.
trưởng lăo tu-bồ-đề
tỳ khưu, tỳ khưu ni,
ưu bà tắc bà di,
khắp cơi quỉ trời người,
hoa hỷ bừng pháp hội.
KHÉP KINH
chẳng nương bè trúc ngọc,
vượt qua suối mây hồng,
con chim vô lượng kiếp,
về tha trái nhăn không.
ĐỘNG HOA VÀNG
chim từ
bỏ động hoa thưa
người từ tóc biếc
đôi bờ hạ đông
lên non
kiếm hạt tơ hồng
đập ra chợt thấy
đôi ḍng hạc bay
Qua Suối Mây Hồng - phụ lục
NGĂ PHÁP MÂY NỔI
Tôi đang ngồi trên một chiếc ghế, một chiếc bàn viết gỗ nâu đặt ngay khung cửa sổ nh́n xuống khu đất cỏ xanh nằm xuôi hai bên con sông đọng nước tịch mịch. Khung cửa này là lối ngơ của hoàng hôn, của trăng sao, hoa cỏ và cả những tiếng chim lạnh buốt hắt vào tâm thức tôi mỗi chiều. Tất cả thế giới đó kết lại làm huyết bào nuôi dưỡng khí chất, nuôi dưỡng mảnh thân thể hiu hắt, rừng núi của những dù nấm hóa thân làm tinh tú mỗi đêm. Tôi , nuôi dưỡng tạo vật trong ḿnh, cưu mang tất cả nhật nguyệt mất máu ... Tôi tựu thành con xoáy khủng khiếp của vô lượng hành tinh lấp lánh trong ḍng ngân hà xa xăm. Tôi là một kết hợp dồn nén của tinh lực vũ trụ, của những dải mây huyền bí nhất, những mạch nguồn sâu thẳm nhất như bầy ngựa xanh chuyển vó, như ngàn ngàn con sông mang hoa lá dồn về. Tôi là đại dương nơi băo gío hát ca, nơi tụ đọng lớn lao của nước mắt loài người.
Những ống máu trong tôi cuồng nộ như trăm ngàn ḍng Hồng Hà mang cát đỏ nuôi dưỡng h́nh hài.
Trái tim tôi: Một nửa là cao nguyên Tây Tạng, nơi nghi ngút tuyết bay, nơi tím ngắt mặt trời, và một nửa là vực sâu của đại dương. Mỗi nhịp đập là lăng đăng mây bay, là gầm gừ biển lớn, là muốn xô nghiêng cánh cửa Âm, Dương, là vẫy gọi mặt trăng đầu thai vào mặt trời để trần gian ch́m toàn thể trong bóng tối thân mật, vắng vẻ, vĩnh cửu của mọi nhăn pháp so đo.
Bây giờ thỏi nến vàng ệch lù mù trước mặt, chỉ đủ sức quyến rũ những con dế lang thang, những cánh bướm bỏ sương mù vào sưởi ấm. Tôi rất quư những bạn láng giềng này, những khúc ca, những cuộc chơi rong trọn kiếp, mà không bao giờ t́m thấy giữa loài người. Tất cả mọi tiếng ca chỉ c̣n lại trong tiếng rú thống thiết của ư thức thất bại. Tất cả mọi bước chân rong ruổi là những bước chạy trốn tù ngục tự thân. Cũng dưới ngọn lửa này, những trang kinh càng trở nên héo úa, những trang giấy nghi ngút tà dương. Mỗi phiến giấy thơm trở nên một chiếc lá khô xào xạc, những chiếc lá cuối mùa của một cồn rừng ǵa thâm u vắng vẻ. Những nét chữ cổ hiện thân từng đốt xương mục, từng nghành củi đeo đét th́ thào, từng cỗ xương chim ră nát, từng mảnh sỏi vô hồn ... Tất cả chỉ c̣n là bèo bọt lênh đênh trên cơn hồng thủy ư niệm dâng ào ạt trong tôi. Tôi hú gọi mật nghĩa về nhập xác. Tôi chuyển tinh năng vào từng ngữ ngôn hồi sinh. Tôi kết tinh tú lại làm ḍng kinh thơ nhật nguyệt. Tất cả bừng sáng trên một tâm địa huy hoàng. Mỗi ḍng kinh Kim Cương là một suối tóc biêng biếc hiu hiu, là sợi mưa thu lăng đăng, là một lấm chấm hoa đào, là sợi hương thơm tan loăng từng mây, là dế đá ngủ giữa mặt trăng và đàn ca năo nuột, là Nhị tướng giao nhau đẻ ngược ra Đấng vô cùng. Tôi gọi hồn thiên thu nhập với gang tay. Tôi chiêu vía vô cùng hiện giữa sương bụi. Tôi đốt xác hoàng hôn làm triêu dương mở mắt.
Mỗi ḍng kinh thơ, là một mạch máu. Mỗi mạch máu là ḍng tinh khí mặt trời, là một hơi thở băo tố. Tôi thở bằng kinh thơ, cưu mang từng túi phổi. Tôi đâm nổ ư thức tôi cho những ḍng kinh vọt ra như vô vàn cây mống trời. Nút xoáy tinh lực không c̣n, tôi vỡ tung như trăm ngàn mảnh mây hào quang kiêu ngạo vỗ cánh vào vũ trụ. Mỗi chữ, mỗi nét mực xanh là mỗi cô đọng tinh lực vũ trụ. Sức mạnh của một biển cả thu gọn trong nét chữ bùa chú ngàn cân dưới cán bút ấn quyết xẻ núi. Tôi chỉ c̣n là kết hợp tạm bợ của sa mạc ư niệm, nằm chờ tiếng réo huyền bí của gío rừng tóc vô lượng ḍng kinh. Tôi c̣n vô lượng chiếc kén tơ của con tằm đang mọc cánh thoát h́nh vỗ cánh ra đi làm trăng sao vằng vặc.
