Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 180 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Từ Bi Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
haclong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Italy
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 1 of 3: Đă gửi: 10 April 2006 lúc 3:17am | Đă lưu IP Trích dẫn haclong

Từ Bi


Người hằng mong thanh tịnh:
Nên thể hiện pháp lành,
Có khả năng, chất phác,
Hiền ḥa, không kiêu mạn.

Sống dễ dàng, tri túc,
Thanh đạm không rộn ràng,
Lục căn luôn trong sáng,
Trí tuệ càng hiển minh

Chuyên cần, không quyến niệm,
Không làm điều ác nhỏ,
Mà bậc trí hiền chê,
Nguyện thái b́nh an lạc,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc

Chúng sinh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung b́nh,
Thấp cao không đồng đẳng,
Hết thảy chúng hữu t́nh,
Ḷng từ không phân biệt,
Hữu h́nh hoặc vô h́nh.
Đă sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết.
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc.

Đừng lừa đảo lẫn nhau,
Chớ bất măn điều ǵ,
Đừng mong ai đau khổ,
V́ tâm niệm sân si,
Hoặc v́ nuôi oán tưởng.

Hăy mở rộng t́nh thương,
Hy sinh như từ mẫu,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của ḿnh,
Hăy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh.

Từ Bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ ải,
Trên dưới và quanh ḿnh,
Không hẹp ḥi oan trái,
Không hờn giận căm thù.

Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ c̣n thức tỉnh,
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.

Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm tŕ,
Đạt Chánh trí viên măn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử.

[Lời Đức Phật dạy trong Kinh Từ Bi - Kinh Tập, Tiểu Bộ]

Nếu chúng ta đứng quá gần một tấm kính, ta sẽ không thể thấy ǵ. Mà xa quá th́ cũng thế. Chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải th́ mới có thể nh́n thấy rơ.

Kinh Từ Bi quá quen thuộc đối với đa số chúng ta. Chúng ta hiểu nghĩa kinh khuyên nhủ ta nên thương yêu tất cả mọi người. Điều đó rất đúng. Nhất là đối với những người gây khó khăn cho ta, những người không theo ư ta, không như ta mong đợi. Vậy ta hăy bước gần lại với Kinh Từ Bi nếu ta đang đứng quá xa, và hăy lùi lại vài bước nếu ta chỉ biết thuộc kinh, để hiểu thật sự những lời kinh nói ǵ, có ư nghĩa ǵ.

Kinh bắt đầu với: Người hằng mong thanh tịnh, nên thể hiện pháp lành... Đó là một lời nói khá thú vị v́ nó diễn tả tính hoàn thiện như một kỹ năng, và kỹ năng có thể được rèn luyện, học tập. Tất cả chúng ta đều có những kỹ năng do rèn luyện mà có được. Nói năng là một kỹ năng. Đi đứng cũng thế. Chúng ta đă luyện tập những kỹ năng nầy khi c̣n bé, và sau bao nhiêu năm, giờ chúng ta đă trở nên quá thuần thục. Việc hành thiền cũng là một kỹ năng có thể được học tập, rèn luyện, và trong thực tế, thiền đang được người ta học tập, rèn luyện. Lái xe, giặt ủi cũng là kỹ năng. Chúng ta học tập các kỹ năng nầy trong các công việc hằng ngày ở nhà.

Thiện tánh được rèn luyện qua giáo dục, môi trường, nhưng nó sẽ chẳng thể hoàn toàn nếu như chúng ta không cố gắng thực hành. Nó không phải tự nhiên mà có. Tất cả chúng sanh đều có căn tánh thiện, nếu không, chúng ta đă không có mặt ở nơi nầy. Do nghiệp lành mà ta có mặt nơi đây, nhưng chúng ta cũng mang đầy các nghiệp chướng. Đức Phật trong bài kinh này đă hướng dẫn đầy đủ các cách để viên măn thiện căn trong ta. Đó là một phẩm kinh ngắn, mở đầu với những lời giáo huấn cơ bản trong cuộc sống đời thường, dẫn đến hoàn toàn giải thoát giác ngộ. Đây là bài thuyết pháp có nhiều cấp độ. Các bài Pháp của đức Phật thường là như thế; ai cũng có thể lắng nghe, dầu là những người sơ cơ hay đă huân tập lâu ngày, đều có thể t́m thấy sự lợi ích. Tất cả chúng sanh, những ai có thể nghe và lănh hội được, có thể áp dụng bài kinh để đi từ cuộc sống thế tục dần tiến lên cơi thanh cao.

Đức Phật nói lời thuyết pháp của Ngài tựa như biển cả. Lúc đầu khi ta c̣n ở gần bờ, th́ biển cạn. Có thể chỉ làm ướt chân ta. Khi ta tiến sâu hơn ra xa, biển trở nên sâu hơn, sâu hơn nữa để dần trùm phủ ta trong ḷng biển. Giáo lư của Đức Phật cũng thế. Chúng ta bắt đầu bằng cách nhúng chân, thăm ḍ nước biển ấm lạnh. Như khi ta thử hành thiền nửa ngày, rồi dăm ba ngày, cho đến khi cuối cùng, ta có đủ can đảm để dự khóa tu thiền mười ngày và có thể hành thiền suốt thời gian ấy. Chúng ta học Phật pháp cũng thế, từng chút từng chút, cho đến khi cả cuộc sống của ta đều là sống trong Pháp.

Và rơ ràng sự b́nh an không phải do ai ban tặng cho ta. Chính ta phải t́m lấy. Không thể có b́nh an chỉ v́ ta mong mỏi hay ước muốn điều đó. Mà chúng ta phải nỗ lực t́m kiếm. Không thể đạt được điều ǵ, nếu không có sự nỗ lực.

Tiếp theo, Đức Phật cho biết ta cần có những đức tính ǵ để có thể viên măn thiện tánh, đạt đến giải thoát. Có hai điều căn bản quan trọng nhất trong bài pháp nầy, đó là cách ta giao tiếp với người. Trước hết ta phải tự sửa đổi chính bản thân. Không ích lợi ǵ khi chúng ta chỉ nói, hay nghĩ: "Từ bi, từ bi, từ bi..." nhưng không làm ǵ để tự thanh lọc bản thân.

Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh ḷng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại trên thế giới. Những đức tính nầy được kể ra.

