Tác giả |
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 1 of 10: Đă gửi: 21 June 2007 lúc 10:28pm | Đă lưu IP
|
|
|
TAM MỆNH THÔNG HỘI
LUẬN NGŨ HÀNH SINH THÀNH
Trời cao vời vợi, lục khí quay ṿng m ta.o thành tứ thời; đất sâu thâm u, ngũ hành hoá sinh dĩ thành vạn vật. Có thể nói là vô tận mà khôn lường. Thánh nhân lập pháp tiến dần từng bước, nói chung không thể trốn tránh số mạng của họ. Biết nguyên nhân của việc tạo thành số mạng, tất cả đều xuất phát từ tự nhiên. Chuyện ngàn năm trước đă ghi, đồng mà bất dị, suy rộng ra mà nắm bắt thời cơ của ḿnh, cuối cùng thông suốt sự biến đổi của nó, tất cả không thể xa rời số mạng. Thứ nhất gọi là Thủy, thứ hai là Hỏa, thứ ba là Mộc, thứ tư là Kim, thứ năm là Thổ, tất cả đều xuất phát từ tự nhiên. Thủy, ở phương Bắc, tử giả, mang tính dương, dương số, xưa Thủy xếp thứ nhất trong Ngũ hành; Hỏa, ở phương Nam, ngưu giả, mang tính âm, âm số, xưa Hỏa xếp thứ hai; Mộc ở phương Đông, đông, tính dương, tam giả, là số lẻ, cũng là tính dương, xưa Mộc xếp thứ ba; Kim ở phương Tây, Tây, tính âm, tứ giả, là số chẵn, cũng là tính âm, xưa Kim xếp thứ tư; Thổ ở trung ương, là hành thứ năm, là số lẻ, cũng mang tính dương, xưa Thổ xếp thứ năm. Nói như trên, Ngũ hành là do âm dương phối hợp mà thành. Nếu xét đến ư nghĩa thâm sâu của nó, th́ Thủy là khởi nguồn. Khi trời đất c̣n chưa phân, vạn vật chưa thành, chẳng phải cái thấy được đầu tiên là nước đó sao? Trong “ Linh Xu kinh” viết: “ Trong những cái cấu thành trái đất, Thủy (nước) là quan trọng nhất. Trước là mẹ của trời đất, sau là căn nguyên của vạn vật”. Lấy hiện tại để kiểm tra điều này, cỏ cây quả hạt, con người sâu bọ, trứng noăn, phôi thai đều có nước, chẳng lẽ không phải là như thế? Và do sự tụ họp của nước mà làm thay đổi tính chất, chứ không phải do khí của âm dương mà tạo thành. Những vật nhỏ mà vị đắng tức có triệu chứng của hỏa, trái cây chín ngọt tức mang hương vị đất đai. Ngọt mà sau nhạt th́ nhạt chính là bản chất. Đương nhiên con người được sinh thành từ sự ḥa hợp âm dương của nam và nữ, như xưa đă viết: trước tiên tạo thành hai quả thận, thận trái thuộc thủy, thận phải thuộc hỏa, hỏa được gọi là cửa mệnh, “tắc hỏa chi nhân thủy nhi hậu kiến”. Xưa kia hỏa được gọi là thứ 2, nói chung cỏ cây, quả hạt, các loại côn trùng khác nhau trong đó đều có hai thứ tương hợp nhau, giống như thận của con người đều có ẩn chứa âm dương, tức là vạn vật không thể hóa sinh nếu không có sự ḥa hơp của âm dương. Đă là sự ḥa hợp của âm dương th́ sau này mùa xuân đơm hoa, mùa thu kết trái, v́ vậy người xưa lần lượt xếp Mộc là thứ 3, Kim là thứ 4. Có thể nói Thủy có tính sở thuộc, Hỏa có tính sở tàng, Mộc có tính sở phát, Kim có tính sở biệt, không có cái nào không v́ Thổ mà tạo thành. Xưa kia Kim Mộc Thủy Hỏa đều cần Thổ để h́nh thành. Theo Hà đồ, số của Thổ là 5, th́ Thủy là 6, Hỏa 7, Mộc 8, Kim là 9, Thổ thường là số 5 mà không thể đến 10, Thổ không cần đến 10 mới thành, số sinh thành đều hợp thành từ 5, là số trung tâm của trung tâm. “Minh đại diễn chi số, do thị dĩ lập”, th́ vạn vật nào có thể tránh được số mạng của ḿnh?
