hiendde Hội viên
Đă tham gia: 07 November 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2516
|
Msg 2 of 7: Đă gửi: 20 March 2008 lúc 12:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
Xin chào bác Satan-or-Angle!
hiendde thấy không có ai trả lời cho bác nên xin gởi bài MỞ TOANG CỬA ĐỊA NGỤC tặng cho bác và bạn của bác. Mong gia đ́nh gặp nạn mau chóng đến chùa nhờ các vị cao tăng giúp đỡ.
Kẻ trước người sau đến xứ người lập nghiệp, cơ hội khác nhau, tiền bạc tích lủy nhiều ít cách biệt... nhưng tựu trung th́ ai cũng an cư lạc nghiệp, nhà cửa ấm cúng và cũng thừa tiền an hưởng lúc tuổi già. Sau khi tay bắt mặt mừng, rối rít thăm hỏi chuyện gia đ́nh, nhà cửa..., họ hào hứng nhắc nhớ lại quăng thời ngang dọc xa xưa, rồi bùi ngùi hồi tưởng đám bạn bè kẻ c̣n người mất, kẻ bệnh tật ngặt nghèo, người t́nh duyên lỡ dở... Cả ba tự nhận họ thuộc vào hạng có phước có phần, bản thân mạnh khỏe, gia đ́nh yên ổn, con cái nên người..., ngoài ra, họ c̣n may mắn ư thức được việc tu dưỡng thân tâm và nhân đó mới tham dự chuyến hành hương nầy để vừa thưởng thức cảnh đẹp xứ người, vừa đáp ứng được ḷng tôn kính đối với chư Bồ Tát. Cả ba hân hoan theo phái đoàn lần lượt chiêm bái Ngũ Đài, Nga Mi, Cửu Hoa và sau cùng vượt biển đến Phổ Đà sơn. Cả bốn đại danh sơn đều được mọi người quy ngưỡng, nhưng địa điểm nào được chấm là đặc biệt nhất, là điều mà ai cũng phân vân và đó cũng là câu hỏi mà ban tổ chức đă yêu cầu Phật tử góp ư. Trong suốt chuyến đi, sáng dậy sớm lên đường, tối mịt mới nghỉ ngơi, ba lăo già oải gân ráng sức theo cho kịp phái đoàn lại vừa phải phân tâm lo lắng cho mụ vợ hom hem cũng đă hụt hơi nên dù gặp nhau hằng ngày, mà chẳng mấy khi họ có thời giờ rảnh rổi hàn huyên tâm sự. Măi đến khi lên máy bay về Mỹ, ba người bạn già mới có dịp ngồi xúm xít bên nhau tán gẫu chuyện đời, rồi vô t́nh câu hỏi của ban tổ chức bỗng được nhắc lại. Thanh khơi mào : -Bốn đại danh sơn đều linh thiêng mầu nhiệm, phong cảnh mỗi nơi mỗi khác mà đều hùng vĩ tuyệt vời, chiêm bái nơi nào tôi cũng cảm thấy xúc động vô bờ, nên khi phải chọn lựa xếp hạng là một quyết định rất gian nan. Suy đi nghĩ lại, tôi đă chọn Cửu Hoa sơn, c̣n hai anh th́ thế nào? - Tôi cũng nhận thấy có duyên đặc biệt với Ngài Địa Tạng., Luân đáp. - Lạ quá! tôi cũng giống y chang như hai anh. Đúng là tư tưởng lớn gặp nhau rồi! Chúng ḿnh đều hướng về Cửu Hoa sơn, nhưng lư do thầm kín th́ có lẽ mỗi người mỗi khác. Ừ nhỉ! sao ḿnh không tŕnh bày nỗi niềm riêng của ḿnh cho bạn bè cùng chia xẻ cho vui?, Phương góp ư. Luân cũng lên tiếng : - H́ ! h́ ! Nên lắm! phải lắm! Thế nhưng ai là người phải kể trước đây? Phương đă đề nghị th́ phải xung phong làm gương sáng cho anh em noi theo mới đúng? Phương biết tranh căi với hai bạn cũng vô ích, nên cười h́ h́ nhận chịu. Anh mơ màng đưa hồn quay về với chuỗi ngày niên thiếu xa xưa, rồi bắt đầu vào chuyện : - Tôi sanh ra tại cù lao Phố, nay là xă Hiệp Ḥa, Biên Ḥa. Đây là một địa điểm lịch sử và lào một trong những cơ sở tiên khởi của ông cha ta trên con đường khai phá miền Nam, nhờ vậy đă có những ngôi cổ tự xây dựng lâu đời như chùa Đại Giác và Chúc Thọ. Thuở nhỏ tôi thường theo bà nội đi chùa Chúc Thọ tụng kinh Địa Tạng, và tại đây, hơn một lần tôi đă nghe cô bác nhắc nhở đến giai thoại Thủ Huồng, một giai thoại đă tạo ảnh hưởng sâu đậm cho niềm tin kính của tôi đối với Ngài Địa Tạng. Theo truyền thuyết th́ Ông Thủ Huồng, tên thật là Vơ thủ Hoằng, nguyên là một viên thơ lại tại dinh Trấn Biên vào buổi giao thời Gia Long phục