Tác giả |
|
noname Hội viên
Đă tham gia: 16 February 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 44
|
Msg 1 of 3: Đă gửi: 12 June 2005 lúc 1:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đạt Ma Dịch Cân Kinh
(Nguyên bản Việt ngữ của Bác sĩ Lê Quốc Khánh
đăng trong nhật báo Người Việt ở Hoa Kỳ)
Bài này được đăng trên nhật báo Người Việt lần đầu vào ngày 17 tháng 11 năm năm 2000. Tiếp theo trên số báo ra ngày 24 tháng 2 mới đây cũng đăng thêm bài Kinh nghiệm Tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh. Nay do sự yêu cầu của nhiều độc giả, chúng tôi in lại bài đầu tiên về Dịch Cân Kinh để độc giả tiện tra cứu và t́m hiểu thêm.
Lời thưa:
Sau khi đọc lần đầu tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh, tôi chỉ mỉm cười, không mấy tin tưởng v́ thấy phương pháp chữa trị những bịnh nan y một cách dễ dàng và quá đơn giản.
Tôi cũng xin tự giới thiệu để quư vị thấy rằng tôi đă được đào tạo và phục vụ Tây y qua nhiều thời kỳ. Đến nay tôi đă có bốn mươi chín năm y nghiệp, đă từng làm việc trong các bịnh viện Quân và Dân Y lớn nhất nh́ trong nước Việt Nam Cộng Ḥa, đă từng làm việc với người Pháp. Mỹ và Phi Luật Tân; đă từng là cộng sự viên của Bác sĩ Đinh văn Tùng, nghiên cứu chữa trị bịnh ung thư qua phẫu thuật (1936-1965). Tôi muốn nói rằng tôi có lư do để tin tưởng Tây y là một ngành khoa học có nhiều thành tích đáng tin cậy trong việc bảo vệ sức khỏe của con người. Cũng v́ vậy mà tôi gần như có thái độ thờ ơ khi tiếp nhận Đạt Ma Dịch Cân Kinh.
Thế rồi một hôm, có người bạn cùng tuổi với tôi (sanh năm 1932) đi xe đạp ghé thăm. Tôi được nghe anh kể là anh đă khám bịnh ở Bịnh viện Chợ Rẫy, qua các xét nghiệm y khoa tối tân và các bác sĩ đă định bịnh cho anh:
Ung thư gan•
Lao thận.•
Anh thấy hoàn toàn thất vọng. V́ nếu vấp phải một trong hai chứng bịnh ấy cũng đủ chết rồi, huống chi mắc cả hai chứng bịnh nan y cùng một lúc. Cuối cùng anh có được tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh. “Cái phao mà anh đă níu được khi đang chới với giữa biển khơi” . Anh cố gắng tập, kiên tŕ thực hiện theo đúng tài liệu, và kết quả là anh đă thắng bịnh tật. Hiện nay anh sống khỏe mạnh b́nh thường, làm việc hớt tóc, có khi anh phải đứng hàng giờ để làm công việc, thế mà anh vẫn b́nh thường như bao người khác.
Từ đó đến nay, đă bốn năm, anh vẫn tập đều đặn. Nh́n tư thế và sắc diện, không ai nghĩ là anh đă mắc phải bịnh nan y. Thỉnh thoảng anh đi xe đạp đến thăm tôi. Cũng từ đó, tôi chú tâm nghiên cứu Dịch Cân Kinh. Đầu năm 1986, tôi đă truyền đạt tài liệu này cho một người bạn trẻ bị bịnh lao phổi, không được điều trị đúng cách v́ hoàn cảnh bản thân cũng như xă hội vào thập niên 80. Cuối cùng anh đă gầy guộc chỉ c̣n có 32kg trong cơ thể suy nhược, đă mấy lần cứ tưởng là không qua khỏi. Và anh đă vớt vát chút hy vọng c̣n lại, anh đă tập Yoga. Kết quả cơ thể có phần nào phục hồi nhưng vẫn yếu đuối. Suốt mùa Đông, anh vẫn không ra khỏi nhà, nh́n sắc diện, vẫn lộ những nét bịnh hoạn.
Sau khi nhận được tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh , anh đă cố gắng kiên tŕ luyện tập, thời gian đầu bạn tôi cũng gặp những phản ứng như ghi trong tài liệu. Dần dần anh qua được bước đầu vất vả, và gần cuối năm 1986, sau bốn tháng luyện tập, anh đă ho tống ra một khối huyết cứng to bằng trứng chim cút, và sau đó anh từ từ hồi phục sức khỏe, da dẻ hồng hào, vẻ mặt vui tươi, và măi đến nay anh vẫn giữ được sắc thái của người b́nh thường không bịnh hoạn.
Một trường hợp khác, bạn tôi, sinh năm 1931, bị bịnh Parkinson đă bốn năm nay, đă chữa trị Đông, Tây y, thuốc gia truyền và nhân điện...Lẽ dĩ nhiên là bịnh không khỏi. V́ bịnh Parkinson cho đến nay, loài người vẫn bó tay.
Sau khi nghiên cứu và luyện tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh, bạn tôi cũng gặp phản ứng như ghi trong tài liệu. Tuy vậy, anh vẫn kiên tŕ tập đều đặn. Tuy hiện nay bịnh Parkinson không lành hẳn, song bịnh được ngăn chận giới hạn ở mức chỉ rung có hai bàn tay. C̣n các khớp, nhất là khớp tay và chân, vẫn cử động b́nh thường, không gặp một khó khăn trở ngại nào mà lẽ ra, đúng theo các triệu chứng điển h́nh, th́ bịnh càng lâu, các khớp bị cứng và hạn chế cử động cho đến một lúc nào đó sẽ bị cứng khớp, không cử động được nữa. Bịnh kéo dài bốn năm nay nhưng anh vẫn sinh hoạt b́nh thường, có nghĩa là bịnh bị ngăn chận ở một mức độ có thể chấp nhận được.
