Tác giả |
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 1 of 34: Đă gửi: 04 June 2005 lúc 12:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Có 2 bài viết về Lục Tổ
Code:
Huệ Năng Lục Tổ
Chánh Hạnh
Tiểu sử:
Ngài Huệ Năng sanh giờ Tư ngày mồng 8 tháng 2 năm Mậu Tuất (638) tại Tân Châu, xứ Lănh Nam. Khi Ngài mới sanh, có hai nhà sư đến nhà đặt tên cho Ngài là Huệ Năng. Thân phụ Ngài hỏi v́ sao đặt là Huệ Năng? Nhà sư đáp: "Huệ nghĩa là đem Pháp làm ơn bố thí cho chúng sanh, Năng là nghĩa làm nỗi được việc Phật". Như vậy họ tên Ngài là Lư Huệ Năng. Thân phụ Ngài là Lư Hành Thao, nguyên quán ở đất Phạm Dương làm quan bị giáng chức, lưu ra xứ Lănh Nam làm thường dân, mẹ Ngài họ Lư. Cha mất sớm, mẹ già, thân côi cút dời qua xứ Nam Hải, cảnh đắng cay, nghèo thiếu phải bán củi ở chợ để nuôi mẹ.
Năm 24 tuổi ( 661) một hôm đem giao củi xong, nghe người ta tụng kinh Kim Cang, Ngài khai ngộ, hỏi người tụng kinh tu ở đâu, người ấy cho biết đă tu học với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tại chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, xứ Kỳ Châu. Có một người khách cho 10 lạng bạc, bảo dùng tiền ấy xếp đặt việc ăn ở cho mẹ già, rồi tới huyện Hoàng Mai tham lễ Ngũ Tổ.
Sau khi an bề ăn ở của mẹ già, Ngài Huệ Năng đi không quá ba mươi ngày, đến nơi ra mắt Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi: " Người từ đâu lại, muốn cầu chi ?". Ngài Huệ Năng đáp :" Đệ tử là dân thường xứ Lănh Nam, từ xa lại đây lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, không cầu chi khác ! "
Ngũ Tổ nói: " Người Lănh Nam là giống muông mọi làm sao làm Phật được?". Huệ Năng đáp:" Người ta tuy có Bắc, Nam chớ Phật tánh vốn không Nam Bắc, thân muông mọi với thân Ḥa Thượng chẳng đồng, chớ Phật tánh có chi là khác biệt ?"
Ngũ Tổ c̣n muốn nói nữa nhưng thấy môn đồ vây quanh, bèn sai đi làm phận sự. Ngài Huệ Năng thưa thêm: " Kẻ đệ tử nầy trong tâm thường sanh trí tuệ, chẳng rời khỏi tự tánh, tức là phước điền rồi, chưa hay Ḥa Thượng dạy làm việc chi ? ". Ngũ Tổ nói: " Chà quân mang mọi nầy căn tánh nhậm lẹ, thôi đừng nói nữa, hăy đi xuống tào ngựa đi ."
Huệ Năng lui xuống nhà sau, có người sai Huệ Năng bửa củi, giă gạo trải qua tám tháng có hơn, một ngày kia Ngũ Tổ xảy thấy Huệ Năng, ngài bảo rằng: " Ta thấy ư kiến nhà ngươi có thể dùng, nhưng sợ e kẻ khác làm hại cho nên chẳng nói với ngươi, ngươi biết chăng ?" Ngài Huệ Năng đáp: "Đệ tử cũng biết ư Thầy cho nên chẳng dám đi ra phía trước đặng cho người ta chẳng hay biết."
Một ngày kia Tổ Kêu các môn đồ lại và dạy rằng: " Người trong đời sanh tử là việc lớn, các ngươi cứ lo làm việc phước mà chẳng cầu ra khỏi sanh tử. Cái tánh của ḿnh nếu c̣n mê cái phước làm sao cứu đặng ra khỏi luân hồi. Các ngươi hăy lui ra, tự xét cái trí huệ, lấy tánh Bát Nhả nơi tâm ḿnh, mỗi người làm một bài kệ, đem lại tŕnh ta coi. Nếu ai ngộ được đại ư, th́ ta sẽ trao Áo và Pháp cho đặng làm tổ thứ sáu. Đi mau đi, cần phải nóng như lửa, chẳng đặng chậm trễ. Nếu c̣n phải suy nghĩ th́ chẳng dùng được. Người nào thấy đặng Tánh, coi trong lời lẽ sẽ thấy ngay. Người như vậy như bậc tướng tài quơ đao xông ra trận, thấy th́ biết liền."
Mọi người lui ra, bàn tán và thấy chỉ có Thần Tú đang làm giáo thọ là đáng bực được truyền y bát kế thừa Tổ, cho nên mọi người ngầm ư để cho Thần Tú làm kệ. Thần Tú lại nghĩ ḿnh làm kệ với dụng tâm được truyền y bát, kiếm ngôi Tổ th́ là xấu mà chẳng làm th́ phụ ư thầy.
Phía trước giảng đuờng của Ngũ Tổ, có ba gian mái hiên, ngài định nhờ quan Cung Phụng Lư Trân vẻ biến tướng kinh Lăng Già và chơn dung năm vị tổ từ Đạt Ma sơ tổ đến Ngũ Tổ đặng lưu truyền. C̣n Thần Tú làm xong bài kệ mấy lần muốn tŕnh Thầy mà c̣n ngại, sau bốn ngày với 13 lần muốn tŕnh kệ chẳng đặng, Thần Tú bèn có ư viết bài kệ vào vách của mái hiên, nếu Ngũ Tổ thấy, cho là được th́ Thần Tú nhận của ḿnh, c̣n nếu Tổ chê th́ Thần Tú sẽ vào núi sâu mai danh ẩn tích.
Vào canh ba đêm kia, Thần Tú viết bài kệ vô vách phía Nam, tŕnh ư kiến từ trong tâm ḿnh:
Thân thị bồ đề
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai
Nghĩa:
Thân là cây Bồ Đề
Tâm như cái gương tỏ
Thường khi lo phủi chùi
Đừng để đóng bụi lọ.
Trời sáng Ngũ Tổ mời quan Cung Phụng họ Lư tới vách tường phía Nam để vẽ, xảy thấy bài kệ, Tổ nói với quan Cung Phụng: " Quan Cung Phụng chẳng cần vẽ nữa. Làm nhọc Ngài từ xa lại đây nhưng kinh có dạy rằng :" Hể cái ǵ có h́nh tướng, đều là hư vọng" Chỉ lưu bài kệ nầy cho người ta tụng tŕ, y theo bài kệ nầy mà tu, khỏi đọa nẻo ác, y theo bài kệ nầy mà tu, có lợi ích lớn."
Ngũ Tổ liền sai đồ đệ đốt hương, lể kính rồi tụng bài kệ ấy, tức sẽ thấy Tánh. Các đệ tử tụng kệ, đều khen hay.
Tới canh ba đêm ấy, Tổ kêu Thần Tú vào chánh đường hỏi có phải bài kệ của Thần Tú không? Thần Tú nhận là của ḿnh làm, chẳng phải cầu được làm tổ mà chỉ mong Ngũ Tổ xem xét định giá về trí tuệ của ḿnh.
Tổ dạy rằng, Thần Tú làm bài kệ ấy, thật chưa thấy Tánh, chỉ tới ngoài ngơ chưa vô trong cửa. Theo như chỗ thấy và chỗ hiểu ấy mà cầu đạo vô thượng th́ chẳng đặng. Ngài dạy Thần Tú thêm, đạo vô thượng vốn tự bổn tâm, thấy tự bổn tánh chẳng sanh, chẳng diệt, không trệ, tự nhiên như nhiên. Cái tâm như nhiên là chơn thật. Nếu chỗ thấy như vậy là tánh tự nhiên của Đạo Vô Thượng. Ngũ Tổ bảo Thần Tú hăy lui ra suy nghĩ trong đôi ngày để làm kệ khác tŕnh lại, nếu được nhập môn Tổ sẽ truyền trao y, bát. Thần Tú lễ Tổ lui ra, qua vài ngày vẫn không làm được bài kệ, đi đứng chẳng yên, tinh thần không được vui vẻ.
Lại hai ngày sau, có một chú tiểu đi ngang qua chỗ Huệ Năng giă gạo, xướng tụng bài kệ ấy, Ngài Huệ Năng nghe qua một lần liền biết chưa thấy bổn tánh, tuy chưa được đội ơn thọ lấy giáo pháp, nhưng đă sớm biết đại ư. Bèn hỏi chú tiểu: " Kệ ǵ chú tụng vậy ?"
Chú tiểu nói: " Cái anh xứ muông mọi chẳng hiểu ǵ cả. Đại Sư ngài đă nói: Người trong đời, sanh tử là việc lớn, Ngài muốn giao truyền Y, Pháp các môn đồ làm kệ đem tŕnh, nếu ai ngộ được đại ư, th́ Ngài giao áo và Pháp để làm tổ thứ sáu. Thượng Toạ Thần Tú đă viết nơi vách ở phía Nam bài kệ Vô tướng. Đại Sư khiến mọi người đều tụng, theo kệ mà tu khỏi đọa nẻo ác, có lợi ích lớn." Ngài Huệ Năng nói: " Thượng nhơn ơi ! Tôi cũng muốn tụng bài kệ đó, để kết mối duyên sau. Tôi đă giă gạo hơn tám tháng dư, chưa từng đến phía trước, mong người hăy dẫn đến trước bài kệ, để tôi lễ bái."
Chú tiểu liền làm theo lời yêu cầu. Đến nơi, Ngài Huệ Năng nói: " Tôi không biết chữ, xin ngài hăy v́ tôi đọc cho." Lúc ấy có quan Biệt giá Giang Châu Trương Nhật Dụng liền cao giọng đọc. Ngài Huệ Năng nghe xong liền nói: " Tôi cũng có một bài kệ, cúi mong quan Biệt Giá viết dùm." Biệt Giá nói: " Anh cũng làm kệ, việc thật ít có." Ngài Huệ Năng quay qua quan Biệt Giá nói: " Muốn học đạo vô thượng không nên khinh người mới học. Hạng dưới đôi khi có trí hơn bậc trên cùng. Bậc trên cùng cũng có khi trí kém. Nếu khinh người th́ có vô lượng vô biên tội."
Quan Biệt Giá nói: " Anh hăy tụng kệ, tôi viết cho. Nếu anh đắc pháp xin đừng quên độ tôi trước hết nghe !"
Ngài Huệ Năng nói kệ :
Bồ Đề bổn vô thọ
Minh Kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhạ trần ai
Nghĩa là:
Vốn không cây Bồ Đề
Cũng chẳng đài gương tỏ
Vốn không có vật ǵ.
Chổ nào đóng bụi lọ.
Bài kệ viết xong, môn đồ đều sợ, không ai chẳng khen và nghi hoặc, họ nói: " Kỳ thay, không thể lấy tướng mạo mà định người. Tại sao lại có thể sai khiến vị Bồ tát xác thịt nầy!?" Tổ thấy mọi người kinh ngac, sợ người ta làm hại, bèn lấy dép bôi bài kệ đi và nói: " Cũng chưa thấy Tánh ". Môn đồ nghe theo lời Ngũ Tổ, cho là như thế.
Hôm sau, Tổ lựa lúc không có người, tới chỗ giă gạo, thấy Huệ Năng v́ ốm yếu, phải đeo đá để đứng trên chày giă gạo, Ngài nói: " Người cầu Đạo v́ Pháp mà quên ḿnh đến thế sao?!" Rồi Tổ hỏi: " Gạo giă đă trắng chưa ?" Huệ Năng bạch rằng: " Gạo giă đă trắng lâu rồi, chỉ c̣n thiếu cái sàng ở đây ". Tổ lấy gậy đánh xuống cối 3 cái, rồi bỏ đi, Huệ Năng hiểu được ư Ngũ Tổ.
Nửa đêm hôm ấy, Ngài Huệ Năng lén vào thất của Ngũ Tổ, Tổ lấy áo cà sa che vây quanh, cho người ngoài chẳng thấy rồi Tổ giảng kinh Kim Cang, đến câu : " Nên không trụ vào đâu mà sanh ra tâm của ḿnh " Huệ Năng nghe qua, đại ngộ được lẽ: Hết thảy muôn pháp đều chẳng rời khỏi tính tự nhiên, bèn bạch với Tổ: " Dè đâu tánh tự nhiên vốn tự thanh tịnh, dè đâu tánh tự nhiên vốn chẳng sanh diệt, dè đâu tánh tự nhiên vốn nó đầy đ?, dè đâu tánh tự nhiên vốn không lay động, dè đâu tánh tự nhiên thường sanh muôn pháp. "
Tổ biết Huệ Năng đă ngộ về bổn tánh nên bảo thêm: " Kẻ nào chẳng biết bổn tâm th́ học đạo vô ích. Nếu ai biết bổn tâm tự nhiên, thấy bổn tánh tự nhiên, tức thị kêu là bực trượng phu là Thầy của Trời, người là Phật."
Tổ truyền giáo pháp và Y, Bát mọi người chẳng hay. Tổ dạy rằng: " Nhà ngươi làm tổ đời thứ sáu khéo hộ niệm lấy ḿnh, hăy độ rộng chúng sinh, lưu truyền đạo lư cho đời sau, đừng để cho dứt đứt. "
Rồi Ngũ Tổ đọc một bài kệ:
Hữu t́nh lai há chủng
Nhơn địa quả hoàn sanh
Vô t́nh diệc vô chủng
Vô tánh diệc vô sanh.
Nghĩa là:
Có t́nh lại gieo giống
Nhơn đất quả lần sanh
Không t́nh cũng không giống
Không tánh cũng không sanh.
Ngũ Tổ lại nói: " Thuở xưa Tổ Đạt Ma lại đất này người ta chưa tin, cho nên truyền Áo nầy đặng làm thể tin, đời nầy truyền nối qua đời kia. C̣n Pháp th́ lấy tâm truyền tâm, đều khiến cho ngộ lấy, hiểu lấy. Từ xưa chư Phật chỉ truyền cho nhau cái bổn thể, các Sư trao ngầm cho nhau cái bổn tâm. Chớ Áo là mối tranh, thôi nhà ngươi đừng truyền. V́ nếu truyền Áo nầy th́ mạng nguy như sợi tơ treo vậy. Nhà ngươi nên đi mau kẻo e người ta làm hại. "
Huệ Năng hỏi : " nên đi về đâu ? " Tổ dạy: " Gặp Hoài th́ dừng, gặp Hội th́ ẩn."
Huệ Năng lănh Áo, Bát rồi nhưng chẳng biết đường ra bờ sông, Tổ dạy là để Tổ đưa đi.
Ngũ Tổ đưa thẳng tới trạm Cửu Giang, rồi bảo Huệ Năng lên thuyền, c̣n Ngài cầm mái chèo. Huệ Năng bạch: " Xin Ḥa Thượng ngồi để đệ tử chèo mới phải." Tổ nói: " Lẽ th́ ta độ cho nhà ngươi." Ngài Huệ Năng tiếp: " Lúc mê th́ thầy độ cho, khi tỉnh th́ độ lấy ḿnh. Độ tuy là một tiếng, mà chỗ dùng th́ chẳng đồng nhau. Huệ Năng nầy sanh tại chốn biên thùy, giọng nói chẳng được đúng, được thầy truyền Pháp, nay đă đắc ngộ rồi, chỉ nên do tánh ḿnh mà độ lấy ḿnh thôi ".
Tổ nói: " Phải vậy, phải vậy... Phật pháp từ đây do nhà ngươi thi hành cho lớn ra, nhà ngươi đi rồi ba năm, ta sẽ qua đời. Nay nhà ngươi đi cho may mắn, rán sức đi về phương Nam, chẳng nên vội nói sớm, pháp Phật khó khởi ".
Huệ Năng được Tổ truyền Y, Bát vào năm Tân Dậu ( 661 ), từ biệt Tổ đi về phía Nam, trong hai tháng tới núi Đại Sưu. Phía sau có vài trăm người rượt tới để đoạt Áo và Bát. Trong bọn có Trần Huệ Minh, vốn là vơ quan tứ phẩm đi tu nên tánh thô tục. Huệ Minh là người đứng đ?u trong bọn người t́m kiếm Ngài Huệ Năng, khi Huệ Minh theo kịp, Huệ Năng để Y, Bát xuống ḥn đá mà nói rằng: " Áo nầy chỉ để làm dấu tin, há nên tranh giành quá sao ? " Rồi Ngài Huệ Năng ẩn trong bụi cỏ rậm. Huệ Minh rượt tới muốn lượm lấy Y, Bát nhưng không cử động được. Bèn la lên: " Hành giả ôi! Tôi v́ Pháp mà lại chớ chẳng phải v́ Áo mà lại đâu."
Nghe thấy vậy, Ngài Huệ Năng bèn rời chỗ nấp, ra ngồi xếp bằng tại trên ḥn đá. Huệ Minh làm lễ và thưa rằng: " Mong rằng hành giả v́ tôi mà thuyết Pháp cho nghe." Ngài Huệ Năng nói: " Nhà ngươi v́ Pháp mà lại th́ nên dẹp tắt các duyên đi, đừng sanh một ḷng nghĩ ǵ hết; ta sẽ nói rơ cho nhà ngươi nghe ", rồi một lúc sau, chờ cho Huệ Minh lắng tâm thanh tịnh Ngài mới nói: " Chẳng nghĩ điều lành, chẳng nghĩ điều dữ, chính trong lúc ấy mới hiểu rơ diện mục bổn lai của bực Thượng Tọa ".
Huệ Minh nghe rồi đại ngộ, lại hỏi thêm: " Từ trước tới nay ngoài lời nói kín do mật ư phát ra, c̣n có mật ư nào nữa chăng ? " Huệ Năng trả lời. " Cái tôi đă nói với ông th́ không phải là sự bí mật, nếu ông tự phản chiếu th́ mật ư chính ở bên ông vậy!" Huệ Minh nói: " Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai thật chưa từng xét ra diện mục của ḿnh. Nay nhờ ơn chỉ biểu như người uống nước, lạnh hay ấm tự ḿnh biết lấy. Nay Ngài tức là thầy của Huệ Minh ". Ngài Huệ Năng nói: " Anh được như vậy th́ chính là cùng tôi tôn Ngài Hoàng Mai làm thầy, hăy khéo tự hộ tŕ lấy ḿnh ". Huệ Minh lại hỏi: " Từ nay về sau, Huệ Minh nầy nên đi xứ nào ? " Huệ Năng đáp: " Gặp Viên th́ ngừng, gặp Mông th́ ở." Huệ Minh làm lễ từ biệt. Rồi Huệ Minh trở lại đám người kia, bảo họ là không thấy dấu, nên họ chuyển sang t́m hướng khác. Sau nầy Huệ Minh đổi tên ḿnh thành Đạo Minh.
Rồi Ngài Huệ Năng lần đến thôn Tào Hầu, quận Thiều Châu, không có người nào biết mà ẩn náu. Khi ấy có Lưu Chí Lược, nhà nho đăi Sư rất hậu, Chí Lược có người Cô là Ni Sư hiệu là Vô Tận Tạng thường tụng kinh Niết Bàn. Sư nghe qua liền biết nghĩa mầu nhiệm, bèn giải thuyết cho nghe. Ni Sư cầm quyển kinh hỏi chữ. Sư bảo không biết chữ nhưng cứ hỏi nghĩa Sư giải thích cho. Ni Sư nói: " Chữ c̣n chẳng biết sao hiểu được nghĩa" Sư nói: "Lư mầu nhiệm của chư Phật chẳng quan hệ ǵ với văn tự ".
Ni Sư ngạc nhiên và báo cho mọi người rơ: "Đây là người hiểu Đạo, nên thỉnh cúng dường".
Thuở ấy, trong thôn có Tào Thúc Lương cháu 5 đời của Tào Tháo và dân chúng ở gần đua nhau lại chiêm bái Sư. Đương thời, ở thôn Tào Khê có một ngôi chùa cũ tên là Bảo Lâm v́ nạn binh lửa cuối đời Tùy đă để bỏ, người ta bèn cất lại rước Sư về ở đó. Ngôi chùa nầy nguyên do Ngài Trí Dược khuyên bảo dân Tào Hầu dựng nên và có báo rằng: " Lối một trăm bảy chục năm nữa sẽ có vị Vô Thượng Pháp Bảo đắc đạo ở đây, kể đắc đạo đông như rừng, chùa cất th́ đặt hiệu là Bảo Lâm." Chùa cất xong quan Mục Thiều Châu là Hầu Kính Trung soạn tờ biểu dâng lên triều đ́nh, được vua Lương Vơ Đế chuẩn lời ban cho tấm biễn là Bảo Lâm Tự, đó là năm thứ ba triều Thiên Giám ( 504 ).
Ngài Huệ Năng ngụ ở đây hơn chín tháng, lại bị một số người truy lùng, Sư trốn qua ngọn núi phía trước, lại bị bọn chúng đốt núi nhưng may mắn Sư tránh khỏi, nhớ đến lời Ngũ Tổ dạy: Gặp Hoài th́ dừng, gặp Hội th́ ẩn nên Sư đi đến huyện Tứ Hội theo đám thợ săn ở ẩn. Ở với đám thợ săn, Ngài tùy nghi mà nói đạo cho họ nghe, khi nào bọn thợ săn sai giữ lưới, mỗi khi thấy muông thú sa vào, Ngài đều thả hết. Đến mỗi bửa ăn, chỉ lấy rau ở trong nồi thịt mà ăn. Có kẻ hỏi th́ đáp: " Chỉ ăn rau bên thịt ". Trải qua mười lăm năm, đến một ngày kia Ngài suy nghĩ, lúc nầy nên hoằng pháp, không thể ẩn núp nữa.
Bèn đi đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, ngày mồng 8 tháng Giêng Bính Tư ( 675 ), gặp lúc Ấn Tông Pháp Sư giảng kinh Niết Bàn. Khi ấy gió thổi lá phướng lay động, có hai ông Tăng bàn cải với nhau, kẻ cho " gió động ", người cho " phướng động " chẳng ai chịu thua ai. Ngài Huệ Năng bước tới nói rằng: " Chẳng phải gió động, chẳng phải phướng động, ấy là ḷng người động." Mọi người ngạc nhiên.
Ấn Tông mời lên chiếu trên ngồi, cầu hỏi nghĩa lư Phật pháp, thấy Ngài Huệ Năng lời giản dị, lư chánh đáng, không do văn tự. Ấn Tông hỏi: "Ngài chắc không phải người thường. Từ lâu nghe Áo, Pháp của Ngài Hoàng Mai xuống phương Nam, chắc là Ngài phải chăng ?" Ngài Huệ Năng đáp: " Không dám !"
Rồi Ấn Tông làm lễ xin đem Y, Bát cho đại chúng coi. Ấn Tông lại hỏi thêm: " Ngài Hoàng Mai giao phó cho Ngài th́ chỉ thị những ǵ ?" Ngài đáp: " Không chỉ thị ǵ, chỉ bàn thấy Tánh, chớ không bàn Thiền Định, Giải Thoát." Ấn Tông hỏi: " Tại sao không bàn thiền định và giải thoát ? " Ngài đáp: " Đó là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp th́ không phải hai ". Ấn Tông lại hỏi: " Thế nào là pháp không hai của Phật pháp ? " Ngài đáp: " Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn, làm sáng tỏ Phật tánh, đó là Phật pháp chẳng có hai. Như Ngài Cao Quí Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: " Những kẻ phạm bốn giới cấm nặng, làm năm tội nghịch và bọn không tin Phật pháp ( Nhứt Xiển Đề ) có dứt mất thiện căn, Phật tánh hay không ? " Phật đáp: " Thiện căn có hai; một thường; một vô thường. Phật tánh không thường cũng không vô thường, bởi vậy cho nên chẳng dứt đặng. Gọi là không hai: Một là thiện, hai là không thiện mà Phật tánh không thiện cũng không bất thiện nên gọi là không hai. Uẩn cùng với Giới, phàm phu thấy là hai, c̣n người đă đạt ngộ th́ tánh nầy không hai. Tánh không hai tức là Phật tánh."
Ấn Tông nghe xong, hoan hỷ chấp tay mà nói: " Tôi giảng kinh như ngói gạch, Ngài luận nghĩa như vàng ṛng." Ngài Huệ Năng bèn mở Pháp môn Đông Sơn ở gốc cây Bồ Đề, cây nầy do Ngài Trí Dược đem từ Ấn Độ sang trồng tại đây. Vào năm đầu Thiên Giám của vua Lương Vơ Đế ( 502 ), có dựng bia ghi: " Sau đây lối một trăm bảy chục năm sẽ có vị Bồ Tát xác thịt khai diễn thuyết thượng thừa tại dưới cây nầy độ cho vô lượng chúng là vị pháp chủ chơn truyền tâm ấn Phật vậy." Nơi đây Ngài Cầu-Na-Bạch-Đà-La tam tạng pháp sư cũng có dựng bia vào thời Lưu Dụ ( 420-478 ), có ghi rằng: " Sau nầy sẽ có vị Bồ Tát xác thịt thọ giới ở đây."
Đến ngày rằm tháng Giêng năm ấy, Ấn Tông họp tứ chúng xuống tóc cho Ngài Huệ Năng và đến ngày mồng tám tháng Hai, nhóm các vị đức hạnh danh tiếng đương thời như Ngài Trí Quang Luật Sư ở Trường An làm Thọ Giới Sư, Ngài Huệ Tịnh Luật Sư ở Tô Châu làm Yết Ma, Ngài Thông -ng ở Kinh Châu làm Giáo Thọ, Ngài Kỳ-Đa-La Luật Sư ở Trung Ấn làm Thuyết Giới. Ngài Mật-Đa Tam Tạng Pháp Sư ở Ấn Độ làm chứng minh, để cho Ngài Huệ Năng thọ giới, Ấn Tông từ đây tôn Ngài Huệ Năng tức Lục Tổ làm thầy.
Mùa Xuân năm sau, Ngài từ giả tứ chúng về chùa Bảo Lâm, Ấn Tông Pháp Sư, các tăng ni Phật tử có trên ngàn người đưa Ngài tới Tào Khê. Khi ấy Ngài Thông -ng luật sư ở Kinh Châu cùng vài trăm học giả nương theo Sư. Sư thấy chùa Bảo Lâm chật hẹp nên có đến viếng Trần Á Tiên, người trong vùng để xin cúng dường đất cất thêm trang viện. Trần Á Tiên bằng ḷng hiến cúng tất cả đất đai trong ấy kể cả mả mồ tứ đại để xây dựng chùa. Sư đi dạo chơi trong vùng đất ấy, gặp cảnh tốt bèn dừng nghỉ rồi cất thành một chùa nhỏ, tổng cộng được 13 chùa nhỏ trong vùng đất Tào Khê nầy. Lục Tổ về tới chùa Bảo Lâm v́ ở trong núi cách trở nên Thứ Sử Thiều Châu Vi Cứ cùng thuộc viên vào núi thỉnh Sư ra chùa Đại Phạm ở thành Thiều Châu khai duyên thuyết pháp.
Tiểu sử đắc pháp và các bài thuyết pháp chính yếu của Ngài ghi trong Pháp Bảo Đàn Kinh đều được giảng ở chùa Đại Phạm nầy.
Rằm tháng Giêng năm 684, Đường Trung Tông theo lời đề nghị của Huệ An Quốc Sư và Thần Tú Đại Sư, sai quan Nội Thị Tiết Giảng đến chùa Bảo Lâm thỉnh Lục Tổ vào triều để thuyết pháp cho Thái Hậu và Vua.
Lục Tổ dâng biểu cáo từ v́ bệnh, xin trọn đời được ở nơi núi non tu hành. Theo lời thỉnh cầu của Tiết Giảng về những vấn nạn Phật Pháp, Lục Tổ đă giảng dạy về tọa thiền về Phật tánh. Tiết Giảng được ngộ, trở về kinh tâu lên Vua.
Ngày mồng 3 tháng 9 năm ấy, Vua ban chiếu khen thưởng , cúng dường áo cà sa bá nạp và b́nh bát thủy tinh, truyền cho Thứ Sử Thiều Châu sửa sang chùa, lại truyền cất một ngôi chùa chỗ ở cũ của Lục Tổ, ban tên là chùa Quốc Ân:
Tháng 7 năm Nhâm Tư ( 685 ), Lục Tổ sai môn đồ qua chùa Quốc Ân tại Tân Châu xây tháp và khiến thợ làm mau, để cuối mùa hạ năm sau khánh thành.
Ngày mồng một tháng Bảy năm Quí Sửu ( 713 ), Sư nhóm đồ chúng mà dạy rằng: " Đến tháng 8 nầy ta muốn ĺa khỏi thế gian. Bọn ngươi có điều chi nghi, nên hỏi sớm đi, đặng ta phá nghi cho, khiến cho các ngươi hết mê. Chớ nếu sau ta đi rồi, không có người dạy các ngươi."
Các Sư như Pháp Hải nghe qua đều khóc, duy có Thần Hội là thần t́nh chẳng động, cũng không khóc. Lục Tổ nói: " Thần Hội tiểu sư ! Ví dầu được những điều lành hay chẳng lành, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, chẳng cho là được ǵ hết." C̣n các ngươi ! Ở trong núi bao nhiêu năm đă tu được những ǵ ? V́ ai mà ưu tư thương khóc. Nếu lo cho ta không biết chỗ đến ? Chính ta tự biết chỗ ḿnh đến. Nếu ta không biết chỗ đến, đă không báo trước cho các ngươi. Các ngươi thương xót khóc than, thật là chưa biết nơi ta đến. Nếu biết nơi ta đến tất chẳng nên than khóc làm chi. Pháp tánh vốn không sanh, không diệt, không đến, không đi. Tất cả hảy ngồi xuống ta sẽ đọc cho các ngươi một bài kệ gọi là: chơn, giả, động, tịnh. Các ngươi tụng bài kệ nầy. Đồng ư với ta, theo đó mà tu hành, chẳng sai tông chỉ.
Chư tăng làm lễ, thỉnh Lục Tổ đọc kệ, Ngài đă đọc bài kệ như sau:
Hết thảy không có chơn,
Chẳng đem coi là chơn
Nếu coi là chơn đó y coi hết chẳng chơn
Nếu tự ḿnh có chơn
Ĺa giả, tức tâm chơn
Tâm ḿnh chẳng ĺa giả
Không chơn, chốn nào chơn?
Có t́nh liền biết động
Không t́nh liền chẳng động
Nếu ta chẳng động hành
Đồng không t́nh chẳng động
Nếu t́m thiệt chẳng động
Trên động có chẳng động
Chẳng động là chẳng động
Không t́nh không Phật chủng
Khéo phân biệt được tướng
Nghĩa đệ nhứt chẳng động
Chỉ làm kiến như vậy
Tức là chơn như dụng
Bảo người học đạo hay
Rán sức nên dụng ư
Đừng ở cửa Đại Thừa
Giữ lấy trí sanh tử
Nếu dưới lời ứng nhau
Liền cùng bàn Phật nghĩa
Nếu thiệt chẳng ứng nhau
Chấp tay, khiến hoan hỷ
Tông nầy vốn không tranh
Tranh liền mất đạo ư
Pháp môn chấp nghịch tranh
Tự tánh vào sanh tử.
Lục Tổ kệ xong, tất cả đều làm lễ, thảy đều giữ tâm y theo pháp tu hành không dám tranh cải. Khi biết Lục Tổ chẳng c̣n trụ thế lâu đời. Sư Pháp Hải đến trước Tổ lễ Ngài để hỏi:
- Sau khi Ḥa Thượng nhập diệt, Áo Pháp nên giao cho ai ?
Lục Tổ bảo: " Từ khi ta thuyết pháp ở chùa Đại Phạm đến giờ, hảy ghi chép lại lưu hành, đề tựa là " Pháp Bảo Đàn kinh ". Các ngươi hăy ǵn giữ truyền trao cho nhau, độ cho quần sanh. Theo y như thuyết nầy, đó là chánh pháp. Nay ta thuyết pháp cho các ngươi nghe chớ không có truyền Áo nầy. Thật là v́ tín căn của các ngươi thuần thục quyết định chẳng nghi, nhậm nỗi việc lớn. Theo ư kệ của Tổ Sư Đạt Ma truyền trao th́ Áo không nên truyền nữa."
Ngô bổn lai tư độ
Truyền Pháp cứu mê t́nh
Nhứt hoa khai ngủ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Nghĩa:
Vốn ta lại đất ấy,
Truyền Pháp cứu mê t́nh
Một hoa trổ năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
Ngày mồng 8 tháng 7 Quí Sửu ( 713 ), Lục Tổ bảo môn đồ rằng: " Ta muốn về Tân Châu, các ngươi sửa soạn thuyền chèo cho mau ". Các môn đồ khẩn thiết xin Tổ lưu lại lâu hơn. Tổ nói: " Chư Phật xuất hiện c̣n tỏ ra Niết Bàn. Có lúc lại, ắt có lúc đi, cũng là lẻ thường vậy. H́nh hài nầy của ta ắt có nơi về. "
Môn đệ hỏi: " Từ đây Sư đi, sớm muộn ǵ cũng có khi trở về ? " Sư đáp: " Lá rụng về cội. Không hẹn ngày trở về."
Môn đệ lại hỏi: " Chánh pháp truyền trao cho ai ? " Sư đáp: " Kẻ có đạo th́ đắc, kẻ vô tâm th́ thông."
Môn đồ lại hỏi thêm: " Sau nầy có nạn ǵ chăng ? " Sư đáp: " Sau khi ta diệt độ năm, sáu năm sẽ có người lại lấy đầu ta, hăy nghe lời sấm kư của ta :
Đầu thượng dường thân
Khẩu lư tu san
Ngộ Măn chi nan
Dương Liễu vi quan ".
Nghĩa là :
Trên đầu thờ cha mẹ
Trong miệng cần miếng ăn
Gặp cái nạn thằng Măn
Lúc Dương, Liễu làm quan
Rồi Lục Tổ rời Tào Khê, đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu. Ngày mồng 3 tháng 8 năm Quí Sửu ( 713 ) Lục Tổ thọ trai ở chùa Quốc Ân xong, Ngài bảo các môn đồ rằng: " Các ngươi đều y vị thứ mà ngồi, ta từ biệt các ngươi đây."
Sư Pháp Hải bạch xin Ngài lưu lại một thời pháp, khiến cho người mê sau thấy được Phật tánh. V́ lời thỉnh cầu đó, Lục Tổ thuyết một bài pháp Phật tại tâm chúng sinh và lưu một bài kệ " Tự Tánh Chơn Phật ".
Lục Tổ đọc kệ xong bảo đồ chúng, sau khi Ngài diệt độ, đừng khóc lóc, đừng nhận phúng điếu, đừng mặc đồ tang, ấy không phải là chánh pháp. Rồi Ngài đọc một bài kệ:
Ngột ngột bất tu thiện
Đằng đằng bất tạo ác
Tịch tịch đoạn kiến văn
Đảng đảng tâm vô trước
Nghĩa là :
Sững sững chẳng tu hành
Trơ trơ không tạo dữ
Thấy nghe dứt như không
Tâm không chút nghi lự.
Kệ xong, Lục Tổ ngồi ngay ngắn cho tới canh ba, th́nh ĺnh bảo môn đồ: " Ta đi đây ". Rồi Ngài tịch diệt.
Lục Tổ thọ 76 tuổi. Năm 24 tuổi c̣n là cư sĩ được trao truyền Y, Bát . Năm 39 tuổi, xuống tóc thọ cụ túc giới. Thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh 37 năm, kẻ ngộ đạo cao siêu rất nhiều, kẻ được nối pháp có 43 người, môn đệ anh tuấn có Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Hà Trạch Thần Hội, Vỉnh Gia Huyền Giác, Nam Dương Tuệ Trung, Pháp Hải . Chính Ngài Pháp Hải thường theo Lục Tổ ghi chép thuyền ngữ, ngôn hành rồi soạn thành bộ Tôn Bảo. Sau nầy Linh Thao dựa theo đó và các văn bia của Thượng Thư Vương Duy, Thứ Sử Liễu Tôn Nguyên và Lưu Vũ Tích soạn thành Pháp Bảo Đàn Kinh.
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 2 of 34: Đă gửi: 04 June 2005 lúc 1:54am | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
Môn đồ của Ngài Nam Nhạc sau phân lập thành 2 tông phái Thiền là Lâm Tế và Quy Ngưỡng.
C̣n môn đồ của Ngài Thanh Nguyên sau phân lập thành 3 tông phái Thiền là Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhẫn. Năm tông nầy ứng với câu kệ: " Nhứt hoa khai ngũ diệp."
Đến tháng 11 năm ấy, quan lại, môn đồ của Ngài ở ba quận Quảng Châu, Thiều Châu và Tân Châu đều muốn giữ nhục thân của Ngài để tôn thờ, nên cuối cùng phải giải quyết, đốt hương khấn nguyện với Ngài " Hễ khói nhang bay về hướng nào, nhục thân sẽ được rước về đó ". Rồi khói nhang bay về hướng Tào Khê.
Ngày 13 tháng 11 năm Quí Sửu ( 713 ). Linh cửu, Y, Bát được rước về Tào Khê.
Ngày 25 tháng 7 năm Giáp Dần ( 714 ), tổ chức lễ nhập tháp cho nhục thân Lục Tổ. Những bảo vật như Y, Bát của Tổ Đạt Ma truyền lại, Y ma nạp, Bát thủy tinh của Vua Trung Tông ban và tượng Lục Tổ do Sư Phương Biện đấp cùng các đạo cụ, đều giao cho thị giả của Lục Tổ, để tại chùa Bảo Lâm.
Đêm mồng 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 722 ), th́nh ĺnh nghe trong tháp như có tiếng kéo dây sắt. Chúng tăng giựt ḿnh thức dậy, ngó thấy một người mặc đồ đại tang từ trong tháp chạy ra. T́m thấy có vết thương tại nơi cổ Lục Tổ. Môn đồ đem chuyện ấy tŕnh lên quan trên. Quan huyện Dương Khản và Thứ Sử Liễu Vô Thiễm nhận được đơn, truy lùng kẻ phạm tội. Sau năm ngày t́m được tên Trương Tịnh Măn, người huyện Lương thuộc Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên xứ Hồng Châu, nhận do Thầy Sải Kim Đại Bi nước Hàn khiến mướn lấy đầu Tổ để đem về xứ Hải Đông cúng dường.
Quan Thứ Sử họ Liễu nghe lời khai, chưa gia h́nh, liền đến Tào Khê hỏi Sư Linh Thao: " Vụ án nầy, xử như thế nào ? " Linh Thao đáp: " Nếu lấy luật nước mà bàn, th́ nên giết. Nhưng lấy nghĩa từ bi của Phật giáo th́ oán thù như nhau, huống hồ ǵ hắn muốn cúng dường, th́ nên tha thứ vậy."
Liễu Vô Thiễm khen: " Mới hay cửa Phật quảng đại !"
Việc nầy ứng với câu sấm kư của Lục Tổ, nhục thân Ngài bị kẻ trộm người Mán cắt lấy đầu, lúc Dương Khản làm quan huyện và Liễu Vô Thiểm làm quan Thứ Sử.
Năm đầu Thượng Nguyên ( 760 ),Vua Túc Tông sai sứ thỉnh Y, Bát của Lục Tổ đem vào nội cung cúng dường. Qua năm đầu Vĩnh Thái ( 765 ), ngày 5 tháng 5 năm, Vua Đại Tông chiêm bao thấy Lục Tổ xin lại Y, Bát. Ngày mồng 7 tháng ấy, sai sứ là Trấn Quốc Đại Tướng quân Lưu Sùng Cảnh mang Y, Bát trả về chùa Bảo Lâm và truyền cho Thứ Sử Thiều Châu Dương Giam khiến chùa ǵn giữ cẫn thận và Vua đặt là Quốc Bảo.
Vua Đường Hiến Tông ( 806 - 821 ) ban thụy là Đại Giám Thiền Sư, đề tên tháp là Nguyên Ḥa Linh Chiếu.
Vua Tống Thái Tông ( 976 - 983 ) gia tặng thụy hiệu là Đại Giám Chơn Không Thiền Sư, chiếu sửa sang lại tháp và đặt tên là Thái B́nh Hưng Quốc Chi Tháp.
Năm 1033, Vua Tống Nhơn Tông ( 1023 - 1064 ) rước chơn thân, Y, Bát của Lục Tổ vào đại nội cúng dường lại gia tặng thụy hiệu là Đại Giám Chơn Không Phổ Giác Thiền Sư.
Vua Tống Thần Tông ( 1068 - 1086 ) gia tặng thụy hiệu là Đại Giám Chơn Không Phổ Giác Viên Minh Thiền Sư.
Sự thị hiện của Lục Tổ.
? ngoài thế tục, Lục Tổ là một người nghèo khó, bán củi nuôi mẹ độ nhật, vào chùa là phụ thung cư sĩ lo việc bửa củi, giả gạo, chớ chẳng có tụng kinh, nghe pháp. Hơn tám tháng chưa bước tới chánh điện, thậm chí đến việc Ngũ Tổ tập họp môn đệ lại, để dạy mỗi người làm một bài kệ tŕnh kiến giải của ḿnh về tánh Bát nhă, người ta cũng chẳng lưu tâm đến Ngài v́ Ngài là người miền Nam được liệt vào loại man di mà lại không biết chữ nữa! Vậy mà Lục Tổ đă ngộ được Phật tánh, chứng đắc pháp Phật, được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trao truyền Y Bát. Việc này phá bỏ tất cả những quan niệm, nhận thức sai lầm từ trước là chỉ có những người có học, những người có trí tuệ mới có thể tu học, chứng đắc được Phật pháp. Trường hợp Lục Tổ chứng thực rằng từ kẻ trí cho đến phàm phu đều có Phật tánh, cho nên đều có thể thành Phật. Là một trường hợp thuyết phục mạnh mẻ cho mọi người dễ tin rằng chân lư của đức Phật rơ ràng "Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính".
Chúng ta thấy rằng đạo Phật được truyền bá vào Trung quốc từ những năm trước Công Nguyên, cho đến đời Vua Minh Đế nhà Hậu Hán năm 67 TL nhà Vua sai sứ sang Tây Vực thỉnh tượng Phật, dọc đường sứ rước được hai nhà sư Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đưa về kinh đô, Vua mừng rở cho lập Bạch Mả Tự để hai nhà sư dịch kinh. Từ đó cho đến khi Ngài Huệ Năng cầu Pháp, đạo Phật đă truyền bá ở Trung Quốc trên 600 năm đă có những nhà sư Trung Quốc sang Ấn Độ thỉnh kinh như Ngài Pháp Hiển đi Ấn Độ từ năm 399 đến 414 và Ngài Trần Huyền Trang (600-664) đi Ấn Độ từ 629 đến 645, có nhiều Vua, quan đại thần đă quy y Tam bảo, dốc ḷng phụng sự Phật Pháp như là Lương Vơ Đế, một số nhà sư được phong làm Quốc Sư, cho thấy đạo Phật thời ấy ảnh hưởng mạnh mẻ đến Vua, quan và những nhà trí thức làm cho người ta có thể nghĩ rằng đạo Phật chỉ thích hợp cho hạng người trí thức, uyên thâm kinh điển, để nghiên cứu giáo lư. Trường hợp Ngài Huệ Năng là một biến cố, đạo Phật chân truyền từ đức Thế Tôn cho đến Ngài vẫn chỉ là một giáo lư, một chân lư. Tự tánh Bồ Đề bổn lai thanh tịnh, b́nh đẳng với mọi người, ai ai cũng có thể đạt tới thanh tịnh, thanh tịnh thường hằng ấy là đạt đạo vậy.
Tư tưởng căn bản của Lục Tổ.
Không phải tự nhiên mà Lục Tổ, hoặc là người viết Pháp Bảo Đàn Kinh đă đưa lên hàng đầu quyển kinh, cũng là lời mở đầu bài giảng ở chùa Đại Phạm khi Tổ được Thứ Sử Lưu Cứ thỉnh Ngài từ núi ra thành Thiều Châu giảng kinh:
- Thiện tri thức! Bồ Đề tự tánh, bổn lai thanh tịnh, đản dụng thủ tâm, trực liễu thành Phật.
Nghĩa là: Hởi chư thiện tri thức! Tự tánh Bồ Đề vốn thanh tịnh, chỉ dùng cái tâm nầy, đủ thành Phật vậy.
Ai cũng biết rằng Phật đă dạy "mọi chúng sanh đều có Phật tánh". Phật tánh ấy là tự tánh Bồ Đề là sự thanh tịnh. Làm thế nào giữ cho được tâm của ḿnh luôn luôn thanh tịnh th́ sẽ thành Phật.
Ở đây Lục Tổ khẳng định lại một lần nữa sự chứng đắc của Ngài :
Bồ Đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Qua bài kệ nầy, chúng ta thấy Ngài đă khẳng định tự tánh Bồ Đề vốn không là, không phải, không có một vật ǵ cả mà như vậy th́ nó thanh tịnh đó là Ngài định nghĩa. Bây giờ Ngài chỉ cho cách tu để thành bậc chánh giác ấy là phải giữ cho tâm luôn luôn được thanh tịnh tức là đạt đến cảnh giới Niết Bàn, đạt đạo tức là thành Phật.
