Tác giả |
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 1 of 5: Đă gửi: 15 December 2004 lúc 11:21am | Đă lưu IP
|
|
|
Trương Thái Du
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
và sự sa lầy của sử học Việt – Trung hàng ngàn năm nay
Trong bài “Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn” tôi từng đề cặp sơ sài đến nghĩa của từ Giao Chỉ, và suy ra vị trí của Giao Chỉ ở từng thời điểm lịch sử. Từ Giao Chỉ có ư nghĩa rất lớn lao với lịch sử Việt Nam. Mọi tồn nghi sẽ được hóa giải cặn kẽ nếu làm sáng tỏ được Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là ǵ.
Tóm tắt nội dung: tác giả đă dùng những kiến thức thiên văn của một người từng thực hành thiên văn trong nghề đi biển để giải mă các yếu tố thiên văn trong cổ sử và rút ra kết luận: a) Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. b) Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc hôm nay). Giao Chỉ cũng c̣n gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. c) Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, Giao Chỉ thời Hán trở về sau là đồng bằng sông Hồng (bắc bộ Việt Nam). d) Đóng khung bởi kiến thức thiên văn thời Tần – Hán, Nhật Nam nghĩa là vùng đất phía nam mặt trời, là bán cầu nam, Cửu Chân là Chân Trời, Xích Đạo.
1. Nam Giao, một trạm quan trắc thiên văn cổ xưa
Trong Thượng Thư, quyển sử cổ nhất của Trung Hoa, chương Ngu thư, mục Nghiêu điển đă có từ Nam Giao: “Thân mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao, b́nh trật nam ngoa, kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chính trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách”. Nghĩa là: “(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông”. Nam Giao nằm trong một hệ thống địa danh gồm: Dương Cốc (phía đông), Muội Cốc (phía tây), Sóc Phương (phía bắc), Nam Giao (phía nam). Từ 4 nơi này, các vị quan mà vua Nghiêu phái đến sẽ quan sát qui luật chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các v́ sao rồi tổng hợp các qui luật ấy thành lịch phù hợp với sự vận hành của thiên nhiên nhằm áp dụng thẳng vào đời sống nhân dân. Bốn địa danh trên chính là bốn trạm quan trắc thiên văn cổ xưa của loài người.
Khảo cổ hiện đại ở Trung Quốc vẫn chưa thể xác định kinh đô Nghiêu – Thuấn ở đâu, dù vẫn biết nó không nằm ngoài trung lưu Hoàng Hà (thuộc ba tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Tây). Bốn trạm thiên văn sẽ nằm về bốn hướng mà kinh đô Nghiêu – Thuấn là trung tâm. Trong một bài toán thiên văn, sai số đo đạc (ắt phải có) càng ít ảnh hưởng đến kết quả nếu khoảng cách các trạm càng xa nhau. Tuy nhiên khi các trạm quá xa th́ mối liên hệ giữa các trạm lại gặp nhiều trở ngại. Theo tôi, khoảng cách giữa hai trạm Đông – Tây hoặc Nam – Bắc sẽ cỡ 10 kinh – vĩ độ là tối đa. Một vĩ độ trên mặt đất dài hơn 111 km. Do đó Nam Giao không thể xa hơn kinh đô Nghiêu – Thuấn 500 km, và lại càng không thể vượt khỏi ḍng Trường Giang rộng lớn hung dữ phía nam.
Tôi xin tŕnh bày ở đây một bài toán thiên văn đơn giản nhất để làm minh họa: Bằng các phép đo mặt trời cực kỳ thô sơ người ta có thể suy ra vĩ độ tại một vị trí bất kỳ trên trái đất. Biết vĩ độ hai điểm nào đó sẽ tính ra khoảng cách gần đúng giữa 2 điểm ấy theo đường chim bay.
Xác định vĩ độ của Hà Nội: Chọn một trong 4 ngày Xuân phân, Hạ chí, Thu phân hoặc Đông chí. Dựng một cây cột thẳng vuông góc với mặt đất. Giữa trưa, khi bóng cột đổ dài đúng hướng Bắc – Nam ta đánh dấu đầu bóng cột trên mặt đất. Dễ dàng tính được góc kẹp giữa cột và cạnh huyền của tam giác vuông tạo bởi cột, bóng cột và cạnh huyền (là cạnh ảo). Vĩ độ V của Hà Nội sẽ là:
a. Với ngày Xuân phân và Thu phân: V = Giá trị góc kẹp
b. Với ngày Đông chí: V = Giá trị góc kẹp – 23 độ 27 giây.
c. Với ngày Hạ chí: V = 23 độ 27 giây – Giá trị góc kẹp
Dù t́m V ở ngày nào, nó luôn bằng 21 độ. Với cách làm tương tự, ta tính ra vĩ độ Sài G̣n là 10 độ 30 giây. Khoảng cách theo đường chim bay Hà Nội và Sài G̣n là: D = (21 độ - 10 độ 30 giây)x 111km = 1.165,5 km.
