Tác giả |
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 1 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 1:09am | Đă lưu IP
|
|
|
Viết sử là một công việc khó khăn, và nhiều lúc nguy hiểm.
Tính chân thực của các bộ sử lại không chỉ phụ thuộc vào khả năng của sử quan, mà lệ thuộc cả không khí chính trị đương thời, lệ thuộc tâm t́nh của vị vua mà vị quan phục vụ.
Năm 1342, vua Trần Minh Tông băi chức quan chỉ v́ ông này không cho vua vào Ngự sử đài. Vua Lê Thánh Tông cũng đ̣i xem sử quan ghi ǵ về ḿnh.
Ngay cả khi người nay đọc lại người xưa th́ cũng không đảm bảo ḿnh hiểu đúng. Như ông Tạ Chí Đại Trường, trong tập sách mới về sử Việt, nhận xét: “người ta chỉ đọc những ǵ người ta muốn thấy, chứ không phải những ǵ thực sự hiện ra qua các ḍng chữ, khoan nói tới những ǵ phía sau các ḍng chữ ấy.”
Ư nghĩa của ‘những ǵ phía sau các ḍng chữ’ trong sách cổ sử Việt Nam là một phần nội dung trong tập sách “Sử Việt đọc vài quyển” của Tạ Chí Đại Trường, do NXB Văn Mới ấn hành năm 2004.
Đa số các bài viết trong sách đă được in trên tạp chí Văn học (California) mấy năm qua.
Có thể thấy trong sách có hai nét chính: một là những nhận xét, không phải một lần mang tính phát hiện, về những nhân vật, sự kiện trong cổ sử Việt Nam mà thời gian đă làm cho trở nên mờ ảo; và hai là nhận xét về trí thức và văn hóa Việt Nam đương đại mà về bản chất dường như có sự tiếp nối của truyền thống cũ - dù tốt hay xấu.
Nhiều ư kiến trong sách sẽ không tránh khỏi gây tranh luận, như về gốc tộc Mường của Lê Lợi, về tính huyền sử của Hùng Vương, An Dương Vương.
Giữa một không khí học thuật mà một nhà nghiên cứu (Lại Nguyên Ân) đă mô tả là 'Đại Việt trung tâm luận...đáp ứng thật đúng lúc tâm thế dân tộc chủ nghĩa đang trở nên chủ đạo cả trong giới cầm quyền lẫn trong khá đông công chúng', th́ một số quan điểm trong sách có vẻ đi ngược hướng này.
Tác giả phê phán xu hướng học thuật dân tộc chủ nghĩa mà theo ông ‘đem ảo tưởng về một đất nước văn minh tuyệt vời dạy cho học tṛ nhỏ, chỉ tập cho chúng tính huênh hoang, mai mốt lớn lên thật khó chen chân vào thế giới.’
Xin trích giới thiệu một số ư kiến từ quyển sách. Các tiêu đề nhỏ là do chúng tôi đặt:
V́ sao có nhiều hơn, chứ không phải chỉ 12 sứ quân trong thế kỷ 10 (trích từ bài Các sử quan ẩn khuất thuở ban đầu)
“Trong đời Dương ‘Tam Kha’, đă có loạn ở hai thôn Đường, Nguyễn (950). Loạn này kéo dài đến 965, gây nên cái chết của Ngô Xương Văn, bắt đầu mối loạn mà sử cũ gọi là Mười hai sứ quân. ‘Thôn’ đời ấy không phải là thôn đời sau, nhưng hẳn là một đơn vị dân cư không lớn, vậy mà vẫn thách đố chính quyền họ Ngô, cái chính quyền có gốc gác ở không phải chính nơi, th́ cũng gần nơi làm loạn ấy. Gốc gác Đường Lâm của Ngô Quyền hẳn là căn bản quyền lực để cho một người có vẻ cũng thuộc ḍng đích, trở về làm sứ quân nơi ấy với tước vương tự xưng: An Vương Ngô Nhật Khánh. Hai ‘chỉ huy sứ’ là Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đi theo Ngô Xương Văn dẹp loạn cũng không phải trực tiếp thuộc quyền Dương ‘Tam Kha’ nằm ở Cổ Loa, mà hành xử như các quyền lực riêng biệt trong liên minh. Bởi v́, Xương Văn mới chết năm trước th́ năm sau Đỗ Cảnh Thạc đă là một sứ quân đủ quyền lực tranh giành quyền bính để sử quan phải kể ra. Theo đà suy luận hợp lư đó th́ Dương Cát Lợi cũng phải là một sứ quân mà sử quan đă bỏ qua. Chỉ v́ nếu kể ra th́ quá con số Mười hai.