1) Trước hết, ta cần có khả năng, không phải phụ thuộc vào người khác, chỉ dựa vào chính bản thân. Tự lực sẽ khiến ta có ḷng tự tin; ḷng tự tin lại khiến ta cảm thấy tự tại. Khi chính ta cảm thấy tự tại, ta mới có thể mở ḷng thương yêu người khác. Ngược lại khi ta c̣n phải phụ thuộc vào kẻ khác, c̣n phải nhờ vào sự giúp đỡ, hỗ trợ, nhờ vào ḷng tốt của người khác để có thể sinh tồn hay hoàn thành các công việc hằng ngày, th́ chúng ta luôn lo sợ rằng họ sẽ bỏ rơi ta. Sự sợ hăi, âu lo không thể mang đến cho tâm sự b́nh an. Tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau, nhưng ḷng sợ hăi bị bỏ rơi hay không có khả năng để tự chăm sóc là một vấn đề hoàn toàn khác. Sự sợ hăi quá đáng có thể khiến ta phải tuân phục theo bất cứ điều kiện nào để nắm giữ cái ta đang có, do thiếu ḷng tự tin. Như thế làm sao có thể tự tại?

2) Cần sự chất phác... Người chất phác không chỉ nói lời chân thật, là điều căn bản, mà cũng không t́m cách lợi dụng người hay tạo điều kiện để thủ lợi cho cá nhân. Chất phác là hoàn toàn chân thật, chỉ nói những điều dựa vào sự hiểu biết của ḿnh, chứ không phải để làm vừa ḷng người khác. Chất phác có nghĩa là chúng ta coi trọng sự thật. Giáo lư đức Phật đặt trọng tâm ở "bốn chân lư cao diệu". Nếu chúng ta tự biết ḿnh có tánh chất phác, trong sạch, ta sẽ không bao giờ xa rời các cảm xúc, hiểu biết của ḿnh. Chúng ta biết ḿnh chân thật với chính ḿnh. Nếu không như thế, ta sẽ không bao giờ có được tâm b́nh an.

3) Kế tiếp ta phải thẳng thắng... có nghĩa là trung thực, không quanh co, không tô vẽ, không dua nịnh. Người như thế cần có tâm chân thật. Không có tâm chân thật th́ khó có thể là người trung thực. Đó là một khả năng, cần được trao dồi bằng chánh niệm trong thiền định. Với người thẳng thắng, ta thấy dễ giao tiếp. V́ ta biết rằng họ chỉ nói những điều họ thật sự nghĩ. Chúng ta không phải thắc mắc, "Không biết họ có thực sự nghĩ vậy không? Không biết nói thế, họ có ư ǵ?" Trái lại, ta có thể tin tưởng họ. Với những người đáng tin cậy, ta sẽ có được sự liên hệ tốt đẹp. Nếu tất cả mọi người đều có thể tin cậy lẫn nhau, th́ liên hệ giữa con người sẽ dễ dàng, bớt phức tạp biết bao nhiêu.

4) Không kiêu ngạo... Một thành ngữ tiếng Anh có nói "Kiêu ngạọ đứng trước Thất bại". Kiêu ngạo là sự tập trung vào cái ngă một cách vô lư, dầu đó là kiêu ngạo về địa vị, sở hữu, sự thành đạt hay dáng vẻ bề ngoài. Tất cả chỉ để tôn vinh cái ngă. Hay hơn thế nữa. Ḷng kiêu ngạo khiến ta có cảm giác ḿnh hơn người, khiến ta lạnh lùng với người.

Có câu chuyện về một người Bà la môn ở vào thời đức Phật c̣n tại thế. Ông ta được đặt biệt hiệu là Cứng Cỗ (Pridestiff) v́ không bao giờ chịu đảnh lễ một ai. Dầu cho người đó là các đấng ông ta hằng thờ phụng, hay là các sư phụ của ḿnh. Ông ta cũng không bao giờ đến nghe đức Phật giảng Pháp. Nhưng một ngày, trước sự kinh ngạc của mọi người, ông ta đă xuất hiện. Ông ta lắng nghe đức Phật thuyết pháp, và khi đức Phật chấm dứt bài pháp, ông đến đảnh lễ đức Phật. Cả hội chúng đều phải kêu ồ lên. Tuy nhiên ông ta có giao ước với đức Phật. Ông nói rằng sau khi được nghe bài thuyết pháp của đức Phật, ông rất muốn được trở thành đệ tử của Ngài, nhưng ông không muốn đánh mất biệt hiệu của ḿnh. Cho nên sau nầy nếu có gặp đức Phật ở nơi công cộng, đức Phật có chấp nhận cho ông chỉ ngă mũ chào, thay v́ phải quỳ đảnh lể theo đúng phép tắc? Đức Phật đă chấp nhận lời đề nghị đó. V́ thế ông ta đă giữ biệt hiệu ‘Cứng Cổ’ cho đến ngày cuối đời.

"Cứng nhắc v́ Tự Ái" là cách chúng ta thường nói. Sự cứng nhắc cho thấy người đó không có khả năng chấp nhận những tư tưởng mới, những cái nh́n mới. Tự ái là một quan điểm, và bất cứ điều ǵ mới mẻ đều có thể làm cho cái nền tảng mà ḷng kiêu ngạo được đặt trên đó bị lung lay. Rất khó cho người tự ái học hỏi một điều ǵ mới. Người đó rất thường nói, "Tôi biết rồi" trong lúc thực sự người ấy không biết ǵ hết.

5) Sống dễ dàng ... khiến người khác dễ giao tiếp, chuyện tṛ. Không hay giận dữ, nổi nóng v́ những điều nhỏ nhặt, thường để ư đến điều người khác nói, có khả nắng lắng nghe. Biết lắng nghe là một nghệ thuật, mà đa số chúng ta chưa phát triển được. Sống dễ dàng, dễ giao tiếp khiến phát sinh những mối quan hệ tốt với người. Người khác cảm thấy được cảm thông, được lắng nghe, không bị chỉ trích, được giúp đở.

Tuy nhiên, "dễ giao tiếp" không có nghĩa là hay nói chuyện phiếm, hay nói để mà nói. Mà đó là người đáng để chúng ta tṛ chuyện, người đầy ḷng thương yêu với mọi người. Không có ḷng thương yêu, th́ khó thể khiến người muốn đến gần ta, v́ ta đang măi lo nghĩ về bản thân hơn là nghĩ về ai khác.

Trước khi nói đến thương yêu tha nhân, ta cần phải hội đủ những tính chất trên. Bài kinh đă không nhắc đến ḷng từ bi, t́nh thương cho đến khi tất cả những điều kiện khác đă được nói rơ.