Ở trường hợp Hà Nội và Sài G̣n, chênh lệch kinh độ nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả gần đúng. Khi kinh độ chênh lệch lớn người ta phải dùng thêm vài bài toán phụ trợ khác nữa.
Tóm lại Nam Giao chính là một địa danh. Sau này kiến thức thiên văn của con người sâu sắc hơn, các dụng cụ quan trắc tinh tường hơn th́ không cần thiết đi quá xa để đo đạc. Đài Nam Giao có thể dựng ở ngay kinh đô vương quốc. Vua dễ dàng cúng mặt trời trên đài, lần hồi Đài Nam Giao đă biến thành Đàn Nam Giao cho nghi thức tế trời. Vai tṛ trạm thiên văn của Nam Giao bị che khuất bởi hành vi tín ngưỡng. Hơn nữa chỉ cần một máy đo cao độ mặt trời, cùng với việc tra các bảng tính sẵn trong sách vở, mọi bài toán thiên văn phức tạp nhất đều có thể tính ra.
2. Địa danh Nam Giao góp phần sinh ra khái niệm Giao Chỉ
Nam Giao sẽ đẻ ra khái niệm Giao Chỉ. Thật vậy, Giao Chỉ với chữ Chỉ có bộ phụ mang nghĩa là vùng đất, khu vực. Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, vùng biên cương vương triều ở về phía nam của địa danh Nam Giao. Chữ Chỉ ngoài bộ phụ, c̣n có một chữ Chỉ nữa đồng âm nhưng bộ Túc (bàn chân). Sự nhầm lẫn giữa hai chữ Chỉ này góp phần khiến cho nhiều sử gia từ Đông Hán trở về sau có rất nhiều cách giải nghĩa Giao Chỉ. Trần Thư, một bộ sử do Diêu Tư Liêm viết năm 636 đă lần đầu tiên ghi thêm một chữ Chỉ nữa với bộ Thổ (đất) trong từ Giao Chỉ. Cổ văn Trung Hoa có qui tắc “đồng âm thông giả”, tức những chữ đồng âm đều có thể mượn và sử dụng lẫn lộn. Khi t́m nghĩa một chữ phải vận dụng ngữ cảnh đang xét chứ không thể máy móc giữ nghĩa chết của chữ ấy trong những tài liệu khác ít liên hệ.
Thượng Thư, tương truyền do Khổng Tử san định, là quyển sách đầu tiên nói đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: “Phía nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc, đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua 3 lần phiên dịch đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ”. Thượng thư c̣n được giải thích là sách trời. Đây chính là lư lẽ của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà thời Lư:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Người Việt không c̣n lưu được quyển sử nào vào thời Lư, song chỉ qua bài thơ trên cũng thấy rơ quan niệm họ cho rằng ḿnh là hậu duệ của Việt Thường quốc phía nam Giao Chỉ. Bởi Giao Chỉ không hề được Thượng thư xem là một quốc gia. Chắc chắn Lư Thường Kiệt hiểu Giao Chỉ đơn giản là một khái niệm nên mới cho lưu truyền bài thơ đó nhằm khích lệ tinh thần vệ quốc của quân dân.
Từ Nghiêu – Thuấn đến đầu triều Chu lănh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt qua ḍng Trường Giang. Thiên Vũ Cống của Thượng Thư nhắc đến cương vực vương quốc gồm cả bờ nam Trường Giang, nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nội dung của Vũ Cống bị điều chỉnh rất nhiều và thậm chí có thể được viết vào thời Chiến Quốc chứ không thể xa hơn. Do đó không cần vị trí chính xác của Nam Giao vẫn biết được khái niệm Giao Chỉ mô tả vùng đất tiếp giáp Nam Giao, nằm bên bờ bắc trung lưu Trường Giang. Giả dụ có địa danh Giao Chỉ, từ Đông Chu trở đi, việc nước Sở h́nh thành và bành trướng về phương nam ắt phải xuyên qua Giao Chỉ và địa danh Giao Chỉ phải được nhắc đến không dưới một lần trong rất nhiều sách sử có nói về nước Sở.