quốc. Nương vào thời kỳ chánh trị bất ổn, kinh tế xáo trộn, Thủ Huồng mặc sức làm giàu bằng đủ mọi h́nh thức. Ông lạm dụng quyền thế, gian lận của công, hối lộ, sách nhiễu tiền bạc, cướp đoạt tài sản của dân chúng, ngoài ra, ông cũng không từ nan những thủ đoạn kiếm tiền khác như đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lăi, lường công bóc lột tá điền, tổ chức bài bạc lấy xâu... Sau 20 năm cần cù làm việc, gầy dựng nên một tài sản kếch sù, ruộng đất c̣ bay thẳng cánh, Thủ Huồng mới từ dịch an hưởng đời sống phong lưu của bậc đại trưởng giả. Thủ Huồng không con nối dơi, chỉ có người vợ yêu tâm đồng ư hiệp, sớm hôm bàn kế hoạch làm giàu và lấy chuyện tích lủy tiền của làm niềm vui. Thế nhưng, bỗng dưng ngựi vợ yêu lâm bạo bệnh rồi từ trần. Thủ Huồng cực kỳ đau khổ, nhưng thương vợ th́ y chỉ có phương cách là tổ chức đám tang linh đ́nh, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho thật nhiều với hi vọng người vợ yêu có thừa tiền của để hối lộ và tiêu pha tại chốn âm ty. Vợ chết được mấy tuần th́ Thủ Huồng bỗng chiêm bao nghe tiếng vợ kêu gào rùng rợn khóc la, như đang bị ngục tốt dùng cực h́nh tra khảo. Thủ Huồng thoạt nghĩ chỉ v́ quá thương tưởng vợ nên sanh mộng mị, và mộng mị sẽ biến dạng lần theo thời gian. Không ngờ tiếng kêu la của vợ cứ tái diễn hằng đêm, khiến Thủ Huồng lo sợ thất thần ăn ngủ không yên. Thủ Huồng hoảng hốt t́m lương y chạy chữa bệnh tâm thần, mặt khác, ông ta cũng nghĩ đến việc cầu cạnh đám thầy cúng và đồng cốt, hạng người tự nhận có khả năng liên lạc với cơi âm để nhờ họ dùng lễ lộc cúng vái quỷ thần chuộc tội cho vợ. Do đó, nghe ai chỉ bày đồng cốt hay thầy cúng nào cao tay ấn, ông ta liền ân cần triệu thỉnh, tiền bạc chẳng nệ hà tốn kém, nhưng thời gian kéo dài cả năm, lễ lộc liên miên mà những cơn ác mộng hằng đêm vẫn không thay đổi. Nguyên trước kia Thủ Huồng cũng có đến chùa đôi lần, nhưng nhận thấy chốn nầy chẳng sanh lợi lộc chi cả - bị kêu gọi cúng dường tốn hao th́ có - chưa kể c̣n bị nghe dạy dỗ “ăn hiền ở lành” chán phèo, nên ông ta tránh né chùa chiền. Măi đến khi lâm vào bước đường cùng, Thủ Huồng buộc ḷng phải t́m đến chùa Từ Ân, Gia Định lạy lục khẩn cầu ḥa thượng Phật Ư Linh Nhạc cứu giúp. Sau khi nghe Thủ Huồng thuật lại cơn ác mộng, ḥa thượng ôn tồn phán dạy : “Vợ chồng con mang tâm địa giống nhau lại thương yêu quấn quít chẳng rời, đồng vợ đồng chồng tạo tác ác nghiệp chung, do đó tâm ư tương thông nhau khiến con cảm ứng được tiếng kêu than của vợ vọng lên từ cơi địa ngục. Trường hợp nầy chỉ là một trong những h́nh thức của thần giao cách cảm, tuy hiếm hoi nhưng vẫn xảy ra”. Ḥa thượng hướng dẫn Thủ Huồng đến chiêm bái tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát rồi phán dạy tiếp : “Đây là tượng Bồ Tát Địa Tạng. Ngài là vị Bồ Tát mang đại nguyện là đời đời kiếp kiếp cứu độ hết thảy chúng sanh cho đến khi địa ngục trống không th́ mới thành Phật, v́ lẽ đó, Ngài được tôn xưng là vị Giáo chủ cơi U Minh, ai muốn thoát cái khổ địa ngục th́ phải chiêm bái Ngài, hành hạnh nguyện của Ngài. Con hăy quan sát kỹ tượng Bồ Tát, tay trái Ngài nâng hạt minh châu, tay phải Ngài cầm tích trượng. Minh châu tượng trưng cho trí tuệ, dùng minh châu soi sáng cơi u minh cũng có nghĩa là phát triển trí tuệ sáng suốt hầu thấy rơ con đường chánh đạo để tu tập mà xa ĺa địa ngục. Tích trượng có gắn mười hai khoen tượng trưng cho giáo lư 12 nhân duyên. Tích trượng là cây gậy dùng để phá tan địa ngục, phá địa ngục không phải bằng vũ lực mà là dựa trên giáo lư