Tác giả |
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 02 April 2008 lúc 6:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Đại Bát Niết Bàn
Dịch Từ Hán Sang Việt:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
---o0o---
Mục
Lục
Lời
Giới Thiệu
Tam Tạng kinh điển của
nhà Phật mênh mông như rừng, nhưng tất cả đều có cùng một mục đích là
từng bước, chỉ cho chúng sinh con đường tháo bỏ gông cùm của vô minh
phiền năo tham sân si, vượt qua ḍng sinh tử luân hồi, đến được bờ hoàn
toàn giải thoát, hội nhập lại bản thể chân như giác tánh.
Tùy theo tâm bệnh của chúng sinh, mỗi bộ kinh
lại nhấn mạnh về một vấn đề, cũng như tùy bệnh cơ thể mà người lương y
lại cho một loại thuốc đặc chế theo loại vi trùng của bệnh đó. Cho nên,
cũng có những bộ kinh đặc biệt để trị bệnh chúng sinh ở một giai đoạn
nào đó.
Đại Bát Niết Bàn là tên bộ kinh do Phật Thích
Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật
Giáo Nam Tông và Phật Giáo Bắc Tông. Kinh Đại Bát Niết bàn của Nam Tông,
được t́m thấy trong Kinh Trường Bộ, [Kinh Đại Bát Niết Bàn, (Hệ Pali),
Việt dịch: Ḥa Thượng Thích Minh Châu, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
ấn hành năm 1991]. C̣n Kinh Đại Bát Niết Bàn của Phật Giáo Bắc Tông bao
gồm hai bản: (1) Phật Thuyết Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh, do ngài
Dharmaaksa (265-316), đời Tây Tấn dịch và (2) Đại Bát Nê Hoàn Kinh, do
ngài Pháp Hiển và Buddhabadhra đời Đông Tấn (317-420) dịch. Bản Việt ngữ
của Phật Giáo Bắc Tông do Ḥa Thượng Thích Trí Tịnh dịch từ bản Hán văn,
Tịnh Xá Minh Đăng Quang, Hoa Kỳ tái Xuất Bản năm 1990, dầy 1500 trang
gồm tất cả hai mươi chín phẩm (chương), được phân ra làm hai quyển,
quyển 1 từ phẩm 1 đến phẩm thứ 21 và quyển hai từ phẩm 22 đến phẩm 29.
Kinh Đại Bát Niết bàn, v́ là lời nói sau cùng
của Đức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc
mắc của chúng sinh. V́ thời gian có hạn nên lời Ngài dạy rất cô đọng,
nhưng minh bạch, rơ ràng. Thí dụ như nơi Phẩm Kim Cang Thân thứ năm và
Phẩm Như Lai Tánh thứ mười hai, ngài giải thích cặn kẽ về Chân Ngă hay
Phật Tánh, đó chính là bản thể thanh tịnh thường hằng bất biến của tất
cả mọi loài chúng sinh, mênh mông như hư không, thường trụ bất hoại, tuy
vậy bản thể ấy không phải tất cả chúng sinh là một, nhưng cũng không
phải là khác, vượt ra khỏi tư tưởng suy nghĩ thông thường của đời sống
tương đối hiện tượng, cho nên gọi là bất khả tư nghị, tức không thể nghĩ
bàn, nhưng chính là cái chân thật của mọi chúng sinh, không phải là cái
"Tôi" ô nhễm tham sân si, đầy vướng mắc khổ vui vô thường này. Bản thể
ấy tràn ngập khắp nơi nhưng chúng sinh bị trói buộc v́ phiền năo, tham
sân si nhiễm ô che mờ nên không thấy được. Bản thể ấy luôn luôn sẵn
sàng, tịch tĩnh hiện diện, nên gọi là Như Lai.
Vấn đề Hộ Pháp. Phật tử chúng ta thường quan
niệm rằng hộ pháp là đến chùa làm công quả hoặc đem tiền bạc vật chất
đến chùa cúng dường là tṛn bổn phận. Trong kinh, đức Phật dạy rằng Ngài
giao cho tứ chúng Phật tử gồm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, nam Cư sĩ và nữ Cư
sĩ, tất cả đều phải có nhiệm vụ hộ pháp, nghĩa là giữ ǵn sao cho chánh
pháp khỏi bị mang tiếng oan v́ những người phá giới, khiến cho người đời
mất niềm tin, mất cơ hội thấm nhuần ḍng sữa Phật pháp. Đó mới là chân
chính hộ tŕ chánh pháp. Đạo Phật là đạo b́nh đẳng, không khi nào dung
dưỡng một loại người đặc biệt nào được quyền phá hoại uy tín của đạo
Phật một cách tự do, thoải mái, mà mọi người vẫn phải nhắm mắt bịt tai
lại mà cung kính cúng dường. Nếu như thế tức là a dua, đồng lơa với kẻ
phạm pháp. Chữ Tăng ở câu kính Phật trọng Tăng phải hiểu nghĩa là thanh
tịnh Tăng.
Về vần đề đức Thích Ca sơ sinh bước bẩy bước
và nói "Thiên thượng Thiên hạ duy Ngă độc tôn", nơi Phẩm Tứ Tướng thứ
bẩy, ngài cũng nói rơ rằng Ngă đây chính là Như Lai, là Chân Tâm, Phật
Tánh, là thân Kim Cang bất hoại, chứ không phải là Ngă của Thái Tử Tất
Đạt Đa. Cũng trong phẩm đó, vấn đề ăn thịt cũng được Ngài căn dặn rất kỹ
lưỡng.
Bộ kinh Đại Bát Niết Bàn được ngài nói khi
sắp thị hiện Niết Bàn. Biết rằng Ngài không c̣n tại thế để hằng ngày
giải đáp thắc mắc cho chúng sinh nữa, nên chư đệ tử đă hỏi và Ngài đă
giảng gần như đủ loại vấn đề. Ngài c̣n dặn kỹ rằng v́ phương tiện độ
sanh, tùy theo thời điểm và tâm chúng sinh đương thời, nên đôi khi có
những lời dạy Ngài phải giản lược, chưa đi tới được rốt ráo, cho nên có
những kinh ngài gọi là kinh bất liễu nghĩa. Nay, lời cuối cùng, nơi Phẩm
Tứ Y thứ 8, ngài dặn lại rằng chúng sinh phải y chỉ kinh liễu nghĩa, là
kinh với mục tiêu tối hậu, nói về Giác Tánh của chúng sinh, về Trí tuệ
bát nhă, chỉ cho chúng sinh con đường hội nhập lại bản thể thường hằng
bất biến, giải thoát hoàn toàn.
Chúng tôi thiết tha mong mỏi chư vị dành th́
giờ xem toàn thể bộ kinh, tất cả mọi phẩm, tất cả đều là cam lộ thủy,
xem rồi lắng tâm suy nghĩ cảm nhận sâu xa từng lời dạy cuối cùng của Đức
Phật, tâm càng an tịnh th́ lời dạy càng thấm thía, càng thấy ánh sáng
của lời kinh rọi vào đủ loại thắc mắc, lấn cấn trong tâm, sẽ thấy bừng
sáng lên lời giải đáp, sẽ thấy tín tâm càng tăng trưởng, càng tích cực
cố gắng "không làm điều ác, siêng làm điều lành, thanh tinh hóa tâm ư"
hơn nữa.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 02 April 2008 lúc 6:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Đại Bát Niết Bàn
Dịch Từ Hán Sang Việt:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
---o0o---
01
PHẨM TỰ THỨ NHẤT
Như vậy, tơi nghe: một
lúc nọ, đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật ở tại rừng Ta-La Song-Thọ nơi thành
Câu-Thi-Na (1), cùng với tám mươi ức trăm ngàn vị đại Tỳ-Kheo.
Bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai vào lúc sáng
sớm sắp nhập niết-bàn, đức Phật dùng thần lực vang ra tiếng lớn thấu
khắp các nơi, suốt đến trời Hửu-đănh (2) theo từng ngơn-ngữ của mỗi lồi
mà bảo rằng: “ Đưc Như-Lai Vơ-Thượng-Đẳng, Chánh-giác thương mến che chở
chúng-sanh, là ngơi nhà to rộng cho chúng sanh, về nương, xem chúng-sanh
đồng như La-Hầu-La.
Đấng Đại-Giác Thế-Tơn sắp nhập Niết-bàn, tất
cả chúng-sanh nếu cĩ chổ nghi nay đều nên bạch hỏi, củng là lần hỏi cuối
cùng!
Từ mắt, mũi, miệng, đức Thế-Tơn phĩng ra các
thứ ánh sáng. Những ánh sáng ấy cĩ nhiều mầu: Xanh, vàng, đỏ, trắng, màu
pha-lê, màu mă- năo, chiếu khắp cơi đại-thiên (3), cũng lại chiếu suốt
cả mười phương. Lục-đạo chúung-sanh (4), ai gặp được ánh sáng nầy chiếu
đến ḿnh thời tất cả tội- cấu phiền-năo đều tiêu trừ. Những chúng sanh
nầy thấy ánh sáng cùng nghe lời tuyên-bố trên đây, tất cảđều rầu lo,
buồn khĩc nức nở: “Than ơi! cịn ǵ đấng Từ-Phụ: Thương thay khổ thay !”
Lúc đĩ khắp đại-địa, núi non biển cả thảy đều
chấn động.
Các chúng sanh bảo nhau rằng: “ Chúng ta gắng
dằn lịng chớ quá buồn khổ. Phải kíp đến thành Câu-Thi-Na, nơi rừng Ta-La
đảnh lễ Phật, cầu thỉnh đức Như-Lai trụ thế thêm một thờigian “.
Mọi người lại nắm tay nhau mà nĩi rằng:
“Chúng sanh hết phước, thế gian trống rỗng, những ác nghiệp thêm nhiều.
Đức Như-Lai sắp nhập Niết-bàn. Các ngài mau
đến hầu Phật”.
Rồi lại cùng than rằng:”Thế gian trống rỗng !
Thế gian trống rỗng ! Chúng ta từ nay khơng chỗ phụng thờ, khơng ai cứu
hộ, cơi cút nghèo cùng. Một mai xa ĺa đấng Vơ-Thượng-Giác, nếu cĩ chỗ
nghi lầm, chúng ta sẽ bạch hỏi với ai ?”
Bấy giờ các vị đại Tỳ-kheo (5): Tơn-giả
Ma-Ha-Ca-Chiên-Diên, Tơn-giả Bạc-Câu-La, Tơn-giả Ưu-Ba Nan-Đà v.v… chạm
phải ánh sáng của Phật, thân của các ngài liền run giật, tâm tưởng mê
loạn, hốt hoảng kêu la.
Lại cĩ tám trăm vạn vị Tỳ-kheo đều là bực
vơ-lậu A-La-Hán, tâm được tự tại, chỗ làm đă xong, rời các phiền-năo,
điều-phục các căn, cĩ oai-đức lớn, thành tựu khơng-huệ, đă khỏi sanh tử,
tất cả đều là chơn Phật-tử. Sáng hơm ấy, lúc mặt trời vừa mọc, các ngài
đang nhăn nhành dương, thấy ánh sáng của Phật chiếu đến, các ngài hối
nhau súc miệng, rửa tay. Tồn thân của các ngài đều rởn ĩc máu nổi đỏ
như bơng ba-la-xa, hai mắt đầy lệ, lịng rất buồn khổ. V́ muốn lợi-lạc
cho chúng sanh, thành tựu hạnh đệ-nhứt-khơng của Đại-thừa, cùng muốn
hiển phát giáo-pháp phương tiện bí mật của Như-Lai, để các cuộc thuyết
pháp chẳng đoạn tuyệt và cũng v́ muốn làm nhơn duyên điều phục chúng
sanh, nên các ngài vội đến trước Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, nhiễu Phật
trăm ngàn vịng, rồi chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Lại cĩ sáu mươi ức vị Tỳ-kheo-ni, như
Thiện-Hiền Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba Nan-Đà Tỳ-kheo-ni, Hải-Y Tỳ- kheo-ni,
v.v…., đều là bực Đại-A-La-Hán, đả sạch phiền-năo, tâm được tự tại, chỗ
làm đă xong, các căn điều –phục cĩ oai đức lớn, thành tựu khơng –huệ.
Các Tỳ-kheo-ni ấy cũng vào buổi sáng sớm, lúc
mặt trời vừa mọc, tồn thân rởn ốc, máu nổi đỏ như bơng ba-la-xa, đơi
mắt đầy lệ, lịng rất buồn khổ, cũng v́ muốn lợi lạc cho chúng sanh, và
làm nhơn duyên điều-phục, nên các Tỳ-kheo-ni ấy vội đến chỗ Phật, cúi
đầu lạy chơn Phật, nhiễu Phật trăm ngàn vịng, rồi chắp tay cung kính,
ngồi qua một bên. Trong chúng Tỳ-kheo-ni nầy, cĩ những vị Bồ-Tát đến bực
thập-địa an-trụ bất-động. V́ hĩa độ chúng sanh nên hiện thân phụ nữ,
nhưng thường tu tập bốn tâm vơ-lượng (6), đặng sức tự-tại cĩ thể
biến-hĩa làm Phật.
Bấy giờ lại cĩ một hằng-hà-sa đại Bồ-Tát (7)
chứng bực thập địa an trụ bất động, phương tiện hiện thân. Danh hiệu của
các vị Thượng thủ là: Hải Đức Bồ tát, Vơ Tận Ư Bồ Tát v.v… Các ngài thảy
đều kính trọng Đại thừa, an trụ Đại thừa, hiểu sâu Đại thừa, ưa thích
Đại thừa, ǵn giữ Đại thừa. Các ngài khéo tùy thuận được tất cả thế gian
mà lập thệ rằng: “ Những ai chưa giải thốt, sẽ làm cho được giải
thốt”.