Một trường hợp nữa là một anh bạn sinh năm 1930 bị béo ph́, cao huyết áp, rối loạn tiêu hóa kinh niên. Từ hơn ba mươi năm nay, anh đă dùng vô số thuốc Đông, Tây y và châm cứu nhưng vẫn quanh quẩn hết chứng này đến tật khác, không ngày nào vắng thuốc. Anh đă tiếp nhận Dịch Cân Kinh, và sau thời gian tập luyện cũng có những phản ứng như đă ghi trong tài liệu, và sau đó, anh phục hồi sức khỏe, nhất là rối loạn tiêu hóa không c̣n nữa, ít khi phải dùng thuốc trị cao huyết áp. Anh ca ngợi Dịch Cân Kinh là môn thuốc trị bá bịnh.
Qua bốn trường hợp mà tôi đă theo dơi hai năm nay, chưa phải là nhiều, tôi đă phải công nhận Đạt Ma Dịch Cân Kinh là một phương pháp chữa được nhiều bịnh hiểm nghèo mà hiện nay Tây y nhiều khi phải bó tay.
Đọc qua tài liệu Dịch Cân Kinh, chúng ta thấy vấn đề kỹ thuật luyện tập không có ǵ khó khăn, rất dễ tập. Điều cần nhấn mạnh ở đây là ư chí, quyết tâm. kiên tŕ và thường xuyên. Nếu vượt qua được những điều này, tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ gặt hái được những kết quả mỹ măn.
Năm 1943, khi giảng lớp Quân y Khóa 1, Phân khu B́nh Trị Thiên và Trung Lào, thầy tôi, Bác sĩ Bùi Thiện Sự đă nói: “Nghề nghiệp của chúng ta có nhiệm vụ cao cả là phụng sự và làm vơi đi những đau khổ của nhân loại”. Để ghi nhớ lời dạy ấy của Thầy, tôi nguyện truyền đạt cho bất cứ ai, những ǵ mà tôi nghĩ sẽ giúp ích được cho mọi người.
Bây giờ tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh đối với tôi là một phương thuốc quư giá giúp cho đời. Tôi đă hối hận về nỗi thờ ơ của ḿnh buổi ban đầu, khi mới tiếp nhận tài liệu này.
Miền Đông ngày 7 tháng 3 năm 1997
Bác sĩ Lê Quốc Khánh
Sự Tích Đạt Ma Dịch Cân Kinh
Năm 917 (sau Tây lịch), Đạt Ma Tổ Sư Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn, Hà Nam, xây dựng chùa Thiếu Lâm, đă có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo. Ông nhận thấy nay đem một tín ngưỡng đi truyền tụng có khi trái với tín ngưỡng của dân bản xứ, dễ xảy ra xung đột. Do vậy các đệ tử của ông vừa lo học lư thuyết Phật Pháp vừa phải luyện vơ để tự vệ (Môn phái Thiếu Lâm xuất hiện và tồn tại đến ngày nay).
Nhiều người xin nhập môn nhưng thể lực kém, không thể luyện vơ được, Tổ Sư bèn truyền đạt một phương pháp luyện tập được gọi là Đạt Ma Dịch Cân Kinh để chuyển biến thể lực yếu kém thành mạnh khỏe. Cách tập đơn giản nhưng hiệu quả to lớn v́ tiêu trừ được các bịnh tật hiểm nghèo.
Ngày nay người ta nghiên cứu là phương pháp này chữa được rất nhiều bịnh, ngay cả bịnh ung thư cũng khỏi và bây giờ người ta áp dụng lư thuyết khí huyết của Đông y để chứng minh. Sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với khí huyết, về điều này th́ ta thấy rơ ràng.
Trong Đông y, cái gọi là huyết th́ không thể hạn chế và tách ra từng mặt như máu loăng hay đặc, hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào...mà nghiên cứu, mà dùng cách nh́n nhận toàn diện của quá tŕnh sinh lư và quá tŕnh tuần hoàn của huyết mà xem xét. Theo Đông y, một khi khí huyết không thông là tắt kinh lạc, do vậy các phế vật trong cơ thể cần thải mà không thải ra được. V́ máu lưu thông chậm, nên các chất keo, dịch, gân và các chất khô... không đủ nhiệt năng nên công năng của máu giảm sút không thể thải được những chất cần thiết trong cơ thể ra ngoài.
Luyện Dịch Cân Kinh, tay vẫy đúng phép, miệng, dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ, làm các vật chèn ép mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ th́ mới khỏi bịnh.
Vậy theo Dịch Cân Kinh, cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột, dạ dày, thận tiếp được khí nên gây được tác dụng hưng phấn. Khi chức năng của máu tăng, th́ giúp được việc tống cựu nghinh tân tốt, khí huyết thăng bằng là khỏi bịnh. Một số người sau đây đă luyện tập Dịch Cân Kinh có hiệu quả:
Cụ Quách Chu, 78 tuổi, phát hiện u ở năo và ở phổi. Luyện tập• ngày ba buổi. Mỗi buổi 1800 lần. Tập đều sau ba tháng th́ tan khối u và khỏi bịnh.
Ông Trương Công Phát, 43 tuổi, phát giác ung thư máu, luyện tập• Dịch Cân Kinh ngày 3 buổi, mỗi buổi 4800 lần (có dùng dưỡng tâm can), sau ba tháng khỏi bịnh. Đă ba năm nay vẫn khỏe mạnh.
Cụ Từ Mạc Đính, 60 tuổi, ung thư phổi, và bán thân bất toại.• Luyện tập sau 3 tháng th́ hết bán thân bất toại, kiểm tra khối u cũng tan mất.
Nguyên nhân bịnh ung thư trên thế giới đang bàn căi, ngay thuốc dưỡng tâm can cũng không phải là thuốc đặc hiệu chữa trị mà là giúp tim hoạt động tốt để thải chất độc.
V́ quá tŕnh sinh lư cơ thể của con người là một quá tŕnh phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh rất phức tạp giữa cái sống và sự chết. giữa lành mạnh và bịnh tật, giữa già háp và trẻ dai. Nhưng kết quả cuộc đấu tranh là các nhân tố nội tại quyết định chớ không phải do hoàn cảnh bên ngoài.