LUẬN NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC
Ngũ hành tương sinh tương khắc, sự thật hiển nhiên như vậy. 10 can, 12 chi, ngũ vận lục khí, tuổi tác ngày giờ đều sinh ra từ nó, “canh tương vi dụng”, trời th́ có các khí: hàn, ấm, khô, ẩm ướt và gió , đất th́ h́nh thành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. H́nh và khí (trời và đất) ḥa quyện mà hóa sinh vạn vật , từ sự hóa sinh này mà thế gian h́nh thành. Tác dụng kỳ diệu vốn có của nó, có thể nói là vô cùng.
Mộc trấn giữ phương Đông: ứng với mùa Xuân- Mộc. Theo lời người xưa, Mộc phải tiếp xúc với đất mà được sinh ra. Thủy chảy đến phương Đông, dĩ thành Mộc, Mộc cứ lớn lên mà không đổ, chính là chất của tự nhiên.
Hỏa ở phương Nam, ứng với mùa Hạ. Sự biến hóa của Hỏa chính là thiêu hủy, khí dương ở trên, khí m ở dưới; phá hủy quá mạnh mà biến hóa vạn vật, Hỏa xuyên qua Mộc, Mộc sẽ sinh sôi, dĩ nhiên Hỏa không có h́nh dạng nhất định, gặp vật no mang h́nh da.ng của vật đó, cố sức nhập vào vật và đó cũng là khí tự nhiên của Hỏa vậy.
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 2 of 10: Đă gửi: 21 June 2007 lúc 10:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
Nhờ các bác sửa giúp. Chân thành cảm ơn
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 3 of 10: Đă gửi: 28 June 2007 lúc 5:14am | Đă lưu IP
|
|
|
Quên gởi theo cái này nữa chứ
三命通会
卷一
論五行生成
天高寥廓,六氣$ 852;旋以成四時;地 厚幽深,五行化 983;以成萬物。可謂 無窮而莫測者也 290;聖人立法以推步 者,蓋不能逃其 976;。觀其立數之因 ,亦皆出乎自然 290;故載於經典,同 而不異,推以
達 20854;機,窮以通其෴ 2;,皆不離於數內 12290;一曰水,二曰ଽ 9;,三曰木,四曰 37329;,五曰土者,࿘ 9;有所自也。水, 21271;方子之位也,ड 6;者,陽之初一, 38525;數也,故水曰ߌ 8;;火,南方午之 20301;也,午者,陰ߔ 3;初二,陰數也, 25925;火曰二;木居 1;方,東,陽也, 19977;者,奇之數,ߝ 4;陽也,故木曰三 65307;金居西方,西ᦁ 2;陰也,四者,偶 20043;數,亦陰也,ਠ 5;金曰四;土應西 21335;長夏,五者,࣭ 5;之數,亦陽也, 25925;土曰五。由是 2;之,則數以陰陽 32780;配者也。若考ࠥ 4;深義,則水生於 19968;。天地未分,ഷ 6;物未成之初,莫 19981;先見於水,故Ӎ 8;靈樞經》曰:“太& #19968;者,水之尊號z 90;先天地之母,後& #33836;物之源。”以今' 511;之,草木子實未 就,人蟲、胎卵 289;胎胚皆水也,豈 不以爲一?及其 700;之聚而形質化, 莫不備陰陽
之氣 22312;中而後成。故୰ 9;之小而味苦者, 28779;之兆也;物熟࠺ 3;甘,土之味也。 29976;極而後淡,淡ᦁ 2;本也。然人稟父 27597;陰陽生成之化ᦁ 2;故先生二腎,左 33102;屬水,右腎屬ଽ 9;。火曰命門,則 28779;之因水而後見Ӎ 0;故火曰次二。蓋 33609;木子實,大小༕ 4;異,其中皆有兩 20197;相合者,與人೮ 2;同,亦陰陽之兆 12290;是以萬物非陰༌ 5;合體則不能化生 20063;。既陰陽合體ᦁ 2;然後而春生而秋 25104;,故次三曰木ᦁ 2;次四曰金。蓋水 26377;所屬,火有所ൡ 5;,木有所發,金 26377;所別,莫不皆ࢰ 0;土而後成也。故 37329;木水火皆待土 0;後成。兼其土數 65292;五以成之,則 0;六,火七,木八 65292;金九;土常以ߛ 6;之生數不可至十 32773;,土不待十以ৎ 4;,是生成之數皆 20116;以合之。明大ඡ 3;之數,由是以立 65292;則萬物豈能逃ࠥ 4;數哉?