Bây giờ đúng ba giờ đêm. Mỗi vị sư là mỗi thế giới tịch mịch, mà mỗi gian pḥng là những cảnh giới vũ trụ riêng biệt. Quí thầy ngủ yên ấm như một bóng trăng hiền từ trong giọt sương. Chỉ c̣n tôi và ḍng sông dưới kia vẫn tỉnh thức cô quạnh. Tôi phải thức với ḍng sông, thức vĩnh cửu cho ḍng sông chảy măi, tôi chợt bâng khuâng trước một bóng bóng dáng trên tường. Không đó chỉ là chân dung của tổ Bồ-Đề vác thuyền trượng khai thị trên vai, treo chiếc giầy cỏ vi mạt vô minh như một chấm than chênh vênh cuối cùng; chiếc giầy duy nhất đạp lên Nhị tướng để ĺa cả sự ra đi. Trở về và ra đi cũng chỉ là sự gỉa danh, chỉ sự lênh đênh của cuộn mây trắng. Trở về chỉ là sự ra đi trùng sinh, sự ra đi nhập diệu, v́ hoàng hôn bên này là triêu dương bên nọ, cũng như lá cờ vĩnh cửu chỉ tung bay trong nhận thức, ḍng sông chỉ chuyển dịch trong huyết mạch, bia mộ chỉ là bia mộ của ảo tưởng thường tại; ảo tưởng này là biến chứng của tâm bệnh tham chấp và mê loạn.
Sự chết không phải là sự trở về mà là sự ra đi đột biến, sự vượt cầu vào mây khói. Cây cầu lửng như là dấu nối ngắn ngủi giữa hai đầu của sự vô cùng - là một ảo giác hiện nổi lên giữa vô cùng tím ngắt cỏ hoa. Cỏ hoa là hiện thân của vô cùng vi diệu. Kẻ yêu cỏ hoa là kẻ đi vào vô cùng. T́nh yêu là chân tướng của vô cùng - chim non trong hốc cây - Mẹ dậy tiếng hót tŕu mến - Ngụ từ bất tuyệt thiên thu. Ngụ từ là liếc mắt mầu nhiệm. Ngụ từ là ngọn tóc bâng khuâng. Ngụ từ là tiếng em nước suối. Ngụ từ là tiếng bồ câu gù nhau trong hốc cây. Ngụ từ là con chim nho nhỏ tha cỏ lên cành. Ngụ từ là câu hỏi vu vơ: Sao em áo xanh đă vàng lệ đợi. Ngụ từ là muôn về trong một. Ngụ từ là ngôn ngữ tinh nguyên. Ngụ từ là nụ cười mầu nhiệm. Ngụ từ là ẩn tích của ngôn ngữ. Ngụ từ là ngụ từ.
Kẻ lữ thứ qua cầu, muốn mau qua cầu như một cơn mưa thu, v́ đường c̣n xa, c̣n bao nhiêu núi cao mây trắng cám dỗ, c̣n bao nhiêu cồn hoa suối mát đợi chờ, rồi đến một thị trấn nào đó ít lâu lại làm lại cuộc ra đi. V́ máu huyết thường hằng sôi động ra đi. Tôi rất thèm những chuyến xe chợ xọc xạch, vừa mang tôi đi, vừa dằn vặt tôi, cũng như tôi vừa ra đi vừa dằn vặt ḿnh trọn kiếp. Tôi chán ngán hết mọi tỉnh lị. Tôi thèm một chỗ ngồi bên cửa xe, hút một cối thuốc, nh́n lên cây cao lăng đăng sương dài theo cỗ xe dong duổi t́m kiếm mảnh mặt trời vàng cuối núi. Tôi chỉ thèm chuyển dịch. Khinh thị những phố núi, đèo mây, những viện rượu ven rừng ngừng nghỉ. Nhổ nước bọt vào những ga mưa, chợ phố, những hang hốc cư ngụ. Tôi sống trọn vẹn bằng máu huyết ca hát lên đường. Chỉ có ra đi mới giải thoát. Giải thoát sự giải thoát mới giải thoát. Ra đi là bản chất của dịch hóa vũ trụ. sự ra đi cuối cùng, sự ra đi tột đỉnh là ra đi của sự ra đi, ra đi trong nỗi không tịch sấm sét.
Một chiều, có lẽ vào một mùa hạ thật xa, ngày ấy như một cánh chim biếc đă rụng xuống ven núi rũ xương. Tôi cắp tấm nhựa về một ruộng lúa ngoại ô, nằm hút thuốc nh́n trời, việc nh́n trời cao đối với tôi cũng cần thiết như đóa hoa, sách quư, trông cây và như hai bữa cơm rau thanh đạm. Tôi chợt thích thú đón xe đi Vũng Tầu và t́m được chuyến xe cuối ngày lưa thưa hành khách. Thế rồi cỗ xe chợ ǵa cũng vừa kịp thả tôi xuống thành phố cùng với vừng sao đêm chi chít trên băi biển. Tôi vời khung xe gỗ ngựa chất đầy bóng tối về phía băi sau. Vó ngựa lọc cọc rơi mưa trên con đường cheo leo lưng núi. Tôi bỏ xuống chọn một quán ăn có cây đèn gío vàng ệch trên tường. Gọi một phần ăn, một ly rượu nâu đậm, một phin cà phê rồi ngả lưng nhồi cối thuốc hút nh́n biển. Biển đêm trở thành cây dương cầm gỗ huyền hoặc. Những ngọn sóng ŕ rào trong hốc đá, những ngọn gío hú vi vu cuồn cuộn chung quanh. Những bờ cây nào rũ tóc. Những đỉnh non nào le lói trăng sao. Biển chỉ c̣n những tiếng khóc, những tiếng thổn thức, tiếng nấc nghẹn thống thiết, tiếng nguyền rủa th́ thầm, tiếng hát ca man rợ. Biển là hiện thân của sự đau khổ chất chứa; nơi tụ đọng tất cả nước mắt loài người và trùng thú. Biển là dấu chấm hết vĩ đại nhất của thiên thu, cũng như giếng mắt huyền nhiệm của xử nữ, nơi vắng bặt sau cùng của mọi bản anh hùng ca chuyển núi. Biển là nước mắt kết thành tiếng khóc, tiếng khóc tự kết thành nước mắt. Nước mắt tự vỡ ra âm thanh năo nuột. Biển là vũng máu thiên thu, vũng máu vô ngàn năm tím ngắt. Biển là giọt máu duy nhất c̣n lại, chứng tích của cuộc ám hại, sau khi tên sát nhân vĩnh cửu xa bay. Biển là cỗ trống đồng meo mốc thúc giục mây xám lên đường. Biển thường xuyên tung tín điều cho loài người man rợ. Biển quyến rũ máu huyết hát ca. Biển là thông điệp thăm thẳm của thông điệp và sấm dậy; vắng vẻ ghê rợn và bùng nổ kinh hoàng. Hỡi con nước bất măn kia. Ta vứt xuống ngươi một cọng râu khinh thị. Hỡi dấu chấm câu hun hút kia. Ngươi nhỏ xuống lưng chúng đời sống như một ḍng văn ngô nghê. Hỡi thông điệp mê hoặc kia. Ngươi chỉ cần thiết cho những ngọn núi rầu rĩ. Hỡi thủy huyệt huyên náo kia, hăy trả mây trắng hồi sinh, hỡi bầy ngựa thiên thu kia. Hăy ḥ hét lên đường. Hỡi trùng dương sương muối kia hăy đổ xuống nụ cười thêm mặn.