Số sứ quân hơn 12 đă có nhiều kẻ khác. Mà không phải họ không có thực lực so sánh với các nhóm được sử quan kể...Qua thiên tai thủy họa, bụi đất hằn học của con người trải dài hơn mười thế kỷ, ta c̣n đếm được 15,16 sứ quân. Vậy tại sao chỉ kể có 12?...Con số 12 là cố t́nh đếm vừa đủ cho hợp với một phạm trù nào đó của ư thức hệ đương thời. Con số 12 được gợi từ ư niệm ‘thập nhị nhân duyên’, ‘thập nhị duyên khởi’ của Phật Giáo. Chỉ v́ người chép sử Đinh là một tăng lục, Ni sư Trương Ma....”
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 2 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 1:10am | Đă lưu IP
|
|
|
“Quan niệm về Thập nhị nhân duyên ấy được thấy khắp các phái trong thế giới Phật giáo từ lục địa lan xuống hải đảo Đông Nam Á, và nằm trên các tấm vàng lá cùng những phần chú giải, t́m được ở Java. Tất nhiên, Đại Việt từ lúc khởi thủy du nhập vẫn không xa rời nó. Người Phật từ tâm niệm hàng ngày với ‘nghiệp’, với ‘nhân duyên’..., và điều đó đi vào tâm trí người tăng lục sử quan của triều Đinh, trở thành sự kiện lịch sử muôn đời cho dân Việt. Sứ quân, không cần đếm rơ bao nhiêu cho đến hết, được coi như là mười hai ‘nhân duyên’ gây ra khổ nạn cho dân chúng. Và việc dẹp tan sứ quân, là một Giải thoát, đă được thực hiện bởi người chủ tướng, vị hoàng đế đă đem lại ân đức cho Trương Ma, cho tôn giáo của Bà. Sự kiện lịch sử trần trụi đă được lồng vào ư thức hệ để tuyên dương cho ư thức hệ vậy.”
Về cách viết sử trong miền Nam từ 1955 – 1975 (từ bài Các sử gia nho thần)
“Từ 1955, v́ miền Nam có một chế độ theo Tây phương, theo một chừng mực nào đó, sử học được xem là tách rời với chính trị, với chính quyền đương chức nên từ trong các trường đại học thấy xuất hiện một số sách nghiên cứu chuyên đề theo cung cách giảng dạy ở phương Tây. Tuy nhiên như đă nói, quá khứ lại xuất hiện lẫn lộn với hiện tại theo tinh thần dân tộc huênh hoang, có khi pha lẫn một vài quan niệm xưa cũ về định mệnh, về đạo đức trung trinh của các nhân vật vốn chỉ là tán rộng từ Đại Việt sử kư toàn thư.”