Trong kinh Di Đà, Phật có dạy: "Nếu có thiện nam, tín nữ nào hoặc một ngày cho đến bảy ngày niệm danh hiệu Phật, tâm không tán loạn, khi sắp chết sẽ được Phật A Di Đà và chư vị Thánh hiện ra trước mắt. Khi chết mà tâm không tán loạn liền được sanh về cơi cực lạc của Phật A Di Đà. Nhờ đoạn kinh phổ quát nầy, chúng ta thấy rằng một khi ta nhứt tâm chánh niệm, không chút xao đ?ng th́ tâm ta đạt được cảnh giới thanh tịnh, tâm ấy là Bồ Đề tâm mà tánh ấy là tánh thanh tịnh: Không sanh, không diệt, không thêm, không bớt, không dơ, không sạch. Đó cũng là Trí Bát Nhă vậy. Đạt đến nhứt tâm bất loạn, tức là tâm Bồ Đề, tức là đă đến bờ bên kia. Một người ngồi thiền, một người niệm Phật đều có thể đạt được.
Tư tưởng căn bản của Lục Tổ được Ngài tŕnh bày thật rơ ràng, cô động và xúc tích.
Sự h́nh thành ḍng thiền đông độ.
Qua câu hỏi của Ngũ tổ : " Gạo giả đă trắng chưa ? ", nếu câu ấy Tổ hỏi chúng ta, chắc chúng ta sẽ trả lời một trong hai trường hợp " - Đă trắng hoặc chưa được trắng ". C̣n Huệ Năng hiểu theo mật ư là đă đạt đạo chưa ? Do đó Ngài trả lời là " - Gạo giả đă trắng, chỉ c̣n thiếu cái sàng ", có nghĩa là lư đạo đă thấu nhưng c̣n chờ người chứng đắc cho.
Rồi Ngũ tổ tay đang cầm quạt, gơ vào cối ba cái, ngài Huệ Năng hiểu liền đó là ước hẹn vào canh ba, cho nên ngài Huệ Năng canh ba đêm đó liền lẻn vào phương trượng của ngài Hoằng Mai, từ lời lẽ trong bài kệ đến những câu đối đáp, nhậm ư chứng tỏ căn tánh ngài Huệ Năng đă đạt đạo. Do đó Ngũ tổ đă trao truyền tâm ấn, giao phó cho Lục tổ trách nhiệm hoằng pháp, độ sanh, xiển dương chánh pháp, làm cho ḍng Thiền Đông độ ngày càng hưng thịnh hơn.
Lục tổ lấy kinh nghiệm bản thân ḿnh, không cần phải đọc thiên kinh, vạn quyển, chỉ giữ cho tâm thanh tịnh, trí Bát nhă tự nhiên sanh, chính Lục tổ đă tỏ ngộ được từ kinh Kim Cang, một kinh sắc như gươm, chặt đứt mọi phiền năo, triệt để phá chấp. Lục tổ dùng kinh Kim Cang làm tôn chỉ cho tông Vô niệm của ngài để lưu truyền hậu thế, thay chi Lăng già do Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ mang sang truyền trao lại.
Một vài nghi vấn
Việc Huệ Minh và những người chạy theo t́m Lục tổ để lấy lại y bát, làm cho nhiều người nghĩ rằng, đạo Phật là đạo diệt dục nhưng tại sao người ta c̣n Tham Sân Si, muốn chạy theo Lục tổ để dành lấy Y Bát ?
Hiểu như vậy cũng đúng nhưng mà nếu chúng ta ở vào hoàn cảnh một thiền sinh dưới trướng của Ngũ Tổ, chúng ta sẽ nghĩ và làm ǵ ? Đâu phải tất cả mọi người vào chùa tu là Thánh Tăng, xả ly tất cả mọi tham ái ? sân si ? Có những người đă tu lâu năm, có những người vừa mới tu, họ cũng là người tâm tánh cũng như chúng ta mà thôi, cho nên ai ai cũng tôn kính giáo thọ Thần Tú, mọi người đều nghĩ rằng Thần Tú sẽ được truyền y bát, gần nhất là bài kệ của người đă được Ngũ tổ tán dương. C̣n Huệ Năng, dưới mắt của các Thiền sinh chẳng qua là một anh chàng quê mùa, dốt nát, chỉ có làm công quả, chẳng có tụng kinh, ngồi thiền, sau ba ngày anh ta mất tích, Ngũ tổ cũng không thăng đường thuyết pháp, nay ngài cho biết Y Bát đă truyền cho Huệ Năng ! Có lẽ v́ ḷng Từ mà ngài phải nói như thế, để giúp cho Huệ Năng khỏi bị mang tội trộm cắp mà thôi, chớ sự trao truyền ấy có ai đă thấy ? Chàng ta đă xứng đáng chưa ? Chắc là chưa. V́ bài kệ của Huệ Năng đọc cho quan Biệt giá Trương Nhật Dụng chép lên vách, đă bị Ngũ tổ dùng dép xóa đi, trước mọi người ngài c̣n khẳng định là chưa đạt đạo kia mà. Nhưng có lẽ ḷng tham của Huệ Năng nỗi lên, đă đánh cắp Y Bát và trốn chạy, mà anh chàng nhà quê ấy c̣n trốn chạy đâu hơn là chạy về miền Nam.
Ở vào trường hợp nầy, Ngũ tổ có ḷng từ nên tha thứ, nhưng nếu chúng ta không chạy theo lấy lại Y Bát trả về cho Ngũ tổ mới là đáng chê trách người đệ tử không biết bảo vệ, phục vụ thầy tổ ḿnh. Cho nên Huệ Minh và những người sơ cơ khác chạy theo Lục Tổ để dành lại y bát, là một hành động đương nhiên thường t́nh, lư phải như vậy, c̣n nếu Thần Tú chạy theo mới đáng cho chúng ta chê trách.
Ngũ tổ v́ sao truyền Y Bát mà không cho chúng đệ tử rơ ? Lư do chánh yếu là ngài biết rơ ai ai cũng tôn thờ Thần Tú, từ lâu mọi người tin chắc rằng Thần Tú sẽ được truyền Y Bát, nay nếu tuyên bố Y Bát truyền cho Huệ Năng mọi người sẽ không thể phá chấp, sẽ xem Huệ Năng là một người quê mùa, dốt nát, tầm thường và Huệ Năng có thể bị ám hại, cho nên Ngũ tổ đă dạy Huệ Năng xuôi về Nam, ẩn thân một thời gian, như thế một là Huệ Năng đến miền đất xa lạ, chưa ai biết tông tích, người ta sẽ dễ dàng chấp nhận, tôn thờ, hai là thời gian ẩn thân để làm cho tâm mọi người lắng động, phải chấp nhận việc truyền trao Y Bát đó là đương nhiên, khi đă được một số người khác tôn sùng, họ sẽ bảo vệ thầy tổ của ḿnh, ba là Huệ Năng có đủ thời gian để nghiền ngẫm suy tư và chứng ngộ, chờ đợi một cơ hội thuận tiện khai mở ḍng thiền, ngài đă khai mở đúng lúc bằng một nhát búa bổ mạnh vào tâm thức hai thiền sinh về " tâm động ", trong khi họ căi với nhau v́ lá phướng động hay v́ gió động.
Khi tiễn Huệ Năng, Ngũ tổ cho biết ba năm sau người sẽ tịch, tại sao Ngài không dành ba năm đó để giảng dạy chữ nghĩa, kinh điển, khai mở trí tuệ cho Huệ Năng rồi mới trao truyền Y Bát, thật ra th́ Huệ Năng đă đạt đạo, sau nầy ngài đă nói với Ni sư Vô Tận Tạng : " Lư mầu của chư Phật chẳng quan hệ ǵ với văn tự ". Mà đúng vậy, Huệ Năng đâu đă học chữ nào mà đă ngộ được kinh Kim Cang, th́ cần ǵ Ngũ tổ phải dạy thêm chữ nghĩa, điều nầy lại hóa ra là một khẳng định, một phá chấp triệt để những lớp trước hoặc đương thời tôn sùng văn tự, phải lăo thông kinh điển, chẳng hạn như Tam Tạng Pháp sư Trần Huyền Trang, mới có thể tu học và chứng ngộ giáo lư đạo Phật.
Lănh Nam là tên vùng đất Việt Nam thời trước, nhưng cha mẹ của Huệ Năng đều là người Trung Hoa và chùa Quốc Ân ở xứ Tân Châu, nơi mà vua Đường Trung Tông ban cho ở chỗ cũ tức là đất Lănh Nam, chúng ta không thấy những sách Phật giáo Việt Nam xưa nói đến, phải chăng xứ Tân châu nằm ở Quảng Đông ngày nay, đất nầy thuộc Trung Quốc từ lâu vă lại Lục tổ cũng là người Trung Quốc nên các sách Phật giáo xưa đều không nói tới. Hơn nữa, trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn do Thiền sư Thích Thanh Từ dịch năm 1975 phần Lăng già tâm ấn duyên khởi, Kim Vô một Thiền sư Trung Hoa viết " ... Đến năm Mậu Tuất ( 1641 ), Ngài trở về Lănh Nam. Kim Vô tôi năm sau từ Ngọc Môn t́m đến ...", như vậy, Lănh Nam của Huệ Năng và của Kim Vô nói tới có thể là một và nó là đất Trung Hoa mà thôi.
Phương pháp thực hành.
Phương pháp thực hành của Lục Tổ được Ngài tạo thành một pháp môn Vô Niệm mà Ngài có nói rơ, lấy vô niệm làm tông, vô tướng làm thể và vô trụ làm gốc. Ngài dạy vô niệm là đối với chuyện nghĩ mà không nghĩ, Vô Tướng là đĨi với tướng mà rời khỏi tướng và Vô Trụ là chẳng trụ vào mỗi điều nghĩ, tức là không bị trói buộc.
Chúng ta có thể t́m hiểu thêm về tông vô niệm của Ngài do chính Ngài giảng: Sao kêu là vô niệm? Biết và thấy tất cả các pháp mà ḷng chẳng chấp nê, thấm nhiễm, ấy là vô niệm. Dùng đến liền biến khắp mọi nơi, cũng chẳng chấp nê hết thảy mọi nơi. Chỉ cốt trong sạch ḷng ḿnh, khiến cho sáu thức ra khỏi sáu cửa, ở trong lục trần mà không tạp, không nhiễm. Qua lại tự do, không dụng không trệ, tức là Bát Nhă Tam Muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm. Nếu đối với trăm vật chẳng nghĩ, rồi khiến cho niệm tuyệt, tức là hành pháp trói buộc, đó kêu là biên kiến.
Hỡi chư thiện tri thức! Hể ai ngộ được pháp vô niệm th́ thấy cảnh giới của chư Phật. Hể ai ngộ được pháp vô niệm tức đạt được địa vị Phật.
Để dạy người ta thực hành pháp vô niệm, Lục Tổ có 2 bài kệ, chúng tôi chọn một bài trích ra đây, v́ thấy rằng nó đầy đủ hơn bài kia:
Thuyết thông với tâm thông với hai tướng,
Như mặt trời treo tượng hư không
Chỉ truyền thấy tánh pháp ḍng
Ra đời phá bể tà tông ra ngoài.
Pháp chẳng cứ hai loài tiệm đốn
Chậm mau do ở chốn tĩnh mê
Cửa này thấy tánh th́ về
Người ngu che lấp chẳng hề tĩnh ra
Dầu giảng thuyết rộng xa muôn dặm
Mà lư th́ hiệp lại một đường
Trong nhà phiền năo mơ màng
Mặt trời huệ tỏ nên thường mọc ra
Hễ tà lại tức là phiền năo
Hễ chánh về phiền năo trừ đi
Chánh tà đều chẳng dùng chi
Một ḷng thanh tịnh đến th́ không dư
Bồ Đề vốn chơn như tự tánh
Hễ khởi ḷng bất chánh là sai
Tịnh tâm vẫn ở trong sai
Chánh xô ba chướng ra ngoài đạo ngay
Người đời nếu có hay tu lạy,
Hết thảy đều chẳng hại đạo mầu
Lỗi ḿnh ḿnh thấy làu làu
Tức là với đạo hai đầu tương đương
Loài sắc tự nó thường có đạo
Đều chẳng làm phiền năo chi nhau
Ĺa đạo, t́m đạo ở đâu?
Trốt đời chẳng thấy đạo mầu nơi nao
Một đời những lao đao v́ đạo
Rốt cuộc rồi áo năo lấy thân
Muốn t́m cho thấy đạo chơn
Làm ngay th́ đạo xây vần tới ngay
Tự ḿnh nếu không hay có đạo
Làm quấy th́ thấy đạo là ǵ.
Kẻ nào thiệt dạ tu tŕ
Tự nhiên chẳng thấy lỗi chi ở đời
Nếu ḿnh thấy những người làm quấy
Ḿnh quấy theo kẻ ấy thấp thay
Quấy ai ta chẳng quấy lây
Nếu ta cũng quấy lỗi rày ở ta
Vậy ta hăy ruồng xa ḷng quấy
Phiền năo trừ chẳng thấy năo phiền
Ghét yêu chẳng bận ḷng thiền
Ruổi dài hai cẳng nằm yên một giường
Với người khác t́m phương khuyến thiện,
Tự ḿnh nên phương tiện tùy cơ
Chớ cho họ có ḷng ngờ.
Tức là tự tánh bây giờ hiện ra
Pháp Phật ở đời ta như vậy
Chẳng ĺa đời mà thấy riêng bề
Ĺa đời kiến đạo bồ đề
Như t́m sừng thỏ chẳng hề thấy đâu
Chánh kiến ấy tên đầu xuất thế
Tà kiến là tiếng để thế gian
Chánh tà quét sạch một làn
Tánh bồ đề sẽ chan chan hiện trần.
Tụng nầy ấy là phần đốn giáo
Cũng kêu tên là đại pháp thuyền
Mê th́ hằng kiếp liên miên
Tĩnh th́ giây lát cũng liền thành luôn.
Về pháp môn thiền định Lục Tổ dạy: Hỡi chư thiện tri thức! Sao kêu là thiền định? Bên ngoài rời khỏi tướng là thiền. Bên trong chẳng loạn là định. Bên ngoài mắc lấy tướng th́ ở bên trong liền loạn. Bên ngoài nếu rời khỏi tướng, th́ tâm liền chẳng loạn. Bổn tánh tự tịnh, tự định; chỉ v́ thấy cảnh mà nghĩ đến cảnh liền loạn. Nếu thấy các cảnh mà tâm chẳng loạn, đó mới thiệt là định vậy.
Hỡi chư thiện tri thức! Ngoài rời khỏi tướng tức là thiền; trong chẳng loạn tức là định; ngoài thiền trong định đó tức là thiền định. Kinh Bồ Tát Giới chép rằng: "Bổn tánh của ta nguyên tự nó thanh tịnh".
Hỡi chư thiện tri thức! Ở trong mỗi lúc, mỗi giây nghĩ, tự ḿnh thấy bổn tánh thanh tịnh. Tự ḿnh tu, tự ḿnh hành, tự thành Phật đạo vậy.
Qua đây chúng ta thấy rằng từ tư tưởng căn bản tự tánh bồ đề vốn thanh tịnh, giữ cho tâm ḿnh luôn luôn được thanh tịnh tức là trở về với bổn tánh, khi đă hợp nhất với tự tánh th́ Bát Nhă Trí sanh, đạt quả vị Bồ Đề, phương pháp để đạt được là phải thiền định.
Phương pháp thiền của Lục Tổ như trên đă nói tức là giữ cho tâm được thanh tịnh không suy tư như Phật đă dạy: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" để đáp lại câu "vân hà hàng phục vọng tâm?"
Chính v́ vậy mà các Thiền Sư có lối la, hét, đánh đá những nhà Sư, trong các trường hợp các nhà Sư suy nghĩ để trả lời câu hỏi của Thiền Sư, bởi v́ có suy nghĩ là c̣n đi ngược lại phương pháp Thiền Định của Lục Tổ rồi.
Tổ đă nói trong bài kệ trên:
Bồ Đề vốn chơn như tự tánh
Hể khởi ḷng bất chánh là sai
Tịnh tâm vẫn ở trong sai.
Chánh xô ba chướng ra ngoài đạo ngay
Nguyên văn:
Bồ Đề bổn tự tánh.
Khởi tâm tức thị vọng.
Tịnh tâm tại vọng trung.
Đản chánh vô tam chướng.
Hiểu được phương pháp căn bản nầy th́ chúng ta thấy có những câu Tổ hỏi và những câu các đồ đệ trả lời không có liên quan chút nào hết, điều nầy nó thực chứng cho hành giả có giữ được bổn tánh thanh tịnh hay không.
1- Chẳng hạn Triệu Châu đến chỗ Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận, Hoàng Bá thấy Sư đến liền đóng cửa phương trượng. Sư lấy lửa đem vào pháp đường kêu:
- Cứu lửa, cứu lửa!
Hoàng Bá mở cửa, nắm Sư đứng lại, bảo:
- Nói! Nói!
Sư bảo:
- Cướp qua rồi mới trương cung.
2- Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi Thiền Sư Hoàng Bá:
- Thế nào là đại ư Phật pháp?
Hoàng Bá liền đập cho một gậy. Sau Sư lại hỏi hai lần nữa, cũng bị mỗi lần một gậy. Sư Lâm Tế phải từ giả sang tham vấn Thiền Sư Đại Ngu, thuật lại sự việc trên, và hỏi rằng như vậy có lỗi hay không mà bị đánh như thế. Đại Ngu nói: Hoàng Bá dạy ngươi thống thiết, tại ngươi c̣n t́m lỗi". Ngay câu nầy Sư Lâm Tế tĩnh ngộ.
C̣n Ngài Đại Ngu lúc c̣n đi học đạo, đến chào từ biệt Thiền Sư Trí Thường (Qui Tông). Ngài Trí Thường hỏi:
- Đi đâu?
- Đi các nơi học ngủ vị thiền.
- Các nơi ngủ vị thiền, ta trong ấy chỉ có nhất vị thiền.
- Thế nào là nhất vị thiền?
Ngài Trí Thường liền đánh. Đại Ngu nhờ vậy đại ngộ, thưa:
- Ngưng, con hội rồi.
- Nói! Nói!
Đại Ngu vừa nghĩ trả lời.
Ngài Trí Thường liền đánh đuổi đi.
3- Thiền Sư Qui Sơn Linh Hựu cùng chúng đi hái trà. Thiền Sư bảo Huệ Tịch:
- Trọn ngày hái trà chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy h́nh con, hảy hiện bổn h́nh cho ta thấy coi.
Huệ Tịch liền đập cây trà.
Thiền Sư bảo:
- Con chỉ được cái dụng của nó. Chẳng được cái thể của nó.
Huệ Tịch thưa:
- Chưa biết Ḥa Thượng thế nào?
Thiền Sư im lặng. Huệ Tịch nói:
- Ḥa Thượng chỉ được cái thể của nó, không được cái dụng của nó.
Thiền Sư bảo:
- Cho con hai chục gậy.
4- Thiền Sư Đơn Hà một hôm thượng đường tay nắm con mèo giơ lên bảo đồ chúng ai nói được sẽ tha con mèo c̣n không th́ sẽ giết nó. Mọi người đều yên lặng. Thiền Sư liền chặt đứt đầu con mèo.
Khi Ngài Triệu Châu về tới, Thiền Sư nói lại câu chuyện, Triệu Châu bèn cỡi giày đội lên đầu. Thiền Sư Đơn Hà bảo: "Giá khi năy có ngươi th́ đă cứu được con mèo." Có vị cho rằng Triệu Châu đă lấy đôi giày là cái ti tiện để trên đầu là chỗ cao quí, tức là muốn nói không có quí tiện, không phàm thánh, vượt ngoài đối đăi. Đó là một nghĩa nhưng cũng c̣n có một nghĩa nữa là đừng có suy nghĩ, Ngài chặt đứt đầu con mèo cũng là hành động dứt khoát chặt đứt mọi tư lương, phải quấy, thiện ác.... Hiểu như vậy th́ hành động của Triệu Châu đầy ư nghĩa giữ đúng tông phong của Lục Tổ. |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 3 of 34: Đă gửi: 04 June 2005 lúc 1:59am | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
Kết quả hoằng hóa của Lục Tổ.
Năm 24 tuổi xuất gia, hơn 8 tháng giả gạo, sàn thóc tại chùa Động Thiền huyện Hoàng Mai. Sau bài kệ tŕnh kiến giải, canh ba đêm sau được Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn chứng đắc rồi trao truyền Y , Bát và đưa lên đường về phương Nam để lánh nạn và hoằng dương chánh pháp sau nầy.
Từ Hoàng Mai xứ Kỳ Châu, Ngủ Tổ đă lánh nạn ở Thiều Châu. Lúc ở thôn Tào Hầu, lúc vào rừng ở huyện Từ Hội sống với bọn thợ săn, trải qua hơn 15 năm. Sau đó Lục Tổ mới đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu gặp Hoà Thượng Ấn Tông, Ấn Tông xuống tóc và tổ chức lễ cho Ngài thọ cụ túc giới, từ đây Ấn Tông tôn thờ Lục Tổ làm thầy.
Tại chùa Pháp Tánh Lục Tổ đă khai pháp môn tại đây, năm sau Ngài về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê hoằng hoá thiền tông, xiển dương chánh pháp trong 37 năm.
Mấy tháng cuối cùng Ngài về chùa Sắc Tứ Quốc Ân ở Tân Châu, nơi Ngài đă sanh để tịch.
Trải qua 52 năm kể từ ngày được truyền Y, Bát chứng đắc pháp môn. Lục Tổ đă lánh nạn tức là bảo vệ chánh pháp 15 năm. Mười lăm năm nầy ai đă từng trải qua những ngày tháng ẩn cư lánh nạn, chịu đựng bao nổi vất vả về vật chất lẫn tinh thần, mới thấy hết ư nghĩa v́ nhiệm vụ được truyền trao bảo vệ và hoằng dương chánh pháp của Ngài.
Ba mươi bảy năm thuyết pháp độ sanh, Lục Tổ đă giúp cho kẻ ngộ đạo cao siêu rất nhiều từ vua, quan cho đến thứ dân ở kinh đô cũng như ở chốn hoang dă. Những vị được nối pháp có 43 người; những vị mà chúng ta thường nghe nhắc đến trong sách thiền, trong các câu chuyện về thiền như:
Thiền Sư Hành Tư, Hoài Nhượng, Huyền Giác, Thần Hội, Pháp Hải, Quốc Sư Huệ Trung.
Thiền Sư Hoài Nhượng (667-744) truyền đến Đạo Nhất (709-788). Thiền Sư Đạo Nhất truyền đến Hoài Hải (720-814), Thiền Sư Hoài Hải truyền cho Vô Ngôn Thông (?-826) sang Việt Nam lập phái thiền Vô Ngôn Thông, Thiền Sư Hoài Hải truyền đến Linh Hựu (751-853), đệ tử của Linh Hựu là Huệ Tịch (804-899) lập ra phái thiền Qui Ngưỡng Tôn. Cùng Ngài Hoài Hải truyền đến Hy Vận (?-850) có đệ tử là Nghĩa Huyền (?-867) lập ra Lâm Tế Tôn. Kể từ Lục Tổ đến Ngài Vô Ngôn Thông là đời thứ 4 và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch cùng Lâm Tế Nghĩa Huyền là đời thứ 5 thiền tông ở Trung Quốc đă sớm phân phái.
C̣n Thiền Sư Hành Tư ( ?-740) truyền cho Hy Thiên (700-790), Thiền Sư Hy Thiên truyền cho Duy Nghiễm (751-834), Thiền Sư Duy Nghiễm truyền cho Đàm Thạch (728-841), Thiền Sư Đàm Thạch truyền cho Lương Giới (807-869), Thiền Sư Lương Giới truyền cho Bổn Tịch (840-901). Thiền Sư Bổn Tịch lập ra Tào Động Tôn.
Cũng là đệ tử của Ngài Hy Thiên là Đạo Ngộ (747-816). Thiền Sư Đạo Ngộ truyền cho Sùng Tín (?), Thiền Sư Sùng Tín truyền cho Huyền Giám (780-865), Thiền Sư Huyền Giám truyền cho Nghĩa Tồn (822-908), Thiền Sư Nghĩa Tồn truyền cho Văn Uyển (?-949).
Thiền Sư Văn Uyển lập ra Vân Môn Tôn.
Ngài Nghĩa Tồn cũng truyền cho Sư Bị (835-908), Thiền Sư Sư Bị truyền cho Quế Sâm (867-928), Thiền Sư Quế Sâm truyền cho Văn Ích (885-958).
Thiền Sư Văn Ích lập ra Pháp Nhăn Tôn.
Phái của Ngài Hành Tư đến đời thứ Sáu th́ lập Tào Động Tôn, đời thứ Bảy lập Vân Môn Tôn và đến đời thứ Chín lập ra Pháp Nhăn Tôn.
Phái Lâm Tế đời thứ 18 có Thiền Sư Huệ Nam (1002-1069) ở Hoàng Long lập ra hệ phái Hoàng Long và Thiền Sư Phương Hội (?-1054) ở Dương Kỳ lập ra phái Dương Kỳ hoàn tất việc lập năm tôn và chia ngủ phái thiền của Tổ Huệ Năng ở Trung Quốc.
Ở Việt Nam phái thiền Vô Ngôn Thông cũng là phái thiền của Ngài Huệ Năng thuộc hệ phái của Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng.
Tào Động Tôn cũng có truyền đến miền Bắc nước ta, c̣n miền Trung và Nam Lâm Tế Tôn có phái Nguyên Thiều và Liễu Quán nhưng phái của Ngài Nguyên Thiều được truyền bá rộng răi. |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 4 of 34: Đă gửi: 04 June 2005 lúc 6:44am | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
Truyện Lục tổ Huệ Năng
Đại sư Lục tổ Huệ Năng là tổ thứ sáu của Thiền tông Trung quốc. Cha của ngài là cụ Lô Hành Thao, người gốc vùng Phạm Dương, huyện Uyển B́nh, tỉnh Hà Bắc, vốn là một vị quan nổi tiếng ở đời vua Đường Cao Tổ, nhưng sau đó bị cách chức và đày đi làm người dân thường ở vùng Tân Châu, miền Lĩnh Nam. Cụ Thao cùng phu nhân là Lư thị đă lấy nhau hơn hai mươi năm mà vẫn chưa có con. Một hôm, phu nhân Lư thị nằm mơ thấy hai bụi cây ở trước cửa nhà nở đầy hoa trắng, sau đó hoa trắng lại biến thành một đôi hạc trắng vỗ cánh bay vút vào trời cao. Chẳng bao lâu lại có một mùi hương lạ tràn ngập gian pḥng của bà, một lúc lâu sau mới từ từ tan đi. Phu nhân tỉnh giấc liền phát giác ḿnh đă có thai.
Theo truyền thuyết, phu nhân mang thai sáu năm mới sinh ra Huệ Năng, khi đó là năm Trinh Quán thứ mười hai, đời Đường Thái Tông (TL 638). Lúc vừa mới sinh ngài ra, trên không trung có một luồng ánh sáng chói rực, giống như từ đỉnh đầu của Đức Phật phóng ra. Trong nhà lại có một mùi hương lạ thơm phưng phức. Sáng hôm sau có hai vị tăng tướng mạo phi phàm t́m đến hỏi thăm. Sau khi nói lời chúc mừng, hai vị nầy nói rằng họ đến với mục đích đặt tên cho đứa bé là Huệ Năng. Huệ có nghĩa là đem Phật pháp huệ thí, tế độ chúng sinh, c̣n Năng có nghĩa là có năng lực hoằng dương Phật pháp. Vừa nói xong, hai vị tăng liền biến mất. Điều nầy làm cho cụ Thao và phu nhân vô cùng kinh dị.
Huệ Năng ra đời vào lúc ngài Huyền Trang vẫn c̣n đang đi thỉnh kinh ở Ấn Độ. Ngài lớn lên trong sự chăm sóc tưng tiu của cha mẹ. Chẳng may, cha ngài qua đời vào lúc ngài vừa mới lên ba. Hai mẹ con bèn dời nhà đến vùng Nam Hải. Nhờ vào nghề may vá của phu nhân mà mẹ góa con côi đùm bọc nhau, sống qua những chuỗi ngày gian khổ. Khi Huệ Năng vừa trưởng thành, ngài bèn vào rừng đốn củi gánh ra chợ bán lấy tiền nuôi dưỡng mẹ già.
Một hôm, Huệ năng đem củi đến một quán trọ bán cho một người khách. Nhận tiền xong, Huệ Năng vừa định đi ra bỗng nghe có tiếng tụng kinh. Ngài tuy từ nhỏ chẳng học được bao nhiêu chữ nghĩa, nhưng khi nghe lời kinh lại có một cảm giác lạ lùng, giống như một người đang ở trong hang tối, vừa đục một lỗ hang, bỗng nhiên thấy được ánh sáng chan ḥa. Tâm ngài đột nhiên bừng sáng, một niềm vui khó tả tràn ngập trong ḷng.
Đang lúc người đó vừa tụng đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" [1] Huệ Năng bỗng thấy chấn động trong ḷng, ngài cảm giác như có một luồng ánh sáng dài muôn trượng chiếu xuyên qua từng lỗ chân lông. Trong giây phút đó, Huệ Năng cảm nhận một cách phảng phất h́nh như ḿnh đă được khai ngộ. Ngài bèn đặt gánh xuống, hấp tấp hỏi xem người khách tên ǵ, lại hỏi ông ta làm thế nào mà có được bộ kinh đó. Người khách trọ nầy tên là An Đạo Thành, nói với Huệ Năng là ông đang tụng kinh Kim Cương, và bộ kinh nầy được thỉnh từ chùa Đông Thiền, chỗ của ngài Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, ở huyện Hoàng Mai, đất Kỳ Châu. Huệ Năng nghe xong, vô cùng ngưỡng mộ, bèn nao nức muốn đến chùa Đông Thiền theo ngài Hoằng Nhẫn tu học Phật pháp, cầu mong Ngũ tổ ấn chứng cho sự khai ngộ của ḿnh. Nhưng khi nghĩ lại mẹ già không người sớm hôm phụng dưỡng, ngài bỗng trở nên lo âu, lưỡng lự, không biết phải làm thế nào. Có lẽ do duyên lành từ đời trước, An Đạo Thành thấy Huệ Năng nghèo khổ không được đi học, mà lại có tâm tha thiết mong cầu Phật Pháp, bèn rất khảng khái móc ra mười lượng bạc giúp cho Huệ Năng làm lộ phí, lại c̣n hứa giúp đỡ Huệ Năng trong việc chăm sóc mẹ già. Huệ Năng nghe xong rất cảm động, bèn trở về nhà hỏi ư mẹ. Xếp đặt công việc săn sóc cho mẹ xong, Huệ Năng bèn từ giă mẹ già lên đường cầu đạo.
Nhân v́ tấm ḷng tha thiết cầu đạo, Huệ Năng đă không quản đường xá xa xôi, tất tả trèo non lội suối, do đó chỉ trong ṿng ba mươi ngày, ngài đă đến chùa Đông Thiền ở huyện Hoàng Mai. Khi Huệ Năng t́m vào chùa, vị sư tri khách bèn dẫn ngài vào phương trượng ra mắt Ngũ tổ. Vừa thấy Huệ Năng, Tổ bèn vặn hỏi:
- Chú em là người xứ nào, đến đây làm ǵ?
Huệ Năng cung kính trả lời:
- Dạ thưa, con là người xứ Lĩnh Nam, đất Tân Châu. Con đến đây chỉ muốn học làm Phật, mà không có mục đích nào khác.
- Té ra chú em là dân man di ở vùng tây nam, sống như bọn mọi rợ, làm sao mà có thể giác ngộ thành Phật được?
Huệ Năng nghe xong liền thẳng thắn trả lời:
- Thưa Tổ! Người tuy có Nam, Bắc khác nhau, thế nhưng ai ai cũng có thể thành Phật. Phật tính nào có Nam, Bắc? Những kẻ h́nh dáng mọi rợ, tuy có khác với dung mạo tôn nghiêm của Ngài, thế nhưng Phật tính của họ, so với Ngài đâu có ǵ khác!
Thực là sự đối đáp bén nhọn, hợp lư hợp t́nh. Ngũ tổ trong tâm cảm thấy yêu thích, biết rằng Huệ Năng là kẻ có căn cơ lanh lợi. Tổ muốn kéo dài câu chuyện, song thấy chung quanh có nhiều người, sợ họ nghe Huệ Năng đối đáp nhanh nhẩu lại sinh tâm đố kỵ, liền bảo Huệ Năng không nên nói nhiều, kế đó kêu người dẫn Huệ Năng ra sau chùa làm công tác. Huệ Năng bèn thưa với Tổ:
- Tâm tính con vốn sáng suốt, thường sinh trí tuệ, biết rơ tất cả các pháp tức là tự tính của tâm. Do tâm tính nầy mà thành tựu tất cả phúc điền. Không biết Tổ muốn con làm công việc ǵ?
Ngũ tổ tấm tắc khen ngợi:
- Chà, chú nhỏ nầy tâm tính lanh lợi dữ à!
Thế nhưng, Tổ lại lo sợ sẽ có nhiều người sinh ḷng ganh ghét, bèn bảo Huệ Năng:
- Không cần nói thêm ǵ nữa. Đi xuống pḥng giă gạo làm việc!
Huệ Năng bèn theo người ra sau chùa. Có một hành giả[ii][2] giao phó cho Huệ Năng công việc bửa củi, và đạp cối giă gạo. Như vậy, thời gian thắm thoát cũng gần tám tháng.
Một hôm, Tổ ra sau chùa, thấy Huệ năng bèn nói:
- Ta thấy con là người trí tuệ, có cái nh́n khác thường không giống mọi người. Trong tương lai con có thể thành tựu. Song ta sợ có người sinh tâm ghen ghét t́m cách hại con, v́ thế ta đă không nói chuyện với con nhiều. Con có hiểu như thế không?
Huệ Năng nói:
- Dạ thưa, con hiểu ư Tổ, v́ thế con cũng không dám tùy tiện ra trước Pháp đường, tránh không cho kẻ khác sinh tâm nghi ngờ, bàn chuyện thị phi.
Tổ nói:
- Nếu vậy th́ tốt. Mai mốt con sẽ có nhiều cơ hội đến nghe ta thuyết pháp. Hiện giờ con nên nhẫn nại một chút, không nên nghĩ nhiều. Có thể chỉ cần một đoạn thời gian ngắn nữa cơ duyên sẽ chín muồi.
- Dạ thưa, con biết!
Ngũ tổ bèn trở về pḥng của ngài. Từ đó Huệ năng càng trở nên trầm mặc ít nói, chuyên tâm vào công việc đạp cối giă gạo của ḿnh.
Ít lâu sau, Ngũ tổ biết rằng cơ duyên đă đến, bèn tập hợp mọi người trong chùa lại. Ngài nói:
- Trên đời nầy, không có vấn đề nào quan trọng hơn là vấn đề sinh tử. Không luận là giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, không kẻ nào có thể tránh khỏi vấn đề nầy. Nghiệp báo là do tự ḿnh gây tạo, tự ḿnh nhận chịu, mà không ai có thể thay thế cho ḿnh được. Giả sử thân người nầy mất đi, th́ có thể trong trăm ngàn kiếp bị đọa vào ba đường ác. Mấy ông cả ngày chỉ biết tham cầu quả báo hữu lậu[iii][3] trời người mà không biết siêng năng tu tập trí tuệ, hầu có thể thoát khỏi biển khổ sinh tử. Các ông nên biết rằng, một khi hưởng hết phúc báo trời người, sẽ vẫn có thể bị đọa vào đường ác. Nếu mê mờ tự tính, th́ dù phúc báo có lớn đến bao nhiêu cũng không cứu mấy ông được. Bây giờ các ông trở về pḥng, hồi tâm tự quán xét chính ḿnh, khéo dùng trí tuệ sẵn có của các ông, mỗi người làm một bài kệ tŕnh cho ta xem. Nếu như có người nào thực sự thấu triệt Phật pháp, ta sẽ đem y bát truyền từ Phật, tổ đến nay, trao truyền cho người đó làm tổ đời thứ sáu của Thiền tông. Bây giờ các ông nên lập tức trở về pḥng ḿnh làm kệ, không được trễ nải. Nếu c̣n nghĩ ngợi lâu lắc, chắc chắn không thể nào tức khắc thấy được[iv][4] bản tính của ḿnh. Người như thế, không thể nào gọi là kẻ thấu triệt bản tính!
Sau khi nghe Ngũ Tổ dặn ḍ, mọi người trở về hậu liêu[v][5], bèn chạy đi báo cho người khác biết, bàn luận rầm rỉ:
- Chúng ta chẳng nên làm kệ làm ǵ cho tốn công nhọc sức. Giả sử có nặn hết đầu óc ra làm kệ cũng chẳng ích ǵ! Thầy giáo thọ[vi][6] của chúng ta là Thượng tọa Thần Tú, hiện giờ trong chùa không ai bằng Ngài. Nếu y bát không truyền cho Thượng tọa th́ sẽ truyền cho ai bây giờ? Chúng ta nên biết thân phận của ḿnh. Dù có mạo muội làm kệ, chẳng qua cũng chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ. Chi bằng tiết kiệm sức ḿnh, bỏ qua đừng nghĩ đến chuyện đó nữa!
Mọi người nghe qua lời nầy đều gật đầu tán thành, tất cả đều bỏ ư định làm kệ tŕnh lên cho Tổ, kế đó cùng nhau phụ họa:
- Chúng ta cùng nhau nhất tâm nhất ư theo học với Thượng tọa Thần Tú, cần ǵ phải tranh nhau làm kệ cho khổ!
Thượng tọa Thần Tú vốn người họ Lư, gốc ở vùng Lạc Dương. Từ nhỏ đă đọc hết kinh sách của Nho, Lăo, ..., và nỗi tiếng là một bậc học vấn uyên bác. Đến khoảng năm mươi tuổi, ông bèn phát tâm xuất gia. Sau khi đến yết kiến Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Thần Tú chính thức đảnh lễ xin xuất gia làm đệ tử của ngài. Hiện nay ông ta đă được năm mươi sáu tuổi. Tại chùa Đông Thiền, ngoài Tổ Hoằng Nhẫn ra, Thần Tú là người có địa vị cao nhất. Thần Tú thân cao tám thước[vii][7], lông mày như mày rồng, cặp mắt rất đẹp, uy nghi siêu phàm, phẩm cách, học vấn cùng đạo hạnh đều thuộc hạng ưu tú. Hơn nữa, Thần Tú lại đem tinh thần tha thiết cầu đạo, cần cù khổ nhọc phụng sự cho chùa, do đó rất được Ngũ tổ kính mến. Ngũ tổ đă từng khen ngợi Thần Tú trước mặt mọi người:
- Phật pháp trong chùa Đông Sơn nầy hoàn toàn nằm trong tay Thần Tú.
Thế nhưng, biến cố làm kệ nầy đem đến cho Thần Tú một cảm tưởng là đang bị áp lực nặng nề. Thần Tú biết rơ là mọi người chỉ hùa nhau làm ồn ào, thực sự ra không ai muốn làm kệ. Thần Tú nghĩ thầm:
- Mọi người đều không muốn làm kệ tŕnh cho Tổ là v́ ḿnh là thầy giáo thọ của họ. Họ nghĩ rằng ḿnh phải làm kệ tŕnh Tổ là một điều đương nhiên, do đó họ nhân cơ hội nầy nhường cho ḿnh. Làm sao cho hợp t́nh hợp lư đây? Nếu không làm kệ, chắc chắn Tổ không thể nào biết được kiến giải của ḿnh sâu cạn thế nào, vả lại ḿnh cũng chẳng thể nào được Tổ ấn chứng.[viii][8] Nhưng nếu làm kệ, lại sợ người khác hiểu lầm dụng ư của ḿnh, cho là tham ngôi vị tổ sư mà làm kệ. Nếu vậy, chẳng khác nào một kẻ phàm phu tục tử lại mong tranh giành ngôi vị tổ sư?
Thần Tú suy đi nghĩ lại, lo tới lo lui, đến nỗi cơm nước không ăn, ban đêm lại trằn trọc không ngủ được. Qua ít lâu, sau những cơn giằn vật tâm hồn, Thần Tú cuối cùng cũng làm xong một bài kệ. Thần Tú phân vân năm lần bảy lượt, muốn đem kệ tŕnh cho Tổ xem, nhưng mỗi khi đến trước pḥng của Tổ, lại có cảm giác hoảng hốt, tâm trạng bàng hoàng, mồ hôi chảy ra như tắm. Thần Tú thầm nghĩ:
- Nếu Tổ thấy bài kệ, giả sử Ngài không hài ḷng th́ ḿnh phải làm sao?
Cứ như thế cả bốn ngày, Thần Tú đến pḥng của Tổ lại quay trở lại, trước sau tổng cộng mười ba lần, mà cũng không dám tŕnh kệ cho Tổ xem, trong tâm càng lúc càng bối rối.
Thần Tú suy đi nghĩ lại, rốt cuộc cũng t́m ra được một biện pháp tốt đẹp. Thần Tú nghĩ:
- Tốt nhất ḿnh đem bài kệ nầy viết lên bức tường của hành lang. Đợi đến ngày mai, nếu Tổ đi qua chỗ đó, thế nào Ngài cũng thấy. Nếu Tổ khen bài kệ là hay, ḿnh sẽ tŕnh diện cho Tổ biết là ḿnh viết. C̣n nếu Ngài chê là dở, th́ có lẽ ḿnh nên âm thầm xuống núi là vừa! Chỉ nên tự trách ḿnh tu học chưa đến nơi đến chốn, uổng phí công lao ở trong núi nầy mấy năm nay, thọ nhận sự cung kính lễ lạy của người khác. Như vậy cũng không bị mất mặt.
Suy nghĩ như vậy xong, buổi tối hôm đó vào canh ba, Thần Tú nhân mọi người đang ngủ say, bèn vội vàng xách đèn đến bức tường phía nam hành lang, hấp tấp viết bài kệ của ḿnh lên tường:
Thân như Bồ đề thọ,
Tâm như minh kính đài,
Thời thời thường phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.
Việt dịch:
Thân như cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường thường siêng lau quét
Đừng để dính bụi trần!
Viết xong, Thần Tú liền len lén trở về pḥng không để ai hay biết. Thần Tú sau khi quay về pḥng lại tiếp tục ngẫm nghĩ:
- Sáng mai Tổ xem xong, nếu Ngài vui ḷng, th́ ḿnh là kẻ có duyên với Pháp. C̣n nếu Tổ không hài ḷng, th́ chỉ nên trách ḿnh phiền năo nghiệp chướng quá nặng, chưa thể khai ngộ, không đạt được ư nghĩa chân thực của Phật pháp, âu cũng là đáng kiếp! Mà thôi, cảnh giới của các bậc thánh chẳng phải là chỗ phàm phu có thể suy lường được.
Cứ vậy cả đêm, Thần Tú tâm hồn ray rức, nằm xuống cũng không yên, tới lui cũng không yên, chẳng hề chợp mắt cho đến khi trời sáng.
Sự thực, Ngũ tổ từ lâu đă biết là Thần Tú vẫn chưa vào đạo, không thể minh tâm kiến tính.
Sáng hôm sau, khi sai người đi mời cư sĩ Lô Trân đến vẽ hai bức họa Lăng Già Kinh Biến Tướng và Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ, Tổ cùng Lô Trân đi đến bức tường của hành lang th́ ngài phát giác là đă có người viết chữ trên đó. Tổ đến gần nh́n kỹ, té ra là một bài kệ, lúc đó trong tâm ngài đă biết rơ việc ǵ đang xảy ra. Tổ liền quay lại nói với Lô Trân:
- Kinh Kim Cương có nói: "Hễ có h́nh tướng đều là hư vọng". Hiện giờ trên tường đă có người viết sẵn bài kệ rồi. Như vậy hai bức họa Lăng Già Kinh Biến Tướng và Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ cũng không c̣n cần phải vẽ nữa. Nên giữ lại bài kệ nầy cho mọi người cùng đọc tụng, tu hành. Nếu quả thực có người theo đây mà tu, ít ra họ cũng không bị đọa vào đường ác, hơn nữa lại được lợi ích vô cùng.
Nhân đó, Tổ bèn tụ tập tất cả mọi người trong chùa đến trước bức tường có viết bài kệ, bảo họ đốt hương cung kính lễ bái, cùng nhau tụng niệm bài kệ đó. Mọi người đều vâng lời, tiếng tụng niệm lan khắp trong chùa, ê a không dứt. Ngũ tổ lại dặn ḍ mọi người:
- Các ông cần phải siêng năng đọc tụng bài kệ nầy, từ từ sẽ có thể minh tâm kiến tính.[ix][9]
Nghe xong mọi người càng chuyên tâm nhất ư trong việc đọc tụng. Trên bàn thờ đặt trước bài kệ, cả ngày khói hương nghi ngút. Hơn nữa, số người ṭ ṃ đến xem càng lúc càng đông. Mọi người đều khen ngợi bài kệ là tuyệt diệu. Ngũ tổ quay về pḥng ḿnh, trong bụng nghĩ thầm:
- Bài kệ nầy nhất định là do Thần Tú viết. Rất tiếc là công phu chưa đến!
Nhân đó, nửa đêm Tổ bèn sai người đi kêu Thần Tú đến pḥng ḿnh. Tổ hỏi:
- Bài kệ trên tường là do ông viết phải không?