Các ngài từ vơ lượng kiếp về quá khứ tu tŕ
giới pháp thanh tịnh, khéo đem chỗ đă làm dạy lại cho người chưa hiểu,
nối thạnh ngơi Tam Bảo (8) làm cho chẳng đoạn tuyệt, sau này sẽ chuyển
pháp luân, dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, thành tựu vơ lượng
cơng đức như thế, xem chúng sanh đồng như con một. Các vị đại Bồ Tát này
cũng vào lúc sáng sớm gặp ánh sáng của Phật chiếu đến cả ḿnh rởn ốc,
máu đỏ nổi kên như bơng ba-la-xa, đơi mắt tràn lệ, lịng rất đau xĩt, v́
muốn lợi lạc cho chúng sanh, thành tựu hạnh đệ nhứt khơng của Đại thừa,
hiển phát giáo pháp phương tiện bí mật của Như –Lai, cho các cuộc thuyết
pháp chẳng đoạn tuyệt, cùng làm nhơn duyên điều phục cho chúng sanh, nên
các ngài vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, đi nhiễu Phật trăm
ngàn vịng, chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Bấy giờ lại cĩ hai hằng -ha-sa vị Ưu-bà-tắc
(9) thọ tŕ ngũ giới (10) đầy đủ oai nghi, các ơÂâng Oai Đức Ưu-Bà-Tắc ,
Thiện Đức Ưu-Bà-Tắc v.v… làm thượng-thủ trong số ấy. Tất cả đều thích
quan sát sâu kỹ các mơn đối-trị như các mơn khổ, vui, thường, vơ-thường,
tịnh, bất-tịnh, ngă, vơ ngă, thiệt, bất thiệt, qui y, phi qui y, chúng
sanh, phi chúng sanh, hằng, phi hằng, an, phi an, vi, vơ vi, đọan, bất
đoạn, niết bàn, phi niết bàn, tăng thượng, phi tăng thượng v.v…. Cũng
thích muốn nghe vơ- thượng đại-thừa, nghe rồi cĩ thể giảng lại cho người
khác, khéo giữ ǵn giới luật thanh tịnh, khát ngưỡng đại- thừa, đă tự
đầy đủ lại cĩ thể làm đầy đủ kẻ khác, khéo nhiếp thủ trí-huệ vơ-thượng,
ưa thích và ǵn giữ đại-thừa. Khéo tùy thuận tất cả thế gian, độ người
chưa được độ, dạy người chưa được hiểu, nối giống Tam-Bảo cho khỏi đoạn
tuyệt, sau nầy sẽ chuyển pháp-luân, dùng đại trang-nghiêm mà tự
trang-nghiêm, tâm các vị ấy luơn say sưa nơi giới-hạnh thanh-tịnh,
thành-tựu nhữngø cơng đức như thế, đối với chúng sanh phát tâm đại-bi
b́nh-đẳng xem nhu con một.
Sáng sớm hơm ấy, v́ muốn làm lễ trà-tỳ (11)
thân của Như-lai, nên mỗi người đem vạn bĩ gỗ thơm: gỗ chiên-đàn
trầm-thủy, gỗ ngưu-đầøu chiên-đàn, gỗ thiên -mộc-hương v.v…. Do thần lực
của Phật nên các bĩ gỗ thơm áy chiếu ra nhiều màu xanh vàng đỏ trắng rất
sáng đẹp. Gỗ thơm ấy đều ướp bằng các thứ dầu thơm. Các thứ hoa sen đơm
trên những bĩ gỗ, cùng treo những lá phan năm màu mịn đẹp. Chở gỗ là các
thứ xe bằng loại thất bảo (12) thắng bốn ngựa hùng tráng. Trên xe tàn
lọng che giăng, rủ những tràng hoa sen đẹp đủ màu, làm bằng vàng rịng và
kim cương, các loại ong đen vui vẻ bu họp trong hoa vang ra tiếng diễn
nĩi những pháp vơ-â thường, khổ, khơng, vơ –ngă và thuật đạo hạnh của
Bồ- Tát tu tập ngày trước. Lại cĩ các thứ âm nhạc hịa tấu thành tiếng
buồn than: “Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian trống rỗng !” Trước mỗi xe cĩ
Ưu-Bà-Tắc bưng hương-án bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trên án xơng các
thứ hương thơm thượng hảo, cùng chưng các thứ hoa sen đẹp đủ màu. Các vị
Ưu- Bà-Tắc nầy v́ muốn cúng dường Phật cùng chư tăng, nên đă dự sắmơ các
thứ thực phẩm nấu bằng củi chiên-đàn trầm thủy. Những thực phẩm ấy thơm
ngon đủ sáu vị: mặn, ngọt, chua, cay, đắng, lạt cùng đủ ba đức ; mềm
dẽo, sạch sẽ, đúng pháp. Khi đến rừng Ta-La, họ lấy mạt vàng rịng rải
khắp các nơi, rồi trải gấm lụa lên trên rộng đến mười hai do-tuần. Họ
thiết tịa sư tử cao lớn bằng bảy báu để thỉnh Phật và chư Tăng ngồi. Họ
đem dầu thơm quư thoa vào thân cây trong rừng rồi treo các lá phan, các
tàn lọng xinh đẹp họ rải những thứ hoa đẹp thơm vào các khoảng giữa cây
cách nhau. Các Ưu-Bà-Tắc nầy đều suy nghĩ rằng:
“ Tất cả chúng sanh nếu ai cĩ chỗ thiếu hụt:
cần thức ăn, tơi sẽ cho ăn; cần uống, cho uống; cầnđầu, cho đầu; cần
mắt, cho mắt; bất luận là cần dùng thứ ǵ, tơi sẽ cho thứ ấy. Lúc bố-thí
như thế tơi sẽ khơng cĩ lịng tham sân ác độc nhơ-nhớp. Tơi khơng hề mĩng
niệm cầu phước lộc thế gian mà chỉ nhứt tâm cầu quả vơ-thượng bồ-đề”.
Các vị Ưu-Bà-Tắc nầy đều đă an-trụ nơi đạo
bồ-đề. Các ơng nghĩ thầm: Hơm nay đức Như-Lai thọ thực của chúng tơi
xong sẽ nhập Niết-Bàn”. Vừa nghĩ đến đây, cả ḿnh các ơng đều rởn ốc,
máu đỏ nổi lên như bơng ba-la-xa, đơi mắt tràn lệ, lịng rất buồn khổ.
Các ơng lật đật đem những đồ cúng dường dâng lên đức Phật, cúi đầu lạy
chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vịng, khĩc lĩc nức nở, tiếng động trời đất,
nước mắt như mưa. Các ơng than với nhau rằng: Thế gian sẽ trống rỗng,
thế gian sẽ trống rỗng, rồi cac ơng lại nhào lăn trước Phật, vừa khĩc
vừa bạch Phật:” Cúi xin Đức Như-Lai xĩt thương chúng con mà nhận lễ cúng
dường cuối cùng nầy”.
Đức Thế-Tơn biết giờ nên yên-lặng khơng nhận.
Các ơng yêu cầu ba phen mà Phật vẫn khơng hứa nhận. Khơng được đức Phật
nhận, các ơng rất đau khổ như người cĩ con một phải bệnh chết vừa mới
chơn xong. Các ơng đem những đồ cúng an trí một nơi rồi cùng nhau ngồi
qua một bên.
Bấy giờ lại cĩ ba hằng-hà-sa Ưu-Ba-Di thọ-tŕ
ngũ-giới đầy đủ oai nghi, trong số đĩ cĩ tám vạn bốn ngàn vị thượng
–thủ, như các bà Thọ-Đức Ưu-Bà-Di, Đức-Man Ưu-Bà-Di, Tỳ-Xá-Khư Ưu-Ba-Di
v.v…Chư Ưu-Bà-Di nầy đều kham hộ tŕ chánh pháp, v́ độ chúng sanh mà
hiện thân phụ nữ. Thường chê trách gia pháp. Tự xem thân ḿnh như bốn
rắn độc: thân nầy thường là mĩn ăn của vơ số vi trùng, thân nầy hơi thúi
bị ràng trong ngục tham dục, thân nầy đáng ghét dường như thây chĩ chết,
thân nầy nhơ nhớp, chín lỗ chảy luơn. Thân nầy như thành tŕ: da mỏng
bọc trên máu thịt gân xương, tay chân là gậy gộc ngăn địch, đơi mắt là
lỗ hở, đầu là cung điện chỗ của tâm vương ngự. Những ác quỷ gian tham,
dâm dục, sân hận, thù ghét, si mê, tà kiến cư ngụ trong thành nầy. Đây
là chổ vất bỏ của chư Phật Thế Tơn, ma phàm phu ngu si lại mê say. Thân
nầy là vật khơng bền chắc, khác nao bọt nước, cây chuối, cọng lau. Thân
nầy vơ thường niệm niệm khơng dừng như làn chớp, nước dốc, như ảo thuật,
ngọn lửa, lằn vẽ trên nước. Thân này dễ hư ră như cây bên bờ sơng lở.
Thân nầy khơng mấy chốc sẽ là thức ăn của sĩi, cồn quạ, kên, chĩ đĩi. Cĩ
ai là người trí mà ưa thích thân nầy. Đem hết nước biển đựng trong dấu
chân trâu cịn khơng khĩ bằng kể cho đủ những sự vơ thường, nhơ nhớp hơi
thúi của thân nầy. Vị quả địa cầu làm cho nhỏ lại bằng trái táo, bằng
hạt đ́nh lịch, bằng hạt bụi, là việc dễ hơn kể hết những tội lỗi tai hại
của thân nầy. Thế nên phải nhàm bỏ thân nầy như nhàm bỏ đàm mũi, v́
những nhơn duyên ấy, các Ư-Bà-Di đây thường tu pháp khơng, vơ-tướng,
vơ-nguyện. Các bà rất thích học hỏi kinh điển đại –thừa, thủ hộ đại thừa
và cũng cĩ thể giảng dạy lại cho người khác. Dầu là hiện thân nữ, mà các
bà đều là Bồ-Tát, khéo hay tùy thuận tất cả thế gian, độ người chưa được
độ, dạy người chưa được hiểu. Các bà nối giống Tam-Bảo khiến chẳng đoạn
tuyệt, sẽ chuyển pháp –luân nơi đời vị lai, dùng đại trang nghiêm để tự
trang nghiêm. Đối với chúng sanh phát tâm đại bi b́nh dẳng, xem như con
một. Sáng sớm hơm ấy, các bà bảo nhau đến rừng Ta- La. Các bà đem rất
nhiều đồ cúng dường cùng đến trước Phật, cúi đầu lễ chơn Phật, đi nhiễu
trăm ngàn vịng rồi bạch Phật rằng: “ Thế-Tơn ! Hơm nay chúng con sắm sửa
đồ cúng dường kính dưng lên đức Thế-Tơn và chư Tăng. Ngửa mong Đức
Như-Lai thương xĩt nhận cho”. Các bà ba phen khẩn cầu mà đức Phật yên
lặng khơng nhận. Các bà than thở ngồi qua một bên.
Bấy giờ nơi thành Tỳ-Gia-Ly, các quyến-thuộc
trai gái già trẻ của dịng Ly-Xa và những quyến thuộc của vua chúa ở các
nước, v́ cầu chánh pháp nên khéo tu giới hạnh, đầy đủ oai- nghi, trừ dẹp
các mơn dị học làm tổn hại chánh phápø. Họ thường bảo nhau rằng:” Chúng
ta phải dùng vàng bạc kho đụn làm cho tạng chánh-pháp thâm-áo cịn măi
nơi đời. Nguyện cho chúng ta thường được tu học. Nếu cĩ ai khinh chê
chánh pháp của Phật thời phải cắt lưỡi người đĩ”. Họ lại nguyện rằng:”
Người xuất gia nếu phá hư giới cấm, chúng ta bắt phải thơâi tu, huờn
tục, để làm tơi mọi. Cịn bực hộ-tŕ chánh pháp giới đức tinh nghiêm,
chúng ta phải kính trọng phụng thờ như cha mẹ. Nếu chư Tăng cĩ thể tu
theo chánh pháp, chúng ta phải tùy hỉ tán trợ cho những vị ấy được thế
lực”. Những hồng tộc nầy rất thích nghe kinh điển đại thừa, và cũng cĩ
thể giảng giải lại cho người khác những pháp đại thừa mà họ đă được
nghe. Tất cả đều thành tựu những cơng đức như vậy. Danh hiệu của họ là:
Tịnh Vơ Cấu Tạng Ly Xa Tử. Tịnh Bất Phĩng Dật Ly Xa Tử, Vơ Cấu Tịnh Đức
Ly Xa Tử, v.v… Họ bảo nhau kíp đến chỗ Phật cùng đem vơ số đồ cúng dường
với vơ số châu minh nguyệt, gỗ trầm, chiên đàn, chở bằng những thớt
tượng lớn và những cỗ xe báu tứ mă. Trên xe trang hồng vơ số phang
lọng. Lúc đến trước Phật, họ cúi đầu lạy chơn Phật, đi nhiễu trăm ngàn
vịng, rồi bạch rằng:” Thế Tơn ! Hơm nay chúng con sắm các phẩm vật cúng
dường đức Phật và chư Tăng. Ngửa mong đức Như Lai thương xĩt nhận cho”.
Đức Phật yên lặng khơng hứa nhận. Các hồng
tộc chẳng được toai nguyện, lịng rất buồn khổ, do thần lực của Phật, họ
bay lên cao cách đất bảy cây đa la rồi yên lặng mà trụ giữa hư khơng.
Bấy giờ lại cĩ vơ số Đại Thần Trưởng Giả kính
trọng đại thừa, ủng hộ đại thừa, dẹp trừ các phái dị học, như mưa đá
tuơn nát cỏ cây. Các ơng Nhựt Quang Trưởng giả, Hộ Thế Trưởng giả, Hộ
Pháp, Trưởng giả, v.v… là bực thượng thủ trong hàng người ấy. Họ sắm vơ
số đồ cúng dường cùng đem nhau đến trước Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, đi
nhiễu trăm ngàn vịng rồi bạch rằng:” Thế Tơn ! Hơm nay chúng con sắm các
phẩm vật dưng cúng đức Phật và chư Tăng. Ngửa mong đức Như Lai thương
xĩt nhận cho”.
Đức Phật yên lặng chẳng hứa nhận. Các vị
Trưởng giả khơng được toại nguyện, lịng rất buồn khổ. Do thần lực của
Phật, họ bay lên cao cách đất bảy cây đa la rồi yên lặng trụ giữa hư
khơng.
Bấy giờ vua thành Tỳ-Xá-Ly và vua các nước,
trừ vua A-Xà-Thế và phu nhơn, mỗi vua cùng với các bà phu nhơn và thần
dân đem theo vơ số cúng phẩm đến rừng Ta-La.ù Các vua và phu nhơn đây
đều đă an trụ nơi chánh pháp, kính trọng và rất mến đại thừa, thương
chúng sanh đồng như con một. Lúc đến trước Phật, các vua và phu nhơn
bạch rằng:” Bạch đức Thế Tơn ! Hơm nay chúng con sắm phẩm vật dưng cúng
đức Phật và chư Tăng.Ngửa mong đức Như Lai thương xĩt nhận cho”.
