thanhtinh Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 28 February 2008 lúc 7:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
Giảng lược về Pháp
Giảng lược về Pháp
Trước khi chúng ta có thể hiểu rơ được về ư nghĩa của giác ngộ (sambodhi) và trí tuệ (prajna) là ǵ trong đạo Phật, thiết tưởng chúng ta nên lược bàn qua về ư nghĩa của pháp (dharma) trước đă. Tại sao vậy ? Bởi v́ pháp chính là đối tượng của giác ngộ và trí huệ vậy.
Giác ngộ và trí huệ có nghĩa là một năng lực đặc biệt của tâm thức nhận biết về chân lư hay sự thật. Nhưng chân lư hay sự thật là cái ǵ đây ? Theo đạo Phật đó là chân lư hay sự thật của các pháp (dharma). Nói một cách chuyên môn hơn, giác ngộ và trí huệ là khi tâm thức nhận biết về các pháp (dharma) một cách trực tiếp và đúng như thật (yathàbhùtam). Thế nên càng hiểu rơ về pháp chúng ta sẽ càng hiểu rơ và đi đến với giác ngộ và trí huệ hơn.
Pháp là một danh từ hết sức bao trùm nên rất là phức tạp. Giản dị pháp hỉ có nghĩa là "tŕ giữ được tự tướng'' ( nhậm tŕ tự tính). Chữ dharma từ ngữ căn dhr được nh́n theo nghĩa "tŕ giữ)". Nếu hỏi tŕ giữ cái ǵ, th́ tŕ giữ (tự tính( (svalaksana). Tóm lại nghĩa là bất cứ một sự vật (bhàva) nào đó, một cái ǵ có đó, với các tính chất riêng biệt của nó và v́ hễ nó có đâu là các tính chất này có đó, nên gọi là nó "tŕ giữ đươ.c" các tính chất này. Và các tính chất này được gọi là "tự tướng" của nó. Như nước có tính chất thấm ướt, hễ có nước là có thấm ướt, nên được gọi là "tŕ giữ" tính thấm ướt ; và tính thấm ướt này làm cho nước đưọc nhận biết và phân biệt khác với lửa, đất v.v..., nên "thấm ướt" được gọi là "tự tướng" của nước. Và nước như thế là một pháp.
Nhận định ở trên, đưa đến một tính chất nữa về ư nghĩa của pháp: nghĩa là bất cứ một cái ǵ đó được nhận biết bằng một cái tên (nàman) và vó ư nghĩa của riêng nó qua sự phân biệt nó là khác bới các thứ khác, th́ đều được gọi là pháp, dù đó là một sự vật không thật có. Thí dụ như ''lông rùa\'',''sừng thỏ\'', tuy là các sự vật không có thật , song chúng có tên và chúng khác hẳn với đất, nước, nhà cửa, ngựa, ḅ v.v... Khi ai nói lên hai chữ ''lông rùa\'', các người khác sẽ không lẫn lộn đó là con ḅ hay cái xe v.v... Do đó ''lông rùa\'' có riêng một ư nghĩa của nó, tức một tự tướng của nó, nên nó là một pháp.
Pháp theo nghĩa sau này không c̣n phải chỉ là một sự vật cụ thể, mà bao gồm luôn cả các sự vật siêu h́nh, các ư nghĩa trừu tượng... Tóm lại bất cứ cái ǵ đủ tư cách làm đối tượng cho tâm thức phát khởi sự nhận biết đều được gọi là pháp.
Ư nghĩa này rất quan trọng đối với Duy Thức học. Đă đành pháp là phải ''duy tŕ tự tướng'' (nhậm tŕ tự tính), song '' tự tướng'' này phải gắn liền với sự nhận biết của tâm thức (quỹ sinh vật giải). Để dần dà đi đến ư nghĩa là không thể có pháp nào, độc lập ngoài tâm thức, v́ hễ là pháp th́ thiết yếu phải là đối tượng nhận biết của tậm thức. Do đó có tâm là phải có cảnh, và có cảnh là phải có tâm.