Thần Tú đáp:
- Dạ chính con viết bài kệ đó. Thế nhưng con không dám mơ ước đến việc thừa kế y bát. Chỉ cầu xin Tổ mở ḷng từ bi, xem con có thấy được ư nghĩa Phật pháp hay chưa?
Tổ nói:
- Ông làm bài kệ nầy, có thể nói là đă đến ngạch cửa, song vẫn chưa thấu được chân như bản tính. Giống như người đang ṃ mẫm trên mặt cửa, nhưng vẫn chưa t́m được ch́a khóa để mở cửa vào nhà. Kiến giải như vậy mà muốn cầu Vô thượng Bồ đề, e rằng chưa đủ tŕnh độ. Người muốn được Vô thượng Bồ đề phải là kẻ khi nghe một lời, trong khoảnh khắc phải thấy rơ được bản tâm của ḿnh, nh́n rơ tự tính không sinh không diệt của chính ḿnh. Trong tất cả mọi lúc, niệm niệm đều phải thấy rơ tự tính, hiểu rơ rằng tự tính của các pháp vốn không chướng ngại, cũng không biến đổi, nghĩa là các pháp không rời chân như, như như bất động, không sinh không diệt. Cái tâm như như nầy, tức là sự rời bỏ hai sự chấp trước: chấp ngă và chấp pháp. Nếu thấy được như vậy tức là thấy được Vô thượng Bồ đề. Bây giờ ông hăy trở về pḥng, ta cho ông hai ngày để suy ngẫm, làm thêm một bài kệ đem lại cho ta xem. Nếu như kệ của ông thấy rơ được bản tính, ta sẽ đem y bát trao truyền cho ông.
Thần tú lạy Tổ xong, bèn quay trở về pḥng. Trải qua nhiều ngày, tâm trạng lúc nào cũng như người hoảng hốt. Chỉ thấy ông ta ngày th́ ngồi lên ngồi xuống, đêm th́ trăn qua trở lại. Thế th́ làm sao làm được kệ ǵ mới?!
Hai ngày sau khi bài kệ được viết trên tường, có một sa di đi ngang qua pḥng giă gạo, vừa đi vừa lớn tiếng ngâm nga bài kệ. Huệ Năng nghe xong, biết rằng kẻ làm bài kệ nầy chưa thấy được bản tính, do đó mới bước tới hỏi:
- Dạ thưa, xin phép được hỏi chú, ai là người làm ra bài kệ nầy?
Sa di ngạc nhiên:
- Hả! Chùa ḿnh xảy ra một sự kiện lớn lao như thế mà chú không biết? Bài kệ nầy là do Thượng tọa Thần Tú, một bậc đạo cao đức trọng trong chùa làm ra. Mấy ngày trước, Tổ cho mọi người biết rằng không bao lâu nữa Ngài sẽ viên tịch, do đó Ngài nghĩ đến việc t́m người để trao truyền y bát làm Tổ thứ sáu. Tổ bảo mọi người làm kệ tŕnh lên cho Ngài xem, nếu Ngài nhận thấy người nào đă ngộ được Phật pháp, Ngài sẽ đem y bát truyền cho người đó. Tổ đă xem qua bài kệ của Thượng tọa Thần Tú và Ngài tỏ vẻ rất hài ḷng. Do đó Ngài bảo mọi người nên đọc tụng, lại nói rằng nếu y theo đó mà tu hành sẽ khỏi bị đọa ba đường ác và được vô lượng lợi ích.
Huệ Năng nghe xong liền nói với chú sa di:
- Dạ thưa chú, Huệ Năng ở chỗ nầy làm việc giă gạo cũng đă hơn tám tháng, thế nhưng đến nay vẫn chưa biết Pháp đường ở đâu. Xin chú làm ơn dẫn đường, cho Huệ Năng có dịp đến đó xem bài kệ, không biết chú có đồng ư không. Huệ Năng hy vọng cũng giống như các vị trong chùa nầy, được đọc tụng bài kệ, hầu kết chút duyên lành với Phật pháp trong đời sau.
Chú sa di nghe xong liền dẫn Huệ Năng đến trước bài kệ. Huệ Năng thành thực nói với chú sa di:
- Huệ Năng vốn thất học, không hiểu mặt chữ, xin phiền chú đọc bài kệ cho Huệ Năng nghe.
Lúc đó có một vị quan biệt giá[x][10] vùng Giang Châu, tên là Trương Nhật Dụng, đứng bên cạnh, nghe Huệ Năng nói xong, bèn lớn tiếng đọc bài kệ. Huệ Năng nghe xong liền nói với Nhật Dụng:
- Tôi cũng có một bài kệ, xin quan lớn vui ḷng viết dùm lên tường.
Trương Nhật Dụng tỏ vẻ không tin, có thái độ gần như khinh thị:
- Hả! Chú cũng biết làm kệ? Đây quả thực là một điều kỳ lạ!
Huệ Năng vẫn điềm nhiên như không có ǵ, nhă nhặn nói với ông ta:
- Nếu muốn được Vô thượng Bồ đề, điều trước nhất là không nên coi thường kẻ mới vào đạo. Trên đời nầy không có ǵ là tuyệt đối cả. Người giai cấp hạ tiện vẫn có thể có trí tuệ cao siêu, c̣n kẻ giai cấp cao quí vẫn có thể là kẻ không có trí tuệ. Nếu tùy tiện coi thường kẻ khác, e rằng sẽ gặt vô lượng tội báo trong đời sau!
Trương Nhật Dụng nghe xong liền đổi thái độ, không c̣n dám tỏ vẻ khinh mạn, vội vàng nói với Huệ Năng:
- Chú cứ nói hết ra, tôi sẽ viết dùm cho. Trong tương lai nếu chú khai ngộ, xin chú đừng quên độ cho tôi.
Huệ Năng liền đọc kệ:
Bồ đề bổn vô thọ,
Minh kính diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai.
Việt dịch:
Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính trần ai!
Trương Nhật Dụng viết xong, vừa nh́n kỹ lại, trong ḷng cảm thấy rất là khâm phục. Những người đứng chung quanh đó tự nhiên cũng cảm thấy vô cùng kinh ngạc, không ai mà không trầm trồ khen ngợi cho là kỳ đặc. Tin tức nầy lan truyền nhanh chóng. Mọi người kề đầu rỉ tai, nói với nhau:
- Chà, hay quá sức tưởng tượng. Chẳng ngờ trong chùa Đông Sơn lại có thánh nhân ẩn nấp!
- Thật là không thể xem mặt mà bắt h́nh dung. Làm sao mới vừa không gặp mặt chỉ trong vài ngày mà hắn đă trở thành Nhục thân Bồ tát!
- Ngôi tổ đời thứ sáu không chừng sẽ thuộc về hắn!
- Thực là xui xẻo, Thượng tọa Thần Tú đă gặp đối thủ cao cường rồi!
Như thế, bài kệ của Huệ Năng được loan truyền nhanh chóng, chẳng bao lâu đă đến tai Ngũ tổ. Tổ nghe mọi người xôn xao bàn tán bèn đi ra ngoài đến chỗ bài kệ xem việc ǵ xảy ra. Đến nơi, Tổ ngước xem bài kệ vừa mới được viết lên tường, bỗng nhiên ngài cảm thấy trong ḷng khơi dậy một chút xao động. Đầu tiên là một niềm vui, kế đến lại là một nỗi lo âu. Tổ vui là v́ biết rằng Huệ năng là một kẻ phi phàm, hơn nữa, khi Tổ gặp mặt Huệ Năng lần đầu tiên tám tháng về trước, ngài đă biết rằng Huệ Năng là một kẻ đă khai ngộ, và Tổ cuối cùng đă t́m ra một người để truyền trao y bát. Song, kế đó Tổ lại cảm thấy lo lắng, bài kệ của Huệ Năng rơ ràng là một sự trái ngược với bài kệ của Thần Tú, thế nhưng Huệ Năng không thể nào so sánh được với Thần Tú. Tất cả mọi người trong chùa đều công nhận Thần Tú sẽ là kẻ được truyền y bát làm Tổ thứ sáu, c̣n Huệ Năng là một người không có một chút quyền thế nào hết, chỉ ở địa vị ti tiện của một kẻ giă gạo trong chùa. Giả sử có người ghen ghét muốn hại Huệ Năng, điều nầy sẽ dễ dàng như trở bàn tay. Nếu như Tổ đem y bát truyền cho Huệ Năng, chắc chắn sẽ đưa đến nhiều sự tranh chấp trong chùa.
Tổ vừa nghĩ đến điều nầy, như được dẫn dắt bởi linh tính, nên không một chút do dự, liền cởi một chiếc giầy đang mang, nói với mọi người chung quanh:
- Có ǵ mà mọi người phải rầm rỉ như thế! Bài kệ nầy rất tầm thường, cũng chưa thấy được tự tính, không đáng cho mọi người phải xôn xao như thế. Mọi người nên quay về pḥng ḿnh, y vào bài kệ của Thần Tú mà tu tập!
Tổ vừa nói vừa lấy gót giầy xóa bài kệ của Huệ Năng. Mọi người nghe Tổ nói như thế, ai cũng cho rằng bài kệ đó cũng chẳng có ǵ đáng quan tâm, cho nên tất cả đều im lặng quay về pḥng ḿnh, mà không c̣n bàn tán xôn xao nữa. Sau khi Tổ quay về pḥng, ngẫm nghĩ đến bài kệ của Huệ Năng, Ngài bỗng cảm thấy rất vui vẻ trong ḷng. Tổ nhớ là Huệ Năng đến chùa mới được tám tháng, hai người gặp nhau chỉ hai ba lần, thế nhưng, từ dáng dấp và thái độ, Huệ Năng đă biểu lộ một tŕnh độ tâm linh rất cao xa. Hơn nữa, sự lư giải về thiền định và Phật pháp của Huệ Năng làm cho Tổ cũng cảm thấy kinh ngạc. Nhân đó, Tổ quyết định đem y bát truyền giao cho Huệ Năng.
Hôm sau, v́ không muốn cho mọi biết nên Tổ bèn âm thầm đi đến pḥng giă gạo, thấy Huệ Năng đang bận giă gạo, trên eo buộc đầy những viên đá nặng.[xi][11] Ngài bèn lên tiếng an ủi:
- Người t́m cầu đạo pháp, v́ Phật pháp mà không màng đến sự gian khổ, giống như vầy chăng!
Huệ Năng nghe tiếng người bèn ngẩng đầu lên nh́n, vừa thấy Tổ, Huệ Năng vội vàng vái chào. Tổ thấy trong cối có gạo bèn hỏi Huệ Năng một cách ẩn ư:
- Gạo giă sạch chưa?
Huệ Năng đáp:
- Dạ, gạo đă sạch từ lâu, nhưng vẫn chưa có người sàng.
Tổ vừa nghe xong liền hiểu ư Huệ Năng muốn nói là ḿnh đă khai ngộ, chỉ c̣n chờ một bậc thầy giỏi đến chỉ điểm mà thôi. Tổ thấy Huệ Năng đối đáp trôi chảy, hơn nữa ngài hiểu rơ nguyện vọng đang tha thiết t́m cầu một bậc minh sư[xii][12] của Huệ Năng. Tổ chẳng nói thêm lời nào nữa, liền đi đến bên cạnh cối giă gạo, lấy tích trượng gơ lên đó ba tiếng, kế đó quay trở về pḥng.
Khoảng canh ba, Huệ Năng thức dậy, lần ṃ trong bóng đêm t́m đến pḥng của Tổ. Huệ Năng thấy vẫn c̣n ánh đèn sáng trong pḥng, h́nh như Tổ đang đợi ḿnh đến. Huệ Năng bước vào, chắp tay cúi lạy xong, bèn thưa với Tổ:
- Dạ thưa, Tổ gọi con đến lúc nửa đêm, không biết Ngài muốn chỉ bảo việc ǵ?
Tổ không trả lời, bèn dẫn Huệ Năng vào pḥng trong. Sau khi khóa cửa cẩn thận, Tổ vẫn c̣n sợ người khác trông thấy, bèn đem cà sa che ngang cửa sổ. Sau khi hai người ngồi yên, Tổ bèn nói với Huệ Năng:
- Ta biết căn tính của con không phải người tầm thường, song người trong chùa có nhiều thành phần phức tạp, ta sợ có người hại con nên mới sai con xuống làm ở pḥng giă gạo.
Huệ Năng thưa với Tổ:
- Dạ thưa con hiểu điều nầy. Con rất cảm ơn Tổ đă tưởng nghĩ đến con, do đó mỗi ngày con đều tận tâm làm việc, không dám để người khác chú ư.
Tổ nói tiếp:
- H́nh như con đă đọc qua kinh Kim Cương?
Huệ Năng lắc đầu:
- Dạ chưa! Con sinh ra trong gia đ́nh nghèo khổ, không có cơ hội đi học.
- Như vậy, bài kệ con viết đó ...!?
Huệ năng hiểu ư Tổ định nói, liền tiếp lời:
- Dạ đúng, bài kệ đó là do con làm ra, nhưng con nhờ người khác viết dùm. Mấy tháng trước, con có nghe người khác tụng kinh Kim Cương, lúc đó tâm hồn con tràn đầy một sự cảm động không thể tưởng tượng được. Do đó con mới quyết tâm t́m đến đây, hầu mong được nghe Tổ giảng kinh.
Tổ nghe xong, gật đầu khen ngợi:
- Giỏi lắm! Con quả thực là thông minh lanh lợi, lại có tâm tha thiết cầu pháp. Nếu vậy, con nên lắng nghe, ta sẽ giảng kinh Kim Cương cho con nghe.
Nói xong, Tổ bèn đem kinh Kim Cương giải thích cho Huệ Năng. Đang khi Tổ giảng đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm", ngay lúc đó Huệ Năng hốt nhiên đại ngộ, thấy rơ được ư nghĩa chân thực là tất cả mọi vật đều không rời tự tính. Do đây, Huệ Năng liền thưa với Tổ:
- Chẳng ngờ tự tính xưa nay không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Không ngờ tự tính xưa nay vốn không biến động, mà lại có thể sinh ra tất cả các pháp, hoàn toàn không chướng ngại.
Đến đây, Tổ quyết chắc là Huệ Năng đă triệt ngộ bản tính, bèn nói:
- Đúng vậy, nếu không hiểu rơ tự tâm là chân Phật, không hiểu rơ tự tính là chân Pháp, mà lại cho rằng có Phật ở ngoài tâm, có Pháp ở ngoài tính, nếu đem sự hiểu lầm về tâm tính nầy mà đi học Phật pháp, hoàn toàn không có lợi ích ǵ hết. Chỉ có kẻ nào nhận thức bản tâm ḿnh, thấy rơ bản tính ḿnh, mới đáng gọi là bậc đại trượng phu, mới có thể làm bậc thầy của trời người. Đây cũng chính là Phật!
Nói xong, Tổ bèn đem y bát ra, trịnh trọng nâng lên trên hai tay của ḿnh, nói với Huệ năng:
- Đức Thế Tôn trước khi nhập Niết Bàn đă đem Chính pháp giao phó cho Tôn giả Ca Diếp, Ca Diếp giao phó cho A Nan, A Nan lại giao phó cho Thương Na Ḥa Tu, cứ như thế chuyển đến tay ta. Hôm nay ta quyết định giao phó cho con, hy vọng là con sẽ khéo léo giữ ǵn, lo việc hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sinh, đừng cho đoạn tuyệt.
Huệ Năng ngẩng đầu lên nh́n Tổ, ḷng bàng hoàng cảm động, không biết phải nói điều ǵ, chỉ vỏn vẹn kêu lên vài tiếng:
- Thưa Tổ, con ...
Tổ đưa cặp mắt sáng rực nh́n Huệ Năng một cách chăm chú, kế đó ngài đọc bài kệ:
Hữu t́nh lai hạ chủng,
Nhân địa quả hoàn sinh,
Vô t́nh diệc vô chủng,
Vô tính diệc vô sinh.
Việt dịch:
Trong ruộng chúng sinh gieo giống Phật
Nhân duyên chín muồi sinh quả Phật
Vô t́nh không có hạt giống Phật
Không có tính Phật không sinh Phật. [xiii][13]
Chỉ thấy Huệ Năng gật đầu, đưa hai tay lên nâng y bát. Tổ nói tiếp:
- Bắt đầu từ hôm nay, con chính thức là Tổ thứ sáu của Thiền tông Đông độ,[xiv][14] con có trách nhiệm phải khéo léo hộ tŕ Phật pháp, làm cho Pháp nầy đời đời truyền nối, không được để cho đoạn tuyệt!
- Dạ thưa Tổ, con xin ghi ḷng tạc dạ, không dám quên lời.
Nhân v́ sự truyền pháp diễn ra lúc giữa đêm, cho nên cả chùa không ai hay biết. Truyền pháp xong, Tổ lại nói tiếp:
- Ngày xưa, khi Tổ sư Đạt Ma vừa đến Trung quốc, v́ sợ người khác không tin vào Pháp cùng sự thừa kế, do đó mới truyền y bát của Phật để làm chứng minh cho sự truyền thừa của Phật, tổ. Sự thực, chân lư không có h́nh tướng, không thể truyền cho nhau được. Các vị tổ sư, chẳng qua là dùng những phương tiện khéo léo đem tâm truyền tâm. Vật được truyền thọ chỉ là cái tự tính lư thể của ḿnh. Điều bí mật mà các ngài giao phó cũng chỉ là vật mà xưa nay mọi người sẵn có, tức là kho tàng tự tính của chúng ta, chứ không phải y bát, là những vật h́nh thức bên ngoài. Thế nhưng, những kẻ phàm tục không thể thấy được cái kho tàng tự tính nầy, mà chỉ bo bo chấp vào h́nh tướng, do đó y bát nầy có thể trở thành sự tranh chấp. Từ con về sau, y bát nầy không cần phải truyền cho đời sau nữa. Nếu mà c̣n tiếp tục truyền xuống, e rằng ngay cả tính mệnh của con cũng không được bảo đảm. Bây giờ con phải cấp tốc rời khỏi chổ nầy, để khỏi mang họa vào thân!
Huệ Năng phân vân:
- Dạ thưa, con phải đi về đâu bây giờ?
Tổ nói:
- Con có thể chèo thuyền rời khỏi chỗ nầy, đi về phương nam. Nếu đến vùng mà tên có chữ Hoài, th́ có thể dừng bước, c̣n nếu đến vùng mà tên có chữ Hội, th́ phải nên ẩn dật.
Huệ Năng trả lời:
- Dạ thưa, con nhớ.
Huệ Năng lạy Tổ xong, bèn chuẩn bị quay trở về pḥng. Tổ hỏi:
- Khoan đă, con định đi đâu vậy?
- Dạ thưa, con trở về pḥng, đợi sáng mai lên đường.
- Không được! Nếu đợi sáng mai làm sao mà c̣n đi được? Con phải đi ngay bây giờ!
- Đi bây giờ? Thế nhưng con không rành đường. Sợ trong đêm tối sẽ bị lạc trong rừng núi!
Tổ nói:
- Chớ lo, ta sẽ đưa con đi một đoạn.
Nói xong, hai thầy tṛ trong đêm vắng vội vả xuống núi, đi một mạch về hướng bờ sông. Đến nơi cả hai cùng leo lên một chiếc thuyền nhỏ không chủ, Tổ bèn cầm chèo định đưa Huệ Năng qua sông. Huệ năng thấy vậy hớt hăi nắm lấy mái chèo, vội vả thưa với Tổ:
- Dạ thưa Tổ ngồi nghỉ, để con chèo thuyền đưa Tổ qua sông.
Tổ mỉm cười nói với Huệ Năng:
- Ta là thầy, con là tṛ, đáng lẽ ta nên đưa con qua sông mới đúng.
Trong khoảnh khắc, Huệ Năng hiểu rơ ư Tổ, bèn trả lời:
- Dạ thưa Tổ, khi con c̣n mê muội đương nhiên là Tổ độ con, nhưng nay con đă khai ngộ, con phải tự độ chính ḿnh.
Nghe nói xong, Tổ cảm thấy rất là hài ḷng, ngài liền xuống thuyền nói với Huệ Năng:
- Nếu vậy ta đưa con đến đây, để con tự qua sông. Từ đây về sau, việc hoằng dương Phật pháp hoàn toàn trông cậy vào con. Con đi rồi, ba năm sau ta sẽ viên tịch. Bây giờ con phải đi nhanh về phương nam sống ẩn dật, ít nhất cũng từ mười đến mười lăm năm, chớ nên hấp tấp đi giảng kinh thuyết pháp. Đợi nhân duyên chín muồi rồi đi ra hoằng dương Phật pháp cũng không muộn. Điều nầy con nên nhớ rơ, đạo lớn của Thiền tông không lớn mạnh một cách dễ dàng được.
Tổ đưa Huệ Năng xong liền trở về chùa, liên tiếp mấy ngày Tổ không lên Pháp đường giảng kinh. Mọi người trong chùa đều hoang mang không hiểu việc ǵ xảy ra, bèn cử người đại diện đến pḥng Tổ thăm hỏi:
- Dạ thưa! Mấy hôm nay Tổ không lên Pháp đường giảng kinh, không hiểu Tổ có bệnh hoạn ǵ không, hay là chúng con có làm điều ǵ mà Tổ không vừa ư?
Tổ nói:
- Ta chẳng có bệnh hoạn ǵ cả, mà cũng chẳng buồn giận ǵ ai hết. Chỉ có điều là y bát đă được truyền về phương nam rồi.
Nghe xong, mọi người đều hớt hăi, bèn thưa với Tổ:
- Dạ thưa, xin hỏi Tổ ai là người được truyền y bát.
Tổ nói:
- Kẻ có đủ khả năng được truyền y bát.[xv][15]
Tin tức vừa loan ra, mọi người đều kinh ngạc trước biến cố vĩ đại nầy. Thượng tọa Thần Tú mới là kẻ đau khổ nhất, ông ta nghĩ thầm:
- Không ngờ ḿnh lao khổ tu tập bao nhiêu năm như vậy, mà rốt cuộc cũng không được Tổ chấp nhận.
Ôm nỗi khổ đau ray rức trong ḷng, Thần Tú gom góp đồ đạc, từ biệt mọi người xong, bèn lặng lẽ xuống núi. |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 5 of 34: Đă gửi: 05 June 2005 lúc 4:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Hai sự kiện Ngũ tổ truyền Pháp y và Thần Tú bỏ chùa, được nhanh chóng truyền đi khắp nơi trong chùa, làm cho cả chùa nổi cơn sóng gió. Trong chùa có một vị họ Trần, pháp danh Huệ Minh, là người cảm thấy bất măn cho sự thiệt tḥi của Thần Tú nhiều nhất. Huệ Minh tỏ vẻ rất bất b́nh, bèn tụ tập một nhóm người, chuẩn bị đi t́m đoạt y bát đem trở về chùa. Thế nhưng, Tổ đă truyền y bát cho ai? Mọi người cùng nhau suy đoán, bèn phát giác là tên "mọi" phương nam làm trong pḥng giă gạo đă biệt vô tăm tích từ lúc nào! Lúc đó mọi người bèn quyết đoán là Huệ Năng đă đem y bát về phương nam.
Huệ Minh hầm hừ:
- Thực là đáng ghét, cái tên man di thất học đó lại dám ăn cắp y bát của Thiền tông trốn đi biệt tích. Chắc là hắn muốn làm tổ sư đời thứ sáu? Vậy mà lúc mới đến làm bộ như hiền từ, nói ḿnh chỉ muốn học làm Phật, ngoài ra không có ư đồ ǵ khác. Thử xem, ta sẽ đi t́m bắt hắn đem về!
Sau đó nhóm người do Huệ Minh cầm đầu ồ ạt xuống núi, t́m về phương nam, đuổi bắt Huệ Năng.
Huệ Năng sau khi từ biệt Ngũ tổ, liền vội vả băng rừng lội suối đi về phương nam ngày đêm không nghỉ, trong ṿng hai tháng đă đến Đại Dữu Lĩnh. Đây là vùng biên giới của Giang Tây và Quảng Đông. Nếu vượt qua rặng núi nầy là đến đất Lĩnh Nam, quê cũ của ngài. Do v́ đường dài bôn ba, lại thêm nhiều ngày không nghỉ, thân thể cảm thấy mệt mỏi, Huệ Năng bèn tạm ngồi nghỉ ngơi trên tảng đá bên vệ đường. Chẳng ngờ, chưa được bao lâu, bèn nghe có tiếng chân người dưới chân núi đang đuổi theo, ngài cúi xuống nh́n kỹ té ra là Huệ Minh chứ chẳng phải ai khác. Huệ Minh vốn là quan vơ, cấp bậc tứ phẩm, xuất gia chưa được bao lâu, tính t́nh vẫn c̣n rất thô bạo. Huệ Năng thấy ông ta hung hăng chạy lên, trong bụng bèn nghĩ thầm:
- Phải làm thế nào bây giờ?
Ngài vội vàng quay nh́n bốn phía, chỉ thấy toàn là cỏ mọc rậm ŕ trên những tảng đá h́nh thù cổ quái, đúng là chỗ ẩn nấp an toàn. Huệ Năng vội vàng lao ḿnh vào bụi rậm ẩn trốn, thế nhưng ngài lại không mang kịp y bát theo, bọc hành trang vẫn c̣n nằm nguyên trên tảng đá.
Chẳng bao lâu, Huệ Minh chạy đến, tuy không thấy bóng Huệ Năng, song ông ta biết là ngài đang ẩn nấp gần đó, bèn hả miệng định lên tiếng nhục mạ. Thốt nhiên, nh́n thấy y bát c̣n để trên tảng đá bên vệ đường, Huệ Minh mừng rỡ, vội vàng chạy đến chuẩn bị đoạt lấy đem về. Ô hay, lạ lùng thật! Bọc y bát h́nh như mọc rễ xuống đất.
Huệ Minh gồng hết sức ḿnh cũng không làm cho nó nhúc nhích được, giống như nhấc lên tảng đá ngàn cân. Lúc đó, Huệ Minh trong ḷng bắt đầu lo lắng. Ông ta nghĩ thầm:
- Quả thực cái tên quái nầy được Ngũ tổ truyền y bát là đúng rồi. Nếu không, làm ǵ mà hắn có pháp lực dữ dội như vậy!
Huệ Minh suy đi nghĩ lại, trong ḷng càng lúc càng lo âu. Quay nh́n bốn bề, chỉ nghe thấy tiếng ŕ rào của cơn gió lạnh thổi qua triền núi. Trên mặt đất, những chiếc lá khô bị gió xoắn, lượn đi lượn lại, tạo thành những âm thanh xào xạc. Lúc đó, Huệ Minh không biết phải làm sao, trong ḷng tràn ngập niềm lo sợ. Ông biết rằng y bát nầy không phải là người nào cũng có thể giành được, do đó bèn lớn tiếng kêu Huệ Năng:
- Hành giả! Hành giả! Làm ơn đến đây, tôi biết lỗi ḿnh rồi! Vả lại, tôi cũng v́ Pháp mà đến. Xin hành giả từ bi đến đây thuyết pháp!
Nghe Huệ Minh kêu la có vẻ thảm thiết như vậy, Huệ Năng bèn trong bụi rậm từ từ bước ra. Ngài nói với Huệ Minh:
- Y bát chỉ là một vật để làm tin, tại sao thầy lại muốn dùng vũ lực để tranh đoạt?
Huệ Minh tỏ vẻ ngượng nghịu:
- Dạ, dạ! Dạ mong hành giả từ bi nói Pháp cho Huệ Minh nghe.
Huệ Năng nói:
- Nếu như thầy thực t́nh v́ pháp mà đến, như vậy trước tiên thầy phải xả bỏ cái tâm tranh đoạt, buông bỏ tất cả vọng tưởng, trong tâm không một niệm nào khác, tôi sẽ nói pháp cho thầy nghe.
Huệ Minh nghe xong bèn ngồi trầm lặng. Một lúc sau, Huệ Năng nói với ông ta:
- Không nghĩ thiện! Không nghĩ ác! Cái ǵ là bổn lai diện mục của thầy? Cái ǵ là chân thực tự tính của thầy? Nói mau! Nói mau!
Huệ Minh thốt nhiên có cảm giác như nghe một tiếng sét ngang trời. Ông ta thấy rơ được chân như tự tính trong dáng dấp nguyên sơ của nó. Trong khoảnh khắc đó, Huệ Minh đại ngộ! Cái không phân biệt thiện ác, há chẳng phải là sự biểu hiện của Phật tính hay sao?
Huệ Minh trong ḷng tràn ngập niềm cảm động, bèn nói với Huệ Năng:
- Dạ xin hỏi Ngài, ngoại trừ điều mà Ngài vừa nói đó, c̣n có điều bí mật nào khác mà Ngài có thể dạy Huệ Minh hay không?
Huệ Năng nói:
- Những điều tôi vừa nói với thầy, đă rơ ràng như thế, chứng tỏ là tôi không có dấu diếm điều ǵ hết. Nếu thầy có thể dùng trí tuệ Bát nhă soi rơ tự tính, thầy sẽ khám phá ra là cái chân lư ẩn tàng trong đó, xưa nay trong tâm ḿnh vẫn đầy đủ. Cũng giống như đóa hoa sen mà trong đó có chứa hạt minh châu.
Huệ Minh nghe xong, cảm thấy mừng rỡ như một kẻ bần cùng vừa lượm được một viên ngọc quí. Ông ta cảm động đến rơi nước mắt, nói với Huệ Năng:
- Huệ Minh tuy ở nơi Tổ Hoàng Mai cầu pháp nhiều năm, mà cho đến nay vẫn chưa thấy được Phật pháp, không biết bổn lai diện mục của ḿnh. Hiện nay nhờ ơn của Ngài nên ngộ được tự tính. Từ trước đến nay, Huệ Minh chưa từng thấy được cái cảm giác khó h́nh dung như vậy, giống như người khát uống nước, lạnh nóng tự ḿnh biết. Từ hôm nay trở đi, Ngài là thầy của Huệ Minh.
Nói xong Huệ Minh chấp tay định bái tạ Huệ Năng. Thấy thế, Huệ Năng liền vội vàng đở ông ta dậy, ngài nói:
- Thầy và tôi là người đồng môn, việc ǵ mà phải chấp nhất ai là thầy ai là tṛ. Chỉ cần chúng ta tuân theo lời dạy của Tổ mà tu hành là tốt rồi.
Huệ Minh lại hỏi:
- Hôm nay Huệ Minh đă ngộ được Phật pháp, không biết phải đi về đâu để quảng độ chúng sinh?
- Thầy đi đến vùng nào mà tên có chữ Viên th́ có thể tạm ngừng, đi đến vùng nào mà tên có chữ Mông th́ có thể ở lại.
Huệ Năng ngừng một lúc lại nói:
- Mà nầy! Thầy xuống núi không nên nói cho ai biết chuyện nầy, để khỏi phiền hà mai sau, mà tự làm hại chính ḿnh!
Huệ Minh từ biệt Huệ Năng xong bèn xuống núi. Xuống đến chân núi Huệ Minh nói với những người trong nhóm vừa mới t́m đến:
- Tôi lên núi t́m cả buổi mà không thấy ai hết, chắc chắn không phải ở chỗ nầy. Tốt hơn, chúng ta nên theo hướng khác mà t́m.
Sau khi Huệ Minh đi rồi, Huệ năng bèn tiếp tục hành tŕnh về đến Tào Khê.
Huệ Năng từ lúc trở về trú ẩn ở làng Tào Khê, đất Tiều Châu, sự kiện ngài được Tổ Hoàng Mai truyền y bát, vẫn không ai hay biết. Có một vị thư sinh tên là Lưu Chí Lược mới gặp Huệ Năng có một lần mà đă cảm thấy thân thiết như người bạn lâu năm. Hai người bèn kết nghĩa làm anh em. Chí Lược có một người cô xuất gia làm ni, pháp danh Vô Tận Tạng, thường tụng kinh Đại Niết Bàn. Vô Tận Tạng nghe cháu nói Huệ Năng là người tinh thông Phật pháp, bèn cầm quyển kinh đến t́m Huệ Năng hỏi ư nghĩa. Huệ Năng nói:
- Tôi không biết mặt chữ, xin cô cứ hỏi ư nghĩa trong kinh, tôi sẽ trả lời.
Vô Tận Tạng có vẻ nghi ngờ:
- Mặt chữ c̣n không biết, làm sao hiểu được ư nghĩa của kinh?
Huệ Năng trả lời:
- Nghĩa lư nhiệm mầu của chư Phật đều có đủ trong tất cả các pháp. Tôi tuy không biết chữ, cô cứ đem kinh ra đọc. Tôi nghe qua rồi, tôi sẽ đọc được và sẽ hiểu được ư nghĩa của kinh.
Vô Tận Tạng nửa tin nửa ngờ, bèn đem quyển kinh ra lật từ trang đầu đến trang cuối. Một lúc sau t́m được một đoạn mà chính cô ta cũng không hiểu muốn nói ǵ, bèn đọc cho Huệ Năng nghe. Quả thực, Huệ Năng vừa nghe qua liền có thể đọc lại không sai một chữ, mà lại c̣n giải thích tường tận ư nghĩa của kinh cho cô ta nghe. Vô Tận Tạng nghe xong, cảm thấy vô cùng kinh phục, không ngớt gật đầu khen ngợi:
- Thật đáng bội phục! Quả không hổ danh là học tṛ của Tổ Hoàng Mai!
Danh tiếng của Huệ Năng chẳng bao lâu truyền khắp trong làng. Mọi người trong làng đều đến yết kiến ngài, trong đó có cháu nhiều đời của Tào Tháo là Tào Thục Lương cũng t́m đến xin cầu Pháp. Thục Lương ra mắt Huệ Năng xong, bèn ở lại cùng Huệ Năng đàm luận về những vấn đề nhân sinh vũ trụ. Thục Lương lần lần đối với Huệ Năng sinh tâm cung kính, ngưỡng mộ, do đó muốn t́m cơ hội báo đáp ân huệ của ngài. Cơ duyên đến thật là đúng lúc! Phía trên làng Tào Khê có một ngôi chùa cổ, tên là Bảo Lâm, nhưng v́ chiến tranh tàn phá, đến nay đă trở thành hoang phế. Tào Thục Lương bèn tụ hợp mọi người trong làng, gom góp tiền bạc vật dụng trùng tu lại ngôi chùa, và mời Huệ Năng về đó trụ tŕ. Ở đây, Huệ Năng bắt đầu công việc hoằng pháp của ḿnh. Thời gian thắm thoát đă qua chín tháng. Thế nhưng trên đời nầy, chẳng có hạnh phúc nào lâu dài cả. Nhóm người chùa Đông Thiền đi t́m đoạt y bát của Huệ Năng, dù trải qua ngàn dặm sơn khê, rốt cuộc cũng đă t́m đến! Bọn họ dự mưu là đuổi Huệ Năng từ trước núi ra đến sau núi, kế đó sẽ đốt rừng, bức bách Huệ Năng phải chạy ra mà túm bắt. Nhưng bọn họ không ngờ rằng Huệ Năng núp vào trong khe đá, may mắn thoát nạn.[xvi][16] Nghe nói, hiện nay chỗ ấy có một tảng đá h́nh giống bồ đoàn, trên đó có dấu vết Huệ Năng ngồi kiết già. In trên mặt đá là dấu vết của hai đầu gối, cùng dấu vết của những nếp áo của ngài!
Sáng hôm sau, Huệ Năng từ khe đá chun ra, nh́n về phía chùa Bảo Lâm đă bị thiêu rụi, ngài biết là không thể tiếp tục ở lại được nữa, bèn lần về phương nam. Khoảng ba bốn ngày sau, bất giác Huệ Năng đă đến chỗ giáp ranh của hai vùng Hoài Tập và Tứ Hội[xvii][17]. Ngài nhớ lại lời dặn ḍ của Tổ: "Gặp Hoài th́ ngừng, gặp Hội th́ ở". Do đó, ngài bèn định cư tại nơi nầy.
Từ đó, Huệ Năng bèn sống lẫn trong đám thợ săn, giả trang làm nghề săn bắn. Mỗi khi có cơ hội, Huệ Năng thường giảng cho bọn họ nghe về ḷng từ bi đối với muôn loài. Bọn thợ săn giao phó cho ngài công việc canh chừng bẫy thú, thế nhưng mỗi khi thấy có thú rừng lọt vào trong bẫy, ngài lại cảm thấy bất nhẫn bèn mở bẫy để cho chúng chạy thoát, do đó, ngài thường bị bọn họ mắng nhiếc và xử phạt. V́ làm nghề săn bắn nên món ăn chính của bọn họ thường là thịt thú rừng. Huệ Năng lúc mỗi bữa ăn, đều nhặt rau rừng, măng tre, ..., bỏ vào trong một giỏ tre nhỏ, nhún trong nồi thịt, nấu chín mà ăn. Nếu bọn họ có hỏi lư do, th́ ngài trả lời:
- Mỗi ngày tôi chỉ làm những công tác nhàn hạ là trông chừng bẫy, chẳng tốn bao nhiêu sức lực, bởi vậy chỉ cần ăn rau cải cũng đủ rồi.
Cứ như thế, thời gian như "bóng câu qua cửa sổ", thắm thoát mà đă gần mười lăm năm. Một hôm, Huệ Năng nghĩ thầm:
- Đă đến lúc phải ra hoằng pháp, không c̣n có thể ẩn núp lâu được nữa!
Nhân đó, Huệ Năng bèn từ giả bọn thợ săn, đi về hướng nam, đến thành phố Quảng Châu. Đầu tiên ngài đến chùa Trang Nghiêm; thấy cảnh chùa vắng vẻ, trong chùa chỉ có vài vị tăng, Huệ Năng hỏi thăm lư do, th́ biết là mọi người trong chùa đă đến chùa Pháp Tính nghe pháp sư Ấn Tông giảng kinh Đại Bát Niết Bàn.
Nghe nói như thế, Huệ Năng bèn t́m đường đến chùa Pháp Tính. Đến nơi, thấy mọi người tụ hợp đông đảo trong Pháp đường, không có chỗ chen chân. Huệ Năng len lỏi vào đám đông, khó khăn lắm mới t́m được một chỗ đứng ngoài hành lang. Pháp sư Ấn Tông ngồi trên giảng ṭa, đang giảng ư nghĩa thâm sâu của kinh Niết Bàn. Ông nói:
- Mọi vật trên thế gian đều do nhân duyên ḥa hợp mà sinh ra. Xin hỏi các vị, như vậy là trước phải có nhân, rồi sau đó mới có duyên? Hay là trước phải có duyên, rồi sau đó mới có nhân?
Vừa nói đến đó, bỗng nhiên có một cơn gió lớn thổi qua, làm cho tấm tràng phan treo trước cửa chùa phất phơ lay động. Ấn Tông thấy sự việc xảy ra như vậy, bèn hỏi mọi người:
- Các vị có vừa thấy tràng phan lay động không? Xin hỏi các vị, tràng phan tự nó lay động, hay là có vật ǵ làm cho nó lay động?
Trong đám đông có người đứng dậy trả lời:
- Tràng phan không thể tự nó lay động, mà là do gió thổi làm nó lay động.
Vừa nói xong, liền có người khác đứng dậy phản đối:
- Không đúng, chắc chắn là tràng phan tự nó lay động, v́ cái tính động đă ở sẵn trong tràng phan, mà không ở trong luồng gió.
Cứ thế, hai người chẳng ai nhường ai, lời qua tiếng lại làm ầm ỹ cả lên. Pháp sư Ấn Tông ngồi trên giảng ṭa chẳng biết phải làm sao, v́ cả hai bên ai cũng có lư cả. Hơn nữa, pháp sư đối với vấn đề nầy cũng chưa có lời giải vững chắc.
Bất chợt, từ trong góc ngoài Pháp đường có một âm thanh sang sảng vang lên:
- Không phải là gió đang lay động, cũng không phải là tràng phan đang lay động, mà chính là tâm hai vị đang lay động!
Nghe Huệ Năng nói một câu vừa đơn giản vừa rơ ràng, mọi người trong Pháp đường đang ồn ào rầm rĩ, liền trở nên im thinh thích. Tất cả đều quay đầu t́m xem ai là người vừa nói câu đó, thấy Huệ Năng trong bộ quần áo dân quê lam lũ, dáng dấp tầm thường, mọi người đều chưng hửng, nửa tin nửa ngờ. Chỉ có Pháp sư Ấn Tông là người thấy rơ hơn ai hết, ông ta kề tai nói nhỏ với thị giả:
- Đợi cho ta giảng kinh xong. Bây giờ ông nên đi mời vị cư sĩ đang đứng cạnh góc tường ngoài hành lang, đến pḥng ta chờ một chút.
Ấn Tông nói xong, bèn kết thúc buổi giảng kinh, yêu cầu mọi người trở về suy ngẫm vấn đề đang được thảo luận vừa rồi. Ấn Tông quay về pḥng, mời Huệ Năng an tọa xong, kế đó hỏi ngài về những ư nghĩa thâm sâu của Phật pháp. Huệ Năng trả lời suôn sẻ, ư nghĩa vừa sâu xa, vừa hợp t́nh hợp lư, mà lại ít dùng chữ nghĩa trong kinh luận. Điều nầy làm cho Ấn Tông vừa kinh ngạc vừa kính phục. Ông ta biết người đối diện ḿnh không phải là một kẻ tầm thường, bèn hỏi:
- Hành giả chắc chắn không phải là một kẻ tầm thường. Tôi từ lâu có nghe rằng y bát của Tổ Hoằng Nhẫn đă được truyền về phương nam, chẳng biết có phải là hành giả hay không?
Huệ năng trả lời:
- Dạ, kẻ tàm quí nầy không dám.[xviii][18]
Ấn Tông nghe nói, biết rằng Huệ Năng là người được truyền y bát, ông ta bèn phá lệ, vội vàng xuống ghế làm lễ ra mắt[xix][19], kế đó thỉnh cầu Huệ Năng đem y bát ra cho mọi người có cơ hội chiêm ngưỡng lễ lạy. Ấn Tông bèn hỏi Huệ Năng:
- Ngũ tổ Hoằng Nhẫn lúc đem y bát truyền cho Ngài, Tổ c̣n có dặn ḍ ǵ thêm nữa không, như vấn đề thiền định giải thoát chẳng hạn?
- Tổ chẳng có dặn ḍ điều ǵ đặc biệt cả!
Ấn Tông tỏ vẻ nghi ngờ:
- Thế à! Làm sao có thể như thế được?
Huệ Năng thấy Ấn Tông không hiểu ư ḿnh, liền nói tiếp:
- Chẳng qua, Tổ chỉ nói đến ư nghĩa "kiến tính thành Phật", c̣n như vấn đề thiền định giải thoát, Tổ chưa đề cập đến.
Ấn Tông vẫn chưa hiểu rơ, bèn tiếp tục hỏi:
- Kẻ tu hành tọa thiền, do công phu của thiền định mà được giải thoát. Đây là sự kiện mà mọi người đều biết đến, tại sao Ngũ tổ lại không đề cập đến vấn đề nầy?
Huệ Năng trả lời:
- Phật pháp là pháp bất nhị[xx][20], c̣n sự tu thiền định cầu giải thoát đă bao hàm hai pháp: một là kẻ muốn cầu sự giải thoát, hai là pháp đem đến sự giải thoát. Đây không phải là chỗ cứu cánh của Phật pháp, cho nên Tổ không nói đến.
Ấn Tông lại hỏi:
- Nếu vậy, như thế nào mới gọi là pháp môn bất nhị trong Phật pháp?
Huệ Năng nói:
- Pháp sư mỗi ngày đều giảng kinh Niết Bàn, chắc cũng biết là "sự thấy rơ Phật tính" tức là pháp bất nhị. Mọi người xưa nay đều vốn đầy đủ Phật tính, và Phật tính nầy cũng không v́ chúng sinh tạo nghiệp mà tăng thêm hoặc giảm bớt. Giống như trong kinh Niết Bàn, Bồ tát Cao Quí Đức Vương đă từng hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn, những kẻ phạm bốn giới trọng[xxi][21], hoặc những kẻ tạo năm tội nghịch[xxii][22], cùng những kẻ nhất xiển đề[xxiii][23], bọn họ có phải v́ tạo ác nghiệp mà làm thiện căn Phật tính đoạn tuyệt hay không?" Phật đáp: "Thiện căn có thể phân làm hai loại: thường và vô thường. Thế nhưng Phật tính không phải thường, cũng không phải vô thường, cho nên không bị đoạn tuyệt, đây gọi là pháp môn bất nhị. Lại nữa, có thể đem sự vật phân thành thiện và bất thiện, đây là hai pháp. Thế nhưng Phật tính không phải thiện, cũng không phải bất thiện, không có phân biệt thiện ác, đây là pháp môn bất nhị". Các vật trên thế gian bị người đời phân chia thành muôn sự muôn vật, như đẹp, xấu, hay, dở ... Đối với cái nh́n của người phàm th́ có hai sự khác biệt, song người trí tuệ hiểu rơ Phật pháp, biết tất cả đều do nhân duyên sinh ra, đều không có tự tính, cho nên họ không có sự phân biệt. Cái chân tính không phân biệt nầy chính là Phật tính!