Đức Phật tự biết chưa phải lúc, nên cũng
chẳng hứa nhận. Các vua và phu nhơn khơng được toại nguyện, lịng rất
buồn khổ, ngồi qua một bên.
Bấy giờ cĩ vơ số Thiên –Nữ. Thượng thủ
Quảng-Mục Thiên-Nữ bảo rằng:” Chị em xem kia ! Đại chúng sắm phẩm vật
muốn cúng dường Phật và chư Tăng. Chúng ta cũng nên đem phẩm vật dưng
lên đức ơPhật, đức Phật thọ xong sẽ nhập Niết-bàn. Chị em nên biết, Phật
xuất thế rất khĩ, được cúng dường Phật lần cuối cùng càng khĩ hơn. Nếu
Phật nhập Niết bàn thời thế gian sẽ trống rỗng”.
Hàng Thiên Nữ nầy đều giữ ǵn giới hạnh, đầy
đủ oai nghi, rất thích tu học và hộ tŕ đại thừa, khéo hay tùy thuận tất
cả thế gian, độ người chưa được độ, dạy người chưa được hiểu, sẽ chuyển
pháp luân ở vị lai, dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm b́nh đẳng
thương chúng sanh đồng như con một. V́ muốn lợi lạc cho chúng sanh,
thành tựu hạnh đệ-nhứt-nghĩa-khơng của đại thừa hiển phát giáo pháp
phương tiện bí mật của Như Lai, mà cũng muốn các sự thuyết pháp khơng
đoạn tuyệt, nên các Thiên Nữ sắm vơ số đồ cúng dường ở cơi trời và vơ số
thứ hương trời, chở trên những xe báu trần thiết vơ số lọng báu, phan
báu, bửu châu, kỹ nhạc, rải vơ số hoa trời, cùng nhau đến trước Phật,
khĩc lĩc lạy chơn Phật, đi nhiễu trăm ngàn vịng rồi bạch rằng:” Ngửa
mong đức Như Lai thương xĩt nhận phần cúng dường cuối cùng
của chúng con”.
Đức Phật yên lặng chẳng nhận. Các Thiên Nữ
chẳng được toại nguyện, lịng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Bấy giờ cĩ vơ số chư Thiên- Tử, Thiên- Vương,
tứ Thiên- Vương, vơ số Thiên Thần, Tỳ- Sa-Mơn- Thiên-Vương làm thượngû
thủ; vơ số Long Vương Hịa-Tu-Kiết-Long- Vương, Nan-Đà-Long-Vương,
Bạt-Nan-Đa Long-Vương làm thượng thủ; vơ số Kim-Sí-Điểu- Vương,
Hàng-Oán-Điểu- Vương làm thượng thủ; vơ số Càn-Thát Bà- Vương Na-La-
Đạt- Vương làm thượng thủ; vơ số Khẩn-Na-La- Vương, Thiện-Kiến- Vương
làm thượng thủ; vơ số Ma-Hầu-La-Già Vương, Đại-Thiện-Kiến Vương làm
thượng thủ; vơ số A-Tu-La Vương, Viêm-Bà-Lợi- Vương làm thượng thủ; vơ
số Đà-Na-Bà- ø Vương, Vơ-Cấu-Hà-Thủy-Vương, Bạt-Đề-Đạt-ĐaVươn g làm
thượng thủ, vơ số La-Sát- Vương, Khả- Úy- Vương làm thượng thủ; vơ số
Thọ-Lâm-Thần-Vương, Lạc-Hương-Vương làm thượng thủ; vơ số Hải- Thần,
Hà-Thần, vơ số Tŕ-Chú-Vương, Đại-Huyễn-Vương làm thượng thủ; vơ số
Quỷ-My, Thiện- Kiến-Vương làm thượng thủ, vơ số Quỷ-Vương,
Bạch-Thấp-Vưong làm thượng thủ; vơ số Tượng- Vương; vơ số Sư-Tử-Vương;
vơ số Điểu-Vương; vơ số Ngưu-Vương; vơ số Phong-Vương; vơ số
Vân-Vũ-Vương; vơ số Thần-Tiên v.v… Đại- chúng trên đây đều đem vơ số
phẩm vật, vơ số hương hoa, vơ số nhũ mật hảo hạng đến lễ Phật cúng
dường.
Đức Như-Lai đều chẳng hứa nhận. Họ rất buồn
khổ ngồi qua một bên.
Chư Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni thảy đều họp đủ, chỉ
thiếu mặt hai chúng Ma-Ha-Ca-Diếp va A-Nan- Đa.
Hơm ấy tồn rừng Ta-La bỗng đổi màu trắng như
lơng bạch hạc. Trên hư khơng tự nhiên cĩ tịa nhà thất bửu, dưới tịa nhà
cĩ ao suối mọc đầy hoa sen xinh đẹp, như vườn hoan hỉ ở Thiên-cung Đao-
Lợi. Cả rừng Ta-La cũng biến thành trang nghiêm xinh đẹp khác thường.
Trời Đế-thích, cũng như Tứ-Thiên-Vương, và
chư thiên trong dục giới đều đem phẩm vật thượng hảo dưng lên đức Phật,
mong Phật nhận phần cúng dường cuối cùng của ḿnh hầu được sớm thành tựu
pháp bố- thí ba-la-mật, nhưng đức Phật vẫn khơng hứa nhận. Chư Thiên-Dục
giới khơng được toại nguyện, lịng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.
Đại Phạm-Thiên-vương cùng Chư Thiên sắc giới
đến lễ Phật, tha thiếtá dưng phẩm vật cơi sắc. Phật khơng hứa nhận. Đại
Phạm-Thiên và Chư-Thiên sắc giới khơng được toại nguyện, lịng rất buồn
khổ ngồi qua một bên.
Bấy giờ Ma-Vương Ba-Tuần cùng quyến thuộc vơ
lượng đại chúng mở cửa địa ngục ban nước thanh- tịnh, nhơn đĩ bảo đại
chúng rằng: Nay đây các người khơng làm ǵ được, chỉ nên chuyên niệm
Như- Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, trần thiết lễ tùy hỉ cúng dường cuối
cùng, các người sẽ được an vui măi măi” . Liền đĩ, Ma-Ba-Tuần dẹp bỏ dao
gươm v.v… , những độc cụ trong địa ngục cùng làm mưa to dập tắt ngọn lửa
đang cháy hừng. Do thần lực của Phật, Ma-Vương lại phát tâm lành truyền
lệnh cho tồn thể quyến thuộc ma đều bỏ hết binh khí, rồi mang vơ số
cúng phẩm cùng nhau đến chổ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật mà bạch rằng:’
Chúng con từ nay ưa thích và ǵn giữ đại thừa. Bạch Thế- Tơn ! Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhơn v́ cúng dường, v́ sợ hải, v́ phỉnh người, v́ tiền
của, v́ tùy theo người v.v… mà thọ lấy pháp đại thừa này hoặc chơn hoặc
ngụy chúng con nĩi chú nầy để trừ diệt sợ hải của người đĩ: “ Sá chỉ,
trá trá la sá chỉ, lơ ha lệ, ma ha lơ ha lệ, a la, giá la, đa la, tĩa
ha”.
Bài chú nầy cĩ thể làm cho người điên cuồng,
người kinh sợ, người thuyết pháp, người chẳng dứt chánh pháp đều được an
ổn. V́ hàng phục ngoại đạo, v́ ǵn giữ thân ḿnh, v́ hộ tŕ chánh pháp,
v́ hộ tŕ đại-thừa, mà chúng con nĩi bài chú nầy. Nếu người nào thọ tŕ
chú nầy thời khơng cịn sợ voi dữ làm hại; hoặc đi đến rừng hoang, đầm
trống, những nơi nguy hiểm chẳng sanh sự kinh sợ; cũng khơng cĩ những
tai nạn nước, lửa, sư tử, cọp, sĩi, trộm, cướp, vua, quan. Bạch đức
Thế-Tơn ! Nay đây, chúng con khơng v́ dua nịnh mà nĩi những việc nầy. Ai
thọ tŕ bài chú nầy thời con sẽ chí thành ủng hộ làm cho thêm thế lực.
Ngửa mong đức Như-Lai thương xĩt nhận phần cúng dường cuối cùng của
chúng con”.
Đức Phật bảo Ma-Vương Ba-Tuần rằng:” Như-Lai
khơng nhận thực phẩm của nhà ngươi dưng, mà chỉ nhận lấy thần chú của
người nĩi, v́ Như-Lai muốn cho chúng sanh và bốn bộ chúng được an vui”.
Ma Vương cầu thỉnh ba lần, mà đức Phật vẫn
khơng hứa nhận. Ma Ba-Tuần khơng được toại nguyện, lịng rất buồn khổ,
ngồi qua một bên.
Đại-Tự-Tại-Thiên-Vương cùng vơ lượng
Chư-Thiên sắm những cúng phẩm trội hơn tất cả thứ phẩm vật của các đại
chúng trời người đă thuật ở trước, cho đến phẩm vật của Phạm-Thiên Đế-
Thích sánh với những cúng phẩm nầy thời như khối mực đen sánh với đống
châu ngọc, một cây lọng báu nhỏ nhứt giương ra cĩ thể che trùm cả cơi
đại thiên. Đại-Tự-Tại Thiên Vương cùng Chư-thiên đem những cúng phẩm ấy
đến chỗ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vịng rồi bạch
rằng:” Thế-Tơn ! Cúng phẩm của chúng con dưng lên đây rất hèn mọn khác
nào con muỗi dưng cho Chu-Thiên. Lại cũng như đem một bụm nước đổå vào
biển lớnù , thắp một cây đèn nhỏ giúp sáng cho trăm ngàn mặt trời, cầm
một cái bơng thêm vào vườn bơng giữa mùa xuân muơn hoa đua nở, đặt một
hột đ́nh lịch thêm lớn cho núi Tu-Di. Nào cĩ ích ǵ cho biển rộng, mặt
trời, vườn hoa, núi lớn. Cúng phẩm của chúng con đối với đức Phật cũng
như thế.
Dầu mang cả hương hoa, kỹ nhạc, phan lọng đầy
khắp cơi đại thiên đến cúng dường Như-lai cịn khơng đáng kể. V́ sao vậy
? V́ đức Như-Lai thường ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trong các ác thú
thọ nhiều sự khổ để cứu vớt mọi lồi. Xin đức Thế-tơn thương xĩt nhận
phần cúng dường của chúng con.
Đức Phật yên lặng khơng hứa nhận. Đại-Tự-Tại
Thiên-vương cùng chư Thiên khơng được toại nguyện lịng rất buồn khổ,
ngồi qua một bên.
Bấy giờ phương đơng cách đây vơ lượng vơ số
a-tăng-kỳ hằng hà sa vi trần thế giới, nơi cơi Ư- Lạc-Mỹ-Âm, cĩ Phật
hiệu Hư-Khơng-Đẳng Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri Minh-Hạnh- Túc
Thiện-Thế Thế gian-giải Vơ-thượng-sĩ Điều ngự trượng-phu Thiên-nhơn-sư
Phật Thế-Tơn, bảo vị đệ tử lớn nhứt là Vơ-Biên-Thân Bồ-Tát rằng: “
Thiện- nam- tử nên qua Tây phương Ta-Bà thế giới. Cơi ấy cĩ Phật
Thích-Ca-Mâu-Ni đủ mười đức hiệu sắp nhập niết bàn. Ơng đem cơm thơm ăn
vào an ổn nơi cơi nầy qua dưng lên Phật Thích-Ca-Mâu-Ni, Phật thọ rồi sẽ
nhập niết bàn. Nhơn đĩ ơng cĩ thể lễ kính Phật cầu giải quyết những điều
nghi”.
Vơ-Biên-Thân Bồ-Tát tuân lời Phật dạy, liền
cùng vơ lượng chúng Bồ-Tát đồng đến cơi Ta- Bà. Lúc ấy tồn cơi Ta-Bà
chấn động sáu cách. Đại chúng nơi rừng Ta-La: Phạm-Thiên Đế-thích, Tứ
Thiên- Vương, Ma-Vương-Ba-Tuần, Đaiï-Tự-Tại-Thiên v.v… Thấy đất rúng
động, cả ḿnh rỡn ốc, cổ lưỡi khơ khan tự thấy thân ḿnh khơng cịn ánh
sáng mất cả oai đức, kinh hăi run rẫy đều muốn giải tán.
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát liền đứùng dậy bảo đại
chúng rằng:”Mọi người chớ sợ ! Cách đây về phương đơng vơ lượng vơ số
a-tăng-kỳ hằng-hà-sa vi-trần thế giới (13) cĩ cơi Ư-lạc-Mỹ- Âm. Phật Hư-
Khơng-Đẳng đủ cả mười đức hiệu. Nơi cơi đĩ cĩ đại Bồ-tát tên
Vơ-Biên-Thân cùng vơ lượng Bồ-Tát sắp đến đây. Bởi oai đức của đại
Bồ-Tát ấy làm oai quang của mọi người phải ẩn đi. Mọi người nên vui mừng
đừng kinh sợ”.
Liền đĩ mọi người đều thấy rơ chúng đại
Bồ-tát nơi cơi Mỹ-Âm, như nh́n trong gương tự thấy thân ḿnh.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại bảo đại chúng: “
Nay đây, mọi người thấy chúng đại Bồ-Tát đĩ như thấy đức Phật Thích-Ca.
Do thần lực của Phật sẽ được thấy vơ-lượng chư Phật ở chín phương”.
Bấy giờ đại chúng đều thấy Vơ-Biên-Thân
Bồ-Tát cùng quyến thuộc của ngài. Nơi mỗi lỗ chơn lơng của Vơ-Biên-Thân
Bồ-Tát đều xuất sanh một hoa sen lớn, mỗi hoa sen đều cĩ bảy muơn tám
ngàn thành ấp rộng như thành Tỳ-Gia-Ly. Vách thành hào thành tồn bằng
thất bảo, cây báu hàng liệt bơng trái sum sê.