“Nhà chính trị trong niềm u uất của người dân mất nước, đem phóng đại quá khứ dân tộc để vẽ ra một tương lai huy hoàng. Tương lai đó có vẻ đă trở thành hiện thực trong thời đại độc lập, nên nhà ‘nghiên cứu’ thấy quá khứ kia đúng là hiện thực của thời đă qua, liền tô vẽ thêm bằng ngôn từ khoa học, triết lí ḿnh thu nhận của thời nay. Do đó, Khổng Nho biến thành Việt Nho, dân Việt không c̣n là một nhóm người ở Giao Chỉ / Giao Châu như của Ngô Th́ Sĩ hay lấn lên hồ Động Đ́nh như của Ngô Sĩ Liên mà lại đúng là chủ nhân ông của đất tộc Hán, nên cố giành lấy Hà đồ, Lạc thư về ḿnh! Chính trị, huyền sử đă trở thành lịch sử - trong ước mơ. Tinh thần dân tộc của thời mới đă làm đảo lộn nội dung đồng văn xưa cũ. Không phải người Hán dạy dân Việt mà dân Việt đă khai phá văn minh cho dân Hán. Tiến tŕnh vương hóa không đi theo ḍng địa lư bắc – nam mà là chuyển hóa từ bên trong giữa hai dân tộc trên cùng địa vực, trong đó dân Việt là chủ thể phát tán. Tuy nhiên, khi cho rằng tương quan Thiên triều / phiên thuộc của quyền lực cụ thể trong quá khứ phải hiểu đảo lộn trong lănh vực văn hóa, nhà ‘nghiên cứu’ triết gia muốn thành sử gia – và những đồ đệ nối tiếp trong và ngoài nước cho đến bây giờ, đă để lộ ra một tinh thần tự ti dân tộc ráng che mà không kín.”
Về cách viết sử ở miền Bắc sau 1945 (từ bài Các sử gia nho thần)
“Dưới nhăn hiệu mới, mối tương quan giữa người viết sử và người cầm quyền đă trở lại như xưa... Ư thức hệ được coi là chính thống dẫn dắt cho những nghiên cứu về ‘thời chiếm hữu nô lệ’, ‘thời phong kiến’, thời tư bản, thực dân đế quốc. Và lại cũng như xưa, người ta không bàn xem sự kiện đă xảy ra như thế nào mà lại đem so đọ các sự kiện đó theo tiêu chuẩn của ư thức hệ, không theo ông Khổng Mạnh th́ theo ông Marx, Engels. Hăy đọc lại lời Ngô Sĩ Liên bênh vực Khổng Tử, Chu Hi để đối đầu với Hồ Quư Li: “Từ khi có sinh dân tới nay chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử...Chu Tử đă theo...th́ không thể nghi ngờ ǵ cả...Người sau chỉ tô chuốt cho bóng thêm...không được chê bai bàn căi ǵ cả.”
Về một xu hướng đề cao quá khứ nổi lên gần đây (từ bài Các trung tâm quyền lực trong lịch sử Việt)
“Giả thuyết của S. Oppenheimer và các thành quả về mtDNA mới đây không phải chỉ là sự lừa dối, nhưng đem áp dụng cho ‘vua Hùng’ th́ có dáng như một hứng khởi v́ t́m được bằng cớ mới cho một thành kiến tự tôn, thiếu cơ sở của niềm tự ti che giấu (thuyết Việt Nho...phát triển thêm lối rao giảng cũ từ thời qua Mỹ với Ngũ Kinh, Sứ điệp trống đồng...trong hoang tưởng về một giải Nobel-mới tự đặt) của LM Kim Định mà các ‘học giả’ trong nước cũng đang bắt chước... Đem ảo tưởng về một đất nước văn minh tuyệt vời dạy cho học tṛ nhỏ, chỉ tập cho chúng tính huênh hoang, mai mốt lớn lên thật khó chen chân vào thế giới.”