Đức Phật đă dùng một ẩn dụ để nói về những loại người khác nhau. Đức Phật đă so sánh những người lắng nghe Ngài với bốn loại nồi khác nhau. Loại thứ nhất bị lủng ở đáy. Khi người ta chế nước vào, nước lập tức chảy thoát ra. Những ǵ vừa nghe thấu tai nầy đă ra tai kia. Loại thứ hai có vết rạn. Khi đổ nước vào, nước cũng dần dần thấm ra ngoài. Loại người nầy khi rời khỏi chỗ ngồi, ra đến cửa là đă quên ngay. Loại thứ ba là loại đă đầy đến tận miệng. Đây là những người luôn nói "Tôi biết, tôi hiểu rồi". Những người nầy hoặc là không lắng nghe, hoặc những điều họ nghe thấy chẳng có ảnh hưởng ǵ. Ta có thể chế thêm bất cứ ǵ, nhưng họ đă đầy những quan điểm riêng, những hiểu biết riêng của họ. Cuối cùng là loại nồi không thủng đáy, không có vết nứt, hoàn toàn trống rỗng. Ta có thể chế nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước măi sạch trong như thế để cho mọi người cùng uống.

6) Điều kiện kế tiếp là hiền ḥa... Hiền ḥa đối nghịch với sấn sổ, lấn lướt. Người độ lượng đă phát triển được tâm đến độ thấy được lỗi ḿnh hơn là thấy lỗi người. Tự thấy được lỗi ḿnh rất lợi ích cho ta, v́ ta có thể tự sửa đổi. Trái lại, thấy lỗi người th́ không ích lợi ǵ. Chỉ khiến ta thấy không ưa người khác. Rồi từ không ưa, dẫn đến không thân thiện, căi vả, tranh luận, biện thuyết, tất cả đều vô ích. Người độ lượng th́ hay tự soi rọi ḿnh với tâm đầy chánh niệm.

7) Thanh đạm ... Người thanh đạm, tự tại là người thanh thản. Do đó ta cần phải biết bằng ḷng với hoàn cảnh, môi trường sống, tiền bạc, vẻ bề ngoài, hay sự hiểu biết của ta. Không có nghĩa là ta trở nên dể dải. Tự tại và dể dải không phải là một thứ.

Sự dể dải khiến ta nói: "Tôi đă làm tất cả khả năng rồi. Tôi yên ổn rồi. Không phàn nàn ǵ hết". Trái lại, sự tự tại là "Những ǵ xảy ra cũng là điều kiện giúp tôi tiến bộ". Sự tự tại rất cần cho hoà b́nh. V́ sự phật ḷng, trái ư khiến tâm cũng như thế giới trở nên đảo lộn. Khi không vừa ḷng, ta dễ làm những việc kỳ cục nhất để thay đổi những ǵ ta nghĩ là nguyên nhân. Chúng ta tranh căi, cố thay đổi những người sống quanh ta, thế giới ta đang sống, tranh căi về các món ăn, về quan niệm, đôi khi cả tôn giáo. Tại sao tất cả những việc nầy lại xảy ra? V́ ta không tự tại, không vừa ḷng. Tất cả các hành động trên đều không mang đến sự tự tại. Chỉ có một cách khiến ta được tự tại vừa ḷng là hăy tự sửa đổi ḿnh. Là điều không thể thực hiện được khi không có tự tại. Mà chỉ có thể được thực hiện với ḷng kiên nhẫn, cố gắng và một ít trí tuệ. Không có trí tuệ sẽ không có ǵ xảy ra cả.

8) Tri túc ... Tri túc có nghĩa là chúng ta không có nhiều tham cầu cá nhân; không phải v́ chúng ta đè nén chúng, mà là v́ ta nhận thấy chúng không đem đến cho ta hạnh phúc. Chúng ta không chạy đuổi theo đủ kiểu áo quần mới, đủ kiểu bàn ghế, ăn uống hay những thứ vật chất khàc. Nhờ thế ta được tự tại v́ ta biết bằng ḷng với những ǵ ḿnh đang có. Chúng ta hiểu rằng dầu ta có mua sắm, sở hữu bất cứ thứ ǵ, rồi chúng cũng trở thành cũ, rách, để rồi cuối cùng ta cũng phải vứt bỏ chúng đi, mà ta lại phải khổ sở chạy đuổi theo chúng, khiến ta không được tự tại. Dĩ nhiên, ta cần có những thứ cơ bản cho cuộc sống của ta được thơa mái, nhưng ta không cần những thứ ấy trong đủ kiểu dáng, màu sắc, kích cở khác nhau mới có thể sống thoải mái.

Ham muốn th́ khổ đau v́ nó chứng tỏ là người ta c̣n thấy thiếu thốn. Nếu chúng ta là người tri túc, biết đủ, ta sẽ buông bỏ được ḷng ham muốn v́ ta muốn xả bỏ phiền năo, khổ đau. Nếu ta có được điều ḿnh ước muốn, có thể ta sẽ thấy vui sướng trong chốc lát; nhưng nếu ta không đạt được ư nguyện, th́ ta cảm thấy khổ đau, rồi sau đó ta lại khởi ḷng ham muốn trở lại. Một ṿng luẩn quẩn trong khổ đau, chẳng bao giờ dẫn ta đến được thanh tịnh. Trước khi hiểu được thế nào là ḷng từ bi, t́nh thương yêu chân thật, ta cần phải buông bớt tham cầu, để cái ngă của ta không c̣n chiếm lĩnh mọi suy tư của ta.

9) Không rộn ràng, không bị nhấn ch́m trong lo toan... Nếu chúng ta không có thời gian để quay vào bên trong, tự vấn ḷng, chúng ta sẽ khó thay đổi được ǵ. Nếu ta hết tham gia họp hành, lại viếng thăm hàng xóm, bà con, nếu chúng ta tự tạo ra sự bận rộn, lăng xăng quanh ḿnh, không tự để ta có được giây phút nào tự suy gẫm, thiền quán, th́ ta sẽ không có được sự b́nh an. Chúng ta cần có th́ giờ để tạo ra một môi trường lành mạnh, b́nh an quanh ta cũng như trong ta.