Chúng ta sẽ có dịp trở lại với ư nghĩa này sau\. Giờ -ây tiếp tục với ư nghĩa của pháp như sau : Nếu vậy, pháp là chỉ cho sự sự vạn vật, cả hữu h́nh mà cả vô h́nh, cả có mà cả không có, cả tốt cả xấu, cả đúng cả sai... một danh từ quá phức tạp và chứa trọn mọi ư nghĩa mâu thuẫn với nhau. Như thế th́ sử dụng nó có được mục đích ích lợi ǵ chăng, mà tại sao trong Phật pháp th́ chữ pháp này hầu như là quan trọng nhất ? Pháp là một trong Tam Bảo, và ngay chính Phật cũng lấy pháp làm thầy, lấy pháp làm thân (kaya) của ngài, và rơ ràng pháp c̣n chính là bản thể của Tăng bảo nữa, v́ nếu thiếu pháp, tăng sẽ mất hết ư nghĩa...
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng tuy chữ pháp bao trùm hết sự sự vật vật thiên sai vạn biệt, song pháp lại được phân ra thành các loại có ư nghĩa khác nhau\. Đại để đạo Phật phân pháp thành hai loại chính là pháp thế gian (laukika\-dhama) và pháp xuất thế gian (lokottara\-dharma). Ngoài ra chiếu theo quan điểm của thế gian đức Phật c̣n nói đến pháp thiện (kusala), pháp bất thiện (akusala) ; bạch pháp, hắc pháp v.v...
Và theo đó, th́ dường như chữ Pháp trong danh từ ''Phật pháp'' hay trong danh từ Tam bảo ''Phật, Pháp, Tăng'' là chỉ cho các pháp xuất thế gian thuộc các pháp thiện. Và người ta thường giải thích chữ pháp ấy một cách giản dị nhưng rất chính xác là '' những ǵ do Phật nói ra th́ gọi là (Phật) pháp''. Dĩ nhiên không phải lời nào, chữ nào từ miệng Phật nói ra cũng đều là Pháp, mà chỉ có những lời giảng về ư nghĩa của thiện, của xuất thế gian, mới được gọi là pháp.
Chữ pháp theo nghĩa trên này hoàn toàn hạn hẹp lại, giới hạn vào âm thanh của đức Phật, và chỉ vào phương diện thanh tịnh luân lư mà thôi\. Nếu đúng thế, tại sao đức Phật không dùng chữ ''xuất thế gian thanh tịnh'' hay chữ ''thiện'' để nói về tam bảo hay nói về chân lư mà ngài chứng đi, mà ngài lại dùng chữ pháp làm chi để cho thành mông lung và phức tạp ? Chẳng hạn sao không nói là ''Phật, xuất thế gian(hay thiện), và tăng là tam bảo\'' mà lại nói ''Phật, Pháp, Tăng là tam bảo\''...
Chúng ta có thể hiểu rằng tuy tất cả đều là pháp, song không phải cứ là pháp th́ đều là Phật pháp mà chỉ có pháp thanh tịnh, thiện, xuất thế gian mới là Phật pháp. Ngoài ra các pháp bất tịnh, bất thiện, thuộc thế gian th́ không phải là Phật Pháp. Do đó khi nói '''Phật, Pháp, Tăng'', th́ chữ pháp ở đây là chỉ cho các pháp thanh tịnh v.v...vậy.
Đă đành là thế, nhưng giải thích này vẫn không ăn nhập ǵ đến vấn đề tại sao đức Phật lại dùng chữ pháp khi mà ngài chỉ nhận có một nửa ư nghĩa của nó và loại bỏ đi mất một nửa khác ? Và có thể nào chăng mà chữ pháp ở đây được đức Phật dùng là để chỉ cho tất cả các pháp chứ không phải riêng ǵ các pháp thanh tịnh xuất thế ; như trong kinh Kim Cương có câu ''tất cả các pháp đều là Phật pháp'' (sarvadharma Bud\dharma iti) ?
