NgocLinhTu Hội viên

Đă tham gia: 12 July 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 203
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 11 April 2005 lúc 10:05am | Đă lưu IP
|
|
|
Người bán thường t́m cách làm nhân sâm giả hoặc nhân sâm kém chất lượng rồi trộn với sâm thật, sâm tốt để kiếm lờị V́ vậy, phân biệt và lựa chọn được sâm tốt trên thị trường là một việc khá phức tạp.
Có rất nhiều loại nhân sâm. Nếu căn cứ vào nguồn khai thác, có thể chia làm 2 loại là dă sơn sâm (mọc tự nhiên, c̣n gọi là sâm rừng), nguyên sâm (được gieo trồng, c̣n gọi là sâm vườn). Căn cứ vào nguồn gốc địa lư th́ có sâm Trung Quốc (cát lâm sâm, liêu sâm), sâm Triều Tiên, Nhật Bản (Cao Ly sâm), sâm Mỹ (Tây Dương sâm), sâm Việt Nam (Ngọc Linh sâm)...
Nếu căn cứ vào cách thức chế biến th́ có sinh sái sâm (loại để nguyên vỏ, rửa sạch đất cát rồi phơi khô), đại lực sâm (khi chế biến có nhúng vào nước sôi vài phút rồi lấy ra phơi khô), hồng sâm (loại bỏ rễ, râu sấy khô mà thành, c̣n gọi là thạch trụ sâm), bạch sâm (loại ngâm tẩm trong nước đường đặc, c̣n gọi là đường sâm), cáp b́ sâm (trước tiên ngâm trong nước sôi, sau đó ngâm trong nước đường loăng)... Ngoài ra, c̣n có sâm trà, sâm lát, sâm viên nang..., tùy theo công nghệ bào chế. Bên cạnh những phẩm chất và công dụng chung, mỗi loại nhân sâm lại có những đặc tính và năng lực riêng.
Nhận biết nhân sâm rừng
Đây là loại sâm mọc hoang, chất lượng tốt. Rễ ngắn và thô, dài bằng hoặc ngắn hơn thân rễ một chút, thường có hai nhánh rễ chính, trông giống h́nh người, đầu trên có đường vằn ngang nhỏ và sâu, thân rễ nhỏ dài, thường từ 3-9 cm, phần trên uốn khúc gồ ghề, quen gọi là “rễ cổ nhọn”. Bát rễ dày đặc, phía dưới không có mắt rễ và khá trơn bóng, thường gọi là “rễ tṛn”. Rễ râu thưa thớt, dài gấp 2 lần rễ chính, dai, khó bẻ găy, có nốt sần nổi lên rất rơ, được gọi là “trân châu điểm” hay “hạt trân châu”.
Nhân sâm rừng thường đắt và tốt hơn nhân sâm trồng. V́ hai loại có h́nh dáng giống nhau nên người ta hay lấy sâm trồng giả mạo là sâm rừng. Cách phân biệt:
- Đầu rễ của sâm trồng hơi ngắn, bát rễ tương đối ít. Đầu rễ sâm rừng nhỏ dài, bát rễ sâu và dày, đầu rễ cong h́nh giống cổ nhọn, có rễ tṛn.
- Thân của sâm trồng dài, phần vai có các vằn ngang hơi thưa, nông, không liên tục. Thân sâm rừng giống như thân hoàng tinh, dài bằng hoặc ngắn, nhỏ hơn, đầu rễ vằn, chỗ vai nhỏ mà sâu, màu đen, phần nhiều có h́nh xoáy ốc liên tục.
- Vỏ sâm trồng ráp và xốp gịn, c̣n vỏ sâm rừng mịn và chắc.
- Thân sâm trồng tương đối nhiều, thường từ 3 nhánh trở lên, trên dưới to nhỏ không đềụ Thân sâm rừng chỉ có 1-2 nhánh, rất ít gặp loại có 3 nhánh.
-Râu sâm trồng không có nốt sần, hoặc có nhưng không rơ. Râu sâm rừng dài, dai và có nốt trân châu rơ.
Hồng sâm
Là loại sâm được chế biến bằng cách: chọn củ to, thường nặng 37 g, rửa sạch đất cát, cho vào nồi chưng chín trong khoảng 2 giờ, sau đó sấy hoặc phơi khô. Sau khi chế biến th́ tinh bột có trong rễ đă chín, khi khô có thể trong suốt như sừng, màu hồng, mùi thơm, vị ngọt hơi đắng. Thân sâm h́nh thoi hoặc gần như h́nh trụ, phần trên và dưới thót lạị Đầu sâm (tức cổ rễ) đôi khi nom như có vết sẹo của thân, rễ có thể phân nhánh trông như cánh tay, phần dưới có 2 hoặc 3 nhánh trông như chân. Toàn bộ củ sâm trông giống h́nh người nên gọi là nhân sâm.