10) Biết cần kiệm cũng là một trong muôn cách... Cần kiệm là một đức tính. Nó chứng tỏ ḷng trân trọng đối với những ǵ đă được tạo ra bằng sức lao động, công khó nhọc của người khác; ta không vứt bỏ đi sản phẩm của họ khi chúng bắt đầu hao ṃn. Cần kiệm cũng có nghĩa là biết bằng ḷng với những cái ít ỏi, không đ̣i hỏi những cái tốt nhất cho ḿnh. V́ lúc nào cũng có cái tốt hơn cái ta đang có. Một chiếc TV lớn hơn, một tủ lạnh rộng hơn, một cái nhà đẹp hơn, một cái xe tốt hơn, không kể đến bao nhiêu thứ có thể khác. Không có chỗ dừng cho các ham muốn. Nếu cuộc đời ta chỉ để chạy đuổi theo những ham muốn đó th́ thật là phí thời gian, phí một kiếp người.

Cần kiệm có nghĩa là biết bằng ḷng với cái càng ít càng tốt, chứ không phải cố gắng để có được càng nhiều càng tốt. Chút ít đến đâu để có thể chấp nhận được th́ có chừng mực, nhưng ḷng ham muốn th́ không có giới hạn. Tham cầu có thể dẫn ta lên đến mặt trăng. C̣n nói được ǵ hơn nữa? Ai cần đến mặt trăng chứ? Chúng ta có thể suy nghĩ thêm về điểm nầy, và cố sống cần kiệm, v́ nó đem đến cho ta sự b́nh an.

11) Các căn thanh tịnh... Sự thanh tịnh của các căn là một trong những yếu chỉ của đức Phật. Các căn của ta luôn dẫn ta đi lạc hướng. Nh́n thấy cái ǵ đẹp, ta liền muốn sở hữu ngay, dầu chỉ là một đóa hoa. Nh́n thấy hoa đẹp, liền khiến ta có những hành động sai quấy như hái hoa, khiến cánh hoa bị hủy hoại, không c̣n mang lại niềm vui cho ai khác nữa.

Thực tập chánh niệm giúp ta nhận thức được rằng nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy. Nghe chỉ là âm thanh. Thấy chỉ là cảnh. Rồi tâm bày vẽ thêm bao điều quanh những cái ta thấy nghe như là: "Cái nầy đẹp quá, tôi muốn có. Cái kia xấu quá, tôi không muốn nh́n, không muốn nghe về nó nữa". Các căn của ta không ngưng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta đâu muốn không được thấy, nghe, ngữi, sờ, nếm. Cuộc sống của ta sẽ khó khăn biết bao nếu thiếu chúng, nhưng chúng cũng mang đến cho ta bao ảo tưởng trong cuộc sống. Chúng giống như các nhà ảo thuật, v́ bất cứ lúc nào, khi vừa tiếp xúc với bên ngoài, chúng lập tức khiến tâm ta tạo ra bao tiếng vang dội, phản ứng. Do vậy ta luôn phải canh chừng các cánh cửa giác quan, để cho dù có thấy, có nghe, có ngữi, có xúc chạm, chúng ta cũng không sinh tâm luyến ái hay ghét bỏ. Điều nầy rất khó thực hiện, nhưng là một yếu tố quan trọng giúp ta thoát khỏi được khổ đau.

Vào thời đức Phật c̣n tại thế, có một vị tu sĩ trưởng lăo, tên là Bahia. Là người đă tu nhiều năm, cũng được bao người kính trọng, nên vị tu sĩ nầy nghĩ là ḿnh đă đắc đạo. Ông nghĩ ḿnh đă dứt bỏ được nhiều ham muốn, sân hận trong nhiều năm. Một đêm kia, một vị thần hiện ra nói với ông: "Bahia, ông chưa thật sự đạt được giải thoát giác ngộ. Thật ra, ông c̣n chưa biết đến con đường đưa đến giác ngộ". Nghe vậy, thầy Bahia rất giận, ông nói: "Ǵ chứ? Tôi mà không biết con đường giải thoát giác ngộ sao? Vậy th́ ai biết? Hăy nói cho tôi biết mau". Vị thần trả lời: "Chính Đức Phật mới là người biết con đường đi đến giác ngộ. Hăy đến tham kiến Ngài".

Thầy Bahia liền hỏi thăm nơi đức Phật ở. Vị thần liền bảo cho ông biết, lập tức, giữa đêm khuya, thầy Bahia ngồi dậy, bắt đầu đi t́m đức Phật. Sáng hôm sau, ông t́m đến ngôi nhà nơi đức Phật đang trú ngụ, nhưng người ta trả lời: "Xin lỗi. Ông không thể gặp đức Phật bây giờ. Ngài đang đi khất thực". Bahia trả lời: "Tôi sẽ đi t́m Ngài". Lại được trả lời: "Không. Xin ông đừng đi. Đức Phật không trả lời tham vấn khi Ngài đang đi khất thực". Nhưng Bahia nhất quyết làm theo ư ḿnh. V́ ông rất nóng ḷng muốn biết con đường đưa đến giác ngộ.

Ông chạy t́m và gặp Đức Phật đang trên đường khất thực. Ông đảnh lễ đức Phật và nói: "Thưa Ngài, tôi muốn được hỏi Ngài một câu". Đức Phật trả lời: "Bahia, ông đă đến không đúng lúc". Bahia lại hỏi và lại được trả lời: "Ông đă đến không đúng lúc". Bahia lại hỏi đến lần thứ ba, Đức Phật nói: "Thôi được rồi, Bahia. Thế ông muốn biết điều ǵ?" Bahia đáp: "Tôi muốn biết con đường đi đến giác ngộ". Đức Phật trả lời: "Nầy Bahia, khi thấy chỉ thấy. Khi nghe chỉ nghe, khi biết chỉ biết". Thầy Bahia liền tạ ơn đức Phật rồi đi.

Buổi chiều, khi đức Phật cùng đi với các vị đệ tử khác, Ngài nh́n thấy xác Bahia ở bên đường, chết v́ một con trâu đâm phải. Đức Phật nói: "Bahia đă chứng đắc giác ngộ trước khi chết". Bahia đă tu hành trong ba mươi năm, và có thể trong nhiều kiếp trước đó nữa, nên đă có thể hiểu ngay những lời dạy của đức Phật. Khi ta thấy cái ǵ, đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ thêm bao nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét. Với các giác quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Tất cả các căn đều không thể khiến ta tạo ra nghiệp kể cả ư căn, trừ khi chúng ta bắt đầu thấy ưa, thấy thích, thấy ghét, thấy chán. Thầy Bahia đă hiểu được điều đó.