Gío nhẹ thổi động vang ra tiếng hịa nhă như
tiếng nhạc trời. Nhơn dân trong những thành ấy nghe tiếng giĩ reo liền
đặng hưởng tho nhiều sự vui vẻ. Nước trong hào thành trong sạch thơm tho
như chơn luy-ly, trên mặt nước cĩ thuyền thất bảo, chúng nhơn ngồi
thuyên dạọ chơi tắm gội rất mực vui sướng. Trong hào lại cĩ vơ lượng hoa
sen đủ màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe. Trên bờ hào lại cĩ
vườn rừng, trong mỗi vườn cĩ năm ao suối đầy hoa sen bốn màu, hương thơm
ngào ngạt. Nưĩc ao sạch trong cĩ các lồi chim bơi lội. Trong vườn lại
cĩ nhiều lâu đài, mỗi tịa lâu đài rộng bốn do-tuần, vách cột mặt đất
tồn bằng các chất báu, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trong ấy cĩ nhiều ao
suối thất bảo, bực thang bằng vàng rịng, vàng Diêm-Phù-Đàn làm cây,
khơng khác vườn Hoan-ỷ ở cung trời Đao-Lợi. Nơi mỗi thành ấp ấy cĩ vơ số
dân chúng luơn luơn vui sướng. Dân chúng nầy chỉ nghe tiếng pháp vơ-
thượng đại-thừa, khơng nghe danh từ ǵ khác. Cĩ vị quốc vương ngự trên
tịa sư tử (14) dùng pháp đại- thừa giáo hĩa nhơn dân.Và nhơn dân biên
chép đọc tụng, tu hành theo kinh điển đại-thừa. Nhờ thần lực của Bồ-Tát
mà đại chúng được thấy các sự biến hĩa ấy. Thân của Bồ-Tát cao lớn
vơ-lượng vơ-biên đồng hư khơng, trừ Phật, khơng ai cĩ thể thấy ngằn mé
thân của ngài. Vơ-Biên-Thân Bồ-Tát cùng vơ-lượng Bồ-Tát thị-hiện
thần-thơng như thế rồi, đem vơ lượng cúng phẩm và thức ăn thơm ngon đến
chỗ Phật, ai ngửi đến mùi thơm của thức ăn nầy thời phiền năo đều tiêu
diệt, đảnh lễ chơn Phật mà bạch rằng:” Ngửa mong đức Thế-Tơn thương xĩt
nhận đồ cúng dường của chúng con”.Các Bồ-Tát ba phen dưng bạch, đức Phật
biết chưa phải lúc nên khơng hứa nhận. Vơ-Biên-Thân Bồ-Tát cùng chúng
Bồ-Tát ngồi qua một bên.
Các cơi Phật ở Nam-phương, Tây-phương,
Bắc-phương, cũng cĩ vơ lượng Vơ-Biên-Thân Bồ- Tát va vờ lượng đại
Bồ-Tát ở mười phương đều đến rừng Ta-La. Bốn bộ chúng ở Diêm-Phù- Đề
(15) hội về đơng đủ, trừ Ma-Ha-Ca-Diếp, A-Nan-đà, vua A-Xà-Thế và quyến
thuộc của vua nầy. Thần Đà- Na-Bà, A-Tu-La nhẫn đến mười sáu lồi ác
độc, rắn, rít, bị cạp, bọ hung v.v… đều bỏ ác niệm mà sanh lịng nhân từ
xem nhau như cha mẹ, chị em. Tất cả chúng sanh trong cơi Đại- thiên sanh
lịng nhân từ đối với nhau cũng như thế, trừ hạng nhứt-xiển-đề.
Hơm ấy, cả đại thiên thế giới do thần lực của
Phật, biến thành trang nghiêm đẹp sáng như cơi Cực lạc của Đức
Vơ-Lượng-Thọ Phật ở phương Tây (16). Đại-chúng trong pháp-hội Ta-La đều
thấy rơ các thế giới của chư Phật ở mười phương, như thấy ḿnh trong
gương sáng.ï
Lúc ấy ánh sáng năm màu từ mặt Phật phĩng ra
bao trùm đại hội rồi thâu vào miệng Phật. Cả chúng-hội trời, người,
a-tu-la v.v… thấy ánh sáng thâu vào miệng Phật, thời cả kinh mà nĩi
rằng: “Đức Phật phĩng ánh sáng rồi thâu vào nơi miệng, chắc cĩ duyên cớ.
Hay chính là tướng sắp nhập Niết-Bàn khổ thay !
Khổ thay ! Sao Đức Thế-Tơn lại rời bỏ bốn tâm
vơ-lượng, chẳng nhận sự cúng dường của Trời, của ngươiø. Mặt trời
Thánh-huệ từ nay sắp tắt hẳn, thuyền pháp vơ-thượng từ nay sắp ch́m mất.
Thế gian rất khổ. Than ơi ! Đau lịng lắm thay ! Than xong, đại chúng
nhào lăn kêu khĩc, nước mắt hịa máu rơi đầy nơi đất.
THÍCH NGHĨA
(1 ) Rừng cây Ta-La, cũng đọc là Sa-La, v́ chỗ Phật ngự, bốn phía cĩ
tán cây Ta-La chia làm bốn cặp nên gọi là Ta-La Song-Thọ Câu-Thi-Na
(2) HỮU ĐẢNH gọi đủ là “Tam hữu chi đảnh” – Cơi trời cao nhất trong
tam giới, tức là sắc Cứu-Cánh-Thiên.
(3) CƠI ĐẠI-THIÊN, nĩi đủ là Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới: Một
Thái-dương-hệ gọi là một tiểu thế- giới, gồm một từng trời Sơ Thiền và
một cơi dục.
Một ngàn tiểu thế giới hiệp lại cùng một từng trời Nhị-Thiền, gọi là
một Tiểu-Thiên Thế- giới ( 1 T H. G x 1000 = 1 Tiểu Thiên )
Một ngàn Tiểu Thiên hiệp lại cùng một từng trời Tam-Thiền. Gọi là một
Trung-Thiên Thế- Giới ( 1 T. TH. G. x 1000 = 1 T. TH x 1000 = 1 Trung
Thiên )
Một ngàn Trung-Thiên hiệp lại gồm một từng trời Tứ-Thiền, gọi là một
Đại-Thiên Thế-Giới ( 1 T. TH. G x 1000 = 1 TH x 1000 = 1 TR. TH x 1000 =
1 Đại-Thiên)
Từ một Thái-dương-hệ hay một Tiểu Thế-giới phải ba lần nhơn ngàn
chồng lên mới thành một Đại- Thiên Thế-Giới, tức là 1.000.000.000 Tiểu
thế giới cùng 1.000.000 trời Nhị-Thiền, 1.000 Trời Tam- Thiền và một
từng Trời Tứ-Thiền, nên cũng cĩ chổ gọi Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới.
(4) -Trong tồn cơi Đại-Thiên cĩ vơ số lồi hữu t́nh chúng sanh. Đại
khái chia làm 6: Trời, Người, A-Tu-La, Qủy, Súc sanh, và Địa ngục. Cĩ
chỗ thêm Tiên thành bảy lồi. Cĩ chỗ lược A-Tu- La thành năm lồi gọi là
“ Ngũ-Thú”.
(5) - TỲ-KHƯU cĩ ba nghĩa: Khất-sĩ, Phá ác và Bố-ma.
Cĩ ba trường hợp thành Tỳ-Kheo:
I – Người chứng Thánh quả vơ-lậu gọi là pháp tánh Tỳ-kheo.
II- Được Phật hiện diện, gọi là Thiện-Lai Tỳ-kheo, thời thành
Tỳ-kheo.
III-Chư Tăng hịa hợp đúng pháp bạch tứ yết- ma trao giới Tỳ-kheo, đây
gọi là Tác-pháp Tỳ-kheo.
(6) - TỨ VƠ-LƯỢNG-TÂM: Từ, Bi, Hỉ, Xả. Vận dụng bốn tâm trên đây bủa
khắp vơ- lượng chúng sanh trong vơ lượng thế giới, nên gọi là bốn tâm vơ
lượng.
(7)- Nĩi đủ là Bồ-Đề-Tát-Đỏa cĩ nghĩa là Hữu-t́nh đă giác ngộ và giác
ngộ các hữu t́nh khác. Bắt đầu từ khi mới phát tâm bồ đề vơ thượng: “
nguyện thành Phật độ muơn lồi “, tu lục độ vạn hạnh, phá hai chướng,
chứng pháp thân. Tất cả cĩ 57 bực Bồ-Tát: những bực Thập Địa đă chứng
Pháp thân gọi là Đại-Bồ-Tát ( Bồ-Tát Ma-Ha-Tát)
(8)- TAM BẢO: Ba ngơi báu quư nhứt ở thế gian: Phật Bảo, Pháp Bảo,
Tăng Bảo.
(9)- Ưu-Bà-Tắc ; Cận-sự-nam. ƯU-BÀ-DI: Cận-sự-nữ. Hai phái tại gia
thường gần gũi hộ tŕ Tam-Băo. Bắt đầu qui-y Tam-Bảo thời được danh hiệu
nầy.
(10)-NGŨ-GIỚI: năm điều giới của hàng tại gia: khơng được sát sanh,
khơng được trộm cắp, khơng được tà dâm, khơng được vọng ngữ, khơng được
uống rượu say.
(11)- TRÀ-TỲ: Lễ thiêu thi hài lấy tro để thờ.
12)- THẤT-BẢO: vàng, bạc, lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mă năo, ngọc san
hơ, ngọc hổ phách, trân châu
(13)- A-TĂNG-KỲ: vơ số HẰNG-HÀ-SA: Sơng Hằng (Gange).là con sơng to,
nguồn từ Hy-Mă- Lạp-Sơn (Himalaya) chảy qua trung châu Ấn-Độ đổ ra
Ấn-Độ-Dương. Bờ sơng và đáy sơng này cĩ nhiều cát mịn. Khi thuyết pháp,
Phật thường dùng số hột cát của sơng Hằng để thay một số lớn.
VI-TRẦN: Bụi nhỏ. Số nhiều như bụi nhỏ khơng thể tính đếùm đươc.
THẾ-GIỚI: Mỗi thế-giới là cả một Đại-Thiên, phạm vi giáo hĩa của một
Đức Phật.
(14)-TỊA SƯ-TỬ: Chỗ ngồi chạm h́nh sư tử tiêu biểu oai đức tự tại đối
vớiđại chúng, như sư tử oai khiếp quần thú.
(15)-DIÊM-PHÙ-ĐỀ cũng gọi là Nam Thiệm-Bộ-Châu, tức là quả địa cầu
nầy.
(16) A-Di-PHẬT, Phạm-âm, Tàu dịch là Vơ-Lượng-Thọ-Phật, hoặc Vơ-
Lượng-Quang-Phật, giáo chủ cơi Cực-Lạc, cũng gọi cơi An-Lạc cơi
An-Dưỡng. Cơi nầy cách cơi Ta-Bà đây mười muơn ức cơi về phương Tây.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 02 April 2008 lúc 6:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Đại Bát Niết Bàn
Dịch Từ Hán Sang Việt:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
---o0o---
02.
PHẨM THUẦN ĐÀ THỨ HAI
Bấy giờ trong đại hội
có vị ưu-bà-tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu-Thi-Na, tên là
Thuần- Đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, v́ muốn đem qủa lành đến
cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chơn Phật,
buồn khóc rơi lệ, bạch rằng : “ Ngửa mong đức Thế- Tôn và Tỳ-Kheo-Tăng
thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô-lượng
chúng sanh được độ.
Bạch Thế-tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói
khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai
ở Đức thế-Tôn (17). Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập
Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức
làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch
cỏ, chỉ c̣n chờ trời mưa.Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng,
ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền năo.
Bạch Thế-tôn! Nay đây con đă có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ c̣n
trông chờ trận mưa pháp cam-lồ của Như-Lai. Người nghèo kia chính là con
đây,nghèo nơi của báu pháp-bảo vô-thượng. ngửa mong xót thương dứt trừ
sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô-lượng chúng-sanh. Cúng
phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như-Lai và chư Tăng dùng được
đủ. ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nưng đỡ, xin đức Thế-tôn
rủ ḷng thương xót coi con như La-Hầu-La (18).
Đức Thế-Tôn, bực nhứt-thiết chủng- trí vô-
thượng điều-ngự, bảo Thuần-Đà rằng Lành thay!Lành thay! Hôm nay
Như-Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô-thượng xuống cho ruộng
thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ-mạng, sắc, lực, an-lạc vô
ngại, biện-tài nơi Như-Lai. Như-Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy. “
Thuần-Đà! Thí- thực có hai, đồng một quả báo; một là thọ xong liền
chứng vô- thượng chánh-đẳng chánh-gíac, hai là thọ xong liền nhập
Niết-Bàn. Hôm nay Như-Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho
ông đầy đủ bố-thí ba-la-mật” 19).
Thuần-Đà liền bạch Phật rằng ;” Như Đức
Thế-Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng-thí quả-báo đồng nhau, theo ư con
nghĩ, e rằng không đúng ngĩa. V́ vị thọ-thí trước là bực chưa sạch phiền
năo, chưa chứng nhứt-thiết-chủng-trí (20) cũng chưa có thể làm cho chúng
sanh đầy đủ bố-thí ba-la-mật. C̣n vị thọ thí sau là bực nhứt-thiết
chủng-trí, đă sạch phiền-năo, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ
bố-thí-ba-la-mật.
Vị thọ-thí trước c̣n là chúng sanh, vị
thọ-thí sau là bực trời trong các trời. Vị thọ-thí trước là thân
tạp-thực, thân phiền-năo, thân vô-thường cuối cùng; vị thọ-thí sau
là thân kim-cang không phiền- năo, là pháp-thân chơn-thường vô cùng. Sao
lại cho rằng hai sự cúng-thí quả báo đồng nhau ?
Vị thọ thí trước chưa được đầy đủ
đàn-ba-la-mật nhẫn đến bát-nhă ba-la-mật, chỉ có nhục nhăn chưa có huệ
nhăn nhẫn đến Phật-nhăn (21). Vị thọ thí sau đă được đầy đủ cả sáu
ba-la-mật nhẫn đến Phật-nhăn. Sao lại cho rằng hai sự cúng-thí được
quả-báo đồng nhau ?
Bạch đức Thế-Tôn! Vị thọ-thí trước, thọ
xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống c̣n, đặng sức khỏe, xinh đẹp,
an vui, vô-ngại-biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự
quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau ?”
Đức Phật phán ;” Thuần-Đà! Như-lai đă từ
vô-lượng vô-biên vô số kiếp (22) không có những thân ăn uống, thân phiền
năo, thân sau cùng, mà là thân chân-thường, thân kim- cang, là pháp-
thân.
Thuần-Đà! Người chưa thấy Phật- tánh gọi là
thân tạp-thực, phiền măo, cuối cùng. Lúc đó Bồ- tát thọ đồ ăn uống rồi
nhập kim-cang tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật-tánh, chứng
vô- thượng chánh đẳng chánh giác. V́ lẽ ấy nên Như-Lai nói hai sự
cúng-thí được quả báo đồng nhau.