Vậy cơ thể con người là một chỉnh thể hoạt động. Trong vận động các lục phủ ngũ tạng đều dựa vào nhau tức là tương sinh, ức chế lẫn nhau tức là tương khắc. Nhưng khí huyết có tác dụng đến khắp tất cả các lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh bịnh ung thư cũng do khí huyết lưu thông không chu đáo mà ra. Đông y đă xác định là cuộc đấu tranh của cơ thể với bịnh ung thư là một cuộc đấu tranh nội bộ ở trong cơ thể con người. Từ đó mà xây dựng quan điểm cho rằng bịnh ung thư là bịnh chữa được.
Đương nhiên bịnh tật là do sự tŕ trệ khí huyết mà nó làm cho hao tổn thêm khí huyết. Vậy công việc luyện tập cho khí huyết thay đổi là tự chữa được bịnh. Từ đó mà tạo được ḷng tin vững chắc của người bịnh đối với việc tự chữa được bịnh ung thư, để tập trung tinh thần và ư chí đầy đủ để luyện tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh, v́ phương pháp này thay đổi và tăng cường khí huyết. Nó cũng chữa được bịnh trĩ nội và trĩ ngoại. Ông Hà Thúc Nguyên bị trĩ nội và chứng đầy bụng, chỉ tập một tháng là khỏi. Luyện tập Dịch Cân Kinh thấy ăn tốt ngủ ngon là việc phổ biến tốt, đă làm tăng sức khỏe các bịnh nhân nói chung và chữa được nhiều chứng bịnh như : suy nhược thần kinh, cao huyết áp, bịnh tim các loại, bán thân bất toại, bịnh thận, hen suyễn, lao phổi, trúng gió méo mồm và lệch mắt.
Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bịnh tật là do khí huyết (âm, dương) mất thăng bằng mà sanh ra. Luyện Dịch Cân Kinh là giải quyết vấn đề này. Nên đối với đa số các loại bịnh, nhất là bịnh măn tính đều có thể chữa được cả.
Phương Pháp Luyện Tập Dịch Cân Kinh
Đầu tiên là nói về tư tưởng:
Phải có hào khí, nghĩa là có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, vững vàng, tin tưởng, không v́ lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở.
Phải lạc quan, không lo sợ đang mang bịnh mà mọi người gọi là hiểm nghèo, phải tin tưởng rằng ḿnh sẽ thắng bịnh do việc luyện tập Dịch Cân Kinh.
Tư Thế Luyện Tập:
1. Lên không xuống có: Trên phải không, dưới nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau x̣e ra như cái quạt. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu cầu cơ bản khi tập luyện Dịch Cân Kinh.
2. Dựa theo yêu cầu này, khi tập vẫy tay th́ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng, thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ư vào việc luyện tập. Xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhên, không mím môi, ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hai cánh tay để tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất. Bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ nhẫm câu: “Lên có xuống không”. Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống).
3. Trên ba dưới bảy : Là phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức độ bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ th́ hiệu quả sẽ tốt.
4. Mắt nh́n thẳng : không nghĩ ngợi ǵ cả, miệng nhẫm đếm số lần vẫy.
Các bước tập cụ thể như sau :
a) Đứng hai bàn chân bằng khoảng cách hai vai.
b) Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, các ngón tay x̣e thẳng, ḷng bàn tay quay ra phía sau.
c) Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cổ để lỏng, đầu và miệng b́nh thường.
d) Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót sát đất, bắp chân và đùi chân căng thẳng.
e) Hai mắt chọn một điểm ở đàng xa làm mục tiêu để nh́n, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ư vào các ngón chân đang bám đất. Đùi và bắp chân cứng. Thót hậu môn thật chặt và nhẩm đếm.
f) Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả hai bàn tay về phía trước, chú ư để nó buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.
g) Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên đến 1800 lần vẫy (tương đương với 30 phút).
h) Phải có quyết tâm đều đặn tập trung vào sự luyện tập, không nên nóng, tập nhanh, tập nhiều v́ dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không nên tùy tiện, bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ tập, v́ như vậy sẽ làm mất ḷng tin trong sự luyện tập, khó có hiệu quả.
Bắt đầu tập luyện, không nên làm tổn thương các ngón chân (Sau mỗi buổi tập, vuốt ve các ngón chân mỗi ngón chín lần). Nôn nóng muốn khỏi bịnh này mà dùng nhiều sức sẽ không đem lại kết quả. Có quyết tâm nhưng phải từ từ tiến dần mới đúng cách và kết quả tốt. Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán th́ khí huyết loạn xạ, và không chú ư đến “trên nặng dưới nhẹ” là sai hỏng.
Khi đă vẫy tay đến 600 lần trở lên th́ thường hay có trung tiện (đánh địt), hắt hơi và hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng..... chỉ là hiện tượng b́nh thường, đừng lo ngại. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với vũ trụ là “Thiên khinh Địa trọng” (Trên nhẹ dưới nặng), đấy là quy luật sinh hợp với vũ trụ: Thiên khinh Địa trọng.
Sở dĩ bịnh gan là do khí huyết của tạng gan không tốt gây nên khi bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết. Do đó ảnh hưởng đến ống mật và cả tỳ vị. Luyện Dịch Cân Kinh có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là kết quả tốt.
Về bịnh mắt, luyện Dịch cân kinh là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí chữa được cả chứng đục thủy tinh thể. Trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nh́n được. Khi khí huyết không dẫn đến được các bộ phận của mắt th́ thường sinh ra các bệnh tật của mắt.
Đôi mắt là bộ phận của thị giác và cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể.
Những Phản Ứng Khi Luyện Tập Dịch Cân Kinh
Khi luyện tập, cơ thể có những phản ứng nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bịnh, không nên lo nghĩ. Sau đây là 34 phản ứng thông thường và c̣n nhiều phản ứng khác không kể ra hết được.