Để đă thông các vấn đề này chúng ta cần phải trở lại với ư nghĩa trước tiên của pháp, cộng thêm với ư nghĩa pháp ở đây, thời chúng ta sẽ thấy ư nghĩa của pháp được xác định theo hai phương diện, hay hai môi trướng hoạt động của đức Phật :
Trước hết theo ư nghĩa '' tŕ giữ tự tướng '', th́ pháp ở đây được nh́n theo phương diện tự tính, nghĩa là sự thật, chân lư của mỗi sự vật. Chữ pháp này có tính cách phổ biến, nghĩa là nó chỉ cho tất cả tự tướng của tất cả các sự vật.
Ư nghĩa thứ hai là '' những lời Phật dạy '', th́ pháp ở đây không có tính cách phổ biến, mà chỉ cho các điều thiện xuất thế gian thanh tịnh, cùng các phương pháp hay cách thức để đạt đến mục tiêu tối hậu và cao thượng nhất là Niết Bàn (nirvana) giải thoát. Trên phương diện này th́ các điều ác, các giáo thuyết, tri kiến của ngoại đạo, đôi khi ngay đến các điều thiện thuộc thế gian cũng đều được coi là '' phi pháp '' (Adharma), chứ không được gọi là pháp (Dharma).
Sở dĩ pháp có hai phương diện ư nghĩa như thế là chiếu theo hai môi trường hoạt động của đức Phật : một là phương diện tự chứng của ngài về chân lư (hay tự tướng) của tất cả các sự vật, đây là phương diện lợi tha của ngài giúp cho mọi người khác giải thoát hay giác ngộ được chân tướng của sự vật, đây là phương diện từ bi xảo phương diện của ngài\. Bí như một người đă thấy tận mắt núi Lô Sơn rồi (nói cho sự giác ngộ), người ấy mới diễn tả lại và chỉ bày cho các người khác để họ có thể đi đến tận nơi và để thấy được tận mắt ngọn núi này (nói cho phương diện từ bi). Nếu chúng ta muốn đến và thấy được núi Lô Sơn, chúng ta phải tuyệt đối nghe theo lời của người đă đến và đă thấy núi ấy rồi\. Nếu nghe theo lời của những người khác mà chưa đến và chưa thấy được núi Lô Sơn, th́ chúng ta sẽ rơi vào lầm lạc ngay. Tự thân của núi Lô Sơn không có đúng sai, song các lời chỉ dẫn và phương cách để đi đến núi th́ có đúng có sai\. Cũng thế tự tướng (svalaksana) của sự vật th́ không có đúng có sai và đều là pháp. Song chỉ có lời nói của Phật mới đúng với pháp tự tướng này thế nên chỉ có lời nói của Phật mới là pháp, chứ không phải bất cứ lời nói nào cũng là pháp được.
Nói cách khác âm thanh (sabda) có tự tướng tiêng khác hẳn và không phải là mầu sắc, hương, vị ..., nên âm thanh là một
pháp. Trên phương diện tự tướng này, th́ âm thanh của Phật cũng là pháp. Song trên phương diện khai ngộ cho chúng sinh, th́ v́ chỉ có Phật mới nhận ra được tự tướng của sự vật, nên các lời Phật chỉ bảo mới đúng với tự tướng này. Do đó đối với chúng sinh mong được khai ngộ, th́ chỉ có âm thanh biểu lộ qua các lời Phật dạy mới là pháp, c̣n các âm thanh khác của ngoại đạo và phàm phu, th́ nơi tự tướng của chúng, chúng vẫn là pháp, song chúng không đưa ra và không dẫn đến sự thật về tự tướng này, nên trên phương diện khai ngộ, các âm thanh này không được coi là pháp.
Ví như một ''con người quá tàn nhẫn bất lương, người ta gọi hắn là ''đồ thú vật''. Bản thân hắn vẫn là ''người\'', song việc làm và sự sống của hắn không đưa ra được tự tướng của con người, nên hắn bị coi là ''phi\-con người\'', tức ''đồ thú vât''. Cũng thế phàm phu và các ngoại đạo, bản thân của họ, lời nói của họ đều là pháp, song họ không biết ǵ đến tự tướng của các pháp, không nói lên được và thể hiện ra được tự tướng ấy, thế nên bị gọi là phi pháp, chỉ có đời sống và lời nói của đức Phật, thể hiện ra được trọn vẹn tự tướng ấy, nên mới được gọi là pháp.