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 4 of 10: Đă gửi: 28 June 2007 lúc 5:19am | Đă lưu IP
|
|
|
論五行生克
五行相生相剋, 854;理昭然。十幹十 二支、五運六氣 289;歲月日時皆自此 立,更相爲用, 312;天則爲氣:寒、 暑、燥、濕、風A 307;在地則成形:金 、木、水、火、 303;。形氣相感而化 生萬物,此造化 983;成之大紀也。原 其妙用,可謂無 406;矣。
木主於東;應春 290;木之爲言觸也, 陽氣觸動,冒地 780;生也。水流趨東 以生木也;木上 332;而覆下,乃自然 之質也。
火主于南,應夏 290;火之爲言化也, 毀也,陽在上,& 512;在下;毀然盛而 變化萬物也。鑽 408;取火,木所生也 。然火無正體,' 636;本木焉。出以應 物,盡而複入, 035;自然之氣也。
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 5 of 10: Đă gửi: 23 July 2007 lúc 12:00am | Đă lưu IP
|
|
|
Kim ở phương Tây, ứng với mùa Thu. Kim có tính bền, âm khí
v́ lấy tính bền của vạn vật mà yếu đi, đăi cát lấy vàng, kim được sinh ra từ
đất, lệ thuộc vào đất mà khác biệt rất nhiều, chính là h́nh của tự nhiên.
Thủy ở phương Bắc, ứng với mùa đông. Thủy có tính ẩm ướt.
Dương khí ngưng trệ làm nhiệm vụ nuôi dưỡng vạn vật. Thủy từ Tây sang Đông, Kim
sinh Thủy. Nước chảy ngoằn ngoèo, thuận lợi đi đến nơi cần đến, tức là tính của
tự nhiên.
Thổ ở trung ương, kiêm luôn Tây Nam, ứng với trường hạ. Thổ
có tính trổ mầm, giúp vạn vật sinh trưởng, là nguồn gốc sinh ra tất cả mọi vật,
cũng là nơi những vật đă chết quay về, là nhà của vạn vật. “Trường vu hạ mạt”,
Hỏa sinh Thổ. Thổ thắng Thủy, Thủy lại phản Thổ, là ư nghĩa của tự nhiên vậy.
Ngũ hành tương khắc, con có thể trở thành mẹ, có thể
phục thù. Mộc khắc Thổ, con của Thổ là Kim lại khắc Mộc; Kim khắc Mộc, con của
Mộc là Hỏa lại khắc Kim, Hỏa khắc Kim, con của Kim là Thủy lại khắc Hỏa; Thủy
khắc Hỏa, con của Hỏa là Thổ lại khắc Thủy; Thổ khắc Thủy, con của Thủy là Mộc
lại khắc Thổ. Các hành có thể tương sinh, hành này có thể sinh ra hành kia; các
hành cũng tương khắc, hành này có thể kết thúc hành kia. Đều xuất phát với tính
của trời. “Tố vấn”, cái gọi là Thủy sinh Mộc, Mộc lại sinh Hỏa, là Mộc chịu
thiết khí, cho nên xưa đă viết Thủy mạnh mà khắc Hỏa. Tức là con gặp dịp trộm
khí, dùng lực chống lại mẹ, bị thương giống mẹ, con lại dùng sức giúp, ư nghĩa
là như vậy. Mạnh có thể thắng yếu, Mộc gặp Thổ mà lớn; thực có thể thắng hư,
Thủy gặp Thổ là bị cắt rời; âm có thể trừ dương, Hỏa gặp Thủy sẽ bị tiêu diệt;
yếu có thể chống cường, Kim gặp Hỏa sẽ tan chảy; cứng có thể khắc chế mềm, Mộc
lại bị Kim phá. Ngũ hành càng xoay chuyển, thuận th́ tương sinh, nghịch th́
tương khắc, như là tất cả các hành đều lưu hành, để trở thành đạo mà thôi.