Về triều đại nhà Lí buổi đầu (từ bài Các trung tâm quyền lực trong lịch sử Việt)
“Lí Trần có điểm chung: đều là những tông tộc trị nước. Đây là dấu vết từ nơi phát tích, có thể bắt chước các tông tộc vùng Hoàng Hà khi họ chạy loạn đổ xuống nam Trường Giang lập các triều mới của thời Nam Bắc triều. Nhưng tiến tŕnh thực hiện lại có khác v́ các điều kiện thời đại, nơi chốn khác nhau. Lí tiếp quản trung tâm Đô hộ cũ tất phải giải quyết những vấn đề tồn đọng, vốn không v́ năm tháng cách biệt mà coi như đă xong. Ở tận Hoa Lưu th́ không có vấn đề phải quan tâm nhiều đến các tập đoàn xa nơi trung châu phía bắc, nhưng vấn đề không thể bỏ lơ khi đă ngự trị ở Thăng Long. Và thế là có cuộc chiến tranh giành giật với vương triều Tống để giữ vững cương vực, phát triển vùng ảnh hưởng.
Không có chứng dẫn nào cụ thể hơn cho sự co dăn bành trướng của Thăng Long bằng trường hợp nhân vật Tông Đản. Cũng một ông chúa Nùng đó mà khi dẫn quân bản bộ tiếp tay quân Lí đánh Tống th́ được sử triều đ́nh ghi chép để cho sử gia ngày nay coi như một anh hùng dân tộc. C̣n khi trở cờ theo Tống th́ sử ta lặng thinh để danh vị Tông Đản không suy suyển trên các bảng tên chỉ đường. Thật ra Tông Đản không xấu cũng không tốt, tập họp Nùng Tông Đản chao đảo chỉ v́ nằm trên hướng bành trướng của Lí trong lúc Nùng Trí Cao lại có cao vọng hơn, là thoát ảnh hưởng của Tống, Việt để thành lập nước riêng. Đọc sử c̣n thấy các ông họ Hoàng thủ lănh nhỏ bé nơi vạt biên giới chạy qua chạy lại nhờ cậy hay b́ làm vật thí thân trao đổi. Trong các thế kỉ 17, 18 về sau, vùng biên giới phía bắc mất nhiều vào tay người Thanh chính là v́ sự yếu thế của Lê Trung hưng không đủ sức vươn cánh tay quyền lực trên các tập đoàn thiểu số nơi này. Cuộc chiến Lí Tống ngày đó c̣n là chỉ dấu nhiều chất Trung Quốc trong triều đ́nh Lí (xem tờ chiếu của Tống Thần Tông về việc chiêu dụ nhân vật gốc Mân của Lí) đến nỗi Lí cho ḿnh cho quyền can thiệp vào nội t́nh Tống (xem Lộ bố văn của Lí), và thấy đủ sức can thiệp v́ có người phe Tống giúp sức. Chỉ sau khi phải đương cự sâu vào nội địa, Lí mới thấy khả năng hạn chế của ḿnh và tự để cho ḿnh địa phương hóa nhiều lên.”
V́ sao ‘sự phản kháng’ trong xă hội VN thiếu bóng người trẻ (từ bài Tiến tŕnh vương hóa mới)
Điều đó hiện trong hoàn cảnh phản kháng không có người trẻ tham dự - những người này c̣n đủ xung lực để thích ứng với t́nh thế mới, chưa kể sự cạnh tranh ‘làm giàu’ không luật pháp rơ rệt càng làm họ thấy cơ hội nảy sinh nhiều hơn. Nhưng nói điều đó rồi th́ cũng phải đau ḷng mà nhận rằng nguyên nhân c̣n bởi chiều sâu văn hóa của người Việt không nhiều. Cái làng nhàng truyền thống học theo kiểu cù cưa với Trung Quốc khiến cho người thanh niên Việt dễ bằng ḷng với những ǵ ḿnh có được, chịu đựng hay bằng ḷng với một chút ‘có hơn’, khác với các thanh niên TQ trong các vụ nổi loạn ở thập niên 70, 80.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 3 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 1:13am | Đă lưu IP
|
|
|