Huệ Năng giảng giải những điều mà Ấn Tông mới đề cập đến trong buổi giảng kinh vừa rồi, chẳng khác nào như chính ngài đang ở trên giảng ṭa giảng cho mọi người nghe. Đến đây, Ấn Tông đối Huệ Năng hoàn toàn kính phục, ông ta trong ḷng tràn ngập một niềm vui chưa từng có, bèn chắp tay cung kính khen ngợi Huệ Năng:
- Chúng tôi giảng kinh chẳng khác nào như đá sỏi không có giá trị, c̣n Ngài giảng kinh th́ giống như vàng ṛng quí báu!
Nhân v́ lúc đó Huệ Năng vẫn chưa chính thức xuất gia, do đó Ấn Tông bèn chọn ngày chuẩn bị làm lễ xuất gia cho ngài. Ngày mười lăm tháng giêng năm Nghi Phụng thứ nhất (TL 676), Pháp sư Ấn Tông chính thức làm lễ xuống tóc cho Huệ Năng, và xin lạy ngài làm thầy. Ngày tám tháng hai năm đó, Ấn Tông mời nhiều vị cao tăng đến làm lễ thọ giới. Trong buổi thọ giới, do ngài Luật sư[xxiv][24] Tuệ Tịnh ở chùa Linh Quang, đất Tô Châu, lo việc yết ma[xxv][25], chuyên phụ trách việc tuyên bố nhân duyên xuất gia của Huệ Năng. Ngài Luật sư Trí Quang ở chùa Tổng Tŕ làm thọ giới sư. Ngài Luật sư Thông Ứng ở chùa Thiên Hoàng, đất Kinh Châu, làm giáo thọ sư. Ngài Luật sư Kỳ Đa La, người Trung Ấn Độ, làm thuyết giới sư, và ngài Mật Đa Tam Tạng, người Tây Ấn Độ, làm chứng giới sư.
Tại đây, nơi mà ngài Pháp sư Trí Dược đă trồng cây Bồ đề, và nơi mà ngài Pháp sư Cầu Na Bạt Đà đă lập giới đàn, Huệ Năng đă chính thức thọ giới cụ túc.[xxvi][26] Điều nầy ứng nghiệm với lời tiên đoán của hai ngài Trí Dược và Cầu Na Bạt Đà hơn một trăm năm về trước.[xxvii][27]
Sau khi thọ giới hai tháng, Lục tổ Huệ Năng tại chùa Pháp Tính, nối tiếp Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, chính thức khai thị pháp môn thiền Đông Sơn.
Mùa xuân năm Phụng Nghi thứ hai, Lục tổ rời chùa Pháp Tính, chuẩn bị trở về chùa Bảo Lâm. Buổi tiễn biệt, có hơn một ngàn người vừa xuất gia, vừa tại gia, cùng nhau rầm rộ đưa Lục tổ về Tào Khê. Ngài Luật sư Thông Ứng cùng hơn một trăm đệ tử cũng theo Tổ về Tào Khê tu học.
Sau khi Lục tổ về đến chùa Bảo Lâm, ngài cảm thấy cảnh chùa quá chật hẹp, không đủ chỗ cho một số người đến cầu học đông đảo như thế, bèn nghĩ cách mở rộng cảnh chùa. Thế nhưng, chung quanh đều là đất của người khác, Lục tổ không c̣n cách nào hơn là phải đi t́m người chủ đất tên Trần Á Tiên thương lượng về vấn đề nầy. Vị chủ đất nầy tính t́nh rất tử tế và ngay thẳng, vừa nghe Lục tổ đến t́m ḿnh xin đất, ông ta liền hỏi ngài muốn cần bao nhiêu đất mới đủ.
Lục tổ nói:
- Tôi chỉ cần một khoảnh đất lớn như tấm tọa cụ nầy là đủ, không biết thí chủ có vui ḷng bố thí hay không?
Á Tiên liền hỏi:
- Dạ thưa, không biết tấm tọa cụ của Tổ bao lớn?
Lục tổ bèn đem tấm tọa cụ ra cho Á Tiên xem, ngài nói:
- Không lớn bao nhiêu cả. Chỗ mà tôi muốn, chỉ lớn bằng tấm tọa cụ nầy, đủ chỗ cho tôi ngồi thiền hai bữa sớm chiều mà thôi.
Á tiên nghe nói, không thể nhịn cười được, bèn lớn tiếng cười ha hả. Ông ta cảm thấy rất hứng thú, bèn trả lời:
- Dạ không sao, tùy ư Tổ chọn lựa khoảnh đất mà Ngài vừa ư!
Nghe xong, Lục tổ bèn dẫn Á Tiên đến đỉnh đồi cao nhất trong vùng Tào Khê. Chỉ thấy Lục tổ mở tấm tọa cụ ra ném lên không trung. Lạ thay! Tấm toạ cụ nhỏ như vậy, lại càng lúc càng biến thành to lớn, giống như quả bóng được bơm hơi! Chẳng mấy chốc đă bao trùm hết vùng Tào Khê. Hơn nữa, lại thấy bốn vị Thiên vương đứng hầu ở bốn góc.
Á Tiên thấy được pháp lực thần thông của Lục tổ như thế, biết Tổ là một bậc chân tu thực chứng, chứ không phải là kẻ tầm thường, bèn nói với ngài:
- Dạ thưa Tổ, con đă thấy rơ pháp lực của Ngài thực là vô biên. Thế nhưng mồ mả của tổ tiên đều ở chỗ này. Hy vọng xin để lại ít đất hương hỏa, c̣n bao nhiêu con nguyện cúng dường cho Ngài hết.
Lục tổ nói:
- Tốt lắm, tốt lắm! Đây là điều đương nhiên.
Sau đó, Lục tổ bèn đi xem xét khắp vùng, thấy nơi nào phong cảnh thanh tú ngài bèn lập một cảnh chùa. Trước sau, ngài lập được mười ba cảnh chùa như thế.
Trước chùa Bảo Lâm có một cái hồ nhỏ, nước trong vắt. Có một con rồng sống dưới đáy hồ, thường thường hiện ra tác yêu tác quái. Mỗi lần rồng xuất hiện thường thổi gió lớn, làm cho mặt hồ nổi sóng như gặp cơn băo dữ. Mọi người trong chùa đều sợ hăi, không ai dám đến gần bờ hồ.
Một hôm lúc rồng đang xuất hiện, Lục tổ bèn ra bờ hồ rầy mắng:
- Mi là đồ côn trùng nhỏ nhít mà cũng dám đến đây tác yêu tác quái. Mi chỉ biết hiện thân lớn để nhát người khác, mà không biết hiện thân nhỏ để làm thiện. Có ǵ là ghê gớm! Nếu mi thực sự là kẻ cao cường th́ mi có thể biến nhỏ biến lớn. Mi thử biến nhỏ cho ta xem. Nếu được mới gọi là rồng thần.
Kỳ lạ thực! Lục tổ vừa nói xong, rồng liền biến mất. Chẳng bao lâu trên mặt nước yên lặng xuất hiện một con rắn, nhỏ như sợi dây bện bằng cỏ, bơi về phía Lục tổ. Ngài bèn đem b́nh bát ra, từ từ qú xuống bên bờ hồ, nói với rồng:
- Biến nhỏ biến lớn chưa có ǵ kỳ lạ, mi có đủ can đảm nhảy vào trong b́nh bát của ta hay không?
Rồng nghe Lục tổ thách thức, bèn bơi đến trước mặt ngài, không chút do dự nhảy ngay vào trong b́nh bát. Lúc đó Lục tổ thở phào một tiếng, mang b́nh bát quay trở về chính điện, vẻ mặt tươi cười rạng rỡ. Rồng nằm trong b́nh bát cảm thấy rất hoang mang sợ hăi, bèn vùng vẫy t́m cách thoát ra, nhưng làm cách nào cũng vô ích. Nó không biết phải làm sao, bèn nằm yên lặng, không c̣n dám cựa quậy nữa. Lục tổ bèn lên ṭa thuyết pháp cho rồng nghe. Nghe xong, rồng liền thoát hóa[xxviii][28], biến thành một cụm khói xanh bay đi mất, chỉ để lại một bộ xương rồng dài độ bảy tấc. Về sau, v́ muốn kỷ niệm, người trong chùa bèn lấp hồ lại cho bằng, trên đó xây một cái tháp sắt nhỏ để thờ bộ xương rồng nầy.
Lục tổ trở về chùa Bảo Lâm chẳng được bao lâu, danh tiếng của ngài đă được truyền đi khắp nơi, điều nầy làm cho thánh địa của Thiền tông càng lúc càng trở nên hưng thịnh.
Vào đời nhà Đường, Tào Khê thuộc về đất Tiều Châu, huyện Khúc Giang. Lúc đó quan thứ sử của Tiều Châu, tên Vĩ Cừ, là một Phật tử thuần thành. Nghe tin y bát của Thiền tông đă được truyền về phương nam, lại nghe người kế thừa y bát là Lục tổ Huệ Năng đang trụ tŕ chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, Vĩ Cừ cảm thấy rất hoan hỷ. Đây là cơ hội hiếm có, ngàn năm một thuở, do đó ông ta bèn hướng dẫn một nhóm quan lại đến chùa Bảo Lâm, thỉnh Lục tổ đến chùa Đại Phạm ở thành phố Khúc Giang khai thị Phật pháp cho nhân dân ở vùng đó. Sau khi nhận lời mời của Vĩ Cừ, Lục tổ đă đến chùa Đại Phạm. Tại đây ngài lên ṭa thuyết pháp. Mở đầu ngài nói đến gia thế của ḿnh, về chuyện ḿnh đă đi cầu pháp ở Tổ Hoàng Mai, sự thừa kế y bát, cùng sự kiện là sau khi được truyền y bát, ngài đă trải qua bao nhiêu sự gian nan khốn khổ. Ngài nói rằng trước khi ngài đến chùa Pháp Tính, sinh mệnh của ngài bị đoe dọa bởi sự nguy hiểm, cũng giống như chỉ mành treo chuông, không biết sẽ bị đứt lúc nào.
Kế đó Lục tổ nói:
- Hôm nay tôi có cơ hội được cùng các vị ngồi nơi đây, đều là do pháp duyên lành mà chúng ta đă cùng nhau gây tạo trong nhiều đời, đó là phước báo của mọi người đă nhiều đời trong quá khứ cúng dường Phật, vun trồng thiện căn. Do nhân duyên nầy mà các vị ngày hôm nay mới có cơ hội đến đây nghe được pháp môn truyền tâm đốn giáo nầy. Pháp môn nầy là do các bậc thánh nhân xưa đă đời đời truyền lại cho đến ngày hôm nay, chứ không phải do Huệ Năng tự đặt ra. Nguyện rằng mọi người sau khi nghe pháp môn đốn giáo nầy, đều có thể làm tâm thanh tịnh, dẹp trừ sự nghi ngờ. Dùng tự tính Bồ đề nầy, đều có thể thành Phật.
Đại chúng nghe Lục tổ giảng xong, mọi người đều cảm thấy hoan hỉ, bèn lễ tạ mà lui ra.
Ngày hôm sau, thứ sử Vĩ Cừ bèn thỉnh Lục tổ giảng thêm, Lục tổ bèn lên ṭa nói với mọi người:
- Trước hết, các vị nên đem tâm thanh tịnh, cùng nhau niệm Ma ha Bát nhă ba la mật đa.
Kế đó ngài nói tiếp:
- Các vị thiện tri thức, tất cả chúng sinh xưa nay vốn có đủ trí tuệ giác ngộ. Chỉ v́ tâm địa bị mê hoặc, cho nên không cách nào tự ḿnh giác ngộ, mà phải nhờ vào sự giúp đỡ của các vị thiện tri thức. Phải biết là Phật tính của kẻ ngu si cùng người trí tuệ không có ǵ khác biệt. Bây giờ tôi sẽ v́ các vị giảng pháp Ma ha Bát nhă ba la mật nầy, các vị nên chú tâm nghe tôi nói.
Các vị thiện tri thức, người thế gian tuy cả ngày miệng niệm "Bát nhă, Bát nhă", nhưng bọn họ không biết rằng Phật tính của ḿnh đă có sẵn Bát nhă. Đây cũng giống như có bọn người, ăn th́ không chịu ăn, tuy cả ngày nói tên những món sơn hào mỹ vị, cũng chẳng làm cho bọn họ no bụng được. Học Phật cũng như vậy, nếu cả ngày cứ nói lư thuyết mà không chịu khó tu hành, th́ có nói đến trăm ngàn vạn năm, cũng không cách nào thấy được tự tính của ḿnh. Điều nầy không giúp ích được ǵ cho ḿnh cả!
Kế đến Tổ bèn giải thích ư nghĩa của chữ "Ma ha Bát nhă ba la mật":
- Các vị thiện tri thức, Ma ha Bát nhă ba la mật là tiếng Ấn Độ, tiếng Đường[xxix][29] dịch là Đại trí tuệ đáo bỉ ngạn[30]. Học tập Phật pháp, phải chân thực buông xả sự trói buộc thế gian, nh́n thấu sự vật mới được, không phải chỉ là dùng miệng tụng niệm mà thôi. Nếu chỉ dùng miệng tụng, mà không đem trí tuệ Bát nhă ra tu hành, th́ vẫn c̣n là kẻ đầy dẫy những vọng tưởng vô minh. Nếu học Phật như thế, chắc chắn là sẽ không đem đến hiệu quả nào hết. Cũng giống như sương mai buổi sớm, điện xẹt ngang trời, chỉ xuất hiện hoặc có mặt trong chốc lát rồi biến mất không c̣n ǵ. Trái lại, nếu miệng và tâm có thể hợp nhất, trong ngoài đều nhất trí thực hành, nếu như vậy th́ có thể thấy được tự tính. Tự tính tức là Đức Phật chân thực của ḿnh. Nếu rời bỏ tự tính th́ cũng chẳng có Phật. Đức Phật có nói rằng ai ai cũng có thể thành Phật. Chỉ cần các vị "tu hành tự tính", đem luồng sáng của trí tuệ quay lại chiếu rọi chính ḿnh, quay lại t́m cầu chính ḿnh, không nên đi t́m Phật pháp ở ngoài tâm ḿnh. Nếu được như vậy chắc chắn sẽ thành Phật.
Chữ "Ma ha" có nghĩa là ǵ? Ma ha dịch là đại (lớn). Điều nầy muốn nói là tâm ḿnh phải nên rộng lớn như hư không, không có giới hạn, không có sự khác biệt về kích thước, h́nh dạng, màu sắc, mà cũng không nên phân biệt trên dưới, ngắn dài, cũng không có sự vui sướng hoặc giận dữ, cũng không có sự phân biệt thị phi, thiện ác, đầu đuôi, ... Cơi nước của chư Phật cũng rộng lớn như hư không. Cái diệu tính mà chúng ta vốn có cũng là không, xưa nay chưa từng được pháp nào hết. Cho nên nói:
Tự tính như hư không
Chân, vọng đều ở trong
Thấy rơ tự tính ḿnh
Tất cả đều sẽ thông.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 6 of 34: Đă gửi: 05 June 2005 lúc 4:20am | Đă lưu IP
|
|
|
Tự tính chân không chính là như vậy.
Thế nhưng, cũng nên nói rơ, các vị ở đây nghe tôi giảng về Không, không nên chấp trước vào cái "không". Điều quan trọng nhất là không nên chấp trước vào cái "không"! Nếu như việc ǵ cũng không nghĩ đến, đem tất cả mọi vật trừ khiển làm cho không, tâm không mà thân cũng không. Đem cái quan niệm mọi vật đều không như vậy, mà tu tập thiền định mong đạt được kết quả, th́ cũng chỉ được một loại "vô kư không" mà thôi. Kẻ lạc vào vô kư không nầy, bên ngoài th́ có vẻ như đoạn hết trần duyên vọng tưởng, kỳ thực vẫn chưa thấy được chân tâm, mà vẫn c̣n ở trong trạng thái u mê. Tuy là người đang sống, mà chẳng khác ǵ đă chết, việc ǵ cũng chẳng biết.
Các vị thiện tri thức, hăy nh́n thế giới mà chúng ta đang sống, vạn vật bao la, như mặt trời, mặt trăng, các v́ sao, núi, sông, đất, người lành, người dữ, ..., không có vật nào mà không ở trong hư không. Hư không cũng không nói: "Ông là người ác, tôi sẽ đuổi ông đi mau ra khỏi hư không, ông là người lành, tôi sẽ mời ông đi mau vào hư không". Hư không không biết phân biệt như vậy. C̣n tự tính chúng ta th́ sao? Cũng giống như hư không, bao hàm chứa đựng tất cả vạn vật.
Các vị thiện tri thức, như tôi vừa nói qua, các vị nên hiểu rơ tự tính vô cùng to lớn của ḿnh bao hàm tất cả các pháp. Tất cả các pháp đều do tự tính ḿnh sinh ra. Nếu như có kẻ giác ngộ được ánh sáng tự tính nầy, kẻ đó khi thấy người khác có những hành vi hoặc thiện, hoặc ác, hoặc tốt, hoặc xấu, kẻ đó không c̣n sinh ra ư tưởng ưa thích hoặc chán ghét, trong tâm không c̣n chấp trước. Tâm kẻ ấy cũng giống như hư không rộng lớn, đây gọi là đại (lớn), cũng tức là ư nghĩa chân thực của Ma ha.
Các vị thiện tri thức, người trí tuệ học Phật, thường thành thực với ḷng ḿnh, thực tiển tu hành, c̣n kẻ mê vọng lại chỉ nói lư thuyết, chỉ thích giảng nói toàn ba mớ "khẩu đầu thiền"[xxxi][31] mà thôi. Lại c̣n một loại người mê chấp, ngồi thiền với cái quan niệm tất cả đều là không, cho rằng việc ǵ cũng không nên nghĩ đến, việc ǵ cũng không nên làm, và cho rằng đây là sự chứng đạo, khai ngộ. Đối với hạng người nầy, không nên nói Pháp cho họ. V́ sao? V́ bọn họ đă chấp trước vào cái gọi là "ngoan không"[xxxii][32] và vô kư không. Đây là bọn tà tri tà kiến, chứ không phải chính tri chính kiến.
Lục tổ lại nói:
- Các vị đều là người trí tuệ, nên biết rằng tâm lượng của chúng ta rộng lớn bao trùm cả pháp giới nầy. Các vị có thể hiểu rơ cảnh giới của Phật pháp rộng lớn bao trùm tất cả. Một khi chân tâm phát sinh tác dụng, chúng ta có thể thấy rơ tất cả mọi vật trên thế gian nầy, giống như tấm gương lớn soi sáng vạn vật. Vật đến tức ảnh hiện trên gương, vật đi tức trong gương trống rỗng. Đối với mặt gương, vạn vật đi lại tự do mà không có chướng ngại. Lại giống như mặt trăng trên trời, mặt trăng tuy chỉ là một, song nó sẽ chiếu đến bất cứ mặt nước nào, dù là mặt biển, mặt ao, mặt sông, mặt hồ. Mỗi nơi đều hiện ảnh của mặt trăng, cho nên số mặt trăng hiện trên mặt nước là vô lượng. Đây không phải là ư nghĩa "một là tất cả, tất cả là một" hay sao? Nếu có thể nhận rơ tự tính ḿnh, th́ có thể tự do tự tại đối với tất cả sự vật, mà không bị chúng làm trở ngại. Đây chính là trí tuệ Bát nhă.
Tất cả trí tuệ Bát nhă đều từ bản tính sinh ra, mà không phải từ sự vật bên ngoài. Do đó, chớ nên dụng tâm sai lầm, t́m cầu nơi sự vật ở ngoài tâm ḿnh, như vậy mới gọi là người khéo dùng cái chân tâm của ḿnh. Nếu mà dụng tâm đúng, th́ tất cả mọi sự vật đều chân thực. Sự to lớn của cái tâm nầy, không phải là kẻ có trí khôn vặt, hoặc bọn bàng môn tả đạo[xxxiii][33] có thể hiểu rơ được. Tuyệt đối không nên chỉ có miệng nói "Phật tính hư không", nhưng trong tâm lại không theo lời dạy mà tu hành. Điều nầy cũng giống như người dân quèn mà tự xưng ḿnh là vua, rốt cuộc cũng chẳng thực hiện được sự mơ ước hăo huyền đó.
Nầy các vị, ư nghĩa rốt ráo của Bát nhă là ǵ? Bát nhă là tiếng Ấn Độ, tiếng Tàu gọi là diệu trí tuệ. Nếu có người, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, mỗi ư niệm đều minh bạch rơ ràng, không có mê muội vô minh, dùng trí tuệ xử lư tất cả mọi sự, đây gọi là người tu hạnh Bát nhă. Nếu như có một niệm vô minh sinh khởi, th́ cái trí tuệ đó liền tiêu mất. Nói tiêu mất cũng chỉ là tỉ dụ, chứ không phải là cái trí tuệ chân thực hoàn toàn đoạn tuyệt. Bởi v́ trí tuệ chân thực không sinh không diệt, làm sao mà tiêu mất được! Đây chỉ có nghĩa là lúc đang ngu si th́ Bát nhă không hiển hiện được, phải đợi đến hết ngu si th́ trí tuệ mới hiện trở lại. Người đời v́ ngu si mê muội thành thử không có cách nào biết được sự tồn tại của Bát nhă. Bọn họ thường thường miệng nói trí tuệ Bát nhă, trái lại trong tâm chấp trước những việc ngu mê, vậy mà vẫn tự cho là ḿnh đang tu hạnh Bát nhă! Bát nhă không có h́nh tướng. Nếu trí tuệ phát sinh mà không c̣n vô minh th́ gọi là Bát nhă. Khi hiểu rơ như vậy th́ gọi là trí tuệ Bát nhă.
C̣n Ba la mật có nghĩa ǵ? Đây là tiếng Ấn Độ, có nghĩa là đến bờ bên kia. Nếu nói rơ hơn, có nghĩa là đă rời sự khổ đau sinh diệt, giải thoát sinh tử luân hồi. Bờ bên kia là ǵ? Nếu chúng ta đem phiền năo ra tỉ dụ với biển lớn, th́ bờ bên nầy tức là sinh tử, c̣n bờ bên kia tức là Niết Bàn. Chúng ta tại sao vẫn ở chỗ nầy chịu khổ năo sinh tử luân hồi? Bởi v́ chúng ta vẫn c̣n vọng niệm phiền năo. Nếu chúng ta khởi tâm chấp trước mọi việc trên đời, th́ chúng ta sẽ sinh khởi đủ thứ vọng niệm. Những vọng niệm nầy giống như gió lớn, làm cho mặt nước xưa nay vốn yên lặng, bỗng nhiên nổi lên từng đợt sóng to. Những đợt sóng trồi ngụp nầy tức là phiền năo không ngừng sinh diệt, làm cho chúng ta bị khốn khổ. Thế nhưng, ngược lại nếu chúng ta có thể buông bỏ sự chấp trước, th́ những cơn sóng phiền năo nầy sẽ không c̣n sinh khởi nữa. Lúc đó mặt nước sẽ phẳng lặng trở lại, và chúng ta có thể đến bờ bên kia mà không bị trở ngại.
Các vị thiện tri thức, kẻ mê muội không giác ngộ, tuy miệng th́ nói chuyện Phật pháp, thế nhưng trong tâm lại đầy dẫy vọng tưởng. Nếu học Phật như vậy, chắc chắn là không được ǵ hết. Chỉ có kẻ nào niệm niệm đều y theo trí tuệ Bát nhă mà thực hành, không làm điều ngu si, mới có thể y theo chân tính ḿnh mà tu hành. Nếu hiểu rơ điều này, tức là hiểu rơ ư nghĩa của Bát nhă. Nếu không theo đây mà tu, th́ gọi là kẻ phàm phu; y theo đây tu hành, tự thân sẽ thành Phật.
Lục tổ lại nói:
- Phàm phu tức là Phật, phiền năo tức là Bồ Đề. Phật là từ địa vị phàm phu, tu tập hạnh Bát nhă mà thành Phật. Phàm phu chúng ta nhân v́ một niệm ngu si, không biết tu tập pháp Bát nhă, không biết thực hành hạnh Bát nhă, cho nên bị t́nh dục trói buộc mà trở thành phàm phu. C̣n nếu chúng ta biết rơ điều này, sau khi đă giác ngộ, chúng ta sẽ giống như Phật; cho nên nói phàm phu tức là Phật. Phiền năo cũng như vậy. Nếu như chúng ta khởi một niệm chấp trước vào sự vật, ngay lúc đó sẽ sinh ra biết bao nhiêu phiền năo. Nếu mà có thể buông bỏ được niệm chấp trước nầy, th́ phiền năo sẽ không sinh ra; do đó nói phiền năo tức Bồ Đề. Tức là phải xem cái tâm chúng ta chuyển biến như thế nào!
Các vị thiện tri thức! Điều mà tôi giảng vừa rồi tức là Ma ha Bát nhă ba la mật, là pháp tôn quí nhất, cao thượng nhất, đệ nhất trong Phật pháp. Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ đây mà sinh ra. Các vị nếu muốn học tập, phải dùng đại trí tuệ phá trừ năm uẩn phiền năo trần lao, làm cho ba độc tham sân si biến thành giới định tuệ. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật.
Các vị thiện tri thức! Pháp môn nầy là từ một Bát nhă sinh ra tám vạn bốn ngàn trí tuệ. V́ sao? Bởi v́ người thế gian có tám vạn bốn ngàn phiền năo khác nhau. Nếu người thế gian không có phiền năo, th́ lúc nào cũng sẽ tự nhiên phát hiện tự tính trí tuệ của ḿnh, mỗi niệm đều không rời tự tính Bồ đề của ḿnh. Người nào hiểu rơ pháp môn nầy, sẽ không c̣n sinh khởi vọng niệm. Nếu tâm không c̣n so đo chấp trước, không sinh khởi vọng niệm, tùy theo hoàn cảnh ứng dụng tự tính chân như của ḿnh, dùng trí tuệ quán chiếu tất cả, đối với tất cả các pháp, dù sắc hay tâm, đều không tham luyến cũng không nhàm ghét; đây gọi là thấy được tự tính mà thành Phật.
Các vị thiện tri thức! Kẻ nào muốn tiến vào nhất chân pháp giới[xxxiv][34], cùng Bát nhă chính định[xxxv][35], nhất định phải tu hạnh Bát nhă. Đọc tụng kinh Kim Cương Bát nhă Ba La Mật, tức có thể thấy rơ tự tính ḿnh. Phải nên biết rằng công đức của kinh Kim Cương là vô lượng vô biên. Điều này, trong kinh đă nói rơ ràng, ở đây không thể nói hết được. Pháp môn nầy là giáo pháp tối thượng thừa, chuyên v́ người đại trí tuệ mà nói, v́ người căn tính thượng đẳng mà nói. Kẻ nào căn tính trí tuệ thấp kém, nghe pháp môn nầy sẽ nghi ngờ không tin. V́ sao? Ví như trời mưa trên cơi Diêm Phù Đề, thành thị, làng xóm đều bị ch́m ngập cuốn trôi trong gịng nước lũ, giống như cọng cỏ, lá cây. Thế nhưng, nếu trời mưa xuống biển lớn, th́ nước biển sẽ không có sự tăng giảm. Cũng như vậy, những kẻ có căn tính Đại thừa, hoặc tối thượng thừa, nghe kinh Kim cương Bát nhă ba la mật, liền có thể khai ngộ, và nhân đây biết rơ tự tính ḿnh vốn có sẵn trí tuệ Bát nhă. Đây là do thường dùng trí tuệ Bát nhă quán chiếu sự vật, chứ không phải do sự dùi mài chữ nghĩa mà hiểu được. Cũng giống như nước mưa từ trên trời rơi xuống, không phải không có nguyên nhân, mà là do trời, rồng làm ra, làm cho tất cả chúng sinh, tất cả cây cỏ, hữu t́nh vô t́nh, đều nhờ vào nước mà sinh trưởng, phồn thịnh. Trăm ngàn gịng nước, đều chảy vào trong biển lớn, nhập thành một thể. Bổn tính trí tuệ Bát nhă của chúng sinh cũng giống như thế.
Các vị thiện tri thức! Người căn tính hạ liệt giống như cây cỏ nhỏ. Cây cỏ nhỏ một khi gặp cơn mưa lớn, đều bị găy ngă, không c̣n có thể tiếp tục sinh trưởng. Người căn tính hạ liệt nghe pháp môn lớn nầy cũng giống như vậy. Thực ra, người căn tính hạ liệt cũng vốn có đủ trí tuệ Bát nhă giống như người đại trí tuệ, không có ǵ khác biệt. Nếu vậy, tại sao họ nghe pháp lớn mà không thể khai ngộ? Điều này là do sự chấp trước tà kiến của họ quá sâu nặng, phiền năo tập khí đầy dẫy. Giống như mây đen che mặt trời, nếu mây không bị gió thổi tan, th́ ánh sáng mặt trời sẽ không soi sáng được mặt đất. Trí tuệ Bát nhă, xưa nay vốn đủ, không có phân biệt nhỏ lớn; chỉ v́ chúng sinh mê, ngộ khác nhau, mà đưa đến trí tuệ khác biệt. Nếu mê muội bổn tâm, sinh khởi tà kiến, chỉ tu hành bề ngoài, bỏ tâm ḿnh mà t́m Phật, th́ rốt cuộc cũng không thấy được tự tính của ḿnh, đây gọi là kẻ căn tính hạ liệt. C̣n nếu như hiểu rơ pháp môn đốn giáo này, không chấp trước vào sự tu hành bề ngoài, mà chỉ trong tâm giữ ǵn chính kiến, tất cả phiền năo trần lao không làm ḿnh nhiễm ô, đây gọi là kẻ khai ngộ, thấy được tự tính.
Các vị thiện tri thức! Đối với cảnh giới trong tâm ngoài tâm phải đều không một chút chấp trước, đi lại tự do trong sinh tử. Nếu có thể trừ khiển tâm chấp trước của ḿnh, th́ có thể thông đạt lư vô ngă, không c̣n sự chướng ngại. Nếu có thể tu hạnh Bát nhă như vậy, tức là không c̣n ǵ khác biệt với những điều mà kinh Bát Nhă đă nói.
Các vị thiện tri thức! Tất cả kinh điển cùng văn tự giáo pháp Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai phần giáo[xxxvi][36], đều là tùy theo căn cơ chúng sinh cao thấp khác nhau mà thiết lập. Nhân v́ căn tính chúng sinh có thắng, có liệt, thành thử Phật mới giảng nói những kinh điển này. Nếu như không có người thế gian, th́ cũng không có tất cả mọi vật. Cho nên phải biết tất cả các pháp đều từ người thế gian mà sinh ra, tất cả kinh điển đều v́ người thế gian mà giảng nói. Bởi v́ trí tuệ của người đời khác biệt, cho nên mới có kẻ ngu người trí, kẻ ngu si gọi là tiểu nhân, người trí tuệ gọi là đại nhân. Người ngu hỏi pháp nơi người trí, người trí giảng pháp cho người ngu. Nếu người ngu thốt nhiên tỏ ngộ, tâm địa sáng suốt, th́ lúc đó sẽ không c̣n khác biệt với người trí nữa.
Các vị thiện tri thức! Lúc chưa giác ngộ, Phật cũng là chúng sinh, một niệm giác ngộ, chúng sinh cũng là Phật. Cho nên biết là vạn pháp ở trong tự tâm của ḿnh. Nếu vậy, tại sao không từ tự tâm của ḿnh mà trực tiếp thấy rơ chân như tự tính. Kinh Bồ Tát Giới[xxxvii][37] nói: "Cội gốc của giới tức là tự tính thanh tịnh không nhiễm ô". Nếu có thể biết rơ tự tâm, thấy rơ tự tính, đều có thể thành Phật đạo. Kinh Duy Ma Cật nói: "Ngay lúc đó bỗng nhiên sáng suốt, quay nh́n bổn tâm của ḿnh". Nghĩa là thấy rơ bổn tâm của ḿnh tức là chân Phật.
Các vị thiện tri thức! Tôi ở nơi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, chỉ nghe ngài thuyết pháp một lần, liền được khai ngộ, ngay lúc đó thấu được chân như bổn tính. V́ thế mới đem pháp môn đốn giáo nầy lưu truyền rộng răi, làm cho kẻ học đạo cũng có thể tức khắc ngộ được Bồ đề. Mỗi người tự quán chiếu bản tâm ḿnh, thấy được lư tính vốn có của ḿnh. Nếu như tự ḿnh không thể khai ngộ, th́ cần phải t́m các vị thiện tri thức khác, nghĩa là những kẻ thấu hiểu pháp Tối thượng thừa, để họ trực tiếp chỉ dẫn đường chính cho ḿnh. Vị thiện tri thức nầy là một đại sự nhân duyên[xxxviii][38], nghĩa là dạy dỗ, chỉ dẫn làm cho chúng sinh thấy được tự tính, v́ thế tất cả thiện pháp sinh ra đều là nhờ vào thiện tri thức.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 7 of 34: Đă gửi: 06 June 2005 lúc 5:13am | Đă lưu IP
|
|
|
Xưa nay mọi người đều có sẵn Phật pháp ở trong tự tính của ḿnh, nếu như v́ ngu mê mà không thể tự ngộ th́ phải cần t́m thiện tri thức đến chỉ dẫn mới có thể thấy được. Nếu như người có thể tự giác ngộ, thấy được tự tính của ḿnh, kẻ đó biết rơ là ḿnh không cần phải t́m kiếm các vị thiện tri thức ở ngoài. C̣n nếu chấp trước là nhất định phải nương nhờ vào thiện tri thức mới t́m được sự giải thoát, th́ điều nầy quyết chắc là một sự sai lầm. Tại sao vậy? V́ trong tự tâm của ḿnh vốn có sẵn lực lượng trí tuệ của Chính nhân Phật tính, có thể làm cho ḿnh tự giác ngộ. Nếu ḿnh lại khởi tà kiến, làm mê muội tự tâm của chính ḿnh, vọng tưởng điên đảo, th́ bên ngoài dù có thiện tri thức dạy dỗ chỉ dẫn, cũng không thể cứu ḿnh được. Nếu như có thể sinh khởi trí tuệ chân chính, quán chiếu sự vật, th́ chỉ cần trong một sát na, có thể hoàn toàn tiêu diệt vọng niệm, do đây mà thấy được tự tính, và nhân sự khai ngộ này mà có thể trực tiếp tiến vào địa vị của Phật.
Các vị thiện tri thức! Do sự quán sát của trí tuệ, có thể làm cho chúng ta nh́n thấu được sự vật trong ngoài, nhận rơ chân tâm vốn sẵn có của ḿnh, tức là đạt được sự giải thoát tự tại vô ngại vốn sẵn có của ḿnh. Nếu được giải thoát vô ngại tức là nhập vào Bát nhă chính định. Bát nhă chính định tức là nhất tâm vô niệm. Tại sao gọi là vô niệm? Đối với các pháp sắc, thanh, ..., tất cả cảnh giới mà ḿnh thấy biết, tâm không ô nhiễm chấp trước, đây gọi là vô niệm. Lúc chân tâm phát sinh tác dụng, có thể biết rơ rằng cái tâm nầy bao trùm tất cả mọi nơi, nhưng cũng không chấp vào bất cứ nơi nào. Chỉ cần giữ cho tâm ḿnh thanh tịnh, làm cho sáu thức lúc được sinh khởi từ sáu căn, đối với sáu trần không c̣n khởi niệm tham nhiễm chấp trước nào nữa. Ra vào tới lui tự do tự tại, thông dụng tự nhiên, mà không bị tŕ trệ chướng ngại. Đây tức là Bát nhă tam muội, tự tại giải thoát, cũng gọi là "vô niệm hành".[xxxix][39] Nếu như chấp trước vào quan niệm sai lầm là việc ǵ cũng không nghĩ tưởng đến, đem tâm niệm làm cho đoạn tuyệt, như thế sự hiểu biết sai lầm sẽ làm chướng ngại cho ḿnh, đây gọi là bị pháp trói buộc, cũng gọi là biên kiến.
Các vị thiện tri thức! Kẻ nào thể ngộ được pháp vô niệm nầy, có thể thông đạt tất cả pháp mà không chướng ngại; kẻ thấu rơ pháp vô niệm, tự ḿnh đă thấy được cảnh giới chư Phật; kẻ thấu rơ pháp vô niệm, cũng giống như đạt đến địa vị của Phật.
Các vị thiện tri thức! Đời sau nếu có kẻ nào ngộ được pháp của tôi, nên phát nguyện đem pháp môn đốn giáo nầy, ở nơi những kẻ có cùng ư hướng, có cùng tâm nguyện, cùng nhau phát tâm tín thọ, phụng tŕ, giống như phụng sự Đức Phật. Kẻ nào tinh tiến mà không thoái chuyển, nhất dịnh sẽ tiến nhập thánh vị. Kẻ nào có thể nhập thánh vị, phải nên đem cái tâm ấn đă được mật truyền cho ḿnh truyền thọ cho kẻ khác, chớ nên đem chánh pháp của tông môn mà ẩn giấu. Đối với kẻ ở tông phái khác, không phải cùng ư hướng, tâm nguyện với ḿnh, không được vọng truyền[xl][40], mà làm tổn hoại pháp môn bọn họ đă tu từ trước, rốt cuộc cũng không lợi ích ǵ cả! Đáng sợ hơn hết, là có một số người ngu si, không hiểu rơ ư nghĩa chân thực của tông môn, mà quay lại phỉ báng. Tôi có một bài kệ vô tướng, các vị phải nên ghi nhớ đọc tụng, không luận kẻ tại gia xuất gia, chỉ cần y vào bài tụng vô tướng nầy tu hành là đủ. Nếu như tự ḿnh không chịu tu hành, chỉ nhớ suông những lời tôi nói cũng không ích lợi ǵ. Hăy nghe tôi đọc kệ:
Thuyết pháp thông, cùng tự tâm thông
Giống như mặt nhật ở trên không
Ta chỉ truyền thọ pháp đốn giáo
Ra đời cứu độ, phá tà tông.
Xưa nay pháp không phân đốn tiệm
Mê, ngộ nên thấy có nhanh chậm
Duy có pháp môn kiến tính này
Người ngu không thể nào hiểu rơ.
Nói ra, tuy là trăm ngàn lời
Hợp lại, lư thể chỉ là một
Trong nhà đen tối nhiều phiền năo
Cần có mặt trời trí tuệ soi.
Tà niệm mà đến, phiền năo đến
Chính niệm mà đến, phiền năo trừ
Hai tướng tà chính đều không dụng
Thanh tịnh đến cảnh giới Niết Bàn.
Bồ đề vốn là tính giác ngộ
Nếu mà khởi tâm tức thành vọng
Tịnh tâm nằm ẩn trong vọng tâm
Tâm niệm nếu chính, không ba chướng.[xli][41]
Người đời nếu muốn tu Phật đạo
Tất cả pháp môn đều không ngại
Thường thường nên thấy rơ lỗi ḿnh
Tức là sẽ cùng đạo tương ưng.
Chúng sinh đều đầy đủ Phật tính
Tu hành, chớ gây người phiền năo
Nếu bỏ Phật tính mà tu hành
Cả đời cũng không thấy được đạo.
Bôn ba lặn lội hết một đời
Rốt cuộc chỉ tự làm áo năo
Nếu như muốn thấy chân thực đạo
Hành vi chính trực tức là đạo.
Nếu mà tự ḿnh không đạo tâm
Như kẻ đi đêm không thấy đạo
Nếu ḿnh là kẻ chân tu hành
Không thấy lỗi lầm của thế gian.
Nếu ḿnh chỉ thấy lỗi người khác
Tức là chính ḿnh có lầm lỗi
Mặc người có lỗi, ḿnh không lỗi
Nói lỗi người khác tức ḿnh lỗi.
Chỉ nên trừ bỏ tâm thị phi
Tức là phá được giặc phiền năo
Dù ghét, dù thương cũng chẳng màng
Duỗi hai bàn chân, nằm tự tại.
Nếu nghĩ đến việc độ người khác
Tự ḿnh phải có đủ phương tiện
Đừng để người khác khởi ḷng nghi
Tức là tự tính ḿnh hiển hiện.
Phật pháp thường ở nơi thế gian
Chẳng rời thế gian cầu chính giác
Nếu bỏ thế gian cầu Bồ đề
Cũng giống như đi t́m sừng thỏ.
Chính kiến là trí tuệ xuất thế
Tà kiến là mê muội thế gian
Tà chính hai bên đều quét sạch
Bồ đề tự tính sẽ hiển hiện.
Bài tụng nầy là pháp đốn giáo
Cũng được gọi là thuyền pháp lớn
Mê: nghe không ngộ, phí nhiều kiếp
Kẻ trí đốn ngộ trong sát na.
Bản dịch của Thiền sư Minh Trực:
Nói thông, tâm cũng thông,
Như mặt nhật trên không,
Duy truyền pháp thấy tánh,
Xuống thế phá tà tông.
Pháp vốn không đốn tiệm,
Mê ngộ có chậm mau,
Chỉ môn thấy tánh ấy,
Kẻ muội chẳng kham vào.
Nói tuy muôn việc đủ,
Lư hợp một không hai,
Trong ḷng sanh khổ năo,
Thường tu tuệ phát khai.
Tà tâm phiền năo dấy,
Chánh đến phiền năo tan,
Chánh tà đều chẳng dụng,
Thanh tịnh chứng Niết Bàn.
Bồ đế là tự tánh,
Tâm động tức vọng mông,
Tịnh tâm trong chỗ vọng,
Tâm chánh chướng tiêu vong.
Người tu theo chánh đạo,
Muôn vật chớ tỗn thương,
Lỗi ḿnh hay xét thấy,
Mới hợp đạo chơn thường,
Muôn loài tự có đạo,
Chớ giết hại loài nào,
Ĺa đạo mà t́m đạo,
Chung thân đạo khó vào.
Bôn ba qua một kiếp,
Rồt cuộc năo phiền c̣n,
Muốn thấy nền chơn đạo,
Làm chánh ấy đạo chơn.
Đạo tâm ḿnh chẳng có,
Làm quấy đạo ĺa xa,
Người thật ḷng hành đạo,
Lỗi đời khá bỏ qua.
Nếu thấy người lầm lỗi,
Ấy ḿnh lỗi chẳng sai,
Người lỗi, ta không lỗi,
Ta lỗi bởi chê bai.
Hăy trừ ḷng tưởng quấy,
Phiền năo phá tiêu tan,
Ghét yêu đừng để dạ,
Duỗi cẳng nghỉ thanh nhàn.
Muốn toan lo độ thế,
Phương tiện phải sẳn sàng,
Chớ để người nghi hoặc,
Tánh họ mới minh quang.
Phật pháp ở trần thế,
Không xa thế giác mà!
Bỏ đời t́m đạo chánh,
Sừng thỏ kiếm sao ra.
Chánh kiến là xuất thế,
Tà kiến ấy thế gian,
Chánh tà đêu phá hết,
Phật tánh hiện rơ ràng.
Tụng này là đốn giáo,
Cũng kêu đại pháp thuyền,
Mê, nghe kinh lũy kiếp,
Ngộ, thấy Phật tâm liền.
Cuối cùng Lục tổ nói:
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 8 of 34: Đă gửi: 07 June 2005 lúc 6:12am | Đă lưu IP
|
|
|
- Hôm nay tôi ở chùa Đại Phạm giảng pháp môn đốn giáo, bố thí cho tất cả chúng sinh trong pháp giới. Nguyện cho kẻ nào nghe được đều sẽ thấy được chính pháp, viên thành Phật đạo.
Lúc đó, thứ sử Vĩ Cừ, cùng mọi người nghe Tổ nói bài tụng vô tướng xong, ai cũng đều tự phản tỉnh, thấu rơ tâm tính ḿnh. Tất cả đều tán thán:
- Thật là tuyệt diệu! Không ngờ có Phật xuất hiện ở đất Lĩnh Nam hoang vu man dă nầy. Chúng ta thực là có phúc báo vô tận!
Một hôm, thứ sử Vĩ Cừ tổ chức trai tăng, cung thỉnh Lục tổ cùng đại chúng tham dự. Sau khi dùng trai xong, Vĩ Cừ thay mặt mọi người cung kính thỉnh cầu Lục tổ lên ṭa thuyết pháp. Vĩ Cừ cùng các vị quan liêu và mọi người cung kính đảnh lễ, kế đó ông ta hỏi Tổ:
- Đệ tử chúng con nghe Tổ giảng pháp, thật là tuyệt diệu không thể nghĩ bàn. Hiện nay có một điểm nghi vấn, hy vọng Tổ mở ḷng từ bi giải thích cho chúng con.
Lục Tổ nói:
- Có vấn đề ǵ cứ nói ra, tôi sẽ hết sức ḿnh v́ các vị mà giải thích.
Vĩ Cừ hỏi:
- Tổ hiện nay thuyết pháp, so với lúc Sơ tổ Đạt Ma truyền tâm pháp, có phải là giống nhau hay không?
Lục tổ nói:
- Đúng vậy! Điều tôi đă nói chính là Tổ Đạt Ma dùng tâm ấn tâm, là pháp chỉ thẳng vào tâm, thấy tính thành Phật.
Vĩ Cừ nói:
- Đệ tử nghe nói, lúc Tổ Đạt Ma vừa từ Quảng Châu đến Nam Kinh để hóa độ Lương Vũ Đế, Vũ Đế từng hỏi Tổ Đạt Ma: "Tôi cả một đời xây cất chùa chiền, bố thí tài sản, cúng dường chư tăng. Xin hỏi những việc như vậy được công đức ǵ?" Tổ Đạt Ma trả lời: "Chẳng có công đức ǵ hết!" Đệ tử không hiểu rơ điều nầy, cúi xin Tổ giải thích.