Chuỗi luận này sẽ đưa ra một câu hỏi hết sức bất ngờ: “Phải chăng đất Sở, mảnh đất mà Chu Thành Vương phong cho Dịch Hùng chính là một phần của vùng Giao Chỉ thời ấy?” Đoạn đầu An Nam Chí Lược, Lê Tắc có dẫn quyển Hán Quan Nghi của Ứng Thiện chép rằng trước tiên Trung Quốc mở mang từ Sóc (phương bắc) rồi tiến sang phương nam lấy làm Cơ Chỉ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên cũng viết Giao Chỉ là Cơ Chỉ (cơ sở) mà Hán Vũ Đế mở mang cho con cháu (sẽ dẫn kỹ lưỡng ở bên dưới). Cơ Chỉ đồng nghĩa với Cơ Sở. Chữ Sở trong từ Cơ Sở chỉ khác tên nước Sở ở bộ Thạch nằm bên trái. Theo qui tắc “đồng âm thông giả” th́ đất Sở mà Thành Vương phong cho Dịch Hùng chính là Cơ Sở của nhà Chu, là Cơ Chỉ của nhà Chu và là một phần Giao Chỉ (vùng đất phía nam đang khai phá) của vương triều Chu. Hùng Dịch đến Đan Dương lập quốc, nơi đó hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Nam.
Tại Nam man truyện trong Hậu Hán Thư, sau khi nhắc đến ghi chép về Việt Thường quốc ở Thượng Thư đại truyện, Phạm Việp nói tiếp: “Nhà Chu suy, đến lúc Sở xưng bá th́ Bách Việt triều cống Sở”. Lôgic ở đây là Việt Thường quốc nằm trong Bách Việt. Nước Sở c̣n được gọi là nước Kinh. Người Sở có ḍng máu Việt. Từ ngày Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng tiếm đoạt vương hiệu, Trung Quốc luôn coi nước Sở là man di. Không c̣n trong ṿng cương tỏa của triều đ́nh Đông Chu nữa, nước Sở bành trướng ra măi và có thời làm chủ các chư hầu phương đông. Đó là lư do khái niệm Giao Chỉ bị mất tích trong một thời gian rất dài. Và đó cũng là lư do sử sách Trung Quốc khuyết đi những mô tả chi tiết về Việt Thường quốc và nhiều vùng khác thuộc Bách Việt từ Xuân Thu đến cuối Chiến Quốc. Sử nước Sở, sử của man di không đáng gọi là chính sử để truyền bá nên hầu hết đă bị nhà Tần đốt hoặc thất truyền.
Khi Tần diệt Sở, nước Sở bị gộp vào Trung Nguyên, khái niệm Giao Chỉ không thấy xuất hiện. Sử Kư, Nam Việt úy Đà liệt truyện, viết: Năm 214 TCN quân Tần cướp Dương Việt đặt 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Quế Lâm và Nam Hải khá rơ ràng, duy Tượng Quận đă tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà hai ngàn năm nay người ta chưa rơ nó ở đâu. Cũng v́ nhà Tần quá ngắn ngủi, chiến tranh sau đó làm sách vở tiêu tán gần hết. An Nam chí lược của Lê Tắc bảo: “Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận”.
Một khi khái niệm Giao Chỉ bị xếp lại, hẳn nhiên phải có một khái niệm khác thay thế. Phải chăng đó là Tượng? Để mô tả thứ nào đó trừu tượng người ta hay dùng phép tượng trưng. Giai thoại “Thầy bói mù xem voi” đă mượn con voi nhằm nói về sự trừu tượng. Tôi chưa thể giải quyết thấu đáo vấn đề chữ Tượng như một khái niệm mới thay thế Giao Chỉ do không t́m được nhiều dẫn chứng thoả đáng. Tuy nhiên nếu tạm chấp nhận thời Tần Giao Chỉ là Tượng Quận, tiếp theo Tượng Quận là Nhật Nam sẽ hoàn toàn hợp lư, ít nhất là với tư duy ngôn ngữ trong giới hạn kiến thức địa lư xưa kia. Thậm chí chúng ta có thể bỏ qua chữ Tượng để đi đến từ Nhật Nam, như sự thay thế từ Giao Chỉ.
Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử kư viết: “Đất đai (nước Tần)… phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc”. Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật Nam ban đầu chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất nước Trung Quốc ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 giây, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rơ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn, mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. V́ vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên tử phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung Quốc đă biết trái đất h́nh tṛn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được quĩ đạo mặt trời (hoàng đạo) và suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào đó, muốn nh́n thấy mặt trời, muốn hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người phải làm nhà quay mặt về hướng bắc.
Tư Mă Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Theo đúng nghĩa th́ Nhật Nam xa lắm, vượt qua xích đạo và Nam Chí Tuyến, ở tận các đảo phía nam Indonesia, Papua New Guinea và Úc Châu hôm nay.
3. Sự lẫn lộn giữa khái niệm và địa danh
Nhà Tần bỏ khái niệm Giao Chỉ và dùng từ Tượng Quận. Nhà Hán nối tiếp nhà Tần, và cũng như trường hợp nước Sở trước kia, Nam Việt của Triệu Đà đă chặn cương thổ vương quốc Hán ở phía nam 93 năm. Nam Việt bị diệt, sự lẫn lộn trong việc dùng từ Giao Chỉ vừa là địa danh, vừa là khái niệm bắt đầu diễn ra. Điều này thể hiện khi họ đặt tên khu vực mới chiếm được năm 111 TCN. Họ dùng khái niệm Giao Chỉ để gọi chung cho 9 quận mới. Giao Chỉ bộ là tên gọi theo khái niệm chứ không hề có ư nghĩa hành chính v́ không có quan đứng đầu bộ. Trong ảnh hưởng của ngữ nghĩa cũ, họ bèn đặt tên khu vực đồng bằng sông Hồng là quận Giao Chỉ. Đây mới chính là địa danh, dù địa danh này mang tính khái niệm rất cao. Quận Giao Chỉ có quan trấn nhậm và là nơi liên giao phía nam nhà Hán với phương nam. Như vậy trải qua nhiều trăm năm bành trướng về phương nam của người Trung Quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển theo bước chân các đoàn quân đế quốc. Phải chăng đó là lư do để chữ Chỉ tồn tại thêm một dạng viết có bộ túc?
Rắc rối xuất hiện ở chỗ tại sao lại có Cửu Chân chen giữa Nhật Nam (khu vực mà người Hán chưa biết, chỉ đoán ṃ) và quận Giao Chỉ. Theo tôi Cửu Chân nghĩa là nơi ở của mặt Trời, đại khái là Xích Đạo vậy. Cửu là số chín, số chín tượng trưng cho Trời th́ khỏi phải bàn căi. Chữ Chân chắc chắn là gốc, giống như “quy chân” là trở về gốc. Chân cũng có thể mang nghĩa là Trọng, như từ Trọng Hạ (giữa mùa hạ) đă dẫn trong sách Thượng Thư ở trên. Dịch Cửu Chân qua tiếng Việt hiện đại th́ ư nghĩa sẽ sáng tỏ không ngờ: Chân Trời!
Khái niệm Giao Chỉ, với chữ Giao đă đi song song cùng chữ Nam hàng ngàn năm, đến đây đă hoàn thành nhiệm vụ. Người Hán tưởng rằng họ đă đến được Xích Đạo (Cửu Chân), cũng chẳng sai nhiều v́ từ ngày Xuân Phân đến Thu Phân, mặt trời gần như luôn ở trên đỉnh đầu cư dân vùng Thanh Hóa Việt Nam. Việc họ đoán bên kia chân trời (Cửu Chân) mặt trời chếch về phía bắc là hợp lư. Những người Trung Quốc đă đến Cửu Chân rừng thiêng nước độc xem ra khó có thể mang theo một chuyên gia thiên văn của triều đ́nh (chỉ quen với thư pḥng giữa kinh đô Hán). Dù sao ngữ nghĩa mới của từ Cửu Chân và Nhật Nam vẫn chỉ là khái niệm, thứ khái niệm sinh ra do ngành thiên văn học ngày càng chính xác hơn, thứ khái niệm cần phải có sau khi khái niệm Giao Chỉ đă hết tác dụng, đă biến thành địa danh.
Thiên văn học của người Trung Quốc thời đó cần thêm nhiều dữ kiện thực tế để xác tín lư thuyết. Mà muốn có thực tế th́ phải đợi, và quả là họ đă đợi hàng trăm năm đến ngày Mă Viện nam chinh. Khoảng trống ấy đă vô t́nh làm tan loăng tất cả ư nghĩa thiên văn trong tên gọi Cửu Chân và Nhật Nam, để rồi Cửu Chân và Nhật Nam măi măi mất đi tính khái niệm và đường hoàng trở thành địa danh trên bản đồ đại Hán.