Sự hạn chế đó cũng thấy rơ ở lớp người già phản kháng mà chúng ta có thể hiểu khi nhắc lại t́nh trạng kiến thức, tâm tính của các thế hệ ở Việt Nam. Họ đă lậm sâu vào chế độ nên không dễ dàng từ bỏ nó. Chủ nghĩa cộng sản đă tạo ra cả một hệ thống chặt chẽ, chỉ có thể lấy hoặc bỏ mà thôi. V́ thế Liên Xô và Đông Âu mới sụp đổ. V́ thế lúc hưng thịnh, nó mới phát sinh những anh hùng đầy ngơ, tạo hào quang mà những người cùng một thời phục vụ khi rời bỏ vẫn hănh diện về nó...Điều c̣n lại khác của ông [Trần Độ] chỉ là những chỉ trích chứ không phải lí thuyết giải đáp vấn đề, trong đó có nỗi luyến tiếc quá khứ đă không có cách nào trở lại mà không thấy rằng nó c̣n có thể là vật cản đến tương lai. Ông cũng như những công thần lớn nhỏ khác cùng thời, sở dĩ gây được chú ư chỉ v́ mọi người đă sống trong một chế độ từng một lúc coi sự phản kháng công khai là không thể nghĩ tới, nay thực sự đă xảy ra. Nhưng mặt khác, ông không thể chối bỏ quá khứ của ḿnh, nghĩa là chối bỏ chế độ ông đă phục vụ...Do đó ta thấy sự khó khăn vô vàn của những ‘lí thuyết gia’ muốn vượt CNXH từ trong ḷng chế độ đó.
Trong mỗi người Việt là một ông quan (từ bài Giao tiếp Đông Tây ở Việt Nam)
“Thật ra th́ cái học Trung Hoa của người Việt chỉ góp một phần vào việc giữ nước chứ chẳng mang chút sáng tạo nào cho tư tưởng phương Đông - khác với Triều Tiên có hai tư tưởng gia ở thế kỷ 17 đă góp phần vào việc phong phú hóa Khổng giáo. Khi tranh luận về vấn đề ‘Việt Nam có nền quốc học hay không?’ th́ những kẻ bênh vực chỉ đáng khen ở tinh thần yêu nước nồng nàn, chứ kẻ phản bác không phải chỉ có ông Phan Khôi của xứ ‘hay căi’, mà người giật ḿnh c̣n có ông Thượng thư Phạm Quỳnh nữa.”
“Người ta học để mong làm quan, chứ không phải để mong hiểu biết, như Phan Huy Thực thú nhận với Minh Mạng là nhân sĩ Bắc Hà chỉ học sách Thánh hiền của thế kỉ 13 là muộn nhất. Kết quả lâu dài là người Pháp đă mỉa mai: “Mỗi người An Nam đều có một ông quan trong bụng....Trong khi đó, từ đời Đường, người Nhật đă gởi cả những phái đoàn vào lục địa học cho ḱ hết tinh hoa của nước lớn, lập cả một kinh đô Nara giống Tràng An, lưu giữ những hiện vật đương thời cho đến ngày nay, trước khi có các khai quật khảo cổ, các học giả phải t́m đến để có vật chứng chính xác của Trung Hoa ngày xưa. Có thể thấy rằng người Nhật đă không sợ mất bản thân khi cố t́nh học người tận nơi tận chốn...”
“H́nh như Việt Nam không có một vị trí cách biệt với Trung Hoa như vậy để khỏi e dè không sợ đồng hóa.”
Lại nói về sự tiếp nhận văn hóa (từ bài Giao tiếp Đông Tây ở Việt Nam)
“Cái mâu thuẫn nằm trong ḷng xă hội Việt như một sợi xích lằng nhằng. Xưa th́ ‘Nam nữ thọ thọ bất thân’ mà trai gái trong sinh hoạt đồng áng vẫn nhiều bờ cỏ, đống rơm; ‘trung thần bất sự nhị quân’ mà giết vua như ngóe. Gần th́ làm cách mạng vô sản mà lănh tụ là con quan, con địa chủ, nhà tư sản đi theo hướng lột bỏ bản thân, thoát li giai cấp (của ḿnh) để phục vụ giai cấp (vô sản). Nay th́ ‘Kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa’ mà mạnh ai nấy làm giàu, vơ vét. Cứ toàn là khẩu hiệu, học thuộc ḷng vài câu kinh sử, rốt lại muốn vượt qua th́ trở thành tán rộng, nói khoác, với dân chúng thường t́nh là những câu chuyện vặt kiểu Trạng Quỳnh, với trí thức là những danh từ đao to búa lớn, mượn màu khoa học, triết lí Tây phương để suy ra Việt Nam.”