Lục tổ trả lời:
- Không nên nghi ngờ lời nói của Tổ! Đúng là không có công đức. Nên biết rằng xây chùa, cúng tăng, đây là trồng phúc điền, không thể gọi là công đức. Công đức chân chính ở trong tự tính pháp thân của chúng ta, mà không phải ở trong sự tu phúc báo thế gian. Vũ Đế nhân v́ không hiểu rơ, cho nên hiểu lầm phúc báo là công đức.
Như vậy công đức là ǵ? Nếu có thể khám phá Phật tính của ḿnh, đây là công. Có thể nh́n chúng sinh một cách b́nh đẳng (không c̣n phân biệt), đây là đức. Khi một kẻ có thể tự ḿnh đạt đến tŕnh độ niệm niệm đều thấy được Phật tính của ḿnh mà không chướng ngại, cái Phật tính chân thực tồn tại nầy phát sinh tác dụng kỳ diệu, đây là công đức. Bên trong, tâm khiêm hư là công; bên ngoài, hành vi giữ lễ nghi là đức. Không rời bỏ Phật tính của ḿnh là công, lúc Phật tính phát sinh tác dụng, không bị vọng niệm chuyển đổi là đức. Nếu muốn cầu công đức pháp thân, y theo phương pháp này tu hành, th́ đây là công đức chân chính.
Người tu công đức, trong tâm không có những niệm tà vạy, khinh thị người khác, đối với tất cả chúng sinh đều có cái nh́n b́nh đẳng, tôn kính. Ngược lại, nếu trong tâm thường khinh thị người khác, không thể đoạn trừ tập khí cống cao ngă mạn, như vậy làm sao mà có công? Phật tính ḿnh bị vọng niệm che lấp, làm sao mà có đức? Đây chính là hậu quả của sự tự cao tự đại. Bởi vậy mới nói: Mỗi tâm niệm của ḿnh đều không có sự phân biệt cao thấp, sang hèn, mới là công. Tư tưởng, hành vi đều ngay thẳng, không lươn lẹo, mới là đức. Tự ḿnh tu sửa tâm tính là công, tự ḿnh cải đổi hành vi là đức. Công đức chỉ có thể t́m được nơi Phật tính của ḿnh, chứ không phải là do bố thí của cải, cúng dường tăng ni mà có thể có được. Cho nên phúc đức và công đức có sự khác biệt. Chính Lương Vũ Đế không hiểu ư này, chứ không phải là Tổ Đạt Ma trả lời không đúng.
Vĩ Cừ lại hỏi:
- Đệ tử thường thấy các vị tăng ni cũng như cư sĩ tại gia tŕ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phát nguyện cầu sinh Tây Phương Cực Lạc. Xin phép hỏi Tổ, không biết tu hành phương pháp này, có thực là văng sinh thế giới Cực Lạc hay không?
Lục tổ trả lời:
- Ông hỏi vấn đề này rất hay. Ông nên cẩn thận chú ư nghe tôi nói. Đức Phật lúc c̣n ở thành Xá Vệ, nói đến Tây Phương Cực Lạc, mục đích là muốn hướng dẫn, dạy dỗ chúng sinh. Trong kinh có viết rơ ràng, nói thế giới Cực Lạc cách đây không xa. Nếu theo khoảng cách mà nói có mười vạn tám ngàn dặm. Điều này có nghĩa ǵ? Nên biết rằng chúng sinh cùng Phật vốn không có xa cách, bởi v́ có mười ác, tám tà[xlii][42] làm cách biệt, cho nên trí tuệ chúng sinh không cách nào hiển lộ; do đây mới cho rằng Tây Phương Tịnh Độ xa tít không thể đến được. Đây là đối với chúng sinh căn cơ thấp mà nói. Nhưng cũng có những người trí tuệ cao siêu, là những kẻ bỏ ác làm lành, biết rằng tâm ḿnh tịnh tức Phật độ tịnh, cho nên đối với những người nầy, nói rằng Tây Phương Tịnh Độ ở trước mắt.
Nói tóm lại, tuy rằng căn tính của mọi người có lợi, có độn khác nhau, thế nhưng Phật pháp không có ǵ khác biệt. Chỉ v́ do sự mê chấp và khai ngộ khác nhau, cho nên khả năng thấy bản tính mới có mau, có chậm. Kẻ mê chấp hy vọng nhờ niệm Phật cầu sinh tịnh độ, c̣n kẻ đă khai ngộ th́ biết rằng trước hết phải làm tâm ḿnh thanh tịnh, chỉ cần tâm tính thanh tịnh, th́ lúc đó ḿnh đă đến cơi Tịnh độ của Phật.
Lục tổ sợ mọi người chưa hiểu, bèn nói tiếp:
- Ví như Thứ sử Vĩ Cừ là người phương đông, nếu Thứ sử có thể làm cho tâm ḿnh thanh tịnh, không có tạp niệm tà niệm, th́ cũng không có tội lỗi. Các vị thử nghĩ xem, người phương đông tạo tội, niệm Phật cầu sinh phương tây. Vậy tôi hỏi thử các vị, người phương tây tạo tội th́ cầu sinh về chỗ nào? Người phàm ngu si, không hiểu rơ tự tính, cho nên mới nguyện đây nguyện kia, c̣n người trí tuệ, đến đâu cũng đều an lạc, đối với họ chỗ nào cũng là tịnh độ thanh tịnh, cho nên mới có câu: "Tất cả nơi chốn thường an lạc."
Do đây, chỉ cần tâm của Thứ sử không c̣n chỗ nào bất thiện, th́ thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ không xa, c̣n nếu trong tâm của thứ sử mà c̣n những điều tà ác, th́ dù thứ sử có niệm Phật cầu văng sinh, cũng không thể nào đạt được ư nguyện của ḿnh. Cho nên hiện nay tôi muốn khuyên nhắc các vị, trước hết phải diệt trừ mười điều ác, tu mười điều thiện; đây cũng giống như đă đi về Tây Phương được mười vạn dặm đường. Kế đó diệt trừ tám điều tà, đây cũng giống như đi hết đoạn đường tám ngàn dặm c̣n lại. Nếu như niệm niệm đều thấy được Phật tính của ḿnh, th́ những điều ḿnh làm ḿnh nghĩ, luôn luôn sẽ ngay thẳng, b́nh đẳng. Nếu được vậy, chỉ trong khoảnh khắc có thể đến Tây Phương Tịnh Độ, có thể tức khắc thấy được Phật A Di Đà.
Kế đó Lục tổ hỏi mọi người:
- Hiện nay tôi muốn cùng với các vị, trong khoảnh khắc, đem Tây Phương Cực Lạc dời đến trước mặt mọi người, để cho mọi người có thể nh́n thấy. Các vị có muốn thấy không?
Mọi người nghe rằng có thể nh́n thấy được thế giới Tây Phương Cực Lạc, đều vui mừng. Tất cả cùng nhau cúi lạy Lục tổ, nói:
- Nếu ngay chỗ này có thể thấy được Cực Lạc, th́ cần ǵ phải phát nguyện văng sinh nữa. Cúi mong Tổ từ bi thị hiện Tây Phương Cực Lạc cho mọi người được thấy.
Lúc đó Lục tổ nói:
- Các vị thiện tri thức! Sắc thân của chúng ta cũng giống như một ṭa thành lũy. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cũng giống như cửa ngoài, c̣n ư cũng giống như cửa trong của thành. Tâm là phần đất phía trong thành, c̣n chân như tự tính của chúng ta th́ cũng giống như quốc vương thống trị thành lũy. Nếu như tự tính rời bỏ tâm địa (nghĩa là chúng sinh mê mờ tự tính), th́ cũng giống như thành lũy mất đi quốc vương, lúc đó thành lũy của thân tâm sẽ bị hủy hoại (ví như chúng sinh bị đọa ba đường ác). Cho nên muốn cầu thành Phật, phải hướng vào chân như tự tính của ḿnh mà cầu. Tuyệt đối không nên t́m cầu ở ngoài tâm ḿnh. Đang khi chân như tự tính bị mê mờ, th́ Phật biến thành chúng sinh. Đợi đến lúc chân như tự tính được giác ngộ, th́ chúng sinh biến thành Phật. Nếu có thể sinh khởi tâm từ bi, các vị sẽ là Bồ tát Quán Thế Âm; nếu đối với tất cả chúng sinh đều có thể hoan hỉ bố thí một cách b́nh đẳng, các vị sẽ là Bồ tát Đại Thế Chí; nếu có thể làm cho tâm ḿnh thanh tịnh, tự thân sẽ là Phật Thích Ca; nếu có thể ngay thẳng b́nh đẳng, tự thân sẽ là Phật Di Đà.
Đang khi trong tâm có sự phân biệt chấp trước nhân ngă, th́ cũng giống như ḿnh đắp lên một quả núi Tu Di, tự làm trở ngại con đường thành Phật của ḿnh. Nếu trong tâm khởi niệm tà ác, th́ cũng giống như ḿnh bị rớt vào biển lớn, đang bị phong ba băo táp. Phiền năo trong tâm cũng giống như sóng lớn đang vỗ mạnh, c̣n những ư niệm độc ác trong tâm cũng giống như rồng dữ đang hung hăng mănh tợn. Nếu tâm mà lươn lẹo, lừa bịp th́ cũng giống như quỉ thần đang tác quái, làm cho chúng ta mê muội tự tính. Nếu chúng ta c̣n bôn ba luân chuyển trong cơi trần lao nầy, th́ cũng giống như cá, rùa đang bơi lặn trong biển, tuy cả ngày bận rộn bơi qua bơi lại mà không có mục tiêu, lại cũng không biết ḿnh bận rộn việc ǵ? Trong tâm nếu khởi sân hận, th́ cũng giống như tạo ra một địa ngục lớn; c̣n kẻ ngu si th́ cũng chẳng khác ǵ súc sinh!
Các vị thiện tri thức! Nếu thường tu thập thiện th́ thiên đường sẽ đến nhân gian. Trừ bỏ sự phân biệt chấp trước nhân ngă, th́ núi Tu Di chướng ngại con đường thành Phật của ḿnh, sẽ sụp đổ. Nếu trừ bỏ niệm tà, th́ nước biển khô cạn. Trong tâm không c̣n sinh phiền năo, th́ sẽ sóng lặng gió yên. Trừ bỏ tâm độc ác th́ trong tâm không c̣n cá rùa. Từ trong tâm, làm thức tỉnh đức Như Lai tự tính của ḿnh, th́ có thể phóng ra ánh sáng dài muôn trượng. Ở ngoài th́ có thể chiếu sáng sáu căn của ḿnh, làm cho thanh tịnh không nhiễm, phá trừ sự tham luyến của sáu cơi trời dục giới. Ở trong, có thể phá trừ tham sân si, làm cho tội ác địa ngục đều tiêu trừ. Nếu vậy, từ trong ra ngoài, ánh sáng đều chiếu khắp; và như thế so với Tây Phương Tịnh Độ cũng không có ǵ khác biệt. Nếu như không theo đây mà tu hành, làm sao mà đến được thế giới Cực Lạc?
Mọi người sau khi nghe Lục tổ chỉ điểm, đều hiểu rơ tự tính chân thực cao quí của ḿnh. Do đây tất cả đều cung kính cúi lạy Lục tổ, đồng thanh nói rằng:
- Phổ nguyện cho tất cả chúng sinh, kẻ nào nghe được pháp môn nầy, đều sẽ sớm được khai ngộ, cùng nhau chứng được quả Bồ Đề.
Lục tổ nói:
- Các vị thiện tri thức! Nếu các vị thực t́nh muốn tu hành, ở nhà cũng có thể tu mà không cần phải xuất gia vào chùa. Người tại gia nếu có thể y theo pháp mà tu hành, cũng giống như người phương đông mà có tâm thiện, tuy ở phương đông cũng như ở tịnh độ. C̣n người xuất gia mà không chân thực tu hành, cũng giống như người phương tây mà trong tâm vẫn c̣n niệm ác. Đương nhiên đây chỉ là thí dụ, người ở Tây Phương Tịnh Độ trong tâm quyết không có niệm ác. Chỉ cần tự tâm các vị thanh tịnh không nhiễm, tức là tự tính Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.
Vĩ Cừ lại hỏi:
- Người tại gia làm thế nào tu hành, kính xin Tổ từ bi chỉ bảo.
Lục tổ nói:
- Tôi sẽ nói một bài tụng vô tướng cho các vị nghe. Nếu y vào đây tu hành, th́ cũng giống như cùng với tôi ở chung một chỗ, c̣n nếu không theo đây tu hành, dù có cạo đầu xuất gia cũng chẳng ích lợi ǵ. Lắng nghe tôi nói:
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 9 of 34: Đă gửi: 08 June 2005 lúc 1:40am | Đă lưu IP
|
|
|
Tâm địa b́nh đẳng, cần ǵ tŕ giới
Hành vi chính trực, cần ǵ tu thiền
Biết ơn, phải nên hiếu dưỡng cha mẹ
Biết nhân nghĩa, trên dưới phải thương nhau
Muốn khiêm nhượng, trên dưới nên ḥa thuận
Học nhẫn nhục, chớ nói lỗi kẻ khác
Nếu siêng năng như cọ cây t́m lửa
Trong bùn, nhất định sẽ sinh hồng liên.
Thuốc đắng, nhất định là món thuốc hay
Lời khuyên khó nghe là lời chân thực
Biết sửa lỗi lầm là người trí tuệ
Che giấu lỗi lầm, không phải người hiền.
Mỗi ngày đều làm lợi ích kẻ khác
Thành Phật đạo, không phải do bố thí
Bồ đề, chỉ nên hướng vào tâm t́m
Cần ǵ t́m sự hăo huyền bên ngoài
Nghe xong, phải y vào đây tu hành
Thiên đường sẽ tại trước mắt ḿnh.
Bản dịch của ngài Thiền sư Minh Trực:
Ḷng b́nh đẳng đâu cần tŕ giới,
Làm việc ngay há đợi tu thiền,
Ân, song thân hiếu dưỡng cần chuyên,
Nghĩa, huynh đệ dưới trên tương ái.
Nhượng, hoà mục tôn ti đối đăi,
Nhẫn, muôn điều ác hại chớ gây,
Siêng tu như lấy lửa cọ cây,
Th́ bùn lấm nở đầy sen đỏ.
Đắng miệng ấy thuốc trừ bệnh khổ,
Nghịch tai là lời độ chánh trung,
Sửa lỗi lầm, trí tuệ phát sung,
Che tội quấy, tâm tùng đọa ác.
Năng làm phước, giúp người lợi lạc,
Đạo nào do thí bạc mà thành,
Vốn Bồ đề cầu ở tâm thanh,
Ngoài mộng ăo, muội manh nhọc kiếm.
Nghe nói pháp, ḷng vâng tu niệm,
Cơi thiên đường mầu nhiệm thấy liền.
Sau cùng Lục tổ lại nói:
- Các vị thiện tri thức! Chỉ cần mọi người y theo bài kệ nầy mà tu hành, tự nhiên sẽ có thể thấy được tự tính, trực tiếp đi trên con đường thành Phật. Nhớ kỹ, nhớ kỹ! Tu hành phải tự y vào tâm ḿnh. Người khác không thể nào giúp các vị. Tôi muốn trở về Tào Khê. Nếu các vị c̣n thắc mắc, lúc đó đến Tào Khê hỏi tôi.
Lúc bấy giờ, thứ sử Vĩ Cừ cùng mọi người, nghe Lục tổ nói xong, tất cả đều mở rộng được tầm mắt của ḿnh, thu thập được nhiều lợi ích, và đều quyết tâm y giáo phụng hành.
Một hôm, Lục tổ giảng pháp cho đại chúng, ngài nói:
- Các vị thiện tri thức! Cái pháp môn mà tôi truyền thọ này, dùng thiền định và trí tuệ làm căn bản. Các vị không nên hiểu lầm, cho rằng thiền định và trí tuệ là hai sự kiện khác biệt. Sự thực, thiền định và trí tuệ đều cùng một thể. Thiền định là bổn thể của trí tuệ, c̣n trí tuệ là tác dụng của thiền định. Lúc trí tuệ hiện tiền, thiền định đă được bao hàm trong trí tuệ. Cũng giống thế, khi đang thiền định, th́ trí tuệ cũng tùy thời hiện tiền. Nếu hiểu rơ điều này, mới gọi là tu hành định tuệ một cách quân b́nh[xliii][43]. Người học Phật tuyệt đối không nên nói "Trước phải có định lực, rồi sau mới phát sinh trí tuệ", hoặc nói "Trước phải có trí tuệ, rồi sau mới phát sinh định lực". Bởi v́ kẻ nào ôm giữ cái nh́n như vậy, sẽ bị phát sinh ra những t́nh trạng trong ngoài bất nhất. Ví như ngoài miệng th́ nói ngọt ngào, mà trong tâm chứa toàn điều ác. Những kẻ như thế, nếu nói họ có định tuệ cũng là phí lời. Bởi v́ định tuệ không quân b́nh, th́ cũng giống như nói suông về định tuệ mà thôi[xliv][44]. Chỉ có kẻ lời nói cùng nội tâm đều thiện, trong ngoài đồng nhất, mới có thể coi là định tuệ quân b́nh.
Như những điều đă giảng nói ở trên, tự ḿnh phải hiểu rơ, tự ḿnh lo tu hành, không phải chỉ là "đấu vơ mồm" với kẻ khác về sự trước sau của định tuệ. Bởi v́, một khi trong tâm khởi lên ư niệm hơn thua, th́ sẽ sinh ra ngă chấp và pháp chấp, kế đó lại sinh đủ loại chấp trước và phân biệt. Như vậy, không thể nào có định lực, mà trí tuệ cũng theo đó mà tiêu tán.
Các vị thiện tri thức! Tôi đă giảng nhiều về vấn đề liên quan đến định tuệ, thế nhưng rốt ráo phải dùng sự vật cụ thể nào để có thể h́nh dung định tuệ? Ở đây tôi sẽ lấy đèn và ánh sáng làm thí dụ. Thắp đèn th́ ánh sáng sẽ đến, tắt đèn th́ bóng tối sẽ trở lại. Đèn là bổn thể của ánh sáng, ánh sáng là sự biểu hiện của đèn. Tên gọi tuy có hai loại khác nhau, sự thực chỉ là hai mặt khác nhau của cùng một thực thể. Bổn thể của cả hai là đồng nhất. Vấn đề định tuệ mà tôi đang nói đây, cũng giống như vậy.
Lục tổ lại nói tiếp:
- Thế nào gọi là Nhất hành tam muội? Nhất hành tam muội có nghĩa là tại bất cứ nơi nào, không luận là đi, đứng, nằm, ngồi, ..., trong bất cứ lúc nào cũng giữ tâm ḿnh chính trực (ngay thẳng). Kinh Tịnh Danh[xlv][45] nói: "Chính trực tức là đạo trường, trực tâm tức là tịnh độ". Tuyệt đối không nên trong tâm th́ xiểm trá, dua nịnh, gian dối, lươn lẹo, c̣n ngoài miệng th́ nói là chính trực. Lại cũng không nên miệng nói nhất hành tam muội, mà trên thực tế lại không chịu dùng tâm chính trực tu hành. Nếu muốn đạt đến nhất hành tam muội, không những phải đem tâm chính trực đối xử với người với vật, mà c̣n phải đối với tất cả sự vật không nên chấp trước, không nên so đo. Thế nhưng, lại có những kẻ ngu si không hiểu, chấp trước quan niệm của ḿnh, cho rằng chính trực tức là ngồi yên không động, không khởi vọng tưởng; và cho rằng đây là định lực, là nhất hành tam muội. Kẻ nào có kiến giải như vậy, có thể nói rằng họ cũng giống như là cây, đá; không những sai lầm, mà đồng thời, trên con đường tu hành trong tương lai, lại v́ những sự sai lầm này, mà tự tạo ra rất nhiều trở ngại.
Các vị thiện tri thức! Đạo là ǵ? Cái gọi là đạo, đáng lẽ phải linh động, thông suốt, giống như gịng nước chảy. Tại sao hiện nay lại trái ngược, đ́nh trệ không thông? Kinh Kim Cương có nói: "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm". Chỉ khi nào cái tâm nầy không có chỗ trụ, nghĩa là không chấp trước vào cái có, cũng không chấp trước vào cái không, cũng không chấp trước vào pháp, th́ cái đạo của ḿnh mới giống như ḍng nước lưu thông không ngừng được. Khi mà cái tâm nầy chấp trước vào pháp, th́ gọi là pháp chấp; giống như con tằm làm kén, tự ḿnh trói buộc chính ḿnh. Nếu nói thường ngồi yên không nhúc nhích là nhất hành tam muội, th́ khi xưa lúc ngài Xá Lợi Phất đang ngồi tĩnh tọa ở trong rừng, ngài Duy Ma Cật quyết chắc đă không trách mắng rằng: "Ngài ngồi ngay đơ như thế này có ích lợi ǵ? Cũng chẳng khác ǵ thây chết!" Điều này chứng tỏ rằng ngồi cứng đơ chẳng phải là phương pháp tu hành chính xác.
Lại có một số người khác dạy ngồi thiền, bắt đầu bằng phương pháp quán tâm, quán tịnh; cố gắng giữ cho tâm không khởi vọng niệm. Phương pháp này thực sự cũng không có ǵ là sai lầm; thế nhưng, những người tầm thường không hiểu ư nghĩa thâm sâu của nó, bèn cho rằng chỉ cần ngồi quán tâm làm cho không động, như vậy sẽ có công phu, sẽ có thiền; do đó sinh ra bao nhiêu sự chấp trước điên cuồng. Thí dụ như có rất nhiều người y vào pháp ngồi thiền, liền tự cho rằng ḿnh khai ngộ. Chẳng biết họ làm thế nào để khai ngộ, vậy mà vẫn cứ tự cho rằng ḿnh khai ngộ. Bởi vậy có rất nhiều người, nhân v́ tu tập không đúng phương pháp, mà sinh ra khùng khùng điên điên. Vậy mà họ c̣n đem phương pháp đó dạy cho kẻ khác. Làm cho chúng ta đi đến đâu cũng thấy nhiều kẻ nhân v́ tu thiền mà bị "tẩu hỏa nhập ma".[xlvi][46] Do đó chúng ta có thể kết luận rằng phương pháp tu tập này là hoàn toàn sai lầm.
Lục tổ lại nói:
- Các vị thiện tri thức! Phật giáo xưa nay vốn chẳng có pháp ǵ kêu là tiệm hay đốn. Thế nhưng, nhân v́ căn tính của chúng sinh khác nhau, hoặc thông minh lanh lợi hoặc chậm lụt ngu si, mà pháp có khác nhau. Như người căn tính chậm lụt, phải học từ từ chậm răi, mới có hy vọng thành tựu; không giống như người căn tính lanh lợi, chỉ cần trong phút chốc liền có thể khai ngộ. Thực ra, chỉ cần nhận thức bổn tâm ḿnh, soi rơ bổn tính ḿnh. Không luận xưa nay căn tính thế nào, đến cuối cùng vẫn có thể khai ngộ thành Phật, kết quả không ǵ sai khác. Hôm nay chúng ta thấy có những danh từ đốn tiệm khác nhau, chẳng qua là những tên gọi tạm thời dùng để thích nghi với t́nh trạng hiện tại mà thôi.
Các vị thiện tri thức! Pháp môn đốn giáo mà tôi truyền thọ, từ các vị tổ sư nhiều đời đến nay, một mực đều dùng vô niệm làm tông chỉ, vô tướng làm bổn thể, vô trụ làm căn bổn. Ở đây nói vô tướng, có nghĩa là tuy chung đụng với cảnh vật (h́nh tướng), mà vẫn có thể rời tướng (không chấp trước vào h́nh tướng). Nói vô niệm, có nghĩa là tuy sinh khởi ư niệm, song đều không có tà niệm. C̣n nói vô trụ, tức là tự tính của chúng sinh, cũng gọi là Phật tính. Cái Phật tính này, xưa nay vốn không tương ưng với các pháp thế gian như thiện ác, đẹp xấu, nhẫn đến người thân kẻ thù, ..., cho nên lúc xảy ra các việc như căi cọ, ẩu đả ..., phải nên quán sát những sự việc nầy là huyễn hóa không có thực; không nên chấp trước, lại cũng không nên nghĩ đến việc trả thù hoặc làm tổn hại người khác. Niệm niệm đều có thể buông bỏ, không c̣n hoài niệm đến quá khứ, th́ đây gọi là vô trụ. Cho nên, nếu không như vậy, th́ niệm trước, niệm giữa, niệm sau sẽ liên tục không dứt, do đây sẽ sinh khởi vô lượng vô biên phiền năo, và trở thành một sự trói buộc. Chỉ cần có thể đối với các pháp, niệm niệm đều không chấp trước, tự nhiên sẽ không bị trói buộc. Đây tức là ư nghĩa của vô trụ làm căn bản.
Kế đến, đối với ngoại cảnh, rời bỏ tất cả h́nh tướng, không để cho h́nh tướng nhiễm ô tâm ḿnh, đây gọi là vô tướng. Nếu có thể như vậy, th́ tự tính pháp thể của ḿnh tự nhiên sẽ thanh tịnh, cho nên gọi là dùng vô tướng làm bản thể. Lại nữa, đối với tất cả cảnh giới, tâm không bị ngoại cảnh làm ô nhiễm, đây gọi là vô niệm. Vô niệm, không chỉ là tâm ḿnh rời bỏ tất cả ngoại cảnh, mà c̣n phải làm sao khi cảnh giới xuất hiện, tâm không c̣n bị dao động, không sinh vọng tưởng mới được. Không nên cho rằng tất cả cái ǵ cũng không tưởng nghĩ đến th́ có thể trừ diệt vọng niệm, đây là quan niệm sai lầm. Các vị thử nghĩ xem, nếu mà trong tâm không c̣n nghĩ tưởng ǵ hết, th́ có khác ǵ người chết. Mà giả sử có chết, th́ cũng sẽ đi đầu thai vào cơi khác. Rốt cuộc, chẳng phải là cũng giống hệt như vậy hay sao?[xlvii][47] Cho nên các vị học Phật phải suy ngẫm kỹ lưỡng, và hiểu rơ điều này. Không thể tự ḿnh hiểu sai, lại c̣n đi dạy cho kẻ khác những sự sai lầm này. Đây là điều không tốt! Có nhiều người v́ ngu si, không hiểu ư nghĩa chân thực của Phật pháp, trái lại c̣n phỉ báng kinh điển, cho là kinh nói sai lầm. Điều này không thể chấp nhận được.
Các vị thiện tri thức! Tôi thiết lập vô niệm làm tông chỉ cho Phật pháp, là v́ có một số người, mồm th́ ưa nói "kiến tính, kiến tính", mà trên thực tế lại không chịu khó tu hành. Những người này không có chút định lực nào cả, mỗi khi đụng cảnh liền sinh tâm động niệm, mà thường thường toàn là những niệm bất chính; do đây mà sinh ra biết bao nhiêu phiền năo. Sự thực, tự tính vốn là thanh tịnh, không có nhiễm ô, mà cũng chẳng có cái được thêm, hay bị bớt. Nếu có người nói càn là ḿnh đă chứng đắc, lại nhân đây mà nói những điều càn rỡ về họa phúc, th́ các vị phải nên hiểu rơ là bọn này c̣n đầy phiền năo tà kiến, chứ không phải thực sự giác ngộ.
Kế đó Lục tổ nói tiếp:
- Các vị thiện tri thức! Tôi vừa nói về chữ "vô (không có)", không có cái ǵ? C̣n nói đến chữ "niệm", niệm vật ǵ? Ở đây nói không có, tức là không có hai tướng sai biệt, không có những tâm tà vạy, trần lao vọng tưởng. C̣n niệm tức là niệm chân như tự tính. Chân như tự tính tức là Phật tính của chúng ta, nó là thể của niệm, c̣n niệm là tác dụng của chân như. Cái niệm sinh ra bởi chân như, không giống như cái niệm sinh ra do sự kích thích của ngoại cảnh đối với mắt tai mũi lưỡi. Nếu chân như Phật tính mà mất đi, th́ chúng ta cũng giống như đất đá không khác. Giả sử có mắt tai mũi lưỡi đi chăng nữa, cũng chẳng phát sinh được tác dụng ǵ! Dù là sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ư, nhờ cái niệm sinh bởi chân như mà có được sự thấy nghe nhiểu biết, song cái niệm đó, trong những t́nh cảnh như vậy, vẫn không bị ngoại cảnh làm mê muội. Chân như tự tính vĩnh viễn tự tại đối với tất cả mọi cảnh giới, cho nên kinh Tịnh Danh mới nói: "Khéo léo phân biệt chư pháp tướng, nơi đệ nhất nghĩa không dao động".
Pháp môn tọa thiền này, tuy cũng nói đến việc đ́nh chỉ tất cả tư lự, chuyên tâm soi xét tâm tính, thế nhưng cũng không thể nhân đây mà gán ghép vào đó những cái tên như quán tâm, quán tịnh, bất động ... Nếu nói quán tâm, như vậy cái tâm đang quán sát tâm đó là vật ǵ? Chẳng lẽ lại có hai cái tâm? Nên biết rằng, cái tâm mà ḿnh đang dùng quán sát đó, xưa nay vốn là huyễn hóa không thực, v́ thế không nên chấp trước, lại càng không nên quan tâm đến nó!
Kế đó nói đến quán tịnh. Tự tính của chúng ta xưa nay vốn thanh tịnh không nhiễm, bởi v́ có vọng tưởng cho nên mới che lấp chân như tự tính. Chỉ cần không c̣n vọng tưởng, th́ chân như bổn tính tự nhiên sẽ thanh tịnh. Giả sử các vị khởi một vọng niệm, cho rằng nhờ quán tịnh sẽ làm cho cho chân như Phật tính trở nên thanh tịnh, điều nầy chỉ là vọng tưởng, chấp trước vào cái tịnh. Vọng niệm sinh ra không có thời gian hoặc nơi chốn nào cố định, chỗ nào mà chúng ta chấp trước, th́ chỗ đó vọng niệm sinh ra. Điều rất đáng buồn cười là, sự thanh tịnh xưa nay vốn không có h́nh tướng, nhưng v́ chúng ta muốn quán tịnh, cho nên ngụy tạo ra cái một tướng tịnh (h́nh tướng của sự tịnh), mà lại c̣n cho rằng quán tịnh để cầu cái tướng thanh tịnh là công phu của sự tu hành. Cái sự hiểu biết cùng đường lối tu hành như vậy, không những chướng ngại chân như tự tính, mà đồng thời lại bị cái tướng tịnh trói buộc.
Các vị thiện tri thức! Kẻ tu thiền ngồi yên bất động, phải làm thế nào mới là đúng cách? Trước hết, bất động có nghĩa ǵ? Bất động, không có nghĩa là thân thể ngồi yên không lay động, mà có nghĩa là tự tính xưa nay vốn không lay động. Khi nh́n thấy kẻ khác, không thấy sự đúng sai, mà cũng không chê khen sự thiện ác, được mất ..., của họ. Làm sao cho tất cả những sự vật ở ngoài không vướng mắc vào tâm ḿnh, cũng giống như ánh trăng trên mặt sóng, mặt trăng là mặt trăng mà sóng là sóng. Đây mới gọi là tự tính của ḿnh như như bất động. C̣n kẻ ngu si, tuy có thể giữ cho thân thể họ ngồi cứng đơ không động, thế nhưng mỗi khi mở miệng lại bắt đầu bàn chuyện thị phi của người khác. Tu hành như thế hoàn toàn đi ngược với chánh đạo, giống như phần trên tôi đă nói về quán tịnh, cả hai đều đi ngược với chánh đạo.
Lục tổ lại nói:
- Các vị thiện tri thức! Tọa thiền có nghĩa là ǵ? Học tập pháp môn này, phải làm sao cho tất cả đều tự tại không ngại. Đối với ngoại cảnh, không luận là thiện ác, đẹp xấu, dều không khởi tâm động niệm, một mực điềm tĩnh an ḥa, đây gọi là tọa. Trong tâm, làm sao thấy được tự tính xưa nay vốn không động, đây gọi là thiền. C̣n thế nào gọi là thiền định? Đối với ngoại cảnh, không chấp trước vào tất cả h́nh tướng, đây gọi là thiền, trong tâm không khởi vọng tưởng, tạp niệm, đây gọi là định. Nếu như với đối ngoại cảnh mà c̣n chấp trước, th́ trong tâm chắc chắn sẽ không có định. Chỉ khi nào đối với ngoại cảnh không c̣n chấp trước, th́ trong tâm mới không c̣n bị động loạn. Tự tính của chúng ta xưa nay vốn thanh tịnh không nhiễm, tự nó có thể sinh ra định; chỉ nhân v́ khi nh́n thấy ngoại cảnh, tâm liền so đo nghĩ ngợi, bởi thế mới bị cảnh làm loạn. Nếu như, khi thấy ngoại cảnh mà có thể giữ cho tâm ḿnh không loạn, th́ đây mới thực là chân định. Cho nên mới nói: "Đối ngoại, không chấp tướng gọi là thiền; đối nội, tâm không loạn gọi là định". Ngoài có thiền, trong có định, đây mới là thiền định chân chính. Kinh Bồ Tát Giới nói: "Bổn tính của chúng ta xưa nay thanh tịnh". Chỉ cần các vị, trong bất cứ lúc nào, đều có thể thấy được bản tính vốn thanh tịnh của ḿnh, sau đó siêng năng tu tập, thực hành, tự nhiên sẽ có thể thành Phật đạo!
Một hôm, Lục tổ thấy một số đông Phật tử từ các nơi tụ tập về, thỉnh cầu được nghe thuyết pháp, ngài bèn lên ṭa khai thị cho đại chúng:
- Các vị thiện tri thức! Sự kiện quan trọng nhất của sự tu hành Phật pháp là phải bắt đầu từ cái tự tính giác ngộ của ḿnh. Không luận lúc nào, niệm niệm đều phải giữ ǵn chính niệm, không được sinh khởi tà niệm, như vậy mới có thể làm tâm ḿnh thanh tịnh. Cái pháp môn này, phải tự ḿnh tu, tự ḿnh hành, không kẻ nào khác có thể thế cho ḿnh được. Nếu như các vị không biết cách nào độ thoát chính ḿnh, không thấy được tự tính pháp thân của ḿnh, không thấy được Đức Phật trong tâm của ḿnh, như thế thật uổng phí công lao của các vị đă từ xa đến đây nghe tôi nói pháp. Hôm nay, các vị có thể từ những nơi xa xăm đến đây, cùng tham dự buổi thuyết pháp này, tức là các vị đă có duyên lành. Bây giờ mời tất cả đều qú xuống, trước hết tôi sẽ truyền cho các vị "tự tính ngũ phần pháp thân hương", kế đó sẽ truyền cho các vị "vô tướng sám hối".
Mọi người nghe xong, đều qú xuống chắp tay. Lục tổ bèn giải thích ư nghĩa của ngũ phần pháp thân hương, ngài nói:
- Thứ nhất là giới hương, tức là trong tâm ḿnh không c̣n nghĩ đến những việc thị phi, ghen ghét, thiện ác, bỏn sẻn, sân hận, nhẫn đến những việc cướp giật, giết hại, đây gọi là giới hương.
Thứ hai là định hương, tức là khi nh́n thấy tất cả cảnh giới, dù thiện dù ác, trong tâm đều không động dao, tán loạn, đây gọi là định hương.
Thứ ba là trí tuệ hương, nghĩa là không nên tự làm chướng ngại chính ḿnh. Phải thường dùng trí tuệ quán soi chân như tự tính của ḿnh, không làm việc ác. Ngay chính khi làm những việc thiện, trong tâm cũng không chấp trước, lưu luyến. Đối với bậc trên, như cha mẹ, sư trưởng, phải cung kính tôn trọng; đối với kẻ dưới phải thương xót, lo lắng; gặp kẻ nghèo khổ, cô độc, phải nên giúp đỡ cứu vớt, đây gọi là trí tuệ hương.
Thứ tư là giải thoát hương, nghĩa là tự tâm không bám víu vào ngoại cảnh, đối với việc thế gian không tham cầu, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, an nhiên tự tại, không c̣n bị chướng ngại, trói buộc, đây là giải thoát hương.
Thứ năm là giải thoát tri kiến hương, tuy tự tâm không c̣n bám víu vào thiện ác, song vẫn không v́ thế mà rơi vào cảnh giới "trầm không thủ tịch"[xlviii][48], ngồi yên một chỗ, việc ǵ cũng không chịu học, không chịu làm, và cho đấy là "Không". Phải nên t́m cầu sự tiến bộ, học rộng nghe nhiều, t́m cầu các bậc thầy hướng dẫn, nhận thức bản tâm ḿnh, thông đạt giáo lư. Lúc tiếp xúc với người thế gian, phải bỏ tâm ích kỷ, tâm phân biệt nhân ngă. Một mực cho đến khi viên măn Bồ đề, quyết giữ cho chân như tự tính nầy hào ly không biến đổi. Đây gọi là giải thoát tri kiến hương.
Các vị thiện tri thức! Điều mà tôi vừa giảng về "ngũ phần pháp thân hương", các vị phải tự mỗi người từ tâm ḿnh, bắt đầu từ từ tu hành, huân tập. Chớ nên bỏ tự tâm tự tính của ḿnh, mà hướng ra ngoài t́m cầu.
Bây giờ tôi sẽ truyền cho các vị pháp "vô tướng sám hối", diệt trừ nghiệp chướng của ba đời, làm cho thân khẩu ư của các vị được rốt ráo thanh tịnh. Các vị hăy cùng nhau lặp lại những lời mà tôi nói:
- Đệ tử chúng con, nguyện cho tất cả tâm niệm, từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai, niệm niệm đều không bị ngu si, mê chấp làm nhiễm ô. Hiện nay chúng con xin sám hối tất cả những ác nghiệp mà chúng con đă tạo, cùng những nghiệp ngu si, mê chấp, ... Nguyện cho tất cả tội chướng này, trong một sát na đều bị tiêu diệt. Từ đây cho đến tận vị lai, không c̣n sinh trở lại.
- Đệ tử chúng con, nguyện cho tất cả tâm niệm, từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai, niệm niệm đều không bị kiêu mạn, gian dối làm nhiễm ô. Hiện nay chúng con xin sám hối tất cả những ác nghiệp mà chúng con đă tạo, cùng những nghiệp kiêu mạn, gian dối, ... Nguyện cho tất cả tội chướng này, trong một sát na đều bị tiêu diệt. Từ đây cho đến tận vị lai, không c̣n sinh trở lại.
- Đệ tử chúng con, nguyện cho tất cả tâm niệm, từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai, niệm niệm đều không bị ghen ghét làm nhiễm ô. Hiện nay chúng con xin sám hối tất cả những ác nghiệp mà chúng con đă tạo, cùng những nghiệp ghen ghét, ... Nguyện cho tất cả tội chướng này, trong một sát na đều bị tiêu diệt. Từ đây cho đến tận vị lai, không c̣n sinh trở lại.
Kế đó, Lục tổ giải thích cho mọi người về ư nghĩa của chữ sám hối:
- Các vị thiện tri thức! Vừa rồi là phần vô tướng sám hối. Thế nhưng ư nghĩa của sám hối là ǵ? Sám có nghĩa là tự ḿnh nói rơ (Hán: phát lộ) cho người khác biết tất cả tội ác mà ḿnh đă tạo từ trước. Đem những tội ác mà ḿnh đă tạo ra như ngu mê, kiêu mạn, ghen ghét, ..., đến trước sư trưởng, bạn đồng tu, nói hết ra cho họ biết, và đồng thời bày tỏ sự ăn năn của ḿnh, và thệ nguyện cương quyết sẽ không bao giờ tái phạm, đây gọi là sám. C̣n hối có nghĩa là quyết đoạn trừ những tội ác trong tương lai. Từ hôm nay cho đến mai sau, đối với tất cả mọi hành vi như ngu mê, kiêu mạn, lừa dối, ghen ghét, ..., con nay đă giác ngộ, xin quyết tâm đoạn trừ, nguyện chúng vĩnh viễn không c̣n phát sinh. Đây gọi là hối. Hai sự kiện nầy hợp lại, cho nên gọi là sám hối. Thế nhưng chúng sinh ngu mê, tuy biết sám những tội lỗi đă phạm về trước, trái lại không biết phải quyết tâm vĩnh viễn đoạn trừ những lỗi lầm của ḿnh, điều này đưa đến hậu quả là, tội ác đă phạm về trước, không thể nào hoàn toàn được tiêu trừ, một mặt lại tiếp tục phạm thêm tội ác. Như vậy làm sao có thể gọi là sám hối?
Sau khi giải thích ư nghĩa của sự sám hối, Lục tổ bèn hướng dẫn mọi người phát bốn hoằng thệ nguyện:[xlix][49]
Tự tâm chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ;
Tự tâm phiền năo vô tận, thệ nguyện đoạn;
Tự tính pháp môn vô lượng, thệ nguyện học;
Tự tính vô thượng Phật đạo, thệ nguyện thành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 10 of 34: Đă gửi: 09 June 2005 lúc 1:48am | Đă lưu IP
|
|
|
Các vị thiện tri thức, các vị nên nhớ kỹ bài tụng vô tướng này, và phải y theo đây mà tu hành. Nếu như có thể nhân đây mà đại ngộ, thấy được chân như bản tính, th́ dù các vị có cách xa tôi ngàn dặm, cũng như đang ở bên cạnh tôi. C̣n nếu không thể lĩnh ngộ, th́ dù các vị có ở trước mặt tôi, cũng giống như đang cách xa tôi ngàn dặm. Nếu mà [chứng ngộ] được như thế, các vị cần ǵ phải lao khổ từ những nơi xa xăm t́m đến đây học tập Phật pháp. Chúc các vị ra về trong thân tâm an lạc.
Mọi người nghe Lục tổ nói xong, không ai mà không khai ngộ. Tất cả đều vui mừng, y giáo phụng hành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 11 of 34: Đă gửi: 09 June 2005 lúc 1:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Chú thích
Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm: nghĩa là không nên chấp trước vào bất cứ chỗ nào, mà hiển hiện ra cái tâm diệu tâm sinh ra vạn pháp.
[ii] Hành giả: tức là kẻ tại gia ở trong chùa, đang chuẩn bị xuất gia.
[iii] Phúc báo hữu lậu: tức là phúc báo thế gian, không những chỉ có giới hạn, mà c̣n là nguyên nhân cho sự tiếp tục của sinh tử luân hồi.
[iv]Tức khắc thấy được: dịch từ chữ Hán "đương hạ tức kiến".
[v] Hậu liêu: pḥng ngũ của chư tăng phía sau chùa.
[vi] Thầy giáo thọ: là vị tăng chuyên môn phụ trách việc giảng dạy giáo lư cho chúng tăng trong chùa.
[vii] Tám thước tàu, độ chừng hơn hai thước tây.
[viii] Ấn chứng: chứng nhận cho sự khai ngộ
[ix] Minh tâm kiến tính: Tâm địa sáng suốt, thấy được bản tính.
[x] Biệt giá: là một chức quan nhỏ, người ḿnh gọi là thông phán.
[xi]Huệ Năng thân thể ốm yếu, không đủ sức nặng để đạp cối, do đó phải mang thêm đá trên người để tăng thêm sức nặng.
[xii] Minh sư: tức là vị thầy sáng suốt.
[xiii] Ngô Trọng Đức giải thích bài kệ này như sau: Cái Phật tính, nguyên nhân của sự thành Phật này, thực sự mỗi người đều có đủ. Thế nhưng, kẻ phàm không hiểu rơ điều này, đều cho rằng phải dùng phương pháp này, phương pháp nọ để t́m cầu th́ mới thành Phật, do đó mới đem cái tâm mong cầu này đi học tập Phật Pháp. Đương nhiên, sự chứng đắc của họ trong tương lai, cũng chỉ là quả báo hữu lậu mà thôi. Kỳ thực, Phật tính của mỗi người đều đầy đủ, không có cái pháp nào ở ngoài tâm mà có thể tu thành Phật. Trong cái Phật tính không sinh không diệt, không có sự tham luyến tất cả cảnh giới, không sinh những vọng tưởng về thấy nghe hay biết, mà các pháp đều b́nh đẳng như hư không. Không nhân, không quả, không tính, không sinh.
[xiv] Đông độ: tức là nước Tàu.
[xv]Câu chữ Hán đọc là: Năng giả đắc chi. (Năng giả có hai nghĩa: (1) Người có khả năng, (2) Người có tên Năng.)
[xvi] Bọn ác ôn đó, sau trận cháy rừng, cho rằng ngài đă bị chết thiêu, bèn cùng nhau bỏ đi. (Người dịch)
[xvii] Hiện nay ở gần biên giới của Quảng Đông và Quảng Tây.
[xviii] Tàm quí: Hổ thẹn, cảm thấy không xứng đáng. Đây là lời nói khiêm nhượng.
[xix] Theo giới luật, các bậc xuất gia không được lễ lạy người tại gia, dù đó là cha mẹ ḿnh, song Huệ Năng là kẻ được truyền y bát, trên cương vị ngài đă là một vị tổ sư của một tông phái, thành thử Ấn Tông mới làm lễ ra mắt.