Cột đồng Mă Viện dựng năm 43 ở Giao Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn. Cựu Đường Thư (của Lưu Hủ hoàn thành khoảng năm 924 đến 946) viết về vấn đề này rơ nhất trong thiên Địa Lư chí thứ 4: “Mă Viện đi qua Nhật Nam, qua Lâm Ấp, đến biên giới Tượng Lâm và Tây Đồ Di dựng hai cột đồng ghi công tích toàn thịnh của nhà Hán. Có vài chục người không thể về Hán (!?) bèn lưu lại dưới chân trụ đồng, đến thời Tùy đă thành hơn 300 nhà. Người Nam Man gọi họ là Mă Lưu Nhân”.
Có hai khả năng: Một là Lưu Hủ thực sự không biết mục đích Mă Viện dựng cột đồng là để đo cao độ mặt trời, lập bảng thiên văn và tính khoảng cách từ Tượng Lâm về kinh đô Hán. Hai là Lưu Hủ biết nhưng tuân thủ triệt để nguyên tắc bảo mật các bí quyết khoa học của triều đ́nh Trung Hoa, viết chỉ để cho người biết đọc. Trong công tác thiên văn thời Mă Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại , vừa bền vững nên chất liệu đồng đă được chọn. Muốn đo đầy đủ th́ phải cử người ở lại làm việc này, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
4. Hàng ngàn năm sa lầy của sử học Việt Nam và Trung Hoa
Thiết nghĩ không nên kể ra đây hàng lô hàng lốc những suy diễn của các sử gia Trung Hoa và Việt Nam về ư nghĩa sai lạc của các từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam từ thời Đông Hán đến hôm nay. Ai đó từng nói chân lư không bao giờ thuộc về đám đông ở trường hợp này rất đáng tham khảo. Tôi sẽ nêu nguyên nhân của tất cả các suy diễn ngây thơ ấy.
Sử Kư (hoàn thành khoảng thập kỷ 90, TK 1 TCN) không kể tên 9 quận phía nam nhà Hán mà Lộ Bác Đức lấy được năm 111 TCN, gồm Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Có thể Tư Mă Thiên chưa theo kịp các diễn biến thời sự. Chín cái tên ấy chỉ xuất hiện trong Hán Thư, một quyển sử ghi chép chuyện xảy ra từ năm 206 TCN đến năm 6 SCN của Ban Cố (sinh năm 32 – mất năm 92). Đến Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398 – 455), chép sự việc từ năm 25 đến 190, th́ bắt đầu có những suy diễn không căn cứ về địa danh Giao Chỉ.
Trung Quốc từ Ân – Thương vốn đă có chức quan Thái sử ghi chép các sự kiện diễn ra từ quá khứ đến hiện tại. Ta thấy thời của Tư Mă Thiên và Ban Cố, chức Thái sử vẫn kiêm thêm việc nghiên cứu thiên văn, lịch pháp. Chẳng hạn Tư Mă Thiên đă cùng Hồ Toại sửa lịch cũ thành Hán lịch. Sử Kư và Hán Thư luôn có những chương viết về thiên văn rành mạch và kê cứu rất nhiều hiện tượng thiên văn dọc năm tháng như Thiên Thạch (Tần Thủy Hoàng bản kỷ), điểm đen trên mặt trời (Ngũ hành chí, Hán Thư). Do đó việc các sử quan góp ư với vua cách đặt địa danh và khái niệm trên cơ sở hệ thống thiên văn học là hoàn toàn dễ hiểu. Họ chưa có tư liệu thực tế về Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam th́ đành vọng đoán bằng thiên văn.
Cũng từ Tư Mă Thiên và Ban Cố trở về sau thiên văn học Trung Quốc phát triển rất nhanh chóng. Ví như Đổng Trọng Thư tra trong giáp cốt văn mà tính được ngày rằm tháng hai năm Vơ Đinh thứ 29 có nguyệt thực. Con người hiện đại lần theo dương lịch th́ đúng là ngày 23 tháng 11 năm 1311 TCN có nguyệt thực thật. Kỷ Tây Hán, các nhà thiên văn chuyên nghiệp Trung Quốc cũng đă tính được chu kỳ sao Hỏa là 584,4 ngày, so với phương pháp thiên văn vũ trụ hiện đại là 583,921 ngày, sai số nhỏ đến nỗi không thể tưởng tượng! Hồn Nghi, một dụng cụ quan trắc thiên văn khá chính xác đă được chế tạo vào thời Hán Vũ Đế, nó thể hiện đầy đủ thiên kinh tuyến, quỹ đạo mặt trời, và thiên xích đạo. Đến Trương Hoành (78 – 139), thiên văn cổ đại Trung Quốc đă lên đến đỉnh cao nhân loại. Họ Trương chế ra Hồn Thiên Nghi biểu diễn sự vận hành của thiên thể, có ṿng hoàng đạo và thiên xích đạo tạo thành 1 góc 24 độ trong khi thực tế nó là 23 độ 27 giây (đây chính là số hiệu chỉnh vĩ độ Hà Nội trong bài toán thiên văn tôi đă đưa ra ở mục 1).