Tóm lại trên phương diện bản thể, pháp là tất cả và không hề có đúng sai phân biệt. Nhưng trên phương diện đối trị để khai ngộ về pháp này, th́ chỉ có các lời lẽ và các phương tiện nào thuận theo pháp và đưa đến sự chứng ngộ về pháp mới được gọi là pháp, ngoài ra là phi pháp.
Nếu chúng ta coi những ǵ Phật dạy để khai ngộ cho chúng ta là phương tiện, th́ tự tướng của pháp chính là cứu cánh mà phương tiện này đưa đến. Ở đây phương tiện và cứu cánh đều được gọi là pháp.
Nếu phân ra như thế mà nói, th́ vấn đề về pháp coi như khá sáng tỏ và dễ hiểu. Nhưng trên thực tế th́ vấn đề pháp này rất phức tạp và không dễ hiểu chút nào, đó là chưa nói đến biết bao tranh luận để nẩy sinh ra xung quanh ư nghĩa của pháp này.
Vấn đề chính yếu ở chỗ : Tuy pháp được coi là chân lư, là đối tượng để t́m kiếm cho bất cứ ai muốn được giải thoát khỏi mọi đau khổ, cũng như muốn được giác ngộ biết rơ chân lư là ǵ. Song tất cả chúng ta không ai biết pháp là ǵ hết ! Chẳng qua chúng ta chỉ biết đến danh từ pháp này là nhờ qua đức Phật, một người tự nhận là đă chứng ngộ được về pháp diễn nói ra. Nếu không có đức Phật, th́ chúng ta chỉ hiểu chữ pháp này qua ư nghĩa thông thường của nó là pháp luật, là lẽ phải, đạo đức...mà thôi. Nhưng nhờ có đức Phật, nên chúng ta mới biết được là có một chân lư tối thượng, toàn hảo, tuyệt đối, đem lại sự an lạc vĩnh cửu, và chân lư ấy được gọi là pháp. Và tất cả những ǵ chúng ta biết được về pháp hoàn toàn chỉ qua đời sống và lời lẽ tŕnh bầy giải thích của đức Phật. Thế nên trong giai đoạn hiện tại của thực trạng của trí huệ chúng ta th́ pháp không hề có ngoài Phật, pháp với Phật là một. Nhưng đối với một người chưa từng thấy núi Lô Sơn, nghe một người khác đă từng đến núi ấy rồi diễn tă lại, th́ núi Lô Sơn và sự diễn tă này là một ; ngoài sự diễn tả này ra, người ấy sẽ không c̣n cách ǵ để biết được núi Lô Sơn nữa.
Vấn đề tiếp tục sẽ là : Nhưng thật sự ra, phải chăng pháp là một cái ǵ có riêng ngoài đức Phật, như núi Lô Sơn có riêng ngoài người thấy núi Lô Sơn ; đức Phật chỉ là người diễn tả lại về pháp, như người đi núi về diễn tả lại cho các người khác nghe về núi ?
Nếu đúng như vậy th́ Phật và chúng ta có ăn thua ǵ đến chân lư gọi là pháp này nữa\. Như người thấy núi Lô Sơn, song không bao giờ là núi Lô Sơn được, cũng thế thấy được pháp song Phật không bao giờ là pháp hết, nghĩa là không bao giờ giải thoát giác ngộ, là an lạc cứu cánh... Nếu thế th́ biết về pháp có ích lợi ǵ và để làm ǵ, và một người biết về pháp mà vẫn không giác ngộ, giải thoát th́ sao gọi là Phật được ? Cũng như người thấy núi Lô Sơn rồi, với người chưa thấy núi, cả hai đều không phải là núi. Nếu pháp là cái ǵ có riêng ngoài đức Phật, th́ cho dù Phật có biết được pháp và chúng ta không biết ǵ về pháp hết, th́ cả Ngài lẫn chúng ta cũng đều không phải là pháp, nên đều là đau khổ và vô minh như nhau.
Do đó Phật với pháp phải là một, Phật với chân lư, với giác ngộ, với an lạc là một. Không thể nào quan niệm được rằng có một cái ǵ đó là pháp, là giác ngộ, an lạc... độc lập có riêng ngoài đức Phật được.