1. Đau buốt, 2. Tê dại, 3. Lạnh, 4. Nóng, 5. Đầy Hơi, 6. Sưng
7. Ngứa, 8. Ứa nước giải, 9. Ra mồ hôi, 10. Cảm giác như kiến ḅ
11. Giật gân, giật thịt, 12. Đầu khớp xương có tiếng kêu lụp cụp
13. Cảm giác máu chảy dồn dập, 14. Lông tóc dựng đứng
15. Âm nang to lên, 16. Lưng đau, 17. Máy mắt mi giật
18. Đầu nặng, 19. Hơi thở nhiều, 20. Nấc, 21. Trung tiện
22. Gót chân nhức như mưng mủ, 23. Cáu trắng dưới lưỡi
24. Đau mỏi toàn thân, 25. Da cứng, da chân chai rụng đi,
26. Sắc mặt biến đi,27. Huyết áp biến đổi, 28. Đại tiện ra máu,
29. Tiểu tiện nhiều, 30. Nôn mửa, ho, 31. Bịnh từ trong da thịt bài tiết ra,
32. Trên đỉnh đầu mọc mụt, 33. Ngứa từng chỗ hay toàn thân,
34. Chảy máu cam.
Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bịnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh ra các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bă trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông b́nh thường không thải nổi.
Nhờ luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi cặn bă ra ngoài nên mới sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là đă khỏi một căn bịnh. Cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt.
Luyện tập dịch cân kinh đạt được 4 tiêu chuẩn sau
Nội trung:
Tức là nâng cao can khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầu.
Tứ trưởng tố:
Tức là tứ chi phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc luyện tập. Tứ trung tố song song với nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
Ngũ tam phát:
Nghĩa là 5 trung tâm của nhiệt dưới đây hoạt động mạnh hơn lúc b́nh thường. Đó là :
Bách Hội: Một huyệt trên đỉnh đầu,
Gio cung: huyệt ở hai bàn tay,
Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn chân.
Khi luyện tập th́ 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt . Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bịnh nan y mà ta không ngờ.
Lục phủ minh:
Đó là ruột non. ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không tŕ trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nên không tŕ trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái b́nh thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.
Một số điều cần lưu ư khi luyện tập
1. Số lần vẫy tay: không dưới 800 lần, từ 800 lần trở lên dần dần đến 1800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị. Người bịnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm 10 đầu ngón chân.
2. Số buổi tập: Sáng thành tâm tập mạnh, Trưa trước khi ăn tập vừa. Tối trước khi ngủ tập nhẹ.
3. Có thể tập nhiều tùy theo bịnh trạng: Có những bịnh nhân nâng số lần vẫy tay lên đến 5 hay 6 ngàn lần trong mỗi buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều ḥa, tinh thần tỉnh táo, th́ chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp.
4. Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc th́ nên chậm. B́nh thường th́ vẫy 1800 lần là hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút. Khi đă thuần th́ vẫy hẹp ṿng. Bịnh nhẹ th́ nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều hơn. Bịnh nặng th́ nên vẫy hẹp ṿng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh, mau mệt, mà chậm quá th́ không đạt tới mục đích. V́ luyện tập là cần có mạch máu lưu thông.
5. Khi vẫy tay dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ: Vẫy tay là môn thể dục chữa bịnh chớ không phải là một môn thể thao khác biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc điểm của nó là dụng ư không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi v́ bắp vai không lắc mạnh th́ lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai. Bịnh phong thấp th́ nên dùng sức ở mức nặng một chút. Bịnh huyết áp th́ nên dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm.
Nói tóm lại phần lớn tự ḿnh nắm vững t́nh trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự ḿnh cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể: nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự ḿnh suy nghĩ rồi quyết định cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, dễ chịu là đúng, là tốt nhất. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), c̣n động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bă có hại cho cơ thể (bệnh tật). Lư luận này đang được nghiên cứu.
Khi vẫy tay về phía sau dùng sức bảy phần. Khi vẫy tay về phía trước thuộc về quán tính, c̣n chừng 5 phần.
Đếm số lần vẫy tay, đếm không phải để nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc b́nh tỉnh, có tác dụng tốt cho năo được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân âm được bồi dưỡng.
Hoàn cảnh khi luyện tập (nơi chốn): Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được. Dĩ nhiên nơi nào không khí trong lành và yên tĩnh vẫn tốt hơn.
Trước và sau khi tập: Trước khi tập, đứng b́nh tỉnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tĩnh để chuyển hóa về tâm lư và sinh lư. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng, thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải b́nh tĩnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đầu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ b́nh tĩnh, nên cần chú ư đến điểm này,
Luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thở điều ḥa, mắt sáng, nước giải ứa ra nhiều, đại tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, th́ đó là đă luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép. Sau khi luyện tập, đa số thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả th́ rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không.
Khi tập cần chú ư các điểm sau đây:
Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư).•
Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực),•
Khi tay trả về phía trước, không dùng sức (nhẹ),•
Tay vẫy về phía sau, dùng sức (nặng, mạnh),•
Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay.•
Tập ngày 3 buổi, kiên quyết tự chữa bịnh cho ḿnh.
1. Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập luyện: Hết ḷng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhứt định, tập thường xuyên th́ hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong ḷng c̣n nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập th́ nhất định không hiệu quả.
2. Vẫy tay có sinh ra bệnh ǵ không ? Có thể sinh bịnh do tư thế không đúng, làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hăn hữu, không tới 1%.
3. Khi tập nên tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông. Tóm lại cần lưu tâm những điểm sau:
Khi tập luôn bám chặt các ngón chân vào mặt• đất.
Thót hoặc co hậu môn thật mạnh để giữ thế “thượng hư hạ• thật”.
Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1800 trở lên mới có hiệu• quả.
Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt, cứ tập số lần• như cũ. Khi hết phản ứng sẽ tăng số lần vẫy tay lên.
Giữ vững ḷng tin, kiên tŕ quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới• cùng, chắc chắn sẽ đẩy lùi các bịnh tật ta đang mắc phải.
Luyện tập Dịch Cân Kinh không chỉ chữa khỏi bịnh mà c̣n là một• phương pháp pḥng bịnh rất hữu hiệu.
Source: Hội Thân Hữu Việt Nam &nb sp; &nb sp; &nb sp; &nb sp; &nb sp; &nb sp; &nb sp; Oct 8, 2004
Kinh Nghiệm Tập
Đạt Ma Dịch Cân Kinh
(Nguyên bản Việt ngữ của ông Huỳnh Bửu Khương,
đăng trên nhật báo Người Việt ở Hoa Kỳ)
Nhân đọc bài Đạt Ma Dịch Cân Kinh của Bác sĩ Lê Quốc Khánh đăng trên nhật báo Người Việt số ra ngày 17 và 18 tháng 11 năm 2000 và thấy rất vui mừng khi biết tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh có thể chữa được nhiều bịnh nan y, trong đó có cả bịnh ung thư. Do đó tôi muốn góp thêm ư kiến bằng cách nói lên kinh nghiệm bản thân về việc tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh để giúp quư độc giả hiểu rơ hơn cách luyện tập và củng cố ḷng tin vào phương pháp tập luyện này.