nhân duyên tu tập. Cách phá hay nhất là không tạo nhân địa ngục th́ sẽ không sanh quả địa ngục. C̣n nhược bằng đă lỡ gieo nhân địa ngục, th́ phải thành tâm sám hối, bố thí, tŕ giới... tạo nhân lành, để giũa mài cho mỏng dần cái quả địa ngục... rồi cứ thế mà liên tục thực hành th́ cái quả địa ngục mới có ngày hoàn toàn biến dạng. Giờ đây nhà chùa có thể giúp đỡ con bằng cách hướng dẫn con lễ bái, cúng dường, tụng niệm kinh Địa Tạng bổn nguyện... hoặc giả nếu như con phát tâm từ bi nhà chùa cũng sẵn sàng thiết lập đại thủy đàn chẩn tế để con hành hạnh bố thí hồi hướng cho vợ con th́ càng tốt. Tuy vậy, con nên nhớ rơ rằng chính con phải tự cầm tích trượng phát tâm dơng mănh sám hối, bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục... để phá địa ngục th́ địa ngục mới thực sự tiêu tan. Con và vợ con đă có thần giao cách cảm, con phát tâm th́ vợ con cảm ứng, nên cái khổ địa ngục của vợ con chắc chắn sẽ vơi lần...”. Nghe ḥa thượng nhắc nhở lư nhân duyên nghiệp báo, Thủ Huồng lo sợ cuống cuồng. Ông ta thừa hiểu tội ác của ḿnh ngập đầu ngập cổ, như vậy nếu rơi vào chốn địa ngục th́ chắc chắn sẽ bị cực h́nh đau đớn gấp trăm, gấp ngàn lần cái khổ mà vợ đang gánh chịu nữa. Thủ Huồng vội vă thỉnh cầu ḥa thượng thương xót tổ chức hướng dẫn tụng niệm cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và thiết lập trai đàn thủy lục để bố thí cầu nguyện cho vợ, ngoài ra, ông ta cũng kính thỉnh tượng Địa Tạng về nhà, ngày đêm lễ bái, thành tâm sám hối thề không tái phạm lỗi lầm nữa. Trong chiêm bao, tiếng rên la kêu gào của vợ bắt đầu giảm lần, hai tháng sau, th́ dường như đă dứt hẳn khiến Thủ Huồng cảm thấy có thể ăn ngon ngủ yên được rồi. Một hôm Thủ Huồng chiêm bao thấy vợ thân thể bèo nhèo tiều tụy hiện về cho biết nhờ chồng lễ bái, cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và lập đàn phát chẩn tế hồi hướng nên tội nghiệp giảm thiểu dần, giờ đây nàng không c̣n bị hành hạ ôm trụ đồng lửa tại ngục Bảo Trụ hay bị cày lưỡi tại ngục Canh Thiệt nữa. Nàng đang được quỷ tốt dẫn giải sang ngục gông cùm để chịu tội tiếp, nàng năn nỉ quỉ tốt cho ghé nhà một phút thông báo tin mừng cho chồng rồi chạy đi ngay. Thương vợ quá, hồn Thủ Huồng tức tốc chạy theo. Ông thấy vợ bị hai con quỷ hung dữ nanh dài lôi kéo, tuy run sợ nhưng cũng lẽo đẽo theo sau dù phải giữ một khoảng cách khá xa, chớ chẳng dám đến gần. Thủ Huồng cứ thế mà len lỏi đi theo xuyên qua bao địa ngục khủng khiếp, thấy cảnh tội nhân bị móc mắt, cắt lưỡi, phanh thây, kẻ bị bỏ vào vạc dầu sôi, ôm trụ đồng lửa... đang đau đớn kêu gào kinh rợn. Đến địa ngục gông cùm, Thủ Huồng đang đứng xa xa lấm lét nh́n cảnh vợ mang gông, bỗng bị viên cai ngục khám phá, chỉ mặt hét lớn : “Thằng kia! ngươi là tội nhân địa ngục nào sao dám lảng vảng ở đây?”. Thủ Huồng sợ hăi run lẩy bẩy, tuy vậy, nhờ hơn hai tháng qua, ngày đêm lễ bái Bồ Tát Địa Tạng, lúc lâm nguy bèn nhớ ngay đến Ngài nên c̣n giữ chút b́nh tĩnh. Thủ Huồng lên tiếng : “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi không phải là tội nhân ở cơi địa ngục nào cả. Tôi tới đây v́ ḷng ṭ ṃ mà thôi!”. Tên cai ngục bỗng đổi giọng nhỏ nhẹ : “Anh biết nương về với Bồ Tát th́ rơ ràng không phải là tội nhân ở đây rồi. Anh có điều chi thắc mắc mà muốn t́m hiểu chốn nầy?”. Thủ Huồng lanh trí nh́n quanh quất thấy có chiếc gông vĩ đại, to gấp ngàn lần cái gông b́nh thường, liền đáp : “Cái gông bự tổ bố kia dùng vào việc ǵ vậy ông?”