Song nếu thế th́ pháp có liên hệ ǵ đến chúng tà pháp chỉ là Phật thôi mà, và nếu đức Phật đă không c̣n, th́ pháp cũng chẳng c̣n, chúng ta quan tâm đến pháp làm chi nữa đây ?
Tuy Phật với pháp là một, song như trên đă có nói qua, pháp cũng là toàn thể tất cả chúng ta nữa. Không phải rằng Phật là một với pháp, th́ ngoài Phật ra sẽ không có pháp nữa. Trái lại pháp luôn luôn c̣n có mặt ngay nơi chúng ta. Song nếu chúng ta không nhận ra được pháp th́ dù có pháp đó chúng ta vẫn không là Phật, và vẫn phải chịu mọi phiền năo đau khổ.
Cũng như các phàm phu và ngoại đạo, chính họ, sự sống của họ, những lập luận, thuyết giáo của họ đều là pháp nơi tự tướng của chúng, song v́ không nhận ra được tự tướng ấy, nên họ vẫn bị coi là phàm phu, ngoại dạo, nghĩa là vẫn không có giải thoát hay giác ngộ chân chính, vẫn không có pháp vậy.
Tóm lại dù chính chúng ta là pháp, song chúng ta vẫn không biết được ǵ hơn về pháp nếu không có sự giảng dạy của đức Phật. Đến đây vấn đề vẫ chỉ kà pháp và những ǵ Phật giảng dạy là một, ngoài các lời giảng dạy này chúng ta không biết ǵ về pháp hết.
Đến đây chúng ta có thể thấy rơ phần nào các điểm đặc biệt nhất của Phật pháp là ở chổ : Phật pháp vừa là phương tiện vừa là cứu cánh. Bởi v́ phương tiện là để đưa đến, để chỉ ra cứu cánh, song cứu cánh này lại là một phương tiện, không hề có ngoài phương tiện, thế nên phương tiện chính là cứu cánh, cũng như ngược lại.
Và v́ chỉ có Phật mới giác ngộ chân chính (sumyak sambodhati) về pháp, nên chỉ có Phật, đời sống của ngài, và các lời ngài thuyết nói mới là phương tiện đúng nhất để đưa đến sự giác ngộ về pháp. Do đó trên phương diện phương tiện này chỉ có Phật pháp mới là pháp. Và cũng chỉ trên phương diện này Phật pháp mới là khác biệt với thế gian pháp, ngoại đạo pháp v.v... các thứ này là ''phi pháp''. Cũng chỉ trên phương diện này mới có tranh chấp và tranh luận là ai phải hay ai sai.
Đồng thời như thế, song v́ phương tiện pháp này lại chính là pháp cứu cánh, mà nơi pháp cứu cánh hay pháp tự tướng, th́ phàm phu, ngoại đạo cho đến Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật cũng đều là pháp, thế nên Phật pháp vẫn khác hẳn với các phi pháp ngoại đạo và thế gian, song Phật pháp vẫn không hề có tranh căi với ngoại đạo hay thế gian. Nơi phương diện pháp tự tướng này đức Phật tuyên thuyết ''Ta không hề có tranh căi với thế gian...''
Chúng ta có thể thấy rơ rằng trong khi đức Phật vẫn tranh luận và đă kích ngoại đạo th́ mặt khác ngài vẫn thấy rơ rằng ngài và ngoại đạo, lời lẽ của ngài và ngoại đạo đều chỉ là pháp. Tất cả đều trụ nơi tự tướng của ḿnh, đều là pháp, đều là chân lư là sự thật, là an lạc giải thoát, là Phật.
Để cho dễ hiểu, Duy thức học phân trí huệ ra làm hai là căn bổn trí và hậu đắc trí\. Căn bổn trí là trí chứng pháp tự tướng và hậu đắc trí là trí tức phương tiện trí là trí thuyết giảng để khai ngộ cho chúng sinh. Có thể nói là một trí tự lợi và một trí lợi tha.