Vào năm 1974, anh Nguyễn Kim Tri, Thiếu tá ở Vơ Pḥng phủ Tổng Thống cho chúng tôi bản phóng ảnh của quyển Đạt Ma Dịch Cân Kinh bằng chữ Tàu và khuyên chúng tôi nên tập luyện theo sách ấy, rất tốt cho sức khỏe, v́ đây là cách luyện tập của chùa Thiếu Lâm dành cho môn sinh luyện trước khi học vơ. Sau đó chúng tôi nhờ người dịch đại ư của quyển sách và tập luyện.
Sau bốn tháng luyện tập, mọi người trong pḥng của tôi (Khối Đặc Biệt, Trung Tâm Phối Hợp thi hành Hiệp Định Ba Lê, Phủ Tổng Thống) đều đạt kết quả tốt. Người nào không có bịnh th́ đều lên cân, da dẻ hồng hào thấy rơ. Người nào có bịnh th́ bớt bịnh. Ông Long, thư kư đánh máy, bị huyết áp cao, th́ sau bốn tháng tập, huyết áp xuống mức b́nh thường. mặc dầu ông không có uống thuốc. Lúc ấy ngày nào tôi cũng tập 1200 cái đánh tay. (Lúc mới khởi sự tập 200, rồi sau tăng dần).
Sau tháng 4 năm 1975, suốt thời gian ở trong các trại cải tạo từ miền Nam ra tới miền Bắc, ngày nào tôi cũng tập Dịch Cân Kinh một lần, và vẫn giữ mức 1200 cái vẫy tay. Nhờ vậy mặc dầu ăn đói và rất ốm yếu, tôi vẫn có thể chịu được và ít bị bịnh. Anh em nói v́ tôi là “quan văn” trong ngành vơ (Luật sư ṭa Thượng Thẩm Sài G̣n, Thiếu Tá) nên không có sức chịu đựng bằng các anh em khác, phần đông là Tiểu Đoàn trưởng tác chiến, Quận Trưởng hoặc Hạm trưởng Hải quân, cấp chỉ huy Biệt Kích Dù, An Ninh Quân đội v.v...
Hồi mới ra Hoàng Liên Sơn ở huyện Văn Chấn, thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ, vào tháng 7 năm 1976, mỗi lần đi lấy gạo, tôi cùng một anh nữa khiêng lối 20 hay 25 kí lô và đi lối 7 hay 8 cây số đường rừng. Khi về gần đến trại có đèo 19 tháng 5 rất cao, thường tôi yêu cầu anh cùng khiêng với tôi ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp.
Sau đó tôi nói với Thầy Thuần, một Đại Đức, Thiếu tá Tuyên úy Phật Giáo, người ở cùng một láng và cùng tập Dịch Cân Kinh với tôi mỗi ngày, về việc tôi qua không nổi Đèo 19 tháng 5 rất cao. Thầy nói “Bác cứ tập lên 2000 cái cho tôi, bác sẽ qua nổi đèo ấy”. Nghe lời Thầy Thuần, tôi tập lên đến 2200 cái đánh tay mỗi ngày.
Và lối nửa tháng sau, khi đi lấy gạo, tôi được giao phải vác một ḿnh 20 kí. (V́ họ cho rằng chúng tôi ra Bắc đă một thời gian lâu rồi nên đủ sức để vác 20 kí đi xa), nặng gấp đôi lần trước, thế mà khi qua đèo 19 tháng 5, tôi qua luôn, không phải ngừng lại để nghỉ như trước. Tôi biết ngay là nhờ tập Dịch Cân Kinh theo lối Thầy Thuần chỉ, nên mới đạt được kết quả ấy. Chớ việc ăn uống th́ chúng tôi vẫn bị đói dài dài. (Ở miền Bắc, trong 3 năm đầu, gia đ́nh không được gởi thực phẩm cho chúng tôi).
Hồi đó tôi tập nổi 2200 cái đánh tay cho mỗi lần và nhờ hàng ngày tôi phải leo núi, đồi, phải làm việc nặng nên chân mạnh hơn lúc ở Sài G̣n. Chân phải mạnh, rắn chắc th́ tập mới được, v́ suốt buổi tập ḿnh phải đứng tấn.
Tôi c̣n nhớ có một hôm chúng tôi phải khiêng một khúc cây to. Anh bộ đội nói “chỉ cần mười người khiêng cây này, anh nào yếu cho khỏi khiêng”. Tôi đưa tay lên xin khỏi khiêng v́ tôi biết là tôi yếu nhất trong các anh em. Đồng thời có một anh nữa, anh Duyệt, cũng đưa tay. Anh bộ đội ngó tôi và nói: “Anh không yếu bằng anh này”, vừa chỉ anh Duyệt. Sau đó tôi nh́n lại th́ thấy anh Duyệt mặt mày xanh xao mặc dầu thật sự anh mạnh hơn tôi. Nhờ tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày, nên dầu ăn đói, nhưng da tôi không xanh mét như một số anh em khác.
Tập Dịch Cân Kinh giúp ḿnh luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị táo bón, máu huyết được lưu thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ chúng ta luôn được hồng hào và bệnh tật tan biến đi.
Sau đây tôi xin nói về cách tập thế nào cho đúng. Khi chúng tôi mới có cuốn Đạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi theo h́nh vẽ trong đó mà tập theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy không có kết quả ǵ cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy. Và khi tập đúng cách rồi th́ kết quả thấy rất rơ.
Tôi xin diễn tả tư thế và việc phải làm của một người tập
Dịch Cân Kinh.
1. Người tập Dịch Cân Kinh nên đi giày hay dép, không nên đi chân đất. Hai chân dang ra, khoảng cách giữa hai ngón chân cái bằng khoảng cách của hai vai. Hai bàn chân đứng song song với nhau. Mười ngón chân bám chặt xuống giày hay dép.
