thienkhoitimvui Hội viên
Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 05 February 2005 lúc 5:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
Truyện Họ Hồng Bàng (Lĩnh Nam chích quái, thế kỷ XV) có chi tiết đáng chú ư: Lạc Long Quân dạy dân vùng cao xăm ḿnh để tránh bị giao long làm hại. Con rồng Việt Nam xuất phát cụ thể từ con vật gọi là giao long/ thuồng luồng. Một số nhà nghiên cứu khẳng định vật tổ của người Việt là con "cá sấu" (Theo Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân), là con "lân trùng" (rắn có vảy) hay con "giao long", một loài cá sấu (Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên - Văn học dân gian VN). Và Nguyễn Minh Hiệu đă chứng minh bằng nhiều cứ liệu: con rồng Việt chính là con cá sấu, vật tổ chính của người Việt cổ (tạp chí Khảo cổ học, 1983, số 2). Khởi đi từ con rồng - sấu, con rồng Việt trong lịch sử đă biến đổi nhiều do sự tích hợp các yếu tố du nhập từ bên ngoài.
A. Các dạng Rồng.
1. Rồng - Sấu: .
H́nh khắc trên thạp đồng Đào Thịnh
(2000 - 257 tr. CN).
H́nh (1. a).
2. Rồng sấu - Rắn:
3. Rồng - Rắn với đầu cá sấu:
Rồng (đầu là cá sấu, dưới là rắn cuộn) trên tấm yểm tâm của áo giáp ở Ninh B́nh.
Ŕu vai, đồng, thế kỷ V-III trước CN, Đồng Sơn, BT lịch sử Hà Nội.
4. Rồng Mèo
Rồng - Mèo là h́nh dạng rồng in trên mảnh sành được phát hiện ở Bắc Ninh: đầu sấu đă biến mất, đầu ngắn hơn và cổ dài, cánh và vây lưng là những đường vạch dài, râu và lông ở khuỷu chân đă có h́nh dạng của con rồng Đại Việt.
5. Con Rồng thời Ngô (939 - 965)
Thể hiện trên một viên gạch t́m thấy ở Cổ Loa, chiều dài chung có ngắn, thân mèo, vây lưng cá.
6. Rồng - Rắn:
Là h́nh dạng loài rồng nổi tiếng của Thời Lư (1010 - 1225).
Và Thời Trần (1225-1400). Rồng thời kỳ này là biểu tượng cho vua, cho sự thịnh vượng. Có điều, con rồng Lư là rồng-văn, c̣n rồng Trần là rồng - vơ, tức rồng Trần dũng mănh hơn rồng Lư.
7. Rồng - Đầu sư tử/ Lân:
Con rồng đời Lê tuy vẫn kế thừa h́nh tướng của rồng thời Lư - Trần, nhưng cũng đă du nhập ngoại dạng của rồng phương Bắc: dữ, uy nghi. Thời Tây Sơn phục hồi h́nh dạng của rồng đời Trần và Lê Sơ: thân rồng đẹp, mềm mại và cái đầu dũng mănh. Đầu rồng này giống như h́nh rồng trên đồng tiến Cảnh Thịnh (1792-1802): đầu sư tử/ lân.
8. Rồng thời Nguyễn:
Giai đoạn 1802-1883; sự mới mẻ của nó là đuôi xoắn ốc và toả nhiều vây dạng đao lửa dài. Rồng thời Nguyễn giai đoạn 1883-1945 biến đổi theo sự suy đổi của nghệ thuật giai đoạn này: mất đi vẻ tự nhiên và dũng mănh, trở nên thô cứng và ước lệ.
B. Các dạng Tiên.
Chim lạc và Âu cơ:
Nếu truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái nói về tục vẽ ḿnh theo h́nh giao long đă cho thấy người Việt cổ đồng nhất ḿnh với vật tổ giao long, th́ h́nh người hoá trang/ đội lốt chim trên các trống đồng đă cho thấy người Việt cổ cũng đồng hoá ḿnh với chim. Giao long và chim là vật tổ của người Việt cổ (Văn Lang hay Lạc Việt).
Chim thấy trên trống đồng gồm loại chim bay và chim đứng. Loại chim bay là chim lạc. Chim đứng trên mái nhà h́nh thuyền giống chim công, gà và đa số đứng dưới đất là loài chim nước: c̣, bồ nông, xít...
Gà lôi trên mái nhà sàn
Gà trên mái nhà sàn ở trống Hoàng Hạ
Chim xít
Chim Công trên trống Ngọc Lũ.
Chim Công trên trống Miếu Môn
C̣
C̣ Th́a
Bồ Nông
Kết hợp thể "âm dương lưỡng hợp" chim-rồng ở đây là giao long và chim lạc. Đó là những biểu hiện đơn nhất ở một số mặt trống đồng (Hoà B́nh, Phú Xuyên) và không thuần nhất, tức chim lạc xen với các loại chim nước(âu) khác ở một số mặt trống đồng khác. Phải chăng do hiện tượng không thuần nhất này mà Lạc - Long đă thành Lạc Long Quân - Âu cơ? Chim-rồng là đề tài c̣n bảo lưu măi về sau: h́nh in trên viên gạch phát hiện ở chùa Lim trong một ngôi mộ cổ (TKI, sau CN).