Do sự phức tạp và đồ sộ của những kiến thức thiên văn mới, Thái sử không c̣n đủ sức kiêm công việc quan trắc bầu trời nữa. Tôi đoán thiên văn đă tách ra thành một ngành riêng. Phạm Việp (398 – 455) tác giả Hậu Hán Thư có lẽ ít am hiểu thiên văn nên ông ta không rơ ngôn ngữ của các sử gia như Tư Mă Thiên, Ban Cố. Chính Phạm Việp đă mở ra phong trào suy diễn các khái niệm và địa danh để lớp lớp các nhà sử học Việt – Trung sau này “tận tín thư” đi theo. Trong Nam man truyện, Hậu Hán Thư, Phạm Việp viết: “Lễ kư xưng nam phương viết man điêu đề giao chỉ. Kỳ tục nam nữ đồng xuyên nhi dục, cố viết giao chỉ”. Tạm dịch: “Sách Lễ kư bảo người phương nam là man (di). Họ xăm trán, giao chân. Tục của họ là trai gái có thể tắm chung một khúc sông nên gọi là Giao Chỉ”. Cách giải thích của Phạm Việp vừa đầy suy diễn vừa cũ kỹ, ông ta chỉ biên tập lời Giả Quyên Chi ghi ở Hán Thư mà thôi: “Lạc Việt chi nhân phụ tử đồng xuyên chi dục (người Lạc Việt cha con thường tắm chung trên một khúc sông)”. Trong tinh thần Nho Giáo Trung Hoa, Phạm Việp chẳng hiểu làm sao mà cha con Lạc Việt có thể ḥa đồng như vậy, ông ta bèn thay bằng trai gái cho dễ chấp nhận. Dù sao vi phạm luật “Nam nữ thụ thụ bất thân” c̣n nhẹ hơn xâm hại Ngũ Luân!
Nếu nói mọi người đều lầm hết sẽ rất tùy tiện. Thỉnh thoảng trong các sách ra đời sau Hậu Hán Thư vẫn thấy từ Giao Chỉ được dùng như một khái niệm, trong ngữ nghĩa khởi thủy của nó, dù thời điểm ấy Giao Chỉ hiển nhiên đă là địa danh cố định. Lịch Đạo Nguyên viết trong Thủy Kinh Chú (hoàn thành năm 515): “…thời hựu kiến Sóc Phương minh dĩ thủy khai bắc thùy toại tịch Giao Chỉ vu nam vị tử tôn cơ chỉ dă”, tức: “Vua (Hán Vũ Đế) vừa khai phá biên thùy Sóc Phương phía bắc, vừa mở Giao Chỉ phương nam làm nền móng cho con cháu”. Người đọc tinh ư sẽ thấy ngay cặp khái niệm bắc – nam song đối Sóc Phương và Giao Chỉ, nó không khác cặp Sóc Phương và Nam Giao đă dẫn trong Thượng Thư là mấy.
5. Kết luận
Nam Giao, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là những tên gọi, địa danh và khái niệm của người Trung Quốc, chúng không thể mang âm Việt, nghĩa Việt được. Do đó trong bài viết này tôi bỏ qua mọi cách thức t́m kiếm nghĩa Việt, âm Việt như tôi đă từng làm với các từ như Âu Lạc, Lạc Việt .v.v..
Đa số sử gia Việt – Trung cả ngàn năm qua luôn máy móc gắn chặt từ Giao Chỉ như một địa danh tại đồng bằng sông Hồng. Họ bỏ sót tính thời đại của sách Thượng Thư và quên mất bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Nhiều khi họ c̣n suy diễn Việt Thường quốc thuộc vùng trung bộ Việt Nam hôm nay. Bản thân sự khập khiễng và thiếu thống nhất trong các nghiên cứu thuần văn bản kia đă ít nhiều nói lên sai lầm trong phương pháp tiếp cận cổ thư.