2. Gồng cứng (lên gân) bắp chuối và bắp vế chân. Hậu môn nhíu lại và thót lên. Suốt buổi tập, hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy suyển. Tóm lại, đó là thế đứng tấn của người luyện vơ. Nếu đă dang hai chân đúng tầm, đă gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật chặt xuống dép hoặc giày, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi th́ ta thấy từ thắt lưng trở xuống chân thật là chắc nịch. Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ư đến phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế. Nếu ta không chú ư đến phần này th́ công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.
3. Đầu như dây treo (giống như có sợi dây treo ḿnh lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía trước, nh́n một điểm cao hơn ḿnh một tí để cổ không rùng xuống.
4. Ở miệng, hai môi chạm nhẹ vào nhau, không mím môi cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau, đầu chót lưỡi để trên nướu răng trên (để luồng điện được lưu thông).
5. Ở mỗi bàn tay, 5 ngón luôn dính vào nhau (chớ không phải x̣e ra, sách có vẽ h́nh rất rơ về điểm này). Khi đánh tay, ḷng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa về phía trước).
Động tác duy nhất là đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ, khi đánh tay ra phía sau th́ hợp thành một góc 60 độ. Tóm lại khi đánh tay ra phía sau sau th́ đánh hết tay. Khi đưa tay ra phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau c̣n lại mà thôi. Do đó chỉ có 30 độ. Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra sau th́ kể là một cái đánh tay. Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái cho mỗi lần tập. Nếu muốn mau có kết quả th́ mỗi ngày tập hai lần vào buổi sáng và chiều.
C̣n nếu có ư chí lớn hơn nữa th́ tập mỗi ngày ba lần (sáng, trưa và chiều) càng tốt. Tập ở ngoài sân hay ở trong nhà đều được, miễn là ở nơi thoáng khí và yên tịnh. Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức. Khi thấy c̣n có thể tập được nữa mà không mệt th́ nên tiếp tục tập cho đúng sức ḿnh.
Khi mới tập, khởi sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập. Về sau khi thấy c̣n có thể tập thêm th́ tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350, v.v...Hồi tôi mới tập, một thời gian ngắn sau là tôi đă lên tới 1200 cái đánh tay cho mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó c̣n trẻ nên tôi đánh rất nhanh và mỗi ngày tôi chỉ tập có một lần. Sau khi tập xong, ta thấy khát nước (th́ nên uống nước ngay), đó là tập vừa sức. Sau khi tập, tôi thường đi chậm bằng cách giở chân lên cao, vừ co dăn hai cánh tay. Có người mới khởi sự đă tập trên 1000 cái th́ mặt bị nổi mụn ngay. Nếu tập đúng cách, tôi thấy không có phản ứng ǵ cả, mà càng ngày ta càng thấy khỏe ra.
Ḿnh tập được nhiều hay ít là do ḿnh có thể đứng tấn được bao lâu, chớ không phải ai muốn tập bao nhiêu lần cũng được. C̣n nếu đánh tay để đếm số lần cho thật nhiều mà không gồng lên cho hai chân thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên th́ sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Về tốc độ đánh tay th́ sách nói đánh tay nhanh như người đi đánh đồng xa. Đánh tay càng nhanh th́ máu huyết lưu thông càng mạnh trong thời gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bịnh tật. Sách nói muốn tập để trị bịnh th́ nên tập từ 2000 đến 3000 cái đánh tay mỗi ngày trong ṿng lối 30 phút.
Và sau đây là hai nguyên tắc quan trọng
cần phải áp dụng trong lúc tập
Thượng tam hạ thất: Nếu trong thời gian tập, ḿnh dùng mười phần sức lực th́ từ thắt lưng trở xuống ḿnh dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ư đến việc gồng cứng (lên gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên. Từ thắt lưng trở lên, ḿnh dùng 3 phần sức lực. Đó gọi là thượng tam hạ thất, thượng hư hạ thực. Trên ba dưới bảy hay trên hư dưới thực. Trong việc đánh tay cũng thế, khi đưa tay ra phía sau th́ dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước th́ chỉ dùng có 3 phần. Trước 3 sau 7 hay trước hư sau thực. Đánh tay ra phía sau mới thực là cần thiết và phải đánh cho hết tay.
Tâm b́nh khí tịnh: Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều ǵ (điều này hơi khó), ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Đó là tâm b́nh. C̣n khí tịnh là trong thời gian tập ta thở b́nh thường, chớ không phải thở theo nhịp tay. Có một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Vơ Đang. Nhưng phái Thiếu Lâm Tự th́ không thở theo nhịp tay. Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở theo nhịp tay, c̣n thầy Thuần thở theo nhịp tay. Nhưng cả hai chúng tôi đều đạt được kết quả tốt.
Sau cùng tôi xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập:
Nếu đánh tay nhanh mà ta thấy tê mười đầu ngón tay th́ đó v́ là ta không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc là v́ ta để hở mười ngón tay.(Bàn tay năm ngón phải để dính với nhau, không được hở, điều này trong sách có h́nh vẽ rơ lắm).
Nếu lúc tập mà ta thấy đầu hơi nặng là v́ cổ ta không thẳng, đầu không như dây treo. Luồng điện thay v́ đi xuống lại đi ngược chiều lên đầu. Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi cũng ra sân tập và đeo bao tay v́ trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở lên là tôi thấy ấm người, khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay tôi nghe như có hai luồng điện chạy xuống hai chân vậy. Bây giờ đă lớn tuổi, tôi chỉ tập nổi tối đa trên dưới 800 cái đánh tay mỗi lần mà thôi.
Thêm vào đó ngày nào tôi cũng đi bộ ít nhất nửa giờ và tôi thấy rất tốt cho sức khỏe, rất tốt cho việc tập Dịch Cân Kinh. Trong tất cả các môn tôi đă tập (hồi ở Việt Nam, tôi tập dưỡng sinh trong vườn Tao Đàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư là hữu hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều đặn th́ mới có kết quả.