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 6 of 10: Đă gửi: 23 July 2007 lúc 12:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Luận về nguồn gốc và sự phát triển của Can Chi
Thiên Can là thân cây, mạnh mà trở thành dương, Địa
Chi như cành cây, yếu mà trở thành âm. Ngày xưa, Bàn Cố Thị hiểu rơ đạo trong
trời đất, đạt được sự biến đổi âm dương mà trở thành tam tài. Vị vua đầu tiên
sau khi phân chia trời đất, trước có trời mà sau có đất, do có khí trời hóa
sinh mà sinh ra con người , cho nên họ vua có 13 người cùng họ, tiếp tục sự trị
v́ của Bàn Cố Thị, là v́ trời kia thanh đạm, vô vi mà thông tục tự hóa, bắt đầu
tạo ra tên của Can Chi, là nguồn gốc định tuổi. 10 Thiên can viết như sau: Vu
phùng, Chiên mông, Nhu triệu, Cương vũ, Trứ ung, Đồ duy, Thượng chương, Trùng
quang, Huyền, Chiêu dương; 12 Địa chi viết như sau: Khốn đôn, Xích phấn nhược,
Nhiếp đề cách, Đơn vu, Chấp đồ, Đại hoang lạc, Đôn dương, Hiệp pháp, Thán, Tác
ngạc, Yêm mậu, Đại uyên hiến. Thái Ấp Độc tiếp tục viết: “ Can là Thiên can.
Tất cả có 10 Can, c̣n viết là Thập mẫu, tức là ngày nay người ta hay gọi là
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quư; Chi là Địa chi, có 12 Địa
chi, c̣n viết là 12 con, ngày nay người ta viết là: Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n,
Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Người gọi là Thiên hoàng giành ư nghĩa
Thiên khai vu Tư, người gọi là Địa hoàng lấy ư nghĩa Địa bích vu Ngọ, người gọi
là Nhân hoàng giành ư nghĩa Nhân sinh vu Dần. Cho nên tên gọi của Can Chi là
bắt đầu đặt từ Thiên hoàng xuống, mà Địa hoàng lại định ra tam th́n, đạo phân
ngày đêm, một tháng có 30 ngày, mà Can Chí có thể phối hợp. Nhân hoàng là chủ
thực sự chứ không phải hư vương, là quan chứ không phải quyền quư giả tạo, đạo
quân thần chính giáo tự khởi nguồn, chuyện ăn uống, nam nữ đều bắt đầu từ đó,
nhờ khí trời đất mà có phân mẫu tử, thế là Can Chi có tính sở hữu qua lại. C̣n
về Phục Hy, ngẩng đầu lên thấy tượng như trời, cúi đầu xuống thấy pháp như đất,
ở giữa thấy vạn vật và con người, bắt đầu vẽ bát quái, lấy việc thông suốt đức
của Thần linh, lấy t́nh của vạn vật, lấy việc viết lên mai rùa mà sinh ra văn
tự. Truyền thụ Hà đồ cho hoàng đệ, nh́n thấy nhật nguyệt tinh tú, thế là bắt
đầu có sách Tinh quan. Khiến Đại Nghiêu t́m hiểu Ngũ hành, bói nơi Nam đẩu được
tạo thành, thế là bắt đầu làm nên sự sở thuộc nạp âm của Giáp Tư và Ngũ hành.
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 7 of 10: Đă gửi: 23 July 2007 lúc 12:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Tổng luận nạp âm
Thường thấy “ Bút đàm” luận sự nạp âm của 60 Giáp Tư, nguồn
gốc quy luật của sự phối hợp của 60 Giáp Tư này, cùng xoay chuyển với nhau tạo
nên cung, nên mẫu mực vậy. “Nạp âm” và “Dị nạp” là có cùng quy tắc: Càn nạp
Giáp, Khôn nạp Quư, bắt đầu với Càn mà kết thúc với Khôn. Nạp âm bắt đầu với
Kim mà Kim thuộc Càn vậy, cuối cùng là Thổ mà Thổ thuộc Khôn. Trong Ngũ hành
chỉ có Kim đúc thành vũ khí, âm lại rất vang, cho nên Nạp âm đầu tiên là Kim.
Quy luật của Nạp âm, giống hệt như lấy vợ, cách 8 sanh con,
quy luật âm luật tương sanh. Giáp Tư ngôi thứ hai của Kim, giống như cưới At
Sửu, cách 8 thượng sanh Canh Th́n; ngôi cuối Canh Th́n của Kim, đồng vị cưới
Tân Tị, cách 8 hạ sinh Mậu Tư. Ngôi thứ hai Mậu Tư của Hỏa, lấy At Sửu, sanh
Bính Thân; ngôi thứ nhất Bính Thân của Hỏa lấy Đinh Dậu, sanh Giáp Th́n; ngôi
cuối của Hỏa là Giáp Th́n, lấy At Tị, sanh Nhâm Tư. Ngôi thứ hai của Mộc như là
“tả hành”, đến Đinh Tị, “trung lữ chi cung”, cuối của ngũ âm lại từ ngôi thứ
hai của Kim là Giáp Ngọ, lấy At Mùi, cách 8 sinh Nhâm Dần, như theo phương pháp
của Giáp Tư, cuối cùng là Quư Hợi. Từ Tư đến Tị là Dương, cho nên từ Hoàng
trung đến Trọng lữ đều hạ sanh; từ Ngưu đến Hợi là Am, cho nên từ Lâm trung đến
Ứng trung đều thượng sanh. Người thượng hạ sanh, chính là gọi là thiên khí hạ
thấp, địa khí đă lên cao.