Tôi ngạo nghễ đứng lên trong những cử chỉ và khuôn mặt thật thô, bỏ xuống băi cát theo dấu chân một suối tóc thủy quái về cuối băi. Thân lau sậy đó đă mất hút từ khi cây đèn băo vàng ệch tắt phụt trên cột quán lần thứ nhứt, cũng như viền trăng lúc đó mất hút trong cơn mây đen ào bay. Một con chim nào mất dấu trên bầu trời, một tiếng chim nào chết đuối trên biển động. Dấu chân thứ nhất. Dấu chân thứ hai. Dấu chân thứ ba. Dấu chân thứ tư. Dấu chân thứ năm, thứ saú.... Ḍng chân hiện ra cùng với mảnh trăng trên băi cát, tôi gián tâm thức vào cuộc truy tầm dấu tích. Ḍng chân hút dài về cuối băi. Tôi măi theo và phát hiện thêm một ḍng chân đậm hơn ngược chiều. Những dấu chân đực cái giao nhau chần chừ, rồi trở thành những xoáy cát sâu hoẳm. Tôi ngồi xuống nh́n đôi chân ḿnh, đôi chân như h́nh ảnh cuộc sống, những dấu chân, những biểu tượng rơi rớt quẩn quanh. Hồi nhỏ, trước mỗi lần chui vào tấm phản gỗ hoàng tâm, đặt sau lưng khung cửa đất nh́n ra những tháp núi un sương ảo nghiệm, nghe tiếng dế gáy bùi tai, nằm thở hiu hắt với mảnh nguyệt đầu giường, mẹ tôi lại đem soi chân ra ánh trăng, nếu c̣n cát bụi là bế tôi ra con suối nhỏ đầu nhà, đem khỏa chân con xuống ḍng nước róc rách, cho cát bụi xuôi theo con suối với sao đêm. Có lẽ từ những ngày mất hút đó cùng với ánh trăng nơi trang trại Đá Trắng; một cơi sương khói tít mù. Tôi đă lớn lên và đă bao lần rửa chân mà thật ra chưa một lần nào sạch cát: cát hồng, cát tía, cát xanh, cát bẩn tưởi, cát hào quang ... tất cả mọi thứ bám đầy chân và lấp dần huyết mạch, đóng sạn trong tim, tụ lại nếp óc làm nên sa mạc, một thứ sa mạc đầy băo nổi và xương ngựa khô. Tôi đă gián bao nhiêu dấu chân trên mảnh đất này. Những dấu chân thèm đất, hút nhựa sống từ ḷng đất nuôi dưỡng tâm linh, chuyển vào đất những thất bại tức tưởi, gơ trên đất những âm động lao xao. Dấu chân đuổi theo những dấu chân. Dấu chân chạy trốn những dấu chân. Dấu chân khoan thai phỉnh gạt. Dấu chân sợ hăi chù chừ. Mỗi bàn chân là một ngọn cây cằn cỗi, một loại hoa xương rồng ngát hương. Mỗi ngón chân là một nụ sinh lực hồng hào, là một nhành hoa ngà ngọc. Mỗi người là một thân cây mọc ngược; gốc từ không trung, hấp thụ thanh khí nhật nguyệt, tinh chất cỏ hoa máu huyết biển núi. Mười nhành rễ chim bay, hút mật hoa hồng, uống suối ngọc thạch, hứng nhụy thông cao, mang thể chất vũ trụ vào sinh trưởng.
Tất cả mọi con đường đều h́nh thành bằng những dấu chân. Những dấu chân ngàn xưa c̣n nạm đá cẩm tỏa sáng. Nhũ+ng dấu chân hôm nay đặt lên con đường rêu phong đó; những phiến đá kết tinh nô lệ, những dấu chân hôm nay ra đi chẳng tự tại chút nào, dù mỗi người đều có ư thức rằng ḿnh tự do một cách tù túng, mơ ước tự do một cách nô lệ.
Những dấu chân mờ dần trên băi biển, rồi vô tăm tích dưới những đợt sóng đen tối. Cơn thủy triều đă dậy như một hàng dừa xanh. Ḍng chân trên cát biển bây giờ hiện rơ trong tôi như một ḍng mực, như những nét chữ kỳ diệu của trang kinh Kim Cương. Tất cả mọi con đường, mọi ước vọng, mọi vóc dáng, mọi khuôn diện chợt vắng lặng trong tôi như một con chim bay tấp vào cơn mây đen, như một ḷng suối cát biếc không vẩn gợn mây đục, như giọt nước ôm trọn vầng trăng. Trong giếng khơi thanh tịnh đó chợt hiện lên một bông hoa tím ngắt, nhỏ như đầu kim, một đóm hoa rơi, một chấm hoa mùa thu của kư ức. Không đó chỉ là một bọt nước nổi lên, phản ảnh chùm sao ly ti, chùm Bắc đẩu le lói biến hiện.