[xx]Pháp Bất nhị: Chư pháp thực tướng như như b́nh đẳng, không có phân biệt, cho nên gọi là bất nhị. Kiến tính tức là thiền định giải thoát. Thiền định giải thoát đều ở trong kiến tính. Phân ra th́ là ba (kiến tính, thiền định, giải thoát), hợp lại th́ là một. Nếu chỉ nói giải thoát thiền định mà không nói đến kiến tính, th́ có hai pháp. C̣n chỉ nói đến kiến tính mà không nói đến thiền định giải thoát th́ là pháp bất nhị.
[xxi]Bốn giới trọng: tức là giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối.
[xxii] Năm tội nghịch: tức là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu (hoặc phá hủy tượng Phật) và phá ḥa hợp tăng.
[xxiii] Nhất xiển đề: tức là kẻ không tin lời dạy của chư Phật, thiện căn hoàn toàn bị đoạn diệt.
[xxiv] Luật sư: Trong Phật pháp, các vị tỳ kheo, một cách khái quát,Ơ có thể phân làm ba loại: pháp sư (chuyên môn nghiên cứu về kinh tạng), luật sư (chuyên môn nghiên cứu về luật tạng) và luận sư (chuyên môn nghiên cứu vềƠ luận tạng). C̣n các vị thông suốt cả ba tạng kinh, luật, luận th́ được tôn xưng là Tam tạng pháp sư.
[xxv]Yết ma: yết ma là tiếng Phạn, tiếng Hán dịch là tác nghiệp, tức là một nghi thức tuyên cáo làm các sự việc như sám hối, thọ giới, v.v...
[xxvi] Giới cụ túc: Giới luật của tỳ khưu, tỳ khưu ni là phương tiện đầy đủ có thể đưa đến Niết Bàn, cho nên gọi là cụ túc.
[xxvii] Chùa Pháp Tính, vốn ở phía tây bắc thành phố Quảng Châu. Đời Lưu Tống, có ngài Tam tạng Pháp sư tên Cầu Na Bạt Đà La đến Quảng Châu trụ tại chùa. Ngài xây một pháp đàn, và dựng bia với lời dự đoán : "Đời sau sẽ có một vị nhục thân Bồ tát sẽ ở nơi đây thọ giới cụ túc". Đời Lương Vũ Đế, lại có ngài Tam tạng Pháp sư Ấn độ tên Trí Dược cũng đến nơi nầy, tự tay trồng một cây Bồ đề, đồng thời dựng bia, và tiên đoán là: "Sau này một trăm bảy mươi năm sẽ có một vị nhục thân Bồ tát sẽ ở dưới cây Bồ đề này khai diễn Phật pháp Đại thừa, cứu độ vô lượng chúng sinh". Sau đó ngài Trí Dược đến Tào Khê bảo dân làng xây chùa Bảo Lâm v.v...
[xxviii] Thoát hoá: Cởi lốt, biến thành vật khác.
[xxix] Tiếng Đường: tức là tiếng Tàu đời nhà Đường.
Đáo bỉ ngạn: có nghĩa là "đến bờ bên kia". Bờ bên kia tức là sự giải thoát.
[xxxi] Khẩu đầu thiền: Chỉ nói thánh nói tướng mà không chịu thực tế tu hành.
[xxxii] Ngoan không: Cho rằng tất cả đều là không, không nhân không quả (một loại đoạn kiến).
[xxxiii] Bàng môn tả đạo: Chỉ chung cho những kẻ không tin Phật pháp.
[xxxiv] Nhất chân pháp giới: tức là chư pháp thực tướng.
[xxxv] Bát nhă chính định: c̣n gọi là Bát nhă tam muội, nghĩa là khai trí tuệ, thấy được thực tướng của các pháp.
[xxxvi] Mười hai phần giáo (c̣n gọi là mười hai bộ kinh): Kinh điển Phật giáo, tùy theo thể tài mà phân ra làm mười hai loại khác biệt, chứ không phải chỉ có mười hai bộ như nhiều người lầm tưởng.
[xxxvii] Kinh Bồ Tát Giới: tức là kinh Phạm Vơng Bồ Tát Giới.
[xxxviii] Đại sự nhân duyên: Ở đây là dẫn ư của kinh Pháp Hoa, nghĩa là v́ một nhân duyên to tát mà chư Phật xuất hiện thế gian.
[xxxix] Vô niệm hành: sống trong cảnh giới mà mọi hành động đều không chấp trước, đều vô niệm.
[xl] Vọng truyền: Truyền thừa không đúng người, không đúng chỗ.
[xli] Ba chướng: tức là phiền năo chướng, nghiệp chướng, báo chướng.
[xlii] Mười ác: ngược lại với mười điều thiện, nghĩa là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời thô ác, nói lời vô nghĩa, tham, sân và si. Tám tà (Hán: bát tà): ngược lại với bát chính, nghĩa là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mệnh, tà phương tiện (tương phản của chính tinh tiến), tà niệm và tà định.
[xliii] Nghĩa là nên không quá thiên lệch về bên nào
[xliv] Nghĩa là không có định, cũng chẳng có tuệ.
[xlv] Tức là kinh Duy Ma Cật
[xlvi] Tẩu hỏa nhập ma: nói nôm na là thần kinh thác loạn.
[xlvii] Nghĩa là tiếp tục sinh tử, tiếp tục vọng niệm.
[xlviii] Trầm không thủ tịch: Câu này vốn chỉ cho các vị Thanh Văn cầu mau được chứng Niết Bàn, không nghĩ đến việc độ sinh; c̣n ở đây muốn nói là không nên lấy ít làm đủ, thỏa măn với hiện tại mà không mong cầu sự tiến bộ. (Người dịch)
[xlix] Bốn hoằng thệ nguyện: bốn lời thệ nguyện lớn.
Trụ tŕ tam bảo: Phật (h́nh tượng, xá lợi ...), pháp (kinh điển ...), tăng (tức là các vị xuất gia thọ giới ...).
|
Quay trở về đầu |
|
|
Kh.K.MinhTam Ban Chấp Hành
Đă tham gia: 31 August 2002
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 377
|
Msg 12 of 34: Đă gửi: 09 June 2005 lúc 10:15am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính anh Thiennhan,
Nhân bài viết của anh tôi xin viết một bài về lá số của Lục Tổ, để tự nhắc nhỡ ḿnh, và lợi ích cho người.
============================
LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Nam Mô Huệ Năng Lục Tổ Bồ Tát Ma Ha Tát! Đệ tử nhân thỉnh quyển “Pháp Bảo Đàn Kinh”, do Thiền Sư Thích Minh Trực dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, năm 1990, thấy có đề ngày, tháng, năm, và giờ sinh (8-2-Mậu Tuất, giờ Tí) cùng tiểu sử của Ngài rơ ràng, nên đệ tử mới mạo muội lập lá số vậy.
Biết rằng số của người xuất gia, không thể nào xem như thường nhân được, huống nữa là số của bậc Đại Sỹ Bồ Tát triệt ngộ Pháp Môn Kiến Tánh Thành Phật (Bát Nhă Thiền hay Như Lai Thiền). Mặc dù vậy, khi đệ tử xem lá số, thấy vẫn có nhiều điểm tương đồng nên đành phải lược giải một số vấn đề, hầu mong phá vỡ bức màng Vô Minh trong thời Mạt Pháp, để những người có LÁ SỐ tương tự nương theo đó mà tu hành.
MỆNH, THÂN đồng cung: Có Thiên Tướng, Quan Phúc, Nguyệt Đức, tam hợp ở Quan thêm Phúc Đức, Thiên Đức, bằng ấy Sao cũng có thể trở thành một nhà sư. Tuy nhiên, điểm tiên quyết để thành Đạo là Thiên Không ở cung Hợi (sắc sắc không không), và được phù trợ ở Quan có Thiên Việt (đứng đầu), Thanh Long, Qủa Tú (độc long vùng vẫy), thêm Hóa Khoa ở cung Di (Khoa, Cô-Quả nên Ngài tự ḿnh Ngộ Đạo chẳng có thầy, Vô Sư Trí) . Đào Hoa ở Mệnh không phá mà c̣n hợp tác với Thiên Không ở Hợi giúp dễ thành công và trở nên nhậy bén hơn người.
Mệnh ở cung Chấn là tượng sấm động, thêm Linh Tinh đắc địa ở Măo khiến cho tiếng sấm vang rềnh suốt cả mười phương thế giới, nên Thiên Tướng ở đây không thể là một Thiền Sư b́nh thường được. Lá số của Ngài và Đức Phật Thích Ca thế đứng y hệt nhau, chỉ khác ở chỗ Ngài thiếu một Tả Phù, và Long Đức. Hơn nữa, Đức Phật Mệnh ở cung Càn nên trở thành đấng Thế Tôn của cơi Ta Bà, c̣n Ngài làm Tổ vậy, đều là bậc Thiên, Nhân Sư, ! Ngài và Đức Phật Thích Ca đều Mệnh, Thân đồng cung nên chỉ tùy Duyên mà phân thân hóa hiện để độ sanh.
V́ sao chúng ta biết? V́ trước khi Ngài Huệ Năng giáng phàm đă có Ngài Đà La Tam Tạng (đời Tống) dựng bia ghi lời Sấm: “Sau sẽ có một vị Bồ Tát xác Phàm thọ giới tại chỗ nầy”. Ngài Trí Dược Tam Tạng (đời Lương Vơ đế) ở Ấn Độ sang và cũng đă đặt bia như vầy: “Sau nầy 170 năm, sẽ có một vị Bồ Tát xác phàm khai diễn Pháp thượng thừa ở dưới gốc cây nầy, cứu độ vô số chúng sanh, ấy là vị Pháp chủ truyền thọ Tâm Ấn của Phật”. (Xin xem Pháp Bảo Đàn Kinh).
Lục Tổ Huệ Năng thọ 76 tuổi, 24 tuổi được truyền Y-Pháp, 39 tuổi xuống tóc, thuyết Pháp lợi sanh 37 năm, người đắc Tông Chỉ nối truyền Chánh Pháp được 43 vị. C̣n những người ngộ Đạo siêu phàm, chẳng biết bao nhiêu mà kê”!
Đó là nói về chuyện vô vi, xuất thế, bây giờ chúng ta hăy thử bàn về những chuyện hữu vi, thế gian xem sao.
CUNG TÀI: có Thiên Phủ phùng Không, Kiếp, Thiên Không là cái phủ tả tơi, không vách, không nóc. Thiết tưởng, một người có thể nghèo đến thế là cùng. Lộc Tồn ở cung Phúc gặp Tuần nên cũng chẳng được một đồng ten của hồi môn. Nhà nghèo không đủ ăn, đến nỗi Ngài phải đi bán củi để nuôi mẹ. Ngài là hạng cùng đinh, mù chữ, dốt nát, quê mùa nhất trong xă hội lúc bấy giờ, ấy vậy mà thành Phật mới đáng nói chứ! Điều nầy cho thấy trên đời Trí Huệ là tối thượng, tiền bạc chỉ là giả tạm, phù vân, chẳng đáng cho kẻ Trí bận tâm.
CUNG PHỤ MẪU: có Cơ-Lương, Quang-Quí nên cha mẹ là người hiền lương, cha có học thức và làm quan bởi có Xương-Khúc, Tấu Thư, Quan Phủ, nhưng bị dèm pha, miệng tiếng thị phi v́ Đà-H́nh-Kỵ mà bị phế chức quan. Cung Phụ ở cung Dương gặp Tuần đương đầu và Đà-H́nh-Kỵ nên khắc cha sớm. Lại nữa, v́ có Thái Âm tượng là mẹ gặp Triệt chiếu nên mẹ ngèo khổ, Ngài phải đi bán củi nuôi mẹ, không được học, thành ra mới mù chữ. (Tuy nhiên, trên thế giới nầy không có Đạo nào thuộc “Chánh Đạo” mà người không biết chữ có thể thành Đạo, và dạy ngược lại những người đệ tử thuộc hàng vua, chúa, và trí thức được cả, ngoại trừ Đạo Phật. Không riêng Lục Tổ, sau nầy c̣n có Ngài Bankei ở Nhật, Ngài Quảng Khâm ở Đài Loan, và c̣n nhiều người khác nữa).
CUNG PHÚC (22-31): có Lộc Tồn ngộ Tuần và Kiếp-Không, Thiên Không xung chiếu, nên nghèo qúa phải đi bán củi. Năm 24 tuổi, Đại Vận ở cung Phúc gặp Hồng Loan, Thiên Không, Tiểu Hạn có Thiên Tướng, Quan Phúc tức là đủ cách để Đốn Ngộ. Nhân có khách mua củi, Ngài mang đến tiệm, khi lănh tiền rồi, bước ra ngoài cửa, nghe một người khách tụng Kinh đến câu: “ưng vô sở trụ như sanh kỳ Tâm”. Ngài nghe qua, Tâm liền mở mang tỏ sáng. Ngài hỏi ra mới hay khách tụng Kinh ấy ở chùa Đông Thiền, Huyện Huỳnh Mai, do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chủ tŕ giáo hóa. Do Nhân Duyên nên có người cho Ngài mười lượng bạc, để lo cho mẹ, và dạy Ngài qua huyện Huỳnh Mai mà làm lễ Ngũ Tổ. (Than ôi! Ngài chỉ một kiếm đoạt sạch phiền năo. Đệ tử viết đến đây bỗng lệ tuông trào quá đổi xúc động, xót thương cho thân phận ngu muội của ḿnh, cứ quanh quẩn chịu trầm luân vô thường. Buồn thay!)
Khi Ngài vào làm lễ Ngũ Tổ, Tổ sư hỏi: “Ngươi là người phương nào, muốn cầu việc chi”?
Ngài đáp: “Đệ tử là dân huyện Tân Châu xứ Lănh Nam (tức Lục Tổ là người Việt Nam, gốc Hoa), từ xa đến lễ bái Tổ Sư, chỉ cầu thành Phật, chẳng cầu việc khác”!
Tổ nói: “Ngươi là người Lănh Nam (Việt Nam), giống dă man, lại kém văn hóa, làm thế nào thành Phật”?
Ngài trả lời: “Con người tuy phân có Nam Bắc, chứ PHẬT TÁNH VỐN CHẲNG CÓ NAM BẮC. Cái thân hèn hạ, dă man nầy với thân ḥa thượng chẳng đồng, nhưng Phật Tánh đâu có sai biệt”!
Khi Ngũ Tổ bảo Ngài theo chúng đi làm việc, Ngài nói: “Kính bạch Ḥa Thượng, Tự Tâm của đệ tử thường sanh Trí Huệ, chẳng ĺa Tự Tánh, tức là phước điền, chẳng hay Ḥa Thượng bảo làm việc ǵ”? (Sự đối đáp của Lục Tổ cho thấy Ngài đă tự đắc Pháp và Ngộ Tự Tánh, mới đủ sức trả lời như vậy. Nếu không, làm sao đủ sức đối đáp như vậy; hơn nữa, đâu có học tṛ nào dám vô lễ với Thầy trong ngày đầu như thế?! Chẳng qua Ngài đến để cầu Ngũ Tổ thọ kư (ấn chứng) cho mà thôi. Ngài đắc Pháp ngay nơi khi nghe người tụng Kinh ḱa. (Thời nay, chúng ta có học và có đầy đủ phương tiện chú giải để học Kinh, vậy mà học hoài chẳng thấy tăm hơi Tự Tánh đâu. Chúng ta Ngu chăng? Chúng ta có học mà?).
Cũng trong Đại Vận nầy Ngài bị người ta đuổi giết chí tử (suốt 15 năm) v́ Tử Vi ngộ Tuần và Thất Sát ngộ Kiếp-Không, Thiên Không, Kiếp Sát, Hỏa Tinh. Lư do là v́ Ngài đắc Pháp nên Ngũ Tổ truyền Tâm Ấn và trao Y-Bác. Bởi người có Y-Bác là bằng chứng làm Tổ nên mới bị người quyết đoạt, và cố giết Ngài để đoạt vị Tổ. (Người Ngộ Đạo Tâm đă vượt ngoài sự Phân Biệt, Đối Đăi, Nhị Biên, thuộc về xuất thế, làm sao những kẻ Hữu Vi hiểu nổi. Vậy họ cố đoạt Y-Pháp để làm ǵ? Sự thật, đây chỉ là những thiện tri thức hành nghịch hạnh trợ giúp Nhân Duyên cho Lục Tổ chóng Thành Đạo mà thôi. Chúng ta không hiểu dễ sinh phỉ báng, các bậc người ấy.)
CUNG ĐIỀN (32-41): có Ḱnh Dương ở Ngọ là Cách độc (thêm Thiên H́nh ở Tuất), chủ tai nạn, nên trong mười năm nầy bọn người theo Ngài Thần Tú vẫn truy lùng và t́m đuổi giết Ngài. Trong thời gian nầy Ngài vẫn tiếp tục lánh nạn và ở chung với bọn thợ săn, và tùy nghi mà thuyết Pháp hóa độ bọn chúng. (Đến đây đệ tử lại chẳng thể cầm được nước mắt, bọn thợ săn kia được phước báu ǵ mà lại may mắn gặp được Bồ Tát hóa độ, c̣n ḿnh lại phải sinh ra trong thế gian hiện tại?).
Đại Vận nầy, Vô-Chính-Diệu có Bạch Hổ, cư Ngọ là Cách Mă đầu đới kiếm và Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa là lúc Ngài liễu triệt Pháp Môn Bất Nhị (Thân-Tâm tương ưng, Khẩu-Ư như như), đạt: Bát Nhă Trí, hay Vô Ư Vô Tướng, Thần Thông Tự Tại (Lậu Tận Thông). Ngài thăng ṭa thuyết Pháp ngày mồng tám, tháng Giêng, năm Bính Tí; xuống tóc và thọ Cụ Túc Giới (250 Giới Cấm của tỳ kheo, tức Ngài là cư si, đến bây giờ mới chính thức xuất gia) ngày rằm, tháng Hai, năm Bính Tí. Lúc ấy Ngài 39 tuổi, tức là lúc Đại, Tiểu Vận trùng phùng ở cung Ngọ vậy.
Mùa Xuân năm sau (Đinh Sửu) Tiểu Hạn đến cung Mùi là cung Quan, Ngài về Tào Khê, ở chùa Bửu Lâm. Ngôi chùa nầy do Ngài Trí Dược Tam Tạng (từ Ấn Độ sang) kêu dân làng Tào Hầu mà bảo rằng: “Nơi núi nầy nên lập một cảnh chùa, 170 năm sau, sẽ có một vị Vô Thượng Pháp Bửu (tức chỉ Lục Tổ) diễn hóa tại chỗ nầy, số người đắc Đạo nhiều như cây rừng, vậy nên đặt hiệu chùa là Bửu Lâm”.
Tuy nhiên, vấn đề ở cung Điền có mấy điểm ta cần chú ư: 1) Gặp Vận Thái Tuế vô Sát Tinh và được Nhật Nguyệt ngời sáng chiếu hư không chi địa. 2) Đại, Tiểu Hạn trùng phùng mà đẹp đẻ là nấc thang chính để đương số bước lên đài danh vọng. 3) V́ đến cung Điền nên có liên quan về nhà cửa (với Ngài là chùa). 4) Cung Điền của Ngài ở Ngọ là cung Ly thuộc hướng Nam, chùa Bửu Lâm cũng ở phương Nam nên việc hoằng Pháp, độ sanh của Ngài càng lúc càng hưng thịnh (đây là v́ cung Điền của Ngài ở Ngọ qúa đẹp). Lúc bấy giờ nói đến Đạo Phật, người ta liền nhắc: “Nam Năng, Bắc Tú”, tức là miền Nam có Ngài Huệ Năng, ở miền Bắc có Ngài Thần Tú.
CUNG QUAN (42-51): có Thiên Việt, Thanh Long, Qủa Tú vẫy vùng một phương. Thật ra th́ Ngài đă mượn cái thế chánh danh (năm Đinh Sửu) ở Đại Vận trước để làm Tổ thứ sáu rồi (Lục Tổ). Nhưng đến đây Đức Độ của Ngài mới vang khắp thiên hạ, v́ Thiên Đức là tinh anh của nhật, hợp với Nguyệt Đức là tinh anh của nguyệt tỏa khắp. Ngài c̣n được thêm Phúc Đức là đức của cửu huyền, thất tổ và do của chính Ngài tu bồi (Dưỡng) tiếp sức, nên không c̣n ǵ có thể ngăn ngại.
Tuy nhiên, Ngài vẫn bị người lén ám toán, v́ Việt, Linh, Hỏa, Kiếp Sát, Không, Kiếp. Từ khi Nam Bắc phân chia việc hóa độ, hai vị tông chủ không phân Nhân Ngă, nhưng đệ tử Ngài Thần Tú v́ hiềm Lục Tổ đặng Y-Bác, họ đă đuổi giết 15 năm mà chẳng lấy được Y-Bác, nên họ sai Hành Xương đêm tối đến ám sát Lục Tổ. Lục Tổ có Tha Tâm Thông, biết trước, lấy mười lượng vàng để sẵn nơi chỗ ngồi. Lúc Hạnh Xương vào ám toán, Ngài đưa cổ cho chém ba lần mà chẳng gây thương tích. Ngài nói:
- “Chánh Kiến (Kiếm) chẳng dùng vào việc tà, Tà Kiến chẳng dùng vào việc chánh được (theo Hán tự, chữ “kiến” và chữ “kiếm” đồng âm). Ta chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng”.
Hạnh Xương sợ qúa té xỉu, một hồi lâu mới tỉnh lại, bèn cầu khẩn sám hối ăn năn tội lỗi và nguyện xin xuất gia.
Sư đưa vàng cho và nói:
- “Ngươi hăy đi, sợ e đồ chúng biết sẽ hại ngươi, khi nào ngươi thay h́nh đổi dạng rồi trở lại đây, ta sẽ nhận và độ ngươi”.
Sau nầy Ngài Hạnh Xương xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, và tu hành tinh tấn. Một ngày kia nhớ lời Lục Tổ dặn, Ngài Hạnh Xương từ phương xa đến làm lễ ra mắt Ngài. Lục Tổ nói:
- “Ta chờ ngươi đă lâu, sao ngươi đến muộn vậy”?
Hạnh Xương bạch:
- “Ngày trước nhờ ơn Ḥa Thượng xá tội, nay dù xuất gia tu khổ hạnh, nhưng khó mà báo ân, chỉ mong Tổ Sử truyền Pháp để độ chúng sanh. Đệ tử thường xem Kinh Niết Bàn mà chưa hiểu cái nghĩa Thường vàVô Thường, xin Ḥa Thượng lược giải cho”.
Lục Tổ Huệ Năng nói:
- ... Ngươi biết chăng, nếu Phật Tánh là Thường, th́ nói làm chi các Pháp thiện ác; cho đến cùng kiếp cũng chẳng một người phát Bồ Đề Tâm, nên ta nói Vô Thường, ấy chính là cái Đạo Chân Thường Phật thuyết vậy. Lại nếu các Pháp là Vô Thường, tức mỗi vật đều có tự tánh riêng biệt, gồm chịu sự sống chết, vậy th́ cái Tánh Chân Thường có chỗ chẳng biến khắp, nên ta nói Thường , ấy chính là nghĩa Chân Vô Thường Phật thuyết vậy. V́ phàm phu ngoại Đạo chấp nơi Tà Thường, hàng Nhị Thừa đối với Thường cho là Vô Thường, chỗ mê chấp của họ cộng thành tám thứ điên đăo. Cho nên trong bài “Liễu Nghĩa Giáo” ở Kinh Niết Bàn, Phật phá chỗ thiên kiến (thấy hoặc chấp một bên) mà nói rơ chỗ Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngă, Chân Tịnh. (V́ phàm phu, Si Mê, lấy cái không vui làm vui, ví như lấy cờ bạc, rượu chè, trai gái, nghiện ngập làm vui; lấy cái vô thường làm thường c̣n, ví như đời người không trường tồn, nhưng lại cố “tham” giàu sang, quyền lực, bất chấp thủ đoạn, để rồi khi chết tiền của trả lại đời...).
Ngươi nay chấp vào văn tự mà hiểu trái nghĩa, nhận lấy chỗ Đoạn Diệt Vô Thường và chấp Thường là cố định, mà hiểu lầm lời nói sau cùng viên tṛn vi diệu của Phật. Như thế, dù xem Kinh đến ngh́n lần, nào có ích ǵ?
Ngài Hành Xương hốt nhiên Đại Ngộ, liền nói kệ rằng:
Người chấp Tâm Vô Thường
Phật nói Tánh có Thường.
Kẻ chẳng biết phương tiện,
Như ṃ sỏi tưởng vàng.
Nay ta chẳng tác Ư, (chẳng dụng ư thức)
Phật Tánh tự hiện tiền.
Chẳng nhờ sự chỉ giáo,
Không đắc Vô Sở Đắc.
Lục Tổ Huệ Năng nói:
- “Ngươi nay đă triệt Ngộ, nên đổi tên là Trí Triệt”!
***************
Khi Lục Tổ bảo Ngài Hạnh Xương “ngươi nay đă triệt Ngộ”, đó gọi là “Ấn Chứng” hay truyền “Tâm Ấn”. Nghĩa là Lục Tổ xác nhận rằng Ngài Hạnh Xương đă có sự thấy, biết đúng với lẽ chân thật, không hai, hoặc nói cách khác là Ngài Hạnh Xương đă Ngộ Đạo hay đă Kiến Tánh. Chẳng phải như thời nay, có người tự cho ḿnh là Vô Thượng Sư, hoặc Trời, hoặc Phật, rồi bảo rằng ai tu theo họ sẽ được truyền Tâm Ấn. Chắc chắn là không THẬT!
V́ sao? V́ Chánh Đẳng Giác không thể nghĩ bàn, tức là vượt ngoài nói năng và chỗ chỉ hay chứng, nên trong Kinh Kim Cang Phật nói với Ngài Tu Bồ Đề:
- “Như Lai không có đắc Pháp ǵ cả. Nếu Như Lai có đắc Pháp th́ Phật Nhiên Đăng đă không thọ kư cho TA sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Thật ra, Như Lai là bản thể như như cuả các Pháp nên Như Lai không đặng Pháp ǵ cả.
“Tu Bồ Đề! Như Lai đặng Đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải thật...
Nếu Chánh Đẳng Giác mà c̣n có chỗ chỉ hay chứng th́ không phải là Chánh Đẳng Giác...”
Ví như người thật sự giàu th́ chẳng bao giờ lại nói với người khác là ḿnh giàu, v́ nếu c̣n khoe ḿnh giàu tức là chưa thật sự giàu. Bill Gate, nhà tỷ phủ trẻ của Mỹ đâu cần khoe giàu, v́ với 100 tỷ đô-la ai không biết anh ta giàu (100 tỷ là do báo chí thống kê, ước lượng)!
Do đó, nếu một người tu mà c̣n thấy ḿnh Đắc Đạo tức là c̣n Ngă Mạn, nên chưa đạt Đạo. Bởi c̣n cái Ta là c̣n Ngă Tướng, nên chưa dứt được Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, và Thọ Giả Tướng. Bốn Tướng c̣n nguyên làm sao Đắc Đạo? Thành ra, trong Kinh Viên Giác Phật mới nói: “Cũng như nước nóng làm tiêu băng, th́ toàn băng là nước, nên không c̣n nước nóng năng tiêu và băng bị tiêu nữa. Nếu c̣n chút nước nóng và băng, thế là nước chưa thuần nhất. Cũng thế, nếu c̣n cái Ta để giác ngộ cái Ta trước, th́ chưa rời được bốn Tướng”. Nếu người tu ḥa nhập được như “nước đă thuần nhất” tức là đă đạt “Bất Tùy Phân Biệt” hay “Vô Niệm”. Nghĩa là đối cảnh Tâm chẳng động, chẳng khởi phân biệt, mà chẳng khởi phân biệt chẳng động th́ Vọng Niệm chẳng sanh; Vọng Niệm chẳng sanh th́ Chân Tâm (Trí Huệ) tự hiện vậy.
Thật ra, dù có nói thêm trăm điều phương tiện cũng chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, giả danh mà gọi Chân Như, Viên Giác, Phật Tánh, Thật Tướng, Tánh Không, B́nh Đẳng Tánh Trí... Nên người Kiến Tánh (như người uống nước, lạnh nóng tự biết) tự nhiên hiểu hết tất cả Pháp (Kinh điển), nếu có ai nói liền hiểu, ai hỏi liền đáp mà chẳng rời Tự Tánh. Do đó, nên Lục Tổ mới nói:
- “Tâm lượng quảng đại cùng khắp Pháp Giới, dùng nó liền hiểu rơ ràng (tới chỗ cùng lư tận tánh), ứng dụng ra th́ biết hết cả thảy sự vật. Tất cả tức qui về một, một tức tất cả, tới lui tự do, Tâm Thể vô ngại, suốt thông, không ngưng trệ, tức là BÁT NHĂ (Trí Huệ) vậy! Tất cả TRÍ BÁT NHĂ đều từ Tự Tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dụng Ư Thức, gọi là Chân Tánh tự dụng; mỗi sự lư phải hiểu rốt ráo (Thật Tướng), tất cả sự lư phải hiểu rốt ráo, như vậy mới đạt Tri Kiến Phật”.
**************
Cung Mệnh của Lục Tổ ở cung Chấn, nên lời Ngài khai thị đệ tử cũng rất là sấm sét. Tỷ như tăng Pháp Hải, tham vấn Lục Tổ, hỏi:
- “Thế nào là tức Tâm tức Phật? Xin Ḥa Thượng chỉ dạy”!
Ngài dạy:
- “Niệm trước chẳng sanh tức Tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật; Lập tất cả tướng tức Tâm, ĺa tất cả tướng tức Phật”. Ngài liền nói kệ:
Tức Tâm là Huệ,
Tức Phật là Định.
Định Huệ song tu,
Ư, Tâm phải tịnh,
Ngộ Pháp Môn nầy,
Là do tập Tánh.
Dụng vốn vô sanh,
Song tu là chánh.
Ngài Pháp Hải ngay nơi đó liền đại ngộ, tán thán bằng kệ rằng:
Tức Tâm vốn là Phật,
Chẳng hiểu, tự khinh suất,
Định Huệ, biết nguyên nhân,
Song tu ĺa các vật.
*
Tăng Chí Thành được Ngài Thần Tú bảo đến Lục Tổ để học Pháp, đứng xen trong chúng để nghe Pháp. Nhưng Lục Tổ có “tha tâm thông”, biết có người nghe trộm Pháp, nên tăng Chí Thành đành phải bước ra.
Ngài hỏi tăng Chí Thành:
- “Thầy ngươi lấy ǵ để dạy chúng”?
- “Thầy tôi thường khuyên dạy chúng trụ Tâm quán tịnh, ngồi (ngồi thiền) măi chẳng nằm”.
- “Trụ Tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi măi là trói thân, với Đạo lư có ích ǵ? Hăy nghe đây:
Lúc sống ngồi chẳng nằm,
Chết rồi nằm chẳng ngồi,
Thật đồ xương thịt thối,
Sao luống lập công phu”?
Tăng Chí Thành hỏi Ngài:
- “Chẳng hay Ḥa Thượng lấy Pháp ǵ để dạy người”?
- “Nếu Ta nói có Pháp dạy người, ấy là dối gạt ngươi. Ta chỉ tùy phương tiện (căn cơ) để mở trói (giải thoát) cho người, phương tiện ấy gọi là Tam Muội (Chánh Định)... Chỗ ta nói Pháp không ĺa Tánh ḿnh. Ĺa Bản Thể mà nói Pháp, là trước tướng mà nói, thế th́ Tánh ḿnh thường mê. Phải biết muôn Pháp đều do Tánh ḿnh mà khởi dụng, thế mới thật là Giới Định Huệ. Hăy nghe Ta kệ:
Tâm địa không Quấy, tự Tánh ḿnh Giới
Tâm địa không Si, tự Tánh ḿnh Huệ
Tâm địa không Loạn, tự Tánh ḿnh Định
Không Thêm không Bớt, tự như như (Kim Cang)
Thân Đến, Thân Đi, vốn Tam Muội (Chánh Định).
Tăng Chí Thành nghe xong cảm tạ, tŕnh kệ rằng:
Ngũ Uẩn thân huyễn hóa (không thật)
Huyễn nào mong cứu cánh (Pháp Giải Thoát)
Trở thú Tánh Chân Như (nếu kềm chế Tánh Chân Như)
Vẫn là Pháp Bất Tịnh.
Lục Tổ cho là phải, lại bảo với tăng Chí Thành:
- “GIỚI ĐỊNH HUỆ của Thầy ngươi dạy người căn trí nhỏ, GIỚI ĐỊNH HUỆ của Ta dạy người căn trí lớn. Nếu ḿnh tỏ sáng Tánh ḿnh th́ chẳng nên lập Bồ Đề Niết Bàn (đừng tạo ra cái Tướng giác Ngộ và thanh tịnh), cũng chẳng nên lập Giải Thoát tri kiến (đừng tạo ra cái Tướng biết thấy siêu thoát). Không có một Pháp (sự, vật) nào t́m được trong Tánh ḿnh (th́ Tánh ḿnh hư linh), và mới tạo lập được vạn Pháp (tất cả sự, lư và vạn vật). Nếu hiểu cái ư chỉ này th́ gọi là Phật Thân, cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, là Giải Thoát tri kiến. Người thấy Tánh lập (muôn Pháp) cũng đặng, chẳng lập (muôn Pháp) cũng đặng (tức là động, tịnh tự nhiên). Đi lại tự do, không ngừng không ngại, phải chỗ dùng th́ tùy cơ mà làm, phải chỗ nói th́ tùy cơ mà đáp, hiện khắp Hóa Thân mà chẳng ĺa Tánh ḿnh, tức là đặng Tự Tại Thần Thông, Du Hí Tam Muội. Ấy gọi là Kiến Tánh (Tánh Thấy)”.
Tăng Chí Thành lại bạch:
- “Thế nào là nghĩa Chẳng Lập”?
- “Tự Tánh ḿnh chẳng Quấy, chẳng Si, chẳng Loạn, niệm niệm thường soi Trí Huệ, thường ĺa Pháp Tướng, tự do tự tại, thuận nghịch đều ứng đối được cả, có Pháp nào để lập? Tự Tánh ḿnh sáng tỏ, tự ngộ tự tu (tỏ liền tu liền), cũng chẳng theo thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả Pháp, các Pháp đều vắng lặng, lấy ǵ làm thứ lớp”?
Tăng Chí Thành lễ bái, nguyện làm thị giả hầu hạ Lục Tổ, sớm tối không bê trễ.
******
NHẬP DIỆT: Thường t́nh, người đời hiếm ai biết trước được ngày giờ ḿnh chết, nói chi đến việc tự ḿnh chọn ngày giờ để chết. Nhưng đặt biệt những người Đắc Đạo lại được ÀÀQuyềnÀÀ tự do lựa chọn ngày giờ Nhập Diệt, tùy theo sở nguyện.
Vào tháng 7 năm Nhâm Tí (712), Lục Tổ sai môn đồ đến Quốc Ân Tự nơi Tân Châu để xây tháp, đốc thợ làm gấp , đến mùa hè năm sau lạc thành. Ngày mùng một tháng 7 năm Qúy Sửu, Ngài tựu tập đồ chúng bảo:
- “Đến tháng 8 ta sẽ rời thế gian, các ngươi có nghi cứ hỏi sớm đi, Ta sẽ phá nghi, khiến các ngươi hết mê hoặc, nếu Ta đi rồi th́ chẳng ai dạy bảo”!
Ngày mùng 3 tháng 8 năm Qúy Sửu, niên hiệu Tiên Thiên thứ 2, ở chùa Quốc Ân dùng trai xong, Ngài bảo đồ chúng:
- “Các ngươi hăy theo thứ tự an tọa, để ta từ biệt”.
Sau đó Ngài thuyết bài Pháp sau cùng:
- “... Nếu Tánh ḿnh giác ngộ th́ chúng sanh là Phật, bằng Tánh ḿnh mê muội, th́ Phật là chúng sanh. Tánh ḿnh b́nh đẳng, th́ chúng sanh là Phật. Tánh ḿnh tà hiểm, th́ Phật là chúng sanh. Nếu Tâm các ngươi hiểm khúc (hiểm ác, tà vạy) tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm b́nh đẳng ngay thật, tức chúng sanh là Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở Tâm ḿnh mới là Chân Phật. Nếu tự ḿnh chẳng có Phật Tâm, th́ t́m Chân Phật ở nơi nào? Tự Tâm của các ngươi là Phật, chớ có hồ nghi nữa”.
Ngài lại nói kệ rằng:
An nhiên, Thiện sự vẫn không tu,
Siêu thoát, Ác duyên hẳn bỏ từ,
Lẳng lặng, dứt trừ nghe thấy hết,
Phẳng bằng, Tâm địa tự như như.
Lục Tổ Huệ Năng thuyết kệ xong, ngồi ngay thẳng cho đến canh ba (giờ Tí), thoạt gọi môn đồ bảo rằng:
- “Ta đi”. Hốt nhiên Ngài thiện hóa. Ngay lúc ấy có mùi hương lạ thơm khắp núi, móng trắng mọc ṿng cầu chấm đất, rừng cây biến thành màu trắng, cầm thú kêu vang thảm thiết”.
NAM MÔ HUỆ NĂNG LỤC TỔ BỒ TÁT MA HA TÁT.
Nguyện đem Công Đức nầy
Tiêu Trừ Nghiệp xưa nay
Tăng trưởng các Phước Huệ
Viên Thành Căn Thánh Thiện
Bao nhiêu nghiệp Tham, Dục
Bao nhiêu Nghiệp Sân, Si
Bao nhiêu Nghiệp Thân, Khẩu, Ư
Đều diết sạch không c̣n
Quyến Thuộc đồng An Lạc
Oan gia về Niết Bàn
Cùng Pháp Giới Chúng Sanh
Đồng chứng Đạo Vô Thượng!
HẾT
__________________ Muốn Tu: "Hăy bỏ bớt những ǵ ḿnh đang có, và chớ nên chất thêm vào những ǵ không phải của ḿnh".
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 13 of 34: Đă gửi: 10 June 2005 lúc 3:43am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính anh Kh.K.MinhTam
Càm ơn bài viết của anh, rất hay cho những người học xem Tử Vi để tham khảo, riêng tôi chỉ "thích" những đoạn này:
Code:
“Như Lai không có đắc Pháp ǵ cả. Nếu Như Lai có đắc Pháp th́ Phật Nhiên Đăng đă không thọ kư cho TA sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Thật ra, Như Lai là bản thể như như cuả các Pháp nên Như Lai không đặng Pháp ǵ cả.
“Tu Bồ Đề! Như Lai đặng Đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải thật...
Nếu Chánh Đẳng Giác mà c̣n có chỗ chỉ hay chứng th́ không phải là Chánh Đẳng Giác...”
......
Do đó, nếu một người tu mà c̣n thấy ḿnh Đắc Đạo tức là c̣n Ngă Mạn, nên chưa đạt Đạo. Bởi c̣n cái Ta là c̣n Ngă Tướng, nên chưa dứt được Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, và Thọ Giả Tướng. Bốn Tướng c̣n nguyên làm sao Đắc Đạo?
.......
Ngài hỏi tăng Chí Thành:
- “Thầy ngươi lấy ǵ để dạy chúng”?
- “Thầy tôi thường khuyên dạy chúng trụ Tâm quán tịnh, ngồi (ngồi thiền) măi chẳng nằm”.
- “Trụ Tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi măi là trói thân, với Đạo lư có ích ǵ? Hăy nghe đây:
Lúc sống ngồi chẳng nằm,
Chết rồi nằm chẳng ngồi,
Thật đồ xương thịt thối,
Sao luống lập công phu”?
Tăng Chí Thành hỏi Ngài:
- “Chẳng hay Ḥa Thượng lấy Pháp ǵ để dạy người”?
“Nếu Ta nói có Pháp dạy người, ấy là dối gạt ngươi. Ta chỉ tùy phương tiện (căn cơ) để mở trói (giải thoát) cho người, phương tiện ấy gọi là Tam Muội (Chánh Định)... Chỗ ta nói Pháp không ĺa Tánh ḿnh. Ĺa Bản Thể mà nói Pháp, là trước tướng mà nói, thế th́ Tánh ḿnh thường mê. Phải biết muôn Pháp đều do Tánh ḿnh mà khởi dụng, thế mới thật là Giới Định Huệ.
..........
“... Nếu Tánh ḿnh giác ngộ th́ chúng sanh là Phật, bằng Tánh ḿnh mê muội, th́ Phật là chúng sanh. Tánh ḿnh b́nh đẳng, th́ chúng sanh là Phật. Tánh ḿnh tà hiểm, th́ Phật là chúng sanh. Nếu Tâm các ngươi hiểm khúc (hiểm ác, tà vạy) tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm b́nh đẳng ngay thật, tức chúng sanh là Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở Tâm ḿnh mới là Chân Phật. Nếu tự ḿnh chẳng có Phật Tâm, th́ t́m Chân Phật ở nơi nào? Tự Tâm của các ngươi là Phật, chớ có hồ nghi nữa”. |
|
|
Có một Vị Sư nói:
Khi tôi chưa học Đạo, thấy sông là sông núi là núi.
Khi tôi học Đạo th́ thấy sông không c̣n là sông núi không c̣n là núi.
Khi tôi ngộ được Đạo rồi th́ thấy sông vẫn là sông núi vẫn là núi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 14 of 34: Đă gửi: 10 June 2005 lúc 11:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIỀN SƯ HOÀNG BÁ HY VÂN
Tâm Thái
Tổ Hoàng Bá giữ một vai tṛ rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tông v́ đệ tử của tổ là tổ Lâm Tế, người đă sáng lập ra tông Lâm Tế. Muốn hiểu rơ về tông Lâm Tế th́ cần biết rơ về tổ Hoàng Bá là người đă đào tạo tổ Lâm Tế. Tại Trung Hoa, sau thời Lục Tổ Huệ Năng (638-713) th́ Thiền Tông chia làm 5 tông: Lâm Tế, Tào Động, Quy Nhưỡng, Vân Môn và Pháp Nhăn. Phần lớn các chùa tại Việt Nam trước đây đều thuộc tông Lâm Tế. Tại Nhật Bản th́ hiện nay Zen (Thiền Tông) chỉ c̣n hai tông được phát triển mạnh nhất là Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Động (Nh: Soto).
Sự nghiệp
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá. Tên Trung Hoa là Huang Po Hsi-yuan, tên Nhật Ōbaku Kiun. Tổ được người chỉ dẫn đến tham vấn Mă Tổ Đạo Nhất (709-788) nhưng đến nơi th́ Mă Tổ đă tịch nên sau đó tổ đến theo học Bá Trượng Hoài Hải (724-814). Sau đó tổ về trụ tŕ tại chùa Đại An ở Hồng Châu, đồ chúng đến theo học rất đông. Đôi khi tổ đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tại chùa Khai Nguyên, tổ có gặp một vị tướng quốc tên Bùi Hưu. Vị này đă xin nhận tổ làm thầy, theo học tổ rất tích cực và được coi như đă ngộ đạo. Sau này Bùi Hưu đến trấn Uyển Lăng lập đại Thiền Uyển và thỉnh tổ làm hóa chủ ở đó. Bùi Hưu được theo hầu tổ nhiều năm, ngày đêm, nên sau này có viết được tài liệu "Truyền Tâm Pháp Yếu" (năm 858) ghi rất rơ ràng, đầy đủ những lời dạy của tổ. V́ vừa là một nhân vật có văn hóa cao, vừa là người đă ngộ đạo nên Bùi Hưu đă để lại cho chúng ta một tác phẩm rất giá trị. Rất ít có tài liệu nào ghi được đầy đủ và rơ ràng về các lời giảng của các tổ Thiền Tông như cuốn này. Tuy đó là trái ư các tổ, v́ Thiền Tông là 'không lập văn tự', nhưng lại là điều có ích cho chúng ta.
Tổ tịch năm 850 tại núi Hoàng Bá và được nhà vua sắc phong là Đoạn Tế Thiền Sư.
"Truyền Tâm Pháp Yếu"
Cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu" của Bùi Hưu, ghi lại những bài giảng, lời dạy của tổ Hoàng Bá và các mẩu chuyện ngắn về cuộc đời của tổ. John Blofeld đă viết cuốn "The Zen teaching of Huang Po on the transmission of mind" và cho biết là dịch đầy đủ từ "Huang Po Ch'uan Hsiu Fa Yao" chứ không phải là trích dịch. Bản dịch này chia làm hai phần theo sự ghi chép của Bùi Hưu tại hai nơi là Khai Nguyên và Uyển Lăng. Phần lớn là ghi những câu hỏi của Bùi Hưu, c̣n lại là những câu thưa hỏi của các người khác và các bài giảng của tổ. Cũng nên chú ư là cuốn sách của John Blofeld tŕnh bày rất rơ, chia đoạn, đánh số nên việc tham khảo dễ dàng. Cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu" đă được HT Thích Thanh Từ giảng và ghi băng, theo sát tài liệu gốc, nhưng trong khi giảng th́ HT bỏ vài đoạn mà có lẽ cho là không cần thiết. Thiền sư Thích Duy Lực có viết cuốn "Hoàng Bá Thiền Sư Truyền Tâm Pháp Yếu" và ghi là trích trong Chỉ Nguyệt Lục của bộ Tục Tạng Kinh, tài liệu đại cương giống như cuốn sách của John Blofeld.