Lúc thành đạo, Bồ-tát phá hoại bốn ma (23),
nay nhập Niết-bàn cũng phá hoạI bốn ma , nên Như-Lai nói hai quả-báo
không sai khác.
Lúc trước dẫu Bồ-tát chẳng rộng giảng-diễn
mười hai bộ kinh nhưng đă thông đạt rồi, nay nhập Niết- bàn rộng v́
chúng sanh phân biệt giảng dạy. V́ thế nên Như-Lai nói hai quả báo đồng
nhau.
Thuần-Đà! Thân của Như-Lai đă từ vô-lượng vô
số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. V́ hàng Thanh-Văn mà nói rằng trước
thọ cháo sửa của hai nàng chăn ḅ là Nan-Đà và Nan- Đà Ba- La, rồi sau
mới chứng quả vô- thượng chánh-giác, nhưng chính thiệt Như-Lai không ăn.
Hôm nay v́ đại-chúng trong hội nầy, mà Như-Lai nhận sự cúng dường cuối
cùng của ông dưng. thiệt ra Như-Lai không ăn”.
Đại-chúng nghe đức Thế-Tôn khắp v́ đại-hội mà
nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần-Đà, đều vui mừng hớn hở. Đồng rập
tiếng khen rằng : Lành thay! Lành thay! Hi hữu thay cho Thuần- Đà! Thiệt
ông không uổng tên là Thuần-Đà. V́ hai chữ Thuần-Đà là “hiểu
diệu-nghĩa”. Ông nay kiến lập diệu-nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi
là Thuần-Đà. Hiện đời đây ông được đầy đu ûcả danh tiếng, tài lợi, đức
hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần-Đà! Sanh trong loài người lại
được quả lành vô- thượng rất khó đươc. Lành thay cho Thuần-Đà! Trong đời
khó có người thứ hai. khác nào hoa Ưu-Đàm. Đức Phật ra đời là rất khó.
Gặp Phật sanh ḷng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức
Phật sắp nhập Niết-Bàn, thỉnh được đức Phật nhận phần cúng dường cuối
cùng lại càng khó hơn.
Nam-mô Thuần-Đà! Nam-mô Thuần-Đàø! Nay ông đă
đầy đủ bố-thí ba-la-mật. Đại chúng liền nói kệ rằng :
Ông dầu sanh nhơn đạo
Đă siêu trời thứ sáu
Tôi cùng tất cả chúng
Nay xin yêu cầu ông :
Đấng tối-thắng trong người
Nay sẽ nhập Niết-bàn,
Ông nên thương chúng tôi
Xin kíp thỉnh đức Phật
Ở lâu lại thế gian
Diễn thuyết pháp vô-thượng
Mà bực trí tán thán
Hầu lợi ích chúng sanh.
Nếu ông không thỉnh Phật
Mạng tôi ắt khó toàn
Ông nên v́ chúng tôi
Đănh lễ đức Điều-Ngự.
Thuần-Đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ
vừa chết bỗng sống lại. Ông đăng lễ Phật mà nói kệ rằng :
Vui thay được lợi ḿnh!
Khéo thọ nơi thân người
Dẹp trừ tham sân si
Thoát hẳn ba ác đạo (24)
Thích thay được lợi ḿnh!
Được gặp kho vàng báu
Gặp gỡ đức Điều-Ngự
Chẳng sợ đọa súc sanh
Phật như hoa Ưu-Đàm (25)
Khó gặp gỡ tin kính
Gặp rồi trồng căn lành
Dứt hẳn khổ ngạ-quỷ,
Laị cũng hay tổn giăm
Chủng loại A-Tu-La.
Hột cải ghim đầu kim (26)
Phật ra đời khó hơn,
Tôi đă đủ đàn độ (27)
Độ thiên nhơn sanh tử.
Phật chẳng nhiễm việc đời
Như hoa sen ở nước
Khéo dứt giống tam-giới (28)
Thoát hẳn gịng sanh tử,
Sanh làm người là khó
Gặp đời Phật cũng khó
Dường như trong biển lớn
Rùa mù gặp bọng cây.
Nay tôi dưng thực phẩm
Nguyện đặng báo vô thượng
Xô phá phiền –năo kiết
Tất cả không bền chắc.
Nay tôi ở nơi đây
Chẳng cầu thân nhơn thiên
Dầu có được thân ấy
Cũng không ḷng ham thích
Được Phật nhận cúng phẩm
Con vui sướng không lường
Khác nào bông Y-Lan (29)
Ngát mùi hương chiên đàn.
Thân tôi như Y-Lan
Thế-Tôn nhận cúng phẩm
Như ngát hương chiên đàn
V́ thế tôi vui mừng.
Tôi nay được hiện báu
Chỗ tối-thắng thượng-diệu
Đế-Thích cùng Phạm-Thiên (30)
Đều đến cúng dường tôi,
Tất cả các thế gian
Đều sanh ḷng buồn khổ
V́ biết Phật Thế-tôn
Muốn nhập đại-niết-bàn
Đồng cất tiếng xướng to :
Đời sẽ không Điều-Ngự
Chẳng nên bỏ chúng sanh
Phải xem như con một
Phật ở giữa chư tăng
Diễn thuyết pháp vô thượng
Như núi báu Tu-di
Cao vọi giữa biển cả.
Trí Phật vay khéo dứt
Tối vô-minh của tôi
Dường như giữa hư không
Mây nổi đặng mát mẻ
Như –Lai khéo dứt trừ
Tất cả các phiền năo(31)
Như mặt trời mọc lên
Tan mây sáng khắp soi
Các loài chúng sanh đây
Khóc than sưng cả mắt
Đều bị ḍng sanh tử
Đẩy trôi rất khốn khổ.
Đức Thế-Tôn cần phải
Thêm căn lành chúng sanh
V́ dứt khổ sanh tử
Ở nán lại thế gian.
Phật bảo Thuần-Đà:” Đúng như lời ngươi nói.
Phật ra đời là khó như hoa Ưu-đàm. Gặp Phật sanh ḷng tin lại khó hơn.
Phật sắp nhập Niết-Bàn, dược cúng dường lần cuối cùng đầy đủ bố-thí
ba-la-mật, lại là việc rất khó gấp bội.
Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng v́ đă
được dịp cúng dường Như-Lai lần cuối cùng, do đây thành-tựu bố-thí
ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh
giới của chư Phật thảy đều vô-thường, tánh và tướng của các hành-pháp
cũng như vậy”.
Đức Phật liền v́ Thuần-Đà mà nói kệ rằng :
Tất cả các thế gian
Có sanh đều có tử,
Dầu thọ-mạng vô-lượng
Tất có kỳ phải hết.
Có thạnh tất có suy,
Sum hiệp có biệt ly,
Tuổi trẻ chẳng dừng lâu
Khỏe mạnh bị bịnh xâm,
Sự chết nuốt mạng người
Không có ǵ thường c̣n.
Bực vua chúa tự-tại
Thế-lực không ai bằng
Tất cả đều dời đổi
Mạng sống cũng như vậy.
Sự khổ xoay không ngằn
Lưu-chuyển không thôi dừng
Ba cơi đều vô thường
Mọi loài không có vui.
Tánh tướng của pháp có
Tất cả đều trống không,
Pháp sanh diệt lưu-chuyển
Luôn có những lo khổ,
Sợ sệt, các lỗi ác,
Già, bịnh, chết, buồn rầu.
Những khổ ấy không ngằn
Hư ră nhiều tai hại,
Phiền năo bao gói kín
Khác nào tầm ở kén,
Là người có trí huệ
Đâu nên thích chốn nầy.
Các khổ nhóm nơi thân
Tất cả đều nhơ nhớp,
Tai nạn, ghẻ nhọt thảy
Cội gốc của khổ đau,
Dầu là thân chư-Thiên
Đều cũng giống như vậy.
Dục ái đều vô-thường
Nên Phật chẳng tham ưa,
Ly dục khéo tư duy
Đặng chứng quả chơn thiệt
Rốt ráo dứt sanh tử
Nay sẽ vào Niết-bàn.
Phật đăvượt bờ kia
Đă thoát hẳn các khổ
V́ thế nên hiện nay
Thuần hưởng những diệu-lạc,
Do các nhơn duyên ấy
Chứng quả vị chơn thiệt
Dứt hẳn những triền phược
Hôm nay vào Niết-bàn.
Phật không già, bịnh, chết,
Thọ mạng vô cùng tận,
Phật nay vào Niết-bàn
Như ngọn lửa lớn tắt.
Thuần-Đà! Ông chẳng nên
Suy lường nghĩa Như-Lai,
Nên xét tánh Như-Lai
Dường như núi Tu Di.
Phật nay vào Niết-bàn
Thọ-tŕ bệ nhứt lạc,
Pháp chư Phật như vậy
Các ông chớ nên khóc.
Thuần-Đà bạch Phật rằng : Bạch đức Thế-Tôn!
Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi ṃng, đâu có thể
nghĩ bàn được nghĩa Niết-bàn sâu kín của Như-Lai.
Bạch Thế-Tôn! Ví như người tuổi thơ ấu mới
xuất gia, dầu chưa thọ giới cụ-túc, mà đă được dự vào số chúng tăng. Con
nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và BồTát, mà con được dự vào số đại
Bồ-Tát, đă được cùng hàng với các bực Đại-Long-Tượng (32) dứt phiền năo,
như ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương –Tử v.v…
Thế nên hôm nay con muốn đức Như-Lai thường ở
nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn .
Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương-Tử (33) bảo
Thuần-Đà rằng : Ông chẳng nên nói rằng muốn đức Như-Lai thường ơ nơi đời
mà chẳng vào Niết-bàn. Ông phải quán-sát tánh tướng của hành pháp, quán
sát như thế đặng “không” tam-muội. Muốn cầu chánh pháp nên học pháp
quán-sát như vậy.
Thuần-Đà nói ;” Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Đức
Như-Lai là bực cao cả nhứt trong người trên trời. Đức Như-Lai như thế há
lại là hành pháp sao ? (34) Nếu là hành- pháp thời là pháp sanh diệt. Ví
như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các
hành- pháp cũng thế. Tôi nghe chư Thiên sống rất lâu, tại sao đức
Thế-Tôn là bực trời trong các trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi.
Cách hành-pháp là pháp sanh tử, nếu đức
Như-Lai nhập diệt thời đồng với hành-pháp, đâu được gọi là bực trời
trong các trời, là pháp vương tự- tại. V́ thế chẳng nên xem đức Như-Lai
đồng với hành-pháp.
Đức Như-Lai hàng phục phiền- năo ma, ngũ-ấm
ma, thiên-ma, tử ma do nhơn duyên ấy mà thành-tựu đầy đủ vô-lượng
công-đức chơn thiệt, nên hiệu là Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến- Tri, hiệu
là Tam-Giới-Tôn.
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi : Chẳng nên ức-tưởng
phân biệt mà đem pháp Như-Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông
sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết
rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản
thọ thời chẳng được mọi người kính trọng. Nếu đức Như-Lai đồng với các
hành-pháp, ắt chẳng được sa-môn bà-la-môn tất cả trời người kính thờ, mà
pháp chơn thiệt bất biến bất dị của Như-Lai dạy ra cũng không ai tín
thọ. V́ lẽ ấy, ngài chẳng nên nói rằng Như-Lai đồng với các hành-pháp.
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Như bần-nữ đang có
mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua
đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh. Dọc đường phải lội
qua con sông, ra giữa ḍng bị nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con
nên mẹ con đồng bị chết đuối. V́ tấm ḷng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên
cơi phạm- thiên.
Nếu có thiện-nam-tử muốn hộ tŕ chánh-pháp,
chớ nói Như-Lai đồng với các
hành-pháp hay chẳng đồng với các hành-pháp.
Chỉ nên tự trách ḿnh ngu si không có huệ- nhăn, chánh-pháp của Như-Lai
không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như-Lai quyết định là hữu-vi,
hay vô-vi. Nếu là người chánh-kiến nên nói Như-Lai quyết định là vô- vi.
V́ sao thế ? V́ nói Như- Lai là vô-vi thời có thể sanh pháp lành cho
chúng sanh.
Thiện-nam-tử hộ-tŕ chánh-pháp thà chết chớ
chẳng nói Như-Lai đồng với pháp hữu-vi, mà chỉ nên nói Như-Lai đồng với
pháp vô-vi. Nhơn v́ hộ- tŕ chánh-pháp nói Như-Lai đồng với pháp vô-vi
mà đặng quả vô-thượng chánh-giác. Như bần-nữ thà chết đuối giữa ḍng chớ
không chịu buông con, nhơn đó mà được sanh lên cơi phạm-thiên. Thiện
nam-tử này chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. Khác nào bần nữ
kia chẳng cầu sanh phạm-thiên mà quả phạm- thiên tự đến.
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Như người đi xa
giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngũ, nhà ấy bổng bốc
lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, ḷng hổ thẹn sọ thân
thể lơa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên cơi trời
Đạo-Lợi. sau đó tám mươi đời làm Đại-Phạm-Vương, trăm ngàn đời làm
Chuyển- Luân- vương, người ấy măi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị
đọa vào ác đạo. V́ duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm-quư chẳng nên
xem Như-Lai đồng với các hành- pháp.
Bọn ngoại đạo tà-kiến mới được nói Như-Lai
đồng với pháp hữu-vi.
Là Tỳ-Kheo tŕ-giới đâu nên có quan niệm rằng
Như-Lai là pháp hữu-vi.
Nếu nói Như-lai là pháp hữu-vi, đó chính là
vọng-ngữ. Phải biết người nầy sẽ đọa địa ngục.
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Như-Lai chơn thiệt,
chính là pháp vô-vi, chẳng nên lại nói là hữu-vi. Từ nay ở trong đường
sanh tử, ngài nên bỏ vô-trí mà cầu nơi
chính-trí. Phải biết Như-Lai chính là vô-vi.
Được chánh- quán như thế, sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu
quả vô-thượng bồ-đề.”
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát khen Thuần-Đà rằng
:”Lành thay! Lành thay! Nay ông đă tạo nhơn duyên trường thọ, ông biết
được Như-Lai là pháp thường-trụ, là pháp chẳng biến-dị, là pháp vô-vi.