Tôi chợt khinh thị tất cả tư tưởng, phẫn nộ với tất cả vách đá chiếm hữu mặt trời, độc quyền mặt trăng, ăn cắp tinh tú ngh́n xưa, đè nặng bóng tối huyền nghĩa xuống tâm thức con người. Tôi muốn chẻ tất cả tượng gỗ xuống nhóm lại bếp lửa nhân gian cho mọi sự sống ḥ reo lên đường, cho ngh́n suối mang hoa xuống non, cho trăm sông mang máu hồng về biển, cho trùng dương thả mây trắng phiêu bồng, cho rừng già thố lộ với núi cỏ, cho sỏi đá t́nh tự với chim muông, cho tinh tú nhào vào mạch máu, cho em hong tà dương từng ngọn tóc, cho anh vợi hoàng hôn trong mắt xanh, cho mùa đông cất cánh, cho thung lũng thay mầu, cho xuân thu đổi áo, cho tất cả chiến tranh, tất cả h́nh thái phơi sương nḥa lệ thực sự vắng lặng nơi mỗi người. Mặt trời phải sống dậy nơi mỗi người. Mặt trời không c̣n là xác chết, không là vụn đá, không là sa mạc ứ đọng huyết mạch. Mặt trời trùng sinh. Mọi con đường nổ tung. Mọi dấu chân tỉnh thức. Mọi bàn tay mọc cánh thăng hoa. Tôi đọc được mật nghĩa từ một ḍng chân mất hút trên băi biển.
Tôi đứng dậy bâng khuâng, và trọn đêm bới cát, đắp mũi tên vàng từ bờ xa cắm phập xuống biển xanh.
Sáng hôm sau tôi từ băi biển thức dậy với mặt trời. Một con chim xanh đậu trên đầu mũi tên như một cầu lửng cát vàng bắc xuống biển. Con chim ca hát hiu hiu, rồi lao cánh mất hút trên sóng biếc như một mũi tên bích ngọc. Tôi tiểu tiện vào biển và nhặt một vỏ ṣ trắng, ôm giọt nước xanh trong kẹt đá với mặt trời rực rỡ ly ti. Tôi bỏ lên, t́m vào quán ăn rồi đáp xe về tỉnh.
Qua một kiếp sống nổi nêng, mỗi người đă vượt qua bao nhiêu cây cầu; một cây cầu trúc vàng, một cây cầu đá xám, một cây cầu tre La Ngà, một cây cầu ván thiên, một cây cầu sắt rỉ ... Bao nhiêu con cầu dựng lên để tiếp nối những ḍng chân, những bước đi không bao giờ ngừng nghỉ, v́ tư tưởng là ra đi, ra đi từ bản chất, ra đi trên những dấu chân, trên những nẻo đường ảo tưởng, những lối quạnh tàn trăng. Giấc mơ cũng là sự ra đi, ra đi trong dấu chân hoài niệm và thao thức. Chỉ có giấc ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp, giấc ngủ chết lịm, giấc ngủ của Đạo gia, giấc ngủ của kẻ đau nhừ thất bại, và hoan hỷ trong sự thành công mĩ măn nhất, tột đỉnh nhất của ư thức thất bại, đồng nhất trong sự thất bại ném tung gỉa ngă xuống cỏ, một giấc ngủ không lo nghĩ, không tham vọng, không chấp nhặt v́ tất cả đều thất bại, v́ nhất tức nhất thiết, v́ nhất thiết tức nhất, v́ cỏ hoa cũng là tứ chi, v́ nước mắt tha nhân cũng làm ḿnh rướm máu, ḿnh khóc bằng máu, thở bằng nhịp tim, ăn uống bằng nhật nguyệt, cưu mang sự đau khổ loài người trên mỗi sợi tóc, trong mỗi chân lông, trên mỗi tế bào, trên mỗi vó ngựa ư thức trong rừng rậm tịch mịch, vượt qua khỏi bờ Nhân Ngă, nhẩy vọt vào đồng nhất với đại đồng. Chỉ c̣n lại một vầng trăng giữa thiên thu, giữa rừng tóc bồng bềnh mây nổi. Vừng trăng là nụ cười, nụ cười là con mắt, con mắt tịch mịch nhiệm mầu, con mắt nuôi nấng hào quang, con mắt cửa ngơ vào đại thể, con mắt cuối cùng của một nhân sinh xao xuyến. Con mắt đó vẫn ngủ êm trong mỗi người. Đó là giấc ngủ thanh tịnh nhất. Giấc ngủ cuối cùng ra đi, ra đi cả sự ra đi; mọi dấu chân xoáy tṛn làm tinh tú, mọi tinh tú nổ tung làm mọi cơi giới châu ngọc lưu ly. Một giấc ngủ Không Tịch, gối đầu, duỗi chân trên hai đỉnh tuyệt vô song.
Nụ cười của Phật Thích Ca là thông điệp của sự thất bại ư thức. Tất cả quyền uy điện ngọc, và ḷng thương yêu rộng lớn và trí sáng suốt vô cùng, và ḷng dũng cảm vô biên và nỗi đau nhức vô lượng của chúng sinh, những bước chân lênh đênh cầu giải thoát những đạo sư ngủ gật trong rừng tối siêu h́nh ... Tất cả những tương quan hiện tượng đó, tất cả những cung bực mê loạn đó đă đưa Phật đến cuối cùng của sự thất bại và nhẩy vọt vào Tự Tánh Không của vạn pháp, nổ tung mọi thức tướng sai biệt, dứt vọng niệm, thể nhập vào tạng tính chân như, cho cây trải hoa cúng dường, cho chim diễn bầy vi diệu, cho trùng trùng tạng kinh luận mở cửa treo trăng.
Ngă pháp đều không tự tánh, nên chỉ là giả lập, gỉa tướng, một phương tiện hư ngụy để vượt hư ngụy; một bè trúc xanh nổi nênh qua ngọn suối mây hồng.