Cuộc sa lầy về phương pháp ấy chưa chấm dứt. Việc xác định Giao Chỉ là ǵ, ở đâu dọc theo quá khứ c̣n liên quan mật thiết với cốt móng của sử học Việt Nam hiện đại. Đó là tiền đề bất di bất dịch và phi thực tế về “tính bản địa” của văn hóa Đại Việt và văn minh Việt Nam. Về lâu dài, vấn đề Giao Chỉ vẫn c̣n là một chiếc phao cứu hộ cho tiền đề kia. Hai sai lầm cơ bản chồng lên nhau, vô h́nh chung biến lịch sử Việt Nam thành thứ văn chương giàu hư cấu và đầy dẫy nhu cầu nhăn tiền. Nó sẽ phá nhiều hơn xây, trên hành tŕnh tạo dựng nền tảng nhân văn mới cho con người Việt Nam ở th́ tương lai.
Các bằng chứng văn hóa và di vật (như trống đồng, bảo vật quốc gia) dàn trải trên địa bàn rất rộng lớn, không thể đóng khung trong những biên giới hành chính hoặc chính trị một thời. Đấy chính là ư nghĩa của chữ Đại trong từ Đại Việt. Càng cố chứng minh tính bản địa khu biệt của văn minh Việt Nam, sẽ càng làm nghèo đi bản sắc Việt Nam và ở góc độ nào đó, gián tiếp “nhược tiểu hóa” dân tộc Việt Nam.
Đà Lạt tháng 12.2004
Thư tịch chính
Kinh Thư
Sử Kư Tư Mă Thiên
Chiến Quốc Sách
An Nam Chí Lược
Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, NXB VH-TT, 1994
Văn minh Lạc Việt, Nguyễn Duy Hinh, NXB VH-TT, 2004
Hán tự sử dụng trong bài:
Nam Giao: 南 交
Giao Chỉ: 交 趾 - 交 阯 - 交 址
Cửu Chân: 九 真
Nhật Nam : 日 南
Chữ Chỉ bộ túc: 趾
Chữ Chỉ bộ phụ: 阯
Chữ Chỉ bộ thổ: 址
Cơ Chỉ: 基 阯 = 基 址
Cơ Sở: 基 礎
Chữ Sở (tên nước): 楚
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 2 of 5: Đă gửi: 15 December 2004 lúc 8:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Nha Quỳnh thân mến.
Bạn có nhiều tư liệu quư và đặt vấn đề về nguồn gốc và nội dung Giao Chỉ rất hay. Nhưng tôi có biết một định nghĩa khác về Giao Chỉ do thầy Nguyễn Đoàn Tuân (Dịch giả cuốn Thái Ất thần kinh)quan niệm cho rằng:
Giao Chỉ liên quan đến Phong Thuỷ của nước Văn Lang cổ.
Bạn có thể tham khảo thêm để cân phân. Chính xác sự giải thích thế nào th́ tôi quên mất. Vậy xin nhờ Pháp Vân c̣n nhớ th́ cho ư kiến; nhằm đóng góp thêm cho việc t́m về cội nguồn dân tộc Việt; vốn bị bụi thời gian phủ quá dày.
Chân thành chúc vạn sự an lạc.
Thiên Sứ
-------------------
Một đời gió có v́ ai
Xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn
Sửa lại bởi ThienSu : 16 December 2004 lúc 2:19am
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 3 of 5: Đă gửi: 17 December 2004 lúc 11:10am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính bác Thiên Sứ và bác Nha Quỳnh,
Bác Nha Quỳnh quả là có công khảo cứu thật công phu về nguồn gốc về địa danh Giao Chỉ.
Theo thầy Nguyễn Đoàn Tuân th́: Giao Chỉ là chỗ Núi Ngưng chỉ để giao tụ với nước, nước và núi họp nhau là Giao Chỉ vậy.
Cảm ơn hai Bác và các bạn !