“Sức nặng Trung Quốc của thời mới, đúng là không thể coi thường trong sự mạnh dạn chuyển hướng theo thế giới mới. Nhưng với thời đại ngày nay, trong một chừng mực nào đó, không dễ muốn đánh ai th́ đánh. Tương quan thiên triều – phiên thuộc sẽ không có h́nh thức như ngày xưa nếu ḿnh không muốn và cường thịnh lên. Đại Hàn không phải chỉ nhờ tấm đệm Triều Tiên, nhưng đối phó ngang ngửa với TQ c̣n bởi chính sự cường thịnh của ḿnh. Đó là kết quả của những người muốn làm lịch sử, những người cầm chính quyền thật sự. Người Việt trong nước hiện nay đă thấy rơ điều đó. Tiếc rằng sự vồ vập phim truyền h́nh Đại Hàn chẳng hạn lại chứng tỏ thêm một cuộc bắt chước tủi hổ, về phía khác.”
Một cách đọc văn bản về trường hợp Trần Nguyên Hăn (từ bài Tây Tiến)
“Chiến trận chống Minh như đă nói lan đến rừng núi vùng tây bắc của Đại Việt v́ đến thời Minh, triều đ́nh Hán tộc đă có mặt vững vàng trên vùng tây nam của họ nên có thể dùng đường tiến quân theo triền sông Hồng và các phụ lưu, không phải chỉ lệ thuộc vào lũng Lạng Sơn như xưa. Nên khi quân Lê tiến ra vây Đông Đô, chém Liễu Thăng khiến quân Mộc Thạnh từ Vân Nam xuống phải tan vỡ th́ các tù trưởng vùng đó thấy lẽ khôn ngoan là phải liên kết với Lê. Nhân vật có liên quan ở đây là Đèo Cát Hăn, được dụ về cuối năm 1427. Nhưng Đèo Cát Hăn, như lời kể trong chiếu ban sư, cũng không dễ dàng khuất phục. Cuối năm 1430, Lê đem quân đánh Bế Khắc Thiệu, đầu 1432, thắng Đèo Cát Hăn. Lời chiếu kể tội liên can: “Năm ngoái ở trấn Thái Nguyên, thằng Bế Khắc Thiệu mưu phản, thật do thằng Hăn gây họa. Nay thằng Đèo Cát Hăn làm loạn lại bởi âm mưu thằng Xảo...”
Ta không thể biết ǵ hơn về âm mưu liên kết trong ngoài đó. ‘Thằng Hăn’ là Trần Nguyên Hăn, ‘thằng Xảo’ là Phạm Văn Xảo. Phan Huy Chú với ảnh hưởng của tiềm thức nghiêng về phe trung châu (đồng bằng) nên cho rằng Hăn thấy việc xa lánh Lê Lợi là phải: “Ông Hăn nói riêng với người thân: Nhà vua có tướng như Câu Tiễn, không thể cùng sung sướng được.” Nhưng ta cũng có thể nh́n vấn đề kĩ hơn. Những ‘lực sĩ xá nhân’ đi bắt (Nguyên Hăn khi ông bị cáo buộc mưu phản) hẳn là thuộc đội Thiết đột ṇng cốt tin cẩn của Lê Lợi. Nói là oan nhưng Phan Huy Chú cũng cho thấy Trần Nguyên Hăn ‘về làng làm nhiều nhà cửa và đóng thuyền chở binh khí.’ Để làm ǵ, mơ làm Phạm Lăi ngao du sông nước mà chất binh khí theo, để làm ǵ? Biết vua nghi mà vẫn làm nhiều nhà cửa th́ nếu không ngu độn tất cũng là có ư xây dựng đồn binh để lo thân.