Sự ḥa hợp của số, tất cả mọi thứ thay đổi đều xuất phát từ
đó. Càn là trời, Khôn là đất, Càn Khôn hợp lại là thái b́nh; đức là cha, hồng
là mẹ; đức hồng hợp lại thành Đông; Can là quân, Chi là thần, Can Chi hợp lại
th́ sinh ra Nạp âm. V́ thế cho nên Giáp At là quân, Tư Sửu là thần, Tư Sửu Giáp
At hợp lại thành Kim. Nói chung thêin hạ trong Ngũ hành, mỗi hành đều có tính
khí, có địa vị, hoặc tương tế hoặc tương khắc, nếu thành khí hoặc không thành
khí, trong vượng phải chịu tuyệt, trong tuyệt phải chịu khí, duy chỉ tương phối
mà có được sự khác nhau mà thôi. Số mạng của Kim sở dĩ khó đồng mà lại có sự
khác biệt của hải trung sa trung.
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 8 of 10: Đă gửi: 23 July 2007 lúc 12:04am | Đă lưu IP
|
|
|
Luận
nạp âm thủ tượng
Ngày xưa, Hoàng Đệ phân Giáp Tư ra thứ tự nặng nhẹ mà phối
thành 60, Số gọi là Hoa giáp tử, chữ Hoa này thực sự rất sâu xa, huyền diệu,
thánh nhân mượn ư mà nói cho biết, không thể giữ ư mà cố chấp. Từ Tư đến Hợi có
12 cung, mỗi cung đều có sự lệ thuộc Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, bắt đầu với Tư
là nhất dương, kết thúc với lục âm, mà Ngũ hành sở thuộc Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ, trên trời là ngũ tinh, dưới đất là ngũ nhạc, với đức là ngũ thường, với
người là ngũ tạng, và với số mạng cũng là Ngũ hành. V́ thế cho nên sự lệ thuộc
của Giáp At ứng với số mệnh, số mệnh là việc của một đời, cho nên Giáp Tư nạp
âm dương, Thánh nhân đă nói rơ, cũng như việc của một đời người. Có thể tin
tưởng không? Tư Sửu hai ngôi, âm dương bắt đầu hoài thai, con người đang trong
bào thai, vật đang ẩn trong gốc rễ, chưa có ranh giới; Dần Măo hai ngôi, âm
dương dần mở, con người dần lớn lên, vạn vật dần lộ khỏi vỏ, nhị hoa đă hé, như
người sắp lập thân; Th́n Tị hai ngôi, khí âm dương thịnh, vạn vật đang đẹp đẽ,
mỹ lệ, như người ta 30, 40 tuổi mà có địa vị, bắt đầu có dáng vẻ tiến thủ; Ngọ
Mùi hai ngôi, âm dương rực rỡ, vật đă ngang bằng, như người 50, 60 tuổi, phú
quư bần tiện có thể biết, mọi việc hưng
vong của bách tính đều có thể thấy; Thân Dậu hai ngôi, âm dương xơ xác tàn tạ,
vạn vật đă thu nhận thành quả, con người đă chùn bước, vạn vật đều yên tĩnh;
Tuất Hợi hai ngôi, âm dương tắc nghẽn, khí của vạn vật quay về cội nguồn, con
người đang nghỉ ngơi, vạn vật đều ngủ say. Suy nghĩ kỹ càng thứ tự trước sau
của 12 ngôi, 60 hoa giáp có thể hiểu rơ từng cái.