. Viên cai ngục tra xét quyển sổ tội phạm dày cộm, rồi trả lời : “Gông nầy dành riêng cho tên Vơ thủ Hoằng. Hắn là kẻ đại gian ác hiện đang sanh sống tại dinh Trấn Biên, xứ Đại Nam. Sau khi măn số, hắn sẽ bị hành h́nh dài dài ở khắp các địa ngục tên lửa, xe sắt, giường sắt, nước đồng sôi, cày lưỡi, móc mắt, cắt lưỡi, cưa răng... rồi mới tới đây”. Thủ Huồng cám ơn viên cai ngục, rồi phóng chạy một mạch về nhà th́ tỉnh mộng, mà nỗi kinh hoàng vẫn c̣n đeo đẳng đến độ tay chân rụng rời không xê dịch được. Nhờ hằng ngày nghiền ngẫm pháp từ của ḥa thượng Phật Ư Linh Nhạc, Thủ Huồng đă hiểu rơ rằng chính ḿnh phải dơng mănh cầm tích trượng nhân duyên để phá tan địa ngục của chính ḿnh bằng cách phát lồ sám hối, bố thí tŕ giới và xả thân phục vụ pháp giới chúng sanh. Thế rồi, Thủ Huồng truy tầm những nạn nhân trước kia đă bị ông ta cưởng đoạt, lường gạt, bóc lột... để đền bù lại những ǵ có thể bồi hoàn được. Mặt khác, ông cũng mở ḷng nhân từ giúp đỡ những gia đ́nh nghèo đói, dưỡng nuôi kẻ già nua cô quạnh, rước thầy hốt thuốc cho kẻ bệnh tật, lo ma chay tống táng cho kẻ chết bờ chết bụi... Ông tận tụy phục vụ cho mọi người, ở đâu mà nghe tiếng kêu than khóc lóc, th́ ông liền t́m đến an ủi cứu giúp. Sau hai năm hành hạnh nguyện bố thí, chi phí hơn nửa gia sản, một hôm, Thủ Huồng lại chiêm bao thấy vợ. Lần nầy bà tươi vui cho biết nhờ chồng thức tỉnh tu tập rồi hồi hướng công đức mà bà đă thoát khỏi cảnh địa ngục, nay sắp đi đào thai nên vội lẻn về báo tin rồi từ giă ngay. Thủ Huồng thương vợ bịn rịn chẳng muốn rời nên lốc cốc chạy theo. Bà vợ nhanh chân quá, mới thấy đó đă biến mất đằng nào. Thủ Huồng len lỏi theo con đường cũ t́m kiếm. Ông cũng xuyên qua bao địa ngục rùng rợn, rồi cuối cùng lang thang đến đúng địa ngục gông cùm năm xưa. Lần nầy Thủ Huồng rất b́nh tĩnh, ông chào viên cai ngục rồi vui vẻ lên tiếng : “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát! Xin chào Ông. Ông c̣n nhớ tôi không?”. Viên cai ngục đáp : “Dĩ nhiên là nhớ. Anh c̣n thắc mắc điều chi mà ḷ ḍ đến đây?”. Thủ Huồng trả lời : “Tôi muốn xem lại cái gông to lớn năm xưa để biết h́nh dạng nó giờ đây đă thay đổi như thế nào?”. Viên cai ngục lắc đầu ra vẻ ngạc nhiên : “Lạ quá anh ạ! Chẳng biết thằng cha Vơ thủ Hoằng đó đă ăn năn sám hối ăn hiền ở lành như thế nào, mà cái gông đó teo nhỏ dần. Anh hăy nh́n xem kià! Nó nhỏ xíu, và có lẽ sắp biến dạng đến nơi rồi...”. Thủ Huồng mĩm cười đáp : “Thú thật với ông cai, Vơ thủ Hoằng chính là tôi đây. Từ ngày quy ngưỡng Bồ Tát Địa Tạng, tỏ tường lư nhân duyên, tôi đă phát lồ sám hối, thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành... chỉ mong chuộc lại lỗi lầm năm xưa mà thôi. Tôi hi vọng sẽ không phải theo nghiệp dữ mà đến đây mang gông mang cùm làm bận rộn cho quí ông. Xin cám ơn ông và xin chào ông.” Trở về trần thế, Thủ Huồng bền bĩ tiếp tục hạnh nguyện cứu giúp kẻ bần cùng. Ngoài ra, ông c̣n bỏ tiền ra đắp đường, vét sông rạch, xây cầu, dựng bè xây nhà ngay ngă ba sông Đồng Nai và Saigon cho thuyền nhân qua lại có chỗ tạm trú chờ con nước thuận. Những năm cuối cùng của cuộc đời, ông gom hết tài sản c̣n lại, xây dựng ngôi chùa Chúc Thọ dâng lên ḥa thượng Phật Ư Linh Nhạc, rồi thanh thản từ giă cơi đời, ra đi không vướng bận một đồng xu ten dính túi. Tuy vậy, sự nghiệp của ông : ngôi chùa Chúc Thọ, con rạch, cầu đá, con đường lộ... vẫn c̣n tồn tại cho người đời sau hưởng dụng, riêng cái “nhà bè” dầu dấu vết đă biến mất mà địa danh Nhà Bè vẫn c̣n phảng phất trong câu hát điệu ḥ : “Nhà Bè nước chảy chia đôi. Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về...”