Nay ông khéo che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai, sau nầy ông sẽ đặng đầy
đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh, mười tám pháp bất cộng, thọ
mạng vô-lượng, luôn được an vui, không c̣n sanh tử sẽ thành bực Ứng-Cúng
Chánh-Biến-Tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có ḷng hổ thẹn lấy y
áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên cơi Đao-Lợi, lại nhiều
đời làm Phạm-Vương, Chuyển- Luân-Vương, luôn được an vui chẳng sa ác
đạo.
Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng
hữu-vi của Như-Lai. Lát nữa đức Thế-Tôn sẽ giảng rộng về ư nghĩa ấy.
Nên để hữu-vi vô-vi lại đó. Ông nên kíp lo
cúng-dường cơm nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sữa đồ cần thiết cho
hàng tứ-chúng từ xa hội về đang mơi mệt. Cúng đường như thế chính là đầy
đủ chủng-tử căn-bổn của đàn-ba-la-mật.
Thuần-Đà! Nếu cúng dường đức Phật và chư Tăng
lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu đều phải sớm lo cho kịp
giờ. Đức Như-Lai sẽ nhập Niế-bàn”.
Thuần-Đà nói : “ Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Sao ngài lại tham chút uống ăn mànói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng
đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ ? Xưa kia đức Như-Lai khổ hạnh trọn sáu
năm c̣n chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài thiệt cho rằng đức
Như-Lai chánh giác thọ đồ uống ăn nầy ư ? Tôi thời biết quyết định thân
Như-Lai chính là pháp-thân, không phải thực-thân.
Phật bảo Văn-thù Sư-Lợi :’ Thật đúng như lời
của Thuần-đà! Lành thay Thuần-Đà! Ông đă thành-tựu đại trí-huệ, khéo
thâm nhập kinh- điển đại-thừa”.
Văn-Thù Sư-Lợi nói với Thuần-Đà : “ Ông cho
rằng Như-Lai là vô-vi, thân Như-Lai là trường-thọ, hiểu biết như vậy đức
Phật rất hài ḷng”.
Thuần-Đà nói :” Đức Như-Lai chẳng riêng ǵ
hài ḷng nơi tôi, mà cũng hài ḷng với tất cả chúng sanh”.
Văn-Thù Sư-Lợi nói :” Đức Như-Lai đối với
ông, với tôi, với tất cả chúng sanh, đều hài ḷng”.
Thuần-Đà nói :’ Ngài chẳng nên nói đức
Như-Lai hài ḷng. Luận về hài ḷng, chính là đảo-tưởng. Phàm có
đảo-tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu-vi. V́ lẽ ấy ngài
chẳng nên cho Như- Lai là hữu-vi. Nếu nói Như-Lai là hữu-vi thời ngài
cùng tôi đều điên-đảo cả.
Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Đức Như-Lai không
có ái- niệm. Luận về ái- niệm , như trâu mẹ kia ái-niệm con của nó, dầu
là đói khát đi t́m cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền
trở về. Chư Phật Thế-Tôn không có ái-niệm như vậy, b́nh đẳng xem tất cả
chúng sanh như La-Hầu-La. Từ-niệm b́nh đẳng như vậy chính là cảnh-giới
trí-huệ của chư Phật.
Thưa ngài Văn-thù Sư-Lợi! Ví nnư quốc vương
ngự trên xe tứ mă, có người muốn cho xe ḅ theo kịp xe vua, tất không
thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi-mật thâm-áo của Như-Lai
cũng không thể được.
Ví như Kim-Sí-Điểu (35) bay vọt trên cao vô
lượng do-tuần, nh́n xuống biển cả thấy rơ những loài thủy tộc cùng
loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém,
không thể suy lường chỗ thấy của
Kim-Sí-Điểu. Cũng thế, ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ
của Như-Lai”.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát bảo Thuần-Đà rằng : “
Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không
hiểu. Chẳng qua v́ muốn đem việc của Bồ-Tát thử ông đó thôi”.
Bấy giờ đức Thế-tôn từ trên mặt phóng ra
nhiều tia sáng chiếu thân ngài Văn-Thù. Ngài Văn- Thù liền bảo Thuần-Đà
rằng :” Nay đây đức Nnhư-Lai hiện thoại-tướng từ trên mặt phóng ra nhiều
tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó
là điềm đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Ông phải
sớm lo dưng lễ cúng dường lên đức Phật và chư Tăng cho kịp giờ.”
Đức Phật bảo Thuần-Đà :” Đă phải giờ cho ông
dưng thực phẩm cúng dường Phật và đại- chúng. Như-Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy.
Thuần-Đà nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác
nghẹn ngào khóc than nức nở:
“ Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống
rỗng.” Rồi ông lại thưa cùng đại-hội :
“ Hôm nay chúng ta phải đồng tha-thiết đảnh
lễ cầu đức Phật đừng nhập Niết-bàn.”
Đức Thế-Tôn lại bảo Thuần-Đà :”Ông chớ nên
khóc than tiều-tụy như vậy. Ông phải quán sát thân nầy như cây chuối,
như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn-hóa, như thành Càn-thát-bà, như đồ
gốm chưa hầm, như làn chớp, như h́nh vẽ trên nước, Như tù sắp hành h́nh,
như trái muồi, như cục thịt, như bức dệt đă hết khổ, như chày giă
lên xuống. Phải quán sát các hành-pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp
hữu-vi nhiều tai hại.”
Thuần-Đà bạch Phật :” Đức Thế-Tôn chẳng muốn
ở lại đời làm sao con không buồn khóc cho được. Khổ thay! Khổ thay!
Thế-gian sẽ trống rỗng. Ngữa mong Đức
Thế-Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà
ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết-bàn”.
Phật bảo Thuần-Đà : Ông chẳng nên nói rằng
thương xót các ông mà ở luôn nơi Đời. Chính v́ thương xót ông và các
chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết-bàn. V́ sao thế ? Chư Phật
pháp-nhĩ như vậy. Pháp hữu-vi cũng thế. Nên chư Phật nói kệ rằng :
Các pháp hữu-vi
Tánh nó vô thường
Sanh rồi chẳng trụ
Tịch-diệt là vui.
Thuần-Đà! Ông nên quán-sát các hành
pháp là tạp độc. Các pháp hữu-vi là vô-ngă vô-thường chẳng trụ. Tấm thân
nầy có rất nhiều tai hại như bóng nước. V́ lẽ ấy ông chớ nên khóc lóc”.
Thuần-Đà bạch Phật :” Thật đúng như lời
Thế-Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết đức Như-Lai phương tiện thị-hiện nhập
Niết-bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy
xét, con lại sanh ḷng vui mừng.”
Phật khen Thuần-Đa :” Lành thay! Lành thay!
Ông có thể rơ biết Như-Lai thị-hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện
nhập Niết-bàn.
Thuần-Đà! Ông nên nghe đây : Như mùa xuân
chim ta-la-tà đều nhóm nơi ao A-Dậu-Đạt. Chư Phật cũng thế đều đến
chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất
cả các pháp đều nnhư tướng huyễn-thuật. Như-Lai ở trong ấy do sức phương
tiện không có nhiễm trước. V́ sao thế ? V́ chư Phật pháp-nhĩ như vậy.
Thuần-Đà! Nay Như-Lai nhận phần cúng dường
của ông là v́ muốn cho ông thoát khỏi các ḍng sanh tử trong ba cơi.
Hàng nhơn-thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như-Lai đây, đều
sẽ được quả-báo bất động, luôn được an vui. V́ sao thế ? V́ Như-Lai là
phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn v́ chúng sanh mà làm
phước-điền, thời phải kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trể”.
Bấy giờ Thuần-Đà v́ các chúng sanh được độ
thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật :” Lành thay đức Thế-Tôn! Nếu lúc
con kham có thể làm phước-điền, thời có thể biết rơ Như-Lai là nhập
Niết- bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng
Thanh-Văn Duyên-Giác nhỏ kém như kiến muỗi, thiệt không thể suy lường
Như-Lai nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn”.
Bạch xong, Thuần-Đà cùng quyến thuộc buồn
rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết ḷng cung kính, rồi liền cùng
ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát đi lo sắm sữa thực phẩm.
THÍCH NGHĨA
(17) THẾ TÔN : Đấng tôn quư nhứt trong tất cả thế gian và
xuất thế gian. Từ ngữ này gồm đủ mười điều vô-thượng : 1 – Như-Lai, 2 –
Ứng-Cúng. 3- Chánh-Biến-Tri. 4- Minh-Hạnh-Túc. 5- Thiện- Thệ. 6-
Thế-Gian-Giải. 7- Vô-Thượng-Sĩ. 8- Điều-Ngự-Trượng-Phu. 9-
Thiên-Nhơn-Sư. 10- Phật.
(18) LA-HẦU-LA : Con trai của Thái-Tử Sĩ-Đạt-Ta và Da-Du-Đà-La
(19) BỐ-THÍ-BA-LA-MẬT : Công hạnh bố thí đă đến từng ngă và pháp đều
không, đă rốt ráo viên măn. Biệt-Giáo bực sơ địa viên giáo bực sơ trụ
mới thành tựu hạnh nầy.
(20) TRÍ-HUỆ CHỨNG-NGĂ-KHÔNG gọi là “Nhứt-thiết-trí” Hàng nhị thừa có
trí nầy. Trí-huệ chứng ngă-không và phần chứng pháp không gọi là
“Đạo-chủng-trí”. Pháp thân Bồ-Tát có trí nầy. Trí huệ chứng ngă-không và
toàn chứng pháp-không gọi là “Nhứt-thiết-chủng-trí” Chỉ bực Phật mới có
trí nầy. Trí huệ nầy gồm có bốn trí : 1- Thành-sở-tác-trí. 2- Diệu
quán-sát-trí. 3- B́nh-đẳng tánh-trí. 4- Đại-viên cảnh-trí.
(21) NGŨ NHĂN : 1- Nhục nhăn. 2- Thiên nhăn. 3- Huệ nhăn. 4 Pháp
nhăn.
5- Phật nhăn. Phàm phu chỉ có nhục nhăn, riêng chư Thiên và chư ngũ
thông tiên-nhơn gồm có thiên nhăn. A-La-Hán và Bích-Chi-Phật có nhục
nhăn, thiên nhăn và huệ nhăn. Pháp thân Bồ-Tát có ba nhăn trên và pháp
nhăn Đức Phật có đủ 5 nhăn.
(22) KIẾP-BA : là thời gian dài. Có tiểu, trung va đại ba kiếp.
Một tiểu kiếp có
16798.000 năm (theo năm của nhơn loại địa cầu). Một trung kiếp có 20
tiểu kiếp. Và một đại kiếp có 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp, tức là :
(16798.000 năm x 80 = 1.343.840.000 năm) (một tỷ, ba trăm bốn mươi
ba triệu, tám trăm bốn chục ngàn năm). Phàm trong kinh chỉ nói bao nhiêu
kiếp, mà không nói trung hay tiểu, thời thường là nói đại kiếp.
(23) BỐN MA ; Ma phiền năo, Ma ngũ-ấm, Ma chết, va Thiên ma. Nói đủ
là Ma-La có nghĩa là hay phá hoại thiện căn của chúng sanh, của người tu
hành.
BA ÁC ĐẠO : Súc sanh, ngạ quỹ và địa ngục. Ba loài nầy v́ phạm tội
thập ác nhẹ, vừa và nặng mà phải thọ lấy quả khổ ấy, nên gọi là ác đạo,
đây là cứ nơi nghiệp nhơn ác mà đặt tên. Nếu theo quả khổ thời gọi là
tam đồ : 1- Huyết đồ, loài súc sanh thường ăn nuốt máu thịt lẫn nhau; 2-
Đao đồ, loài ngạ quy thường dùng dao gậy đánh đập nhau; 3- Hỏa đồ- loài
địa ngục thường bị lửa thui đốt, nấu rang.
ƯU-ĐÀM-BÁT-LA-HOA ; dịch là Linh-Thoại-Hoa. Tục truyền ba ngàn năm
mới xuất hiện một lần , là điềm Thánh-Vương, hay Thánh-Nhơn xuất thế.
Ném hột cải trúng dính vào đầu nhọn cây kim. “Đàn” là bố thí, “Độ” là
ba-la-mật. Đàn-Độ” là bố-thí ba-la-mật.
TAM GIỚI : ba cơi : cơi dục, cơi sắc và cơi vô sắc.
BÔNG Y-LAN : là một thứ hoa có mùi rất hôi thúi.
(30) ĐẾ-THÍCH : nói đủ là Thiên Đế Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, vua cơi
trời Đao-Lợi.
PHẠM-THIÊN : Thiên Vương cơi sắc.
(31) PHIỀN NĂO : Phiền nhiễu, năo loạn, tức là những tâm niệm
xấu, cùng ư tưởng ác như : tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến v.v… nó làm
nhiễu loạn thân tâm người, đồng thời hay phá hoại thiện căn của người,
nên cũng gọi kà phiền năo ma.
(32) ĐẠI-LONG-TƯỢNG ; Rồng lớn và Voi lớn là loài to mạnh trong các
muông thú. Dùng danh từ nầy là dụ cho các bậc siêu nhơn đại Bồ-Tát. Phật
là Pháp-Vương, đại Bồ-Tát sẽ thành Phật, là con của đấng Pháp-Vương nên
gọi là Pháp-Vương-Tử.
(34) HÀNH-PHÁP : Pháp di động chuyển biến.
(35) KIM-SÍ-ĐIỂU ; Chim cánh vàng, một loài chim to nhất hay
dùng rồng làm món ăn.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 18 April 2008 lúc 6:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Đại Bát Niết Bàn
Dịch Từ Hán Sang Việt:
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
---o0o---
03
PHẨM AI THÁN THỨ BA
Ông Thuần-Đà ra đi
không bao lâu, khắp cả đại-địa nhẫn đến trời phạm thiên bỗng chấn động
sáu cách (36). Phàm địa động có hai : đại động và tiểu động. Có tiếng
nhỏ, chỉ riêng nơi mặt đất chấn động, chỉ động một chiều, đây là tiểu
địa động. Có tiếng lớn, cả đất liền cùng núi biển sông rạch cây cối đều
động, động xoay nhiều chiều, lúc động có thể làm động cả tâm chúng sanh,
đây là đại địa động. Đức Phật ra đời có những lần đại địa động : Từ cung
trời Đâu-Suất giáng thần xuống nhơn gian, sơ sanh, xuất gia, thành đạo,
chuyển pháp luân, và nhập Niết-bàn. Giờ đây Như-Lai sắp nhập Niết-bàn
nên có điềm đại-địa-động như vậy.