Giờ có lẽ chúng ta cũng đă hiểu, và có thể thực hành như thế. Điều đó có thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở, tiếng chuyển động -đó là những lúc ta có thể thực hành chỉ nghe tiếng động. Khi ta nh́n thấy một bông hoa đẹp, chỉ tập nh́n mà không nói rằng: "Tôi sẽ trồng loại hoa đó trong vườn", hay, "Cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng trong b́nh hoa". Hăy chỉ nh́n, và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp xúc với các căn.

Các vị A-la-hán v́ đă thanh tịnh được các căn, đă buông bỏ được mọi ham muốn, nên được tự tại. Đó là sự tự tại với chính ḿnh, khi không có ǵ được, có ǵ mất.

Thanh tịnh các căn, không có nghĩa là hủy bỏ các căn hay đè nén chúng. Chỉ có nghĩa là nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất chân thật của chúng. Khi chân bị đau, liền biết đó là do xúc chạm. Từ xúc chạm dẫn đến cảm giác, trong trường hợp nầy là một cảm giác khó chịu. Cảm giàc đó dẫn tới ư thức: "Đây là sự đau đớn". Từ ư thức dẫn đến tâm hành, "Tôi khó chịu quá. Tôi phải thoát ra khỏi cảnh nầy". Cũng như với các cảnh, cái nghe, cái thấy khó chịu, ở đây ta cũng muốn thoát khỏi cảm giác khó chịu. Sự thực tập nầy giúp ta thêm chánh niệm, để chấm dứt các hành động theo thói quen. Khi chúng ta có thể thanh tịnh dần các căn, ḷng ham muốn của ta cũng dần giảm bớt, giúp ta có được sự tự tại. V́ ḷng ham muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được an. Ḷng ham muốn càng mănh liệt, sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước muốn không được toại nguyện. Không có được cái ta muốn có là khổ đau. Thanh tịnh các căn dẫn đến sự b́nh yên...

12) Trí tuệ... Thật thú vị khi biết trí tuệ là một trong mười lăm điều kiện, v́ ta thường nghĩ con người được sanh ra hoặc là có trí tuệ hoặc là không. Nhưng rơ ràng không phải thế. Nếu ta nằm trên giường ba tháng, ta phải học đi trở lại. Nếu ta không sử dụng cái đầu, th́ ta phải học lại cách suy tư. Trí tuệ là cái có thể rèn luyện và phải được vun trồng bằng phương pháp luyện tâm trong thiền định. Nếu không tu tập thiền, rất khó định được tâm. Tâm không uốn nắn muốn đi đâu th́ đi, từ hạnh phúc đến khổ đau, từ lo âu đến sợ hăi, từ phấn chấn đến trầm cảm, từ ham muốn đến nhàm chán. Tâm được rèn luyện trong thiền quán có thể xử dụng các khả năng bẩm sinh của ḿnh một cách hữu hiệu nhất. Cần phải có trí tuệ mới hiểu được những lời dạy của đức Phật. Tâm sáng suốt là tâm nhanh nhẹn, có thể đổi thay, theo hướng dẫn của ta. Nó sẽ đi đến nơi nào ta muốn và c̣n có thể phát triển. Nó không cố chấp bám vào những thói quen, lề lối, phong cách cũ ṃn. Nó có thể phát triển.

13) Không luyến niệm ... Đức Phật đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam giới và nữ giới. Ngài nói: "Đàn ông giống như những con quạ bay vênh váo trên cao, t́m kiếm con mồi; phụ nữ th́ như giống cây leo, mong t́m một thân cây để tựa nương". Cả hai phái đều phải từ bỏ tính cách của ḿnh. Con quạ là biểu tượng của càn bướng. Ở tu viện của chúng tôi, các chú quạ vẫn tranh phần ăn của mèo. Thật là càn, phải không? Chúng đi thẳng vào hành lang, giựt đồ ăn ngay dưới miệng mèo. Liều càn là biểu hiện của sự quyết đoán. Quyết đoán không giống như tự tin. Tự tin dựa vào sự bằng ḷng với chính bản thân, khiến ta cảm thấy tự tại. Không cần phải lấn lướt ai. Không ai thích người càn bướng, chỉ biết có ḿnh, bất chấp đến ai, giống như chú quạ kia. Trái lại, người tự tin có thể tự đứng trên đôi chân, tin chắc vào khả năng, triển vọng của ḿnh. Không cần phải cho người khác biết về những điều đó. Ngược lại càn bướng không phải là để phát huy ḷng tự tin, mà chỉ thổi phồng thêm ngă chấp.

14) Không bị đám đông lôi kéo... Nếu người khác sân hận, ta không để ḷng sân đó lôi kéo. Nếu ai đó âu sầu, ta không ủ rũ theo. Nếu người khác có ư chỉ trích ai, ta không hùa theo v́ thích nói những chuyện như thế. Chúng ta có thể làm chủ được các cảm xúc của ḿnh.

Khi chúng ta không kềm chế được ḷng sợ hăi, ta sẽ bị khiếp đảm. Khi không kềm chế được sân hận, sẽ có giao tranh. Khi ta không làm chủ được các cảm xúc của ḿnh, ta sẽ bị kẻ khác lôi kéo -đàm tiếu, nói xấu, hỗn loạn, khiếp sợ, chiến tranh. Để không bị cảm xúc của đám đông lôi cuốn, chúng ta cần phải cảm nhận được những cảm xúc của riêng ḿnh, và phải trụ nơi đó. Ta phải tự biết khi nào chúng tốt đẹp, khi nào chúng xấu ác.

15) Hăy tránh xa những điều mà bậc hiền trí chê bai... Đó là điều kiện thứ mười lăm, có nghĩa là không phạm ngũ giới:

1. Tôi nguyện không giết hại sinh vật.
2. Tôi nguyện không lấy của người
3. Tôi nguyện không phạm tà dâm
4. Tôi nguyện không nói lời sai trái
5. Tôi nguyện không uống rượu hay dùng các thứ làm mê say...

Bất cứ ai có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới nào cũng đáng chê trách. Giận dữ, sân hận cũng đáng trách. Thật thú vị khi biết rằng người ta muốn bỏ tánh nầy biết bao. Không chỉ v́ đó là khuyết điểm, mà v́ ḷng sân hận khiến ta rất khó chịu. Ḷng ham muốn, tham lam tuy không bị chỉ trích bao nhiêu, nhưng cả hai cũng đều cản trở sự phát triển tâm linh của ta như nhau. Cả hai được nêu lên ở đây để chuẩn bị cho ḷng từ bi đối với người khác.