Trong khi làm lễ tống táng Thủ Huồng, ḥa thượng Phật Ư Linh Nhạc muốn lưu lại sự tích đặc biệt của người Phật tử nầy nên có biên mấy chữ son trên ḷng bàn tay phải của ông ta. Mười mấy năm sau, vua Đạo Quang nhà Thanh cho sứ giả sang Việt Nam yêu cầu triều đ́nh Huế ḍ la tung tích Thủ Hoằng, v́ trên ḷng bàn tay của một hoàng tử khi sanh ra có hàng chữ “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”. Sau khi truy tầm được, vua Đạo Quang có gởi tặng chùa Chúc Thọ ba tượng Phật bằng gỗ trầm hương và bia đá ghi lại sự tích, mà đến ngày nay vẫn c̣n lưu giữ tại chùa. Từ thuở thiếu thời, sự tích nầy đă gây ảnh hưởng rất sâu đậm trong ḷng tôi. Tôi thành tâm ngưỡng mộ Bồ Tát Địa Tạng, vẫn dặn ḷng phải luôn luôn tự soi sáng hành động ḿnh bằng lư nhân duyên, nhờ vậy đến từng tuổi nầy, khi có dịp nh́n lại quăng đời qua, tôi rất mừng rằng ḿnh đă không đến nỗi gây ra những ác nghiệp nặng nề. Phương vừa chấm dứt câu chuyện, th́ Luân liền lên tiếng : - Tôi phục vụ tại tiểu khu Biên Ḥa đến sáu năm, vậy mà không có duyên để biết câu chuyện Thủ Huồng. Tiếc thật! Không may mắn như anh Phương, nhân duyên hướng dẫn tôi đến với Bồ Tát Địa Tạng trễ lắm. Nguyên tôi vốn chẳng quan tâm mấy đến những vấn đề liên hệ tôn giáo, măi đến khi đi học tập cải tạo mỏi ṃn hơn bảy năm trời, nổi khổ đau chất ngất đến độ muốn quyên sinh cho nhẹ nợ trần th́ bất ngờ tôi nhận được quyển kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện. Trong một chuyến thăm nuôi, bỗng dưng bà xă liều lĩnh mang quyển kinh dấu trong giỏ thực phẩm trao cho tôi, dặn ḍ nhớ tụng niệm để được Bồ Tát gia hộ mà thoát khổ. Như hai anh cũng biết, họ kiểm soát cẩn mật lắm, kinh sách là loại cấm kỵ, họ mà khám phá th́ bị tống vào chuồng cọp chớ chẳng chơi, vậy mà qua hai lần lục lạo móc moi không sót chỗ nào, họ vẫn không thấy được quyển kinh. Sự kiện nhiệm mầu đó là động cơ thúc đẩy tôi đọc tụng t́m hiểu từng lời kinh, và chỉ trong thời gian ngắn đă chuyển biến con người không có niềm tin Trời Phật như tôi, thành kẻ biết quy kính Tam Bảo chân thành học Phật tu thân. Thật vậy, ngay khi vừa mới đọc tụng kệ khai kinh, xướng lên hạnh nguyện của Bồ Tát : “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề” th́ tôi đă xúc động run rẩy, nước mắt ngập tràn. Thân phận tội tù của chúng ḿnh là đối tượng cho người ta hành hạ thể xác lẫn tinh thần, ḿnh bơ vơ, lạc lơng chẳng c̣n chút niềm tin. Bây giờ, ḿnh được trao cho niềm tin, ḿnh có nơi nương tựa, ḿnh hiểu rơ rằng, dù có bị đọa đầy ở chốn địa ngục tàn khốc như thế nào, th́ Bồ Tát Địa Tạng cũng đến tận nơi để cứu độ ḿnh. Ư nghĩ Bồ Tát luôn luôn kề cận bên ḿnh thật là kỳ diệu. Từ đó, dù là lúc lên rừng đốn cây hay làm tạp dịch quanh trại, mỗi khi nghe tiếng chim hót, thấy con bướm nhởn nhơ, một đóa hoa dại hé nở, một cụm mây bay... tôi đều có cảm giác như Bồ Tát đang hiện hữu dưới h́nh dáng đó để an ủi tôi, để chở che đùm bọc tôi. Nhờ vậy, tôi cảm thấy ḷng ḿnh an vui thanh thản lạ thường, nỗi niềm khổ đau, thù hận không c̣n dày ḍ nữa, có thể nói, tuy thân xác vẫn ở tù mà tâm th́ đă thơi thới không bị buộc ràng. Hằng ngày tôi âm thầm tụng kinh, đi đứng làm lụng tôi niệm danh hiệu của Ngài, nên không có thời giờ trống trải để vớ vẩn âu lo, thậm chí tôi cũng không quan tâm đến chuyện về hay ở nữa. Càng tụng kinh tôi càng ư thức rằng cái quả khổ đau ngày nay tôi gánh chịu là do cái nhân bất thiện mà tôi đă gây ra, nên tôi chân thành sám hối, nguyện sửa đổi lỗi lầm, tránh làm điều ác, siêng làm việc lành. Đúng ba tháng sau th́ tôi được trả tự do. Trước khi rời trại tôi bàn giao quyển kinh cho Thiếu Tá Cử, nguyên trưởng Pḥng ba, tiểu khu B́nh Dương và anh Cử cũng được về nhà trong ṿng 6 tháng. Người ngoài có thể cho sự kiện trên chỉ là một sự trùng hợp, nhưng riêng tôi, tôi tin tưởng là có sự cảm ứng nhiệm mầu, và Bồ Tát Địa Tạng đă gia