Thiên-Long bát bộ (37) cả ḿnh rởn ốc, đồng
thanh buồn khóc mà nói kệ rằng :
Cúi đầu lạy Thế-Tôn
Chúng con đồng khuyến thỉnh,
Chúng con mà xa Phật
Thời không ai cứu hộ.
Đức Phật nhập Niết-bàn
Chúng con ch́m biển khổ
Khác nào nghé mất mẹ
Sầu lo rất buồn khổ,
Nghèo cùng không ai giúp
Cũng như người bịnh ngặt
Không lương y săn sóc
Tự ư ăn uống lầm
Chúng sanh bịnh phiền năo
Thường bị kiến-chấp hại
Xa ĺa đấng y-vương (38)
Uống ăn thuốc tà độc
Ngửa mong Phật Thế-Tôn
Chớ bỏ rơi chúng con.
Ví như mặt trời mọc
Quang minh rất sáng chói
Đă có thể tự soi
Cũng từ tất cả tối,
Phật phóng thần thông quang
Trừ khổ năo chúng sanh
Ở giữa các chúng hội
Ví như núi Tu-di (39)
Bạch Tjhế-Tôn ! Ví như quốc-vương sanh các
vương tử diện mạo xinh đẹp, Vua rất yêu mến dạy cho rành nghề văn nghiệp
vơ rồi sai người đem giết.
Ngày nay chúng con là con của Phật, nhờ Phật
dạy dổ có đủ chánh kiến, xin chớ bỏ con. Nếu bỏ chúng con thời chúng con
khác nào các vương tử kia. Ngửa mong đức Phật ở luôn nơi đời, chớ nhập
niết-bàn.
Bạch Thế-tôn ! Ví như có người học giỏi nơi
các bộ luận rồi lại sanh ḷng sợ đối với các bộ luận ấy, cũng thế, đức
Như-Lai thông đạt các pháp mà lại sợ các pháp. Nếu được đức Như-Lai ở
luôn nơi đời giảng pháp cam lồ cho chúng sanh được thấm nhuần đầy đủ,
thời các chúng sanh đây chẳng c̣n lại sợ phải bị sa vào địa ngục.
Bạch Thế-tôn ! Ví như có người mới vừa học
làm nghề, kế bị quan bắt giam vào ngục, có hỏi thăm hiện tại thế nào ?
Người ấy tất đáp : Nay tôi rất buồn khổ. Nếu người ấy được thả, thời
được an vui. Cũng thế, đức Thế-Tôn v́ chúng con mà tu các khổ hạnh, hiện
nay chúng con chưa được thoát khỏi sanh tử, thế sao đức Như-Lai đặng thọ
hưởng an vui.
Bạch Thế-Tôn ! Ví như y vương hiểu rành các
phương thuốc, đem phương bí truyền dạy riêng cho con ḿnh, mà khôngh dạy
cho các tṛ khác. Cũng thế, đức Như-Lai đem tạng pháp thậm thâm bí mật
dạy riêng cho Văn-Thù Sư-Lợi, mà chẳng thưong chẳng dạy cho chúng con.
Như ông thầy thuốc kia v́ ḷng c̣n riêng tư thân sơ, nên sự dạy không
b́nh đẳng rộng răi, chỉ dạy riêng cho con ḿnh môn bí-phương, mà không
truyền cho các tṛ khác. Đức Như-Lai trọn không có ḷng thân sơ tư vị,
tại sao chẳng dạy dổ chúng con. Ngửa mong đức Phật ở lâu nơi đời, chớ
nhập Niết-bàn.
Bạch đức Thế-Tôn ! Ví như những người già trẻ
bịnh khổ đi nơi đường hiểm rất khốn khó gian lao, có bực dị nhơn thấy
vậy xót thương bèn chỉ cho con đường tốt bằng thẳng. Chúng con cũng như
vậy. Người trẻ dụ cho những kẻ chưa tăng trưởng pháp thân, người già dụ
cho những kẻ nặng phiền năo, bịnh khổ dụ cho sanh tử, đường hiểm nạn dụ
cho tam giới. Cúi xin đức Như-Lai chỉ dẫn con đường chơn chánh giải
thoát cho chúng con, ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết-bàn.”
Đức Thế-Tôn bảo các Tỳ-kheo :” Các thầy đừng
ưu sầu khóc kể như hàng trời người phàm phu kia.
Các thầy phải siêng năng tinh tấn giữ vững
chánh niệm”.
Nghe đức Phật phán như vậy, hàng trời người
bát bộ liền nín khóc.
Đức Thế-Tôn v́ đại chúng mà nói kệ rằng :
Đại chúng phải sáng suốt
Chẳng nên quá sầu khổ.
Chư Phật đều vậy cả
V́ thế nên im lặng,
Thích nơi hạnh tinh tấn
Ǵn ḷng giữ chánh niệm
Xa ĺa các điều quấy
Hớn hở được an vui.
Lại nầy các thầy Tỳ-kheo ! Nếu có chỗ nào
nghi ngờ đều phải bạch hỏi. Ở trong những pháp không,bất không, thừơng,
vô thường, khổ, phi khổ, y, phi y, khứ, bất khứ, quy, phi quy, hằng, phi
hằng, đoạn, phi đoạn, chúng sanh, phi chúng sanh, hữu, vô hữu, thiệt,
bất thiệt, chơn, bất chơn, diệt, bất diệt, mật, bất mật, nhị, bất nhị,
v.v… nếu c̣n nghi ngờ nay nên bạch hỏi, Như-Lai sẽ giải quyết cho.
Như-Lai trứơc nói pháp cam-lộ cho các thầy rồi, sau mới nhập Niết-bàn.
Nầy các thầy Tỳ-kheo ! Phật ra đời là khó,
thân người khó được, gặp Phật sanh tín- tâm, việc đây cũng khó, nhẫn sự
khó nhẫn lại là khó hơn, đầy đủ giới hạnh chứng quả A-La-Hán (40) cũng
là việc khó. Như t́m cát vàng cùng hoa ưu-đàm-bát-la.
Các thầy khỏi bát nạn được thân người là sự
khó, nay gặp Như-Lai chẳng nên để luống uổng. Ngày xưa, Như-Lai tu nhiều
hạnh khổ, nay được phương tiện vô thượng như thế, trong vô lượng kiếp v́
các thầy mà xả thí thân thịt tay chơn đầu mắt tủy năo. Ví thế các thầy
chẳng nên phóng dật.
Nầy các thầy Tỳ-kheo ! Thành báu chánh pháp
trang nghiêm, đầy đủ các thứ công đức trân bảo, giới, định, và trí huệ
làm tường thành và hào thành. Nay các thầy gặp được thành báu Phật pháp,
chẳng nên
lượm lấy những vật hư ngụy. Ví như nhà thương
măi gặp thành chơn bảo, lượm lấy ngói sạn rồi trở về nhà. Các thầy chớ
để tâm hạ liệt, cam đủ nơi chút ít pháp mọn. Các thầy dầu xuất gia mà
không ham mộ pháp đại thừa. Thân các thầy dầu được đắp cà sa mà tâm chưa
được nhuộm pháp đại thừa thanh tịnh. Các thầy dầu khất thực ở nhiều nơi
mà chưa từng khất pháp-thực đại- thừa. Các thầy dầu cạo bỏ râu tóc mà
chưa v́ chánh pháp cạo sạch kiết-sử.
Nầy các thầy Tỳ-kheo ! Nay Như-Lai bảo thiệt
các thầy, hiện nay Như-Lai đại chúng ḥa hiệp pháp tánh chơn thiệt chẳng
điên đảo. V́ thế các thầy phải nhiếp tâm dơng mănh tinh tấn xô dẹp các
kiết sử. Khi mặt trời Phật huệ lặn mất rồi, các thầy sẽ bị vô minh trùm
đậy.
Nầy các thầy ! Ví như những cỏ thuốc trên mặt
đất để chúng sanh dùng, Phật pháp cũng vậy, sanh ra pháp vị cam lồ diệu
thiện làm thuốc hay chữa bịnh phiền năo của chúng sanh. Nay Như-Lai sẽ
làm cho tất cả chúng sanh cùng bốn bộ chúng đều được an trụ trong tạng
bí mật. Cũng như chữ y, nếu ba điểm đứng chung hàng, hoặc đứng ngay,
hoặc khác nhau đều không thành chữ y. Ba điểm phải như ba con mắt trên
mặt Đại-Tự-Tại-Thiên mới thành chữ y. Như-Lai cũng thế, pháp giải thoát
không phải Niết- bàn, thân Như-Lai không phải Niết-bàn, ma-ha-bát-nhă
cũng không phải Niết-bàn, ba pháp đều khác nhau cũng không phải
Niết-bàn. Như-Lai này an trụ ba pháp ấy, v́ chúng sanh mà nói là nhập
Niết-bàn, như chữ y trong đời.”
Các Tỳ-kheo nghe đức Phật Thế-Tôn nói quyết
định sẽ nhập Niết-bàn, ai nấy đều lo rầu, cả ḿnh rởn ốc, lệ tràn đầy
mắt, cúi lạy chơn Phật mà bạch rằng :’ Đức Thế-Tôn khéo dạy vô thường,
khổ, không, vô-ngă.
Bạch Thế-Tôn ! Ví như các dấu chưn của muông
thú, dấu chưn voi là hơn cả. Vô thường quán cũng lại như vậy là pháp
quán tưởng bực nhứt trong các pháp quán tưởng. Nếu ai tinh cần tu tập
pháp nầy, thời có thể trừ tất cả sự ái nhiễm cơi dục, cơi sắc và cơi vô
sắc, trừ vô minh kiêu mạn và vô thường tưởng. Đức Như-Lai nếu đă ĺa hẳn
vô thường tưởng thời nay chẳng nên nhập Niết-bàn. C̣n nếu chẳng ĺa hẳn,
cớ sao lại dạy rằng tu vô thường quán trừ được sự ái nhiễm ba cơi, vô
minh, kiêu mạn và vô thường tưởng.
Bạch Thế-Tôn ! Ví như đế vương biết mạng sắp
chết, bèn ân xá ngục tù trong thiên hạ rồi sau mới băng. Ngày nay đức
Như-Lai cũng nên như vậy, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi lao ngục
vô tri vô minh rồi sẽ nhập Niết-bàn. Hiện tại chúng con đều chưa được
giải thoát, sao đức Thế-Tôn lại vất bỏ mà muốn nhập Niết-bàn ?
Bạch Thế-Tôn ! Như người say rượu mê loạn nói
xàm, không c̣n biết thân sơ, mẹ con, chị em,nằm vùi trong phẩn nhơ, nhờ
lương y cho uống thuốc, ói sạch rượu ra mới được tỉnh lại, ḷng rất hổ
thẹn tự răn trách lấy ḿnh, rượu là thứ hại, là cội gốc của các tội lỗi,
nếu chừa được rượu thời khỏi tội lỗi. Chúng con cũng thế, từ nhiều đời
đến nay luân chuyển sanh tử, t́nh sắc làm say mê tham đắm trong ngũ dục,
không phải mẹ, tưởng là mẹ, không phải con, chị, em, mà tưởng là con,
chị, em, không phải chúng sanh mà tưởng là chúng sanh, v́ cớ ấy nên luân
chuyển chịu khổ sanh tử, như người say kia nằm trong phẩn nhơ. Nay đức
Như-Lai nên ban pháp dược cho chúng con uống để ói rượu độc phiền năo,
chúng con c̣n chưa được tỉnh ngộ, sao đức Như-Lai lại vất bỏ mà muốn
nhập Niết- bàn.
Bạch Thế-Tôn ! Không có cớ ǵ khen cây chuối
là cứng chắc được. Chúng sanh cũng thế, không co cớ ǵ khen ngă, nhơn,
chúng sanh, thọ mạng, dưỡng- dục, tri- kiến, tác-giả, thọ-giả là chơn
thiệt được. Chúng con tu vô ngă quán cũng như vậy.
Bạch Thế-Tôn ! V́ như bă xác không c̣n dùng
được, bông thất diệp không có mùi thơm, cũng vậy, thân thể của người
không ngă không chủ. Chúng con thường tu tập pháp quán tưởng vô ngă như
vậy.
Như đức Phật từng dạy tất cả các pháp không
ngă và không ngă sở, các Tỳ-kheo phải tu tập. Tu như đây thời trừ ngă
mạn, rời ngă mạn thời chứng Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn ! Không bao giờ có
dấu chim bay
nơi hư không. Người hay tu tập pháp quán
vô-ngă không bao giờ có các kiến-chấp”.
Đức Phật khen các Tỳ-kheo : Lành thay ! Lành
thay ! Các thầy khéo hay tu tập pháp quán vô- ngă.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật : Bạch Thế-T6n ! Chẳng
những chúng con tu pháp quán vô-ngă tưởng, mà chúng con cũng tu tập các
pháp quán khác như : khổ, vô thường.
Bạch Thế-Tôn ! Như nguời say, tâm trí mê loạn
thấy nhà cửa cây cỏ núi sông thảy đều xoay lộn.
Ngươiø không tu các pháp quán khổ, vô thường,
vô ngă thời chẳng gọi là bực Thánh, người nầy nhiều phóng dật trôi lăn
trong ṿng sanh tử. V́ thế nên các con khéo tu tập các quán ấy”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo :” Lóng nghe ! Lóng
nghe ! Vừa rồi các thầy tŕnh bày ví dụ người say đó, các thầy chỉ biết
danh tự mà chưa hiểu thấu “thật nghĩa”. Thế nào là “thật nghĩa” ? Như
ngườ say kia thấy nhà cửa núi sông vốn thiệt không xoay lộn, mà tưởng
cho là xoay lộn. Cũng vậy, bị những phiền năo vô minh trùm đậy nên chúng
sanh khởi tâm điên đảo : ngă cho là vô ngă, thường cho là vô thường,
tịnh cho là bất tịnh, lạc cho là khổ. V́ mắc phải phiền năo trùm che,
nên dầu nghĩ tưởng như vậy mà không thấu rơ thật nghĩa”, như người say
kia đối với sự không xoay lộn mà tưởng cho là xoay lộn.
“ Ngă” chính là thật nghĩa của “Phật”,
“Thường” chính là thật nghĩa của”Pháp-Thân”, “Lạc” là thật nghĩa của
“Niết-bàn”, “Tịnh” là thật nghĩa của “Pháp”.
Các thầy sao lại nói người có ngă thời
kiêu-mạn cống-cao lưu chuyển sanh tử. Nếu các thầy nói rằng, tôi cũng tu
tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngă. Ba môn tu tập này không có thiệt
nghĩa”.