Bài tựa của Bùi Hưu
Trong bài tựa của cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu" ông tŕnh bày pháp Tối thượng thừa mà tổ dạy là rời văn tự, chỉ truyền dạy Một Tâm, không có pháp ǵ khác. "Đối với người chứng được lư đó th́ không có ǵ là mới/cũ, những ư niệm về nông/sâu đều không có nghĩa, (tức là không c̣n chấp hai bên). Người nói đó không lập nghĩa giải, không lập tông chỉ, không mở cửa ngơ. Thấy ngay đó là phải, động niệm là trái, nhiên hậu mới là bổn Phật. Cho nên lời nói kia rất gọn, lư thấy chỉ thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt". Lời tán tụng này thật là xác đáng.
Những bài giảng của tổ
Trước khi học về pháp môn của tổ Hoàng Bá, cũng nên ghi lại là từ khi tổ Bồ Đề Đạt Ma (?-532) từ Ấn Độ qua Trung Hoa vào đầu thể kỷ thứ 6 và đặt nền tảng cho Thiền Tông th́ gần 200 năm sau tới Lục Tổ Huệ Năng Thiền Tông mới tạo ra được pháp tu hành vững chắc, nhưng trong lời dạy vẫn c̣n dẫn chứng kinh điển để dẫn dắt đệ tử dần dần tới chỗ "giáo ngoại biệt truyền". Từ sau đời Lục Tổ th́ các tổ thấy rằng các đệ tử đă được thấm nhuần tông chỉ của Thiền Tông nên các tổ chỉ giảng dạy trực tiếp về Thiền Tông mà không c̣n giảng dạy về các kinh điển nữa. Tuy không c̣n dùng kinh điển để giảng dạy nhưng các tổ vẫn giữ y được mục đích tu hành của đạo Phật, không như một số người hiện nay tuy giảng giải kinh điển làu làu mà mục đích lại đi trái hẳn.
Ngay bài giảng đầu tiên trong cuốn sách, tổ Hoàng Bá đă rứt khoát: "Chư Phật với tất cả chúng sanh chỉ là Một Tâm, chẳng có pháp khác. Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh, không từng diệt, không xanh, không vàng, không h́nh, không tướng, không thuộc có/không, không là mới/cũ, không dài, không ngắn, không lớn, không nhỏ, vượt qua tất cả hạn lượng, tên gọi, dấu vết, đối đăi. Thẳng ngay đó là phải, động niệm liền trái. Ví như hư không, không có giới hạn, không thể đo lường. Chỉ Một Tâm này tức là Phật. Phật cùng chúng sanh chẳng có sai biệt, chỉ v́ chúng sanh chấp tướng bên ngoài, càng cầu càng lạc lối, đem Phật t́m Phật, dùng tâm mà bắt tâm, măn đời cùng kiếp cũng không thể được."
Tâm
Tổ đă chỉ thẳng ngay mục đích tối hậu của Thiền tông là phải thấy được Một Tâm của chư Phật và tất cả chúng sanh. Tuy tổ đă căn dặn là Tâm đó vượt ra ngoài 'tên gọi', nhưng nếu không dùng tên gọi th́ không có cách nào để giảng nên phải tạm gọi là 'Một Tâm'. Danh từ đó thật ra đồng nghĩa với nhiều danh từ khác như Chân tâm, Bản Tánh, Chân Tánh, Bản lai diện mục .. đều chỉ cái bản thể, tự tánh của vạn vật, cái bản thể mà không sanh/diệt, không đo lường được, không h́nh, tướng, bao la như hư không mà không phải là hư không. Tâm đó là Phật, đi t́m Phật ngoài Tâm đó là điều tốn công vô ích. Thực là phương pháp chỉ thẳng, không dùng đường lối quanh co nào khác. Pháp tu đó được truyền lưu đến nay không thay đổi, là một đặc thái của Thiền tông: "Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật". Tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng đă dạy: "Nếu muốn t́m Phật hăy cần thấy tánh. Tánh tức là Phật. " Lục Tổ Huệ Năng đă nói: "Bản tánh là Phật, ĺa tánh chẳng có Phật ... Trí Bát nhă đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào."
Tổ Hoàng Bá giảng thêm: "Tâm này là cái tâm mà vô tâm. Ĺa tất cả tướng, chúng sanh cũng như chư Phật chẳng có khác biệt. Hễ được vô tâm th́ đến chỗ cứu cánh." Tâm mà không tâm, có nghĩa tâm mà không c̣n vọng tâm. Vọng tâm chính là cái tâm suy nghĩ, tính toán, cái tâm phân biệt: yêu/ghét, phải/trái, khen/chê .. thường được chúng ta coi là cái "ngă", cái "ta" mà chúng ta quư trọng và dành cả cuộc đời để nuôi dưỡng. Khi thấy rơ được 'vọng tâm' và không c̣n bị nó điều khiển, lôi cuốn th́ chân tâm, tức 'tâm vô tâm' hiện bày.
"Người đời chẳng ngộ, chỉ nhận 'thấy nghe hiểu biết' (kiến văn giác tri) là tâm ḿnh, bị 'thấy nghe hiểu biết' che khuất cho nên chẳng thấy cái bản thể tinh diệu sáng tỏ." Nhưng tổ e rằng người đời lại cho rằng như vậy th́ phải cắt tuyệt 'thấy nghe hiểu biết', để t́m Tâm nên giảng thêm: "Bản Tâm thể hiện nơi 'thấy nghe hiểu biết', nhưng không thuộc 'thấy nghe hiểu biết', mà cũng không rời 'thấy nghe hiểu biết'. Chớ nên ở 'thấy nghe hiểu biết' khởi kiến giải, nhưng cũng chớ nên bỏ 'thấy nghe hiểu biết' đi t́m Tâm." Điểm này quan trọng v́ có người cho là phải cắt đứt hẳn 'thấy nghe hiểu biết', hoặc cho rằng càng 'thấy nghe hiểu biết' ít, thí dụ những người ngu si, th́ mới dễ đạt được bản tâm. Chân tâm thể hiện nơi 'thấy nghe hiểu biết' nhưng không phải cái 'thấy nghe hiểu biết' đó là chân tâm. Cũng vậy, Chân tâm thể hiện nơi tánh Giác, nhưng cái tánh giác đó không phải là Chân tâm. Nói tánh giác là chân tâm, Phật tánh ... tức là chưa phân biệt rơ "thể" và "dụng". Không phải chỉ có cái thể của Giác là chân tâm, mà cái thể của Mê cũng là chân tâm. Kinh Viên Giác chỉ rơ Giác cũng là "huyễn", chỉ là phương tiện để giảng cho người huyễn thôi. Bát nhă Ba la mật đa Tâm kinh cũng dạy là "không có 'vô minh', cũng không có 'hết vô minh'". Nói một cách khác th́ không có mê, cũng không có giác.
Tổ cũng chỉ rơ là chúng ta vốn sẵn có cái Tâm đó, không phải v́ tu hành mới có: "Tâm này vốn thanh tịnh, chư Phật, Bồ tát, Trời, người cho đến sâu bọ hàm linh đều cùng một bản thể Phật tánh. Khác nhau chỉ v́ vọng tưởng phân biệt tạo đủ thứ nghiệp." Chúng ta thường quan niệm chỉ đức Phật, các vị Bồ tát mới có tâm thánh, c̣n chúng sanh chỉ có tâm phàm, nhưng mẩu đối thoại sau đă giảng rơ hơn:
"Hỏi: Theo lời ḥa thượng dạy th́ Tâm tức Phật; nhưng không rơ Tâm nào là Phật ?
Đáp: Ngươi có bao nhiêu thứ tâm?
Hỏi: Tâm phàm là Phật hay tâm thánh là Phật?
Đáp: Ngươi thấy tâm phàm, tâm thánh ở chỗ nào?
Hỏi: Trong các kinh Tam thừa nói có phàm thánh, tại sao ḥa thượng lại nói không?
Đáp: Trong các kinh Tam thừa nói rơ là các tâm phàm thánh là vọng. Ngươi không hiểu nên chấp thành có. Tuy không mà cho là thật há chẳng phải vọng sao? V́ vậy vọng che mất cái Tâm ngươi. Nếu biết buông bỏ, không chấp phàm thánh th́ không có Phật nào khác ngoài Tâm. Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ đến đă chỉ thẳng Tâm của mọi người là Phật"
Cũng nên để ư là danh từ phàm/thánh dùng trên là nói về tâm phân biệt, đối đăi, tức cái tâm thấy hai bên như yêu/ghét, khen/chê, phải/trái, thiện/ác, có/không .. tâm phân biệt thường dẫn đến vọng tưởng tạo nghiệp. Khi bồ tát Văn Thù Sư Lợi dấy niệm phân biệt th́ liền bị hai núi thép ép lại, đó là câu chuyện tượng trưng cho tâm phân biệt làm lu mờ trí huệ bát nhă.
Pháp tu
Pháp tu mà tổ Hoàng Bá chỉ dạy rất là đặc biệt. Tổ chỉ rơ những pháp tu mà chúng ta thường được nghe thấy đều chỉ mới là phương tiện, tức là tùy căn cơ của mỗi người mà đức Phật đă chỉ những pháp tu khác nhau. Ngay cả pháp tu của các vị bồ tát tức là tu theo lục độ mà tổ cũng cho thấy đó cũng chỉ là phương tiện:
"Hỏi: Nếu Tâm đă vốn là Phật th́ c̣n cần tu lục độ, vạn hạnh không?
Đáp: Ngộ ở nơi Tâm, chẳng dính dáng với lục độ, vạn hạnh. Những pháp đó chỉ dùng để giáo hóa chúng sinh trong cuộc sống cơi ta bà. Ngay cả những danh từ như Bồ đề, Chân như, Thực tướng, Giải thoát, Pháp thân cho đến Thập địa, Tứ quả, Thánh vị đều thuộc phần giáo hóa, không dính dáng ǵ đến tâm Phật, nên trong tất cả các môn hóa độ, tâm Phật là bậc nhất."
"Cho đến tu lục độ, vạn hạnh hoặc tạo phước nhiều như số cát sông Hằng, th́ phải biết vốn đă tự đầy đủ nên các ngươi không phải tu theo như vậy. Nếu không quả quyết tin Tâm này là Phật mà cứ chấp tướng tu hành để cầu công dụng đều là vọng tưởng và trái với đạo."
Những lời dạy đó không phải là có ư nói không cần tu lục độ, vạn hạnh, v́ tu như vậy vẫn được những quả tốt, nhưng chưa đạt tới chỗ cứu cánh. Nếu đă tu lục độ mà theo được như lời tổ th́ mới đúng là tu theo lời Phật dạy, c̣n đă tự măn cho là đủ th́ là sai lầm. Tổ thấy rằng tu như vậy là hăy c̣n"chấp tướng" v́ c̣n thấy có ngă, có pháp.
"Cho nên nói "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" chỉ là để dạy cho người ngoại đạo tà kiến. C̣n nói Pháp thân là quả tột cùng, cũng chỉ là đối với tam hiền, thập thánh mà nói. Đó là Phật muốn đoạn hai thứ ngu, một là vi tế sở tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu."
“Hỏi: Nếu như vậy, chỗ nào là Bồ Đề?
Đáp: Bồ đề không phải chỗ. Phật cũng không được Bồ Đề, chúng sanh cũng không mất Bồ Đề, không thể do thân mà được, không thể lấy tâm mà cầu, tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ Đề.
Hỏi: Thế nào là phát tâm Bồ Đề?
Đáp: Bồ Đề không sở đắc, nay ông chỉ phát tâm không sở đắc, quyết định không được một pháp, tức là tâm Bồ Đề. Bồ Đề không có chỗ trụ, thế nên không có đắc, nên đức Phật nói :”Ta ở nơi Phật Nhiên đăng không có một chút pháp có thể được, Phật liền thọ kư cho ta”. Biết rơ tất cả chúng sanh vốn là Bồ Đề, không lẽ lại được Bồ Đề.”
Chúng ta thấy nói vọng che lấp chân tâm nên lại cố tu tập để trừ vọng. Nhưng như vậy cũng không đúng nữa:
"Hỏi: Vọng che lấp tự tâm, nhưng ḥa thượng không dạy chúng con cách trừ vọng.
Đáp: Khởi tâm trừ vọng cũng thành vọng. Vọng không có gốc, chỉ do tâm phân biệt của các ngươi nên thành có. Nếu các ngươi không c̣n chấp phàm thánh th́ vọng tự nó chẳng có được. Vậy c̣n muốn trừ nó để làm ǵ? "
Các tông khác trong đạo Phật thường nói là có Định rồi mới có Huệ, coi như là có hai pháp khác nhau, nhưng Lục tổ Huệ Năng đă chỉ rơ là Định, Huệ chỉ là một: "Định là thể của Huệ, mà Huệ là dụng của Định, ngay trong lúc định có huệ, ngay trong lúc huệ có định, thấu được nghĩa này tức là Định, Huệ đồng nhau" (Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm thứ tư).
Tổ Hoàng Bá dạy : "Những pháp như Định, Huệ (của các tông khác) trụ vào thấy, nghe, cảm, biết để được những trạng thái của định và động. Nhưng đó là những vọng tưởng trụ vào trần cảnh mà thôi, chỉ là phương tiện chỉ dạy cho những người hạ căn dễ hiểu."
Ngữ lục:
"Suốt ngày đừng để mọi việc mê hoặc ngươi, nhưng cũng không cần trốn tránh chúng."
”Tâm này là cội nguồn thanh tịnh, Phật và người đều có. Các loài ḅ, bay, máy cựa cùng chư Phật, Bồ tát một thể không khác”
“ Cho nên muôn pháp chỉ là tâm, tâm cũng không thể được, lại cầu cái ǵ? Người học Bát Nhă không thấy một pháp có thể được, dứt ư nơi tam thừa, chỉ một chân thật không thể chứng được. Bảo là ta hay chứng hay đắc đều là người tăng thượng mạn.”
“Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ, không ở trên tâm pháp mà ngộ tức là khinh tâm trọng giáo, theo h́nh tướng mà quên bản tâm.”
“Người thời nay chỉ muốn được biết nhiều, hiểu rộng, không biết là biết nhiều, hiểu rộng trở thành bít lấp. ‘Chỉ cần biết nhiều' cũng sánh với trẻ con ăn tô, ăn sữa, trọn không biết tiêu cùng chẳng tiêu. Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết nhiều không tiêu đều là thuốc độc”
"Hăy coi mỗi niệm như hư không, như khúc gỗ mục, như tảng đá, như tro lạnh khi lửa tắt."
"Cúng dường mười phương chư Phật không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Tại sao? Người vô tâm là người bất cứ thế nào cũng không có tâm vọng."
"Tâm này là Phật. Người học đạo không ngộ được tâm thể này, cứ ở nơi tâm sanh tâm, hướng bên ngoài t́m Phật, chỉ biết chấp tướng tu hành, đều là pháp tà, chẳng phải đạo Bồ đề."
"Kẻ cầu 'thấy biết' th́ rất nhiều, kẻ ngộ đạo th́ rất ít."
"Khi một niệm khởi lên mà ngươi biết nó là mộng là huyễn th́ ngươi cũng như các đức Phật quá khứ .. Điều cần nhất là khi niệm niệm nối tiếp nhau th́ chớ có trụ vào niệm nào hết .. Cái thức huyễn hóa của ngươi, ngươi làm sao tính muốn đoạn dứt nó .. pháp tánh tự nó như vậy .. lấy chẳng được, bỏ cũng chẳng được."
Tổ Hoàng Bá đặt trọng tâm pháp tu là ngộ được "Một Tâm", tức Chân tâm, Phật tánh, Chân tánh .. Không ngộ được Tâm này mà cứ chấp tướng để tu hành th́ chẳng phải là đạo Bồ đề. Muốn ngộ được Tâm này th́ cần "vô tâm", tức không có tâm vọng. "Cúng dường mười phương chư Phật không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm". Tổ cũng nói: "Phật nói tất cả các pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp." Như vậy pháp tu của tổ nhằm trước hết là phải thấy rơ Tâm của ḿnh, tức chân tâm chứ không phải cái vọng tâm thường suy nghĩ, tính toán, phân biệt. Khi nào tu đến được chỗ vô tâm, tức không c̣n bị cái vọng tâm chi phối, lôi cuốn nữa th́ mới thành quả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
donau Hội viên
Đă tham gia: 27 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 402
|
Msg 15 of 34: Đă gửi: 12 June 2005 lúc 3:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn anh thiennhan nhiều, đọc bài viết anh sưu tầm(hay anh viết), cảm thấy ḿnh học đuợc rất nhiều điều.
Thân
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 16 of 34: Đă gửi: 13 June 2005 lúc 1:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính chào anh DoNau
Những bài viết trên tôi t́m trên Net, những mong muốn có chút ǵ đó b́nh yên trong hỗn độn.
Thân chào anh
thiện nhân
THIỀN SƯ MĂ TỔ - ĐẠO NHẤT
Tâm Thái
Thiền sư Mă Tổ (709-788) là đệ tử của thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng vốn là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng (638-713). Số đệ tử ngộ đạo của sư lên tới 139 người, có chỗ ghi là 84 người được coi là kỷ lục so với tất cả các thiền sư khác. Nơi sư hoằng pháp là Giang Tây cũng được mệnh danh là trường thi Phật. Ḍng thiền của sư sau này có những vị nổi tiếng là Hoàng Bá Hy Vận, và kế đó là Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-866), vị tổ sáng lập tông Lâm Tế vẫn c̣n được truyền tiếp cho tới ngày nay. Thiền tông Trung Hoa là do công lao sáng lập của tổ Bồ Đề Đạt Ma cho đến Lục tổ Huệ Năng, nhưng kể từ thời hai vị Mă Tổ và Thạch Đầu th́ mới hưng thịnh và có những đường lối, đặc điểm rơ rệt. Trong khi Mă Tổ khai đường ở Giang Tây th́ Thạch Đầu Hy Thiên hoằng pháp ở Hồ Nam. Hai vị đó được coi như hai cột trụ của Thiền Tông lúc bấy giờ. Ḍng thiền của Mă Tổ là tông Lâm Tế, c̣n ḍng thiền của Thạch Đầu là tông Tào Động. “Phật giáo Trung quốc đời Đường (618-907) được coi là cực thịnh, nhiều tông phái phát triển mạnh như Thiền tông, Tịnh Độ tông, Luật tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông ... Nhưng đến cuối đời Đường thỉ các tông khác đều đi tới chỗ suy vi, chỉ có Thiền Tông là vẫn thịnh đạt xán lạn”. (trích: Lịch sử Phật giáo Trung quốc, Thích Thanh Kiểm)
Sau đây xin giới thiệu một cuốn sách nghiên cứu khá đầy đủ về thiền sư Mă Tổ.
Tóm lược sách: “Sun Face Buddha – The Teachings of Ma-tsu and the Hung Chou School of Ch’an. Tác giả: Cheng Chien Bhikshu. Nhà xuất bản: Asian Humanities Press- Berkeley, California, 1992. Tỳ kheo Cheng Chien, vốn người Yugoslavia, tục danh là Mario Poceski, sanh năm 1964, đă thọ giới tỳ kheo tại Sri Lanka năm 1983.
Tựa đề cuốn sách được dịch là: “Mặt trời Phật - Ngữ lục của Mă Tổ và tông phái Thiền Hồng Châu”.
Phần 1: Dẫn nhập
Trước khi viết về cuộc đời và pháp môn của Mă Tổ (709-788) tăng Cheng Chien giới thiệu về sự phát triển Thiền tông tại Trung Hoa trong thời đại của Mă Tổ. Đời Đường thường được coi là thời cực thịnh của văn hóa Trung Hoa nhờ sự tương đối ổn định về chánh trị và kinh tế. Đạo Phật được du nhập trước đó hơn 500 năm đă phát triển rất mạnh. Đến thời đó những kinh, luận quan trọng của Phật giáo đă được dịch ra tiếng Trung Hoa, người dân đă thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Các tông phái đă bắt đầu xuất hiện.
Tông Thiên Thai được coi như xuất hiện trước nhất. Vị sáng lập ra tông này là Trí Khải (Chih-i) (538-597) ở núi Thiên Thai. Ngài là đệ tử của Huệ Tư (515-577) và đă thiết lập một hệ thống đầy đủ bao gồm toàn thể giáo lư đạo Phật, phối hợp lư, sự, quyền, thiệt, đốn, tiệm thành một khối. Một tác phẩm quan trọng của Trí Khải là “Ma Ha Chỉ Quán”. Ảnh hưởng của Trí Khải rất quan trọng trong sự phát triển Phật giáo, nhất là đối với Hoa Nghiêm tông và Thiền Tông.
Một tông phái khác được xuất hiện sau Thiên Thai tông là Hoa Nghiêm tông, y cứ vào kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra). Sơ tổ ở Trung Hoa là Đỗ Thuận (557-640), nhưng 2 nhân vật chủ yếu là tổ thứ 2 Trí Nghiêm (Chih-yen) (602-668) và tổ thứ 3 Pháp Tạng (Fa-tsang) (643-712). Sau đó tổ thứ 4 là Trừng Quán (Ch’eng-kuan) (738-839) cũng đă có công lớn trong việc truyền bá Hoa Nghiêm tông, dệ tử của ngài là Tông Mật (Tsung-mi) (780-841) rất nổi tiếng và là người đă bắc cầu giữa hai tông Thiền và Hoa Nghiêm. Ảnh hưởng của Hoa Nghiêm tông và Thiền tông được thấy rơ trong pháp môn của Mă Tổ.
Sự h́nh thành của Thiền tông tại Trung Hoa.
Vị tổ thứ nhất của Thiền tông tại Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma (?-532, có nơi ghi là 470-543). Tổ vốn là vị tổ thứ 28 Thiền tông đă từ Ấn Độ qua miền Nam Trung Hoa vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5. Cuộc đời của tổ không được ghi rơ lắm, tổ có để lại tác phẩm “Thiếu Thất Lục Môn”, ghi sáu cửa vào động Thiếu thất, tức sáu pháp môn để vào cửa Thiền. Tổ thứ hai là Huệ Khả (487-593), người Trung Hoa. Năm 40 tuổi Huệ Khả thọ pháp của tổ Bồ Đề Dạt Ma và theo tu học 6 năm, được tổ trao cho cuốn kinh Lăng Già (Lankavatara Sutra) coi như căn bản Phật pháp. Tổ thứ 3 là Tăng Xán, viết tác phẩm Tín Tâm Minh. (Tổ gặp một vị sư người Ấn Độ tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Trung Hoa cầu pháp. Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi được truyền tâm ấn và được tổ khuyên qua phương Nam để tiếp độ chúng sinh, và sau này được coi là sơ tổ Thiền tông Việt Nam- trích Tín Tâm Minh nghĩa giải, của Thuần Tâm - Nhựt Quang)
Tổ thứ 4 là Đạo Tín (580-651). Từ thời Đạo Tín th́ lịch sử Thiền tông đă bắt đầu được ghi chép rơ ràng. Đệ tử của tổ lên đến 500 người. Đạo pháp của tổ được đệ tử ghi thành cuốn (Record of the Transmission of the Lankavatara).
Tổ thứ 5 là Hoàng Nhẫn (601-674). Sư họ Châu, ở tại huyện Huỳnh Mai. Năm lên 7 được tổ Đạo Tín thu nhận và ở với tổ 30 năm. Khi tổ Đạo Tín tịch năm 651 th́ Hoàng Nhẫn dời về Huỳnh Mai. Sau này hai pháp môn của Đạo Tín và Hoàng Nhẫn được gọi là Pháp môn Đông Sơn, là tên núi tổ ở. Pháp môn của Hoàng Nhẫn được ghi trong Tối thượng thừa luận ? (Discourse on the Essentials of Mind Cultivation). Nhiều đệ tử của Hoàng Nhẫn đă chứng ngộ có nhiều người nhưng nổi tiếng là Thần Tú (Shen-hsui) và Huệ Năng (Hui-neng).
Thần Tú (606?-706) truyền bá Thiền tông về hướng Bắc, tại kinh Tràng An và Lạc Dương theo phương pháp tiệm tu, c̣n Huệ Năng về phương Nam, tại tỉnh Hồ Nam và Giang Tây theo phương pháp đốn ngộ. Thần Tú xuất gia năm 20 tuổi theo học kinh, luận, đến năm 45 tuổi mới đến Huỳnh Mai thọ pháp Hoàng Nhẫn, và ở đó 6 năm, sau khi được truyền tâm ấn, sư đến trụ tŕ ở chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu khoảng năm 676-679, đệ tử theo học rất đông (có tài liệu ghi hơn 3000 người) và nổi tiếng, nên đến năm 701 sư được triều đ́nh mời về Tràng An hoằng pháp. (Khi sư tịch được phong là Đại Thông thiền sư).
Huệ Năng (638-713) họ Lư sanh ở Tân Châu, cha mất sớm, làm nghề bán củi để giúp đỡ mẹ già. Đến năm 25 tuổi th́ đến chùa Đông sơn tại huyện Huỳnh Mai thụ giáo Hoàng Nhẫn. Sau khi được tổ Hoàng Nhẫn truyền tâm ấn, trao y bát chứng nhận sư là người kế nghiệp và như vậy là vị tổ Thiền tông Trung Hoa thứ 6. Sư đi ẩn dật ở miền Nam trong 16 năm. Khi biết thời cơ đă tới, sư đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu. Nơi đây sư mới chánh thức thọ giới tỳ kheo từ luật sư Trí Quang. Đến năm 676 tổ dời về chùa Bửu Lâm ở Tào Khê và hoằng pháp tại đó khoảng 40 năm cho đến khi tịch. Pháp môn và cuộc đời của tổ được ghi lại trong cuốn Pháp Bảo Đàn kinh. Tổ truyền pháp Vô Niệm, và Định Huệ đồng tu. Tổ nhấn mạnh cần thấy tự tánh, tức kiến tánh, bằng pháp tu vô tướng, vô trụ và vô niệm. Công lao truyền dựng pháp môn của Lục tổ Huệ Năng phần lớn là do Thần Hội Hà Trạch (Shen-Hui, 670-762 hoặc 684-758). Những đệ tử nổi tiếng của Huệ Năng gồm có: Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744), Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713) trước tác tập Chứng Đạo Ca, Thanh Nguyền Hành Tư (660-740), Nam Dương Huệ Trung sau này là Quốc sư (?-775).
Ngoài tông chánh thống kể trên c̣n có vài tông phái Thiền khác nhưng không phát triển được bao lâu và đă suy tàn. Đó là thiền phái Ngưu Đầu do Pháp Dung (594-657) sáng lập. Pháp Dung được coi như là đệ tử của Tứ tổ Đạo Tín, trụ tŕ tại núi Ngưu Đầu (có tài liệu khác ghi Pháp Dung là đệ tử của tổ Hoàng Nhẫn). Ngoài ra có tông Tứ Xuyên mà đại diện là sư (Wu-hsiang) và sư (Wu-chu).
Cuộc đời và pháp môn Mă Tổ
Sư họ Mă, sanh năm 709 tại Hán Châu gần biên giới Tây Tạng. Từ hồi c̣n nhỏ sư đă xuất gia với ḥa thượng Đường (Ch’u-chi) (665-732), ḥa thượng Đường vốn là đệ tử của (Chih-shen) (609-702) nguyên là một đệ tử của Ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Trong một tài liệu Tông Mật (Tsung-mi) có ghi là Mă Tổ theo học ḥa thượng Kim có pháp danh là (Wu-hsiang), người Đại Hàn (684-762) mà cũng là đệ tử của ḥa thượng Đường. Hai ḥa thượng Đường và Kim đều là những vị Thiền sư nổi tiếng thời đó. Ḥa thượng Kim dạy pháp 3 câu là: không nhớ (no-remembering), không nghĩ (no-thought), không quên (no-forgetting) liên quan tới giới, định, huệ của các kinh Phật. Mục đích của “ba không” là không nhớ những quá khứ, không lo nghĩ về tương lai để chuyên chú tu tập. Do đó nên tác giả Cheng Chien cho rằng có lẽ Mă Tổ chịu nhiều ảnh hưởng của phái thiền Tứ Xuyên của hoà thượng Kim hơn là của thiền sư Hoài Nhượng sau này.
Năm 738 Mă Tổ thọ giới tỳ kheo với luật sư Viên ở Du Châu và sau đó đă dời Tứ Xuyên đến vùng Trung của Trung Hoa. Khoảng năm 738 đến 742 sư tới Hoành Nhạc ? (Heng-yueh) và chuyên tu thiền định theo thiền Bắc phái, v́ sư thường hay nhắc tới kinh Lăng Già vốn được áp dụng tại Bắc phái, thay v́ theo kinh Kim Cang thường được nhắc tới tại Nam phái. Vấn đề đó không được ghi rơ ràng lắm.
Khi ở Hoành Nhạc th́ Mă tổ có gặp và theo học thiền sư Hoài Nhượng trong 10 năm. Sau khi rời Hoài Nhượng khoảng năm 750 th́ sư du phương để tiếp tục tu tập và giáo hóa. Đó là thời mà Trung Hoa có nhiều xáo trộn trong xă hội v́ có loạn An Lộc Sơn và nhà Đường bắt đầu suy đồi. Vào khoảng năm 776-779 Mă Tổ đến Kiến Dương, kế dời đến núi Cung Đông Nam Dương cho đến khi sư tịch năm 788. Tại đó học giả các nơi tụ hội về rất đông. Số đệ tử ngộ đạo lên đến 139 người - có tài liệu ghi 84 người - hơn tất cả những thiền sư khác.
Ḍng thiền của Mă Tổ sau này được gọi là phái Hồng Châu, là nơi mà Mă Tổ và các đệ tử truyền bá. Pháp môn này được các đệ tử truyền bá khắp Trung Hoa trong thế kỷ thứ 9. Mă Tổ cùng với Thạch Đầu Hy Thiên thời đó là hai vị đă đem lại cho Thiền tông Trung Hoa sự phát triển lớn mạnh đời Đường.
Mối liên quan giữa Mă Tổ và Thạch Đầu rất là đặc biệt. Không có tài liệu nào ghi việc gặp mặt của hai vị đó nhưng họ rất quư trọng nhau. Nhiều tăng đă theo học cả hai vị. Nhiều khi vị này lại giới thiệu đệ tử của ḿnh qua tham vấn vị kia. Có thể nói là Thiền tông đă bước qua giai đoạn mới trong giai đoạn này, có tính cách cởi mở và trực tiếp. Những phương pháp giảng dạy như quát, đánh, những câu hỏi như bí hiểm là do ảnh hưởng của Mă Tổ. Có thể nói rằng kể từ thế kỷ thứ chín cho đến nay các vị đại thiền sư đều là đệ tử tinh thần của Mă Tổ và Thạch Đầu.
Căn bản của pháp môn Mă Tổ là thuyết Như Lai Tạng (tathagatagarbha). Thuyết này đă được nêu lên trong nhiều kinh điển, đặc biệt là kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai Xuất Hiện. Thuyết Như Lai Tạng cũng có được nói đến trong kinh Lăng Già.
Theo thuyết Như Lai Tạng th́ tất cả các chúng sinh đều có Chân Tâm (True Mind) mà vốn xưa nay sáng suốt, thanh tịnh nhưng thường bị vọng tưởng che lấp. Tuy cái Chân Tâm hoặc Phật tánh (Buddha nature) đó ngoài sự nghĩ lường và không có dấu vết ǵ, nhưng tùy duyên có thể biểu hiện thành mọi thứ. Cái đặc tính năng động đó của Chân Tâm rất là quan trọng đối với Mă Tổ v́ sư cho rằng việc chứng ngộ là do nhận được những biểu hiện đó. Đạo không phải là những nguyên tắc siêu h́nh trừu tượng, mà những lời nói, ư nghĩ và hành động của ḿnh đều là sự biểu hiện của Chân Tâm. Sự thật thựng có mặt trong tất cả mọi thứ - là tất cả mọi thứ - mọi thứ đây có nghĩa là mọi pháp, chỉ v́ chúng ta ch́m đắm trong si mê nên không nhận ra điều đó.
Chúng sanh không biết trở về nguồn nên chỉ biết chạy theo danh và tướng, do đó vọng tưởng khởi lên và tạo ra muôn nghiệp. V́ vậy mê là mê cái bản tâm, và ngộ chỉ là ngộ cái bản tâm.
V́ Chân Tâm th́ ai cũng có cho nên nói không phải tu mà được, cũng có nghĩa là không có thứ lớp. Tuy vậy v́ chúng sanh quá si mê nên phải nói có nhiều pháp tu. Vọng tưởng nói đây là tâm phân biệt tốt và xấu, đúng và sai, phàm và thánh; vọng tưởng là những ư nghĩ hai bên, tạo ra những kiến chấp và coi đó là thật. V́ vậy thay v́ lo diệt vọng th́ chỉ cần thấy bản chất của chúng là không. Tu là buông xả những thói quen tạo mọi thành kiến và để cho cái bản thể tự biểu hiện.
Câu mà Mă Tổ thường chỉ rơ pháp tu đó là : “Tâm b́nh thường là Đạo”. Tâm b́nh thường là tâm không chấp những điều như là tốt và xấu, đúng và sai, thường và vô thường, phàm và thánh; đó là cái tâm không chấp, cũng không xả. Câu chuyện sau đây giữa Nam Tuyền (747-834) và Triệu Châu (778-897) chỉ rơ về nghĩa “Tâm b́nh thường”:
Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?”
Nam Tuyền đáp: “Tâm b́nh thường là đạo”
- Lại có thể nhằm tiến đến chăng?
- Nghĩ nhằm tiến đến là trái.
- Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?
- Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô kư. Nếu thật đạt đạo th́ chẳng nghi, ví như hư không, thênh thang rỗng rang, đâu thể gắng nói phải quấy?
(trích từ Trung Hoa chư thiền đức hành trạng, của H.T. Thích Thanh Từ)
Pháp môn của Mă Tổ được coi thuộc truyền thống “đốn ngộ”, tức là khác với “tiệm ngộ”. Nhưng trong khi công việc tu tập hàng ngày th́ vẫn phải có sự giảng giải, chỉ dẫn nên không sao tránh khỏi việc dẫn dắt đệ tử từng bước. Các tài liệu không ghi rơ sự hướng dẫn tu tập ra sao nhưng theo các ngữ lục của các đệ tử thời sau này th́ vẫn có sự thờ phụng, tụng kinh, học hỏi, giới luật và ngồi thiền. Chỉ sau khi các đệ tử đă có tŕnh độ căn bản th́ mới áp dụng pháp chỉ thẳng của Thiền tông. Trong ngữ lục của Mă Tổ cũng có nói tới các kinh điển như Lăng Già, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa … Các thiền sư chỉ nhấn mạnh đến việc đừng quá chấp chặt vào kinh điển rồi có những quan điểm sai lạc mà rất thịnh hành ở nhà Đường thời đó.
Pháp môn Thiền tông đều được căn cứ từ các kinh điển. Thí dụ như lời giảng “tức tâm tức Phật” cũng được thấy trong đoạn sau đây ở kinh Hoa Nghiêm:
“Cũng vậy, trí huệ của Như Lai vô lượng, vô ngại có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ trong thân chúng sanh. Chỉ v́ hàng phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết, chẳng hay, chẳng được lợi ích.
Bấy giờ đức Như Lai do trí nhăn thanh tịnh, vô ngại xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng: Lạ thay, lạ thay! Tại sao các chúng sanh này có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê lầm chẳng hay, chẳng thấy. Ta nên đem thánh đạo này dạy cho họ ĺa hẳn vọng tưởng chấp trước. Từ trong thân, họ thấy được trí huệ Như Lai quảng đại, như Phật không khác.”
(Phẩm Như Lai xuất hiện, Kinh Hoa Nghiêm, tập 3, trang 408)
và trong đoạn khác:
“Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Phải biết Phật cùng tâm
Thể tánh đều vô tận”
(Phẩm Dạ Ma Cung, tập 1, trang 661)
Câu “Phi tâm, phi Phật” cũng thấy trong kinh:
“Chúng sanh vọng phân biệt,
Là Phật, là thế giới,
Người liễu đạt pháp tánh
Không Phật, không thế giới”
(Phẩm Đâu Suất kệ tán, tập 2, trang 74)
và về câu “chẳng mắc danh tự”:
“ V́ Bồ Tát này nghĩ rằng: Tôi phải quán sát tất cả các pháp như huyễn, chư Phật như bóng, Bồ Tát hạnh như giấc mơ, Phật thuyết pháp như vang. Tất cả thế giới như hóa …”
(Phẩm Thập hạnh, tập 1, trang 686)
(Những đoạn trích này đều từ bản dịch kinh Hoa Nghiêm của ḥa thượng Thích Trí Tịnh)
Như vậy những lời giảng dạy của Thiền tông không có sai khác với kinh điển nhưng chỉ khác biệt về cách tŕnh bày và áp dụng trong việc tu tập cũng như đời sống hàng ngày. Các thiền sư giảng dạy một cách tự do, không câu nệ mà mục đích là giúp cho đệ tử vượt khỏi vọng tưởng và đạt tới giải thoát. V́ vậy những lời nói rất là sống động, mạnh mẽ, đi thẳng vào tâm can đệ tử. Các ngài không dùng những lư thuyết trừu tượng hoặc mỹ từ, như vậy các đệ tử có thể tập trung tâm trí trực tiếp vào việc thấm nhuần trí huệ vô biên của đức Phật.
Truyền thống thiền viện
Theo truyền thống của đức Phật, những bài pháp thường là phương tiện tùy theo trường hợp để dẫn dắt đệ tử qua những chướng ngại để vượt qua những đám mây vô minh tới ánh mặt trời trí huệ. V́ vậy không cần một hệ thống cố định trong việc giáo hóa mà chỉ chú trọng việc thực hành và kinh nghiệm. Truyền thống này cũng được áp dụng trong việc truyền bá Thiền tông. Không như các tông phái khác thường dùng một học thuyết cố định để giáo hóa, các thiền sư từ thời Mă Tổ trở đi đều tùy căn cơ đệ tử mà dùng những phương pháp khác nhau để giảng dạy. Như thiền sư Lâm Tế có nói: “Sơn tăng chẳng có một pháp cho người, chỉ là trị bệnh mở trói”. Pháp môn Thiền tông chỉ có thể hiểu được trong sự liên hệ giữa thầy và đệ tử, và chính cái đặc tính linh động đó đă làm cho Thiền tông có sức mạnh. Cho nên muốn hiểu Thiền tông th́ cần biết rơ bối cảnh xă hội, văn hóa, nhất là cơ chế hoạt động của Thiền tông lúc đó. Điều mà các học giả phương Tây thường mắc phải là hay suy nghĩ theo hoàn cảnh hiện tại mà t́m hiểu các pháp môn Thiền cho nên có nhiều hiểu biết sai lạc.
Việc tổ chức thiền viện ở thế kỷ thứ tám và chín th́ không có nhiều tài liệu ghi chép. Chỉ sau khi thiền sư Bá Trượng Hoài Hải (724-814) soạn ra bộ quy tắc trong nhà thiền, gọi là “Bá Trượng thanh quy” th́ việc tổ chức các thiền viện được ấn định rơ ràng và được áp dụng mọi nơi. Có thể nói rằng từ lúc đó Thiền tông đă có một tổ chức khác với các tông phái khác trong Phật giáo. Một điểm đặc biệt là theo giới luật của Tiểu thừa và Đại thừa th́ các tăng không được phép trồng trọt, nhưng Bá Trượng lại bắt buộc các tăng phải trồng trọt để thiền viện được tự túc về lương thực. Phần v́ lúc đó số tăng rất đông cho nên không thể chỉ trông chờ bá tánh cung cấp được. Việc tổ chức chư tăng rất chu đáo, chỉ rơ từng chi tiết trong việc ăn, ở, tu tập, công tác cùng những kỷ luật rất nghiêm nghị. Các tăng có quyền đi đến bất cứ thiền viện nào để tham vấn, học hỏi. Có biết rơ về bối cảnh sinh hoạt đó th́ mới hiểu được cách giảng dạy đặc thù của các thiền sư.
Tông Mật luận về phái Thiền Hồng Châu
Tông Mật Khuê Phong (780-841), người Quảng Châu tỉnh Tứ Xuyên. Năm 25 tuổi Tông Mật theo học thiền sư Đạo Viên thuộc Thiền tông. Sau đó sư rời đi miền Trung năm 812 và là đệ tử sư Trừng Quán, vị tổ thứ 4 tông Hoa Nghiêm. Sư viết rất nhiều tác phẩm về kinh và luận. Sư là tổ thứ 5 tông Hoa Nghiêm và cũng là thiền sư của Thiền tông cho nên những bài viết của sư bao gồm cả hai tông. Tài liệu về Thiền tông thuộc thế kỷ thứ 8 thường căn cứ theo sách của Tôn Mật. Tác phẩm chính thường được nhắc tới là: “Thiền Nguyên Chư Thuyên Đô Tập”
Tông Mật viết: “Pháp môn của Mă Tổ- cũng được gọi là phái Hồng Châu là nơi Mă Tổ, Bá Truợng đặt thiền viện- dạy rằng tất cả các pháp đều là đạo, là biểu hiện của Phật tánh, như vậy việc tu tập là để cho tâm được biểu hiện một cách tự nhiên.
Tự tánh của muôn pháp th́ không h́nh tướng, không động, không thể diễn tả bằng cách nào được, không phàm không thánh, không nhân không quả, không thiện không ác. Nhưng khi nó biểu hiện th́ có nhiều thứ, là phàm là thánh, có h́nh có tướng … Cái mà đă tạo ra nói năng, động tác, tham, sân, từ bi, nhẫn nhục, thiện, ác, khổ, vui … chính là Phật tánh của chúng sanh. Đó là bản Phật, và ngoài cái đó ra không có Phật nào khác. Cho nên không thể khởi tâm để tu Đạo được. Đạo là tâm, không thể đem tâm để tu tâm. Không đoạn, không tu, chỉ cần tự tại, đó là giải thoát. Tánh như hư không, không tăng không giảm. Đâu cần phải làm cho nó đầy đủ. Chỉ tùy thời, tùy nơi ngưng tạo nghiệp. Đây tức là chân ngộ, chân tu, chân chứng.”
Nhưng nếu chỉ quá chú trọng về khía cạnh năng động của Phật tánh th́ có thể sẽ bỏ sót phần bản thể. Khi Chân tâm biểu hiện ra do duyên cảnh th́ nó vẫn có cái chức năng cố hữu của nó, đó là điều mà có thể phái Hồng Châu sơ sót chăng.
Tông Mật viết: “Bản chất của Chân Tâm có hai chức năng: đó là chức năng cố hữu của bản thể và chức năng tùy duyên mà biểu hiện. Có thể ví như tấm gương. Thể chất của cái gương coi như bản chất của tự tánh, cái tính sáng chiếu của gương là chức năng của cái gương. Những h́nh ảnh phản chiếu trong gương là chức năng tùy duyên biểu hiện. H́nh ảnh hiện ra trong gương th́ có nhiều nhưng tính sáng chiếu th́ không thay đổi. Cái hằng biết của tâm là cái chức năng của tự tánh, c̣n cái khả năng nói năng , phân biệt, hành động … là tùy duyên mà có. Như vậy, khi phái Hồng Châu chỉ nhấn mạnh về khả năng biết nói năng v..v.. th́ đă bỏ sót cái chức năng cố hữu của tự tánh.”
V́ phái Hồng Châu cho rằng “cái bản chất của tâm không thể chỉ tới được, mà chỉ khi cái khả năng nói năng… biểu hiện th́ mới thấy được Phật tánh”. Tông Mật cho rằng đó là sự thiếu sót. Dù rằng thể và dụng đều là những khía cạnh của một thực tại, nhưng cùng lúc chúng khác nhau về phương diện quy ước. Tông Mật viết: “Bây giờ phái Hồng Châu nói rằng sân và si, giới và định đều là Phật tánh. V́ họ chú trọng về chức năng nên không phân biệt vô minh và giác ngộ. Ví như khi gió ngưng, sau khi ngộ rồi th́ những vọng tưởng tự ngừng giống như sóng tự lặng. Thân và tâm sẽ thể hiện định và huệ, như vậy hành giả sẽ lần lần được giải thoát … Phái Hồng Châu thường cho rằng tham, sân, từ bi và phước báo cũng đều là Phật tánh, như vậy đâu có ǵ sai khác? Như vậy cũng như cho rằng tánh ướt của nước không có thay đổi, nhưng họ không thấy rằng có sự khác biệt lớn giữa con tầu đang đi trên mặt nước và con tầu đang ch́m xuống đáy. Như vậy phái này đă gần kề đốn ngộ nhưng không đạt tới được, về việc tiệm tu cũng bị hiểu lầm.”
Tác giả cho rằng có thể nói là đứng về phương diện cứu cánh th́ muôn pháp đều là sự thể hiện của Chân Tâm và vô minh và giác ngộ đều cùng từ một gốc mà ra, nhưng đứng về phương diện quy ước th́ thật có sự khác biệt lớn lao giữa vô minh và giác ngộ, chánh và tà, và luật nhân quả vẫn rành rành. Chỉ đứng về một phương diện và nhận xét về muôn pháp th́ chỉ có cái nh́n lệch lạc, không thấy được sự ḥa hợp của toàn thể. Điều đó là sự chướng ngại cho sự tu hành khi biết rằng không có có ǵ phải tu, nhưng thực tế cần phải có sự tu hành. Chính sự chướng ngại đó đă là động lực để sau này Thiền tông phải vận dụng để giải quyết theo thực tế. Tông Mật cho rằng điểm thiếu sót của phái Hồng Châu là quá chú trọng về phương diện cứu cánh mà không chú ư tới điều thực tế quy ước.