Viết trong đêm đầu thu 1969
Pháp Vân Thiền Viện
HIỆN HÓA PHÁP
Thầy Quảng Trí
Mùa mưa năm nay lại về như một bầy câu trắng. Bầy chim mang theo những trái biếc; những cánh hoa và những rung động xào xạc. Trong cuộc đời chúng ta đă bao lần đuổi bầy mưa đi, gọi mây lớn về. Tâm hồn, mỗi kẻ đă biến đi mất hút bao nhiêu trận băo núi thổi tới, những xoáy gío hồng cuồng bạo, những cơn giông xanh nhẩy múa từ vách đá, từ đại dương, từ hốc sỏi, từ những ngọn cỏ, những cổ thư, những cửa hẹp, những đầu ngón tay, những suối mắt, những nụ cười, sợi tóc và kể cả những cơn mê loạn chính ḿnh. Những cuộn gío dấy đất, rên xiết, hú hếu rồi mất hút tịnh yên trong một tâm giới không lặng. Trận băo nào cũng bắt đầu từ chính ḿnh, và mất dấu từ chính ḿnh. Những trận băo hằn lên thân thể như bao nhiêu đường roi xanh quận lại tâm thức như một ổ rắn lục. Tại sao chúng ta phải cưu mang ? Mỗi nét mi, mỗi nốt tay, mỗi nhành chân, mỗi lời nói và hơi thở, tôi thấy đều là rắn, đều là những mầm mống dấy động nổi loạn. Tại sao chúng ta không thả chúng xuống ḍng sông ? Phải chăng chúng ta đă hoàn toàn bất lực, đă ung thối từ khi mới nở hoa, đă côi cút và bị tước đoạt bắt đầu từ một thức giới gỉa tưởng, đă mệt mỏi trên những bước thang hào quang bắc tới một thứ tuyệt đối hăo huyền.
Trong mỗi chúng ta đều có sẵn những chốn ẩn trú, những cơn phố tịch liêu, những trạm ngựa ủ rũ, những ga sương tháng mười, những chợ khu âm động, những di chúc rầu rĩ c̣n ứ đọng trong máu huyết mỗi người. Chúng ta sống hoàn toàn bằng cái chết. Tất cả tử khí đó đă làm tê cứng gân máu chúng ta. Chúng ta chỉ c̣n lại một thứ xác khô canh giữ di ngôn trong ngôi cổ mộ thất lạc.
Tôi muốn ra đi tất cả, từ bỏ tất cả, như một lăo đại hành khất, như một thiền sư vân thủy lang thang, như một con chuồn chuồn huyết dụ, như một vệt sao rơi, như một tia chớp giữa mộ đá tàn lụi. Tôi muốn ra đi khỏi những lời nói, những ư nghĩ, những t́nh cảm vụn vặt. Tôi muốn ra đi khỏi cả sự ra đi. Tôi muốn yêu mến thất bại để phá hủy mọi tham vọng. Tôi muốn sự từ khước cuối cùng đối với tất cả nơi trú quán siêu h́nh. Tôi muốn trở nên một tế bào reo ca trong cơ thể nhân loại. Tôi muốn đâm nổ con mắt, v́ tất cả mọi bước chân sợ hăi đều bắt đầu từ con mắt. Tôi muốn ngả co dưới một lớp tuyết trắng. Tôi cũng thèm tư cách thản nhiên của vách núi. Tôi thèm cuộc rong chơi như nước xanh. Tôi muốn không c̣n mọi ước muốn. Nhưng tôi vẫn t́m kiếm trí khôn, quỉ biện, lảm nhảm ... Đó là mọi hiện tượng bạc nhược, hèn mọn nghiệp dĩ. Tôi vẫn lừa đảo ḿnh trước cái chết bằng tất cả thành công và hạnh phúc bẩn tưởi. Tóm lại, tôi vẫn chuẩn bị cho sự nhắm mắt cuối cùng quá nhiều.
Tôi có thói quen tự nghĩ về ḿnh. Trước đây ba mươi năm và lẻ một ngày, th́ tôi chỉ là con tinh trùng nguyên sơ trong một môi trường trong suốt. Rồi, quán tưởng đến bẩy mươi năm sau, tôi lại nguyên vẹn c̣n một nắm xương mục giữa những rễ cây gặm mút chằng chịt, và bên trên một thảm cỏ xanh, những thiếu nữ đang vít cành, hái trái xương tủy tôi ăn thích thú. Từ nhăn quan này tôi trở nên yêu mến mọi người và tất cả đời sống đều trở nên khôi hài kỳ hoặc. Một lần, tôi đi xem cuộc đua ngựa, tôi chợt nổi cười nghiêng ngả: Tôi thấy gần hai chục con tinh trùng người cưỡi gần trên hai chục con tinh trùng ngựa phóng đua măi miết, trước mấy trăm con tinh trùng đang ḥ hét và đánh cờ bạc; có con mặt hoa da phấn, có con đội mũ hút thuốc nghênh ngang. Ôi! Thật là khôi hài. Tôi lại chợt có ảo giác: chung quanh tôi, mấy trăm bộ xương trắng nhởn đang bầy cách gặm lẫn nhau. Ôi! Tôi muốn ù té chạy khỏi băi chết ghê rợn này. Nhưng, tôi chợt nhận ra ḿnh trong số đó, cũng chỉ là khung xương. Tôi chợt kinh tởm chính ḿnh. Từ sự bắt đầu tạo dựng mỏng manh đến sự hủy phá cuối cùng bi thảm hiện đến trong tôi chưa đầy một hơi thở. Tôi chợt đứng ngoài ḍng dịch hóa. Bên ngoài những h́nh thể gỉa tưởng và cảm thấy ḿnh rỗng không tịch mịch; những cơn mây chiều dường như phiêu bạt trong tôi, như một đàn cá thu kéo về theo tiếng réo của trùng dương, khúc hát huyền bí của tâm thể.