Như-Lai sẽ nói ba pháp tu đặc thắng. `
Khổ cho là vui, vui cho là khổ, là pháp điên
đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, là pháp điên đảo.
Vô-ngă cho là ngă, ngă cho là vô ngă, là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là
tịnh, tịnh cho là bất tịnh, là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như
vậy thời là người chẳng rơ pháp tu chơn chánh.
Các thầy ở trong pháp khổ tướng cho là vui, ở
trong vô thường tưởng cho là thường, ở trong vô-ngă tưởng cho là ngă, ở
trong bất tịnh tưởng cho là tịnh.
Thế gian cũng có thường, lạc, ngă, tịnh. Xuất
thế cũng co thường, lạc, ngă tịnh. Pháp thế gian có văn tự mà không thật
nghĩa. Xuất thế có văn tự có thật nghĩa. Tại sao vậy ? V́ pháp thế gian
có bốn sự điên đảo nên chẳng biết thật nghĩa. Lại có tưởng điên đảo, tâm
điên đảo, kiến điên đảo. V́ có ba sự điên đảo nầy nên người thế gian ở
trong lạc thấy là khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngă thấy vô
ngă, trong tịnh thấy bất tịnh, đây gọi là điên đảo. V́ điên đảo nên thế
gian biết văn tự mà chẳng biết thật nghĩa.
Ǵ là thật nghĩa? Vô ngă gọi là sanh tử, c̣n
ngă gọi là Như-Lai. Vô thường là Thanh-văn Duyên- giác, c̣n thường là
Như-Lai pháp thân. Khổ là tất cả ngoại đạo, c̣n lạc là Niết-bàn. Bất
tịnh là pháp hữu vi, c̣n tịnh là chánh pháp của chư Phật và Bồ-Tát. Đây
gọi là chẳng điên đảo. V́ chẳng điên đảo nên biết văn tự biết thật
nghĩa. Nếu muốn ĺa khỏi bốn sự điên đảo thời phải rơ biết thường, lạc,
ngă, tịnh như vậy.
Các Tỳ-kheo bạch Phật :”Bạch Thế-Tôn ! Như
lời đức Thế-Tôn dạy rằng dứt ĺa bốn sự điên đảo ấy thời được rơ biết
thường, lạc, ngă, tịnh. Nay đức Như-Lai trọn không có bốn sự điên đảo
thời đă rơ biết thường, lạc, ngă, tịnh. Nếu đă rơ biết thường, lạc, ngă,
tịnh sao đức Như-Lai không ở đời một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy dổ chúng
con, cho chúng con khỏi ĺa bốn sự điên đảo, mà lại vất bỏ chúng con
muốn nhập Niết-bàn. Nếu được đức Như-Lai đoái thương dạy bảo, chúng con
sẽ hết ḷng tuân lời tu tập. Nếu đức Như-Lai nhập Niết-bàn, chúng con
không thể mang thân độc hại nầy mà tu phạm hạnh. Chúng con cũng sẽ nhập
Niết-bàn theo Phật.”
Phật bảo các Tỳ-kheo :” Các thầy chớ nói như
vậy. Bao nhiêu vô thượng chánh pháp của Phật, Như-Lai đều đem giao phó
cho Ma-Ha-Ca-Diếp. Ma-Ha-Ca-Diếp sẽ là chổ y-chỉ hoàn toàn cho các thầy,
cũng như đức Như-Lai là chổ y-chỉ của tất cả chúng sanh.
Ví như quốc vương lúc đi tuần du, đem quốc sự
giao phó cả cho đại thần. Cũng vậy, Như-Lai đem chánh pháp giao phó cho
Ma-Ha-Ca-Diếp.
Các thầy nên biết rằng chỗ tu pháp khỗ vô
thường trước kia chẳng phải là chơn thật. Ví như mùa xuân, có một nhóm
người chơi thuyền trong hồ lớn làm rớt ch́m ngọc lưu ly.Nhóm người ấy
,liền cùng nhau hụp lặn t́m ngọc, bóc nhằm ḥn sơi viên đá, bụng mừng
cho là ngọc, đến lúc đem ra khỏi nước mới rơ là không phải. Lúc ấy ngọc
lưu ly vẫn ở dưới nước, do thế lực của ngọc mà nước hồ đều đứng trong.
Bấy giờ nhóm người ấy mới nh́n thấy viên ngọc. Có một người trí t́m cách
khéo chẫm răi lặn xuống t́m vớt được ngọc.
Các thầy chớ nên cho sự tu tập pháp quán vô
thường, khổ, vô ngă, bất tịnh như vậy là thật nghĩa
.Như nhóm người kia lặn xuống nước bốc nhằm
sạn đá mà cho là ngọc. Các thầy phải khôn khéo nơi nơi chỗ chỗ .luôn tu
pháp quán ngă, thường, lạc, tịnh. Lại cần nên biết tướng mạo tu tập bốn
pháp trước kia đều là điên đảo. Muốn được chơn thiệt tu các pháp quán,
tức là quán ngă, thường, lạc, tịnh thời phải như người trí khéo vớt được
ngọc kia.
Các Tỳ-kheo bạch Phật :” Bạch Thế-Tôn ! Ngày
trước đức Phật dạy rằng các pháp vô ngă, các ông phải tu học. Tu học
pháp vô ngă sẽ ĺa sự chấp ngă, ĺa chấp ngă thời ĺa kiêu mạn, ĺa kiêu
mạn, thời chứng Niết-bàn. Nghĩa ấy thế nào ?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo : “ Lành thay ! Lành
thay ! Nay các thầy có thể bạch hỏi nghĩa ấy để tự dứt chỗ nghi ngờ.
Nầy các thầy ! Ví như quốc vương kém sáng
suốt, tin dùng một y sư vụng về, tánh t́nh lại cao ngạo, Phàm trị bịnh
ǵ cũng thuần dùng sửa để làm thuốc cả , thêm nỗi chẳng rơ căn do của
bịnh, dầu biết dùng sửa mà chẳng hiểu rành, chẳng biện biệt sửa tốt xấu,
lành, không lành. Một hôm, từ phương xa lại một minh y thông cả tám
nghề, rành các phương thuốc, trị bịnh rất giỏi. Cựu-y v́ sẵn tánh
cống-cao khinh mạn nên không đếm xỉa tới. Minh y thấy vậy, bèn hạ ḿnh
thỉnh cựu-y làm thầy, nhơn đó được vào hầu quốc vương. Minh y tŕnh bày
lên quốc vương các phương thuốc và những nghệ thuật khác. Bấy giờ quốc
vương tỉnh ngộ, xét biết cựu y là hạng vụng về cao ngạo, liền biếm truất
đi, rồi trọng dụng minh y. Minh y mới yêu cầu quốc vương cấm dân chúng
uống thuốc sửa của cựu-y, v́ thuốc ấy độc hại, làm thương tổn người
bịnh, quốc vương chuẩn lời, ra lệnh cấm hẳn, nếu ai dùng sửa để trị bịnh
sẽ bị tử h́nh. Minh y cứ theo phương dược chế các thứ thuốc, phàm dân
chúng có bịnh ǵ đều trị lành cả.
Ít lúc sau, quốc vương phải bịnh nặng, truyền
vời minh y điều trị. Sau khi khám bịnh, biết rằng quốc vương phải dùng
thuốc sửa, minh y liền tâu rằng :” Ngày trước tôi yêu cầu cấm dùng sữa
làm thuốc, đó là đại vọng ngữ. Nếu uống thuốc sữa rất có thể trị được
bịnh. Hiện nhà vua đang phải bịnh nóng, chính nên dùng sữa”.
Vua băo :” Có lẽ ông điên cuồng hay bị bịnh
loạn óc rồi, mới nói rằng uống sữa trị được bịnh của ta. Cựu-y dùng sửa,
ông cho là độc, bảo ta biếm truất và cấm hẳn, nay trở lại nói sửa là tốt
hay trị được bịnh.
Ông muốn khi dối ta ư ? Cứ theo lời ông nói
thời cựu-y có thể hơn ông rồi”.
Minh y tâu : “ Thưa Đại-Vương ! Như mối ăn gỗ
ngẫu nhiên thành chữ, con mối nầy tự nó không biết là chữ hay không phải
chữ. Ngừơi trí xem thấy trọn không bao giờ tuyên xướng rằng con mối biết
chữ và cũng chẳng lấy làm lạ.
Cũng vậy, cựu-y không hiểu căn bịnh, bịnh ǵ
cũng dùng thuần sữa để trị, lại không biết sữa là tốt hay xấu, là lành
hay không lành”
Vua nói :” Xin ông giải thích cho ta rơ”
Minh y tâu :” Thuốc sữa kia cũng là độc hại,
cũng là cam lộ. Thế nào là thuốc sữa cam lộ ? Nếu là ḅ cái không ăn bă
hèm trấu cặn, con nghé của nó rất điều thiện, chỗ thả chăn không phải
cao nguyên cũng không quá thấp ướt, nước uống trong sạch, chẳng cho chạy
nhảy, chẳng cho chung bầy với ḅ đực, cho nó ăn uống đi đứng vừa chừng
phải cách. Sửa của ḅ nầy trị được nhiều bịnh gọi là cam lộ. Ngoài ra
các thứ sửa khác thời gọi là độc hại.
Nghe minh y giảng giải, vua khen rằng :” Hay
lắm ! Hay lắm ! Nay ta mới rơ thế nào là sửa tốt, xấu, lành, cùng chẳng
lành “.
Sau khi được uống thuốc sửa của minh y, vua
được lành mạnh, vua liền truyền lịnh cho dân chúng được dùng sửa để trị
bịnh. Dân chúng không vừa ḷng với thái độ của nhà vua, nên hội đến
hoàng cung để cật vấn.
Quốc vương bảo dân chúng :” Mọi người chẳng
nên oán trách nơi ta, về vấn đề thuốc sữa nên uống hay không nên uống
đều là ư của y sư cả không phải lỗi của ta”.
Dân chúng vui ḷng tuân lời minh y dùng thuốc
sữa tốt trị bịnh, được nhiều kết quả tốt.
Này các Tỳ-kheo ! Các thầy nên biết đức
Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh- Túc, Thiện-Thệ Thế-Gian-Giải
Vô-Thượng-Sĩ Điều-Ngự Trượng-Phu Thiên-Nhơn-Sư Phật Thế-Tôn cũng lạI như
vậy. Là bực đại y vương hiện ra nơi đời hàng phục tất cả tà y ngọai đạo.
Giữa dại chúng xướng rằng ta là y vương, v́ hàng phục ngọai đạo nên nói
không ngă, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giă. Các thầy nên
biết ngoại đạo mà nói là ngă đó, như mối ăn cây ngẫu nhiên thành chữ
thôi. V́ thế nên trong Phật pháp đức Như-Lai nói là vô ngă để điều phục
chúng sanh, và v́ là lúc phải n ói là vô ngă. Rồi cũng v́ có nhơn duyên
nên cũng nói có ngă. Như minh y kia biết rơ nơi sữa phải thuốc, hay
không phải thuốc. Chẳng phải như chỗ chấp ngô ngă của phàm phu. Phàm phu
chấp ngă lớn như ngón tay cái, hoặc như hột cải, hoặc như vi trần. Ngă
của Như-Lai nói đều không phải như vậy, v́ thế nên nói các pháp không
ngă, mà chính thiệt chẳng phải là không ngă. Thế nào là thiệt ? Nếu Pháp
là thiệt, là chơn, là thường, là chủ, là sở-y, tánh không biến đổi, đó
gọi là nga.ơ Như minh y kia hiểu rành thuốc sửa. Cũng vậy, Như-Lai v́
chúng sanh mà nói trong các pháp chơn thiệt có ngă.
Bốn bộ đệ tử của Như-Lai đều phải tu pháp
quán chơn ngă như vậy.
THÍCH-NGHĨA
(36) –SÁU CÁCH CHẤN ĐỘNG : 3 CÁCH VỀ TIẾNG : 1. Tiếng nổ, 2. Tiếng
loài hữu t́nh kêu la, 3. tiếng loài vô t́nh khua chạm, 3 cách về h́nh :
1 rung động qua lại, 2. vọt lên khỏi chỗ cũ, 3. đang nằm bỗng đứng dậy
dựng lên.
(37)- TÁM BỘ THIÊN THẦN ; Thiên thần, Long thần, Dạ xoa thần,
Càn-thát-bà thần, A-Tu- La-thần, Ca-Lâu-La thần, Khẩn-Na-La thần ,
Ma-hầu-la thần.
(38) Y-VƯƠNG : Đức Phật là ông Vua thuốc pháp, hay chữa lành tâm bệnh
phiền năo cứu chúng sanh thoát khỏi tất cả khổ thống, sanh tử, để được
an vui Niết-bàn thường lạc, ngă, tịnh.
(39)-TU-DI SƠN (Suméru) : Quả núi to nhất ở thế gian, ở giữa biển
Hương-Thủy, toàn bằng bốn chất báu Vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Đảơnh
núi là cơi trời Đao-Lợi, thuộc quyền Đế-Thích thống trị. Giữa núi là Cơi
Tứ-Vương, do 4 vị Thiên-Vương cai quản.
(40)- A-La-Hán : Quả thứ tư trong bốn quả thánh xuất thế thuộc tiểu
thừa : Tu-Đà-Hoàn (Dự lưu) bực nầy thấy lư tứ đế, dứt ngă chấp, phân
biệt hết kiến hoặc, ra khỏi phàm phu, dự vào hàng Thánh xuất thế.
Tư-Đà-Hàm (Nhứt-Lai) bực Thánh nầy đă hết kiến hoặc dứt thêm sáu phẩm
trong chín phẩm tư-hoặc cơi dục, c̣n một lần sanh trở lại cơi dục mới
thoát hẳn.
A-Na-Hàm (Bất-Lai) bực Thánh đă hết kiến –hoặc và dứt cả chín phẩm
tư-hoặc cơi dục, không c̣n sanh trở lại cơi dục nữa.
A-La-Hán (Vô-sanh Sát-tặc Ứng-cúng) bực Thánh cao nhứt trong hàng
Thanh-văn Tiểu- thừa, đă dứt sạch kiến-hoặc và tư –hoặc tam giới cùng
câu-sanh ngă-chấp nên gọi là Sát- Tặc. Đă khỏi hẳn sanh tử luân hồi
trong lục đạo, nên hiệu là Vô-sanh, là bực đáng thọ sự cúng dường của
Nhơn- Thiên, niên hiệu là Ứng-Cúng.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|