Hồng sâm Triều Tiên có h́nh trụ hoặc h́nh vuông tṛn, rễ thô ngắn, dài 1,5-2 cm, đường kính trên dưới gần bằng nhau, phần lớn là đơn nhánh và rất ít rễ phụ, màu nâu đỏ hơi đục. Hồng sâm Trung Quốc bề mặt trong mờ, màu nâu hồng, thỉnh thoảng có đốm màu nâu sẫm đục, có khía dọc, vân và vết rễ nhỏ, phần trên có các vân tṛn.
Hồng sâm Nhật Bản rễ hơi nhỏ hơn rễ sâm Triều Tiên, phần trên thường có màu vàng, vỏ ráp, đoạn giữa và dưới to thô hơn đầu trên, rễ phụ ngắn, thót lại, nh́n chung h́nh thể và màu sắc nằm giữa hồng sâm Triều Tiên và hồng sâm Trung Quốc.
Bạch sâm
Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn để làm hồng sâm th́ được chế thành bạch sâm. Củ sâm được rửa sạch đất cát rồi nhúng vào nước sôi vài phút, sau đó tẩm đường vài ngày rồi phơi hoặc sấy khô ở nhiệt độ không quá 60 độ C. Dược liệu đă chế biến có màu trắng ngà, mềm, thường có tinh thể đường bám ngoài mặt. Mặt cắt ngang có màu trắng ngà, vằn h́nh tia, xốp, mùi thơm, vị ngọt. Rễ chính h́nh trụ, mập và ngắn, phần đỉnh có thân rễ dài nhỏ, phía trên nó có các chỗ lơm h́nh xoáy trôn ốc đan xen nhau, tuổi đời càng lâu th́ thân rễ càng dàị Bên cạnh thân rễ thường mọc một hoặc vài sợi rễ. Đầu trên của rễ chính có vằn dày, phía dưới thường phân nhánh.
Tây Dương sâm
Loại sâm này chủ yếu được nhập từ các nước như Mỹ, Canada và Pháp, có công dụng khá tốt và được người tiêu dùng ưa chuộng. Bởi vậy, gian thương thường dùng sâm nội để giả mạo làm Tây dương sâm kiếm lờị
Đặc điểm nhận dạng: Thân chính có h́nh trụ hoặc h́nh thoi, nặng, chất cứng. Bát rễ có đốt rơ. Vỏ có vằn ngang hoặc có nốt sần lỗ nông và các vằn dọc nông nhỏ chi chít. Vỏ chỗ mặt cắt ngang có thể thấy các vạch nhựa có dạng chấm nâu vàng, tạo thành từng lớp vằn rơ. Mặt ngoài có màu vàng nhạt hoặc màu vàng gạo, mặt cắt phẳng, màu trắng ngà, hơi bột. Vị hơi đắng, khi nhai có cảm giác hơi hăng đắng và có mùi thơm mát đặc trưng của Tây Dương sâm.
Nhận biết nhân sâm giả
Nhân sâm giả thường được làm từ đậu đũa dại, sâm đất, thương lục, niễng rừng và hoa sơn sâm, trong đó sâm đất và thương lục hay được dùng nhất. Cách nhận biết:
Sâm đất có h́nh nón hoặc h́nh thoi, phân ra nhiều nhánh, dài khoảng 15-20 cm, đầu đỉnh là gốc sót lại của rễ. Khi chưa gia công, bề mặt có màu đen nâu, thô ráp, nhiều vằn. Sau khi đă gia công, bề mặt có vằn rúm màu vàng nâu, thô ráp, chất gịn, dễ bẻ găy, có chất keo trong mờ, vị ngọt.
Thương lục có h́nh trụ, đầu trên khá giáp, xuống dưới nhỏ dần, dài khoảng 20 cm, mặt ngoài có màu nâu vàng hoặc nâu đen, đỉnh rễ có gốc sót, chất dai dẻo, khó bẻ găỵ Mặt cắt có màu nâu vàng đến nâu đen, không phẳng, có mùi tanh, vị đắng và cay chuạ
Sưu Tầm
|