Tất cả mọi khổ năo đều bắt đầu từ ư thức. Sự giải phóng tối hậu phải là sự giải phóng con người ra khỏi gỉa ngă, và thiên chấp sai biệt. Con người vượt thoát hiện tượng giới tức là chuyển đổi tư tưởng giới, giải phóng mọi ràng buộc nô lệ, mọi định thức giáo điều, để bước vào ngưỡng cửa một tâm giới mới, an trụ ở vô trụ. Vô trụ mà thực ra dung hóa được toàn thể trở lực. Tôi cho rằng Hiện Hóa Pháp của người Việt hoàn toàn bỏ xa Biện Chứng pháp của Hégel; một thứ biện chứng duy lư, ngưng đọng dựa trên những đường xoáy ảo tưởng: một đầu là ngôi vị tối cao, một đầu là hư vô mở rộng. Hiện Hóa Pháp Việt Nam không dựa trên một định thức, một con đường nào, nên không chỗ bắt đầu và cũng không nơi cuối cùng, mà chỉ là cánh cửa mở tung nhận thức, đập tan mọi kiến chấp hư ngụy để đối mặt với thực tại ảo diệu, duyên khởi, toàn khắp và nhất như của ḍng sống, "Khôn cũng chết, Dại cũng chết, Biết th́ sống", "Khôn, Dại" là hai mặt của cuộc đời, là hai cực của tiêu chuẩn hành động, là hai vế của Nhị nguyên. "Cũng chết" là tự chuyển biến đắp đổi dung hóa lẫn nhau. "Biết th́ sống" tức là vượt mâu thuẫn để điều ngự mâu thuẫn, nổ tung thiên chấp gỉa tướng, trực nhập ḍng sinh hóa mênh mang, tan rữa mọi vực bờ Nhân Ngă, vắng lặng mọi tham vọng so đo, và dẫn đến B́nh Đẳng Tánh Trí của muôn loài một vô môn quan dung thông Vô ngại. Đó là ch́a khóa để mở cửa những bế tắc chiến tranh, là sinh mạch của ṇi giống Việt: Hiếu ḥa Hiếu sinh nhưng kiên cường tự chủ.
Mọi h́nh thái chiến tranh chỉ là chiến tranh của Quyền và Lợi. Mọi mê chấp Quyền và Lợi chỉ là sự sai lầm về nhận thức. Mọi kiến quan sai lầm chỉ là hậu quả của tâm bệnh bỏ quên bản chất và đánh mất thực tại. Vậy, đời sống lịch sử chỉ là một tiếp diễn đào thải và liên tục bắt đầu từ mỗi ư thức, mỗi cá nhân và mỗi thế hệ. Sự bắt đầu luôn luôn vươn tới sự tỉnh thức tự thân ra khỏi hang động ẩn trú của mọi nỗi sợ hăi, và lề thói trá ngụy trong một tinh thần dung hóa và sáng tạo truyền kiếp.
Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhăn quan chỉ là không của hư Ngụy. Nó có thể đóng lại và cũng có thể mở toang vào Nhật Nguyệt. Chỉ khi nào không c̣n người nh́n ngắm Nhật Nguyệt và cũng không c̣n Nhật Nguyệt để nh́n ngắm, th́ lúc đó không c̣n dụng tướng của cánh cửa và tâm thức trụ nhập với cỏ tím hoa vàng, đó là Nhập Pháp Thân Thường Trụ Như Lai.
Tôi viết những ḍng chữ này thực cuồng lưu. Tôi tự biết ḿnh đang nốc từng đấu nước biển để bốc lửa cơn khát. Những đấu nước có thể là máu, là nước mắt là mồ hôi của biển xanh. Tôi tự biết những ḍng chữ bất lực và hư huyễn này không kêu gọi được ǵ trong cuộc chiến tranh VietNam và mọi réo gọi trong cuộc chiến hiện nay càng đẩy con người vào ngơ cụt đầy hoang mang và thù hận chồng chất. Viết đă là phản bội ḿnh lẫn người đọc. Nên tôi muốn những ḍng mực này, xin như những giọt nước, những gợn mây, những hơi gío thu thoang thoảng gợn nổi trăm ngàn con ốc trên da thịt hiu hiu. Nó sẽ tan biến trong một tâm thể sinh động và nổ tung sấm sét. Nó chỉ là ngọn cỏ nổi nênh dưới chân thiền sư vượt suối, không tạo nên một con đường nào v́ những bước chân đă trở nên thừa thăi của kẻ trên đ̣.
Bây giờ nắng đă bắt đầu rực rỡ trên những cánh bướm vàng quẩn quanh những đóa hoa trắng thơm vừa nở trên thành cửa sổ. Cho tôi được dừng bút nơi đây trở về Phật Viện, vác cuốc xuống vườn trồng cải xanh.
Viết tại thư viện Vạn Hạnh
cuối thu 1969
Tuệ Không Phạm Thiên Thư
đại nguyện
Nguyễn Thị Minh
Trầm thơm quyện tỏa hồn mơ
Trà sen nhấp giọng ngâm thơ ngọc vàng
Mỗi ḍng là ánh từ quang
Mỗi trang là khói chiên đàn thoảng xa
Mong sao mười cơi Ta Bà
Bao nhiêu cát sỏi trần sa trở ḿnh
Kinh Ngọc là khối quang minh
Là đường cứu độ chúng sinh mọi loài
Nguyện cho khắp cơi trần ai
Tỉnh cơn ác mộng nở đài liên hoa
Trầm tư Thơ Ngọc, Đạo Ca
Mỗi người là một pháp ṭa trí bi
Cảm tác khi đọc Kinh Ngọc
SaiGon ngày đầu xuân Tân Hợi
Bồ Tát Giới - Đức Minh
Nguyễn Thị Minh
với ḍng Kinh Ngọc
trần thị tuệ mai
Trong miền cát bụi phiêu du
đă ngày mê mải, đă mùa trầm luân
mắt xanh ánh biếc phai dần
nh́n người kinh hăi, tưởng thân tật nguyền
mịt mờ khuôn mặt hoa niên
tóc chiêm bao rụng khô miền hỗn mang
e như xuân đất trời tàn
cây khô da thịt ngổn ngang rừng người
Chợt thơm hương phấn tuyệt vời
âm thanh Kinh Ngọc nở mười phương hoa
Thắp lên ánh sáng Đạo Ca
ngàn mùa xuân trước dựng mùa xuân nay
Rừng đời trổ lộc muôn cây
ḷng đời chim hót ấm đầy t́nh thương
tóc chiêm bao mướt trầm hương
ôm bờ vai ngọt - vô thường - chân như ...