hộ cho tôi. Từ đó đến nay, ḷng tôi lúc nào cũng hướng về Ngài để thành tâm quy ngưỡng, và nương tựa Ngài mà tinh tấn tu sửa thân tâm. Khi tham gia chuyến hành hương tứ đại danh sơn, dĩ nhiên ưu tiên của tôi là chiêm bái thánh địa của Ngài. Tôi thao thức mong đợi từng giây từng phút nên ngày đầu tiên đến thánh địa trời sụp tối không chiêm bái liền được, tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ. Liên tiếp hai ngày sau, tôi theo phái đoàn chân thành chiêm bái khắp nơi : Hồi Hương Các, Vạn Niên tự, Kỳ Viên tự, Đại Nguyện tự, Địa Tạng thiền tự, và Nhục Thân bảo điện, nơi nào cũng trang nghiêm hùng vĩ, và nơi nào tôi cũng xúc động với cảm giác là Bồ Tát Địa Tạng vẫn hằng hiện hữu đâu đây. Điểm đặc biệt là trong khi chiêm ngưỡng nhục thân bất hoại của Ngài Vô Hàø tại chùa Vạn Niên và Ngài Từ Minh tại chùa Địa Tạng, tôi cảm thấy vừa hân hoan vừa thương cảm, nước mắt ràn rụa như trẻ thơ gặp mẹ v́ tôi tin tưởng chắc chắn rằng nếu như tôi dơng mănh tinh tấn tu tập th́ tôi cũng sẽ gần gũi với Bồ Tát Địa Tạng như những vị nầy. Thanh gật gù ra vẻ tán đồng, rồi chậm răi lên tiếng : - Hai anh đều sẵn có nhân duyên lớn với Bồ Tát Địa Tạng, c̣n phần tôi, thú thiệt rằng phải nhờ chuyến hành hương nầy tôi mới am hiểu sơ lược về Ngài, dầu vậy, tôi cũng cảm thấy ḿnh được chuyển hóa nhiều lắm. Tuy nhiên, chuyện của tôi là chuyện t́nh cảm riêng tư vụn vặt, chẳng cao sâu hay hào hứng đặc biệt ǵ cả, nên tôi xin hai anh cho được miễn tŕnh bày nhé? Luân phản đối tức khắc : - Đâu có chuyện kỳ cục vậy Thanh! Tụi ḿnh đă hẹn với nhau th́ phải làm theo đúng lời hứa chứ. Vả lại, ḿnh là dân nhà binh mà, phải thi hành trước rồi mới được khiếu nại sau, anh đâu thể viện lư do nầy kia để tránh né như vậy được! Phương cũng kỳ kèo : - Đối với anh em ḿnh th́ đâu có chuyện riêng tư nào phải giữ kín anh Thanh! Vả chăng chuyện đạo mà đem áp dụng vào cuộïc đời mới có giá trị thực tiển để học hỏi chớ. Xin anh tŕnh bày cái suy tư hay tâm t́nh của anh về Bồ Tát Địa Tạng hầu anh em tùy nghi rút tỉa kinh nghiệm mà tu tập. Tôi tin chắc câu chuyện sống thực của anh sẽ mang lợi lạc cho tôi nhiều lắm! - Hai anh nhứt quyết đ̣i nghe th́ tôi đành phải vâng lời thôi! Thú thật với hai anh là vợ chồng tôi tuy bề ngoài sống rất ư là hạnh phúc, nhưng thật ra th́ tôi cũng có nỗi khổ tâm riêng, thậm chí đôi khi tôi có cảm giác bứt rứt như ḿnh bị tù hăm vậy, đây chính là lư do đă đưa tôi t́m về suối nguồn Phật giáo làm nơi nương tựa. Thanh ngừng lại, buồn hiu buông tiếng thở dài, khiến cho Phương và Luân đâm ra ái ngại. Họ thật ḷng chỉ muốn nài ép Thanh kể chuyện cho vui không ngờ vô t́nh lại khơi dậy nổi khổ thầm kín trong ḷng bạn, nên vội vă lựa lời an ủi. Luân lên tiếng : - Đừng buồn Thanh ạ! trời đất c̣n có khi mưa khi nắng, th́ t́nh vợ chồng sao chẳng có lúc mặn nồng khi lại đắng cay. Hoàn cảnh tôi nào có khác chi hoàn cảnh anh. Tuổi đời chồng chất, thân thể bệnh hoạn, bà xă tôi dễ sanh cau có, quạu quọ ngay cả với những chuyện vu vơ. Con cái đều ra riêng, quanh đi quẩn lại trong nhà chỉ có hai vợ chồng già hủ hỉ, nên dĩ nhiên tôi phải lănh trọn vẹn những tiếng cằn nhằn của bả. Hai anh nghĩ coi, suốt ngày tôi cứ bị cái âm điệu khàn khàn dai dẳng xoáy vào lỗ nhĩ hoài nhức nhối buốt óc, buốt tim th́ làm sao chịu đựng nỗi, có lúc, tôi muốn phát điên lên được. Lần đó bả gọi tôi ra ăn cơm, tôi mê đọc sách ra trễ chừng năm phút th́ thấy mặt mày bả đă chầm dầm, rồi bả lại bắt đầu mở máy nói khiến tôi nóng mặt nuốt cơm chẳng trôi. Bỗng nhiên tôi nhớ lại thuở ban đầu xa xưa ấy, tôi thường ham vui với bè bạn về trễ, có khi để người vợ trẻ phải chờ cơm đói meo cả mấy tiếng đồng hồ, thế mà nàng chỉ buồn buồn chớ không trách tôi một lời. Lúc đó tôi chỉ cần nựng nàng rồi an ủi một câu : “Tội nghiệp em cưng! anh về trễ làm cho em phải chờ cơm! thương quá là thương!”, th́ nàng