Pháp Vân
Sửa lại bởi phapvan : 17 December 2004 lúc 11:12am
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên
Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 4 of 5: Đă gửi: 18 December 2004 lúc 11:13am | Đă lưu IP
|
|
|
Theo GS Nguyễn Đoàn Tuân (trích trong Đoạn trường tân thanh):
“Khảo cổ: Xưa nay khắp hoàn vũ, những cuộc tao ngộ kỳ duyên ở đâu cũng có, mà giải thích nào cũng không thỏa đáng nếu theo ngôn ngữ duy lư. Khoa khảo cổ có công khám phá, bảo tồn di tích cổ xưa và không dám phủ nhận một nền văn minh cao độ của người xưa. Việc đó lại càng khó khăn hơn ở tại nước Văn Lang với kinh đô Phong-Châu mà sách vở đă ghi chép. Lại càng vô cùng đau đớn nếu ta đọc Ngọc-Phả Hùng-Vương, thấy các kỳ tích linh dị tại sông núi họ Hồng-Bàng nay đă mất. Dù có đào bới thấy Trống Đồng Đông-Sơn, Ngọc Lũ, đào bới thấy cổ tích nền thành Cổ-Loa, các nhà bác học của nửa thế kỷ đầu 20, không dám tin rằng Tích Việt đă có mặt khắp vùng Đông Nam Á Châu với một nền văn minh rực rỡ. Từ đó họ cố gượng ép theo thành kiến mà đổ tháo trên đầu giống Bách Việt hai chữ Truyền Nghi (chờ xem chưa dám quyết đoán v́ ẩn nấp nhiều nghi ngờ)”
“Nhà viết sử ghi chép lại những ǵ đă xẩy ra trong một cộng đồng, theo cái biết của ḿnh, một cách trung thực, trong một giai đoạn nào hoặc sự diễn tiến của các biến cố lịch sử, qua môi trường xă hội.
Nhưng ở vào thời xa xưa như “Tích Việt” thời lập nước, cách xa ta quá lâu, mà tài liệu để lại đă v́ thiên tai, địa ách, v́ các cơn quốc biến, v́ cuộc đấu tranh giành cuộc sống, giành đất đai v.v…, giành quyền lực v.v…; lại c̣n v́ phải bảo tồn sự sống cho chính bản thân, lại muốn cho sự kiện viết ra không bị bóp méo bởi kẻ có quyền hành tối thượng ( vua chúa quan quyền đương thời) mới có quyền được nói, được viết, được phép viết sử, nên mới có Dă Sữ, truyền thuyết, thần thoại, ngọc phả, thế phả, gia phả.
Cũng nằm trong cái khung xă hội không thuận tiện như trên mà bộ Lĩnh Nam Chích Quái đă xuất hiện, rồi bộ Việt Điện u linh tập ra đời. Hai bộ sách đó được coi là bộ Sử đầu tiên của thời đại Lư - Trần và làm căn bản cho các nhà viết Sử về sau.
Truyện là bổ túc cho Kinh Sử. Kinh sử của Tích Việt đă mất hết vào thời Triệu Đà (-207 đến –137 T.CN) niên hiệu Vơ-Đế. Trong phúc thư của Vũ-Vương cho Hán-Văn-Đế rằng:… Lăo phu ở phương xa mà không có vật cúng tế th́ phải tội, v́ thế có sai Nội-Sứ Phan, Trung-Úy Cao và Ngự-Sử B́nh ba lượt dâng sang thượng quốc, lạ quá, đều không trở về cả … Dĩ nhiên những bộ sử của ba vị quan viết sử đă bị mất hết. Nhờ truyện Lĩnh Nam Chích Quái mà c̣n dấu vết. Đàng khác ngôn ngữ dùng trong sách Kinh Sử phải Thông dụng và chặt nghĩa, miêu tả theo môn phái hiện thực, khác với bút pháp của thơ, ca, truyện, kư, được tự do tung hoành sáng tạo ngôn từ theo ư muốn; văn phạm bố cục không bị lệ thuộc g̣ bó theo một khuôn khổ, miễn là người đọc vẫn t́m thấy sự thực lịch sử ẩn khuất đâu đó, dưới dường nét ngôn ngữ bóng bẩy xa gần.
Đạt được tôn chỉ như thế dưới dạng thức: Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện u linh tập - Huyền thọai - Cổ tích. Truyện Thần Tiên v.v… ta c̣ hiểu rơ cả những cương vực, phong tục, tổ chức xă hội, tín ngưỡng, chính trị, nghệ thuật, văn hóa, công nghệ, sự phát triển thịnh vượng hay sự biến chuyển của trời đất, phong hậu núi sông, danh nhân, tiếng nói v.v…”
(trích trong Đoạn trường tân thanh-suối nguồn hồn tính Việt ngàn đời)
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 5 of 5: Đă gửi: 18 December 2004 lúc 12:30pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tay ngà buông bắt ngẩn ngơ
Năm dây một tiếng than dài ngàn thu
Tiếng vọng sông Ngân
Ngân Giang nữ sĩ
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|
|