tặng bác phạm thiên thư
bùi giáng
chùa
chạy quanh khu vực thần tiên
mỏi chân mười ngón kết liên bốn mùa
vườn cây trái ngọt trái chua
mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên
cây mọc
Đạp thanh từ tiết phiêu bồng
Hỷ căn du hư thần không ngậm vành
cây trời mọc đất trút nhanh
giờ đi bên khắc đêm thanh loạn ngày
quận
Giây rừng rút động chiều trưa
góp sương châu quận về mưa thị thành
xa từ lũng tạ âm thanh
T́nh vân nhứ mạo xuân xanh chiên đàn
Bùi Giáng
trụ vũ
vườn dâu
vườn dâu năm trước c̣n không
sớm nay nở với vừng đông một cành
chim linh hót tiếng vô thanh
quê hương ta hạt gieo lành ngh́n năm
hoa mướp
hoa mướp tṛn như trăng tháng tám
tṛn như tâm của đức Mầu-Ni
gío khơi thổi động cành phơ phất
hoa mướp muôn đời chẳng nói chi
con kiến
sớm mai
mặt trời mọc
trong ánh sáng diệu huyền của tâm linh
trên cành xoài lá xanh đông phương
những con kiến hành hương
về ánh sáng
Tôi nghe nhất thể nhiệm mầu
khởi điệu t́nh ca
Lê Nghị
giọt về
một mai
giang - tố quan - hà
một lần
nữa thác là sa giọt về
núi ầm đổ
ngọn triều khê
Cuộc chơi
thành Đá
Cuộc về thành không
VÀO CƠI KHÔNG TỊCH
Vũ Tài Lục
Gốc rễ tín ngưỡng Phật học là chữ "Không" (néant) Không chẳng phải là Vô (nothing) v́ Vô là cái ǵ quay lưng lại với Hữu (something) cho nên chỉ là tương đối. Không mới thật là tuyệt đối.
Không của nhà Phật xuất phát từ kinh nghiệm sinh hoạt bản thân. Theo Phật thể chứng th́ loài người mê lầm rất sợ hăi cảnh giới Không đó v́ Không là nơi vô t́nh vô vật, t́nh cảm vật chất đều tiêu diệt. Bởi sợ cảnh giới Không nên cố bấu víu vào Tâm hoặc Vật để mong t́m ra niềm an ủi mỗi khi nghĩ đến khoảng khắc của phút lâm chung. Bởi mê lầm nên nhận Không ra Chết. Thật ra Chết mới là t́nh trạng giải thể của vật chất và tinh thần chứ chưa phải là tiêu diệt. C̣n ở cảnh giới Không th́ hết thẩy mọi cơ duyên cũng như bi khổ đều tan biến mất. Giác ngộ được ư nghĩa chân Không th́ vẫn đứng ngang nhiên ở cơi đời mà siêu nhiên thoát tục.
Lặng ngồi xem cuộc bể dâu thay
Gío thu thổi gốc mai cầu nọ
Áng áng hoa vàng trước dậu bay
Kinh Kim Cương ghi những lời Phật giảng dẫn đường vào cảnh giới Không để phá bỏ những mê lầm về sự biện nhận cảnh giới này.
Tên kinh gồm tám chữ là: Kim Cương bát nhă ba la mật đa kinh. "Ba la mật" dịch âm của tiếng Phạn có nghĩa là "bờ bên kia" ư chỉ một việc đă viên măn. "Bát nhă" là "trí tuệ". Kim Cương là tên một khoáng chất rất rắn, rất sắc, chất rắn sắc của nó nguyên lai vẫn đầy đủ không phải nhờ các vật khác rèn đúc, Phật lấy nó mà ví dụ như trí tuệ của người ta từ vô thủy ai ai cũng có khi thành bậc thánh nó cũng không thêm chút nào, lúc là phàm phu nó cũng không kém chút nào, nó đă không bị vô minh từ vô thủy làm ch́m đắm, trái lại nó c̣n chiếu tỏ để phá tan cái vô minh, ư như gío quét mây bay, gío tan sương móc. Khi có đủ Kim Cương bát nhă th́ người với pháp đều hết, sự với tướng đều không. Trong lời giảng Phật bảo ông Tư Bồ Đề rằng:
Bồ tát nên xa ĺa hết thảy cái tướng hư vọng, phân biệt ḥa hợp mà phát cái tâm vô thượng chính đẳng chính giác, không nên y trụ vào lục trần mà sinh ḷng sai biệt, chỉ nên sinh cái tâm không trụ vào chỗ nào, nếu tâm c̣n có chỗ trụ, th́ là vào chỗ điên đảo không phải là trụ vào bát nhă vậy. Đọc thấu đáo kinh Kim Cương là có thể thấu triệt chữ Không của Phật học, bởi thế kinh Kim Cương là một loại kinh ở bậc cao. Sư cụ Thiều Chửu một vị rất uyên bác Phật học khi dịch kinh này đă viết:
"Kinh này có nhiều nghĩa lắm, nguyên văn chữ Phạn dịch ra chữ Hán có đến sáu bản dịch khác nhau, các nhà chú giải th́ có hàng mấy trăm nhà, hiện văn tự c̣n lưu lại th́ cũng tới tám mươi hai nhà, mỗi nhà đều sở đắc một nghĩa đều có vẻ cao thâm huyền diệu cả, nhất là bộ Kim Cương huyền nghĩa của cụ Cát Tạng lại càng mênh mông bát ngát như trời như bể, bởi thế mà các Tổ xưa mới bảo rằng kinh này là kinh Vô lượng nghĩa, là kinh không thể lấy văn chữ, nói năng mà h́nh dung được. Các Tổ uyên bác là nhường nào mà c̣n kêu là khó, là không thể lấy văn chữ nói năng mà h́nh dung được th́ tôi, tôi là một kẻ kém đức có bao giờ dám cầm bút mà dịch."