Nhưng tác giả cũng không biết chắc là những chỉ trích của Tông Mật là nhắm vào Mă Tổ hay là vào những đệ tử sau này đă hiểu lầm ư của Mă Tổ. Thực ra trong nhiều đoạn ghi lại pháp môn của những thiền sư phái Hồng Châu cũng có nhiều sai lạc, nhưng cũng có nhiều đoạn ghi nhiều thiền sư phái đó có giải thích rơ ràng giống như những chỉ trích của Tông Mật. Như vậy chúng ta chỉ có thể đoán rằng nhiều đệ tử ghi lại những lời của các thiền sư không đúng hẳn và họ đă áp dụng một cách sai lạc. Nhiều thiền sư cuối đời Đường đă than phiền là nhiều thầy đă đi lầm đường. (Ghi chú: xin coi Lâm Tế ngữ lục để thấy rơ tổ mắng nhiếc không tiếc lời về những sai lầm của những “lăo trọc” ) Dầu sao những chỉ trích của Tông Mật cũng giúp ích cho chúng ta lưu ư và hiểu rơ hơn về các pháp môn của các thiền sư. Tác giả kết luận trong phần dẫn nhập là: dầu các câu như “không ǵ không phải là Đạo”, “không có vọng tưởng để trừ” rất hấp dẫn về lư, và đúng với tông môn cứu cánh của tổ Bồ Đề Đạt Ma nhưng cũng cần phải thấy rơ những thọ cảm bất thường, những suy tư mông lung cần phải giải quyết.
Phần 2: Ngữ lục của Mă Tổ
Phần này trong cuốn sách rất dài, ghi những câu chuyện theo những tài liệu được truyền lại khi Mă Tổ giảng dạy các đệ tử. Nhiều cuốn sách của các tác giả khác cũng đă dịch như vậy, nên chỉ xin trích sau đây một vài bài thôi.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Các ngươi mỗi người tin tâm ḿnh là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Đạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp." (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, v́ không có tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lư, trọn không có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra th́ gọi là sắc, v́ biết sắc không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rơ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc t́nh tháng ngày trôi qua, đâu c̣n có việc ǵ.
Các ngươi nhận ta dạy hăy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lư câu vô ngại
Đương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Đất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lư đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Đạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm b́nh thường là đạo. Sao gọi là tâm b́nh thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Đạo tức là pháp giới, cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói "pháp môn tâm địa", tại sao nói "vô tận đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng, nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại th́ dựng lập pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như, lập lư tất cả pháp trọn là lư, lập sự tất cả pháp trọn là sự, nắm giở một th́ ngàn theo, sự lư không khác, toàn là diệu dụng. Lại không có lư riêng, đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng th́ có, mà bao nhiêu mặt trăng thật th́ không, bao nhiêu nguồn nước th́ có, mà bao nhiêu tánh nước th́ không, bao nhiêu sum la vạn tượng th́ có, mà bao nhiêu hư không th́ không, bao nhiêu lời nói đạo lư th́ có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại th́ không; bao nhiêu các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà ḿnh, chẳng phải ĺa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể của nhà ḿnh. Nếu chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư ngh́, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ khéo hợp ḷng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng sanh, vượt ra ṿng trói buộc của có và không v.v... t́nh chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không ǵ hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lư đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt. Đại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm, hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tṛn, hợp vật hiện h́nh như trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương, nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt. Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi là b́nh đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng th́ chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lư là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm ḿnh, ngộ là ngộ bản tánh ḿnh. Một phen ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung cùng cái tối phiền năo. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đă trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp trước. Nếu thấy lư này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo ǵ chẳng thông.
Một đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư hỏi:- Ngay bây giờ nên làm ǵ?
Trí Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ Nguyện phủi áo ra đi.
Sư bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.
Có vị Tăng hỏi:
- Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ư Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Sư đáp:
- Hôm nay ta mệt nhọc không thể v́ ngươi nói, ngươi đến hỏi Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí Tạng bảo:- Sao không hỏi Ḥa thượng?
Tăng đáp:- Ḥa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí Tạng hỏi:
- Hôm nay tôi đau đầu, không thể v́ ông nói, đến hỏi Sư huynh Hải.
Tăng đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Đến chỗ ấy tôi cũng chẳng hội.
Tăng trở lại tŕnh Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc.
Huệ Hải đến tham vấn Mă Tổ.
Mă Tổ hỏi:- Từ đâu đến?
Huệ Hải thưa:- Ở Việt Châu chùa Đại Vân đến.
- Đến đây tính cầu việc ǵ?
- Đến cầu Phật pháp.
- Kho báu nhà ḿnh chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi t́m cái ǵ? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái ǵ?
Huệ Hải lễ bái, thưa:- Cái ǵ là kho báu nhà ḿnh của Huệ Hải?
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ t́m cầu bên ngoài.
Ngay câu này, Huệ Hải tự nhận bản tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ.
Lúc c̣n tại gia, Huệ Tạng chuyên nghề săn bắn, không thích gặp các nhà tu. Một hôm, nhân đuổi bầy nai chạy qua trước am Mă Tổ, gặp Mă Tổ đứng trước.
Huệ Tạng hỏi:- Ḥa thượng thấy bầy nai chạy qua đây chăng?
Mă Tổ hỏi lại:- Chú là người ǵ?
- Thợ săn.
- Chú bắn giỏi không?
- Bắn giỏi.
- Một mũi tên chú bắn được mấy con?
- Một mũi bắn được một con.
- Chú bắn không giỏi.
- Ḥa thượng bắn giỏi không?
- Bắn giỏi.
- Một mũi tên Ḥa thượng bắn được mấy con?
- Một mũi tên bắn được một bầy.
- Sanh mạng chúng nó, đâu nên bắn một bầy.
- Chú đă biết như thế, sao không tự bắn?
- Nếu dạy tôi bắn tức không có chỗ hạ thủ.
- Chú này phiền năo vô minh nhiều kiếp, ngày nay chóng dứt.
Ngay khi đó, Huệ Tạng ném cung bẻ tên, tự lấy dao cạo tóc, theo Mă Tổ xuất gia.
Một hôm, Huệ Tạng làm việc ở nhà trù, Mă Tổ xuống hỏi:
- Làm việc ǵ?
Huệ Tạng thưa:- Chăn trâu.
- Làm sao chăn?
- Một khi vào cỏ, bèn nắm mũi kéo lại.
- Con thật là chăn trâu.
Có vị Tăng hỏi:- Ḥa thượng v́ cái ǵ nói tức tâm tức Phật?
Mă Tổ đáp:- V́ vỗ con nít khóc.
- Con nít nín rồi th́ thế nào?
- Phi tâm phi Phật.
- Người trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói với y là "phi vật".
- Khi chợt gặp người thế ấy đến th́ phải làm sao?
- Hăy dạy y thể hội đại đạo
(Những đoạn dịch trong phần 2 trích từ “Trung Hoa chư thiền đức hành trạng” của HT Thích Thanh Từ)
Phần 3: Các đệ tử của Mă Tổ
Phần này ghi ngữ lục của một số đệ tử của Mă Tổ. Những ngữ lục này bằng tiếng Việt có thể được tham khảo trong các cuốn “Trung Hoa chư thiền đức hành trạng” của HT Thích Thanh Từ.
- Hsi-t’ang Chih-tsang – Tây Đường Trí Tạng (734-814)
- Pai-chang Huai-hai - Bá Trượng Hoài Hải
- Nan-ch’uan P’u-yuan - Nam Tuyền Phổ Nguyện (747-834)
- Ta-chu Hui-hai - Đại Châu Huệ Hải
- Shi-kung Hui-tsang - Thạch Củng Huệ Tạng
- Ma-ku Pao-ch’e – Ma Cốc Bảo Triệt
- Ta-mei Fa-ch’ang - Đại Mai Pháp Thường
- Fen-chou Wu-yeh - Phần Châu Vô Nghiệp (761-823)
- Wu-tai Yin-feng - Đặng Ẩn Phong ?
- Hung-chou Shui-lao - Hằng Châu Thiên Long
- Layman P’ang-yun – cư sĩ Bàng Uẩn (?-808)
- Kuei-tsung Chih-ch’ang – Quy Tông Trí Thường
Ghi chú:
1.-Cuốn sách Sun Face Buddha không giới thiệu nhiều về tác giả nên không rơ tác giả tu hành theo pháp môn nào. Chỉ biết là tác giả đă thọ giới tỳ kheo tại Sri Lanka năm 1983. Theo cuốn sách này và cuốn thứ hai là “Manifestation of the Tathagata” (Phẩm Như Lai xuất hiện) trích trong kinh Hoa Nghiêm th́ tác giả chuyên về tông Hoa Nghiêm.
2. Tác giả tŕnh bày nhiều về Tông Mật Khuê Phong, vị tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm, đặc biệt là tác phẩm “Thiền Nguyên Chư Thuyên Đô Tập”. Tông Mật theo học các thiền sư Đạo Viên, Kinh Nam Trương, Thần Chiếu, khoảng 7 năm, sau đó là đệ tử của Trừng Quán, vị tổ thứ tư tông Hoa Nghiêm. Tông Mật thông thạo “ba tạng giáo điển, phối hợp cả giáo lư gồm Kinh, Luật, Luận và Thiền” (trích “Nguồn Thiền giảng giải” của HT Thích Thanh Từ). Tác giả Cheng Chien đă trích dẫn trong cuốn sách trên những điểm Tông Mật chỉ trích Thiền Tông. Tông Mật chỉ rơ đường lối tu Thiền theo ư kiến của sư: Thiền Giáo song tu, Biết vọng là tu, Vọng niệm hết sạch là tu thành công … (trích: Nguồn Thiền giảng giải- HT Thích Thanh Từ)
3. Tông Mật cùng thời với tổ Lâm Tế, đầu thế kỷ thứ chín. Pháp môn thiền của Tông Mật không theo đường lối tu hành của tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lục tổ Huệ Năng, cho đến Lâm Tế. Vấn đề không phải là so sánh pháp môn nào hay hoặc dở, v́ tùy căn cơ mỗi người, nhưng là để phân biệt cho rơ ràng. Pháp môn Thiền của một vị tổ Hoa Nghiêm tông đề ra không giống pháp môn của các vị tổ Thiền tông th́ cũng là điều tự nhiên nhưng cũng nên lưu ư.
4. Tên cuốn sách của Cheng Chien "Mặt trời Phật" có thể là dựa theo tên của "tắc 3: Mă Tổ Mặt trời Phật, Mặt trăng Phật" cuốn Bích Nham Lục:
LỜI DẪN: Một cơ một cảnh một lời một câu vẫn mong có chỗ vào. Trên da thịt lành khoét thành thương tích thành ổ thành hang, đại dụng hiện tiền chẳng c̣n phép tắc, lại mong biết có việc hướng thượng. Che trời che đất, lại ḍ t́m chẳng được. Thế ấy cũng được, chẳng thế ấy cũng được, thật bé nhỏ thay. Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, rất cao vót thay. Chẳng kẹt hai bên làm sao mới phải, xin cử xem ?
CÔNG ÁN: Mă Tổ bệnh, Viện chủ đến thăm, hỏi: Gần đây thân thể Ḥa thượng thế nào? Mă Tổ đáp: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.
GIẢI THÍCH: Mă Tổ bệnh, Viện chủ đến thăm, hỏi: Gần đây thân thể Ḥa thượng thế nào ? Mă Tổ đáp: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật. Bậc Tổ sư nếu chẳng lấy việc bổn phận thấy nhau th́ làm sao đạo này được chói lọi. Công án này nếu biết chỗ rơi là riêng bước trong không, nếu chẳng biết chỗ rơi th́ thường thấy cây khô trước núi vẫn c̣n lầm đường. Nếu là bổn phận Tông sư, đến trong đây phải có thủ đoạn, cướp trâu của người cày, đoạt cơm của người đói, mới thấy chỗ v́ người của Mă Tổ. Hiện nay có nhiều người nói Mă Tổ tiếp Viện chủ, nực cười không dính dáng. Nay ở trong chúng phần nhiều hiểu lầm, trừng mắt nói: Mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng. Thật có dính dáng chút nào, đến năm lừa cũng chưa mộng thấy, chỉ làm sai lầm việc cổ nhân. Đến như Mă Tổ nói thế ấy, ư tại chỗ nào ? Có người nói: “Rót cho một chén thuốc đau bụng”. Có lỗ mũi ǵ ? Đến trong đây làm sao được b́nh ổn ? Sở dĩ nói con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, học giả nhọc h́nh như khỉ bắt bóng. Chỉ câu “mặt trời Phật, mặt trăng Phật”, rất là khó thấy. Tuyết Đậu đến đây cũng khó tụng, song v́ thấy thấu, nên Sư dùng hết công phu trong lúc b́nh sanh chỉ chú ra. Các ông cần thấy Tuyết Đậu chăng ? Xem lấy văn sau:
TỤNG: Nhật diện Phật, nguyệt diện Phật
Ngũ Đế, Tam Hoàng thị hà vật ?(Ngũ đế: Thái Hiệu, Hoàng Đế, Thần Nông, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc; hoặc là Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.Tam hoàng: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng.)
Nhị thập niên lai tằng khổ thân
Vị quân kỷ hạ thương long quật
Khuất, kham thuật
Minh nhăn nạp Tăng mạc khinh hốt.
DỊCH: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật
Ngũ đế, Tam hoàng là vật ǵ ?
Hai mươi năm lại từng cay đắng
V́ anh bao phen xuống hang rồng
Cúi, cam nói
Thiền tăng mắt sáng chớ xem thường.
GIẢI TỤNG: Thời vua Tống Thần Tông ở ngôi, tự bảo bài tụng này là nói mát quốc gia, nên không cho đem vào tạng kinh. Tuyết Đậu trước niêm rằng: “mặt trời Phật, mặt trăng Phật”, lại nói:
“Ngũ đế, Tam hoàng là vật ǵ ?” Hăy nói ư Tuyết Đậu thế nào ? Chính đă nói rồi vậy. Liền đó chú ra lư do, thả câu bốn biển chỉ câu rồng to, một câu này đă rơ. Phần sau Tuyết Đậu tự tụng ra lư do b́nh sanh dụng tâm tham tầm, “hai mươi năm lại từng cay đắng, v́ anh bao phen xuống hang rồng”. Giống cái ǵ ? Giống như người vào hang rồng lấy hạt châu. Sau lại đập phá thùng sơn, sẽ bảo có bao nhiêu kỳ đặc ? Trước sau chỉ tiêu được câu “Ngũ đế, Tam hoàng là vật ǵ”. Hăy nói lời Tuyết Đậu rơi tại chỗ nào ? Phải tự lui lại xem, mới thấy chỗ Sư rơi. Há chẳng thấy thị giả Hưng Dương Phẩu đáp Viễn Lục Công hỏi: Rồng Ta Kiệt ra khỏi biển càn khôn động, thấy mặt tŕnh nhau việc thế nào ? Hưng Dương Phẩu đáp: Chim chúa cánh vàng ḱnh vũ trụ, trong đây ai là người xuất đầu ? Viễn Công hỏi: Bỗng gặp xuất đầu lại làm sao ? Phẩu đáp: Giống như chim cáp bắt chim cưu, anh không tin, trước đầu lâu nghiệm mới biết thật. Viễn Công nói: Thế ấy th́ cúi ḿnh bày ngực, thoái thân ba bước. Phẩu đáp: Rùa đen dưới ṭa Tu-di núp, chớ đợi gơ đầu mới thoái lui. Đây là lư do “Ngũ đế, Tam hoàng là vật ǵ”. Người ta phần nhiều không thấy ư Tuyết Đậu, chỉ biết nói mát quốc gia. Nếu hiểu thế ấy chỉ là t́nh kiến. Ngài Thiền Nguyệt với tựa đề Công Tử Hành nói:
“Áo gấm hoa tươi tay cầm cáp,
nhàn đi dáng mạo càng thư thả,
gặt lúa gian nan có biết chi,
Ngũ đế, Tam hoàng là vật ǵ ?”
Tuyết Đậu nói: “Cúi, cam nói, Thiền tăng mắt sáng chớ xem thường.” Đa số người nhằm trong hang rồng to t́m kế sống. Dù cho trên đảnh có mắt, trong tay có linh phù, Thiền tăng mắt sáng soi khắp tứ thiên hạ, đến trong ấy cũng chớ xem thường, cần phải chín chắn mới được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 17 of 34: Đă gửi: 02 July 2005 lúc 9:31am | Đă lưu IP
|
|
|
THIỀN SƯ PHÁP LOA
VÀ PHÁP CHỈ THẲNG
TT. Thích Đức Thắng
Thiền sư Pháp Loa dạy: "Mọi người nếu hướng vào Đệ nhất nghĩa mà nói th́ suy nghĩ là sai, mở miệng là lầm. Vậy th́ làm sao sinh Đế, làm sao sinh Quán? Nay thử căn cứ vào đầu Đệ nhị mà nói th́ cũng chẳng được sao?"
Nói về pháp dạy người, thật sự đối với cá Thiền sư, xưa nay các ngài không có bất cứ một pháp nào, khả dĩ làm tiêu chuẩn để trao cho mọi người cả. Bỡi v́ pháp dạy người đó, luôn luôn tùy thuộc vào căn bệnh của người đối thoại mà các ngài cho thuốc. Như Tăng Chí thành hỏi Lục tổ Huệ năng về pháp dạy người, Tổ dạy:
"Nếu bảo rằng ta có pháp để trao cho người, th́ ta nói dối với nhà ngươi. Ở đây, chỉ tùy thuộc vào chỗ bị trói mà cởi mở, tạm gọi là Tam muội."
Như vậy, rơ ràng ở đây các ngài chỉ làm một công việc là cho thuốc hay mở trói mà thôi. Đây là phương pháp đối trị bệnh chấp ngă, chấp pháp do vọng tâm điên đảo, phân biệt sinh ra, và tùy theo căn nghiệp của mỗi chúng sanh mà các ngài cho pháp mở trói.
Ngoài phương pháp này ra, các Thiền sư cũng thường sử dụng phương pháp chỉ thẳng. Đây là cốt tủy của Thiền tông trong: "Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật." Cả hai phương pháp này đều nhằm vào đầu Đệ nhị mà sử dụng, v́ trong cuộc sống của chúng ta, từ lời nói, cử chỉ, hành động, mọi thi vi động tác đều phát xuất từ tự tâm của mọi người. Do đó trong cuộc sống của chúng ta, các ngài y cứ vào sự thể hiện bên ngoài mà mở trói, mà chỉ thẳng. Cũng trong chiều hướng này, Thiền sư Pháp Loa tuy biết rằng đối với Đệ nhất nghĩa đế suy nghĩ là sai, mở miệng là lầm; nhưng ngài vẫn đặt ra và t́m hướng giải quyết theo chỗ thấy của ngài. Thật sự việc này đối với những gười chưa ngộ đạo như chúng ta, th́ khi khởi tâm suy nghĩ để mở miệng, hay bất cứ thi vi động tác nào đi chăng nữa, th́ việc làm đó đều sai lầm. Đối với cảnh giới thực chứng của người đạt đạo; v́ cảnh giới này không lệ thuộc vào suy nghĩ, ngôn thuyết của thế giới phân biệt chấp trước, thuộc vào hệ thống nhân qủa đối đăi nhị nguyên của chúng ta. Thế giới thực chứng này, không tùy thuộc vào hệ thống nhân qủa, mà chúng chỉ được nhận biết nếu được, qua hệ thống duyên khởi mà thôi, v́ tất cả mọi thi vi động tác ở đây đều biểu thị chi trí vô phân biệt. Do đó đối với thế giới thực chứng của người ngộ đạo, chúng ta không thể dùng luật tắc nhân qủa mà đánh giá được. Gần đây chúng tôi nhận thấy có một số người có tham vọng muốn dùng ngôn ngữ phân biệt tri thức, để khám phá thế giới thực chứng của Thánh trí, đây là một việc làm sai lầm tai hại. Sai lầm v́ những kiến giải của chúng ta, những người chưa đạt đạo khác nào kiến giải của bọn mù!? Ở đây, người chưa đạt đạo khi diễn tả thế giới thực chứng của các bậc Thánh trí, cũng giống như người mù từ ḷng mẹ khi diễn tả thế giới quanh họ mà thôi, v́ họ chỉ nghe nói mà tưởng tượng theo cái tư duy trừu tượng để rồi thủ đắc chứ không phải chính mắt họ nh́n thấy.
Thế giới thực chứng của Thánh trí là thế giới vô phân biệt, chỉ có người chứng ngộ mới diễn tả được. Cũng bằng vào ngôn ngữ, cử chỉ, hành động như chúng ta, nhưng ở đây ngôn ngữ, và động tác của các ngài không bị lệ thuộc vào giá trị nhân qủa, chúng vượt thoát không bị trói buộc vào bất cứ điều kiện nào của giá trị đối đăi nhân quả nhị nguyên. Do đó, mọi đánh giá của chúng ta đều sai lầm, chỉ có những vị đạt đạo mới có thẩm quyền nói về thế giới mà các ngài đă thân chứng. Từ những đ̣i hỏi mà khả dĩ nhờ đó các ngài có thể dùng ngôn ngữ của Thế đế để nói về thế giới thân chứng của Thánh trí mà không mắc phải những sai lầm như chúng ta. Ngược lại mọi sinh hoạt trong cuộc sống bị chi phối bỡi luật tắc nhân quả đối đăi của chúng ta, theo các ngài chúng đều bị trói buộc ngăn cách, chướng ngại. Cho dù, ngay những quan niệm thuộc về Chân-thiện, hay bất cứ bất cứ quan niệm ǵ ǵ đi nữa chúng vẫn mang tính sai lầm. V́ vậy, tất cả mọi hành động, cử chỉ, lời nói ǵ ǵ của chúng ta đều bị các ngài khám phá ra tất cả, các ngài biết chúng ta đang bị kẹt ở chỗ nào, và không bị kẹt ở chỗ nào trong cuộc sống, theo đó các ngài mở trói hay cho thuốc đối trị.
Như chúng ta biết, tất cả mọi biểu tượng trong cuộc sống, qua cử chỉ, hành động của chúng ta, đều phát xuất từ tự tâm, như chính đức Phật đă dạy trong kinh Hoa Nghiêm: "Nhất thiết duy tâm tạo," th́ trong cuộc sống chúng ta, chúng được thể hiện qua hai biểu thị Vọng và Chân. Như thường thường th́ chúng ta chỉ nhận biết cái vọng qua pháp phủ định của các ngài, để từ đó chúng ta nhận thấy cái sai lầm, chứ chưa hề nhận thấy cái chân được thể hiện hằng ngày, và ở đây pháp chỉ thẳng nhằm vào chúng.
Ngoài phương pháp phủ định các Vọng ra, các Thiền sư cũng thường sử dụng pháp chỉ thẳng, và cũng theo đó Thiền sư Pháp Loa dạy:
"Đại đạo rỗng suốt nào có buộc, nào có ràng, bản tánh lặng trong không thiện không ác. Bỡi do lựa chọn cho nên sinh ra tắt ngang lắm nẻo; chỉ cần quáng mắt, cũng thành cách xa trời đất. Thánh phàm vốn cùng chung một lối, phải quấy nào phải hai đường. Cho nên biết rằng tội phước vốn không; cứu cánh nhân qủa chẳng thật. Mọi người đầy đủ, kẻ kẻ trọn thành. Phật tánh với thân như h́nh với bóng, tùy ẩn tùy hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi thẳng xuống, chân mày nằm ngang mặt ở phía trên mắt, nhưng không dễ ǵ nh́n thấy. Cần phải truy tầm, chẳng thấy nói sao: "Ba ngàn pháp môn cùng về vuông tấc, hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm."Nên bảo ba cửa Giới-định-tuệ các ông không thiếu, cần phải quán nơi chính ḿnh. Phàm những tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm chân đi, đó là tánh ǵ? Khi biết được tánh này rồi th́ đó là tâm ǵ? Tâm tánh đều rỗng sáng. Vậy cái nào phải, cái nào chẳng phải?"
Qua những lời dạy này, Thiền sư Pháp Loa đă nói lên được hai mặt một thực tại, mà trong cuộc sống chúng ta luôn luôn thể hiện, qua cử chỉ, hành động cùng lời nói, chỗ nào bị vướng và chỗ nào không bị vướng. Ở đây, rơ ràng Thiền sư Pháp Loa dùng lư Duyên khởi làm phương pháp phủ định luật nhân qủa nhị nguyên như: Đúng-sai, thiện-ác, phàm-thánh, tội-phúc v.v… do vọng tâm phân biệt đẻ ra, và chúng ta chấp nhận nó như là một cứu cánh cho tư duy hành động, mà chúng ta không biết rằng, những việc làm này là sai lầm; nên luôn luôn bị chúng lôi kéo chạy theo, để rồi một ngày nào đó tự ḿnh bỏ quên chính ḿnh, chính trong cuộc sống qua tiếng ho, tiếng tằng hắng, hay trong những động tác nhướng mày, chớp mắt, tay cầm, chân đi, đó là tánh ǵ? Khi đă biết được tánh này rồi, th́ đó là tâm ǵ? Tâm tánh đều rỗng sáng. Vậy cái nào phải, cái nào chẳng phải? Đây chính là phần ngài Pháp Loa chỉ thẳng cho chúng ta. Vậy th́ chúng ta đă nhận ra cái Bản lai diện mục của ta chưa?
V́ sao ở đây ngài Pháp Loa, chỉ những động tác hằng ngày mà chúng ta coi thường không bao giờ để ư đến nó, bảo chúng ta phải tư duy nó? Phải nh́n thấy nó, phải biết nó là ǵ? Ở đây, nếu chúng ta nhận ra những động tác như: tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm chân đi v.v… cho là Chân tâm, là Bản lai diện mục, th́ cái thấy này sẽ làm mù mắt chúng ta, v́ tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày, chớp mắt, tay nắm chân đi, không phải là chân tâm, không phải là diện mục. Cái được gọi là chân tâm, là bản lai diện mục nó chỉ thể hiện bên trong, hay ở đàng sau tiếng ho tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay nắm chân đi v.v… vậy th́ cái thể hiện qua các động tác đó, v́ sao gọi là Chân tâm, là Bản lai diện mục? Chúng ta hăy tự t́m hiểu, tự tư duy nơi sự thể hiện của chúng. Ngược lại, nếu chúng ta bảo nó không phải là chân tâm, không phải là bản lai diện mục, th́ cũng không được. V́ sao? V́ tất cả những thi vi động tác nơi chúng ta thể hiện ra bên ngoài không ngoài tự tâm. Đây là hai vấn đề mà ngài Pháp Loa muốn đánh thức cái tâm chân thật nơi chúng ta, và phải nh́n như thật chính nó. Nghĩa là cái được thể hiện trong những động tác đó không khác với cái thấy nơi chúng ta. Chúng không phải hai cũng không phải khác, v́ chúng luôn luôn tự thể hiện b́nh đẳng vô phân biệt không có sự ngăn cách, chướng ngại nào. Đó chính là pháp chỉ thẳng của ngài Pháp Loa trong pháp dạy người của ngài đối với chúng ta. Và đây chúng ta tiếp tục nghe Thiền sư Pháp Loa dạy:
"Một hôm sư nghe đồ chúng tụng kinh, bè hỏi chúng đang làm ǵ?"
Có vị Tăng thưa:
"Chùng niệm Phật tâm."
Sư bảo:
"Nếu nói là tâm th́ tâm không Phật, nếu bảo là Phật th́ Phật không tâm. Vậy cái nào gọi là tâm?"
Vị Tăng không đáp được; sư lại hỏi một vị Tăng khác nữa:
"Chúng đang làm ǵ?"
Tăng thưa:
"Niệm Phật."
Sư bảo:
"Phật vốn không tâm th́ niệm cái ǵ?"
Tăng thưa:
"Chẳng biết."
Sư bảo:
"Ngươi đă chẳng biết, vậy Ai nói đó?"
Tăng không đáp được,"
Qua công án này Thiền sư Pháp Loa đă dùng phương pháp Duyên khởi phủ định, để bít hết mọi con đựng nhân quả có thể có, theo lối kiến giải tri thức nhị nguyên phân biệt của người đối thoại mà đả thông cho họ; nhưng căn cơ của họ chưa lănh hội được lư duyên khởi, nên chỉ có cách là chỉ thẳng. Đây là cú đ̣n tối hậu đề lay chuyển, đánh thức cơ mê, và chỉ cho gút trói mà tự mở vào. Nhưng than ôi! Thế là công dă tràng, người đối thoại vẫn c̣n ngủ mê.
"Một hôm Huyền quang đứng hầu lúc sư bị bệnh, trong lúc sư đang ngủ Huyền quang nghe sư hỏi: Hồng, hồng… Huyền quang liền thưa:
"Tôn giả mớ chăng?"
Sư đáp:
"Ngủ th́ nói mớ c̣n không ngủ th́ chẳng nói mớ!"
Huyền quang thưa:
"Không thể ngủ với thức là một được?"
Sư bảo:
"Ngủ với thức là một."
Huyền quang thưa:
"Không thể bệnh cùng chẳng bệnh là một được."
Sư bảo:
"Bệnh có can hệ ǵ đến Y, không bệnh cũng chẳng can hệ ǵ đến Y."
Cũng như trong công án trên thiền sư Pháp-Loa trong pháp dạy người, cùng lúc đă xử-dụng hai cách để đánh thức đệ-tử ḿnh, nhưng người đệ-tử chưa đủ lanh mắt đe tiếp nhận những lời dạy, nên giở tṛ đôi co với ông tavà cuối cùng cũng phải dùng cách chỉ thẳng. Thế mà người đệ-tử đầu tay của ngài vẫn không chuyển năo.
Ở đây, chúng ta đă thấy được chổ chỉ thẳng của thiền sư Pháp-Loa qua từ "Y" trong câu: "Bệnh cũng chẳng quan hệ ǵ đến Y." Từ Y ở đây không phải là một từ tầm thường, v́ nói vượt ra mọi liên hệ nếu có trong cuộc sống, và đến khi nào muốn giải thoát th́ phải tham thấu lọt qua khởi nó mới được, c̣n nếu không th́ luôn luôn trói-buộc trong khổ đau, sanh-tử và dưới đây chúng tôi xin trích dẫn một công án cũng thuộc loại chỉ thẳng của thiền sư Pháp-Loa nhân khi bệnh nặng trở lại.
"Huyền Quang thưa:
Xưa nay đến chổ đó, không hay giữ cái nào tốt?
Sư bảo:
Tất cả đều không can-hệ.
Huyền Trang thưa:
Khi tất cả đều không can-hệ th́ thế nào?
Sư bảo:
Tùy chổ mà an sống."
Vị đệ-tử thấy t́nh trạng bệnh của thầy khó vượt qua, nên ướm thử lời bán rao sanh-tử ra vào nhân quả để xem thầy ḿnh như thế nào? Ở đây cả hai điều ông muốn có đáp án chính xác nơi thầy, nhưng ông chả nhận được ǵ qua lời đáp của thầy cả. Tất cả đều không can-hệ, đây là một trạng thái hoàn toàn tự-tại, giải thoát không bị lệ thuộc vào luận-tắc nhân quả của buông hay giữ. Vậy trạng thái này chỉ cho cái chi? Nếu ở đây người đệ-tử thấy được nó th́ có lẻ không bao giờ ông ta buông ra câu hỏi tiếp để rồi nhận lănh một đáp-án không như ḿnh mong muốn.
Tóm lại để thay lời kết-luận chúng tôi muốn liên hệ hai câu chuyện thiền, mà nó đă trở thành một công-án đối với bất cứ người học thiền nào cũng đều biết cả:
"Từ pháp hội Linh-Sơn đức Thế-tôn cầm cành hoa giơ lên. Bấy giờ mọi người làm thinh, chỉ có ngài Ca-Diếp mặt rạng mỉm cười, Phật dạy:
Ta có chánh-pháp nhăn-tạng, diệu tâm niết bàn, thực-tướng vô minh, pháp môn vi diệu. Nay trao lại cho Ma-Ha Ca-Diếp."
Qua cành hoa đức Thế-tôn cầm giơ lên, ngài Ca-Diếp đă lănh-hội ǵ nơi đó? Có người giải thích công án này là đức Phật nhằm truyền tâm cho ngài Ca-Diếp qua Tánh Thấy theo kinh Lăng-Nghiêm.
Ở đây chúng tôi không đặt vấn-đề đúng hay sai, v́ đúng hay sai đều lệ thuộc vào luật-tắc nhân quả, nhưng chúng tôi muốn nêu vấn-đề Tánh Thấy này nó như thế nào? Chúng ta đă thấy nó chưa? Hay nó chỉ là một danh động từ không hơn không kém, có nghĩa là nó được hiểu nhờ vào dùng từ định nghĩa-từ.
Tánh thấy này nó ở nơi cành hoa đức Phật giơ lên, hay nó ở nơi ngài Ca-Diếp? Nếu nói nó ở nơi cành hoa đức Phật giơ lên nhằm trao cho ngài Ca-Diếp, th́ cành hoa này trở thành tướng (bị) thấy của ngài Ca-Diếp chứ không phải tánh thấy của ông. Nếu bảo rằng ngài Ca-Diếp nhân cành hoa đức Phật giơ lên mà thấy được Tánh Thấy của ḿnh. Vậy th́ Tướng thấy kia nó phải như thế nào mới đủ khả năng tác động Tánh Thấy của ngài chứ? Chúng ta nên biết Thiền-Tông tối-kỵ việc đem ngôn ngữ, thuật ngữ của kinh giáo mà gán cho thiền, v́ theo Thiền-Tông những thuật-ngữ đó là những thuật ngữ chết khônh chuyên chở được ǵ ngoài luật-tắc nhân-quả. Theo chúng tôi cái mấu chốt ở đây được đức Phật thể hiện qua cành hoa, từ đó mới tác động lên cái nh́n của ngài Ca-Diếp. Cái nh́n này là một cái nh́n xuyên suốt vở tung cành hoa chứ không phải cái nh́n chạm tới bên ngoài của cành. Vậy th́ cái ǵ chứa đựng bên trong cành hoa đó? Đây là một dịp để chúng ta suy nghiệm.
"Ngài A-Nan hỏi ngài Ca-Diếp:
Ngoài bộ y vàng Thế-tôn c̣n truyền chi cho ngài nữa:
Ca-Diếp gọi:
A-Nan !
A-Nan:
Dạ !
Ca-Diếp nói:
Hăy lật ngược cây sát can ngoài cửa!"
Cũng như công án trên, ở đây có người dùng tiếng "dạ"của ngài A-Nan để làm Tánh nghe (theo kinh Lăng Nghiêm). Thật sự tiếng dạ này chúng ta tham thấu lọt qua khỏi nó th́ tánh nghe,tánh thấy ǵ ǵ đi nữa cũng trở thành một tṛ hí-luận, v́ chúng thể hiện cho tâm vô phân biệt qua nó, chứ không phải tay cầm hoa hay tiếng dạ là cứu cánh. Đó cũng là những ǵ Thiền-sư Phát-Loa muốn nhắn gởi những người hậu thế chúng ta qua phương pháp chỉ thẳng qua ngài.
|
Quay trở về đầu |
|
|
donau Hội viên
Đă tham gia: 27 October 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 402
|
Msg 18 of 34: Đă gửi: 03 July 2005 lúc 5:27am | Đă lưu IP
|
|
|
Lâu rồi tôi ko vào đọc bài của anh thiennhan, tại công việc bận quá. Tôi hay đọc sách của Phật mặc dù tôi cũng có nghiên cứu các tôn giáo khác. Mỗi tôn giáo có một cái hay riêng.
Đọc kinh pháp hoa, tôi thấy như đầu óc ḿnh sáng ra. Có những lẽ sống đơn giản mà từ truớc tới nay tuy tôi vẫn làm hoặc đă biết nhưng chưa hiểu, nay đă hiểu ra đuợc nhiều. Cảm thấy nhân sinh quan của ḿnh khác hẳn so với xưa.
Cũng có vài điều tôi ko đồng t́nh với lư thuyết phật giáo, nhưng điều đó ko phủ định tính tích cực của tôn giáo.
Vài ḍng tri ngộ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 19 of 34: Đă gửi: 08 July 2005 lúc 9:54am | Đă lưu IP
|
|
|
chào anh DoNau
Trong các Pháp môn, Thiền là môn tôi thích nhất, tự ngộ tự độ, không câu thúc ràng buộc, không giáo điều nô lệ, tư do tự tại, b́nh thường nhưng cao siêu, b́nh dị nhưng sâu sắc...ai cũng như ai, tự ngộ tự độ.
thân
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 20 of 34: Đă gửi: 08 July 2005 lúc 10:00am | Đă lưu IP
|
|
|
VÔ MÔN QUAN
Mumon Ekai (Wu-men Hui-kai/Huệ Khai)
Trần Trúc Lâm dịch
(từ Cuốn Zen Flesh - Zen Bones của Paul Reps- Nhà xuất bản The Charles E. Tuttle Company, Tokyo; Lần thứ nhất: 1957, lần thứ sáu: 1963).
Nếu bạn hảo ngọt và muốn sống dễ dăi th́ xin đừng đọc cuốn sách này. Nó chỉ dành cho những người cương quyết mưu cầu giác ngộ, mưu cầu satori.
Điều ấy có thể xảy đến với bạn. Trong một nháy mắt nó mở ra. Bạn là một người hoàn toàn mới. Bạn nh́n sự vật không giống như trước.
Cái năng lực mới mẽ này đến bằng chứng ngộ chứ không bằng lư luận. Bất cứ bạn làm ǵ hay ở đâu đều chẳng có ǵ khác biệt. Nó không tạo ra lư. Nó tạo ra bạn.
Những đề thoại đầu cổ xưa của Trung Hoa này, gọi là công án, cốt giúp thiền sinh đọạn tuyệt với say mê chữ nghĩa và phiêu lưu tư tưởng. Khi một thiền sinh quán chiếu về một công án, đó là một cách muốn nói rằng: Đừng phung phí đời bạn chỉ để ṃ mẫm; hăy hướng suy nghĩ và cảm quan vào một mục đích - và rồi hăy để cho nó xảy ra.
Phải chăng nghệ thuật khai sáng cho con ngựi này đă mất dấu? Không! nếu bạn biết để tâm - hay những ǵ khác nữa - của bạn vào nó. Nếu những nhà lănh đạo của nhân lọai ư thức hơn về điều này, để khi họ có đượﯣ chút quyền nhỏ nhoi, họ bóc lột kẽ khác ít hơn.
Những thiền sư xưa này thường khai ngộ cho môn đệ bằng chỉ trích, hay ngay cả thét đánh. Khi các ngài khen ngợi có nghĩa là đă xem thường. Đó là thói quen. Các ngài rất quan tâm đến các đệ tử của họ nhưng bộc lộ nó trong hiện tiền, chứ không bằng lời lẽ. Họ là những người kiên cường, những người gây kích động. Họ ban cho những câu hỏi mà câu trả lời là sự sống của một người.
Vậy câu trả lời đúng cho công án là ǵ? Có rất nhiều và cũng chẳng có câu nào. Ở Nhật có một cuốn sách rất hiếm, cố đề ra những câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi khai tâm này. Thật là tṛ buồn cười!
Bởi v́ công án cũng chính là câu trả lời, và khi đă có một câu trả lời thỏa đáng th́ Thiền đă chết.
Đoạn sau là phần tóm lược lời mở đầu của ấn bản Anh ngữ đầu tiên của cuốn sách này.
Giáo pháp của Đức Phật đă được truyền bá ở Ấn độ năm trăm năm trước Jesus và hằng ngàn năm trước Mohammed. Ngày nay đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn cuả nhân lọai, cổ hơn cả Thiên chúa giáo và Hồi giáo.
Từ thế kỷ thứ nhất T.L., kinh Phật đă được dịch ra Hán văn bởi nhiều dịch giả Ấn và Hoa, từ triều đại này đến triều đại khác. Tuy nhiên tinh túy của Phật giáo lại được truyền sang Trung quốc vào năm 520 T.L. bởi Bồ Đề Đạt Ma, được xem như là Tổ thứ Nhất tông phái Thiền Trung Hoa. Yếu tính đạo giải thoát từ Đức Phật Thích Ca đă được thiền sư tỉnh tọa Bồ Đề Đạt Ma lưu chuyển và đệ tử của ngài nối tiếp, rồi truyền thừa cùng một cách qua biết bao thế hệ. Nhờ đấy mà Thiền du nhập, nuôi dưỡng và truyền bá khắp Trung quốc, rồi đến Nhật bản.
Chữ Nhật ZEN - chữ Hán CH’AN, chữ Phạn DHYANA - THIỀN
có nghĩa là trầm tư mặc tưởng, để ngộ được điều mà Phật đă ngộ, sự giải thóat của tâm. Nó cung cấp một lối tự quán chiếu, thường là dưới sự chỉ dạy của một thiền sư.
Thiền có nhiều bản kinh, mà cuốn sách này là một, Mu-mon-kan (Vô Môn Quan hay Mậu Môn Quan) - thoát ư là "cửa không chắn" - đă được ghi lại bởi Thiền sư Trung Hoa Huệ Khai, cũng c̣n gọi là Vô Môn, sống từ năm 1183 đến năm 1260. Tác phẩm gồm những mẫu đối thọai giữa các tổ và đệ tử, vẽ cho thấy lối xóa bơ khuynh hướng nhị nguyên, hướng ngoại, bao quát, và trí thức của các đệ tử để đạt đến bản lai diện mục, thực tính. Những vấn đề hay những thử thách nội tại mà các thiền sư hay dùng để đối chất với các đệ tử đươcọi là công án, và mỗi câu truyện kể sau chính nó là một công án.
Nhữ 宧 câu truyện dùng cả đến chữ phàm tục để phản ảnh pháp môn thâm hậu, quán chiếu vào nội tâm của ḿnh. Thảng hoặc có vài trường hợp xem ra thô bạo nên được hiểu như là sinh động và thành tâm. Không có câu truyện nào cố làm ra vẻ luận lư. Chúng nhắm vào trạng thái của tâm chứ không phải vào chữ nghĩa. Nếu không hiễu được điều này th́ trọng điểm của cổ kinh bị nh́n sai lệch. Toàn thể thâm ư là giúp cho thiền sinh phá vỡ được cái vỏ của đầu óc hạn chế mà đạt đến được lần sinh thứ hai miên viễn, satori, giác ngộ.
Mỗi thoại đầu là một lớp cản. Ai có được tinh thần Thiền đều đi qua dễ dàng. Ai sống trong Thiền hiễu được hết công án này đến công án khác, theo lối của ḿnh, mà thấy những cảnh giới không thể thấy và sống trong vô hạn.
Vô-Môn Huệ Khai đă viết những lời này trong phần giới thiệu của cổ kinh.
"Thiền không có cửa. Chủ đích của lời Phật dạy là để giác ngộ kẽ khác. V́ vậy mà Thiền phải không có cửa.
"Một người muốn đi qua cổng không cửa phải làm thế nào bây giờ? Có người bảo thứ ǵ qua lại cỗng đều không phải là của gia bảo, rằng thứ ǵ tạo ra do sự giúp đở của người khác th́ đều bị tan ră và hũy hoại.
"Những lời nói như thế chẳng khác ǵ sóng nỗi giửa bễ lặng hay mỗ xẻ thân người lành mạnh. Nếu kẽ nào bám cứng
vào những ǵ người khác nói và cố gắng hiễu Thiền bằng lư giải th́ kẽ ấy chẳng khác ǵ tên đần độn nghĩ rằng hắn có thể dùng gậy đập được mặt trăng hay găi chỗ ngứa chân từ bên ng̣ai chiếc giày. Không bao giờ có thể được.
"Vào năm 1228 ta thuyết pháp cho chư tăng tại chùa Ryusho ở phía đông Trung quốc, và do lời yêu cầu của họ ta kể lại những công án cỗ, với mong ước khơi dậy tinh thần Thiền của họ. Ta dụng ư dùng công án như một kẽ nhặt viên gạch để gơ cửa, sau khi cửa mở th́ viên gạch chẳng c̣n hữu dụng nữa và bị ném đi. Lời ta, không ngờ lại được góp nhặt, và có đến bốn mươi tám công án, ta thêm vào lời bàn và kệ cho mỗi bài, tuy vậy sự sắp xếp lại không theo thứ tự đă kể. Ta gọi cuốn sách là Vô Môn Quan, mong rằng thiền sinh đọc nó như một cẩm nang.
"Nếu độc giả nào mạnh dạn tiến thẳng về phía trước trong quán chiếu, không ảo tưởng nào có thể quấy họ được. Ho sẽ liễu ngộ chẳng khác ǵ chư tổ ở Ấn và Hoa, có thể c̣n khá hơn. Nhưng nếu họ ngập ngừng dù một giây lát, họ sẽ như kẽ đứng nh́n người cỡi ngựa phi qua cửa sổ, và trong nháy mắt chẳng kịp trông thấy.
"Đại đạo không có cỗng,
Ngàn lối đi vào nó.
Khi ai đi qua được cửa không này
Th́ thong dong giữa đất trời."
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|