Hăn chắc phải hiểu như sẽ xảy ra về sau với mấy ông phụ đạo hay con cháu họ nằm ở Đông Đô, lúc vua vui th́ tha, lúc buồn th́ giết. Hăn phải lo thân và chuẩn bị t́m người liên kết. Bế Khắc Thiệu có mặt cùng phe trong chuyến thề bồi của Lê với Vương Thông, ở địa vực tương đối gần, là ứng viên ưu tiên nhất của ông tướng từng xông pha trận mạc, không chịu bó tay chờ người đến bắt. Có điều cơ may của thời tao loạn đă qua, không dễ mỗi lúc lại gây nổi cơ đồ cho nên Hăn phải chịu chết. Chết v́ lật thuyền hay v́ người anh hùng vùng lên lần chót?”
Một ngộ nhận khi nghĩ về làng Việt Nam (từ bài Giao tiếp Đông Tây ở Việt Nam)
“Ông P. Mus, cũng như các học giả khác, đến VN, ở ngay vùng sinh hoạt cổ truyền của dân Việt thấy làng có lũy tre, có cổng vào canh gác, biết chuyện ví dụ làng có lệ cheo cưới, bắt vạ, nghe câu huênh hoang ‘Phép vua thua lệ làng’, thấy nhóm quan viên quyền hành làng xă nhóm trong cái đ́nh với những tục lệ quái dị có vẻ cổ sơ, hoang dă, liền dễ suy ngay ra rằng cái đ́nh và cơ sở làng xă có tận thời lập quốc, tuy không đưa lên xa đến 4000, 5000 năm như những học giả Việt, trong đó có những người chữ-nghĩa càng xa nước càng thấy phải bày tỏ t́nh yêu tổ quốc nồng nàn hơn...Các ông bà học giả này không biết cái đ́nh làng mới được chính thức thành lập cuối thế kỷ 15 (1496) và theo tính chất tiến triển chậm chạp của đất nước ngày xưa th́ cái đ́nh có thành điểm tượng trưng quyền lực của làng cũng phải đợi đến một thế kỉ sau.
Các hương ước, những luật pháp của làng mà người ta tưởng là thứ đă đóng góp vào sự chận đứng quyền lực trung ương bên ngoài lũy tre, th́ được thể chế hóa sớm hơn (1664) nhưng chứng tích c̣n lại cũng xuất hiện theo với sự nở rộ của đ́nh làng ở các thế kỷ 17, 18, những thế kỷ của hỗn loạn, của những cuộc phân tranh...Do đó cái lũy tre làng bền chặt hơn, có cổng gác, là của các thế kỷ loạn lạc đó, của đám dân làng phải tự bảo vệ lấy thân như vẫn c̣n thấy trong thời Pháp thuộc, lúc quyền hành trung ương đă chặt chịa hơn nhiều. Cái cổng gác không chỉ ở làng quê mà c̣n nằm ngay ở phố phường ở Hà Nội, khiến người Pháp khi kiến thiết thủ phủ Đông Dương đă phải phá dỡ, san bằng đi. Bảo rằng làng xă chứa đựng sức mạnh căn bản của xă hội VN, sao không thấy rằng lũy tre, cổng gác như thế cũng là dấu hiệu rơ rệt và là mầm mống của ư thức phân li?”
Tác giả quyển sách: Tạ Chí Đại Trường
|
Quay trở về đầu |
|
|
tuyetmai Hội viên
Đă tham gia: 20 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 35
|
Msg 4 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 1:58am | Đă lưu IP
|
|
|
Xem BBC đă đăng ???