Chúng ta không cần đi đâu để hỏi ư kiến của ai. Tất cả chúng ta đều có lương tâm, để tự biết hành động nào đáng chê trách. Nhưng chúng ta thường bào chữa, "Đúng, nhưng tôi phải làm v́...", và chúng ta có cả một bảng liệt kê của bao lư do: "v́ cô ấy quá tệ; v́ anh ta không để tôi làm thế; v́ lúc nào họ cũng nói ..." Chúng ta cần ngưng lại ở nhận thức, "Đây là điều đáng trách". Chỉ cần nhận biết được rằng một y nghĩ, một lời nói hay một hành động nào đó của ta bất thiện là đủ. Cần biết, v́ điều đó giúp ta tránh lập đi lập lại hành động đó. Nhưng chúng ta không cần phải tự dằn vặt ḿnh: "Tôi thật là tệ. Tại sao tôi đă nghĩ suy, nói năng, hành động quái gở quá vậy?" Đó không phải là từ bi. Chúng ta cũng cần có từ bi cho chính chúng ta.

Không cần phải bào chữa, cải chính. Lầm lỗi chỉ có nghĩa là khả năng hành động của ta chưa được viên măn, có nghĩa là ta phải làm vun trồng thêm khả năng đó. Đây là mười lăm điều kiện tiên quyết để vun trồng t́nh cảm t́nh thương người khác. Đức Phật chỉ bắt đầu nói đến ḷng từ bi trong đoạn kinh kế tiếp.

Bài kinh tiếp nối như sau: "Đây là điều ta phải hằng ghi nhớ trong tâm: Nguyện cho tất cả sinh linh tràn đầy muôn hạnh phúc, và nguyện cho tất cả đều được thái b́nh an lạc..." . Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện nầy trong tâm, th́ ta sẽ không bao giờ có những tư tưởng chống báng lại ai.

Bài kinh tiếp nối bằng cách liệt kê đủ loại người:

Bất cứ chúng sinh nào ở trên cơi đời
Dầu cho là loại yếu ớt hay mạnh mẽ
Lớn nhỏ hoặc trung b́nh
Thấp cao không đồng đẳng,
Hữu h́nh hoặc vô h́nh,
Đă sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết...

Chúng ta cần hướng ḷng từ bi đến tất cả chúng sinh, dầu đang sống hay đang t́m đường tái sinh, hoặc là người hay súc sanh, bất kể h́nh thể, kích cở nào, có tướng hay không tướng, ở bất cứ cơi giới nào, không ngoại trừ chi. Chúng ta chỉ thấy được loài người, loài thú, nhưng điều đó không có nghĩa là không c̣n có những hiện hữu khác. Không thể v́ tầm nh́n của ta hạn hẹp mà cho rằng không c̣n ǵ hơn thế nữa. Các chú ong, là một thí dụ, có thể nh́n thấy tia cực tím, nhưng ta th́ không. Loài chó có thể nghe những âm thanh rất nhỏ mà ta th́ không hề hay biết. Do đó, những ǵ ta không thấy, không nghe, vẫn có thể hiện hữu.

Nguyện cho tất cả chúng sinh tràn đầy muôn hạnh phúc ... Chúng ta mong tất cả chúng sinh đều được sống trong ḥa b́nh, hạnh phúc. Chúng ta tập không làm hại đến chúng sinh có nghĩa là ta có ḷng nghĩ đến người khác. Mục đích của chúng ta là không làm hại ai. Nguyện cho tất cả được sống b́nh an, hạnh phúc, và nguyện cho tất cả được tự tại trong ḷng. Nếu chúng ta luôn biết tư duy như thế th́ sẽ được b́nh an, tự tại nơi bản thân, và ở nơi những người ta tiếp xúc.

Câu tiếp theo: Nguyện không ai làm hại ai, Đừng lừa đảo lẫn nhau, Chớ bất măn điều ǵ, Đừng mong ai đau khổ... Hăy nguyện cho chúng sinh không sát hại lẫn nhau. Dầu cho chúng ta không chấp nhận một hành động nào đó, cũng không có nghĩa là ta phải khinh rẻ người thực hiện. Hành động có thể bất thiện, nhưng hăy nhớ có thể người ta hành động như thế v́ bị vô minh che phủ. Nếu chúng ta miệt thị người khác, ta sẽ tạo ra ác nghiệp cho ḿnh. người khác đă hành động như thế cũng đă quá đủ.

Như người mẹ hiền hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa con duy nhất của ḿnh, chúng ta nên nuôi dưỡng một t́nh thương như thế đối với tất cả chúng sinh trong vũ trụ... Chúng ta hăy tưởng tượng ḿnh như mẹ hiền của tất cả chúng sinh -và cũng có thể lắm chứ, trong những kiếp quá khứ- có thể chúng ta sẽ biết phải tiếp xúc với người khác, với tất cả chúng sanh, không trừ một ai, như thế nào. Đây là những lời giáo huấn của đức Phật, và Ngài đă khai thị cho chúng ta như những lời chỉ lối, dẫn đường. Đức Phật đă nói, nếu chúng ta có thể xếp được xương của tất cả những người làm mẹ, làm cha của ta trong hằng hà sa số kiếp, nối tiếp nhau, th́ xương đó có thể bao quanh trái đất nầy không biết bao nhiêu lần. Nếu chúng ta đă có nhiều cha, nhiều mẹ như thế, th́ chúng ta cũng có thể là cha, là mẹ của bao đứa con. Nếu chúng ta có thể nghĩ một cách rộng răi bao trùm vũ trụ, thay v́ chỉ với một vài đứa con của ḿnh ở nhà, th́ ta có thể trăi rộng t́nh thương đến cho biết bao nhiêu người. Nếu tất cả nhân loại đều là con cái của ta, dĩ nhiên, ta không thể mong mỏi tất cả đều theo ư của ta muốn, chúng phải như thế nầy, hành động như thế kia. Tất cả đều không phải "của tôi". Nếu chúng ta có thể tư duy như thế, th́ những cái ta coi là "cái của tôi" hẳn là sẽ giảm bớt. Người mẹ sẽ hy sinh thân mạng để che chở cho đứa con một của ḿnh, đức Phật đă dạy. Chúng ta cần nên đối với mọi người bằng tấm ḷng của người mẹ như thế.