Sửa lại bởi Core Duo : 23 July 2007 lúc 12:11am
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 9 of 10: Đă gửi: 23 July 2007 lúc 12:11am | Đă lưu IP
|
|
|
Giáp Tư Ất Sửu có thể giành lấy dáng vẻ để t́m vàng trong
biển rộng? Nói chung khí đang ấp ủ, vạn vật có tên chưa có h́nh, con người đang
trong bụng mẹ;
Nhâm Dần Quư Măo đang trong t́nh trạng cất giữ Kim, khí
thượng đă nhỏ yếu, bạc nhược yếu ớt, cho nên nói Kim Bạc Kim;
Canh Th́n Tân Tị th́ Kim đă thuộc Hỏa, khí bắt đầu xuất hiện, Kim c̣n trong mỏ, là nơi
gửi h́nh sinh dưỡng, nhận được khí phương Tây, cho nên gọi là Bạch Lạp Kim;
Giáp Ngọ Ất Mùi đă
thành khí, vật chất tự vững chắc, trộn lẫn với cát mà khác biệt vô cùng, ở với
Hỏa và luyện tập với Hỏa, c̣n viết là Sa Trung Kim;
Nhâm Thân Quư Dậu khí thịnh đến cực điểm, đang là lúc phải
chịu sự huấn luyện nghiêm khắc. Nói chung Thân Dậu ở vị trí chính của Kim, Can
gặp Nhâm Quư, Kim được Thủy tôi luyện, cho nên mượn dáng vẻ của một thanh kiếm
sắc nhọn mà phát huy tối đa công dụng của Kim; đến Mậu Hợi th́ Kim khí ẩn đi,
h́nh thể đă hư hại, chỉ có thể làm trang sức, đă thành h́nh dáng như vậy, đă ẩn
ḿnh vào khuê các, “ vô sở thi vi”, mà công dụng của Kim đă dùng hết, cho nên
nói Canh Tuất Tân Hợi làm Kim “thoa xuyến kim”.
Nhâm Tư, Quư Sửu v́ sao lấy h́nh tượng cây dâu? Nói chung
khí đă giữ lại ở h́nh dạng tṛn, h́nh dạng không thẳng ra, ở với đất, nước,
tháng nào tằm yếu cây dâu thu khí, giành
lấy sự sống,
Canh Dần Tân Măo khí đă thừa dương, nhận được sự bồi đắp cho
h́nh dạng của chúng. Làm thế nào ở dưới Kim, phàm là Kim hay sương trắng đều
bền, cây ở dưới luôn nhận được sự thịnh vượng của chúng, sau nhiều mùa đông th́
tàn héo, lấy đi tính vững chắc của chúng, cho nên gọi gọi là Tùng Bách Mộc ;
Mậu Th́n Ất Tỵ th́ khí không thành lượng, vật đă đúng thời,
lá cây tươi tốt xum xuê, cây đă trở thành rừng, giành lấy sự hưng thịnh của cây
cho nên trở thành Đại Lâm Mộc;
Nhâm Ngọ Quư Mùi, cây đến Ngọ tmà chết đến Mùi th́ th́ tàn
rữa, cho nên dương liễu thịnh th́ lá tàn, cành cây th́ yếu, dành lấy tính mềm
dẻo vậy, cho nên gọi là Dương Liễu Mộc;
Canh Thân Tân Dậu, Ngũ hành thuộc Kim mà nạp âm thuộc Mộc,
chủ yếu là tương khắc. Cho nên loại cây thân mộc tính cay chỉ có cây thạch lựu,
Thân Dậu khí lại tĩnh , vạn vật dần thành thực, Mộc ở chổ Kim trong ḷng đất vị
của nó thành đắng, cho nên nói chỉ có Thạch Lựu Mộc, nh́n thấy cây đó đến Ngọ
th́ chết, chỉ có loại cây này đến Ngọ lại vượng, giành lấy tính nghiêng của nó
vậy.