Do đó Phật cũng như (Phật) pháp luôn luôn thể hiện qua hai mặt : một mặt tương đối thuộc thế gian, Phật pháp có sinh, có trụ, có dị, có diệt, có phấn đấu, có tranh luận hơn thua phải trái ; một mặt tuyệt đối hoàn toàn tĩnh lặng, an lạc, chấm dứt tất cả...
Điểm khó lĩnh hội nhất là hai mặt này không phải là hai mà là một. Và chính cái chỗ ''hai mà là một mà vẫn là hai nàư' mới là ư nghĩa đúng nhất của chữ pháp trong đạo Phật vậy. Đó mới chính là tự tướng cứu cánh của tất cả sự s ự vật vật vậy.
Để cho vấn đề sáng tỏ hơn chút nữa, chúng ta có thể đặt câu hỏi : ''tự tướng'' này là nhiều hay là một thôi ? Nếu ''tự tướng'' có nhiều th́ phải có nhiều pháp, tức có nhiều chân lư, điều này phi lư, v́ thứ nhất chân lư chỉ có một mà thôi , thứ nữa chấp nhận nhiềupháp là chấp nhận nhiều chân lư mâu thuẫn với nhau như nước với lữa, có với không, Phật với ngoại đạo. Làm sao có việc ai cái mâu thuẫn với nhau mà đều đúng hết được ? Mà nếu ''tự tướng'' chỉ là một thôi th́ tại sao lại thấy có nhiều
pháp đến mức vô lượng như vậy ? Và pháp của Phật pháp nói ở đây là tự tướng ǵ vậy ?
Chính v́ để trả lời các vấn đề trên đây mà Phật pháp mới chỉ ra cho chúng ta biết bao nhiêu ư nghĩa về tự tướng này vậy. Và v́ pháp tự tướng này luôn thể hiện ra qua hai mặt như trên đă nói, nên chúng ta có thể lĩnh hội pháp qua hai mặt ấy.
Hoặc bắt đầu từ mặt phương tiện, để rồi chứng thật nơi mặt cứu cánh. Thí dụ như theo giáo thuyết Tiểu Thừa từ lư vô thường, khổ và vô ngă (ba tự tướng chung của tất cả các
pháp) thuộc về Tứ Đế chúng ta tiến sâu vào và chứng được Niết Bàn tịch diệt tức tự tướng cứu cánh của tất cả cácpháp. Như trong kinh potthapàda, đức Phật tuyên bố là ngài chỉ nói về Tứ Đế mà thôi chứ không chịu trả lời các câu hỏi siêu h́nh của ngoại đạo và ngài cho biết lư do là v́ chỉ có Tứ Đế (khổ, tập, diệt,đạo) mới thuộc về pháp(dharma\-samhita) mới đưa đến tịch diệt (upasama), Niết Bàn, cũng như đưa đến thắng trí (abhinnà) và giác ngộ (sambodhà). Và sau đó chính ngoại đạo Potthapàda tán thán như sau : ''Sa môn Cù Đàm nói những điều...dựa trên pháp (dhammatthita), y theo pháp (dhammaniyàmaka)...''
Ở đây hai đế khổ và tập với các lư vô thường, khổ, vô ngă được coi như ''tự tướng'' thuộc phương tiện pháp để đối trị vô minh và tham ái của chúng sinh, trong khi diệt và đạo với chính trí, giác ngộ và tịch diệt Niết Bàn là tự tướng của cứu cánh pháp. Như thế trong khi đức Phật bác bỏ các giáo thuyết của ngoai đạo và nói lên về Tứ Đế như là lư lẽ chân thật đúng nhất, th́ có tranh luận đúng sai. Nhưng lư Tứ Đế này sẽ đưa về đâu ? Đưa về tịch diệt Niết Bàn tức chân lư '' chung '' cái '' tự tướng chung '' cho cả ngài lẫn ngoại đạo vậy.
Vậy Tứ Đế này chính làpháp, vàpháp này không hề làm tổn hại ngoại đạo chút nào mà chính lại là chân lư của họ. Tiếc thay các ngoại đạo là pháp mà lại không nhận ra được pháp, mới bị coi là lầm lạc như thế.
|