Orange, 2/12/2000
Huỳnh Bửu Khương
Source: Tu Viện Quảng Đức &nbs p; &nbs p; &nbs p; Oct 8, 2004
__________________
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 2 of 3: Đă gửi: 13 June 2005 lúc 10:42am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào NoName
Cảm ơn bạn đă sưu tầm được chi tiết tác dụng của bài tập dưỡng sinh, nhưng thực ra bài tập này đúng tên của nó là: Dụng thủ vận động, tác dụng bài tập này như bài viết trên, để đầy đủ hơn, tôi xin post nguyên bài nguyên văn đă dịch ra như sau, mong những ai lưu tâm đến sức khỏe của ḿnh th́ tập cho đúng cách.
Code:
DỤNG THỦ VẬN CÔNG
Tất cả có 16 khẩu quyết như sau:
Điều cơ bản tối trọng yếu là: “Thượng hư hạ thực, Thượng tam hạ thất”
Khåu quyết 1: Thượng nghi hư (Trên nên hư nhu)
Khåu quyết 2: Đầu nghi huyền (Đầu như treo trên một sợi dây)
Khåu quyết 3: Hạ nghi thực (Dưới nên thực)
Khåu quyết 4: Khẩu nghi nọa (Miệng tự nhiên, trễ biếng)
Khåu quyết 5: Hung nghi nhứ (Ngực nên mềm mại như sợi tơ)
Khåu quyết 6: Bối nghi bạt (Lưng thẳng phẳng nở ra)
Khåu quyết 7: Yêu nghi trực (Eo, thắt lưng thẳng như cây trực)
Khåu quyết 8: Tư (bí) nghi dao (cánh tay dao động, vận động)
Khåu quyết 9: Trửu nghi trầm (Khủyu tay trầm xuống)
Khåu quyết 10: Uyển nghi trọng (Cánh tay ng̣ai nặng, trầm trọng)
Khåu quyết 11: Thủ nghi qua( Bàn tay bơi như bơi thuyền)
Khåu quyết 12: Phúc nghi thực(Bụng dưới đùa hơi xuống, chắc thực)
Khåu quyết 13: Khóa nghi tung (háng mở rộng khoan khóai )
Khåu quyết 14: Ang nghi đề (Lỗ đít rút lên, rất cần yếu)
Khåu quyết 15: Cấn nghi thạch (Gót chân ấn chắc như đá rất cần yếu)
Khåu quyết 16: Chỉ nghi trảo (Ngón chân quặp chắc, rất cần yếu).
1. Thượng nghi hư: Tâm trung vô tư vô lự, tư tưởng tập trung, động tác nhu ḥa tâm b́nh khí tĩnh.
2. Hạ nghi thực: Tự hoành cách mô (mô ác,ngực) dĩ ha yếu bảo tŕ (thực), bảo tŕ khẩn trương, yếu dụng lực, tiểu phúc yếu thu súc,cước chỉ dụng lực troa ủ địa.
3. Đầu nghi huyền: Đầu bộ yếu hảo tượng hữu nhất điều thắng sách bả đầu quải trước nhất ban, kiểm bộ yếu thong dong tự nhiên, tả ca hữu tả, hoặc thị đê đầu ngưỡng thượng. Cước cấn dă yếu dụng lực đạp lao ư địa thượng, đại tiểu thối đô bảo tŕ khẩn trạng thái, trích trùng cốt yếu tượng thông trụ nhất ban trực lập.
4. Khẩu nghi đọa: Khẩu bộ yếu phong tùng tự nhiên, khẩu thần yếu khinh khinh bế hợp nha sỉ bất khả giảo khẩn, đăn yếu khinh khinh hợp thượng, thiệt đầu tắc khinh thỉ diện đô thị bất chính xác đích tư thế.
5. Hung nghi nhứ: Hung bộ yếu tự nhiên b́nh chính, bất diệt bất đột, sử hung bộ hữu khoan thư chi cảm, lưỡng biên kiên bộ yếu phóng tùng nhi vi vi hướng tiền khả bang trợ tiêu hóa.
6. Bối nghi bạt: Chú ư bất yếu lộng thành đà bối tư thế, yếu bộ thùy trực, lưỡng kiên tùng khởi xuất bối hậu tự nhiên hướng hậu đột xuất, nhân thử vi hư quả hung bộ phóng tùng tựu khả sử huyết khí hạ trầm, phối hợp thượng hư hạ thực đích yêu cầu.
7. Yêu nghi trục: Yêu bộ yếu phóng túng, yếu chi trực tịnh cụ hạ trầm chi thế, đốn bộ bất độn, bảo tŕ thượng hạ thân chi thùy trực.
8. Tí (bí) nghi dao: Yếu sử lưỡng kiên dữ trửu tự nhiên phóng trầm tụng tịnh cụ hạ trôm chi kính, bang trợ khí huyết văng hạ.
9. Trửu nghi trầm: Trầm, kiên trửu văng hạ.
10. Uyển nghi trọng: Thủ chỉ bất yếu khai chương, bất yếu dụng lực bằng khẩn, đăn cầu tự nhiên, thủ bối hướng tiền, hưởng
11. Thủ nghi qua: Tâm hướng hậu động tác trầm, lưỡng bế tự nhiên giao động nhất thượng nhất hạ, nhi sử khí huyết họat dược, ṭan thân tương thông, mạch mạch tương liên.
12. Phúc nghi thự: Dụng khí trầm tiểu phúc, phóng túng phúc bộ cơ nhục, tự nhiên hạ trầm nhi trục tiệm sung thực, sử hạ thân hạ .
13. Ang nghi đề: On trầm tượng qua thuyền, uyển ưng cự hữu hướng hạ trụy đích kích lực, dụng lực thời kích lực tại uyển bộ phát xuất.
14. Khóa nghi tùng: Lưỡng túc cự li đẳng ù lưỡng kiên đích khoan độ kháo quan tiết cập cơ nhục phóng tùng khả trợ yêu thốc cánh linh họat. Chí ư ang nghi đề ư tứ tựu thị yếu hảo tượng đại tiện cấp bách thời tự nhiên bả ang men tứ chu đích cơ nhục khẩn thúc khởi lai đích động tác nhất dạng.