Mậu Tuất Ất Hợi, khí lại ẩn tàng, Am Dương tắc nghẽn, Mộc
khí quay về cội, ẩn vào trong đất, cho nên gọi là B́nh địa Mộc vậy;
Bính Tư Đinh Sửu v́ sao lấy h́nh tượng của khe suối? Cho nên
khí không thông, những nơi cao ráo nước không chảy được , những nơi thấp và ẩm
ướt lại là cố hương của nước, do chảy trong đất cho nên gọi là Gián hạ Thủy;
Giáp Dần Ất Măo khí xuất giữa ban ngày, thế nước dựa vào
nguồn, chảy về phương đông như thác đổ, thế nước dần lớn cho nên tạo thành Đại
Khê Thủy;
Nhâm Th́n Quư Tị, thế lớn Đông Nam, khí gần li cung, thế Hỏa
thịnh nước lại quay về hồ, nước tràn trề tiến dần và trở thành Trường Lưu Thủy;
Bính Ngọ Đinh Mùi, khí đang lên xuống , Hỏa ở vị trí tuyệt
vời, có nước chảy dồi dào tự nhiên làm mưa dầm, lấy Thủy trong Hỏa, chỉ có trời
mới có cho nên gọi là Thiên Hà Thủy;
Giáp Thân Ất Dậu, hơi thở yên tĩnh, mẫu tử đồng vị, xuất mà
vô cùng, cung cấp mà không kiệt cho nên gọi là Tĩnh truyền Thủy;
Nhâm Tuất Quư Hợi, đất của cổng trời, khí quay về bế tắc,
nước chảy khắp mọi nơi mà không thoát, thế lực dường như quay về nơi bí mật đến
nơi vô cùng , nạp mà không đầy tràn, cho nên gọi là Đại Hải Thủy;
Mậu Tư Ất Sửu v́ sao lấy h́nh tượng sấm sét của lửa? Cho nên
khí tại Nhất dương, h́nh ở nơi nước, Hỏa ở trong Thủy, không thần không long
tức là vô cho nên gọi là Tích Lịch Hỏa;
Bính Dần Đinh Măo, khí dần phát huy v́ có củi cháy mà lộ rơ,
âm dương là lửa, trời đất là bếp ḷ cho nên gọi là Lư Trung Hỏa;
Giáp Th́n Ất Tị, h́nh khí trên đất rất thịnh, thế định trên
đồi cao, “truyền minh kế hối”, mẫu tử tương hỗ lẫn nhau và gọi là Phúc Đăng Hỏa
;
Mậu Ngọ Ất Mùi, khí qua dương cung, “trùng li tương hội”, sự
tinh nhanh và sáng sủa cùng giao thoa, phát huy sự nóng nực gọi là Thiên Thượng
Hỏa;
Bính Thân Đinh Dậu, h́nh khí ẩn tàng, thế lực ẩn giấu, vị
trí của Đoài bị rút lại, lực yếu cơ thể suy nhược, “minh bất cập viễn, nên gọi
là Thiên Hạ Hỏa;
Giáp Tuất Ất Hợi người gọi là Sơn Đầu Hỏa, núi tàng h́nh,
đầu lộ ánh sáng, trong sáng ngoài tối, ẩn mà không lộ, “phi quang đầu can”, quay
về trong sự nghỉ ngơi cho nên gọi là Sơn Đầu Hỏa.
Canh Tư Tân Sửu v́ sao lấy h́nh tượng tường thành trên mặt
đất? Khí ở sự tắc nghẽn, vạn vật c̣n được ấp ủ, che dấu h́nh thể trong ngoài
không giao ḥa cho nên gọi là Bích Thượng Thổ;
Mậu Dần Ất Măo, khí có thể thành vật, kết quả ở việc sinh ra
vạn vật, phát ra ở gốc rễ, khỏe mạnh ở đài hoa, nhị hoa cho nên gọi là Thành
Đầu Thổ vậy;
Bính Th́n Đinh Tị, khí kế thừa dương, đă qua thời kỳ phát
sinh, thành tích ở tương lai cho nên gọi là Sa Trung Thổ;
Canh Ngọ Tân Mùi, khí đang nhận h́nh, vận lấy luồng sáng, có
h́nh có thể có chất, có vật có thể tuyên dương cho nên gọi là Lộ Bản Thổ ;
Mậu Thân Ất Dậu, khí đă ngừng vật đang yếu đi, rút vào nghỉ
ngơi, đẹp và vô sự cho nên gọi là Đại Dịch Thổ;
Bính Tuất Đinh Hợi, khí thành nhà của vạn vật, sự việc viên
mỹ, âm dương qua khắp, “thế đắc kỳ gian” nên gọi là Ốc Thượng Thổ.