Điều đó dường như không thể thực hiện được, nhưng đó là những lời khai thị, giúp ta nhận ra rằng chúng ta rất thiếu t́nh thương dành cho tha nhân. Điều nầy càng rơ ràng hơn, nếu như ta so sánh t́nh thương ḿnh dành cho con ḿnh với t́nh thương dành cho con của người hàng xóm. Nói ǵ đến tất cả chúng sanh trên thế giới nầy? Nhưng cũng không phải là không thể nào ươm trồng sự quan tâm, chăm sóc, thương yêu, hỗ trợ cho tất cả chúng sanh, nhất là những người đang sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo.

Đức Phật mỗi sáng đều tọa thiền, lúc đó, Ngài thường phóng lưới từ bi ra ngoài. Với thiên nhăn của ḿnh, Ngài sẽ cứu vớt chúng sanh nào có thể cúu vớt được. Sau đó Ngài đến với người ấy và truyền Pháp cho họ. Ngài đă hoằng pháp như thế trong bốn mươi lăm năm, đi trên bao lộ tŕnh để đến với chúng sanh. Đó là ḷng từ bi của đấng Giác ngộ. Chúng ta cũng có thể phát triển t́nh mẫu tử đến với những ai đang khổ đau, cũng như đức Phật đă nh́n thấy họ khi Ngài phóng lưới từ bi.

Từ tâm siêu việt, đến cơi trời, cơi ngạ quỷ hay khắp mọi cơi trong vũ trụ... T́nh thương trăi rộng đến tất cả chúng sanh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm ô cấu uế của hồng trần. Đó là tâm tỉnh thức trong thiền định. Tâm b́nh thường lúc nào cũng bị phiền năo ngậm nhấm như chú chuột ngậm nhấm trên thân gỗ mục. Khi tâm đó tràn đầy ḷng từ ái và bi mẫn, nó chỉ gắn chặt vào đấy, và buông bỏ những suy nghĩ tầm thường. Tâm đó không c̣n bị phiền năo quấy nhiễu.

Không hẹp ḥi, oan trái, Không hờn giận căm thù... Nhưng không có nghĩa là tất cả mọi vấn đề vụn vặt đều đă biến mất. Chúng sẽ không bao giờ biến mất. Nếu bạn thử nh́n lại trong giây lát, bạn có nhớ trong hai mươi năm qua, có ngày nào mà không có việc khiến bạn phải bận tâm? Tâm không phiền năo, không chứa đựng sân hận v́ tâm không phiền năo tràn đầy hạnh phúc, mà tâm b́nh an, hạnh phúc không thể có chỗ cho ḷng oán thù.

Khi đi, đứng, nằm, ngồi
Bao giờ c̣n thức tỉnh
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh

Dầu ở đâu, đi, đứng, ngồi hay cả khi nằm mà chưa ngủ, ta nên vun trồng ḷng từ bi. Chánh niệm về ḷng từ bi như một người mẹ đối với tất cả chúng sanh. Tâm hồn ta sẽ bị giới hạn trong t́nh thương dành cho một, hai hay ba, hay bốn, năm người, trong khi quanh ta có đến hơn bốn tỉ người cần được thương yêu.

Khi là cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn biểu lộ t́nh cảm ḿnh với người khác, v́ ta biết t́nh cảm của ḿnh đối với con cái ra sao. Cũng như ta vẫn nhớ đến cách cư xử của chính cha mẹ ḿnh. Với những kinh nghiệm cá nhân nầy làm nền tảng, chúng ta có thể cố gắng để trăi rộng t́nh thương xa hơn nữa.

Phạm hạnh chính là đây... Đời sống thánh thiện ngay trên mặt đất nầy. Điều nầy tạo cho ta cảm giác hoàn toàn tự tại, yên ổn, an toàn cũng như tất cả bao trạng thái tốt đẹp khác nữa. Được thế, giúp tâm ta dễ đi vào thiền định, là một trong mười một điều lợi của tâm từ bi. Đó là một cách sống thánh thiện ngay trong hiện tại. Ta không cần phải chờ đợi đến khi ta đă vào cơi thiên mới được.

Ai xả ly kiến thủ
Có giới hạnh nghiêm tŕ
Đạt chánh trí viên măn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử

Những lời trên dường như diễn tả một vị A-la-hán. Khi ta sống không c̣n chấp kiến... Bất cứ là ǵ! Chánh kiến duy nhất là Tứ Diệu Đế, đưa ta đến giác ngộ. Ngoài ra, quan điểm chỉ là quan điểm, không dựa trên những kinh nghiệm đích thực.

Nazarudin, một vị thần Sufi vĩ đại, đă từng nói: "Đừng nhọc công t́m kiếm giác ngộ. Chỉ cần biết buông bỏ quan điểm, ư kiến". Buông bỏ quan kiến không có nghĩa là đánh mất sự phân biệt phải trái trong hành động của ta. Nhưng nhiều người trong chúng ta chứa chấp những quan điểm, ư kiến tự trói buộc ḿnh vào ngục tù của tâm. Buộc họ, cũng như người chung quanh phải nói năng, hành động, dáng vẻ như thế nào, và thế giới phải như thế nào...

Có giới hạnh nghiêm tŕ, đạt chánh trí viên măn ... Tuệ giác tṛn đầy đạt được là nhờ ở nền tảng của các đạo đức vẹn toàn.

Không ái nhiễm dục trần... Mọi ái dục đều được đoạn trừ, không c̣n ham muốn điều ǵ, th́ không c̣n khổ năo. Đó là cánh cửa mở đến Niết bàn, giải thoát hoàn toàn, xả ly mọi mong cầu.

Không c̣n phải luân hồi sinh tử... Không tái sinh! Bài kinh nầy dẫn ta đi từ những trạng thái b́nh thường của khả năng, chất phác, ngay thẳng và khiêm cung, đến giác ngộ chỉ trong vài vần thơ ngắn ngủi. Trước hết, ta phát tâm từ bi thương yêu đến tất cả chúng sanh như thể thương yêu con cái của ḿnh, nhờ đó giúp ta đi vào thiền định, v́ từ bi là một trong ba trụ thiền. Khi luôn có tâm chánh niệm, ta có mặt "ngay trong giờ phút nầy và ở tại nơi đây", nên ta không c̣n chấp kiến về ngă, về nhân, về thế giới bên ngoài ta. Dựa trên nền tảng đạo đức đó, ta sẽ có được tuệ giác và giác ngộ. Một con đường thẳng tắp, không lối ngang, ngă rẽ, không phải luận bàn ǵ nữa, chỉ cứ thế mà thực hành.