đă đổi buồn thành vui, ríu rít bên tôi như con chim sơn ca rồi. Tôi liền tự hỏi c̣n bây giờ th́ sao? Tôi nh́n kỹ bả. Oâi, người con gái duyên dáng tràn đầy nhựa sống năm xưa đă biến thành già nua lụm cụm, bả tàn tạ thảm thương, bả bệnh hoạn mệt mỏi ră rời, thảo nào bả chẳng dễ sanh phiền muộn. Phần tôi, tôi cũng khô cằn c̣m cơi, tôi đâu c̣n tươi mát tán tỉnh cợt nhă với bả ngọt ngào như xưa, thành thử đời sống vợ chồng đâm ra lê thê buồn năn. Bỗng dưng tôi nghĩ không phải chỉ cái thời gian mà chính tôi và lũ con tôi cũng là những nguyên nhân lớn đă tàn phá con người bả. Cả đời bả ăn không no ngủ không yên, dành hết thời giờ tẩn mẩn chăm sóc chồng con từng miếng ăn, từ cái mặc, rồi đến khi tôi lâm cảnh lao lung, một ḿnh bả phải tảo tần ngược xuôi trăm cay ngàn đắng kiếm sống, lại c̣n phải gian nan lặn lội thăm nuôi chồng tại những trại tập trung heo hút. T́nh thương vợ bỗng dâng tràn, tôi vuốt mấy sợi tóc bạc ḷa x̣a trên trán bả, âu yếm nói : “Oâi! thương làm sao á! em suốt đời chăm lo săn sóc chồng, mà anh hư quá để em chờ đợi cơm canh nguội lạnh! tội nghiệp em cưng quá!” Đang hờn giận nhau, chúng tôi cảm thấy thương nhau hơn bao giờ hết, v́ vậy, từ dạo đó, tôi thường lưu ư bả, chăm sóc đùa giỡn với bả như thời trẻ trung nhờ vậy chuỗi ngày già đỡ tẻ nhạt, và t́nh nghĩa vợ chồng lại dào dạt đầm ấm như xưa. Phương cũng góp ư : - Đúng như anh Luân nhận xét. Bọn đàn ông chúng ḿnh, thời trẻ trung thường hào hoa phong nhă, biết săn sóc tán tỉnh vợ, thỏ thẻ những lời âu yếm nồng nàn, nhưng đến khi lớn tuổi rồi th́ lại “quá đứng đắn” thành thử đời sống vợ chồng lợt lạt dần, đến nỗi khi chuyện gối chăn thưa thớt, con cái có đời sống riêng tư th́ hai vợ chồng già lủi thủi chán chường, trơ mắt nh́n nhau khô khan t́nh cảm. Họ gượng gạo sống bên nhau mà chẳng chút niềm vui, th́ có khác ǵ là đang sống trong địa ngục. Tại sao những người già không có thể nói những lời thiết tha âu yếm với nhau như thời trẻ để làm gia vị thêm cho đời sống vợ chồng, tôi nghĩ “mụ vợ già” cũng có nhu cầu và có quyền được chồng tán tỉnh, cợt nhă như thời c̣n là người vợ trẻ phải không hai anh? Thanh bỗng tũm tĩm mĩm cười lên tiếng : - Khâm phục! khâm phục lắm! Ư kiến của hai anh thực tiển vô cùng, tôi sẽ lưu ư áp dụng để có thêm lợi lạc, ngặt một điều là trường hợp vợ chồng tôi lại không giống hoàn cảnh kẻ khác. Lư do là chuyện trục trặc của chúng tôi xảy ra chẳng qua chỉ v́ bà xă tôi thương tôi quá mức, săn sóc tôi kỹ quá nên tôi cảm thấy tù túng mà thôi... Luân cướp lời : - Vậy mà anh làm người ta tưởng anh bị vợ hành hạ chớ! Anh làm tụi tôi lo lắng t́m lời phân giải để anh cười chơi phải không? Phương cũng trách : - Đúng là gừøng càng già càng cay, anh càng già càng độc, tôi bị anh giăng bẫy sụp hoài, mà lần nầy vẫn hấp tấp nên lại rơi vào tṛng. - H́! h́! coi ḱa! tự hai anh hiểu lầm chớ tôi nào mở miệng oán trách bà xă câu nào đâu? C̣n chuyện được thương quá mức, được săn sóc quá mức th́ cũng bị ngột ngạt tù túng chứ! Người ta nói bị nhốt trong nhà đá, ḷ giam sắt, trong tháp ngà hay trong ṿng tay âu yếm cũng đều là ở tù kia mà! Đúng ra, phải nói t́nh thương của bả mang tính chất chiếm hữu nên dính mắc và độc tài. Bả quá sức thương tôi mà độc tài thành thử tôi bị ràng buộc mất hết tự do, ngay việc tu tập cũng bị ngăn trở nữa. Phần bả tuy phát nguyện Niệm Phật để văng sanh cơi Tây Phương Tịnh Độ mà vướng mắc bi lụy th́ làm sao thành công cho được. Tôi nghĩ vợ chồng chúng tôi phải học lối thương yêu theo tinh thần từ bi hỷ xả của chư Bồ Tát th́ mới không gây phiền năo cho nhau, và đó là lư do chúng tôi tham gia chuyến hành hương nầy. Tôi chỉ nhập đề thôi mà... Phương cười xuề x̣a lên tiếng : - Thôi anh khỏi ngụy biện nữa, tôi đồng ư là anh chỉ mới nhập đề thôi, vậy xin anh hăy đi thẳng vào chuyện Cửu Hoa sơn cho rồi, kẻo hai đứa tôi ngóng chờ hoài, cái