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
Core Duo Hội viên
Đă tham gia: 24 November 2006 Nơi cư ngụ: Congo
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 49
|
Msg 10 of 10: Đă gửi: 23 July 2007 lúc 12:16am | Đă lưu IP
|
|
|
“Dư kiến lộ bàng chi thủ bá thực bách cốc”, nơi của Ngọ Mùi,
phải chăng thời gian sinh trưởng của chúng là giữa mùa hè? Thổ của Đại Dịch
thông đạt tứ phương, nơi giành kết quả của đắp đê, là chỗ dựa của vũ công lập
quốc và bảo vệ nhân dân, Bích Thượng Thổ hiểu rơ công dụng của sự che đậy,”thần
thứ tư chi”, thích làm mà thích ở ; Sa Trung Thổ, là nơi ẩm ướt nhất, đất ẩm
ướt th́ có sự sống cho nên có sự hữu dụng trong tương lai; Oc Thượng Thổ là sự
thành công của Thổ vậy, người thành công thường tĩnh, cho nên dừng lại mà bất
biến. Nói chung trong Ngũ hành, hành chịu lệnh tải, chủ yếu nắm quyền nuôi
dưỡng giáo dục, tam tài Ngũ hành đều không thể mất, ở nơi cao thấp mà đạt được
địa vị, ở tứ quư mà có kết quả, những vũ khí cứng chắc sắc nhọn do Kim tạo ra,
ánh lửa rực rỡ sáng tỏ của Hỏa, sự tươi
tốt của cây, ḍng nước lênh láng cuồn cuộn, việc cấy cày trên đất ngày càng tốt
hơn. Tụ họp mà không tản mạn, tất nhiên có thể làm núi, núi lại càng cao vậy;
tản mạn mà không tụ họp, tất nhiên có thể làm đất, đất lại càng rộng. Công dụng
là vô cùng , sự sống cũng vô cùng, công dụng của Thổ là không thể nói hết!
Ngũ hành lấy h́nh dáng, đều dựa vào sự khác biệt mà phân Am
dương, tức là coi bắt đầu và cuối cùng mà biết rơ thay đổi. Ví dụ như Giáp Tư Ất
Sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi, nước trong sa mạc, sự phân biệt Thủy Thổ, sự phân
biệt Am Dương vậy; Nhâm Dần Quư Măo đối với Nhâm Thân Quư Dậu, kiếm bạc sắc nhọn,
sự phân biệt Kim Mộc cũng là sự phân biệt cứng mềm; Canh Th́n Tân Tị đối với
Canh Tuất Tân Hợi, bạch lạp thoa xuyến, chỗ khác nhau giữa Càn và Tốn, h́nh sắc
đạt đến tận cùng; Nhâm Tư Quư Dậu đối với Nhâm Ngọ Quư Mùi, cây dâu cây dương
liễu, một cong một mềm mại, h́nh dáng tính chất đều khác biệt nhiều; Canh Dần
Tân Măo đối với Canh Dần Tân Dậu, cây tùng bách cây thạch lựu, một vững một
cay, tính chất mùi vị đều khác biệt; Mậu Th́n Ất Tư đối với Mậu Tuất Ất Hợi,
rừng lớn và b́nh địa, một thịnh một suy, Càn Tốn rất khác biệt; Mậu Tư Ất Sửu
đối với Mậu Ngọ Ất Mùi, sấm sét trên trời, sấm chớp rền vang, nhật nguyệt đồng
chiếu; Bính Dần Đinh Măo đối với Bính Thân Đinh Dậu, lấy lửa đốt cây cây càng
cháy giữ, Kim vượng Hỏa diệt; Giáp Th́n Ất Tị đối với Giáp Tuất Ất Hợi, lật đổ
đèn dầu, hàm chứa uy phong, “ đầu quang chỉ cấn dă”; Canh Tư Tân Sửu đối với
Canh Ngọ Tân Mùi, tường thành trên đất, h́nh dạng phân ra phân tán tụ họp riêng
biệt, phân biệt sống chết; Mậu Dần Ất Măo đối với Mậu Thân Ất Dậu, đầu thành có
dịch trạm, Đông Nam Tây Bắc, Khôn Cấn hai ngôi vậy; Bính Th́n Đinh Tị đối với
Bính Tuất Đinh Hợi, nhà trên sa mạc, khô ráo ẩm ướt cùng phối hợp, biến hóa từ
đầu đến khi kết thúc.
Xem hết toàn bộ, không ngoài vượng rồi đến kết thúc; v́ gần
lấy xa, không thể nào trốn tránh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Lấy Can Chi mà phân
Ngũ hành, luận Am Dương mà biết rơ bắt đầu kết thúc. Trời đă cùng kiêm nhiệm
với sức người, sinh th́ vượng mà tử th́ tuyệt. Oi thôi! 60 hoa giáp, thánh nhân
chẳng qua mượn h́nh tượng này để làm rơ lư lẽ, mà tính t́nh, tính chất, h́nh
sắc, công dụng của Ngũ hành là “vô bất khúc tận” mà Tạo hóa “ vô dư uẩn” (không
có ǵ là uẩn khúc, không ǵ tả nổi, biến hóa khôn lường, không có ǵ là thừa
thải, vô nghĩa...)
__________________ ...đang nuôi dzợ đẻ !
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|