Nay khác hẳn với thái độ băn khoăn, khiêm tốn đến câu nệ của người thuộc thế hệ trước, thầy Phạm Thiên Thư táo bạo xông xáo vào kinh Kim Cương, chẳng phải chỉ để dịch mà thôi, Thư dám chuyển cả ư nghĩa bộ kinh này thành thơ rồi đặt cho một cái tên rất hay, rất thơ: Kinh Ngọc Qua Suối Mây Hồng. Phạm Thiên Thư đă thành công, cái thành công căn bản của Qua Suối Mây Hồng là phá bỏ sự ề à vẫn thường thấy trong các kinh sách với những câu "trầy vai áo chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng ..." hay "lại nữa ông Tu bồ đề này" hoặc "Như nay con hiểu ư của Phật nói th́" v.v... nghe dễ chán và bực ḿnh.
Bằng những lời thơ êm dịu, Qua Suối Mây Hồng làm cho người đọc như tựa lưng dưới bóng hoa nghe hồi chuông tĩnh tâm của ngôi cổ tự mà lim dim ngủ; vào cơi Không Tịch thanh thoát như người tiều phu nào đó ngày xưa mải mê xem tiên đánh cờ dựa cái búa bên cạnh, lúc tan cuộc cờ nh́n lại th́ cán búa đă mục.
Bằng lời thơ êm dịu, Phạm Thiên Thư đẩy nhẹ con thuyền trí tuệ lướt trên gịng kinh cho người đọc thoải mái thênh thang đi tới cảnh giới Không ở giữa rừng hoa tịch mặc tháng ngày thoáng tiếng suối thần rơi.
Đọc kinh Kim Cương người ta có thể đến hạnh bồ tát để xử sự với thế gian bằng thái độ trong nhiệt t́nh vẫn giữ niềm xa cách, ở vẻ nguội lạnh vẫn chan chứa ân t́nh.
Nào những ai đă nguội ḷng giấc mộng oa tranh nh́n công danh như hạt nước đọng trên cánh hoa, phú quí như giọt sương bám trên ngọn cỏ, Hăy t́m đến gịng suối mát Kim Cương bát nhă
VŨ TÀI LỤC
MỤC LỤC
Lời Giới Thiệu
Tựa
Qua Suối Mây Hồng
1) pháp hội nhân do
2) Thiện hiện khải thinh
3) đại thừa chính tông
4) diệu hành vô trụ
5) như lư thực kiến
6) chính tín hy hữu
7) vô đắc vô thuyết
8) y pháp xuất sinh
9) nhất tướng vô tướng
10) trang nghiêm phật độ
11) vô vi thắng phúc
12) tôn trọng chính giáo
13) như pháp thụ tŕ
14) ly tướng tịch duyệt
15) tŕ kinh công đức
16) năng tịnh nghiệp chướng
17) cứu kinh vô ngă
18) nhất thể đồng quán
19) pháp giới thông hóa
20) ly sắc ly tướng
21) phi thuyết sở thuyết
22) vô pháp khả đắc
23) tịnh tâm hành thiện
24) phúc trí vô tỷ
25) hoá vô sở hóa
26) pháp thân phi tướng
27) vô đoạn vô diệt
28) bất thụ bất tham
29) vô nghi vô tĩnh
30) nhất hợp ly tướng
31) tri kiến bất sinh
32) vô hóa phi chân
33) phụ hội
34) động hoa vàng
35) ngă pháp mây nổi
36) hiện hóa pháp
37) thơ - nguyễn thị minh
38) thơ - tuệ mai
39) thơ - bùi giáng
40) thơ - trụ vũ
41) thơ - lê nghị
42) vào cơi không tịch
43) *
44) mục lục
45) *
|
Quay trở về đầu |
|
|
dungtuvi Thượng Khách

Đă tham gia: 21 June 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 423
|
Msg 10 of 11: Đă gửi: 07 April 2006 lúc 8:14am | Đă lưu IP
|
|
|
ththu đă viết:
Chào Chi Dungtuvi,
Thưa Thu chưa gap Thi Si PTT bao gio, Thu chỉ đoc thơ cua Anh va nghe noi den gia đ́nh Anh PTT qua gioi Van Nghệ Si và báo chi ở bên này.
Mới đọc được bai viet ve Anh PTT , va ph/ pháp PHATHATA thay hay nên post lên diễn đan để anh chi em o ben mỹ ( + hai ngoai ) noi rieng va moi nơi biet den những sinh hoat (tuong doi ) moi cua Anh PTT nếu chưa biết, và để học hỏi chia xẻ về một môn dưỡng sinh của VV, do người Việt , mà lại là một nhà Thơ, nhà Thiền... khám phá ra
Khong biet Chi Dung co tập PHATHATA chưa, hay có kinh nghiem gi về PHATHATA xin Chị chỉ bảo thêm cho Thu và chia xẻ với anh chi em trên diễn đàn này.
Và Nếu Chi Dung nhan hộ được với Anh PTT về mục này mà Anh PTT có ḷng và th́ giờ lên diễn đàn chỉ bảo thêm cho Thu và đồng bào Việt ở khap nơi trên thế giớo tu tập PHATHATA thi quư hóa quá
Kính Thân,
Thu |
|
|
chào ththu ,tôi là anh dũng ,tôi có hỏi ư anh PHẠM THIÊN THƯ .ảnh cười bảo ảnh đă quá già ,và đặc biệt dốt vi tính lắm , chẳng biết sử dụng máy đâu ,chắc tôi chuyển đạt lại lời nhờ của ththu xin anh cuốn sách về PHATHATA mà ảnh viết phốt lên đây cho mọi người cùng tập và hiểu biết về phathata .
dungtuvi
|
Quay trở về đầu |
|
|
ththu Hội viên

Đă tham gia: 31 March 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 11
|
Msg 11 of 11: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 5:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
chắc tôi chuyển đạt lại lời nhờ của ththu xin anh cuốn sách về PHATHATA mà ảnh viết phốt lên đây cho mọi người cùng tập và hiểu biết về phathata .
dungtuvi
[/QUOTE]
Thua Anh Dungtuvi,
Cam on Anh, the thi tot qua. Mong Anh som xin duoc sach cua ANh PTT va post len dien dan nay cho moi nguoi cung hoc oi. Cam on ANh nhieu lam, toi rat thong cam anh PTT, chi goi y mong cau anh PTT cho phep post phuong phap tap luyen phathata len dien dan cung la dieu qua tot rọi Mong ANh D giụp
Thu,
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|