cổ đă dài nhằng mà vẫn c̣n được nghe được đây nè! - H́ h́! Chuyện như thế nầy đây : Trước ngày hành hương, tôi có nghiên cứu sử liệu về bốn đại danh sơn, th́ được biết tại ba đại danh sơn kia, Bồ Tát Văn Thù đă hiển thánh xuất hiện tại Ngũ Đài, Bồ Tát Phổ Hiền tại Nga Mi và Bồ Tát Quán Thế Aâm tại Phổ Đà, sự tích rất rơ ràng, nhưng riêng Cửu Hoa sơn th́ không điển tích nào kể lại sự xuất hiện của Ngài Địa Tạng cả. Cửu Hoa sơn, đúng ra chỉ là đạo tràng của vị thánh tăng tục danh Kim kiều Giác. Ngài nguyên là hoàng tử nước Cao Ly, xuất gia rồi vượt biển sang Trung Quốc ẩn tu tại một ngôi am cổ trên ngọn Phù Dung. Đức hạnh của Ngài không lâu đă vang lừng khắp huyện Thanh Dương, rồi lan rộng đến kinh đô. Vua Đường hâm mộ Ngài nên đă truyền xuất công quỷ lập ngôi chùa “Hóa Thành” để Ngài có nơi rộng răi hoằng dương Phật Pháp. Ngài an nhiên thị tịch năm 99 tuổi, đệ tử theo di huấn đặt nhục thân Ngài trong chum. Ba năm sau mở chum, nhục thân Ngài không hư rữa mà vẫn tươi như lúc sống, lại thoang thoảng mùi hương. Khi nhấc nhục thân ra khỏi chum, th́ bỗng nghe phát ra tiếng khua tợ như chuỗi xích vàng rung chuyển. Do hiện tượng nầy, người đời sau tin tưởng Ngài là một ứng hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng và tôn xưng Ngài là Kim Địa Tạng. Tóm lại, tôi thầm nghĩ dù sao Cửu Hoa cũng không có sự hiển thánh nên tôi khó tin tưởng đây là một linh địa ngang hàng với Ngũ Đài, Nga Mi và Phổ Đà. Thế nhưng ngay đêm đầu tiên tại đây, vừa chợp mắt tôi chiêm bao thấy ḿnh phủ phục lễ lạy tượng Bồ Tát Địa Tạng, khi tôi đứng dậy th́ lạ lùng thay, trước mắt tôi không là một pho tượng đơn độc nữa, mà là một pháp hội vĩ đại có vô số Bồ Tát Địa Tạng tề tựu. Tôi đang ngây ngất chiêm ngưỡng pháp hội kỳ diệu đó th́ giật ḿnh tỉnh dậy trong niềm an lạc vô biên tràn ngập. Trạng thái kỳ diệu nầy vẫn tiếp tục miên man trong ḷng tôi trong suốt hai ngày hành hương chiêm bái, nhất là trong khi nghe thầy giảng giải về sự tích Ngài Vô Hà tại cung Bách Tuế, chùa Vạn Niên. Nguyên sư Vô Hà đă t́m đến Cửu Hoa với hoài bảo chiêm bái chân thân Ngài Kim Địa Tạng nhưng vào thời buổi loạn lạc, cảnh Phật điêu tàn, sư không thể truy tầm dấu vết chân thân Ngài Kim Địa Tạng được. Thế rồi sư ở lại ẩn tu cho đến khi viên tịch năm vào năm 110 tuổi và cũng để lại một nhục thân bất hoại như người xưa. Lúc đó, tôi bỗng rung động ràn rụa nước mắt nghĩ rằng Ngài Vô Hà không gặp mà đă gặp. Ngài không thấy chân thân người xưa nhưng đă thực sự gặp Bồ Tát Địa Tạng bằng chính hạnh nguyện tu tập của Ngài. Thế rồi, tôi bỗng liên tưởng đến giấc chiêm bao về pháp hội hiện diện vô số Bồ Tát Địa Tạng, và trực nhận ra một điều là bất cứ ai mà có đồng hạnh nguyện với Địa Tạng Vương Bồ Tát, th́ cũng đều là hiện thân của Bồ Tát Địa Tạng cả. Tôi thầm nhủ : “Vậy th́, các vị thánh tăng Kim kiều Giác, Vô Hà, Từ Minh... không phải đều là những Bồ tát Địa Tạng sao? hà huống ḿnh phải nhọc ḷng sưu tầm sự tích hiển thánh khác chi nữa?” Trong giây phút xuất thần đó, tôi bỗng xúc động qú xuống, chấp tay phát nguyện : “Kính lạy Đức Bồ Tát Địa Tạng. Con xin học hạnh nguyện của Ngài. Con nguyện sẽ tinh tấn tu tập để làm sáng tỏ tâm Địa Tạng nơi con, hầu con có thể hội đủ dũng lực để mang ánh sáng của Đạo Pháp đến với những kẻ đang sống trong tăm tối của tội lỗi, trong tù ngục của ngu dốt, hận thù, kỳ thị... Kính xin Bồ Tát gia bị cho con”... Phương nức nở khen ngợi : - Suy tư của anh về tự tánh Địa Tạng thật là đặc biệt! nếu ai mà quay về với tự tánh Địa Tạng th́ tự thân người đó là một Địa Tạng, tự thân người đó đă “Vung tích trượng mở toang cửa địa ngục” mà chính họ đă xây rồi. Luân cũng vỗ tay tán thưởng : - Hoan hô Thanh! Tôi cũng xin bắt chước anh, nguyện sẽ tinh tấn tu tập để làm sáng tỏ tâm Địa Tạng trong tôi! ThuVienHoaSen
Sửa lại bởi hiendde : 20 March 2008 lúc 12:47pm
|