Update 11 Tháng 5 2005 - Cập nhật 09h30 GMT
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nha_Quynh Hội viên
Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 82
|
Msg 5 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 4:39am | Đă lưu IP
|
|
|
Lập thân tối hạ THỊ văn chương ?
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 6 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 11:38am | Đă lưu IP
|
|
|
T/g Tạ chí Đại Trường chỉ nh́n thấy mặt yếu kém của dân tộc Việt thôi chăng?
Chán nhỉ?
Thiên Sứ
------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn
|
Quay trở về đầu |
|
|
Trọng Ca& Hội viên
Đă tham gia: 20 February 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 48
|
Msg 7 of 7: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 5:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cuốn sách này, theo trích dẫn, có vẽ như một tùy bút, nói chuyện chính trị hôm nay, chính trị hôm qua (tức là sử), văn hóa và tư tưởng hôm qua và hôm nay. Vậy nên ta chắc cũng phải tùy thuận cái khuôn khổ này mà bàn –khổ thực. :--)
Xin nói ngay là tôi nghĩ ông Tạ Chí Đại Trường muốn vạch khuyết điểm dân tộc ḿnh để dân tộc ḿnh tiến bộ. Như ông Nguyễn Gia Kiểng, tác giả cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, và ông Bá Dương, tác giả cuốn Người Trung Quốc Xấu Xí đă làm. Việc làm này cần thiết. Nhưng khó làm lắm.
Tôi chưa đọc cuốn sách, nên chỉ có vài ư kiến về những trích dẫn.
Về tự ti trá h́nh:
Nước ta bị lệ thuộc Trung Quốc nhiều, v́ liền đất, khác với Nhật, và lệ thuộc hơn cả Hàn Quốc, có lẽ v́ xứ này quá lạnh, nên ta có tự ti. Lúc không bị lệ thuộc, dưới Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lư, Trần, và hai trăm năm đầu của Hậu Lê, nói chung ta không có vấn đề này. Từ Lê Trung Hưng th́ có, dù vẫn độc lập, có lẽ v́ nội chiến làm suy yếu tinh thần. Pháp thuộc càng khiến ta tự ti.
Nhưng cái tự ti ấy không ngăn ta cưỡng đồng hóa, giành độc lập, thắng cường quốc. Sau chiến thắng là có lư do để tự tôn. Và tự tôn là con dao mổ lấy cái tự ti vứt đi. Tác giả gọi đó là tự ti trá h́nh. Nói thế là không sai, nhưng chưa đúng hết.
Mao Trạch Đông, để biện minh cho cách mạng, đă nói rằng để khiến một cây cong thành thẳng th́ phải uốn nó qua phía bên kia, để khi thả ra th́ vừa. Tự tôn sau khi tư ti cũng vậy.
Tôi không hiểu tác giả phê b́nh khuynh hướng tự tôn trong văn hóa và sử học hay bản thân các lập luận văn hóa và sử học ấy? V́ có khi động cơ không chính đáng, nhưng việc làm vẫn đúng.
Về ngoại gia Tống Lư:
Việc Tống dùng gốc Mân của họ Lư để kêu gọi sát nhập, và Lư dùng gốc Mân của ḿnh để hăm đ̣i đất là thuật ngoại giao. Cho rằng Lư thiếu tự hào là kết luận nhanh quá.
Về tâm lư thiếu dứt khoát:
Đây quả là một vấn đề. Nhưng giải thích rằng lư do là văn hóa Việt Nam cạn có thể vội (do bực ḿnh bỡi t́nh trạng trên chăng?)
Về cái học khoa bảng:
Đây cũng là một vấn đề khác: háo danh, háo lợi thay v́ ṭ ṃ; và ích kỷ thay v́ tế thế. H́nh như đây là kết quả của Nho giáo độc quyền, dù Nho giáo chủ trương người quân tử khinh danh lợi. Thời Tam giáo đồng nguyên rất ít có t́nh trạng nầy
__________________ "Giày củ, gươm cùn, ta đi đây."
Hành Phương Nam, Nguyễn Bính
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|