15. Cấn nghi thạch: Cước hcỉ thị b́nh hành ḥa chi sanh ṭan thân đích căn cơ, sở dĩ cước chỉ yếu trảo tượng.
16. Chỉ nghi trảo: Thạch dần nhất dạng ổn định. Mạch ṭng cấn khởi dụng thủ đích trọng tâm tại hồ cước, như lăo thụ sinh căn nhất dạng, sử cước lư huyết khi khởi liễn án ma tác dụng nhi thông đạt ṭan thân. Chí ư túc tại điểm lập thời tùy tượng trảo vật nhất dạng địa trảo chú địa diện.
DỤNG THỦ VẬN ĐỘNG
( LƯỢC DỊCH 16 THẾ )
1) TRÊN NÊN HƯ: Trong tâm không nghĩ ngợi ǵ, lo ǵ (tâm b́nh) tư tưởng tập trung vào ấn đường là giữa 2 chân mày. Vận động mềm mại, điều ḥa, tâm b́nh thản, hơi thở nhẹ tĩnh.
2) DƯỚI NÊN THỰC: Từ ngang ngực chỗ mỏ ác giáp bao tử trở xuống. Cần duy tŕ khẩn trương (chắc, thực) cần dùng sức. Bụng dưới thu rút chắc (phải tống hơi xuống tận đan điền cho đầy, tác dụng cần thiết cho khí huyết dẫn xuống). Hai bàn chân gót và các ngón đạp chắc sát xuống đất, dùng sức đạp xuống tựa như gốc rễ cây cổ thụ, 2 gót và bàn chân ấn sát chặt xuống đất như tảng đá, các ngón quào bám chắc vào mặt đất cùng với 2 ống chân, 2 đùi vế duy tŕ khẩn trương, chắc, thẳng, ẻo lưng thẳng tựa cây trụ cột đứng thẳng ( tác dụng làm cho mạch lạc từ dưới chân cùng khí huyết dẫn lên, mà bụng dưới tống xuống). Hạ trầm là tác dụng dẫn khí huyết đi xuống (làm cho đạt tới chu lưu thông ṭan thân), cần sao cho cột trụ xương sống thẳng đứng.
3) ĐẦU NHƯ TREO: Lơ lửng trên sợi dây, mặt ung dung thư thái tự nhiên có tác dụng nhẹ nhàng như cành lá cây đong đưa theo gió.
4) MIỆNG NHƯ TRỄ: Một cách tự nhiên, ngậm môi, răng hơi khép, đầu lưỡi cong chấm vào chân hàm răng trên, cho nước bọt tiết ra và ướt tự nhiên.
5) NGỰC MỀM MẠI NHƯ SỢI TƠ: Bằng phẳng tự nhiên, không thót vào hay ph́nh ra khiến sao cho ngực khoan thai. Hai bên bờ vai hơi mở ra hướng về trước, thân phía trên phải đúng “thượng hư”.
6) LƯNG NÊN THẲNG PHẲNG: Chớ gù, do hai vai mở ra nên lưng sẽ thẳng tự nhiên chứ không cố và cứng đờ.
7) EO LƯNG NÊN THẲNG NHƯ TRỤC: Nên nơ nở mà cần bằng thẳng, và có cái thế hạ trầm xuống, mông đít chớ gù ra, để duy tŕ cho ṭan thân trên dưới đều thẳng mà có cái thế nặng trĩu xuống.
8) CÁNH TAY CẦN NÊN DAO ĐỘNG:
9) KHỦYU TAY (GIỮA CÁNH TAY) NÊN TRẦM TRĨU XUỐNG : Để khiến cho 2 vai cùng khủyu tay tự nhiên trầm trĩu xuống càng để xuống càng cứng, giúp cho khí huyết hạ trầm (dẫn xuống ) vai và khủyu tay hạ trầm, th́ 2 cánh tay tự nhiên dao động, đưa lên đưa xuống mà khí huyết họat dược, ṭan thân lưu thông, các mạch lạc đều cùng liên lạc giao lưu họat động.
10) CỔ VÀ CÁNH TAY NÊN TRĨU XUỐNG : Hướng xuống với sức mạnh vận dụng ra ở 2 cổ tay ( để bơi đong đưa tựa quả lắc).
11) BÀN TAY NÊN BƠI: Không x̣e ra, không khép chặt, để tự nhiên và cũng không dùng sức, mu tay hướng phía trước động tác tựa như bơi thuyền.
12) BỤNG DƯỚI (ĐAN ĐIỀN) NÊN THỰC: Bởi đùa hơi xuống khiến căng chắc.
13) HÁNG NÊN MỞ RỘNG KHOAN THAI: Thịt da tự nhiên chĩu xuống
14) HẬU MÔN RÚT LÊN: Làm cho bên dưới ch́m xuống và ổn cố. Đồng thời hậu môn rút mạnhlên tựa như lúc mắc đại tiện buồn đi cấp bách mà phải hăm lại tự nhiên gân da co lại và háng lại mở rộng ra với 2 chân rộng bằng 2 bên vai, khiến eo lưng và đùi rất linh hoạt chắc chắn.
15) GÓT CHÂN ẤN CHẶT XUỐNG NHƯ TẢNG ĐÁ: Gót và 2 bàn chân là cơ sở.
16) CÁC NGÓN CHÂN QUẶP LẠI BẤU QUÀO XUỐNG ĐẤT: Ṭan thân, cần ổn cố chắc chắn như 2 tảng đá, gốc rễ cây đại thụ, trọng tâm của phép luyện tập này là ở 2 bàn chân cố sao đạp quào bấu chặc xuống như dính liền với đất và luôn luôn ở tư thế đó cho hết buổi tập. Điểm trọng yếu là “Thượng hữu hạ thực” “Tâm b́nh khí tĩnh”. |
|
|
C̣n bài Dịch Can Kinh th́ của ông Bác sĩ Trần Đại Sĩ ở link :
Dich Can kinh
|
Quay trở về đầu |
|
|
noname Hội viên
Đă tham gia: 16 February 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 44
|
Msg 3 of 3: Đă gửi: 13 June 2005 lúc 1:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn chú nhiều ,sự đóng góp của chú làm cho bài sưu tầm này trở nên hoàn hảo hơn !
__________________
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|