Trống đồng Hoà B́nh, Hà Sơn B́nh
Trống đồng Phú Xuyên, Hà Sơn B́nh
Cha Rồng - Mẹ Tiên:
Lạc Long Quân - Âu cơ ở đây đă là tôn danh: Quân (vua) và Cơ (cũng gọi là ky: mỹ hiệu của phụ nữ) theo Đào Duy Anh (Hán Việt từ điển). ở đây vấn đề cần giải quyết là tại sao "Lạc Long Quân - Âu cơ" lại trở thành "Cha Rồng - mẹ Tiên"?
Việc xác định tông tích của Âu Cơ là tiên xuất hiện lần đầu trong Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XV) tại đoạn đối thoại của Lạc Long Quân: "Ta là ṇi rồng, đứng đầu thuỷ tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất...". Do đó việc giải đáp vấn nạn trên buộc phải truy cứu các dữ liệu lịch sử-văn hoá của thời đại đó, tức trong và trước thế kỷ XV: thời Lư - Trần. Cụ thể trong nghệ thuật đồ tượng Lư -Trần, các công tŕnh nghiên cứu đă cho chúng ta thấy có rất nhiều phù điêu, h́nh chạm khắc và tượng tṛn (gỗ và đá) về đề tài "tiên" ở nhiều di tích khác nhau (chùa Phật Tích, Chương Sơn, Long Đội, chùa Dâu, chùa Bối, Thái Lạc...) dưới các tên gọi và chú thích (chưa thật sự chính xác) là: "tiên nữ/ Apsara", "nhạc công/ Gandharva", "nữ thần chim/Kinnari"...Rơ ràng đây là kết quả có gốc từ tám loại chúng sanh gọi là "bát bộ chúng" của Phật giáo gồm: 1. Thiên (Đêva); 2. Long (Naga); 3. Dạ xoa (Yasha); 4. Atula (Asura; phi thiên); 5. Ca lâu la (Garuda: chim thần Kim Sí điểu); 6. Càn - thát bà (Gandharva); 7. Khẩnnala (Kinnara); 8. Ma hầu la già (Mahôraga: đại xà vương). Trong tám loại chúng này có ít ra bốn loại có thể được coi là tiên. H́nh minh hoạ:
Tiên dâng hoa (Hương thần Grandharva) - vi nóc thượng điện chùa Thái Lạc (Hải Hưng) - Gỗ, TK XIV.
Tiên dâng hoa (Chùa Thái Lạc)
Nữ thần Chim (Kinnari), chùa Thái Lạc
Tiên cưỡi rồng - bia Chùa keo, Nam Hà, 1671
Đêva là thiên, Đêvi: thiên nữ: tiên nữ. Xét về h́nh tướng th́ đây là các loại tiên nữ trang trí mũ miện, đầu tóc mỹ lệ như vũ công, ca công hầu hạ, tán tụng việc thuyết pháp.
Atula là loại phi thiên, thường có h́nh tướng tiên nhân đang bay lượn kèm với các dây lụa dài uốn lượn gọi là "phong đai" như vũ công múa lụa.
Càn thát bà là nhạc thần, hương thần (thần chỉ sống bằng hương thơm). Đây là thần Bàlamôn giáo (có đến 6.333 vị); trong kinh Diệu pháp liên hoa của Phật giáo có bốn loại. ở ấn Độ, Càn thát bà được hiểu là "diễn viên". Về h́nh tướng có thuyết cho rằng loại này thân có nhiều lông vũ, nửa ngựi nửa chim, h́nh dáng đẹp. Có thuyết chỉ rơ; thân lộ màu da thịt, tay trái cầm sáo trúc, tay phải cầm bảo kiếm.
Khẩnnala, dịch nghĩa là nghi thần (đầu có sừng nên khi thấy sinh tâm hoài nghi v́ không giống người). Loại chúng này có biệt tài ca múa giỏi, chuyên tẩu các bài nhạc nói về đạo pháp. Về h́nh tướng thường có một cái trống nằm ngang hay hai cái trống đứng trước mặt, tư thế là nhạc công chơi trống.
Trong bốn loại tiên này th́ Càn thát bà do có h́nh tướng người – chim nên dễ được đồng nhất với Âu Cơ (nói như vậy là xét về lư, c̣n trong thực tế về h́nh tướng cụ thể đều có khả năng tham chiếu cả Atula và Kanara/Kanari...). Phải chăng đó là cơ sở lịch sử - văn hoá của thời kỳ đạo Phật là quốc giáo mà tác giả Lĩnh Nam chích quái đă dựa vào đó mà "tiên hoá" mẹ Âu Cơ, tức chim đă được biến thành tiên. Đó là nguyên nhân lịch sử mà cụ thể là sự tích hợp cũ- mới, nội sinh - ngoại sinh để "Lạc Long Quân - Âu Cơ" thành "Cha rồng - mẹ tiên" đầy thiêng liêng và tự hào đối với mỗi con dân Việt.
Thật ra, giá trị của khảo cổ rất quan trọng trong việc xác quyết một gíai đoạn tiền hay sơ sử. Bởi hầu hết các dân tộc đều có những huyền thoại tối xa xưa của ḿnh, mà không có lịch sử thành văn ghi lại một cách tin cậy (thật ra sự ra đời của chữ viết rất muộn so với những giai đoạn lịch sử này), rất có thể đấy chỉ là huyền thoại hoặc rất khác với sự thật. Khảo cổ có thể minh xác, là bằng chứng người thật việc thật, nhất là khi có sự tham gia của liên ngành văn hóa, dân tộc, hay nhân chủng, ngôn ngữ học...
|