*

Đó là những điểm trọng yếu của bài kinh quen thuộc nầy, lời kinh quen thuộc, nhưng hành động th́ khó làm. Đức Phật đă truyền cho chúng ta những lời dạy rơ ràng để thanh tịnh hóa tâm, chỉ cho ta cách xếp đặt cuộc đời ḿnh trong ngoài vẹn toàn. Tất cả đă bày sẵn cho ta nắm bắt, nhưng không ai có thể làm thay cho người khác. Mỗi người phải tự dấn thân.

Xưa kia có một người t́m gặp đức Phật để tham vấn ngài. Ông ta nói rằng đă nghe pháp của Phật nhiều năm nay, trong thời gian đó, ông ta đă được gặp gỡ với nhiều vị tăng ni, đệ tử của đức Phật. Ông ta đă kết thân với một số vị, và thấy rằng có vị đă hoàn toàn thay đổi. Họ đă trở nên từ bi, tử tế, thông thái, kiên tŕ hơn, nhưng cũng có nhiều người không thấy thay đổi ǵ cả. Lại có người c̣n đánh mất tính kiên nhẫn, không c̣n thương yêu hay tử tế với người khác nữa. Trong khi tất cả các vị tăng ni nầy đều cùng nghe những bài thuyết pháp giống nhau. Ông ta muốn biết tại sao lại như thế?

Đức Phật bèn hỏi người đó: "Nhà ngươi ở đâu?". Người đàn ông trả lời: "Ở Rajagaha". Đức Phật lại hỏi: "Thỉnh thoảng ngươi có về thăm lại Rajagaha?" Người kia trả lời: "Tôi vẫn thường trở lại nơi đó, v́ tôi có công việc làm ăn và gia đ́nh ở đó". Đức Phật lại hỏi: "Ngươi có biết đường về Rajagaha?" Người ấy trả lời: "Tôi biết rơ đến độ có thể đi trong đêm. Tôi không cần phải nh́n nữa, tôi biết đường quá rơ". Đức Phật lại nói: "Nhưng nếu có người muốn đi Rajagaha, ngươi có thể chỉ lại cho họ được không?" Người kia trả lời: "Nếu Ngài thấy ai cần giúp, cứ bảo họ đến t́m tôi, v́ tôi có thể chỉ họ rơ ràng. Tôi đă đi trên con đường ấy quá nhiều lần". Đức Phật nói: "Ta tin ngươi. Nhưng nếu ngươi chỉ cho họ đường đi đến Rajagaha, nhưng họ cứ ở măi trong thành Benares, đó có phải do lỗi của người không?" Người kia trả lời: "Dĩ nhiên là không. Tôi chỉ là người chỉ đường thôi". Đức Phật trả lời: "Ta cũng thế. Ta cũng chỉ là người chỉ đường".

Tất cả những ǵ các bạn đă nghe, đă ghi chú hay đă hiểu, chỉ là những mốc cột, bảng tên đường cho bạn biết hướng đi đúng sai. Nhưng nếu chúng ta không bắt đầu khởi hành th́ ta sẽ măi là người lữ hành tại chỗ. Bài kinh về ḷng Từ bi cần được thực hành. Không có lời giả dối trong đó, mỗi chữ đều có ư nghĩa, đều rơ ràng.

Đức Phật lại nói: "Nầy các tỳ kheo, nếu tất cả những lời ta nói không đem lại lợi ích cho các ngươi, ta đă không bảo các người nghe theo. Pháp của ta đều có thể thực hiện được". Đức Phật bảo chúng ta có thể phát khởi tâm từ bi như mẹ hiền đến với tất cả chúng sanh. Cũng như chúng ta có thể chứng ngộ, nếu không, đức Phật đă không khuyên tất cả đệ tử của Ngài như thế. Một điều chắc chắn rằng chúng ta có thể chỉ phát thiện tâm, chỉ tràn đầy bi mẫn. Ư nghĩ quan trọng hàng đầu. Cần phải suy tư, khởi ư như thế nào, trong kinh nầy đều đă nói rơ. Chúng ta suy nghĩ như thế nào sẽ khiến ta phải chịu phiền năo, âu lo, bất ổn hay sẽ được b́nh an, hạnh phúc.

Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được b́nh an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân. Mà là những điều ta cần làm cho chính bản thân, đó là động lực thúc đẩy ta phải hành động. Đúng thế, v́ chỉ có ta mới có thể tự sửa đổi lấy ḿnh. Tha nhân sẽ được hưởng phúc lợi từ ḷng từ bi của ta, chỉ là thứ yếu. Điểm chính yếu ở đây là tâm thanh tịnh của ta, đó mới là mục đích chính. Trước hết, ta cần phát khởi tâm từ bi, sáng suốt. Hai đặc tính nầy đi với nhau, v́ tâm tràn đầy t́nh thương th́ không thể có chỗ cho sự hỗn loạn. Tâm không xáo trộn là tâm có thể tư duy, nói năng rơ ràng.

Khi ta đă quyết thanh tịnh hóa tâm, ta có thể tận dụng bài kinh nầy để làm thước đo: "Tôi đang làm ǵ? Tôi có đang hành động theo lời kinh dạy hay không?" Đó là một trong những cách để biết chắc rằng chúng ta không bị lạc đường. Không cần phải tự trách ḿnh. Chúng ta có thể chuyển đổi tâm ḿnh. Không khó khăn ǵ. Chúng ta càng tinh tấn hành thiền, việc đó càng dễ thực hiện. Khi đó tâm ta trở nên mạnh mẽ, khiến ta có thể chuyển hóa tâm theo ư ḿnh. Người mà có thể làm chủ mọi tư tưởng của ḿnh, là người đă đạt được tri kiến.



__________________
Tất cả vạn vật từ vũ trụ mà ra !!
Quay trở về đầu Xem haclong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi haclong
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 2 of 3: Đă gửi: 10 April 2006 lúc 3:33am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Rồng Đen đă từ cơi Trời bay xuống hahaha, lượn thêm vài ṿng nữa nhé bạn.

ĐEN mà KHÔNG ĐEN.
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 3: Đă gửi: 10 April 2006 lúc 3:42am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Kính chào haclong!
xin cảm ơn bạn đă post Kinh Từ Bi, thật quư báo và cao thượng cho những ai thực hành theo lời kinh dạy. Chắc chắn quả vị đẳng giác sẽ không c̣n là chuyện viễn vong xa vời nữa.
Kính chúc bạn đạo tâm kiên cố, phước huệ song tu, giác hạnh giác tha viên măn.
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa.
Phổ Quảng
thânchào
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.3730 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO